intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

23
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về kinh tế hộ phi nông nghiệp và thực trạng phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông, từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp ở Hà Đông trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN MINH TÚ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ NGUYỄN MINH TÚ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN MINH KHẢI HÀ NỘI - 2014
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TĂT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐ Hợp tác xã HTX Kinh tế thị trường KTTT Lao động nông thôn LĐNT Nông nghiệp NN Phi nông nghiệp PNN Tư liệu sản xuất TLSX Thương mại dịch vụ TMDV Tiểu thủ công nghiệp TTCN Ủy ban nhân dân UBND Xã hội chủ nghĩa XHCN
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ HỘ PHI NÔNG 11 NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP 1.1. Lý luận chung về kinh tế hộ phi nông nghiệp 11 1.2. Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp:khái niệm, nội 20 dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng 1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp ở các 33 địa phương và bài học rút ra cho Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI 41 NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận 41 Hà Đông ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ 2.2. Đánh giá sự phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp ở quận 45 Hà Đông 2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển kinh tế hộ 64 phi nông nghiệp ở Hà Đông Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH 68 TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆPTRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Quan điểm phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệptrên địa 68 bàn Hà Đông trong thời gian tới 3.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ phi nông 70 nghiệptrên địa bàn quận Hà Đông trong thời gian tới KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 85 PHỤ LỤC 89
  5. 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[14].Trong đó, kinh tế hộ gia đình là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở - vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị tiêu dùng, vừa là đơn vị kinh doanh, vừa là một đơn vị xã hội. Là đơn vị kinh tế nhỏ nằm trong nền kinh tế, nhưng kinh tế hộ có số lượng lớn nhất do đó kinh tế hộ gia đình là một lực lượng sản xuất quan trọng ở Việt Nam. Hộ gia đình thường sản xuất, kinh doanh đa dạng, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Kể từ khi được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ( năm 1988), sự phát triển kinh tế hộ gia đình đã có sự chuyển biến tích cực cả về quy mô, tốc độ và cơ cấu. Đến nay, nhiều hộ gia đình đã đứng vững được trong nền kinh tế thị trường, có tác động lớn đến sự nghiệp xóa đói giảm nghèo của địa phương cũng như cả nước. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hộ đang là một chính sách, một định hướng lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình đẩy mạnh CNH,HĐH. Hà Đông là một quận thuộc thủ đô Hà Nội, nằm bên bờ sông Nhuệ, cách trung tâm Hà Nội 11km về phía Tây, diện tích tự nhiên là 47, 9174 km 2. Với vị trí thuận lợi, nên những năm qua Hà Đông được hỗ trợ nhiều chính sách, dự án phát triển với nhiều khu đô thị mới: Văn Quán, Mỗ Lao, Văn Phú, Lê Trọng Tấn, trục đô thị phía Bắc…, các trường đại học, các bệnh viện quốc tế với số vốn huy động đầu tư hàng chục tỷ đôla. Chính vì vậy, kinh tế, xã hội trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt, ở địa phương có những điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ gia đình PNN ngày càng phát triển. Trong những năm qua, kinh tế hộ PNN ở Hà Đông đã có những bước tiến đáng kể,
  6. 4 bộ phận kinh tế này đã góp phần quan trọng vào việc huy động các nguồn lực giải quyết việc làm tăng thu nhập và làm năng động nền kinh tế của địa phương, tạo áp lực cạnh tranh thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trên địa bàn. Hơn thế nữa, diện tích đất nông nghiệp dần nhường chỗ cho các dự án. Trong quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của quận thì trong tổng số diện tích đất tự nhiên của quận là 4.833,66 ha thì diện tích đất quy hoạch cho nông nghiệp sẽ giảm từ 580,95 ha năm 2015 xuống còn 503,51 ha vào năm 2020, diện tích đất phi nông nghiệp tăng từ 4.220,37 ha năm 2015 lên 4.299,81 ha vào năm 2020. Trong hoàn cảnh này thì kinh tế hộ PNN đang là hướng đi mới đảm bảo đời sống cho người dân ở đây. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả trên, kinh tế hộ PNN ở Hà Đông vẫn bộc lộ không ít hạn chế, tiêu cực. Tuy số lượng hộ PNN tăng lên rất nhanh nhưng chất lượng hoạt động chưa tương xứng với sự gia tăng đó. Hầu hết các hộ PNN quy mô còn nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, còn mang nặng tính tự phát, chủ thể sản xuất - kinh doanh chưa yên tâm về lâu dài,… Tình trạng này gây tác động hạn chế không nhỏ đến yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH của địa phương. Hà Đông đang thiếu các giải pháp và cơ chế để phát huy những yếu tố tích cực của bộ phận kinh tế này và hạn chế những tiêu cực của nó trong quá trình phát triển. Trước những vấn đề cấp bách nêu trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vấn đề kinh tế hộ nói chung và kinh tế hộ PNN nói riêng đã được quan tâm nghiên cứu, phân tích và đã trở thành chủ trương của Đảng trong đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới. Có thể nêu ra ở đây những công trình như:
  7. 5 - Lê Xuân Tùng, Các thành phần kinh tế và quan hệ sản xuất, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989. Tác giả đã đề cập đến các quan điểm lý luận và nhận thức mới của Đảng ta về cách mạng QHSX, những chính sách mới của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. - “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam lý luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội của tác giả Lê Hữu Nghĩa - Đinh Văn Ân (2004). Trong cuốn sách, các tác giả đã trình bày những lý luận chung về các thành phần kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nêu ra quan điểm của Đảng và Nhà nước trong phát triển toàn diện các thành phần kinh tế và thực trạng phát triển các thành phần kinh tế ở Việt Nam. - “Phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam”, bài nghiên cứu của Mai Thị Thanh Xuân, Đặng Thị Thu Hiền, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, tập 29, số 3, 2013. Bài nghiên cứu của các tác giả đã đưa ra quan điểm về kinh tế hộ gia đình. Dựa vào những số liệu khảo sát thực tế, các tác giả đã đánh giá những thành tựu cơ bản, hạn chế và bất cập trong phát triển kinh tế hộ và nguyên nhân của nó. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất giải pháp khắc phục nhằm thúc đẩy kinh tế hộ phát triển theo hướng tích cực và bền vững. - “Kinh tế hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp, hàng hóa”, Đào Quang Thiệu, Tạp chí pháp luật và đời sống, số 24, 2010. Bài nghiên cứu của tác giả đã đưa ra nhận định về vai trò của 13 triệu hộ nông dân. Lực lượng này là nền tảng của nền kinh tế, góp phần đảm bảo an ninh lương thực, giữ vững an ninh chính trị – xã hội.Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng mô hình kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp hàng hóa là rất cần thiết. Bài nghiên cứu đã đề cập đến các hình
  8. 6 thức, nội dung của một số mô hình kinh tế hộ và giải pháp phát triển trong nền kinh tế hàng hóa. - Ths Đỗ Văn Quân (2011), Viện Xã hội học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, bài nghiên cứu: “Phát triển kinh tế hộ gia đình trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Hồng hiện nay”. Trong tác phẩm của mình, tác giả đã làm sáng tỏ chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế hộ và xây dựng nông thôn mới. Trong đó, ghi nhận rõ kinh tế hộ gia đình là một lực lượng sản xuất quan trọng ở nông thôn Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá một số kết quả bước đầu trong xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế hộ gia đình ở Đồng bằng sông Hồng. Kết quả khảo sát các tỉnh đồng bằng sông Hồng cho thấy, sản xuất tiểu thủ công nghiệp đang trở thành một nghề chính của nhiều chủ hộ gia đình. Tỷ trọng các hộ làm nghề sản xuất nông nghiệp là 34,3%; làm tiểu thủ công nghiệp 8,9%; làm buôn bán, dịch vụ 8,5% và làm các nghề khác là 48,3%. Như vậy, trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra vai trò, xu hướng phát triển của kinh tế hộ PNN. - Hữu Oanh, Tiến Dũng, “Môi trường kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể: nhiều lực cản vô hình”, bái báo đăng trên www.baomoi.com.vn, 2012. Bài báo của các tác giả đã đánh giá hiện trạng của môi trường kinh doanh hộ kinh doanh cá thể với nhiều những bất cập, khó khăn cho phát triển kinh tế hộ. - “Đất đai, việc làm phi nông nghiệp và mức sống hộ gia đình: Bằng chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô Hà Nội” của tác giả Trần Quang Tuyến, tạp chí KT&PT, số 202 tháng 04 năm 2014, tr. 36-43 Bài viết nghiên cứu mối quan hệ giữa đất đai, việc làm PNN và mức sống hộ gia đình vùng ven đô Hà Nội. Kết quả chỉ ra rằng phần lớn các hộ gia
  9. 7 đình trong mẫu khảo sát đều tham gia vào hoạt động kinh tế PNN. Các nhân tố tác động tới mức sống hộ gia đình được nghiên cứu bằng việc sử dụng mô hình hồi quy đa biến và kết quả đã khẳng định tầm quan trọng của cả đất đai và việc làm PNN trong việc nâng cao mức sống của hộ gia đình. Bên cạnh đó, tác giả phát hiện rằng một vài biến số khác như giáo dục, tiếp cận vốn tín dụng chính thức, đất đai và tài sản sản xuất có tác động tích cực tới mức sống hộ gia đình. Dựa vào kết quả thực nghiệm, bài viết đề xuất một vài hàm ý chính sách có thể giúp nâng cao thu nhập của hộ gia đình trong bối cảnh đất ven đô ngày càng thu hẹp do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. - Nguyễn Hữu Thanh, Quá trình khẳng định vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình, Tạp chí lao động, số 18, 2002. Bài báo của tác giả đã mô tả quá trình phát triển và khẳng định vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam từ những năm 80 cho tới đầu thế kỷ 21. Theo đó, ở Việt nam, kinh tế hộ gia đình đã trải qua bao bước thăng trầm của lịch sử. Từ khi có những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về kinh tế hộ gia đình, thì kinh tế hộ đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong chương trình phát triển kinh tế của đất nước. - Trần Ngọc, Vai trò tài chính của dân cư, hộ gia đình đối với kinh tế nước ta, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 236, 2010. Bài báo đã nghiên cứu, đánh giá vai trò quan trọng về tài chính của dân cư, hộ gia đình đối với phát triển kinh tế. Theo đó, đây là bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế quốc dân, có vai trò to lớn trong cung ứng và sử dụng nguồn lực tài chính cho đầu tư, phát triển. - Tổng cục thống kê, Chuyên đề phân tích: “Phân tích Kết quả điều tra đời sống, kinh tế hộ gia đình năm 1999”, 2000 Tổng cục Thống kê biên soạn một số chỉ tiêu chủ yếu về “Kết quả điều tra đời sống, kinh tế hộ gia đình năm 1999” nhằm phục vụ cho các cấp, các
  10. 8 ngành nghiên cứu đánh giá tình hình đời sống các tầng lớp dân cư. Trong đó, chuyên đề đã phân tích một số nhận xét về đời sống dân cư và phân hoá giàu nghèo ở nước ta. Đánh giá đời sống, kinh tế hộ gia đình thông qua chỉ tiêu thu nhập và chi tiêu, giáo dục, y tế và đầu tư tích luỹ. - Ủy ban Dân tộc học, Chuyên đề “Phát triển kinh tế hộ gia đình”, 2008. Chuyên đề đã làm rõ khái niệm về kinh tế hộ gia đình, các yêu cầu cần thực hiện để phát triển kinh tế hộ gia đình hiệu quả. Chuyên đề cũng đưa ra những giải pháp tiếp cận vốn cho hộ gia đình, cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất trong phát triển kinh tế hộ gia đình. - Hoàng Thành Lân, “Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Thái Nguyên, 2010. Trong luận văn của mình, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về kinh tế hộ gia đình và phát triển kinh tế hộ gia đình trong nền kinh tế thị trường. Tác giả cũng đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành tựu và hạn chế, bất cập trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở các tỉnh miền núi phía Bắc từ 2002 – 2008. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đã đề xuất những phương hướng phát triển kinh tế hộ gia đình tại các tỉnh miền núi tới năm 2015. - Bùi Hồng Ánh, “Phát triển kinh tế hộ gia đình tại Thái Nguyên”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012. Trong luận văn của mình, tác giả cũng đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về phát triển kinh tế hộ, mà cụ thể bao gồm các vấn đề: Khái niệm, vai trò của kinh tế hộ gia đình, quan niệm về phát triển kinh tế hộ gia đình, các chỉ tiêu đo lường và các nhân tố ảnh hưởng. Ngoài ra, tác giả cũng đã đánh giá thực trạng phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên trong khoảng thời gian từ 2007 – 2011. Trên cở sở phân tích những thành tựu, hạn chế và
  11. 9 nguyên nhân trong phát triển kinh tế hộ, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế hộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên tới năm 2015. - Đề tài “Các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại ở nước ta hiện nay” Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội của TS. Nguyễn Thị Như Hà (2004). Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về các thành phần kinh tế ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã chỉ rõ khái niệm, đặc điểm vai trò của thành phần kinh tế hộ gia đình. Trên cơ sở đó, tác giả đã đánh giá thực trạng phát triển các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại, trong đó có kinh tế hộ gia đình và đề xuất những giải pháp phát triển các thành phần kinh tế nói chung. Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác liên quan tới kinh tế hộ gia đình, tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhà khoa học nào nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống về “Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội”. Vì vậy, tác giả coi các kết quả nghiên cứu trong các công trình đi trước là những gợi ý và chỉ dẫn quý báu cho Luận văn. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về kinh tế hộ PNN và thực trạng phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông, từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông trong thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về kinh tế hộ PNN. - Phân tích thực trạng nhằm chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và những mâu thuẫn cần giải quyết trong phát triển kinh tế hộ PNN ở quận Hà Đông thời gian qua. - Đề xuất các quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế hộ PNN ở quận Hà Đông trong thời gian tới.
  12. 10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu: Phát triển kinh tế hộ PNN. * Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu phát triển kinh tế hộ PNN. - Về không gian: Trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. - Về thời gian: Giai đoạn 2008– 2013 và tầm nhìn tới 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể tại quận Hà Đông. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, phương pháp chuyên gia… được sử dụng rộng rãi trong khoa học KTCT. 6. Ý nghĩa của luận văn - Luận văn góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông, đồng thời đưa ra quan niệm về kinh tế hộ PNN, phát triển kinh tế hộ PNN và đặc điểm, nội dung phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông, giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông cho phù hợp với điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thị trường. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập môn Kinh tế chính trị. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm Mở đầu, 3 Chương (8 tiết), Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, danh mục viết tắt và Phụ lục.
  13. 11 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP 1.1. Lý luận chung về kinh tế hộ phi nông nghiệp 1.1.1. Khái niệm về kinh tế hộ phi nông nghiệp * Khái niệm hộ gia đình Trong từ điển ngôn ngữ của Mỹ (Oxford Press - 1987) thì "Hộ là tất cả những người cùng sống chung trong một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm ăn chung". Theo Liên hợp quốc "Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ". Các quan niệm trên cho thấy hộ được hiểu như sau: Trước hết, hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành viên có chung huyết thống, tuy vậy cũng có cá biệt trường hợp thành viên của hộ không phải cùng chung huyết thống (con nuôi, người tình nguyện và được sự đồng ý của các thành viên trong hộ công nhận cùng chung hoạt động kinh tế lâu dài...). Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao động và phân công lao động chung; có vốn và chương trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và được phân phối lợi ích theo thoả thuận có tính chất gia đình. Hộ không phải là một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế cá thể, tư nhân, tập thể, Nhà nước... Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dầu cùng chung huyết thống bởi vì hộ là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể không phải là một đơn vị kinh tế (ví dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng chung một mái nhà nhưng nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau....
  14. 12 Như vậy, hộ gia đình có thể được định nghĩa là tập hợp nhóm người có quan hệ theo hộ khẩu hành chính, theo quan hệ hôn nhân, theo quan hệ huyết thống, hoặc theo những cách xác định khác mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc lĩnh vực này. * Khái niệm kinh tế hộ gia đình "Kinh tế gia đình" và "kinh tế hộ gia đình" là hai khái niệm có tính đồng nhất trong nhiều trường hợp, nhưng không phải khi nào cũng có thể dùng thay thế cho nhau. Việc sử dụng hai cụm từ này cần phải theo các tình huống cụ thể. Gia đình và hộ là hai khái niệm khác biệt. Một hộ có thể chỉ bao gồm một cá nhân hay nhiều thành viên có hoặc không có quan hệ huyết thống với nhau. Hộ có thể là một gia đình hạt nhân, một gia đình mở rộng hay một đại gia đình. Tóm lại, một hộ có thể có nhiều gia đình hoặc không có một gia đình nào cả, ngược lại, một gia đình có thể trải rộng thành nhiều hộ. Thông thường, gia đình và hộ trùng lên nhau, tạo thành tên gọi "Hộ gia đình". Mỗi hộ gia đình ở Việt Nam hiện nay đều có sổ đăng ký hộ khẩu, trong đó ghi rõ số nhân khẩu, chủ hộ và quan hệ giữa các thành viên với chủ hộ. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Việt Nam xác định kinh tế hộ gia đình là một đơn vị sản xuất cơ sở, cần thiết cho chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế gia đình nói chung được thực hiện quyền tự chủ và được quan tâm, khuyến khích phát triển dưới hình thức hợp tác xã và các hình thức liên kết khác. Ngoài các chính sách bảo hộ quyền và nghĩa vụ, Nhà nước còn có
  15. 13 các chính sách khác hướng tới việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật; phổ biến, ứng dụng công nghệ mới cho sản xuất chế biến; cung cấp dịch vụ vật tư; hỗ trợ tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại. Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có sớm, xuất hiện từ khi gia đình được hình thành. Ngày nay hình thức sản xuất này đang chịu nhiều tác động và cũng đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội phát triển. Vì lẽ đó, cần tìm hiểu quyền tồn tại để nhận diện vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Gắn liền với các thời kỳ phát triển là các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Hai phương thức sản xuất cơ bản tồn tại trong sự phát triển đó là sản xuất tự cung tự cấp (sản xuất tự nhiên) và sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế nào cũng phải tham gia giải quyết các yếu tố cơ bản trong quyền sản xuất: - Sản xuất cái gì? - Sản xuất bao nhiêu? - Sản xuất như thế nào? - Phân phối sản phẩm ra sao?. Trong hình thức kinh tế tự nhiên, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu trong nội bộ những người sản xuất; người sản xuất tự quyết định về loại hình sản phẩm, số lượng sản phẩm. Sự trao đổi sản phẩm chỉ bó hẹp trong phạm vi những người cùng sản xuất dưới hình thức đơn giản nhất. Của cải vật chất có dư thừa đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho cộng đồng, xã hội dưới các hình thức khác nhau của mỗi chế độ. Tính thị trường của nền kinh tế tự nhiên tuy có, nhưng hết sức mờ nhạt, chủ yếu vẫn mang tính trao đổi giản đơn. Phân công lao động xã hội trong hình thức sản xuất tự nhiên chưa phát triển, vì thế cũng chưa xuất hiện tình trạng cạnh tranh. Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu cho người sản xuất, mà còn để trao đổi nhằm thỏa
  16. 14 mãn nhu cầu không ngừng gia tăng của người tiêu dùng, của xã hội. Sự trao đổi sản phẩm dần dần được tách ra, độc lập với quá trình sản xuất và được thực hiện thông qua thị trường. Vì lẽ đó, việc sản xuất cái gì? Sản xuất phục vụ ai? Sản xuất bao nhiêu và như thế nào? đều do cơ chế thị trường quyết định với sự can thiệp của các qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị và giá cả thị trường. Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế nhưng kinh tế hộ gia đình là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một trong các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong hoạt động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở nước ta, kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Hiện nay, tại một số địa phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy mô sản xuất và kinh doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có chiều hướng phát triển và mở rộng ra trên phạm vi toàn quốc. Về mặt pháp lý, kinh tế hộ được thể hiện dưới hình thức hộ cá thể (hay hộ kinh doanh cá thể). Cơ sở pháp lý của loại hình hộ cá thể được thiết lập chính thức ở Nghị định 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 09/3/1998. Tên gọi “Hộ kinh doanh cá thể” được ghi nhận tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/12/2000 và Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 của Chính phủ. Hiện nay, theo Nghị định số 36/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 và Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 của Chính phủ, hộ kinh doanh được định nghĩa như sau: Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một
  17. 15 địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh. Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức kinh tế với số lượng lao động thuê mướn không quá 10 người. Như vậy, kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức kinh tế với quy mô tương đối nhỏ. Từ những phân tích ở trên, ta có thể hiểu kinh tế hộ gia đình là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các thành viên trong hộ, với số lượng không quá mười người, tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất và chủ hộ phải chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của hộ gia đình. * Khái niệm hộ phi nông nghiệp: Hộ PNN là tập hợp nhóm người có quan hệ theo hộ khẩu hành chính, theo quan hệ hôn nhân, theo quan hệ huyết thống, hoặc theo những cách xác định khác mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung ngoài lĩnh vực nông nghiệp. Thành phần chủ yếu của hộ PNN bao gồm: Hộ cá thể, tiểu chủ hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực PNN. * Khái niệm kinh tế hộ phi nông nghiệp: Các cá nhân và nhóm kinh doanh trong các lĩnh vực như vận tải, xây dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh… trên thực tế là các hoạt động kinh tế hộ gia đình PNN. Như vậy, có thể khẳng định kinh tế hộ PNN là loại hình kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân, những người thợ thủ công, những người buôn bán kinh doanh dịch vụ, hoạt động trong lĩnh vực PNN dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX và lao động chủ yếu của chính hộ hay cá nhân đó. Từ sự phân tích trên, kinh tế hộ PNN có thể được hiểu là một đơn vị kinh tế tự chủ mà thành phần là các thành viên trong hộ với số lượng không
  18. 16 quá mười người, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc các lĩnh vực PNN và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 1.1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ phi nông nghiệp Một là, Kinh tế hộ phi nông nghiệp là loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh mang đậm tính chất của một hộ gia đình. Trong gia đình, các thành viên gắn bó với nhau bởi quan hệ ruột thịt, vợ chồng con cái, ông bà, anh em đã gắn kết họ thành một khối thống nhất, có trách nhiệm cao đối với tài sản, vốn liếng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hộ PNN thực sự là một khối thống nhất không thể tách rời giữa quyền sử dụng đất đai, quyền tham gia lao động và quyền phân phối sản phẩm của các thành viên trong hộ. Các thành viên đều có chung một mục đích và có sự thống nhất rất cao về lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Mỗi người trong hộ đều lao động theo khả năng và trách nhiệm gắn với vai trò của họ trong gia đình. Do đó, mô hình kinh tế hộ cho phép hạn chế đến mức tối đa các mâu thuẫn về lợi ích kinh tế. Trong hộ, mọi người hiểu rõ năng lực, sở trường của từng thành viên nên việc bố trí, sắp xếp công việc tương đối phù hợp, hiệu quả. Quan hệ quản lý ở đây là trực tuyến nên thông tin nhanh chóng. Chính vì vậy, hộ PNN là loại hình có sự nhất trí cao trong khâu tổ chức quản lý sản xuất. Mô hình kinh tế hộ, bên cạnh những lợi thế cũng có những hạn chế nhất định: Do dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nên không tránh khỏi xu hướng biệt lập, khép kín, mang nặng tính tự cung tự cấp. Do đó, họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nắm bắt thông tin thị trường, hạn chế khả năng tiếp thị, quảng bá cho sản phẩm dẫn tới khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm cũng như trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
  19. 17 Hai là, Sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ PNN chủ yếu là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ lao động thấp, dễ bị phân hoá trong nền KTTT. Quy mô sản xuất kinh doanh của hộ PNN là quy mô nhỏ (cả về mặt bằng kinh doanh, quy mô vốn, lao động). Do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ nên đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng không nhiều lao động, nên hộ PNN có thể chủ động thay đổi hoạt động sản xuất kinh doanh, dễ dàng đối phó với những biến động thị trường. Song, cũng do quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít nên hộ PNN không có điều kiện để trang bị những máy móc hiện đại, dẫn tới công nghệ lạc hậu, nhất là trong các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Do bản chất của kinh tế hộ PNN dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX, hình thức tổ chức của kinh tế hộ PNN là hộ tự chủ nên trình độ lao động của bộ phận kinh tế này rất thấp. Các chủ hộ sản xuất kinh doanh phần lớn trong số họ có trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp. Không ít người trong số họ có tư tưởng cố hữu, bảo thủ, trì trệ. Những đặc tính này đã gây trở ngại cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật và cách thức làm ăn mới vào sản xuất kinh doanh. Có thể nói, kinh tế hộ PNN là loại hình mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, kinh doanh manh mún, tự cung tự cấp, do đó dễ bị phân hoá trong nền KTTT. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế hộ ở nước ta nói chung. Chính đặc điểm này quy định xu hướng phát triển của bộ phận kinh tế này trong tương lai. Ba là, Hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ PNN vừa nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của các thành viên trong hộ vừa nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Hộ PNN là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng (tiêu dùng của hộ xét cả khía cạnh tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho các cá nhân), nó ảnh hưỏng
  20. 18 trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của hộ. Nó là đơn vị sản xuất tự thực hiện quá trình tái sản xuất dựa trên cơ sở phân bố các nguồn lực (lao động, đất đai, vốn, kỹ thuật, nguồn thu nhập) vào các ngành sản xuất để thực hiện tất cả các chức năng của nó nhằm mục đích đảm bảo tiêu dùng cá nhân và thu lợi nhuận. Do có sự kết hợp cả hai mục đích: Tiêu dùng và lợi nhuận, nên nguyên tắc kinh doanh theo đuổi mục tiêu lợi nhuận luôn được kết hợp chặt chẽ với các giá trị gia đình. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh không thuận lợi, do sức ép của nhu cầu trong gia đình, các hộ sản xuất kinh doanh PNN vẫn tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh (cho dù không có lợi nhuận hoặc ít lợi nhuận) để duy trì việc làm cho các thành viên trong gia đình. Chính điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vì nếu mua máy móc để sử dụng thay lao động thủ công, thì số lao động trong gia đình sẽ thất nghiệp. Chính vì vậy, kinh tế hộ PNN là loại hình kinh tế có ý nghĩa chiến lược tình thế, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Bốn là, Kinh tế hộ PNN là loại hình hoạt động sản xuất đa ngành, trên nhiều lĩnh vực khác nhau trong hầu hết các khâu của quá trình sản xuất - xã hội hoạt động ở khắp các địa bàn từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền núi. Hơn nữa kinh tế hộ PNN với cơ cấu đa ngành nghề hoạt động khắp các địa bàn nên nó có khả năng to lớn trong việc huy động, khai thác và sử dụng tối đa các tiềm năng sẵn có như: Vốn, lao động, tay nghề, bí quyết nghề, đất đai… tận dụng thời gian và không gian để phát triển sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, nó là bộ phận kinh tế tạo nhiều việc làm cho lao động, tăng thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0