Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An
lượt xem 3
download
Mục đích của đề tài: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An. Phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2010.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------------------ ĐẶNG THÀNH CHUNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NGHỆ AN LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Hà Nội, 2005
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------------------ ĐẶNG THÀNH CHUNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở NGHỆ AN CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ : 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN ANH TÀI Hà Nội, 2005
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ......................................................................................... 5 1.1. Khái quát về việc làm và vai trò của giải quyết việc làm .................. 5 1.2. Những nhân tố tác động đến việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường ...................................................................... 11 1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho người lao động ở một số địa phương trong và ngoài nước ............................................................ 23 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN TRONG NHỮNG NĂM QUA ...................................................................... 32 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của tỉnh Nghệ An ..................... 32 2.2. Thực trạng lao động và việc làm của Nghệ An ................................ 39 2.3. Đánh giá tổng quát về thực trạng lao động – việc làm ở Nghệ An .... 63 2.4. Những vấn đề đặt ra cần giả i quyết ................................................. 67 CHƯƠNG 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NGHỆ AN TỪ NAY ĐẾN NĂM 2010 ...................... 71 3.1. Quan điểm, dự báo và phương hướng giải quyết việc làm ở Nghệ An đến năm 2010 ............................................................................ 71 3.2. Những giải pháp chủ yếu để giải quyết có hiệu quả việc làm ở Nghệ An đến năm 2010 ................................................................... 77 KẾT LUẬN ................................................................................................ 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 99
- NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương 2. CHXHCNVN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 3. CMKT : Chuyên môn kỹ thuật 4. CNH : Công nghiệp hoá 5. DNNN : Doanh nghiệp nhà nước 6. CNKT : Công nhân kỹ thuật 7. HĐH : Hiện đại hoá 8. HĐKTTX : Hoạt động kinh tế thường xuyên 9. HĐND : Hội đồng nhân dân 10. LĐTB & XH : Lao động thương binh và xã hội 11. LLLĐ : Lực lượng lao động 12. THCN : Trung học chuyên nghiệp 13. THPT : Trung học phổ thông 14. PTCS : Phổ thông cơ sở 15. TW : Trung ương 16. UBND : Ủy ban nhân dân 17. VLTX : Việc làm thường xuyên 18. XKLĐ : Xuất khẩu lao động
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại nói chung, của mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Thúc đẩy mục tiêu tạo việc làm đầy đủ cho người lao động để tạo thu nhập chính đáng qua đó không ngừng nâng cao đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta khẳng định "giải quyết việc làm là một chính sách xã hội cơ bản" [24, tr.104]. Trong chiến lược phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn lấy con làm trung tâm, coi phát triển con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội làm việc, một mặt là để phát huy tiềm năng lao động - nguồn nội lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, mặt khác giải quyết việc làm cho người lao động là hướng cơ bản để xoá đói giảm nghèo đạt hiệu quả phát triển bền vững. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước ta: tài nguyên, đất đai không nhiều, nguồn lực tài chính hạn hẹp, cơ sở vật chất còn thiếu thốn lại đang trong quá trình tiếp cận với nền kinh tế tri thức và tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá. Vì vậy, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Nghệ An là một tỉnh ở Bắc Trung bộ với diện tích tự nhiên 16.487 km2, tính đến 31 – 12 - 2004 dân số trên địa bàn tỉnh Nghệ An ước đạt 3.003.170 người, mật độ dân số 182 người/ km2. Thu nhập bình quân đầu người thấp, kết cấu hạ tầng kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng. Chất
- 2 lượng lao động thấp, hầu hết là lao động phổ thông phần lớn chưa qua đào tạo nghề, vấn đề đảm bảo việc làm đã và đang là một thách thức lớn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở tỉnh Nghệ An. Bên cạnh đó, tỷ lệ tăng dân số của tỉnh còn khá cao, mức đầu tư thấp trong khi ngành, nghề, dịch vụ kém phát triển đã và đang là nguồn gốc làm nảy sinh những mâu thuẫn gay gắt giữa cung và cầu về lao động của tỉnh, tạo nên những bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở Nghệ An hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An hiện nay nhằm đánh giá đúng thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý nguồn lao động trên địa bàn của tỉnh đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận lẫn thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài: "Giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An" làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Giải quyết việc làm cho người lao động luôn là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách. Do đó, đã có nhiều công trình của các tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu và công bố tiêu biểu như: Sử dụng nguồn lao động và việc làm của Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1991; Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu Dũng và TS Trần Hữu Trung (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Một số giải pháp giải quyết việc làm trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay của Trần Tuấn Anh, Luận văn thạc sỹ, khoa Kinh tế Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Lao động việc làm nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới của Biên tập khoa học: Nolwen Henaff Jean - Yves Martin, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2001; các công trình khoa học khác như: Điều tra về lao động và việc làm ở Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
- 3 hội phối hợp với Tổng cục Thống kê triển khai hàng năm (từ 1996 đến nay); Hội thảo về lao động việc làm do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tổ chức. Cùng với các công trình khoa học trên còn có nhiều bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí khoa học như bài: Ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam của GS. TS. Đỗ Thế Tùng, Tạp chí Lao động và Công đoàn (6), 2002; Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay của các tác giả GS. TS. Phạm Đức Thành, PGS. TS. Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (76), 2003; Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của Nguyễn Thị Hằng, Tạp chí Cộng sản (23), 2003 v.v... Tỉnh Nghệ An hàng năm có báo cáo về tình hình giải quyết việc làm, điều tra lao động việc làm hàng năm của Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về chuyên đề này dưới dạng một luận văn khoa học, để đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng hợp lý nguồn lao động dôi thừa ở Nghệ An hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài - Mục đích của đề tài: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An. Phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2010. - Nhiệm vụ của đề tài: + Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm và thất nghiệp. + Tìm hiểu, phân tích những nhân tố tác động đến giải quyết việc làm.
- 4 + Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An từ năm 2000 - 2004. + Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động trên địa bàn tỉnh Nghệ An. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung chủ yếu vào vấn đề có tính chất trọng điểm, nổi cộm trong giải quyết việc làm ở Nghệ An từ năm 2000 - 2004, thông qua một số giải pháp giải quyết việc làm chủ yếu trong thời gian từ nay đến 2010. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khoá xung quanh vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số đề xuất và số liệu thống kê của một số công trình có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước. * Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp: khảo sát, điều tra, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu và phân tích để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra. 6. Những đóng góp chủ yếu của luận văn - Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở Nghệ An từ 2000 đến nay. - Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm từng bước thúc đẩy hiệu quả công tác giải quyết việc làm cho người lao động ở Nghệ An. 7. Kết cấu của luận văn
- 5 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 9 tiết. Chƣơng 1 VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. KHÁI QUÁT VỀ VIỆC LÀM VÀ VAI TRÒ CỦA GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM 1.1.1. Khái quát về lao động, việc làm và thất nghiệp Lao động là một phạm trù kinh tế, một mặt lao động là quá trình tác động giữa con người với tự nhiên, trong quá trình đó con người cải biến những vật thể tự nhiên làm cho nó thích ứng với nhu cầu của mình, mặt khác lao động luôn luôn được tiến hành trong xã hội, vì vậy nó đòi hỏi những quan hệ nhất định giữa con người với con người trong quá trình tác động vào tự nhiên. Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến những vật phẩm tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống con người. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập nhiều đến phạm trù này trong các nghiên cứu của mình, theo C. Mác, lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào bất kì hình thái kinh tế xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên, vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa con người với giới tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con người. Ph. Ăngghen viết: "... các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với
- 6 giới tự nhiên là giới cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [30, tr. 641]. Hoạt động lao động của con người không những làm biến đổi giới tự nhiên tạo ra của cải, mà còn hoàn thiện, phát triển cả bản thân con người. Trong quá trình ấy con người tích luỹ kinh nghiệm sản xuất, làm giàu tri thức của mình, hoàn thiện bản thân cả về thể lực và trí lực. Lao động là hoạt động bản chất nhất và là phẩm chất đặc biệt của con người, khác với hoạt động bản năng của loài vật. C. Mác viết: "Con nhện làm những động tác giống như động tác người thợ dệt và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn phải làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình rồi" [32, tr. 266]. Đặc trưng chủ yếu của lao động là sáng tạo ra giá trị và của cải cho phép đáp ứng nhu cầu của con người và những nhu cầu này phát triển vô hạn. Song, những nhu cầu này không chỉ thuộc lĩnh vực kinh tế, vật chất như: nhu cầu sinh tồn, phát triển, hưởng thụ về vật chất mà còn có các nhu cầu về tinh thần, nhu cầu hoạt động lao động... sản xuất vật chất càng phát triển thì càng đòi hỏi phải nâng cao nhân tố con người trong quá trình sản xuất, càng đòi hỏi ở con người chức năng sáng tạo và luôn đề ra cho lao động những yêu cầu mới cao hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Vậy nên, lao động bao giờ cũng là nhân tố đầu tiên, cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Trong quá trình lao động sản xuất, người lao động luôn nắm giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Họ
- 7 không những là chủ thể sáng tạo ra của cải vật chất mà còn sáng tạo ra những yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất xã hội. Trong một quốc gia, một vùng hay một địa phương cụ thể thì người lao động được thể hiện ở nguồn lao động hay còn gọi là nguồn nhân lực. Đó là tổng thể toàn bộ thể lực và trí lực của bộ phận dân cư của đất nước có khả năng về thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao động. Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng hợp thành tiềm lực của đất nước. Những tiêu chuẩn cơ bản để xếp dân cư vào nguồn nhân lực là độ tuổi và tình trạng sức khoẻ. Ở Việt Nam, nguồn nhân lực bao gồm số người trong độ tuổi lao động theo Bộ Luật lao động quy định: Nam từ 15-60 tuổi, Nữ từ 15-55 tuổi có khả năng lao động. Tuy nhiên, không phải toàn bộ những người thuộc nguồn nhân lực đều tham gia sản xuất xã hội cả mà cần trừ đi (theo quy ước): những người không có khả năng lao động (chẳng hạn do tàn tật); những người nội trợ trong gia đình; học sinh sinh viên đang học; quân đội (do tính chất đặc thù của hoạt động quân sự). Sau khi trừ đi khỏi nguồn nhân lực bốn bộ phận này số còn lại trong kinh tế gọi là lực lượng lao động. Lực lượng lao động được thống kê theo hai bộ phận, đó là: những người có việc làm và những người thất nghiệp, muốn làm việc, đang tìm việc làm trên thị trường lao động. Đặc trưng của nguồn nhân lực là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, cụ thể: chỉ tiêu về số lượng, độ tuổi, trình độ học vấn, giới tính, số người đang đi học, số người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và sự phân bố theo ngành, theo lĩnh vực, lãnh thổ. Mức tăng nguồn nhân lực là sự chênh lệch giữa số dân cư đến độ tuổi lao động (15 tuổi) và số dân cư đến độ tuổi nghỉ hưu (nam 60, nữ 55 tuổi). Để đánh giá nguồn nhân lực người ta thường dùng các chỉ tiêu về trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật, mức độ lành nghề, kinh nghiệm thực tiễn, trình độ quản lý, phong cách làm việc và sức khoẻ. Trong những điều kiện lịch sử nhất định và cho
- 8 đến nay lao động là phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của thu nhập, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Trong thực tiễn, không phải thiếu lao động mà là thiếu việc làm. Việc làm chỉ là cái vỏ xã hội, cái khung pháp lý mà trong đó lao động được diễn ra. Trong xã hội có giai cấp thì xã hội chịu sự chi phối bởi lợi ích của giai cấp thống trị và hệ thống pháp luật dựa trên cơ sở lợi ích của giai cấp đó hoạch định. Do đó, lao động thuộc về nhu cầu vô hạn của con người như là một cơ sở đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội, còn việc làm lại là phạm trù giới hạn và bị lợi ích giai cấp chi phối. Trong thực tiễn, vì lợi ích kinh tế những giai cấp nắm trong tay các vật chất của lao động (đối tượng lao động, tư liệu lao động) có thể thu hút nhanh chóng những khối lượng lớn sức lao động vào các quá trình sản xuất nhưng cũng vì lợi ích kinh tế của giai cấp họ sẵn sàng sa thải hàng loạt người lao động, nên việc làm của xã hội bị thu hẹp. Bởi lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, quá trình đó chỉ có thể diễn ra khi đã được giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó đã đầy đủ. Trên bình diện một quốc gia cụ thể thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của bộ phận dân cư có sức lao động lại được giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Do đó, việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên mà cả mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và pháp luật khi tạo lập đầy đủ các yếu tố vật chất để quá trình làm việc diễn ra. Việc làm là một trong những vấn đề có ý nghĩa kinh tế, xã hội, chính trị rất quan trọng đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với những nước đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế như Việt Nam. Ở Việt Nam trước đây (trước 1980), nền kinh tế vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Trong cơ chế này chúng ta thường quan niệm người lao động được coi là có việc làm
- 9 và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong các cơ quan nhà nước, trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đến nay, quan niệm về việc làm đã có sự thay đổi một cách căn bản. Theo điều 13 chương II của Bộ Luật lao động của nước Cộng hoà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: " Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [9, tr. 15]. Theo quy định này việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm. Như vậy, quan niệm mới về việc làm được quy định trong Bộ Luật lao động đã xoá bỏ quan niệm cũ về việc làm khi cho rằng việc làm chỉ có trong khu vực nhà nước, xoá bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, cá nhân tạo nhiều việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, quan niệm mới về việc làm còn thể hiện rõ đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam ở chỗ: cho phép công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm. Ví dụ: nghề giúp việc gia đình, nghề thu gom rác thải phế liệu.. là những nghề mà trước đây chưa được xã hội tôn trọng và thừa nhận, thì nay đã trở thành việc làm đáng được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ. Ngược lại, Bộ Luật lao động cũng quy định rõ mọi công dân không được làm những việc mà pháp luật cấm như: buôn lậu, mãi dâm, buôn bán ma tuý, vũ khí... Với quan niệm việc làm như vậy sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng tạo tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đồng thời ngăn chặn những việc làm phi pháp nảy sinh trong điều kiện kinh tế mở. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tạo môi trường và các điều kiện thuận lợi để các ngành kinh tế, các hình thức kinh tế, các vùng kinh tế phát triển, trên cơ sở đó đã góp phần tạo thêm nhiều việc làm mới đáp ứng yêu cầu
- 10 về việc làm, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của người lao động, song trong điều kiện phát triển nền kinh tế xã hội hiện nay, ở nước ta hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp dưới những hình thức khác nhau đã và đang còn tồn tại. Hiện tượng này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng, điều đó đòi hỏi Nhà nước, các cơ quan chức năng và người lao động cần phải quan tâm giải quyết. Cần thiết phải thống nhất các khái niệm thiếu việc làm, thất nghiệp. Thiếu việc làm có những hình thức và nguyên nhân khác so với thất nghiệp. Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hay thất nghiệp trá hình là hiện tượng người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn. Như vậy, người thiếu việc làm là người không có đủ việc làm theo thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công việc có thu nhập quá thấp, không đảm bảo cuộc sống nên có nhu cầu làm việc thêm để có thêm thu nhập. Thất nghiệp là hiện tượng, phạm trù kinh tế gắn với trạng thái tâm lý xã hội căng thẳng của những người lao động, trong đó, khả năng vận dụng thần kinh và bắp thịt của họ bị kìm giữ bởi thiếu các điều kiện vật chất, điều kiện pháp lí cho lao động diễn ra bất chấp nguyện vọng mong muốn làm việc của họ. Có nhiều loại thất nghiệp: thất nghiệp tạm thời là thất nghiệp phát sinh do người lao động muốn có thời gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình; thất nghiệp cơ cấu là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ giữa kỹ năng, trình độ của người lao động với cơ hội việc làm do cầu lao động và sản xuất thay đổi; thất nghiệp do thiếu cầu là thất nghiệp khi tổng cầu của nền kinh tế giảm, kéo theo giảm cầu về lao động mà tiền lương và giá cả chưa kịp điều chỉnh; thất nghiệp theo mùa vụ là thất
- 11 nghiệp do cầu lao động dao động, giảm thường vào những thời kì nhất định trong năm; thất nghiệp chu kỳ là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo thời kỳ của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp được xem là một trong những thước đo thành tựu nền kinh tế ở tầm vĩ mô, là vấn đề trung tâm trong nền kinh tế được toàn xã hội quan tâm. Khi thất nghiệp cao, về mặt kinh tế tài nguyên bị lãng phí, thu nhập bị giảm sút, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực tế thấp hơn mức tiềm năng của nó, mức thất nghiệp cao làm giảm sản lượng của nền kinh tế, về mặt xã hội thất nghiệp tác động mạnh đến xã hội và tâm lý người lao động làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội gia tăng. 1.1.2. Ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa kinh tế, chính trị - xã hội rất quan trọng trong từng đơn vị kinh tế ở cơ sở cũng như trên phạm vi toàn quốc. Giải quyết việc làm được thực hiện thông qua các biện pháp về kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo cho mọi người có khả năng lao động có nhu cầu làm việc đều có được việc làm. Giải quyết việc làm là một vấn đề có tính chất liên ngành, mang tính chất tổng hợp trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Làm tốt công tác giải quyết việc làm sẽ góp phần phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói, giảm nghèo, tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị, nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế. Giải quyết việc làm cho người có nhu cầu làm việc sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, ổn định chính trị xã hội, đảm bảo công bằng, dân chủ, văn minh. 1.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
- 12 Nếu trừu tượng hoá các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình lao động sản xuất và chỉ xét việc làm như một tổng thể các điều kiện vật chất, các điều kiện pháp lý để trong đó quá trình lao động có thể được diễn ra thì việc làm chịu sự chi phối bởi các nhân tố sau: 1.2.1. Tài nguyên thiên nhiên Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất, kinh doanh. Việt Nam là đất nước có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, là điều kiện thuận lợi để chúng ta mở mang, phát triển các ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Ở Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên được phân bố ở hầu khắp các tỉnh, tính đa dạng thể hiện ở chủng loại, số lượng, chất lượng tài nguyên như: tài nguyên khoáng sản: vàng, đá quý, than đá, dầu khí, thiếc, mănggan, titan..; tài nguyên biển phong phú với trữ lượng lớn về cá, tôm và hải sản có giá trị kinh tế cao; tài nguyên rừng với các loại cây, gỗ quý, nơi lưu giữ các nguồn ghen quý về động, thực vật; tài nguyên đất đai; khí hậu.. thuận lợi và dễ khai thác để có thể phát triển các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của nhân dân. Tài nguyên thiên nhiên là lợi thế so sánh để Việt Nam phát triển kinh tế. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang ở giai đoạn chuyển đổi và phát triển, trong giai đoạn này vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với phát triển kinh tế càng thể hiện rõ. Do điểm xuất phát thấp, công nghệ mà chúng ta sử dụng chủ yếu là công nghệ khai thác và chế biến tài nguyên. Vậy nên, để đảm bảo phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động vấn đề đặt ra là cần phải khai thác, sử dụng tài nguyên như thế nào?.
- 13 Thực tế cho thấy, Ở Việt Nam hiện nay tình trạng khai thác tài nguyên đang diễn ra hết sức phức tạp, khó quản lý gây thất thoát, lãng phí tài nguyên nghiêm trọng: nạn chặt phá rừng, đốt rừng làm rẫy, nạn đánh bắt thuỷ, hải sản bằng thuốc nổ, nạn khai thác khoáng sản (than đá, vàng, đá quý, thiếc...) bừa bãi làm suy giảm, cạn kiệt tài nguyên. Đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững mà trong đó vấn đề khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Cần tiết kiệm và tiết chế sử dụng những tài nguyên không tái tạo được, khai thác sử dụng hợp lý các tài nguyên có thể tái tạo (tài nguyên biển, tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng) từ những dạng tài nguyên này nếu sử dụng hợp lý chúng ta có thể mở rộng sản xuất, phát triển đa dạng các ngành nghề liên quan, thu hút lao động, tạo thêm nhiều việc làm, chống thất nghiệp. Muốn vậy, cần giải quyết tốt các vấn đề sau: - Tăng cường công tác quản lý, kiểm soát chặt chẽ việc khai thác tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng, xử lý nghiêm minh những hành vi khai thác bất hợp lý, gây thất thoát, lãng phí tài nguyên. - Tăng cường công tác giáo dục người dân có ý thức bảo vệ và tái tạo tài nguyên đặc biệt là tài nguyên rừng. - Khuyến khích nhân dân mở mang các ngành nghề để khai thác tận dụng tài nguyên như: tận dụng mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản, khai thác hợp lý tài nguyên biển, khoáng sản, mở rộng diện tích đất trồng trọt, đặc biệt là phủ xanh đất trống đồi núi trọc, tận dụng các danh lam thắng cảnh để phát triển ngành du lịch, dịch vụ. 1.2.2. Máy móc thiết bị Máy móc thiết bị là tư liệu sản xuất, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Theo C. Mác, vấn đề chủ yếu ở đây là vấn đề giới hạn kinh tế hay điều
- 14 kiện kinh tế của việc áp dụng máy móc. Máy móc nâng cao năng suất lao động (bởi nó làm giảm số lượng lao động xã hội cần thiết hao phí vào việc sản xuất một đơn vị sản phẩm). Tuy nhiên, máy móc lại đòi hỏi phải hao phí lao động để tạo ra nó. Do đó, nếu lao động do máy móc tiết kiệm được bằng số lao động cần thiết để sản xuất máy móc đó thì như Mác nói: trong trường hợp này, lao động chỉ đổi chỗ thôi, nghĩa là tổng số lao động cần thiết để sản xuất một hàng hoá không giảm bớt, hay năng suất lao động không tăng lên. Trong điều kiện như vậy việc áp dụng máy móc có sự khác nhau về mặt kinh tế: lao động được giảm bớt trong phạm vi này nhưng lại bị chuyển sang phạm vi khác. Dưới chủ nghĩa tư bản, máy móc tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi lao động trẻ em và lao động phụ nữ làm cho giá trị của sức lao động giảm xuống "..bằng cách ném tất cả mọi thành viên gia đình người công nhân vào thị trường lao động, máy móc cũng phân phối giá trị sức lao động của đàn ông cho toàn thể gia đình người đó” [32, tr. 569]. Nói cách khác, việc thu hút lao động phụ nữ và lao động trẻ em là một nguồn mới để sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Ở đây, việc thu hút được giá trị thặng dư tương đối không phải do nâng cao năng suất lao động mà là do nâng cao trình độ bóc lột. Nếu gạt bỏ bản chất tư bản chủ nghĩa của nó mà chỉ xét máy móc thiết bị như là một điều kiện vật chất tiên quyết cho việc tạo lập ra những khối lượng lớn việc làm cho người lao động, thì việc sử dụng máy móc là cơ sở để thiết lập ra các xí nghiệp vừa và nhỏ đồng thời là cơ sở để nâng cao năng suất lao động tạo ra thu nhập và việc làm cho người lao động Việt Nam trong khi, điền kiện ứng dụng những công nghệ tiên tiến nhất còn thiếu. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất, kỹ thuật yếu kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chưa được hoàn thiện. Vì vậy, quá trình
- 15 công nghiệp hoá chính là quá trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay được coi là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình đổi mới trang thiết bị máy móc theo hướng hiện đại để phục vụ cho quá trình sản xuất nhắm đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trên phương pháp sản xuất công nghiệp. Đồng thời phát triển các ngành công nghệ cao dựa trên các thành tựu mới nhất của khoa học hiện đại như: công nghệ sinh học, công nghệ tin học, công nghệ gia công chính xác trong chế tạo máy, tự động hoá với năng lượng mới, vật liệu mới. Với lĩnh vực lao động việc làm, sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại nhiều cơ hội để con người phát huy khả năng của mình, nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, sức lao động rẻ và dư thừa (như Việt Nam) bị mất dần ưu thế. Xu hướng hiện nay là tăng lao động khoa học kỹ thuật, tri thức, phi sản xuất trực tiếp, giảm lao động giản đơn, kỷ năng thấp. Như vậy, trong xã hội hiện đại chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Các quốc gia không lường trước được hiện tượng này của sự phát triển khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối trong nguồn nhân lực và xu hướng chắc chắn sẽ xẩy ra khi phát triển khoa học công nghệ là sự gia tăng thất nghiệp của đội ngũ công nhân không lành nghề. Do đó, để phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống cần phải quan tâm giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực để họ chủ động nắm bắt khoa học công nghệ, vận hành tốt các trang thiết bị tiên tiến, có như vậy việc ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ mới thực sự đạt hiệu quả. Để thực hiện mục tiêu này, trước hết cần có những biện pháp nhằm tăng cường năng lực thể chế của các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Thực hiện có hiệu quả chương trình việc làm quốc gia thông qua
- 16 nhiều hoạt động: đào tạo nghề cho người lao động, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích ứng dụng các công nghệ mới vào sản xuất, tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, hiện đại hoá một số trường dạy nghề, khuyến khích phát triển hệ thống trường lớp dạy nghề dân lập và tư thục. 1.2.3. Dân số và tỷ lệ tăng dân số Dân số, lao động và việc làm là những vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mức gia tăng dân số càng nhanh thì nguồn lao động trong tương lai cũng tăng nhanh, đồng thời nó sẽ tạo ra áp lực lớn đến giải quyết việc làm dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Gia tăng dân số nhanh sẽ buộc xã hội phải chi trả nhiều hơn cho mục đích tiêu dùng, đầu tư ít cho sản xuất và phát triển nhất là cho phát triển nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực lớn mà cơ hội việc làm ở nông thôn thấp sẽ dẫn đến tình trạng di dân từ nông thôn ra thành thị vì mục đích kiếm sống mà lực lượng chủ yếu là lao động trẻ, khoẻ, có vốn kiến thức khá nhất ở nông thôn, dẫn đến hậu quả là ở nông thôn bị mất đi nguồn nhân lực có sức khoẻ, có khả năng tiếp thu những tri thức mới cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Nhưng tại thành thị, lực lượng lao động này cũng khó có thể cạnh tranh để tìm kiếm cơ hội việc làm trong khu vực kinh tế hiện đại, bởi họ hầu hết chỉ là lao động phổ thông, phần lớn chưa qua đào tạo nghề nên chủ yếu gia nhập khu vực phi kết cấu gây nên sự lãng phí trong sử dụng sức lao động của bộ phận lao động này. Mặt khác, lao động ở nông thôn di cư lên thành thị sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt như vệ sinh, nhà ở, y tế... Đó là chưa kể đến số dân di cư theo mùa vụ, hình thành nên các chợ lao động làm phức tạp cho công tác quản lý đô thị, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, cờ bạc, ma tuý, lây nhiễm HIV, AIDS... Dân số tăng nhanh sẽ làm cho đất nước khó khăn trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đầu tư vào lớp trẻ thấp, chất lượng tương lai của
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn