ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------------------- BÙI THANH TÙNG
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI CỦA
SINGAPORE VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Hà Nội – 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------------------------------------ BÙI THANH TÙNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI CỦA
SINGAPORE VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành : KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số : 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHAN HUY ĐƯỜNG
Hà Nội – 2012
M ỤC L ỤC
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt ........................................................... i
Danh mục các bảng số liệu ........................................................................... ii
Danh mục các hình vẽ, đồ thị ....................................................................... iii
Mở đầu ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI ............................................. 8
1.1. DI CHUYỂN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LAO ĐỘNG NƢỚC
NGOÀI ...............................................................................................................................................8
1.1.1. Nguyên nhân, đặc điểm và phân loại di chuyển lao động quốc tế .... 8
1.1.2. Tác động của lao động ngƣời nƣớc ngoài đối với các quốc gia ...... 16
1.1.3. Các nhân tố tác động đến chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động
nƣớc ngoài .............................................................................................. 20
1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH QUẢN
LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI ................................................. 30
1.2.1. Nội dung chính sách quản lý nhà nƣớc đối với lao động nƣớc ngoài
............................................................................................................... 30
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chính sách quản lý Nhà nƣớc đối với lao động
nƣớc ngoài .............................................................................................. 39
CHƢƠNG 2: CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI ...... 43
CỦA SINGAPORE ...................................................................................... 43
2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƢỚC SINGAPORE ................................................. 43
2.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên – Lịch sử hình thành của
Singapore ................................................................................................ 43
2.1.2. Một số đặc điểm của nền kinh tế Singapore ................................................. 46
2.2. TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
SINGAPORE GIAI ĐOẠN 2005-2011 ....................................................................... 48
2.2.1. Tình hình lao động nƣớc ngoài của Singapore .............................. 48
2.2.2. Tác động của lao động nƣớc ngoài đến phát triển kinh tế xã hội của
Singapore ................................................................................................ 51
2.3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LAO
ĐỘNG NƢỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE ................................................................ 52
2.3.1. Quá trình xây dựng và ban hành chính sách quản lý lao động nƣớc
ngoài ở Singapore ................................................................................... 52
2.3.2. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài
ở Singapore ............................................................................................. 59
2.3.3. Quá trình giám sát kiểm tra thực hiện chính sách quản lý lao động
nƣớc ngoài ở Singapore .......................................................................... 62
2.4. ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƢỚC
NGOÀI CỦA SINGAPORE ................................................................................................. 68
2.4.1. Chính sách xuất nhập cảnh và cƣ trú của Singapore ...................... 68
2.4.2. Chính sách thị trƣờng lao động của Singapore .............................. 75
2.4.2. Chính sách thƣơng mại và đầu tƣ của Singapore ........................... 80
CHƢƠNG 3:BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO
ĐỘNG NƢỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE ĐỐI VỚI VIỆT NAM ............ 87
3.1.NHỮNG NÉT TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VIỆT NAM
VÀ SINGAPORE ....................................................................................................................... 87
3.1.1.Những nét tƣơng đồng ................................................................... 87
3.1.2. Những nét khác biệt cơ bản ........................................................... 89
3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM .................................................. 91
3.2.1.Tình hình quản lý lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay......... 91
3.2.2 . Vận dụng kinh nghiệm chính sách quản lý nhà nƣớc đối với lao
động nƣớc ngoài của Singapore vào Việt Nam ..................................... 107
3.3. Một số kiến nghị đối với Việt Nam ........................................................................ 112
KẾT LUẬN 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 117
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
STT NỘI DUNG NGUYÊN NGHĨA
CW Công uớc 1
FDI Đầu tƣ trực tiếp nứơc ngoài 2
DN Doanh nghiệp 3
EWTA Bộ luật lao động nguời nƣớc ngoài singapore 4
FMND Cục quản lý lao động nuớc ngoài 5
GATT Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại 6
ILO Tổ chức lao dộng quốc tế 7
IMD Cục nhân lực quốc tế 8
KT Kỹ thuật 9
LĐ Lao động 10
LĐ-TB&XH Bộ Lao động- Thƣơng binh và xã hội 11
MOM Bộ Lao động Singapore 12
TDB Cục xúc tiến thƣơng mại Singapore 13
TNCs Công ty xuyên quốc gia 14
WPD Cục cấp phép lao động 15
WTO Tổ chức thƣơng mại thế giới 16
i
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Nội dung Số STT
hiệu
1.1 Tỷ lệ nhập cƣ so với tổng dân số và lực luợng lao động trên 1
thế giới
2.1 Hệ thống giấy phép lao động tại Singapore 2
2.2 Thẻ S dành cho lao động nƣớc ngoài tại Singapore 3
2.3 Tiêu chuẩn, hạn chế và quyền hạn đuợc cấp cho những lao 4
động nuớc ngoài có chuyên môn
2.4 Qui định giới hạn ngành nghề đối với lao động nuớc ngoài 5
2.5 Tổng thƣơng mại xuất khẩu của Singapore qua vài năm 6
3.1 Số luợng lao động nuớc ngoài ở Việt Nam qua các năm 7
(1996-2009)
3.2 Lao động nuớc ngoài ở Việt Nam phân theo nguồn gốc quốc 8
tịch châu lục
3.3 Lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam phân theo trình độ chuyên 9
môn và ngành nghề
10 3.4 Số luợng và tỷ lệ cấp phép của lao động nuớc ngoài tại các
tỉnh, thành phố năm 2009
11 3.5 Lao động nuớc ngoài có trình độ kỹ thuật ở thành phố Hồ
Chính Minh
3.6 Lao động quốc tịch châu Phi tại thành phố Hồ Chính Minh 12
ii
3.7 Dự báo chỉ tiêu về phát triển nhân lực đến năm 2020 13
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
STT Số hiệu Nội dung
1 2.12 2.1 Vị trí địa lý của singapore
iv
2 2.2 Bộ máy quản lý lao động nuớc ngoài tại Singapore
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc mở cửa các loại thị trƣờng,
trong đó có thị trƣờng dịch vụ, thị trƣờng lao động theo các cam kết gia nhập
các tổ chức quốc tế là một tất yếu. Đi cùng với hàng hoá, dịch vụ, vốn, công
nghệ là lao động ngƣời nƣớc ngoài đến Việt Nam làm việc. Đặc biệt, dòng lao
động nƣớc ngoài có trình độ chuyên môn cao vào Việt Nam làm việc sẽ tác
động tích cực đến tăng trƣởng của nền kinh tế, ứng dụng các tiến bộ công
nghệ, kinh nghiệm quản lý, gia tăng kim ngạch thƣơng mại giữa Việt Nam và
các nƣớc,v.v…; đồng thời cũng mang lại những hiệu ứng ngoài mong muốn
nhƣ: gia tăng áp lực việc làm trong nƣớc, xung đột giữa lao động Việt Nam với
lao động nhập cƣ, trật tự xã hội khó quản lý, an ninh quốc phòng có thể bị xâm
phạm, bí mật quốc gia có thể bị lộ, v.v… Trƣớc thực trạng trên, điều đang gây
bức xúc trong dƣ luận là các cơ quan quản lý nhà nƣớc đang tỏ ra lúng túng, bị
động trong việc quản lý lao động ngƣời nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam.
Theo tác giả luận văn, nguyên nhân cơ bản của những bất cập trong quản lý,
sử dụng lao động ngƣời nƣớc ngoài ở Việt nam trong thời gian qua là do
chúng ta chƣa đầu tƣ nghiên cứu lý luận về vấn đề lao động ngƣời nƣớc ngoài
nhập cƣ trong thời kỳ hội nhập, chƣa tìm hiểu kỹ kinh nghiệm quản lý lao
động nƣớc ngoài của các nƣớc khác, do đó thiếu những đánh giá về vai trò,
cũng nhƣ tác động hai chiều của lao động ngƣời nƣớc ngoài đối với sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nƣớc, thiếu các dự báo về cung cầu lao động ngƣời
nƣớc ngoài .
Tôi nhận thức rằng, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng, tích
cực, chủ động hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, lao động ngƣời
nƣớc ngoài đến Việt Nam là một tất yếu khách quan đem lại tác động nhiều
chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Đảng và
Nhà nƣớc ta đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách trong việc quản lý, sử dụng
1
lao động ngƣời nƣớc ngoài, nhƣng việc thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện các chủ trƣơng chính sách đó còn bộc lộ không ít hạn chế, yếu kém.
Các cơ quan nhà nƣớc có liên quan chƣa phát huy đƣợc đầy đủ vai trò của
mình trong việc quản lý lao động ngƣời nƣớc ngoài theo quan điểm hiệu quả,
đem lại lợi ích thiết thực cho phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc. Để kịp
thời nắm bắt cơ hội, chủ động đối phó với thách thức nhƣ đã đề cập, vấn đề
cấp bách hiện nay là Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách về
quản lý lao động nƣớc ngoài nhằm tạo đà tăng trƣởng kinh tế bền vững. Con
đƣờng ngắn nhất không gì khác đó chính là nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm
từ các quốc gia đi trƣớc trong lĩnh vực quản lý lao động ngoại nhập, cụ thể là
Singapore để từ đó khái quát, rút ra bài học kinh nghiệm và vận dụng linh
hoạt vào thị trƣờng lao động Việt Nam.
Từ những đòi hỏi thực tiễn đó tác giả lựa chọn vấn đề “Chính sách
quản lý nhà nƣớc đối với lao động nƣớc ngoài ở Singapore” làm luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
1. Phan Huy Đƣờng:
- Kinh tế đối ngoại Việt Nam(2007), (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học
Quốc gia Hà nội
- “Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển bền vững và độc lập tự chủ”.
Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 3, Hà Nội ( 2008)
- Quản lý nhà nƣớc về xuất khẩu lao động ở Việt Nam (Chủ nhiệm),
(Đề tài NCKH cấp ĐHQG Hà Nội, 2009).
2. Lê Hồng Huyên (2011), Quản lý nhà nƣớc về di chuyển lao động
Việt Nam ra làm việc ở nƣớc ngoài, Luận án Tiến sỹ kinh tế, bảo vệ ngày
4/3/2011 tại Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Hồng Huyên (2008), Tác động của di chuyển lao động quốc tế
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế,
2
Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 3, Hà Nội
4. Phạm Thị Thanh Bình (2009): 1/ Xu hƣớng di chuyển lao động từ
các nƣớc đang phát triển và 2/ Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế:
Nguyên nhân và thực trạng, Báo điện tử ĐCS VN
5. Phan Huy Đƣờng (2010), Giải pháp tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc về
lao động nƣớc ngoài tại Việt Nam, Tạp chí Lao động-Xã hội số 407 tháng
5/2011.
6. Phan Huy Đƣờng, Tô Hiến Thà (2011), Lao động nƣớc ngoài ở Việt
Nam, thực trạng và giải pháp, Tạp chí Lao động - Xã hội số 402 tháng
3/2011.
7. Tô Hiến Thà, Giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao,
Tạp chí lao động và xã hội, 340/2008
8. Báo Ngƣời lao động (23-04-2009) Quản lý lao động ngƣời nƣớc
ngoài tại Việt Nam: Chƣa sát thực tế!
Bài báo nêu lên thực trạng lao động ngƣời nƣớc ngoài đang ồ ạt vào
Việt Nam, đáng lo ngại hơn đó lại là lao động phổ thông. Theo bài báo, những
bất cập của cơ chế, cũng nhƣ quản lý lỏng lẻo chính là nguyên nhân của tình
trạng lao động phổ thông ngƣời nƣớc ngoài ào ạt vào Việt Nam không kiểm
soát đƣợc.
9. The Economy (8/3/2010), Lao động phổ thông nƣớc ngoài đang vào
Việt Nam
10. Ngọc Tƣớc (Giadinh.net), Quản lý lao động ngƣời nƣớc ngoài tại
Việt Nam: Sự hời hợt mất tiền tỷ.
11. Hội nghị giao ban các khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất
(KCX) vùng kinh tế trọng điểm phía Nam lần thứ 9, Đồng Nai, 5/2010, Nhiều
bất cập trong quản lý lao động ngƣời nƣớc ngoài tại các khu công nghiệp, khu
chế xuất.
12. Nguyễn Sỹ Phƣơng (CH LB ĐỨC) (Thời báo Kinh tế Sài Gòn,
14/8/2009), Lao động nhập cƣ.
3
14. Thái Bình, Giải bài toán lao động ngƣời nƣớc ngoài nhập cƣ ( Thời
báo Kinh tế Sài gòn, 7/2009, Theo Economist).
15. Phan Huy Đƣờng, Đỗ Thị Dung (2011), Một số vấn đề đặt ra trong
thực hiện quy định pháp luật về lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam và hƣớng
hoàn thiện, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 403 tháng 3 năm 2011.
16. Bùi Quảng Bạ (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
1996), “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nƣớc đối với
ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam” Luận án Tiến sĩ luật học.
17. Ngô Phúc Thịnh (Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội, 2002),
“Quản lý nhà nƣớc về an ninh đối với ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam” Luận
án Tiến sĩ Luật học.
18. Nguyễn Phùng Hồng (chủ nhiệm) (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2002), “Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý ngƣời nƣớc ngoài nhằm
bảo đảm an ninh trật tự của lực lƣợng công an nhân dân trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”.
19. Nguyễn Hữu Tráng (chủ nhiệm) (Bộ Ngoại giao, Hà Nội, 2002),
“Trách nhiệm quốc gia đối với việc nhận trở lại công dân không đƣợc nƣớc
ngoài cho cƣ trú”.
20. Đại tá Triệu Văn Thế - Cục trƣởng Cục Quản lý xuất nhập cảnh làm
chủ nhiệm (Bộ Công an, Hà Nội, 2005), “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu hàng không quốc tế Nội Bài góp
phần đảm bảo an ninh quốc gia”. Các công trình nghiên cứu khoa học này, ở
những khía cạnh và cấp độ khác nhau, đều đề cập một số vấn đề chung về
quản lý nhà nƣớc, mối quan hệ nhà nƣớc - công dân trong lĩnh vực xuất nhập
cảnh, những điều kiện pháp lý bảo đảm quyền của ngƣời nƣớc ngoài làm việc
ở Việt Nam..
Ngoài ra, cũng cần kể đến một số luận văn thạc sĩ luật học nhƣ:
21. Nguyễn Xuân Toản - Viện Nhà nƣớc và pháp luật, Hà Nội, 1996),
4
“Quản lý nhà nƣớc đối với ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam” (luận văn thạc sĩ
luật học). Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận, nội dung pháp lý của quản
lý nhà nƣớc đối với ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam, đề xuất những giải pháp
tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nƣớc đối với ngƣời nƣớc ngoài
ở Việt Nam hiện nay”.
22. Nguyễn Văn Minh (Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội, 1999),
“Quản lý nhà nƣớc về an ninh đối với ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh Việt Nam
theo danh nghĩa du lịch” (Luận văn thạc sĩ luật học).
Các công trình khoa học nêu trên cho thấy: từ những cấp độ hoạt động
quản lý nhà nƣớc khác nhau về chức năng nhiệm vụ, vấn đề quản lý nhà nƣớc
về xuất cảnh, nhập cảnh và cƣ trú đối với ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam đã
đƣợc đề cập từ nhiều khía cạnh khác nhau trong công cuộc đổi mới theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay; đề cập các vấn đề về lịch sử, khái
niệm, phạm trù, nội dung của pháp luật; xác lập quan điểm, nguyên tắc và giải
pháp thực hiện cơ chế quản lý nhà nƣớc về an ninh trong lĩnh vực xuất nhập
cảnh ở nƣớc ta. Pháp luật nói chung và pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh nói
riêng đƣợc các tác giả khẳng định là phƣơng tiện pháp lý để Nhà nƣớc thực
hiện vai trò quản lý đối với ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Những đóng góp của các công trình nêu trên là những tìm tòi sáng tạo -
những bƣớc tiến quan trọng nhằm giải quyết các vƣớng mắc về mặt lý luận và
thực tiễn của phạm vi lĩnh vực mà các đề tài nghiên cứu, tập trung chủ yếu là:
Quản lý nhà nƣớc đối với ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam; quản lý nhà nƣớc về
an ninh đối với ngƣời nƣớc ngoài; quản lý nhà nƣớc về an ninh đối với công
dân Việt Nam xuất cảnh, nhập cảnh hoặc là đột phá một số điểm, một số khía
cạnh trong quản lý nhà nƣớc về an ninh trật tự trong lĩnh vực xuất cảnh, nhập
cảnh và cƣ trú đối với công dân là ngƣời nƣớc ngoài. Tuy nhiên, các công
trình nói trên còn để lại nhiều khoảng trống và chƣa đề cập một cách toàn
diện, có hệ thống về chính sách, pháp luật trong quản lý, sử dụng lao động
ngƣời nƣớc ngoài. Đặc biệt, cho đến nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu
5
về chính sách Quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài của Singapore và rút
ra các bài học kinh nghiệm quản lý lao động nƣớc ngoài cho Việt Nam.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu : Nghiên cứu chí nh sá ch quả n lý nhà nƣớ c về
lao độ ng ngƣời nƣớ c ngoà i ở Singapore
* Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài tập trung nghiên cứu chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động
nƣớc ngoài ở Singapore giai đoạn 2005-2011 trên ba nội dung chính : Chính
sách xuất nhập cảnh và cƣ trú ; Chính sách thị trƣờng lao động ; Chính sách
thƣơng mại và đầu tƣ.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa vào đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nƣớc, đồng thời kế thừa những kết quả nghiên cứu trong các công trình khoa
học đã công bố để phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài Luận văn vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của khoa học
kinh tế chính trị, đặc biệt coi trọng phƣơng pháp trừu tƣợng hóa khoa học,
phƣơng pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp…
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chính sách quản lý nhà nƣớc đối với lao động nƣớc ngoài, Luận
văn đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng chính sách quản lý nhà nƣớc đối với
lao động nƣớc ngoài ở Singapore. Từ đó, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
chính sách quản lý Nhà nƣớc đối với lao động ngoại nhập ở Việt Nam hiện
nay.
* Nhiệm vụ của Luận văn :
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách quản lý đối với lao động nƣớc
6
ngoài
- Nghiên cứu thực trạng chính sách quản lý nhà nƣớc đối với lao động
nƣớc ngoài ở Singapore đồng thời phân tích thực trạng quản lý nhà nƣớc về
lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam, Từ đó, vận dụng bài học kinh ngiệm của
Singapore vào lĩnh vực quản lý lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính
sách quản quản lý nhà nƣớc đối với lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện
nay.
6. Những đóng góp mới của luận văn
* Đóng góp về lý luận:
- Phân tích thực trạng chính sách quản lý nhà nƣớc đối với lao động
nƣớc ngoài ở Singapore để từ đó tổng hợp, rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam.
- Khái quát về tình hình quản lý lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam.
* Đóng góp về thực tiễn:
- Làm căn cứ để Nhà nƣớc hoàn thiện chính sách quản lý lao động nƣớc
ngoài ở Việt Nam,.
- Làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu về chính sách quản lý
đối với lao động nƣớc ngoài.
7. Kết cấu của đề tài luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về chính sách quản lý nhà nƣớc về lao
động nƣớc ngoài.
Chƣơng 2: Chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài của Singapore.
Chƣơng 3: Bài học kinh nghiệm chính sách quản lý lao động nƣớc
ngoài của Singapore đối với Việt nam.
7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI
1.1. DI CHUYỂN LAO ĐỘNG QUỐC TẾ VÀ NHÂN TỐ TÁC
ĐỘNG ĐẾN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LAO ĐỘNG
NƢỚC NGOÀI
1.1.1. Nguyên nhân, đặc điểm và phân loại di chuyển lao động quốc tế
* Nguyên nhân của di chuyển lao động quốc tế
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của đất nƣớc, chúng ta đang đối
mặt với những vấn đề cần phải giải quyết về ngƣời lao động nƣớc ngoài và
những vấn đề nẩy sinh trong quá trình sử dụng và quản lý lực lƣợng lao động
này. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu nào tiếp cận
vấn đề lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam một cách hệ thống và toàn diện. Do
vậy, có thể nói việc quản lý lao động nƣớc ngoài tại Việt Nam đang là một
trong những vấn đề xã hội bức xúc cần phải đƣợc xem xét nghiên cứu một
cách nghiêm túc và khoa học.
Hiện nay chúng ta thấy rằng có nhiều nghiên cứu liên quan tới vấn đề
di chuyển lao động, đặc biệt tập trung nhiều ở khu vực Châu Á. Di chuyển lao
động là vấn đề tất yếu mà các quốc gia đang phát triển phải đối mặt trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nghiên cứu về xu thế và yếu tố tác động tới
việc di cƣ lao động là một trong những mảng nghiên cứu đƣợc nhiều tổ chức
quan tâm nghiên cứu, đặc biệt là tổ chức Lao động quốc tế (ILO). ILO tiến
hành nhiều nghiên cứu liên quan tới vấn đề di cƣ lao động
Di chuyển lao động quốc tế là một hiện tƣợng bình thƣờng, và ngày
càng xảy ra thƣờng xuyên hơn của thị trƣờng lao động. Nền kinh tế càng phát
triển, hiện tƣợng này càng phổ biến, và là điều kiện không thể thiếu của sự
8
phát triển lành mạnh. Muốn đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-xã hội thì các
quốc gia phải khôn ngoan đối mặt với hiện tƣợng di chuyển của những ngƣời
lao động nói chung và ngƣời lao động tri thức nói riêng, có chính sách "trọng
dụng" họ, tạo mọi điều kiện (về vật chất và tinh thần) để họ làm việc có hiệu
quả. Theo các chuyên gia kinh tế, có 4 nhóm nguyên nhân cơ bản sau dẫn đến
sự di chuyển lao động quốc tế
Di chuyển lao động quốc tế là do kết quả của quá trình toàn cầu hóa.
Quá trình toàn cầu hoá làm tăng chênh lệch thu nhập giữa các quốc gia. Mức
chênh lệch ngày càng tăng về trình độ phát triển giữa các quốc gia, dẫn tới sự
phát triển không đồng đều về kinh tế xã hội. Quá trình toàn cầu hóa và những
chính sách di cƣ chọn lựa ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di
chuyển lao động quốc tế. Lao động càng có trình độ chuyên môn cao càng có
xu hƣớng di cƣ nhiều. Và trình độ giáo dục chính là nhân tố thúc đẩy tốc độ di
chuyển lao động. Giáo dục cũng làm tăng khả năng di chuyển lao động ra
nƣớc ngoài. Toàn cầu hóa đƣợc thể hiện mạnh trong những năm 1990 đó là
cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự liên kết kinh tế của thị trƣờng sản
phẩm
Di chuyển lao động quốc tế là hậu quả của sự khan hiếm lao động của
nƣớc nhận lao động. Sự khan hiếm lao động đƣợc phản ánh thông qua việc trả
lƣơng cho lao động cao hơn mức thu nhập của lao động trong nƣớc.
Di chuyển lao động quốc tế đƣợc đặc trƣng bởi “cầu kéo” từ phía các
nƣớc nhận lao động. Các chính sách di chuyển lao động của nƣớc nhận lao
động phản ánh sự thiếu hụt của thị trƣờng lao động trong nƣớc. Kết hợp cùng
với những tác động của sự chọn lựa từ phía nƣớc gửi lao động, điều này sẽ
dẫn đến tỉ lệ di chuyển vốn nhân lực có chuyên môn cao từ các nƣớc đang
phát triển tới các nƣớc phát triển.
Do chính sách "thu hút nguồn nhân lực" của các nƣớc phát triển. Sự “di
chuyển” ngày càng tăng của “nguồn nhân lực” là do nƣớc nhận lao động đã
dành cho họ những điều kiện làm việc tốt hơn, thu nhập cao hơn, môi trƣờng
phát huy trí tuệ tốt hơn,… Trong số 150 triệu ngƣời tham gia các hoạt động
9
khoa học và công nghệ trên thế giới, thì 90% số họ sinh sống và làm việc ở 7
nƣớc công nghiệp phát triển nhất; riêng Mỹ và Canada chiếm khoảng 25%.
Do các nƣớc đang phát triển không có đủ phƣơng tiện và điều kiện để đối phó
với sự mất mát nguồn nhân lực khoa học, không phát huy và khai thác hết
đƣợc tiềm năng của đội ngũ các nhà khoa học. Trong khi đó, điều kiện làm
việc của các nhà khoa học ở các nƣớc phát triển thuận lợi hơn nhiều. Sự
chênh lệch về mức thu nhập trong cùng một chức danh khoa học giữa hai
nhóm nƣớc lên đến 12 lần. Ở các nƣớc đang phát triển, các ngành công
nghiệp, công nghệ và các trƣờng đại học không có khả năng kết hợp với nhau
để làm việc, từ đó gây ra cảm giác thất vọng thúc đẩy “lao động có chuyên
môn” di chuyển.
Do thiếu dịch vụ bảo hiểm và cơ chế quản lý rủi ro. Ở các nƣớc phát
triển rủi ro trong thu nhập đƣợc tối thiểu hóa thông qua thị trƣờng bảo hiểm
của tƣ nhân và chính phủ. Song ở các nƣớc đang phát triển do cơ chế quản lý
rủi ro không hoàn hảo, ngƣời lao động khó có khả năng tiếp cận đƣợc thị
trƣờng bảo hiểm. Do vậy, ngƣời lao động có xu hƣớng di chuyển về thị
trƣờng lao động có bảo hiểm để tối đa hóa nguồn thu nhập và tối thiểu hóa
những mất mát, rủi ro. Những lao động tri thức, có chuyên môn cao hơn ai hết
lại là những ngƣời nhận thức rõ điều này. Và do những hạn chế, yếu kém
trong cơ chế, chính sách ở các nƣớc đang phát triển đã tạo ra dòng di chuyển
lao động quốc tế mạnh.
* Đặc điểm của di chuyển lao động quốc tế
Tình trạng bất bình đẳng là nguyên nhân chính thúc đẩy con ngƣời di
chuyển nơi làm việc. Khủng hoảng tài chính toàn cầu thúc đẩy lao động di
chuyển trong khu vực các nƣớc đang phát triển ngày càng tăng nhanh và
mang những đặc trƣng nổi bật.
Thứ nhất, đa số lao động di chuyển từ các nƣớc đang phát triển không
10
có nghề nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp
Lao động di chuyển từ các nƣớc đang phát triển chủ yếu là lao động
phổ thông. Do không có chuyên môn nghề nghiệp nên lao động thƣờng tập
trung vào những lĩnh vực nhƣ xây dựng, khai mỏ, nông nghiệp và giúp vịêc
gia đình...
Lao động Trung Quốc di cƣ sang châu Phi trong thập kỷ đầu thể kỷ
XXI tăng rất nhanh, chủ yếu là nông dân, công nhân xây dựng, công nhân
hầm mỏ, lao động tiểu thƣơng...
Tuy nhiên, những nƣớc tiếp nhận nguồn lao động này từ các nƣớc đang
phát triển có thời hạn không dài (thƣờng chỉ trong khoảng thời gian từ 3-5
năm) nhằm mục đích tránh những hậu quả xã hội của nhóm lao động di cƣ
không nghề hoặc bán chuyên nghiệp để lại.
Thứ hai, lao động di chuyển tăng nhanh thể hiện ở mức tăng liên kết thị
trƣờng lao động
Singapore phát triển kinh tế dựa vào chiến lƣợc sử dụng lao động di cƣ
thông qua cơ chế quota và thu thuế. Từ những năm 1980 sự bùng nổ kinh tế
của Malaysia và Thái Lan dẫn tới việc thiếu hụt lao động ở các nƣớc này. Do
đó, Malaysia và Thái Lan đã thực hiện chiến lƣợc mở cửa đối với lao động di
cƣ từ các nƣớc khác trong khu vực. ASEAN đang tập trung phát triển một thị
trƣờng chung đối với việc di chuyển tự do ngƣời lao động và xóa bỏ yêu cầu
visa từ lao động trong khu vực. Philippin là nƣớc có số lao động di cƣ ra nƣớc
ngoài nhiều nhất - đó là những chuyên gia và lao động có kỹ năng, chuyên
môn - di cƣ tới các nƣớc khác nhau trên toàn thế giới.
Một số nhóm có chuyên môn, kỹ năng nhất định thì chỉ di cƣ tới một số
nƣớc. Ví dụ, lao động giúp việc gia đình chủ yếu tập trung ở Hồng Công và
Saudi Arabia; lao động trong lĩnh vực nghệ thuật di cƣ tới Nhật Bản, Hàn
Quốc và các nƣớc Đông Nam Á khác. Các chuyên gia công nghệ thông tin và
y tá di cƣ tới Mỹ và Anh. Rõ ràng, sự chuyên môn hóa thị trƣờng lao động
làm tăng mối liên kết thị trƣờng giữa các quốc gia trong khu vực.
11
Thứ ba, di cƣ lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ diễn ra mạnh ở những nƣớc có tốc độ tăng trƣởng nhanh
Làn sóng di cƣ lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ diễn ra mạnh nhất ở Trung Quốc, Campuchia và Việt Nam – những
nƣớc có mức tăng trƣởng kinh tế nhanh kể từ năm 1995. Khi Trung Quốc
thực hiện chính sách cải cách và mở cửa kinh tế từ năm 1978, đã có khoảng
130 triệu ngƣời Trung Quốc di chuyển từ nông thôn lên thành phố để tìm
kiếm việc làm (chƣa tính đến số di chuyển ra nƣớc ngoài làm việc). Dòng di
cƣ này, theo Liên hợp quốc, là lớn nhất trên thế giới, đã tiếp sức cho mức độ
tăng trƣởng thần kỳ của Trung Quốc, cải thiện điều kiện sống cho những
ngƣời lao động nghèo đói.
Năm 1978, Trung Quốc có 283 triệu lực lƣợng lao động nông nghiệp,
chiếm 93% tổng lực lƣợng lao động xã hội. Cùng với sự phát triển và cải cách
kinh tế, qui mô di chuyển lao động từ nông thôn ra thành phố ngày càng tăng.
Khác với các nƣớc đang phát triển khác, di chuyển lao động Trung Quốc đặc
trƣng bởi những xu hƣớng lan truyển nhanh do sự phân chia lịch sử tồn tại
giữa nông thôn và thành thị của hệ thống hukou. Thời kỳ đầu cải cách chỉ có
một số lƣợng nhỏ lao động di cƣ, chủ yếu tập trung ở những lao động thủ
công. Cùng với mức tăng của năng suất lao động nông nghiệp, lực lƣợng lao
động nông nghiệp bắt đầu chuyển ra ngoài khu vực với qui mô ngày càng lớn.
Đặc biệt sự bùng nổ kinh tế sau năm 1992 dẫn tới qui mô di chuyển lao động
tăng rất nhanh. Tăng trƣởng kinh tế ở các khu vực ven biển - nơi chủ yếu tập
trung lao động công nghiệp và lao động có xu hƣớng xuất khẩu - thu hút ngày
càng nhiều lao động nông thôn của Trung Quốc đến tìm kiếm việc làm ngoài
nông nghiệp. Số lƣợng lao động di chuyển tăng lên từ 2 triệu lao động năm
1983 lên 30 triệu lao động năm 1990 tới 63 triệu ngƣời năm 1993 và 75,5
triệu ngƣời năm 2000. Năm 2007, lao động di chuyển lên thành phố đã chiếm
tới 136 triệu ngƣời chiếm khoảng 46,5% tổng số việc làm ở thành phố.
12
Thứ tƣ, đa số lực lƣợng lao động di cƣ là nữ
Hai thập kỷ gần đây di cƣ lao động nữ chiếm tỉ lệ ngày càng tăng. Theo
báo cáo của Action Aid, lực lƣợng di cƣ đang có xu hƣớng nữ hoá, 81% lao
động di cƣ từ Indonesia, 72% lao động di cƣ từ Philippines và 60% lao động
di cƣ từ Việt Nam là lao động nữ. Do sự phát triển của ngành chế tạo và dịch
vụ cũng nhƣ nhu cầu giúp việc gia đình tăng đã dẫn tới nữ hóa dòng lao động
di cƣ của các nƣớc đang phát triển..
Từ năm 1992 đến nay, di cƣ lao động nữ ở Philippin chiếm tới 60-80%
tổng số lao động di cƣ ra nƣớc ngoài tìm việc làm. Phần lớn trong số họ làm
các công việc nhƣ dịch vụ chăm sóc sức khỏe và quét dọn trong gia đình với
mức lƣơng thấp. Trong khi phụ nữ Philippin có xu hƣớng di cƣ tới khắp các
nƣớc trên thế giới, thì phụ nữ Inđônêsia chủ yếu tới các nƣớc vùng Vịnh và
Trung Đông để tìm việc làm. Đặc biệt di cƣ tới Tây Á chiếm hơn 93% lao
động di cƣ nữ của Inđônêsia. Sở dĩ nữ chiếm phần lớn trong dòng di cƣ lao
động là do thị trƣờng nhập khẩu ngày càng đƣợc mở rộng cho lao động nữ.
Thị trƣờng tiếp nhận lao động nữ nhiều nhất là Trung Đông, đặc biệt là Ả rập
Saudi và Kuwait.
Thứ năm, di cƣ lao động bất hợp pháp gia tăng
Mạng lƣới di cƣ bất hợp pháp ngày càng đƣợc lựa chọn do những kênh
nhập cƣ hợp pháp đang ngày càng bị thu hẹp. Các nƣớc đang phát triển châu
Á đều có số lƣợng lao động di cƣ bất hợp pháp cao hơn ngƣời lao động di cƣ
hợp pháp.
Sở dĩ di cƣ bất hợp pháp tăng là do chính sách quản lý di cƣ thiếu chặt
chẽ và mong muốn của các chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm và bóc lột
lao động dễ dàng. Di cƣ bất hợp pháp có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng lao
động hiệu quả, song không đảm bảo quyền lợi và điều kiện an toàn cho ngƣời
lao động. Di cƣ bất hợp pháp từ các nƣớc đang phát triển thƣờng tập trung tới
các quốc gia có mức thu nhập cao hơn, môi trƣờng sống ƣa thích hơn nhƣ Bắc
Mỹ, Tây Âu, Pháp, Italia...
13
Lao động bất hợp pháp tới Thái Lan chủ yếu đến từ Myanmar làm việc
trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và trong ngành chế xuất. Lao
động bất hợp pháp tới Malaysia đến từ Indonesia, Philippin, Trung Quốc và
Ấn Độ. Malaysia đƣợc xem là quốc gia có số lƣợng lao động bất hợp pháp
cao lên tới 30% so với các nƣớc phát triển OECD (5,0% - 20,0%). Để hạn chế
số lƣợng lao động bất hợp pháp, chính phủ Thái Lan cho phép lao động bất
hợp pháp đến từ Campuchia, Lào và Myanmar đƣợc đăng ký cấp phép. Hơn
700 nghìn lao động bất hợp pháp đã đƣợc cấp phép mới. Lao động bất hợp
pháp của Việt Nam tới Campuchia thƣờng kiếm đƣợc nguồn thu nhập cao
hơn ngƣời bản xứ do họ làm các công việc có kỹ năng chuyên môn cao.
Bảng 1.1: Tỷ lệ nhập cƣ so với tổng dân số và lực lƣợng lao động
của một số nƣớc trên thế giới
Tỷ lệ nhập cƣ trong dân số (%)
TT Quốc gia Lực lƣợng lao Dân số động
1 Úc 22,7 24,8
2 Canada 15,6 18,5
3 Pháp 6,3 6,2
4 Đức 8,5 8,8
5 Anh 3,5 3,6
Nguồn: Giáo trình Thị trường lao động, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội, 2008,
6 Mỹ 7,9 9,3
* Phân loại di chuyển lao động quốc tế
- Xu hƣớng di chuyển lao động từ các nƣớc đang phát triển là di
chuyển lao động trong nội bộ các nƣớc đang phát triển và di chuyển lao động
ra ngoài khu vực tới các nƣớc phát triển.
Xu hƣớng di chuyển lao động trong nội bộ các nƣớc đang phát triển thu
hút lực lƣợng lao động di cƣ lớn trong khu vực do mức chênh lệch thu nhập,
14
xu hƣớng dân số và sự gần gũi về mặt địa lý. Di cƣ lao động từ nƣớc có mức
tiền lƣơng thấp tới nƣớc có mức tiền lƣơng cao hơn thể hiện sự phân bổ
nguồn lực trong khu vực từ nơi có việc làm năng suất thấp hơn tới nơi việc
làm đạt năng suất cao hơn, đóng góp vào nâng cao mức thu nhập, năng suất
lao động và tạo thêm việc làm cho ngƣời lao động.
- Xu hƣớng thứ hai là di chuyển lao động từ các nƣớc đang phát triển
sang các nƣớc phát triển giàu có ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc. Trong quá trình
phát triển, nhiều quốc gia phát triển phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao
động.
Xu hƣớng này do dân số già hóa và tỷ lệ sinh giảm đã làm cho nguồn
nhân lực ở một số nƣớc giảm, buộc chính phủ các nƣớc này phải mở cửa thị
trƣờng lao động cho phép các doanh nghiệp tuyển dụng lao động nƣớc ngoài.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1998, các nền kinh tế đang
phát triển châu Á hồi phục mạnh mẽ dẫn đến sự tăng nhanh nhu cầu lao động.
Bên cạnh đó, do sự khác biệt về mức thu nhập giữa các nền kinh tế cộng với
điều kiện giao thông, thông tin liên lạc đƣợc cải thiện khiến việc di chuyển
lao động trong nội bộ khu vực các nƣớc đang phát triển Đông Nam Á càng
tăng chiếm gần 40% so với hơn 13% di cƣ sang các nƣớc phát triển. Theo
đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), di cƣ lao động ở các nƣớc đang phát
triển tăng 10% sẽ cải thiện đƣợc mức sống của 2% số ngƣời lao động có mức
thu nhập thấp.
- Xu hƣớng di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế
+ Đó là sự di chuyển lao động chuyên môn cao từ các nƣớc đang phát
triển tới các nƣớc phát triển.
Thập kỷ 1990, di chuyển lao động chuyển môn cao quốc tế từ các nƣớc
đang phát triển châu Á đến các nƣớc phát triển (OECD) tăng rất nhanh. Phần
lớn di chuyển lao động chuyên môn cao tới các nƣớc phát triển đều đến từ các
nƣớc có mức thu nhập trung bình nhƣ Braxin, Ấn Độ, Trung Quốc. Mỹ,
Canada là những nƣớc nhận nhiều lao động di chuyển có chuyên môn cao
nhiều nhất, bởi các lý do: trong các ngành nghề liên quan đến dịch vụ nhƣ
15
kiến trúc, kỹ sƣ, các hoạt động liên quan đến máy tinh, giám sát, tổng quan,
kiểm soát...ở các nƣớc này đều cần đến trình độ công nghệ cao; các trƣờng đại
học, các viện nghiên cứu khoa học cũng đều có nhu cầu cao về nhân lực tri
thức.
+ Là sự di chuyển lao động có chuyên môn cao từ các nƣớc phát triển
sang các nƣớc phát triển khác.
Do thị trƣờng lao động quốc tế ngày càng đƣợc mở rộng cả theo chiều
ngang lẫn chiều dọc, nên theo qui luật cung cầu lao động, lao động sẽ chuyển
dịch đến những nơi có nhu cầu, hoặc những nơi giá trị của sức lao động đƣợc
trả cao hơn. Những năm gần đây, nhiều nƣớc phát triển cũng đang phải đối
mặt với hiện tƣợng chảy máu chất xám.
+ Là xu hƣớng di chuyển lao động chuyên môn cao từ các nƣớc phát
triển (OECD) tới các nƣớc đang phát triển châu Á.
1.1.2. Tác động của lao động ngƣời nƣớc ngoài đối với các quốc gia
tiếp nhận
Lao động nhập cƣ từ nƣớc ngoài có tác động hai chiều đến sự phát triển
của các quốc gia.
Thứ nhất là chiều tác động tích cực
Lao động nƣớc ngoài trực tiếp góp phần nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực, chuyển giao nhanh tiến bộ khoa học công nghệ và thúc đẩy tăng
trƣởng và phát triển nền kinh tế.
- Lao động nƣớc ngoài, nhất là lao động có trình độ chuyên môn và kỹ
thuật cao làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, các ngành nghề đặc
thù…có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc quản lý, điều hành hoạt động
của doanh nghiệp, trong việc áp dụng và chuyển giao những quy trình công
nghệ mới cho nƣớc sở tại. Trong khi nguồn lao động trong nƣớc chƣa đáp
ứng đủ yêu cầu về chuyên môn, quản lý kinh tế, điều hành doanh nghiệp
trong cơ chế cạnh tranh khốc liệt, thì vai trò của lao động nƣớc ngoài càng có
16
ý nghĩa: hình thành và phát triển các ngành nghề mới, đặc thù mà trong nƣớc
chƣa có; tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế chung; đẩy nhanh thời
gian triển khai và đƣa vào sử dụng các công trình, dự án; rút ngắn thời gian
đào tạo và áp dụng công nghệ mới; tiết kiệm chi phí trong việc nắm bắt nhiều
tinh hoa khoa học kỹ thuật của các nƣớc đi trƣớc (đi tắt, đón đầu)…Nhƣ vậy,
lao động nƣớc ngoài đã tác động tích cực, trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã
hội của đất nƣớc.
- Lao động nƣớc ngoài góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong dài hạn.
Các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, các chuyên gia và lao động nƣớc ngoài có
trình độ, kỹ thuật cao hầu hết đều tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, xây
dựng và thƣơng mại, dịch vụ (ngân hàng, tài chính, đào tạo, y tế…), riêng số
lƣợng lao động nƣớc ngoài trong các ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản không
đáng kể. Đối với các nƣớc đang phát triển, quá trình công nghiệp hoá dẫn đến
thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây
dựng nhà máy và tất nhiên đất nông nghiệp sẽ bị giảm dần, lao động nông
nghiệp có dƣ thừa, nhƣng cơ hội và điều kiện tuyển dụng lao động cho các
nhà máy, các dự án tăng lên.
Dƣới tác động của cạnh tranh, các nhà đầu tƣ có xu hƣớng lựa chọn
phƣơng án đầu tƣ sử dụng nhiều vốn, mở rộng quy mô sản xuất, muốn vậy
các nhà đầu tƣ sẽ phải sử dụng thêm nhiều lao động giá rẻ (lao động nƣớc
ngoài và lao động bản địa). Quy mô kinh tế của các ngành công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ ngày càng phát triển. Nhƣ vậy, lực lƣợng lao động nƣớc
ngoài đã góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu theo
hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Lao động nƣớc ngoài góp phần đƣa nhanh các tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến vào sản xuất, chuyển giao có hiệu quả các
công nghệ mới đó cho ngƣời lao động bản địa, đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc theo nguyên lý “3 I” – (Imitation - Bắt
chƣớc, Initiative - Cải tiến, Innovation – Sáng tạo).
17
Trong quá trình làm việc, ngƣời lao động trực tiếp sử dụng kỹ thuật và
công nghệ hiện đại để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Theo quy luật nhận
thức, ngƣời lao động bản xứ sẽ bắt chƣớc để làm theo, sau đó là cải tiến cách
làm và sáng tạo ra cái mới hiệu quả hơn. Thực tế đã cho thấy, lao động trong
nƣớc sau một thời gian làm việc với các chuyên gia, với ngƣời lao động có
trình độ và kỹ thuật cao họ đã tích luỹ đƣợc những tri thức về kỹ thuật, công
nghệ đƣợc chuyển giao và áp dụng thành công vào sản xuất kinh doanh của
họ. Điều này góp phần thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế theo hƣớng sử dụng khoa
học và công nghệ tiên tiến.
- Lao động nƣớc ngoài góp phần trực tiếp nâng cao chất lƣợng nguồn
nhân lực đối với lao động bản địa.
Đặc điểm của lao động là sáng tạo. Ngƣời lao động với vốn kiến thức,
học vấn và chuyên môn nghiệp vụ cơ bản, nếu đƣợc làm việc trong môi
trƣờng công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, thì trình độ tay
nghề và kỹ năng nghề nghiệp càng đƣợc nâng cao. Dƣới tác động của khoa
học kỹ thuật trong quá trình lao động, đồng thời cũng chính là quá trình ngƣời
lao động tự học hỏi, tự đào tạo. Sau một thời gian làm việc với các chuyên gia
nƣớc ngoài, với đội ngũ ngƣời lao động nƣớc ngoài, trình độ tay nghề và ý
thức kỷ luật, phong cách làm việc hiện đại của lực lƣợng lao động trong nƣớc
đƣợc nâng lên vƣợt bậc. Chính họ là những ngƣời sẽ thay thế đội ngũ chuyên
gia, thay thế ngƣời lao động nƣớc ngoài trong các nhà máy, công trƣờng, xí
nghiệp.
- Lao động nƣớc ngoài góp phần tăng cƣờng mối quan hệ quốc tế giữa
các quốc gia, góp phần đẩy mạnh đầu tƣ và mở rộng thị trƣờng hàng hoá, dịch
vụ giữa các nƣớc.
- Lao động nƣớc ngoài giảm bớt đƣợc sự sai sót trong sử dụng công
nghệ mới ( nếu sử dụng lao động trong nƣớc) do bất đồng ngôn ngữ, văn hóa,
Và ở một khía cạnh nào đó, làm gia tăng tính thẩm thấu văn hóa, làm tăng
18
nâng suất lao động.
Khi là thành viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), các doanh
nghiệp, ngƣời lao động của các nƣớc thành viên có nhiều cơ hội trong việc
mở rộng thị trƣờng đầu tƣ, xuất khẩu hàng hoá dịch vụ, đi lại và làm việc tại
các nƣớc thành viên. Theo đó, việc di chuyển lao động theo các quy định của
WTO đƣợc thực hiện dễ dàng.
Tự do di chuyển lao động giữa các thành viên là điều kiện quan trọng
giúp các nhà đầu tƣ lựa chọn phƣơng án sử dụng lao động tối ƣu cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, từ đó tăng cƣơng mối liên kết, mối quan hệ quốc tế
giữa các thành viên. Mặt khác, di chuyển lao động cũng góp phần quảng bá
hàng hoá và dịch vụ của nƣớc đó với ngƣời tiêu dùng nƣớc sở tại, góp phần
trao đổi văn hoá xã hội giữa các nền văn hoá.
Thứ hai là chiều tác động tiêu cực
- Đối với nhiều nƣớc đang phát triển, trong điều kiện lực lƣợng lao
động trong nƣớc dƣ thừa bởi quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, tỷ lệ
lao động thất nghiệp còn cao thì lao động nƣớc ngoài nhập cƣ với số lƣợng
lớn, nhất là lao động phổ thông nƣớc ngoài sẽ gây khó khăn cho việc tìm
kiếm và bố trí việc làm cho lực lƣợng lao động ngƣời bản địa.
- Lao động ngƣời nƣớc ngoài khó hoà nhập với đời sống xã hội nƣớc sở
tại do khác biệt về văn hoá, đạo đức, lối sống và tôn giáo. Đời sống tinh thần của
mỗi ngƣời gắn chặt với truyền thống văn hoá, đạo đức và tín ngƣỡng của mỗi
quốc gia, dân tộc. Trong thời đại ngày nay, sự khác biệt về văn hoá, đạo đức, lối
sống và tôn giáo có thể tạo nên các xung đột của từng cá nhân ngƣời lao động
với đời sống tinh thần của xã hội nƣớc sở tại.
Chính những tác động tích cực và tiêu cực nêu trên của lao động nƣớc
ngoài tại các nƣớc tiếp nhận lao động, nên việc quản lý nhà nƣớc đối với lực
lƣợng lao động này là rất cần thiết nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả, phát
huy tác động tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực lực lƣợng lao động này.
19
1.1.3. Các nhân tố tác động đến chính sách quản lý nhà nƣớc về lao
động nƣớc ngoài
* Tác động của quá trình toàn cầu hóa đến chính sách quản lý nhà
nước về lao động nước ngoài
Chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài đƣợc thể hiện qua
các văn bản pháp luật về lao động. Pháp luật lao động là hệ thống các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực lao
động. Trƣớc những tác động của quá trình toàn cầu hóa đối với lao động,
pháp luật lao động phải chịu những ảnh hƣởng nhƣ sau trong quá trình toàn
cầu hóa:
- Thứ nhất, chủ thể của quan hệ pháp luật lao động đƣợc mở rộng. Bên
cạnh việc điều chỉnh mối quan hệ giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao
động trong nƣớc, nay luật lao động còn điều chỉnh: (i) mối quan hệ giữa
ngƣời sử dụng lao động có yếu tố nƣớc ngoài với ngƣời lao động trong nƣớc;
(ii) mối quan hệ giữa ngƣời sử dụng lao động trong nƣớc với ngƣời lao động
là ngƣời nƣớc ngoài và (iii) mối quan hệ giữa ngƣời sử dụng lao động có yếu
tố nƣớc ngoài và ngƣời lao động là ngƣời nƣớc ngoài.
- Thứ hai, đối tƣợng điều chỉnh của luật lao động (quan hệ lao động) trở
nên khó xác định rõ. Nếu nhƣ trƣớc đây, ngƣời lao động làm việc cho một
chủ sử dụng lao động có thể xác định đƣợc, thì ngày nay, ngƣời lao động
nhiều khi không biết mình đang ở vị trí nào trong chuỗi dây chuyền sản xuất,
phân phối của các tập đoàn đa quốc gia, với mạng lƣới các chi nhánh, công ty
con, văn phòng đại diện, đối tác dày đặc; và ai là ngƣời sử dụng lao động thực
sự. Trong quá trình toàn cầu hóa, mối liên hệ giữa ngƣời lao động và ngƣời
chủ sử dụng lao động có nguy cơ bị mờ nhạt và lợi ích chung của những
ngƣời lao động bị xóa nhòa. Nếu nhƣ trƣớc đây, chủ sử dụng lao động và
ngƣời lao động cùng đóng trên địa bàn của một quốc gia, thì ngày nay, càng
có nhiều chủ sử dụng lao động có ngƣời lao động ở trên nhiều quốc gia khác
20
nhau. Quan hệ lao động tập thể, quyền thƣơng lƣợng tập thể của những ngƣời
lao động cùng làm việc cho các tập đoàn xuyên quốc gia (Trans-national
companies – TNCs) sẽ vƣợt ra sự điều chỉnh của pháp luật lao động của một
quốc gia riêng lẻ.
- Thứ ba, phạm vi điều chỉnh của pháp luật lao động có sự thay đổi. Ở
những quốc gia phát triển, phạm vi điều chỉnh của luật lao động bị thu hẹp vì
sự chia cắt của thị trƣờng lao động, cũng nhƣ xu hƣớng bất ổn định của thị
trƣờng lao động, các hình thức lao động phi chính thức tăng lên. Theo thống
kê, có đến 1/3 lao động có việc làm tại những nƣớc này là làm việc không
thƣờng xuyên và không toàn thời gian. Quyền hiệp hội, thƣơng lƣợng tập thể
bị đe dọa bởi việc sẽ chuyển địa điểm đầu tƣ hoặc sẽ nhập công ty với đối tác
nƣớc ngoài của các tập đoàn. Nội dung các quy phạm pháp luật về thƣơng
lƣợng tập thể có nguy cơ bị thu hẹp. Ở các nƣớc đang phát triển, việc mở rộng
phạm vi điều chỉnh của luật lao động bằng cách ban hành các quy định cải
tiến điều kiện lao động, tăng cƣờng việc bảo vệ ngƣời lao động là khó có thể
thực hiện đƣợc.
- Thứ tƣ, sự can thiệp của các TNCs và các thiết chế tài chính quốc tế
vào quá trình xây dựng và trong việc thi hành pháp luật lao động. Với tiềm
lực kinh tế của mình, các TNCs đã bắt đầu can thiệp sâu vào quá trình hoạch
định chính sách, xây dựng pháp luật của các quốc gia. Bằng “sức ép” là các
khoản đầu tƣ, các TNCs gây áp lực lên chính phủ, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ
sung pháp luật nói chung, trong đó có pháp luật lao động cho phù hợp với lợi
ích của TNCs. Mặt khác, mặc dù hoạt động ở nhiều quốc gia khác nhau trên
thế giới, mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật khác nhau, tuy nhiên, các TNCs
vẫn duy trì việc áp dụng một số quy định riêng của mình trong vấn đề lao
động. Bên cạnh đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa, pháp luật lao động còn chịu
sự can thiệp và ảnh hƣởng của các thiết chế tài chính quốc tế. Bằng các khoản
vay của mình, các thiết chế tài chính quốc tế đòi hỏi các quốc gia vay nợ phải
sửa đổi chính sách, pháp luật, trong đó có pháp luật về lao động cho phù hợp
21
với mục tiêu của họ. Việc này đặc biệt thƣờng diễn ra đối với các nƣớc đang
phát triển.
- Thứ năm, khả năng xung đột của pháp luật lao động quốc gia tăng
cao. Toàn cầu hóa tạo điều kiện cho sự phát triển của nhiều quan hệ lao động
có yếu tố nƣớc ngoài phát sinh trên lãnh thổ của một quốc gia. Nhƣ vậy, một
quan hệ lao động có thể đƣợc điều chỉnh bởi hai hệ thống pháp luật trở lên và
điều này dẫn đến nguy cơ xảy ra xung đột pháp luật.
- Thứ sáu, việc thi hành pháp luật lao động quốc gia trở nên khó khăn
hơn. Nếu nhƣ trƣớc đây, ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động có cùng
ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, lịch sử, giá trị truyền thống. Sự thông hiểu giữa
ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động tốt hơn và việc thi hành các quy
định của pháp luật lao động sẽ trở lên dễ dàng hơn. Ngày nay, với sự xuất
hiện của các chủ thể có yếu tố nƣớc ngoài thì những điểm chung trên không
còn nữa. Đây cũng là một trong số các nguyên nhân làm cho việc thi hành các
quy định của pháp luật lao động trở nên khó khăn hơn. Bên cạnh đó, pháp luật
của một quốc gia riêng lẻ không thể điều chỉnh đƣợc một TNC vì công ty này
hoạt động trên nhiều quốc gia khác nhau chứ không hoàn toàn nằm trong “chủ
quyền tài phán” của một quốc gia riêng biệt nào. Các công ty này sẽ hoạt
động bên ngoài khuôn khổ của pháp luật quốc gia, trốn tránh việc thực hiện
luật lao động quốc gia.
- Thứ bảy, nhu cầu đƣa các quy định về lao động vào trong các hiệp
định về thƣơng mại. Nhu cầu này đến từ 3 nhóm chủ thể khác nhau: (i) những
quốc gia theo chủ nghĩa bảo hộ (Protectionism); (ii) những học giả theo chủ
thuyết thƣơng mại công bằng (Fair – Trade) và (iii) các nhà hoạt động về
quyền của ngƣời lao động. Những quốc gia theo chủ nghĩa bảo hộ thƣờng là
những nƣớc phát triển, bởi họ lo sợ hàng hóa giá rẻ đến từ các nƣớc có chi phí
nhân công và tiêu chuẩn lao động thấp sẽ đánh bại các doanh nghiệp trong
nƣớc, nơi mà chi phí nhân công và tiêu chuẩn lao động cao hơn. Hoa Kỳ là
22
quốc gia tiêu biểu cho quan điểm này và là chủ thể đầu tiên đề cập đến việc
đƣa các quy định về lao động vào trong các hiệp định thƣơng mại. Hoa Kỳ đã
cố gắng nhƣng không thành công trong việc đƣa vấn đề lao động vào Chƣơng
trình nghị sự của Tổ chức Thƣơng mại thế giới tại Uruguay (1994), Seatle
(1999), Doha (2001) và Cancun (2003). Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã đƣa các quy
định về lao động là một trong các điều kiện để xem xét cho một quốc gia đang
phát triển hƣởng Hệ thống ƣu đãi thuế quan phổ cập của mình (US
Generalized System of Preferences – GSP). Những ngƣời theo chủ thuyết
thƣơng mại công bằng cho rằng, sự khác nhau trong các quy định về lao động,
dẫn đến sự khác nhau của chi phí về lao động giữa các quốc gia, quốc gia nào
có tiêu chuẩn lao động cao thì chi phí nhân công sẽ cao hơn và ngƣợc lại,
những nƣớc có tiêu chuẩn lao động thấp sẽ có chi phí nhân công rẻ hơn. Điều
này tạo ra sự bất bình đẳng trong hoạt động thƣơng mại - các doanh nghiệp ở
các quốc gia này không đƣợc cạnh tranh với nhau trên một mặt bằng chung về
chi phí nhân công. Để đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và thƣơng mại công
bằng, những ngƣời theo quan điểm này cho rằng, cần đƣa các quy định về lao
động vào trong các hiệp định thƣơng mại và vào trong các nguyên tắc của các
thiết chế thƣơng mại thế giới. Những nhà hoạt động vì quyền lợi của ngƣời
lao động lại cho rằng, để các quyền của ngƣời lao động và các tiêu chuẩn về
lao động đƣợc đảm bảo thi hành trên thực tế, cần phải có một chế tài đủ mạnh
đối với những quốc gia vi phạm - chế tài này phải là sự trừng phạt về thƣơng
mại. Họ đề xuất phải đƣa các quy định về quyền của ngƣời lao động vào trong
các hiệp định thƣơng mại và trong các quy định của các thiết chế thƣơng mại
thế giới. Từ đó, quốc gia nào vi phạm sẽ phải chịu hình thức xử phạt về
thƣơng mại. Nhƣ vậy, hoạt động thƣơng mại giữa các quốc gia vẫn phát triển,
đồng thời, việc vi phạm quyền lợi của ngƣời lao động ở các quốc gia sẽ đƣợc
khắc phục. Dƣới sức ép của các chế tài thƣơng mại, các quốc gia sẽ cố gắng
thực hiện việc đảm bảo quyền lợi của ngƣời lao động, nâng cao các tiêu chuẩn
lao động để tránh những thiệt hại có thể xảy ra đối với nền kinh tế khi phải
gánh chịu các biện pháp trừng phạt thƣơng mại.
23
- Thứ tám, sức ép đòi xóa bỏ các quy định pháp luật lao động quốc tế
của những ngƣời theo học thuyết thƣơng mại tự do. Những ngƣời theo quan
điểm ủng hộ toàn cầu hóa (Pro – Globalization) và ủng hộ thƣơng mại tự do
(Free - Trade) cho rằng, toàn cầu hóa kinh tế sẽ làm tăng sự thịnh vƣợng về
kinh tế cũng nhƣ cơ hội kinh tế, đặc biệt là giữa các nƣớc đang phát triển, từ
đó thúc đẩy tự do của cá nhân và đảm bảo việc phân bổ các nguồn lực một
cách hiệu quả hơn. Thƣơng mại tự do sẽ dẫn đến giá cả sản phẩm rẻ hơn, tạo
ra nhiều việc làm hơn, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội hơn và đời sống
của ngƣời dân ở các nƣớc đang phát triển sẽ đƣợc nâng cao hơn. Để quá trình
toàn cầu hóa phát triển, mọi rào cản chống lại thƣơng mại tự do phải đƣợc dỡ
bỏ, trong đó có các các yếu tố nhƣ: thuế quan, hạn ngạch… và các tiêu chuẩn
về lao động. Theo quan điểm của họ, các quy định lao động quốc tế là nhân tố
gây ảnh hƣởng đến quá trình hoạt động của thị trƣờng, làm hạn chế tính hiệu
quả của thị trƣờng, suy yếu tính cạnh tranh, làm nản lòng giới đầu tƣ và từ đó
cản trở sự phát triển. Biện pháp bảo vệ ngƣời lao động tốt nhất trong cơ chế
thị trƣờng không phải là các quy định về điều kiện lao động. Cơ chế thị
trƣờng sẽ tự đặt ra các tiêu chuẩn lao động. Ngƣời sử dụng lao động nào trả
lƣơng thấp, có điều kiện lao động không đảm bảo, chế độ đãi ngộ với ngƣời
lao động không tốt thì sẽ mất những lao động có tay nghề, có kinh nghiệm
cũng nhƣ sẽ không có đƣợc đội ngũ nhân công ổn định. Từ đó, tính cạnh tranh
cũng nhƣ lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị suy giảm. Do đó, để doanh nghiệp
phát triển, chính bản thân chủ sử dụng lao động sẽ phải đặt ra các quy định về
lao động trong doanh nghiệp, làm sao đảm bảo tính cạnh tranh đối với những
chủ sử dụng lao động khác trong việc tuyển dụng những lao động có chuyên
môn, có kỹ năng và kinh nghiệm. Quan điểm này còn cho rằng, các quy định
về lao động và tiêu chuẩn lao động sẽ gây ra chi phí cho quá trình sản xuất
kinh doanh. Bởi lẽ, để đáp ứng các quy định về lao động ngƣời sử dụng lao
động phải trả thêm chi phí, điều này làm hạn chế tính cạnh tranh của doanh
24
nghiệp. Hơn thế nữa, nếu quy định một tiêu chuẩn lao động chung cho các
quốc gia sẽ làm mất đi lợi thế cạnh tranh của những quốc gia có tiêu chuẩn
lao động thấp. Do vậy, việc ban hành quy định chung về lao động không thúc
đẩy cạnh tranh toàn cầu và không thúc đẩy tự do thƣơng mại. Và vì thế, các
quy định chung về lao động ở cấp quốc tế (Luật Lao động quốc tế) là không
cần thiết.
* Các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
Tổ chức Lao động Quốc tế là một cơ quan đặc biệt của Liên Hiệp Quốc
liên quan đến các vấn đề về lao động. Ra đời năm 1919 sau Hiệp ƣớc
Versailles và là thành viên của Hội Quốc Liên. Sau Chiến tranh thế giới lần
thứ 2 kết thúc và Hội Quốc Liên giải tán, Tổ chức Lao động Quốc tế trở thành
một thành viên của Liên Hiệp Quốc. ILO đƣợc thành lập nhằm mục tiêu thúc
đẩy công bằng xã hội và bảo vệ các quyền lao động và quyền con ngƣời. ILO
xây dựng các tiêu chuẩn lao động quốc tế thông qua hình thức các Công ƣớc
(CW) và Nghị quyết trong đó qui định các tiêu chuẩn tối thiểu về quyền của
ngƣời lao động (ví dụ quyền tự do thƣơng hội, quyền đƣợc tổ chức và đàm
phán tập thể, quyền xoá bỏ lao động cƣỡng bức, không bị phân biệt đối xử tại
nơi làm việc và trong việc làm vv…).
Đến nay, ILO đã thông qua tổng cộng 185 CW và 194 khuyến nghị.
Trong số các CW trên, có 8 CW đƣợc coi là Công ƣớc cơ bản tập trung vào 4
lĩnh vực: Tự do lập hội và tổ chức; Chống lao động cƣỡng bức; xóa bỏ lao
động trẻ em; chống phân biệt đối xử. Các Công ƣớc và Khuyến nghị của ILO
đƣợc coi là cơ sở của Bộ luật lao động quốc tế.
Liên quan đến vấn đề xuất nhập khẩu lao động, tổ chức Lao động Quốc
tế ILO có hai Công ƣớc, là Công ƣớc 97 và Công ƣớc 143. Ngoài ra là một
qui ƣớc rộng lớn hơn, gọi là Công ƣớc Quốc tế 1990. Công ƣớc này qui định
quyền lợi của những lao động ra nƣớc ngoài làm việc cũng nhƣ quyền lợi của
gia đình họ. Các Công ƣớc này, có giá trị quốc tế, đặt ra những tiêu chuẩn tối
thiểu cho các quốc gia ký kết về vấn đề xuất nhập khẩu lao động.
25
Công ƣớc ILO số 97 về Di cƣ để làm việc quy định: Các quốc gia thành
viên của Công ƣớc ILO (số 97) có bổn phận tạo điều kiện dễ dãi cho việc di
cƣ để lao động bằng cách thiết lập và duy trì sự giúp đỡ và dịch vụ thông tin
miễn phí cho những ngƣời lao động di cƣ cũng nhƣ có biện pháp chống lại
những tuyên truyền sai lầm về vấn đề di cƣ và xuất nhập cảnh. Công ƣớc ILO
(số 97) cũng qui định về những dịch vụ y tế thích hợp cho ngƣời lao động di
cƣ và sự chuyển giao tiền thu nhập cũng nhƣ tiền tiết kiệm của họ. Công ƣớc
ILO (số 97) đƣa ra một nguyên tắc quan trọng, đó là trong một số lãnh vực-
thí dụ nhƣ điều kiện làm việc, quyền tự do thành lập hội và an sinh xã hội -
các quốc gia phải đối xử với ngƣời lao động di cƣ không kém thuận lợi hơn
cách đối xử với ngƣời bản xứ.
Công ƣớc ILO số 143 về Ngƣời lao động Di cƣ đƣa ra các biện pháp
phòng chống việc di cƣ lén lút và bất hợp pháp đồng thời khẳng định nghĩa vụ
bảo vệ các nhân quyền căn bản của tất cả mọi ngƣời lao động di cƣ. Công ƣớc
ILO (số 143) qui định quốc gia thành viên phải bảo đảm bằng luật pháp trong
lãnh thổ của họ sự bình đẳng giữa những ngƣời lao đông di cƣ hợp pháp và
các ngƣời lao động bản địa, để cho ngƣời lao động di cƣ hợp pháp đƣợc bình
đẳng về cơ hội và về cách đối xử trong lãnh vực việc làm và nghề nghiệp, an
sinh xã hội, công đoàn, các quyền văn hóa, và các quyền tự do của cá nhân
cũng nhƣ của tập thể những ngƣời lao đông di cƣ hoặc thân nhân của họ.
Công ƣớc ILO (số 143) kêu gọi các quốc gia thành viên cho phép những
ngƣời lao động di cƣ có giấy tờ hợp pháp đƣợc dễ dãi đoàn tụ với gia đình.
Tóm lại, các Công ƣớc này đƣợc xem nhƣ là Hiến chƣơng Quốc tế về
vấn đề di dân toàn cầu, gồm các qui định nhƣ căn bản về sự an toàn và điều
kiện sức khoẻ của công nhân, mức lƣơng tối thiểu và số giờ làm việc tối đa,
bảo vệ quyền lợi nữ công nhân thời kỳ sinh sản, luật về bình đẳng giới và
chống kỳ thị. Các tiêu chuẩn này áp dụng cho mọi ngƣời lao động, kể cả lao
động xuất khẩu, và trong nhiều trƣờng hợp, áp dụng cho cả những lao động
26
đang trong tình trạng bất hợp pháp về cƣ trú. Các quốc gia khi đã tham gia
vào các công ƣớc này đều phải tuân thủ những quy định trong đó. Cụ thể là:
Quốc gia tiếp nhận lao động đến sinh sống và làm việc trên lãnh thổ của mình
chịu trách nhiệm về an sinh của những ngƣời này, cũng nhƣ đối với công dân
của chính mình. Chính quyền của quốc gia nhập khẩu lao động phải chắc
chắn rằng các lao động đến từ nƣớc khác đƣợc đối xử đúng đắn, quyền lợi của
họ đƣợc tôn trọng và an toàn xã hội của họ đƣợc đảm bảo. Chính quyền của
quốc gia xuất khẩu lao động cũng phải tôn trọng những công nhân ngoại quốc
trên xứ mình, để khẳng định rằng họ tôn trọng công ƣớc quốc tế nhƣ đã cam
kết và các đối tác cũng cần phải làm nhƣ vậy.
* Các Quy định của WTO
Tổ chức Thƣơng mại Thế giới thành lập ngày 01/01/1995 với tƣ cách là
thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế - thƣơng mại quốc tế mang
tính toàn cầu. WTO ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả các nguyên tắc, luật lệ của
tổ chức tiền thân đã tồn tại gần 50 năm trƣớc đó là Hiệp định chung về Thuế
quan và Thƣơng mại (GATT). Liên quan đến vấn đề dịch chuyển lao động,
khi có một ngƣời đi qua biên giới một nƣớc vì mục đích làm việc thì có hai
dạng. Dạng thứ nhất là di chuyển lao động trên thị trƣờng lao động. Dạng thứ
hai là di chuyển thể nhân trên thị trƣờng dịch vụ. WTO chỉ điều chỉnh thƣơng
mại dịch vụ và thƣơng mại hàng hoá, nên chỉ điều chỉnh dạng di chuyển thể
nhân. Nhƣ vậy, WTO hoàn toàn không điều chỉnh thị trƣờng lao động của các
nƣớc.
Thƣơng mại dịch vụ trong WTO cũng nhƣ trong các hiệp định thƣơng
mại đƣợc quy định bao gồm 4 thể thức (tiếng Anh gọi là Mode) sau:
- Thể thức 1. Cung cấp qua biên giới: đó là việc nhà cung cấp dịch vụ
bán dịch vụ từ lãnh thổ của nƣớc mình sang lãnh thổ của nƣớc khác. Ở thể
thức này, dịch vụ và tiền thanh toán dịch vụ có đi qua biên giới, còn con
ngƣời (cả ngƣời bán và ngƣời mua dịch vụ) thì không.
- Thể thức 2. Tiêu dùng ngoài lãnh thổ: là thể thức thƣơng mại dịch vụ
mà ngƣời tiêu dùng của một nƣớc này tiêu dùng dịch vụ tại lãnh thổ nƣớc
27
khác. Trong thể thức này, ngƣời bán dịch vụ vẫn ở tại nƣớc mình, chỉ có
ngƣời mua dịch vụ là đi ra nƣớc ngoài. Trong trƣờng hợp này, cũng không có
di chuyển thể nhân.
- Thể thức 3. Hiện diện thƣơng mại: đây là thể thức mà nhà cung cấp
dịch vụ của một nƣớc thiết lập cơ sở cung cấp dịch vụ tại lãnh thổ của nƣớc
khác nhƣ chi nhánh, công ty liên doanh, công ty 100% vốn nƣớc ngoài...
Trong thể thức dịch vụ này, hiện diện thƣơng mại mới là cơ sở cam kết, chứ
không phải là hiện diện thể nhân, nên việc di chuyển thể nhân của hiện diện
thƣơng mại sẽ đƣợc điều chỉnh trong cam kết chung ở Thể thức 4.
- Thể thức 4. Hiện diện thể nhân (hay còn gọi tắt là Thể thức 4 - Mode
4): đây là thể thức thƣơng mại dịch vụ gắn liền với việc con ngƣời di chuyển
từ nƣớc này sang nƣớc khác để cung cấp dịch vụ và việc di chuyển nhƣ vậy
đƣợc gọi là di chuyển thể nhân.
Nhƣ vậy, trong 4 thể thức cung cấp dịch vụ của thƣơng mại quốc tế, chỉ
có Thể thức 4 - thể thức hiện diện thể nhân, và một phần của Thể thức 3 - thể
thức hiện diện thƣơng mại, là liên quan tới việc dịch chuyển lao động. Việc
khó nhất chính là làm thế nào phân biệt đƣợc ai là diện “xuất khẩu lao động”
và ai là diện “di chuyển thể nhân”? Đó chính là công việc của những nhà làm
chính sách.
Một đối tƣợng đƣợc điều chỉnh bởi “luật chơi” về lao động, còn đối
tƣợng kia lại đƣợc điều chỉnh bởi “luật chơi” về thƣơng mại. Hai đối tƣợng
này không thể nhập làm một, vì mục đích, tính chất, cƣơng vị di chuyển qua
biên giới quốc gia của họ là khác nhau, nên cũng không thể có một “luật
chơi” áp dụng cho cả hai đối tƣợng trên.
WTO đƣa ra những tiêu chí nhất định để xác định những ngƣời thuộc
diện “di chuyển thể nhân”, gồm 3 đối tƣợng chính: (i) thứ nhất là những
ngƣời lƣu chuyển trong nội bộ công ty (intra-corporate transferee); (iii) thứ
28
hai là khách kinh doanh (bussiness visitor) và ngƣời chào bán dịch vụ (service
sales person); và (iii) thứ ba là nhà cung ứng dịch vụ theo hợp đồng
(contractual sevices supplier).
Đối tƣợng của nhóm di chuyển trong nội bộ công ty chủ yếu liên quan
tới 3 đối tƣợng là giám đốc điều hành, quản lý và chuyên gia. Đây là nhóm
mà các công ty đa quốc gia, các tập đoàn lớn đặc biệt quan tâm.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, hoạt động của các công ty đa quốc
gia thực sự mang tính toàn cầu: nhà máy đƣợc thành lập ở nhiều quốc gia
khác nhau, nguyên liệu đầu vào có thể đƣợc nhập khẩu từ khắp nơi trên thế
giới, các linh kiện của một cỗ máy có thể đƣợc gia công ở các quốc gia khác
nhau, sản phẩm đƣợc tiêu thụ trên toàn thế giới. Và, nhân sự của công ty cũng
đƣợc luân chuyển giữa những chi nhánh và các công ty con ở các quốc gia.
Bởi vậy, yêu cầu về việc cho phép các nhân sự cao cấp của một công ty
di chuyển giữa các quốc gia trong nội bộ công ty là một yêu cầu thiết yếu để
bảo đảm hoạt động bình thƣờng của công ty đó. Những quy định của một
quốc gia về di chuyển thể nhân là một trong những yếu tố để các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài đánh giá mức độ hấp dẫn của môi trƣờng đầu tƣ của nƣớc đó.
Nhƣ vậy, trong việc hoạch định chính sách quản lý nhà nƣớc đối với
lao động nƣớc ngoài, cái khó đối với các nhà hoạch định chính sách trong bối
cảnh hội nhập là làm sao các quy định chính sách quản lý thị trƣờng lao động
trong nƣớc không làm ảnh hƣởng tới đầu tƣ và thƣơng mại quốc tế và đặc biệt
là phù hợp những “luật chơi” chung của quốc tế.
29
1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI
1.2.1. Nội dung chính sách quản lý nhà nƣớc đối với lao động nƣớc
ngoài
1.2.1.1. Khái niệm và đối tượng của chính sách quản lý nhà nước về
lao động nước ngoài
Có nhiều quan niệm về phạm trù "chính sách". Theo từ điển giải thích
thuật ngữ hành chính: “chính sách là sách lƣợc và kế hoạch cụ thể đạt đƣợc
mục đích nhất định, dựa vào đƣờng lối chính trị chung và tình hình thực tế”.
Kinh tế gia Franc Ellis lại cho rằng: "chính sách đƣợc xác định nhƣ là đƣờng
lối hành động mà chính phủ lựa chọn đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế, kể
cả các mục tiêu mà chính phủ tìm kiếm và sự lựa chọn các phƣơng pháp để
theo đuổi các mục tiêu đó “. Có ngƣời lại cho rằng: có chính sách của nhà
nƣớc, có chính sách của doanh nghiệp. Giáo trình của Đại học Kinh tế quốc
dân nêu: “chính sách là hệ thống quan điểm, chủ trƣơng, biện pháp và quản lý
đƣợc thể chế hoá bằng pháp luật của nhà nƣớc để giải quyết các vấn đề kinh
tế, xã hội của đất nƣớc” [32].
Theo tác giả, chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài là
việc nhà nƣớc xác định mục tiêu và bằng pháp quyền, đƣợc thể hiện thành
văn bản nhằm tác động có tổ chức lên các quan hệ và hoạt động của lao động
nƣớc ngoài nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lao động này
phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Đối tƣợng của quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài là toàn bộ các
chủ thể: nhà nƣớc, doanh nghiệp và tổ chức có ngƣời lao động nƣớc ngoài
làm việc và cá nhân ngƣời lao động nƣớc ngƣời, cùng với các quan hệ giữa
30
các chủ thể đó.
1.2.1.2. Quy trình chính sách quản lý nhà nước đối với người lao động
nước ngoài
- Xây dựng chiến lược mục tiêu quản lý nhà nước về lao động nước ngoài
Nhà nƣớc chủ động xây dựng và thực hiện chiến lƣợc phát triển kinh tế
- xã hội đất nƣớc trong từng thời kỳ, giai đoạn khác nhau, trong đó có chiến
lƣợc định hƣớng, quy hoạch, kế hoạch phát triển và sử dụng nguồn nhân lực,
kể cả nguồn lao động nƣớc ngoài đến làm việc, nhằm hƣớng các hoạt động
kinh tế (nhất là đầu tƣ nƣớc ngoài) vào lĩnh vực ƣu tiên để đạt mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội.
Yêu cầu xây dựng chiến lƣợc định hƣớng, định ra chƣơng trình mục
tiêu, quy hoạch, kế hoạch phát triển và sử dụng lực lƣợng lao động ngƣời
nƣớc ngoài phải bám sát vào chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội, phải phù
hợp với lợi ích quốc gia, ngƣời lao động và của các chủ đầu tƣ, để mọi ngƣời
đƣợc hƣởng lợi lớn hơn trong quá trình phát triển. Hơn nữa, để có đƣợc chiến
lƣợc định hƣớng, quy hoạch, kế hoạch phát triển và sử dụng lao động nƣớc
ngoài một cách khoa học cần phải dự báo chính xác cung - cầu lao động
ngƣời nƣớc ngoài của từng ngành, từng địa phƣơng và cả nƣớc sát với yêu
cầu thực tiễn. Để tính toán số lƣợng và các luồng lao động nƣớc ngoài, các
nƣớc châu Âu sử dụng những công cụ và phƣơng pháp khác nhau ví dụ nhƣ
điều tra dân số, đăng ký nhân khẩu, điều tra lực lƣợng lao động, giấy phép lao
động hoặc visa tạm thời, các điều tra chuyên biệt và các nghiên cứu điển hình.
Các số liệu đối với luồng nhập cƣ của nhân công kiều dân nƣớc ngoài có thể
rất khác nhau tuỳ thuộc theo các biện pháp đƣợc sử dụng và tiến hành riêng
rẽ, chúng thƣờng không đƣa ra đƣợc những thông tin thích hợp về số lƣợng và
các luồng di cƣ nhân lực kỹ năng cao.
Thị trƣờng lao động quốc tế và cũng nhƣ của mọi quốc gia luôn có sự
biến động, đôi khi có sự thay đổi lớn do tác động của kinh tế - xã hội, vì vậy
trong quá trình xây dựng và thực hiện chiến lƣợc định hƣớng cần không
31
ngừng nghiên cứu, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và xu thế
vận động của nền kinh tế.
- Ban hành hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao động nước
ngoài phù hợp với các qui định của quốc tế.
Thông qua hệ thống văn bản pháp quy của nhà nƣớc, Chính phủ các
nƣớc quy định cụ thể việc tuyển dụng và quản lý lao động nƣớc ngoài làm
việc tại nƣớc mình; trình tự, thủ tục cấp giấy phép lao động và việc sử dụng
giấy phép lao động; trách nhiệm, nghĩa vụ của lao động ngƣời nƣớc ngoài,
ngƣời sử dụng lao động và các cơ quan nhà nƣớc trong việc tuyển dụng và
quản lý ngƣời nƣớc ngoài đến làm việc. Đối tƣợng chịu sự quản lý nhà nƣớc
trong lĩnh vực này là lao động ngƣời nƣớc ngoài và các doanh nghiệp, tổ chức
có sử dụng lao động ngƣời nƣớc ngoài.
- Tổ chức thực hiện chiến lược mục tiêu, pháp luật, chính sách quản lý
lao động nước ngoài
Tổ chức thực hiện chính sách chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài là
quá trình biến chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các
hoạt động có tổ chức trong bộ máy chính quyền nhằm hiện thực các mục tiêu
chính sách đã đề ra. Quá trình thực thi có ý nghĩa quyết định đối với sự
thành công hay thất bại của chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài. Quá
trình thực thi cần tính toán đầy đủ đến các yếu tố khách quan, bối cảnh thực
tế, tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp sử dụng lao động nƣớc ngoài, lao
động nƣớc ngoài; bộ máy và cán bộ làm nhiệm vụ thực thi chính sách quản
lý, thủ tục hành chính và kinh phí tổ chức thực hiện...
Quá trình tổ chức thực thi cần đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực
thi có hiệu quả chính sách: Trƣớc tiên cần có chính sách đúng, điều này chỉ
có thể đạt đƣợc khi làm tốt quá trình hoạch định chính sách. Sự hợp lý, khoa
học (tôn trọng quy luật khách quan, xác định đúng các vấn đề, đối tƣợng
chính sách, xác định đƣợc mục tiêu ƣu tiên, có giải pháp, công cụ, chƣơng
32
trình hành động). Sau đó phải có một nền hành chính có hiệu lực, có khả năng
thích nghi cao và trong sạch; sự quyết tâm của lãnh đạo; niềm tin và ủng hộ
của doanh nghiệp và ngƣời lao động nƣớc ngoài,... Quá trình tổ chức thực thi
chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài cũng tuân thủ các giai đoạn: chuẩn bị
triển khai, chỉ đạo thực hiện, kiểm tra và điều chỉnh, đồng thời lựa chọn các
hình thức và phƣơng pháp thực thi phù hợp, hiệu quả.
- Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách
Nhà nƣớc tiến hành, thực hiện công tác kiểm tra giám sát việc thực
hiện chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài thông qua đối tƣợng quản lý
trực tiếp của lao động nƣớc ngoài là chủ lao động. Các cơ quan nhà nƣớc có
trách nhiệm xây dựng kế hoạch tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các
quy định của pháp luật về tuyển dụng và quản lý lao động là ngƣời nƣớc
ngoài. Kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm đƣợc thông báo cho tất cả các
cơ quan liên quan để theo dõi và phối hợp thực hiện.
1.2.1.3. Nội dung chính sách quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài
Chính sách xuất nhập cảnh và cư trú
Chính sách xuất nhập cảnh và cƣ trú của một quốc gia có thể hiểu là
một hệ thống các quy định và biện pháp nhằm điều tiết việc di chuyển qua
biên giới của ngƣời dân trong từng thời kỳ nhằm đạt đƣợc những mục tiêu
nhất định.
Mỗi quốc gia khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu lao động của nƣớc mình
để điều tiết dòng lao động di cƣ thông qua chính sách xuất nhập cƣ. Hệ thống
kiểm soát xuất nhập cƣ gồm có việc cấp phép, điều tra, thị thực, chứng minh
thƣ.v.v...
Phần lớn các quốc gia nhƣ Mỹ, Canada, Hàn Quốc nhập khẩu lao động
qua hình thức cấp thị thực xuất nhập cảnh. Qua hệ thống thị thực, các nƣớc
này hạn chế sự di chuyển và những yêu cầu mang tính tập thể, đồng thời điều
chỉnh việc đối xử khác biệt giữa các quốc gia và ngƣời lao động nƣớc ngoài.
33
Pháp và Đức thì ngƣợc lại, do các quốc gia này đều tham gia vào liên minh
Châu Âu với Chính sách di cƣ thống nhất theo Hiệp định Sen-ghen
(Schengen) (theo đó các công dân EU đƣợc tự do sinh sống và làm việc ở các
nƣớc thành viên trong khối) nên không dễ kiểm soát việc cấp thị thực. Vì vậy
chính sách của các quốc gia này là phân biệt quyền làm việc với quyền sinh
sống. Lao động nƣớc ngoài có thể vào Pháp và Đức nhƣng phải đƣợc Chính
phủ cấp phép để định cƣ hoặc làm việc trong một khoảng thời gian nhất định.
Nếu không đƣợc phép, những ngƣời này sẽ bị đối xử khác biệt.
Các quốc gia Mỹ, Canada, Úc, Pháp, Đức, Hà Lan.v.v...chấp nhận hoặc có
chủ trƣơng chấp nhận ngƣời nhập cƣ nƣớc ngoài có chính sách phân biệt
ngƣời nhập cƣ với lao động di cƣ tạm thời. Trong khi họ đối xử với ngƣời
nhập cƣ nhƣ đối với ngƣời dân bản xứ thì với lao động di cƣ tạm thời họ lại
áp dụng một số khác biệt qua các quy định về pháp luật nhƣ: luật di cƣ,
chƣơng trình cấp phép lao động.
Các quốc không dễ chấp nhận dân nhập cƣ nhƣ Đức, Nhật, Hàn Quốc
nhƣng lại chấp nhận lao động nhập khẩu, những ngƣời sẽ rời quốc gia này sau
một khoảng thời gian làm việc. Chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài của
các quốc gia này đƣợc đƣa vào trong luật xuất nhập cƣ của các quốc gia.
Việc kiểm soát luồng ra vào đối với dân di cƣ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc xác định số lƣợng, chất lƣợng lao động nhập cƣ. Các quốc gia
muốn tăng lƣợng lao động nhập cƣ có thể áp dụng chính sách miễn thị thực
(nhƣ đối với các quốc gia thuộc liên minh Châu Âu), hay tạo điều kiện dễ
dàng trong cấp thị thực (nhƣ Singapore). Ngƣợc lại, các nƣớc có thể hạn chế
lao động nhập khẩu bằng cách kiểm soát hạn ngạch, cấp thẻ cƣ trú (thẻ xanh
của Mỹ), áp dụng chƣơng trình cấp phép lao động (EPS-nhƣ Hàn Quốc đang
áp dụng). Ngoài ra, các quốc gia cũng có thể thu hút nhân tài, nguồn lao động
chất lƣợng cao nhƣ chính sách “nhập cƣ có lựa chọn” ở Châu Âu, thẻ thƣờng
34
trú ở Singapore hay hệ thống “Thẻ vàng” của Hàn Quốc”.
Chính sách thị trường lao động
Phân tích thị trƣờng lao động là một nội dung quan trọng trong chính
sách quản lý lao động nƣớc ngoài. Các quốc gia tiếp nhận lao động rất cần
thông tin chính xác về thị trƣờng lao động của họ, bởi vì hơn ai hết, họ là
ngƣời biết rõ ngƣời lao động di cƣ thích và có xu hƣớng lựa chọn khu vực
làm việc nào trong tƣơng lai.
Trong nhiều trƣờng hợp, các quốc gia tiếp nhận lao động thƣờng chỉ
dựa vào cầu của doanh nghiệp tƣ nhân đối với lao động di cƣ. Tuy vậy, nếu
các quốc gia tiếp nhận lao động hoạt động lâu dài, có tính chiến lƣợc hơn và
muốn có chính sách về lao động di cƣ rõ ràng và ổn định hơn thì họ cần đi sâu
phân tích thƣờng xuyên thị trƣờng lao động – theo cơ cấu ngành, cơ cấu nghề
và theo cả trình độ thành độ thành thạo hay kỹ năng trong công việc, nhằm
tiếp cận tốt hơn vấn đề cầu về lao động di cƣ và đáp ứng những yêu cầu của
lao động di cƣ.
Cầu về lao động di cƣ trên thị trƣờng chịu tác động bởi ba phát minh
lớn sau: một là, sự phát triển của công nghệ thông tin (IT); hai là, việc tổ chức
sắp xếp lại công việc và ba là, sự ra đời của các hàng hóa, dịch vụ mới. 3 nhân
tố này góp phần tạo nên những thay đổi kép về mặt kỹ thuật. Các công ty sử
dụng 3 phát minh trên có xu hƣớng sử dụng lao động chất lƣợng cao nhiều
hơn, đặc biệt là lao động chất lƣợng cao ngƣời nƣớc ngoài, ví dụ nhƣ Mỹ,
Nhật Bản, Hàn Quốc,...
Theo kết quả nghiên cứu thị trƣờng việc làm toàn cầu mới nhất do tập
đoàn Manpower công bố, năm 2011, ở châu Âu, hoạt động tuyển dụng lao
động ngoại nhập mạnh nhất sẽ diễn ra ở Na Uy, Thụy Điển và Đức. Trong đó,
Đức là một trong những điểm sáng của châu Âu, với 16% số doanh nghiệp
cho biết sẽ thuê thêm nhân viên trong năm 2011. Tại châu Á - Thái Bình
Dƣơng, những nơi sẽ thuê thêm nhiều nhân viên nhất là Ấn Độ, Singapore,
Đài Loan và Úc.
35
Chính sách Đầu tư, thương mại dịch vụ
Nguồn vốn nƣớc ngoài đầu tƣ trực tiếp ( FDI) có vai trò then chốt để
thực hiện công nghiệp hóa, thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế của mọi quốc gia,
đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát triển. Theo nhiều cuộc khảo
sát, các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Singapore, Hàn Quốc, Thái
Lan là các quốc gia liên tục đứng vị trí cao trong bảng xếp hạng những
quốc gia thu hút vốn FDI đứng đầu khu vực Châu Á. Bí quyết của các quốc
gia này là:
- Cải thiện môi trƣờng pháp lý cho hoạt động đầu tƣ: Môi trƣờng pháp
lý có vai trò quan trọng trong việc thu hút các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Thể chế
chính trị ổn định, hệ thống pháp luật đồng bộ, thủ tục đầu tƣ đơn giản và
nhiều chính sách khuyến khích, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tƣ là
những bí quyết của các nƣớc châu Á thành công nhất.
- Đơn giản hóa thủ tục, quy trình đầu tƣ: Thủ tục đầu tƣ ở các nƣớc này
đều là thủ tục một cửa đơn giản, với những hƣớng dẫn cụ thể tạo thuận lợi
cho các nhà đầu tƣ. Ở Thái Lan có Luật xúc tiến thƣơng mại quy định rõ ràng
cơ quan nào, ngành nào có nhiệm vụ gì trong việc xúc tiến đầu tƣ. Trung
Quốc thực hiện phân cấp, phân quyền, nâng cao quyền hạn nhiều hơn cho các
tỉnh, thành phố, khu tự trị trong quản lý nhà nƣớc đối với doanh nghiệp FDI.
Nhà nƣớc cho phép mỗi tỉnh, thành phố, khu tự trị có những đặc quyền trong
quản lý, phê chuẩn dự án đầu tƣ..
- Công khai các kế hoạch phát triển kinh tế: Thái Lan thực hiện tốt
công tác quy hoạch và công khai các kế hoạch phát triển đất nƣớc từng giai
đoạn, ngắn và trung hạn. Trung Quốc cũng công bố rộng rãi và tập trung
hƣớng dẫn đầu tƣ nƣớc ngoài vào các ngành đƣợc khuyến khích phát triển.
- Hệ thống pháp luật đồng bộ, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tƣ: Hàn
Quốc chú trọng xây dựng hệ thống luật đồng bộ, đảm bảo cho nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài đƣợc hƣởng mức lợi nhuận thỏa đáng. Trung Quốc thể hiện sự
36
quan tâm đến những quyền lợi của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài bằng cách thƣờng
xuyên bổ sung, sửa đổi Luật đầu tƣ nƣớc ngoài, đảm bảo tính thực thi nghiêm
túc. Những hoạt động thanh tra trái phép, thu lệ phí hay áp đặt thuế sai quy
định đối với các doanh nghiệp nƣớc ngoài bị xử lý nghiêm khắc. Nhiều quy
định đƣợc xóa bỏ để phù hợp với pháp luật kinh doanh quốc tế nhƣ tỷ lệ nội
địa hóa, cân đối ngoại tệ. Phạm vi ngành nghề đƣợc phép đầu tƣ đƣợc mở
rộng, từ 186 lên đến 262 khoản mục đƣợc đầu tƣ.
- Giảm thuế, ƣu đãi tài chính tiền tệ: Thu nhiều nhất lợi nhuận từ dự án
luôn là mục đích hàng đầu của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Vì vậy, nhiều nƣớc
châu Á đã có những chính sách tài chính hấp dẫn cho các nhà đầu tƣ nhƣ
giảm thuế, ƣu đãi tiền tệ, cho vay ngoại tệ...nhằm thu hút nhiều nhất nguồn
vốn FDI vào các nƣớc này.
+ Cắt giảm thuế: Hầu hết các nƣớc châu Á đều đƣa ra những chính sách
cắt giảm thuế hấp dẫn đối với các dự án đầu tƣ nƣớc ngoài. Hàn Quốc miễn
giảm thuế 7 năm với doanh nghiệp FDI có vốn trên 50 triệu USD. Thái Lan
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ 3 đến 8 năm, miễn thuế nhập khẩu 90%
đối với nguyên liệu, 50% đối với máy móc mà Thái Lan chƣa sản xuất
đƣợc...Ở Trung Quốc, các dự án đầu tƣ vào đặc khu kinh tế, khu công nghệ
cao sẽ đƣợc ƣu đãi về thuế, các dự án đầu tƣ vào các vùng kinh tế khó khăn
nhƣ miền Tây, miền Trung - sẽ đƣợc thuê đất miễn phí, miễn thuê thu nhập
trong vòng 10 năm...Indonesia miễn thuế nhập khẩu, thuế doanh thu đối với
hàng nhập khẩu dùng cho mục đích đầu tƣ...
+ Cho phép nhà đầu tƣ hoạt động trên thị trƣờng tài chính: Hàn quốc
cho phép nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia các hoạt động của thị trƣờng chứng
khoán, thị trƣờng bất động sản, sát nhập và mua lại các công ty trong nƣớc,
giao dịch ngoại hối...Trung Quốc mở rộng các quy định về ngoại hối, vay
ngoại tệ: Doanh nghiệp FDI đƣợc cấp giấy chứng nhận quản lý ngoại hối, mở
tài khoản ngoại tệ, vay vốn từ các ngân hàng Trung quốc nếu đƣợc bảo lãnh
bởi các cổ động nƣớc ngoài. Ngoài ra, nƣớc này còn cho phép nhà đầu tƣ
37
nƣớc ngoài đƣợc mua cổ phần của doanh nghiệp nhà nƣớc nhƣ các ngân hàng
(ngoại trừ các doanh nghiệp đặc biệt quan trọng đến kinh tế và an ninh quốc gia).
+ Các chính sách ƣu đãi về dịch vụ: Thái Lan giảm giá thuê nhà đất,
văn phòng, cƣớc viễn thông, vận tải...Giá dịch vụ ở Thái Lan thuộc loại hấp
dẫn nhất với việc thu hút FDI. Sigapore lại tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời
thân của các nhà đầu tƣ nhập cƣ và ổn định cuộc sống tại nƣớc này.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận tiện cho việc
buôn bán và giao lƣu quốc tế luôn là yếu tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tƣ.
Các nƣớc Châu Á nhƣ Thái Lan , Trung Quốc, Hàn Quốc đã thấy đƣợc
tiềm năng thu hút nguồn vốn FDI từ yếu tố này. Chính vì vậy, họ đã tập trung
xây dựng cơ sở hạ tầng: nhà xƣởng, đƣờng giao thông, viễn thông, dịch
vụ...nhằm tạo môi trƣờng hấp dẫn và dễ dàng cho các nhà đầu tƣ khi hoạt
động trên đất nƣớc mình. Thái Lan chú trọng đầu tƣ cơ sở hạ tầng: hệ thống
đƣờng bộ, đƣờng sắt, hệ thống sân bay, bến cảng, khu công nghiệp, kho bãi
hiện đại, thuận lợi cho phát triển kinh tế và du lịch. Nƣớc này cũng xây dựng
thành công hệ thống viễn thông, bƣu điện, mạng internet thông suốt cả nƣớc
phục vụ cho hoạt động kinh doanh quốc tế.
- Đặc khu kinh tế Thành Đô của Trung Quốc và thủ đô Bangkok của
Thái Lan. Trung Quốc chú trọng xây dựng nhiều đặc khu kinh tế và các thành
phố duyên hải. Tại các đặc khu này, Trung Quốc tập trung xây dựng cơ sở hạ
tầng, phát triển đô thị, nhà ở, trƣờng học, bệnh viện, trung tâm công cộng.
Nhà nƣớc cho phép điạ phƣơng tự khai thác mọi khả năng để có vốn đầu tƣ cơ
sở hạ tầng, để khuyến khích nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia vào quá trình tái
cơ cấu, đổi mới doanh nghiệp nhà nƣớc.
- Phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao: Một trong những tiêu chí
để các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài quan tâm là thị trƣờng lao động ở nƣớc sở tại.
Thị trƣờng lao động của Châu Á đặc biệt hấp dẫn bởi tỷ lệ lao động trẻ, giá
thấp. Tuy nhiên, phát triển nguồn lao động có trình độ cao mới chính là bí
38
quyết thu hút đầu tƣ của các nƣớc châu Á thành công nhất.
+ Coi trọng đầu tƣ cho giáo dục: Hàn Quốc thực hiện hoạt động dự báo
nhu cầu sử dụng nguồn lao động nhằm chủ động trong công tác đào tạo lao
động, đáp ứng nhu cầu lao động cho thị trƣờng. Nƣớc này đã trang bị miễn
phí máy tính cho mỗi lớp học, miễn phí dạy tin học cho mọi đối tƣợng. Thái
Lan có tới 21% sinh viên tốt nghiệp đại học các ngành toán, máy tính. Ấn Độ
và Trung Quốc đặc biệt chú trọng giáo dục đại học, số ngƣời tốt nghiệp đại
học ở hai nƣớc này chỉ sau Mỹ. Đặc biệt, Ấn Độ còn đƣợc coi là cái nôi của
nguồn nhân lực có trình độ cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
+ Chính sách thu hút nhân tài: Không chỉ phát triển nguồn nhân lực
trong nƣớc, Singapore, quốc gia có dân số ít ỏi còn thực hiện nhiều chính sách
thu hút nhân tài từ bên ngoài. Quốc đảo nhỏ bé này đƣợc coi là nơi có chính
sách thu hút nhân tài bài bản nhất thế giới. Các chính sách đột phá nhƣ cho
phép ngƣời nƣớc ngoài tham gia vào bộ máy nhà nƣớc, nhập cƣ dễ dàng, đãi
ngộ xứng đáng theo trình độ...khiến nƣớc này có đƣợc một đội ngũ lao động
cao cấp hàng đầu thế giới, trở thành địa điểm hấp dẫn cho các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài, đặc biệt là các ngành nghề đòi hỏi nhiều trí tuệ, chất xám.
1.2.2. Các tiêu chí đánh giá chính sách quản lý Nhà nƣớc đối với lao
động nƣớc ngoài
1.2.2.1. Tính phù hợp
Sự phù hợp của chính sách đƣợc thể hiện ở các vấn đề khi thực thi
đƣợc giải quyết đến đâu? ở mức độ nào? Chính sách quản lý nhà nƣớc đối với
lao động nƣớc ngoài gồm những nội dung cơ bản nhƣ chính sách nhập cƣ, thị
trƣờng lao động và đầu tƣ thƣơng mại vụ. Tính phù hợp thể hiện là chính sách
nhập cƣ phải đƣợc sử dụng với mục đích gì, thu hút lao động nƣớc ngoài nhƣ
thế nào phải căn cứ vào tình hình thực tế trong nƣớc. Hay nhƣ trong đầu tƣ
thƣơng mại, quy định về thu hút FDI thế nào, có gây khó khăn cho việc thu
hút lao động nƣớc ngoài không?
39
Ở nhiều quốc gia, thực tế áp dụng chính sách quản lý nhà nƣớc đối với
lao động nƣớc ngoài còn có những hạn chế, một phần là chƣa có đầy đủ hệ
thống chính sách để hỗ trợ, chƣa nhận thức đầy đủ mục tiêu đặt ra mang tính
chiến lƣợc, công tác quản lý còn thiếu ăn khớp bên cạnh việc nhân lực thực
thi chính sách đôi khi còn hiểu chƣa đúng về chính sách.
Việc đánh giá tổng hợp tính phù hợp của Chính sách quản lý nhà nƣớc
đối với lao động nƣớc ngoài phải trên cơ sở tổng hợp nội dung của chính sách
gắn với từng chuỗi kết quả của quá trình thực thi, điều này phải dựa vào khâu
hoạch định chính sách và trong hoàn cảnh cụ thể thực thi chính sách.
1.2.2.2 Tính khả thi
Đánh giá chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động ngƣời nƣớc ngoài
dựa vào tiêu chí trên đảm bảo các yếu tố công bằng khác trong sử dụng nguồn
lao động xã hội, vì nếu chính sách ƣu đãi đối với lao động nƣớc ngoài áp trên
diện rộng thì vô tình có tác động đến hiệu quả khi sử dụng các nguồn lao
động xã hội khác. Trong thực tế, khi xây dựng chính sách quản lý nhà nƣớc
về lao động nƣớc ngoài, các chính phủ đã cố gắng tạo ra những cơ hội ngang
nhau đối với những nhóm ngƣời lao động trong xã hội, để đảm bảo tạo ra
nguồn lao động hợp lý cũng nhƣ sử dụng hiệu quả khi xã hội đòi hỏi, việc xác
định các đối tƣợng ƣu tiên, nhũng nội dung trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, với một nền kinh tế mở thì việc ra đời một chính sách thích đáng, bền
vững là rất khó.
Đánh giá chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài cũng
tính tới mối quan hệ tƣơng quan giữa mục tiêu chính trị, kinh tế và xã hội cụ
thể trong giai đoạn đổi mới ở từng nƣớc, phù hợp với quá trình hội nhập kinh
tế mà những áp lực về nguồn nhân lực chất lƣợng mà từng nƣớc cam kết
trong lộ trình hội nhập, sự ra đời các chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động
nƣớc ngoài phải đảm bảo hợp với quy luật của sự phát triển, phải dựa vào tiến
40
trình chuyển giao, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật của đất nƣớc, phải
hƣớng tới các mục tiêu tăng trƣởng kinh tế để tạo ra cơ sở vật chất, phúc lợi
xã hội, tiếp tục thực thi bền vững các chính sách khác.
Để kết quả thu đƣợc nhƣ mong muốn khi đánh giá chính sách quản lý
nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài, nhất là tính bền vững, thích đáng thì mỗi
nội dung khi xây dựng chính sách trong mỗi giai đoạn phát triển phải xác định
đầy đủ mức độ hợp lý giữa tăng trƣởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã
hội, sự phù hợp, hỗ trợ cho nhau càng cao thì hiệu quả để đạt đƣợc các mục
tiêu càng lớn, bản thân mỗi một chính sách cũng hàm chứa đầy đủ các nội
dung và ý nghĩa của chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
1.2.2.3. Tính hiệu lực
Hiệu lực của chính sách phản ánh tác động ảnh hƣởng của chính sách
trong quá trình thực thi, khả năng duy trì hay biến đổi trên thực tế so với
mong muốn của nhà nƣớc.
Đánh giá hiệu lực của chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc
ngoài nhằm đƣa ra kết luận về các kết quả của từng nội dung của chính sách
có giá trị hay không? Ví dụ, đất nƣớc thu hút đƣợc bao nhiêu lao động nƣớc
ngoài, tập trung trong những ngành gì?trình độ ra sao? Đánh giá hiệu lực của
chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài yêu cầu phải tiến hành
bằng nhiều phƣơng pháp, cần phải có nhiều thông tin cho các nhà hoạch định
chính sách.
Hiệu lực của chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài bao
hàm cả hiệu lực lý thuyết và hiệu lực thực tế. Đánh giá chính sách phải từ
quan điểm khách quan trong khi phân tích các yếu tố thực thi chính sách, các
phƣơng án đƣợc lự chọn khi áp dụng, đánh giá, phán xét nghiêm túc tổ chức,
hình thức triển khai chính sách. Chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động
nƣớc ngoài đƣợc kết luận là đúng đắn khi đánh giá thể hiện những giá trị tổng
hợp của cả hiệu lực lý thuyết bao gồm các văn bản từ luật đến các nghị định,
quyết định của Chính phủ, các thông tƣ, quyết định của Bộ trƣởng và hiệu lực
thực tế
41
1.2.2.4. Tính hiệu quả
Hiệu quả của chính sách thƣờng đƣợc xác định từ hiệu quả tổng hợp cả
về kinh tế và xã hội, để xác định tƣơng quan định lƣợng giữa chi phí thực thi
chính sách bỏ ra và lợi ích thu lại thì hiệu quả phải tính thêm những tác hại
phụ khi thực thi chính sách, ví dụ nhƣ khi đánh giá hiệu quả của chính sách
quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài tại một ngành, lĩnh vực thì phải tính
toàn bộ những ƣu điểm của nguồn nhân lực này (giá trị đo lƣờng) nhƣ trình
độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, tác phong công nghiệp, áp lực làm thêm
giờ,... trừ đi trị giá những tác hại có thể xảy ra (nhƣ đình công, lãn công, cơ
chế ƣu đãi,...) trên tổng các hao phí trong quá trình hoạt động chính sách
(tuyển chọn, đào tạo, xúc tiến việc làm,....)
Trong quá trình thực thi chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc
ngoài, do có nhiều nội dung của nhiều chỉ tiêu không thể lƣợng hóa đƣợc vì
các nội dung này mang tính xã hội cao bên cạnh nền kinh tế thị trƣờng, do
vậy hiệu quả vừa đƣợc xác định theo định tính (hiệu quả xã hội) vừa đƣợc xác
định theo định lƣợng (hiệu quả kinh tế). Hiệu quả theo định lƣợng đƣợc đánh
giá cao khi nó phù hợp với hiệu quả của các chính sách khác, thậm chí nó bổ
sung cho nhau để tăng thêm lợi ích chung cho xã hội.
Đánh giá hiệu quả chính sách sử dụng quản lý nhà nƣớc về lao động
nƣớc ngoài thƣờng đƣợc các nhà hoạch định tách làm 2 bộ phận:
- Hiệu quả xã hội: số liệu đƣa ra gắn với chỉ tiêu của chiến lƣợc phát
triển kinh tế-xã hội, có tác dụng bổ trợ cho một số các chính sách xã hội khác.
- Hiệu quả kinh tế: tạo ra giá trị kinh tế bao nhiêu, mang lại nguồn thu
42
bao nhiêu trong GDP ...
CHƢƠNG 2
CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI
CỦA SINGAPORE
2.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẤT NƢỚC SINGAPORE
2.1.1. Vị trí địa lý – Điều kiện tự nhiên – Lịch sử hình thành của
Singapore
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Nguồn: http://www.mofahcm.gov.vn/mofahcm/tintuc_sk/tulieu/nr060504090947/map%20Singapore
Hình2.1: Vị trí địa lý của Singapore
Cộng hòa Singapore là quốc gia nhỏ nhất của Đông Nam Á với diện tích 692,7 km2 bao gồm 54 đảo trong đó có 20 đảo có ngƣời sinh sống.
Singapore nằm phía Nam của bán đảo Malaysia, phía Nam bang Johor của
Malaysia và phía Bắc đảo Riau của Indonesia. Singapore nằm cách xích đạo
chỉ 137 km về hƣớng Bắc.
Singapore đã mở mang lãnh thổ bằng đất lấy từ những ngọn đồi, đáy
biển và những nƣớc lân cận. Nhờ đó, diện tích đất của Singapore đã tăng từ
581,5 km² ở thập niên 1960 lên 692,7 km² ngày nay (xấp xỉ diện tích huyện
43
Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh), và có thể sẽ tăng thêm 100 km² nữa đến
năm 2030.
Điều kiện tự nhiên:
Singapore có khí hậu nhiệt đới ẩm với các mùa không phân biệt rõ rệt.
Đặc điểm của loại khí hậu này là nhiệt độ và áp suất ổn định, độ ẩm cao và
mƣa nhiều. Nhiệt độ thay đổi trong khoảng 22°C đến 34°C (72°–93°F). Trung
bình, độ ẩm tƣơng đối khoảng 90% vào buổi sáng và 60% vào buổi chiều.
Trong những trận mƣa lớn kéo dài, độ ẩm tƣơng đối thƣờng đạt 100%. Nhiệt
độ cao nhất và thấp nhất đã từng xuất hiện là 18,4°C (65,1°F) và 37,8°C
(100,0°F).
Sự đô thị hóa đã làm biến mất nhiều cánh rừng mƣa nhiệt đới một thời,
hiện nay chỉ còn lại một trong số đó là Khu Bảo tồn Thiên nhiên Bukit Timah.
Tuy nhiên, nhiều công viên đã đƣợc gìn giữ với sự can thiệp của con ngƣời, ví
dụ nhƣ Vƣờn Thực vật Quốc gia. Không có nƣớc ngọt từ sông và hồ, nguồn
cung cấp nƣớc chủ yếu của Singapore là từ những trận mƣa rào đƣợc giữ lại
trong những hồ chứa hoặc lƣu vực sông. Mƣa rào cung cấp khoảng 50%
lƣợng nƣớc, phần còn lại đƣợc nhập khẩu từ Malaysia hoặc lấy từ nƣớc tái
chế - một loại nƣớc có đƣợc sau quá trình khử muối. Nhiều nhà máy sản xuất
nƣớc tái chế đang đƣợc đề xuất và xây dựng nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào
việc nhập khẩu.
Cũng giống nhƣ Nhật Bản, Singapore hầu nhƣ không có nhiều tài
nguyên thiên nhiên. Mọi nguyên liệu cho sản xuất đều phải nhập từ bên ngoài.
Trên thực tế Singapore chỉ có ít than chì, nham thạch, đất sét, không có nƣớc
ngọt, đất canh tác hẹp chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả. Do vậy
lƣơng thực không phát triển, hàng năm phải nhập lƣơng thực, thực phẩm để
đáp ứng nhu cầu trong nƣớc.
Lịch sử hình thành và phát triển đất nước Singapore
Vào thế kỉ thứ 14, hòn đảo nhỏ bé nhƣng có vị trí chiến lƣợc này đã có
44
tên mới. Theo truyền thuyết, chàng Sang Nila Utama, một hoàng tử đến từ xứ
Palembang (thủ đô của Srivijaya) trong chuyến đi săn đã gặp một con vật lạ
mà chàng chƣa bao giờ nhìn thấy. Coi đó là điềm lành, chàng liền đặt cho đất
nƣớc nơi xuất hiện con vật lạ cái tên là “Đất nƣớc Sƣ tử” hay Singapura, mà
theo tiếng Sanskrit thì “simha” có nghĩa là sƣ tử, còn “pura” có nghĩa là đất
nƣớc. Vào thời gian đó đất nƣớc này đƣợc trị vì bởi 5 vị vua của Singapura cổ
đại. Nằm ở vị trí địa đầu của bán đảo Mã Lai, là điểm quy tụ tự nhiên các
dòng hải lƣu, đất nƣớc này đã đóng vai trò là một khu buôn bán nhộn nhịp với
vô số các loại tàu buôn trên biển, từ các ghe thuyền của ngƣời Trung Quốc,
tàu lớn của ngƣời Ấn Độ, thuyền buồm của ngƣời Ả Rập, tàu chiến của ngƣời
Bồ Đào Nha cho đến những thuyền buồm dọc của ngƣời Bugis.
Vào năm 1832, Singapore đã trở thành trung tâm hành chính của Khu
thuộc địa Anh quốc dọc eo biển Malacca bao gồm Penang, Malacca và
Singapore. Cùng với việc khai thông kênh đào Suez vào năm 1869 cũng nhƣ
việc phát minh ra máy điện báo và tàu thủy chạy bằng hơi nƣớc, Singapore
ngày càng trở nên cực kì quan trọng với vai trò là cửa ngõ thông thƣơng nối
liền phƣơng Đông với phƣơng Tây. Cho đến năm 1860 thì dân số của đất
nƣớc thịnh vƣợng này từ con số chỉ 150 ngƣời vào năm 1819 đã tăng lên
thành 80.792 ngƣời, chủ yếu là ngƣời Hoa, Ấn Độ và Mã Lai.
Tuy nhiên, vào Thế chiến thứ II, cuộc sống hòa bình và thịnh vƣợng
của mảnh đất này đã bị hủy hoại, mở màn bằng cuộc tấn công bằng máy bay
của quân Nhật vào ngày 8/12/1941. Và khi đƣợc nhận thấy là một pháo đài vô
cùng vững chắc có tầm ảnh hƣởng chiến lƣợc, Singapore đã bị quân Nhật xâm
chiếm vào ngày 15/2/1942. Singapore đã bị Nhật chiếm đóng trong vòng 3
năm rƣỡi, khoảng thời gian đánh dấu sự đàn áp dã man với vô vàn mạng
ngƣời bị cƣớp đi. Khi quân Nhật đầu hàng vào năm 1945, mảnh đất này đã rơi
vào tay Chính quyền Quân sự Anh cho đến khi Khu thuộc địa Anh quốc bị
tách ra thành Penang, Melaka và Singapore. Vào tháng 3/1946, Singapore trở
thành thuộc địa của Vƣơng quốc Anh chƣa đƣợc độc lập.
45
Vào năm 1959, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc đã hình thành chế
độ tự trị ở quốc gia này và cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra. Đảng Hành
động Nhân dân (PAP) đã giành đƣợc 43 ghế và Ông Lý Quang Diệu trở thành
thủ tƣớng đầu tiên của Singapore. Vào năm 1961, Singapore sáp nhập vào
Malaya và hợp nhất với Liên bang Malaya, Sarawak và Bắc Borneo thành
nƣớc Malaysia vào năm 1963. Tuy nhiên, cuộc hợp nhất không đạt đƣợc
nhiều thành công và gần 2 năm sau đó, cụ thể là vào ngày 9/8/1965,
Singapore đã tách khỏi Malaysia và trở thành một quốc gia độc lập với nền dân
chủ có chủ quyền lãnh thổ. Vào ngày 22/12/1965, Singapore cuối cùng đã chính
thức trở thành một nƣớc Cộng hòa độc lập.
2.1.2. Một số đặc điểm của nền kinh tế Singapore
Singapore là quốc gia không có nguồn tài nguyên đáng kể nào ngoài
cảng biển nƣớc sâu, nhƣng bù lại Singapore lại có vị trí địa lý thuận lợi, mang
tính chiến lƣợc. Cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống chính trị ổn định, chính
sách của chính phủ đã khuyến khích các doanh nghiệp tƣ nhân và đầu tƣ nƣớc
ngoài vào Singapore. Lực lƣợng lao động siêng năng, cần cù, quan hệ lao
động hài hòa đã tạo điều kiện cho Singapore trở thành một trung tâm thƣơng
mại và tài chính quốc tế. Công nghiệp hóa đã đƣợc tiến hành vào những năm
1960 đã biến đổi nền kinh tế từ tập trung và phân phối hàng hóa thành một
nền kinh tế đa dạng theo cơ chế thị trƣờng.
Nhà nƣớc Singapore theo đuổi đƣờng lối kinh tế tự do, mở rộng và thu
hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, thực hiện chính sách công nghiệp hóa và đa dạng
hóa kinh tế. Sau gần 30 năm thực hiện, nền kinh tế Singapore đã đạt thành tựu
to lớn, thu hút sự chú ý của cả thế giới. Thập niên 1960, tăng trƣởng kinh tế
bình quân hàng năm của Singapore là 8,4%. Sang thập kỷ 1970 là 9,4% và
thập kỷ 1980 là 8,2%. Kinh tế phát triển đã nâng cao rõ rệt mức sống của
nhân dân. Năm 1991, tổng sản lƣợng bình quân đầu ngƣời vƣợt quá 15.000
USD, đứng đầu Đông Nam Á, trở thành một trong bốn “con rồng châu Á”.
46
Đối với toàn thế giới, Singapore cũng là một “ngôi sao mới” tỏa sáng, đƣợc
gọi là “nƣớc công nghiệp mới”, trở thành tấm gƣơng cho các nƣớc đang phát
triển.
Ngày nay, Singapore là một trung tâm công nghiệp, thƣơng nghiệp,
giao lƣu hàng hóa và tiền tệ, du lịch sôi động ở Đông Nam Á. Sau khi giành
đƣợc độc lập, Singapore ra sức tranh thủ thời cơ và sức mạnh, vận dụng vị trí
địa lý thuận lợi và sức lao động phong phú dồi dào, ra sức phát triển ngành
công nghiệp gia công về vận tải và mậu dịch. Singapore có các khu chế xuất,
đóng tàu, sửa chữa tàu, thăm dò dầu khí, là trung tâm chế tạo giàn khoan đế
bằng thăm dò dầu khí, chiếm 1/3 số lƣợng giàn khoan loại này trên thế giới.
Cả nƣớc có 7 nhà máy lọc dầu, mỗi năm lọc khoảng 50 triệu tấn dầu, đứng
vào hàng thứ ba về trung tâm lọc dầu, sau Mỹ và Hà Lan. Tuy ngành công
nghiệp điện tử Singapore đi sau các ngành công nghiệp khác nhƣng rất phát
đạt. Các mặt hàng nhƣ máy tính, máy vi tính, các sản phẩm điện tử của
Singapore đều có bán ở khắp nơi trên thế giới, giá trị sản lƣợng đứng đầu các
nƣớc Đông Nam Á.
Với cảng biển chuyển tải lớn nhất khu vực, đây là một nguồn lợi lớn
của Singapore. Cảng rộng và sâu, tàu 10.000 tấn cập bến dễ dàng. Hiện có
hơn 250 luồng tàu của hơn 370 hải cảng và có hơn 150 công ty hàng hải của
hơn 80 nƣớc đặt trạm hàng hải tại đây. Trung bình cứ 10 phút có một chuyến
tàu ra vào. Việc vận chuyển container ở Singapore phát triển rất nhanh, xuất
và nhập hơn 100 triệu tấn, đứng đầu thế giới.
Singapore còn là trung tâm hàng không nối liền châu Âu, châu Á và
châu Đại Dƣơng, nối đƣờng hàng không với 53 nƣớc và 101 thành phố trên thế
giới, là một quốc gia có ngành hàng không dân dụng phát triển nhất ở châu Á,
chỉ sau Nhật Bản.
Việc lƣu thông, giao dịch tiền tệ ở Singapore cũng rất phát đạt. Năm
1968, Singapore thành lập trung tâm thị trƣờng USD châu Á, thu hút nguồn
đôla ở khu vực, đồng thời cho các nƣớc vay rộng rãi. Do lãi suất tiền gửi cao,
đáng tin cậy, lại có thủ tục gửi tiền vào và lấy tiền ra dễ dàng nên nguồn tiền
47
từ nƣớc ngoài dồn dập gửi vào Singapore. Hiện nay, có hơn 130 ngân hàng
nƣớc ngoài đặt chi nhánh tại Singapore, hơn 500 công ty đa quốc gia và rất
nhiều công ty tài chính khác nhƣ công ty chứng khoán mới thành lập, công ty
giao dịch tiền tệ, công ty tài chính…, đƣa Singapore trở thành một trung tâm
giao dịch tiền tệ quốc tế sánh ngang cùng Hong Kong.
Du lịch cũng là một ngành kinh tế phát triển thịnh vƣợng của Singapore
với thu nhập của ngành này là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu. Singapore trở
thành trạm trung chuyển du lịch ở Đông Nam Á và là trung tâm hội nghị, triển
lãm quốc tế. Với dân số khoảng 5 triệu ngƣời (năm 2010), không có núi sông
đẹp nổi tiếng, cũng không có di tích cổ xƣa, vậy mà mỗi năm, Singapore đón
hơn 4 triệu khách du lịch. Singapore thu hút khách du lịch bởi thành phố
xanh-sạch-đẹp, quang cảnh xinh xắn, nên thơ. Từ năm 1971, Singapore phát
động phong trào “làm đẹp thành phố nhƣ vƣờn hoa”. Hàng năm, tuần đầu của
tháng 11 là tết trồng cây, quan chức nhà nƣớc và nhân dân đều hăng hái tham
gia hoạt động trồng cây này. Ngày nay, các đƣờng phố lớn đều có hàng cây
xanh rợp bóng. Hai bên đƣờng, trƣớc nhà, sau nhà, đâu đâu cũng phủ màu
xanh mát, hoa lá chen nhau, không một khoảng trống. Singapore còn biết kết
hợp cảnh quan thiên nhiên với màu sắc văn hóa dân tộc độc đáo, mở ra nhiều
tụ điểm du lịch với những thắng cảnh du lịch mang tính tổng hợp, rộng gần 3
km2. Ở đó có những bãi bơi nhƣ biển, nhà trƣng bày các giống san hô và vỏ
ốc, nhà trƣng bày mẫu côn trùng trên thế giới, viện bảo tàng hải dƣơng học,
sân băng mùa hè, hồ nƣớc nhân tạo, nhà nghỉ mát, vƣờn vui chơi của trẻ em,
làng nghệ thuật.
2.2. TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE
VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
SINGAPORE GIAI ĐOẠN 2005-2011
2.2.1. Tình hình lao động nƣớc ngoài của Singapore
Singapore đƣợc đánh giá là quốc gia có chính sách thu hút nhân tài
48
nƣớc ngoài bài bản nhất thế giới. Điều này cũng dễ hiểu bởi ngay từ khi mới
lên cầm quyền, cựu Thủ tƣớng Lý Quang Diệu đã xác định rõ nhân tài là yếu
tố then chốt quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế.
Chính vì thế, trong suốt những năm qua, thu hút nhân tài, đặc biệt là nhân tài
nƣớc ngoài đã trở thành chiến lƣợc ƣu tiên hàng đầu của Singapore.
Là quốc gia đƣợc tạo dựng nên từ những ngƣời nhập cƣ, Singapore
chào đón tất cả những ai có thể đóng góp phần mình vào công cuộc phát triển
kinh tế của đất nƣớc. Tuy nhiên, với dân số quá ít (khoảng 5 triệu dân), tỷ lệ
sinh liên tục sụt giảm, Singapore rơi vào cuộc khủng hoảng dân số. Rõ ràng,
tình trạng dân số cũng nhƣ nguồn lực lao động bị "co lại" sẽ là một trong
những nguyên nhân quan trọng gây ra nguy cơ khủng hoảng thiếu nhân tài.
Tự nhận biết ngƣời tài trong nƣớc là có giới hạn, lãnh đạo Singapore
bắt tay ngay vào việc hoạch định chính sách sử dụng ngƣời nhập cƣ (hay còn
gọi là chính sách tuyển mộ nhân tài nƣớc ngoài) nhƣ đòn bẩy về nhân khẩu
học để bù vào sự thiếu hụt lực lƣợng lao động bản địa.
Hơn thế, lãnh đạo nƣớc này còn xác định rõ rằng nhân tài "ngoại"
không chỉ là "nguồn vốn đặc biệt" về kinh tế, mà họ còn là "động lực mạnh
mẽ cho Singapore phấn đấu liên tục vì những chuẩn cao hơn" Thêm nữa,
những ngƣời nhập cƣ cũng góp phần đem lại "sự phong phú, đa dạng, mang
thêm màu sắc, sự giàu có và hƣơng vị cho đời sống văn hoá của Singapore".
Singapore mở cửa tiếp nhận lao động nƣớc ngoài từ những năm 1970
với mục đích tăng số lƣợng cũng nhƣ chất lƣợng của lao động trong nƣớc.
Theo số liệu của Bộ Lao động Singapore công bố năm 2011, tính đến hết
tháng 9/2011, số lao động nƣớc ngoài tại Singapore là 2,000,000 ngƣời –
chiếm khoảng 40% lực lƣợng lao động của quốc gia này. Những số liệu về lao
động nƣớc ngoài không bao gồm những ngƣời đƣợc cấp Thẻ cƣ trú (PR) hay
quốc tịch bởi những lao động đã nhập quốc tịch đƣợc gọi là lực lƣợng lao
động trong nƣớc. Theo Phó Thủ tƣớng – Bộ trƣởng Bộ Nội vụ Wong Kan
Seng, trung bình hàng năm có gần 40,000 ngƣời đƣợc cấp Thẻ cƣ trú và 8,000
ngƣời đƣợc nhập quốc tịch Singapore trong khoảng thời gian 2005 – 2011,
49
trong số đó nhiều ngƣời là lao động lành nghề, có chuyên môn cao đƣợc cấp
Thẻ làm việc tại Singapore.
Chính phủ Singapore đã nới lỏng một cách đáng kể những giới hạn đối
với lao động nƣớc ngoài để thu hút nhân tài đến sinh sống và làm việc. Trong
năm 2004 – 2005, lao động nƣớc ngoài tại Singapore tăng từ 3,6% lên 8% đối
lập với tỉ lệ lao động trong nƣớc chỉ tăng từ 3,2% lên 4,0% (theo Bộ Lao động
Singapore 2007b). Trong một bƣớc tiến mới, Chính phủ Singapore công bố ý
định muốn thu hút thêm nhân tài đến sống và làm việc tại quốc gia này vừa để
tăng dân cƣ trong nƣớc (do năm 2004 – 2005, tỉ lệ sinh của Singapore đã rơi
xuống mức 1.25 trẻ sơ sinh/bà mẹ) vừa để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế
trong thế giới toàn cầu hóa với đội ngũ lao động vừa đông đảo vừa có chuyên
môn cao (Straits Times Interative, 27/8/2006; Straits Times Interative,
3/3/2007). Đồng thời, Singapore cũng mong muốn tăng số lƣợng lao động
phổ thông và lao động có chuyên môn thấp, đặc biệt là trong lĩnh vực xây
dựng để thực hiện kế hoạch cải tạo Singapore, đáp ứng cơ sở hạ tầng cho dân
số mong muốn là 6,5 triệu ngƣời trong tƣơng lai và triển khai dự án xây dựng
những khu nghỉ mát liên hợp tại Singapore.
Chính phủ Singapore tuyển chọn nhân tài dựa trên năng lực, khả năng
đóng góp vào sự phát triển của đất nƣớc này chứ không phân biệt quốc tịch,
chủng tộc của ngƣời nhập cƣ. Trong 5 năm qua, Singapore đã thu hút đƣợc
một bản danh sách ấn tƣợng những nhà khoa học lỗi lạc của thế giới. Nói đến
nhân tài nƣớc ngoài ở Singapore, có lẽ không thể không kể đến những nhà
giải phẫu thần kinh học, các lập trình viên phần mềm, các giám đốc ngân
hàng, các siêu chuyên gia tầm cỡ thế giới và các giáo sƣ trong lĩnh vực nghiên
cứu và phát triển.
Không phải ngẫn nhiên tạp chí Foreign Policy xếp Singapore là quốc
gia toàn cầu hóa nhất trên thế giới. Với một chính sách bài bản và đúng đắn
nhƣ vậy, Singapore xứng đáng với tên gọi "Trung tâm thu hút nhân tài" của
50
thế giới.
2.2.2. Tác động của lao động nƣớc ngoài đến phát triển kinh tế xã
hội của Singapore
Từ khi giành đƣợc độc lập vào năm 1959 đến nay, trong suốt hơn 50
năm, số lƣợng lao động ngƣời nƣớc ngoài đã không ngừng phát triển và tăng
cao, trở thành một bộ phận quan trọng của Singapore, góp phần tích cực vào
thành công mà Singapore có đƣợc ngày hôm nay
Tính đến nay với khoảng 2 triệu lao động trên tổng số 5 triệu dân, lao
động nƣớc ngoài đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của Singapore. Lao
động ngƣời nƣớc ngoài đã đóng góp tích cực cho sự tăng trƣởng và phát triển
của nền kinh tế với mức đóng góp trung bình 30% GDP trong 50 năm qua.
Lao động nƣớc ngoài là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển của đất nƣớc,
đáp ứng nhu cầu về việc làm cho toàn xã hộ và tăng trƣởng kinh tế đất nƣớc.
Lao động nƣớc ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao
năng lực sản xuất công nghiệp. Lao động nƣớc ngoài đã tạo ra nhiều ngành
mới và tăng cƣờng năng lực cho nhiều ngành nhƣ dầu khí, điện tử, công
nghệ… Lao động nƣớc ngoài đã kích thích lĩnh vực dịch vụ nâng cao chất
lƣợng và phát triển nhanh hơn nhất là trong các ngành viễn thông, du lịch, tài
chính ngân hàng…
Lao động nƣớc ngoài với trình độ chuyên môn cao thúc đẩy chuyển
giao công nghệ tiên tiến vào Singapore, biến Singapore từ một nƣớc nghèo
nàn tài nguyên thiên nhiên trở thành một đất nƣớc phát triển hàng đầu thế
giới. Phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nƣớc nhƣ viễn thông,
lọc hóa dầu, chế tạo điện tử…. Nhìn chung trình độ công nghệ của Singapore
cao hơn các nƣớc trong khu vực và ở trong top đầu của thế giới.
Lao động ngƣời nƣớc ngoài tác động lan tỏa đến các lao động ngƣời
bản xứ. Thông qua sự liên kết giữa lao động ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời lao
động bản xứ, trình độ và năng lực đƣợc chuyển giao giữa ngƣời lao động. Sự
lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các nhân viên làm trong cùng một công
ty hoặc theo hàng ngang giữa các nhân viên của các công ty khác nhau
51
Lao động ngƣời nƣớc ngoài đóng góp đáng kể vào ngân sách Nhà nƣớc
và các cân đối vĩ mô đồng thời góp phần quan trọng trong việc tạo ra sự phát
triển thần kỳ của Singapore hiện nay. Cùng với sự phát triển của đất nƣớc thì
mức đóng góp của lao động ngƣời nƣớc ngoài vào ngân sách ngày càng tăng.
Tính đến tháng 12/2010 thì lao động nƣớc ngoài đã đóng góp tới 41% GDP
của Singapore
Góp phần giúp Singapore tiếp cận và mở rộng thị trƣờng quốc tế. Lao
động ngƣời nƣớc ngoài đã góp phần quan trọng và tạo điều kiện mở rộng
quan hệ kinh tế quốc tế theo hƣớng đa phƣơng hóa, đa dạng hóa, thúc đẩy
Singapore hội nhập kinh tế thế giới và trở thành trung tâm của vận chuyển
hàng hóa thế giới.
2.3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
LAO ĐỘNG NƢỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE
2.3.1. Quá trình xây dựng và ban hành chính sách quản lý lao động
nƣớc ngoài ở Singapore
Với chính sách tìm kiếm lao động linh hoạt, Singapore đã và đang phát
triển một hệ thống quản lý lao động nƣớc ngoài hiệu quả, thƣờng xuyên đƣợc
cải cách, sử dụng hệ thống lập pháp và các biện pháp hành chính nhƣ những
công cụ quản lý hiệu quả lao động nƣớc ngoài cả về số lƣợng và chất lƣợng.
Đặc điểm chính của chính sách lao động Singapore là hạn chế tuyển
dụng lao động nƣớc ngoài có chuyên môn thấp, trong khi tạo mọi điều kiện
thuận lợi và ƣu đãi nhằm thu hút lao động có chuyên môn cao. Theo quy định,
lao động có tay nghề thấp có mức lƣơng dƣới 2.000 USD. Việc tuyển dụng
lao động loại này hƣớng vào một số nƣớc, một số ngành cụ thể và chịu một số
hạn chế. Trong khi đó, chính phủ hết sức khuyến khích tuyển dụng những lao
động có tay nghề cao với mức lƣơng trên 2.000 USD. Nếu đƣợc chủ lao động
nhận, lao động diện này đƣợc cấp Giấy phép lao độngngay chỉ trong vài ngày
52
và đƣợc quyền cho ngƣời thân sang sống cùng.
Qua đó, có thể nói, lực lƣợng lao động tại Singapore đƣợc chia làm 2
nhóm: lao động có chuyên môn cao và trung bình đƣợc cấp Thẻ việc làm; lao
động không có chuyên môn hay chuyên môn thấp đƣợc cấp Giấy phép lao
động. Những lao động đƣợc cấp Giấy phép lao động đã tạo nên lực lƣợng lao
động đông đảo từ nƣớc ngoài cho Singapore (VD: trong đầu năm 2008, số lao
động đƣợc cấp Giấy phép lao động là 580,000 trong khi chỉ có 90,000 ngƣời
đƣợc cấp Thẻ việc làm).
Singapore thi hành một chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài linh
hoạt, hiệu quả bằng việc quy định một hệ thống Giấy phép lao động phù hợp
với từng đối tƣợng lao động, ứng với ngành nghề, trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm làm việc và quốc tịch. Bên cạnh đó, để ngăn sự thay thế của lao động
nƣớc ngoài giá rẻ đối với lao động bản địa thiếu chuyên môn cần thiết, thƣờng
“kén cá chọn canh”, Chính phủ Singapore quy định cụ thể tỉ lệ lao động nƣớc
ngoài so với lao động bản địa trong các cơ quan, tổ chức sử dụng lao động
nƣớc ngoài.
* Giấy phép lao động (Work Permit): Những đối tƣợng lao động
đƣợc cấp Giấy phép lao động (còn gọi là Giấy phép R) đƣợc quy định tại Bộ
luật lao động ngƣời nƣớc ngoài (EWFA) và vì vậy thƣờng đƣợc gọi là “lao
động nƣớc ngoài” tại Singapore. Bộ luật quy định những điều kiện đối với lao
động nƣớc ngoài, qua đó những lao động chấp nhận mức lƣơng không quá
2.000 USD/tháng (chủ yếu là lao động phổ thông hoặc lao động có tay nghề
thấp) sẽ đƣợc đến làm việc tại Singapore. Giấy phép lao động đƣợc gia hạn 02
năm một lần.
53
Bảng 2.1: Hệ thống Giấy phép lao động tại Singapore.
Đơn vị: Tháng, ngày
Thuế
Hạn ngạch (tỉ lệ lđ nƣớc
Ngành
Lao động
Thuế
Thuế
ngoài/lđ trong nƣớc)
(tháng)
(ngày)
Có kỹ năng
180
5.92
Bậc cơ bản/Bậc 1: Khoảng
30% tổng số lao động
Không có kỹ năng
280
9.21
Có kỹ năng
240
7.90
Bậc 2: Trên 30% đến 50% tổng
Sản xuất
số lao động
Không có kỹ năng
340
11.18
Có kỹ năng
Bậc 3: Trên 50% đến 65% of
450
14.80
tổng số lao động
180
5.92
7 lao động nƣớc ngoài/1 lao
Không có kỹ năng Kỹ năng cao (1) và có MYE (3) Kỹ năng (2) và có MYE (3)
230
7.57
Xây dựng
động toàn thời gian trong nƣớc
380
12.50
Có kinh nghiệm và đƣợc miễn MYE (4)
1
5.9
5 lao động nƣớc ngoài/1
Có chuyên môn
Hà
80
2
lao động toàn thời gian trong
ng hải
nƣớc
300
9.87
Không có chuyên môn Có kỹ năng và có MYE (3)
180
5.92
7 lao động nƣớc ngoài/1 lao
380
12.50
Có kinh nghiệm và đƣợc miễn MYE (4)
Gia công
động toàn thời gian trong nƣớc
300
9.87
Có kinh nghiệm và đƣợc miễn MYE (4)
Có chuyên môn
180
5.92
Bậc cơ bản/Bậc 1: Khoảng
20% tổng số lao động
Không có chuyên môn
280
9.21
Có chuyên môn
300
9.87
Bậc 2: Trên 20% đến 35% tổng
Dịch vụ
số lao động
Không có chuyên môn
400
13.16
Có chuyên môn
Bậc 3: Trên 35% đến 50% tổng
450
14.80
số lao động
Không có chuyên môn
(Nguồn: Bộ Lao động Singapore, website “Foreign Worker Levy
Rates”.Http://www.mom.gov.sg/foreign-manpower/foreign-worker-levies/Pages/levies-
quotas-for-hiring-foreign-workers.aspx)
54
* Thuế ngày được áp dụng riêng cho đối tượng lao động được cấp
Giấy phép mà không làm việc đủ 12 tháng. Hiện nay, thuế ngày được tính
theo công thức: (thuế tháng x 12) / 365 = mức thu (được làm tròn). (1) Công nhân có kỹ năng cao trong lĩnh vực Xây dựng là những người:
đã đăng ký kinh doanh xây dựng; hoặc
được Ban phát triển Nhà ở cấp Giấy chứng nhận kinh doanh; và
(2) Lao động có kỹ năng cơ bản là những người được cấp Chứng chỉ
người có ít nhất 4 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng tại Singapore
SPM hoặc Chứng chỉ đánh giá kỹ năng (SEC) của Cơ quan phát triển nhà ở. (3) MYE là viết tắt của Man Year Entitlement, là loại Giấy phép lao
(4) Để có được giấy phép MYE, lao động nước ngoài phải có ít nhất 02
động
năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực xây dựng.
Bộ luật lao động ngƣời nƣớc ngoài (EWFA) yêu cầu chủ lao động phải
đăng ký xin cấp Giấy phép lao động liên quan đến lao động cũng nhƣ loại
hình công việc của lao động nƣớc ngoài đó. Giấy phép lao động có giá trị
pháp lý ứng với từng lao động đăng ký loại giấy phép đó và chỉ liên quan đến
từng ngành nghề cụ thể và đổi lại, lao động nƣớc ngoài cũng chỉ đƣợc phép
làm việc cho chủ lao động đƣợc quy định trong Giấy phép lao động. Mọi lao
động nƣớc ngoài đều phải tham gia và đáp ứng một kỳ kiểm tra sức khoẻ của
Cơ quan y tế Singapore trƣớc khi đƣợc cấp phép lao động. Trong một số
ngành nhƣ xây dựng hay giúp việc gia đình, chủ lao động phải đảm bảo rằng
tất cả lao động của mình đều tham gia một khoá học bắt buộc về nhận thức và
định hƣớng an toàn lao động.
* Thẻ S (S Pass) đƣợc ban hành với mục đích tăng cƣờng sự nhanh
nhạy, linh hoạt trong chính sách đối với lao động nƣớc ngoài nhằm đáp ứng
nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực có kỹ năng trung bình phục vụ cho nền công
nghiệp Singapore. Thẻ S thay thế cho Thẻ Q2 và có hiệu lực từ tháng 7/2004.
55
Những lao động có mức lƣơng hàng tháng tối thiểu 2.000 USD đƣợc cấp loại thẻ
việc làm này.
Những ứng viên đăng ký Thẻ S sẽ đƣợc lựa chọn dựa trên hệ thống thang
điểm đánh giá về lƣơng, bằng cấp, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc, loại hình
công việc.
Bảng 2.2: Thẻ S dành cho lao động nƣớc ngoài tại Singapore
Thuế Hạn ngạch (tỉ lệ lđ nƣớc Ngành Lao động Thuế Thuế ngoài/lđ trong nƣớc) (tháng) (ngày)
Bậc cơ bản/Bậc 1: Khoảng Có chuyên môn 120 3.95 cả Tất 15% tổng số lao động cao các Bậc 2: Trên 15% đến 25% Có chuyên môn ngành 180 5.92 tổng số lao động cao
(Nguồn: Bộ Lao động Singapore, website “Foreign Worker Levy
Rates”. Http://www.mom.gov.sg/foreign-manpower/foreign-worker-
levies/Pages/levies-quotas-for-hiring-foreign-workers.aspx)
* Thuế ngày được áp dụng riêng cho đối tượng lao động được cấp
Giấy phép mà không làm việc đủ 12 tháng. Hiện nay, thuế ngày được tính
theo công thức: (thuế tháng x 12) / 365 = mức thu (được làm tròn).
(1) Đối với tất cả lĩnh vực, hạn ngạch 25% của Thẻ S được tính toán trong
hạn ngạch của Giấy phép lao động.
* Thẻ việc làm (Employment Pass) đƣợc cấp cho những lao động
nƣớc ngoài có chuyên môn cao, các chuyên gia, nhà quản lý cấp trung cũng
nhƣ những cá nhân nƣớc ngoài đủ chuyên môn mong muốn đƣợc làm việc tại
Singapore với mức lƣơng tối thiểu 2.800 USD/tháng, có bằng cấp, chuyên
môn và kỹ năng phù hợp. Thẻ việc làm gồm 02 loại: Thẻ P và Q với những
56
khác biệt về tiêu chuẩn, hạn chế và quyền hạn nhƣ sau:
Bảng 2.3:Tiêu chuẩn, hạn chế và quyền hạn đƣợc cấp cho những
lao động nƣớc ngoài có chuyên môn
Tiêu chuẩn, hạn chế Mức lƣơng Loại thẻ
Thẻ P
a. Thẻ P1 - đƣợc cấp cho các chuyên gia nƣớc ngoài và lƣơng cơ bản trên
nhà quản lý bậc trung 7.000 USD/tháng.
b. Thẻ P2 - đƣợc cấp cho các chuyên gia nƣớc ngoài và lƣơng cơ bản trên
nhà quản lý bậc trung 3.500 USD/tháng.
Thẻ Q
a. Thẻ Q1 - đƣợc cấp cho những cá nhân có bằng cấp lƣơng cơ bản trên
đƣợc công nhận, có kỹ năng và kinh nghiệm 2.500 USD/tháng.
(Nguồn: Bộ Lao động Singapore, website www.manpower.gov.sg)
Đối với các loại Giấy phép lao động và Thẻ việc làm, Cục Cấp phép lao
động, Bộ Lao động Singapore áp thuế và hạn ngạch với mục đích có đƣợc
chính xác dữ liệu, thông tin của lao động nƣớc ngoài. Ngoài ra, để giới hạn số
lƣợng lao động nƣớc ngoài, Bộ Lao động Singapore cũng quy định cụ thể
những quốc gia đƣợc phép xuất khẩu lao động đến Singapore nhƣ các nƣớc
Malaixia, Hồng Công, Ma Cao, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, v.v.
Bộ luật lao động ngƣời nƣớc ngoài (EWFA) quy định mỗi chủ lao động
còn phải chi trả tiền thuế cho mỗi lao động nƣớc ngoài đƣợc thuê. Thuế là
một công cụ để kiểm soát, điều chỉnh số lƣợng lao động nƣớc ngoài tại
Singapore, tránh tình trạng ngƣời dân bản địa bất bình khi phải cạnh tranh về
việc làm với ngƣời nƣớc ngoài. Thuế lao động nƣớc ngoài đƣợc chi trả dựa
trên chuyên môn, tay nghề của lao động nƣớc ngoài cũng nhƣ ngành nghề mà
lao động đó đƣợc tuyển dụng. Tuy nhiên, không phải đối với ngành nghề nào
chủ lao động cũng đƣợc thuê lao động nƣớc ngoài mà chỉ những ngành nghề
khan hiếm lao động và khó khăn khi tuyển dụng lao động bản địa mới đƣợc
cho phép thuê nhân công nƣớc ngoài. Thuế đƣợc điều chỉnh thƣờng niên phụ
57
thuộc vào điều kiện kinh tế và nhu cầu lao động. Thuế đƣợc chia làm hai loại:
thuế tháng và thuế ngày, phụ thuộc vào thời gian làm việc của lao động. Tuỳ
thuộc vào ngành nghề là sản xuất, xây dựng, dịch vụ hay hàng hải cũng nhƣ
chuyên môn, kỹ năng của lao động cao hay thấp mà mức thuế có thể linh
hoạt, dao động từ 180-450 USD/tháng hay 5.92-14.80/ngày. Bên cạnh đó,
Chính phủ Singapore còn áp đặt hạn ngạch đối với số lƣợng lao động nƣớc
ngoài đƣợc phép tuyển dụng tƣơng quan với lao động bản địa trong mỗi
doanh nghiệp. Theo đó, số lƣợng lao động nƣớc ngoài đƣợc quy định từ 30%-
65% tổng số lao động đối với ngành sản xuất; 20%-50% đối với ngành dịch
vụ. Trong những ngành nhƣ xây dựng, hàng hải, gia công, cứ 01 lao động bản
địa thì có 5-7 lao động nƣớc ngoài đƣợc phép tuyển dụng. Điều này một lần
nữa ngăn tình trạng lao động bản địa bị lấn át bởi nguồn nhân công nƣớc
ngoài giá rẻ.
Bên cạnh những quy định về thuế và hạn ngạch đối với lao động nƣớc
ngoài, Singapore còn áp đặt những giới hạn đối với những quốc gia đƣợc
phép xuất khẩu lao động cho những ngành nghề nhƣ xây dựng, dịch vụ, sản
58
xuất và hàng hải nhƣ sau:
Bảng 2.4: Quy định giới hạn ngành nghề đối với lao động nƣớc
ngoài
STT Ngành/nghề Quốc gia xuất khẩu lao động
Malaysia
Trung Quốc (PRC)
Các nƣớc không truyền thống (NTS): Ấn Độ, Sri
1 Xây dựng Lanka, Thái Lan, Bangladesh, Myanmar, Phippines,
Pakistan.
Các nƣớc Bắc Á (NAS): Hồng Kông, Ma Cao, Hàn
Quốc và Đài Loan.
2 Dich vụ Malaysia; Hồng Kông;Ma Cao;Hàn Quốc; Đài Loan
Malaysia;Hồng Kông;Ma Cao;Hàn Quốc;Đài Loan
3 Sản xuất Trung Quốc
Malaysia;Các nƣớc không truyền thống (NTS): Ấn Độ,
Sri Lanka, Thái Lan, Bangladesh, Myanmar, Phippines,
4 Hàng hải Pakistan.;Các nƣớc Bắc Á (NAS): Hồng Kông, Ma
Cao, Hàn Quốc và Đài Loan.
Nguồn: Bộ Lao động Singapore. Http://www.mom.gov.sg/momportal/en/communities/work_pass/work_permit/ application/requirements.html)
2.3.2. Quá trình tổ chức thực hiện chính sách quản lý lao động
nƣớc ngoài ở Singapore
Bộ Lao động Singapore thực hiện chính sách quản lý lao động nƣớc
ngoài thông qua việc ban hành Luật tuyển dụng lao động nƣớc ngoài
(Employment of Foreign Manpower Act), trong đó đặc điểm, điều kiện của
từng đối tƣợng lao động cũng nhƣ trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ lao động
đƣợc quy định chi tiết, cụ thể nhƣ sau:
59
1. Quy định đối với người lao động:
Về việc tuyển dụng lao động
Lao động nƣớc ngoài chỉ đƣợc phép làm việc cho chủ lao động
cũng nhƣ ngành/nghề đƣợc quy định trong Giấy phép lao động.
Lao động nƣớc ngoài không đƣợc tham gia kinh doanh hoặc tự
kinh doanh tại Singapore.
Nếu lao động nƣớc ngoài có nghề nghiệp đƣợc ghi trong Giấy
phép lao động là dành cho “lao động bản địa” thì lao động nƣớc ngoài đó chỉ
đƣợc làm những công việc gia đình và sống tại nhà của chủ lao động.
Ngoại trừ lao động nƣớc ngoài có nghề nghiệp đƣợc ghi trong
Giấy phép lao động là dành cho “lao động bản địa”, những lao động nƣớc
ngoài khác phải sống tại nơi ở do chủ lao động quy định trƣớc khi thực hiện
hợp đồng lao động. Lao động nƣớc ngoài phải thông báo cho chủ lao động khi
tự thay đổi địa chỉ nơi ở.
Lao động nƣớc ngoài sẽ đƣợc bác sỹ Singapore khám sức khoẻ
khi đƣợc Phòng Quản lý Giấy phép lao động (thuộc Cục Cấp phép lao động)
chỉ định. Nếu lao động nƣớc ngoài đƣợc chứng nhận là không đảm bảo về sức
khoẻ, Giấy phép lao động của ngƣời đó sẽ bị thu hồi.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào lao động nƣớc ngoài cũng phải
mang theo Giấy phép lao động và Thẻ cƣ trú bên mình và xuất trình khi cảnh
sát yêu cầu.
Lao động nƣớc ngoài phải báo cáo với Phòng Quản lý Giấy phép
lao động khi có cảnh sát yêu cầu xuất trình Giấy phép lao động cũng nhƣ khi
đƣợc Phòng động yêu cầu báo cáo.
Lao động nƣớc ngoài phải thƣờng xuyên báo cáo với Phòng
Quản lý Giấy phép lao động về địa chỉ cƣ trú theo yêu cầu, quy định của
60
Phòng trên.
Về tƣ cách, đạo đức:
Trong bất cứ hoàn cảnh nào thì lao động nƣớc ngoài cũng không
đƣợc kết hôn với công dân Singapore hay công dân có quốc tịch Singapore
trong thời gian lao động tại Singapore, cũng nhƣ sau khi Giấy phép lao động
hết hạn hoặc bị huỷ, bị thu hồi.
Nữ lao động nƣớc ngoài không đƣợc có thai hoặc sinh con tại
Singapore dù cho Giấy phép lao động còn hạn hay đã hết hạn trừ trƣờng hợp
lao động nữ đó đã kết hôn với một công dân Singapore.
Lao động nƣớc ngoài không đƣợc dính líu đến những hoạt động
trái pháp luật, trái đạo đức, luân thƣờng đạo lý.
Tuy nhiên, có một chút khác biệt trong quy định đối với lao động đƣợc
cấp Giấy phép lao động và lao động đƣợc cấp Thẻ việc làm. Lao động đƣợc
cấp Giấy phép lao động không những không đƣợc kết hôn hay sinh con tại
Singapore mà họ còn không đƣợc phép bảo lãnh cho thân nhân theo dạng
thăm thân hay cƣ trú dài hạn. Tuy nhiên, con cái của những lao động diện này
có cơ hội đƣợc học tập tại các trƣờng quốc tế của Singapore nếu thi đỗ các kỳ
thi chất lƣợng do những trƣờng này tổ chức. Trong khi đó, lao động đƣợc cấp
Thẻ việc làm đƣợc hƣởng nhiều đặc quyền hơn vì họ không những đƣợc bảo
lãnh gia đình, vợ/chồng đến Singapore mà còn có thể đăng ký xin cấp thẻ cƣ
trú hoặc quốc tịch cho bản thân và gia đình.
2. Quy định đối với người sử dụng lao động:
Nhƣ đã trình bày ở phần trên, chủ lao động phải đăng ký xin cấp Giấy
phép cho mỗi lao động nƣớc ngoài cũng nhƣ loại hình công việc mà họ đƣợc
tuyển dụng. Bộ luật lao động ngƣời nƣớc ngoài (EWFA) của Singapore quy
định mỗi chủ lao động còn phải chi trả tiền thuế cho mỗi lao động nƣớc ngoài
đƣợc thuê, mức thuế này phụ thuộc vào chuyên môn, tay nghề của lao động
nƣớc ngoài cũng nhƣ ngành nghề mà lao động đó đƣợc tuyển dụng. Thực tế là
lao động có chuyên môn càng thấp thì mức thuế phải đóng cho lao động này
càng cao. Đặc biệt, chủ lao động chỉ đƣợc tuyển dụng lao động nƣớc ngoài
61
cho những ngành nghề khan hiếm lao động và khó khăn khi tuyển dụng lao
động bản địa nhƣ gia công, sản xuất hàng hoá, đóng tàu hay xây dựng.
Căn cứ theo điều kiện của Giấy phép lao động, chủ lao động có trách
nhiệm đối với những quyền lợi vật chất và tinh thần của lao động nƣớc ngoài.
Họ phải tạo cho lao động nƣớc ngoài điều kiện lao động an toàn và trả lƣơng
đúng thời hạn, và nói chung đảm bảo rằng hợp đồng lao động không vi phạm
Luật tuyển dụng gồm những điều khoản và điều kiện làm việc cơ bản của tất
cả nhân viên, ngoại trừ những ngƣời làm việc trong vị trí quản lý hay điều
hành, ngƣ dân và lao động bản địa. Chủ lao động đồng thời tổ chức cho lao
động đƣợc kiểm tra sức khoẻ và chi trả các khoản thanh toán viện phí, khám
chữa bệnh. Theo quy định của Luật bồi thƣờng lao động, lao động nƣớc ngoài
cũng đƣợc bồi thƣờng nếu bị chấn thƣơng trong thời gian làm việc. Bộ luật
lao động ngƣời nƣớc ngoài (EWFA) quy định chủ lao động bố trí nơi ở tử tế
cho lao động nƣớc ngoài và cung cấp thông tin về địa chỉ chỗ ở cho cơ quan
chính quyền tạo điều kiện liên lạc thuận lợi. Chủ lao động đƣợc khuyến khích
đào tạo định hƣớng cho lao động nƣớc ngoài trƣớc khi đến Singapore làm
việc; quan tâm đến điều kiện an sinh của lao động nƣớc ngoài nhƣ nhu cầu xã
hội và nhu cầu giải trí nhƣng những yêu cầu trên không do pháp luật bắt buộc.
2.3.3. Quá trình giám sát kiểm tra thực hiện chính sách quản lý lao
động nƣớc ngoài ở Singapore
2.3.3.1. Cơ quan quản lý lao động nƣớc ngoài tại Singapore
Hiện nay, Bộ Lao động (MOM) là cơ quan quản lý cao nhất có chức
năng hoạch địch, quản lý và phát triển nguồn nhân lực Singapore. Lao động
nƣớc ngoài đƣợc quản lý dựa trên những điều lệ giữa Bộ Lao động và các cơ
62
quan, đơn vị trực thuộc đƣợc thể hiện thông qua bộ máy hoạt động nhƣ sau:
Sơ đồ 2.2: Bộ máy quản lý lao động nƣớc ngoài tại Singapore
Nguồn: Bộ Lao động Singapore. Http://www.mom.gov.sg
Trách nhiệm, vai trò của Bộ Lao động Singapore đƣợc thể hiện qua hai
nhiệm vụ: (1) Giúp đội ngũ lao động Singapore có đủ khả năng đối phó với
những thách thức của nền kinh tế toàn cầu hoá trong thế kỷ 21; từ đó trang bị
cho họ những kỹ năng, đem đến cho họ cơ hội phát triển tiềm năng, thăng tiến
trong sự nghiệp, duy trì kinh tế gia đình ổn định. (2) Góp phần cung cấp
63
nguồn nhân lực đảm bảo về năng lực trong một nền kinh tế cạnh tranh, thông
qua việc mở rộng đội ngũ nhân tài, kiểm soát việc xuất-nhập cảnh, cƣ trú của
lao động nƣớc ngoài và thúc đẩy công tác quản lý nhân lực hiệu quả, tích cực.
Những nhiệm vụ nêu trên của Bộ Lao động Singapore giúp duy trì một xã hội
Singapore bền chặt.
Đặc biệt, ngoài các cơ quan, đơn vị khác trực thuộc Bộ Lao động
Singapore thì Cục Cấp phép lao động (WPD), Cục Quản lý lao động nƣớc
ngoài (FMND) và Cục Nhân lực quốc tế (IMD) đảm nhận việc quản lý, giám
sát lao động nƣớc ngoài tại Singapore. Cụ thể:
Cục Cấp phép lao động (WPD) giải quyết các thủ tục hành chính
trong việc cấp Giấy phép lao độnglao động cho lao động nƣớc ngoài. WPD có
nhiệm vụ phát triển cơ cấu quản lý nhân lực nƣớc ngoài hiệu quả, năng động,
có hiệu suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế Singapore
- Cục Cấp phép lao động (WPD) quy định và tạo điều kiện cho việc
thuê lao động nƣớc ngoài tại Singapore thông qua việc quản lý 03 loại giấy
phép là: Giấy phép lao động, Thẻ S và Thẻ việc làm.
Cục Quản lý lao động nƣớc ngoài (FMND) chịu trách nhiệm chính
trong việc đảm bảo quyền lợi của lao động nƣớc ngoài tại Singapore. FMMD
phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Bộ khác bao gồm: Vụ Chiến lƣợc và chính
sách công sở, Cục Cấp phép lao động, Cục An sinh và An toàn lao động; Cục
Quan hệ lao động và Công sở, với mục tiêu nâng cao chất lƣợng môi trƣờng
làm việc cho lao động nƣớc ngoài cũng nhƣ đảm bảo tuân thủ những chính
sách về nguồn nhân lực quốc tế tại Singapore.
- FMND có 3 chức năng chính:
Quản lý và bảo hộ cho nhân lực nƣớc ngoài trong các hoạt động
nhƣ: Tuyển dụng/lao động bất hợp pháp, Ăn ở/điều kiện làm việc/thể chất của
lao động, Bỏ việc/trốn việc
Đảm bảo hoạt động chuyên nghiệp của ngành Công nghiệp Môi
64
giới lao động bằng việc giám sát điều kiện và quy định cấp phép môi giới lao
động, thực hiện luật môi giới lao động, và phát triển, thực hiện hệ thống trƣớc
những sai sót.
Tăng cƣờng năng lực thi hành luật bằng việc tổ chức tốt công tác
giám sát và cƣỡng chế; tiến hành kiểm toán các cơ quan môi giới lao động và
chủ lao động của các lao động nƣớc ngoài đƣợc cấp giấy phép lao động.
- FMND gồm 4 phòng: Phòng Thanh tra lao động, Phòng An sinh
Phòng Hoạch định và phát triển tổ chức, Phòng Quản lý doanh nghiệp chú
trọng đến điều kiện an sinh của lao động nƣớc ngoài trong thời gian sinh sống
và làm việc tại Singapore.
Cục Nhân lực quốc tế (IMD) có nhiệm vụ thu hút nguồn nhân lực
nƣớc ngoài có chuyên môn cao, là ngƣời nƣớc ngoài hoặc ngƣời Singapore tại
nƣớc ngoài. IMD phối hợp với các cơ quan đối tác để hiểu nhu cầu tuyển
dụng lao động của họ và giúp những đối tác đó mở rộng mạng lƣới nhân tài
toàn cầu.
- IMD giám sát một mạng lƣới các Phòng liên lạc Singapore tại Boston,
Chennai, Luân Đôn, Thƣợng Hải và Singapore. Thông qua các văn phòng
này, Phòng liên lạc Singapore giới thiệu Singapore nhƣ một quốc gia có nền
kinh tế năng động với thị trƣờng lao động hấp dẫn đối với nhân lực toàn cầu.
Đồng thời, Phòng liên lạc Singapore góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho
những nhân tài làm việc tại Singapore. IMD góp phần thực hiện thành công
sứ mệnh tạo nên nguồn nhân lực có năng lực cạnh tranh toàn cầu của Bộ Lao
động Singapore.
Tất cả các cơ quan này liên kết chặt chẽ với nhau và cùng với các Vụ,
Cục, đơn vị khác của Bộ Lao động Singapore đã tạo nên một bộ máy lãnh đạo
và quản lý toàn diện số lƣợng lao động nƣớc ngoài tại Singapore. Trong đó,
Cục Cấp phép lao động với cánh tay phải đắc lực là Phòng Quản lý Giấy phép
lao động có trách nhiệm quản lý trực tiếp, giám sát hoạt động của lao động
nƣớc ngoài, cấp phép lao động cho những cá nhân đáp ứng đƣợc yêu cầu đề
ra; tịch thu hoặc huỷ giấy phép đối với những lao động vi phạm luật pháp,
65
vi phạm đạo đức hay những vi phạm những quy định trong tổ chức của lao
động đó.
2.3.3.2. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách quản lý
lao động nƣớc ngoài tại Singapore:
Singapore tiến hành, thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thực
hiện chính sách quản lý lao động nƣớc ngoài tại Singapore thông qua đối
tƣợng quản lý trực tiếp của lao động nƣớc ngoài là chủ lao động, đối chiếu
với trách nhiệm của họ đƣợc quy định tại Bộ luật lao động ngƣời nƣớc ngoài
(Employment of Foreign Workers Act - EFWA) và Luật tuyển dụng lao động
nƣớc ngoài (Employment of Foreign Manpower Act - EFMA)
Chủ lao động có trách nhiệm đăng ký xin cấp phép lao động cho lao
động nƣớc ngoài đƣợc tuyển dụng. Những chủ lao động không thực hiện quy
định trên sẽ phải đối mặt với những truy cứu pháp luật. Nếu vi phạm lần đầu,
chủ lao động đó tối đa sẽ phải chịu nộp phạt 48 tháng tiền thuế lao động, tối
thiểu bị phạt tù 12 tháng hoặc cả hai hình phạt trên. Nếu vi phạm ở những lần
tiếp theo, chủ lao động sẽ phải đối mặt với án tù 12 tháng ngoài việc phải nộp
phạt 48 tháng tiền thuế lao động. Các cơ quan doanh nghiệp bị phát hiện tồn
tại những yếu kém trong quản lý giấy phép lao động sẽ chịu trách nhiệm nộp
phạt ít nhất 48 tháng tiền thuế của lao động nƣớc ngoài.
Chủ lao động bắt buộc phải đóng 5.000 USD tiền đặt cọc an ninh cho
mỗi lao động nƣớc ngoài đƣợc thuê, và khoản tiền trên sẽ đƣợc hoàn lại nếu
lao động hồi hƣơng hoặc trong trƣờng hợp giấy phép của lao động bị thu hồi.
Khoản tiền đặt cọc an ninh này sẽ bị mất nếu lao động nƣớc ngoài mất tích và
chủ lao động không thể triệu hồi những lao động này trong vòng 1 tháng,
hoặc trong trƣờng hợp giúp việc gia đình là ngƣời nƣớc ngoài sinh con tại
Singapore.
Với những quy định của Luật tuyển dụng lao động nƣớc ngoài, chủ lao
động bắt buộc phải giữ một cuốn sổ thông tin cập nhật về những lao động
66
nƣớc ngoài đƣợc tuyển dụng để cung cấp cho cơ quan thanh tra khi đƣợc yêu
cầu. Trong trƣờng hợp có lao động mất tích, chủ lao động phải báo cáo tình
hình cho Bộ Lao động trong vòng 7 ngày. Hoạt động này tạo điều kiện cho
công tác quản lý lao động nƣớc ngoài hiệu quả của Bộ Lao động Singapore.
Nhƣ đã đề cập ở trên, khoản tiền đặt cọc an ninh sẽ bị mất nếu lao động nƣớc
ngoài mất tích không đƣợc tìm thấy và hồi hƣơng.
Khi lao động hết hạn hợp đồng, chủ lao động đƣợc yêu cầu phải hoàn
lại Giấy phép lao động cho Phòng Quản lý Giấy phép lao động trong vòng 7
ngày. Ngƣời nƣớc ngoài không có Giấy phép lao động bị cấm làm việc tại
Singapore và yêu cầu phải quay trở về nƣớc sở tại ngay khi nhận đƣợc hết các
khoản lƣơng, thƣởng. Chủ doanh nghiệp phải sát sao với sự hiện diện của
những đối tƣợng trên và sẽ bị liên đới trách nhiệm nếu bị phát hiện có lao
động nƣớc ngoài không đƣợc phép lao động trong doanh nghiệp mình. Trên
thực tế, nếu bất cứ ngƣời nƣớc ngoài nào đƣợc phát hiện trong cơ sở kinh
doanh của một doanh nghiệp thì mặc nhiên lao động đó đƣợc xem là đang làm
việc cho doanh nghiệp đó nếu không đƣa ra đƣợc lý do thuyết phục. Điều này
góp phần ngăn cản những rắc rối có thể phát sinh bởi lao động bất hợp pháp
tại Singapore. Luật nhập cảnh quy định rõ nếu một ngƣời nhập cƣ trái phép
đƣợc phát hiện trong cơ sở kinh doanh nào thì chủ cơ sở kinh doanh đó đƣợc
xem là đã thuê lao động nhập cƣ trái phép dù biết điều đó là vi phạm pháp
luật. Luật nhập cảnh cũng quy định về mức phạt đối với vi phạm trên gồm xử
phạt hành chính rất nặng, phạt tù hoặc cả hai. Nếu ai cố tình bao che, giúp đỡ
ngƣời nhập cƣ trái phép thì cũng sẽ chịu phạt hành chính rất nặng hoặc phạt
tù. Chính vì vậy, chủ nhà cũng nhƣ chủ lao động cần xác minh thẻ nhập cƣ
của ngƣời thuê nhà cũng nhƣ giấy phép của lao động trƣớc khi tuyển dụng lao
động đó.
Một lƣu ý quan trọng đối với lao động nƣớc ngoài đƣợc quy định trong
Giấy phép lao động là lao động nƣớc ngoài không đƣợc kết hôn với công dân
Singapore cũng nhƣ lao động nƣớc ngoài khác, nếu trƣớc đó không đƣợc
Phòng Quản lý Giấy phép lao động cấp phép. Nếu vi phạm quy định trên, lao
67
động đó sẽ bị trục xuất và bị cấm nhập cảnh Singapore. Những lao động nữ
cũng không đƣợc mang thai hay sinh con trong thời gian làm việc tại
Singapore, nếu vi phạm sẽ bị trục xuất và có khả năng bị mất khoản tiền đặt
cọc an ninh do chủ lao động đóng cho họ trƣớc khi thực hiện hợp đồng lao
động. Lao động nƣớc ngoài cũng không đƣợc tham gia các hoạt động tập thể
có tính chất chống đối, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức; ngƣợc lại sẽ bị
thu hồi giấy phép lao động.
2.4. ĐÁNH GIÁ CÁC CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO ĐỘNG
NƢỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE
2.4.1. Chính sách xuất nhập cảnh và cƣ trú của Singapore
Việc quản lý lao động nhập cƣ tại Singapore hiện nay dựa trên những
quy định về Luật nhập cảnh dƣới dạng giấy phép lao động. Có 3 loại giấy
phép để quản lý cả về số lƣợng và chất lƣợng của lao động nhập cƣ. Một giấy
phép đƣợc cấp cho một doanh nghiệp cụ thể theo yêu cầu của chủ doanh
nghiệp. Đơn xin cấp phép phải ghi rõ lao động nƣớc ngoài đƣợc thuê trong
tƣơng lai xuất xứ từ đâu, công việc họ làm phải đƣợc miêu tả đầy đủ và có
thời hạn lao động. Số lƣợng giấy phép đƣợc cấp có giới hạn cho các chủ
doanh nghiệp. Giới hạn này phụ thuộc vào tỷ lệ giữa ngƣời lao động nƣớc
ngoài với ngƣời dân bản địa Singapore. Tỷ lệ này do Chính phủ đƣa ra cho tất
cả các doanh nghiệp theo lĩnh vực. 03 loại giấy phép lao động đó gồm:
- Giấy phép lao động dành cho lao động phổ thông hoặc lao động có
chuyên môn thấp (Work Permit);
- Thẻ S dành cho lao động có chuyên môn trung bình (S Pass holder);
- Thẻ làm việc dành cho các chuyên gia và các nhà quản lý bậc trung
(Employment Pass);
Bên cạnh việc cấp Giấy phép hành nghề, Thẻ S, Thẻ làm việc cho
những đối tƣợng là ngƣời nƣớc ngoài có mong muốn đƣợc làm việc tại
68
Singapore, Chính phủ Singapore còn áp dụng chính sách nhập cảnh và cƣ trú
linh hoạt với những loại giấy phép ban hành cho từng đối tƣợng cụ thể cũng
có mong muốn làm việc tại Singapore ngắn hạn hay dài hạn:
Giấy phép làm việc ngắn hạn: cấp cho cá nhân làm việc theo dự án
hoặc và đƣợc biệt phái trong khoảng thời gian tối đa là 01 tháng và giấy phép
không đƣợc cấp mới sau khi quá hạn trên.
Giấy phép lao động tạm thời: cấp cho riêng đối tƣợng là phụ nữ
Malaysia, độ tuổi từ 23-58, đến Singapore làm công việc giữ trẻ cho gia đình
ngƣời Malaysia.
Giấy phép tham gia tập huấn: cấp cho công dân nƣớc ngoài tham
gia tập huấn về chuyên môn, quản lý, chuyên gia tại Singapore; sinh viên đại
học tham gia khoá thực tập của trƣờng.
Giấy phép tập huấn chuyên môn: cấp cho học viên bán chuyên
hoặc không chuyên đƣợc đào tạo tại Singapore, có giá trị trong 6 tháng và
không đƣợc cấp mới.
Giấy phép làm việc dành cho sinh viên: sinh viên không cần xin
giấy phép để đƣợc làm thêm tại Singapore nhƣng phải tuân theo các điều kiện
sau: chỉ sinh viên một số trƣờng nhất định mới làm thêm toàn thời gian trong
kỳ nghỉ, bán thời gian trong năm học và chỉ đƣợc làm tối đa 16 giờ/tuần.
Ngoài ra, Singapore còn đƣa ra những quy định liên quan đến thân
nhân lao động nƣớc ngoài với 2 loại giấy phép nhƣ sau:
Giấy bảo lãnh (Dependant‟s Pass): dành cho những ngƣời đƣợc
cấp Thẻ việc làm và Thẻ S đăng ký bảo lãnh cho vợ/chồng hoặc con/con nuôi
dƣới 21 tuổi.
Giấy phép thăm thân ngắn hạn (Long Term Visit Passes): dành
cho những ngƣời đƣợc cấp Thẻ việc làm (P1, P2) bảo lãnh cho vợ/chồng, con
ngoài giá thú trên 21 tuổi, cha mẹ ruột, cha mẹ vợ/chồng, con riêng của
vợ/chồng dƣới 21 tuổi hoặc trẻ khuyết tật trên 21 tuổi.
Chính sách nhập cƣ của Singapore thực sự đã tiến triển theo thời gian
và chứng tỏ đƣợc tính linh hoạt để phù hợp với sự biến động của nền kinh tế.
69
Sự quản lý lao động nhập cƣ của Singapore đƣợc chia làm 3 giai đoạn từ
1965, mỗi giai đoạn có những mục tiêu chính sách khác nhau.
Giai đoạn đầu là thời kỳ thiếu hụt lao động trầm trọng và một cú nhảy
lớn về lao động nhập cƣ từ nƣớc ngoài, nhất là từ Malaysia. Lúc này Giấy
phép lao động đƣợc đƣa ra kèm theo tiền thuế của lao động nƣớc ngoài trong
lĩnh vực xây dựng. Singapore cũng mở rộng chính sách nhập cƣ đối với
những quốc gia khác nhƣ Bangladesh, Ấn Độ, Sri Lanka, Philippine, Thái
Lan, Indonesia. Những giấy phép cũng đƣợc mở rộng đối với lao động làm
việc trong gia đình để tạo điều kiện cho phụ nữ Singapore tham gia vào lực
lƣợng lao động.
Thời kỳ thứ hai bắt đầu từ 1981, với thông báo thay đổi chính sách là
hợp đồng lao động sẽ kết thúc hoàn toàn trƣớc 1986 đối với lao động đến từ
các nƣớc không truyền thống nhƣ Bangladesh, Ấn độ, Sri Lanka, Philipine,
Thái Lan, Indonesia, ngoại trừ ngành xây dựng, đóng tàu, dịch vụ gia đình.
Điều này kèm theo những biện pháp về thuế đối với các lao động nƣớc ngoài
chuyên môn thấp và giới hạn hệ thống an sinh xã hội chỉ dành cho lao động
lành nghề. Trong cơn suy thoái kinh tế 1985-1986, 102.000 công việc bị hủy,
60.000 lao động nƣớc ngoài phải về nƣớc. Một hệ thống thuế toàn diện đƣợc
thực thi vào năm 1987 và tỷ lệ lao động nƣớc ngoài đƣợc công bố (số lƣợng
lao động nƣớc ngoài bị giới hạn ở mức 50% trên tổng số lao động của doanh
nghiệp). Những biện pháp bổ sung để đảm bảo chính sách đƣợc thực thi là
phạt tiền, phạt đòn đối với những ngƣời ở lại quá hạn. Tiêu chuẩn để cấp giấy
phép làm việc và định cƣ lâu dài đƣợc mở rộng vào năm 1989. Theo Luật Lao
động đối với ngƣời nƣớc ngoài năm 1990, các chủ doanh nghiệp mong muốn
thuê lao động nƣớc ngoài phải xin cấp Giấy phép lao động, ai vi phạm sẽ bị
xử phạt hành chính hoặc phạt tù.
Thời kỳ thứ ba trùng với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ diễn ra suốt
thập niên 90. Trong giai đoạn này nhu cầu lao động nƣớc ngoài kể cả hợp
70
pháp và bất hợp pháp của các chủ doanh nghiệp tăng mạnh. Điều này một
phần đã đƣợc tạo điều kiện bởi Chính quyền Singapore đã giảm các hạn chế
về nhập cƣ: tỷ lệ lao động nƣớc ngoài đƣợc mở rộng, tỷ lệ này ở ngành xây
dựng lên tới 7:1, hàng hải là 5:1. Tỷ lệ lao động nƣớc ngoài trong các doanh
nghiệp Singapore đƣợc quy định cụ thể, từ đó mà mức thuế đóng cho từng
ngành/nghề cũng khác nhau. Ví dụ: nếu doanh nghiệp có tỷ lệ lao động nƣớc
ngoài dƣới 30% thì tiền thuế phải trả cho mỗi lao động nƣớc ngoài là 180-280
USD/tháng; đối với doanh nghiệp có tỷ lệ lao động nƣớc ngoài trong phạm vi
từ 50%-65% thì mức thuế cho mỗi lao động là 450 USD/tháng. Điều này dẫn
đến sự gia tăng dân số không định cƣ. Cuối năm 1995 số lƣợng ngƣời nƣớc
ngoài lên tới nửa triệu ngƣời trong đó 70% có Giấy phép lao động chuyên
môn thấp. Nhằm mục tiêu giảm áp lực gia tăng cạnh tranh quốc tế, một nỗ lực
đƣợc dự tính đƣa ra nhằm thu hút nhân tài, những chuyên gia có trình độ cao
thông qua các chính sách khuyến khích bổ sung nhƣ lợi ích về nhà ở. Một hệ
thống phân phối giấy phép chặt chẽ hơn và những biện pháp thực thi nghiêm
khắc hơn đã đƣợc đƣa ra và đem lại hiệu quả vào năm 1998, trong đó quyền
cấp giấy phép chỉ đƣợc cấp cho các nhà thầu chính, những ngƣời sẽ chịu trách
nhiệm đối với lao động nƣớc ngoài của những nhà thầu phụ. Hơn nữa những
nhà thầu chính đƣợc yêu cầu phải thuê lại các lao động làm việc trong các hộ
gia đình bị sa thải hoặc bị bỏ rơi bởi các nhà thầu phụ (nhƣng không áp dụng
đối với các lao động phải hồi hƣơng), nếu không thực hiện điều này sẽ bị mất
5.000S$ khoản tiền đặt cọc an ninh đối với mỗi lao động và sẽ không đƣợc tái
đăng ký cấp giấy phép. Vào tháng 3 năm 1998, các điều chỉnh bổ sung đƣợc
tiến hành để khuyến khích tăng năng suất lao động trong lĩnh vực xây dựng
thông qua việc tăng thuế đối với lao động không lành nghề (từ 440-470 USD
tháng) và giảm thuế đối với lao động lành nghề (từ 200 USD xuống còn 100
USD/tháng). Sự chênh lệch này đã mang đến những khuyến khích đối với chủ
doanh nghiệp để họ thuê những lao động có năng suất cao hơn.
Nhƣ vậy, quá trình hình thành chính sách lao động nhập cƣ của
Singapore diễn ra trong suốt 3 thập niên đã chứng tỏ khả năng điều chỉnh môi
71
trƣờng kinh tế hiện tại bằng những mục tiêu ƣu tiên mới nhất. Ban đầu,
Singapore tạo điều kiện cho dòng nhập cƣ đổ vào để đáp ứng nhu cầu lao
động, kế đến chính sách nhập cƣ đƣợc tiến triển để hạn chế dòng lao động
nhập cƣ một cách chặt chẽ hơn, nhƣng cuối cùng nhu cầu thu hút lao động
chất lƣợng cao đƣợc nhận ra và đƣợc nắm bắt lấy. Những thay đổi chính sách
này đã đạt đƣợc một cách gián tiếp thông qua việc quản lý về giá để tạo sự
thay đổi về số lƣợng và kết cấu, đồng thời cũng đạt đƣợc một cách trực tiếp
thông qua việc hạn chế số lƣợng giấy phép đƣợc cấp. Sự phức tạp của hệ
thống, đặc biệt trong bối cảnh môi trƣờng kinh tế thay đổi, đòi hỏi những điều
chỉnh thƣờng xuyên, thận trọng và quản lý chặt chẽ. Thực tế cho thấy, năm
1991 chính quyền Singapore đã đề nghị cải cách hệ thống bằng cách áp dụng
các giấy phép có thể chuyển nhƣợng mà giá của chúng sẽ đƣợc quyết định
thông qua cơ chế thị trƣờng. Hệ thống này đƣợc đề xuất bởi Bộ Lao động
Singapore. Theo đó, hệ thống cho phép chủ doanh nghiệp đấu thầu những
Giấy phép lao động tăng thêm vƣợt trên tỷ lệ lao động nƣớc ngoài quy định,
các giấy phép cũng đƣợc cấp trong thời hạn 02 năm và mỗi ngành/nghề sẽ có
hệ thống và thị trƣờng chuyển nhƣợng riêng. Mặc dù có những lý lẽ ủng hộ
cho hệ thống này nhƣng đề nghị này đã bị thu hồi do vấp phải sự phản đối từ
phía công đoàn và các chủ doanh nghiệp.
Nói chung kinh nghiệm Singapore cho thấy chính sách nhập cƣ và kinh
tế vĩ mô đã bổ trợ cho nhau, bằng cách nào đó cải thiện tính hiệu quả của cả
hai. Những nhà làm chính sách đã quản lý nguồn lao động nhập cƣ cùng
chung với hoạt động của nền kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện dễ dàng cho các yêu
cầu về giấy phép để thu hút kỹ năng cụ thể hay siết chặt những quy định để sa
thải ngƣời lao động trong những cuộc suy thoái kinh tế. Họ đã sử dụng nguồn
lao động nhập cƣ nhƣ công cụ giảm sốc để chống lại cú sốc lan rộng trong
nền kinh tế. Mặt khác, sự thất bại của cải cách chính sách bất thành về việc
chuyển nhƣợng giấy phép đã chứng tỏ vai trò tiềm năng của các quyền lợi
72
đƣợc bảo đảm bất di bất dịch có quan hệ đến chính sách nhập cƣ và nhu cầu
về lao động. Những thành tích của Singapore đã làm nổi bật sự quan trọng
của một chính sách cẩn trọng và toàn diện mà không bị hủy hoại bởi những
lệch lạc đang diễn ra.
Những nhân tố phụ góp phần tạo nên sự thành công của chính sách lao
động nhập cƣ ở Singapore gồm: sự khác biệt về tiền công giữa công dân
Singapore và không phải là công dân Singapore, một số biện pháp để kiểm
soát số lƣợng và chất lƣợng lao động của ngƣời lao động nhập cƣ, chính sách
ƣu tiên của Singapore đối với cá nhân đã làm tăng tính hiệu quả của chính
sách mặc dù phải chi trả cho các quyền lợi của cá nhân. Hệ thống giấy phép
liên quan tới việc cấp giấy phép mới cũng nhƣ việc làm lại giấy phép đòi hỏi
việc điều hành, thực thi và quản lý hiệu quả. Phòng Quản lý Giấy phép lao
động thuộc Bộ Lao động Singapore giải quyết hồ sơ đăng ký rất hiệu quả. Tốc
độ trung bình là giải quyết hồ sơ chỉ trong 3 ngày đối với việc đăng ký qua
mạng, 7 ngày đối với những trƣờng hợp đăng ký khác.
Cấu trúc nền kinh tế cũng là một nhân tố phụ tác động tích cực tới
chính sách nhập cƣ. Chính sách của Singapore đã cải thiện sự phát triển của
khu vực tƣ nhân, khuyến khích đầu tƣ và sự tham gia của nƣớc ngoài với
quan điểm cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế. Sản xuất của Singapore tập
trung cho xuất khẩu. Singapore nhập khẩu công nghệ, lao động và hàng hóa
trung gian. Mặc dù vai trò của khu vực nhà nƣớc là không thể thiếu nhƣng chỉ
giữ ở qui mô vừa phải (ít hơn 18% trong lĩnh vực sản xuất và 8% trong lĩnh
vực dịch vụ).
Nhƣ vậy, việc quản lý lao động nhập cƣ của Singapore có đƣợc những
thành công nhờ nhiều lý do chứ không chỉ bởi chính sách nhập cƣ hiệu quả,
tuy nhiên không phải mọi sự đều tốt đẹp và thuận lợi. Những thiếu sót thể
hiện trong sự tồn tại của khu vực không chính thống của những ngƣời lao
động nƣớc ngoài bất hợp pháp. Thực tế cho thấy việc thuê lao động nƣớc
ngoài trong khu vực không chính thống đã tăng nhanh gần đây, xảy ra đồng
thời cùng với việc mở rộng giới hạn về lao động nhập cƣ hợp pháp. Những
73
giới hạn và lệ phí xin cấp giấy phép làm tăng sự tuyển dụng lao động bất hợp
pháp, giả mạo giấy tờ cũng nhƣ buôn bán giấy phép bất hợp pháp. Các doanh
nghiệp thuê lao động theo những hợp đồng không chính thức có thể trả lƣơng
thấp hơn và ít quyền lợi hơn so với qui định của pháp luật và có thể áp dụng
những điều kiện làm việc khắc nghiệt hơn. Trong khi ngƣời lao động thì bất
lực trong việc khiếu nại vì sợ bị trục xuất. Hầu hết các bằng chứng cho thấy
chủ doanh nghiệp giữ lại tiền thuê thêm nhờ tránh đƣợc trả thuế và trả lƣơng
cho lao động bất hợp pháp dƣới mức lƣơng của lao động hợp pháp. Tuy nhiên
cũng có vài trƣờng hợp cho thấy chủ doanh nghiệp bù đắp lại cho ngƣời lao
động bất hợp pháp khoản tiết kiệm này, nhờ đó mà những ngƣời này có mức
lƣơng cao hơn ngƣời lao động hợp pháp.
Trong quá trình phát triển, lực lƣợng lao động nƣớc ngoài không chính
thức đã chỉ ra rằng các chính sách quản lý lao động ở Singapore còn thiếu sót
trong quản lý nguồn lao động nƣớc ngoài, bộ phận lao động không chính thức
này đã đóng góp một vai trò không nhỏ trong những thành công của sự phát
triển. Bộ phận lao động này cũng rất năng động, linh hoạt tạo ra việc làm và
tài sản mà có thể hình thành những tiêu chuẩn tiền đề cho phát triển kinh tế.
Nhiều nhà lý luận đã đề nghị rằng dù có những bất lợi thì bộ phận lao động
nƣớc ngoài không chính thức không thể đƣợc miêu tả mơ hồ là một thất bại
của chính sách trong sự đóng góp vào sự phát triển.
Khó khăn mà Singapore phải đƣơng đầu trong quản lý lao động nhập
cƣ là tính toán lệ phí và số lƣợng Giấy phép lao động trong hệ thống kiểm
soát lao động nhập cƣ. Hệ thống này đƣợc thực thi với khả năng quản lý hành
chính chất lƣợng cao, nhƣng cũng kèm theo những biện pháp hà khắc vi phạm
74
quyền lợi cá nhân.
2.4.2. Chính sách thị trƣờng lao động của Singapore
Chƣa bao giờ cuộc cạnh tranh thu hút nhân tài lại diễn ra gay gắt nhƣ
hiện nay, trong đó Singapore đƣợc nhìn nhận là một đất nƣớc có sách lƣợc thu
hút nhân tài nƣớc ngoài có bài bản nhất. Ở đất nƣớc chỉ hơn 5 triệu dân năm
2011 mà có đến gần 2 triệu ngƣời lao động nƣớc ngoài. Trong đó ngƣời lao
động nƣớc ngoài tạo ra tới 41% GDP cho Singapore thì việc thu hút nhân tài
nƣớc ngoài là một vấn đề sống còn, quyết định khả năng cạnh tranh kinh tế
của Singapore. Chính vì vậy mà Sinapore đã có một chính sách thu hút lao
động rất rõ ràng và bài bản.
Là quốc gia đƣợc tạo dựng nên từ những ngƣời nhập cƣ, Singapore
chào đón tất cả những ai có thể đóng góp phần mình vào công cuộc phát triển
kinh tế của đất nƣớc. Tự nhận biết ngƣời tài trong nƣớc là có giới hạn, lãnh
đạo Singapore bắt tay ngay vào việc hoạch định chính sách sử dụng ngƣời
nhập cƣ hay còn gọi là chính sách tuyển mộ nhân tài nƣớc ngoài nhƣ đòn bẩy
về nhân khẩu học để bù vào sự thiếu hụt lực lƣợng lao động bản địa.
Năm 1998, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Singapore thành
lập hẳn Ủy ban Tuyển dụng Tài năng Singapore. Tháng 10/2001, tại một diễn
đàn đại học, ông Lý Quang Diệu nói với các sinh viên rằng: "Muốn thành
công trong lĩnh vực nghệ thuật, y học, giáo dục..., cách duy nhất Singapore
phải thực hiện là mở rộng nhân tài trên khắp thế giới. Chúng ta sẽ thất bại nếu
không phát triển đƣợc đội ngũ này". Hơn thế, lãnh đạo nƣớc này còn xác định
rõ rằng nhân tài "ngoại" không chỉ là "nguồn vốn đặc biệt" về kinh tế, mà họ
còn là động lực mạnh mẽ cho Singapore phấn đấu liên tục vì những chuẩn cao
hơn. Thêm nữa, những ngƣời nhập cƣ cũng góp phần đem lại sự phong phú,
đa dạng, mang thêm màu sắc, sự giàu có và hƣơng vị cho đời sống văn hoá
của Singapore.
Trong 5 năm qua, Singapore đã thu hút đƣợc một bản danh sách ấn
tƣợng những nhà khoa học lỗi lạc của thế giới. Nói đến nhân tài nƣớc ngoài ở
Singapore, có lẽ không thể không kể đến những nhà giải phẫu thần kinh học,
75
các lập trình viên phần mềm, các giám đốc ngân hàng, các các siêu chuyên
gia tầm cỡ thế giới và các giáo sƣ trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển.
Có một điểm cần nói khi bàn về Singapore là chính sách nhân tài nƣớc
ngoài của nƣớc này có nhiều điểm khá giống nƣớc Mỹ. Cả hai nƣớc đều đặt
ra mục tiêu thu hút nhân tài trƣớc, sau đó mới tiến hành phân công công việc
cụ thể:
Chào đón nhân tài ngoại vào bộ máy nhà nước
Chính sách và đƣờng lối táo bạo nhƣ vậy đã dẫn đến sự thay đổi mang
tính đột phá trong con số thống kê nhân khẩu học. Trong số 5 triệu lao động
Singapore có tới 40% là ngƣời nƣớc ngoài. Cựu Thủ tƣớng Lý Quang Diệu
còn khẳng định, nếu một ngày nào đó, bộ máy chính quyền Singapore toàn là
ngƣời có xuất xứ nƣớc ngoài cũng không có gì quá ngạc nhiên.
Singapore có quy định rõ ràng, lƣơng của lao động bình thƣờng ở
Singapore chỉ khoảng 2.000 USD/tháng hoặc cao hơn chút ít. Còn với lao
động nƣớc ngoài có kĩ năng, tay nghề, ngoài việc đƣợc hƣởng lƣơng theo mức
của các nhân tài, họ còn đƣợc phép đƣa ngƣời thân sang sống cùng. Họ đƣợc
cấp giấy phép định cƣ và nhập tịch lâu dài tại Singpapre chỉ trong vài ngày.
Đây là tốc độ nhập tịch nhanh chóng mặt mà bất cứ ngƣời nhập cƣ nào cũng
thèm muốn.
Đi liền với đó, Singapore cũng hạn chế lao động nƣớc ngoài không có
tay nghề bằng việc chi trả thu nhập thấp, không đƣợc phép đƣa ngƣời thân
sang sống cùng. Những chi phí khác cho dịch vụ xã hội của họ cũng cao hơn
ngƣời bình thƣờng. Giống nhƣ Trung Quốc và Mỹ, Chính phủ Singapore
tuyển chọn nhân tài dựa trên năng lực, khả năng đóng góp vào sự phát triển
của đất nƣớc này chứ không phân biệt quốc tịch, chủng tộc của ngƣời nhập
76
cƣ.
Mức lương tương xứng với giá trị của chất xám
Thực chất, trả lƣơng cao là biện pháp không chỉ có một mình Singapore
áp dụng. Tuy nhiên, điểm khác biệt ở chỗ, Singapore có hẳn một chính sách
rõ ràng để thực hiện điều này.
Các Bộ trƣởng Singapore có mức lƣơng cao hơn tất cả các Bộ trƣởng ở
những quốc gia giàu có nhất hành tinh. Vậy nhƣng vào năm 2010, Thủ tƣớng
Lý Hiển Long vẫn quyết định tăng lƣơng cho các Bộ trƣởng, sao cho mức
lƣơng đó phải bằng mức lƣơng của 6 ngƣời đứng đầu các ngành nghề trong
khối tƣ nhân. Tạo ra sự yên tâm cho lãnh đạo, một phần chính sách này muốn
hạn chế nạn tham nhũng, minh bạch hóa chính phủ, đồng thời tạo đà cho các
Bộ trƣởng dành hết tâm sức cho công việc quản lý hoạch định chính sách. Ở
Mỹ, lƣơng của Tổng thống là 400.000 USD/năm. Ở Anh, lƣơng của Thủ
tƣớng là 368.655 USD/năm, lƣơng của các Bộ trƣởng trong khoảng 196.000-
268.000 USD/năm. Trong khi đó, lƣơng của Thủ tƣớng Lý Hiển Long là 2,05
triệu USD/năm. Hiện tại, mức lƣơng của Thủ tƣớng và các Bộ trƣởng vẫn có
khả năng tăng cao hơn con số 1,26 triệu USD.
Đầu tư, trợ cấp giáo dục - hoạt động không thể thiếu
Singapore có đội ngũ lao động cấp cao hàng đầu thế giới. Sở dĩ nói nhƣ
vậy vì những ngƣời này tạo ra năng suất vô cùng lớn, thành thạo về chuyên
môn, kĩ thuật và có thái độ làm việc tích cực. Nhƣng để có đƣợc điều này,
Singapore đã phải liên tục đầu tƣ vào việc đào tạo cả một thế hệ thông qua
con đƣờng giáo dục.
Singapore cũng xác định giáo dục là một kênh hữu hiệu thu hút du học
sinh nƣớc ngoài. Chính vì vậy, ngoài cải tiến hệ thống giáo dục, Singapore
cũng có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho các giáo sƣ tiến sĩ. Hiện tại, du học sinh
đến Singapore là rất lớn và nƣớc này cũng là một trong những trung tâm đào
tạo uy tín của thế giới. Có thể kể đến các trƣờng đại học danh tiếng nhƣ Công
nghệ Nanyang (NTU), Học viện Phát triển Quản lý Singapore (MDIS), Đại
học Quốc gia Singapore (NUS), ... Sinh viên nƣớc ngoài đến học tập tại
77
Singapore đƣợc vay tiền để chi trả cho những chi phí cần thiết về sinh hoạt và
học tập. Sau khi tốt nghiệp với kết quả học tập cao, những cử nhân "ngoại"
này phải cam kết làm việc cho một công ty nào đó của Singapore ít nhất là 3
năm để trả nợ.
Tạo niềm tin người tài luôn đứng ở vị trí cao
Biệt đãi ngƣời tài không chƣa đủ, mà cần tạo niềm tin ở nơi họ. Những
ngƣời tài ngoài thu nhập, nhu cầu đƣợc cống hiến, đƣợc tôn trọng và đƣợc
vinh danh là rất lớn. Thực tế quản lý bộ máy đất nƣớc Singapore cho thấy,
những ngƣời đứng đầu đất nƣớc Singapore hiện nay đều là những ngƣời rất
giỏi. Bản thân ông Lý Quang Diệu - Thủ tƣớng đầu tiên của quốc đảo tốt
nghiệp ngành luật tại trƣờng đại học danh tiếng Cambridge. Cựu Thủ tƣớng
Goh Chok Tong cũng tốt nghiệp trƣờng Williams College, Mỹ, về chuyên
ngành Phát triển Kinh tế. Đƣơng kim Thủ tƣớng Lý Hiển Long cũng tốt
nghiệp trƣờng Đại học Cambridge của Anh về ngành toán và vi tính. Sau đó
ông Lý Hiển Long còn tham gia học về ngành Hành chính công tại Đại học
Harvard - Mỹ. Các Bộ trƣởng Singapore cũng đều tốt nghiệp các trƣờng đại
học nổi tiếng tầm cỡ thế giới. Ông Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ ràng:
Lãnh đạo giỏi là đầu tàu định hƣớng cho đất nƣớc phát triển, nên không thể
thăng quan tiến chức nhờ quan hệ cửa trƣớc cửa sau hay sẵn sàng ngã giá để
mua danh bán tƣớc. Ông nói: "Lãnh đạo dốt sẽ ngáng chân những ngƣời giỏi,
không cho họ ngồi vào những vị trí quan trọng". Ở Singapore, những ngƣời
tài thực sự đƣợc coi là thịt, là da đắp vào bộ khung lãnh đạo quốc gia.Yeo
Cheow Tong - Bộ trƣởng Truyền thông và Thông tin của nƣớc này từng nhận
xét Singapore đang tham gia vào "cuộc chiến toàn cầu để giành giật nhân tài".
Báo chí liên tục ca ngợi nhân tài là "ngƣời tham gia quan trọng đối với nền
kinh tế, quyết định sự ổn định của nền kinh tế trong thời buổi cạnh tranh toàn
78
cầu".
Ưu đãi lao động giỏi
Đặc điểm chính của chính sách lao động Singapore là hạn chế tuyển
dụng lao động nƣớc ngoài có kỹ năng thấp, trong khi tạo mọi điều kiện thuận
lợi và ƣu đãi nhằm thu hút lao động có kỹ năng cao.
Theo qui định, lao động có tay nghề thấp có mức lƣơng dƣới 2.000
USD. Việc tuyển dụng lao động loại này hƣớng vào một số nƣớc, một số
ngành cụ thể và chịu một số hạn chế. Trong khi đó, chính phủ hết sức khuyến
khích tuyển dụng những lao động có tay nghề cao với mức lƣơng trên 2.000
USD. Nếu đƣợc chủ lao động nhận, lao động diện này đƣợc cấp Giấy phép
lao động ngay chỉ trong vài ngày và đƣợc bảo lãnh ngƣời thân sang sống cùng
tại Singapore.
Singapore cũng rất chú trọng tuyển dụng nhân tài nƣớc ngoài thông qua
kênh giáo dục. Hiện tại, Singapore có 35.000 sinh viên nƣớc ngoài theo học
tại các trƣờng đại học. Tại các trƣờng nhƣ Đại học Quốc gia Singapore
(NUS), Đại học Kỹ thuật Nanyang, Đại học Quản lý Singapore, số sinh viên
nƣớc ngoài chiếm 20%. Nhiều sinh viên VN theo học tại NUS cho biết họ
sang học dƣới dạng vay tiền của Chính phủ Singapore. Đổi lại, sau khi tốt
nghiệp các bạn trẻ này có nghĩa vụ làm việc cho một công ty của Singapore
tại Singapore hoặc bất kỳ nƣớc nào khác trong thời gian tối thiểu 03 năm để
trả nợ. Với cách làm này, Chính phủ Singapore luôn có nguồn lao động chất
lƣợng cao đƣợc bổ sung hằng năm để làm việc cho các công ty Singapore.
Các trƣờng đại học của Singapore bù lại cũng có điều kiện và động lực để đầu
tƣ hiện đại hóa trƣờng học theo tiêu chuẩn quốc tế và nhu cầu của thị trƣờng
lao động.
Lưu thông chất xám
Ngƣời Singapore thích nói đến câu “tiền nào của nấy”. Họ tin rằng chỉ
có nhờ sử dụng lao động chất lƣợng cao, trong đó có lao động nƣớc ngoài,
Singapore mới có thể làm ra hàng hóa và dịch vụ chất lƣợng cao. Quan niệm
“chảy máu chất xám” nay đã lỗi thời. Gần đây các nƣớc đều nói nhiều hơn
79
đến khái niệm “lƣu thông chất xám” nhằm tạo mọi điều kiện cho chất xám
đƣợc di chuyển đến những nơi nào mà nó có thể đƣợc phát triển tốt nhất.
Ngƣời lao động có kỹ năng khi đi làm việc ở nƣớc ngoài không hẳn đã cắt đứt
quan hệ với quê hƣơng: đó là dịp để họ nâng cao tay nghề, chuyển giao công
nghệ, tạo ra những kết nối với bên ngoài và chƣa kể nguồn kiều hối họ
chuyển về quê nhà.
Singapore coi việc tập trung phát triển, thu hút và sử dụng nhân tài là
nhân tố sống còn đối với việc duy trì khả năng cạnh tranh trong giai đoạn phát
triển mới. Chính điều này đã và sẽ tiếp tục giúp Singapore “đứng trên vai”
những ngƣời khổng lồ nhƣ Trung Quốc và Ấn Độ.
Do vậy, tạp chí Foreign Policy xếp Singapore là quốc gia toàn cầu hóa
nhất trên thế giới. Với một chính sách bài bản và đúng đắn nhƣ vậy,
Singapore xứng đáng với tên gọi "Trung tâm thu hút nhân tài" của thế giới.
2.4.2. Chính sách thƣơng mại và đầu tƣ của Singapore
2.4.2.1. Chính sách thƣơng mại
Là một trong bốn con rồng của châu Á, Singapore nổi lên nhƣ một
điểm sáng về phát triển kinh tế. Mặc dù là một quốc đảo nhỏ và nghèo tài
nguyên nhƣng với việc thực hiện thành công mô hình chính sách tự do hóa
thƣơng mại và thúc đẩy xuất khẩu Singapore đã xây dựng đƣợc một nền
thƣơng mại năng động, hiện đại và vững mạnh, từ đó trở thành một điển hình
cho nền kinh tế khu vực và thế giới.
Thành lập Cục Xúc tiến thương mại Singapore:
Cục Xúc tiến thƣơng mại Singapore (TDB) đƣợc thành lập vào năm
1983. TDB chịu trách nhiệm chính trong việc thúc đẩy Singapore tiến nhanh
trên đấu trƣờng thƣơng mại quốc tế, bảo vệ quyền lợi kinh tế của đảo quốc,
đồng thời giới thiệu sản phẩm của Singapore trên khắp thế giới. Trong những
năm qua, TDB đã nói lên tiếng nói của mình tại các tổ chức thƣơng mại quốc
tế nhằm bảo vệ và nâng cao quyền lợi thƣơng mại của Singapore. TDB cũng
80
chú trọng mở rộng hoạt động ngoài nƣớc. Hiện nay TDB có hơn 30 văn
phòng thƣơng mại trên khắp thế giới, với chức năng quảng bá cho nền thƣơng
mại Singapore và quan trọng hơn cả là hỗ trợ các công ty Singapore trong
giao thƣơng quốc tế. Sự hỗ trợ này đƣợc thể hiện một cách nhuần nhuyễn và
đa dạng thông qua các đoàn công tác, các hội chợ thƣơng mại để tìm cơ hội
hợp tác và đầu tƣ. Tính đến nay, đã có hơn 140 công ty trên thế giới đặt cơ
quan đầu não của họ tại Singapore. Nhiều công ty khác đang toan tính làm
việc này. Chính quyết định đặt trụ sở của họ tại Singapore đã góp phần biến
đảo quốc này thành một trung tâm thƣơng mại quốc tế. Về mặt hàng hải,
Singapore là hải cảng bận rộn nhất thế giới, đồng thời là một trung tâm dịch
vụ hậu cần và vận chuyển quốc tế.
Thực hiện tự do hóa thương mại thông qua cắt giảm thuế quan:
Singapore tích cực tham gia vào hoạt động của các tổ chức thƣơng mại
đa phƣơng hay khu vực nhƣ Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO), Tổ chức
Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình dƣơng (APEC), Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN). Các nỗ lực song phƣơng cũng đƣợc thực hiện với
các tổ chức và chính phủ nƣớc ngoài nhằm mục đích trao đổi thông tin, tự do
hoá thƣơng mại, tiến đến hợp tác đầu tƣ.
Chính sách cắt giảm thuế quan đƣợc Singapore thực hiện đúng với lộ
trình đã quy định của các tổ chức mà Singapore tham gia. Hiện nay,
Singapore đƣợc coi là thị trƣờng tự do nhất khu vực Đông Nam Á. Singapore
còn là thị trƣờng xuất nhập khẩu hoàn toàn tự do, 96% hàng hóa xuất nhập
khẩu không có thuế (thuế suất = 0). Nhờ việc thực hiện thành công chính sách
tự do hóa thƣơng mại thông qua cắt giảm thuế quan, hoạt động thƣơng mại
quốc tế của Singapore ngày càng đƣợc mở rộng tới các quốc gia và các vùng
lãnh thổ.
Đối tác thương mại:
+ Thời kì trƣớc 1990: chú trọng phát triển quan hệ thƣơng mại với Tây
Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
81
Chính sách này khá thành công vì quan hệ với các nƣớc phát triển đã
mang lại cho Singapore nhiều lợi thế: nhận đƣợc viện trợ cũng nhƣ các khoản
đầu tƣ rất là lớn từ các nƣớc này (đặc biệt là Hoa Kỳ). Singapore đã đƣợc các
nƣớc phát triển cho hƣởng quy chế tối huệ quốc về thƣơng mại trong suốt một
thời gian dài. Những nƣớc phát triển nhƣ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Tây Âu là
những thị trƣờng lớn của Singapore (chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất
khẩu năm 1989) đã giúp nền kinh tế Singapore tăng trƣởng với tốc độ cao.
Tuy nhiên, việc chú trọng phát triển quan hệ thƣơng mại với các nƣớc
phát triển làm Singapore phụ thuộc rất lớn vào các nƣớc này về vốn, công nghệ,
thị trƣờng (vốn đầu tƣ nƣớc ngoài chiếm 85% tổng vốn đầu tƣ, chủ yếu là từ các
nƣớc trên).
+ Thời kì sau năm 1990:
Tình hình thế giới có nhiều biến động: Liên Xô tan rã, kết thúc chiến
tranh lạnh, trên thế giới xuất hiện nhiều xu thế hòa bình, hợp tác, cùng phát
triển
Việc thay đổi trong đối tác thƣơng mại của Singapore là đúng đắn:
không chỉ với các nƣớc phát triển trƣớc đây (Hoa Kỳ, Nhật Bản, Tây Âu) mà
còn với các nƣớc đang phát triển, nhằm tìm kiếm các thị trƣờng mới, tránh
phụ thuộc vào thị trƣờng các nƣớc phát triển.
Singapore đã thực hiện thành công mô hình chính sách tự do hóa
thƣơng mại và thúc đẩy xuất khẩu. Điều đó đƣợc chứng minh qua những
thành tựu về thƣơng mại mà Singapore đạt đƣợc. Hiện nay Singapore đƣợc
xem nhƣ là trung tâm thƣơng mại, đầu tƣ của khu vực. Giá trị xuất khẩu của
Singapore so với giá trị xuất khẩu của các quốc gia khác chiếm tỷ trọng lớn
trong kim ngạch xuất nhập khẩu của các quốc gia mà Singapore xuất khẩu
sang, ví dụ: xuất khẩu sang các nƣớc châu Á giai đoạn 1999-2007 chiếm
50%, sang Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông trung bình 16% trong giai
đoạn này. Năm 2010, lƣợng hàng hóa XK tăng 23% và tăng cao nhất trong 7
82
năm gần đây (theo Bloomberg). Trong bốn thập kỷ qua, tăng trƣởng GDP
bình quân của Singapore đã đạt 10%, giá trị xuất khẩu cao gấp 3 lần GDP của
Singapore. Đó là những thành tựu vô cùng giá trị của Singapore mà nhiều
nƣớc phải nể phục và học tập.
Bảng 2.5: Tổng thƣơng mại xuất khẩu của Singapore qua vài năm
Đơn vị: triệu đôla Singapore
2008 2009 6 tháng đầu năm
2010
Tổng thƣơng mại xuất nhập 715.722,8 810.483,3 404.782,1 khẩu 13,8 13,2 - Tăng trƣởng (%) 333.190,8 378.924,1 188.142,8 + Nhập khẩu 13,6 13,7 - Tăng trƣởng (%) 382.532,0 431.559,2 216.639,3 + Xuất khẩu 14,0 12,8 - Tăng trƣởng (%)
Trong đó: theo khu vực
+ Với Châu Á 497.422,5 564.005,6 -
+ Với Châu Mỹ 92.042,7 108.280,8 -
+ Với Châu Âu 94.261,6 101.007,7 -
+ Với Châu Đại Dƣơng 25.174,7 29.084,5 -
+ Với Châu Phi 6.821,2 8.104,7 -
(Nguồn: www.mom.gov.sg.(13/9/2010), International Enterprise
Singapore)
2.4.2.2. Chính sách đầu tƣ
Hiện nay chính phủ Singapore thúc đẩy mạnh đầu tƣ ra nƣớc ngoài kết
hợp với thu hút đầu tƣ từ các quốc gia khác vào Singapore. Năm 1991, chính
phủ đã đƣa ra báo cáo “Chiến lƣợc kinh tế” nhấn mạnh tính cấp thiết của đầu
tƣ ra nƣớc ngoài. Các chính sách đã giúp Singapore trở thành một đất nƣớc có
sức hấp dẫn nhất trên thế giới:
83
Tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích thu hút vốn đầu tư
nước ngoài (FDI):
Ƣu đãi thuế cho trái phiếu; luật bảo mật thông tin ngân hàng; luật ủy
thác cho phép nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc lựa chọn ngƣời thừa hƣởng tài sản
sau khi họ qua đời (nhằm thu hút khách hàng Trung Đông); ngƣời nƣớc ngoài
có thể định cƣ mãi mãi ở Singapore miễn là họ có tài sản 13 triệu USD, với ít
nhất 3,1 triệu USD nằm tại một định chế tài chính ở đây. Singapore giờ đây
đã đƣợc Ngân hàng thế giới (WB) xếp vào danh mục địa điểm kinh doanh dễ
dàng nhất với một hải cảng container lớn thứ hai thế giới và có tỷ lệ các tỷ
phủ cao nhất thế giới. Nhiều ngƣời cho rằng Singapore chính là nơi tạo cho
họ nhiều cơ hội thăng tiến. Chính phủ nƣớc này đã hành động khôn ngoan khi
đầu tƣ vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng bến cảng container
mới, thu hút các công ty nƣớc ngoài và phát triển ngành công nghệ cao nhƣ
điện tử và dƣợc phẩm. Sau khi mời gọi đƣợc các nhà sản xuất dƣợc phẩm nhƣ
Pfizer Inc. và Novartis AG, Singapore đã đầu tƣ hơn 400 triệu USD vào trung
tâm nghiên cứu y sinh học, cắt giảm 9% mức thuế doanh nghiệp xuống chỉ còn
17% so với 25% mà các công ty ở Malaysia phải gánh chịu.
Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư ra nước ngoài:
Hỗ trợ vốn thông qua vốn tín dụng ƣu đãi: Chính phủ sẽ cung cấp một
phần tài chính đầu tƣ ra nƣớc ngoài, mặt khác giúp các công ty này phát hành
cổ phiếu trên thị trƣờng để huy động thêm vốn với các xí nghiệp vừa và nhỏ
đƣợc tài trợ thông qua Quỹ hỗ trợ đầu tƣ nƣớc ngoài.
Miễn giảm thuế thu nhập công ty cho các công ty đầu tƣ ra nƣớc ngoài:
Chính phủ quy định tất cả các xí nghiệp đầu tƣ ra nƣớc ngoài mà có đƣợc lợi
nhuận đều có thể xin miễn thuế, kể cả các xí nghiệp đầu tƣ vào các nƣớc chƣa
có Hiệp định bảo hộ với Singapore vẫn đƣợc quyền miễn thuế.
Thành lập Câu lạc bộ đầu tƣ ra nƣớc ngoài: hiện nay Singapore đã có
48 câu lạc bộ đầu tƣ hải ngoại cung cấp thông tin về các nƣớc và khu vực có
84
đầu tƣ của Singapore, tìm kiếm đối tác mới, tƣ vấn đầu tƣ, chia sẻ kinh
nghiệm, mở lớp đào tạo, huấn luyện phục vụ cho việc đầu tƣ ra nƣớc ngoài.
Tháng 1/1993, Singapore còn lập Ủy ban Xúc tiến đầu tƣ ra nƣớc ngoài với
nhiệm vụ đánh giá khả năng đầu tƣ của các xí nghiệp và đệ trình lên Chính
phủ những kiến nghị có tính khả thi.
Thị trường đầu tư: ban đầu chú trọng đầu tư vào Trung Quốc và
các nước ASEAN khác, sau đó mở rộng sang các nước khác trên thế giới.
Từ đầu thập kỉ 90 đến nay, Singapore đẩy mạnh xây dựng những khu
mậu dịch ở các nƣớc ASEAN nhƣ Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan
và đặc biệt chú trọng tới 02 nƣớc trong khu vực là Trung Quốc và Ấn Độ.
Châu Á giữ vị trí hàng đầu cho các công ty Singapore đầu tƣ ở nƣớc ngoài khi
đầu tƣ nƣớc ngoài từ khu vực doanh nghiệp của Singapore đã tăng 12,4% đạt
372 tỷ USD vào cuối năm 2010. Singapore đầu tƣ ở châu Á chủ yếu ở Trung
Quốc, Malaysia, Indonesia và Hồng Kông.
Đầu tƣ trực tiếp tại Trung Quốc chủ yếu trong sản xuất tăng 14,7% đến
25 tỉ USD vào cuối năm 2010. Ở Trung Quốc, Singapore đã đầu tƣ hàng tỷ
USD để kinh doanh với những dự án khổng lồ nhƣ xây dựng các khu công
nghiệp ở Tô Châu, Sơn Đông, Tứ Xuyên. Trong đó ở Thƣợng Hải, Singapore
đã liên kết với các nhà đầu tƣ Nhật Bản và Hàn Quốc xây dựng nhà ở tại khu
phố Đông, là dự án đầu tƣ lớn nhất của Singapore ở nƣớc ngoài. Hiện tại,
Trung Quốc cũng là nơi mà Singapore bỏ tiền đầu tƣ ở nƣớc ngoài nhiều nhất
với tổng kim ngạch đến 50 tỉ SGD tính đến cuối năm 2009.
Singapore cũng có những dự án đầu tƣ lớn tại Ấn Độ. Năm 1995,
Singapore và Ấn Độ đã kí Hiệp định xây dựng tại ngoại ô thành phố Bancara
1 khu kinh tế cao cấp quốc tế với số lƣợng hàng năm khoảng 600 triệu USD.
Bên cạnh đó, Singapore còn nhiều dự án đầu tƣ khá lớn, xây dựng khách sạn,
nhà hàng, nâng cấp sân bay và các hãng hàng không nội địa của Ấn Độ. Cơ
quan thƣơng mại hàng đầu của Ấn Độ - Hiệp hội Các phòng Thƣơng mại và
Công nghiệp Ấn Độ (FICCI) trong một bản báo cáo gần đây cho biết (FDI)
85
của Singapore vào Ấn Độ vào năm 2008 đã tăng lên 11,69 tỷ RM, cao hơn
nhiều với mức 1 tỷ RM vào năm 2005.
Đầu tƣ vào Indonesia chủ yếu là trong các dịch vụ sản xuất, tài chính -
bảo hiểm và thông tin - truyền thông.
Ngoài các nƣớc châu Á, vốn đầu tƣ trực tiếp của Singapore đã lan tỏa
ra các nƣớc khác ở Nam Thái Bình Dƣơng, Bắc Mỹ và châu Âu. Bên cạnh
châu Á, Nam - Trung Mỹ và vùng Caribbean cũng chiếm hơn 25% vốn đầu tƣ
trực tiếp của Singapore. Đầu tƣ chính là vào các công ty cổ phần, chủ yếu về
dịch vụ tài chính - bảo hiểm. Các khu vực khác có đầu tƣ đáng kể từ các công
ty Singapore là châu Âu và Hoa Kỳ.
Đối với Việt Nam, riêng năm 1993 Singapore đã đầu tƣ vào 54 dự án
với tổng số vốn lên tới 431 triệu USD, dẫn đầu ASEAN và đứng thứ 6 trong
số các nƣớc đầu tƣ vào Việt Nam. Năm 1994, Singapore đã vƣơn lên thành
nƣớc thứ 4 đầu tƣ vào Việt Nam với tổng số vốn 1,24 tỷ USD. Tháng 7/1997,
Singapore trở thành nhà đầu tƣ nƣớc ngoài lớn nhất tại Việt Nam khi đầu tƣ
vào 156 dự án tổng số vốn 5,13 tỷ USD. Đầu tƣ trực tiếp của Singapore vào
Việt Nam liên tục tăng. Tính đến hết tháng 12/2005, Singapore có 396 dự án
tại Việt Nam với số vốn đăng ký 7,6 tỷ USD trong đó vốn đầu tƣ thực hiện
đạt 3,45 tỷ USD. Vốn đầu tƣ của Singapore trải đều trong các lĩnh vực của
nền kinh tế Việt Nam, tập trung nhiều vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, dịch vụ và
kinh doanh bất động sản. Theo Tổng cục Thống kê, trong số 51 quốc gia và
vùng lãnh thổ có dự án đầu tƣ cấp mới vào Việt Nam năm 2010, Singapore là
nhà đầu tƣ lớn nhất với hơn 4,35 tỷ USD - chiếm 25,2% tổng vốn đăng ký cấp
mới; tiếp đến là Hà Lan 2,364 tỷ USD - chiếm 13,7%; Nhật Bản đứng thứ 3
86
với 2,04 tỷ USD, tiếp đó là Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài Loan ...
CHƢƠNG 3
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ LAO
ĐỘNG NƢỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE ĐỐI VỚI VIỆT NAM
3.1.NHỮNG NÉT TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VIỆT
NAM VÀ SINGAPORE
3.1.1.Những nét tƣơng đồng
3.1.1.1. Tƣ tƣởng văn hóa
Singapore là một quốc gia trẻ nhiều dân tộc và đa sắc thái văn hóa. Dân
số Singapore là gần 5,01 triệu ngƣời ( tính đến tháng 6 năm 2010). Về thành
phần dân tộc thì ngƣời Hoa là nhóm dân tộc chính (chiếm tới 76,7%), nhóm
tộc ngƣời lớn thứ hai là ngƣời Mã Lai (chiếm 14% dân số), thứ 3 là cộng
đồng ngƣời Ấn độ chiếm khoảng 7%, ngoài ra còn có cộng đồng ngƣời châu
Âu, ngƣời Ả rập và nhóm tộc ít ngƣời khác
Việt Nam cũng là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tộc anh em). Dân tộc
Kinh chiếm đa số (87% dân số cả nƣớc) còn các dân tộc khác nhƣ Tày, Thái,
Mƣờng, Nùng….phân bổ chủ yếu ở các vùng núi (chiếm 2/3 lãnh thổ) trải dài
từ bắc vào nam
Ở Singapore đại đa số ngƣời Hoa theo Phật Giáo. Còn hầu hết ngƣời
Mã lai theo hồi giáo, ngƣời Ấn độ theo đạo Hindu, ngƣời châu Âu theo đạo
thiên chúa
Ở Việt nam thì Phật giáo đƣợc phổ biến rộng khắp, ngoài ra còn có các
tôn giáo khác nhƣ nho giáo, đạo giáo, thiên chua giáo thì không đƣợc phổ
biến rộng rãi bằng
Nhƣ vậy Việt Nam và Singapore tìm thấy điểm chung ở văn hóa Phật
giáo nên sinh hoạt và ứng xử trong gia đình cũng có nhiều nét tƣơng đồng. Từ
đó dẫn đến một nền văn hóa khá giống nhau.
87
3.1.1.2. Chính sách mở cửa và thu hút lao động nƣớc ngoài
Sau một thời gian dài đóng cửa bài ngoại, Việt Nam đã nhận ra rằng
một quốc gia không thể phát triển bằng cách đóng cửa tự lực cánh sinh mà
không liên hệ với bên ngoài. Vì thế Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã mở ra kỷ nguyên phát triển mới của đất nƣớc. Đảng và Chính
phủ Việt Nam tuyên bố mở cửa hội nhập với thế giới, “Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nƣớc” không phân biệt chế độ chính trị, kinh tế, hợp tác
cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và công việc nội bộ của nhau, mở cửa
khuyến khích, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, lao động nƣớc ngoài có trình độ để
phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc giống nhƣ cách mà
Chính phủ Singapore đã thực hiện từ sau khi giành đƣợc độc lập
3.1.1.3. Lợi thế so sánh về địa lý và nguồn nhân công
Nằm trong khu vực tăng trƣởng năng động nhất của thế giới, Việt Nam
và Singapore còn có rất nhiều lợi thế về địa lý để phát triển kinh tế hƣớng
ngoại. Nằm ở cửa ngõ của Đông Nam á, Việt Nam còn có rất nhiều lợi thế về
địa lý để phát triển, Việt Nam là đầu mối giao lƣu kinh tế của khu vực với các
khu vực khác trên thế giới. Đƣờng bờ biển kéo dài từ bắc xuống nam và nhiều
cảng biển quan trọng là những ƣu thế của Việt Nam trong giao thƣơng quốc tế.
Singapore cũng có một hải cảng chiến lƣợc, có thể cạnh tranh với các
nƣớc láng giềng để thực hiện các hoạt động buôn bán, xuất nhập khẩu. Thành
phố hải cảng của Singapore là một trong những nơi bận rộn nhất trên thế giới,
vƣợt xa Hong Kong và Thƣợng Hải. Thêm vào đó, thành phố hải cảng của
Singapore có cơ sở hạ tầng tốt và lực lƣợng lao động có tay nghề cao nhờ các
chính sách giáo dục của đất nƣớc trong việc đào tạo nghề cho công nhân, nó
cũng là nền tảng cho việc phát triển kinh tế của đất nƣớc.
Bên cạnh lợi thế so sánh về địa lý, Việt Nam và Singapore còn có lợi
thế về nguồn nhân lực. Việt Nam có nguồn nhân công dồi dào, giá nhân công
rẻ thuộc hàng thấp nhất trên thế giới. Singapore thì có nguồn nhân lực có trình
88
độ cao, thích ứng nhanh với trình độ phát triển của khoa học công nghệ. Hầu
hết ngƣời lao động của hai nƣớc đều cần cù thông minh, nét đặc trƣng của
ngƣời Á Đông
3.1.2. Những nét khác biệt cơ bản
3.1.2.1. Thể chế chính trị xã hội
Ở Singapore có 22 đảng phái chính trị khác nhau trong đó Đảng Hành
Động Nhân Dân (PAP) cầm quyền từ hơn 30 năm nay. Lãnh tụ của Đảng này
trƣớc đây là ông Lý Quang Diệu và hiện nay là ông Lý Hiển Long
Theo hiến pháp, Singapore là một nƣớc cộng hòa đứng đầu nhà nƣớc là
Tổng thống do toàn dân lựa chọn theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Đứng
đầu chính phủ là Thủ tƣớng. Thủ tƣớng và các thành viên nội các do Tổng
thống bổ nhiệm từ các đại biểu của nghị viện. Tổ chức Nhà nƣớc gồm 3 cơ
quan chính: Cơ quan lập pháp (gồm nghị viện và hội đồng Tổng thống), cơ
quan hành pháp (bao gồm các bộ, ban ngành chức năng của chính phủ), cơ
quan xét xử (gồm toàn án tối cao và tòa án địa phƣơng)
Khác với Singapore có 22 đảng phái chính trị khác nhau thì Việt Nam
chỉ có một đảng lãnh đạo duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Vai trò lãnh
đạo tuyệt đối của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đƣợc ghi rõ trong điều 4 của
Hiến pháp nƣớc Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Đảng Cộng Sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có Ban chấp hành Trung ƣơng, Ban chấp hành Trung ƣơng bầu ra bộ chính trị
và Tổng bí thƣ. Tổng bí thƣ đầu tiên của Đảng là đồng chí Trần Phú và hiện
nay là đồng chí Nguyễn Phú Trọng
Tổ chức bộ máy Nhà nƣớc gồm: quốc hội (cơ quan lập hiến, lập pháp),
chính phủ (cơ quan hành pháp), tòa án nhân dân tối cao,viện kiểm sát nhân
dân tối cao (cơ quan tƣ pháp). Ngoài ra ở Việt Nam còn có Mặt trận tổ quốc
Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức công đoàn, hội
phụ nữ, Đoàn thanh niên….
Nhƣ vậy mặc dù Việt Nam và Singapore có chế độ chính trị khác nhau
song trong xu hƣớng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ nhƣ hiện nay thì hợp
89
tác chặt chẽ giữa các quốc gia, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, không phân biệt chế độ chính trị xã hội đƣợc đƣa lên hàng đầu nên sự
khác biệt này sẽ không phải là rào cản. Ngƣợc lại đây là cơ hội để Việt Nam
có thể trao đổi với một quốc gia phát triển nhất khu vực Đông Nam Á đồng
thời học tập Singapore về cách quản lý về mọi mặt
3.1.2.2.Quy mô thị trƣờng và nguồn tài nguyên
Việt Nam là một thì trƣờng rộng lớn với hơn 80 triệu dân có nhiều ƣu
thế về tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng bậc nhất thế giới hơn hẳn
Singapore.
Chủng loại và số lƣợng cơ bản của nó có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu xây
dựng và phát triển của đất nƣớc
Singapore là một nƣớc nhỏ, với dân số chỉ xấp xỉ 5,1 triệu ngƣời tài
nguyên thiên nhiên hầu nhƣ không có gì, hầu hết nguyên liệu để phục vụ cho
phát triển sản xuất đều phải nhập từ nƣớc ngoài. Nhƣ vậy nếu so với chúng ta
về quy mô thì Singapore chỉ là một nƣớc nhỏ
3.1.2.3. Trình độ phát triển của nền kinh tế
Việt Nam ở giai đoạn đầu mở cửa cải cách cũng có những điểm giống
hầu hết các nƣớc đang phát triển khác ở Châu Á. Đi lên từ một nền nông
nghiệp lạc hậu, sản xuất manh mún, phân tán, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là
nông sản và nguyên liệu thô. Thu nhập bình quân đầu ngƣời thấp, cơ sở vật
chất, kỹ thuật, hạ tầng thấp kém. Công nghiệp chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ, nông
nghiệp chiếm ƣu thế nhƣng lại hết sức lạc hậu. Trình độ sản xuất thấp kém,
tụt hậu nhiều năm so với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới
Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao
hàng đầu châu Á và thế giới nhƣ: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa
tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến, điện tử và lắp ráp máy móc tinh vi.
Singapore có 12 khu vực công nghiệp lớn, trong đó lớn nhất là Khu công
90
nghiệp Jurong. Singapore là nƣớc hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử
và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh
hàng đầu ở Châu Á.
Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm
40% thu nhập quốc dân
Singapore cũng đƣợc coi là nƣớc đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền
kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến
Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối của mạng lƣới
mới trong nền kinh tế toàn cầu và châu Á và một nền kinh tế đa dạng nhạy
cảm kinh doanh.
3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.2.1.Tình hình quản lý lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay
3.2.1.1. Xây dựng và ban hành chính sách
Qua số liệu báo cáo của các sở lao động, thƣơng binh và xã hội tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ƣơng và các ban quản lý khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu kinh tế, số lƣợng lao động nƣớc ngoài vào Việt Nam làm việc
qua các năm tăng đáng kể, đặc biệt là những năm gần đây.
Trƣớc năm 2000, lao động nƣớc ngoài đã di chuyển vào Việt Nam làm
việc, nhƣng với số lƣợng ít và chủ yếu là các chuyên gia, lao động có trình độ
kỹ thuật cao. Cùng với sự phát triển kinh tế đất nƣớc, quá trình công nghiệp
hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã thu hút lực lƣợng lao động nƣớc ngoài
vào nƣớc ta làm việc ngày một gia tăng. Vấn đề tuyển dụng và quản lý ngƣời
nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam đã và đang đƣợc Chính phủ, các cấp, các
ngành và toàn xã hội quan tâm, nhất là trong thời gian gần đây.
91
Bảng 3.1: Số lƣợng lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam
qua các năm (1996-2009)
Năm Số lƣợng So với năm trƣớc (%)
(Ngƣời)
1996 2.799
2002 6.938
2004 12.602
2005 21.217 168,36
2006 34.117 160,80
2007 43.000 126,04
2008 52.633 122,40
Nguồn: Tạp chí cộng sản điện tử số 16 (184) năm 2009.
2009 55.428 142,49
Năm 2008, số lao động nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam chủ yếu là
ngƣời mang quốc tịch Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Anh,
Pháp… Nếu tính theo châu lục thì lao động mang quốc tịch Châu Á chiếm
khoảng 57%; lao động mang quốc tịch châu Âu chiếm 14% tổng số lao động
nƣớc ngoài, còn lại là các Châu lục khác chiếm khoảng 29%. Mấy năm gần
đây, trên địa bàn các tỉnh phía Nam nhƣ: thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Đồng Nai…đã xuất hiện nhiều lao động nƣớc ngoài có nguồn gốc
92
từ châu Phi vào Việt Nam tìm kiếm việc làm.
Bảng 3.2: Lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam phân theo nguồn gốc
quốc tịch châu lục (số liệu năm 2008)
TT Chỉ tiêu Số lƣợng Tỷ trọng
(Ngƣời) (%)
Tổng số LĐNN năm 2008 52.633
100,0 1
Lao động đến từ châu Á
30.000 57,0 2
Lao động đến từ châu ÂU 7.373
14,0 3
Lao động đến từ châu lục
15.260 29,0 4
khác
Nguồn: Tạp chí cộng sản điện tử số 16 (184) năm 2009.
Về trình độ chuyên môn
Theo Nghị định 34/2008 của Chính phủ, ngƣời nƣớc ngoài làm việc tại
Việt Nam phải có đủ các điều kiện: đủ 18 tuổi trở lên; có sức khỏe phù hợp
với yêu cầu công việc; là nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc chuyên gia có
trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao về dịch vụ, thiết bị nghiên cứu, kỹ thuật
hay quản lý (bao gồm kỹ sƣ hoặc ngƣời có trình độ tƣơng đƣơng kỹ sƣ trở
lên; nghệ nhân những ngành nghề truyền thống) và ngƣời có nhiều kinh
nghiệm trong nghề nghiệp, trong điều hành sản xuất, kinh doanh và những
công việc quản lý; không có tiền án về tội vi phạm an ninh quốc gia; không
thuộc diện đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đang chấp hành hình phạt
hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nƣớc ngoài; có
giấy phép lao động do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền Việt Nam cấp.
Nhƣ vậy có thể thấy về nguyên tắc, ngƣời nƣớc ngoài không có tay
nghề không đƣợc cấp phép vào Việt Nam làm việc. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy lao động nƣớc ngoài phổ thông làm việc tại Việt Nam lại khá lớn.
93
Bảng 3.3: Lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam phân theo trình độ
chuyên môn và ngành nghề (số liệu năm 2008)
TT Chỉ tiêu Số lƣợng tỷ trọng
(Ngƣời) (%)
Tổng số LĐNN năm 52.633 100,0
2008
Phân
theo
trình độ
1
chuyên môn
LĐ có bằng Đại học trở
lên
26.370 50,1 -
LĐ có trình độ cao đẳng và
kinh nghiệm nghề nghiệp
26.263 49,9 -
Phân theo ngành nghề
2
LĐ làm quản lý
16.737 31,8 -
LĐ làm chuyên gia kỹ
21.685 41,2 -
thuật
LĐ làm nghề khác
Nguồn: Tạp chí cộng sản điện tử số 16 (184) năm 2009.
- 14.211 27,0
Trong tổng số lao động nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam có tới 49,9%
ngƣời có trình độ cao đẳng và kinh nghiệm nghề nghiệp; lao động nƣớc ngoài
làm quản lý chiếm 31,8%; lao động làm chuyên gia kỹ thuật chiếm 41,2% và
lao động khác chiếm 27%.
Số ngƣời nƣớc ngoài có trình độ đại học chiếm 46,5% và nghệ nhân
những ngành nghề truyền thống chiếm 3,6%.
Thực tế cho thấy, khi mới thâm nhập vào thị trƣờng Việt Nam, các
doanh nghiệp nƣớc ngoài có xu thế mang theo một đội ngũ nhân lực của
mình. Đây là những ngƣời đã có nhiều kinh nghiệm và đáng tin cậy, những
ngƣời sẽ đi những bƣớc đầu tiên và đặt nền móng vững chắc cho doanh
nghiệp nƣớc ngoài khi còn „chân ƣớt chân ráo‟ ở đất nƣớc ta. Do vậy, họ luôn
94
là những ngƣời có trình độ chuyên môn rất cao và nắm giữ các chức vụ quan
trọng. Sau đó thì tùy vào chiến lƣợc phát triển kinh doanh lâu dài của dự
án/doanh nghiệp mà thành phần nhân sự sẽ có ít nhiều sự thay đổi. Số lao
động kỹ thuật cao nƣớc ngoài này không chỉ nắm giữ các vị trí quản lý mà
ngay cả những vị trí nhƣ kỹ sƣ và chuyên gia kỹ thuật. Đáng lƣu ý là lực
lƣợng lao động nƣớc ngoài kỹ thuật cao này lại không chỉ tới từ những quốc
gia Tây Âu, Úc hay Mỹ mà có không ít lao động đến từ các quốc gia trong
khu vực nhƣ Singapore, Malaysia, Philippines và thậm chí là cả Sri Lanka.
Tình hình cấp giấy phép cho lao động nước ngoài tại các tỉnh
Theo báo cáo mới nhất của Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (LĐ-
TB&XH), tính đến 5/2011, số lao động nƣớc ngoài đang làm việc tại Việt
Nam lên đến gân 75.000 ngƣời.
Riêng thành phố Hồ Chí Minh, theo Sở Công an Thành phố ƣớc tính,
số lao động đang làm việc trên địa bàn có khoảng trên 50.000 ngƣời, đã cấp
10.480 thẻ tạm trú cho ngƣời nƣớc ngoài; TP Hà Nội có 15.357 lao động
nƣớc ngoài bao gồm cả những ngƣời làm công tác ngoại giao, đại diện của
các tổ chức phi chính phủ, ngƣời nƣớc ngoài thực hiện các dự án đầu tƣ nƣớc
ngoài tại Việt Nam...Tỉnh Quảng Ninh có trên 4.700 ngƣời nƣớc ngoài làm
việc tại 90 doanh nghiệp, trong đó có 38 doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài; tỉnh Tây Ninh có 866 lao động nƣớc ngoài đang làm việc. TP. Hải
Phòng có 3.500 ngƣời (trong đó có 3.000 ngƣời nƣớc ngoài thuộc đối tƣợng
phải cấp giấy phép lao động và chủ yếu ở các nhà thầu xây dựng); tỉnh Lâm
Đồng có 900 ngƣời nƣớc ngoài.
95
Bảng 3.4: Số lƣợng và tỷ lệ cấp phép của lao động nƣớc ngoài
tại các tỉnh, thành phố năm 2009
TT Tỉnh, Thành phố
Số lao động
Số đƣợc cấp phép (ngƣời) So với tổng số
(ngƣời)
(%)
1 TP. Hồ Chí Minh 50.000 14.655 29,31
2 TP. Hà Nội 15.357 6.018 39,19
3 Quảng Ninh 4.701 486 10,33
4 Hải Phòng 3.500 2.019 57,68
5 Tây Ninh 866 625 72,18
6 Lâm Đồng 900 168 18,67
Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
Cả nƣớc 75.000 28.425 37,90
Qua đợt khảo sát và kiểm tra của Bộ LĐ-TB&XH tại các địa phƣơng,
hầu hết các tỉnh, thành phố đều có lao động nƣớc ngoài làm việc nhƣng không
nắm đƣợc tình hình, bởi những số liệu trên chủ yếu do các doanh nghiệp, tổ
chức báo cáo, còn những đối tƣợng nhập cảnh trái phép vào làm việc thì các
địa phƣơng không nắm rõ.
Năm 2008, số lƣợng lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam đƣợc cấp giấy
phép lao động chỉ chiếm 35,5%. Tính đến thời điểm 31 tháng 6 năm
2009, tổng số lao động nƣớc ngoài đƣợc cấp giấy phép lao động chỉ chiếm
khoảng 37,9%, trong đó: TP HCM (29,3%), Hà Nội (39,1%), Quảng Ninh
(10,3%), Tây Ninh (72,1%), TP Hải Phòng (57,7%), Lâm Đồng (18,7%)…
Cũng theo Bộ LĐ-TB&XH, hiện nay vấn đề cấp phép lao động cho
ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam đang rất bất cập. Số lao động đƣợc cấp phép
chỉ chiếm khoảng 37,9% so với số lƣợng đã thống kê. Kiểm tra tại thực tế các
địa phƣơng cũng cho thấy, hầu hết cán bộ quản lý sở tại đều không nắm đƣợc
đầy đủ số ngƣời nƣớc ngoài hiện đang cƣ trú.
Theo Sở Lao động - Thƣơng binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2007, chỉ tính riêng tại Tp.HCM số lao động nƣớc ngoài chất lƣợng cao
đến đăng ký làm việc tại thành phố là 2.550 ngƣời, trong đó đƣợc cơ quan cấp 96
phép lao động khoảng 1.800 ngƣời. Số lao động trên đến từ 42 quốc gia và
vùng lãnh thổ, tập trung nhiều nhất là: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài
Loan, Australia, Anh... So với mức tăng lao động bình quân 20% hàng năm,
số lao động nƣớc ngoài tại Tp.HCM năm 2007 tăng 35,16%.
Bảng 3.5: Lao động nƣớc ngoài có trình độ chuyên môn KT
ở TP Hồ Chí Minh năm 2007
TT Chỉ tiêu
Số
Tỷ trọng(%)
lƣợng
(ngƣời)
Số LĐ có trình độ đến đăng ký
I
3.985
100,0
LĐ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
1
2.550
64,0
LĐ có trình độ cao đẳng và có giấy chứng nhận
1.435
2
36,0
kinh nghiệm
II
Số LĐ có trình độ chuyên môn KT cao được cấp
1.800
70,6
giấy phép LĐ
III LĐ có giấy phép LĐ phân theo ngành nghề
1.800
100,0
1
Giày da, may mặc
432
24,0
2
Giáo dục
300
16,6
3
Công nghệ cao
100
5,6
4
90
5,0
Tài chính, ngân hàng, chứng khoán
878
48,8
5 Các ngành khác
Nguồn: Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP Hồ Chí Minh
Các ngành nghề lao động nƣớc ngoài tham gia rất đa dạng. Đối với
ngành giày da, may mặc có khoảng 432 ngƣời, chiếm 24,12%, chủ yếu từ
Trung Quốc, Đài Loan. Ngành giáo dục có khoảng 300 lao động chiếm
khoảng 16,6%, chủ yếu tập trung vào lao động châu Âu quốc tịch Anh,
Australia, Mỹ, Canada và New Zealand. Ngành công nghệ cao có khoảng 100
lao động, chiếm gần 6%, chủ yếu từ Nhật, Mỹ, Đan Mạch. Còn lại là ngành
tài chính ngân hàng, chứng khoán khoảng 90 ngƣời chiếm gần 5%.
Lao động nƣớc ngoài đến thành phố làm việc có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao chiếm tỷ lệ lớn với gần 64%. Lao động có trình độ cao đẳng và
97
giấy chứng nhận kinh nghiệm làm việc chiếm 36%, đặc biệt tập chung vào lao
động Đài Loan, Trung Quốc trong ngành may mặc...
Bảng 3.6: Lao động quốc tịch châu Phi tại TP. Hồ Chí Minh
Tỷ lệ có giấy phép LĐ (%) Năm Số lƣợng Tỷ lệ tăng
(ngƣời) (%)
Hầu nhƣ không có
2005 2.893 >60,00
2006 3.119 7,81
2007 4.080 30,81
2008 5.845 43,26
Nguồn: http://vnEconomy.vn (04/12/2008), Lao động phổ thông đang
vào Việt Nam.
Theo báo cáo của UBND TP.HCM, qua thanh tra rà soát tình hình sử
dụng lao động nƣớc ngoài tại 3.765 doanh nghiệp (DN), tổ chức, văn phòng
đại diện..., tổng số lao động nƣớc ngoài tại các doanh nghiệp điều tra của
TP.HCM là 16.055 ngƣời. Trong đó, tỉ lệ lao động nƣớc ngoài chƣa có giấy
phép chiếm 13,8% (2.219/16.055 ngƣời).
Đáng lo nhất là tình trạng các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng lao
động nƣớc ngoài cố tình bỏ qua các quy định về tuyển dụng và sử dụng lao
động, từ đó tuyển dụng lao động không đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam
theo quy định.
Đặc biệt, nhiều DN hoạt động trong lĩnh vực giày da, may mặc…
không cần tuyển dụng lao động nƣớc ngoài có trình độ chuyên môn cao mà
chủ yếu chỉ dựa trên cơ sở kinh nghiệm. Nhiều cơ sở giáo dục, cơ sở đào tạo
ngoại ngữ tuyển dụng, sử lao động nƣớc ngoài không báo cáo hoặc đề nghị
cấp phép lao động.
Trên đây là số lao động nƣớc ngoài đƣợc các địa phƣơng báo cáo là
những lao động có đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam và đã đến Sở Lao
động, Thƣơng binh và Xã hội hoặc Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế
98
xuất để xin giấy phép lao động. Còn những đối tƣợng lao động nƣớc ngoài
phổ thông không đủ điều kiện làm việc tại Việt Nam, vào Việt Nam làm việc
bằng nhiều con đƣờng và hình thức khác nhau, thì chƣa đƣợc các địa phƣơng
tổng hợp và báo cáo. Vấn đề tuyển dụng và quản lý ngƣời nƣớc ngoài làm
việc tại Việt Nam đã và đang đƣợc Chính phủ, các cấp, các ngành và toàn xã
hội quan tâm, nhất là trong thời gian gần đây.
Trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý ngƣời
nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam, có một số vấn đề nảy sinh nhƣ sau:
* Đối với các địa phương
Thực hiện các quy định của pháp luật về lao động nƣớc ngoài chƣa
nghiêm: Một số địa phƣơng xác nhận đối tƣợng không phải cấp giấy phép lao
động sai quy định; hoặc áp dụng “linh hoạt” khi cấp giấy phép lao động, nhƣ
cho nợ phiếu lý lịch tƣ pháp hay các giấy tờ trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép
lao động; hoặc khi gia hạn giấy phép lao động, không kiểm tra kỹ việc xây
dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo ngƣời lao động Việt Nam để thay thế.
Theo dõi và quản lý lao động nƣớc ngoài chƣa đƣợc thực hiện thƣờng
xuyên, kịp thời và thiếu sự phối hợp, hỗ trợ của các ngành, các đơn vị ở địa
phƣơng: Có những trƣờng hợp các nhà thầu phụ của nƣớc ngoài chƣa đƣợc
cấp giấy phép thầu nhƣng vẫn hoạt động nhƣ bình thƣờng. Đặc biệt, có những
trƣờng hợp chủ đầu tƣ khoán trắng cho nhà thầu chính; nhà thầu chính thuê
nhà thầu phụ và mọi hoạt động liên quan đến tuyển dụng, sử dụng lao động
nƣớc ngoài do nhà thầu phụ tự quyết định, chính quyền địa phƣơng không có
ý kiến, dẫn đến tình trạng các nhà thầu phụ này sử dụng bao nhiêu lao động
nƣớc ngoài thì chủ đầu tƣ và nhà thầu chính cũng không biết. Đây là sự buông
lỏng trong quản lý của địa phƣơng và chủ đầu tƣ.
Ngƣời nƣớc ngoài nhập cảnh vào Việt Nam thông qua nhiều cửa khẩu
và do nhiều cơ quan quản lý. Chẳng hạn, qua các cửa khẩu hàng không quốc
tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng… do Cục Xuất nhập cảnh - Bộ Công an
quản lý; qua các cửa khẩu biên giới do Bộ đội Biên phòng quản lý; và có
không ít trƣờng hợp qua đƣờng biên vào Việt Nam làm việc. Khi ngƣời nƣớc
99
ngoài vào Việt Nam, họ có quyền đi lại, tạm trú ở bất cứ đâu mà pháp luật
không cấm, do đó, nếu không có sự phối hợp giữa các cơ quan, sự theo dõi sát
sao của các địa phƣơng, cơ sở thì rất khó cho việc quản lý họ.
Thực hiện chế độ báo cáo không đầy đủ, không đúng quy định: Theo
quy định tại Nghị định số 34/2008/NĐ-CP, ngày 25-3-2008, của Chính phủ
và Thông tƣ số 08/2008/TT-BLĐTBXH, ngày 10-6-2008, của Bộ Lao động,
Thƣơng binh và Xã hội, Sở Lao động, Thƣơng binh và Xã hội các tỉnh, thành
phố có trách nhiệm theo dõi, tổng hợp và gửi báo cáo định kỳ 6 tháng và cả
năm tình hình lao động nƣớc ngoài làm việc tại các doanh nghiệp, tổ chức
trên địa bàn quản lý về Bộ Lao động, Thƣơng binh và Xã hội. Tuy nhiên, số
lƣợng Sở Lao động, Thƣơng binh và Xã hội gửi báo cáo là không nhiều.
Kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm còn rất hạn chế: Nhiều địa
phƣơng thiếu chủ động trong thanh tra, kiểm tra về lao động nƣớc ngoài, mà
chỉ tham gia với các đoàn thanh tra cấp bộ; việc phát hiện và xử lý các hành
vi vi phạm pháp luật lao động về lao động nƣớc ngoài chƣa nhiều.
Chƣa có nhiều đề xuất với Uỷ ban nhân dân, Bộ Lao động Thƣơng binh
và Xã hội và các cơ quan có liên quan để có những giải pháp quản lý lao động
nƣớc ngoài.
* Đối với người sử dụng lao động
Nhiều doanh nghiệp, tổ chức tuyển lao động nƣớc ngoài chƣa thực hiện
đúng pháp luật Việt Nam: Không thông báo nhu cầu tuyển lao động trên các
báo; không cung cấp đầy đủ các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền,
trách nhiệm của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động cho lao động nƣớc
ngoài biết và thực hiện; tuyển cả lao động nƣớc ngoài không có các điều kiện
theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhất là lao động không có trình độ
chuyên môn kỹ thuật; không thực hiện đúng trình tự thủ tục tuyển lao động,
100
trong đó đặc biệt là đối với các nhà thầu nƣớc ngoài trúng thầu tại Việt Nam.
Không làm thủ tục đề nghị cấp, gia hạn giấy phép lao động kịp thời cho
lao động nƣớc ngoài. Khi đƣợc cơ quan chức năng yêu cầu thì đƣa ra nhiều lý
do để trì hoãn và thiếu tích cực thực hiện.
Ngƣời sử dụng lao động không báo cáo đầy đủ, kịp thời việc sử dụng
lao động nƣớc ngoài theo quy định.
* Đối với người lao động nước ngoài
Ngƣời lao động nƣớc ngoài chƣa nghiên cứu đầy đủ các quy định của
pháp luật lao động Việt Nam do ngƣời sử dụng lao động cung cấp; chƣa
chuẩn bị các giấy tờ cần thiết để làm các thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao
động; đối với những ngƣời nƣớc ngoài đã vào Việt Nam, nay có nhu cầu làm
việc cho các doanh nghiệp, tổ chức tại Việt Nam thì cũng không chuẩn bị các
giấy tờ cần thiết và làm thủ tục để đề nghị cấp giấy phép lao động theo quy
định.
3.2.1.2. Tổ chức và thực hiện chính sách
Đối với chính sách lao động nhập cƣ: Tuy tình hình kinh tế xã hội của
Việt Nam hiện nay có nhiều điểm tƣơng đồng với Singapore trong thập niên
60 của thế kỷ XX, nhƣng chính sách lao động nhập cƣ của Singapore không
thể đem áp dụng trực tiếp vào Việt Nam nhƣ xây dựng hệ thống giấy phép,
đánh thuế ngƣời lao động nhập cƣ, áp dụng những hình thức phạt… nhƣ
Singapore đã làm. Việt Nam là một nƣớc xã hội chủ nghĩa, mọi qui định,
chính sách của Nhà nƣớc đều phải trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp, Pháp luật.
Theo đó, trên địa bàn Việt Nam, các công dân Việt Nam có quyền tự do cƣ
trú, tự do làm việc ở bất cứ đâu mà pháp luật không cấm. Bởi vậy lao động
nƣớc ngoài từ các nƣớc khác đến làm việc tại Việt Nam đƣợc pháp luật Việt
Nam bảo hộ, Việt Nam không có quyền cấm đoán hay cho phép họ đến làm
việc tại Việt Nam khi họ không có hành vi vi phạm pháp luật của Việt Nam.
Lực lƣợng lao động nhập cƣ là ngƣời nƣớc ngoài đến làm việc tại Việt Nam
so với Singapore là không đáng kể. Do vậy, bài học đối với Việt Nam rút ra
từ chính sách lao động nhập cƣ của Singapore là tính mềm dẻo trong chính
101
sách để thu hút lao động nhập cƣ đáp ứng sự thiếu hụt về lao động, khuyến
khích lao động nhập cƣ có chất lƣợng lao động cao định cƣ lâu dài. Tính mềm
dẻo trong chính sách lao động nhập cƣ đòi hỏi Việt Nam phải ra những quy
định cụ thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, nhƣng tất cả những quy
định đó đều hƣớng vào việc sử dụng lực lƣợng lao động nhập cƣ một cách
hiệu quả, đem lại sự phát triển kinh tế, văn hóa và ổn định xã hội cho đất nƣớc
Thực tế phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong suốt quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa vừa qua cho thấy lực lƣợng lao động nhập cƣ
từ các nƣớc khác đến với Việt Nam nhƣ là món quà tặng vô cùng to lớn đối
với sự phát triển của đất nƣớc. Bên cạnh đó, lực lƣợng lao động nhập cƣ này
cũng đem lại cho Việt Nam những khó khăn không nhỏ trong phát triển an
sinh, xã hội. Lực lƣợng lao động lành nghề và lao động có trình độ cao ở Việt
Nam còn rất thiếu. Bài học từ chính sách phát triển thị trƣờng sức lao động ở
Singapore cho thấy Việt Nam có thể thực hiện những bƣớc đi trong chính
sách lao động nhập cƣ nhƣ sau:
- Việt Nam tạo mọi điều kiện thu hút lao động ngƣời nƣớc ngoài đáp
ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Việc thu hút lao động ngƣời nƣớc ngoài này cần đƣợc nắm bắt cụ thể gắn với
sổ theo dõi tình hình lao động của từng lao động nhập cƣ. Nếu trong khoảng
thời gian 3 đến 5 năm, ngƣời lao động nhập cƣ làm việc ổn định tại một
doanh nghiệp, không có những vi phạm pháp luật thì chúng ta nên có những
ƣu đãi nhất định trong việc định cƣ lâu dài cho họ, đặc biệt là hỗ trợ về nhà ở.
Những ngƣời này khi đã làm việc lâu năm trong một doanh nghiệp chứng tỏ
tay nghề của họ đáp ứng nhu cầu kỹ thuật của doanh nghiệp, mức độ lành
nghề đã tăng, năng suất lao động tăng lên, tính kỷ luật, ý thức tuân thủ pháp
luật của họ thể hiện là bền vững;
- Để làm tốt công tác này Việt Nam cần xây dựng đội ngũ quản lý lao
động nhập cƣ có đủ khả năng nắm bắt cụ thể tình hình lao động nhập cƣ để
102
thông báo cho các cấp lãnh đạo, các cấp quản lý có những quyết định hỗ trợ
kịp thời nhằm khuyến khích ngƣời lao động nhập cƣ có chất lƣợng lao động
tốt định cƣ lâu dài tại Việt Nam;
- Trong việc thu hút lao động có trình độ cao cần có chính sách đãi ngộ
thƣờng xuyên đối với ngƣời lao động không phân biệt xuất xứ, ngƣời cũ
ngƣời mới làm việc. Bài học kinh nghiệm từ Singapore cho thấy một xã hội
ổn định về chính trị, đa dạng văn hóa kết hợp với chính sách tiền lƣơng cao đã
giúp họ thu hút đƣợc nhân tài từ khắp nơi đến định cƣ, làm việc và cống hiến
cho xã hội. Việt Nam đã và đang có môi trƣờng ổn định, phát triển nhƣng
chính sách tiền lƣơng hiện tại còn nằm trong tình hình chung – không hấp dẫn
đƣợc ngƣời lao động có trình độ cao đến với Việt Nam, càng khó hấp dẫn họ
tham gia vào khu vực công của Nhà nƣớc. Bởi vậy, bên cạnh những qui định
chung Nhà nƣớc nên có chính sách đãi ngộ riêng về thu nhập nhằm đạt mục
đích lao động có trình độ cao đến với Việt Nam;
- Việc thu hút lực lƣợng lao động có tay nghề và trình độ cao còn phụ
thuộc vào cơ cấu ngành nghề mà Việt Nam thu hút đầu tƣ. Vì vậy, việc hoạch
định chiến lƣợc đầu tƣ nên theo hƣớng khuyến khích những ngành, nghề đòi
hỏi lao động có tay nghề và trình độ cao. Khi nhiều ngƣời lao động có trình
độ đến với Việt Nam, hệ quả tích cực kéo theo chính là đời sống văn hóa, an
sinh xã hội của Việt Nam sẽ tiến triển theo hƣớng tích cực, lôi kéo đời sống
văn hóa của dân cƣ địa phƣơng phát triển theo.
Đối với chính sách đào tạo: Bài học từ Singapore cho thấy đào tạo
nghề, đặc biệt là đào tạo tại chỗ đƣợc phát triển mạnh mẽ gắn chặt với những
chiến lƣợc phát triển của các nhà lãnh đạo. Bên cạnh đó, nguồn vốn đào tạo
của họ ban đầu đƣợc tập trung cho việc gửi đi đào tạo ở các nƣớc tiên tiến
một lực lƣợng giáo viên trẻ, có năng lực đƣợc tuyển chọn kỹ lƣỡng và có cam
kết chặt chẽ về vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp. Chính những ngƣời đƣợc
đầu tƣ đào tạo bài bản ấy đã trở thành những cái máy để sản sinh ra nền giáo
dục tiên tiến ở Singapore.
103
Đối với Việt Nam, xuất phát từ thực trạng của cả nƣớc, để có đƣợc lực
lƣợng lao động đƣợc giáo dục và đào tạo bài bản đáp ứng đƣợc nhu cầu của
các doanh nghiệp, của xã hội thì chúng ta cần phải làm rất nhiều việc trên
phạm vi cả nƣớc. Vì vậy trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam nên tập trung
giải quyết một số vấn đề sau:
Trên cơ sở chiến lƣợc phát triển của đất nƣớc, tăng cƣờng công tác dự
báo phát triển nguồn nhân lực: Việt Nam cần đƣa ra dự báo trong từng giai
đoạn cần bao nhiêu ngƣời, yêu cầu trình độ, tay nghề và ngành nghề phù hợp.
Công tác dự báo cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban ngành nhƣ: Bộ
kế hoạch và đầu tƣ, Bộ công thƣơng, Bộ giáo dục và đào tạo, Bộ lao động
thƣơng binh và xã hội, Bộ công an, Bộ quốc phòng… Trong đó Bộ Lao động
Thƣơng binh và xã hội có vai trò thu thập thông tin và lên kế hoạch đáp ứng
nhu cầu lao động trên cả nƣớc. Bộ Lao động Thƣơng binh Xã hội nên thiết lập
và thắt chặt mối quan hệ với các trƣờng đại học, cao đẳng trong cả nƣớc để
một mặt trực tiếp quảng bá những ƣu thế trong phát triển của đất nƣớc, những
nhu cầu về lao động của đất nƣớc, những đãi ngộ của đất nƣớc đối với ngƣời
tài, mặt khác tìm kiếm và lôi kéo những sinh viên, học viên giỏi, khá đi học ở
nƣớc ngoài về làm việc cho đất nƣớc;
Nhà nƣớc tạo điều kiện phát triển các trƣờng nghề, phát triển hệ thống
đào tạo tại chỗ một cách khoa học, khuyến khích mở các cơ sở đào tạo của tƣ
nhân và nƣớc ngoài để đảm bảo cạnh tranh trong chất lƣợng đào tạo;
Nhà nƣớc nên thực hiện tài trợ trực tiếp cho một số ngƣời học tài năng
trên cơ sở hợp đồng lao động trong tƣơng lai. Cần xem xét lại chính sách đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ trong bộ máy hành chính công hiện nay. Nhà nƣớc nên tập
trung nguồn lực cho đào tạo và đào tạo lại lực lƣợng giáo viên và các nhà
quản lý giáo dục, bởi chính lực lƣợng này là yếu tố trực tiếp tác động tới chất
lƣợng của lực lƣợng lao động tƣơng lai. Đối với ngƣời đang làm việc trong
khu vực công nên chú trọng bồi dƣỡng ngắn hạn, tu bổ nâng cao tay nghề,
104
nâng cao nghiệp vụ để họ làm việc hiệu quả hơn. Đồng thời, siết chặt chất
lƣợng tuyển dụng đầu vào và đào tạo có chọn lọc các cán bộ, công chức đáp
ứng đủ các tiêu chuẩn đào tạo, nâng cao. Nói cách khác, không phải chúng ta
từ bỏ việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ đang tại chức mà chỉ đào tạo tinh hoa, thật
cần thiết với số lƣợng hạn chế nhằm tập trung nguồn lực cho phát triển nguồn
nhân lực tƣơng lai;
Tại các trƣờng đại học, cao đẳng, nên tập trung phát triển đào tạo một
số ngành thuộc chiến lƣợc phát triển của đất nƣớc. Trƣớc hết, Nhà nƣớc nên
đầu tƣ đào tạo đội ngũ giáo viên đại học, cao đẳng chất lƣợng cao, có hợp
đồng lao động chặt chẽ với họ để tạo nền tảng căn bản cho sự phát triển giáo
dục đào tạo của đất nƣớc trong tƣơng lai. Những hợp đồng đào tạo này cam
kết rõ điều kiện mà Nhà nƣớc cung cấp cho các giáo viên đi học, sau khi học
xong họ sẽ phục vụ cho đất nƣớc ít nhất 5 năm, những trách nhiệm và vị trí
công việc họ sẽ làm sau khi đi học về… Khi hợp đồng đã rõ ràng, ngƣời học
sẽ xác định chính xác họ cần chuyên tâm học hỏi, nghiên cứu những gì để khi
về họ có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ, đƣợc giao;
Bên cạnh đó, Nhà nƣớc nên phát triển hệ thống đánh giá phi chính phủ
đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo qua đó thực hiện bình chọn xếp hạng các
cơ sở giáo dục của đất nƣớc.
3.2.1.3. Giám sát và kiểm tra thực hiện chính sách
Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội có trách nhiệm xây dựng kế
hoạch tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về
tuyển dụng và quản lý lao động là ngƣời nƣớc ngoài. Kế hoạch thanh tra,
kiểm tra hàng năm đƣợc thông báo cho tất cả các cơ quan liên quan để theo
dõi và phối hợp thực hiện.
Bên cạnh kế hoạch thanh tra hàng năm, Bộ Lao động-Thƣơng binh và
Xã hội sẽ quyết định tổ chức thanh tra, kiểm tra đột xuất những vấn đề do Bộ
Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tƣ pháp, Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an.
Theo yêu cầu và tính chất vụ việc, Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã
hội có văn bản đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tƣ pháp, Thanh tra Chính
105
phủ, Bộ Công an phối hợp tham gia đoàn thanh tra, kiểm tra việc thực hiện
các quy định của pháp luật về tuyển dụng và quản lý lao động là ngƣời nƣớc
ngoài. Các cơ quan chức năng liên quan có trách nhiệm cử cán bộ tham gia
đoàn thanh tra, kiểm tra
Thanh tra Chính phủ phối hợp với Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã
hội trong công tác thanh tra hàng năm, đột xuất các vấn đề liên quan đến
ngƣời lao động nƣớc ngoài đang làm việc trên địa bàn cả nƣớc
Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội báo cáo kết quả thanh tra, kiểm
tra đƣợc gửi cho tất cả các cơ quan liên quan để theo dõi, tổng hợp và xử lý
(trừ những vấn đề không đƣợc công bố theo quy định của pháp luật về thanh
tra).
Định kỳ 3 tháng, 6 tháng một lần và báo cáo năm, các cơ quan liên quan
có trách nhiệm báo cáo về Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội để tổng hợp báo
cáo Chính phủ.
Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ có trách nhiệm cung cấp số liệu về tình hình
cấp Giấy chứng nhận đầu tƣ nƣớc ngoài, bao gồm các nội dung chính sau: tên
doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch
của ngƣời đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, các thành viên tham gia
góp vốn
Bộ Tƣ pháp có trách nhiệm báo cáo đầy đủ số ngƣời nƣớc ngoài đang
làm việc trong các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ƣơng đã đƣợc Sở Tƣ pháp
các tỉnh cấp lý lịch tƣ pháp gồm những thông tin sau: họ tên, ngày tháng năm
sinh, quốc tịch, số hộ chiếu, tình hình chấp hành pháp luật của ngƣời nƣớc
ngoài.
Bộ Công an có trách nhiệm báo cáo đầy đủ số ngƣời nƣớc ngoài đang
làm việc trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức gồm những thông tin sau:
họ tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, số hộ chiếu, nơi làm việc, địa chỉ nơi
106
làm việc, địa chỉ tạm trú, thời hạn thị thực, tạm trú.
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thƣờng xuyên và định kỳ cung cấp cho
Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội danh sách ngƣời nƣớc ngoài làm việc
trong đại diện các tổ chức phi chính phủ đƣợc phép hoạt động trên cả nƣớc,
các cơ quan, tổ chức gồm những thông tin sau: họ tên, ngày tháng năm sinh,
quốc tịch, số hộ chiếu, nơi làm việc, hình thức làm việc, địa chỉ nơi làm việc,
địa chỉ tạm trú, thời hạn thị thực, tạm trú;
Hƣớng dẫn đại diện các tổ chức phi chính phủ đƣợc phép hoạt động
làm các thủ tục để cấp giấy phép lao động đối với những đối tƣợng là ngƣời
lao động nƣớc ngoài làm việc tại đại diện các tổ chức phi chính phủ, các cơ
quan, tổ chức thuộc diện phải cấp giấy phép lao động trƣớc khi vào làm việc
tại Việt Nam.
Trƣờng hợp yêu cầu báo cáo đột xuất, Bộ Lao động-Thƣơng binh và
Xã hội phải có văn bản yêu cầu cụ thể về nội dung, số liệu và thời gian để các
cơ quan liên quan phối hợp thực hiện. Trƣờng hợp cần thiết, có thể yêu cầu và
báo cáo nhanh qua hình thức điện thoại hay gửi fax, thƣ điện tử (Email) trƣớc
khi gửi qua đƣờng công văn.
Báo cáo tổng hợp của Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội về tuyển
dụng và quản lý ngƣời nƣớc ngoài gửi Thủ tƣớng Chính Phủ, đồng thời có
trách nhiệm sao gửi cho các cơ quan liên quan để theo dõi và phối hợp thực
hiện.
Ðịnh kỳ 6 tháng và 1 năm, Bộ Lao động-Thƣơng binh và Xã hội, Bộ
Kế hoạch và Đầu tƣ, Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Thanh tra Chính phủ, họp một
lần, để đánh giá các hoạt động đã phối hợp thực hiện và chỉ đạo giải quyết kịp
thời những khó khăn, vƣớng mắc phát sinh. Trƣờng hợp cần thiết, mỗi bộ
ngành có thể yêu cầu họp bất thƣờng.
3.2.2 . Vận dụng kinh nghiệm chính sách quản lý nhà nƣớc đối với
lao động nƣớc ngoài của Singapore vào Việt Nam
3.2.2.1. Bài học về chính sách nhập cư
Cần xóa bỏ các rào cản đối với việc di chuyển lao động, nhất là lao
107
động nƣớc ngoài có trình độ chuyên môn cao (cả trong quan điểm, nhận thức
và quản lý hành chính) làm cho thị trƣờng lao động nƣớc ta đƣợc linh hoạt và
thông thoáng. Hoàn chỉnh hệ thống thông tin thị trƣờng lao động, phát huy
hơn nữa vai trò của các Trung tâm giới thiệu việc làm. Khuyến khích và tạo
điều kiện thuận lợi để các tổ chức, doanh nghiệp, các trang trại thu hút và sử
dụng lao động có tay nghề. Tiếp tục hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy
định của pháp luật liên quan đến lao động nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam.
Về lâu dài, cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành luật về ngƣời nƣớc ngoài
làm việc tại Việt Nam, trong đó có quy định quyền, trách nhiệm của ngƣời lao
động, ngƣời sử dụng lao động nƣớc ngoài… Trƣớc mặt, các địa phƣơng cần
thực hiện đúng các quy định hiện hành, tăng cƣờng các biện pháp để giải
quyết đúng thời hạn các thủ tục liên quan đến lao động phổ thông vào làm
việc tại Việt Nam, kiên quyết không cho nợ các giấy tờ khi cấp giấy phép lao
động.
Nhà nƣớc cần phải tạo môi trƣờng pháp lý bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế thông qua hệ thống pháp luật, các chính sách, quy định pháp luật
liên quan đến sự phát triển của thị trƣờng sức lao động có yếu tố của lao động
ngƣời nƣớc ngoài. Việc hoàn thiện phải đảm bảo phát huy hơn nữa yếu tố con
ngƣời - lao động trình độ cao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hƣớng cơ bản hoàn thiện là tiếp tục thể chế hóa các chủ trƣơng, quan điểm
của Đảng về lĩnh vực lao động, việc làm, thị trƣờng sức lao động yếu tố của
lao động ngƣời nƣớc ngoài; đảm bảo đối xử công bằng giữa các khu vực, các
thành phần kinh tế; bảo vệ lợi ích của cả ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao
động, từng bƣớc tiếp cận tiêu chuẩn lao động quốc tế trong quá trình hội
nhập.
3.2.2.2. Bài học về chính sách thị trường lao động
Thực hiện mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo nghị
quyết của Đảng đến năm 2020 về cơ bản đƣa nƣớc ta trở thành một nƣớc
108
công nghiệp theo hƣớng hiện đại. Theo kinh nghiệm của các nƣớc thành công
trong công nghiệp hoá mà trực tiếp là các nƣớc công nghiệp mới ở châu Á đã
chỉ ra con đƣờng duy nhất là dựa vào tri thức, vào tiến bộ khoa học - công
nghệ mà trực tiếp là dựa vào nguồn nhân lực chất lƣợng cao.
Từ nay đến năm 2020 nền kinh tế nƣớc ta tiếp tục phát triển các ngành
kinh tế mũi nhọn. Trong đó, tập trung vào xây dựng các khu công nghệ cao,
các khu công nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm v.v.. Kèm theo đó là các
ngành dịch vụ cao nhƣ: tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, đầu tƣ chứng khoán,
du lịch. Trong đó có nhiều nhà đầu tƣ tầm cỡ quốc tế tham gia thị trƣờng
nƣớc ta. Những thuận lợi đem lại cho chúng ta là rất lớn, có thể huy động
nguồn lực từ bên ngoài về vốn, khoa học - công nghệ cũng nhƣ kinh nghiệm
tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh hiện đại. Đi liền với đó là những công
nghệ tiên tiến, máy móc trang bị hiện đại đƣợc triển khai. Để có thể biến
ngoại lực thành năng lực nội sinh, nhu cầu về lao động ngƣời nƣớc ngoài ở
nƣớc ta rất lớn. Có thể dự báo khái quát nhƣ sau, theo Bộ Kế hoạch và Đầu
tƣ, đến năm 2020, chỉ tiêu cơ bản về phát triển nhân lực bao gồm 10 chỉ tiêu
cơ bản sau đây
109
Bảng 3.7: Dự báo chỉ tiêu về phát triển nhân lực đến năm 2020
Đơn vị tính: ngàn người
TT
Chỉ tiêu
2005
2010
2015
2020
1. Dân số
83.120
88.400
94.000
98.500
Dân số trong độ tuổi lao động
2.
54.000
57.400
59.800
61.400
Lực lƣợng lao động
3.
44.385
46.800
48.400
49.200
- Số ngƣời
- % dân số trong độ tuổi lao
82,2
81,5
81,6
80,0
động
4.
Lực lƣợng lao động làm việc
44.456,6
45.750
47.500
48.500
trong nền kinh tế. Tổng số
Trong đó: Cơ cấu %
50
40
28-29
- Nông - lâm - ngƣ nghiệp
56,8
20-22
26-28
32-23
- Công nghiệp - xây dựng
17,9
28-30
32-34
38-39
- Du lịch
25,3
96,0
98,0
99,0
Tỷ lệ biết chữ của lực lƣợng lao động
5.
94,0
(%)
Tỷ lệ lao động qua đào tạo
6.
24,8
40,0
50,0
60,0
Tỷ lệ đi học - ngƣời trong nhóm tuổi
7.
(%)
- Tỷ lệ đi học tiểu học đúng tuổi
97,0
99,0
99,5
99,8
- Tỷ lệ đi học THCS đúng tuổi
85,0
90,0
95,0
98,0
- Tỷ lệ đi học THPT đúng tuổi
55,5
68,0
75,0
80-85
Tỷ lệ tham gia đào tạo nghề nghiệp các
8.
cấp của nhóm tuổi từ 18-23 (%)
- Dạy nghề các cấp
- Trung cấp chuyên nghiệp
12-15
30,0
50,0
60,0
- Đại học cao đẳng
4,0
7,0
10,0
10,0
12,0
20,0
25,0
30,0
9.
Chiều cao trung bình của thanh
niên Việt Nam 15 tuổi (mét)
- Nam
1,62
1,64
1,67
> 1,69
- Nữ
1,53
1,55
1,57
> 1,60
10.
Tuổi thọ trung bình
71
72-73
74-75
76-77
Nguồn: Bộ kế hoạch và Đầu tư
Những chỉ tiêu dự báo trong biểu trên cho thấy nhu cầu về lao động ở
Việt Nam có bƣớc phát triển đáng kể. Để đạt đƣợc mục tiêu đề ra cần có 110
những giải pháp thiết thực kết hợp cả giải pháp trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài và
sự đóng góp tích cực từ nhiều phía.
Trên thị trƣờng hàng hoá sức lao động cho thấy xu hƣớng cung lao
động luôn thấp hơn cầu lao động, gây mất cân đối cung nhỏ hơn cầu trên thị
trƣờng sức lao động. Điều này càng diễn ra gay gắt đối với nƣớc ta hiện nay
khi đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản đƣa nƣớc ta
trở thành một nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại. Vì vậy, phƣơng hƣớng
phải luôn luôn gắn kết và tạo sự cân bằng trong quan hệ cung - cầu hàng hoá
sức lao động. Để giải quyết vấn đề này, phải tăng cung về số lƣợng và chất
lƣợng lao động trên thị trƣờng thông qua nhập khẩu lao động nƣớc ngoài, đặc
biệt là lao động chất lƣợng cao.
3.2.2.3. Bài học về chính sách đầu tư thương mại dịch vụ
Nƣớc ta đang hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, trong đó việc
tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế để thực hiện các mục tiêu
đặt ra là nhiệm vụ rất lớn và bức thiết. Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh
tranh đang gia tăng mạnh mẽ trên thị trƣờng sức lao động quốc tế. Trong quá
trình hội nhập với nguồn lực sức lao động chất lƣợng cao Việt Nam đứng
trƣớc những vấn đề sau đây:
Một mặt, với phƣơng hƣớng cơ bản là đa phƣơng hoá, đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại theo tinh thần Việt Nam quan hệ với tất cả các
nƣớc, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc trong
quan hệ quốc tế của Nhà nƣớc ta đã đề ra nhằm khai thác các nguồn lực đa
dạng, phong phú của thế giới. Từ đó, các hình thức của quan hệ kinh tế đối
ngoại từng bƣớc đƣợc phát triển và mở rộng cả chiều rộng và chiều sâu về
ngoại thƣơng, hợp tác đầu tƣ, hợp tác khoa học - công nghệ, xuất khẩu lao
động và chuyên gia, di chuyển thể nhân v.v.. Đặc biệt, khi chúng ta gia nhập
Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO thì rất cần đội ngũ sức lao động nƣớc
ngoài đáp ứng yêu cầu hội nhập.
111
Để phát huy và tiếp thu có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài về vốn,
khoa học - công nghệ và kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất hiện đại cần có
nguồn lao động nƣớc ngoài. Thông qua các hình thức đầu tƣ và thu hút lao
động lao động nƣớc ngoài, ngƣời lao động Việt Nam có điều kiện tiếp cận
khoa học - công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất
tiên tiến nâng cao trình độ. Vì vậy, chúng ta không ngừng mở rộng các hình
thức quan hệ kinh tế doanh nghiệp. Đây chính là phƣơng hƣớng có hiệu quả
để thúc đẩy phát triển thị trƣờng sức lao động nói chung, trong đó có thị
trƣờng sức lao động ngƣời nƣớc ngoài. Kinh nghiệm thực tế cho thấy qua
phát triển các khu công nghệ cao ở Việt Nam khi có sự hợp tác và tham gia
của các chuyên gia các công ty lớn, các nhà đầu tƣ lớn. Nguồn nhân lực của
Việt Nam đã có cơ hội tiếp cận, học tập với số lƣợng và chất lƣợng tăng lên
nhanh chóng. Điều này đã đƣợc chính các chuyên gia nƣớc ngoài khẳng định.
Vì vậy, phƣơng hƣớng của chúng ta cần đẩy mạnh hợp tác về lao động dƣới
nhiều hình thức, đơn giá thủ tục, cải thiện môi trƣờng pháp lý về kinh tế. Nên
có chế độ ƣu đãi đặc biệt để ƣu tiên đối với các dự án, chƣơng trình đào tạo và
sử dụng, tiếp nhận nguồn nhân lực nƣớc ngoài chất lƣợng cao.
3.3. Một số kiến nghị đối với Việt Nam
* Đổi mới nhận thức về phát triển, tiếp nhận và sử dụng nhân lực là
người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
Trong điểm này cần phải quy định rõ ràng những điều kiện, tiêu chí về
trình độ chuyên môn nghiệp vụ tƣơng ứng với từng lĩnh vực tham gia, thâm
niên, kinh nghiệm công tác…của lao động nƣớc ngoài, quy định về số lƣợng
đƣợc phép tuyển dụng theo nhu cầu công việc, mô hình hoạt động. các Bộ,
Ngành, địa phƣơng, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức… phải quán triệt quan
điểm rõ ràng và tuyệt đối tuân thủ theo những quy định đã đƣợc đƣa ra.
* Tăng cƣờng đào tạo nâng cao đội ngũ lao động trong nƣớc đủ khả
112
năng cạnh tranh với lao động nƣớc ngoài, từ đó đƣa ra những tiêu chí cho việc
lựa chọn lao động nƣớc ngoài và tạo ƣu thế cho lao động trong nƣớc cạnh
tranh lành mạnh trên chính thị trƣờng lao động nƣớc mình.
* Quản lý chặt chẽ nguồn nhân lực là người lao động nước ngoài đang
làm việc tại Việt Nam.
* Bộ lao động Thƣơng binh và Xã hội có nhiệm vụ phối hợp với Bộ
Công an, Tƣ pháp, Ngoại giao rá soát, sửa đổi và bãi bỏ những qui định
không phù hợp liên quan đến văn bằng, chứng chỉ, hợp pháp hóa lãnh sự, lý
lịch tƣ pháp, giấy phép lao động, thẻ tạm trú, thƣờng trú đối với chuyên gia,
ngƣời lao động nƣớc ngoài vào làm việc tại Việt Nam.
* Hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định của luật pháp liên quan
đến ngƣời nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam. Về lâu dài cần nghiên cứu, xây
dựng, ban hành luật về ngƣời nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam, trong đó có
quy định về quyền, trách nhiệm của ngƣời lao động, ngƣời sử dụng lao động,
các cơ quan liên quan tới các loại lao động sử dụng lao động nƣớc ngoài.
Trƣớc mắt các địa phƣơng cần thực hiện đúng các quy định hiện hành, tăng
cƣờng các biện pháp để giải quyết đúng thời hạn các thủ tục liên quan đến lao
động nƣớc ngoài tới Việt Nam làm việc.
* Chế tài xử phạt cần phải tăng lên, nghiêm khắc tăng cƣờng trách
nhiệm của các nhà thầu, chủ đầu tƣ trong việc quản lý lao động, thực hiện cấp
phép cho lao động nƣớc ngoài
+ Lao độ ng ngoạ i quố c là m việ c tạ i Việ t Nam trên ba thá ng mà không
có giấy phép sẽ không đƣợc cấp hoặc gia hạn thị thực tạm trú , và bị buộ c xuấ t
cảnh.
+ Tăng cƣờng kiểm soát việc nhập cảnh của ngƣời nƣớc ngoài vào
nƣớc ta trên mọi hình thức lao động, du lịch, chuyển công tác nội bộ… thời
gian lƣu trú tại Việt Nam bao lâu. Đƣa ra những thời hạn lƣu trú cụ thể cần
phải khai báo ra sao để giúp các cơ quan địa phƣơng quản lý sát sao hơn.
+ Đối với lao động có kinh nghiệm đƣợc thuê để làm công tác điều
hành sả n xuấ t trong cá c doanh nghiệ p , công ty , thì công ty xí nghiệp thuê
113
dụng phải có giấy chứng thực những ngƣời này có ít nhất 5 năm kinh nghiệ m
quản lý.
+ Đối với cá c nhà thầ u và nhà đầ u tƣ phả i cung cấ p đầy đủ thông tin
chi tiế t đã thuê mƣớ n bao nhiêu lao độ ng nƣớ c ngoà i . Nhƣ̃ ng con số nà y phả i
đƣợ c cung cấ p cho cơ quan chƣ́ c năng để tạ o điề u kiệ n cho công tá c quả n lý
chặt chẽ hơn.
+ Nế u bị phá t hiệ n vi phạ m , các công ty thuê ngƣời nƣớc ngoài sẽ b ị
phạt tiền , mức phạt sẽ đƣợc tính với mỗi ngƣời lao động đƣợc thuê dựa trên
số tiền công họ đƣợc trả, 1 ngƣời lao động nƣớc ngoài thuộc diện vi phạm sẽ
bị phạt ở mức là từ 2 đến 5 lần số tiền công họ đƣợc chi trả, trách nhiệm nộp
phạt thuộc về ngƣời sử dụng lao động.
+ Ngƣời lao động nƣớc ngoài làm việc tại Việt Nam cần phải có độ tuổi
là từ 20 tuổi trở lên, bởi ở độ tuổi đó trình độ chuyên môn mới thực sự đƣợc
đánh giá và phân cấp rõ ràng, tránh sự mập mờ giữa lao động phổ thông và
lao động chất lƣợng cao.
+ Đƣa quan điểm rõ ràng là vớ i tƣ cá ch là quố c gia xuấ t khẩ u lao độ ng ,
Việ t Nam chủ trƣơng không nhậ n lao độ ng phổ thông .
+ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, các địa phƣơng
cần tăng cƣờng đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến Pháp luật trong
lĩnh vực này với các hình thức phong phú, thích hợp, dễ hiểu để ngƣời sử
dụng lao động cũng nhƣ lao động nƣớc ngoài hiểu và nắm rõ quyền lợi của
chính mình theo quy định của pháp luật.
+ Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra. Thanh tra sở lao động
thƣơng binh và xã hội và thanh tra nhà nƣớc ở các địa phƣơng cần chủ động
thanh tra, kiểm tra, lập đầy đủ các biên bản ghi rõ các sai phạm và cam kết
thực hiện có thời hạn của doanh nghiệp, tổ chức, kịp thời phát hiện các sai
phạm để hƣớng dẫn khắc phục, sửa chữa. Đối với các đối tƣợng cố tình sai
114
phạm hoặc không chịu thực hiện thì phải kiên quyết xử lý nghiêm khắc.
+ Tăng cƣờng sự phối hợp quản lý giữa các nghành để việc quản lý lao
động nƣớc ngoài đƣợc toàn diện hơn.
+ Thực hiện đúng chế độ báo cáo tình hình sử dụng lao động nƣớc ngoài,
thanh tra sở lao động thƣơng binh và xã hội thƣờng xuyên hƣớng dẫn đôn đốc
ngƣời sử dụng lao động nƣớc ngoài báo cáo tổng hợp báo cáo định kỹ theo quy
định.
Có thể nói, Nghị định “số 34/2008/NĐ-CP quy định về tuyển dụng và
quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam” còn nhiều kẽ cùng với sự
lỏng lẻo trong quản lý của các cơ quan chức năng và chính quyền địa phƣơng
gây ra tình trạng lộn xộn trong thị trƣờng lao động và xã hội thời gian qua.
Trên đây là một số góp ý nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật đối
với lao động nƣớc ngoài tại việt nam, tạo điều kiện ổn định an ninh xã hội
cũng nhƣ không làm mất đi cơ hội việc làm của chính ngƣời dân trong nƣớc.
115
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế nhƣ hiện nay,
vấn đề quản lý và sử dụng lao động ngƣời nƣớc ngoài đang trở thành một
trong các vấn đề quan trọng của mỗi quốc gia. Các quốc gia phát triển thu hút
lao động chất lƣợng cao với chi phí thấp, tăng thu lợi nhuận. Các quốc gia
đang phát triển lại tranh thủ tận dụng “chất xám”, chuyển giao nhanh kỹ thuật
công nghệ tiên tiến của nƣớc ngoài, đồng thời thu hút đƣợc ngày càng tăng
các dự án FDI, từ đó tăng nguồn thu ngoại tệ. Mỗi quốc gia với các mục đích
khác nhau, căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội của mình nghiên cứu xây dựng
chính sách quản lý nhà nƣớc về lao động nƣớc ngoài vừa phù hợp với bối
cảnh trong nƣớc và quốc tế, đồng thời mang tính khả thi, hiệu lực và hiệu quả.
Đối với Việt Nam, trƣớc những thách thức và cơ hội của hội nhập kinh
tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt kể từ khi gia nhập WTO và tham
gia các công ƣớc liên quan đến lao động của tổ chức ILO, Việt Nam cần phải
chú trọng hơn nữa về mặt xây dựng và thực thi hiệu quả chính sách quản lý,
sử dụng lao động nƣớc ngoài.
Luận văn đã khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà
nƣớc đối với lao động nƣớc ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế.
- Phân tích tình hình lao động nƣớc ngoài và thực trạng quản lý lao
động nƣớc ngoài ở Singapore.
- Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng tình hình lao động nƣớc
ngoài ở nƣớc ta, Luận văn rút ra các bài học kinh nghiệm, cho quản lý nhà
116
nƣớc đối với ngƣời lao động nƣớc ngoài ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phạm Quốc Anh (2008), Những điều cần biết về Người lao động
di trú, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
2. Bùi Quảng Bạ (1996), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong
quản lý nhà nước đối với người nước ngoài ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật
học.
3. Nguyễn Thị Hồng Bích (2007), Xuất khẩu lao động của một số
nước Đông Nam Á: Kinh nghiệm và Bài học, Trung tâm nghiên cứu Quốc tế
và Khu vực, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
4. Phạm Thị Thanh Bình (2008), “Di cƣ lao động ở ASEAN: xu
hƣớng và giải pháp”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới,(1),tr.3
5. Phạm Thị Thanh Bình (07/03/2008), Giải pháp khuyến khích di
cƣ lao động Việt Nam”, tạp chí cộng sản, (4),tr13-15.
6. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, (2005), Lao động - việc
làm ở Việt Nam 1996 – 2010, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
7. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội (5/2007), Hội nghị triển
khai kế hoạch dạy nghề, việc làm và XKLĐ, Hà Nội.
8. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Công văn
số1504/LĐTBXH-VL ngày 11/5/2009 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã
hội về việc quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
9. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Thông tư số
13/2009/TT.BLĐTBXH ngày 6/5/2009 hướng dẫn thực hiện quản lý nhà nước
về lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và khu công
nghệ cao.
10. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Cục Quản lý lao động
ngoài nƣớc (2009), Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt
Nam đi làm việc tại Hàn Quốc, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
117
11. Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Cục Quản lý lao động
ngoài nƣớc (2009), Những kiến thức cần thiết dùng cho người lao động Việt
Nam đi làm việc tại Malaysia, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Hữu Cát (2006), Những giải pháp nâng cao hiệu quả
xuất khẩu lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam,
Ban Kinh tế Trung ƣơng, Hà Nội.
13. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003),
Nghị định của Chính phủ số 105/2003/NĐ-CP ngày 1 7 th áng 9 nă m
2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật Lao độ ng về t uyển dụng v à q uản lý lao độ ng nước ngoà i
làm việc tại Việ t Nam .
14. Chính phủ nƣớc Công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005),
Nghị định số 93/2005/NĐ-CP ngày 13/7/2005 của Chính Phủ về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 105/2003/NĐ-CP nagỳ 17/9/2003 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt
Nam.
15. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008),
Nghị định số 34/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25/3/2008 quy định về
tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.
16. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009),
Nghị định 85/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 Hướng dẫn thi hành Luật Đấu
thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng, Chính phủ nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Nghị định 53/2007/NĐ-CP ngày
4/4/2007 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và
đầu tư.
17. Chính phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010),
118
Nghị định 62/2010/NĐ-CP ngày 4/6/2010 c ủa Chính phủ về việc sửa đổi, bổ
xung một số điều của Nghị định 53/2007/NĐ-CP ngày 4/4/2007 của Chính
phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
18. Cục Quản lý lao động ngoài nƣớc (01/2008), Kỷ yếu Hội thảo Pháp
luật và cơ chế quốc gia, khu vực và quốc tế về bảo vệ người lao động ở nước
ngoài.
19. Nguyễn Văn Cƣờng (2006), Hoàn thiện pháp luật trong quản lý
nhà nước về xuất nhập cảnh ở Việt Nam, Báo cáo luận án TS Luật.
20. Trần Kim Dung, Phó Thị Kim Chi (2009), Dự báo cung cầu thị
trƣờng lao động Việt Nam, “Tạp chí Kinh tế và Dự báo;(6),tr 9-12.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Phạm Thị Hồng Điệp (2010), Quản lý nhà nước đối với lao động
di cư trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá ở Thủ đô Hà Nội, Báo cáo
tại Hội thảo Quốc tế 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Báo điện tử, Đảng cộng
sản Việt Nam.
24. Nguyễn Đại Đồng (2010), “Thực trạng cung cầu lao động và giải
pháp”, Tạp chí Lao động và xã hội, (381), tr.18-20.
25. Phan Huy Đƣờng (2009), Giải pháp tăng cường quản lý Nhà
nước về xuất khẩu lao động, Tạp chí Lao động và Xã hội, (357), tr.15-16.
26. Phan Huy Đƣờng ( 2007), Kinh tế đối ngoại Việt Nam, (Sách
chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà nội
27. Phan Huy Đƣờng( 2008), Hội nhập kinh tế quốc tế với phát triển
bền vững và độc lập tự chủ, Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 3, Hà Nội
28. Phan Huy Đƣờng (2010), Quản lý nhà nước về Kinh tế, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
119
29. Phan Huy Đƣờng (2009), Quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động
trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
30. Đỗ Thị Hải Hà (2007), Quản lý nhà nước đối với cung ứng dịch
vụ công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
31. Lê Thanh Hà (2008), Quan hệ lao động trong hội nhập kinh tế
quốc tế, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
32. Đoàn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Ngọc Huyền(2007), Giáo trình chính
sách kinh tế xã hội, ĐHKTQD, Nxb Khoa học kĩ thuật.
33. Nguyễn Phùng Hồng (2002), Những giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lý người nước ngoài nhằm bảo đảm an ninh trật tự của lực lượng
công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
34. Hội Luật gia Việt Nam (2008), Bảo vệ quyền của người lao động di
trú - Pháp luật và thực tiễn quốc tế, khu vực và quốc gia, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
35. Nguyễn Vân Hƣơng (2010), Quản lý hợp đồng sử dụng lao động
nước ngoài, Sở Kế hoạch và Đầu tƣ Lào Cai.
36. Lê Hồng Huyên (2009), “Tác động của di chuyển lao động quốc
tế đối với sự phát triển của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí
Quản lý kinh tế, (24), tr.13-19.
37. Lê Hồng Huyên (2011), “Quản lý nhà nước về di chuyển lao
động Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài”, Luận án Tiến sỹ kinh tế, bảo vệ
ngày 4/3/2011 tại Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
38. Lê Hồng Huyên (2008), “Tác động của di chuyển lao động quốc
tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc
tế”, Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 3, Hà Nội
39. Nguyễn Thị Phƣơng Linh (2004), Một số giải pháp đổi mới quản
lý tài chính về xuất khẩu lao động Việt Nam theo cơ chế thị trường, Luận án
120
TS kinh tế, Hà Nội.
40. Nguyễn Văn Minh (1999), Quản lý nhà nước về an ninh đối với
người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam theo danh nghĩa du lịch, Luận văn
thạc sĩ luật học, Học viện An ninh nhân dân, Hà Nội
41. Nguyễn Bá Ngọc (1994), Thị trường lao động Việt Nam, Luận án
PTS khoa học kinh tế, Waesan.
42. Nguyễn Bá Ngọc (2008), Quan hệ lao động và môi trường kinh
doanh ở Việt Nam, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
43. Trần Anh Phƣơng (2005), Vị thế của Việt Nam trong quan hệ
hợp tác ASEAN, Báo Điện tử ĐCSVN.
44. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Bộ
luật Lao động và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động
(năm 2002, năm 2006 và năm 2007), Nxb Tƣ Pháp, Hà Nội.
45. Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007),
Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và văn
bản hướng dẫn thi hành, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Cao Văn Sâm (1994), Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế
quản lý xuất khẩu lao động ở nước ta trong giai đoạn tới, Luận án PTS kinh
tế, Hà Nội.
47. Cao Văn Sâm (2009), “Giải pháp phát triển dạy nghề cho các
trƣờng thuộc doanh nghiệp”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (351 + 352), tr.21-23.
48. Tạp chí Con số và Sự kiện (2010), “Việt Nam trong thời kỳ cơ
cấu dân số vàng”, (1 + 2), tr.43-44.
49. Tô Hiến Thà (2008), “ Giải Pháp phát triển nguồn nhân lực chất
lực cao”, Tạp chí Lao động & Xã hội,(340), tr20-22.
50. Tô Hiến Thà, “Sự vận động của dòng vốn FDI quốc tế và một số
đề xuất đẩy mạnh thu hút FDI ở Việt Nam” Tạp chí Châu Mỹ ngày
nay,(134),tr10-11.
51. Tô Hiến Thà ( 12/2009), Nhân tố văn hóa trong phát triển kinh tế
bền vững ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế, ĐH QG Hà Nội.
121
52. Nguyễn Thị Kim Thanh, Nguyễn Thuỳ Linh (2010), Kinh tế thế
giới, trong nước năm 2010 và những dự báo cho thị trường tài chính Việt
Nam, Báo cáo khoa học.
53. Triệu Văn Thế (2005), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
kiểm soát xuất nhập cảnh tại cửa khẩu hàng không quốc tế Nội Bài góp phần
đảm bảo an ninh quốc gia, Bộ Công an, Hà Nội.
54. Ngô Phúc Thịnh (2002), Quản lý nhà nước về an ninh đối với
người nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp.
55. Trần Thị Thu (2006), Nâng cao hiệu quả quản lý xuất khẩu lao
động của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay, Nxb. Lao động xã hội, Hà
Nội.
56. Thủ tƣớng Chính phủ (29/04/2009), Quyết định số 71/2009/QĐ-
TTg Về phê duyệt Đề án Hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao
động góp phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020,
57. Thủ tƣớng Chính phủ (27/11/2009), Quyết định 1956/2009/QĐ-
TTg về việc Phê duyệt đề án Dạy nghề cho Lao động Nông thôn đến năm
2020.
58. Nguyễn Tiệp (2008), Giáo trình thị trường lao động, NXB Lao
động – Xã hội, Hà Nội.
59. Nguyễn Đức Tĩnh (2010), Quản lý nhà nước về đầu tư phát triển
đào tạo nghề ở Việt Nam, Nxb Dân trí, Hà Nội.
60. Đỗ Hoàng Toàn (2008), Giáo trình QLNN về kinh tế, NXB Đại
học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
61. Vũ Đình Toàn (2006), “Nội dung chủ yếu và những điểm mới
của Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở NN theo hợp đồng”, Tạp chí Việc làm
ngoài nước, (6), tr.6.
62. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, Nxb Thống kê,
122
Hà Nội.
63. Nguyễn Hữu Tráng (2002), Trách nhiệm quốc gia đối với việc
nhận trở lại công dân không được nước ngoài cho cư trú, Bộ Ngoại giao, Hà
Nội.
64. Bùi Sỹ Tuấn (2006), “Một số vi phạm pháp luật của DN XKLĐ
và biện pháp phòng ngừa”, Tạp chí Việc làm ngoài nước, (3), tr.9.
65. Bùi Sỹ Tuấn (2009), “Vai trò của xuất khẩu lao động trong
chƣơng trình việc làm quốc gia và một số kiến nghị”, Tạp chí Lao động và Xã
hội, (369), tr.18-20.
66. Nguyễn Thị Hải Vân (2009), “Thực trạng và giải pháp phát triển
hệ thống thông tin thị trƣờng lao động”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (350),
tr.14-16, (351+352), tr.41-43.
Tiếng Anh
67. Godfrey Gunatileke (1992), The impact of labour migration on
households: A comparative study in seven Asian countries, United Nation
University press, Tokyo.
68. IMO, (2002), The Migration-Development Nexus: Evidence and
Policy Option, ISSN 1607-338X.
Website
69. http://www.Asias.com.vn - Công ty CP Chứng khoán châu Á-
ASC, Thị trường lao động thế giới có xu hướng xấu đi.
http://www.cpv.org.vn 70.
http://www.cema.gov.vn 71.
72. http:// www.doisongphapluat.com.vn, (12/5/2009), Thắt chặt
quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam.
73. http://dangcongsan.vn, (10/12/2010), Kinh nghiệm di chuyển lao
động của Trung Quốc và Thái Lan và (9/4/2010), Di chuyển lao động chuyên
môn cao quốc tế - Nguyên nhân và thực trạng.
74. http://www.diendan.org,(07/2006), Vấn đề xuất khẩu lao động
tại Việt Nam.
123
75. http://www.e- info.com.vn, (5/10/2009), Năng lực cạnh tranh:
Vấn đề trọng yếu của nền kinh tế Việt Nam.
76. http:// www.gso.gov.vn, (10/5/2008) Dân số và lao động, kinh tế
và xã hội
77. http://www.hanoimoi online , (2/4/2010), Tăng cường quản lý
lao động người nước ngoài trong tình hình mới.
78. http://luatvietnam.vn
79. http://www.moc.gov.vn
80. http://www.molisa.gov.vn
81. http://www.mpi.gov.vn
82. http://www.mom.gov.sg, (13/9/2010), International Enterprise
Singapore
http://www.manpower.gov.sg. 83.
http://Thongtinphapluatdansu.Wordpress.com, (24/5/2009), Kinh 84.
tế Việt Nam qua các chỉ số phát triển và những tác động của quá trình hội
nhập.
85. http://Thongtinphapluatdansu.Wordpress.com, (10/3/2010), Thị
trường lao động trong cơn suy thoái kinh tế toàn cầu.
86. http://www.tapchicongsan.org.vn, Tạp chí cộng sản điện tử số 16
(184) năm 2009.
http://www.tcdn.gov.vn. 87.
88. http://ungvien.com.vn, (23-04-2009), Quản lý lao động nước
ngoài tại Việt Nam-chưa sát thực tế.
89. http://Vietbao.vn, (2/12/2009), Dự báo 4 khó khăn của kinh tế
thế giới năm 2010.
90. http://vnEconomy.vn, (28/9/2010), ADB điều chỉnh dự báo tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam.
91. http://vnEconomy.vn, (04/12/2008), Lao động phổ thông đang
124
vào Việt Nam.
92. http://vovnew.vn, (25/5/2009), Quản lý lao động nước ngoài -
còn nhiều kẽ hở
93. http:// www.xaluan.com, (30/6/2009), Quản lý lao động tại Hải
Phòng: Lỏng và bị động.