ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------
NGUYỄN CÔNG THẮNG
CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN CÁC NHÓM LỢI ÍCH Ở TỈNH BẮC NINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------
NGUYỄN CÔNG THẮNG
CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN CÁC NHÓM LỢI ÍCH Ở TỈNH BẮC NINH
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ Mã số : 62.31.01.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC THANH
PGS.TS. NGUYỄN ĐÌNH LONG
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh
PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong Luận án là hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Công Thắng
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHUYỂN ĐỔI
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN
CÁC NHÓM LỢI ÍCH ........................................................................................ 12
1.1. Nghiên cứu quốc tế ............................................................................. 12
1.2. Đối với các nghiên cứu trong nước ..................................................... 18
Kết luận chương 1 ..................................................................................... 22
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC
ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC
NHÓM LỢI ÍCH ................................................................................................. 24
2.1. Cơ sở lý luận về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp ........ 24
2.1.1. Khái niệm ĐNN và chuyển đổi MĐSD ĐNN..................................... 24
2.1.2. Sự cần thiết phải chuyển đổi MĐSD ĐNN ........................................ 28
2.1.3. Tổ chức và quản lý quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN ở Việt Nam .... 31
2.2. Tác động của chuyển đổi mục đích sử dụng đất đến các nhóm lợi ích 34
2.2.1. Những vấn đề cơ bản về nhóm lợi ích và lợi ích nhóm ....................... 34
2.2.2. Mối quan hệ giữa chuyển đổi mục đích ĐNN với lợi ích nhóm .......... 39
2.3. Cơ sở thực tiễn về chuyển đổi mục đích sử dụng đất và tác động của nó
đến các nhóm lợi ích .................................................................................. 45
2.3.1. Tổng quan tình hình chuyển đổi MĐSD đất và tác động tới các nhóm lợi
ích ở Việt Nam .......................................................................................... 45
2.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về chuyển đổi MĐSD
ĐNN và điều tiết lợi ích khi chuyển đổi MĐSD đất .................................... 49
2.3.3 Khung phân tích tác động của chuyển đổi đất nông nghiệp tới các nhóm lợi ích .. 58
Kết luận chương 2 ..................................................................................... 60
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT
NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC NHÓM LỢI ÍCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH ................................................................... 61
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh ảnh hưởng đến chuyển đổi
MĐSD ĐNN và giải quyết các phát sinh về lợi ích giữa các nhóm ................... 61
3.1.1. Đặc điểm về tự nhiên ....................................................................... 61
3.1.2. Đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội .............................................. 65
3.1.3. Đánh giá ảnh hưởng của các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội đến
chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp và giải quyết các phát sinh về lợi ích
giữa các nhóm ........................................................................................... 70
3.2. Thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN tỉnh Bắc Ninh 2001 - 2012 ......... 72
3.2.1. Các biện pháp và chính sách tỉnh Bắc Ninh đã triển khai về chuyển đổi
MĐSD đất và xử lý lợi ích nhóm trong chuyển đổi mục đích ĐNN .............. 73
3.2.2. Thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN tỉnh Bắc Ninh các năm 2001 - 2012 ..... 77
3.3. Tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các nhóm lợi ích trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh ..................................................................................... 85
3.3.1 Tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các người bị thu hồi đất.... 85
3.3.2. Tác động của chuyển đổi MĐSD đất đến địa phương nơi có đất chuyển
đổi tập trung .............................................................................................. 97
3.3.3. Tác động của chuyển đổi MĐSD đất đến chủ đầu tư các khu công
nghiệp và đô thị ........................................................................................ 111
3.3.4. Đánh giá chung về tác động của chuyển đổi MĐSD đất đến các nhóm
lợi ích ...................................................................................................... 120
Kết luận chương 3 .................................................................................... 123
CHƯƠNG 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHUYỂN ĐỔI
MỤC ĐÍCH ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CÁC
NHÓM Ở BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2013-2020 ............................................... 124
4.1. Định hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN và điều hòa lợi ích giữa các nhóm
ở Bắc Ninh ................................................................................................ 124
4.1.1. Định hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN và giải quyết các quan hệ lợi ích
trong chuyển đổi MĐSD ĐNN đến năm 2020 ............................................ 124
4.2. Các giải pháp chuyển đổi MĐSD ĐNN và giải quyết các quan hệ lợi ích
trong chuyển đổi MĐSD ĐNN đến năm 2020 ........................................... 131
4.2.1. Rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng
đất và các quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội ........... 131
4.2.2. Xây dựng các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội, liên quan tới
các dự án chuyển đổi MĐSD ĐNN ............................................................ 134
4.2.3. Tổ chức tốt các hoạt động chuyển đổi MĐSD ĐNN .......................... 136
4.2.4. Nhóm giải pháp về chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho lao động
có ĐNN chuyển đổi mục đích ................................................................... 138
4.2.5. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất và giải pháp điều hòa các mối quan hệ lợi ích .............................. 147
Kết luận chương 4 .................................................................................... 154
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 158
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 167
i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH Công nghiệp hóa :
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa :
: Đô thị hóa ĐTH
: Đất nông nghiệp ĐNN
: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
(Foreign Direct Investment)
: Khu công nghiệp KCN
: Hiện đại hóa HĐH
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông
thôn
MĐSD : Mục đích sử dụng
Phó giáo sư PGS :
Tiến sỹ TS :
Thủ tướng chính phủ TTg :
: Quyết định QĐ
UBND : Uỷ ban nhân dân
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tình hình dân số và lao động tỉnh Bắc Ninh ....................................... 66
Bảng 3.2. Thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng giữa các loại đất trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh ..................................................................................... 78
Bảng 3.3. Thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng theo loại ĐNN trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh ..................................................................................... 79
Bảng 3.4. Thực trạng chuyển đổi MĐSD theo chất lượng ĐNN trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh ............................................................................................ 79
Bảng 3.5. Thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng ĐNN sang mục đích phi nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ...................................................... 81
Bảng 3.6: Thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN sang mục đích phi nông nghiệp
theo địa phương trong tỉnh ................................................................. 84
Bảng 3.7: Khung giá đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1998-
2005 ................................................................................................... 89
Bảng 3.8: Khung giá đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011-
2012 ................................................................................................... 90
Bảng 3.9: Kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án xã Phù Chẩn,
thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh ............................................................... 93
Bảng 3.10: Các dự án xây dựng nhà ở và khu đô thị trên địa bàn tỉnh ................ 102
Bảng 3.11: Danh mục các khu đô thị mới, dự án phát triển nhà ở chậm triển khai
trên địa bàn tỉnh ............................................................................... 104
Bảng 3.12: Các chủ đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 109
Bảng 3.13: Các chủ đầu tư vào các khu nhà ở và đô thị trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .. 111
Bảng 3.14: Lợi ích nhà đầu tư qua phân tích hiệu quả kinh tế đầu tư của dự án Khu
công nghiệp Việt Nam Singapore ..................................................... 115
Bảng 3.15: Lợi ích nhà đầu tư qua phân tích hiệu quả kinh tế đầu tư của Dự án Đầu
tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Him Lam phường Đại Phúc -
Thành phố Bắc Ninh, giả định hoàn thành năm 2015 ....................... 117
Bảng 3.16: Lợi ích nhà đầu tư qua phân tích hiệu quả kinh tế đầu tư ................. 118
iii
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Khung phân tích tác động của chuyển đổi đất nông nghiệp tới các nhóm
lợi ích ................................................................................................. 58
Hình 3.1: Giá trị sản xuất công nghiệp trong các khu công nghiệp ................... 105
Hình 3.2: Mức lao động thu hút lũy kế trong các khu công nghiệp ................... 106
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đất đai là tài nguyên quý đối với mỗi quốc gia, mỗi địa phương và mỗi đơn vị
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đất đai tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội
với các vai trò, vị trí khác nhau tuỳ thuộc vào MĐSD và đặc điểm kinh tế, kỹ thuật
của các hoạt động đó. Đối với công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi... đất đai là nền
tảng, làm cơ sở, địa điểm để xây dựng các nhà máy công trình..., để tiến hành các
hoạt động sản xuất hoặc phục vụ sản xuất và đời sống. Đối với sản xuất nông
nghiệp, đất đai tham gia hoạt động với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc
biệt, là nguồn gốc tự nhiên để tạo ra nông sản phục vụ cho nhu cầu của con người.
Trong quá trình phát triển, để đáp ứng yêu cầu kinh tế xã hội, nhất là nhu cầu
công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) và đô thị hóa (ĐTH) sự chuyển đổi
mục đích sử dụng (MĐSD) từ đất nông nghiệp (ĐNN) sang các nhu cầu phi nông
nghiệp là xu hướng mang tính quy luật. Quá trình đó cần phải được tính toán kỹ
càng để hạn chế tốc độ giảm ĐNN, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông sản ngày càng
cao; đồng thời phải đáp ứng yêu cầu sử dụng đất của các ngành và các MĐSD phi
nông nghiệp ngày càng lớn. Không những vậy, quá trình chuyển MĐSD ĐNN dẫn
đến sự thay đổi chủ thể sử dụng đất tạo ra những xung đột về mặt lợi ích giữa
những tập thể và cá nhân liên quan. Những vấn đề trên cần được nghiên cứu về mặt
lý luận để tạo lập những cơ sở khoa học nhằm giải quyết một cách hợp lý và thấu
đáo những vấn đề phát sinh của thực tiễn.
Ở Việt Nam, thực hiện chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, trong những năm
qua trên khắp các vùng miền của đất nước, nhiều khu công nghiệp với quy mô khác
nhau được hình thành và đi vào hoạt động. Cùng với xu hướng đó, quá trình xây
dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia cũng đang diễn ra rất nhanh, không chỉ đối
với các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh mà đối với hầu hết các
2
tỉnh, thành phố khác trên phạm vi cả nước. Đây là xu thế tất yếu trong quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo nên động lực mới cho sự phát triển kinh
tế - xã hội. Tuy nhiên, ngoài những tác động tích cực của quá trình đó mang lại thì
đã và đang đặt ra những vấn đề rất bức xúc, thậm chí gây nên những tác động tiêu
cực, ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển dài hạn và bền vững của đất nước.
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng tam giác kinh
tế Hà Nội – Bắc Ninh – Vĩnh Phúc, là địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi cho
thu hút đầu tư. Vì vậy, Bắc Ninh là một trong các địa phương có tốc độ CNH và ĐTH
cao, mức độ chuyển đổi ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp lớn. Quá trình
chuyển đổi MĐSD ĐNN, một mặt tạo nên mức tăng trưởng kinh tế cao, chuyển biến
xã hội theo hướng tích cực; mặt khác đã và đang tiềm ẩn những vấn đề bức xúc về
kinh tế - xã hội sâu sắc. Mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các nhóm lợi ích do chuyển
đổi MĐSD đất là một trong các vấn đề đã và đang tiếp tục diễn ra một cách mạnh mẽ
nếu không có những nghiên cứu một cách khoa học để giải quyết một cách căn bản
và nhân văn. Rõ ràng, thực tế Việt Nam nói chung, Bắc Ninh nói riêng đang đặt ra
những vấn đề cần nghiên cứu như:
- Vì sao phải chuyển đổi MĐSD từ ĐNN sang các mục đích khác? Sự chuyển
đổi đó dựa trên cơ sở nào?
- Những biến đổi về kinh tế xã hội, nhất là sự thay đổi nào về lợi ích xảy ra khi
chuyển MĐSD đất từ nông nghiệp sang các MĐSD khác?
- Nhà nước có vai trò như thế nào trong quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN?
Tổ chức và quản lý quá trình chuyển đổi này thế nào cho hiệu quả nhất về kinh tế,
xã hội?
- Chuyển đổi MĐSD đất tác động đến các nhóm lợi ích như thế nào về mặt lý
thuyết; kinh nghiệm quốc tế và ở các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội tương tự?
- Thực trạng chuyển đổi MĐSD đất và tác động đến các nhóm lợi ích ở tỉnh
Bắc Ninh giai đoạn từ 2000 đến nay như thế nào?
3
- Cần có giải pháp gì để hoàn thiện công tác chuyển đổi MĐSD đất và điều tiết
lợi ích giữa các nhóm một cách hợp lý?
Trả lời những câu hỏi trên của thực tiễn, tôi chọn “Chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp và tác động của nó đến các nhóm lợi ích ở tỉnh Bắc Ninh”
làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ kinh tế, để quá trình chuyển đổi mục đích diễn
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
ra thuận lợi, hiệu quả và những mâu thuẫn về lợi ích sẽ từng bước được giải quyết.
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển đổi MĐSD ĐNN, đặc biệt là tác
động của nó đến các nhóm lợi ích có liên quan. Đánh giá đúng thực trạng chuyển
đổi MĐSD ĐNN và tác động của nó đến các nhóm lợi ích ở tỉnh Bắc Ninh những
năm đổi mới; Rút ra những thành tựu, những vấn đề đặt ra cần giải quyết. Đề xuất
phương hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN và các giải pháp giải quyết các xung đột lợi
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
ích trong quá trình chuyển đổi đó.
- Hệ thống hóa và phân tích cơ sở khoa học về chuyển đổi MĐSD ĐNN và tác
động của nó đến các nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh.
- Điều tra, thu thập thông tin, sử dụng các phương pháp thích hợp để phân tích,
đánh giá thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN và tác động của nó đến các nhóm lợi
ích ở tỉnh Bắc Ninh những năm đổi mới.
- Xác lập các cơ sở khoa học và đề xuất phương hướng tiếp tục chuyển đổi
MĐSD ĐNN và đề xuất những giải pháp giải quyết các mâu thuẫn về lợi ích trong
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH và ĐTH.
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề chuyển đổi MĐSD ĐNN.
Cụ thể là: luận án tập trung nghiên cứu tìm hiểu về sự cần thiết của chuyển đổi
4
MĐSD ĐNN, vai trò, đặc biệt là những tác động chuyển đổi mục đích sử dụng đất
tới các nhóm lợi ích. Những biện pháp kinh tế chủ yếu để chuyển đổi MĐSD ĐNN
và xử lý các mâu thuẫn về lợi ích phát sinh từ chính quá trình đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về không gian, luận án nghiên cứu chuyển đổi MĐSD ĐNN trên địa bàn tỉnh
nói chung trên phương diện lý luận; nghiên cứu chuyển đổi MĐSD ĐNN trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh. Chuyển đổi MĐSD ĐNN diễn ra theo 2 cấp độ: chuyển đổi mục
đích trong nội bộ ngành nông nghiệp và chuyển mục đích từ đất sang mục đích phi
nông nghiệp.
Đề tài giới hạn chỉ nghiên cứu vấn đề chuyển đổi MĐSD ĐNN sang các mục
đích phi nông nghiệp, những vấn đề nảy sinh nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Nghiên
cứu tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
- Về thời gian, luận án nghiên cứu các vấn đề về chuyển đổi MĐSD ĐNN và
tác động của nó đến các nhóm lợi ích của tỉnh Bắc Ninh diễn ra trong khoảng từ
năm 2000 đến nay, trong đó tập trung vào những năm gần đây (từ năm 2006 đến
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
2013). Phần đề xuất các phương hướng và giải pháp đến năm 2020.
Vì đề tài luận án thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng như là những nguyên tắc chung cho
toàn bộ quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó, do việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất liên quan tới nhiều lĩnh vực đời sống khá nhau nên cách tiếp cận hệ thống liên
ngành cũng được sử dụng trong nghiên cứu này. Với phương pháp luận và cách tiếp
cận nghiên cứu này, đề tài sẽ có cách đánh giá khách quan và khoa học về tác động
của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất tới các nhóm lợi ích. Đồng thời, cách tiếp
cận nói trên cho phép luận án phân tích được ảnh hưởng của việc chuyển đổi mục
5
đích sử dụng đất tới các nhóm lợi ích khác nhau dưới các góc độ như chính trị, kinh
4.2. Khung phân tích của luận án
tế và xã hội.
Trên cơ sở mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả đã
xác định khung phân tích áp dụng trong quá trình triển khai luận án như sau:
- Khung nghiên cứu về lý thuyết: Chuyển đổi MĐSD đất và tác động của nó
đến các nhóm lợi ích là vấn đề rộng, bao gồm 2 vế có quan hệ với nhau:
Chuyển đổi MĐSD ĐNN và tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các
nhóm lợi ích. Vì vậy, để tạo lập cơ sở về lý thuyết đề tài đi từ các vấn đề lý thuyết
chung đến các vấn đề lý thuyết cụ thể, trong đó các vấn đề về sự cần thiết phải
chuyển đổi, các vấn đề nảy sinh từ chuyển đổi quyền sử dụng ĐNN và những vấn
đề mang tính lý thuyết của tổ chức các hoạt động chuyển đổi và giải quyết các vấn
đề nảy sinh khi chuyển đổi là các vấn đề cốt lõi.
- Khung nghiên cứu thực tiễn: Để nghiên cứu thực trạng chuyển MĐSD ĐNN,
những vấn đề nảy sinh từ chuyển đổi, đặc biệt là tác động của chuyển đổi MĐSD
ĐNN đến các nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Trên cơ sở kết quả phân tích thực tế và các dự báo về xu hướng, quy mô
chuyển đổi MĐSD ĐNN, luận án đưa ra các phương hướng và các giải pháp đẩy
mạnh chuyển đổi MĐSD ĐNN và xử lý hài hòa lợi ích của các nhóm lợi ích ở Bắc
4.3. Nguồn dữ liệu và tài liệu
4.3.1. Nguồn dữ liệu sơ cấp
Ninh giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và ĐTH.
Để phục vụ cho mục tiêu phân tích tác động của việc chuyển đổi mục đích sử
dụng đất tới các nhóm lợi ích ở Bắc Ninh, đề tài tiến hành các cuộc khảo sát điều tra
xã hội học nhằm thu lượm các dữ liệu sơ cấp cho mục tiêu nghiên cứu. Tác giả đã
khảo sát với các đối tượng nông dân có đất chuyển đổi MĐSD, các doanh nghiệp và
tổ chức sử dụng ĐNN sau chuyển đổi, các sở chức năng tương ứng và các địa
phương có nhiều ĐNN phải chuyển đổi ở tỉnh Bắc Ninh.
6
Về lựa chọn địa điểm điều tra: Phạm vi nghiên cứu của đề tài về địa điểm là địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, với những huyện, xã vừa có tính tương đồng, vừa có tính khác
biệt. Vì vậy, về chủ đạo đề tài phân thành 3 nhóm chính để phân tích: Nhóm 1 gồm
các địa phương trong thành phố Bắc Ninh có ĐNN chuyển thành đất đô thị và phi
nông nghiệp khác. Nhóm 2, gồm huyện, xã cận thành phố Bắc Ninh nơi đã và sẽ có
tốc độ chuyển đổi MĐSD ĐNN cao. Nhóm 3 là huyện, xã có mức độ ĐTH thấp hơn.
Về phương pháp chọn mẫu điều tra: Luận án lựa chọn theo phương pháp lựa
chọn điển hình theo từng nhóm đối với các hộ nông dân có diện tích ĐNN khá lớn
bị chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp. 120 hộ gia đình trong 6 xã có diện
tích ĐNN lớn bị chuyển sang mục đích phi nông nghiệp. Một phương pháp chọn
mẫu phân tầng được sử dụng với 2 bước như sau: Trước tiên, 6 xã với đất nông
nghiệp được phân thành 3 nhóm dựa trên cấu trúc việc làm. Nhóm đầu tiên bao gồm
những xã thuần túy hoạt động nông nghiệp, nhóm thứ 2 được đặc trưng bởi một kết
hợp giữa cả hai sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp, trong khi đó nhóm 3 là
những xã thuần túy phi nông nghiệp. Từ mỗi nhóm, 2 xã được lựa chọn ngẫu nhiên.
Sau đó, từ mỗi xã chọn 20 hộ gia đình trên cơ sở lựa chọn ngẫu nhiên sử dụng
phương pháp mẫu hệ thống phân tầng. Đối cán bộ địa phương và doanh nghiệp,
phương pháp lựa chọn mẫu phân tầng ngẫu nhiên cũng được lựa chọn.
Các đơn vị sử dụng ĐNN chuyển đổi, chủ yếu là các khu dân cư tập trung và
các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ được lựa chọn theo các điểm điều tra, trong đó
điều tra 12 khu dân cư tập trung, tất cả các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ trên địa
bàn tỉnh. Ngoài ra luận án còn điều tra cán bộ địa phương (xã, huyện, tỉnh - 40
người), và các doanh nghiệp về các đánh giá về chuyển đổi MĐSD đất và tác động
của nó đến các nhóm lợi ích.
Sau khi được thu thập, các dữ liệu sơ cấp sẽ được xử lý và sử dụng cho mục
đích đánh giá tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các nhóm lợi ích ở Bắc
Ninh.
7
4.3.2. Nguồn dữ liệu thứ cấp và tài liệu khác
Bên cạnh nguồn dữ liệu sơ cấp nói trên, các dữ liệu thứ cấp và tài liệu khác
cũng được sử dụng cho luận án và được thu thập từ nhiều nguồn như các luận án,
luận văn, tạp chí và sách báo, báo cáo của Tổng cục Thống kê; Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn; Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Cục Thống kê Bắc Ninh, Sở
Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh, Sở Nông nghiệp và PTNT Bắc Ninh và các tài
liệu từ nhiều nguồn khác nhau.
Bên cạnh những số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê, của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các sở chuyên ngành của
tỉnh Bắc Ninh về chuyển đổi MĐSD ĐNN và các chính sách có liên quan đã ban
hành với các số liệu khá hệ thống về đối tượng nghiên cứu được luận án thu thập
một cách chi tiết, luận án còn thu thập và lựa chọn các thông tin nghiên cứu chuyên
đề về chuyển đổi mục đích ĐNN và các vấn đề có liên quan.
Đó là những kết quả nghiên cứu luận án kế thừa nghiên cứu của các tác giả
trong và ngoài nước về chuyển đổi MĐSD ĐNN và xử lý lợi ích nhóm do tác động
của chuyển đổi MĐSD ĐNN. Ngoài ra, luận án đã khảo nghiệm các kinh nghiệm
thành công của một số địa phương trong nước về các vấn đề trên.
Luận án sử dụng phương pháp chuyên gia để tiếp cận các tri thức và nghiên
cứu các nhà khoa học, các nhà quản lý về các vấn đề liên quan đến chuyển đổi
MĐSD ĐNN và xử lý lợi ích nhóm do tác động của quá trình đó. Phương pháp
chuyên gia được áp dụng dưới hình thức trao đổi trực tiếp về các vấn đề, tuy thế nội
4.4. Phương pháp nghiên cứu
4.4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
dung của luận án hoàn toàn thuộc về tác giả.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu (desk review: nghiên cứu tài liệu tại bàn) là
phương pháp khảo cứu các tài liệu như sách, tạp chí, báo cáo và các tài liệu có liên
quan đến chủ đề nghiên cứu để tìm kiếm các nội dung cần thiết cho chủ đề nghiên
cứu. Phương pháp này được sử dụng trong toàn bộ các chương của luận văn, và tập
8
trung nhiều nhất ở chương tổng quan tài liệu. Phương pháp này được sử dụng trong
việc khảo cứu các công trình nghiên cứu liên quan tới đề tài, phân tích những nội
dung chính, các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu trước đó và các kết
luận đã đạt được cũng như những điểm cần tiếp tục nghiên cứu trong các nghiên
cứu trước đó. Qua việc sử dụng phương pháp này, tác giả đã chứng minh được
khoảng trống cần nghiên cứu cho đề tài luận án này. Hơn nữa, tác giả cũng kế thừa
được một số phát hiện nghiên cứu từ các công trình trước đó nhằm bổ sung và hỗ
4.4.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
trợ cho các phát hiện nghiên cứu trong luận án
Phương pháp phân tích trước hết là phân chia cái toàn thể của đối tượng
nghiên cứu thành những bộ phận, những mặt, những yếu tố cấu thành giản đơn hơn
để nghiên cứu, phát hiện ra từng thuộc tính và bản chất của từng yếu tố đó, và từ đó
giúp chúng ta hiểu được đối tượng nghiên cứu một cách mạch lạc hơn, hiểu được
cái chung phức tạp từ những yếu tố bộ phận ấy. Nhiệm vụ của phân tích là thông
qua cái riêng để tìm ra được cái chung, thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất,
thông qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến. Tổng hợp là quá trình ngược với quá
trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho quá trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái
quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy
đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng
nghiên cứu.
Phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá sâu sắc hơn từng khía cạnh
khác nhau của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp tơi các nhóm
lợi ích cũng như các từng nhân tố tác động tới quá trình này, trong khi đó phương
pháp tổng hợp được sử dụng để khái quát hóa các kết quả từ việc phân tích để đưa
ra những nhận định và đánh giá chung về quá trình này trong một tổng thể các mối
liên hệ và các khía cạnh khác nhau của đời sống. Phân tích và tổng hợp cũng được
sử dụng để đánh giá thành công và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong quá
trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và tác động của nó tới các
nhóm lợi ích ở Bắc Ninh.
9
4.4.3. Phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Trừu tượng hóa khoa học là một trong những phương pháp nghiên cứu cơ bản
nhất của khoa học kinh tế chính trị. Phương pháp này tạm gạt bỏ những yếu tố ngẫu
nhiên, không bản chất, không mang tính quy luật và chỉ giữ lại nhưng yếu tố có tính
quy luật và mang tính tất yếu, và do vậy giúp cho người nghiên cứu có thể phát hiện
bản chất các hiện tượng và quá trình kinh tế, hình thành các phạm trù và phát hiện
ra quy luật phản ánh những bản chất đó. Đây là phương pháp quan trọng được sử
dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học nói chung và đặc biệt là trong kinh tế
chính trị.
Do quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất có liên quan tới nhiều lĩnh
vực của đời sống khác nhau và nó cũng có tác động tới nhiều mặt của đời sống của
các nhóm lợi ích liên quan. Do vậy khi sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa
học, tác giả của luận án chỉ tập trung vào một số tác động tiêu biểu và quan trọng
nhất của việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất như tác động tới phát triển kinh tế,
chính trị và xã hội. Hơn nữa, tác động này cũng chỉ được xem xét ở một vài chỉ số
tiêu biểu. Đồng thời nhóm lợi ích ở đây cũng được lựa chọn một số nhóm tiêu biểu
có lợi ích gắn bó chặt chẽ với quá trình này. Hơn nữa, đề tài sử dụng phương pháp
trừu tượng hóa khoa học trong việc lựa chọn để phân tích các tiêu chí cơ bản đánh
4.4.4. Phương pháp thống kê
giá và các nhân tố chính có ảnh hưởng quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Thông tin định lượng thu thập được từ các tài liệu thống kê và từ kết quả
điều tra của luận án được nhập và xử lý bằng phần mềm Excel và cho ra kết quả
dưới dạng các bảng biểu và đồ thị để minh chứng cho các bằng chứng về các phân
tích hay nhận định về tác động của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp ở Bắc Ninh. Phương pháp này được sử dụng nhiều nhất ở phần phân tích
thực trạng.
10
5. Một số đóng góp của luận án
Luận án phân tích chỉ rõ, chuyển đổi MĐSD ĐNN là xu hướng mang tính quy
luật đối với mọi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, nhất là giai đoạn
đẩy mạnh CNH, HĐH và ĐTH. Tuy nhiên, với vai trò và đặc điểm của ĐNN, việc
chuyển đổi cần thực hiện như thế nào, ở loại đất nào, với mức độ bao nhiêu không
phải do ý muốn chủ quan mà do các quy luật khách quan chi phối. Luận án đã đi
sâu nghiên cứu các cơ sở khoa học của sự chuyển đổi đó.
Không chỉ vậy qua nghiên cứu, luận án cũng làm rõ các vấn đề kinh tế xã hội
nảy sinh, yêu cầu cần phải xử lý các vấn đề đó, đặc biệt là các vấn đề về lợi ích của
các nhóm lợi ích. Luận án đã làm rõ cơ sở của sự thay đổi lợi ích và lợi ích nhóm
của quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN. Đã chỉ rõ các can thiệp có tính vĩ mô của
quản lý nhà nước (Trung ương và địa phương) trong quá trình chuyển đổi MĐSD
ĐNN để đảm bảo hài hòa về lợi ích giữa các nhóm liên quan đến quá trình chuyển
đổi đó.
Luận án đã phân tích và chỉ ra thực trạng của quá trình chuyển đổi MĐSD
ĐNN ở Bắc Ninh, đã làm rõ những thành công và những hạn chế của quá trình đó.
Đặc biệt, luận án đã chỉ ra những bất hợp lý về lợi ích của các nhóm lợi ích trên địa
bàn tỉnh và những tác động tiêu cực của tình trạng đó đến phát triển kinh tế, xã hội.
Từ phân tích thực tiễn, luận án đã đưa ra các quan điểm, định hướng và các
giải pháp đẩy mạnh chuyển đổi MĐSD đất theo yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và
điều hòa các quan hệ về lợi ích giữa các nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh trong quá
6. Kết cấu của luận án
trình đẩy mạnh CNH, HĐH và ĐTH.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận án được bố cục thành 04 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về chuyển đổi mục đích sử dụng
đất nông nghiệp và tác động của nó đến các nhóm lợi ích.
11
Chương 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển đổi đích sử dụng đất nông
nghiệp và tác động của nó đến các nhóm lợi ích.
Chương 3. Thực trạng chuyển đổi chuyển đổi đích sử dụng đất nông nghiệp và
tác động của nó đến các nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 4. Định hướng và giải pháp chủ yếu chuyển đổi chuyển đổi đích sử dụng
đất nông nghiệp và điều hòa lợi ích giữa các nhóm ở Bắc Ninh giai đoạn 2013-2020.
12
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC NHÓM LỢI ÍCH
Trước tiên, phần này sẽ trình bày tầm quan trọng của đất đai với nhóm lợi ích
gắn bó trực tiếp nhất với nó, đó là các hộ nông dân. Tiếp theo, luận án sẽ tổng quan
các công trình nghiên cứu quốc tế và trong nước liên quan đến tác động của việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp tới các nhóm lợi ích liên quan. Tuy
nhiên, với nỗ lực cao nhất có thể, tác giả luận án đã khảo cứu các nghiên cứu quốc
tế và phát hiện ra rằng hầu hết các nghiên cứu này chỉ để cập tới nhóm lợi ích là
người nông dân khi đất nông nghiệp bị chuyển đổi. Do vậy, trong phần tổng quan
các công trình nghiên cứu quốc tế, tác giả chỉ đề cập tác động của việc chuyển đổi
mục đích sử dụng đất nông nghiệp tới lợi ích của các nông hộ. Trong phần tổng
quan các nghiên cứu về Việt Nam, tác giả sẽ tập trung phân tích một số các công
1.1. Nghiên cứu quốc tế
trình liên quan trực tiếp tới chủ đề nghiên cứu của luận án.
Hầu hết các hộ gia đình trong những quốc gia nghèo có sinh kế phần lớn dựa
vào sản xuất nông nghiệp. Do vậy đất đai trở thành một tài sản sinh kế quan trọng.
Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng đối tăng trưởng, việc làm và sinh kế
nông hộ trong hầu hết các quốc gia đang phát triển (DFID, 2002). Vì lý do này, đất
và sinh kế nông thôn luôn là chủ đề thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu và các nhà hoạch định chính sách. Theo Deininger and Feder (1999, p. 1) “
Trong xã hội nông nghiệp, đất đai đóng vai trò như phương tiện chính không chỉ tạo
ra sinh kế mà còn được xem như của cải để tích lũy và thừa kế giữa các thế hệ”. Vì
vậy, đất đai đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược sinh kế của người nông
dân và bất kỳ sự thay đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp cũng sẽ dẫn tới những
thay đổi lớn đối với sinh kế của họ.
13
Trong một tài liệu bàn về vai trò của đất đai đối với giảm nghèo, DFID
(2002) cho rằng đất là tài sản sinh kế bởi vì nó cung cấp nơi ở và lương thực mà các
hoạt động sinh kế khác phải nhờ cậy vào đất. Tài liệu này cũng cho rằng đất đai có
thể tác động đến tăng trưởng kinh tế một cách bền vững thông qua năng suất và hiệu
quả sử dụng đất trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Thêm nữa, đất
đai giúp người nghèo đạt được sự bình đẳng cao hơn và giảm thiểu tính tổn thương
của sinh kế bằng việc đảm bảo cho họ quyền sử dụng và tiếp cận tới đất đai. Ngoài
ra, đất đai và sự đầu tư của người nông dân vào đất đai trở thành tài sản duy nhất có
giá trị nhất. Vì vậy, khả năng sử dụng đất của họ trong các cách khác nhau, không
chỉ cho hoạt động trồng trọt mà còn để bán hoặc cho thuê cung cấp một sự an toàn
sinh kế cho những người không thể cấy trồng trên những mảnh đất của họ. Tuy thế,
khi thảo luận về vai trò của chính sách đất đai đối với giảm nghèo, tài liệu này cũng
cho rằng việc có đất đai để canh tác là một điều kiện cần và không phải là một điều
kiện đủ cho việc giảm nghèo. Đổi mới chính sách đất đai phải đi cùng với sự cải thiện
việc tiếp cận các dịch vụ như giáo dục, y tế, giao thông, tài chính, công nghệ và thị
trường. Vì vậy, DFID cho rằng cải thiện việc tiếp cận đất đai cho các hộ nghèo là
quan trọng nếu chúng đóng góp và ích lợi cho tăng trưởng kinh tế (DFID, 2002).
Kinh nghiệm quốc tế cho rằng đô thị hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh luôn
đi cùng với việc thu hồi đất từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, cơ sở hạ
tầng và nhà để ở (Ramankutty, Foley, & Olejniczak, 2002). Quá trình này gây ra
những tác động có thể là tích cực và tiêu cực tới nhiều bên liên quan và do vậy có
những quan điểm tranh luận cũng như phản đối về việc có nên duy trì đất nông
nghiệp hay nên chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang các hoạt động
phi nông nghiệp. Những quan điểm như vậy có thể được coi như nhóm những nhà
ủng hộ sự phát triển nông thôn và nhóm những nhà ủng hộ sự phát triển đô thị
(Azadi, Ho, & Hasfiati, 2011). Theo quan điểm của những nhà ủng hộ nông thôn thì
việc chuyển đổi đất nông nghiệp có tác động tiêu cực tới lợi ích của nông dân như
việc làm và thu nhập, và tác động tiêu cực tới an ninh lương thực của cộng đồng.
Do vậy, họ phản đổi việc chuyển đổi đất nông nghiệp. Ngược lại, nhóm các nhà ủng
14
hộ sự phát triển đô thị cho rằng việc chuyển đổi đất là một hệ quả tất yếu của sự
phát triển và những tác động tiêu cực về việc làm nông nghiệp và thiếu hụt lương
thực có thể được bù đắp bằng cải tiến công nghệ, thâm canh sản sản xuất nông
nghiệp và việc làm mới do khu vực phi nông nghiệp tạo ra.
Trong bối cảnh đô thị hóa nhanh trong những quốc gia lớn như Trung Quốc
và Ấn Độ, rất nhiều nghiên cứu về chuyển đổi đất nông nghiệp sang phi nông
nghiệp và lợi ích của các hộ gia đình nông thôn được tìm thấy trong những tài liệu
gần đây. Tại Trung Quốc, quốc gia có dân số đông nhất, đô thị hóa đã làm chuyển
đổi một phần lớn đất nông nghiệp, và sự xâm lớn này đã làm gia tăng những lo ngại
về an ninh lương thực và sinh kế nông hộ (J. Chen, 2007; Deng, Huang, Rozelle, &
Uchida, 2006; Wei et al., 2009; Xie, Mei, Guangjin, & Xuerong, 2005). Số liệu thực
tế cho thấy việc thu hồi đất nông nghiệp cho các mục đích sử dụng phi nông nghiệp
đã ảnh hưởng đáng kể đến sinh kế của những người sống ở nông thôn. M. Tan, Li,
Xie, and Lu (2005) cho rằng một khối lượng lớn đất trồng trọt khoảng 10 triệu ha từ
năm 1987 tới 2000 đã được chuyển đổi cho phát triển đô thị , với khoảng 74 phần
trăm đất phi nông nghiệp đã được chuyển đổi từ đất nông nghiệp. Hàng năm, tiến
trình này đã dẫn tới 1,5 triệu nông dân sống trong những vùng ngoại ô đông đúc mất
đi đất trồng trọt, việc làm và thu nhập từ nông nghiệp. Tsering, Bjonness, and Guo
(2007) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa chuyển đổi đất nông nghiệp và sinh kế của
những người nông dân ở một số khu tự trị ở Tây Tạng của Trung Quốc. Nghiên cứu
của họ cho thấy rằng đất đai trồng trọt là tài sản quan trọng nhất bởi vì sự khan hiếm
và nguồn giá trị này đang giảm trên một quy mô lớn trong vùng. Họ cũng cho rằng
đất đai là rất quan trọng cho an ninh lương thực của hộ gia đình và phát triển bền
vững của địa phương trong tương lai. Tuy thế, các tác giả cũng lưu ý rằng để đạt được
đầu ra sinh kế tốt hơn cho tương lai, người nông dân nên được đào tạo và trang bị tốt
những kỹ năng lao động để giảm bớt sự lệ thuộc của họ vào đất nông nghiệp.
Lợi ích của những hộ gia đình nông thôn ở Ấn Độ cũng đã phải đối mặt với
những thách thức về chuyển đổi đất nông nghiệp trên quy mô lớn. Từ năm 1955 tới
1985, khoảng 1,5 triệu héc ta đất được chuyển đổi cho phát triển đô thị tại Ấn Độ
15
(Fazal, 2000). Tiến trình này dẫn tới các tác động đáng kể tới sinh kế nông hộ. Bối
cảnh này dường như lá khá nghiêm trọng tại Ấn Độ bởi vì dân số lớn của quốc gia
này đã đặt những áp lực lớn vào cung cấp lương thực. Để đối mặt với những khó
khăn này, lợi thế công nghệ có khả năng thúc đẩy năng suất nông nghiệp. Tuy
nhiên, một sự gia tăng năng suất như vậy cúng khó có thể được bù đắp được sự
thiếu hụt lương thực bởi việc suy giảm đất nông nghiệp và dân số gia tăng trong
quốc gia này. Thêm nữa, bởi vì sự suy giảm trong đất nông nghiệp, tạo việc làm đối
lao động nông thôn là một thách thức lớn đối quốc gia này, với 67 phần trăm trong
tổng lực lượng lao động tham gia vào khu vực nông nghiệp và khoảng hai phần ba
trong tổng dân số sống trong những vùng nông thôn (Fazal, 2001).
Sử dụng nguồn dữ liệu thứ cấp từ những tài liệu khác nhau tại Ấn Độ
Mahapatra (2007) kiểm tra xem việc chuyển đổi đất nông nghiệp ảnh hưởng như thế
nào đến lợi ích của nông hộ ở các vùng nông thôn Orrisa tại Ấn Độ. Nghiên cứu này
cho thấy khoảng một phần ba hộ gia đình mất đất buộc phải đi làm thuê mướn. Điều
này có thể đưa họ vào những bất lợi bởi vì sự biến động của thị trường lao động.
Thêm nữa, sự suy giảm trong đất trồng trọt làm giảm tiêu dùng và thu nhập của các
hộ gia đình trong những vùng nông thôn này. Mất đất không chỉ ảnh hưởng đến lợi
ích của các nông hộ, mất đất cũng là những nguyên nhân chính của xung đột xã hội
và điều này có thể ảnh hưởng đến những vùng dễ tổn thương trong những vùng
nông thôn của Ấn Độ (Mahapatra, 2007). Kết quả là, những xung đột gần đây tại
Ấn Độ bắt nguồn từ thu hồi đất và việc làm. Vùng Đông Bắc của Ấn Độ là một
trường hợp điển hình của thiếu hụt đất gây ra bởi những xung đột sắc tộc
(Fernandes, 2011). Những xung đột như vậy là những hậu quả không thể tránh khỏi
bởi sự thiếu hụt đất và thiếu việc làm loại được chứng kiến trong những vùng khác
nhau như Rwanda và Kosovo (Ohlsson, 2000).
Mặt khác, có những tranh luận rằng ở những vùng cụ thể, mức độ mất đất gia
tăng hoặc sự thu hồi đất được xem như một khuynh hướng tích cực bởi vì điều này
tạo cơ hội cho việc đa dạng hóa chiến lược sinh kế và giảm thiểu sự phụ thuộc vào
đất nông nghiệp (e.g., Bouahom, Douangsavanh, & Rigg, 2004; Davis, 2006;
16
Deshingkar, 2005; Koczberski & Curry, 2005; Rigg, 2006). Ellis (1998) và Barrett,
Reardon, and Webb (2001) phân biệt những nhân tố đẩy và kéo loại quyết định sự
đa dạng sinh kế nông thôn. Sự khan hiếm đất đai được phân loại như một trong
những nhân tố đẩy và điều này thúc đẩy những gia đình nông thôn đa dạng hóa sinh
kế của họ để phản ứng với những bối cảnh sinh kế khác nhau. Koczberski and Curry
(2005) điều tra mối quan hệ giữa sự suy giảm của đất nông nghiệp và sự thay đổi
trong chiến lược sinh kết giữa những người trồng cọ tại Papua New Guinea. Phát
hiện nghiên cứu của họ chỉ ra rằng những người khai hoang đã thích ứng một cách
thành công với việc thu hẹp đất nông nghiệp bằng việc lựa chọn những chiến lược
sinh kế phi nông nghiệp và tăng cường sản xuất nông nghiệp. Một phát hiện tương
tự cũng được tìm thấy trong một nghiên cứu bởi Jansen, Pender, Damon,
Wielemaker, and Schipper (2006), người sử dụng mô hình kinh tế lượng cho việc
điều tra các nhân tố quyết định đến chiến lược sinh kế và đầu ra thu nhập của hộ gia
đình trong những vùng sườn đồi của Honduras. Phát hiện của họ hé lộ rằng đất đai
không phải là một ràng buộc chính giới hạn tiềm năng cho thu nhập cao hơn, và
nhiều đất hơn không dẫn tới thu nhập trên đầu người cao hơn của các hộ gia đình.
Hộ gia đình sở hữa ít đất có khuynh hướng đạt được năng suất cao hơn hoặc tham
gia vào những hoạt động phi nông nghiệp. Những bằng chứng kinh tế lượng khác
trong một vài các quốc gia đang phát triển được cung cấp bởi Winters et al. (2009)
cũng cho thấy rằng hộ gia đình ít đất được dẫn dắt vào những hoạt động tiền lương
nông nghiệp và phi nông nghiệp và vì vậy những hộ gia đình được khuyến khích
theo cách này có thể gia tăng phúc lợi hộ gia đình. Vì vậy, các tác giả xác nhận vai
trò quan trọng của hoạt động phi nông nghiệp trong chiến lược sinh kế của hộ gia
đình nông thôn. Những thảo luận trên đây hàm ý rằng mất đất hoặc thiếu hụt đất có
thể được xem xét như nhân tố tích cực về đa dạng hóa sinh kế nông thôn.
Việc chuyển đổi đất nông nghiệp có tác động bất lợi vào chiến lược sinh kế
của các hộ gia đình phụ thuộc hoàn toàn hoặc phần lớn vào đất nông nghiệp và
những nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Tuy thế, những bất lợi như vậy có khả
năng được bù đắp bởi những công việc mới được tạo ra từ quá trình đô thị hóa và
17
công nghiệp hóa. Những cơ hội như vậy có thể được những hộ nông dân nắm băt để
gia tăng lợi ích kinh tế của họ. Ví dụ, sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp ở nông
thôn thường đi cùng với việc gia tăng phạm vi không gian đô thị, dẫn tới sự gia tăng
trong mối liên hệ giữa nông thôn và thành thị. Điều này sẽ đưa đến những thuận lợi
cho những người nông dân tiếp cận thị trường đô thị và những cơ hội việc làm phi
nông nghiệp (Tacoli, 2004). Thêm nữa, việc chuyển đổi đất thường đi cùng với quá
trình cải thiện cơ sở hạ địa phương, và do vậy hỗ trợ việc thúc đẩy năng suất và đa
dạng hóa và thâm canh sản xuất nông nghiệp của những người nông dân ở các vùng
ven đô (Gregory & Mattingly, 2009). Tại Trung Quốc, một tỷ lệ lớn hàng nông
nghiệp có giá trị cao được tạo ra trong những vùng đô thị và ven đô (Xie et al.,
2005). Thêm nữa, việc thu hồi đất nông nghiệp thường đi cùng bởi sự mở rộng
không gian kinh tế tới những vùng nông thôn, tạo cho những người nông dân mất
đất có sự lựa chọn nhiều hơn các việc làm phi nông nghiệp. Một nghiên cứu tại
Bangladesh chỉ ra rằng mặc dù một diện tích rất lớn đất nông nghiệp đã được
chuyển đổi cho mở rộng đô thị, đi cùng với quá trình này là một số lượng lớn việc
làm phi nông nghiệp đã được tạo ra cho những người nông dân. Rất nhiều người
nông dân mất đất có khả năng theo đuổi chiến lược sinh kế phi nông nghiệp và vốn
nhân lực như kỹ năng, giáo dục đang nổi lên như những tài sản sinh kế quan trọng
để tận dụng những cơ hội việc làm mới (Toufique & Turton, 2002).
Rigg (2006) tổng quan mối liên hệ giữa đất đai, nông nghiệp, đói nghèo và
sinh kế trong những vùng nông thôn của các quốc gia đang phát triển ở phương
nam. Sử dụng những bằng chứng từ một vài quốc gia Châu Á và Châu Phi, tác giả
cho rằng sinh kế và đói nghèo đã trở lên ít liên quan tới đất đai trong khi trong khi
lượng kiều hối đóng một vai trò quan trọng đối với sinh kế và sinh kế nông thôn
đang được đa dạng hóa hơn. Tác giả cho rằng hoạt động phi nông nghiệp đang nổi
lên nhanh chóng như những nhân tố quan trọng của sinh kế nông thôn trong các
quốc gia đang phát triển. Ví dụ, tại Trung Quốc, việc chuyển đổi đất nông nghiệp
cho quá trình mở rộng của các thành phố vệ tinh và sự phát triển doanh nghiệp nông
thôn dẫn tới nhiều hơn các cơ hội việc làm phi nông nghiệp cho những người nông
18
dân (W. Chen, 1998; Parish, Zhe, & Li, 1995). Gần 100 triệu việc làm mới được tạo
ra bởi những thành phố nhỏ và doanh nghiệp nông thôn tại Trung Quốc từ năm
1985 tới 2002 (Johnson, 2002). Đặc biệt trong một vài quốc gia Đông Nam Á và
Châu Phi, những người nông dân từ bỏ việc làm nông nghiệp để tìm kiếm những
việc làm phi nông nghiệp có lợi tức cao hơn tại những vùng đô thị (Benayas,
Martins, Nicolau, & Schulz, 2007; F. Ellis, 2000; Kabeer & Tran, 2000; Kato,
1994). Vì vậy, đất đai đã mất đi vai trò thiết yếu trong việc tạo dựng sinh kế nông
nghiệp và vai trò của nó đã dần dần được thay thế bởi những nhân tố khác như giáo
dục, kỹ năng và quan hệ. Vì lý do này, chính sách phân phối đất đai không nên được
1.2. Đối với các nghiên cứu trong nước
xem như một cách tiếp cận chính để loại bỏ đói nghèo nông thôn (Rigg, 2006).
Tại Việt Nam, đổi mới đất đai đã được thực hiên như một phần của chính sách
đổi mới kinh tế (Kirk & Nguyen, 2009). Kể từ khi luật đất đai được ban hành, việc
sử dụng đất nông nghiệp dài hạn và ổn định đã được đảm bảo (T. T. Nguyen, 2012),
và luật này đã được thực hiện qua việc trao giấy chứng nhận sử dụng đất tới tất cả
các hộ gia đình (Q. T. Do & Iyer, 2008). Cùng với đổi mới đất đai, tự do hóa thị
trường nông nghiệp cũng được tiến hành. Một phần, những chính sách như vậy thúc
đẩy sự thâm canh về trồng lúa và đa dạng hóa những mùa màng mới và giá trị cao
như cà fê, và điều này dẫn tới một sự cải tiến đáng kể trong thu nhập hộ gia đình, an
ninh lương thực và tình trạng dinh dưỡng của người dân (Kirk & Nguyen, 2009).
Trong bối cảnh chuyển đổi đất nông nghiệp gia tăng trong các vùng ven đô của
các thành phố lớn tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu Việt Nam đã cố gắng tìm kiếm
câu trả lời về việc mất đất sẽ ảnh hưởng đến sinh kế của những hộ gia đình nông thôn
như thế nào bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính và thống kê mô
tả. Một vài nghiên cứu tình huống tại những vùng ngoại ô của Thành Phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội cho thấy những tác động tích cực và tiêu cực của việc thu hồi đất đối
đối với lợi ích của người nông dân và cộng đồng dân cư địa phương. Khi nghiên cứu
một ngôi làng ven đô của Hà Nội, nơi hai phần ba đất nông nghiệp bị chuyể đổi thành
đất ở cơ sở hạ tầng đô thị trong giai đoạn 1998 và 2007, Nguyen (2009) phát hiện ra
19
rằng quá trình này giúp nâng cao chất lượng và mở rộng mạng lưới do cơ sở hạ tầng
giao thông địa phương. Do vậy, khoảng cách từ vùng ven đô tới các trường đại học,
các khu đô thị và thương mại trở nên gần hơn và do vậy rất nhiều hộ gia đình đã được
hưởng lợi từ việc sống ở khoảng cách gần các trường đại học và các trung tâm đô thị.
Các khoản thu nhập từ việc cho sinh viên và những người công nhân di cư thuê nhà
trở thành một nguồn thu nhập quan trọng và ổn định đối với phần lớn hộ gia đình.
Tuy nhiên, một số hộ gia đình khác phải đối mặt với sinh kế bấp bênh bởi vì họ
không có nhà cho thuê và rất nhiều hộ gia đình mất đất bị thất nghiệp, đặc biệt là
người già và những người nông dân không có giáo dục. Nghiên cứu này cũng cho
thấy cộng đồng địa phương cũng bị nhận được những tác động tích cực từ việc
chuyển đổi đất nông nghiệp như việc nâng cấp hệ thống giao đông đường bộ và việc
xây dựng các công trình phúc lợi công cộng khác.
Một nghiên cứu khác được tiến hành bởi T. N. Do (2006) cho rằng thu hồi
đất dẫn tới sự mất mất đất nông nghiệp, nguồn cung lương thực và nguồn thu nhập
nông nghiệp của nhiều hộ gia đình vùng ven đô của Hà Nội. Tuy nhiên, rất nhiều hộ
gia đình mất đất đã thích ứng một cách tích cực với bối cảnh mới bằng việc đa dạng
hóa lao động của họ trong công việc lao động thủ công. Nguồn thu nhập cao nhưng
không ổn định từ việc làm công ăn lương ở khu vực phi chính thức đã trở thành
nguồn thu nhập chính cho rất nhiều hộ gia đình. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ
tầng ở địa phương cũng được cải thiện đáng kể sau khi có việc thu hồi đất nông
nghiệp. Trong một nghiên khác ở những vùng ven đô của thành phố Hồ Chí Minh
nơi hầu hết đất nông nghiệp được thu hồi cho các khu công nghiệp và đất ở của khu
dân cư, Vo (2006) phát hiện rằng những người nông dân mất đất đã chuyển đổi từ
trồng lúa sang chăn nuôi và làm vườn. Thêm nữa, những cơ hội việc làm phi nông
nghiệp được tạo ra nhiều hơn nhờ vào quá trình gia tăng đô thị hóa và công nghiệp
hóa, và điều này làm cho những người dân địa phương không còn ý định tiếp tục
làm nghề nông nữa. Tuy nhiên, trong một nghiên cứu được tiến hành bởi Q. V.
Nguyen, Nguyen, Nguyen, Pham, and Nguyen (2005) ở một số vùng ven đô thị lớn
ở Hà Nội và các tỉnh lân cận, những tác động hỗn hợp của thu hồi đất nông nghiệp
20
đối hộ gia đình nông thôn cũng được đề cập. Trong khi một số người nông dân mất
đất sống gần các khu đô thị hóa mới kiếm được thu nhập cao hơn so với các công
việc đồng áng, một số người mất đất khác, đặc biệt là những người với trình độ giáo
dục thấp và lớn tuổi trở nên thất nghiệp và bị bần cùng hóa về thu nhập.
Một vài bằng chứng từ các kết quả khảo sát khác cũng cho rằng thu hồi đất
đưa đến các lợi ích khác nhau vào hộ gia đình khác nhau. Khoảng hai phần ba
những hộ gia đình mất đất hưởng lợi từ việc có cơ hội việc làm cao hơn và cơ sở hạ
tầng địa phương được cải thiện; đối với số còn lại, thu hồi đất dẫn tới những đảo lộn
trong hoạt động kinh tế. Đặc biệt là nhóm hộ bị thu hồi hết đất sản xuất trong khi đó
những thành viên gia đình không có giáo dục và những kỹ năng nghề nghiệp để
chuyển đổi tới những công việc mới (ADB, 2007). Thêm nữa, kết quả từ khảo sát
quy mô lớn trong tám thành phố và tỉnh thành phát triển với mức độ mất đất cao
cung cấp một bức tranh chi tiết về cả hai những tác động tích cực và tiêu cực của
thu hồi đất đối sinh kế hộ gia đình. Trong khi khoảng một nửa những hộ gia đình
mất đất báo cáo về việc giảm thu nhập từ hoạt động nông nghiệp, một tỷ lệ lớn kiếm
được thu nhập cao hơn từ những nguồn phi nông nghiệp khác sau khi mất đất. Cụ thể,
khoảng 45 phần trăm những hộ gia đình mất đất đạt được thu nhập cao hơn từ những
ngành tiểu thủ công nghiệp và chỉ 10 phần trăm báo cáo rằng nguồn thu nhập này bị
giảm so với trước. Khoảng 35 phần trăm nhận được một mức thu nhập lớn hơn từ
dịch vụ và khoảng 25 phần trăm kiếm được một mức độ thu nhập thấp hơn từ những
nguồn này. Thêm nữa, khoảng 30 phần trăm trong số họ nhận được một mức thu
nhập cao từ việc làm công ăn lương trong khi đó chỉ khoảng 13 phần nói rằng nguồn
này giảm đi so với trước. Cuối cùng, liên quan đến tổng thu nhập hộ gia đình kiếm
được sau mất đất, 25 phần trăm có mức thu nhập cao hơn, trong khi đó 44,5 phần
trăm đạt được mức thu nhập như cũ và khoảng 30,5 phần trăm có thu nhập giảm đi
(Le, 2007).
T. D. Nguyen, Vu, and Philippe (2011) nghiên cứu sự thích ứng sinh kế và quá
trình phân tầng xã hội giữa các hộ gia đình mất đất trong một vài xã của Hưng Yên,
nơi đất nông nghiệp của các xã nghiên cứu giảm 70 phần trăm do quá trình thu hồi
21
đất nông nghiệp cho các khu công nghiệp trong giai đoạn 2001-2006. Họ tìm thấy
rằng đa dạng hóa trong cả hai hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp là những
chiến lược sinh kế phổ biến nhất của những hộ gia đình mất đất. Tiếp đến là chiến
lược sinh kế dựa trên công việc phi nông nghiệp và tự làm và cuối cùng là chiến lược
sinh kế dựa vào thâm canh nông nghiệp. Mặc dù mức sinh lời thấp từ hoạt động nông
nghiệp và nhiều cơ hội cho những công việc phi nông nghiệp có lợi tức cao hơn,
nhiều hộ gia đình vẫn duy trì hoạt động nông nghiệp cho an ninh lương. Thêm nữa,
giữa những hộ gia đình mất đất, những hộ có sinh kế dựa vào nghề nông có xu hướng
ở vào một vị trí bất lợi trong việc nắm bắt những hoạt động kinh tế sinh lời cao. Cuối
cùng, sự khác biệt trong mức thu nhập giữa những chiến lược sinh kế khác nhau là
một trong những lý do chính của phân tầng xã hội gia tăng sau khi có chuyển đổi đất
nông nghiệp.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp kinh tế lượng của Tuyen, Lim, Cameron,
and Huong (2014) cho thấy việc thu hồi đất nông nghiệp không có các tác động tiêu
cực tới lợi ích của người nông dân ven đô Hà Nội ở khía cạnh thu nhập và chi tiêu
trong ngắn hạn, và hơn nữa việc chuyển đổi đất còn có tác động gián tiếp và tích cực
tới đời sống người dân qua việc khuyến khích họ tham gia vào các hoạt động kinh tế
phi nông nghiệp có lợi tức cao hơn nông nghiệp. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu
khác khẳng định việc chuyển đổi đất nông nghiệp còn có tác động tích cực trong dài
hạn với lợi ích của người dân bị thu hồi đất. Sử dụng dữ liệu khảo sát định lượng và
phương pháp thống kê mô tả, T. H. H. Nguyen, Nguyen, and Ho (2013) phát hiện ra
rằng sau 10 năm kể từ khi bị thu hồi đất ở một số vùng của Hưng Yên, các hộ gia
đình mất đất nhiều hơn có sự thay đổi nghề rõ ràng hơn và có thu nhập cao hơn
những hộ bị thu hồi đất ít hơn. Các kết quả nghiên cứu này hàm ý rằng việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đem lại những tác động tích cực qua việc tạo
ra những khuyến khích cũng như cơ hội cho các nông hộ chuyển đổi sinh kế và do
vậy có đời sống tốt hơn.
S. S. Han and Vu (2008) là một trong số rất ít các tác giả đã xem xét quá
trình thu hồi đất ở Việt Nam dưới góc độ liên quan khá nhiều tới các bên liên quan
22
có thể được coi như các nhóm lợi ích. Nhóm tác giả này cho rằng có ba chủ thể
chính có lợi ích liên quan tới quá trình chuyển đổi đất đai nói chung, đất nông
nghiệp nói riêng ở Việt Nam. Đó là người nông dân hay chủ sử dụng đất, nhà đầu tư
và chính quyền địa phương. Qua nghiên cứu mốt số tình huống thu hồi đất cho các
dự án ở Hà Nội, nhóm tác giả này phát hiện ra rằng căng thẳng gia tăng giữa nông
dân và nhà đầu tư, với sự ủng hộ của Nhà nước nhiều hơn cho nhà đầu tư. Nông dân
luôn nhận được mức giá đền bù theo quy định thấp hơn nhiều so với giá trị thực của
đất và có sự khác biệt cực lớn của giá đất trước và sau khi chuyển đổi. Nhóm tác giả
này cũng chỉ ra rằng những căng thẳng và thậm chí là xung đột giữa nông dân và
nhà đầu bắt nguồn từ nguyên nhân của hệ thống luật phát và quy định chưa hoàn
thiện và nông dân luôn là người thua thiệt trong quá trình này. Trong khi đó chủ đầu
tư được hưởng lợi rất lớn do giá đền bù đất thấp và giá đất tăng cao sau khi có đầu
tư vào cơ sở hạ tầng liền kề đất thu hồi. Bên cạnh đó cũng có sự kết hợp giữa nhà
đầu tư và nhà nước trong quá trình thu hồi đất. Các phát hiện cũng tương tự như ở
Kết luận chương 1
Trung Quốc (Guo, 2001).
Việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy vấn
đề chuyển đổi đất nông nghiệp và tác động của nó tới các nhóm lợi ích đã được
nghiên cứu ở một số khía cạnh khác nhau, nhưng tập trung nhiều nhất tới nhóm lợi
ích là nông dân. Điều này có thể được lý giải rằng nông dân là đối tượng yếu thế, dễ
bị tổn thương hơn cả trong quá trình chuyển đổi đất nông nghiệp. Tuy nhiên, bằng
chứng quôc tế và trong nước đều cho thấy quá trình này có cả tác động tích cực
cũng như tiêu cực tới các hộ nông dân. Một mặt, chuyển đổi đất nông nghiệp làm
gia tăng số nông dân thất nghiệp và có thể đe dọa tới thu nhập và đời sống của họ.
Mặt khác, chính quá trình này đem lại những cơ hội mới có thể giúp các hộ nông
dân chuyển đổi sinh kế và nâng cao thu nhập. Cần lưu ý là tác động của chuyển đổi
đất là khác nhau với các hộ khác nhau là do điều kiện về vốn nhân lực, tài chính, và
đặc điểm kinh tế xã hội ở từng địa phương là khác nhau. Với các hộ có vốn nhân
23
lực, tài chính và năng lực sản xuất kinh doanh tốt, việc chuyển đổi đất có thể đem
lại cơ hội tích cực cho họ nhiều hơn. Trong khi đó, với những hộ thiếu vốn nhân lực
và tài chính thì việc chuyển đổi đất đem lại những tác động tiêu cực.
Quá trình chuyển đổi đất liên quan tới ba nhóm chủ thể, có thể coi như ba
nhóm lợi ích chính là người nông dân, nhà đầu tư và cộng đồng địa phương. Việc
tổng quan nghiên cứu cho thấy nông dân luôn bị thua thiệt hơn trong quá trình này
do giá đền bù đất rất thấp so với giá thị trường của đất. Nhà đầu tư là người hưởng
lợi lớn nhất trong quá trình này do sự chênh lệch rất lớn giữa giá đền bù và giá thị
trường sau thu hồi đất. Đồng thời, do có những lợi ích chung nên đã có hiện tượng
gắn kết chặt chẽ giữa nhà đầu tư và chính quyền địa phương trong quá trình thu hồi
đất nông nghiệp. Các phát hiện trên cũng được tìm thấy trong các nghiên cứu ở
Trung Quốc.
Việc tổng quan nghiên cứu cho thấy mặc dù có rất nhiều nghiên cứu liên
quan tới việc chuyển đổi đất và tác động của nó tới một nhóm lợi ích duy nhất là
nông dân, hiện còn khá ít các nghiên cứu xem xét rộng hơn các nhóm lợi ích khác
trong quá trình này như cộng đồng địa phương và nhà đầu tư. Hơn nữa chưa có
nghiên cứu nào xem xét chủ đề chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và
tác động của nó tới các nhóm lợi ích ở Bắc Ninh - một tỉnh ở Bắc Bộ đang trong
quá trình chuyển đổi một diện tích lớn đất nông nghiệp. Vì lý do này, tác giả đã lựa
chọn chủ đề nghiên cứu nói trên cho đề tài luận án tiến sỹ.
24
CHƯƠNG 2.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN ĐỔI
MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN CÁC NHÓM LỢI ÍCH
2.1. Cơ sở lý luận về chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
2.1.1. Khái niệm ĐNN và chuyển đổi MĐSD ĐNN
2.1.1.1. Khái niệm ĐNN
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ
yếu và đặc biệt của sản xuất nông nghiệp, là một trong các yếu tố quan trọng nhất của
môi trường. Đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của đời
sống. Theo từng ngành sản xuất, từng lĩnh vực của đời sống, đất được phân thành các
loại khác nhau và gọi tên theo ngành và lĩnh vực sử dụng chúng.
Với ý nghĩa đó, ĐNN (nghĩa rộng) là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất
của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử
dụng để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Ngoài tên gọi ĐNN, đất sử dụng vào
hoạt động của ngành nông nghiệp còn được gọi là ruộng đất. Trên thực tế để sử dụng
đầy đủ hợp lý ruộng đất, đất chưa sử dụng vào mục đích nông nghiệp nhưng có thể
tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà không cần có đầu tư lớn nào cả vẫn
được coi là ĐNN. Đất có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp nhưng cần
có sự đầu tư lớn, đầu tư cải tạo được gọi là đất có khả năng nông nghiệp.
ĐNN là phạm trù rộng, chứa đựng nhiều yếu tố thành phần. Vì vậy, ĐNN
được phân thành các loại khác nhau tùy theo tiêu chí phân loại của chúng. Trên thực
tế, ĐNN thường phân thành các loại sau:
- Phân theo MĐSD: ĐNN (theo quy định hiện hành) phân thành đất sản xuất
nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và ĐNN khác.
25
+ Đất sản xuất nông nghiệp là đất được sử dụng vào hoạt động nông nghiệp
(theo nghĩa hẹp), bao gồm đất trồng trọt các cây nông nghiệp (lúa, màu, cây công
nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, cây cảnh…), đất đồng cỏ và trồng cây thức ăn
khác dùng cho chăn nuôi, đất nuôi trồng thủy sản… Đất sản xuất nông nghiệp theo
MĐSD là đất canh tác để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp nên phần đất chưa đưa
vào sản xuất nông nghiệp không được coi là đất sản xuất nông nghiệp mà thuộc
ĐNN khác
+ Đất lâm nghiệp là đất được sử dụng vào các mục đích lâm nghiệp khác nhau
như đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng và đất lâm nghiệp khác.
+ Đất nuôi trồng thủy sản (bao gồm cả mặt nước) là đất được sử dụng vào các
mục đích nuôi, trồng các loại thủy sản (nuôi tôm, cá, cua, trồng các loại rong thực
phẩm…). Đất nuôi trồng thủy sản được phân thành đất nuôi trồng thủy sản nước lợ,
mặn và đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt.
+ Đất làm muối là đất sử dụng vào mục đích chưng cất nước biển nhờ nhiệt
lượng mặt trời để tạo muối ăn và các MĐSD khác. Đất làm muối chủ yếu là diện
tích đất để xây dựng cánh đồng muối.
+ ĐNN khác bao gồm: ĐNN nhưng để hoang hóa, đất chưa sử dụng nhưng có
thể đưa vào sản xuất nông nghiệp mà không cần đầu tư lớn…
- Phân theo thời hạn sử dụng: ĐNN phân thành đất trồng cây hàng năm và đất
trồng cây lâu năm.
+ Đất trồng cây hàng năm là đất trồng các loại cây trồng có chu kỳ sản xuất
trong khoảng thời gian 1 năm. Trong đất trồng cây hàng năm, người ta căn cứ vào
công dụng của cây trồng để phân thành các loại đất khác nhau như: Đất trồng cây
lương thực, đất trồng cây công nghiệp ngắn ngày, đất trồng cây thực phẩm, đất
trồng cây thức ăn gia súc, đất trồng cây dược liệu...
Cây hàng năm có chu kỳ sản xuất nhỏ hơn một năm, nên trong điều kiện thời
tiết khí hậu thuận lợi người ta có thể trồng cấy nhiều vụ trong năm. Vì vậy, đất
26
trồng cây hàng năm còn được xem xét ở mức độ sử dụng chúng qua các chỉ tiêu
diện tích gieo trồng và hệ số sử dụng ruộng đất.
Diện tích gieo trồng là tổng diện tích đất trồng cây hàng năm của một đơn vị
sản xuất (hộ gia đình, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp khác...), của một địa
phương (thôn, xã, huyện, tỉnh) hay cả nước. Nó được tính bằng tổng số diện tích
của các lần trồng khác nhau trong năm.
Hệ số sử dụng ruộng đất là tỷ số giữa diện tích gieo trồng với diện tích trồng
cây hàng năm ở đơn vị cần xem xét.
+ Đất trồng cây lâu năm là đất trồng các loại cây trồng có chu kỳ sản xuất lớn
hơn một năm (những cây trồng dài ngày). Trong đất trồng cây lâu năm, người ta cũng
căn cứ vào công dụng của cây trồng để phân thành những loại đất khác nhau như: Đất
trồng cây ăn quả, đất trồng cây công nghiệp dài ngày, đất trồng cây thực phẩm...
+ Ngoài đất trồng cây hàng năm và cây lâu năm, ĐNN còn phân thành đất đồng
cỏ, đất mặt nước dùng vào nông nghiệp. Tuy hai loại này có thể đưa vào một trong
hai nhóm trên, nhưng chúng được tách riêng, vì chúng có đặc thù trong khai thác.
Để phân loại đất theo thời hạn sử dụng, người ta có thể căn cứ vào (1) hiện
trạng để liệt kê, đo đạc đối với đất đã sử dụng; (2) đất đai có thể đưa ngay vào sản
xuất nông nghiệp nhưng chưa tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp, căn cứ vào
quy hoạch ta có sự phân loại ĐNN. Về thực chất người ta căn cứ vào yêu cầu của
từng loại cây trồng và các đặc tính của đất đai (hàm lượng các chất dinh dưỡng, độ
chua kiềm, hàm lượng mùn trong đất, thành phần cơ giới của đất...), các điều kiện
về địa hình (chủ yếu liên quan đến khả năng cung cấp nước), các yếu tố thời tiết khí
2.1.1.2. Khái niệm chuyển đổi MĐSD ĐNN
hậu... để thấy khả năng bố trí cây trồng để phân loại đất.
Có nhiều khái niệm khác nhau về chuyển đổi MĐSD đất nói chung, ĐNN nói
riêng. Hiểu theo nghĩa thông thường, “chuyển đổi MĐSD đất” nói chung bản thân
nó đã đủ nghĩa là sự thay đổi về MĐSD của đất. Điều đó được giải nghĩa là: chủ thể
sử dụng đất không sử dụng cho mục đích trước đây nữa và sẽ thay đổi nó sang
27
MĐSD khác. Đất đó có thể là ĐNN, nhưng cũng có thể là đất phi nông nghiệp. Ví
dụ: Đất khu dân cư, với tư cách là đất ở nông thôn (hay thành thị) được giải tỏa để
mở đường là sự chuyển đổi từ mục đích đất ở sang mục đích đất giao thông.
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp là phạm trù hẹp hơn, tuy cũng
chỉ sự thay đổi về mục đích sử dụng của đất, nhưng đó là mục đích của ĐNN này
sang mục đích nông nghiệp khác hoặc từ ĐNN sang đất phi nông nghiệp. Ví dụ: Đất
đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp, đang trồng lúa chuyển sang nuôi trồng
thủy sản hoặc đất đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp chuyển sang xây dựng
khu công nghiệp, sẽ trở thành đất khu, cụm công nghiệp.
Chuyển đổi mục đích sử dụng ĐNN còn được hiểu theo các góc độ về mặt
pháp lý, về mặt kinh tế tổ chức. Về mặt pháp lý, chuyển đổi MĐSD ĐNN là thay
đổi MĐSD đất theo quy hoạch sử dụng đất, được duyệt bằng quyết định hành chính
(trong trường hợp phải xin phép) khi người sử dụng đất có yêu cầu. Trên thực tế, do
đặc điểm của đất nói chung, ĐNN có giới hạn về mặt số lượng. Trong khi đó, ĐNN
là cơ sở tự nhiên cần thiết để tạo ra các nông sản duy trì sự tồn tại của con người.
Mâu thuẫn giữa nhu cầu về nông sản ngày càng tăng do sự gia tăng với quỹ ĐNN
ngày càng giảm do yêu cầu sử dụng vào các ngành phi nông nghiệp đã khiến nhiều
quốc gia phải hạn chế chuyển ĐNN sang mục đích phi nông nghiệp. Sự phê duyệt
bằng các quyết định hành chính, vì thế được sử dụng trong quản lý chuyển đổi
MĐSD của ĐNN.
Về mặt kinh tế tổ chức, đất đai được sử dụng vào tất cả các hoạt động kinh tế
và đời sống kinh tế xã hội. Để sử dụng đất đai có hiệu quả hay vì một mục đích kinh
tế nào đó, người ta có thể chuyển đổi MĐSD nó. Trong nông nghiệp, đó là quá trình
chuyển đổi từ mục đích trồng các cây trồng, nuôi các vật nuôi có giá trị kinh tế thấp
sang các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Là quá trình chuyển đổi từ
MĐSD vào nông nghiệp sang các mục đích phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và
rộng hơn là phục vụ cho cả nền kinh tế quốc dân.
Xét về phạm vi và quy mô của chuyển đổi MĐSD đất nói chung, ĐNN nói
riêng có thể diễn ra theo từng chủ thể sử dụng đất (hộ nông dân, các trang trại…)
28
hay ở một địa phương (gồm nhiều chủ thể sử dụng đất), thậm chí nhiều địa phương
của một quốc gia cho một mục đích nào đó.
Ví dụ: Hộ nông dân nào đó cải tạo ruộng trũng trồng lúa không hiệu quả sang
nuôi trồng thủy sản; một nhóm hộ cùng chuyển theo chủ trương của địa phương.
Hay, để xây dựng tuyến đường cao tốc Lào Cai - Nội Bài, các tỉnh Lào Cai, Yên
Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc tổ chức thu hồi đất thực hiện sự chuyển đổi đất đai (cả
ĐNN và đất phi nông nghiệp) của hàng ngàn hộ có tuyến đường đi qua. Khi đó, sự
chuyển đổi MĐSD đất hiện trạng sang đất giao thông diễn ra với quy mô lớn.
Chuyển đổi MĐSD đất sẽ làm cho cơ cấu sử dụng đất thay đổi và làm cho cơ
cấu kinh tế của một ngành, một địa phương và cả nền kinh tế quốc dân thay đổi
theo. Vì vậy có thể nói, giữa chuyển đổi MĐSD đất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, cơ cấu kinh tế quốc dân có mối quan hệ với nhau. Trong đó, chuyển
đổi MĐSD đất nói chung, ĐNN nói riêng là nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Ngược lại, mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhân tố chi phối
2.1.2. Sự cần thiết phải chuyển đổi MĐSD ĐNN
đến quá trình chuyển đổi MĐSD đất.
Theo Azadi et al. (2011), có hàng loạt nhân tố dẫn tới sự cần thiết hay tính tất
yếu phải chuyển đổi MĐSD ĐNN sang phi nông nghiệp. Đó là các nhân tố như
công nghiệp hóa, đô thị hóa, sự phát triển hạ tầng giao thông đường bộ, và chính
sách của chính phủ. Việc chuyển đổi đất nông nghiệp được coi là hệ quả tất yếu của
quá trình tăng trưởng kinh tế và dân số, đô thị hóa và công nghiệp hóa ở hầu hết các
quốc gia (Ramankutty et al., 2002; R. Tan, Beckmann, Van Den Berg, & Qu, 2009).
Công nghiệp hóa: Để cung cấp không gian kinh tế cho các công nghiệp hóa,
như việc xây dựng các khu công nghiệp, các nhà máy và đơn vị sản xuất, một lượng
đất, trong đó có đất nông nghiệp phải chuyển đổi thành đất phi nông nghiệp. Ở
Trung quốc được biết như sự tăng trưởng nhanh trong suốt thời gian the 1980s–
1990s, gắn liền việc chuyển đổi MĐSD ĐNN với sự phát triển của khu vực phi
nông nghiệp nông thôn, đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp làng xã (TVEs)
29
(Ho & Lin, 2004). Tại Trung Quốc, công nghiệp nông thôn được đặt tại những vùng
nơi nông nghiệp được phát triển tốt hơn và được đặt gần khu đô thị. 62% trong
doanh nghiệp làng xã được tập trung tại tỉnh ven biển vì vậy, ngành công nghiệp tại
những vùng nông thôn tạo ra nhiều áp lực vào cộng đồng ở nông thôn để chuyển
đổi từ việc sử dụng đất nông nghiệp sang mục đích phi nông nghiệp
Firman (1997) chỉ ra rằng sự phát triển các vùng công nghiệp, đặc biệt các
vùng xung quanh Jakarta, là nhân tố dẫn tới sự chuyển đổi đất nông nghiệp quy mô
lớn tại Indonesia. Một vài vùng diễn ra sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp
sang những hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Sự chuyển đổi này cũng được phản
ánh bởi cấu trúc việc làm. Cấu trúc việc làm chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp
sang sản xuất công nghiệp. Số hộ gia đình tham gia vào sản xuất nông nghiệp giảm.
Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và cải thiện cạnh tranh toàn cầu tại
các khu công nghiệp tại Indonesia làm gia tăng việc thu hồi đất trong những vùng
đô thị. Chiến lược này thúc đẩy sự phát triển của rất nhiều ngành công nghiệp nhẹ
như giầy dép, điện tử và sản xuất đồ nhựa. Chiến lược này vì vậy đã làm cho việc
thu hồi đất nghiêm trọng hơn.
Đô thị hóa: Tiến trình đô thị hóa và di cư từ nông thôn ra thành thị là hai nhân
tố chính ảnh hưởng đến việc chuyển đổi MĐSD ĐNN và được nghiên cứu rộng rãi.
Do dân số đô thị tăng nhanh cùng với quá trình di cư đã dẫn tới nhu cầu lớn về đất
đai cho nhà ở và hạ tầng đô thị. Sun Sheng Han and He (1999) nghiên cứu cấu trúc
phân phối của việc chuyển đổi đất nông nghiệp trong một vài thành phố tại Trung
Quốc và cũng kiểm tra mối quan hệ giữa đô thị hóa và thu hồi đất nông nghiệp
trong các thành phố. Họ tìm thấy rằng có một mối quan hệ tương quan dương giữa
gia tăng dân số và thu hồi đất tại những vùng ven biển. Kết quả của họ giống với kết
quả nghiên cứu bởi Ho and Lin’s (2004) cho rằng công nghiệp hóa làm gia tăng quá
trình chuyển đổi đất nông nghiệp trong những vùng duyên hải tại Trung Quốc. Họ
kết luận rằng tiến trình công nghiệp hóa tai Trung Quốc thường đi cùng với tiến
trình đô thị hóa và kết quả gây ra sự thu hồi đất nông nghiệp.
30
Việc gia tăng dân số nhanh cũng ảnh hưởng đến việc thu hồi đất bởi vì dân số
cao hơn dẫn tới cần mở rộng các khu xây dựng để cung cấp nhà ở và cơ hội việc
làm. Fazal (2001) đã phân tích việc đô thị hóa ảnh hưởng như thế nào đến chuyển
đổi đất nông nghiệp tại Ấn Độ. Tác giả cho rằng cấu trúc đô thị và gia tăng dân số
nhanh trong các quốc gia phát triển và đang phát triển dẫn tới áp lực về đất. Sự mở
rộng đô thị hóa xâm lấn những vùng đất nông nghiệp màu mỡ. Ấn Độ đã trải qua
một sự mất mát lớn đất nông nghiệp bởi vì đô thị hóa nhanh và việc mở rộng các
khu đô thị kết hợp với sự gia tăng dân số. Vấn đề tương tự cũng được diễn ra tại
Jakarta, Indonesia. Ví dụ, Firman (1997) chỉ ra rằng sự phát triển nhà ở là một trong
những nguyên nhân chính dẫn tới việc thu hồi đất nông nghiệp trong suốt 20 năm
qua ở quốc gia này. Metro Manila là một thành phố khác cũng trải qua quá trình thu
hẹp đất nông nghiệp do tiến trình đô thị hóa (Malaque & Yokohari, 2007)
Sự phát triển cơ sở hạ tầng như đường xá cũng dẫn tới việc chuyển đổi đất
nông nghiệp ở hầu hết các quốc gia. Vấn đề này đã diễn ra mạnh mẽ ở Trung Quốc
hai thập kỷ trước đây (Lichtenberg & Ding, 2008). Khi ngành công nghiệp tăng
trưởng nhanh, khu vực nông nghiệp trở thành thương mại hóa, thu nhập của người
dân gia tăng và số người di chuyển cũng gia tăng, hệ thống đường xá trở nên tắc
nghẽn và cần được mở rộng và xây dựng mới và do vậy một diện tích lớn đất nông
nghiệp buộc phải bị thu hồi cho việc xây dựng đường giao thông và các công trình
hạ tầng liên quan. Theo Ho và Lin (2004), những dự án đường xá khác nhau tại
Trung Quốc đòi hỏi một khối lượng lớn đất nông nghiệp. Rất nhiều học giả tin rằng
việc xây dựng đường xá hỗ trợ phát triển công nghiệp để kết nối với đường cao tốc
đã dẫn tới việc chuyển đổi đất ở các vùng đất nông nghiệp màu mỡ.
Chính sách phát triển kinh tế của chính phủ: hầu hết các chính sách phát triển
kinh tế có khuynh hướng thúc đẩy gia tăng công nghiệp và gián tiếp thúc đẩy việc
thu hồi đất nông nghiệp trong rất nhiều các quốc gia đang phát triển như Indonesia,
China, Vietnam, và the Philippines (Irawan, 2008; Lichtenberg & Ding, 2008;
Malaque & Yokohari, 2007; Van den Berg, Van Wijk, & Van Hoi, 2003). Thêm
nữa, những chính sách phát triển không gian quyết định chuyển đổi hoặc mở rộng
31
một vùng trở thành khu công nghiệp hay nơi cư dân sinh sống thúc đẩy sự thu hồi
đất nông nghiệp trong vùng đó. Chính sách thiết lập các khu công nghiệp trong
những vùng đô thị của Jakarta, như là Tanggerang, Bekasi and Karawang dẫn tới
việc thu hồi đất trên diện rộng tại Indonesia (Firman, 1997). Chính phủ Trung Quốc
quyết định di dời các khu công nghiệp tới những vùng ven đô để giải quyết vấn đề
tắc nghẽn giao thông và điều này đã gây ra một sự mất đất nông nghiệp lớn trong
những vùng duyên hải (Ho and Lin, 2004).
Như vậy, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp sang cho mục
đích sử dụng phi nông nghiệp là một đòi hỏi khách quan của quá trình công nghiệp
hóa, đô thị hóa, phát triển kinh tế và tăng trưởng dân số ở hầu hết các nước. Quá
trình này cũng được thúc đẩy bởi các mong muốn về chính sách của chính phủ các
nước hướng tới sự tập trung phát triển công nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế
2.1.3. Tổ chức và quản lý quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN ở Việt Nam
của một quốc gia.
Chuyển đổi MĐSD đất là chuyển từ mục đích này sang MĐSD khác - như trên
đã đề cập. Nhưng xét dưới góc độ tổ chức và quản lý, chuyển đổi mục đích là quá
trình với các căn cứ và các nội dung cụ thể sau đây:
- Quy hoạch sử dụng đất nói chung, ĐNN nói riêng: Để chuyển đổi MĐSD đất cần
phải tiến hành quy hoạch sử dụng đất nói chung, quy hoạch sử dụng ĐNN nói riêng.
Quy hoạch sử dụng đất được hiểu là tổng thể các biện pháp kinh tế, kỹ thuật
và pháp lý của Nhà nước về tổ chức sử dụng đất bền vững, hợp lý và có hiệu quả
cao thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất, tổ chức sử dụng nguồn lao
động và tư liệu sản xuất khác liên quan để nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ đất và
môi trường. Hay, quy hoạch sử dụng đất là bố trí sắp xếp lại đất đai theo các MĐSD
khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã
hội, đảm bảo sử dụng đất đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả.
Như vậy, quy hoạch sử dụng đất có thể coi là nội dung của chuyển đổi MĐSD
đất, hay chính xác hơn, chuyển đổi MĐSD đất là một trong các nội dung cốt lõi của
32
quy hoạch đất đai nói chung, quy hoạch sử dụng ĐNN nói riêng. Tuy nhiên trong
quy hoạch sử dụng đất, chuyển đổi MĐSD đất được thể hiện ở các phương án sử
dụng đất và chu chuyển các loại đất. Đặc biệt, việc xác định các phương án sử dụng
đất được xác định một cách khái quát, dựa trên mục tiêu phát triển kinh tế và các
điều kiện gắn với sử dụng đất. Vì vậy, đối với chuyển đổi MĐSD đất cho một diện
tích cụ thể nào đó, quy hoạch sử dụng đích chỉ được coi như là yêu cầu, là cơ sở cho
chuyển đổi.
- Xây dựng các luận chứng chuyển đổi MĐSD ĐNN: Xây dựng luận chứng
chuyển đổi MĐSD đất nói chung, ĐNN nói riêng là tạo lập các cơ sở khoa học để
minh chứng về sự cần thiết, về hiệu quả kinh tế, xã hội của chuyển đổi MĐSD đất;
thiết lập các điều kiện, quy trình và các biện pháp triển khai các hoạt động chuyển
đổi, thậm chí soạn thảo các chính sách cần thiết cho quá trình chuyển đổi.
Ví dụ, việc chuyển đổi từ đất trồng lúa bấp bênh sang nuôi trồng thủy sản có
hiệu quả rất rõ. Tuy nhiên, do đất đai manh mún không thể hình thành các hồ đầm,
đặc biệt do nguồn lực của người dân hạn chế trong việc cải tạo ruộng thành hồ đầm.
Nhà nước cần có chính sách tổ chức triển khai dồn điền đổi thửa, hỗ trợ nguồn vốn
cho nông dân…
Các luận chứng chuyển đổi MĐSD đất có thể được xây dựng thành các đề án
hay dự án. Nếu quy mô chuyển đổi MĐSD đất lớn, việc xây dựng đề án hay dự án
có sự hỗ trợ của các nhà khoa học và quản lý.
- Phê duyệt các phương án chuyển đổi MĐSD ĐNN: Để triển khai các đề án,
dự án chuyển đổi MĐSD đất (kể cả chuyển đổi từ mục đích này sang mục đích khác
trong nội bộ nông nghiệp hay chuyển từ MĐSD cho nông nghiệp sang mục đích phi
nông nghiệp) đều phải được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và phù hợp với bản
quy hoạch sử dụng đất của địa phương đã được thông qua. Nếu đề án, dự án chuyển
đổi MĐSD đất để xây dựng nhà để ở hoặc để bán thì phải thực hiện theo quy định
của pháp luật về nhà ở, pháp luật xây dựng, luật kinh doanh bất động sản;
33
Các đề án, dự án được đưa ra thẩm định phê duyệt phải qua những thủ tục
hành chính. Theo quy định hiện hành, các thủ tục đó bao gồm:
+ Đơn xin chuyển đổi MĐSD đất (làm theo mẫu);
+ Phương án sản xuất, kinh doanh (nếu Chuyển đổi MĐSD đất sang làm mặt
bằng sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp);
Đối với chuyển đổi MĐSD đất ở quy mô nhỏ, nhất là từ mục đích nông nghiệp
sang các mục đích phi nông nghiệp, việc phê duyệt chuyển đổi MĐSD đất cũng bao
gồm các đơn, luận chứng chuyển đổi và kèm theo bản sao Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất; bản sao hộ khẩu thường trú và chứng minh nhân dân của người
xin chuyển đổi MĐSD đất; bản cam kết theo quy định về điều kiện chuyển đổi
MĐSD đất.
- Tổ chức các phương án chuyển đổi MĐSD ĐNN: Sau khi các đề án, dự án
chuyển đổi mục đích được phê duyệt, các nội dung của tổ chức chuyển đổi MĐSD
đất được triển khai. Thường các công việc gồm:
+ Thu hồi đất, giải quyết các bồi thường, khiếu kiện (nếu có sự chuyển quyền
sử dụng đất từ chủ thể này sang chủ thể khác và thường xảy ra đối với chuyển đổi
từ MĐSD cho nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp).
+ Triển khai các hoạt động chuyển MĐSD ĐNN theo các phương án đã phê
duyệt: Tùy theo các mục đích chuyển đổi, đặc biệt từ hiện trạng sử dụng so với yêu
cầu hiện trạng sau chuyển đổi sẽ có những hoạt động cải tạo, xây dựng trên đất
được chuyển đổi MĐSD. Ví dụ: Đối với đất trũng trồng lúa chuyển sang nuôi trồng
thủy sản, cần phải xây dựng hồ, đầm…sẽ liên quan đến các hoạt động san lấp, đắp
các bờ hồ, đầm, xây dựng các cống, đập, san phẳng, cải tạo làm sạch mặt hồ, đầm…
Đối với ĐNN chuyển sang xây dựng khu công nghiệp, đô thị cần phải san lấp mặt
bằng, xây dựng các hạ tầng công nghiệp, đô thị, phân lô… Tùy theo MĐSD việc
triển khai sẽ do chủ đầu tư và chủ quản đầu tư triển khai và quản lý.
Sau khi các dự án, đề án triển khai xong phần thực hiện chuyển đổi, khai thác
các kết quả chuyển đổi là bước cuối cùng. Tùy theo mục đích chuyển đổi, đặc biệt
34
là phương thức đầu tư, các kết quả đầu tư sẽ do các chủ thể khác nhau quản lý sử
dụng. Đối với chuyển đổi mục đích ĐNN sang các mục đích khác của nông nghiệp
thường do những người sản xuất nông nghiệp thực hiện nên họ là những người khai
thác kết quả đầu tư và lợi ích tăng thêm từ sự chuyển đổi. Đối với chuyển đổi
MĐSD ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp thường có sự chuyển đổi chủ sử
dụng. Vì vậy, người khai thác kết quả của chuyển đổi MĐSD ĐNN là những người
2.2. Tác động của chuyển đổi mục đích sử dụng đất đến các nhóm lợi ích
2.2.1. Những vấn đề cơ bản về nhóm lợi ích và lợi ích nhóm
2.2.1.1. Khái niệm về nhóm lợi ích và lợi ích nhóm
khác. Ở đây có sự điều tiết lợi ích tăng thêm của chuyển đổi MĐSD ĐNN.
- Khái niệm về nhóm lợi ích: Nhóm lợi ích là tập hợp những người cùng chí
hướng, cùng mưu cầu một lợi ích, với phương thức hoạt động chủ yếu là tìm cách
tác động lên chính quyền (nghị viện, chính phủ, các chính quyền địa phương) hoặc
khai thác sự đa nghĩa trong một số điều khoản luật để giành lấy mục đích.
Cách hiểu như trên được coi là cách hiểu kinh điển về nhóm lợi ích ở các xã
hội Âu - Mỹ, nơi nó được sinh ra và hoạt động trên một nền tảng luật pháp ổn định.
Tuy nhiên, 20 năm trở lại đây, cách hiểu về nhóm lợi ích có sự thay đổi và
thiên về mục đích kinh tế. Vì vậy, nhóm lợi ích được hiểu theo nghĩa tiêu cực, xuất
hiện cả cách hiểu mang màu sắc mafia, nhất là ở những nền kinh tế đang chuyển
đổi, đang phát triển, đang cải cách nhưng thiếu đồng bộ. Nhóm lợi ích ở đây được
hình thành trên cơ sở các liên minh bất hợp pháp. Đó là các liên minh dọc, liên
minh ngang và liên minh lập thể để tạo nên các lợi ích theo chiều hướng tiêu cực.
Liên minh dọc là sự tập hợp cho mục đích lợi ích theo hệ thống ngành. Và như
vậy, liên minh ngang - đa ngành hoặc theo phạm vi địa phương lãnh thổ, liên minh
diện (liên minh lập thể) - bao gồm cả hai.
Với tất cả các nhóm lợi ích kiểu này, không thể thiếu các quan chức nhà nước,
nếu không muốn nói họ chiếm số đông và là "những người sáng lập". Đặc biệt, các
nhóm lợi ích này không bao giờ có tên gọi tự thân và các thành viên của nó không
35
bao giờ thừa nhận sự có mặt. Các nhóm lợi ích như vậy thường xuất hiện nhiều ở
những quốc gia đang phát triển hoặc đang chuyển đổi, với nền tảng chính trị và
pháp lý còn nhiều bất cập.
Tuy nhiên, trong phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận án, nhóm lợi ích
được hiểu theo nghĩa rộng và cả theo chiều hướng tích cực và tiêu cực. Từ đó có thể
hiểu: Nhóm lợi ích là tập hợp người có cùng mục đích, chí hướng, có những vị thế
hoặc sở hữu những điều kiện nguồn lực nhất định, họ có những lợi ích chung từ chí
hướng, mục đích hay vị thế và sở hữu những điều kiện tạo ra những lợi ích đó.
Việc tạo ra lợi ích theo nghĩa tích cực như: Nông dân tham gia vào các hợp tác
xã sẽ có lợi ích từ hợp tác xã cho sự phát triển kinh tế của các hộ nông dân tham
gia; các doanh nghiệp vào các hội nghề để nhận được các lợi ích do hội mang lại.
Những người có sở thích chung về du lịch, về thưởng ngoạn cảnh đẹp tự nhiên, nuôi
thú cưng…tập hợp thành nhóm sở thích… Việc tạo ra các lợi ích theo nghĩa tiêu
cực như: Các nhóm lợi ích sẽ thu được lợi ích của đội ngũ công quyền bằng quyền
hạn trong tay, bằng tác động lên các quyết định của cấp thẩm quyền, bằng giải thích
có lợi dựa trên những kẽ hở luật pháp, bằng tiền hoặc sử dụng xã hội đen… Ở mức
độ cao, trong phạm vi quốc gia chẳng hạn, nhóm lợi ích có thể tạo ra các dự án, các
đại dự án, thao túng thị trường, thao túng mặt bằng giá cả, thao túng các hiệp định
hợp tác với nước ngoài, và thậm chí, thao túng chính trường. Ví dụ: Xăng dầu hiện
đang là mặt hàng chiến lược tại hầu hết các quốc gia. Tình trạng trồi sụt liên tục trên
thị trường quốc tế, dẫn đến sự lúng túng giữa thả nổi theo thị trường hay quản lý giá
cả của nó trong phạm vi nội địa. Nhiều nước chọn cách thứ hai. Ở cách này, quyền
hạn điều chỉnh giá không chỉ liên quan đến một bộ, một ngành, nếu thiếu các biện
pháp chế tài hữu hiệu thì rất dễ dẫn đến việc hình thành nhóm lợi ích theo kiểu liên
minh lập thể. Trong trường hợp như vậy, nhóm lợi ích sẽ tìm "lợi ích" ở việc duy trì
mức giá cao càng lâu càng tốt.
Lợi ích mà nhóm thu về nhằm vào các tình huống "nhạy cảm", như những đợt
chuẩn bị tăng giá. Xăng dầu sẽ một mặt được hạn chế bán ra thị trường, một mặt
được nhóm này mua vào tích trữ trong các kho nổi, kho chìm trên đất liền, trên mặt
36
sông, mặt biển và thậm chí, cả những kho ảo trên sổ sách kế toán, trước khi công bố
mặt bằng giá mới. Trong tình huống này, lợi ích thu về là do vị thế tạo nên các thủ
thuật của các tổ chức kinh doanh xăng dầu do lợi dụng cơ chế mang lại.
Đối với đất đai, tùy theo mức độ của chế độ sở hữu nhóm lợi ích có thể được
hình thành từ chế độ sở hữu theo quy định của luật pháp hay từ địa vị của những
người thuộc bộ máy công quyền, của những người do bộ máy công quyền ưu ái hay
liên minh lại để lợi dụng các chính sách do bộ máy công quyền ban hành để mưu
cầu lợi ích.
- Lợi ích nhóm: Theo nghĩa thông thường, lợi ích nhóm được hiểu là lợi ích
của nhóm người; theo nghĩa cổ điển lợi ích này có được nhờ tìm cách tác động lên
chính quyền (trung ương hoặc địa phương) hoặc khai thác sự đa nghĩa trong một số
điều khoản luật để giành lấy mục đích và theo nghĩa hiện đại và theo tác giả luận án
là những lợi ích được hình thành cho nhóm người dựa trên các cơ sở về vị thế xã
hội, sở hữu nguồn lực hay do triển khai các giải pháp để đạt mục tiêu, chí hướng đã
2.2.1.2. Phân loại nhóm lợi ích và lợi ích nhóm
xác định chung.
Như vậy, nhóm lợi ích và lợi ích nhóm có 2 phạm vi theo nghĩa hẹp và nghĩa
rộng. Luận án nghiên cứu theo nghĩa rộng, vì vậy sự phân loại theo nghĩa rộng của
nhóm lợi ích và lợi ích nhóm được biểu hiện như sau:
- Phân loại nhóm lợi ích:
+ Phân theo quy mô: Nhóm lợi ích có thể được phân thành các cấp độ: tập thể,
quốc gia và liên quốc gia.
Nhóm lợi ích tập thể là lợi ích chung của một nhóm người, lợi ích đó có thể là
một chủ thể kinh tế xã hội như: hộ nông dân, doanh nghiệp, hội nghề, hội sở thích,
các tổ chức xã hội dân sự. Trong phạm vi tập thể, lợi ích có thể được xem xét theo
phạm vi loại lợi ích được thể hiện ở lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần.
37
Nhóm lợi ích quốc gia là nhóm lợi ích được xác lập theo phạm vi từng quốc
gia. Xét trên phạm vi này lợi ích thường biểu hiện ở lợi ích kinh tế, lợi ích về an
ninh, chính trị về vị thế trên trường quốc tế…
Nhóm lợi ích liên quốc gia là nhóm lợi ích được xác lập theo nhóm các quốc
gia, thường là các quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế G7, G8, EU, WTO
hay các nước nằm trong một vùng lãnh thổ (ASEAN…). Lợi ích các nước liên quốc
gia được hình thành khi các quốc gia này liên kết với nhau thành một tổ chức kinh
tế, chính trị nào đó.
+ Theo vai trò trong điều tiết lợi ích: Nhóm lợi ích được phân thành 2 nhóm,
nhóm điều tiết lợi ích và nhóm chịu sự điều tiết lợi ích.
Nhóm điều tiết lợi ích là nhóm của những người có vị thế xã hội (nắm quyền
quản lý tập thể, quốc gia, liên quốc gia), sở hữu các nguồn lực… Sự điều tiết lợi ích
của nhóm được xác lập bởi vị thế xã hội của các thành viên trong nhóm do quy định
của các định chế xã hội (lợi ích này có thể là chính đáng do pháp luật quy định, có
thể do sự lợi dụng vị thế do sự yếu kém của hệ thống luật pháp mang lại) hay quyền
sở hữu các nguồn lực (đất đai, vốn, nguồn lao động…)…
Nhóm chịu sự điều tiết lợi ích thường là nhóm của những người không có
hoặc có ít vị thế trong xã hội, không nắm quyền sở hữu các nguồn lực của xã hội,
tập thể… Vì vậy, nhóm này thường là những người chịu sự thiệt thòi về lợi ích xét
theo khía cạnh chung của xã hội. Thậm chí đó là những quốc gia chậm phát triển, có
vị thế kém trên trường quốc tế nên bị thua thiệt trong các quan hệ kinh tế, chính trị
quốc tế.
- Phân loại lợi ích nhóm: Về lợi ích nhóm, có thể phân theo quy mô lợi ích,
theo loại lợi ích (vật chất, tinh thần, trước mắt, lâu dài…). Cụ thể:
+ Phân theo quy mô: Tương ứng với quy mô nhóm, quy mô lợi ích nhóm cũng
phân thành lợi ích của tập thể, lợi ích của quốc gia và lợi ích liên quốc gia.
Lợi ích tập thể là lợi ích của một nhóm người ở quy mô tập thể, theo đó lợi ích
được thiết lập theo mục đích và cách thức mà tập thể đó hoạt động để đạt được lợi
38
ích chung đó. Ví dụ: những hộ nông dân có nhu cầu hợp tác trong các khâu dịch vụ
liên kết nhau lại thành các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. Để có lợi ích trong hoạt
động, các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp cần xác định các khâu cần thiết, tổ chức
các hoạt động kinh doanh theo mục tiêu vì các hoạt động sản xuất nông nghiệp của
các hộ nông dân tham gia hợp tác…
Lợi ích quốc gia là lợi ích của tập hợp người theo phạm vi quốc gia, lợi ích
quốc gia là lợi ích mà mỗi quốc gia cần phải phấn đấu trong mối quan hệ với các
quốc gia khác, đặc biệt do các thành viên trong mỗi quốc gia phải tuân thủ khi tạo
lập lợi ích cho họ.
Lợi ích liên quốc gia là lợi ích của tập hợp người theo phạm vi nhiều quốc gia,
là lợi ích của các quốc gia trong nhóm có được do có chung những hoạt động,
những ràng buộc về kinh tế, chính trị, xã hội.
+ Phân theo loại lợi ích: Lợi ích là phạm trù biểu hiện chung được thể hiện
theo các dạng cụ thể, căn cứ vào những tiêu chí khác nhau người ta có thể phân
thành các loại khác nhau.
* Căn cứ vào tính chất của loại lợi ích có thể phân thành: lợi ích vật chất, lợi
ích tinh thần. Lợi ích vật chất là lợi ích nhóm có được là các yếu tố vật chất, được
biểu hiện bằng tiền, nguồn lực, hay các kết quả sản xuất. Lợi ích tinh thần là lợi ích
nhóm có được là các yếu tố tinh thần, được biểu hiện bằng sự ghi danh của xã hội;
sự thỏa mãn về mặt tinh thần cho các thành viên thuộc nhóm.
* Căn cứ vào thời gian tồn tại của lợi ích có thể phân thành lợi ích trước mắt,
lợi ích lâu dài. Lợi ích trước mắt là lợi ích các thành viên của nhóm có được ngay
sau một hoạt động nào đó, hoặc thời gian tồn tại của nó ngắn (thường gắn với lợi
ích tinh thần, như sự thỏa mãn có được sau khi xem một buổi hòa nhạc, vở kịnh…).
Lợi ích lâu dài là lợi ích các thành viên của nhóm có được sau nhiều hoạt động diễn
ra với thời gian dài, hoặc sự duy trì lợi ích đó diễn ra trong thời gian dài.
Những vấn đề nhóm lợi ích và lợi ích nhóm trên đây là những vấn đề có tính
nguyên lý chung. Nó được thể hiện trong các vấn đề cụ thể theo một khía cạnh nào đó
39
của nhóm lợi ích và lợi ích nhóm vừa tuân thủ các nguyên lý chung đó, vừa biểu hiện
những vấn đề mang tính đặc thù. Với ý nghĩa đó, các vấn đề trên được coi như là
khung phân tích của mối quan hệ giữa chuyển đổi mục đích nông nghiệp với lợi ích
nhóm xét trên phạm vi quốc gia và mỗi địa phương cụ thể.
Việc giải quyết hài hòa lợi ích của các nhóm lợi ích trong chuyển đổi mục đích
sử dụng đất nông nghiệp là hết sức cần thiết và quan trọng. Lý do là rằng, khi các
nhóm lợi ích đạt được sự hài hòa, điều đó thúc đẩy sự ổn định xã hội và chính trị. Kết
quả hài hòa lợi ích giữa các nhóm cũng tạo ra sự đồng thuận trong lợi ích giữa các
2.2.2. Mối quan hệ giữa chuyển đổi mục đích ĐNN với lợi ích nhóm
nhóm và giúp cho xã hội phát triển và phát triển bền vững.
Nghiên cứu nhóm lợi ích và lợi ích nhóm trong chuyển đổi mục đích ĐNN là
nghiên cứu sự thay đổi về lợi ích của các nhóm có liên quan trong mối quan hệ với
sự thay đổi về sở hữu và sử dụng ĐNN, một nguồn lực đặc biệt của xã hội. Sự
2.2.2.1. Sự thay đổi chủ thể sử dụng đất khi chuyển đổi MĐSD đất và sự thay
đổi lợi ích nhóm
nghiên cứu đó dựa trên các cơ sở của các vấn đề nghiên cứu sau:
- Chủ thể sở hữu và sử dụng ĐNN: Lịch sử biến đổi các quan hệ đất đai cho
thấy, ĐNN có thể thay đổi quyền sở hữu theo các chủ thể khác nhau. Nhưng, quyền
sử dụng ĐNN luôn thuộc về những người trực tiếp hoạt động nông nghiệp trên đất.
Đó là các chủ thể như: Hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
nhà nước…, trong số đó hộ nông dân, các trang trại là các chủ thể chủ yếu. Chuyển
đổi MĐSD ĐNN trong các chủ thể trên thường diễn ra và diễn ra với quy mô khác
nhau. Tuy nhiên, đó là những sự chuyển đổi trong nội bộ các chủ thể và thường là
sự thay đổi MĐSD ĐNN dưới dạng chuyển đổi cây trồng, vật nuôi; thay thế cây
trồng không phù hợp bằng cây trồng vật nuôi phù hợp hơn; những cây trồng vật
nuôi kém hiệu quả bằng những loại có hiệu quả cao hơn. Phần chuyển đổi MĐSD
đất từ ĐNN sang đất phi nông nghiệp trong các chủ thể sử dụng ĐNN thường diễn
ra với ĐNN chuyển sang mục đích phục vụ sản xuất nông nghiệp như: ĐNN chuyển
40
sang đất thủy lợi, đất giao thông; từ đất trồng trọt chuyển sang xây dựng các chuồng
trại chăn nuôi. Phần đất chuyển này phần lớn diễn ra ở các trang trại, doanh nghiệp
tư nhân, doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước - những chủ thể có quy mô sử dụng
đất lớn. Phần đất chuyển đổi đó thường sử dụng cho các mục đích phục vụ sản xuất
nông nghiệp trong nội bộ chính chủ thể đó (giao thông, thủy lợi nội đồng…).
+ Đối với hộ nông dân: Việc sở hữu hay sử dụng ĐNN là do chế độ sở hữu ở
từng quốc gia và từng thời điểm quy định. Tuy nhiên đối với ĐNN, hộ nông dân là các
chủ thể sử dụng ĐNN, vì nông dân là những người hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Điểm khác biệt của hộ nông dân so với chủ thể sản xuất nông nghiệp khác là
quy mô sử dụng ĐNN nhỏ, công cụ sản xuất thô sơ, trình độ thâm canh thấp. Vì
vậy, nông dân có quyền sở hữu và sử dụng đất đai hiệu quả thường thấp và việc tích
tụ tập trung ĐNN thường diễn ra thông qua chuyển nhượng, mua bán đất đai hoặc
quyền sử dụng đất đai. Chuyển đổi mục đích ĐNN trong nội bộ ngành nông nghiệp
thường diễn ra sau những hoạt động chuyển nhượng và mua bán này.
+ Đối với các trang trại: Những tính chất về quyền sở hữu hay sử dụng ĐNN
không có nhiều sự khác biệt giữa các hộ nông dân. Sự khác biệt chủ yếu là ở quy
mô, trình độ sử dụng ĐNN ở mức độ cao hơn. Vì vậy, hiệu quả sử dụng ĐNN của
trang trại cao hơn nhiều so với hộ nông dân ở trạng thái tự cấp, tự túc hay sản xuất
hàng hóa nhỏ.
Chuyển đổi MĐSD ĐNN theo hướng chuyển đổi cây trồng, vật nuôi là hoạt
động phổ biến của các trang trại theo yêu cầu của thị trường và quá trình phát triển
của trang trại.
+ Đối với các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực
nông nghiệp: Tính chất về quyền sở hữu và sử dụng ĐNN được bộc lộ đối với
những doanh nghiệp có hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhất là hoạt động trồng
trọt. Cũng giống như trang trại, quy mô sử dụng ĐNN, tính chất sản xuất hàng hóa
trong sử dụng ĐNN cao hơn nhiều so với kinh tế hộ nông dân. Ở đây cũng xuất hiện
nhiều yếu tố khách quan về sự cần thiết phải chuyển đổi MĐSD đất theo hướng
41
chuyển đổi cây trồng mục tiêu. Tuy nhiên tùy theo dạng mô hình tổ chức, hiệu quả
sử dụng ĐNN của các mô hình thổ chức sản xuất này khác nhau. Thường các doanh
nghiệp nông nghiệp nhà nước, nhất là ở các nước theo mô hình kế hoạch hóa tập
trung sử dụng đất kém hiệu quả. Các doanh nghiệp nông nghiệp tư nhân hoặc cổ
phần có những cơ sở để tổ chức sử dụng đất, tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu
quả hơn.
- Chủ thể sử dụng ĐNN chuyển đổi mục đích: Phần ĐNN chuyển đổi mục đích
trong nội bộ các chủ thể nông nghiệp thường không làm thay đổi chủ thể sử dụng đất.
Đối với chuyển đổi mục đích từ sản xuất nông nghiệp sang mục đích phi nông
nghiệp phục vụ lợi ích chung; nhất là những chuyển đổi với quy mô diện tích lớn,
xây dựng các công trình có tính chất quốc gia, các hoạt động phi nông nghiệp quy
mô lớn việc thay đổi chủ thể sử dụng ĐNN chuyển đổi là tất yếu. Bởi vì, việc
chuyển đổi đó diễn ra ở phần đất của nhiều chủ thể nông nghiệp, thậm chí cả phần
đất dân cư và các mục đích phi nông nghiệp khác.
Đặc biệt, khi MĐSD thay đổi việc tổ chức khai thác ĐNN vào các mục đích
sau chuyển đổi cũng có chủ thể mới. Hoạt động chuyển đổi mục đích có nhiều nội
dung, trong đó thu hồi đất là một trong các nội dung chủ yếu. Trong bối cảnh đó
Nhà nước với tư cách là chủ thể ban đầu có vai trò rất quan trọng. Tùy theo tính
chất và quy mô của hoạt động chuyển đổi, các chủ thể sử dụng đất được xác lập.
Điểm đặc biệt là ĐNN sau khi chuyển sang mục đích phi nông nghiệp đã có sự
thay đổi trên nhiều mặt. Từ chức năng trực tiếp tạo ra các sản phẩm nông nghiệp,
ĐNN trở thành đất phi nông nghiệp và có chức năng là chỗ dựa, địa điểm để xây
dựng các công trình thực hiện các chức năng mà đất chuyển đổi. Vì vậy, việc quản
lý ĐNN đã chuyển sang quản lý các công trình trên đất và các chủ thể sử dụng đất
sau chuyển đổi chính là các chủ thể sử dụng các công trình trên đất như: Ban quản
lý các dự án công nghiệp, dịch vụ hay đô thị mới, ban quản lý các công trình giao
thông, thủy lợi, giáo dục, y tế…
42
Sự thay đổi chủ thể sử dụng đất là cơ sở pháp lý cho sự biến đổi lợi ích
nhóm… Bởi vì, lợi ích sẽ có được trong quá trình sử dụng đất nói chung, ĐNN nói
riêng. Lợi ích đó thuộc về ai phần lớn do luật pháp quy định gắn với chế độ sở hữu
và sử dụng đất. Nói cách khác, lợi ích sinh ra từ đất sẽ do nhà nước phân phối và ai
là người sở hữu và sử dụng đất người đó sẽ được hưởng phần lợi ích từ đất mang
lại; đặc biệt là phần lợi ích tăng thêm từ đất sau khi chuyển đổi MĐSD.
Trong nghiên cứu này, việc chuyển đổi MĐSD ĐNN làm thay đổi chủ thể sở
hữu và sử dụng đất với các nhóm lợi ích như sau. Theo hiến pháp của Việt Nam thì
đất đai là sở hữu toàn dân và Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu nguồn lực này,
do vậy, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp về mặt luật pháp không
làm thay đổi chủ sở hữu vì Nhà nước vẫn là người sở hữu. Tuy nhiên, chủ sử dụng
đất ở Việt Nam, theo luật định, có đầy đủ các quyền mua bán, chuyển nhượng, cho
tặng, cầm cố và góp vốn và do vậy có thể nói họ gần như có đầy đủ quyền giống
như quyền sở hữu đất. Nhưng quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN làm thay đổi chủ
sử dụng đất từ người nông dân sang chủ đầu tư vào các dự án thu hồi đất. Sự thay
đổi chủ thể sở hữu này sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự thay đỏi lợi ích của
nhóm các nhà đầu tư bởi vì họ sẽ có quyền sử dụng và thu lợi ích từ việc sử dụng
đất được thu hồi. Trong khi đó, nhóm lợi ích là người nông dân bị thu hồi đất sẽ mất
quyền sử dụng đất và do vậy sẽ mất đi những lợi ích gắn liền với đất như đã từng có
2.2.2.2. Sự biến đổi giá trị gia tăng đối với ĐNN sau khi chuyển đổi mục đích
và tác động đến các nhóm lợi ích
với họ trước khi thu hồi đất.
Về MĐSD, nhất là ở nền kinh tế thị trường việc chuyển đổi MĐSD ĐNN là
tăng thêm giá trị khi sử dụng đất và phục vụ những nhu cầu thay đổi của xã hội. Vì
vậy, trong hầu hết các hoạt động chuyển đổi MĐSD đất, giá trị của sử dụng ĐNN
có sự thay đổi theo chiều hướng tăng hay làm gia tăng giá trị sử dụng đất.
+ Sự biến đổi gia tăng của quá trình sử dụng đất đai, trong đó có chuyển đổi
MĐSD đất khi sử dụng bắt nguồn từ những cơ sở khoa học sau:
43
Một là, xét về nguồn gốc ra đời của đất: Đất đai do tự nhiên tạo ra và có trước
con người. Xem xét dưới khía cạnh này, đất đai không phải là sản phẩm kết tinh sức
lao động của con người. Vì vậy, đất đai được xác định là tài nguyên thiên nhiên.
Nghiên cứu dưới góc độ kinh tế học, giá trị ban đầu của đất được tạo ra bởi tự
nhiên, trong đất chứa đựng các yếu tố tự nhiên con người có thể khai thác để tạo ra
của cải vật chất, trước hết là các nông sản và người ta gọi đó là độ phì nhiêu tự
nhiên của đất. Đối với những đất đai ở các vùng khác nhau, do được phân bố ở
những vị trí khác nhau, với độ phì nhiêu khác nhau và điều kiện khai thác các độ
phì đó khác nhau đã tạo ra sự chênh lệch về giá trị của đất và kinh tế học gọi đây là
sự chênh lệch địa tô.
Hai là về sử dụng đất, quá trình quản lý và sử dụng đất, con người tác động
vào đất làm tăng thêm giá trị. Sự tác động của con người vào đất đai được thực hiện
từ hai phía: Nhà nước và người sử dụng đất.
Nhà nước tác động vào đất đai và làm tăng giá trị của đất đai thông qua các
phương thức sau đây: (1) Nhà nước quyết định MĐSD đất thông qua việc quyết
định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. (2) Nhà nước đầu tư vào đất đai
làm tăng thêm giá trị của đất đai. Tuy nhiên, Nhà nước cũng có thể làm cho giá trị
của đất biến đổi theo chiều ngược lại nếu các quy hoạch, kế hoạch và sự đầu tư của
nhà nước không hợp lý, không phù hợp với đặc tính tự nhiên và MĐSD đất.
Người sử dụng đất đã đầu tư tiền vốn, sức lao động và áp dụng các thành tựu
khoa học, công nghệ … vào việc khai hoang, phục hóa, phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc; bồi bổ, cải tạo nâng cao chất lượng và khả năng sinh lợi của đất đai.
Sự tác động của người sử dụng đất vào đất làm tăng thêm chất lượng đất đai,
cải biến các yếu tố tự nhiên tiềm tàng của đất chuyển hóa thành các chất mà cây
trồng, vật nuôi có thể khai thác được. Trong quá trình đó, độ phì nhiêu tự nhiên đã
được chuyển hóa thành độ phì nhiêu kinh tế, quá trình bổ sung thêm các yếu tố cho
đất là quá trình tạo lập độ phì nhiêu nhân tạo. Đây là nguồn gốc tạo sự gia tăng về
kết quả kinh doanh trên đất và nhờ đó giá trị tăng thêm của đất được tái lập.
44
+ Về cơ sở của phân phối giá trị gia tăng sau chuyển đổi MĐSD đất.
Như trên đã phân tích, giá trị gia tăng của quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN
do chính bản thân các yếu tố nội tại của đất, trong quá trình khai thác ĐNN người
sử dụng đất tạo ra và do sự đầu tư thêm các yếu tố vào đất khi sử dụng tạo nên. Vì
vậy xét về nguồn gốc của giá trị gia tăng, ai là người tạo ra giá trị gia tăng của
chuyển đổi MĐSD đất người đó sẽ nhận được lợi ích tạo ra từ quá trình đó. Tuy
nhiên xét dưới góc độ kinh tế chính trị và về sở hữu tài sản, trong trường hợp này là
đất đai, người sở hữu đất đai cũng là người có quyền tham gia vào quá trình phân
phối và họ cũng có thể nhận được lợi ích từ kết quả phân phối do chuyển đổi mục
đích đất đai mang lại.
Như vậy, tham gia vào quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN có các chủ thể sử
dụng ĐNN trước khi chuyển đổi (hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp tư nhân, các
doanh nghiệp và các tổ chức sử dụng ĐNN khác); các chủ thể sử dụng đất sau khi
chuyển đổi. Đó có thể là các chủ thể sử dụng ĐNN nếu là chuyển đổi mục đích
trong nội bộ nông nghiệp. Nhưng, đó cũng có thể là những tổ chức cá nhân quản lý,
sử dụng đất và các công trình trên đất (ban quản lý các khu công nghiệp, các nhà
đầu tư thuê đất công nghiệp, ban quản lý các khu đô thị..). Trong chế độ sở hữu nhà
nước, sở hữu toàn dân về đất đai, đó còn có thể là nhà nước (trung ương hoặc địa
phương) tham gia quản lý nhà nước về đất đai và các công trình trên đất.
Trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp từ nông dân sang các hoạt động phi
nông nghiệp, việc phân phối giá tri gia tăng từ đất thay đổi rất mạnh mẽ. Như đã
phân tích ở trên, ai là người tạo ra giá trị gia tăng cua chuyển đổi MĐSD đất thì
người đó sẽ là người nhận được lợi ích tạo ra từ quá trình đó. Ở Việt Nam, các chủ
đầu tư nhận được một lượng giá trị gia tăng lớn do đất nông nghiệp được chuyển
đổi thành đất phi nông nghiệp, được đầu tư cơ sở hạ tầng và do vậy làm cho giá đất
tăng mạnh. Trong quá trình tăng trưởng dân số và đô thị hóa, giá đất ở đô thị và đất
phi nông nghiệp nói chung lại càng tăng mạnh bởi cung đất là gần như có hạn. Hơn
nữa các chủ đầu tư phải chi phí cho việc đền bù đất cho nông dân là rất thấp do
khung giá đất trong thời gian qua quy định giá đất nông nghiệp rất thấp (S. S. Han
45
& Vu, 2008). Vì các lý do nói trên, chủ đầu tư là người đã tạo ra giá trị gia tăng lớn
từ đất, làm thay đổi mục đích sử dụng đất và họ cũng là người thu được lợi ích lớn
nhất. Trong khi đó, lợi ích trực tiếp của người nông dân từ quá trình này là không có
và họ còn có thể bị chị thua thiệt nếu giá đền bù đất quá thấp so với mức giá thực
2.3. Cơ sở thực tiễn về chuyển đổi mục đích sử dụng đất và tác động của
nó đến các nhóm lợi ích
2.3.1. Tổng quan tình hình chuyển đổi MĐSD đất và tác động tới các nhóm
lợi ích ở Việt Nam
của thị trường.
CNH, HĐH ở nước ta cũng chính là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo
hướng phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, cơ cấu lại việc phân bổ dân cư theo
hướng tăng nhanh số lượng dân cư sống ở khu vực thành thị và giảm mạnh số lượng
và tỷ lệ dân cư sống ở khu vực nông thôn.
Để làm được công việc ấy, tất yếu là phải phân bổ lại các nguồn lực phát
triển nền kinh tế, trong đó trước hết là nguồn nhân lực, đất đai và lao động. Phải
chuyển một bộ phận đất đai, trước hết là ĐNN sang phục vụ cho việc xây dựng các
khu công nghiệp, khu chế xuất, cho việc mở rộng các khu đô thị cũ và xây dựng các
khu đô thị mới, cũng như cho việc xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và
các công trình công cộng phục vụ lợi ích của cộng đồng và quốc gia. Hiện nay, nền
kinh tế nước ta đang ở giai đoạn đẩy mạnh của quá trình CNH, HĐH. Đô thị hoá ở
nước ta cũng đang diễn ra đồng thời cả hai quá trình: ĐTH theo chiều rộng và ĐTH
theo chiều sâu. Trong những năm gần đây và cho đến năm 2020, khi nền kinh tế nước
ta cơ bản trở thành một nền kinh tế công nghiệp - ĐTH ở nước ta đã và sẽ tiếp tục
diễn ra với quy mô lớn theo chiều rộng. Một bộ phận đất đai, mà chủ yếu là ĐNN sẽ
được thu hồi, chuyển đổi MĐSD để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị và kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đồng thời phải chuyển một bộ phận quan trọng lực lượng
lao động của khu vực nông nghiệp là khu vực có năng suất lao động thấp, sang khu
vực công nghiệp và dịch vụ là những khu vực có năng suất lao động cao hơn.
46
Việc thu hồi ĐNN để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia ở nước ta được
tiến hành mạnh mẽ từ khi chúng ta thực hiện đường lối đổi mới, chuyển nền kinh tế
nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình này được thúc đẩy nhanh hơn từ những năm 1990, khi nền kinh tế
nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH. Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác
định rõ: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo nền tảng để đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại (Đảng cộng sản Việt Nam,
2001, 89).
Cùng với CNH, HĐH nền kinh tế, nhiệm vụ xây dựng đồng bộ và từng bước
hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao thông, điện lực, thông tin, thuỷ lợi, cấp
nước, thoát nước.v.v. được đặt ra một cách cấp thiết. Tiến trình CNH, HĐH ở nước
ta từ những năm 1990 được gắn liền với đô thị hoá cả về chiều rộng và chiều sâu.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 10 năm (2001 - 2010) đã nêu
rõ: phát triển mạng lưới đô thị phân bổ hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các
thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Chiến lược phát triển đô thị
Việt Nam thời kỳ 1996 - 2020 xác định mục tiêu phát triển đô thị cả nước đến năm
2020 là:
Xây dựng tương đối hoàn chỉnh đô thị cả nước, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội và kỹ thuật hiện đại, có môi trường đô thị trong sạch, được phân bổ và phát triển
hợp lý trên địa bàn cả nước…, phấn đấu đến năm 2020, dân số đô thị chiếm khoảng
45% dân số cả nước (Đảng cộng sản Việt Nam, 2001, 91).
Thực hiện chủ trương trên, từ những năm 1990, quá trình thu hồi đất để phát
triển và xây dựng mới các đô thị, xây dựng các khu công nghiệp và kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội ở nước ta đã diễn ra rất mạnh mẽ.
Năm 1996, cả nước có tổng diện tích 33.104.200 ha, trong đó ĐNN là
8.104.241 ha, đất lâm nghiệp 10.935.362 ha, đất chuyên dùng 1.301.782 ha, đất ở
47
439.670 ha và đất chưa sử dụng 12.604.100 ha. Đến năm 2011 cả nước có 10.126.100
ha ĐNN, 15.366.500 ha đất lâm nghiệp có rừng, 1.823.800 ha đất chuyên dùng,
683.000 ha đất ở, 3.164.300 ha đất chưa sử dụng (Tổng cục thống kê, 2012, 1).
Như vậy, đất chuyên dùng năm 2011 so với năm 1996 tăng lên khoảng
522.018 ha, bình quân mỗi năm tăng 32.626 ha. Đất chuyên dùng tăng lên chủ yếu
do xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia. Trong đó sự biến động mạnh
vào những năm 1990-2003, nhất là những năm 2001-2005. Trong 13 năm, từ năm
1990 đến năm 2003, nhà nước đã thu hồi 697.410 ha đất phục vụ cho việc xây dựng
các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu
công cộng và lợi ích quốc gia. Trong đó, đất dành cho xây dựng là 70.248 ha, đất
giao thông là 250.494 ha, đất cho thuỷ lợi là 242.388 ha. Riêng giai đoạn từ 2001
đến năm 2003, tổng diện tích đất thu hồi là 153.979 ha, trong đó đất chuyên dùng là
136.757 ha, đất ở là 17.222 ha. Điều đáng chú ý là, diện tích đất thu hồi phục vụ cho
xây dựng của 3 năm này lớn hơn so với 10 năm trước đó. Còn đối với đất ở thì diện
tích đất ở thuộc khu vực đô thị tăng nhanh hơn đất ở của khu vực nông thôn (Đại
học Kinh tế quốc dân, 2005, 36).
Tuy nhiên, việc thu hồi đất không diễn ra đồng đều ở các vùng, miền và ở 64
tỉnh, thành phố của cả nước mà chỉ tập trung ở một số vùng, một số địa phương có
điều kiện thuận lợi, nhất là gần các sân bay, bến cảng, các đầu mối giao thông
đường sắt và đường bộ, gần các trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Các vùng có đất
thu hồi nhiều nhất là vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ.
Cho đến nay, các tỉnh, thành phố sau đây là có đất bị thu hồi nhiều nhất là:
Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Bắc Ninh, Hưng
Yên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Bình
Dương, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa -Vũng Tàu, Long An, Đồng
Tháp và Cần Thơ. ĐNN cũng tăng lên, nhưng do đất chưa sử dụng được cải tạo
chuyển thành. Trong bối cảnh trên, ĐNN có chất lượng tốt, gần đô thị chuyển sang
48
mục đích phi nông nghiệp. Thay vào đó là đất có khả năng nông nghiệp bổ sung vào
ĐNN, vì vậy chất lượng ĐNN có xu hướng giảm sút.
Những năm gần đây do sự trầm lắng của thị trường bất động sản, tác động tiêu
cực của khủng hoảng tài chính nên sức dấp dẫn vào các khu công nghiệp, đô thị
kém, nhất là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến an ninh lương thực nên xu hướng
chuyển đổi MĐSD ĐNN ở một số địa phương theo xu thế ngược lại. Một số đất quy
hoạch xây dựng các khu công nghiệp đã thu hồi đất, thậm chí bước đầu xây dựng hạ
tầng đã chuyển lại mục đích nông nghiệp. Đặc biệt, Chính phủ đã xây dựng Quy
hoạch diện tích trồng lúa đến năm 2020 và được Quốc hội phê chuẩn.
Theo quy hoạch ĐNN của cả nước đến năm 2020 là 26.732 nghìn ha, giai
đoạn 2011-2015 là 26.550 nghìn ha. Trong số này, đất trồng lúa được quy hoạch
giai đoạn 2011-2015 là 3.951 nghìn ha, đến 2020 là 3.812 nghìn ha; quy hoạch đất
rừng phòng hộ giai đoạn 2011-2015 là 5.826 nghìn ha, đến năm 2020 là 5.842 nghìn
ha; quy hoạch đất rừng sản xuất giai đoạn 2011-2015 là 7.917 nghìn ha, đến 2020 là
8.132 nghìn ha; quy hoạch đất rừng đặc dụng giai đoạn 2011-2015 là 2.220 nghìn
ha, đến 2020 là 2.271 nghìn ha…
Đất phi nông nghiệp, đến năm 2020, cả nước có 4.880 nghìn ha, tăng 1.175
nghìn ha so với năm 2010, trong đó đất khu công nghiệp quy hoạch đến năm 2020
là 200 nghìn ha, giai đoạn 2011-2015 là 130 nghìn ha; đất phát triển hạ tầng quy
hoạch đến năm 2020 là 1.578 nghìn ha, giai đoạn 2011-2015 là 1.430 nghìn ha,
trong số này, đất ở tại đô thị được quy hoạch cho giai đoạn 2011-2015 là 179 nghìn
ha, đến năm 2020 là 202 nghìn ha. Đất chưa sử dụng, đến năm 2015 còn 2.097
nghìn ha và năm 2020 còn 1.483 nghìn ha.
Chuyển đổi MĐSD đất là để xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, khu
đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng như: Các khu,
cụm công nghiệp, các khu đô thị; hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội giao thông,
điện, cấp - thoát nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện; các cơ sở kinh
doanh dịch vụ: Khách sạn, nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm dịch
vụ, du lịch; các khu vui chơi giải trí, công viên, cây xanh .v.v. Vì vậy, tác động đầu
49
tiên của quá trình này là tạo nên sức sản xuất và điều kiện sống mới cho xã hội. Lợi
ích xã hội xét trên phương diện này được xác lập.
Tuy nhiên, do chuyển đổi MĐSD ĐNN tập trung ở một số địa phương có tốc
độ ĐTH cao, nên ĐNN chuyển đổi phần lớn là đất tốt, đất ở nơi tập trung đông dân
cư nông nghiệp. Vì vậy, chuyển đổi MĐSD ĐNN sang đất phi nông nghiệp đã dẫn
đến một bộ phận nông dân không đất và thiếu đất sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng
đến thu nhập, đời sống gặp nhiều khó khăn. Mặc dù khi thu hồi đất, nhà nước đã
xác định giá bồi thường và tổ chức bồi thường. Nhưng giá đất thấp, tổ chức bồi
thường bằng tiền, trong khi người nông dân thiếu việc làm ổn định lâu dài. Vì vậy,
việc bồi thường một mặt không phản ánh đúng giá trị phải bồi thường; mặt khác bồi
thường bằng tiền khiến người được bồi thường đa số không sử dụng cho cuộc sống
lâu dài, tập trung xây dựng nhà, mua sắm đồ dùng sinh hoạt đắt tiền. Đời sống nông
dân tăng lên 1-2 năm đầu sau đó rơi vào tình trạng khó khăn, nhiều vấn đề xã hội
2.3.2. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về chuyển đổi
MĐSD ĐNN và điều tiết lợi ích khi chuyển đổi MĐSD đất
2.3.2.1. Kinh nghiệm của tỉnh Vĩnh Phúc
nảy sinh.
Vĩnh Phúc là tỉnh đất chật, người đông, nằm liền kề Thủ đô Hà Nội nên phát
triển của các khu, cụm công nghiệp nhanh chóng và ĐNN càng ngày càng thu hẹp.
Bắc Ninh là tỉnh có nhiều điểm tương đồng với Vĩnh Phúc nên nghiên cứu chuyển
đổi ĐNN của Vĩnh Phúc và xử lý các mối quan hệ lợi ích có thể là những kinh
nghiệm quý cho tỉnh Bắc Ninh.
Trong 5 năm, Vĩnh Phúc đã chuyển đổi MĐSD đất trong nội bộ ngành nông
nghiệp theo hướng vừa đảm bảo an ninh lương thực, chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi; vừa hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng năng
suất, chất lượng, giá trị cao; tỷ trọng trồng trọt giảm, chăn nuôi tăng. Tốc độ tăng
trưởng giá trị sản xuất 2005-2010 đạt 6,2%/năm.
Trong ngành trồng trọt: Cơ cấu cây trồng có sự chuyển dịch theo xu hướng
50
tăng dần diện tích các loại cây có giá trị hàng hóa cao như rau, đậu tương, hoa, cây
cảnh..., giảm dần diện tích khoai lang, sắn. Đã hình thành và ổn định tập quán sản
xuất 3 vụ/năm; đã và đang hình thành vùng sản xuất hàng hóa với một số cây trồng
như rau, hoa, cây ăn quả, cây dược liệu, cây thức ăn gia súc... Đặc biệt với chính
sách đầu tư của tỉnh xây dựng các vùng trồng trọt sản xuất hàng hóa bằng việc hỗ
trợ nông dân 100% giống đến nay đã xây dựng được vùng sản xuất ớt Redchillifi
diện tích 12 ha tại Nông trường Tam Đảo, 21 vùng sản xuất bí đỏ diện tích 346,5
ha, 8 vùng sản xuất dưa chuột diện tích 235 ha, 5 vùng sản xuất cà chua lai diện tích
70 ha, 10 vùng sản xuất bí xanh diện tích 118 ha, 3 vùng sản xuất dưa hấu diện tích
30 ha, 4 vùng sản xuất rau su su 142 ha…. Ngay với cây lúa, 1.320 ha sản xuất lúa
chất lượng cao Hương Thơm số 1 tại địa bàn các huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường,
Yên Lạc, Tam Dương cũng được hình thành.
Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh liên tục đứng ở vị trí tốp đầu về chỉ số năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh trong bảng xếp hạng. Một trong các biểu hiện của chỉ số năng
lực cạnh tranh cao là tạo lập được quỹ đất sạch từ việc chuyển đổi ĐNN cho việc phát
triển các khu, cụm công nghiệp và các khu đô thị. Lấy ví dụ về việc thu hồi đất cho
xây dựng đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đoạn đi qua tỉnh Vĩnh Phúc:
Dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai qua địa phận tỉnh Vĩnh Phúc có tổng
chiều dài 40.826km đi qua 23 xã, phường thuộc 5 huyện, thị; diện tích thu hồi là
304.939 ha của 7.464 hộ. Ngay sau khi nhận bàn giao hồ sơ mốc giới vào tháng
3/2008, UBND tỉnh đã giao Sở Giao thông - Vận tải làm chủ đầu tư tiểu dự án giải
phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh.
UBND tỉnh tổ chức hội nghị với lãnh đạo các sở, ngành, bí thư, chủ tịch các
huyện, thị liên quan và 23 xã để quán triệt, giao nhiệm vụ; yêu cầu việc tổ chức thực
hiện thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng đảm bảo đúng trình tự, thủ tục,
chế độ, chính sách theo quy định; Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động để
nhân dân đồng tình, ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi cho dự án; Thành lập Ban Chỉ
đạo từ tỉnh đến huyện để chỉ đạo công tác giải phóng mặt bằng cho dự án và thành
lập Tổ công tác trực tiếp kiểm tra, đôn đốc, kịp thời giải quyết những vướng mắc
51
phát sinh. Việc thực hiện các chế độ chính sách bồi thường, hỗ trợ công khai, minh
bạch thỏa đáng được đa số nhân dân đồng tình, ủng hộ và tự giác chấp hành.
Mặc dù diện tích giải phóng mặt bằng lớn, song, với sự cố gắng của các cấp,
các ngành và chủ đầu tư tiểu dự án, Vĩnh Phúc là địa phương bàn giao mặt bằng cho
VEC sớm nhất. Năm 2008, tỉnh đã bàn giao đợt đầu và năm 2009 tiếp tục bàn giao
được 95% đất dự án. Ngày 25/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp phát lệnh
khởi công gói thầu A1 tại Vĩnh Phúc.
Đến ngày 7/3/2012, toàn bộ 5 huyện, thị đã ký biên bản bàn giao xong cơ bản
mặt bằng cho VEC với tổng diện tích trong chỉ giới 300ha/305ha, đạt 99%. Tổng dự
toán kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng được phê duyệt 763 tỷ đồng,
giá trị thực hiện 692,030 tỷ đồng.
Với những cách làm năng động và triệt để như trên, Vĩnh Phúc có sự tiến bộ
rất nhanh về xây dựng các khu công nghiệp và thu hút đầu tư, nhất là đầu tư FDI.
Đến tháng 6/2011, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã thu hút 119 dự án FDI, với tổng
số vốn đăng ký khoảng 2,3 tỷ USD, tổng vốn đầu tư thực hiện của các dự án khoảng
960 triệu USD, đạt hơn 41% tổng vốn đầu tư đăng ký. Các nhà đầu tư đến từ 13
quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó chủ yếu là từ Đài Loan (Trung Quốc) với 45 dự
án, vốn đầu tư 1,24 tỷ USD, Nhật Bản với 16 dự án, vốn đầu tư 625 triệu USD, Hàn
Quốc với 37 dự án, vốn đầu tư 223 triệu USD, Singapore với 05 dự án, vốn đầu tư
147,9 triệu USD.
Trong số đó, đầu tư trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp có 93 dự án FDI,
với tổng vốn đầu tư là 1.995,3 triệu USD, chiếm 85,7% tổng vốn đầu tư của các dự
án FDI; đầu tư ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp có 26 dự án FDI, với tổng
vốn đầu tư là 333,9 triệu USD, chiếm 14,3% tổng vốn đầu tư của dự án FDI.
Khu vực kinh tế FDI đã tạo việc làm cho trên 3 vạn lao động trực tiếp trong
các nhà máy, trong đó lao động là người Vĩnh Phúc chiếm trên 60% và chiếm hơn
5% tổng lao động xã hội của tỉnh. Nhờ đó, lao động nhóm ngành nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản so với tổng số lao động giảm nhanh từ 81,4% năm 2001 xuống còn 55,9%
52
năm 2010, lao động nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ tăng
nhanh từ 19,9% năm 2001 lên 44,1% năm 2010.
Theo nghị định 17/2006/ND-CP của chính phủ, người nông dân sẽ được đền
bù dưới dạng các hình thức khác nhau chẳng hạn như đất trồng trọt hoặc tiền mặt.
Trong bối cảnh không còn nhiều đất canh tác sẵn có để đền bù, chính quyền một số
địa phương trong đó có Vĩnh Phúc đã đền bù người dân bằng việc cung cấp một
mảnh đất phù hợp cho việc tiến hành các hoạt động dịch vụ chẳng hạn để mở một
cửa hàng nhỏ hoặc để xây nhà cho thuê. Ví dụ, tại một số địa phương những hộ
nông dân mất 30 phần trăm đất nông nghiệp sẽ được đền bù một lô đất thương mại
gần các khu công nghiệp hoặc nơi dân cư. Chính sách đền bù lấy đất đổi đất đã
được tiến hành thành công ở những địa phương mà nghiên cứu sinh xem xet và điều
2.3.2.2. Kinh nghiệm của tỉnh Hưng Yên
này giúp hộ gia đình nông thôn có điều kiện tốt để thay đổi sinh kế của họ.
Hưng Yên vốn là tỉnh nông nghiệp nằm liền kề với Thủ đô Hà Nội và vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vì vậy, nhu cầu và điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH diễn ra mạnh mẽ. Sự phát triển của các khu công nghiệp và
dịch vụ, các công trình phúc lợi xã hội và lợi ích quốc gia trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên đã sử dụng một lượng ĐNN rất lớn của tỉnh. Quá trình chuyển đổi mục đích
nông nghiệp cũng diễn ra theo 2 hướng: (1) Chuyển đổi mục đích trong nội bộ
ngành nông nghiệp theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo yêu cầu
của thị trường và nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả kinh doanh đối với nông
dân. (2) Chuyển từ ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp.
Đối với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi: Sau 16 năm tái lập tỉnh, nông
nghiệp liên tục được mùa, phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, phát
triển nhanh cây, con có giá trị kinh tế cao. Giá trị sản xuất tăng bình quân
3,5%/năm. Cơ cấu chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng giá trị cây lương thực,
tăng nhanh giá trị cây công nghiệp, rau quả và chăn nuôi.
Cơ cấu trong nông nghiệp năm 2012: cây lương thực 24% - cây công nghiệp,
53
rau quả 30% - chăn nuôi, thủy sản 46%, giữ ổn định lương thực bình quân
450kg/đầu người/năm; cây vụ đông đạt 29% diện tích canh tác, phát triển được gần
4.000 trang trại, gia trại, trong đó có 2.500 trang trại đạt tiêu chí liên Bộ hoạt động
có hiệu quả, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Diện tích lúa chất lượng cao đạt 45%. Chương trình “nạc hóa” đàn lợn, “sinh
hóa” đàn bò, nuôi bò sữa, nuôi cá rô phi đơn tính, sản xuất giống lúa, rau quả chất
lượng cao có hiệu quả thiết thực. Hưng Yên là một trong hai tỉnh trên toàn quốc
sớm thực hiện miễn thủy lợi phí cho nông dân; thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ để
nông nghiệp, nông thôn đẩy mạnh sản xuất; nhiều nghề truyền thống và các loại
hình dịch vụ trong nông thôn được khuyến khích phát triển.
Đối với chuyển đổi MĐSD ĐNN sang phi nông nghiệp: Tính đến 31/5/2012,
tỉnh Hưng Yên đã có 4 khu công nghiệp đi vào hoạt động với kết quả bước đầu
tương đối khả quan. Tỉnh Hưng Yên đã thu hút được 907 dự án đầu tư, gồm 703 dự
án đầu tư trong nước và 204 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng vốn đăng ký
là 47.700 tỷ đồng và 1.440 triệu đô la Mỹ; tạo việc làm thường xuyên cho trên
85.000 lao động từ 545 dự án đã đi vào hoạt động.
Thương mại, dịch vụ có bước phát triển mới, tăng trưởng bình quân đạt
15%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân
21,14%/ năm. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông,
vận tải hàng hóa, hành khách được phát triển, doanh thu tăng bình quân 18%/năm.
Xuất khẩu duy trì tốc độ tăng cao, bình quân 19,3%/năm. Năm 2010, kim ngạch
xuất khẩu ước đạt 500 triệu USD. Giá trị xuất khẩu hàng nông sản và chế biến ngày
càng tăng. Thị trường xuất khẩu ngày càng được củng cố và mở rộng.
Kết cấu hạ tầng được đầu tư nâng cấp nhanh, khá đồng bộ, góp phần nâng cao
hiệu quả sản xuất, phát huy lợi thế từng vùng, từng ngành. Trong thời gian qua đã
trải nhựa 100% đường tỉnh và cơ bản đường huyện; xây dựng được 1.600 km đường
giao thông nông thôn và 56 cầu; phê duyệt xong quy hoạch thủy lợi, xây mới 16
trạm bơm; cải tạo nâng cấp cơ bản hệ thống kênh mương, nâng cao hiệu quả tưới
54
tiêu. Một số công trình trọng điểm có ý nghĩa kinh tế - xã hội được đầu tư và hoàn
thành như cầu Yên Lệnh, đường Nguyễn Văn Linh, Quảng trường…
Tuy nhiên, việc thu hồi ĐNN để xây dựng đô thị, cụ thể là Dự án khu đô thị
nhà vườn Ecopark ở Văn Giang đã có những hoạt động ảnh hưởng đến lợi ích
của nông dân như: không công khai sớm thông tin (bà con nông dân Văn Giang
nói chính quyền đã biết có dự án từ năm 2003 nhưng năm 2006 người dân mới
biết (Đặng Hùng Võ, 2012, 1). Khi người dân biết, dự án có tốc độ thu hồi đất
nhanh, có sử dụng các biện pháp cưỡng chế.
Tuy nhiên, theo luật sư Trần Vũ Hải (trong buổi đối thoại với Giáo sư Đặng
Hùng Võ ngày 8/11/2012 với nông dân Văn Giang) cho rằng tờ trình của giáo sư
Đặng Hùng Võ để thu hồi đất nhanh đã làm người dân Văn Giang mất đất trong
khi đường thì chưa có, chủ đầu tư thì lại đã xây dựng cơ sở hạ tầng và bán lấy
2.3.2.3. Kinh nghiệm của Thành phố Đà Nẵng
lãi, còn lại người dân chưa được hưởng lợi gì.
Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương được thành lập ngày 6-11-1996.
Thành phố Đà Nẵng có 6 quận nội thành, 1 huyện ngoại thành và 1 huyện đảo Hoàng Sa với tổng diện tích 1.255,53 km2, dân số 904.919 người (số liệu ước tính năm
2011). Tuy nhiên, Đà Nẵng được coi là thành phố năng động trong phát triển kinh tế
xã hội, trong đó có chuyển đổi MĐSD đất, nhất là ĐNN đô thị để có tốc độ CNH,
HĐH nông thôn lớn. Vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm của Đà Nẵng có thể rút ra được
những điều bổ ích về chuyển đổi MĐSD ĐNN, nhất là xử lý các mối quan hệ lợi ích
trong quá trình chuyển đổi cho các địa phương khác, trong đó có Bắc Ninh.
Theo đánh giá của Thanh tra Chính phủ: Trong những năm qua, Đảng bộ, chính
quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã nêu cao tinh thần đoàn kết, khắc phục khó
khăn, phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, quyết tâm đổi mới, dám nghĩ,
dám làm, khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương, huy động nội lực, tranh thủ
nguồn lực bên ngoài, thông qua các chương trình hành động cụ thể với những giải
pháp về đầu tư hạ tầng kỹ thuật xã hội; thực hiện chỉnh trang đô thị theo cơ chế nhà
55
nước và nhân dân cùng làm; cải cách thủ tục hành chính; quy hoạch lại các khu dân
cư, thực hiện các dự án tái định cư để tạo ra quỹ đất sạch kêu gọi đầu tư…Nên trong
thời gian ngắn, thành phố Đà Nẵng đã thu được những kết quả đáng khích lệ, tạo nên
diện mạo mới của Đô thị loại I, có cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ, an sinh xã hội
được cải thiện, quốc phòng an ninh được đảm bảo tốt hơn, từng bước phát huy vai trò
trung tâm trong khu vực miền Trung - Tây Nguyên theo Nghị quyết số 33-NQ/TW
ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị (Nguyễn Phúc Thọ, 2009, 28).
Đà Nẵng đã triển khai quy hoạch đi trước một bước, cơ sở hạ tầng được đầu tư
đồng bộ nên đã được các nhà đầu tư xem Đà Nẵng là điểm đến hấp dẫn… Trên thực
tế, Thành phố có rất nhiều dự án đã, đang triển khai và đưa vào sử dụng… nên đô
thị Thành phố ngày càng khang trang, hiện đại như ngày hôm nay.
Đi cùng với công tác quy hoạch, Thành phố tập trung giải phóng mặt bằng
trên diện rộng để tạo ra thật nhiều quỹ đất tái định cư bố trí cho nhân dân vùng giải
tỏa có cuộc sống tốt hơn nơi ở cũ. Cách làm này tạo được sự đồng thuận, ủng hộ
của mọi tầng lớp nhân dân đối với chủ trương của thành phố. Quỹ đất còn lại theo
quy hoạch, Thành phố đã, đang và sẽ tiếp tục mời gọi đầu tư, tổ chức đấu giá quyền
sử dụng đất theo quy định nhằm tạo nguồn thu để chi cho đầu tư phát triển. Nguồn
quỹ đất dồi dào của Đà Nẵng đã tạo ra giá đất phù hợp, nhân dân được hưởng lợi
các mặt về an sinh xã hội, các nhà đầu tư có điều kiện tiếp cận để đầu tư dự án có
tính khả thi.
Việc đấu giá quyền sử dụng đất đã căn cứ vào các văn bản pháp lý hiện hành.
Việc đấu giá quyền sử dụng đất được các đơn vị công khai trên báo chí, đảm bảo
đúng thời gian và các tiêu chí theo quy định: Địa điểm xây dựng, các chỉ tiêu kiến
trúc quy hoạch, diện tích, đơn giá, MĐSD đất, thời gian, địa điểm đăng ký… để các
nhà đầu tư có thông tin đăng ký đấu giá.
Đà Nẵng sớm triển khai chương trình cải cách thủ tục hành chính, tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư, tổ chức và công dân trong việc liên hệ với cơ quan Nhà
nước khi làm thủ tục nhận đất, nộp tiền sử dụng đất...
56
Đồng thời, do việc đền bù, giải tỏa ở Đà Nẵng thực hiện trên diện rộng, áp lực
về giải quyết bồi thường thiệt hại, tái định cư, quản lý nguồn thu từ đất là rất lớn
nên sau khi có chủ trương giao đất cụ thể bằng văn bản của UBND thành phố,
Thành phố đã giao các đơn vị ký hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất.
Chủ trương này đã thực hiện trong nhiều năm và đạt được nhiều hiệu quả về
tài chính trong giao đất, quản lý thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất, trách nhiệm
giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân được giao đất, mang lại hiệu quả về mặt xã hội
rất lớn và giữ vững môi trường đầu tư. Các tổ chức, cá nhân chỉ liên hệ đến 01 đơn
vị để làm thủ tục từ việc giải tỏa, bồi thường thiệt hại, bàn giao đất, nộp tiền sử
dụng đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... theo quy trình cải cách thủ tục
hành chính hiện hành của thành phố khi giải quyết công việc của nhân dân, tổ chức.
Hàng năm UBND thành phố luôn xây dựng kế hoạch, thực hiện nghiêm túc
pháp luật về Khiếu nại, tố cáo; củng cố, kiện toàn tổ chức tiếp công dân ở tất cả các
cấp, các ngành; tập trung giải quyết tốt các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền; chỉ đạo kiểm tra, rà soát các vụ việc khiếu nại, tố cáo nổi cộm để giải quyết
dứt điểm; duy trì việc kiểm tra, đôn đốc thủ trưởng các cấp, các ngành nhằm chấn
chỉnh kịp thời các hạn chế, thiếu sót, đưa công tác này đi vào nề nếp. Kết quả số
lượng đơn thư, kể cả đơn thư vượt cấp những năm gần đây của Thành phố so với
các tỉnh thành khác không nhiều và có xu hướng giảm, mặc dù số hộ bị thu hồi đất,
đền bù giải tỏa rất lớn.
Tuy nhiên, những năm qua, thành phố Đà Nẵng có tốc độ phát triển đô thị
“nóng” số lượng các dự án đầu tư của khu vực công và tư nhiều, diện tích đất thu hồi
để triển khai các dự án lớn. Cách làm của Đà nẵng có nhiều điểm còn gây tranh cãi về
phương pháp, về hiệu quả tài chính cuối cùng và về hiệu quả xã hội môi trường.
Hiện nay còn những ý kiến chưa đồng thuận giữa UBND Thành phố Đà nẵng
với Thanh tra Chính phủ về phương thức tổ chức đấu giá đất, về vấn đề miễn, giảm
tiền đấu giá quyền sử dụng đất… Nhưng cần khẳng định, Đà Nẵng là địa phương đã
và đang mở ra cách xử lý mối quan hệ lợi ích hài hòa trong chuyển đổi MĐSD đất,
trực tiếp là tổ chức thu hồi đất, đấu giá quyền sử dụng đất và tổ chức tái định cư cho
57
những người có đất bị thu hồi. Vì vậy, Đà Nẵng được coi là nơi “đáng sống” nhất,
có ít khiếu kiện nhất và là một trong các địa phương có môi trường thu hút đầu tư
2.3.2.4. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về
chuyển đổi MĐSD ĐNN và điều tiết lợi ích khi chuyển đổi MĐSD đất
tốt nhất.
Từ nghiên cứu kinh nghiệm chuyển đổi MĐSD ĐNN và điều tiết lợi ích khi
chuyển đổi MĐSD đất tôi đã rút ra một số kết luận mang tính tổng kết, có thể là
bài học kinh nghiệm cho đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh
chuyển đổi MĐSD ĐNN và điều tiết hợp lý lợi ích trong và sau chuyển đổi cho
tỉnh Bắc Ninh như sau:
Một là, để có cơ sở khoa học cho chuyển đổi cần triển khai các quy hoạch
và xây dựng các chương trình, đề án chuyển đổi MĐSD ĐNN kể cả chuyển đổi
trong nội bộ ngành nông nghiệp và từ ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp.
Khi quy hoạch cần dựa trên những luận cứ về địa tô, về biến đổi giá trị gia tăng
của đất sau chuyển đổi và những vấn đề có liên quan để xác định chuyển đổi loại
đất nào, cụ thể ở đâu, chuyển đổi sang mục đích gì và chuyển đổi như thế nào?
Ở các địa phương nghiên cứu, nơi nào làm tốt điều này đất chuyển đổi phù
hợp giữa chủng loại đất với mục tiêu chuyển đổi nên kết quả và hiệu quả cao và
ngược lại. Tình trạng chuyển đất gần đô thị, đất tốt của nông nghiệp sang các
mục đích phi nông nghiệp ảnh hưởng đến an ninh lương thực là những điểm
chưa thành công của hầu hết các địa phương trong cả nước.
Hai là, việc tổ chức chuyển đổi MĐSD đất không thể thiếu vai trò của quản
lý nhà nước đối với đất đai và quá trình chuyển đổi. Vai trò của nhà nước không
chỉ ở triển khai quy hoạch, xây dựng các chương trình, đề án, dự án mà còn ở
quá trình tổ chức thu hồi đất, đấu giá quyền sử dụng đất, tuyên truyền vận động,
thuyết phục người dân trong việc thu hồi đất và bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Nơi nào làm tốt vai trò quản lý nhà nước nơi đó triển khai tốt các hoạt động liên
58
quan đến chuyển đổi MĐSD đất. Vĩnh Phúc và Đà Nẵng là 2 địa phương đã thực
hiện khá tốt vấn đề này.
Ba là, trong các hoạt động chuyển đổi MĐSD đất, vấn đề công khai và
minh bạch các thông tin có vai trò hết sức quan trọng, nhiều khi mang tính quyết
định đến thành công của thu hồi đất. Về vấn đề này kinh nghiệm của Vĩnh Phúc
và Đà Nẵng đã thể hiện rất rõ về phương diện thành công và của Hưng Yên trong
một số trường hợp về sự không thành công trong thu hồi đất.
Bốn là, để giải quyết hài hòa các lợi ích cần giải quyết thực thi đồng bộ các
giải pháp từ xác định giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đến tổ chức đấu giá
quyền sử dụng đất, tạo việc làm, ổn định thu nhập của người có đất bị thu hồi.
2.3.3 Khung phân tích tác động của chuyển đổi đất nông nghiệp tới các
nhóm lợi ích
Nông dân: Được: nếu đền bù thỏa đáng, có việc làm trực tiếp và gián tiếp, có chuyển đổi sinh kế Mất: việc làm và thu nhập nông nghiệp, đền bù thấp
Chủ đầu tư Được: mặt bằng cho sản xuất và kinh doanh, có thể thu chênh lệch lớn giữa giá đất thu hồi và giá sau thu hồi. Mất: có thể lỗ nếu giá đất không tăng, chí phí tăng do chậm trễ trong thu hồi đất do nhiều nguyên nhân
Cộng đồng địa phương Được: đóng góp ngân sách, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo việc làm và thu nhập, hưởng thụ cơ sở hạ tầng tốt hơn, giá đất thổ cư tăng lên Mất: thu hút ít lao động địa phương, phát triển công nghiệp gây ô nhiễm, vấn đề xã hội nảy sinh, mâu thuẫn giữa các nhóm, giữa chủ đầu tư và nông dân.
Về vấn đề này kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng thể hiện rất rõ.
Hình 2.1: Khung phân tích tác động của chuyển đổi đất nông nghiệp
tới các nhóm lợi ích
59
Từ sơ đồ trên đây, mối quan hệ giữa các chủ thể và lợi ích của các nhóm có
thể là xung đột, hài hòa, và cùng phát triển. Lợi ích của người nông dân bị thu hồi
đất NN có thể mâu thuẫn với chủ đầu tư nếu họ bị đền bù đất với giá rất thấp. Trong
trường hợp này, sự thua thiệt của người nông dân chính là phần phần lợi ích tăng
thêm của nhà đầu tư. Tuy nhiên, do bị đền bù thấp, nông dân chống đối quá trình thu
hồi và trong nhiều trường hợp là bạo lực nảy sinh, khiếu kiện kéo dài khiến cho việc
thu hồi đất bị chậm trễ và trong trường hợp này cả đôi bên đều thua thiệt. Lợi ích của
người nông dân có thể như cũ hoặc tăng thêm khi có mức đền bù hợp lý và người
nông dân có việc làm và thu nhập ít nhất là bằng hay tốt hơn trước khi thu hồi đất.
Lợi ích của nhà đầu tư và lợi ích cộng đồng dân cư cũng có thể mâu thuẫn và
hòa hợp nhau. Nhìn chung nếu nhà đầu tư thực hiện đúng các cam kết khi thu hồi
đất ở địa phương cho mục tiêu xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị và cơ sở hạ
tầng để góp phần phát triển kinh tế địa phương, thay vì hành vi thu hồi đất nông
nghiệp cho mục đích đầu cơ. Khi đó lợi ích của doanh nghiệp sẽ hài hòa với lợi ích
cho cộng đồng dân cư địa phương. Ngược lại, nếu nhà đầu tư chỉ mục tiêu đầu cơ
thì lợi ích của họ sẽ trái với lợi ích cộng đồng bởi đất đai bị thu hồi chỉ đơn thuần
làm cho tăng giá, mua đi bán lại, không trực tiếp phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế
địa phương.
Lợi ích của nhà đầu tư và nhà nước cũng hài hòa và có thể mâu thuẫn. Nếu
nhà đầu tư thực hiện đúng cam kết và việc thu hồi đất là phục vụ cho đầu tư phát
triển kinh tế thì lúc đó Nhà nước sẽ được lợi ích từ nguồn thu ngân sách, từ việc
chuyển đổi kết cấu kinh tế xã hội và cơ sỏ hạ tầng địa phương. Nhà nước sẽ giảm tải
được gánh nạng ngân sách cho đầu tư cơ sở hạ tầng trong các trường hợp nhà đầu tư
cam kết phát triển cơ sợ hạ tầng địa phương. Ngược lại, lợi ích của nhà đầu tư có
thể trái ngược với lợi ích của Nhà nước khi họ chỉ là nhà đầu cơ. Nhà nước không
thu được nhiều ngân sách, kinh tế địa phương không phát triển và nếu có tình trạng
cấu kết giữa nhà đầu tư và một số quan chức lợi dụng kẽ hở chính sách để thu hồi
đất với giá đền bù thấp thì lúc đó lợi ích chính trị và xã hội của nhà nước sẽ bị tổn
hại. Cần lưu ý là có nhóm lợi ích là một số chức sắc của nhà nước cấu kết với nhà
60
đầu tư trong quá trình thu hồi đất. Nhóm này trong thực tế có tồn tại nhưng không
dễ xác định và nếu có tình trạng này thì lợi ích của nhà nước, cộng đồng và nông
Kết luận chương 2
dân sẽ bị thua thiệt.
Chuyển đổi MĐSD ĐNN là xu hướng mang tính quy luật. Điều đó bắt nguồn
từ yêu cầu sử dụng đầy đủ, hợp lý và hiệu quả đất nói chung, ĐNN nói riêng và
phát triển kinh tế xã hội theo xu hướng văn minh hiện đại. Để đáp ứng yêu cầu trên,
vấn đề đặt ra là: Chuyển đổi mục đích ĐNN nào, xu hướng chuyển đổi ra sao, nhân
tố nào chi phối mục đích chuyển đổi đó. Đặc biệt, những vấn đề kinh tế xã hội nào
sẽ nảy sinh trong và sau khi chuyển đổi MĐSD đất nói chung, ĐNN nói riêng. Đó
là những vấn đề đã được nghiên cứu trong chương 2 của luận án.
Để chuyển đổi MĐSD ĐNN, cần tổ chức và quản lý tốt quá trình đó, trong đó
chú ý từ quy hoạch sử dụng đất đến xây dựng các luận chứng chuyển đổi, tổ chức
các phương án chuyển đổi.
Về lợi ích nhóm và tác động của chuyển đổi MĐSD đất đến lợi ích nhóm: luận
án cho rằng, lợi ích nhóm xuất hiện đã lâu có quá trình biến đổi về nhận thức và
quan điểm. Tuy nhiên, nó cần được hiểu là lợi ích của nhóm. Nhóm lợi ích là tập
hợp những người có cùng mục đích, chí hướng, có những vị thế hoặc sở hữu những
điều kiện nguồn lực nhất định trước hết là đất đai.
Chuyển đổi MĐSD đất có sự tác động đến lợi ích nhóm, vì nó tạo nên giá trị
gia tăng từ quá trình chuyển đổi đó. Hơn nữa nó có sự thay đổi về quyền sở hữu và
sử dụng đất nên có sự phân bổ sự gia tăng giá trị đó. Công cụ để thực hiện sự phân
phối giá trị gia tăng là giá đất thu hồi, giá cho thuê hay bán các công trình trên đất,
thuế sử dụng đất. Khung phân tích chung về tác động của chuyển đổi mục đích sử
dụng đất đến các nhóm lợi ích đã được xây dựng trong chương này sẽ là cơ sở để áp
dụng phân tích cho từng nhóm lợi ích ở Bắc Ninh trong chương tiếp theo.
61
CHƯƠNG 3.
THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG
NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC NHÓM LỢI ÍCH TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
3.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh ảnh hưởng đến chuyển
đổi MĐSD ĐNN và giải quyết các phát sinh về lợi ích giữa các nhóm
3.1.1. Đặc điểm về tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý
Bắc Ninh nằm trong tọa độ địa lý từ 20058' đến 21016' vĩ độ Bắc và 105054' đến 106019' kinh độ Đông. Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, nằm
trong tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và là cửa ngõ
phía Đông Bắc của thủ đô Hà Nội.
Phía Bắc của tỉnh tiếp giáp với tỉnh Bắc Giang, phía Đông và Đông Nam giáp
tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Hưng yên và phía Tây giáp Thủ đô Hà Nội.
Bắc Ninh là tỉnh có quy mô nhỏ về diện tích, với diện tích tự nhiên năm 2011 là 82.271 km2, dân số là 1,0603 triệu người, mật độ dân số 1.289 người/km2.
So với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, Bắc Ninh vị trí địa lý tương đối
thuận lợi cho giao lưu hàng hóa với các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc, qua đó
với Trung Quốc, nhất là thủ đô Hà Nội vì cận kề với Hà Nội và qua quốc lộ 1A,
đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn. Liên thông với quốc tế và các tỉnh phía Nam qua
cảng hàng không quốc tế Nội Bài và hệ thống trục đường quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ
18 và 38. (Nghị quyết số 75/ 2013 /NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc
Ninh, 2013, 18-19).
Đặc biệt, Bắc Ninh nằm trong vùng “Tam giác kinh tế phát triển” Hà Nội -
Hải Phòng - Quảng Ninh. Đó là nơi tập trung tiềm lực khoa học kỹ thuật của cả
nước, với hệ thống các trường đại học, cao đẳng viện nghiên cứu của Trung ương;
62
nơi tập trung đầu mối kinh tế đối ngoại, giao lưu kinh tế, khoa học, công nghệ, thu
hút đầu tư của cả nước, nơi tập trung đông dân cư, với tốc độ đô thị hoá nhanh sẽ là
thị trường tiêu thụ lớn về sản phẩm hàng hoá. Lợi thế đó sẽ tạo điều kiện cho Bắc
Ninh có cơ hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ, đặt ra
những vấn đề chuyển đổi sử dụng nguồn lực, trong đó có nguồn lực đất đai theo
hướng khai thác các tiềm năng và lợi thế so sánh của tỉnh, đẩy mạnh CNH, HĐH và
3.1.1.2. Đặc điểm thời tiết - khí hậu
hội nhập kinh tế quốc tế.
Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng Đồng bằng sông
Hồng, có 4 mùa rõ rệt trong năm: mùa đông lạnh, mùa hè nóng ẩm, mùa xuân và
mùa thu khí hậu ôn hoà. Trong 12 năm trở lại đây, nhiệt độ trung bình năm trên địa bàn tỉnh là 24,00C, trung bình tháng cao nhất là 29,40C (tháng 7), trung bình tháng thấp nhất là 17,40C (tháng 1). Sự chênh lệch nhiệt độ giữa tháng cao nhất và tháng thấp nhất là 12,00C.
Độ ẩm tương đối trung bình của tỉnh Bắc Ninh khoảng 81%, độ chênh lệch về
độ ẩm giữa các tháng không lớn, độ ẩm tương đối trung bình thấp nhất từ 72% đến
75% thường xảy ra từ tháng 10 đến tháng 12 trong năm.
Chế độ mưa của Bắc Ninh phân thành 2 mùa, với lượng mưa trung bình hàng
năm khoảng 1500 mm. Mùa mưa, chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm 80% tổng
lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau chỉ chiếm 20 % tổng
lượng mưa trong năm. Khu vực có lượng mưa trung bình lớn nhất thuộc các huyện
Từ Sơn, Yên Phong, Tiên Du, khu vực có lượng mưa trung bình nhỏ nhất thuộc
huyện Quế Võ, (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 12-13).
Tổng số giờ nắng trung bình/năm của tỉnh là 1.417 giờ, trong đó tháng có giờ
nắng trung bình lớn nhất là tháng 7 với 168 giờ, trung bình ít nhất là tháng 1 với 64
giờ. Hàng năm có 2 mùa gió chính: gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam. Gió
mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, tốc độ gió
63
trung bình vào tháng 1 khoảng 2,6m/s; gió mùa Đông Nam thịnh hành từ tháng 4 đến
tháng 9 mang theo hơi ẩm gây mưa rào tốc độ trung bình vào tháng 7 khoảng 2,4m/s.
Điều kiện thời tiết khí hậu Bắc Ninh tác động cả 2 chiều (tích cực và tiêu cực)
đến sử dụng nguồn lực đất đai vào sản xuất nhất là sản xuất nông nghiệp, đặt ra các
vấn đề trong chuyển đổi MĐSD đất theo hướng khai thác tiềm năng lợi thế, trong đó
chuyển đổi sang sản xuất các loại thực phẩm ra hoa cho cư dân đô thị và chuyển từ
3.1.1.3 Đặc điểm về địa hình, địa chất
nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp là một trong các xu hướng chủ yếu.
Địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng, có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống
Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy mặt đổ về sông Đuống
và sông Thái Bình. Mức độ chênh lệch địa hình không lớn, vùng đồng bằng thường
có độ cao phổ biến từ 3 - 7 m, địa hình đồi núi sót có độ cao phổ biến 40 - 50m.
Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ rất nhỏ (0,53%) so với tổng diện tích tự nhiên toàn
tỉnh, phân bổ chủ yếu ở 2 huyện Quế Võ, Tiên Du. Ngoài ra, còn một số khu vực
thấp trũng ven đê thuộc các huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Yên Phong
(UBND tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 6).
Về địa chất, địa bàn Bắc Ninh mang nét đặc trưng của cấu trúc địa chất thuộc
vùng trũng sông Hồng, có bề dày trầm tích chịu ảnh hưởng rõ rệt của cấu trúc
mỏng; có độ dày tăng từ 5m đến 10m ở các khu vực chân núi tới 20m đến 30m ở
các vùng trũng và dọc theo các con sông chính như sông Cầu, sông Thái Bình, sông
Đuống, sông Ngũ Huyện Khê.
Tuy nhiên, cấu trúc địa chất Bắc Ninh còn mang tính chất của vòng cung
Đông Triều vùng Đông Bắc. Vì vậy, địa bàn Bắc Ninh còn có các loại đất đá bao
phủ gần như toàn tỉnh. Bề dày các lớp địa chất này biến đổi theo quy luật trầm tích
rất rõ ràng, phân bố hầu hết ở trên các núi và dãy núi. Bề dày các thành tạo thành từ
200 m đến 300 m.
Với đặc điểm này địa hình, địa chất của tỉnh Bắc Ninh có tính ổn định hơn so
với Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng Bắc Bộ, thuận lợi cho xây dựng các khu
64
3.1.1.4. Đặc điểm của tài nguyên nước
đô thị và công nghiệp.
- Tài nguyên nước mặt: Với hệ thống các sông khá dày như Sông Cầu, Sông
Đuống, Sông Thái Bình, sông Ngũ Huyện Khê, sông Dâu, sông Đông Côi, sông
Bùi, ngòi Tào Khê, sông Đồng Khởi, sông Đại Quảng Bình... Bắc Ninh có hệ thống
nước mặt khá dồi dào (lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m³)
nếu biết khai thác trị thuỷ và điều tiết nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát
triển các ngành kinh tế xã hội và đời sống dân sinh.
- Tài nguyên nước ngầm: Trữ lượng nước ngầm trên địa bàn Bắc Ninh cũng
khá lớn, trung bình có thể khai thác 400.000 m³/ngày. Tầng chứa nước ngầm cách
mặt đất trung bình 3 - 5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt, (UBND
tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 20).
Toàn bộ nguồn nước mặt và nước ngầm của tỉnh Bắc Ninh có thể khai thác để
phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động
của đô thị và công nghiệp ở quy mô lớn. Đây cũng là điều kiện để tạo tính năng động
3.1.1.5. Đặc điểm của tài nguyên rừng
trong chuyển đổi MĐSD đất theo hướng khai thác đầy đủ, hợp lý và hiệu quả.
Bắc Ninh không có rừng tự nhiên, chủ yếu là rừng trồng với 619,77 ha phân
bổ tập trung ở hai huyện Quế Võ, Tiên Du và thành phố Bắc Ninh. Tổng trữ lượng
gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³. Tuy
nhiên, diện tích đó có thể phát triển thành rừng cảnh quan sinh thái và mở rộng ở
diện tích đất tự nhiên chưa sử dụng. Đây là sự chuyển đổi cần thiết để tăng độ che
phủ, tạo môi trường tự nhiên thu hút đầu tư phát triển các ngành phi nông nghiệp,
3.1.1.6. Đặc điểm về tài nguyên khoáng sản
tăng hiệu quả sử dụng ĐNN khai thác các tiềm năng lợi thế khác của tỉnh.
Bắc Ninh là tỉnh nghèo về tài nguyên khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu trên địa
bàn tỉnh là nguồn nguyên liệu phục vụ trong ngành sản xuất vật liệu xây dựng như:
đất sét làm gạch ngói, trữ lượng 4 triệu tấn ở huyện Quế Võ, thị xã Từ Sơn và thành
65
phố Bắc Ninh, đất cát kết khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu, đá sa thạch ở Vũ Ninh với
trữ lượng 3 triệu m³, than bùn ở Yên Phong khoảng 6 - 20 vạn tấn. Cát xây dựng
cũng là nguồn tài nguyên chính có trữ lượng lớn của Bắc Ninh, được phân bố toàn
3.1.2. Đặc điểm về điều kiện kinh tế - xã hội
3.1.2.1. Đặc điểm của quỹ đất đai
bộ tỉnh, dọc sông Cầu, sông Đuống, (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 22).
Là tỉnh có quy mô diện tích nhỏ, nên quỹ đất của Bắc Ninh không thật dồi dào
trong mối tương quan với nguồn nhân lực của tỉnh. Theo số liệu thống kê năm 2011, diện tích tự nhiên của tỉnh là 82,271 km2, dân số là 1.060,3 ngàn người, mật độ dân số 1.289 người/km2. Vì vậy, chuyển đổi MĐSD đất theo hướng nâng cao
hiệu quả sử dụng đất và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh đã trở thành cấp thiết.
Về số lượng, diện tích tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh là 82,271 km2 trong đó đất sản
xuất nông, lâm nghiệp chiếm 65,85% diện tích đất tự nhiên; đất phi nông nghiệp chiếm
33,31% đất tự nhiên và đất chưa sử dụng chiếm 0,84% đất tự nhiên (UBND tỉnh Bắc
Ninh, 1). Với địa hình thuận lợi cho xây dựng hạ tầng, xây dựng các khu, cụm công
nghiệp và đô thị, quỹ đất của Bắc Ninh nói chung, ĐNN nói riêng có thể còn có những
điều kiện để chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp nếu xã hội có nhu cầu.
Về chất lượng: Đất đai của Bắc Ninh được phân thành các loại theo nguồn gốc
hình thành như sau: Bãi cát ven sông, diện tích 110,9 ha. Đất phù sa được bồi của hệ
thống sông Hồng, diện tích 2.213,78 ha. Đất phù sa được bồi của hệ thống sông Thái
Bình, diện tích 29.907,41 ha. Đất phù sa có tầng loang lổ, diện tích 9.194,83 ha. Đất
phù sa úng nước, diện tích 3.285,23 ha. Đất xám bạc màu trên phù sa cổ, diện tích
4.505,8 ha. Đất xám bạc màu gley, diện tích 952,69 ha. Đất thung lũng do sản phẩm
dốc tụ, diện tích 126 ha. Đất vàng nhạt trên đá cát và dăm cuội kết, diện tích 764,18
ha. Đất xói mòn trơ sỏi đá, diện tích 224,25 ha, (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 25).
Phần lớn diện tích của Bắc Ninh là đất phù sa của hệ thống sông Hồng và sông
Thái Bình có chất lượng tốt. Đất này có địa hình bằng phẳng vừa thuận lợi cho phát
triển nông nghiệp, vừa thuận lợi cho xây dựng hạ tầng, khu đô thị và công nghiệp,
66
dịch vụ. Số diện tích còn lại thuộc 2 dạng, (1) đất địa hình cao là đất xám bạc màu
trên phù sa cổ, đất vàng nhạt trên đá cát và dăm cuội kết, đất xói mòn trơ sỏi đá… là
đất có nền vững, thuận tiện cho xây dựng các công trình hạ tầng, khu công
nghiệp…(2) Đất phù sa úng nước, đất thung lũng do dốc tụ… là đất có nền yếu,
3.1.2.2. Đặc điểm về nguồn nhân lực
không thuận tiện cho xây dựng các cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp và đô thị.
Về số lượng: Bắc Ninh là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ, nhưng mật độ dân cư vào hàng thứ 3 của cả nước (1.271 người/km2 năm 2011). Dân số đạt mức trên 1
triệu dân vào năm 2010, tốc độ tăng dân số trung bình giai đoạn 1997-2011 ở mức
0,85% có xu hướng tăng những năm gần đây.
Chỉ tiêu
Đơn vị
1997
2000
2005
2011
2012
1. Tổng số hộ
1.000 hộ
210,7 220,4 244,2 285,5
290,0
2. Dân số trung bình
1.000 ng
932,4 950,6 991,1 1.038,2
1.045,5
Tr.đó: + Nữ
52,02 51,48 51,40 50,71
%
50,69
+ Nông thôn
93,72 90,53 86,51 74,13
“
73,80
3. Dân số trong độ tuổi
524,8 573,1 603,8 652,3
660,1
4. Mật độ dân số
1.133 1.155 1.205 1.262
1.000 ng Ng/km2
1.271
5. Lao động đang LV
1.000 ng
501,1 528,2 563,2 593,1
598,1
- Nông, lâm, thủy sản
431,6 421,5 356,3 284,6
“
268,0
- Công nghiệp, XD
36,9
62,0
131,7 188,7
“
201,9
- Dịch vụ
33,1
44,7
75,2
119,9
“
128,2
6. Tỷ lệ LĐ qua đào tạo
%
7,8
11,4
30,5
45,0
47,5
Bảng 3.1. Tình hình dân số và lao động tỉnh Bắc Ninh
Nguồn: Cục Thống kê Bắc Ninh năm 2012.
Là tỉnh vốn thuần nông và ngành nghề nông thôn phát triển nên dân cư nông
thôn chiếm tỷ lệ lớn, nhưng có mức giảm nhanh những năm gần đây. Năm 1997, tỷ
lệ dân cư nông thôn chiếm tới 93,72% năm 2011 đã giảm nhanh còn 73,8% (giảm
19,92% từ năm 1997-2011, bình quân giảm 1,42%/năm). Theo đó, lao động làm
67
việc trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm tỷ trọng cao và có xu thế giảm nhanh
những năm gần đây. Năm 1997, tỷ lệ lao động làm việc trong các ngành nông lâm,
thủy sản là 431,6 ngàn người, chiếm 86,04% trong tổng số lao động trên địa bàn
đang làm việc. Năm 2011, số lao động làm việc trong các ngành nông, lâm, thủy
sản giảm đi còn 268,0 ngàn người, chiếm 44,8%.
Tuy nhiên, với tốc độ CNH, HĐH và ĐTH cao, dân số thành thị và lao động
làm việc trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng nhanh những năm
gần đây.
Về chất lượng: Bắc Ninh là đất có truyền thống hiếu học. Những năm trước
đây người Bắc Ninh không chỉ giỏi làm ruộng mà còn khéo tay mang đậm nét dân
gian của vùng trăm nghề như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, chạm bạc, khắc gỗ, làm
giấy, vẽ tranh dân gian, hoạt bát trong giao thương, buôn bán, thông minh hiếu học.
Tuy nhiên những năm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, người Bắc Ninh không
chú trọng đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tỷ lệ người lao động qua đào tạo
thấp. Những năm gần đây, khi nền kinh tế thị trường mở rộng, đặc biệt yêu cầu của
các ngành nghề mới ở các khu công nghiệp, dịch vụ mới hình thành; do tác động
của Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở
Bắc Ninh đã tăng nhanh. Năm 1997, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 7,8% đến năm
3.1.2.3. Đặc điểm về tài nguyên du lịch nhân văn
2011 đã tăng lên đến 47,5%.
Là một trong các địa phương của nền văn minh lúa nước vùng Đồng bằng
sông Hồng, gắn liền với các di tích đạo phật, với các hình thức sinh hoạt văn hóa
cộng đồng làng, xã Bắc Ninh có hệ thống tài nguyên du lịch nhân văn rất phong
phú, nhiều tài nguyên đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
Dân ca quan họ Bắc Ninh là một trong các di sản văn hóa phi vật thể đã được
UNESCO công nhận, với những làn điệu trữ tình nổi tiếng trong và ngoài nước.
Người dân Kinh Bắc có 49 làng chơi quan họ, một lối chơi văn hoá tinh tường, độc
đáo, đạt tới đỉnh cao của thi ca và âm nhạc.
68
Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 1.259 điểm di tích, trong đó có 428 điểm di tích
lịch sử văn hóa được xếp hạng (191 di tích cấp quốc gia và 327 di tích cấp địa
phương). Đây là những danh lam cổ tự nổi tiếng, ngày nay đã trở thành những di
sản kiến trúc tiêu biểu của dân tộc, được mệnh danh là vương quốc của lễ hội, chủ
yếu là hội chùa, hội đền.
Về lễ hội truyền thống, Bắc Ninh là quê hương của các lễ hội với hơn 600 lễ
hội lớn, nhỏ, trong đó có hơn 40 lễ hội quan trọng, được duy trì tổ chức hàng năm.
Tiêu biểu là những lễ hội lớn, nổi tiếng cả nước như: hội Dâu, hội đền Đô, hội Lim,
hội Chùa Phật Tích,
Bắc Ninh có nhiều làng nghề thủ công truyền thống. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
tới 60 làng nghề, trong đó có nhiều làng nghề nổi tiếng như làng tranh Đông Hồ, làng
gốm Phú Lãng, đúc đồng Đại Bái, rèn Đa Hội, sơn mài Đình Bảng, làng hát ca trù
Thanh Tương, làng rối nước Đồng Kỵ, Bùi Xá, Đa Hội, Tam Lư, Tấn Bào...
Với những tài nguyên du lịch trên, Bắc Ninh đã trở thành một trong các trung
tâm du lịch văn hóa, tâm linh. Ðây là những nhân tố quan trọng cho chuyển đổi cơ
cấu kinh tế và chuyển ðổi MÐSD ÐNN đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế du
3.1.2.4. Đặc điểm về cơ sở hạ tầng
lịch trên địa bàn.
- Đặc điểm về giao thông: Bắc Ninh có hệ thống giao thông khá thuận lợi với
cả giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy.
+ Về đường bộ: Bắc Ninh có hệ thống đường bộ thuận lợi cho vận chuyển và
giao lưu kinh tế trong, ngoài tỉnh và quốc tế, với chiều dài 3.810 km, mật độ 4,63 km/km2. Trên địa bàn tỉnh có 3 tuyến quốc lộ chạy qua với tổng chiều dài 86,8 km,
gồm Quốc lộ 1A mới dài 19,8 km, Quốc lộ 18 cũ và mới dài 44 km, Quốc lộ 38 dài
23 km; có 14 tuyến tỉnh lộ, với tổng chiều dài 265,7 km; đường huyện và đường đô
thị dài trên 400 km; đường xã có chiều dài 755 km và đường thôn xóm có tổng
chiều dài 2.392 km (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2012, 33).
69
+ Về đường sắt: Bắc Ninh có tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn chạy qua,
với 4 ga Từ Sơn, Lim, Bắc Ninh và Thị Cầu. Chất lượng đường và ga xuống cấp, cự
ly với Hà Nội gần nên các ga chủ yếu tiếp nhận một số hàng vật liệu xây dựng, phân
bón, hàng tiêu dùng; lượng hành khách sử dụng phương tiện đường sắt ít và ngày
càng giảm.
+ Về đường thủy: Mạng lưới đường sông khá dày, với 3 cảng sông lớn, trong
đó cảng Đáp Cầu có bãi chứa 2 ha, trước đây lượng hàng hóa lưu thông lên đến
200.000 tấn/năm, nay còn khoảng 100.000 tấn/năm. Ngoài ra còn nhiều bãi xếp dỡ
vật liệu khai thác cát, hàng năm xếp dỡ lượng khá lớn vật liệu xây dựng. Tuy nhiên,
các bãi này còn sơ khai, chưa được đầu tư xây dựng nên ảnh hưởng đến lưu thông
hàng hóa còn hạn chế.
- Về đặc điểm của hệ thống điện: Nguồn điện của Bắc Ninh được cấp từ trạm
điện 210KV Bắc Ninh và qua tuyến đường dây 110KV Phả Lại - Bắc Ninh - Đông
Anh, Đông Anh - Đình Trám. Với nguồn cấp trên, hệ thống điện vận hành ở Bắc
Ninh khá linh hoạt, khả năng huy động công suất trong giờ cao điểm cơ bản đáp
ứng yêu cầu phụ tải điện trong giai đoạn hiện tại.
Hệ thống lưới điện 110KV với 11 nguồn trạm 110KV/697,3MVA, trong đó có
2 trạm 11KV chuyên dùng khách hàng có sự quá tải. Hệ thống đường dây 110KV
xây dựng cũ, dây dẫn nhỏ cần phải nâng cấp. Lưới điện trung thế ở các cấp độ 35,
22, 10 và 6 KV. Về cơ bản hệ thống trung tải đáp ứng nhu cầu phụ tải và liên kết
mạch vòng theo yêu cầu hiện tại, [39, 34].
- Về đặc điểm của hệ thống cấp, thoát nước: Mạng lưới thủy lợi chia thành 2
vùng Bắc Đuống và Nam Đuống. Bắc Ninh có 473 công trình tưới tiêu và tưới tiêu
kết hợp, trong đó có 63 trạm bơm do Công ty thủy nông quản lý, 410 trạm bơm do
các xã quản lý. Diện tích thiết kế của các công trình là 63.764 ha, diện tích tưới thực
tế là 46.298,2 ha, đạt hơn 73% công suất thiết kế và gần 90% diện tích cần tưới của
tỉnh. Các công trình tiêu đáp ứng 86,8% diện tích cần tiêu của tỉnh.
70
3.1.2.5. Đặc điểm hệ thống bưu chính viễn thông
Bắc Ninh có hệ thống bưu chính viễn thông khá phát triển. Mạng lưới phục vụ
bưu chính phát triển đến hầu hết các xã, phường. Toàn tỉnh có 158 điểm phục vụ
bưu chính, với 29 bưu cục, 97 điểm bưu điện văn hóa xã và 32 điểm đại lý bưu
điện, kiôt, nhà văn hóa cơ sở. Mạng lưới viễn thông từng bước được đầu tư nâng
cấp theo hướng tăng dung lượng, mở rộng vùng phục vụ, đáp ứng nhu cầu phát triển
thuê bao, nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn thông tin. Cụ thể:
Mạng lưới điện thoại cố định đã cung cấp đến 100% số xã, phường, thị trấn;
Thuê bao cố định đạt mức trên 23 thuê bao/100 dân. Điện thoại di động đã phủ sóng
toàn tỉnh Bắc Ninh, với mật độ 88,6 thuê bao/100 dân.
Mạng lưới dịch vụ internet băng thông rộng do Viễn thông Bắc Ninh và một
số công ty khác cung cấp, với mật độ thuê bao đạt 2,49 thuê bao/100 dân, (UBND
3.1.3. Đánh giá ảnh hưởng của các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội đến
chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp và giải quyết các phát sinh về lợi ích
giữa các nhóm
tỉnh Bắc Ninh, 2012, 41).
Các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh, nhất là
các điều kiện gắn với nông thôn của tỉnh đã ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nói
chung, chuyển đổi MĐSD ĐNN và giải quyết các phát sinh về lợi ích trên 2 mặt
3.1.3.1. Những ảnh hưởng tích cực
tích cực và tiêu cực. Cụ thể:
- Vị trí địa lý thuận lợi đã tạo cho Bắc Ninh những điều kiện thu hút các để
phát triển nhanh kinh tế xã hội, trong đó có chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đây là cơ
hội để Bắc Ninh chuyển đổi mục đích sử dụng ĐNN theo hướng nâng cao hiệu quả
sử dụng đất.
- Với đặc điểm về địa hình, địa chất thuận lợi cho xây dựng các công trình phi
nông nghiệp và quỹ ĐNN dồi dào. Việc chuyển đổi MĐSD ĐNN của Bắc Ninh có
nhiều thuận lợi trên nhiều phương diện như:
71
Sự cải tạo và đầu tư trên đất thuận lợi một mặt là sức hút đối với các nhà đầu
tư; mặt khác mở ra những cơ hội để các nhà đầu tư cùng phối hợp giải quyết những
vấn đề phát sinh trong và sau thu hồi đất.
- Bắc Ninh có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng, chất lượng lao động khá
cao, đặc biệt có hệ thống ngành nghề nông thôn phát triển. Người Bắc Ninh cần cù
chịu khó, hiếu học, năng động… Đây là điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; hướng xử lý
cần thiết trong chuyển đổi MĐSD ĐNN, hạn chế các vấn đề kinh tế, xã hội nảy sinh
khi thu hồi đất.
- Bắc Ninh có hệ thống hạ tầng như giao thông, thủy lợi, điện, bưu chính viễn
thông khá phát triển. Đây cũng là điều kiện quan trọng tạo sức thu hút đầu tư và các
ngành kinh tế xã hội, tạo yêu cầu chuyển đổi MĐSD ĐNN và phát triển các ngành nghề
3.1.3.2. Những ảnh hưởng tiêu cực
nông thôn, giải quyết những vấn đề phát sinh sau chuyển đổi MĐSD ĐNN của tỉnh.
Bên cạnh những tác động tích cực, các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội của tỉnh Bắc Ninh cũng ảnh hưởng tiêu cực đến chuyển đổi MĐSD ĐNN và
giải quyết các phát sinh về lợi ích trên các phương diện sau:
- Vị trí địa lý của Bắc Ninh thuận lợi là so sánh với các tỉnh của Đồng bằng
sông Hồng. Tuy nhiên, so với Thủ đô Hà Nội, vị trí của Bắc Ninh có nhiều khó khăn
hơn. Không những thế, các tỉnh cận kề với Hà Nội như Vĩnh Phúc, Hưng Yên và Hà
Nam cũng có những điểm tương tự. Vì vậy sức cạnh tranh của Bắc Ninh so với Hà
Nội và các tỉnh cận kề có sức cạnh tranh cao. Đây là sức ép đòi hỏi Bắc Ninh phải có
chính sách thu hút đầu tư và giải quyết lợi ích giữa nhà đầu tư với người nông dân
mất đất mới thu hút được đầu tư và tạo môi trường đầu tư lành mạnh.
- Bắc Ninh là tỉnh nghèo khoáng sản, vì vậy các ngành nghề thu hút đầu tư vào
tỉnh sẽ là những ngành phi khai thác và chế biến khoảng sản. Điều này một mặt đòi
hỏi Bắc Ninh phải lựa chọn hệ thống ngành, lựa chọn địa điểm xây dựng các khu
72
công nghiệp, đô thị theo hướng khai thác tiềm năng lợi thế. Đặc biệt có hệ thống
chính sách phù hợp mới có thể thu hút hiệu quả.
- Bên cạnh tác động tích cực của sức thu hút đầu tư, mức độ chuyển đổi
MĐSD đất càng lớn, sức ép về những vấn đề kinh tế xã hội sau chuyển đổi MĐSD
đất càng lớn, nếu các vấn đề đó không giải quyết triệt để hậu quả đến phát triển kinh
3.2. Thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN tỉnh Bắc Ninh 2001 - 2012
tế xã hội càng lớn.
Chuyển đổi MĐSD ĐNN dẫn đến thu hồi đất của nông dân. Thu hồi ĐNN để
phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
đáp ứng nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng là vấn đề kinh tế -
xã hội lớn của đất nước, liên quan đến phát triển đất nước, nhưng lại phải tính đến
lợi ích cơ bản của hàng triệu người dân bị thu hồi đất.
Hiểu rõ tầm quan trọng của vấn đề này trên phạm vi quốc gia, Quốc hội đã ban
hành luật đất đai sửa đổi (11/2003). Hội nghị Ban chấp hành TW 5 (khoá IX) ngày
18/3/2002 ra Nghị quyết 13-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể và Nghị quyết 14-NQ/TW về đẩy mạnh CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010. Gần đây, Quốc hội đã ban hành luật đất đai
số 45/2013/QH13, thay thế luật đất đai năm 2003. Luật được thông qua ngày
29/11/2013 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2014. So với luật đất đai 2003, luật đất đai
2013 có một số thay đổi quan trọng giúp giải quyết các vấn đề liên quan đến bất
động sản gắn liền với đất và thu hồi đất. Ví dụ, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
100% nước ngoài không được hưởng lợi từ việc thu hồi đất. Luật cũng quy định cụ
thể và đầy đủ từ việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư đảm bảo một cách
công khai, minh bạch và quyền lợi của người có đất thu hồi đồng thời khắc phục
một cách có hiệu quả những trường hợp thu hồi đất mà không đưa vào sử dụng, gây
lãng phí, tạo nên các dư luận xấu trong xã hội. Đặc biệt, luật Đất đai năm 2013 cũng
quy định chế tài mạnh để xử lý đối với trường hợp không đưa đất đã được giao, cho
thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng; quy định đầy đủ, rõ ràng về
những trường hợp thật cần thiết mà Nhà nước phải thu hồi; quy định giá đất bồi
73
thường không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ thể do Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Tuy nhiên, việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước về vấn
đề đất đai mang tính đặc thù đối từng địa phương. Phần này trước tiên, tác giả sẽ
khái quát lại các biện pháp trước, trong và sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nông nghiệp tại Bắc Ninh. Phần sau đó là thực trạng của quá trình chuyển đổi đất
3.2.1. Các biện pháp và chính sách tỉnh Bắc Ninh đã triển khai về chuyển
đổi MĐSD đất và xử lý lợi ích nhóm trong chuyển đổi mục đích ĐNN
3.2.1.1. Về các biện pháp chính sách về chuyển đổi MĐSD ĐNN
đai này đã và đang diễn ra như thế nào.
Chuyển đổi MĐSD ĐNN là một trong các biện pháp của chuyển đổi cơ cấu
kinh tế nói chung, cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp nói riêng. Điều đó
được thể hiện trong các văn bản cụ thể sau:
- Thời kỳ trước khi có Luật Đất đai năm 2003:
+ Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Ninh thời kỳ 2000 - 2010 lập năm 2000
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày
19/6/2001 và năm 2002 tiến hành lập điều chỉnh, bổ sung được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 1208/QĐ-TTg ngày 06/11/2003.
+ Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2001 - 2005) tỉnh Bắc Ninh được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 746/QĐ-TTg ngày 19/6/2002 và phê duyệt
bổ sung tại Quyết định số 1214/QĐ-TTg ngày 07/11/2003.
+ Đã có 8/8 huyện,thị, thành phố đã lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010
và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh phê duyệt. Có 115/126 xã, phường,
thị trấn của tỉnh đã lập quy hoạch sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993.
- Thời kỳ sau khi có Luật Đất đai năm 2003
+ Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/ND-CP ngày 26/5/2006 phê duyệt
điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010 và Kế hoạch sử
dụng đất 5 năm (2006 - 2010).
74
+ Xây dựng và phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất cho 8 huyện.
+ Có 126/126 xã, phường, thị trấn trong tỉnh lập Quy hoạch sử dụng đất chi
tiết đến năm 2015, Kế hoạch sử dụng đất chi tiết 5 năm (2006 - 2010).
- Báo cáo điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Ninh đến 2010 đã được
phê duyệt và điều chỉnh. Quy hoạch đã xác định định hướng chuyển đổi MĐSD
ĐNN theo các hướng sau:
+ Đối với chuyển đổi MĐSD đất trong nội bộ ngành nông nghiệp: Tập trung
phát triển nông nghiệp công nghệ cao, giá trị kinh tế và hàng hoá lớn, đạt trên 60%.
Tiếp tục đầu tư thúc đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn theo hướng hàng hoá, nông sản có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất
với thị trường Hà Nội và các đô thị, các khu công nghiệp của Bắc Ninh, có tính đến
thị trường quốc tế xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp giá trị cao qua cửa khẩu sân bay
quốc tế Nội Bài nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, lao động,
nguồn vốn (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2008, 60).
+ Đối với chuyển đổi mục đích ĐNN sang phi nông nghiệp: Mở rộng thành
phố Bắc Ninh với quy mô dân số 180.000 dân và diện tích đất tự nhiên lên 1.450 ha;
thị xã Từ Sơn với quy mô 30.000 dân và 240 ha; nâng cấp thị trấn Phố Mới huyện
Quế Võ lên 20.000 dân và 160 ha; thị trấn Lim huyện Tiên Du lên 24.800 dân và
160 ha; thị trấn Chờ huyện Yên Phong lên 15.400 dân và 123 ha; thị trấn Hồ huyện
Thuận Thành lên 14.740 dân và 147 ha; thị trấn Thứa huyện Lương tài lên 13.000
dân và 96 ha; thị trấn Gia Bình huyện Gia Bình lên 12.000 dân và 96 ha; thị trấn
Dâu huyện Thuận Thành lên 10.000 dân và 80 ha; (Quốc Phương, 2012, 42).
Theo Quy hoạch sử dụng đất, đến năm 2010 đất dành cho xây dựng các khu
công nghiệp là 2.607 ha, gồm: Khu công nghiệp Tiên Sơn 507 ha, khu công nghiệp
Đại Đồng - Hoàn Sơn 500 ha, khu công nghiệp Dược 100 ha; khu công nghiệp Quế
Võ I là 600 ha, khu công nghiệp Quế Võ II là 300 ha; khu công nghiệp Yên Phong
400 ha và khu công nghiệp Nghĩa Đạo 200 ha. Đất xây dựng các cơ sở đào tạo tăng
373,1 ha, trong đó khối các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề tăng 181,5 ha và
75
bổ sung thêm khoảng 235 ha trong quy hoach điều chỉnh. Các định hướng Quy
hoạch trên là cơ sở quan trọng cho các quy hoạch của ngành, của các địa phương
3.2.1.2. Về các biện pháp chính sách trong thu hồi khi chuyển đổi MĐSD ĐNN
trong tỉnh Bắc Ninh, (Quốc Phương, 2012, 52).
Bắc Ninh đã thực hiện quy định khung giá và giá các loại đất với các văn bản
cụ thể sau:
- Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ban hành Quyết định số 69/2004/QĐ-UB
ngày 20/05/2004 về quy định khung giá các loại đất áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh.
- Ban hành Quyết định số 225/2004/QĐ - UB ngày 28/12/2004 và Quyết định
168/2005/QĐ-UBND ngày 21/12/2005 quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
- Bắc Ninh tiếp tục ban hành các quyết định ban hành các giá đất như: Quyết
định 162/210/QĐ-UBND ngày 23/12/2010, Quyết định số 155 ngày 22 tháng 12
năm 2011về bảng giá đất nông nghiệp, giá đất ở đô thị
Bắc Ninh đã tổ chức một số đơn vị quản lý nhà nước đối với đất đai như: Ban
hành Quyết định 51/2003/QĐ-UB ngày 09/6/2003 về thành lập Sở Tài nguyên -
Môi trường tỉnh Bắc Ninh; Quyết định 105/QĐ-UB ngày 09/10/2003 về quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và mối quan hệ công tác của Sở
Tài nguyên - Môi trường tỉnh Bắc Ninh; ban hành Quyết định 188/2004/QĐ-UB
ngày 20/11/2004 thành lập văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.
Ban hành quyết định 205/2004/QĐ-UB ngày 03/12/2004 thành lập Trung
tâm Phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên - Môi trường tỉnh Bắc Ninh. Đây là
cơ sở quan trọng để Bắc Ninh duy trì các hoạt động quản lý nhà nước đối với đất
đai, trong đó có các hoạt động liên quan đến ban hành giá đất, thực hiện thu hồi
đất và giải quyết các vấn đề phát sinh khi thu hồi ĐNN chuyển sang các mục
đích phi nông nghiệp.
Đặc biệt, Bắc Ninh đã thực hiện công khai quy hoạch từ cấp tỉnh đến
huyện, xã. Thông báo cho người dân bị thu hồi đất về lý do, kế hoạch thu hồi,
76
phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư
theo quy định nên việc bồi thường, giải phóng mặt bằng diễn ra tương đối thuận
lợi, đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi MĐSD đất.
Việc ban hành cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa các cơ quan theo
cơ chế một cửa khi Nhà nước thực hiện trình tự thu hồi đất đã tạo sự liên kết
trong giải quyết các vấn đề có liên quan, tạo sự nhanh chóng trong xử lý các vấn
3.2.1.3. Về các biện pháp chính sách trong tổ chức sử dụng đất thu hồi khi
chuyển đổi MĐSD ĐNN
đề phát sinh, giảm các khiếu kiện khi thu hồi DNN.
Thực hiện chuyển đổi MĐSD đất, Bắc Ninh đã ban hành các chính sách hỗ
trợ cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi; các chính sách bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nói chung, ĐNN nói riêng phục vụ mục
đích phi nông nghiệp. Đánh giá chung, các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư được ban hành theo hướng có lợi cho người dân khi bị thu hồi đất.
Tính riêng các năm từ 2003-2010, Bắc Ninh đã bồi thường, giải phóng mặt
bằng được 3.250 ha trong tổng số 3.716 ha cần chuyển đổi MĐSD đất. Số hộ có
đất bị thu hồi lên đến 44.500 hộ, trong đó có 6.200 hộ mất trên 70% diện tích
đang sử dụng; 8.500 hộ mất từ 50-70% diện tích đang sử dụng; 29.800 hộ mất
dưới 50% diện tích đất đang sử dụng. Đa số là các hộ mất ĐNN đang sử dụng,
chỉ có 1.000 hộ thuộc diện bị thu hồi đất ở.
Bắc Ninh đã ban hành các chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho
khoảng 22.500 lao động; xây dựng 5 khu tái định cư cho 450 hộ; xây dựng 41
khu dân cư dịch vụ với diện tích 241 ha để giao cho 1.200 hộ có nhiều ĐNN bị
thu hồi để chuyển đổi MĐSD đất (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2013, 29).
Đối với sử dụng đất nông nghiệp sau chuyển đổi, Bắc Ninh đã ban hành các
quy định xây dựng cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa các cơ quan theo cơ
chế một cửa trong việc thực hiện trình tự thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất; bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư, như:
77
Quyết định 78/2010/QĐ-UBND ngày 02 tháng 7 năm 2010; Ban hành quy
định về trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng của doanh nghiệp ngoài khu công
nghiệp tại tỉnh Bắc Ninh như Quyết định số 165/QĐ-UBND ngày 27 tháng 11
năm 2009. Ban hành Quy chế phối hợp quản lý cụm công nghiệp.
Đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến việc giải quyết vấn đề sử
dụng ĐNN sau chuyển đổi mục đích sử dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh khá
3.2.2. Thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN tỉnh Bắc Ninh các năm 2001 - 2012
3.2.2.1. Thực trạng chuyển đổi MĐSD theo loại ĐNN
hiệu quả.
Trên cơ sở của các Quy hoạch, chuyển đổi mục đích nông nghiệp đã diễn ra
khá nhanh trong 12 năm, từ năm 2000 đến năm 2012. Cụ thể:
- Xét chung về sự chuyển đổi mục đích các loại đất: Trong 12 năm, chuyển
đổi mục đích đất sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã theo hướng của
chuyển đổi sang sản xuất hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
tỉnh. Theo đó, đất nông, lâm, thủy sản biến động theo xu hướng giảm khá nhanh,
đất phi nông nghiệp biến động theo xu hướng tăng. Đặc biệt, đất chưa sử dụng
đưa vào sử dụng với tốc độ nhanh và quy mô khá lớn.
Theo số liệu của Cục Thống kê Bắc Ninh, trong 12 năm diện tích ĐNN của
tỉnh đã giảm từ 52.555,0 ha xuống còn 48.485,3 ha, tổng mức giảm 4.069,7 ha,
bình quân mỗi năm giảm 339,14 ha. Tuy nhiên trên thực tế, đã có 8.315,4 ha đất
chưa sử dụng đưa vào sử dụng, trong đó hầu như đưa vào hoạt động nông, lâm,
thủy sản. Vì vậy, đất nông, lâm, nghiệp và thủy sản thực chất chuyển sang các
mục đích phi nông nghiệp ở mức rất cao. Đã có khoảng 10.200 ha đất nông, lâm,
thủy sản được chuyển sang MĐSD phi nông nghiệp, bình quân mỗi năm có 850
ha. Đây là mức chuyển đổi khá cao đối với địa phương có diện tích ĐNN nhỏ
như Bắc Ninh, (Cục thống kê Bắc Ninh, 2012, 15).
78
Bảng 3.2. Thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng giữa các loại đất trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Loại đất
2000
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Tổng diện tích tự nhiên
82.271,1 82.271,1 82.271,1 82.271,1 82.271,1 82.271,1 82.271,1
1. Đất nông, lâm thủy sản
52.555,0 51.590,2 50.474,1 49.371,4 48.908,5 48.574,8 48.485,3
2. Đất phi nông nghiệp
20.821,1 30.037,4 31.155,9 32.263,6 32.783,1 33.116,7 33.206,2
3. Đất chưa sử dụng
8.895,0
643,5 641,1 636,1 579,5 579,6 579,6
Nguồn: Cục Thống kê Bắc Ninh (2013)
Đơn vị: Ha.
Những năm 2000 - 2012, mức chuyển đổi MĐSD đất nông, lâm, thủy sản tập
trung vào các năm từ 2000 - 2007, đặc biệt là các năm 2005-2007 khi tốc độ ĐTH
và xây dựng các khu công nghiệp ở Bắc Ninh diễn ra mạnh mẽ. Trong 7 năm,
ĐNN tăng lên do chuyển từ đất chưa sử dụng sang khoảng 7.200 ha, nhưng
khoảng hơn 8.200 ha đất nông, lâm, thủy sản chuyển sang đất phi nông nghiệp.
Bình quân mỗi năm có gần 1.200 ha ĐNN được chuyển sang mục đích phi nông
nghiệp. Nếu tính một bộ phận đất chưa sử dụng được chuyển sang các mục đích
phi nông nghiệp thì diện tích đất phi nông nghiệp mỗi năm tăng thêm ở giai đoạn
2000 - 2007 lên đến 1.316,6 ha.
79
Bảng 3.3. Thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng theo loại ĐNN
Loại đất
2000
2007
2009
2010
2011
2012
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Đất nông, lâm thủy sản
52.555,0 51.590,2 49.371,4 48.908,5 48.574,8 48.485,3
- 4.069,7
1. Đất nông nghiệp
49.471,0 45.902,5 43.680,1 43.282,9 42.941,6 42.850,0 - 6.621,0
- Đất cây hàng năm
47.589,0 45.474,1 43.252,7 42.841,4 42.500,5 42.409,5 - 5.179,5
- Đất cây lâu năm
129,0
428,4
427,4
441,5
441,1
440,5 + 311,5
- ĐNN khác
1.753,0
15,3
15,3
140,7
141,3
91,2 - 1.661,8
2. Đất lâm nghiệp
570,0
621,6
619,8
625,3
625,3
625,3
+ 55,3
- Đất rừng trồng
570,0
621,6
619,8
625,3
625,3
625,3
+ 55,3
1.3. Đất thuỷ sản
5.010,0 + 2.496
5.000,3
5.007,9
5.066,1
2.514,0
5.071,5 Nguồn: Niên giám thống kê Bắc Ninh và Báo cáo tình hình biến động đất của
Đơn vị: Ha Tăng, giảm
Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh.
Xét theo chất lượng của đất chuyển đổi mục đích: Đất từ MĐSD vào nông,
lâm, thủy sản chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp chủ yếu là đất có chất
lượng tốt thuộc loại “bờ xôi, ruộng mật”, đất gần đường giao thông.
Bảng 3.4. Thực trạng chuyển đổi MĐSD theo chất lượng ĐNN
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Loại đất
2000
2007
2009
2011
2012
Tăng, giảm
Tổng số
52.555,0
51.590,2
49.371,3
48.574,8
48.485,3
-4.069,7
1.1. Phân theo chất lượng
+ Đất có chất lượng tốt
30.753,0
29.922,2
28.635,1
28.173,5
28.121,1
-2.631,9
+ Đất có chất lượng T.bình
21.802,0
21.668,0
20.736,2
20.401,3
20.364,2
-1.437,8
1.2. Theo vị trí của đất
+ Đất gần đường giao thông
23.125,2
22.442,0
21.477,3
21.130,2
21.091,0
-2.034,2
+ Đất xa đường giao thông
29.429,8
29.148,2
27.895,0
27.445,6
27.394,3
2.035.5
Đơn vị: Ha
Nguồn: Niên giám thống kê Bắc Ninh và Báo cáo tình hình biến động đất của
Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh.
80
Ở Bắc Ninh, chuyển đổi MĐSD ĐNN cũng ở tình trạng tương tự. Trong số
4.069,7 ha ĐNN chuyển sang đất phi nông nghiệp có 2.631,9 ha đất có chất lượng
tốt, chiếm 64,67% tổng diện tích chuyển đổi. ĐNN chuyển đổi sang mục đích phi
nông nghiệp thuộc đất có vị trí gần đường giao thông (với tư cách là đường quốc lộ,
tỉnh lộ) là 2.034,2 ha, chiếm 49,98% tổng diện tích chuyển đổi. Tuy không có số
liệu về chất lượng đất theo hàm lượng dinh dưỡng, nhưng bằng cảm nhận của tác
giả, hầu hết diện tích ĐNN chuyển đổi sang mục đích phi nông nghiệp đều là đất
tốt. Đó là diện tích đất trồng lúa, màu có năng suất cao của các huyện Tiên Du, Quế
Võ, Thuận Thành và của Thành phố Bắc Ninh.
- Chuyển đổi MĐSD ĐNN sang các loại đất phi nông nghiệp: Theo xu hướng
chung, đất từ MĐSD nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp theo xu
hướng tăng nhanh. Sự chuyển đổi theo xu hướng này, phản ánh theo quy luật chung
và chứng tỏ Bắc Ninh đã chú trọng tới khai thác các điều kiện thuận lợi, đặc thù của
tỉnh trong quá trình CNH, HĐH.
Giai đoạn 2000 - 2012 tỉnh Bắc Ninh được chuyển 12.385,1 ha đất để sử dụng
vào mục đích phi nông nghiệp. Phần lớn đất phi nông nghiệp tăng thêm này là từ
đất sản xuất nông nghiệp, đất chưa sử dụng chuyển sang mục đích phi nông nghiệp
chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chưa tới 2%.
81
Bảng 3.5. Thực trạng chuyển đổi mục đích sử dụng ĐNN sang mục đích phi
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Loại đất
2000
2007
2010
2011
2012
Tăng giảm
Đất phi nông nghiệp
20.821,1 31.155,9 32.783,1 33.116,7 33.206,2 + 12.385,1
1. Đất thổ cư
6.165,0
9.691,0
9.898,8
9.941,2
9.990,7
+ 3.825,7
+ Đất ở đô thị
393,9
993,9
1.567,4
1.794,6
1.825,7
+ 1.431,8
+ Đất ở nông thôn
5.771,1
8.697,1
8.330,4
8.146,6
8.165,0
+2.393,9
2. Đất khu công nghiệp
700,8
1.543,6
2.937,8
2.967,8
2.867,8
+ 2.167,0
3. Đất giao thông
4.830,8
6.031,7
6.437,7
6.601,9
6.763,8
+ 1.933,0
4. Đất thuỷ lợi
2.777,7
4.547,6
4.511,4
4.517,1
4.536,2
+ 1.758,5
5. Đất quốc phòng
140,8
180,8
134,6
139,4
143,5
+ 2,7
5.308,4
7.048,5
7.715,1
7.800,9
7.805,8
+ 2.497,4
6. Đất xây dựng công trình văn hoá, xã hội
884,5
963,2
990,0
990,1
990,1
+ 105,6
7. Đất tôn giáo, nghĩa trang, nghĩa địa
8. Đất phi NN khác
13,8
15,6
17,1
17,1
17,1
+ 3,3
Đơn vị: Ha
Nguồn: Niên giám thống kê Bắc Ninh và Báo cáo tình hình biến động đất của
Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh.
Trong số đất phi nông nghiệp biến động tăng, đất thổ cư có mức tăng cao nhất,
với 3.825,7 ha, chiếm 30,9% tổng số diện tích đất phi nông nghiệp tăng lên. Đặc
biệt, đất ở nông thôn đã tăng 2.393,9 ha, chiếm 62,57% diện tích đất tăng của đất
thổ cư. Đây là một trong các dấu hiệu phản ánh tốc độ ĐTH cao của Bắc Ninh trong
những năm qua, nhưng đó cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng dư
thừa và khủng hoảng về bất động sản trên địa bàn tỉnh. Tiếp theo đất thổ cư, đất các
công trình văn hóa xã hội có quy mô tăng thứ hai, với 2.497,4 ha, chiếm 20,16%
tổng tăng của đất phi nông nghiệp. Trên thực tế, khi Bắc Ninh tái lập tỉnh, việc xây
dựng công sở và các công trình văn hóa, xã hội trên địa bàn tỉnh là cần thiết và tạo
82
nên sự biến động lớn về đất phi nông nghiệp ở loại đất này. Đây là sự biến đổi tăng
hợp lý. Những loại đất phi nông nghiệp có mức tăng khá cao tiếp theo là đất xây
dựng các khu, cụm công nghiệp, với 2.167 ha; đất xây dựng các công trình giao
thông tăng 1.933 ha; đất xây dựng các công trình thủy lợi tăng 1.758,5 ha; đất nghĩa
trang, nghĩa địa tăng 105,6 ha, đất quốc phòng tăng 2,7 ha và các loại đất phi nông
nghiệp khác tăng 3,3 ha.
Sự biến động tăng của các loại đất thổ cư, đất khu công nghiệp, đất các công
trình văn hóa, xã hội, đất giao thông… phản ánh mức độ ĐTH, CNH cao ở Bắc
Ninh những năm 2000 - 2012. Sự biến động lớn của đất thủy lợi, của đất thổ cư
nông thôn và phần đất giao thông nông thôn phản ánh mức độ đầu tư cho CNH và
HĐH nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh. Những biến động trên phù hợp với xu thế
biến động chung của các địa phương nước ta những năm đổi mới. Tuy nhiên, với địa
phương có quy mô diện tích nhỏ như Bắc Ninh mức độ biến đổi trên là khá lớn. Vì
vậy, sự biến động tăng về các loại đất phi nông nghiệp như trên sẽ tạo nhiều những
3.2.2.2. Thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN theo các địa phương trong tỉnh
bất lợi nhất định cho sản xuất nông nghiệp và đời sống có ĐNN bị chuyển đổi.
Cũng giống như các địa phương khác, ở Bắc Ninh mức độ chuyển đổi đất
ĐNN, nhất là từ ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp thường diễn ra ở các xã,
huyện, thị có những điều kiện CNH và ĐTH cao. Cụ thể:
- Xét chung theo huyện, thị, thành phố: ĐNN chuyển sang mục đích phi nông
nghiệp tập trung ở Thành phố Bắc Ninh, Thị xã Từ Sơn, các huyện Quế Võ, Yên
Phong, Tiên Du. Đây là những địa phương có sức thu hút đầu tư cao, vì gần đường
giao thông, nhất là tuyến Quốc lộ 1A, Quốc lộ 18 và cận kề với Thủ đô Hà Nội.
Theo Đề án quy hoạch các khu công nghiệp, ĐNN các huyện Quế Võ, Yên
Phong, Thuận Thành và Thị xã Từ Sơn chuyển sang xây dựng 15 khu công nghiệp
là chủ yếu và lên đến 5.529,63 ha, trong đó huyện Quế Võ là 1.431,13 ha, Yên
Phong 938,12 ha, Tiên Du là 410,36 ha, Thị xã Từ Sơn là 1,246,19 ha, huyện Thuận
Thành là 690,14, huyện Gia Bình là 306,69 ha.
83
Tính đến tháng 6 năm 2013, riêng các khu công nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh đã thu
hồi 2.671,09 ha ĐNN, chiếm 48,3 tổng diện tích các khu công nghiệp cần thu hồi và
chiếm 40,34% ĐNN chuyển đổi sang các mục đích phi nông nghiệp, (UBND tỉnh
Bắc Ninh, 2011a, 12-13).
Đối với đất đô thị, việc xây dựng các khu đô thị đứng thứ 2 về mục đích chuyển
đổi của ĐNN. Theo Báo cáo của Cục Thống kê, trong vòng 12 năm diện tích đất ở đô
thị đã tăng 1.431,8 ha, từ 393,9 ha năm 2000 lên 1.825,7 ha năm 2012. Đất ở đô thị
tăng ở các địa bàn có khả năng ĐTH như Thành phố Bắc Ninh do nhu cầu mở rộng
thành phố, do huyện Từ Sơn nâng lên Thị xã Từ Sơn, do mở rộng các thị trấn phố
huyện và do xây dựng các khu đô thị ở các huyện có CNH cao như Từ Sơn, Quế Võ,
Yên Phong, (Cục thống kê Bắc Ninh, 2005, 16-17).
Hiện nay, đất mở rộng các khu đô thị đã được thu hồi khoảng 52%. Các khu
công nghiệp ở Yên Phong, Từ Sơn, Quế Võ là những nơi có sức thu hút cao, được
các Công ty Bất động sản có tiềm lực kinh tế đầu tư nên có mức độ thu hồi đất lớn
hơn. Hiện các dự án đầu tư xây dựng đô thị ở các địa phương này vẫn đang tiếp tục
triển khai, nhiều dự án vẫn đang ở trạng thái phê duyệt, trong khi bất động sản nhà
ở ở những nơi khác đang ở trạng thái đóng băng, trầm lắng.
84
Bảng 3.6: Thực trạng chuyển đổi MĐSD ĐNN sang mục đích phi nông nghiệp
theo địa phương trong tỉnh
Tiên Du
Yên Phong
Quế Võ
Loại đất
2007
2012
2007
2012
2007
2012
Tổng diện tích tự nhiên
10.838,9 9.568,7 11.733,7
9.686,2 17.793,4 15.484,8
Trong đó: 1. Đất thổ cư
1.206,9 1.103,7
1.109,5
920,5
2.054,6
1.746,8
+ Đất ở đô thị
63,5
58,1
100,3
83,3
90,3
76,8
+ Đất ở nông thôn
1.143,4 1.045,6
1.009,1
837,3
1.964,3
1.670,0
2. ĐNN
6.144,9 4.859,7
7.240,7
5.720,4 10.019,5
8.488,3
2.1. Đất cây hàng năm
6.095,2 4.812,3
7.209,6
5,692.7
9.967,5
8.465,0
2.2. Đất cây lâu năm
49,7
47,4
31,1
27,7
52,0
23,3
3. Đất lâm nghiệp
213,7
206,2
-
-
349,7
152,7
3.1. Đất rừng trồng
213,7
206,2
-
-
349,7
152,7
4. Đất NT thuỷ sản
589,0
500,3
521,0
399,3
914,6
850,8
5. Đất phi nông nghiệp
2.616,8 2.839,6
2.808,0
2.611,7
4.280,2
4.084,4
5.1. Đất công nghiệp
198,1
352,2
213,2
323,9
342,4
506,5
5.2. Đất giao thông
774,0
830,6
833,1
763,9
1.279,8
1.194,7
5.3. Đất thuỷ lợi
583,5
557,0
628,1
512,3
984,4
801,4
5.4. Đất quốc phòng
16,7
4,4
7,0
5,8
7,0
25,3
5.5. Đất công trình VH, XH
1.044,0 1.094,9
1.122,6
1.005,5
1.667,3
1.558,0
5.6. Đất phi NN khác
0,6
0,6
0,2
-
-
4,0
6. Đất chưa sử dụng
67,6
59,3
34,3
165,4
160,5
54,4
Đơn vị: Ha
Nguồn: Niên giám thống kê Bắc Ninh (2007, 2012) và Báo cáo tình hình biến
động đất của Sở Tài nguyên và Môi trường Bắc Ninh.
Như vậy, ĐNN chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp chủ yếu là xây
dựng các khu công nghiệp, khu đô thị và tập trung chủ yếu ở các huyện Tiên Du,
Quế Võ, Yên Phong.
85
Xét theo thời gian, ĐNN chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp tập trung
mạnh vào những năm 2000 - 2007. Tuy nhiên đối với các huyện Quế Võ, Yên
Phong, Tiên Du và Thị xã từ Sơn, việc chuyển đổi MĐSD ĐNN vẫn tiếp tục diễn ra
trong những năm 2008-2012 và vẫn tiếp tục triển khai vào những năm tới.
Trong 5 năm, từ 2007-2012 huyện Tiên Du giảm 1.285,2 ha ĐNN, đất phi
nông nghiệp tăng 222,8 ha, trong đó đất khu công nghiệp tăng 154,1 ha, đất xây
dựng giao thông, xây dựng các công trình văn hóa tăng gần 100 ha. Huyện Yên
Phong giảm 1.520,3 ha, huyện Quế Võ giảm 1.531,2 ha ĐNN, Thị xã Từ Sơn giảm
495,6 ha, trong khi đó diện tích ĐNN ở các huyện khác có mức giảm từ 500-700 ha
(Bảng 3.6).
Xét theo phạm vi của từng địa phương có mức độ chuyển đổi cao: Việc
chuyển đổi mục đích nông nghiệp sang các mục đích phi nông nghiệp chủ yếu là
sang xây dựng các khu và cụm công nghiệp và đất đô thị. Đất chuyển sang mục
đích xây dựng các khu công nghiệp chủ yếu ở 15 khu công nghiệp đã được phê
duyệt, trong đó có 13 khu công nghiệp đã triển khai và 8 khu công nghiệp đã đi vào
hoạt động. Đất chuyển sang các khu đô thị chủ yếu là đất xây dựng các khu dân cư
tập trung, đặc biệt là đất mở rộng thành phố Bắc Ninh và đất đô thị hóa các trung
3.3. Tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các nhóm lợi ích trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh
tâm huyện lỵ như Phố Mới huyện Quế Võ, Chờ huyện Yên Phong.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, phần này dựa trên cơ sở lý luận và khung
phân tích ở chương 2 để đánh giá tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các
3.3.1 Tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến các người bị thu hồi đất
3.3.1.1.Thực trạng của bồi thường và đền bù đối với người bị thu hồi đất
nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Về thực chất, người nông dân Bắc Ninh những năm 2000 - 2012 sử dụng
ĐNN có nguồn gốc từ đất được giao theo Nghị định 64 của Chính phủ trong quá
trình chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp là chủ yếu. Trong quá trình thực thi Luật
86
đất đai, có phần nhỏ đất đai được chuyển nhượng giữa các hộ nông dân hoặc đất
nhận đấu thầu từ hợp tác xã hoặc các tổ chức được giao đất khác. Khi chuyển
MĐSD ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp, người nông dân bị thu hồi đất có
sự thay đổi lợi ích như thế nào? Trên thực tế, ở Bắc Ninh do quỹ đất hạn hẹp không
có quỹ ĐNN thay thế phần đất chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp nên
người có ĐNN bị thu hồi được thụ hưởng một số chính sách về thu hồi đất. Tùy
theo địa phương, tùy theo thời điểm mức độ bồi thường có khác nhau, nhưng bồi
thường bằng tiền là biện pháp chủ yếu. Vậy tiền chi trả cho nông dân khi thu hồi đất
cho họ bao gồm những khoản gì? Khảo sát các phương án kinh phí bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng nói chung, khi thu hồi ĐNN nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh tôi thấy có các khoản kinh phí:
(1) Bồi thường về đất nông nghiệp theo đơn giá quy định tại từng thời điểm
nhất định, có phân biệt theo thời hạn giao đất (đất nông nghiệp tạm giao hay giao
lâu dài);
(2) Bồi thường về giá trị cây trồng trên đất, có phân biệt theo loại cây trồng
với các mức giá trị khác nhau trên đất;
(3) Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất đối với đất nông nghiệp giao
lâu dài;
(4) Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm đối với đất nông nghiệp
giao lâu dài;
(5) Ngoài ra, còn có kinh phí bồi thường, hỗ trợ tài sản, di chuyển mồ mả trên
đất nói chung, trong đó có đất nông nghiệp.
- Về tính hợp lý của các khoản mục bồi thường: Theo tôi, các khoản mục bồi
thường và mức độ phân biệt bồi thường căn cứ theo thời gian giao đất và thực trạng
các tài sản trên đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh khi thu hồi đất, thực hiện việc chuyển
mục đích sử dụng ĐNN là hợp lý. Đi sâu vào phân tích sự hợp lý của từng khoản
mục, tôi thấy rằng:
87
+ Về phần kinh phí bồi thường: Chuyển đổi mục đích, thu hồi ĐNN, người
dân bị mất đất, vì vậy bồi thường quyền sử dụng đất là hợp lý và qua bồi thường
người có đất bị thu hồi có phần thu nhập bù đắp phần lợi ích bị giảm do thu hẹp
hoạt động nông nghiệp do không còn đất. Tuy nhiên, phần bù đắp này dựa trên cơ
sở khoa học nào và với mức thế nào là vấn đề rất phức tạp trong điều kiện ở Việt
Nam nói chung, Bắc Ninh nói riêng. Kết quả khảo sát các hộ dân bị thu hồi đất cho
thấy, phần lớn các hộ đều cho rằng phần kinh phí bồi thường nhận được đem lại lợi
ích cho hộ dân, giúp họ có thêm nguồn tài chính để trang trải cho các hoạt động.
+ Về phần kinh phí bồi thường giá trị cây trồng trên đất, có phân biệt theo loại
cây trồng với các mức giá trị khác nhau trên đất. Theo tôi phần việc xác định khoản
kinh phí bồi thường và phân biệt mức bồi thường như trên là hợp lý. Tuy nhiên, nếu
phân biệt quá chi tiết sẽ làm cho việc tính toán bị phức tạp hóa; nhưng nếu đơn giản
quá sẽ gây nên những bất hợp lý giữa các hộ nông dân có giá trị nông sản trên đất
chênh lệch nhau.
+ Về phần kinh phí hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất đối với đất
nông nghiệp giao lâu dài: Đây cũng là phần kinh phí cần thiết, vì nó giúp cho người
có ĐNN bị thu hồi ổn định đời sống giai đoạn đầu khi bị xáo trộn sản xuất, chưa có
nguồn thu bổ sung khi chuyển hướng sản xuất.
+ Về phần kinh phí hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm đối với đất
nông nghiệp giao lâu dài: Đây là phần kinh phí rất cần thiết, bởi vì sau khi thu hồi
đất người nông dân không còn phương tiện để hoạt động nông nghiệp, trước hết là
hoạt động trồng trọt trên đất. Để có nguồn thu nhập ổn định đời sống, người nông
dân cần phải chuyển sang các nghề khác. Đó có thể là các hoạt động nông nghiệp,
nhưng không phải là những hoạt động cũ trong điều kiện nguồn lực cho mở rộng
nông nghiệp của gia đình và địa phương có thể thay thế. Tuy nhiên, trong điều kiện
ở Việt Nam, nhất là ở Bắc Ninh nguồn lực đất cho nông nghiệp bổ sung là rất hạn
hẹp. Vì vậy, chuyển đổi nghề nghiệp là hoạt động cần thiết đối với nông dân bị thu
hồi đất chuyển sang các mục đích phi nông nghiệp. Tuy nhiên, phần kinh phí này
chuyển cho ai để sử dụng có hiệu quả nhất cho việc chuyển đổi nghề nghiệp cần
88
được tính toán cụ thể cho từng nhóm đối tượng nông dân và điều kiện cụ thể ở từng
địa phương. Ở Bắc Ninh, hầu hết các phương án bồi thường khi chuyển đổi mục
đích sử dụng ĐNN đều được chuyển cho người có đất bị thu hồi.
+ Đối với phần kinh phí bồi thường, hỗ trợ tài sản, di chuyển mồ mả trên đất
nói chung, trong đó có đất nông nghiệp. Đây là phần kinh phí cần thiết. Phần này có
thể chuyển cho người có công trình cần di chuyển, cũng có thể địa phương hoặc
doanh nghiệp tổ chức di chuyển có sự giám sát của chủ công trình trên đất.
- Về sự biến động của các mức bồi thường khi chuyển đổi MĐSD ĐNN:
Các mức bồi thường khi thu hồi đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh có sự thay đổi theo thời gian. Giai đoạn 1997-2005, khung
giá đất nông nghiệp được xây dựng chi tiết cho từng loại đất nông nghiệp (đất trồng
cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản và đất rừng sản xuất)
và theo 6 hạng đất đối với nông nghiệp và 5 hạng đất đối với đất rừng sản xuất. Cụ
thể (bảng 3.7):
Đất trồng cây hàng năm và đất nuôi trồng thủy sản được xếp thành một khung
giá; đất trồng cây lâu năm và đất lâm nghiệp được xếp vào một khung giá những
năm 1997-1998; nhưng năm 2005 đất trồng cây lâu năm được đưa về khung của đất
nông nghiệp và phân thành 6 hạng.
Khung giá đất cây hàng năm và nuôi trồng thủy sản có 6 mức giá, chênh lệch
mức giá cao (mức 1), với mức thấp (mức 6) từ 11,35 lần năm 1997 đến 11,56 lần
năm 1998 và giảm còn 1,29 lần năm 2005. Mức chênh lệch về giá đất nông nghiệp
giữa 2 khung tùy theo hạng đất, nhưng chênh lệch nhau từ 1,38 lần năm 1997, đến
2,5 lần năm 2005.
Giai đoạn 2006-2012, khung giá đất nông nghiệp được xây dựng đơn giản hơn
về khung bậc. Đã có sự thay đổi trong khung giá khi các hạng đất được bỏ đi và
thay vào đó là 2 vị trí của đất. Trong khung giá đất năm 2010, đất trồng cây hàng
năm, đấy trồng cây lâu năm và đất nuôi trồng thủy sản được xếp chung và phân
89
thành vị trí 1 và vị trí 2. Đất rừng sản xuất không có sự phân biệt vị trí. Khung giá
đất này được duy trì cách xếp đến các năm 2011 và 2012.
Bảng 3.7: Khung giá đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
giai đoạn 1998-2005
Mức giá
Loại đất
Hạng 1 Hạng 2 Hạng 3 Hạng 4 Hạng 5 Hạng 6
Năm 1997
- Đất trồng cây hàng năm
19,30
16,10
13,10
9,80
6,30
1,70
- Đất trồng cây lâu năm
14,00
11,90
8,50
4,30
1,20
-
- Đất nuôi trồng thủy sản
19,30
16,10
13,10
9,80
6,30
1,70
- Đất lâm nghiệp
14,00
11,90
8,50
4,30
1,20
-
Năm 1998
- Đất trồng cây hàng năm
28,90
24,10
19,50
14,70
9,40
2,50
- Đất trồng cây lâu năm
21,00
17,80
12,80
6,50
1,80
-
- Đất nuôi trồng thủy sản
28,90
24,10
19,50
14,70
9,40
2,50
- Đất lâm nghiệp
21,00
17,80
12,80
6,50
1,80
-
Năm 2005
- Đất trồng cây hàng năm
41,00
38,95
37,00
35,15
33,40
31,73
- Đất trồng cây lâu năm
47,56
45,18
42,92
44,77
38,74
36,81
- Đất nuôi trồng thủy sản
41,00
38,95
37,00
35,15
33,40
31,73
- Đất lâm nghiệp
16,40
15,58
14,80
14,06
13,36
-
Đơn vị: Ha
Nguồn: (UBND tỉnh Bắc Ninh, 1998, 2004, 2005, 2010b).
Tuy nhiên, mức giá của từng loại theo vị trí có sự thay đổi theo hướng tăng lên. Cụ thể: Đất nông nghiệp năm 2011 có giá 50.000 đ/m2 ở vị trí 1 và 33.400 đ/m2 ở vị trí 2; đất lâm nghiệp ở mức 22.000 đ/m2, năm 2012 mức 70.000 đ/m2 ở vị trí 1 và 50.000 đ/m2 ở vị trí 2 đối với đất nông nghiệp; 30.000 đ/m2 đối với đất lâm
nghiệp. Việc đơn giản hóa các mức giá trong đất nông nghiệp và phân thành 2 mức
vị trí là khá phù hợp vì đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng chủ yếu là đất
trồng cây hàng năm và đất đồng hạng. Trong khi đó, đất nông nghiệp có vị trí khác
90
nhau có sự biến động giá trị trong chuyển nhượng do chính sách đất đai mới, vì vậy
phân chia giá theo vị trí của đất nông nghiệp là hợp lý.
Bảng 3.8: Khung giá đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Mức giá (đ/m2)
Loại đất
Ghi chú
Vị trí 1
Vị trí 2
I. Giá sử dụng cho năm 2011: Quyết định 162/2010/QĐ-UBND ngày 23/12/2010.
1. Đất nông nghiệp, thủy sản
50.000
33.400
2. Đất lâm nghiệp
22.000
II. Giá sử dụng cho năm 2012: Quyết định 155/2011 QĐ-UBND ngày 22/12/2011.
1. Đất nông nghiệp, thủy sản
70.000
50.000
2. Đất lâm nghiệp
30.000
giai đoạn 2011-2012
Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh (2010b); (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2011b)
- Về biến động lợi ích của nông dân do mức giá bồi thường: Căn cứ vào hạng
đất, vào vị trí của đất đai, những người xây dựng khung giá đất đã căn cứ vào địa tô
để tạo các mức giá đất khác nhau. Đó là những căn cứ mang tính khoa học, như đã
phân tích về lý luận.
Trên thực tế, Bắc Ninh, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai hiện hành,
nhà nước thống nhất quản lý đất đai và giao quyền sử dụng đất đai cho các tổ chức
và cá nhân vào các mục đích khác nhau. Vì vậy, đơn giá bồi thường được xác định
là giá trị của quyền sử dụng đất. Đối với ĐNN, giá trị quyền sử dụng đất được tính
cho từng hạng đất. Đơn giá bồi thường được tính theo phương pháp thu nhập với
cách tính: mức giá bồi thường bằng thương số giữa mức thu nhập thuần tuý thu
được hàng năm trên 1 đơn vị diện tích đất so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm bình
quân một năm (tính đến thời điểm xác định giá đất) của loại tiền gửi VND kỳ hạn
01 năm (12 tháng) tại ngân hàng thương mại nhà nước có mức lãi suất tiền gửi tiết
kiệm cao nhất trên địa bàn (Nghị quyết số 188/ 2004/ NĐ-CP 16/11, 2004, 3). Việc
91
phân hạng ĐNN được cụ thể cho các loại đất, trong đó đối với đất trồng cây hàng
năm, đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất rừng sản xuất, đất rừng
phòng hộ, đất rừng đặc dụng và các loại ĐNN khác được xếp theo hạng đất và chia
thành ba loại xã theo địa giới hành chính: đồng bằng, trung du, miền núi (Nghị
quyết số 188/ 2004/ NĐ-CP 16/11, 2004, 3-4). Cách tính như trên ở Bắc Ninh là
phù hợp.
Tuy nhiên, những mức giá cụ thể trên đã thực sự hợp lý và khoa học chưa nếu
xem xét về các mức tuyệt đối? Đây là câu hỏi luận án cần có sự phân tích, giải đáp.
Lấy khung giá đất năm 2012 và lấy mức bồi thường cụ thể ở dự án Xây dựng
kinh doanh hạ tầng khu đô thị và dịch vụ VSIP được phê duyệt năm 2012 tại xã Phù
Chẩn, thị xã Từ Sơn, (UBND thị xã Từ Sơn - Trung tâm phát triển quỹ đất, 2005, 2-
3) cho thấy:
Đất của dự án phần lớn là đất lúa và ở vị trí 1, vì vậy đơn giá bồi thường ở mức 70.000 đồng/m2. Với mức bồi thường này, tổng bồi thường về đất trên 1 ha là
700 triệu đồng. Nếu tính mức năng suất là 12 tấn/năm/ha và với mức 6.000 đồng/kg
sẽ có doanh thu 72 triệu đồng/ha và nếu tính cả sản phẩm phụ có thể đạt mức 75,0
triệu/ha. Nếu tính mức lãi là 30% thì tổng lợi nhuận sẽ đạt 22,5 triệu/ha. Với mức
bồi thường 700 triệu đồng/ha, tổng mức bồi thường tương đương với mức lợi nhuận
của 31 năm của đất trồng lúa. Xét theo thời gian giao đất, mức bồi thường trên là
hợp lý.
Đối với mức bồi thường giá trị nông sản trên đất, dự án có mức 9.000 đồng/m2
và 90 triệu/ha, với tính toán doanh thu nêu trên, mức này cao hơn và đó cũng được
coi là mức bồi thường hợp lý, trong điều kiện ở Bắc Ninh.
Ngoài các mức bồi thường trên, Dự án trên ở Bắc Ninh còn phần kinh phí rất lớn để hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm (350.000 đ/m2), phần kinh phí hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất (10.000 đ/m2) đối với hộ nông dân có đất
chuyển đổi mục đích sử dụng thuộc diện giao lâu dài.
92
Đây là những khoản kinh phí rất cần thiết cho người nông dân khi có đất nông
nghiệp bị thu hồi do chuyển mục đích sử dụng. Bởi vì, khi không còn đất nông
nghiệp, người nông dân không còn việc làm nông nghiệp, phải chuyển sang các ngành nghề khác. Mức bồi thường 350.000 đồng/m2 là mức khá cao đối với Bắc Ninh, khi mức đất nông nghiệp bình quân đầu người vào khoảng 400 m2.
Để có chỗ làm mới, người có đất nông nghiệp bị thu hồi được bồi thường đã
có 140 triệu đồng/người. Với mức này người nông dân hoàn toàn có thể tham gia
đào tạo để gia nhập vào các doanh nghiệp mới mở trên địa bàn nếu còn trẻ và có
trình độ văn hóa đáp ứng hoặc đầu tư phát triển chăn nuôi, mở các hoạt động dịch
vụ ngay tại gia đình để bù đắp thu nhập ổn định, lâu dài.
Đối với những người không có khả năng mở nghề, họ có thể gửi vào ngân
hàng, với mức lãi suất thấp hiện nay 8,5%/năm, số tiền đó có thể thu về 11,9 triệu
đồng, có thể mua được gần 2 tấn thóc. Đời sống của người dân bị thu hồi đất vẫn
được đảm bảo, khi họ không còn sức lao động hoặc không thể kiếm được việc làm.
Tuy nhiên, mức bồi thường, hỗ trợ việc làm chỉ đặt ra đối với đất nông nghiệp được
giao ổn định lâu dài, đối với phần tạm giao hoàn toàn không được đặt ra và phần
kinh phí này chỉ được thực hiện trong ở dự án Xây dựng kinh doanh hạ tầng khu đô
thị và dịch vụ VSIP.
Như vậy với các mức bồi thường trên, tổng kinh phí bồi thường cho người
nông dân có đất bị thu hồi do chuyển đổi mục đích sử dụng đất của dự án Xây dựng
kinh doanh hạ tầng khu đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh tại xã Phù Chẩn thị xã Từ Sơn là 439.000 đồng/m2, 158,040 triệu/sào và 4,39 tỷ đồng/ha đối với đất nông
nghiệp giao lâu dài (bảng 3.9). Đối với đất tạm giao chỉ là 790 triệu/ha, 28,44 triệu/sào và 79.000 đồng/m2. Mức chênh lệch kinh phí bồi thường giữa đất giao lâu
dài và tạm giao là 5,556 lần.
Trên thực tế sau khi thu hồi đất, rất nhiều vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh đối
với những người có đất bị thu hồi do chuyển mục đích sử dụng. Bởi vì, phần bồi thường ở hầu hết của các dự án ở mức độ thấp (50.000 đ/m2, với các dự án trước năm 2011 và 70.000 đ/m2 với các dự án năm 2012 đến nay). Đặc biệt, việc bồi
93
thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi chủ yếu bằng tiền đã tác động xấu đến lợi
ích kinh tế lâu dài, bền vững của các hộ nông dân.
Bảng 3.9: Kinh phí bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án xã Phù
Các khoản bồi thường
Diện tích (m2)
Đơn giá (đ/m2)
Thành tiền (triệu đồng)
I. Tổng phương án bồi thường, hỗ trợ
1. Bồi thường về đất
162.649,4
70.000
11.385,458
2. Bồi thường hoa màu
162.649,4
9.000
1.463,844
3. Hỗ trợ ổn định sản xuất và đời sống
126.828,4
10.000
1.268,284
4. Hỗ trợ chuyển đổi nghề, tạo việc làm
126.828,4
350.000
44.389,835
5. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ tài sản…
291,301
II. Bồi thường cho hộ
Giao lâu dài
Tạm giao
Đơn giá
Thành tiền
1. Nguyễn Thị Quế
150,0
79.000
4.500,00
2. Nguyễn Xuân Tuệ
84,0
439.000
36.876,0
3. Nguyễn Thị Thảo
207,5
439.000
91.092,0
4. Nguyễn Thị Duyên
184,6
79.000
5.538,0
Chẩn, thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh
Nguồn: UBND thị xã Từ Sơn - Trung tâm phát triển quỹ đất (2005)
Khảo sát của tác giả luận án trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, trong số 112 hộ có đất
nông nghiệp chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp có trên 80% có trình độ
văn hóa thấp, chưa qua đào tạo. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp và
bị thu hồi đất, quỹ thời gian dành cho sản xuất nông nghiệp giảm (từ khoảng 82,4%
xuống còn 45,5%). Trong khi đó chuyển đổi ngành nghề của địa phương chậm, thu
hút lao động vào các hoạt động công nghiệp ít, chuyển đổi nghề nghiệp không bền
vững. Hầu hết người dân bị thu hồi đất chuyển sang dịch vụ buôn bán nhỏ, hoặc lao
động phổ thông, tỷ lệ bán thất nghiệp ở mức 43-48% quỹ thời gian lao động trong
năm. Vì vậy, thu nhập và cơ cấu thu nhập của các hộ nông dân của nhóm bị thu hồi
94
đất nông nghiệp biến động khá lớn. Thu từ sản xuất nông nghiệp giảm từ 24 triệu
đồng/hộ xuống còn 15 triệu đồng/hộ. Thu từ hoạt động phi nông nghiệp tăng từ 8
triệu lên 12 triệu đồng/hộ/năm
Đối với phần kinh phí bồi thường, kết quả điều tra cho thấy: Chính sách bồi
thường, hỗ trợ người dân có đất chuyển đổi mục đích và bị thu hồi đã bù đắp một
phần những ảnh hưởng đến thu nhập do mất đất sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, ở
Bắc Ninh do quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp nên đa số các hộ nhận bồi thường sử
dụng kinh phí vào các việc sau:
Mua sắm các công cụ, các phương tiện sản xuất chuyển đổi sang các hoạt
động phi nông nghiệp: Mua xe máy hoạt động xe ôm, mở các các dịch vụ buôn bán
nhỏ, cung ứng các lao động phổ thông.
Như vậy, các hộ có xu hướng chuyển đổi sang hoạt động phi nông nghiệp. Kết
quả điều tra cũng cho thấy các hộ dân đều cho rặng việc chuyển đổi MĐSD ĐNN
đem lại cho họ cơ hội việc làm phi nông nghiệp khác như buôn bán, kinh doanh bên
3.3.1.2 Tác động của chuyển đổi MĐSD ĐNN đến lợi ích những người bị thu
hồi đất
cạnh các khu CN, khu đô thị.
+ Các tác động tích cực: Các chính sách đã tác động đến lợi ích của hộ nông
dân khi bị thu hồi đất nông nghiệp do chuyển đổi mục đích đã có sự thay đổi theo
hướng tăng cường lợi ích cho người có đất bị thu hồi trên 2 phương diện: Số lượng
các khoản mục bồi thường, hỗ trợ từ bồi thường về quyền sử dụng đất đến hỗ trợ
thêm về ổn định sản xuất và đời sống, cuối cùng là hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp.
Giá trị tuyệt đối của các khoản được bồi thường, hỗ trợ cũng được tăng lên (từ 19.300 đồng/m2 năm 1997 lên 28.900 đồng/m2 năm 1998; lên 50.000 đồng/m2 năm 2010 và lên 70.000 đồng/m2 năm 2012 đối với bồi thường về quyền sử dụng đất và
từ chưa hỗ trợ ổn định sản xuất và đời sống, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp những năm 1997-2010 đến có mức hỗ trợ cao 350.000 đồng/m2 ở dự án VSIP. Các khoản
lợi ích đó đã góp phần bổ sung các khoản thu nhập bị giảm do mất đất sản xuất
95
nông nghiệp và tạo ra các nguồn thu nhập mới, bù đắp sự hụt giảm của nguồn thu từ
sản xuất nông nghiệp do thu hồi đất.
Các tác động tích cực khác của việc chuyển đổi đất nông nghiệp như việc làm
trực tiếp trong các khu công nghiệp và nhà máy đã thu hồi đất đai. Bên cạnh đó, còn
có các việc làm phi nông nghiệp gián tiếp do sự phát triển các khu công nghiệp, khu
đô thị tạo ra như nông dân mất đất gần các khu công nghiệp có thể xây nhà trọ cho
công nhân thuê, mở cửa hàng tạp hóa hoặc kinh doanh ăn uống, và hàng loạt các
việc làm mới nảy sinh khác. Những cơ hội việc làm này sẽ đóng góp một phần
không nhỏ cho phần thu nhập nông nghiệp bị mất đi do thu hồi đất. Qua đó có thể
giúp nông dân cải thiện đời sống và đa dạng hóa sinh kế. Điều này được thể hiện rõ
ràng thông qua cuộc phỏng vấn và điểu tra của tác giả tại địa phương. Con số thống
kê ghi lại chỉ ra rằng có gần 90% hộ gia đình được hỏi về ích lợi khi chuyển đổi
mục đích sử dụng đất cho rằng họ có thể kiếm được việc làm với thu nhập cao hơn
trong các khu công nghiệp. Thêm nữa, trên 50% hộ gia đình cho rằng so với trước
khi thu hồi đất họ cảm thấy mức độ hài lòng của gia đình tăng một phần. Như vậy,
nhìn chung, kết quả điều tra cho thấy các hộ dân hài lòng với cơ hội việc làm có
được khi chuyển đổi MĐSD ĐNN.
+ Các tác động tiêu cực: Tuy nhiên, các chính sách bồi thường, hỗ trợ đang
tạo nên những bất cập cần phải tập trung giải quyết sau:
Do mức độ hoàn chỉnh dần của chính sách đã tạo nên những mâu thuẫn về lợi
ích giữa những người bị thu hồi đất ở các thời gian khác nhau và trong cùng một
thời gian, nhưng ở các địa phương khác nhau trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh như: mức
hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp của dự án VSIP với các dự án khác ở Từ Sơn trong
năm 2010 và những dự án giai đoạn 1998-2005 với dự án triển khai năm 2010-
2013, về mức độ bồi thường giá trị quyền sử dụng đất. Sự chênh lệch này tạo nên sự
bất bình đẳng giữa các đối tượng bị thu hồi đất, dẫn đến tình trạng suy bì giữa các
dự án, gây khó khăn trong giải phóng mặt bằng với những dự án khó khăn về nguồn
hỗ trợ các khoản về chuyển đổi nghề nghiệp.
96
Việc bồi thường, hỗ trợ chủ yếu được thực hiện bằng tiền, vì vậy hiệu quả của
giải quyết các vấn đề phát sinh sau thu hồi đất chưa cao. Đành rằng, khi thu hồi đất
nông nghiệp người nông dân bị giảm thu nhập do quy mô sản xuất nông nghiệp
giảm. Tuy nhiên, mức giảm này với số lượng nhỏ và kéo dài qua nhiều năm chứ
không phải chỉ ở những năm bị thu hồi đất. Vì vậy, việc bồi thường và hỗ trợ cho
năm đầu tiên được sử dụng vào đời sống chỉ là phần ổn định đời sống nếu có, ở dự án của SVIP là 10.000 đồng/m2. Phần còn lại phải sử dụng vào mục đích chuyển đổi
nghề nghiệp để tạo việc làm mới, tạo nguồn thu ổn định, lâu dài. Thực tế lại không
hoàn toàn diễn ra như vậy, khi các khoản tiền được giao cho nông dân và họ sử
dụng các khoản tiền này không đúng mục đích hoặc không hiệu quả.
Sự biến động của chế độ sở hữu đất đai những năm gần đây đã tạo nên sự đa
dạng về nguồn đất nông nghiệp. Trên thực tế, ban đầu toàn bộ ĐNN là đất được
giao qua quá trình chuyển đổi các hợp tác xã nông nghiệp. Theo đó, người nông dân
có quyền sử dụng ĐNN được giao hầu như không phải bỏ ra một chi phí nào cả.
Tuy nhiên trong quá trình sửa đổi và thực hiện Luật đất đai, một bộ phận người có
quyền sử dụng ĐNN thực thi quyền chuyển nhượng đất đai. Vì vậy để có quyền sử
dụng ĐNN, những người này phải bỏ tiền ra thực thi quyền chuyển nhượng. Từ đây
xuất hiện 2 chủ thể có quyền sử dụng ĐNN với 2 nguồn gốc khác nhau và vì vậy
phải có cơ chế bồi thường khác nhau khi thu hồi. Vì vậy, giá đất không chỉ căn cứ
vào mức độ tạo thu nhập mà còn từ nguồn gốc của đất đai. Đây cũng là vấn đề nảy
sinh từ thực tế, những chưa được thể hiện qua các chính sách về bồi thường và hỗ
trợ ở Bắc Ninh cũng như ở Việt Nam.
Bên cạnh những tác động tiêu cực trực tiếp đến các hộ bị thu hồi đất nông
nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang các mục đích phi
nông nghiệp, nhất là xây dựng các khu công nghiệp còn tạo nên sự ô nhiễm về môi
trường, phá vỡ hệ thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp như thủy lợi, giao thông… tác
động xấu đến môi trường sống và sản xuất nông nghiệp của phần đất vẫn đang sản
xuất ở các địa phương có liên quan. Theo khảo sát của tác giả, 70% người dân khi
được hỏi về môi trường sống ở địa phương sau khi đất nông nghiệp bị thu hồi cho
97
rằng môi trường bao gồm không khí, nước, đất, … bị ô nhiễm. Và điều này kéo theo
những hệ lụy nguy hiểm cho sức khỏe và năng suất lao động. Thêm nữa, cuộc điều
tra của tác giả cũng hé lộ rằng gần như 60% người được phỏng vấn xác nhận rằng
tình hình văn hóa và an ninh trật tự tại địa phương sau khi thu hồi đất đã trở nên
không tốt như trước. Điều này có thể bắt nguồn từ việc có nhiều người nơi khác di
cư đến địa phương làm việc và gây ra sự khó khăn trong công tác quản lý nhân khẩu
3.3.2. Tác động của chuyển đổi MĐSD đất đến địa phương nơi có đất
chuyển đổi tập trung
3.3.2.1. Thực trạng của xây dựng các khu công nghiệp và đô thị
tại địa phương.
Đối với Bắc Ninh, chuyển đổi MĐSD ĐNN hầu hết chuyển sang các mục đích
phi nông nghiệp và để xây dựng các khu, cụm công nghiệp, các khu đô thị và các
công trình kinh tế - xã hội khác. Cụ thể:
- Đối với việc xây dựng các khu công nghiệp: tính đến tháng 8 năm 2013, Bắc
Ninh có 15 khu công nghiệp tập trung đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt, với
tổng diện tích quy hoạch là 6.847 ha, trong đó có 5.961 ha đã được phê duyệt quy
hoạch chi tiết, chiếm 87,06% tổng diện tích các khu công nghiệp.
Trong số 15 khu quy hoạch được phê duyệt có 8 khu đã thu hút doanh nghiệp
đầu tư và đi vào hoạt động, với diện tích 2.654,12 ha, diện tích dành cho thuê là
1.810,57 ha; vốn đầu tư hạ tầng đăng ký là 485,97 triệu USD vốn đầu tư thực hiện
314,84 triệu USD. Hiện tại, trong 8 khu công nghiệp đã hoạt động, diện tích đã cho
thuê là 1.278,7 ha đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy trên diện tích đã phê duyệt quy
hoạch đạt 70,6%, tỷ lệ diện tích lấp đầy trên diện tích thu hồi đạt 84,5%, (UBND
tỉnh Bắc Ninh, 2011a, 12-15). Cụ thể:
+ Khu công nghiệp Tiên Sơn với quy mô 402,05 ha. Chủ đầu tư là Công ty
Đầu tư phát triển hạ tầng trực thuộc Tổng Công ty Viglacera. Hiện khu công nghiệp
Tiên Sơn đã cơ bản hoàn thành các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, cho thuê 297,6 ha
98
đất công nghiệp; đã thu hút 214 dự án đầu tư, trong đó có 131 dự án trong nước và
83 dự án ngoài nước.
Hầu hết các dự án đầu tư thuộc các ngành công nghiệp điện, điện tử lắp ráp kỹ
thuật cao. Lũy kế vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các công trình dịch vụ công
cộng phục vụ người lao động thực hiện khoảng 1.006,7 tỷ đồng, đạt 105,2% so với
vốn đăng ký.
+ Khu công nghiệp Quế Võ có quy mô 636,95 ha. Chủ đầu tư là Tổng Công ty
phát triển Đô thị Kinh Bắc. Hiện khu công nghiệp Quế Võ đã cơ bản hoàn thành các
hạng mục hạ tầng theo tiến độ, đảm bảo chất lượng, phục vụ tốt cho các nhà đầu tư
và doanh nghiệp. Trong diện tích sử dụng, hiện đã cho thuê được 313,39 ha; đã thu
hút 152 dự án, trong đó có 60 dự án trong nước và 92 dự án từ ngoài nước. Lũy kế
vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các công trình dịch vụ công cộng phục vụ
người lao động thực hiện khoảng 1.022,5 tỷ đồng, đạt 91,7% so với vốn đăng ký.
+ Khu công nghiệp Đại Đồng - Hoàn Sơn có quy mô 368 ha được đầu tư thành
2 giai đoạn (giai đoạn 1 quy mô 272 ha, giai đoạn 2 là 96 ha). Hiện tại việc phát
triển khu Đại Đồng - Hoàn Sơn đã cơ bản hoàn thành giai đoạn 1 và các hạng mục
hạ tầng kỹ thuật giai đoạn 2 đang khẩn trương xây dựng theo thiết kế. Phần đầu tư
hạ tầng giai đoạn 1 đã xong và đã cho thuê 156,2 ha đất công nghiệp; đã thu hút
được 73 dự án, trong đó có 54 dự án trong nước và 19 dự án đến từ ngoài nước. Lũy
kế vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các công trình dịch vụ công cộng phục vụ
người lao động cả 2 giai đoạn thực hiện khoảng 411,9 tỷ đồng, đạt 55 % so với vốn
đăng ký.
+ Khu công nghiệp Yên Phong có quy mô 665 ha và được phân là 2 giai
đoạn (giai đoạn 1 có quy mô 351 ha và giai đoạn 2 có quy mô 314 ha). Các ngành
nghề khuyến khích thu hút tập trung vào công nghiệp điện, điện tử, lắp ráp cơ khí
kỹ thuật cao và chế biến thực phẩm. Khu công nghiệp Yên Phong do Công ty Đầu
tư phát triển hạ tầng trực thuộc Tổng Công ty Viglacera là chủ đầu tư. Hiện tại đã
cơ bản hoàn thành các hạng mục hạ tầng kỹ thuật; đã cho thuê được 199,93 ha đất
công nghiệp với 64 dự án, trong đó có 8 dự án trong nước và 56 dự án nước ngoài.
99
Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng trực thuộc Tổng Công ty Viglacera. Lũy kế vốn
đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các công trình dịch vụ công cộng phục vụ người
lao động của giai đoạn 1 thực hiện là 1.057,35 tỷ đồng, đạt 106,83 % so với vốn
đăng ký.
Các công việc của giai đoạn 2 đang ở những bước ban đầu. Đã thực hiện bồi
thường giải phóng mặt bằng đợt 1 là 60 ha trong tổng số 313,9 ha và đang hoàn
thiện các thủ tục tiếp theo để khởi công dự án.
+ Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP- Bắc Ninh có quy mô 700 ha,
trong đó khu công nghiệp là 500 ha và khu đô thị 200 ha. Đối với khu công nghiệp,
ngành nghề khuyến khích đầu tư là lắp ráp cơ khí điện lạnh, cơ khí điện tử và kho
vận ngoại thương. Hiện tại các hạng mục hạ tầng kỹ thuật được đầu tư xây dựng
đồng bộ cả khu công nghiệp và khu đô thị. Với khu công nghiệp, đã cho thuê 180
ha đất công nghiệp, với 44 dự án, trong đó có 7 dự án trong nước và 37 dự án ngoài
nước. Tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các công trình dịch vụ công cộng
phục vụ người lao động lũy kế thực hiện được 74,6 triệu USD, đạt 92,5 % so với
vốn đăng ký.
+ Khu công nghiệp Quế Võ 2, với quy mô 270 ha, ngành nghề khuyến khích
đầu tư là điện tử, lắp ráp cơ khí kỹ thuật cao, chế biến thực phẩm và sản xuất hàng
tiêu dùng, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần
đầu tư phát triển đô thị và Khu công nghiệp Quế Võ IDICO. Hiện các hạng mục hạ
tầng đang được đầu tư xây dựng, trong đó nhiều hạng mục đã hoàn thành. Vì vậy,
khu công nghiệp Quế Võ 2 đã cho thuê 20,65 ha đất công nghiệp, thu hút được 9 dự
án trong nước đầu tư. Tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, các công trình
dịch vụ công cộng phục vụ người lao động lũy kế thực hiện được 255 tỷ đồng, đạt
50,6 % so với vốn đăng ký.
+ Khu công nghiệp Thuận Thành 3, gồm 2 phân khu: Phân khu A có quy mô
140 ha. Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần Khai Sơn; ngành nghề khuyến khích đầu tư
là lắp ráp cơ khí, cơ khí điện tử và chế biến nông, lâm sản. Hiện tại, phân khu đã
xây dựng cơ bản xong các hạng mục hạ tầng kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu hoạt động
100
của các doanh nghiệp; đã cho thuê 79,29 ha đất công nghiệp; thu hút được 35 dự án,
trong đó dự án trong nước là 27 và dự án ngoài nước là 8. Lũy kế đầu tư xây dựng
hạ tầng kỹ thuật đạt 385 tỷ, chiếm 87,8% tổng vốn đăng ký.
Phân khu B có quy mô 297 ha, do Công ty cổ phần đầu tư Trung Quý Bắc
Ninh làm chủ đầu tư. Hiện đã tiến hành xong hồ sơ bồi thường giải phóng mặt bằng
cho 7,07 ha. Lũy kế giá trị đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp mới
đạt 4,65 tỷ đồng.
+ Khu công nghiệp Hanaka có quy mô 74 ha, do Công ty Cổ phần tập đoàn
Hanaka làm chủ đầu tư. Ngành nghề thu hút đầu tư tập trung vào sản xuất thiết bị
điện, máy biến áp và phụ tùng chi tiết, bao bì kim loại. Hiện chủ đầu tư đang tiếp
tục đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, nhưng đã cho thuê được 12,9 ha đất
công nghiệp, thu hút được 2 dự án đầu tư. Lũy kế giá trị đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ
thuật khu công nghiệp ước đạt 140,2 tỷ đồng, đạt 34,5% so với vốn đăng ký,
(UBND tỉnh Bắc Ninh, 2013, 1-7).
Trong số 5 khu công nghiệp đã triển khai xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công
nghiệp, nhưng chưa có nhà đầu tư thứ cấp hầu hết là những khu công nghiệp mở
tiếp ở các địa phương đã có các khu công nghiệp đang hoạt động. Tổng diện tích đất
quy hoạch chi tiết xây dựng được phê duyệt của 5 khu là 1.362,5 ha; đất công
nghiệp cho thuê là 899,6 ha. Đây là những địa phương có sức hấp dẫn đầu tư khá
cao. Tuy nhiên, do mới triển khai đầu tư hầu hết các dự án đang ở giai đoạn giải
phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng kỹ thuật nên ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế đã tác động mạnh đến sức thu hút các nhà đầu tư thứ cấp. Cụ thể:
+ Khu công nghiệp Yên Phong 2, quy mô 273 ha, chủ đầu tư Công ty cổ phần
xây dựng hạ tầng sông Đà; ngành nghề khuyến khích đầu tư là cơ khí kỹ thuật cao,
lắp ráp điện tử hoàn chỉnh, thiết bị viễn thông. Hiện khu công nghiệp mới chi trả
tiền bồi thường giải phóng mặt bằng 9,17 ha trên 17 ha được phê duyệt phương án
bồi thường; hoàn thành công tác kiểm đếm, lập hồ sơ thu hồi đất trên phần diện tích
còn lại (195 ha).
101
+ Khu công nghiệp Thuận Thành 2, quy mô 252 ha, chủ đầu tư Công ty trách
nhiệm hữu hạn nhà đất Shun Far; ngành nghề khuyến khích đầu tư là sản xuất, lắp ráp
điện tử kỹ thuật cao, chế biến thực phẩm. Hiện chủ đầu tư đã bồi thường được 59,58
ha, hoàn thành san lấp được 17 ha. Giá trị đầu tư hạ tầng lũy kế mới đạt 109 tỷ đồng.
+ Khu công nghiệp Gia Bình, quy mô 306 ha, chủ đầu tư Công ty trách nhiệm
hữu hạn đầu tư khai thác Chuan Jia Bao (Việt Nam), sản xuất, lắp ráp điện tử kỹ
thuật cao, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng, may mặc là các ngành nghề được
khuyến khích đầu tư. Hiện khu công nghiệp mới hoàn thiện hồ sơ giải phóng mặt
bằng được 63 ha, phê duyệt phương án bồi thường cho 10,6 ha và chi trả cho các hộ
dân được 2,04 ha; tiến hành xây dựng được một số hạng mục hạ tầng.
+ Khu công nghiệp Quế Võ 3, quy mô 524,7 ha, chủ đầu tư Công ty cổ phần
DABACO, ngành nghề khuyến khích kinh doanh gồm cơ khí kỹ thuật cao, lắp ráp
điện tử hoàn chỉnh, thiết bị viễn thông. Hiện đã xây dựng được một số hạng mục kỹ
thuật hạ tầng như cổng và đường vào khu công nghiệp; bồi thường và giải phóng
mặt bằng được 153,3 ha. Lũy kế giá trị đầu tư thực hiện khoảng 429 tỷ đồng.
+ Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ Nam Sơn – Hạp Lĩnh, với 3 phân khu:
Phân khu A, với quy mô 432 ha, do Tổng Công ty phát triển đô thị Kinh Bắc là chủ
đầu tư. Các ngành nghề khuyến khích kinh doanh là cơ khí kỹ thuật cao, lắp ráp
điện tử hoàn chỉnh, thiết bị viễn thông.
Hiện tại phân khu đã bồi thường giải phóng mặt bằng cho 156,34 ha, san lắp
mặt bằng 4 ha, thi công các tuyến giao thông đấu nối và nội bộ. Tổng vốn đầu tư
xây dựng hạ tầng kỹ thuật trong phân khu là 143,17 tỷ đồng đạt 7,79% so với số
vốn đăng ký.
Phân khu B, quy mô 200 ha, chủ đầu tư là Công ty đầu tư phát triển hạ tầng
thuộc Tổng công ty Viglacera. Hiện chủ đầu tư của phân khu mới đang thực hiện
bước lập nhiệm vụ, đồ án quy hoạch khu công nghiệp.
102
Phân khu C, chủ đầu tư là Công ty Trường An, với quy mô 200 ha, hiện chủ
đầu tư của phân khu cũng đang triển khai các bước lập nhiệm vụ và đồ án quy
hoạch khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, Bắc Ninh còn 2 khu công nghiệp chưa triển khai đầu tư là Khu
công nghiệp, đô thị và dịch vụ Đại Kim và Khu công nghiệp Từ Sơn với diện tích
507 ha và 303 ha. Đây là các khu công nghiệp đã được phê duyệt tổng thể, nhưng
chưa được triển khai. Ban quản lý các khu công nghiệp Bắc Ninh đã làm việc với 2
chủ đầu tư (Tập đoàn Foxconn Hồng Hải và Công ty cổ phần đầu tư Việt Nam
Jababeka). Các chủ đầu tư báo cáo về chậm triển khai dự án và xin giãn tiến độ thực
hiện. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đề nghị chưa triển khai 2 khu công nghiệp này
đến 2015, (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2013, 5-7).
Địa phương
Tổng dự án
Tổng mức đầu tư (tỷ)
Diện tích QH (ha)
Diện tích XD TM (ha)
Diện tích XDXH (ha)
1. TP Bắc Ninh
9.779,9
790,07
762,628
27,442
15
2. Thị xã từ Sơn
9.232,6
521,66
408,090
113,57
18
3. Huyện Tiên Du
374,0
379,30
378,850
0,50
4
4. Huyện Yên Phong
1.252,39
126,99
120,570
6,42
3
5. Huyện Quế Võ
1.392,00
156,40
144,650
9,75
4
6. Huyện Gia Bình
243,00
25,20
24,180
1,02
1
7. Huyện Thuận Thành
3.415,30
372,25
365,170
7,08
8
Tổng số
53
25.689,3
2.371,87
2.206,138
165,372
Bảng 3.10: Các dự án xây dựng nhà ở và khu đô thị trên địa bàn tỉnh
Nguồn: Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh (2012).
- Đối với việc xây dựng các khu đô thị, cụm dân cư tập trung: Trong 10 năm,
Bắc Ninh đã phê duyệt 53 dự án xây dựng các khu đô thị, dự án phát triển nhà ở,
với tổng mức đầu tư 25.689,267 tỷ đồng, tổng diện tích theo quy hoạch là
103
2.371,87516 ha, trong đó diện tích xây dựng nhà ở thương mại là 2.206,138 ha và
diện tích xây dựng nhà ở xã hội là 168,932 ha.
Các dự án tập trung vào Thành phố Bắc Ninh, với 15 dự án, tổng mức đầu tư
là 9.799,9 tỷ đồng, tổng diện tích theo quy hoạch là 790,07 ha, trong đó diện tích
xây dựng nhà ở thương mại là 762,628 ha và diện tích xây dựng nhà ở xã hội là
27,442 ha. Thị xã Từ Sơn có 18 dự án, với tổng mức đầu tư theo quy hoạch là
9.232,6 tỷ đồng, tổng diện tích xây dựng theo quy hoạch là 521,66 ha, trong đó tổng
diện tích xây dựng thương mại là 408,09 ha, diện tích xây dựng nhà ở xã hội là
113,57 ha.
Số dự án khu đô thị và nhà ở còn lại tập trung ở 5 huyện, trong đó Thuận
Thành là huyện có 8 dự án, với mức đầu tư theo quy hoạch là 3.415,3 tỷ đồng, diện
tích xây dựng theo quy hoạch là 372,25, trong đó diện tích xây dựng nhà ở thương
mại là 365,17 ha, diện tích xây dựng nhà ở xã hội là 7,08 ha. Huyện Gia Bình có 1
dự án với mức đầu tư 243 tỷ đồng trên diện tích 25,2 ha, có 1,02 ha diện tích nhà ở
xã hội. Các huyện Tiên Du, Quế Võ mỗi huyện có 4 dự án, huyện Yên Phong có 3
dự án. Tổng mức đầu tư theo quy hoạch của các huyện này từ 1.200 - 1.400 tỷ, diện
tích từ 127 - 380 ha.
Các dự án đã phê duyệt, việc triển khai được tiến hành khá khẩn trương. Trong
số 53 dự án đầu tư có 49 dự án đã triển khai đầu tư, có dự án đã xây dựng 70-80%
diện tích nhà ở thương mại như: Dự án khu nhà ở số 8 Đông Nam Tiền An, Ninh
Xá tại Thành Phố Bắc Ninh; dự án Khu nhà ở đường Kinh Dương Vương Phường
Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh…
Tuy nhiên, do tác động của khủng hoảng kinh tế dẫn đến việc huy động vốn có
những khó khăn, thị trường bất động sản trầm lắng dẫn đến giá bất động sản giảm
sút so những năm trước đây nên một số dự án xây dựng đô thị và nhà ở đã được phê
duyệt triển khai chậm tiến độ. Tính đến tháng 12 năm 2012, trong số 53 dự án đã
phê duyệt có 6 dự án chưa giải phóng mặt bằng, mặc dù có dự án được phê duyệt từ
năm 2009.
104
Bảng 3.11: Danh mục các khu đô thị mới, dự án phát triển nhà ở chậm
TT Tên dự án
Chủ đầu tư
Địa điểm
Số QĐ, ngày tháng, năm
Diện tích đất (ha)
Lý do chậm triển khai
Tổng mức đầu tư (tỷ)
1
1.455,0
136,5
Thành phố Bắc Ninh
Dự án chưa GPMB
258/QĐ-SXD ngày 24/11/2009
2
1.940,0
200,0
Đã duyệt quy hoạch chi tiết 1/2000
Tổng CT phát triển đô thị Kinh Bắc Công ty CP tập đoàn DABACO Việt Nam
3
2.086,0
Tập đoàn Hồng Hải
Xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh Xã Nam Sơn, TP Bắc Ninh
Đã duyệt quy hoạch chi tiết 1/2000
234,0
Dự án chưa GPMB Dự án chưa GPMB
Thành phố Bắc Ninh Khu đô thị mới Phúc Ninh Khu đô thị Nam Sơn - Hạp Lĩnh (200 ha) Khu đô thị Đại Kim (234 ha) Huyện Quế Võ
1
582,0
68,6
Khu đô thị Quế Võ III
Công ty cổ phần Dabaco Việt Nam
Dự án chưa GPMB
xã Việt Hùng, huyện Quế Võ
2
508,0
58,1
Thị trấn phố Mới
Khu đô thị Quế Võ, thị trấn Phố Mới
Công ty CP đầu tư PT và xây dựng Tây Hồ
295/QD-SXD ngày 08/9/2009 341/QD-SXD ngày 31/12/2010
Dự án đang xin điều chỉnh quy hoạch
1
490,0
47,2
219/QĐ-SXD 20/09/2010
Dự án chưa GPMB
Huyện Thuận Thành Khu đô thị Thuận Thành 2
Cty PT Nhà đất SHUN- FAR
Khu CN Thuận Thành 2
Tổng cộng
7.061,0
744,0
triển khai trên địa bàn tỉnh
Nguồn: Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh (2012)
Trong số các dự án chậm triển khai có 3 dự án triển khai trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh, 2 dự án trên địa bàn huyện Quế Võ và 1 dự án trên địa bàn huyện
Thuận Thành. Đây là những dự án có quy mô lớn về tổng mức đầu tư và diện tích
đất thu hồi. Tổng mức đầu tư của các dự án chưa triển khai là 7.061 tỷ đồng, chiếm
27,48% tổng mức đầu tư, 31,37% diện tích đất của các dự án đầu tư xây dựng khu
đô thị và nhà ở trên địa bàn.
Với các dự án phê duyệt trên, sau khi thực hiện hoàn chỉnh Bắc Ninh có
88.205 căn hộ mới, trong đó có 36.716 căn hộ chung cư và 51.489 căn hộ nhà thấp
105
tầng. Tổng diện tích nhà ở theo quy hoạch là 9.875.399 m2, trong đó có 2.178.292 m2 nhà ở chung cư, 7.696.107 m2 nhà ở thấp tầng.
3.3.2.2. Đánh giá tác động của xây dựng các khu công nghiệp, đô thị đến địa
phương có đất chuyển đổi mục đích tập trung
Cơ sở quan trọng của xây dựng các khu công nghiệp, đô thị là chuyển đổi mục
đích và thu hồi đất nông nghiệp. Vì vậy, có thể đánh giá tác động của xây dựng các khu
công nghiệp, đô thị đến các địa phương có đất nông nghiệp chuyển đổi mục đích tập
trung như là tác động của quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp.
- Tác động của xây dựng các khu công nghiệp: Với 8 khu công nghiệp đã
được xây dựng hoàn chỉnh và đi vào hoạt động, việc thu hút các doanh nghiệp đầu
tư vào các khu công nghiệp khá khả quan. Tính đến hết năm 2012, Bắc Ninh đã thu
hút được 568 dự án, trong đó có 293 dự án đã đi vào hoạt động ở các khu công
nghiệp. Tổng số vốn đăng ký lũy kế đến hết năm 2012 của 568 dự án là 105.077 tỷ
đồng, trong đó vốn đầu tư thực hiện lũy kế là 40.143 tỷ đồng (UBND tỉnh Bắc
Ninh, 2013, 20-21).
(Đơn vị: Tỷ VNĐ)
Hình 3.1: Giá trị sản xuất công nghiệp trong các khu công nghiệp
Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh (2010a)
106
8 khu công nghiệp đã xây dựng và 7 khu công nghiệp đã và đang triển khai tạo
ra hệ thống hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị lớn, có thời hạn sử dụng lâu dài,
góp phần hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh, góp phần phục vụ cho hoạt
động của các ngành trong tỉnh.
Các dự án, các doanh nghiệp đầu tư và thu hút vào các khu công nghiệp trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã tạo ra giá trị sản xuất là 142.704 tỷ đồng năm 2011 và
273.965 tỷ đồng năm 2012, tăng 1,9 lần so với năm 2011 và 15,22 lần so với năm
2005. Với đóng góp đó, các khu công nghiệp đã đóng góp vào tăng trưởng ngành
sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh về kinh tế của
tỉnh, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng CNH, HĐH.
Sự phát triển của các khu công nghiệp đã tạo nên sự biến đổi đột biến về kim
ngạch xuất, nhập khẩu. Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu ở mức 156 triệu USD,
xuất khẩu đạt 100 triệu. Đến năm 2011, kim ngạch nhập khẩu ở mức 5.506 triệu
USD và xuất khẩu đạt mức 6.543 triệu USD. Năm 2012 vượt lên đến 12.200 triệu
USD đối với nhập khẩu và 13.630 triệu USD đối với xuất khẩu. So với năm 2006,
kim ngạch nhập khẩu tăng 78,2 lần, xuất khẩu tăng 136,3 lần, (UBND tỉnh Bắc
Ninh, 2010a, 22).
(Đơn vị: Người)
Hình 3.2: Mức lao động thu hút lũy kế trong các khu công nghiệp
Nguồn: UBND tỉnh Bắc Ninh (2010a)
107
Đây là cơ sở quan trọng và trực tiếp tạo sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh với tốc
độ nhanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế khá nhanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ đó, nguồn thu ngân sách từ các khu công
nghiệp của Bắc Ninh không ngừng tăng. Theo khảo sát của tác giả đối cán bộ thống
kê và nhà nước về tình hình chuyển đổi mục đích sử dụng đất thì thu ngân sách nhà
nước từ việc thu hồi đất nông nghiệp trong 10 năm qua gia tăng mạnh. Cụ thể, xây
dựng các công trình công cộng đóng góp với tỷ trọng lớn nhất, với giá trị trung bình
là 47 tỷ đồng vào năm 2003, trong khi đó giá trị là 412,5 tỷ đồng vào năm 2013. Kế
đến là đóng góp của chuyển đổi sang các khu công nghiệp, nhà máy, xưởng sản
xuất tăng từ 15,4 tỷ đồng năm 2003 đến 133,1 tỷ đồng trong năm 2013. Con số thu
ngân sách từ việc thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang đất ở tăng từ 12,8 tỷ đồng
trong năm 2003 đến 112,5 tỷ đồng vào năm 2013 (Phụ lục 1).
Đặc biệt, việc xây dựng và mở rộng phát triển các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh đã tạo thêm nhiều việc làm, thu hút được nhiều lao động vào làm
việc trong các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Năm 2005, các khu công
nghiệp thu hút được 8.168 lao động đến năm 2008 tăng lên đến 33.111 lao động.
Khi 8 khu công nghiệp đi vào hoạt động, số lượng lao động thu hút đã tăng lên
nhanh chóng. Năm 2011, số lao động thu hút lũy kế là 87.063 người, đến năm 2012
đã ở mức 116.523 người. Nếu tính cho số diện tích đất nông nghiệp thu hồi, bình
quân mỗi ha đã thu hút 43,9 lao động (116.523 người/2.654,12 ha). Một mức cao
hơn nhiều so với mức thu hút khi còn là đất nông nghiệp. Nếu tính số diện tích thực
tế sử dụng vào hoạt động công nghiệp và dịch vụ, bình quân mỗi ha đất công nghiệp
tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp là 213,55 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu 10,65
triệu/ha, tạo việc làm cho hơn 100 lao động sẽ thấy rõ hiệu quả của sử dụng đất
công nghiệp so với sản xuất nông nghiệp, (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 18).
Kết quả cũng tương tự, khi tác giả tiến hành khảo sát các cán bộ các sở ban
nghành địa phương liên quan, tổng số lao động được giải quyết công ăn việc làm từ
việc đất nông nghiệp bị thu hồi tại địa phương đã gia tăng mạnh qua các năm trung
bình từ 5403 lao động vào năm 2005 đến 7800 lao động vào năm 2013 (Phụ lục 2).
108
Thêm nữa kết quả khảo sát cũng cho thấy cơ cấu kinh tế ngành của địa
phương thay đổi mạnh mẽ theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành Nông-Lâm- Ngư
Nghiệp giảm mạnh từ 26,3% vào năm 2005 xuống còn 5,3% vào năm 2013. Một sự
giảm tương tự cũng được nhìn thấy đối ngành Dịch Vụ với 27,8 % vào năm 2005
giảm tới 15,7% vào năm 2013. Trong khi đó, tại cùng khoảng thời gian, tỷ phần
ngành Công Nghiệp và Xây Dựng đã gia tăng mạnh gần 1,5 lần với 45,9% vào năm
2005 tăng đến 79% vào năm 2013 (Phụ lục 3).
- Tác động của xây dựng các khu đô thị: tương ứng như việc xây dựng các khu
công nghiệp, Bắc Ninh đã phê duyệt 53 dự án xây dựng các khu đô thị và phát triển
nhà ở, trong đó có 49 dự án đã được triển khai. Các hoạt động trên đã tác động tích
cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội nói chung, trên địa bàn Bắc Ninh trên các
phương diện cụ thể sau:
+ Thứ nhất với các dự án trên, Bắc Ninh huy động được 25.689,267 tỷ đồng
vào xây dựng các khu đô thị và phát triển nhà ở. Ngoài ra, Bắc Ninh còn triển khai
một số dự án quy mô nhỏ hơn vào phát triển nhà ở tại các thị trấn huyện và trung
tâm cụm xã, tổng vốn huy động hàng ngàn tỷ đồng.
Với nguồn vốn huy động trên, Bắc Ninh đã tạo ra hệ thống nhà ở hiện đại, tập
trung và hệ thống hạ tầng kinh tế, xã hội đi theo như hệ thống điện, giao thông, các
công trình văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao…
+ Thứ hai, các dự án xây dựng nhà ở và đô thị trên địa bàn tính Bắc Ninh với
nguồn vốn huy động lớn đã tạo việc làm cho các lao động ngành xây dựng nhà ở,
xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Với các dự án được phê duyệt nêu trên,
ước tính có 69.127.373 ngày công (tương đương với 240.025 lao động/năm) được
huy động cho xây dựng nhà ở và 150.000 lao động/năm được huy động cho xây
dựng các công trình hạ tầng trong các khu đô thị và các dự án nhà ở tập trung.
Ngoài ra, việc thu hút các vật tư xây dựng đã tạo thêm nhiều việc làm cho các
ngành sản xuất vật liệu xây dựng (sản xuất gạch, khai thác cát, sỏi, sản xuất xi
măng, gạch lát nền…), góp phần quan trọng vào việc giải quyết việc làm thu hút các
109
lao động nông nghiệp bị thu hồi đất nông nghiệp vào các hoạt đông phi nông nghiệp
và lực lượng dư thừa ở nông thôn.
+ Thứ ba, hệ thống nhà ở với tổng diện tích xây dựng thương mại là 2.206,138
ha, diện tích xây dựng nhà ở xã hội 165,372 ha. Bộ mặt đô thị nhờ đó được cải
thiện, tốc độ đô thị hóa - xu hướng phát triển tất yếu của chặng đường CNH, HĐH -
được nâng lên.
Trên thực tế, các dự án nhà ở trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh như: Khu nhà
ở đường Ngọc Hân Công Chúa, Dự án khu nhà ở số 8 Đông Nam Tiền An, Ninh Xá
và Khu nhà ở đường Kinh Dương Vương đang trong quá trình hoàn thiện đã tạo nên
bộ mặt của Thành phố Bắc Ninh trẻ, hiện đại.
+ Thứ tư, Các dự án đô thị đã tạo quỹ nhà ở cho cư dân đô thị Bắc Ninh theo
quy chuẩn, góp phần nâng cao đời sống cư dân.
Với quy mô các dự án như trên, sau khi thực hiện hoàn chỉnh các dự án, Bắc
Ninh có 88.205 căn hộ mới, trong đó có 36.716 căn hộ chung cư và 51.489 căn hộ nhà thấp tầng. Tổng diện tích nhà ở theo quy hoạch là 9.875.399 m2, trong đó có 2.178.292 m2 nhà ở chung cư, 7.696.107 m2 nhà ở thấp tầng. Việc tạo lập quỹ nhà ở
như trên sẽ tạo điều kiện cho 352.820 người có nhà ở kiên cố, theo quy chuẩn (bình
quân mỗi căn hộ 4 người theo mô hình mỗi gia đình có 2 con).
Thứ năm, với quỹ nhà ở như trên, việc xây dựng khu đô thị, phát triển các dự
án nhà ở tập trung ở Bắc Ninh sẽ tạo ra giá trị nhà ở lên đến 19.604,628 tỷ đồng, với
quỹ nhà ở chung cư (tính theo giá thấp nhất, giá của nhà ở xã hội là 8,0 - 10,0 triệu đồng/m2) và 123.137,712 tỷ đồng đối với nhà thấp tầng (giá 15,0 - 18,0 triệu/m2).
Phần giá trị tăng của xây dựng nhà ở thêm lên đến 142.742,34 tỷ đồng. Đây là
nguồn giá trị quan trọng tạo nguồn thu ngân sách địa phương, tạo thu nhập cho các
đơn vị kinh doanh nhà ở và tạo thu nhập cho các lao động của ngành xây dựng,
(UBND tỉnh Bắc Ninh, 2013, 12-13).
Tuy nhiên, chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp, xây dựng các khu
công nghiệp, và chuyển sang xây dựng các khu đô thị, khu nhà ở tập trung còn
110
những hạn chế sau:
Một là, công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn nhiều bất cập, khó khăn nhất
là việc thỏa thuận với người có đất bị thu hồi, bị vướng do sự khác biệt trong đơn
giá quyền sử dụng đất, trong hỗ trợ về đào tạo nghề, ổn định sản xuất và đời sống.
Công tác giải phóng mặt bằng chậm làm chậm tiến độ triển khai dự án làm mất thời
cơ xử lý vấn đề thị trường, vốn của chủ đầu tư, vốn vay và vốn góp của người đầu
tư mua nhà bị chậm. Điều này được minh chứng thông qua điều tra của tác giả khi
phần lớn những cán bộ địa phương được hỏi về những khó khăn trong việc thu hồi
đất nông nghiệp đều trả lời rằng công tác giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó
khăn do bồi thường còn thấp so với giá trị thị trường. Thêm nữa, chính sách hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp, tạo cộng ăn việc làm còn nhiều bất cập.
Hai là, theo điểu tra của tác giả thì gần 50% cán bộ được hỏi đều cho rằng cho
rằng các thủ tục triển khai các dự án chưa thật tinh giản. Đây cũng là một trong các
nguyên nhân dẫn đến chậm tiến độ dự án và hệ lụy tiêu cực ảnh hưởng dây chuyền
đến nhà đầu tư đã xảy ra.
Ba là, vấn đề môi trường trong khu công nghiệp vẫn còn bất cập, gây ảnh
hưởng đến môi trường ngoài khu công nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống dân cư.
Công tác kiểm tra, giám sát môi trường chưa tốt. Gần 70% người được phỏng vấn
trả lời rằng tình hình môi trường tại các địa phương có đất nông nghiệp sau khi bị
thu hồi đã bị ô nhiễm ở mức độ cảnh báo, một vài người cho rằng nó đã đến mức
3.3.3. Tác động của chuyển đổi MĐSD đất đến chủ đầu tư các khu công
nghiệp và đô thị
3.3.3.1. Thực trạng các nhà đầu tư của các khu công nghiệp và đô thị
nghiêm trọng.
- Đối với các khu công nghiệp: Trong số 15 khu công nghiệp đã được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt có 8 khu công nghiệp đã cấp giấy chứng nhận đầu tư và
đang hoạt động; 7 khu công nghiệp đang giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng.
111
Trong số 8 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động, có 9 nhà đầu tư xây dựng
và kinh doanh hạ tầng, nhưng thực chất vẫn có 8, vì Công ty đầu tư phát triển hạ
tầng thuộc Tổng công ty Viglacera đầu tư vào khu công nghiệp Tiên Sơn I và
Yên Phong. Khu công nghiệp Thuận Thành II do 2 nhà đầu tư Công ty cổ phần
Khai Sơn và Công ty cổ phần đầu tư Trung Quý Bắc Ninh thực hiện đầu tư. 7
khu công nghiệp đang giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng do 7 nhà đầu tư
thực hiện.
TT Khu công nghiệp
Chủ đầu tư
1 Tiên Sơn I
Công ty đầu tư phát triển hạ tầng thuộc Tổng công ty Viglacera.
2 Quế Võ I
Tổng công ty phát triển Đô thị Kinh Bắc
3 Đại Đồng - Hoàn Sơn Công ty Cổ phần công nghệ viễn thông Sài Gòn.
4 Yên Phong
Công ty đầu tư phát triển hạ tầng thuộc Tổng công ty Viglacera.
5 VSIP Bắc Ninh
Công ty TNHH VSIP Bắc Ninh.
6 Quế Võ II
Công ty Cổ phần đầu tư phát triển đô thị và Khu công nghiệp Quế Võ.
7 Thuận Thành III
- Công ty cổ phần Khai Sơn. - Công ty cổ phần đầu tư Trung Quý Bắc Ninh
8 Khu CN Hanaka
Công ty cổ phần tập đoàn Hanaka.
9 Yên Phong II
Công ty Cổ phần xây dựng hạ tầng Sông Đà.
10 Thuận Thành II
Công ty TNHH nhà đất Shun Far.
11 Gia Bình
Công ty TNHH đầu tư khai thác Chuan Jia Bao Việt Nam.
12 Quế Võ III
Công ty cổ phần DABACO Việt Nam.
13
Nam Sơn - Hạp Lĩnh Tổng công ty phát triển Đô thị Kinh Bắc.
14 Đại Kim
Tập đoàn Foxconn (Hồng Hải).
15 Từ Sơn
Công ty cổ phần đầu tư Việt Nam Jababeka
Bảng 3.12: Các chủ đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Nguồn: Báo cáo thực trạng phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
Trong số 16 nhà đầu tư, có 13 nhà đầu tư mang quốc tịch Việt Nam và 3 nhà
đầu tư mang quốc tịch ngoài nước, trong đó 1 nhà đầu tư người Singapore, 2 nhà
đầu tư Đài Loan. Hầu hết đó là các nhà đầu tư có tiềm lực về tài chính, có kinh
nghiệm về đầu tư và khai thác các khu công nghiệp. Các hoạt động đầu tư phần lớn
112
được triển khai vào giai đoạn kinh tế Bắc Ninh ở giai đoạn phát triển nên đã có 9/16
nhà đầu tư đã hoàn thành việc đầu tư và đi vào khai thác - cho các nhà đầu tư sản
xuất công nghiệp và dịch vụ vào kinh doanh.
- Đối với chủ đầu tư xây dựng các khu đô thị và dự án nhà ở tập trung: So với
chủ đầu tư của các dự án xây dựng nhà ở và đô thị có số lượng lớn hơn, 36 chủ đầu
tư so với 15 chủ đầu tư của các khu công nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu do đầu tư
vào các khu nhà ở và đô thị tuy có quy mô vốn lớn hơn, nhưng khả năng huy động
vốn dễ hơn, thời hạn thu hồi vốn nhanh hơn; đặc biệt khả năng cho lợi nhuận cao
lớn hơn.
Trong số 53 dự án xây dựng nhà ở và đô thị trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã
được phê duyệt, có tới 36 nhà đầu tư. Chủ đầu tư có số dự án nhiều nhất là Công ty
Cổ phần tập đoàn DABACO Việt Nam, với 11 dự án, trong đó có 4 dự án trên địa
bàn Thành phố Bắc Ninh, 2 dự án ở thị xã Từ Sơn, số còn lại ở các huyện. Công ty
Cổ phần đầu tư Xây dựng và Thương mại Phú Điền có 4 dự án và đều tập trung ở
thị xã Từ Sơn. Công ty TNHH Thông Hiệp có 4 dự án và tập trung ở thị xã Từ Sơn,
(UBND tỉnh Bắc Ninh, 2013, 2-5).
Bảng 3.13: Các chủ đầu tư vào các khu nhà ở và đô thị trên
TT
Chủ đầu tư
Số dự án
1
Công ty xây dựng Bắc Ninh
1
2
Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển nhà Bắc Ninh
1
3
Công ty Cổ phần Địa ốc An Huy
1
4
Công ty Cổ phần tập đoàn DABACO Việt Nam
11
5
Công ty TNHH Thông Hiệp
4
6
Liên doanh công ty CP đầu tư Solatech và công ty Ngôi Sao Chí Linh
2
7
Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và Thương Mại Phú Điền
4
8
Công ty phát triển đô thị Kinh Bắc
2
9
Công ty Đại Hoàng Long
1
10
Công ty Đại Dương
1
địa bàn tỉnh Bắc Ninh
113
TT
Chủ đầu tư
Số dự án
11
Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Trang
1
12
Công ty CP đầu tư và phát triển bất động sản HUDLAND
1
13
Công ty TNHH Long Vân
1
14
Tập đoàn Hồng Hải
1
15
Công ty đầu tư Phát triển Hạ Tầng
1
16
Công ty Nam Hồng
1
17
Công ty CPA.D.E.L
1
18
Công ty CP đầu tư phát triển hạ tầng Hưng Thịnh
1
19
Công ty liên doanh TNHH KCN Việt Nam – Singapore
1
20
Liên doanh công ty Cổ phần đầu tư Solatech và công ty Ngôi Sao Chí Linh
1
21
Công ty Tu Tạo và phát triển nhà Hà Nội
1
22
Công ty đầu tư phát triển hạ tầng Viglacera
1
23
Công ty TNHH thiết bị công nghiệp Tân Việt Tiến
1
24
Công ty Xây dựng Viglacera
1
25
Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại và PT Việt Nam
1
26
Công ty TNHH thương mại Huy Hùng
1
27
Công ty cổ phần đầu tư phát triển nhà và xây dựng Tây Hồ
1
28
Công ty TNHH thương mại Hoàng Minh
1
29
Công ty Cổ phần Tập đoàn Đức Việt
1
30 Vietin bank
1
31
Công ty PT Nhà đất SHUN-FAR
1
32
Công ty xây dựng 19-8
1
33
Công ty Minh Bảo
1
34
Công ty Thương mại Phú Trường An
1
35
Công ty Đầu tư Phát triển Nông nghiệp Hà Nội
1
36
Công ty Thiên Đức
1
Nguồn: Báo cáo của Sở Xây dựng tỉnh Bắc Ninh (2012).
Các chủ đầu tư xây dựng các dự án đô thị và nhà ở chủ yếu là những doanh
nghiệp trong nước, có một vài doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Hầu hết các
chủ đầu tư là những cơ sở đang hoạt động trên địa bàn Bắc Ninh; có một số doanh
114
nghiệp ở cấp Trung ương như Công ty đầu tư phát triển hạ tầng Viglacera, Công ty
cổ phần tập đoàn DABACO và ở Hà Nội như Công ty Tu tạo và Phát triển nhà Hà
Nội, Công ty cổ phần đầu tư Phát triển nhà và Xây dựng Tây Hồ.
Bên cạnh các công ty xây dựng vốn là các doanh nghiệp nhà nước, phần lớn là
các công ty tư nhân. Điều này cho thấy sự đa dạng hóa trong đầu tư phát triển nhà
và đô thị trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, bên cạnh những doanh nghiệp có tiềm
lực mạnh, có kinh nghiệm xây dựng đô thị và nhà ở còn có những đơn vị tiềm lực
và kinh nghiệm ở mức trung bình nên gặp khó khăn về vốn khi chịu sự tác động của
khủng hoảng tài chính và trầm lắng của thị trường bất động sản.
Trong số 53 dự án triển khai, có những dự án được triển khai ở giai đoạn 2001-
2005 đã hoàn thiện. Nhưng, hầu hết các dự án được phê duyệt và bắt đầu triển khai từ
năm 2008 - 2011, vì vậy nhiều dự án đang ở giai đoạn xây dựng, chưa hoàn thiện.
Tuy nhiên, do các dự án được triển khai xây dựng đề án hoặc phê duyệt ở giai
đoạn thị trường bất động sản còn ở giai đoạn phát triển nóng nên nhiều dự án chưa
triển khai xong, nhưng đã có người mua với mục đích đầu tư kinh doanh. Ảnh
hưởng của thị trường bất động sản trầm lắng không ảnh hưởng nhiều đến lợi ích của
3.3.3.2. Đánh giá tác động của chuyển đổi MĐSD đất đến lợi ích của các nhà
đầu tư khu công nghiệp và đô thị
các nhà đầu tư.
Các nhà đầu tư xây dựng các khu công nghiệp và đô thị là những chủ sử dụng
mới đất nông nghiệp sau chuyển đổi mục đích sử dụng. Họ là những người bỏ vốn
hoặc huy động vốn đầu tư hình thành nên hạ tầng khu công nghiệp để thu hút các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ vào hoạt động; hình thành nên các khu đô thị,
khu nhà ở tập trung để bán, cho thuê… Mục đích đầu tư của họ là lợi nhuận và tạo
điều kiện phát triển công nghiệp và đô thị. Do các chính sách hiện hành, một bộ
phận các nhà đầu tư đã tập trung khai thác tạo mức lợi nhuận hấp dẫn, đặc biệt do
mức chênh lệch giữa giá bồi thường khi thu hồi đất và giá cho thuê và bán khá cao
nên vấn đề lợi ích nhóm theo nghĩa hẹp đã đặt ra ở Việt Nam, trong đó có Bắc Ninh.
115
Vậy thực chất vấn đề này thế nào? Có thể đi sâu phân tích để làm rõ.
- Đánh giá của việc xây dựng các khu công nghiệp đến các nhà đầu tư xây dựng
các khu công nghiệp: Việc đánh giá được xem xét cho 2 dự án, (1) dự án có mức đầu
tư lớn của nước ngoài và (2) dự án có mức đầu tư chung trong nước. Cụ thể:
+ Dự án có mức đầu tư cao, chủ đầu tư là người nước ngoài: Trong số 16 dự
án đầu tư vào 15 khu công nghiệp, dự án Khu công nghiệp Việt Nam Singapore là
dự án có mức chi trả cho việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng lớn nhất, với mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp lên đến 350.000 đồng/m2.
Với mức đầu tư này, lợi ích của nhà đầu tư (hiệu quả về tài chính) như thế nào,
khảo sát dự án cho thấy: Hiện giá thuần (NPV) được tính là 20.553.000 USD, với tỷ
lệ chiết khấu cao (19%); tỷ suất thu hồi nội bộ (IRR) là 43,5% - một mức NPV và
IRR khá cao, (UBND thị xã Từ Sơn - Trung tâm phát triển quỹ đất, 2012, 43-44).
Bảng 3.14: Lợi ích nhà đầu tư qua phân tích hiệu quả kinh tế đầu tư
của dự án Khu công nghiệp Việt Nam Singapore
TT
Chỉ tiêu
10 năm đầu
Trung bình 1 năm
Tổng doanh thu
1
235.000.000,0
23.500.000,0
Tổng chi phí
2
147.055.000,0
13.369.000,0
Lợi nhuận trước thuế
87.941.000,0
7.995.000,0
3
3.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp
3.578.304,0
79.518,0
3.2. Thuế thu nhập cá nhân
2.673.350,0
53.467,0
3.3. Lãi ròng
79.584.000
7.235.000
3.4. Thuế giá trị gia tăng (10%)
15.809.099
316.182,0
Đvt: 1.000đồng
Nguồn: Dự án Khu công nghiệp Việt Nam Singapore (VSIP).
Tính hiệu quả trong 10 năm đầu của dự án đạt mức lợi nhuận trước thuế là 87,
941 triệu USD; thuế thu nhập doanh nghiệp (10/50 năm hoạt động) 3,578 triệu USD,
thuế thu nhập cá nhân 2,673 triệu USD, lãi ròng 79,584 triệu USD. Tính trung bình cho
1 năm hoạt động, lợi nhuận trước thuế đạt 7,995 triệu USD, lãi ròng đạt 7,235 triệu
116
USD. Đây là mức hiệu quả khá cao đối với nhà đầu tư khi tỷ suất doanh lợi là 33,87%.
Đó là động lực thu hút các nhà đầu tư vào kinh doanh hạ tầng các khu công nghiệp. Lợi
ích đó chủ yếu do các chính sách kinh tế vĩ mô mang lại, trong đó các chính sách liên
quan đến giá các yếu tố đầu vào, trong đó giá mặt bằng hay giá bồi thường khi thu hồi
đất và giá cho thuê mặt bằng khu công nghiệp, giá đầu ra đóng vai trò quan trọng.
+ Dự án có mức đầu tư thấp, chủ đầu tư là người trong nước: Những tính
toán trên trong trường hợp các dự án đầu tư triển khai thuận lợi. Đó là tình trạng của
các dự án đầu tư đã đi vào hoạt động và có mức thu hút các doanh nghiệp vào thuê
đất đầu tư ở mức khá như: Tiên Sơn 99%, Đại Đồng 96,8%, Yên Phong I 82,9%,
Quế Võ I 90,2%, Thuận Thành III (Module 1) 95,7% và VSIP 53,9%. Tuy nhiên,
đối với các dự án triển khai chưa hoàn thiện và đang ở giai đoạn chậm đầu tư như
Quế Võ III 24,4%, Hanaka 29%; đặc biệt Đại Đồng giai đoạn 2, Yên Phong II, Gia
Bình số vốn đầu tư giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng bỏ ra rất lớn, nhưng do
doanh nghiệp thu hút vào ít, hay chưa hoàn thành để thu hút nên chưa có nguồn thu.
Vì vậy, lợi ích của các chủ đầu tư thuộc dạng này chưa có hoặc ở mức độ rất thấp.
Khu công nghiệp Quế Võ III đã bỏ ra 429,03 tỷ đồng để giải phóng mặt bằng,
hiện tại mức độ thu hút doanh nghiệp đầu tư đang khó khăn nên thời gian khởi công
xây dựng hạ tầng chậm lại và thời gian thu hồi vốn cũng sẽ chậm lại nhiều. Như
vậy, lợi ích của chủ đầu tư còn phụ thuộc vào thời điểm triển khai đầu tư, trong đó
sức khỏe của nền kinh tế là một trong các nguyên nhân chủ yếu.
- Đánh giá của việc xây dựng các khu đô thị đến các nhà đầu tư xây dựng các
khu đô thị: Việc đánh giá được xem xét chung và đi sâu vào một số dự án theo thời
gian và địa điểm khác nhau.
+ Hiệu quả chung đối với các nhà đầu tư: Như trên đã đánh giá, các dự án nhà
ở tập trung ở Bắc Ninh sẽ tạo ra giá trị nhà ở lên đến 19.604,628 tỷ đồng, với quỹ nhà ở chung cư (tính theo giá thấp nhất, giá của nhà ở xã hội là 8,0 - 10,0 triệu đồng/m2) và 123.137,712 tỷ đồng đối với nhà thấp tầng (giá 15,0 - 18,0 triệu/m2). Tính theo các
dự án, mức đầu tư của 53 dự án là 25.689,3 tỷ đồng, phần giá trị tăng của xây dựng
nhà ở thêm lên đến 142.742,34 tỷ đồng. Đây là tính toán trong điều kiện các dự án
117
diễn ra thuận lợi: Việc triển khai đã xong và số sản phẩm nhà ở đã bán hết với đơn
giá giả định. Tuy nhiên trên thực tế ở Bắc Ninh, các dự án xây dựng đô thị và nhà ở
tập trung diễn ra ở những thời điểm khác nhau của thị trường bất động sản. Vì vậy,
lợi ích của từng nhà đầu tư phản ánh những bức tranh trái chiều của thị trường bất
động sản, thậm chí của riêng từng nhà đầu tư bất động sản ở những giai đoạn khác
nhau. Với thực tế đó, việc xem xét lợi ích chung chỉ phản ánh một tiềm năng về lợi
ích mà nhà đầu tư xây dựng đô thị và nhà ở tập trung có thể khai thác được. Cũng vì
lẽ đó, lợi ích của các chủ đầu tư xây dựng đô thị, nhà ở tập trung được nói nhiều như
là lợi ích nhóm (theo nghĩa hẹp) trên các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Lợi ích của các nhà đầu tư trong điều kiện bất lợi của thị trường bất động
sản: Dự án Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Him Lam phường Đại Phúc
- Thành phố Bắc Ninh đã được phê duyệt khả thi từ năm 2003, nhưng đến năm 2011
mới được phê duyệt chi tiết tỷ lệ 1/500. Vì vậy, việc triển khai dự án được diễn ra
trong bối cảnh thị trường bất động sản đã bước vào giai đoạn trầm lắng. Tuy nhiên,
theo thiết kế dự án phê duyệt hiệu quả tài chính vẫn ở mức khá cao. Cụ thể:
Bảng 3.15: Lợi ích nhà đầu tư qua phân tích hiệu quả kinh tế đầu tư
của Dự án Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Him Lam phường Đại
TT
Chỉ tiêu
Bán hết
Bán hết sau 5 năm
1
Tổng doanh thu
2.030.094,00
2.030.094,00
2
Tổng chi phí
1.497.539,00
1.497.539,00
3
Lợi nhuận trước thuế
532.555,00
532.555,00
3.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp
40.601,88
40.601,88
3.2. Lãi tiền vay sau 5 năm
-
252.576,20
3.3. Thuế giá trị gia tăng (10%)
203.009,40
203.009,40
3.4. Lãi ròng
288,943,72
36.367,52
Phúc - Thành phố Bắc Ninh, giả định hoàn thành năm 2015
Nguồn: Dự án Khu đô thị Him Lam phường Đại Phúc thành phố Bắc Ninh và
tính toán của tác giả.
118
Trong thời điểm hiện tại (2013), mức giá dự kiến cho nhà biệt thự chia lô xây thô và và nhà ở xã hội đã hoàn thiện là 8 triệu đồng/m2. Mức lãi tiền vay ngân hàng
của phần kinh phí sau 5 năm mới bán hết là 12%. Từ những giả định đó có kết quả
kinh doanh, với mức lợi nhuận trước thuế là 532.555,0 triệu đồng, lãi ròng là
288.943,72 triệu đồng nếu bán hết trong năm hoàn thành dự án. Trong trường hợp
mới bán được 50% diện tích nhà trong năm đầu và số còn lại bán trong 5 năm sau.
Số tiền vay ngân hàng theo chế độ hiện hành là 12% (có tính đến chế độ vay ưu đãi
của gói cứu trợ bất động sản), số tiền lãi ngân hàng vào khoảng 252.576,20 triệu
đồng, khi đó lãi ròng chỉ còn 36.367,52 triệu đồng. Như vậy ngay trong điều kiện
bất lợi, lợi ích của nhà đầu tư kinh doanh bất động sản vẫn được đảm bảo, mặc dù
giá bán thấp và tốc độ bán nhà chậm.
+ Lợi ích của các nhà đầu tư trong điều kiện thị trường bất động sản thuận
lợi: Giả định Dự án Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu đô thị Him Lam phường
Đại Phúc - Thành phố Bắc Ninh diễn ra bình thường và được hoàn thành theo tiến
độ và có sản phẩm vào đúng dịp giá bất động sản ở mức cao. Giả định được bán ở mức 18 triệu đồng/m2 và bán hết sau khi hoàn thành, ta có kết quả sau:
Chỉ tiêu
Số lượng (triệu đồng)
TT
1
Tổng doanh thu
4.569.534,00
2
Tổng chi phí
1.497.539,00
3
Lợi nhuận trước thuế
3.071.995,00
3.1.
Thuế thu nhập doanh nghiệp
91.390,68
3.2.
Thuế giá trị gia tăng (10%)
456.953,40
3.3.
Lãi ròng
2.523.650,92
Bảng 3.16: Lợi ích nhà đầu tư qua phân tích hiệu quả kinh tế đầu tư
Nguồn: Dự án Khu đô thị Him Lam phường Đại Phúc thành phố Bắc Ninh và
tính toán của tác giả.
Doanh thu đạt mức 4.569.534,00 triệu đồng, lợi nhuận trước thuế là
3.071.995,0 triệu đồng, lãi ròng là 2.523.650,92 triệu đồng. Đây là mức lợi nhuận
119
kinh doanh rất cao, với mức lợi nhuận trước thuế gấp 2,05 lần so với chi phí đầu tư
và 1,69 lần lãi ròng so với chi phí đầu tư.
Tuy nhiên, số doanh nghiệp kinh doanh đạt mức lợi nhuận này thuộc số ít. Sau
khi có lợi ích cao, nhiều doanh nghiệp đầu tư kinh doanh bất động sản mở rộng đầu
tư ồ ạt khiến cho tốc độ hoàn thành đầu tư chậm lại. Khi nền kinh tế chịu ảnh hưởng
của suy giảm kinh tế, bất động sản bị đóng băng đầu tư không bán được rơi vào
thua lỗ. Đây là tình trạng chung của các doanh nghiệp bất động sản trong nước. Với
Bắc Ninh, mức độ có khá hơn kinh doanh có khá hơn do vậy lợi ích của các nhà đầu
tư có bị ảnh hưởng ở giai đoạn 2008 - 2013, nhưng không lớn. Vì vậy, các nhà đầu
tư bất động sản hiện vẫn tiếp tục triển khai các dự án.
Bên cạnh đó, theo khảo sát của tác giả, tác động của chuyển đổi mục đích sử
dụng đất đối với các doanh nghiệp khác, chẳng hạn các doanh nghiêp sản xuất, hoặc
các doanh nghiệp dịch vụ trên địa bàn cũng khá tích cực. Ví dụ, phần lớn các doanh
nghiệp tại địa phương đều cho rằng việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất để hình
thành nên các khu công nghiệp trong địa bàn, điều này đã tạo giúp giảm thiểu chi
phí sản xuất của doanh nghiệp bởi vì rất nhiều khách hàng nằm trong khu công
nghiệp và vì vậy giúp giảm chi phí đầu vào của doanh nghiệp nhất là chi phí vận
chuyển. Thêm nữa, quá trình chuyển đổi đất sang các các mục đích sản xuất, mục
đich phi nông nghiệp còn được đi kèm với một số chính sách khi các doanh nghiệp
tiếp nhận sử dụng đất này để sản xuất và kinh doanh chẳng hạn ưu đãi thuế thu
nhập, miễn thuế nhập khẩu, giải quyết các thủ tục hành chính nhanh chóng và thuận
lợi. Đồng thời, hạ tầng cơ sở được bàn giao nhanh và đúng tiến độ. Nhiều doanh
nghiệp cũng cho rằng việc chuyển đổi MĐSD ĐNN còn tạo điều kiện cho doanh
nghiệp thu hút nguồn lao động tại chỗ của địa phương, chính là những hộ dân có đất
chuyển đổi.
Tuy thế, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp cũng mang
lại những tác động không tốt cho doanh nghiệp trên địa bàn. Theo khảo sát của tác
giả, khi được hỏi về những khó khăn và tác động tiêu cực của doanh nghiệp khi sử
dụng đất nông nghiệp tại địa phương, 60% doanh nghiệp cho rằng nhiều doanh
120
nghiệp gây ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất và kinh doanh nhưng
không bị xử lý hoặc xử lý không nghiêm đã ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh
chung, nhất là gây ô nhiễm nguồn nước và làm thiệt hại đến sản xuất nông nghiệp
của người dân. Thêm nữa, gần 30% doanh nghiệp cho rằng, một trong những khó
khăn khi doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh tại địa phương là không tuyển
được lao động địa phương đáp ứng nhu cầu và điều này dẫn tới phải tuyển lao động
từ nơi khác và dẫn tới gia tăng chi phí trong quá trình tuyển dụng cũng như chi phí
3.3.4. Đánh giá chung về tác động chuyển đổi mục đích sử dụng đất
đến các nhóm lợi ích.
đưa đón nhân viên tại các vùng khác về nơi sản xuất.
Từ sự phân tích trên, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất đã có những tác
động khác nhau đến các nhóm lợi ích. Có một số những tác động tích cực của
chuyển đổi mục đích sử dụng đất đối các nhóm lợi ích được truyền dẫn theo nhiều
kênh khác nhau.
Thứ nhất: Chuyển đổi mục đích sử dụng đất (CĐMĐSDĐ) thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, trả người mất đất tiền đền bù nếu được đền bù thỏa đáng và tăng
nguồn thu ngân sách của địa phương.
Như đã phân tích ở trên, về mặt lý thuyết cũng như bằng chứng thực tế điều
tra của tác giả cho thấy rằng CĐMĐSDĐ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng
nguồn thu ngân sách của địa phương và do vậy nhiều việc làm mới được tạo ra cho
lao động nông thôn. Quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp như đã
đề cập ở trên, về mặt bản chất đã biến đổi một nền cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp sang nền kinh tế với chủ yếu công nghiệp dựa trên nền tảng kỹ thuật và công
nghệ hiện đại hơn. Do vậy năng suất lao động sẽ được thúc đẩy, quy mô sản xuất sẽ
được mở rộng và nền kinh tế sẽ cần tới nhiều nguồn lực hơn và trong đó có nguồn
nhân lực ở khu vực nông thôn. Thêm nữa, thông qua quá trình thu hồi đất nông
nghiệp, nếu được đền bù thỏa đáng người dân sẽ có một khoản tiền điền bù. Điều
121
này có thể tạo ra thêm nguồn tài chính cho người dân mất đất một khoản để đầu tư,
và cải thiện thu nhập hộ gia đình.
Thứ hai: Chuyển đổi mục đích sử dụng đất thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất làm chuyển dịch các nguồn lực từ nông
nghiệp, nông thôn sang khu vực công nghiệp, dịch vụ và hệ quả là quá trình này
nhanh chóng làm thay đổi cơ cấu kinh tế của địa phương. Quá trình chuyển đổi mục
đích sử dụng đất làm mở rộng các ngành công nghiệp và dịch vụ với hàng loạt các
nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, trung tâm thương mại, và do vậy ở đó cần tới
một lượng lớn nhân công từ nông thôn di cư tới để làm việc. Bằng chứng thực tế đã
được chỉ ra từ tổng quan tài liệu và khảo sát riêng của tác giả tại địa phương
Thứ ba: Chuyển đổi mục đích sử dụng đất góp phần hiện đại hóa cơ sở hạ
tầng và làm giảm chi phí sản xuất và gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và tạo ra
nhiều cơ hội việc làm mới, đặc biệt trong lĩnh vực phi nông nghiệp
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá thúc và làm gia tăng quá trình đô thị hoá ở địa phương, và chính quá
trình đô thị hoá đem lại rất nhiều cơ hội việc làm ở khu vực kinh tế chính thức cũng
như phi chính thức cho lao động nông thôn.
Một tác động đáng kể khác của chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông
nghiệp là thông qua hình thành các khu công nghiệp và khu dân cư. Điều này dẫn
tới giảm thiểu chi phí cho doanh nghiệp nhờ có hệ thống giao thông thuận lợi, và
nhiều khách hàng nằm trong khu công nghiệp nên chi phí đầu vào, đặc biệt là chi
phí vận chuyển giảm đáng kể. Đồng thời, bằng chứng điều tra cũng cho thấy, sự gia
tăng lợi nhuận của doanh nghiệp cũng đi cùng với quá trình chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nông nghiệp.
Những tác động tiêu cực của chuyển đổi mục đích sử dụng đất
Thứ nhất: làm mất việc làm trong nông nghiệp, và thất nghiệp gia tăng do
không thích ứng được với công việc mới, và kéo theo các vấn đề xã hội.
122
Quá trình mất đất đi liền với sự mở rộng các khu đô thị, cơ sở hạ tầng đô thị
và kết quả là đất đai canh tác ngày càng bị thu hẹp. Trong khi đó lao động ở nông
thôn phần lớn là nông dân, không có bằng cấp và trình độ chuyên môn, kỹ năng làm
việc và một phần không nhỏ trong họ là những lao động lớn tuổi. Do vậy, lao động
dư thừa ở nông thôn không có khả năng thích ứng với các công việc đòi hỏi kỹ năng
làm việc và trình độ chuyên môn nhất định. Ngay cả những lao động trẻ ở nông
thôn cũng chỉ thích ứng được với công việc mang tính chất giản đơn với mức lương
thấp và thiếu ổn định ở khu vực đô thị hay các công việc lao động giản đơn trong
các khu công nghiệp.Thêm nữa
Quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất dẫn tới hàng ngàn ha đất nông
nghiệp sẽ phải hy sinh để xây dựng đường xá, các công trình công cộng đô thị, các
khu trung tâm thương mại, chung cư, khu công nghiệp,...Hệ quả là hàng ngàn hộ gia
đình sẽ mất việc làm trong nông nghiệp, đây vốn là sinh kế đã gắn bó từ thời ông
cha họ ngàn đời nay. Trong điều kiện mất đất sản xuất, thiếu việc làm ở nông thôn
làm cho dòng người di cư nông thôn - đô thị ngày càng tăng lên. Điều này có thể
dẫn tới thất nghiệp và các vấn đề xã hội nảy sinh.
Thứ hai, CĐMĐSDĐ có thể gia tăng mức độ ô nhiễm môi trường và ảnh
hưởng tiêu cực tới sản xuất nông nghiệp.
Quá trình CĐMĐSDĐ đi liền với việc mở rộng quy mô sản xuất, các khu
công nghiệp và tạo ra nhiều chất thải hơn vào môi trường. Trong nhiều trường hợp,
các chất thải công nghiệp không được xử lý đã tác động tiêu cực tới mùa màng của
người nông dân. Chất thải xuống dòng nước đã làm suy giảm năng suất lúa ở nhiều
nước Châu Á như Inđônêxia, Thái Lan và Việt Nam. Nhiều dòng sông vốn là nơi
đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản của người dân thì nay biến thành những dòng sông
chết, đã cướp đi kế sinh nhai truyền thống của người nông dân. Việc tác động của
CĐMĐSDĐ đến môi trường sống đã được minh chứng qua điều tra của tác giả, mặc
dù vậy tại Bắc Ninh thì không đến mức nghiêm trọng.
123
Kết luận chương 3
Chuyển đổi MĐSD ĐNN ở Bắc Ninh diễn ra với quy mô khá lớn và tốc độ
khá nhanh trong điều kiện của Tỉnh có quy mô diện tích tự nhiên nhỏ, nhưng sức ép
về đô thị hóa và công nghiệp hóa ở mức cao.
Trên thực tế, chuyển đổi MĐSD ĐNN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Đã tạo nên sức sản xuất mới với sự hình thành các khu, cụm công nghiệp; đổi mới bộ
mặt đô thị và từng bước xây dựng nông thôn mới với hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội
từng bước được cải thiện và đồng bộ; nhiều khu đô thị mới được hình thành.
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN đã nảy sinh những vấn đề về lợi
ích giữa các nhóm, trong đó những ảnh hưởng đến việc làm, thu nhập của những
người sản xuất nông nghiệp có đất bị thu hồi; sự tăng nhanh lợi ích của các chủ đầu
tư sử dụng ĐNN để xây dựng các khu công nghiệp, đặc biệt là khu đô thị, khu nhà ở
tập trung khi bất động sản ở trạng thái phát triển nóng đã tạo nên những dư luận về
thao túng lợi ích giữa các nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh đặt ra những vấn đề cần
giải quyết. Chương 4 sẽ trình bày phương hướng và một số nhóm giải pháp để hạn
chế những mặt tiêu cực và đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các nhóm liên quan trong
quá trình chuyển đổi đất.
124
CHƯƠNG 4.
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH
ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ ĐIỀU HÒA LỢI ÍCH GIỮA CÁC NHÓM Ở
BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2013 - 2020
4.1. Định hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN và điều hòa lợi ích giữa các
nhóm ở Bắc Ninh
4.1.1. Định hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN và giải quyết các quan hệ lợi
ích trong chuyển đổi MĐSD ĐNN đến năm 2020
Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 đã xác định phương hướng phát triển
kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh là:
Khai thác triệt để tiềm năng, thế mạnh của địa phương, huy động, sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững hơn.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động văn
hoá, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, chăm
sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân... Phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành một
tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo tiền đề để đến năm 2020 là một trong
những tỉnh dẫn đầu về kinh tế công nghiệp trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
(UBND tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 52).
- Định hướng chuyển đổi MĐSD đất tỉnh Bắc Ninh:
Trên cơ sở của định hướng trên, định hướng chung cho chuyển đổi MĐSD đất
được xác định như sau: Chuyển đổi MĐSD đất theo hướng sử dụng đầy đủ, hợp lý
đất đai; gắn khai thác sử dụng đất đai với bảo vệ, nâng cao chất lượng đất đai, bảo
vệ môi trường. Chuyển đổi mục đích đất đai hướng đến đáp ứng các yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh theo hướng CNH, HĐH.
- Định hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN tỉnh Bắc Ninh: Trên cơ sở phân tích,
đánh giá các điều kiện tự nhiên, thực trạng phát triển kinh tế xã hội, hiện trạng sử
125
dụng đất, căn cứ vào mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, dựa
trên dự báo biến động sử dụng đất, nhu cầu sử dụng đất của các ngành, khả năng
đáp ứng về số lượng và chất lượng đất, định hướng chuyển đổi ĐNN đến năm 2020
như sau:
+ Định hướng sử dụng ĐNN: Đến năm 2020 ĐNN có 38.500 ha, chiếm 46,71
% so với tổng diện tích đất tự nhiên.
ĐNN được nghiên cứu sử dụng theo hướng phát triển nền nông nghiệp sinh
thái bền vững có hiệu quả kinh tế cao, trên cơ sở khai thác hợp lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên và nguồn lực lao động ở trong tỉnh, cũng như tạo nguồn nguyên liệu hỗ
trợ cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại, trong đó:
Tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao, giá trị kinh tế và hàng hoá
lớn, đạt trên 60%. Tiếp tục đầu tư thúc đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông
nghiệp theo hướng hàng hoá, nông sản có chất lượng và hiệu quả, gắn sản xuất với
thị trường Hà Nội và các đô thị, các khu công nghiệp của Bắc Ninh, có tính đến thị
trường quốc tế xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp giá trị cao qua cửa khẩu sân bay
quốc tế Nội Bài nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất đai, lao động và
nguồn vốn.
Phấn đấu giá trị tổng sản phẩm thu nhập trên 1 ha canh tác thông qua chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ và tăng hệ số sử dụng đất. Đến năm
2020 giá trị sản xuất nông nghiệp/ha canh tác đạt 80 triệu đồng, trong đó giá trị sản
phẩm trồng trọt đạt 42- 45 triệu đồng, năng suất lúa bình quân đạt 60 - 62 tạ/ha.
+ Định hướng chuyển đổi MĐSD đất nội bộ ngành nông nghiệp: Tiếp tục
chuyển đổi MĐSD ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp. Dự kiến giai đoạn này
diện tích ĐNN phải chuyển sang mục đích phi nông nghiệp khoảng 10.000 ha (bình
quân mỗi năm giảm 950 - 1.000 ha).
Trong nông nghiệp lúa vẫn là cây trồng chính để ổn định sản xuất lương thực
trong tỉnh nhưng được bố trí thâm canh tăng vụ, tăng diện tích các cây trồng có giá
trị hàng hoá cao như hoa, cây cảnh, rau thực phẩm… Nông nghiệp được bố trí sản
126
xuất theo hướng các trang trại sinh thái để nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất.
Hạn chế chuyển đổi MĐSD đất lúa sang các mục đích phi nông nghiệp, nhất là đất
lúa có chất lượng tốt, đất lúa gần quốc lộ 1A.
Diện tích đất lúa đến năm 2020 được bố trí khoảng 35.500 - 35.600 ha, chiếm
40 - 41% diện tích tự nhiên, trong đó đất trồng lúa, lúa - màu 27.300 ha. Diện tích
đất chuyên màu - Cây công nghiệp ngắn ngày 3.200 ha, đồng cỏ 250 ha. Cây lâu
năm 430 ha. Đất lâm nghiệp khoảng 630 ha. Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản tập
trung 4.600 - 4.800 ha, (UBND tỉnh Bắc Ninh, 2010a, 55).
+ Định hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN sang đất phi nông nghiệp: Việc
chuyển đổi MĐSD ĐNN sang đất phi nông nghiệp vẫn được tăng cường, đưa đất
phi nông nghiệp năm 2020 lên 43.800 - 43.900 ha, chiếm 53 - 54% so với tổng diện
tích đất tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh. Việc chuyển đổi MĐSD ĐNN sang các MĐSD
phi nông nghiệp cụ thể như sau:
* Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp: Đến năm 2020, đất trụ sở cơ quan,
công trình sự nghiệp từ 239 - 240 ha, chiếm 0,3% diện tích tự nhiên; tăng 35,88 -
34,89 ha.
* Đất quốc phòng, an ninh: Đất quốc phòng trên địa bàn tỉnh có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Quan điểm khai thác sử
dụng đất phải luôn coi trọng nguyên tắc quốc phòng kết hợp với kinh tế và kinh tế
kết hợp với quốc phòng. Ưu tiên bố trí những địa thế đất tự nhiên thích hợp cho
mục tiêu quốc phòng. Có sự biến đổi tăng đất quốc phòng và an ninh. Đến năm
2020 đất quốc phòng có khoảng 250 ha và đất an ninh có khoảng 185 - 190 ha.
* Đất khu công nghiệp: Với lợi thế về vị trí địa lý gần Hà Nội và nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đến năm 2020 đất xây dựng các khu công nghiệp
tăng lên đến 7.500 - 8.000 ha (trong đó đất khu công nghiệp khoảng 6.850 - 7.000
ha), đất cụm công nghiệp khoảng 800 - 1.000 ha, chiếm 9 - 10% diện tích tự nhiên.
+ Đất cơ sở sản xuất kinh doanh: Theo quy hoạch các ngành thương mại dịch vụ
có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Để đạt được mục tiêu nêu trên Bắc Ninh cần đẩy
127
mạnh xây dựng hệ thống chợ gắn với các trung tâm thương mại rộng khắp, phát triển
mạnh các dịch vụ tài chính ngân hàng, các khu vực vui chơi giải trí nghỉ ngơi cuối tuần.
Bắc Ninh mở rộng Chùa Phật Tích huyện Tiên Du (trong đó đất khu vui chơi
giải trí, công viên cây xanh, đất du lịch lễ hội), xây dựng các trung tâm thương mại
phục vụ các khu công nghiệp và khu đô thị mới tổng diện tích đến năm 2015 lên
90,11 ha, tăng 26 ha so với năm 2012.
+ Đất bãi thải, xử lý chất thải nguy hại: Nhu cầu xử lý chất thải nguy hại tăng,
vì vậy đất cho MĐSD này cũng tăng lên.
Định hướng quy hoạch thêm các bãi xử lý chất thải, rác thải đảm bảo vệ sinh
môi trường, đặc biệt tại trung tâm huyện, các thị trấn, khu vực có tốc độ đô thị hoá
cao. Các chất thải rắn sẽ được thu gom 100% tại các đô thị và khu công nghiệp đưa
về các khu xử lý chất thải rắn, nguy hại. Định hướng sử dụng đất bãi thải, xử lý,
chôn lấp chất thải nguy hại đến năm 2020 khoảng 220 - 223 ha, chiếm 0,26% diện
tích tự nhiên.
+ Đất cho mục đích tôn giáo, tín ngưỡng: Tỉnh Bắc Ninh có những ngôi chùa
có quy mô rộng lớn, cổ kính, kiến trúc công phu, như chùa Dâu, chùa Phật Tích,
chùa Dạm, chùa Bút Tháp, chùa Tiêu Sơn, Cổ Pháp... Nhu cầu mở rộng khuôn viên
cần chuyển đổi MĐSD ĐNN để đáp ứng. Đến năm 2020 diện tích đất tôn giáo tín
ngưỡng khoảng 205 - 208 ha, chiếm 0,25% so với diện tích đất tự nhiên.
+ Đất nghĩa trang, nghĩa địa: Việc mở rộng nghĩa trang, nghĩa địa là nhu cầu
thực tế. Tuy nhiên, khi xác định nhu cầu đất cho việc xây dựng các khu nghĩa trang,
nghĩa địa quan điểm chung là cần xem xét dưới góc độ liên kết giữa các huyện trong
toàn tỉnh, tránh tình trạng các công trình chỉ mang tính cục bộ một khu vực nhỏ gây
lãng phí đất và khó giải quyết về vấn đề môi trường, phù hợp với phong tục tập
quán của địa phương. Đến năm 2020 đất với mục đích nghĩa trang, nghĩa địa từ 818
- 820 ha, chiếm 0,99 % so với diện tích tự nhiên.
+ Đất cho mục đích phát triển hạ tầng kinh tế, xã hội: Đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2012 - 2020, việc đầu tư xây dựng
128
cơ sở hạ tầng được chú trọng nên đất hạ tầng sẽ tăng mạnh, trong đó có phần ĐNN
chuyển sang. Dự kiến đất hạ tầng tăng lên đến 15.500 ha, chiếm 17,83% so với diện
tích tự nhiên, trong đó:
* Đất xây dựng hệ thống giao thông: Diện tích đất giao thông đô thị chiếm
khoảng 25% diện tích đất trong quy hoạch các khu đô thị mới. Giai đoạn 2012 -
2020 quỹ đất giao thông sẽ tăng thêm khoảng 1.400 - 1.500 ha.
* Đất xây dựng các công trình thuỷ lợi: Đất thuỷ lợi sẽ giảm khoảng 450 ha do
cứng hoá hệ thống kênh mương và chuyển cho các mục đích chuyên dùng khác.
Tuy nhiên, đất thủy lợi cũng tăng khoảng 380 ha do đắp đê và xây dựng mới các
công trình thuỷ lợi trong toàn tỉnh. Diện tích đất thủy lợi đến năm 2020 khoảng
4.910 ha, chiếm 5,85% diện tích tự nhiên.
* Đất cho phát triển y tế: Giai đoạn 2012 - 2020 kinh tế phát triển, đời sống
của người dân được nâng cao sẽ hình thành nên các cơ sở khám và chữa bệnh theo
mô hình dân lập (mỗi huyện thị khoảng 3 - 5 ha). Diện tích đất y tế tăng trong giai
đoạn này chủ yếu để xây dựng các cơ sở y tế dân lập ở các huyện thị và các cơ sở
khám chữa bệnh trong các khu đô thị mới. Diện tích đến năm 2020 khoảng 85 - 90
ha, chiếm 0,11% diện tích tự nhiên.
* Đất cho phát triển giáo dục - đào tạo: Chủ trương tỉnh Bắc Ninh sẽ hợp tác
với Thủ đô Hà Nội trong đào tạo Đại học, đào tạo doanh nghiệp và đào tạo nghề,
khả năng sẽ hình thành các trường đại học, làng đại học, các trường dạy nghề trên
địa bàn tỉnh. Đặc biệt là đào tạo nghề phục vụ cho các khu công nghiệp, khu thương
mại dịch vụ. Với chủ trương trên, nhu cầu đất cho xây dựng các trường trung học
phổ thông và dạy nghề khoảng 454 - 450 ha. Đến năm 2020, đất xây dựng cho cơ sở
giáo dục đào tạo khoảng 714 - 720 ha, chiếm 0,87% diện tích tự nhiên.
* Đất cho phát triển thể dục, thể thao: Nâng cấp, mở rộng và xây mới các
công trình thể dục thể thao trên địa bàn thành phố, thị xã, thị trấn, xã, phường,
trường học. Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở thể thao thành phố, thị xã, bảo
đảm đăng cai tổ chức các giải đấu trong nước và khu vực. Vì vậy, cần bố trí đất cho
129
các huyện, trường trung học cơ sở có đủ sân bãi luyện tập thể dục, các khu trung
tâm TDTT huyện, thị từ 3 - 5 ha. Đến năm 2020, loại đất này có khoảng 400 ha,
chiếm 0,50% diện tích tự nhiên.
+ Định hướng chuyển đổi MĐSD ĐNN theo các địa phương:
Xét theo địa phương trên địa bàn Bắc Ninh, đất cho các nhu cầu giao thông,
thủy lợi, văn hóa giáo dục, y tế nông thôn được mở rộng khá đều ở tất cả các xã
trong tỉnh.
ĐNN chuyển đổi mục đích phi nông nghiệp theo các địa phương chủ yếu cho
xây dựng các khu công nghiệp, đô thị và mở rộng địa giới hành chính tỉnh Bắc Ninh
và các thị xã, thị trấn ở các huyện, thị đáp ứng yêu cầu ĐTH, CNH. Cụ thể: Với
mục tiêu xây dựng Bắc Ninh trở thành đô thị trực thuộc Trung ương vào những năm
20 của Thế kỷ 21, hình thành đô thị lõi tỉnh Bắc Ninh kết hợp 3 đơn vị hành chính
là Thành phố Bắc Ninh, huyện Tiên Du, thị xã Từ sơn và một phần huyện Quế võ.
- Định hướng giải quyết các quan hệ lợi ích trong chuyển đổi MĐSD ĐNN:
Giải quyết các lợi ích trong chuyển đổi MĐSD ĐNN là một trong các vấn đề bức
xúc trong nông thôn nước ta những năm gần đây, trong đó có tỉnh Bắc Ninh. Tập
trung giải quyết vấn đề này là một trong các giải pháp xử lý các vấn đề bức xúc của
kinh tế xã hội nông thôn. Tuy nhiên, để giải quyết tốt vấn đề này, cần tập trung xử
lý theo các định hướng cơ bản sau:
Một là, giải quyết các quan hệ lợi ích theo hướng đảm bảo hài hoà giữa các lợi
ích: lợi ích quốc gia, lợi ích của người dân có đất bị thu hồi và lợi ích của các doanh
nghiệp, các cơ sở kinh doanh cơ sở hạ tầng, chú trọng tới các tình trạng bị vi phạm
lợi ích theo từng nhóm sau đây:
+ Đối với xã hội, chuyển đổi MĐSD ĐNN sẽ thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và đô thị hoá. Vì vậy, kinh tế - xã hội sẽ phát triển tốt hơn, tăng trưởng kinh
tế cao hơn. Đó là lợi ích tối cao mà xã hội nhận được. Tuy nhiên, chuyển đổi
MĐSD ĐNN còn tạo nguồn thu cho ngân sách qua thuế và phí chuyển nhượng, qua
đấu giá quyền sử dụng đất. Xét trên phương diện này, lợi ích của xã hội còn chưa
130
được xử lý thỏa đáng. Nguồn thu của ngân sách còn bị thất thoát. Tăng thêm nguồn
thu cho xã hội là định hướng của giải quyết quan hệ lợi ích trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh cần tập trung giải quyết.
+ Đối với người dân bị thu hồi đất: Thu hồi đất vì lợi ích phát triển đất nước
nhưng nó ảnh hưởng đến lợi ích sống còn của mỗi người dân có đất bị thu hồi. Họ
sẽ không còn ruộng đất để sản xuất, không có việc làm truyền thống mà họ quen
thuộc, nếu không đảm bảo cho họ việc làm, có thu nhập thường xuyên và ổn định
thì sẽ lâm vào cảnh khó khăn.
Trên thực tế, người dân có ĐNN bị thu hồi đã được hưởng thụ các chính sách
bồi thường, chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm. Tuy nhiên, những vấn đề trên giải
quyết chưa thật thỏa đáng, đời sống, việc làm, thu nhập của người dân có ĐNN bị
thu hồi không ổn định. Việc sử dụng các biện pháp hỗ trợ nông dân chưa phù hợp.
Vì vậy, giải quyết về đời sống việc làm của người có ĐNN bị thu hồi là hướng
cần tiếp tục tập trung xử lý trong những năm tới khi chuyển đổi MĐSD ĐNN ở tỉnh
Bắc Ninh.
+ Đối với nhà đầu tư, trước hết là những tổ chức thuê, mua quyền sử dụng đất
của dân nên để phát triển khu công nghiệp, khu đô thị, phát triển các doanh nghiệp
tiến hành sản xuất - kinh doanh. Lợi ích của các tổ chức này là chênh lệch đầu tư và
phần thu từ tiền cho thuê hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Những năm trước
khi giá bất động sản tăng cao, lợi ích của các tổ chức này rất lớn.
Tuy nhiên, sau khi bất động sản bị đóng băng, lợi ích của các nhà đầu tư bị
giảm sút nhanh chóng, nhiều nhà đầu tư có nguy cơ bị phá sản. Tạo cơ chế cho bất
động sản phục hồi là hướng xử trí đối với Bắc Ninh trong những năm tới. Trong các
nhóm lợi ích trên, hầu như lợi ích đều cần phải thay đổi các hướng điều tiết lợi ích.
Vì vậy, giải quyết hài hòa lợi ích theo hướng chú ý đến các mối quan hệ lợi ích
đang tồn tại là cần thiết.
Hai là, việc sử dụng các lợi ích trong chuyển đổi MĐSD đất theo hướng trực
tiếp, bền vững đối với các tổ chức cá nhân tham gia vào quá trình chuyển đổi đó.
131
Nhất là phần lợi ích thông qua bồi thường quyền sử dụng đất đối với hộ nông dân
có đất bị thu hồi. Lợi ích gia tăng trong quá trình chuyển đổi MĐSD đất là tất yếu,
nếu chuyển đổi đó là hợp lý. Sự phân chia lợi ích hài hòa dựa trên cơ sở sự đóng
góp của từng chủ thể tham gia vào quá trình đó và sự biến động lợi ích của mỗi chủ
thể. Ngoài ra, hướng xử lý các lợi ích cũng cần được xác định đúng mới mang lại
lợi ích cuối cùng đối với mỗi chủ thể.
Trên thực tế khi thu hồi đất, người có đất bị thu hồi không còn đất sản xuất
nông nghiệp nên thu nhập giảm sút. Bồi thường cho người có đất bị thu hồi là một
trong các giải pháp được thực thi ở nhiều địa phương khi thu hồi đất. Tuy nhiên, bồi
thường khi thu hồi đất bên cạnh những mặt tích cực, đã và đang phát sinh các vấn
đề tiêu cực như: Sử dụng tiền bồi thường không đúng mục đích dẫn đến nhiều vấn
đề xã hội nảy sinh, đào tạo nghề không đáp ứng yêu cầu của các cơ sở cần lao động
khi vào các khu công nghiệp…
Từ thực trạng trên, việc giải quyết các mối quan hệ lợi ích trong chuyển đổi
MĐSD ĐNN cần đi vào thực chất theo hướng trực tiếp giải quyết các vấn đề phát
sinh, giải quyết các vấn đề một cách bền vững.
Ba là, tập trung các biện pháp và xử lý các tồn đọng về lợi ích trong thu hồi
4.2. Các giải pháp chuyển đổi MĐSD ĐNN và giải quyết các quan hệ lợi
ích trong chuyển đổi MĐSD ĐNN đến năm 2020
4.2.1. Rà soát quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử
dụng đất và các quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội
đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh một cách dứt điểm, nhưng linh động và mềm dẻo.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch sử dụng đất và các
quy hoạch phát triển ngành kinh tế xã hội theo từng địa phương (tỉnh, huyện) là cơ
sở quan trọng để quản lý và tổ chức sử dụng đất nói chung, ĐNN nói riêng một
cách đầy đủ, tiết kiệm, có hiệu quả.
132
Đối với Bắc Ninh, các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch
sử dụng đất và các quy hoạch phát triển ngành kinh tế xã hội đã được triển khai cho
đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Cụ thể:
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đã xác định đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030 và đã được Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua ngày 23/4/2013;
Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 được thực hiện từ năm 2010; Quy hoạch phát
triển công nghiệp nông thôn được triển khai năm 2011; Quy hoạch phát triển công
nghiệp tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, tầm nhìn 2030 được triển khai năm 2011; Quy
hoạch vùng phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020 được triển khai
năm 2009; Đề án điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tỉnh Bắc
Ninh đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 được triển khai năm 2011; Quy
hoạch đấu nối và định hướng phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị, công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2011-2030 được triển khai năm 2010.
Thực trạng trên cho thấy, việc triển khai các quy hoạch là khá đầy đủ. Tuy
nhiên, các quy hoạch thiếu tính đồng bộ trong trật tự xây dựng các loại quy hoạch.
Theo thông thường, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội phải được xây
dựng trước làm tiền đề cho xây dựng các kế hoạch sau.
Ở Bắc Ninh, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh đến
năm 2020, tầm nhìn 2030 mới được phê duyệt tháng 4 năm 2013. Quy hoạch sử
dụng đất đến năm 2020 được Chính phủ phê duyệt tháng 1 năm 2013. Trong khi đó,
các quy hoạch phát triển các ngành, các lĩnh vực và quy hoạch sử dụng đất lại được
triển khai từ năm 2009 đến 2011.
Đặc biệt mặc dù các quy hoạch được triển khai từ năm 2009, khi khủng hoảng
tài chính và suy giảm kinh tế đã diễn ra và ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta,
nhưng các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Bắc Ninh vẫn ở
mức độ cao.
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020,
tầm nhìn 2030 xác định tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn
133
2011 - 2015 là 13%/năm; trong đó, công nghiệp - xây dựng tăng 16,8%, dịch vụ
tăng 10,2%. Giai đoạn 2016 - 2020 kinh tế tăng trưởng bình quân 11,5%/năm; trong
đó, công nghiệp - xây dựng tăng 11,9%, dịch vụ tăng 12,8%. Giai đoạn 2021 - 2030
là 10,9%/năm, trong đó, công nghiệp - xây dựng tăng 6,8%, dịch vụ tăng 13,5%.
Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 xác định, cơ cấu đất phi nông nghiệp
năm 2020 lên mức 43.846 ha, chiếm 53,29% tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh
Bắc Ninh; trong đó, đất khu công nghiệp là 8.204 ha, chiếm 24,88%; đất phát triển
hạ tầng là 15.067 ha, chiếm 34,36% đất ở tại đô thị là 2.299 ha, chiếm 5,24%. Đây
là những chỉ tiêu khá cao, rất khó thực hiện, nhất là các chỉ tiêu tăng trưởng giai
đoạn 2011-2015.
Trong bối cảnh trên, rà soát để đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ trong
các quy hoạch, nhất là đồng bộ trong các mục tiêu và huy động, sử dụng các nguồn
lực, trong đó có nguồn lực đất đai là cần thiết để đảm bảo các quy hoạch có tính
khoa học, tính khả thi; việc huy động các nguồn lực mới hợp lý.
Việc rà soát các quy hoạch nên theo trật tự, rà soát Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội, tiếp đến là Quy hoạch sử dụng đất, tiếp theo là các Quy hoạch
ngành và lĩnh vực. Rà soát Quy hoạch trên địa bàn tỉnh trước, rà soát quy hoạch trên
địa bàn thành phố, thị xã và các huyện sau.
Cần xem xét mức độ tăng trưởng thực tế các năm 2011-2013 để điều chỉnh tốc
độ tăng trưởng các năm tiếp theo; đặc biệt đánh giá tác động của thị trường bất động
sản, sự phát triển của các khu công nghiệp để điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và các đơn vị cấp thành phố và huyện, thị xã.
Việc điều chỉnh này có thể không còn ý nghĩa nhiều cho giai đoạn 2011 - 2015
của các quy hoạch đã phê duyệt, nhưng có ý nghĩa lớn cho giai đoạn 2016-2020 và
2021-2030. Nhất là trong việc chuyển đổi MĐSD ĐNN, khi các diện tích chuyển
đổi đang ở trạng thái lãng phí và các chỉ tiêu về diện tích chuyển đổi MĐSD ĐNN
còn khá lớn.
134
4.2.2. Xây dựng các chương trình dự án phát triển kinh tế xã hội, liên quan
tới các dự án chuyển đổi MĐSD ĐNN
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội là định hướng và các bố trí lớn cho phát
triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh, huyện và xã. Để các ý tưởng quy hoạch trở
thành hiện thực, cần phải triển khai các quy hoạch đó thành các chương trình dự án
phát triển kinh tế xã hội. Đối với Bắc Ninh, việc triển khai từ quy hoạch đến các
chương trình, dự án đã được thực thi, thậm chí có những chương trình dự án đã triển
khai khi quy hoạch đang ở giai đoạn chờ nghiệm thu. Tất nhiên, đó là những
chương trình, dự án cho những hoạt động có tính bức thiết, nằm trong chương trình
trọng điểm và chắc chắn nằm trong các danh mục sẽ được phê duyệt.
Trên thực tế, khi xây dựng các quy hoạch, danh mục các chương trình, dự án
sẽ triển khai cũng đã được xác định và đưa vào nội dung các quy hoạch. Khi phê
duyệt quy hoạch, danh mục các dự án cũng được đưa vào các quyết định phê duyệt,
trong hầu hết các dự án đều liên quan đến sử dụng đất và chuyển đổi MĐSD ĐNN.
Tuy nhiên, phần lớn các chương trình, dự án được đề xuất trong các quy hoạch
là những đề xuất ở dạng ý tưởng, thậm chí là những tiêu đề, là tên của chương trình,
dự án. Những nội dung cụ thể của chương trình và dự án chưa được xây dựng. Vì
vậy, triển khai các chương trình, dự án đã phê duyệt trong quy hoạch là bước triển
khai tiếp theo của các quy hoạch; là giải pháp triển khai các quy hoạch, biến chúng
thành các hoạt động thực tiễn. Đây là tình trạng khá phổ biến của các địa phương,
trong đó có Bắc Ninh.
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh quy hoạch theo các giải pháp nêu ở tiểu mục
4.2.1 có thể làm xuất hiện các chương trình, dự án mới hoặc các chương trình, dự án
điều chỉnh. Điều này càng làm cho tính cấp thiết của việc xây dựng các chương
trình, dự án sau quy hoạch và rà soát quy hoạch trở nên cấp thiết hơn.
Đối với Bắc Ninh, việc nghiên cứu xây dựng, rà soát, hoàn thiện các chương
trình, dự án để triển khai trên thực tế là rất cấp thiết. Bởi vì, thời gian triển khai các
quy hoạch cũng đã được 2-4 năm, mục tiêu của quy hoạch là rất lớn, nhưng các
135
bước triển khai các chương trình, dự án quá chậm trễ do tác động của khủng hoảng
tài chính, do khó khăn trong huy động nguồn lực. Vì vậy, việc đẩy nhanh xây dựng
các chương trình, dự án sau khi các quy hoạch được phê duyệt là rất cần thiết.
Đối với các dự án xây dựng bất động sản, các công trình hạ tầng nông thôn
theo Chương trình xây dựng nông thôn mới: Giống như các địa phương trong cả
nước, tình trạng các dự án bất động sản ở Bắc Ninh thiếu vốn khi đang triển khai, đã
triển khai xong nhưng sức thu hút và tiêu thụ thấp đã dẫn đến trì trệ trong triển khai
các chương trình, dự án còn lại. Các quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được
phê duyệt, nhưng các dự án chưa được xây dựng do chưa có nguồn lực đang trở nên
phổ biến.
Khắc phục tình trạng trên, Bắc Ninh cần rà soát lại các chương trình, dự án đã
triển khai, xác định nhu cầu, các nguồn lực có thể huy động để xây dựng lộ trình
triển khai các chương trình, dự án. Tập trung nguồn lực thực thi dứt điểm các
chương trình, dự án theo lộ trình mới xác định. Chú ý đến chương trình và dự án
xây dựng nông thôn mới, các chương trình, dự án liên tỉnh, thành phố và các
chương trình trọng điểm của tỉnh Bắc Ninh.
Trong xây dựng các chương trình dự án chú ý đến mối tương quan giữa các
nội dung về nhiệm vụ với các yếu tố về nguồn lực. Đặc biệt, cần quan tâm xây dựng
các giải pháp tổ chức triển khai, trong đó các giải pháp huy động về nguồn lực đất
đai để tạo mặt bằng, về vốn để thực thi các công trình trong các chương trình, dự
án; vấn đề tiến độ thực thi các chương trình, dự án cần phải được đặc biệt chú ý.
Khi giải quyết các vấn đề nguồn lực cần chú ý tới việc huy động tổng hợp các
nguồn lực, trong đó nguồn lực từ ngân sách được coi là chủ lực đối với các dự án
quy mô lớn, phạm vi ảnh hưởng rộng và với các dự án thuộc các lĩnh vực xã hội.
Nguồn vốn ngân sách còn được coi là vốn mồi đối với các dự án quy mô nhỏ, ảnh
hưởng đến cộng đồng. Cần chú ý đến phương thức xã hội hóa nguồn vốn theo
phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”.
136
Đối với nguồn lực đất đai, cần coi trọng các giải pháp về tuyên truyền vận
động và dân chủ công khai trong huy động và triển khai các dự án; có những giải
pháp đảm bảo công bằng, công khai trong huy động nguồn lực giữa các hộ có huy
động và hộ không huy động đất đai vào các dự án trong cộng đồng. Trên thực tế, đất
đã giao ổn định lâu dài cho từng hộ dân cư; các dự án triển khai chỉ huy động một
bộ phận đất đai của dân cư, vì vậy nếu không có sự công khai, bình đẳng khi huy
4.2.3. Tổ chức tốt các hoạt động chuyển đổi MĐSD ĐNN
động đất đi các dự án sẽ không triển khai được.
Theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Ninh, trong những năm
tới chuyển đổi MĐSD ĐNN vẫn tiếp tục diễn ra, trong đó chuyển đổi cây trồng, vật
nuôi theo hướng tái cấu trúc ngành nông nghiệp và khai thác tiềm năng, lợi thế của
từng địa phương. Chuyển đổi MĐSD ĐNN sang các mục đích phi nông nghiệp ở quy
mô khá lớn, trong đó tiếp tục mở rộng các khu công nghiêp, đô thị lớn theo quy hoạch.
Ngoài ra, để thực thi Chương trình xây dựng nông thôn mới, mở rộng các thị trấn, thị
tứ việc chuyển đổi MĐSD ĐNN được coi là trọng tâm của giai đoạn 2012-2020.
Đổi với chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, Bắc Ninh cần có sự rà soát,
điều chỉnh theo các chủ trương tái cấu trúc lại ngành nông nghiệp nhằm nâng cao
hiệu quả khai thác nguồn lực, gắn sản xuất nông nghiệp với thị trường và hội nhập
kinh tế thế giới.
Đối với chuyển đổi MĐSD ĐNN theo hướng chuyển đổi cây trồng, vật nuôi:
phải áp dụng kỹ thuật canh tác trong chuyển đổi phù hợp với điều kiện đất đai của
tỉnh. Đặc biệt, đất chuyển sang các cây trồng, vật nuôi mới phải phù hợp nhất với
cây trồng vật nuôi đó theo hướng khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai và các điều
kiện tự nhiên khác. Nghiên cứu chuyển giao các giống cây trồng, vật nuôi, hạn chế
sâu bệnh, có năng suất cao, chất lượng tốt, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Thực hiện mở rộng diện tích ĐNN theo hướng tái cấu trúc ngành nông nghiệp
của tỉnh, trong đó có các phương án xây dựng các công trình thuỷ lợi và cứng hoá
137
hệ thống kênh mương phải coi là giải pháp quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, đầu tư cải tạo nâng cao độ phì đất canh tác.
Trong thời kỳ thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, trường hợp địa
phương có nhu cầu sử dụng đất vượt quá chỉ tiêu đất lúa cấp quốc gia phân bổ thì
phải có phương án khai thác các quỹ đất khác chuyển sang, nhằm đảm bảo ổn định
quỹ đất lúa (35.500 ha) so với chỉ tiêu đất lúa được cấp quốc gia phân bổ cho tỉnh.
Đối với chuyển đổi MĐSD ĐNN sang mục đích phi nông nghiệp: Cần tuân
thủ mọi yêu cầu của quy hoạch khi thực thi các phương án chuyển đổi mục đích
ĐNN. Đối với các dự án xây dựng các khu, cụm công nghiệp và dịch vụ, chỉ giao
đất các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ khi chúng có các phương
án xử lý triệt để các chất thải, chống ô nhiễm môi trường.
Căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt, tổ chức, cá nhân
cần đất đến đâu thì Nhà nước thu hồi và giao đất đến đó, tránh tình trạng để các dự
án quy hoạch treo, gây lãng phí khi chuyển đổi MĐSD đất. Khắc phục tình trạng
“quy hoạch treo”, đất đã được thu hồi nhưng không triển khai dự án theo đúng tiến
độ, hoặc chủ đầu tư nhận đất nhưng cũng không triển khai xây dựng dẫn đến dân
mất đất không có việc làm, còn doanh nghiệp cũng không thu hút được lao động
vào làm việc.
Để giải quyết tình trạng này, cần kiên quyết loại bỏ tình trạng một số người lợi
dụng quy hoạch để lấy đất của nông dân để hoặc là bố trí cho các dự án không khả
thi, hoặc đầu cơ đất đai bất động sản, dẫn đến ĐNN bị bỏ không, trong khi nông dân
không có đất sản xuất. Cần phát triển các khu công nghiệp làng nghề theo hình thức
đổi đất. Các địa phương cần quy hoạch khu công nghiệp cho làng nghề nằm trong
các khu vực không ảnh hưởng đến việc canh tác nông nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất sau chuyển đổi cần lựa chọn, ưu tiên các
doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật cao vào sản xuất, đảm bảo tài chính và
nhân lực, ít sử dụng đất mà hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ môi trường vào đầu tư
trong tỉnh.
138
Bố trí đất cho phát triển công nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các công
trình phúc lợi xã hội và mở rộng khu dân cư theo hướng lựa chọn những khu vực ít
đất trồng lúa hoặc những vị trí canh tác gặp nhiều khó khăn; hạn chế quy hoạch ở
những vị trí trồng lúa thuận lợi, năng suất cao, chất lượng tốt. Đối với đất ở, khuyến
khích những hộ có khuôn viên rộng, còn nhiều đất vườn chuyển nhượng cho nhau
để tự giãn. Các khu vực đô thị đấu giá quyền sử dụng đất, quy hoạch các khu nhà
cao tầng, sử dụng đất đúng mục đích, hiệu quả.
Chính quyền các cấp phải cùng dân tháo gỡ những khó khăn trong quá trình
thực hiện chuyển đổi MĐSD ĐNN. Kinh nghiệm thành công của nhiều địa phương
trong tỉnh, nhất là ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Đà Nẵng cho thấy, người lãnh đạo cao nhất
của địa phương cần trực tiếp đối thoại để giải quyết những vấn đề gay cấn nhất
trong việc thu hồi, đền bù, giải toả, cũng như trong việc giải quyết việc làm, thu
nhập và tổ chức đời sống cho người dân thì việc giải phóng mặt bằng sẽ tiến hành
thuận lợi.
Trước khi giải phóng mặt bằng, cán bộ Ban đền bù, bồi thường, cán bộ các
ban ngành có liên quan của địa phương xuống với dân, động viên, giải thích mọi
vướng mắc để người dân chấp thuận nhận tiền đền bù, tạo điều kiện giải phóng mặt
bằng nhanh.
Sau giải phóng mặt bằng, giải toả để thu hồi đất, cán bộ công chức các ngành
có liên quan cần tiếp tục đến với dân ở khu tái định cư, lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng, kiến nghị của người dân, để có những giải pháp kịp thời phù hợp, kiến nghị
với các cấp có thẩm quyền giải quyết. Từng địa phương trong tỉnh (huyện, xã) chủ
động góp sức cùng lãnh đạo tỉnh giải quyết bức xúc về việc làm, thu nhập và đời
4.2.4. Nhóm giải pháp về chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho lao
động có ĐNN chuyển đổi mục đích
sống của người dân ở những vùng có đất bị thu hồi thì sẽ đem lại hiệu quả.
Đối với những người có ĐNN bị thu hồi do chuyển đổi MĐSD, mặc dù số
diện tích thu hồi chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng diện tích ĐNN của địa phương,
139
nhưng các dự án đầu tư phát triển đều mang tính chất tập trung. Vì vậy, ở Bắc Ninh
có những xã đất bị thu hồi từ 40 - 60% diện tích đất sản xuất, nhiều hộ bị thu hồi từ
80 - 100% diện tích ĐNN. Vì vậy, chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho các hộ
có ĐNN bị thu hồi đặt ra một cách cấp thiết với Bắc Ninh. Đây là một trong các giải
pháp cơ bản, lâu dài xử lý vấn đề lợi ích cho một bộ phận nông dân trong chuyển
đổi MĐSD đất.
Những năm qua, mặc dù tỉnh Bắc Ninh có các chính sách khuyến khích các
doanh nghiệp đóng trên địa bàn, đặc biệt là doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi phải ưu
tiên thu hút lao động tại chỗ, nhiều địa phương trong tỉnh đưa ra các giải pháp và chính
sách ưu tiên tạo việc làm cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề
giải quyết việc làm cho lao động có đất bị thu hồi vẫn chưa giải quyết được triệt để. Về
pháp lý, các văn bản pháp luật như Luật đất đai 2003, Nghị định 197/2004/NĐCP ngày
3/12/2004 của Chính phủ đều xác định: Việc chuyển đổi ngành nghề, tìm việc làm mới
là do người dân tự lo, Nhà nước chỉ có trách nhiệm hỗ trợ.
Trên thực tế, không phải người nông dân nào có đất bị thu hồi, nhờ vào tiền hỗ
trợ cũng có thể học được nghề mới, tìm được chỗ làm việc mới. Bởi vì, hầu hết
nông dân, nhất ở độ tuổi cao có trình độ văn hoá thấp, thiếu thông tin về nhu cầu
nghề nghiệp và nhiều lý do khác nhau đã hạn chế cơ hội tìm được nghề nghiệp mới.
Mặc dù nhận được tiền hỗ trợ để chuyển đổi nghề nghiệp, nhưng số người bị thu hồi
đất và cần chuyển đổi được nghề nghiệp, tìm được việc làm mới là không nhiều.
Đối với độ tuổi thanh niên, việc thu hút lực lượng lao động này vào các khu
công nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Ở Bắc
Ninh, chính quyền đã yêu cầu các doanh nghiệp sử dụng đất thu hồi phải ưu tiên sử
dụng lao động tại chỗ, với quy định cụ thể mỗi ha đất thu hồi phục vụ cho dự án,
chủ doanh nghiệp phải đào tạo và sử dụng một lượng lao động nhất định của địa
phương. Trên thực tế, có doanh nghiệp tuyển dụng lao động tại chỗ, nhưng sau một
thời gian lại phải thải hồi, hoặc vì số lao động này không đáp ứng được nhu cầu
công việc, hoặc vì không quen với yêu cầu của lao động công nghiệp nên xin ra
khỏi nhà máy, xí nghiệp... Kết quả là lao động trẻ vẫn không có việc làm.
140
Đặc biệt, đối với số lao động lớn tuổi (từ 35 tuổi trở lên, số này chiếm quá
nửa số lao động có đất bị thu hồi hiện nay) khi bị thu hồi đất, họ rất khó thích nghi
với môi trường mới, khó được tuyển vào doanh nghiệp, việc tham gia các khoá đào
tạo chuyển nghề rất khó khăn, nên nguy cơ thất nghiệp toàn phần và kéo dài đối với
họ là rất lớn. Từ thực trạng trên, chúng tôi khuyến nghị một hệ thống các giải pháp
tạo việc làm sau:
Thứ nhất, giải quyết việc làm và thu nhập của người dân có đất bị thu hồi
thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế
nhiều thành phần trên từng địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Việc làm của người lao động ở Bắc Ninh chỉ có thể giải quyết được căn bản
nếu gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển
kinh tế nhiều thành phần. Đây cũng là con đường cơ bản và lâu dài để giải quyết
vấn đề lao động dôi dư trong nông nghiệp và của người dân có đất bị thu hồi.
Để thực thi nhiệm vụ trên, Bắc Ninh cần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nông nghiệp, kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, thương mại và
du lịch; phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; phát triển các loại hình
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông thôn; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học
công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp có hàm
lượng chất xám cao, giá trị kinh tế cao; phát triển mạnh mẽ ngành nghề thủ công
nghiệp, dịch vụ trong nông thôn,... trong đó cần chú ý:
- Gắn quá trình đô thị hoá, xây dựng KCN, xây dựng CSHT,... với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo ra sự gắn kết giữa đô
thị hoá với phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững.
Để tạo sự gắn kết, cần xác định đúng đắn hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nông thôn theo xu thế phát triển của thời đại, gắn với quá trình đô thị
hoá, đặc biệt là đô thị hoá nông thôn đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đặc biệt khi quy hoạch phát triển đô thị, phải xem xét đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn, hướng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của nông
141
nghiệp, nông thôn một cách bền vững. Theo đó, cần xây dựng nền nông nghiệp
hàng hoá vững mạnh theo hướng tập trung, chuyên canh quy mô lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả đủ cung cấp nông sản cho tiêu dùng dân cư, nguyên liệu cho
công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Cần đẩy mạnh phân công lại lao
động trong nông nghiệp, phá thế độc canh, khai thác tối đa lợi thế so sánh, phát triển
các ngành nghề truyền thống, đặc biệt là các ngành nghề phi nông nghiệp, dịch vụ.
Trong phát triển kinh tế đô thị, phát triển các khu công nghiệp, vừa phát triển
các ngành đáp ứng yêu cầu quốc gia, vừa phát triển các ngành đáp ứng yêu cầu phát
triển của nông nghiệp, của vùng, phát triển các nhà máy cung cấp máy móc, tư liệu
sản xuất phục vụ nông nghiệp, máy móc chế biến nông sản, phát triển các trung tâm
dạy nghề cho người lao động.
- Đẩy mạnh phân công lao động, phát triển các ngành nghề mới nhằm thu hút
lao động, tạo nhiều việc làm mới cho lao động nông nghiệp.
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp, nông
thôn Bắc Ninh có nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ: tỷ trọng ngành trồng trọt giảm
xuống, tỷ trọng ngành chăn nuôi, ngành nghề phụ, dịch vụ, phi nông nghiệp tăng
lên. Tuy nhiên, sự biến đổi đó còn chậm, không tương xứng với việc đầu tư nguồn
tài lực. Nguyên nhân cơ bản là vốn thiếu, trình độ người lao động còn hạn chế, sự
hỗ trợ của nhà nước, các ngành, các cấp chưa đủ mạnh, hiệu quả thấp.
Những năm tới, để đẩy mạnh phân công lại lao động trong nông nghiệp cần
thiết phải phát triển mạnh các ngành nghề đáp ứng yêu cầu của đô thị, các ngành
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và xuất khẩu, các
ngành dịch vụ.
Một trong mô hình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp hiện nay là kết hợp giữa
phát triển nông nghiệp với công nghiệp và du lịch sinh thái. Đây là xu hướng chung
của các nước phát triển, trước hết là ở các nước trong khối EU. Hình thức kết hợp
phát triển này đảm bảo việc làm và tăng hiệu quả kinh tế của ngành nông nghiệp.
Bắc Ninh rất có điều kiện để thực hiện sự kết hợp này, vì có nhiều di tích lịch sử
142
thuận lợi cho phát triển du lịch tâm linh. Song hiện nay chúng ta còn thiếu sự phối
hợp giữa ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến, thương mại với ngành du lịch.
Cần kết hợp giữa khai thác lợi thế nông nghiệp, gắn kết với công nghiệp chế
biến để mỗi địa phương có một sản phẩm nông nghiệp đặc trưng như: bánh phu thê,
chim, chuột... đã được khách du lịch khách trong và ngoài nước coi là thương hiệu
của Bắc Ninh mỗi khi đến thăm.
- Tăng cường ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay, trình độ KH&CN của nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh còn rất
thấp, dẫn đến năng suất lao động, năng suất sản phẩm thấp, chất lượng sản phẩm
không cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp.
Xu thế hiện nay của thế giới trong tiêu dùng sản phẩm là hàm lượng chất xám
trong sản phẩm ngày càng cao. Vì vậy, ứng dụng tiến bộ KH&CN vào sản xuất
nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh đã trở thành cấp thiết.
Để ứng dụng đựơc tiến bộ KH&CN vào nông nghiệp, Bắc Ninh cần chú ý tới
các vấn đề về thuỷ lợi, phân bón, thức ăn gia súc và giống vật nuôi, cây trồng.
Muốn vậy, cần đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, trang bị máy móc,
thiết bị, công cụ lao động hiện đại, ứng dụng tiến bộ khoa học vào việc nghiên cứu
tìm ra các giống mới, có năng suất và chất lượng cao cho vật nuôi, cây trồng;
Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chế biến nông sản, nâng cao
giá trị sản phẩm nông nghiệp; cung cấp thông tin KH&CN cho người sản xuất, giúp
người nông dân lựa chọn được công nghệ mới với giá cả hợp lý; Củng cố hệ thống
chuyển giao công nghệ tới tận xã, thôn xóm; tỉnh có chính sách hỗ trợ khuyến khích
người lao động tích cực ứng dụng công nghệ mới như mở các lớp đào tạo nghề mới
miễn phí hoặc phí thấp, khen thưởng động viên kịp thời, hỗ trợ việc sản xuất, tiêu
thụ sản phẩm với các cá nhân hoặc doanh nghiệp tích cực ứng dụng KH&CN trong
nông nghiệp. Cần đầu tư đồng bộ cho việc ứng dụng KH&CN để có hiệu quả: kể từ
đầu tư cho con người, đến máy móc thiết bị và kết cấu hạ tầng;
Tăng cường hoạt động liên kết giữa các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất với
143
các cơ quan nghiên cứu và hoạt động KH&CN để gắn KH&CN với sản xuất, sản
xuất với đời sống, tạo điều kiện cho sản xuất và KH&CN phát triển.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và kỷ luật của lao động từ người có đất bị
thu hồi và đẩy mạnh công tác đào tạo để xuất khẩu lao động trong bối cảnh hội nhập.
Lao động nông nghiệp nói chung, người nông dân có đất bị thu hồi ở Bắc
Ninh nói riêng có trình độ văn hoá thấp, trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản
lý kém, sức khoẻ yếu, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp rất hạn chế. Vì
vậy, khi được thu hút vào làm việc trong các doanh nghiệp không đáp ứng được yêu
cầu, dẫn đến tình trạng hoặc không được thu nhận, hoặc tự bỏ doanh nghiệp, hoặc bị
thải hồi sau một thời gian làm việc. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, chúng ta yêu
cầu thời gian doanh nghiệp thu nhận lao động có đất bị thu hồi vào làm việc, song
mặt khác, đứng về phía doanh nghiệp, chúng ta cũng phải chấp nhận việc sa thải đối
với những lao động không đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh. Chính điều
đó đòi hỏi bản thân người lao động phải vươn lên.
Để người lao động vươn lên đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp,
đòi hỏi bản thân người lao động phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghề nghiệp,
tính kỷ luật phù hợp với yêu cầu mới. Để nâng cao trình độ của người lao động nói
chung, người dân có đất bị thu hồi nói riêng, cần thiết phải trang bị, củng cố và tăng
cường kiến thức về nền kinh tế thị trường, về liên kết kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế cho người lao động;
Nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, giúp
cho họ thích ứng với yêu cầu của công việc mới, đồng thời tăng năng suất lao động,
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và
mở rộng thị trường sản phẩm. Muốn vậy, cần phải củng cố hệ thống giáo dục phổ
thông và dạy nghề, đổi mới nội dung và chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo.
Thậm chí cần chuyển phần kinh phí cho doanh nghiệp để họ tuyển dụng và đặt hàng
đào tạo hoặc tự đào tạo theo yêu cầu sử dụng của doanh nghiệp.
Thêm nữa, trong xu thế hội nhập kinh tế thế giới, xuất khẩu lao động đang
144
trở thành một nhu cầu bức xúc cả về nước xuất khẩu và cả về phía các nước nhập
khẩu lap động. Đối với nước ta, xuất khẩu lao động là vấn đề chiến lược quan
trọng mang tính quốc gia đem lại hiệu quả kép, “vừa ích nước vừa lợi nhà”. Do
đó, xuất khẩu lao động là một biện pháp quan trọng đối với lực lượng lao động
nước ta nói chung, với lao động ở các vùng có đất bị thu hồi nói riêng. Tuy nhiên,
chất lượng lực lượng lao động nước ta nói chung, các vùng có đất bị thu hồi nói
riêng hiện nay còn rất thấp.
Vì thế để đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và xuất khẩu lao động, cần thiết
phải có sự lựa chọn và đào tạo nghề nghiệp, rèn luyện kỷ luật lao động và tác phong
công nghiệp cho người lao động. Muốn vậy, cần khảo sát nắm nhu cầu nguồn lao
động của các thị trường. Trên cơ sở đó, cần nâng cao chất lượng hệ thống giáo dục
và đào tạo, kể từ giáo dục phổ thông đến đào tạo nghề, thực hiện đổi mới nội dung,
chương trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và nhu cầu xuất khẩu
lao động.
Thứ ba, đối với người lao động độ tuổi từ 35 trở lên, khó có khả năng chuyển
đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất, Nhà nước cần dành một phần đất trong hoặc sát
với khu công nghiệp cấp cho nông dân để tổ chức các hoạt động dịch vụ như xây
nhà cho thuê, bán hàng tạp hoá, quán ăn, sửa chữa xe máy,... phục vụ sinh hoạt cho
các khu công nghiệp.
Đây là biện pháp đã được nhiều địa phương sử dụng có hiệu quả. Chẳng hạn ở
tỉnh Vĩnh Phúc, cùng với sự phát triển của các KCN, hệ thống dịch vụ mới như xây
nhà cho thuê, bán hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ ăn uống, sửa chữa phương tiện xe
đạp, xe máy phát triển mạnh, làm tăng thu nhập của người dân có đất bị thu hồi.
Hoặc trong việc xây dựng nhà tái định cư, Nhà nước nên dùng tầng một để dân làm
kinh doanh, dịch vụ v.v…
Qua số liệu điều tra của Trường đại học Kinh tế quốc dân cho thấy có tới
65,7% số người được hỏi rất ủng hộ việc dùng một phần đất dự án để phát triển dịch
vụ và 58,3% số người rất ủng hộ việc dùng tầng trệt cho dân kinh doanh. Từ thực tế
trên, Bắc Ninh cần nghiên cứu các mô hình tổ chức ở các địa phương và một số mô
145
hình đã triển khai trong tỉnh để có thể mở rộng áp dụng, từng bước phát huy ưu việt
của hướng giải quyết này.
Thứ tư, đối với lực lượng lao động thanh niên
Chính quyền tỉnh Bắc Ninh, trước hết là Ban quản lý các khu công nghiệp, các
trung tâm, các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh và các doanh nghiệp có kế hoạch
đào tạo nghề và tuyển dụng lao động trẻ vào làm việc cho các doanh nghiệp tại địa
phương hoặc đi xuất khẩu lao động. Khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp, cần đánh
giá đúng thực trạng lao động, việc làm của những hộ sau khi bị thu hồi đất. Trên cơ
sở đó, nhà nước, các cơ sở dạy nghề, các doanh nghiệp mới có được kế hoạch đào
tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động sát với yêu cầu
của các doanh nghiệp. Điều này tránh cho người lao động không đủ năng lực nhưng
vẫn theo học để rồi lại hoặc tự bỏ nghề, hoặc bị doanh nghiệp sa thải.
Nghiên cứu, tổng kết, nhân rộng các mô hình hiệu quả tạo việc làm cho người
lao động vùng chuyển đổi MĐSD ĐNN như lập quỹ hỗ trợ dạy nghề từ tiền thu của
địa phương cho thuê đất và từ nguồn kinh phí giải phóng mặt bằng, sự hỗ trợ của
ngân sách và của doanh nghiệp; giành tỷ lệ nhất định đất cho các hộ gia đình trong
vùng chuyển đổi đất để làm kinh tế gia đình (dịch vụ), giải quyết việc làm cho số
lao động lớn tuổi; tổ chức khu tái định cư theo nghề nghiệp để gắn tái định cư với
tái tạo việc làm; phát triển dịch vụ ngoài khu công nghiệp… là hướng đa dạng hóa
các giải pháp đảm bảo đời sống cho những người có đất nông nghiệp bị thu hồi.
Đối với lao động trẻ nên dùng một phần tiền đền bù để đào tạo nghề bắt buộc cho
họ, đồng thời có cơ chế buộc các doanh nghiệp phi nông nghiệp được sử dụng đất thu
hồi phải có trách nhiệm tuyển dụng số thanh niên được đào tạo này vào làm việc.
Thứ năm, tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước trung ương và địa phương, các
doanh nghiệp, và các tổ chức đào tạo trong tạo việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp
cho người có đất bị thu hồi.
Bên cạnh việc hỗ trợ tiền, Nhà nước cần hỗ trợ các hoạt động sản xuất kinh
doanh, phát triển các ngành nghề truyền thống (làng nghề, kinh tế trang trại…) từ
146
nguồn hỗ trợ dạy nghề của Nhà nước và vay vốn tín dụng ưu đãi để tạo việc làm
cho người lao động; đồng thời tăng nguồn lực đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở nông
thôn vùng chuyển đổi đất để hỗ trợ tái định cư, dạy nghề và hỗ trợ người lao động
di chuyển tham gia vào thị trường lao động trong nước. Nghiên cứu hình thành quỹ
hỗ trợ việc làm, dạy nghề, tạo việc làm cho đối tượng bị thu hồi đất ở trung ương và
địa phương trong quỹ hỗ trợ dạy nghề quốc gia. Tăng cường vốn cho vay từ quỹ
quốc gia về việc làm. Ưu tiên cho lao động vùng bị thu hồi đất tham gia các chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trọng điểm quốc gia và chương trình mục tiêu
quốc gia về việc làm, tập trung hỗ trợ họ trong đào tạo nghề, vay vốn với lãi suất ưu
đãi, ưu tiên và hỗ trợ lao động thanh niên ở vùng mất đất được đào tạo nghề để đi
xuất khẩu lao động.
Đối với các địa phương, cần căn cứ vào diện tích đất thu hồi hỗ trợ một khoản
tiền đào tạo nghề cho người có đất bị thu hồi. Mức độ hỗ trợ chuyển đổi nghề như dự án VSIP là khá cao (350.000 đồng/m2). Tuy nhiên, cần nghiên cứu để sử dụng
những khoản tiền này một cách có hiệu quả để người lao động có được nghề nghiệp
chuyên môn cần thiết để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, có cơ hội để được
tuyển dụng làm việc lâu dài. Hình thành quỹ hỗ trợ việc làm, dạy nghề ở tỉnh, thành
phố để có điều kiện tập trung hỗ trợ đủ cho các đối tượng thuộc diện bị thu hồi đất.
Đối với các tổ chức dạy nghề, để thực hiện công tác đào tạo có kết quả tốt, cần
khảo sát, nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo, dạy nghề gắn với nhu cầu của
sự phát triển của các doanh nghiệp tại địa phương; đồng thời cần tăng cường lực
lượng nòng cốt để mở rộng mạng lưới dạy nghề, hướng dẫn dạy nghề cho các cơ sở
tại huyện, xã.
Thứ sáu, chính quyền địa phương cần chủ động hướng dẫn người dân sử dụng
tiền đền bù một cách có hiệu quả.
Từ kinh nghiệm của nhiều địa phương trong tỉnh, số tiền đền bù do thu hồi đất
chia thành hai phần. Một phần giao cho người dân xây dựng nhà cửa và chi dùng
vào những việc thật cần thiết. Phần còn lại lớn hơn có thể được góp vốn với doanh
nghiệp dưới hình thức mua cổ phần, hoặc gửi vào ngân hàng hoặc mua bảo hiểm.
147
Với cách làm này, người dân sau khi bị thu hồi đất, vẫn được chia lợi nhuận từ kết
quả sản xuất công nghiệp, kể cả có việc làm ngay trên mảnh đất của mình hoặc
nhận được lãi suất tiền gửi để có thu nhập ổn định, điều này rất cần thiết đối với lao
động hết tuổi, với người già không còn khả năng lao động.
Điều này đòi hỏi một là phải lựa chọn nhà đầu tư kỹ càng để phần vốn của
người dân góp vào các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, nguồn vốn không
những được bảo toàn mà còn phát triển đem lại nguồn thu bền vững, việc làm ổn
định lâu dài cho người dân có đất bị thu hồi. Thứ hai, Nhà nước cần nghiên cứu
chính sách để bảo toàn giá trị tiền gửi cho người dân có đất bị thu hồi khi gửi khoản
4.2.5. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách về chuyển đổi mục đích sử
dụng đất và giải pháp điều hòa các mối quan hệ lợi ích
4.2.5.1. Hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến nghĩa vụ và trách nhiệm
của các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển
khu công nghiệp, khu đô thị…
tiền này vào ngân hàng.
- Về nghĩa vụ: Đối với các doanh nghiệp, các chủ đầu tư, các khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu đô thị mới,... cần đề cao trách nhiệm trước dân. Về quản lý nhà
nước, khi ban hành các văn bản chính sách, các văn bản có liên quan đến vấn đề này
cần quy định rõ:
Thứ nhất, những gì đã cam kết, đã hứa trước dân trong quá trình thu hồi ĐNN
phải được chủ đầu tư và doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc. Xoá bỏ tình trạng đùn
đẩy, né tránh trách nhiệm, gây mất lòng tin đối với người dân.
Thứ hai, cần quy định thời gian sử dụng lao động có đất bị thu hồi của địa
phương làm việc trong các doanh nghiệp để khắc phục tình trạng thu hút lao động chỉ
là hình thức để rồi sau một thời gian ngắn lại đào thải lao động. Cần xác lập các hợp
đồng với thời gian hợp đồng lao động ít nhất là 5 năm. Quá thời hạn đó, nếu doanh
nghiệp thấy người lao động không đáp ứng được yêu cầu công việc mới sa thải lao
động, hoặc người lao động muốn sang làm việc ở lĩnh vực khác mới được di chuyển.
148
Thứ ba, khi xây dựng phương án đầu tư của từng dự án, phải ghi rõ các khoản
chi phí đào tạo nghề cho người có đất bị thu hồi một cách cụ thể, rõ ràng, công khai
để người dân biết và giám sát quá trình thực hiện. Nên chăng nên giao phần kinh
phí cho các chủ dự án về đào tạo nghề và thu hút lao động để họ chủ động và buộc
rõ trách nhiệm của họ trong thu hút lao động.
Thứ tư, chủ dự án và các doanh nghiệp, chủ động phối hợp với chính quyền
địa phương và các cơ sở đào tạo để tuyển sinh, tổ chức các lớp dạy nghề cho người
dân có đất bị thu hồi tại doanh nghiệp. Một mặt nâng cao chất lượng đào tạo nghề
theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động. Mặt khác tạo những điều kiện sử dụng hợp
lý và đúng mục đích nguồn quỹ hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp đối với bộ phận lao
động có thể thu hút vào các khu công nghiệp.
- Đối với quyền lợi: Bắc Ninh sẽ tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu tư
vào các khu công nghiệp và đô thị. Thực hiện tốt việc giải quyết, xử lý và tháo gỡ
các khó khăn cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp đang ở giai đoạn xây dựng
và doanh nghiệp đã bước vào sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp đầu tư vào khu
công nghiệp hay khu đô thị.
Hoàn thiện quy định về quản lý các khu công nghiệp và đô thị theo hướng cụ
thể, rõ ràng, minh bạch. Cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, gọn nhẹ,
hiệu quả, phù hợp với các thông lệ quốc tế, nhất là ở những khu công nghiệp, đô thị
có các dự án đầu tư của nước ngoài trên địa bàn tỉnh.
Thực hiện tốt các hoạt động quản lý trong giải quyết, tháo gỡ những vướng
4.2.5.2. Đổi mới và hoàn thiện các chính sách xã hội trong công tác thu hồi
và giải quyết việc làm ổn định đời sống của người có ĐNN bị thu hồi
mắc, khó khăn của các doanh nghiệp đầu tư vào các khu công nghiệp và đô thị
Ở Bắc Ninh, vấn đề xã hội trong các khu công nghiệp và khu vực liền kề đã và
đang nẩy sinh các yêu cầu bức thiết trong phát triển các cơ sở hạ tầng xã hội nhằm
giải quyết các vấn đề về văn hóa, giáo dục, an ninh trật tự và môi trường. Cụ thể:
Nhà ở cho người lao động trong KCN đã có quy hoạch quỹ đất xây dựng khu
149
chung cư, dịch vụ, đô thị phục vụ cho KCN. Song hiện chỉ có Công ty đầu tư hạ
tầng KCN Tiên Sơn triển khai xây dựng, hoàn thành và đưa vào sử dụng 01 nhà
chung cư 05 tầng. Tuy nhiên, công trình trên chủ yếu cho lao động khối văn phòng,
cán bộ quản lý, kỹ sư, người nước ngoài thuê ở vì giá thuê khá cao. Công ty TNHH
Thép Bắc Việt KCN Quế Võ đầu tư khu nhà ở 2 tầng, 10 phòng ngoài KCN với
hình thức tự quản.
Phần lớn người lao động phải tự tìm lấy chỗ ở từ các nhà trọ của dân vùng phụ
cận với mức tiền lương eo hẹp, tình hình ăn, ở, sinh hoạt tạm bợ. Hầu hết phòng trọ có diện tích 10 m2 do dân tự xây dựng, tự quản lý, không đảm bảo tiêu chuẩn, oi
bức về mùa hè, ẩm mốc khi mưa xuống.
Nhiều lao động khó có chỗ ở ổn định, thường xuyên phải thay đổi chỗ ở phù
hợp với đồng lương và công việc. Nhà ở kém chất lượng, không đảm bảo điều kiện
tối thiểu đang gia tăng rất nhanh nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu thuê nhà
giá rẻ của người lao động (đất ở của người dân xung quanh các KCN đều chật hẹp,
không thể xây thêm mãi và khả năng đầu tư của người dân cũng hạn chế…). Nên
việc thuê nhà ở của người lao động rất khó khăn, có khi phải tìm thuê nhà cách
KCN từ 5 đến 7 km.
Hàng ngàn người lao động tạm trú trên địa bàn trong thời gian dài đã kéo theo
nhiều biến đổi về văn hoá - xã hội, làm thay đổi nếp sống của người dân địa
phương. Do điều kiện ở, sinh hoạt không đảm bảo nên đã xảy ra không ít va chạm
giữa công nhân và dân địa phương, nhiều tệ nạn xã hội cũng đã nảy sinh, gây mất
trật tự trong khu vực.
Với mức tiền lương và thu nhập thấp, điều kiện nhà ở khó khăn, người lao
động rất thiếu điều kiện để thoả mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, thể thao, nghỉ ngơi,
học tập, giao lưu tình cảm, các dịch vụ phát triển con người bị thiếu hụt nghiêm
trọng. Thậm chí không có điều kiện để tiếp cận với thông tin đại chúng qua báo chí,
phát thanh truyền hình. Các KCN đã đi vào hoạt động chưa chú ý ngay từ đầu
những yếu tố hạ tầng xã hội cần thiết như giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục - thể
thao... Đặc biệt, trong các KCN có số lao động nữ nhiều, vấn đề hôn nhân và gia
150
đình trở nên bức xúc nhưng chưa được các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể quan
tâm thỏa đáng.
Đây là những vấn đề xã hội cần được giải quyết nhanh và đồng bộ ở cả các
KCN đã thu hút doanh nghiệp vào đầu tư kinh doanh và những khu công nghiệp
4.2.5.3. Nhóm giải pháp đảm bảo hài hòa giữa các nhóm lợi ích
đang ở trong giai đoạn hoàn thiện.
a) Đổi mới các chính sách về đền bù và bồi thường đảm bảo hài hòa giữa
các nhóm lợi ích
Định giá đất thu hồi có vai trò hết sức quan trọng khi thu hồi đất và rộng hơn
là khi chuyển đổi MĐSD ĐNN. Bởi vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể sử
dụng đất trong quá trình chuyển đổi MĐSD đất. Nó góp phần giải quyết hài hòa các
mối quan hệ lợi ích giữa những người có đất bị thu hồi (nông dân, chủ trang trại và
doanh nghiệp, tổ chức nông nghiệp khác), với những người sử dụng đất sau thu hồi
(ban quản lý dự án, khu đô thị, các doanh nghiệp thuê đất, hộ dân cư mua nhà ở…)
và lợi ích của cộng đồng xã hội (với tư cách hưởng lợi ích chung của quá trình
chuyển đổi đó) nếu việc định giá đất hợp lý, có cơ sở khoa học. Ngược lại, nó tạo
nên những mâu thuẫn, những vấn đề xã hội nảy sinh đối với các bên có liên quan.
Như vậy thu hồi đất, trước hết là định giá đất thu hồi là một trong các nhân tố ảnh
hưởng đến lợi ích nhóm trong quá trình chuyển đổi MĐSD ĐNN.
Thực tế, như trên đã trình bày vấn đề đền bù và bồi thường cho người có đất
nông nghiệp bị thu hồi do chuyển đổi MĐSD hiện còn nhiều bất cập. Những tranh
chấp và khiếu kiện hiện nay liên quan rất nhiều đến việc đền bù và bồi thường thiệt
hại của người dân có đất bị thu hồi bởi vì giá đất đền bù chưa sát với giá thị trường,
đặc biệt là giá ĐNN quá thấp so với giá đất phi nông nghiệp. Thêm nữa, vấn đề
công bằng xã hội chưa thể hiện rõ trong giá đất đền bù. Người dân bị thu hồi đất sau
khi nhận tiền đền bù của nhà nước thì không đủ mua lại một phần nhỏ đất mà họ
vừa giao cho nhà nước ngay trên mảnh đất mà họ đã sinh sống. Hơn nữa, khoản
chênh lệch này phần lớn rơi vào túi của các chủ dự án chứ không phải chủ yếu vào
151
Ngân sách Nhà nước, dẫn đến sự bất bình trong dân cư. Ở một số nơi quan hệ giao
dịch đất đai còn mang nặng tính chất hành chính, nặng về ép buộc, thậm chí cưỡng
chế mà không dựa trên cơ sở thoả thuận. Điều này thể hiện ở giá đất thu hồi không
sát giá thị trường, Nhà nước ép giá đối với dân; chưa có nơi tái định cư đã thu hồi
đất; tính công khai chưa được đảm bảo. Vì vậy, để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các
nhóm, trong cơ chế chính sách đền bù và bồi thường cho người có đất nông nghiệp
bị thu hồi do chuyển đổi MĐSD ở Bắc Ninh cần lưu ý xử lý một số vấn đề mang
tính nguyên tắc sau:
Thứ nhất, chính sách đền bù và bồi thường thiệt hại phải đảm bảo tính đủ giá
trị quyền sử dụng đất cho người dân có đất bị thu hồi. Giá trị quyền sử dụng đất này
phải được xây dựng trên cơ sở mặt bằng giá cả tính đến lợi ích thoả đáng cho người
dân. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các
luật và các chính sách nói chung cũng như luật đất đai và chính sách thu hồi đất nói
riêng được xây dựng và thực hiện đều trên cơ sở thực hiện các yêu cầu của cơ chế
thị trường. Chính phủ qui định phương pháp xác định giá đất; khung giá các loại đất
cho từng vùng, theo từng thời gian. "Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trên cơ sở phương pháp và khung giá đó xây dựng giá đất cụ thể tại địa
phương trình hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến trước khi quyết định".
Như thế, trong việc xác định giá quyền sử dụng đất để đền bù thiệt hại cho
người dân, Bắc Ninh cần quán triệt đầy đủ quy định này.
Thứ hai, áp dụng nguyên tắc địa tô chênh lệch II với đất đai được chuyển đổi
MĐSD và phần chênh lệch này phải tập trung vào ngân sách nhà nước.
Khi chuyển từ ĐNN sang đất chuyên dùng, xây dựng các khu đô thị, rõ ràng
giá đất có sự thay đổi. Do có san lấp, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng giáo
dục, y tế, văn hoá, giao thông, điện, nước nên giá trị đất đai tăng lên. Chính vì thế,
nhà nước cần có sự tính toán đầy đủ sự gia tăng này để bù đắp chi phí. Phần còn lại
phải tập trung vào ngân sách nhà nước. Có sự điều tiết như thế mới đảm bảo được
sự công bằng giữa người dân có đất bị thu hồi với các đơn vị được thu nhận đất,
khắc phục được tình trạng bất hợp lý hiện nay giữa giá ĐNN thu hồi với giá đất và
152
giá nhà ở do các đơn vị xây dựng bán cho người dân có đất bị thu hồi.
Để thực hiện được biện pháp này, các cơ quan nhà nước Bắc Ninh phải trực
tiếp thu hồi đất, trên cơ sở đó thực hiện việc san lấp mặt bằng và giao đất cho chủ
đầu tư theo giá cả hợp lý để khắc phục tình trạng chênh lệch giá quá mức không để
các chủ dự án đầu tư thu hồi đất. Thực tiễn đã cho thấy, nếu để cho chủ dự án đầu tư
giải phóng mặt bằng sẽ gây ra nhiều phức tạp. Phần vì để được việc, các chủ đã thoả
thuận với dân, cùng một địa bàn, song có dự án trả giá đền bù cao, có dự án trả giá
đến bù thấp. Điều này gây nên sự thắc mắc, khiếu kiện trong dân, vừa làm mất ổn
định về xã hội vừa kéo dài thời gian giải phóng mặt bằng. Mặt khác không ít chủ
đầu tư hứa với dân nhưng không thực hiện. Trong khi đó, người dân không biết ai,
cứ Nhà nước mà khiếu kiện.
Thứ ba, áp dụng nguyên tắc thoả thuận thay cho ép giá.
Trên phương diện chung, thu hồi đất là vì mục tiêu phát triển chung mà lợi ích
cuối cùng là người dân được hưởng. Tuy nhiên, đó lại là những đối tượng khác
nhau. Đặc biệt, khi bị thu hồi ĐNN, đối với những đối tượng trực tiếp có ĐNN bị
thu hồi phải chịu sự xáo trộn về việc làm, thu nhập và đời sống. Vì thế, để người
dân thực hiện lợi ích chung, Nhà nước phải đảm bảo lợi ích trước mắt và thiết yếu
của họ. Vấn đề giá cả đất thu hồi, vì thế phải được xác lập trên nguyên tắc thoả
thuận giữa người dân với các cơ quan thực thi của Nhà nước.
Với tư duy về bồi thường và đặc biệt việc xác định cơ sở định giá quyền sử
dụng đất chưa hợp lý đã dẫn đến tình trạng: "Đóng góp" cho nguồn lợi nhuận khổng
lồ của bất động sản những năm qua là sự "hy sinh" của bao người dân bị thu hồi đất,
nhà với giá đền bù thấp so với đầu ra của các dự án bất động sản trên mảnh đất của
mình. Mức chênh lệch có khi gấp mấy chục lần giữa giá đền bù cho dân và giá bán
nền của nhà đầu tư! "Cơ chế" đã ban cho những nhà đâu tư dự án cơ hội quý hơn
vàng suốt thời gian dài mà nhiều ngành khác không có được.
b) Xác định các tỷ lệ sử dụng đất trong các khu công nghiệp, đô thị một
cách hơp lý
153
Tỷ lệ đất được sử dụng vào các mục đích chính, nhất là các mục đích có cơ
hội thu hồi về tài chính có tác động đến lợi ích của các tổ chức và cá nhân có liên
quan đến quá trình sử dụng ĐNN sau chuyển đổi, trực tiếp là sử dụng vào
MĐSD của các khu, cụm công nghiệp, thương mại, dịch vụ và khu đô thị ở từng
địa phương.
Ảnh hưởng của việc xác định tỷ lệ trực tiếp đến nguồn thu, đến lợi ích kinh tế
của các chủ thể sử dụng đất và nhà nước địa phương hay trung ương theo 2 chiều
tích cực và tiêu cực. Tỷ lệ đất được sử dụng vào các mục đích trực tiếp cao sẽ tạo
điều kiện làm tăng lợi ích cho các chủ thể tổ chức quản lý và xây dựng các cơ sở hạ
tầng, cho thuế đất hoặc bán các công trình trên đất và ngược lại tỷ lệ thấp sẽ giảm
lợi ích của các hoạt động và các chủ thể tổ chức quản lý và kinh doanh chúng. Tại
Bắc Ninh, trong một số trường hợp, việc xác định vẫn chưa theo quy định chuẩn. Vì
vậy, để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các nhóm sau quá trình thu hồi đất, về mặt kỹ
thuật vấn đề quy định tỷ lệ phải tuân thủ theo quy chuẩn của nhà nước. Thêm nữa,
nó cũng đòi hỏi cán bộ người thực thi trực tiếp nhiệm vụ của nhà nước cũng phải
vận dụng một cách phù hợp, linh hoạt tùy vào bối cảnh địa phương.
Trên thực tế, lợi ích của các ban quản lý các dự án sử dụng đất phi nông
nghiệp phụ thuộc từ nguồn thu khi cho thuê, chuyển nhượng đất và công trình trên
đất. Về nguyên tắc, các khoản thu này phụ thuộc vào đơn giá cho thuê hay chuyển
nhượng. Xác định đơn giá này cần dựa trên các nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí
và tái sản xuất mở rộng. Vì vậy, nếu chi phí được thu thập hợp lý thì đơn giá phụ
thuộc vào mức độ sử dụng của đất vào các sản phẩm có thể cho thuê hay chuyển
nhượng. Chi phí không đổi, sản phẩm càng nhiều thì giá thành càng giảm, về
nguyên tắc người thuê và mua là người được lợi. Tuy nhiên, lợi ích đó không chỉ về
người sử dụng đất và các công trình trên đất mà trong nhiều trường hợp lại thuộc về
những tổ chức được nhà nước giao thực hiện các chức năng chuyển đổi MĐSD đất
và xây dựng các công trình trên đất.
c) Đổi mới cơ chế xác định thuế và các khoản thu từ sử dụng đất trong và
sau chuyển đổi mục đích trên cơ sở khoa học
154
Trong những trường hợp sau khi thu hồi đất nông nghiệp, lợi ích của những
người sử dụng ĐNN sau chuyển đổi, lợi ích của nhà nước sẽ có sự thay đổi và sự
thay đổi lợi ích của các nhóm lợi ích sẽ diễn ra thông qua các công cụ thuế và phí sử
dụng đất. Vì vậy, để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các nhóm, một giải pháp quan
trọng là cần xác định nộp mức thuế nào, các khoản thu gì khi sử dụng đất. Tất cả
đều cần có lý do và cơ sở khoa học theo quy định của nhà nước, đồng thời cũng cần
có những áp dụng linh hoạt để xác định mức độ phù hợp với bối cảnh địa phương.
Cơ sở của thu thuế sử dụng đất bắt nguồn từ vai trò, vị trí và nguồn gốc của đất
đai. Nói một cách khái quát: đất là tài nguyên, là nguồn gốc tự nhiên tạo ra của cải,
trước hết là nông sản phục vụ cho tất cả dân cư của xã hội; đất là tài nguyên, có trước
con người, khi đưa vào hoạt động có sự kết tinh sức lao động của nhiều thế hệ.
Về nguyên tắc, thuế là một phần của giá trị gia tăng người sử dụng có được từ
sử dụng đất phải nộp cho nhà nước để bù đắp các hoạt động quản lý nhà nước, để
trích nộp quỹ sử dụng chung của xã hội từ nguồn tài nguyên, vốn là sở hữu chung
của xã hội. Việc xác định thuế sử dụng đất bao gồm 2 phần: thuế sử dụng tài
nguyên và thuế sử dụng tài sản, tư liệu sản xuất người sử dụng phải trả cho xã hội,
khi đất đai thuộc sở hữu chung. Vì vậy, mức thuế phải nộp, các khoản phí phải thu
khi sử dụng đất hoặc các khoản phí phải trả khi chuyển đổi MĐSD đất đều có cơ sở
tính toán khoa học và hợp lý. Tuy nhiên do những mục tiêu nhất định, nhà nước có
thể coi đất như là nguồn thu cho ngân sách, khi đó các mức thuế và khoản thu về lệ
Kết luận chương 4
phí sử dụng đất sẽ có sự điều chỉnh theo mục tiêu.
Chương này đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp để giải quyết những
mặt còn hạn chế và thúc đẩy những mặt tích cực của quá trình chuyển đổi MĐSD
ĐNN để đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các nhóm lợi ích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh,
và theo như dự kiến của tác giả, quá trình chuyển đổi này đến 2020 vẫn tiếp tục diễn
ra với mức độ khá cao do yêu cầu của CNH, HĐH và ĐTH. Quá trình hình thành
các KCN, khu đô thị và khu nhà ở tập trung, việc thực hiện chương trình xây dựng
155
nông thôn mới đang bước vào giai đoạn mới. Vì vậy, đổi mới và hoàn thiện các
chương trình chuyển đổi MĐSD ĐNN, giải quyết các vấn đề phát sinh trong mối
quan hệ lợi ích giữa các nhóm đã và đang đặt ra một cách cấp thiết.
156
KẾT LUẬN
Chuyển đổi MĐSD ĐNN là yêu cầu có tính khách quan bắt nguồn từ những
cơ sở mang tính nội tại của ngành nông nghiệp và yêu cầu mở rộng các ngành kinh
tế xã hội trên phạm vi cả nước và trong từng địa phương, trong đó có tỉnh Bắc Ninh.
Chuyển đổi MĐSD ĐNN tạo nên sức sản xuất mới, góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng đất. Tuy nhiên, nhiều vấn đề kinh tế, xã hội cũng nảy sinh theo hướng tích cực
và tiêu cực từ quá trình đó.
Để khai thác những chuyển biến tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực cần
hiểu rõ các cơ sở khách quan của chuyển đổi MĐSD ĐNN, cơ sở của các vấn đề
kinh tế xã hội phát sinh. Trong các cơ sở khách quan chi phối chuyển đổi MĐSD
ĐNN, những vấn đề về nguồn gốc và đặc điểm của đất đai, trong đó những vấn đề
về địa tô, về khai thác tiềm năng lợi thế là những cơ sở chi phối trực tiếp và mạnh
mẽ nhất. Trong giải quyết các vấn đề về lợi ích giữa các nhóm của quá trình chuyển
đổi MĐSD ĐNN, những vấn đề về sở hữu về giá trị gia tăng và nguồn gốc phát sinh
giá trị gia tăng cũng là những vấn đề chi phối trực tiếp và mạnh mẽ nhất.
Đối với Bắc Ninh, bên cạnh những cơ sở chung trên, kinh nghiệm của một số
địa phương trong nước, sự chi phối của các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của
tỉnh cũng là những vấn đề cần được quan tâm khi xem xét, đánh giá thực tiễn và đề
xuất các giải pháp xử lý thực tiễn.
Bắc Ninh là tỉnh cận kề Thủ đô Hà Nội nên có quá trình CNH, HĐH ĐTH và
hội nhập kinh tế với tốc độ cao nên chuyển đổi MĐSD ĐNN đã và sẽ diễn ra với tốc
độ cao và những vấn đề kinh tế xã hội phát sinh từ quá trình đó cũng diễn ra khá gay
gắt. Trong những năm qua, chuyển đổi MĐSD ĐNN đã được thể hiện theo các giai
đoạn khác nhau với bối cảnh về kinh tế chính trị xã hội khác nhau nên nảy sinh các
vấn đề kinh tế xã hội với các chiều hướng và mức độ khác nhau. Trên thực tế, chuyển
đổi MĐSD ĐNN diễn ra ở tất cả các địa phương trong tỉnh. Tuy nhiên, chuyển đổi
MĐSD ĐNN hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị và nhà ở tập trung chỉ diễn
ra ở một số địa phương có điều kiện thuận lợi như Thành phố Bắc Ninh, huyện Quế
Võ, Yên Phong, Thị xã Từ Sơn.
157
Chuyển đổi MĐSD ĐNN hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị và nhà ở
tập trung đã mang lại những tác động tích cực về kinh tế xã hội cho tỉnh như tạo sức
sản xuất mới, nâng cao tốc độ tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm,
tăng thu nhập cho người lao động.
Tuy nhiên, do những lý do khách quan và chủ quan, trong đó sự tác động của
suy giảm kinh tế, các lý do về tác động tiêu cực của kinh tế thị trường chưa được
khống chế dẫn đến các vấn đề tiêu cực phát sinh, trong đó vấn đề việc làm, thu nhập
và đời sống của những người có ĐNN chuyển đổi bị xáo trộn và thu hẹp; sự khống
chế và điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích giữa các nhóm, trong một nhóm qua các
giai đoạn chưa hợp lý là những vấn đề cần tập trung giải quyết.
Giai đoạn 2013-2020, các cơ sở khách quan về chuyển đổi MĐSD ĐNN vẫn
tồn tại và đặt ra những vấn đề cần đổi mới và hoàn thiện quá trình chuyển đổi. Đặc
biệt là giải quyết các vấn đề về lợi ích phát sinh không hợp lý giữa các nhóm lợi ích
cần được giải quyết thỏa đáng. Cần rà soát quy hoạch, tìm ra những tiềm năng và
lợi thế của từng địa phương để điều chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội
làm cơ sở điều chỉnh các kế hoạch chuyển đổi MĐSD ĐNN, xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị và nhà ở tập trung, chương trình xây dựng nông thôn mới; giải
quyết một cách khoa học và cụ thể hơn các vấn đề về việc làm, thu nhập và đời
sống của nông dân có ĐNN bị thu hồi hoặc bị tác động trực tiếp; giải quyết những
vấn đề cho các khu công nghiệp, khu đô thị và nhà ở tập trung trong điều kiện của
suy giảm kinh tế là những giải pháp cơ bản và cấp bách.
158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Cục thống kê Bắc Ninh. (2005). , Thực trạng doanh nghiệp Bắc Ninh qua kết
quả điều tra năm 2001, 2002, 2003 và 2004. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
2. Cục thống kê Bắc Ninh. (2012). Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh năm 2012.
3. Đại học Kinh tế quốc dân. (2005). , Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của
người có đất bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia, Hà Nội.
4. Đặng Hùng Võ. (2012). , Nhà nước nên thu hồi đất cho ai.
http://ibla.org.vn/?cate=forum&id=22.
5. Đảng Cộng Sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX (pp. 89). NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6. Lê Du Phong. (2007). Thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi
để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, các
công trình công cộng phục vụ lợi ích quốc gia. Hà nội, Việt Nam: Nhà xuất bản
chính trị quốc gia
7. Nghị quyết số 75/ 2013 /NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh.
(2013). Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh đến năm
2020, tầm nhìn 2030.
8. Nghị quyết số 188/ 2004/ NĐ-CP 16/11. (2004). , Về phương pháp xác định giá
đất và khung giá các loại đất. Retrieved from
http://quocteviet.com.vn/?Tab=7&catid=58&subid=56&newsid=127.
9. Nguyễn Phúc Thọ. (2009). Tác động tiêu cực của CNH tới nội dung xây dựng
khu công nghiệp tập trung đến sản xuất và đời sống của các hộ nông dân bị thu
hồi đất ở xã Nam Sơn huyện Quế Võ Tỉnh Bắc Ninh.
159
10. Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Thanh Trà và Hồ Thị Lam Trà (2013). Ảnh
hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống, việc làm của nông dân
huyện Văn Lâm, Hưng Yên, tập 11, số 1, trang 59-67
11. Quốc Phương (2012), Ai hưởng lợi trên đất nông thôn Việt Nam.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/01/120131_vn_rural_lands_sol
utions.shtml.
12. Tổng cục thống kê. (2012). Niên giám thống kê năm 2012. Nhà xuất bản Thống
kê. Hà Nội.
13. UBND thị xã Từ Sơn - Trung tâm phát triển quỹ đất. (2005). Hồ sơ duyệt chi
tiết diện tích đất thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và các biên bản kiểm kê - Dự án
Xây dựng kinh doanh hạ tầng khu đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh.
14. UBND thị xã Từ Sơn - Trung tâm phát triển quỹ đất. (2012). Dự án xây dựng
kinh doanh hạ tầng khu đô thị và dịch vụ VSIP Bắc Ninh tại xã Phù Chẩn, Thị
xã Từ Sơn. Kèm theo quyết định phê duyệt số 243/ QĐ/UBND ngày 14/05/2012
của Chủ tịch UBND thị xã Từ Sơn. Từ Sơn, Bắc Ninh.
15. UBND tỉnh Bắc Ninh. Địa lý tự nhiên-Tài nguyên và môi trường, from
http://www.bacninh.gov.vn/tranggioithieutinh
16. UBND tỉnh Bắc Ninh. (1998). Quyết định số 36/UB/1998/UB-UB ngày 13
tháng 6 năm 1998 về quy định các khung giá đất áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh.
17. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2004). Quyết định số 225/2004/QĐ-UB ngày 18 tháng
12 năm 2004 về quy định các khung giá đất áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh.
18. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2005). Quyết định số 168/2005/QĐ-UB ngày 21 tháng
12 năm 2005 về quy định các khung giá đất áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh.
19. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2008). Báo cáo tổng hợp rà soát, điều chỉnh Quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2010.
20. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2010a). Báo cáo Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020.
21. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2010b). Quyết định số 162/2010/QĐ-UBND ngày 23
tháng 12 năm 2010 về quy định các khung giá đất áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh.
160
22. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2011a). Báo cáo kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết
số 02-NQ/TƯ của ban chấp hành đảng bộ tỉnh Bắc Ninh khóa XVII về tiếp tục
đẩy mạnh xây dựng và phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp gắn
với phát triển đô thị theo hướng hiện đại. Bắc Ninh, Việt Nam.
23. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2011b). Quy chế phối hợp quản lý cụm công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Ban hành theo quyết định 79/2011/ QĐ-UBND
ngày 08 tháng 7 năm 2011 của UBND tỉnh Bắc Ninh.
24. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2012). Báo cáo tổng hợp rà soát, điều chỉnh quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh đến 2020, định hướng đến 2030.
25. UBND tỉnh Bắc Ninh. (2013). Báo cáo thực trạng, mục tiêu và giải pháp phát
triển các khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh đến năm 2015.
26. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001). NXB Chính trị Quốc gia,
Tài liệu tiếng Anh
Hà Nội.
1. ADB. (2007). Agricultural land conversion for industrial and commercial use:
competing interests of the poor. In ADB (Ed.), Markets and Development
Bulletin (pp. 85-93). Hanoi, Vietnam: Asian Development Bank.
2. Azadi, H., Ho, P., & Hasfiati, L. (2011). Agricultural land conversion drivers: A
comparison between less developed, developing and developed countries. Land
Degradation & Development, 22(6), 596-604.
3. Barrett, C. B., Reardon, T., & Webb, P. (2001). Nonfarm income diversification
and household livelihood strategies in rural Africa: Concepts, dynamics, and
policy implications. Food Policy, 26(4), 315-331.
4. Benayas, J. M. R., Martins, A., Nicolau, J. M., & Schulz, J. J. (2007).
Abandonment of agricultural land: An overview of drivers and consequences.
CAB reviews: Perspectives in agriculture, veterinary science, nutrition and
natural resources, 2(57), 1-14.
161
5. Bouahom, B., Douangsavanh, L., & Rigg, J. (2004). Building sustainable
livelihoods in Laos: Untangling farm from non-farm, progress from distress.
Geoforum, 35(5), 607-619.
6. Chen, J. (2007). Rapid urbanization in China: A real challenge to soil protection
and food security. Catena, 69(1), 1-15.
7. Chen, W. (1998). The political economy of rural industrialization in China:
Village conglomerates in Shandong Province. Modern China, 24(1), 73-96.
8. Davis, J. R. (2006). Rural non-farm livelihoods in transition economies:
emerging issues and policies. Electronic Journal of Agricultural and
Development Economics, 3(2), 180-224.
9. Deininger, K., & Feder, G. (1999). Land Institutions and Land Markets. (Policy
Research Working Paper). The World Bank. Washington, D.C. Retrieved from
http://www-
wds.worldbank.org/external/default/WDSContentServer/IW3P/IB/2000/02/24/0
00094946_99031911105637/Rendered/PDF/multi_page.pdf
10. Deng, X., Huang, J., Rozelle, S., & Uchida, E. (2006). Cultivated land
conversion and potential agricultural productivity in China. Land Use Policy,
23(4), 372-384.
11. Deshingkar, P. (2005). Maximizing the benefits of internal migration for
development. Paper presented at the Regional Conference on Migration and
Development in Asia, Lanzhou, China.
http://www.odi.org.uk/resources/docs/2358.pdf
12. DFID. (2002). Better livelihoods for poor people: The role of land policy.
(Consultation document). Department for International Development, UK.
Retrieved from Eldis website
http://www.eldis.org/vfile/upload/1/document/0708/DOC11008.pdf
13. Do, Q. T., & Iyer, L. (2008). Land titling and rural transition in Vietnam.
Economic Development and Cultural Change, 56(3), 531-579.
162
14. Do, T. N. (2006). Loss of land and farmers' livelihood: A case study in Tho Da
village, Kim No commune, Dong Anh district, Hanoi, Vietnam. MA Thesis,
Swedish University of Agricultural Sciences, Uppsala, Sweden.
15. Ellis, F. (1998). Household strategies and rural livelihood diversification.
Journal of Development studies, 35(1), 1-38.
16. Ellis, F. (2000). Rural livelihoods and diversity in developing countries. New
York, NY: Oxford University Press.
17. Fazal, S. (2000). Urban expansion and loss of agricultural land-a GIS based
study of Saharanpur City, India. Environment and Urbanization, 12(2), 133-
149.
18. Fazal, S. (2001). The need for preserving farmland: A case study from a
predominantly agrarian economy (India). Landscape and Urban Planning,
55(1), 1-13.
19. Fernandes, W. (2011). Land as livelihood vs land as commodity,
Inforchageindia. Retrieved from http://infochangeindia.org/agenda/battles-over-
land/land-as-livelihood-vs-land-as-commodity.html
20. Firman, T. (1997). Land conversion and urban development in the northern
region of West Java, Indonesia. Urban Studies, 34(7), 1027-1046.
21. Gregory, P., & Mattingly, M. (2009). Goodbye to natural resource-based
livelihoods? Crossing the rural/urban divide. Local Environment, 14(9), 879-890.
22. Guo, X. (2001). Land expropriation and rural conflicts in China. The China
Quarterly, 166, 422-439.
23. Han, S. S., & He, C. X. (1999). Diminishing farmland and urban development
in China: 1993–1996. GeoJournal, 49(3), 257-267.
24. Han, S. S., & Vu, K. T. (2008). Land acquisition in transitional Hanoi, Vietnam.
Urban Studies, 45(5-6), 1097-1117.
25. Ho, S. P., & Lin, G. C. (2004). Converting Land to Nonagricultural Use in China’s
Coastal Provinces Evidence from Jiangsu. Modern China, 30(1), 81-112.
163
26. Irawan, B. (2008). Meningkatkan effektifitas kebijakan konversi lahan. Paper
presented at the Forum Penelitian Agro Ekonomi.
27. Jansen, H., Pender, J., Damon, A., Wielemaker, W., & Schipper, R. (2006).
Policies for sustainable development in the hillside areas of Honduras: A
quantitative livelihoods approach. Agricultural Economics, 34(2), 141-153.
28. Johnson, G. D. (2002). Can agricultural labour adjustment occur primarily through
creation of rural non-farm jobs in China? Urban Studies, 39(12), 2163-2174.
29. Kabeer, N., & Tran, T. V. A. (2000). Leaving the rice fields but not the
countryside: Gender, livelihood diversification and pro-poor growth in rural
Viet Nam. (Occasional Paper 13). Research Institution for Social Development,
Uinited Nations. Retrieved from
http://www.unrisd.org/80256B3C005BCCF9/(httpPublications)/9E3031CC9CB
1C06380256B67005B75F3?OpenDocument
30. Kato, T. (1994). The emergence of abandoned paddy fields in Negeri Sembilan,
Malaysia. Southeast Asian Studies, 32(2), 145-172.
31. Kirk, M., & Nguyen, D. T. A. (2009). Land-tenure policy reforms:
Decollectivization and the Doi Moi system in Vietnam (IFPRI Discussion
Paper). International Food Policy Research Institute. Retrieved from
http://www.ifpri.org/sites/default/files/publications/ifpridp00927.pdf
32. Koczberski, G., & Curry, G. (2005). Making a living: Land pressures and
changing livelihood strategies among oil palm settlers in Papua New Guinea.
Agricultural Systems, 85(3), 324-339.
33. Lichtenberg, E., & Ding, C. (2008). Assessing farmland protection policy in
China. Land Use Policy, 25(1), 59-68.
34. Mahapatra, S. (2007). Livelihood pattern of agricultural labour households in
rural India. South Asia Research, 27(1), 79-103.
164
35. Malaque, I. R., & Yokohari, M. (2007). Urbanization process and the changing
agricultural landscape pattern in the urban fringe of Metro Manila, Philippines.
Environment and Urbanization, 19(1), 191-206.
36. Nguyen, Q. V., Nguyen, H. M., Nguyen, X. M., Pham, Q. H., & Nguyen, V.
T. (2005). The impact of urbanisation on agriculture in Hanoi: Results of
inteviews with districts and municipality officals. Hanoi, Vietnam.
37. Nguyen, T. D., Vu, D. T., & Philippe, L. (2011). Peasant responses to
agricultural land conversion and mechanism of rural social differentiation in
Hung Yen province, Northern Vietnam. Paper presented at the 7th ASAE
International Conference, Hanoi, Vietnam.
http://orbi.ulg.ac.be/handle/2268/100467
38. Nguyen, Q. V., Nguyen, H. M., Nguyen, X. M., Pham, Q. H., & Nguyen, V. T.
(2005). The impact of urbanisation on agriculture in Hanoi: Results of
inteviews with districts and municipality officals. Hanoi, Vietnam. Retrieved
from the CARES website
http://www.cares.org.vn/webplus/attachments/2976a896b1e0df4268a563125e4
16350-03.pdf
39. Nguyen, T. D., Vu, D. T., & Philippe, L. (2011). Peasant responses to
agricultural land conversion and mechanism of rural social differentiation in
Hung Yen province, Northern Vietnam. Paper presented at the 7th ASAE
International Conference, Hanoi, Vietnam.
http://orbi.ulg.ac.be/handle/2268/100467
40. Nguyen, T. T. (2012). Land reform and farm production in the Northern
uplands of Vietnam. Asian Economic Journal, 26(1), 43-61.
41. Nguyen, V. S. (2009). Industrialization and urbanization in Vietnam: How
appropriation of agricultural land use rights transformed farmers' Livelihoods
in a Per-Urban Hanoi Village? (EADN working paper No.38). Retrieved from
East Asian Developmet Network website http://www.eadn.org/eadnwp_38.pdf
165
42. Ohlsson, L. (2000). Livelihood conflicts: Linking poverty and environment as
causes of conflict. Swedish International Development Cooperation Agency
(Sida). Stockholm, Sweden. Retrieved from
http://www.sida.se/Documents/Import/pdf/Livelihood-Conflicts-Linking-
poverty-and-environment-as-causes-of-conflict5.pdf
43. Parish, W., Zhe, X., & Li, F. (1995). Nonfarm work and marketization of the
Chinese countryside. The China Quarterly, 143(Sep.,1995), 697-730.
44. Ramankutty, N., Foley, J., & Olejniczak, N. (2002). People on the land:
Changes in global population and croplands during the 20th century. AMBIO: A
Journal of the Human Environment, 31(3), 251-257.
45. Rigg, J. (2006). Land, farming, livelihoods, and poverty: Rethinking the links in
the rural South. World Development, 34(1), 180-202.
46. Tacoli, C. (2004). Rural-urban linkage: pro-poor agricultural growth: An
overview. Paper presented at the Agriculture and Pro-Poor Growth Task Team.
Helsiki Workshop, Helsiki, Finland.
http://www.oecd.org/dataoecd/25/8/36562896.pdf
47. Tan, M., Li, X., Xie, H., & Lu, C. (2005). Urban land expansion and arable land
loss in China: A case study of Beijing-Tianjin-Hebei region. Land Use Policy,
22(3), 187-196.
48. Tan, R., Beckmann, V., Van Den Berg, L., & Qu, F. (2009). Governing
farmland conversion: Comparing China with the Netherlands and Germany.
Land Use Policy, 26(4), 961-974.
49. Toufique, K. A., & Turton, C. (2002). Hand not land: How livelihoods are
changing in rural Banladesh. Dhaka, Bangladesh: Bangladesh Institute of
Development Studies.
50. Tsering, D., Bjonness, H. C., & Guo, H. (2007). Land conservation and urban
farmers livelihoods: A critical pair in an urban strategy in Gyantse, Tibet
autonomous region, P.R. of China. Paper presented at the 43rd ISOCARP
166
Congress 2007, Antwerp, Bengium.
http://www.isocarp.net/Data/case_studies/1034.pdf
51. Tuyen, T. Q., Lim, S., Cameron, M. P., & Huong, V. V. (2014). Farmland loss
and livelihood outcomes: a microeconometric analysis of household surveys in
Vietnam. Journal of the Asia Pacific Economy, 19(3), 423-444.
52. Van den Berg, M., Van Wijk, M.S., & Van Hoi, P.(2003).The transformation of
agriculture and rural life downstream of Hanoi. Environment and Urbanization,
15(1), 35-52.
53. Vo, N. T. (2006). Livelihoods of people living in a peri-urban area of Ho Chi
Minh City: A case study: Hung Long commune, Binh Chanh district, Ho Chi
Minh City, Vietnam. Unpublished MA Thesis, Swedish University of
Agricultural Sciences, Uppsala, Sweden.
54. Wei, X., Declan, C., Erda, L., Yinlong, X., Hui, J., Jinhe, J., Yan, L. (2009).
Future cereal production in China: The interaction of climate change, water
availability and socio-economic scenarios. Global Environmental Change,
19(1), 34-44.
55. Winters, P., Davis, B., Carletto, G., Covarrubias, K., Quiñones, E. J., Zezza,
A.,Stamoulis, K.(2009).Assets, activities and rural income generation: evidence
from a multicountry analysis. World Development, 37(9), 1435-1452.
56. Xie, Y., Mei, Y., Guangjin, T., & Xuerong, X.(2005).Socio-economic driving
forces of arable land conversion: a case study of Wuxian City, China. Global
Environmental Change Part A, 15(3), 238-252.
167
PHỤ LỤC
PHIẾU ĐIỀU TRA
TÌNH HÌNH CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Phiếu số: 01-ĐTCB
Các thông tin cung cấp theo phiếu điều tra chỉ nhằm phục vụ công tác thống
kê về nghiên cứu khoa học, các chương trình đào tạo sau đại học nói chung và
nghiên cứu Tiến sĩ nói riêng.
Các thông tin được bảo mật theo luật định
Họ và tên (Viết chữ in hoa, có dấu, không viết tắt): .................................................
Chức vụ: ...................................................................................................................
Tên cơ quan/ đơn vị: ...............................................................................................
Địa chỉ: .....................................................................................................................
Số điện thoại: ...........................................................................................................
1.Diện tích đất đai của địa phương
Diện tích trước Diện tích bị Diện tích sau Tỷ lệ thu hồi Loại đất thu hồi (Ha) thu hồi (Ha) thu hồi (Ha) (%)
Đất canh tác
Đất sản xuất
kinh doanh
Đất ở
Đất khác
2. Số dự án thu hồi đất nông nghiệp của địa phương
168
3. Các dự án thu hồi đất nông nghiệp của địa phương chủ yếu nhằm mục đích gì
A. Xây dụng các công trình công cộng
B. Thu hồi đất nông nghiệp chuyển sang đất ở
C. Thu hồi đất cho các khu công nghiệp, nhà máy, khu sản xuất công
nghiệp, dịch vụ
D. Thu hồi đất cho các mục đích khác
4. Việc triển khai thu hồi đất giữa chính quyền và các bên liên quan như thế
nào? Các cam kết và vấn đề khiếu kiện, khiếu nại tại địa phương?
5. Những khó khăn trong việc thu hồi đất nông nghiệp
6. Các chính sách hỗ trợ người nông dân bị thu hồi đất đã được thực thi là gì?
7. Thu NSNN từ việc thu hồi đất nông nghiệp trong 10 năm qua
Nguồn thu
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
8. Nguồn NSNN từ việc thu hồi đất được sử dụng cho việc phát triển cơ sở hạ
tầng như thế nào?
9. Các doanh nghiệp, cơ quan triển khai dự án thu hồi đất có những đóng góp
gì cho cộng đồng địa phương sau khi thu hồi đất nông nghiệp
10. Tổng số việc làm được giải quyết từ việc đất nông nghiệp bị thu hồi là bao
nhiêu qua các năm?
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Số việc làm (lượt
người)
169
11. Đối tượng được tạo việc làm chủ yếu ở các khu CN, nhà máy từ đất nông
nghiệp chuyển đổi sang là (Khoanh một lựa chọn)
A. Lao động nữ tại địa phương
B. Lao động nam tại địa phương
C. Lao động nữ từ khu vực khác đến
D. Lao động nam từ các khu vực khác đến
12. Cơ cấu kinh tế ngành của địa phương thay đổi như thế nào sau khi có đất
nông nghiệp bị thu hồi?
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nông-Lâm-Ngư
CN-XD
DV
Tổng số
13. Tình hình môi trường tại các địa phương có đất nông nghiệp sau khi bị thu
hồi (Khoanh một lựa chọn)
A. Môi trường không thay đổi
B. Môi trường bị ô nhiễm (Không khí, nước, chất thải rắn…)
Khoanh tiếp vào 1 trong 3 mức độ sau:
1- Rất nghiêm trọng 2- Nghiêm trọng 3- Cảnh báo
C. Môi trường được cải thiện
14. Tình hình văn hóa-xã hội, giáo dục-y tế, an ninh-trật tự tại các địa phương
có đất nông nghiệp sau khi bị thu hồi (Trong mỗi dòng, khoanh tròn 1 câu trả lời
phù hợp nhất: 1= Rất kém, 2= Kém, 3= Bình thường, 4= Khá, 5= Tốt)
A. Văn hóa-xã hội 1 2 3 4 5
B. Giáo dục- y tế 1 2 3 4 5
2 4 5 3
C. An ninh- trật tự 1
170
PHIẾU ĐIỀU TRA
TÌNH HÌNH DOANH NGHIỆP SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
BỊ THU HỒI
Phiếu số: 02-ĐTDN
Các thông tin cung cấp theo phiếu điều tra chỉ nhằm phục vụ công tác thống
kê về nghiên cứu khoa học, các chương trình đào tạo sau đại học nói chung và
nghiên cứu Tiến sĩ nói riêng.
Các thông tin được bảo mật theo luật định
Tên doanh nghiệp (Viết chữ in hoa, có dấu, không viết tắt): . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Họ và tên chủ doanh nghiệp: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Địa chỉ: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Số điện thoại: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
1. Thời gian DN mua lại ĐNN của địa phương
2. Diện tích ĐNN được DN mua của địa phương
3. Mục đích DN mua đất của địa phương
4. Lý do lựa chọn việc mua ĐNN ở địa phương?
5. Chi phí DN bỏ ra mua ĐNN
6. Cách tính giá bồi thường ĐNN cho người dân
7. Các cam kết của DN với người dân và địa phương khi mua đất
8. Các nguồn lực của địa phương mà DN có thể sử dụng
9. Các ưu đãi, tạo điều kiện của địa phương khi DN thực hiện sản xuất, tạo việc
làm tại các địa phương
10. Những đóng góp của DN đối với cộng đồng và chính quyền địa phương
11. Số lao động hiện có tại thời điểm 31/12/2013 của DN
12. Những lợi ích về mặt kinh tế mà DN thu được khi sử dụng ĐNN tại địa phương
13. Những khó khăn, tác động tiêu cực đến lợi ích của DN khi sử dụng ĐNN tại
địa phương
171
PHIẾU ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH
LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM, THU NHẬP SAU KHI THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP
Phiếu số: 03-ĐTHO
Các thông tin cung cấp theo phiếu điều tra chỉ nhằm phục vụ công tác thống
kê về nghiên cứu khoa học, các chương trình đào tạo sau đại học nói chung và
nghiên cứu Tiến sĩ nói riêng.
Các thông tin được bảo mật theo luật định
1. Thông tin chung về hộ và chủ hộ
Họ và tên chủ hộ:
Địa chỉ:
Năm sinh:
2. Diện tích đất đai của hộ
Diện tích Diện tích bị Diện tích sau Tỷ lệ thu hồi Loại đất trước thu hồi thu hồi (Ha) thu hồi (Ha) (%) (Ha)
Đất canh tác
Đất sản xuất
kinh doanh
Đất ở
Đất khác
172
3. Đặc điểm lao động của hộ trước khi thu hồi đất
Tình trạng việc làm (Công việc chủ yếu đang làm)
STT Nghỉ hưu Kinh doanh Không có việc Buôn bán nhỏ Trình độ văn hóa(Ghi mã ở dưới) Lao động Nông nghiệp Viên chức nhà nước Lao động gia đình Đang học ĐH hoặc học nghề
Họ tên lao động (Chỉ tính những người từ 15 tuổi trở lên và có khả năng lao động 1
2
3
4
Trình độ văn hóa ghi mã: 0- Mù chữ; 1- Chưa tốt nghiệp tiểu học; 2- Tốt nghiệp
tiểu học; 3- Tốt nghiệp THCS; 4- Tốt nghiệp PTTH
4. Tổng thu nhập ổn định bình quân hộ trước khi thu hồi đất (hộ/ năm):
A. Dưới 24 triệu đồng B. Từ 24 đến 36 triệu
C. Từ 36 đến 48 triệu đồng D. Từ 48 đến 60 triệu
E. Trên 60 triệu đồng
5. Nguồn thu nhập (Đã trừ chi phí) chủ yếu của hộ trước khi thu hồi đất (Chọn
ba nguồn lớn nhất theo thứ tự: 1, 2, 3):
Nguồn thu nhập chính Mức độ Nguồn khác Mức độ
Tiền công, tiền lương Lương hưu
Nông, lâm nghiệp, thủy sản Trợ cấp xã hội
Sản xuất kinh doanh Lãi gửi tiết kiệm
Buôn bán nhỏ Khác
173
Tình trạng việc làm (Công việc chủ yếu đang làm)
STT
Nghỉ hưu
Kinh doanh
Không có việc
Buôn bán nhỏ
Trình độ văn hóa(Ghi mã như câu 3)
Lao động Nông nghiệp
Viên chức nhà nước
Lao động gia đình
Đang học ĐH hoặc học nghề
Họ tên lao động (Chỉ tính những người từ 15 tuổi trở lên và có khả năng lao động
1
2
3
4
6. Đặc điểm việc làm của hộ sau khi thu hồi đất
7. Tổng thu nhập ổn định bình quân hộ sau khi thu hồi đất (hộ/năm)
A. Dưới 24 triệu đồng B. Từ 24 đến 36 triệu
C. Từ 36 đến 48 triệu đồng D. Từ 48 đến 60 triệu
E. Trên 60 triệu đồng
8. Nguồn thu nhập (Đã trừ chi phí, nếu thu từ SXKD) chủ yếu của hộ sau khi thu
hồi đất (chọn ba nguồn lớn nhất theo thứ tự: 1, 2, 3):
Nguồn thu nhập chính Mức độ Nguồn khác Mức độ
Tiền công, tiền lương Lương hưu
Nông, lâm nghiệp, thủy sản Trợ cấp xã hội
Sản xuất kinh doanh Lãi gửi tiết kiệm
Buôn bán nhỏ Khác
Cho thuê nhà
9. Hộ gia đình có nhận được hỗ trợ khi bị thu hồi đất
1- Có 2- Không Chuyển Câu 13
174
10. Hình thức hỗ trợ nhận được sau khi thu hồi đất (Khoanh một hoặc một số
lựa chọn):
A. Bồi thường, trợ cấp tiền mặt
B. Cam kết việc làm
C. Cho vay vốn
D. Dạy nghề
E. Hỗ trợ tìm việc
F. Khác
12. Ông bà cho biết lý do tại sao lại không đầu tư vào sản xuất kinh doanh
(Khoanh một trong các lựa chọn)
A. Số tiền đền bù quá ít, không đủ cho đầu tư
B. Không có cơ hội tốt để đầu tư
C. Không biết sử dụng tiền để đầu tư sản xuất kinh doanh
D. Hoạt động kinh tế của gia đình không cần phải đầu tư thêm
E. Phải đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết của gia đình nên không còn tiền
đầu tư
F. Lý do khác
13. Hộ gia đình có được ưu đãi trong việc vay vốn khi bị thu hồi đất
1- Có 2- Không Chuyển Câu 16
14. Khi được vay vốn, hộ gia đình đã sử dụng vào mục đích gì (Khoanh một
hoặc một số lựa chọn)
A. Gửi tiết kiệm
B. Góp vốn đầu tư
C. Mua sắm tài sản tiêu dùng lâu bền (ti vi, xe máy, ô tô…)
D. Xây nhà
E. Tiêu dùng hàng ngày
F. Khác
175
15. Hộ có hài lòng với những điều kiện khi sử dụng vốn vay không (Trong mỗi
dòng khoanh tròn 1 câu trả lời phù hợp nhất: 1= Rất hài long; 2= Hài lòng; 3=
Bình thường; 4= Không hài lòng)
A. Lãi suất: 1 2 3 4
B. Giới hạn vốn vay: 1 2 3 4
C. Thời gian vay vốn: 1 2 3 4
16. Lao động trong hộ gia đình có tham gia vào các khóa dạy nghề được hỗ trợ
không?
1- Có 2-Không Chuyển câu 20
17. Lao động trong hộ gia đình đã lựa chọn học các nghề nào
18. Các nghề được tổ chức dạy có phù hợp với năng lực và mong muốn của
những người tham gia không?
1- Có 2-Không
19. Lao động trong gia đình có tìm được việc làm sau khi học nghề không?
20. Bên thu hồi đất có thực hiện đúng các cam kết không?
1- Có 2-Không
21. Hộ có thực hiện khiếu kiện, khiếu nại không?
1- Có 2-Không
22. Những lợi ích khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp là gì
(khoanh một hoặc một số lựa chọn)
A. Có nguồn tài chính để trang trải cho các hoạt động
B. Kiếm được việc làm thu nhập cao hơn trong các khu công nghiệp
C. Có điều kiện chăm lo các vấn đề sức khỏe
D. Có điều kiện cho con cái học hành
176
E. Đường giao thông được xây mới, có thêm các khu vui chơi, chợ, nơi mua sắm
F. Cơ hội việc làm phi nông nghiệp khác như buôn bán, kinh doanh bên cạnh các
khu CN, khu đô thị (xây nhà cho thuê, phòng trọ, mở cửa hàng)
23. Tác động không tốt do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp là gì
(Khoanh một hoặc một số lựa chọn)
A. Ô nhiễm không khí, khói bụi
B. Ô nhiễm tiếng ồn
C. Các vấn đề sức khỏe
D. Không tìm được việc làm mới, phải đi làm xa
E. Các tệ nạn nhiều hơn
F. Sản xuất nông nghiệp trên diện tích đất còn lại không hiệu quả
G. Thất nghiệp
24. So với trước khi thu hồi đất, Ông (bà) cảm thấy mức độ hài lòng của gia
đình với cuộc sống (Khoanh một lựa chọn):
A. Tăng nhiều
B. Tăng một phần
C. Không hài lòng
D. Phần nào giảm đi
E. Giảm mạnh
Ghi chú: Tuổi lao động được chia thành 6 nhóm: 15-24; 25-34; 35-44; 45-54; 55-
60; >60
177
Một vài kết quả tính toán từ cuộc điều tra
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
2010
2011 2012 2013
47
184,3 180,5 251,4 335,7 387,1 468,1 752,1 580,6 404,6 412,5
Năm Nguồn thu XD công trình
công cộng
Chuyển sang
12,8 50,3
49,2
68,6
91,5
105,6 127,7 205,1 150,3 110,3 112,5
đất ở
Chuyển đổi
15,4 60,3
59,1
82,3
109,9 126,7 153,2 246,2 190
132,4 135
cho Khu CN,
nhà máy,
xưởng SX,
dịch vụ
Các mục đích
10,3 40
39,4
54,8
73,2
84,5
102,1 164,1 126,7 88,3
90
khác
Phụ lục 1: Thu NSNN từ việc thu hồi đất nông nghiệp trong 10 năm qua (tỷ đồng)
Phụ lục 2: Tổng số việc làm được giải quyết từ việc đất nông nghiệp bị thu hồi
là bao nhiêu qua các năm?
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Số việc làm (lượt người) 5403 5123 6170 6639 6750 7731 7836 7417 7800
Phụ lục 3: Cơ cấu kinh tế ngành của địa phương thay đổi như thế nào sau khi
có đất nông nghiệp bị thu hồi? (%)
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Nông-Lâm-Ngư 26,3 21,3 16,6 13,9 12,5 10,6 7,8 7,9 5,3
CN-XD 45,9 49,5 57,2 61,5 63,7 68,4 74,9 72,8 79
DV 27,8 29,2 26,2 24,6 23,8 21 17,3 19,3 15,7
Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100