ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA KINH TẾ

NGUYỄN THỊ TRÂM

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Phan Thanh Phố

Hà nội - 2004

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu lao động nói

riêng là một tất yếu khách quan phản ánh quá trình phát triển lực lƣợng sản

xuất và phân công lao động xã hội. Hình thức, quy mô và bƣớc đi của quá

trình chuyển dịch cơ cấu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố

cơ bản nhất là tạo nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình

độ phát triển của lực lƣợng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Chuyển dịch cơ cấu lao động - thực chất là sự phân công và phân công lại lao

động xã hội một cách thích ứng với việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh

tế theo hƣớng công nghiệp hóa, hiên đại hóa nền kinh tế quốc dân.

Nghệ An là một tỉnh đất rộng ngƣời đông có tiềm năng phát triển kinh

tế. Sau gần 17 năm đổi mới, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói

chung, cơ cấu lao động nói riêng Nghệ An, có sự chuyển dịch theo hƣớng tiến

bộ, bƣớc đầu tạo nên động lực phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh trong thời

gian qua. Tuy vậy, cho đến nay Nghệ An vẫn là một tỉnh nghèo, tiềm năng về

lao động chƣa đƣợc phát huy đầy đủ, cơ cấu lao động còn nhiều mặt mất cân

đối nghiêm trọng, nhiều lợi thế so sánh của tỉnh chƣa đƣợc khai thác có hiệu

quả. Xuất phát từ thực tế, khả năng, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh từ nay đến năm 2010 và thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh,

trong thời gian tới cần tiếp tục nghiên cứu, tìm ra những giải pháp tối ƣu để

nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm sử dụng lao động có hiệu

quả cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo

mục tiêu và định hƣớng mà Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV đã đề

ra.

1

Đề tài “Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,

hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An” đƣợc chọn để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

kinh tế là trên ý nghĩa đó.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có quan hệ biện chứng với quá

trình chuyển dịch cơ cấu lao động, nhằm khai thác và phát huy có hiệu quả

nguồn lực lao động và các nguồn lực khác của tỉnh. Vấn đề chuyển dịch cơ

cấu lao động đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta đề cập trong nhiều chủ trƣơng

chính sách. Cho tới nay, cũng đã có nhiều tác giả và công trình nghiên cứu,

phân tích vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau nhƣ:

- “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế

quốc dân” của GS. TS. Ngô Đình Giao - NXB Chính trị quốc gia năm 1994

- “Vấn đề lao động và việc làm” của GS. TS. Đỗ Thế Tùng - 1996

- “Phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước” của PGS.TS Phan Thanh Phố - Tạp chí kinh tế và phát triển số 5/1995.

- “Lao động và việc làm - Những bước tiến quan trọng” - Nguyễn Thị

Hằng - Tạp chí Cộng sản, số 23 tháng 8, năm 2002.

- “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn” của PGS. TS

Nguyễn Sinh Cúc - Tạp chí Cộng sản số 5/ 2001.

- “Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn”

của Hoàng Kim Ngọc - Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 12/2001

- “Các giải pháp gắn đào tạo với cầu lao động kỹ thuật trên thị trường

lao động ở nước ta” của TS Nguyễn hữu Dũng - Tạp chí Lao động và Xã hội

số tháng 10/2002

- “Vấn đề phân công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ở tỉnh Tiền Giang” Luận án Tiến sĩ của Trần Thị Ngọc Lan - năm

2000.

2

- “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Huyện Gia Lâm theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá” Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Ngọc

Diệp - năm 1999.

Ở Nghệ An, cũng đã có một số đề tài đƣợc công bố nhƣ: Phân công lao

động xã hội ở nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, phát triển kinh tế hộ nông

dân... của các tác giả Hồ Minh Đức, Hoàng Trần Ky, Lê Thị Bông...

Các đề tài nghiên cứu nói trên, mới đi sâu một số khía cạnh, chƣa thành

một đề tài độc lập đƣợc trình bày một cách có hệ thống. Hơn nữa, việc nghiên

cứu chủ đề này trong phạm vi tỉnh, nhất là ở tỉnh Nghệ An cho đến nay chƣa

3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI

nhiều.

Trên cơ sở phân tích có hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của việc

chuyển dịch cơ cấu lao động, luận văn đề xuất một số phƣơng hƣớng và giải

pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An từ nay đến năm 2010.

Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Khái quát một cách có hệ thống lý luận liên quan đến cơ cấu lao động và

chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời

gian qua, tìm nguyên nhân và những vấn đề mới nẩy sinh cần giải quyết.

- Xây dựng phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản chuyển dịch cơ cấu lao

động trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu

4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An đến năm 2010.

3

- Đề tài lấy việc phân tích thực trạng, phƣơng hƣớng và giải pháp đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ở tỉnh Nghệ An làm đối tƣợng nghiên cứu.

- Đề tài chỉ nghiên cứu những giải pháp cơ bản liên quan đến chuyển

dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Nghệ An trong thời gian từ ngày tái lập tỉnh đến

5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

năm 2010.

Luận văn lấy phƣơng pháp duy vật biện chứng làm phƣơng pháp luận

chung trong quá trình nghiên cứu. Đồng thời còn sử dụng một số các phƣơng

pháp khác nhƣ: phân tích, so sánh, thống kê và phƣơng pháp điều tra, khảo sát

6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

thực tế...

- Làm rõ thêm nội dung và xu hƣớng có tính quy luật trong chuyển dịch

cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nƣớc ta.

- Đƣa ra những đánh giá có cơ sở khoa học thực trạng chuyển dịch cơ

cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nghệ An thời gian

qua.

- Xây dựng phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển

dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nghệ An từ

7. KẾT CẤU LUẬN VĂN

nay đến năm 2010.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng với 7 tiết.

4

CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1. CƠ CẤU LAO ĐỘNG VÀ SỰ CẦN THIẾT CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO

ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1.1. Một số khái niệm

1.1.1.1. Cơ cấu lao động

Bàn về cơ cấu lao động, theo Mác có nghĩa là bàn về cấu trúc bên trong

của quá trình phân công lao động xã hội. Ngƣời viết: “Cơ cấu là sự phân chia

về chất lƣợng và một tỷ lệ về số lƣợng của quá trình sản xuất xã hội” [22, tr

77]. Đó là các quan hệ tỷ lệ cũng nhƣ xu hƣớng vận động, phát triển nguồn

lao động giữa các ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...), các

vùng kinh tế (đồng bằng, trung du, miền núi, ven biển...), các thành phần kinh

tế (Nhà nƣớc, tập thể, cá thể,tiểu chủ, tƣ bản tƣ nhân...).

Sự hình thành và phát triển cơ cấu lao động thƣờng gắn với những điều

kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội từng nƣớc, từng vùng và từng doanh nghiệp

trong từng thời gian nhất định. Cơ cấu lao động tồn tại, biến đổi, thích ứng

với sự biến động của các điều kiện đó.

Mọi sự thay đổi của cơ cấu lao động không thể áp đặt chủ quan theo ý

muốn mà phải dựa vào sự biến đổi của các yếu tố khách quan và các mục tiêu

kinh tế - xã hội đƣợc đặt ra.

Từ đó có thể hiểu Cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về số lượng và

chất lượng lao động trong các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế; phản

ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã

hội; biểu hiện xu thế phát triển của các ngành, các thành phần kinh tế và các

vùng kinh tế.

5

Cơ cấu lao động biểu hiện sự gắn bó hữu cơ với nhau trong hệ thống phân

công lao động xã hội. Việc nghiên cứu cơ cấu lao động phải gắn với điều kiện

không gian, thời gian cụ thể mới có thể xác định đƣợc một cách khoa học cơ cấu

lao động đang tồn tại và xu hƣớng vận động của nó. Từ đó, đƣa ra cách thức tổ

chức và phân bố các yếu tố cơ bản của lực lƣợng sản xuất.

1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động

Trong tác phẩm “Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga”, khi bàn về sự di

chuyển nguồn lao động, Lênin quan niệm cơ cấu lao động không ở trạng thái

tĩnh, mà luôn ở trạng thái động, luôn có sự thay đổi điều chỉnh quan hệ tỷ lệ, xu

hƣớng vận động của các bộ phận cấu thành nguồn lao động sao cho phù hợp

với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay một địa phƣơng

trong từng thời kỳ nhất định. Thực chất của chuyển dịch cơ cấu lao động là quá

trình tổ chức và phân công lại lực lƣợng lao động, qua đó làm thay đổi quan hệ

tỷ lệ giữa các bộ phận của nguồn lao động.

Từ đó có thể xác định khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động: Chuyển

dịch cơ cấu lao động là một phạm trù kinh tế phản ánh sự thay đổi quan hệ tỷ

lệ giữa các bộ phận của nguồn lao động trong nội bộ ngành và giữa các

ngành, các vùng, các thành phần kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử nhất

định.

Về mức độ phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu lao động có thể diễn ra

các cấp độ sau:

- Nếu theo mức độ tích tụ, tập trung của các nguồn lực, thì sự chuyển

dịch cơ cấu lao động diễn ra từ chỗ lấy việc tập trung lao động làm chính, sau

đó tiếp tục chuyển sang một giai đoạn mới cao hơn là lấy việc tập trung kỹ

thuật tri thức làm nội dung cơ bản để chuyển dịch lao động.

- Nếu theo năng lực tiếp nhận thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ

thuật thì chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra trƣớc tiên từ chỗ lấy khả năng

6

giải quyết việc làm cho ngƣời lao động là chính, sang giai đoạn lấy việc nâng

cao trình độ nhận thức và kỹ năng cho ngƣời lao động làm mục tiêu cơ bản.

- Nếu theo mức độ tăng dần của giá trị đầu ra, chuyển dịch cơ cấu lao

động sẽ diễn ra từ chỗ ban đầu có giá trị đầu ra thấp đến các giai đoạn sau có

giá trị đầu ra cao.

- Nếu căn cứ vào không gian di chuyển của lao động thì chuyển dịch cơ

cấu lao động lại có thể diễn ra theo hai cách thức:

Chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ, đây là sự chuyển dịch lao động

nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác ở nông thôn. Đặc điểm cơ bản của

sự chuyển dịch này là không có sự di chuyển nơi sinh sống, nên không làm

thay đổi mật độ dân cƣ sinh sống. Nhƣng cơ cấu lao động lại có sự thay đổi rõ

rệt. Đây chính là phƣơng thức chuyển dịch cơ cấu lao động tích cực nhất.

Chuyển dịch cơ cấu lao động kèm theo sự di cƣ, đây là sự chuyển dịch

lao động về mặt không gian. Hậu quả là tạo ra các dòng di chuyển dân cƣ từ

vùng này sang vùng khác. Đặc điểm của sự chuyển dịch này là sẽ làm giảm

quy mô cũng nhƣ cơ cấu của nguồn lao động nơi ra đi, nhƣng lại tăng quy mô

và thay đổi cơ cấu của nguồn lao động nơi đến. Vì vậy để giảm thiểu hậu quả

của việc di dân và lao động cần phải có các giải pháp tích cực để khắc phục

sự chênh lệch giữa các vùng và các miền.

Về mặt lý thuyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động từ trƣớc đến nay ít

nhiều đã đƣợc các nhà kinh điển đề cập với những cách lập luận khác nhau.

- Trong kinh tế học Mác xít, vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động chủ

yếu đƣợc đề cập trong hai học thuyết: Học thuyết về phân công lao động xã

hội và học thuyết tái sản xuất tƣ bản xã hội. Trong học thuyết về phân công

lao động xã hội, các nhà kinh tế học Mác xít đề cập mối quan hệ giữa phân

công lao động xã hội với cách mạng kỹ thuật và cho rằng: tiền đề vật chất và

môi trƣờng thể chế rất quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

7

động. Những tiền đề vật chất đƣợc đề cập ở đây đó là sự tách rời giữa thành

thị và nông thôn; quy mô và mật độ của dân số, tăng năng suất lao động xã

hội.Về nguyên tắc, năng suất lao động phải có khả năng đáp ứng đƣợc nhu

cầu lƣơng thực, thực phẩm cho toàn xã hội. Còn môi trƣờng thể chế đóng vai

trò bảo hộ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Các Mác đã khẳng định

rằng: “Cơ sở của mọi sự phân công lao động phát triển và lấy sự trao đổi hàng

hoá làm môi giới là sự tách rời giữa thành thị và nông thôn”.[22,tr 77]

Trong học thuyết về tái sản xuất tƣ bản xã hội, vấn đề chuyển dịch cơ

cấu lao động theo ngành đã đƣợc các nhà kinh tế học Mác xít nghiên cứu;

Theo Lênin: “Sản xuất ra tƣ liệu sản xuất để chế tạo tƣ liệu sản xuất phát triển

nhanh nhất; sau đó đến sản xuất tƣ liệu sản xuất để chế tạo tƣ liệu tiêu dùng;

và chậm nhất là sự phát triển của sản xuất tƣ liệu tiêu dùng” [20,tr 98]

Đặt nền móng cho sự phát triển của học thuyết chuyển dịch cơ cấu lao

động trƣớc tiên phải kể đến D. Ricardo với việc mô tả hàm sản xuất trong

nông nghiệp. Theo ông khi tăng tỷ lệ đầu vào lao động lên thì sản lƣợng đầu

ra trong nông nghiệp tăng với tỷ lệ giảm dần và nguyên nhân là do sự hoạt

động của quy luật lợi suất giảm dần trong nông nghiệp gây ra.

Sau D. Ricardo, có E. Engel với việc đề xƣớng quy luật tiêu thụ sản

phẩm. Theo E. Engel: Khi thu nhập của các hộ gia đình phát triển lên thì tỷ lệ

chi tiêu của họ cho lƣơng thực, thực phẩm thấp đi. Do chức năng chính của

khu vực nông nghiệp là sản xuất lƣơng thực, thực phẩm nên có thể suy ra tỷ

trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.

Nhƣ vậy quy luật tiêu thụ sản phẩm của E. Engel đã gián tiếp nói lên xu

hƣớng của việc chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình phát triển kinh tế.

Còn A. Shiser lại cho rằng nguồn lao động xã hội đƣợc chia vào ba khu

vực: Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp; khu vực

thứ hai bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng; khu vực thứ ba bao gồm

8

vận tải, thông tin, thƣơng nghiệp. Theo ông, trong quá trình phát triển, sự tăng

cƣờng sử dụng máy móc, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tác động

đến sự thay đổi cơ cấu lao động theo hƣớng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp

và tăng tỷ lệ lao động cho công nghiệp, dịch vụ.

Kế thừa những quan điểm của các nhà kinh điển, các nhà kinh tế học

hiện đại tiếp tục đƣa ra cách nhìn nhận của mình về cơ cấu lao động và

chuyển dịch cơ cấu lao động sau:

- Lý thuyết các giai đoạn kinh tế của Rostow: Theo Rostow quá trình

phát triển kinh tế của một nƣớc có thể chia ra 5 giai đoạn:

+ Xã hội truyền thống: Sản xuất nông nghiệp đóng vai trò trung tâm

trong hoạt động kinh tế, năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng

công cụ thủ công nên cơ cấu lao động mang tính thuần nông.

+ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Đã có sự áp dụng khoa học - kỹ thuật

vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao

động trong nông nghiệp sang các ngành khác.

+ Giai đoạn cất cánh: Khoa học - kỹ thuật tác động mạnh vào công

nghiệp và nông nghiệp, tạo ra sự thay đổi về nhận thức và lối sống mới trong

nông dân, một bộ phận lớn lao động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và

dịch vụ, cơ cấu lao động đã có sự chuyển dịch theo hƣớng công nghiệp hoá,

hiện đại hoá.

+ Giai đoạn trƣởng thành: Cơ giới hoá trong nông nghiệp đạt năng suất

cao, tỷ lệ lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch

vụ tăng nhanh hơn.

+ Giai đoạn mức tiêu dùng cao: Thu nhập bình quân đầu ngƣời tăng

nhanh; cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hƣớng tăng nhanh tỷ lệ lao

động làm việc trong các khu công nghiệp, đô thị và tỷ lệ lao động có trình độ

chuyên môn tay nghề cao.

9

Từ lý thuyết của Rostow ta nhận thấy rằng sự phát triển của khoa học -

kỹ thuật và việc áp dụng nó vào quá trình sản xuất là nguyên nhân cơ bản tạo

ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động.

- Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis khởi xƣớng.

Lý thuyết này cho rằng mối quan hệ giữa hai khu vực nông nghiệp và

công nghiệp xuất phát từ tƣ tƣởng của Ricardo. Theo A. Lewis do khu vực

nông nghiệp có năng suất lao động thấp nên dƣ thừa nhiều lao động, vì vậy xã

hội có thể chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang khu vực công

nghiệp mà không làm ảnh hƣởng tới sản xuất nông nghiệp tạo ra sự chuyển

dịch cơ cấu lao động.

Nhìn chung các lý thuyết trên đều có một điểm chung là rất coi trọng

tiền đề vật chất cần thiết cho quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đó là

tăng năng suất lao động và mức thu nhập; phƣơng thức để thực hiện các mục

tiêu đó là tiến bộ kỹ thuật và việc ứng dụng chúng vào quá trình sản xuất [16;

37].

Lý luận và thực thực tiễn, khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động cần

đƣợc hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp:

- Theo nghĩa rộng, chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi trong quan

hệ tỷ lệ, cũng nhƣ xu hƣớng vận động của các bộ phận cấu thành nên nguồn lao

động của nền sản xuất xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

- Theo nghĩa hẹp, chuyển dịch cơ cấu lao động gắn liền với sự phân

công và phân công lại lao động xã hội theo hƣớng: Tỷ trọng lao động nông

nghiệp giảm xuống, tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong

đó: Tỷ trọng lao động dịch vụ tăng nhanh hơn tỷ trọng lao động công nghiệp

trong tổng lao động xã hội; tỷ trọng lao động giản đơn giảm dần và tỷ trọng

lao động trí tuệ (lao động phức tạp) tăng nhanh và ngày càng chiếm ƣu thế

trong cơ cấu lao động.

10

Chuyển dịch cơ cấu lao động là một khái niệm có nội hàm rộng, phức

tạp có quan hệ chặt chẽ và song song với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Việc xác

định đúng khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần làm rõ nội dung và

vai trò cũng nhƣ phƣơng hƣớng chuyển dịch cơ cấu lao động. Ở nƣớc ta trong

một thời gian dài tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động chƣa đƣợc

nhận thức đúng mức nên hiệu quả đem lại rất thấp. Đã đến lúc cần nhận thức

đúng đắn khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động, từ đó góp phần giải quyết

những vấn dề cụ thể có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động mà thực tế

đang đặt ra.

Dƣới góc độ không gian lãnh thổ của mỗi nƣớc, mỗi vùng ngƣời ta có

thể lựa chọn những xu hƣớng thích hợp nhƣ chuyển dịch cơ cấu lao động gắn

với sự thay đổi cơ cấu chuyên môn kỹ thuật; chuyển dịch cơ cấu lao động gắn

với sự thay đổi của hình thức tổ chức và phƣơng pháp lao động... Song tất cả

các xu hƣớng đó cũng đều phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chuyển dịch cơ cấu lao động là xu hƣớng có tính quy luật của các quốc

gia đã và đang tiến hành công nghiệp hoá. Thực chất của xu hƣớng này là quá

trình chuyển đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp

và dịch vụ để giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống

cho nhân dân. Chuyển đổi cơ cấu lao động là quá trình giảm số lƣợng tuyệt

đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lƣợng tuyệt đối và tỷ trọng lao

động công nghiệp và dịch vụ. Nội dung cơ bản của quá trình chuyển dịch cơ

cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá là giải phóng lao động ở ngành có

năng suất lao động thấp (nông nghiệp) sang ngành có năng suất cao hơn (công

nghiệp và dịch vụ), từ đó tạo ra nhiều của cải vật chất và sản phẩm dịch vụ

tiến tới hiện đại hoá nền kinh tế.

11

1.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,

hiện đại hoá

CNH, HĐH là quá trình biến đổi các hoạt động sản xuất từ chỗ dựa vào

khai thác tự nhiên lấy lao động thủ công là chính, sang phƣơng pháp sản xuất

công nghiệp với lao động bằng máy móc là chủ yếu, trên cơ sở đó tạo ra một

năng suất lao động xã hội cao.

Trên thực tế, mặc dù có một số cách hiểu khác nhau về công nghiệp

hoá, hiện đại hoá, song nhƣ Đảng ta đã chỉ rõ: CNH, HĐH là quá trình

chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và

quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng

một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phƣơng tiện và phƣơng

pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa

học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [11]

Để tạo sự chuyển biến nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế phát triển và

chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

với điểm xuất phát thấp nhƣ nƣớc ta, CNH, HĐH phải đƣợc coi là nhiệm vụ

trung tâm trong chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.

Tiến trình CNH, HĐH sẽ tạo ra những động lực có tác dụng to lớn đối

với nền kinh tế quốc dân nhƣ: Thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội,

nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần hình thành cơ cấu kỹ thuật và công

nghệ theo hƣớng hiện đại, thông qua chuyển dịch để hình thành cơ cấu kinh tế

hợp lý giữa các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng, miền của đất

nƣớc. Thúc đẩy nhanh quan hệ kinh tế đối ngoại, phát huy lợi thế so sánh của

quốc gia, dân tộc.

Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ thúc đẩy sự phát triển phân

công lao động, tạo điều kiện thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hƣớng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong các

12

ngành công nghiệp và dịch vụ, không ngừng nâng cao chất lƣợng, cơ cấu và

trình độ chuyên môn cho ngƣời lao động.

Quá trình công nghiệp hoá biểu hiện qua các dấu hiệu: Có sự thay đổi

của quy mô sản xuất từ chỗ chỉ lấy quy mô sản xuất gia đình làm chính sang

quy mô sản xuất theo kiểu công xƣởng lớn. Tỷ trọng sản xuất công nghiệp,

dịch vụ ngày càng tăng, còn tỷ trọng nông nghiệp giảm dần. Cơ cấu lao động

có sự chuyển dịch theo hƣớng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ

trọng lao động công nghiệp, dịch vụ... tốc độ đô thị hoá tăng lên, thể hiện

thông qua việc gia tăng tỷ lệ dân cƣ tập trung tại các đô thị và khu công

nghiệp.

Hiện đại hoá đƣợc hiểu là việc trang bị, sử dụng những yếu tố khoa học

- công nghệ tiên tiến mà thời đại đã đạt đƣợc vào quá trình sản xuất, kinh

doanh.

Trong thời đại ngày nay CNH, HĐH, có quan hệ mật thiết với nhau và

in dấu đậm nét sự biến đổi về số lƣợng và chất lƣợng lao động và trong

chuyển dịch cơ cấu lao động. Nhƣ vậy, chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hƣớng CNH, HĐH là một yêu cầu khách quan và là điều kiện không thể thiếu

đƣợc để đƣa nền kinh tế tăng trƣởng và phát triển.

Từ phân tích về những nội dung chủ yếu của CNH, HĐH và dặt nó

trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu lao động, chúng ta có thể rút ra

khái niệm chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá là:

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ, xu hướng vận động của các bộ phận cấu

thành nguồn lao động trong các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế,

từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức

lao động cùng với trang thiết bị, phương pháp công nghệ tiên tiến hiện đại

13

nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội ngày càng cao trong từng giai đoạn

lịch sử nhất định.

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá không do ý muốn chủ quan mà dựa trên những đặc điểm tự nhiên, kinh tế,

xã hội và nhu cầu của thị trƣờng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Bởi vì lao động của con ngƣời là yếu tố quyết định, sự phát triển kinh tế - xã

hội ở mọi thời đại lịch sử. Vì vậy khi nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động

phải chú ý nguồn lao động, phải xuất phát từ lao động để nghiên cứu cơ cấu

lao động.

1.1.2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá

1.1.2.1. Do yêu cầu phát huy vai trò của lao động đối với công nghiệp

hóa, hiện đại hóa phát triển theo con đường rút ngắn hiện đại

Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin đã từng nhiều lần nhấn

mạnh vai trò to lớn của lao động. Mác viết: “Lao động trƣớc hết là một quá

trình diễn ra giữa con ngƣời và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt

động chính mình, con ngƣời làm trung gian điều tiết và kiểm soát sự trao đổi

chất giữa họ và tự nhiên” [23,tr 230].Ông còn cho rằng: “Con ngƣời không

chỉ làm biến đổi hình thái những cái do tự nhiên cung cấp..., con ngƣời cũng

đồng thời thực hiện các mục đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết định

phƣơng thức hành động của họ, giống nhƣ một quy luật và bắt ý chí của họ

phải phục tùng nó”[23,tr 321]. Trong bộ tƣ bản Mác còn phân tích một cách

khoa học vai trò của tƣ bản khả biến đối với việc sản xuất giá trị thặng dƣ.

Lênin đánh giá vai trò của lao động là: “Lực lƣợng sản xuất hàng đầu của toàn

thể nhân loại là công nhân, là ngƣời lao động” [21, tr 30].

Kế thừa và phát huy những di sản quý báu của các nhà kinh điển chủ

nghĩa Mác - Lênin và chọn lọc những kiến thức, những thành quả của kinh tế

14

học hiện đại, vận đụng sáng tạo vào thực tiễn nƣớc ta, Đảng, Nhà nƣớc ta

luôn luôn quan tâm đến con ngƣời, tạo mọi điều kiện để con ngƣời phát triển

hoàn thiện.. Tại Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã khẳng định:

“Phát huy yếu tố con ngƣời và lấy con ngƣời làm mục đích cao nhất của mọi

hoạt động”[9,tr 82] Đại hội lần thứ VII của Đảng, trong chiến lƣợc phát triển

kinh tế xã hội đã đặt con ngƣời vào vị trí trọng tâm, lấy mục tiêu và động lực

chính của sự phát triển là vì con ngƣời, do con ngƣời, Đại hội đã khẳng định:

“Nguồn lao động dồi dào, con ngƣời Việt Nam có truyền thống yêu nƣớc, cần

cù, sáng tạo... có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là

nguồn lực quan trọng nhất” [8, tr5,23]. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ VIII,

Đảng ta lại khẳng định: “ Lấy việc phát huy nguồn lực con ngƣời làm yếu tố

cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững...” [9,tr 85]. Công nghiệp hóa,

hiện đại hóa phát triển theo con đƣờng rút ngắn hiện đại ở nƣớc ta nói chung

và mỗi địa phƣơng nói riêng phụ thuộc khá lớn vào việc khai thác, sử dụng có

hiệu quả các nguồn lực, bao gồm nguồn tài nguyên, nguồn vốn, khoa học -

công nghệ đặc biệt là nguồn lao động, trong đó nguồn lực lao động có ý nghĩa

quyết định bởi vì mọi hoạt động sản xuất vật chất và tinh thần rút cuộc đều là

hoạt động của ngƣời lao động. Chính vì thế mà Đại hội Đảng IX đã xác định:

“Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nƣớc trong thời kỳ

công nghiệp hoá, hiện đại hoá...”{10, tr 17, 201]

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện

đại hoá càng đòi hỏi phải có lực lƣợng lao động có trình độ kỹ thuật, tay nghề

và ý thức tổ chức kỷ luật cao. Do vậy, với tƣ cách là ngƣời lao động hơn bao

giờ hết phải có nhận thức sâu sắc để không ngừng bồi dƣỡng và nâng cao

trình độ văn hoá và chuyên môn là yêu cầu cấp bách để sử dụng và tiếp thu có

hiệu quả những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến của thế giới góp

phần làm thay đổi cơ cấu lao động phù hợp với quan điểm của đại hội Đảng

15

lần thứ IX: “Con đƣờng CNH, HĐH của nƣớc ta cần và có thể rút ngắn thời

gian, vừa có những bƣớc tuần tự, vừa có bƣớc nhảy vọt”.[10, tr 91]

1.1.2.2. Do yêu cầu phải đẩy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, một nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta

Với điểm xuất phát là một nƣớc nông nghiệp đang ở thời kỳ đầu của

quá trình CNH, HĐH, nông thôn nƣớc ta theo số liệu thống kê đến năm

2001chiếm 76% dân số và 74% lao động xã hội. Trong những năm gần đây,

Đảng và Nhà nƣớc đã chú trọng đến việc chuyển dịch cơ cấu lao động nhằm

tạo việc làm, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân bằng nhiều

chủ trƣơng, chính sách. Do đó, cơ cấu lao động đã chuyển dịch theo hƣớng

tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động nông

nghiệp. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch này diễn ra còn chậm, chƣa đồng

đều so với yêu cầu và khả năng thực tế. Nhìn chung cơ cấu lao động còn bất

hợp lý giữa các ngành, vùng và thành phần kinh tế. (Xem bảng 1.1)

Bảng 1.1: Cơ cấu lao động theo ngành từ 1991 - 2000 [19].

Công nghiệp

Tổng số lao động

Nông, lâm

Dịch vụ

xây dựng

Năm

nghiệp (%)

(%)

(Ngàn người )

(%)

1991 30.794 13,9 13,5 72,6

1992 31.819 13,4 13,7 72,9

1993 32.716 13,3 13,7 73,0

1994 33.664 13,2 16,8 70,0

1995 34.589 13,2 17,3 69,7

1996 35.792 12,5 18,2 69,2

1997 36.994 12,5 18,7 68,7

1998 38.194 12,7 19,0 68,2

16

66,7 1999 39.394 12,9 19,3

62,6 2000 36.205 13,1 24,3

Nguồn: Tổng cục Thống kê; niên giám thống kê từ 1991 -2002

Từ số liệu ở bảng1.1 cho thấy: Hàng năm tổng nguồn lao động tăng lên

gần 900.000 ngƣời, nhƣng 4/5 số tăng thêm này vẫn còn nằm lại ở khu vực

nông nghiệp. Vì vậy, trên thực tế, tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn

còn rất cao (hơn 70% so với tổng nguồn lao động xã hội), trong những năm

qua chẳng những không hề giảm đi mà lại còn có xu hƣớng tăng lên. Trong

khi đó, công nghiệp và dịch vụ năm cao nhất chỉ thu hút đƣợc từ 8,5% đến

12,4% số lao động tăng thêm, thậm chí có năm công nghiệp chỉ nhận thêm

0,3% tổng số lao động tăng thêm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì thế mà

tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ trong tổng nguồn lao động xã hội

hầu nhƣ không thay đổi thậm chí có lúc giảm xuống. Mặt khác, sự phân

công nội bộ ngành nông nghiệp: chăn nuôi phát triển, nâng tỷ trọng chăn nuôi

trong tổng sản phẩm nông nghiệp chiếm độ 30%, còn lại là 70% trồng trọt.

Chăn nuôi phát triển thoát khỏi tính tự cung, tự cấp mà chuyển sang sản xuất

hàng hoá tạo ra nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và thực phẩm xuất

khẩu.

Trong lĩnh vực trồng trọt cũng có sự phân bố lại cho phù hợp với nhu

cầu tiêu dùng của thị trƣờng thế giới đƣợc thực hiện thông qua việc quy hoạch

các vùng trồng cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn nhƣ: Chè, cà phê, cao

su, tiêu...Sự thay đổi đó, đòi hỏi phải có lực lƣợng lao động có trình độ kỹ

thuật, chuyên môn sử dụng đƣợc tiến bộ khoa học kỹ thuật - công nghệ, sử

dụng đƣợc công cụ lao động cơ giới trong nông nghiệp, có kiến thức mới về

công nghệ sinh học, biết cách chọn giống và chăm sóc giống mới. Có thể nói,

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đồi hỏi cơ cấu lao động trong nội bộ

ngành nông nghiệp đã và đang đòi hỏi phải có sự thay đổi lớn về chất. Chính

17

sự chuyển dịch cơ cấu lao động đã bƣớc đầu hình thành một đội ngũ công

nhân nông nghiệp có trình độ khoa học - kỹ thuật. Thế nhƣng do lao động

nông thôn tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với quỹ đất dai ngày càng thu hẹp, đã gây

trở ngại cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động. Hiện nay, cả nƣớc có 29 triệu

lao động ở nông thôn, mỗi năm tăng thêm trên một triệu lao động. Trong khi

đó đất nông nghiệp chỉ có 8,1 triệu ha, bình quân một lao động chỉ có 0,27 ha.

Nhƣ vậy, còn khoảng 9 - 10 triệu lao động ở nông thôn không có việc làm.

Ngoài ra số lao động nông nhàn cũng rất đáng kể chỉ sử dụng 30% thời gian

làm việc, còn lại 70% thiếu việc làm.

Việc hình thành các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất cũng đã

thu hút một số lao động có trình độ phổ thông dịch chuyển từ nông thôn vào

các khu công nghiệp: may mặc, dệt, da, lắp ráp, điện tử... vào các hoạt động

dịch vụ mua bán, ăn uống, giải khát... trong khu vực kinh tế Nhà nƣớc từ

12.300 doanh nghiệp, qua sắp xếp chỉ còn 6.000 doanh nghiệp. Việc sắp xếp

lại doanh nghiệp nhà nƣớc tuy đã góp phần thay đổi một bƣớc cơ cấu và chất

lƣợng lao động, nhƣng số lao động dôi dƣ sau sắp xếp hiện nay đang là một

thách thức lớn.

Cho đến nay sự phân bố lực lƣợng lao động có trình độ chƣa hợp lý đã

dẫn đến tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động có tay nghề cao. Phần lớn cán

bộ có trình độ chuyên môn cao đều tập trung ở đô thị, chủ yếu là ở Hà Nội,

Thành phố Hồ Chí Minh, vì ở những nơi này có nhiều Viện nghiên cứu, nhiều

xí nghiệp liên doanh với nƣớc ngoài. Nhiều vùng nông thôn mặc dù còn thiếu

nhiều lao động có trình độ chuyên môn, song sức thu hút đội ngũ lao động có

trình độ chuyên môn đang còn hạn chế. Có thể nói cho đến nay, cơ cấu lao

động đang còn mất cân đối giữa các ngành, các khu vực( giữa sản xuất và phi

sản xuất), giữa các vùng (đô thị và nông thôn), giữa các thành phần kinh tế

(nhà nƣớc, tập thể và tƣ nhân..) đã gây ra sự hạn chế cho quá trình phát triển

18

kinh tế-xã hội và tạo ra sự chênh lệch về phân bố lao động giữa các ngành,

các vùng và các thành phần kinh tế trong quá trình CNH, HĐH.

1.1.2.3. Do yêu cầu của sự hình thành và phát triển thị trường sức

lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Thị trƣờng sức lao động là thị trƣờng mà ở đó cung cầu về sức lao động

biểu hiện thông qua hợp đồng lao động đƣợc ký kết giữa ngƣời cung ứng sức

lao động và ngƣời sử dụng sức lao động.

Thị trƣờng sức lao động phản ảnh các quan hệ kinh tế hình thành thông

qua cung cầu sức lao động. Mặc dù, tiền công do giá trị sức lao động chi phối,

tuy nhiên trên thị trƣờng sức lao động sự thay đổi mức cung cầu sức lao động

cũng ảnh hƣởng tới tiền công và ngƣợc lại sự thay đổi mức tiền công cũng

ảnh hƣởng tới cung, cầu về sức lao động. Đối tƣợng tham gia thị trƣờng sức

lao động bao gồm những ngƣời sử dụng sức lao động của ngƣời khác và

những ngƣời có khả năng cung ứng sức lao động để đƣợc nhận một khoản

tiền công nhất định.

Thị trƣờng sức lao động là nơi gắn kết giữa cung sức lao động với cầu

sức lao động gắn với các thông số nhƣ số lƣợng, chất lƣợng và cơ cấu lao

động để ngƣời lao động có nhiều cơ hội tìm việc làm. Trong mối quan hệ gắn

kết giữa cung sức lao động với cầu sức lao động và giải quyết việc làm phải

dựa trên cơ sở và xoay quanh các trục trung tâm là “cầu sức lao động” trên thị

trƣờng sức lao động. Mọi sự thay đổi của cầu sức lao động về số lƣợng, chất

lƣợng và cơ cấu lao động giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế

trên thị trƣờng sức lao động phải đƣợc nhận biết, phân tích xem xét và điều

chỉnh trong cung sức lao động. Đây là sự thay đổi căn bản nhất trong cung

sức lao động của nền kinh tế hiện đại so với nền kinh tế truyền thống. Thông

qua thị trƣờng sức lao động sẽ giúp cho ngƣời lao động nắm bắt đƣợc những

19

yêu cầu, thông tin theo định hƣớng cầu sức lao động để từ đó mà điều chỉnh

khả năng cung sức lao động cho phù hợp.

Thực tế cho thấy nƣớc ta là nƣớc đang phát triển, các yếu tố của thị

trƣờng phát triển chƣa đồng bộ và hoàn chỉnh; thị trƣờng sức lao động còn sơ

khai; còn tồn tại song hành hai khu vực kinh tế (truyền thống và hiện đại)

đang diễn ra sự chuyển hoá về tỷ trọng với nhau. Khu vực kinh tế truyền

thống vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn, là nơi thu hút nhiều lao động, nhất là nông

nghiệp, nông thôn, song cũng đang có xu hƣớng giảm dần. Khu vực kinh tế

hiện đại (nơi có thị trƣờng sức lao động phát triển) đang có sự biến động cả về

quy mô và tốc độ, ngày càng thu hút nhiều sức lao động hơn, trƣớc hết là ở

các vùng đô thị, khu công nghiệp tập trung. Khu vực kinh tế này, cầu sức lao

động cũng có những thay đổi lớn và nhanh chóng, đòi hỏi cần có sự điều

chỉnh cơ cấu lao động cho phù hợp.

Thị trƣờng sức lao động giữa các vùng phát triển chƣa đồng đều, hệ

thống tổ chức cung ứng sức lao động chƣa phát triển và hoạt động chƣa có

hiệu quả, nên chƣa trở thành cầu nối, gắn kết giữa cung sức lao động và cầu

sức lao động. Điều đó biểu hiện: Việc tuyển dụng chủ yếu qua quan hệ cá

nhân; thông tin thị trƣờng sức lao động còn yếu kém; công tác dự báo chƣa

đƣợc coi trọng... đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho cung -

cầu sức lao động không ăn khớp với nhau trong chuyển dịch cơ cấu lao động

giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế.

Có thể nói, việc tổ chức và phát huy tốt vai trò của thị trƣờng sức lao

động sẽ thúc đẩy việc phân bố và sử dụng sức lao động một cách có hiệu quả,

khắc phục từng bƣớc sự mất cân bằng giữa cung cầu sức lao động theo hƣớng

nâng cao chất lƣợng lao động cho phù hợp với yêu cầu của khoa học - công

nghệ hiện đại trong tiến trình CNH, HĐH.

20

1.1.2.4. Do yêu cầu của việc ứng dụng và phát triển khoa học - công

nghệ

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang diễn ra

nhanh chóng và tác động mạnh mẽ đến các Châu lục trên thế giới. Quy mô

GDP và tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở các nƣớc phát triển chủ yếu dựa vào lao

động trí tuệ và công nghệ cao. Đến lƣợt nó, sự phát triển của các nƣớc này sẽ

tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho các quốc gia khác cho phép duy trì tốc độ

tăng trƣởng cao; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động hợp lý, tạo ra nhiều

công ăn việc làm, cải thiện đời sống cho ngƣời lao động. Tuy nhiên, để làm

đƣợc điều đó đòi hỏi các quốc gia đang phát triển phải thay đổi cơ cấu và chất

lƣợng nguồn lực con ngƣời trên cơ sở đầu tƣ phát triển phát triển con ngƣời,

tạo lập kỹ năng, tay nghề, năng lực sáng tạo để làm ra các sản phẩm có hàm

lƣợng chất xám cao. Ngƣời lao động, với tƣ cách là ngƣời cung ứng sức lao

động, cần nhanh chóng tri thức hoá để có có sức cạnh tranh trên thị trƣờng

sức lao động và có khả năng thích ứng cao trong giai đoạn mới- giai đoạn

kinh tế tri thức-hiện nay.

1.1.2.5. Do yêu cầu của việc thực hiện chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đi liền với toàn cầu hóa kinh tế mà

trọng tâm là mở cửa nền kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tế, tạo điều

kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nƣớc với bên ngoài, mở rộng không

gian và môi trƣờng để phát triển, chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể đƣợc

trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã tạo nên sự gắn kết

giữa các quốc gia lại với nhau, đã làm cho tính xã hội hoá của lực lƣợng sản

xuất vƣợt qua khuôn khổ quốc gia, làm cho sự chuyển dịch cơ cấu lao động

vừa phổ cập toàn diện rộng, vừa phát triển theo chiều sâu. Muốn thực hiện

21

đƣợc sự phân công lao động quốc tế trƣớc hết phải thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu lao động trong nƣớc. Ngày nay, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo nên

nhiều sự liên kết giữa các nền kinh tế quốc tế, tạo điều kiện đẩy việc chuyển

dịch cơ cấu lao động nƣớc ta từ chuyển dịch cơ cấu lao động theo số lƣợng

sang chuyển dịch cơ cấu lao động theo chất lƣợng đạt tới mức độ chuyên sâu

so với trình độ khu vực và quốc tế. Bằng cách đó, thực hiện chủ động hội

1.2. NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG, XU HƢỚNG VÀ NỘI DUNG CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

nhập kinh tế quốc tế.

1.2.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động

1.2.1.1. Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế

Trong Bộ Tƣ bản, khi nghiên cứu tích luỹ tƣ bản, Mác đã đề cập đến

mối quan hệ giữa sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ tƣ bản với sự biến đổi của

quy mô, cơ cấu và chất lƣợng lao động.Theo Ông, cấu tạo hữu cơ tƣ bản tăng

lên, phản ảnh sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện

đại, làm cho việc thu hút lao động về số lƣợng sẽ giảm tƣơng đối, đồng thời

cơ cấu lao động cũng thay đổ theo hƣớng tỷ trọng lao động giản đơn giảm

xuống và tỷ trọng lao động phức tạp tăng lên trong tổng lao động xã hội trong

từng thời kỳ tƣơng ứng. Từ ý tƣởng trên có thể thấy việc chuyển dịch cơ cấu

lao động theo hƣớng CNH, HĐH cả nƣớc nói chung và mỗi địa phƣơng nói

riêng không thể không xem xét một cách nghiêm túc mối quan hệ tác động

giữa nó với trình độ cơ sở vật chất kỷ thuật.

CNH, HĐH xét về thực chất của là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật,

thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá và một phần tự động hoá

trong các ngành; đồng thời trên cơ sở trình độ đã đạt đƣợc của cơ sở vật chất -

kỹ thuật mới mà cải biến cơ cấu kinh tế lạc hậu, què quặt, thúc đẩy quá trình

22

chuyển đổi cơ cấu lao động, mở rộng thị trƣờng, phát triển sản xuất và lƣu

thông hàng hoá trong nƣớc và quốc tế.

Trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng cao do quá trình CNH,

HĐH mang lại đã tạo thêm nhiều điều kiện cho lao động chuyển dịch theo

hƣớng giảm dần tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng lao động

trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên, gắn liền với các giai đoạn phát

triển của công nghiệp, trình độ của ngƣời lao động không ngừng đƣợc nâng

cao. Nhờ đó mà sự giúp đỡ của công nghiệp đối với nông nghiệp đƣợc tăng

cƣờng và có hiệu quả [17,tr 81,82].

Cơ sở vật chất- kỹ thuật đạt đƣợc trong quá trình CNH, HĐH còn tạo ra

những điều kiện vật chất thuận lợi để thực hiện sự bình đẳng về kinh tế giữa

các dân tộc; nâng cao sức cạnh tranh và thực hiện chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế.

1.2.1.2. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của người lao

động

Đây là một nhân tố cơ bản có ý nghiã quyết định đến việc chuyển dịch

cơ cấu lao động. Vì khi trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật đƣợc nâng

cao tạo điều kiện cho ngƣời lao động tiếp cận và vận dụng các thành tựu khoa

học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, đáp ứng yêu cầu

phân công lao động xã hội. Lý luận và thực tiễn cho thấy: Một nƣớc, một địa

phƣơng tỷ trọng lao động có trình độ đại học, cao đẳng trung học chuyên

nghiệp và phổ thông trung học càng cao thì tỷ trọng lao động công nghiệp và

dịch vụ trong cơ cấu lao động ngành kinh tế càng cao và ngƣợc lại. Nói cách

khác, tỷ trọng lao động nông nghiệp có quan hệ tỷ lệ nghịch với trình độ học

vấn, còn tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ có quan hệ tỷ lệ thuận với

trình độ học vấn của ngƣời lao động

23

1.2.1.3. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu ngành

và nội bộ ngành kinh tế trong từng thời kỳ

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn liền với quá trình chuyển dịch

cơ cấu lao động. Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế nhất là cơ cấu ngành kinh tế

tất yếu kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu lao động, tạo ra sự phân công lao

động mới. Cơ cấu lao động một mặt phản ánh cơ cấu kinh tế nhƣng mặt khác

nó cũng là một nhân tố quan trọng nhất có tính quyết định đến sự thành bại

của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nƣớc và lãnh thổ Châu

Á nhƣ Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan... cho thấy trong tiến trình CNH,

HĐH đất nƣớc, nhất thiết phải xây dựng chiến lƣợc chuyển dịch cơ cấu kinh

tế và cơ cấu lao động theo hƣớng chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp và

dịch vụ. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động là thƣớc đo kết quả

của quá trình CNH-HĐH đất nƣớc, là hiệu quả của các chính sách phát triển

kinh tế - xã hội theo ngành là chủ yếu.

Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong thời gian qua ở nƣớc ta đã

bƣớc đầu phát triển mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông sản, tiểu thủ

công nghiệp truyền thống sản xuất các mặt hàng phục vụ tiêu dùng, xuất

khẩu, những hoạt động dịch vụ, vận tải, thu gom nông sản, thƣơng mại trên

cơ sở kinh tế hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã hình thành và

phát triển. Các hoạt động này đã tạo ra thị trƣờng mới, thu hút lao động dƣ

thừa từ nông nghiệp, biến lao động thuần nông, giản đơn thành lao động tiểu

thủ công nghiệp và dịch vụ có trình độ kỷ thuật.

Trong nội bộ ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng), quá trình chuyển

dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng đƣợc thực hiện theo hƣớng quy mô mở rộng

tăng tỷ trọng lâm nghiệp, thuỷ sản; giảm tỷ trọng nông nghiệp. Kết quả đã tạo

ra nền nông nghiệp đa canh có cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với điều kiện đất

24

đai, khí hậu, rừng, biển và trình độ dân cƣ; xoá bỏ tính thuần nông trong nội

bộ ngành nông, lâm, thủy sản.

Trong nội bộ ngành nông nghiệp (theo nghĩa hẹp - thuần nông), quá

trình chuyển đổi cơ cấu nội bộ ngành cũng đã đƣợc thực hiện, tỷ trọng của

trồng trọt giảm dần, tỷ trọng của chăn nuôi có tăng lên, từng bƣớc xoá bỏ tính

độc canh cây lƣơng thực, phát triển các cây trồng có giá trị làm nguyên liệu

cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.

Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói

riêng là cơ sở tiền đề và là một nhân tố ảnh hƣởng đến nhịp độ và chất lƣợng

của việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH trong cả nƣớc

và ở mỗi địa phƣơng cần đƣợc tính đến

1.2.1.4. Môi trường, thể chế có liên quan

Đây là một trong những nhân tố quan trọng, có tác động lớn tới quá

trình chuyển dịch cơ cấu lao động. Thực chất của môi trƣờng, thể chế đƣợc

hiểu là tổng thể các biện pháp kinh tế và phi kinh tế của Chính phủ tác động

đến nguồn lao động trong các ngành, các thành phần, các vùng kinh tế nhằm

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động phát triển đúng hƣớng, tốc độ nhanh và

mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thực tế cho thấy thông qua thể chế nhƣ: Hệ

thống luật, pháp, các chính sách tiền lƣơng, chính sách xuất khẩu lao động,

chính sách ruộng đất, chính sách khoa học - công nghệ...,Nhà nƣớc có thể

điều chỉnh đƣợc quy mô và tốc độ phát triển của các ngành nghề ở nƣớc ta;

qua đó tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

động.

Ngoài những nhân tố cơ bản đã nêu, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

động theo hƣớng CNH, HĐH ở nƣớc ta còn chịu ảnh hƣởng của những nhân

tố nhƣ: Vị trí địa lý, tài nguyên; sự tác động của môi trƣờng kinh tế - xã hội...

25

1.2.2. Xu hƣớng và nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hoá

Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, việc luận giải

xu hƣớng khách quan của chuyển dịch cơ cấu lao động làm cơ sở cho việc xác

định nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động là hết sức quan trọng.

1.2.2.1. Xu hướng khách quan của chuyển dịch cơ cấu lao động

Chuyển dịch cơ cấu lao động là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ phù hợp với

xu hƣớng vận động của các bộ phận cấu thành nguồn lao động diễn ra trong

không gian và thời gian nhất định. Chuyển dịch cơ cấu lao động không hoàn

toàn chủ quan mà phụ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan và chủ quan của

mỗi nƣớc, mỗi địa phƣơng nhƣ đã phân tích ở trên. Nói cách khác, sự vận

động và phát triển của chuyển dịch cơ cấu lao động trong tiến trình CNH,

HĐH tuân theo xu hƣớng khách quan nhất định. Dƣới đây là xu hƣớng

chuyển dịch cơ cấu lao động

Thứ nhất: Chuyển từ lao động thủ công năng suất thấp sang lao động

cơ khí có năng suất lao động cao.

Đây là xu hƣớng chuyển dịch phản ánh sự biến đổi về chất của nguồn

lao động. Để xác lập cơ cấu lao động cơ cấu lao động phù hợp với việc sử

dụng công cụ cơ khí, máy móc cần phải tiến hành đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ

lao động có trình độ tay nghề, chuyên môn, nhất là đội ngũ công nhân kỷ

thuật, đội ngũ chuyên gia thực hành trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học có

tay nghề cao. Xây dựng mối quan hệ giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch

vụ. Xoá bỏ mọi định kiến bảo thủ trì trệ trong sản xuất xem nhẹ KHCN ở một

số ngành, vùng hiện nay. Thiết lập một cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu

thành phần phù hợp, tạo điều kiện áp dụng những thành tựu khoa học - công

nghệ vào quá trình sản xuất.

26

Thứ hai: Chuyển nền kinh tế từ chỗ dựa vào lao động nông nghiệp là

chủ yếu sang lao động công nghiệp, dịch vụ.

Xu hƣớng khách quan này bắt nguồn từ chổ: Chuyển dịch cơ cấu kinh

tế và chuyển dịch cơ cấu lao động có mối quan hệ biện chứng vừa là điều kiện

tiền đề vừa là kết quả của nhau. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hƣớng, tốc

độ nhanh và hiệu quả sẽ tạo điều kiện tiền đề thuận lợi cho chuyển dịch cơ

cấu lao động. Song, tính hiện thực của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói

trên phải đƣợc thực hiện thông qua các nguồn lực lao động, thông qua kết quả

của việc chuyển dịch cơ cấu lao động. Thực chất của xu hƣớng nói trên là

giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và

dịch vụ trong tiến trình CNH, HĐH

Thứ ba: Chuyển từ nền kinh tế dựa trên lao động giản đơn là chủ yếu

sang từng bước dựa trên lao động phức tạp làm chủ yếu.

Đây là xu hƣớng nhằm tạo ra một cơ cấu lao động có chất lƣợng cao theo

hƣớng CNH, HĐH, từng bƣớc tiệm cận trình độ kinh tế tri thức. Xu hƣớng

này đƣợc thực hiện đảm bảo nâng cao chất lƣợng cơ cấu ngành kinh tế, làm

cho nền kinh tế tăng trƣởng và phát triển theo hƣớng bền vững.

Thứ tư: Chuyển từ lao động phân tán sang lao động tập trung chuyên

môn hoá. Kinh nghiệm các nƣớc cho thấy lao động phi tập trung, quy mô nhỏ

đã cản trở đến việc sản xuất hàng hoá, cản trở đến việc áp dụng tiến bộ khoa

học - công nghệ. Bởi vậy muốn phát triển kinh tế cần phải chuyển dịch lao

động theo hƣớng tập trung chuyên môn hoá kết hợp với nhiều quy mô khác

nhau để hình thành vùng kinh tế có lƣợng lao động tập trung trên cơ sở

chuyên ngành, chuyên nghề - chuyên môn hoá cao, gắn liền với tiến bộ khoa

học công nghệ, tạo điều kiện mở rộng và nâng cao chất lƣợng thị trƣờng sức

lao động.

27

1.2.3.1. Nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động

Từ những xu hƣớng khách quan nhƣ đã phân tích có thể đƣa ra một số

nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH sau đây:

Một là, chuyển dịch cơ cấu lao dộng theo ngành và nội bộ ngành

Căn cứ để phân chia cơ cấu lao động theo ngành trong cơ cấu lao động

là sự phân công lao động xã hội. Nhân tố để hình thành cơ cấu lao động theo

ngành nghề phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỷ thuật và truyền

thống địa phƣơng...

Phân công lao động xã hội đƣợc tiến hành trên cơ sở tăng năng suất lao

động. Chuyển dịch cơ cấu lao động ngành là sự thay đổi trong quan hệ tỷ lệ

cũng nhƣ xu hƣớng vận động, phát triển của các loại lao động có ngành nghề

khác nhau. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành là kết quả của sự phát

triển phân công lao động theo ngành, là tổ hợp các ngành tạo thành, là các yếu

tố hợp thành ngành kinh tế và trong nội bộ từng ngành đó. Quan hệ tỷ lệ lao

động của một ngành nào đó trong cơ cấu lao động theo ngành luôn luôn biến

động, dịch chuyển chứ không cố định. Về mặt chất lƣợng, cơ cấu lao động

theo ngành biểu hiện sự tác động qua lại bên trong giữa các ngành với nhau.

Quan hệ tỷ lệ lao động trong quá trình chuyển dịch có tác động hoặc là thúc

đẩy nếu quan hệ tỷ lệ lao động hợp lý hoặc là kìm hãm nếu quan hệ tỷ lệ lao

động không hợp lý đối với sự phát triển của các ngành. Trong chuyển dịch cơ

cấu lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành đóng vai trò cơ

bản nhất. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành bao gồm: Chuyển dịch cơ

cấu lao động ngành nông - lâm- ngƣ nghiệp; Chuyển dịch cơ cấu lao động

ngành công nghiệp; Chuyển dịch cơ cấu lao động ngành dịch vụ, Chuyển dịch

cơ cấu trong nội bộ từng ngành lại đƣợc phân chia thành: Chuyển dịch cơ cấu

lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp.bao gồm lao động trồng trọt, lao

động chăn nuôi; Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành công nghiệp

28

bao gồm: lao động các ngành công nghiệp nặng, lao động xây dựng lao động

công nghiệp chế biến, lao động tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp sản xuất

hàng tiêu dùng; Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành dịch vụ bao

gồm lao động dịch vụ sản xuất, lao động dịch vụ tiêu dùng...

Ở nƣớc ta, trong một thời gian dài, do trình độ phát triển của lực lƣợng

sản xuất còn thấp và sự phân công lao động xã hội chuyển dịch chƣa hợp lý,

chƣa thật sự gắn bó với thị trƣờng nên cung hàng hoá không đáp ứng đủ cầu

hàng hoá. Từ năm 1996 đến nay nhờ áp dụng đƣợc tiến bộ của khoa học công

nghệ làm cho lao động ở trong các ngành nghề mới đƣợc khôi phục, phát triển

từng bƣớc chuyển dịch phù hợp theo hƣớng CNH, HĐH và kinh tế thị trƣờng

Tuy vậy, tốc độ chuyển dịch lao động còn chậm và tỷ trong lao động có mặt

chƣa hợp lý. Dƣới đây là nội dung chuyển dịch cụ thể:

- Về chuyển dịch cơ cấu lao động ngành nông - lâm - ngƣ nghiệp. Lao

động nông nghiệp theo nghĩa hẹp bao gồm lao động trồng trọt, lao động chăn

nuô. Lao động trồng trọt ra đời sớm hơn lao động chăn nuôi. Lao động nông

nghiệp gắn liền với môi trƣờng tự nhiên và luôn bị qui luật tự nhiên chi phối.

Lao động nƣớc ta trong lịch sử chủ yếu là lao động trồng lúa gắn liền với quá

trình dựng nƣớc. Trong lao động trồng trọt, bên cạnh lao động trồng cây

lƣơng thực, còn có lao động trồng cây công nghiệp, cây ăn trái, cây rau đậu,

cây cảnh... Lao động trồng trọt cung cấp lƣơng thực, thực phẩm cho đời sống

con ngƣời và nguyên liệu cho công nghiệp. Không có một công nghệ nào thay

thế có hiệu quả các sản phẩm của lao động trồng trọt. Ngoài lao động trồng

trọt và đi liền với lao động trồng trọt là lao động chăn nuôi. Lao động chăn

nuôi tạo ra thực phẩm cho con ngƣời, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,

sức kéo, phân bón cho sản xuất. Ngoài lao động chăn nuôi gia súc, gia cầm

còn có lao động nuôi trồng thuỷ sản. Ở nƣớc ta trong những năm qua mặc dù

đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ trồng trọt sang lao động chăn nuôi

29

nhƣng còn rất chậm. Chủ yếu là lao động chăn nuôi ở qui mô gia đình, chƣa

phát triển theo hƣớng sản xuất hàng hoá với qui mô lớn. Trong cơ cấu lao

động nông nghiệp, lao động trồng trọt và lao động chăn nuôi là hai ngành

chính, chúng có mối quan hệ tác động lẫn nhau, tạo thành cơ cấu lao động

ngành nông nghiệp. Vì vậy, để nƣớc ta có thể đạt đƣợc kết quả kinh tế cao lao

động chăn nuôi và lao động trồng trọt phải tạo điều kiện cho nhau để cùng

nhau phát triển một cách cân đối theo hƣớng vừa “an toàn lƣơng thực”, vừa

đƣa chăn nuôi thành ngành chính phát triển theo hƣớng hàng hóa và xuất

khẩu.

Gắn bó với lao động ngành nông nghiệp còn có lao động lâm nghiệp.

Quan hệ giữa lao động nông nghiệp và lao động lâm nghiệp là yêu cầu khách

quan của sự phát triển cơ cấu ngành kinh tế. Rừng có vai trò to lớn hạn chế sự

xói mòn của đất đai, hạn chế lũ lụt và mang lại giá trị kinh tế cao. Không

những thế, rừng còn là nơi du lịch sinh thái. Lao động ngành lâm nghiệp bao

gồm lao động nuôi trồng, lao động khai thác và lao động bảo vệ.

Trong chuyển dịch cơ cấu lao động theo nhóm ngành nông-lâm-ngƣ

nghiệp, lao động thuỷ sản đƣợc chú trọng nhất. Lao động thuỷ sản bao gồm

lao động nuôi trồng và lao động đánh bắt thuỷ, hải sản.

- Chuyển dịch cơ cấu lao động ngành công nghiệp, xây dựng.

Lao động công nghiệp bao gồm: Lao động công nghiệp nặng sản xuất

các loại tƣ liệu sản xuất, lao động công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng nhƣ

gạch,đá,vôi,xây dựng,lao động công nghiệp chế biến, lao động công nghiệp

sản xuất tƣ liệu tiêu dùng phục vụ đời sống dân cƣ. lao động thủ công truyền

thống nhƣ dệt,may,len,mây tre đan,thảm đay, chiếu cói,đồ gỗ, sơn mài... Ở

nƣớc ta lao động công nghiệp tồn tại dƣới nhiều hình thức, tỷ trọng có tăng

nhƣng còn thấp diễn ra với tốc độ chậm. Ngoài công nghiệp nhà nƣớc, công

nghiệp tƣ nhân qui mô còn nhỏ bé, phân tán, trình độ công nghệ còn rất thấp

30

kém. Các ngành công nghiệp thu hút lao động, tạo việc làm tỷ trọng còn thấp

và sự tác động của nó chƣ đủ mạnh đến việc chuyển biến năng suất lao động

xã hội trong các ngành sản xuất của kinh tế quốc dân. Phát triển và chuyển

dịch lao động công nghiệp trong thời gian tới đang là một chủ trƣơng lớn của

Đảng và Nhà nƣớc ta trong tiến trình CNH, HĐH hiện nay.

+ Chuyển dịch cơ cấu lao động ngành dịch vụ

Lao động dịch vụ là một bộ phận của cơ cấu lao động theo ngành trong

cơ cấu kinh tế. Lao động dịch vụ hình thành và phát triển gắn liền với sự phát

triển nông nghiệp và công nghiệp. Sự ra đời của lao động dịch vụ bắt nguồn

từ trình độ phát triển phân công lao động xã hội, khoa học kỹ thuật - công

nghệ và nên kinh tế thị thị trƣờng hiện đại. Trƣớc khi có sản xuất hàng hoá,

lao động dịch vụ là một bộ phận không thể tách rời lao động sản xuất nông

nghiệp và lao động sản xuất công nghiệp. Khi sản xuất phát triển, năng suất

lao động tăng lên, một bộ phận lao động từ trồng trọt, chăn nuôi đã tách ra

làm dịch vụ thƣơng mại đầu vào, đầu ra. Dần dần lao động dịch vụ trở thành

một ngành.

Sự phát triển của sản xuất và đời sống tất yếu dẫn đến sự ra đời của lao

động dịch vụ. Nhờ có lao động dịch vụ mà các nguồn lực đƣợc tiếp cận với

hoạt động sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp,công nghiệp. Chẳng hạn lao động

dịch vụ cung ứng nguyên liệu, vốn, tiêu thụ sản phẩm... đáp ứng các nhu cầu

vật chất và nhu cầu tinh thần của nhân dân. Lao động dịch vụ là khâu trung

gian nối liền giữa ngƣời sản xuất với ngƣời sản xuất; giữa ngƣời sản xuất và

ngƣời tiêu dùng. Sự gia tăng của lao động dịch vụ làm cho hoạt động kinh tế

ngày càng phong phú, thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Lao động dịch vụ bao gồm: Lao động dịch vụ mua bán hàng hoá, cung

ứng máy móc, thiết bi nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm; Lao động dịch vụ kinh

tế tài chính, tín dụng, ngân hàng; Lao đông dịch vụ kỹ thuật thông tin, cơ

31

điện, thú y, giống; Lao động dịch vụ giao thông vận tải, thuỷ lợi, bảo vệ thực

vật; Lao động dịch vụ sinh hoạt điện nƣớc, vệ sinh, văn hoá, pháp luật...

Trong những năm gần đây ở nƣớc ta, lao động dịch vụ hoạt động phong

phú, sôi động từng bƣớc thích ứng với cơ chế thị trƣờng. Từ nền sản xuất tự

cung, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá, tỷ trọng lao động dịch vụ ngày

càng tăng lên trong cơ cấu lao động. Trình độ hiện đại của cơ cấu nền kinh tế

mỗi nƣớc đƣợc đánh giá qua tỷ trọng lao động và GDP chiếm nhiều hay ít của

ngành dịch vụ. Vấn đề đặt ra là phải sắp xếp, bố trí hoạt động lao động dịch

vụ sao cho có hiệu quả góp phần thúc đẩy cơ cấu lao động dịch chuyển nhanh

theo hƣớng xác lập quan hệ cân đối và gắn bó giữa nông nghiệp, công nghiệp,

dịch vụ.

Hai là, chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng là sự thay đổi trong quan hệ tỷ

lệ cũng nhƣ xu hƣớng vận động, phát triển của nguồn lao động giữa các

ngành, các thành phần kinh tế trên phạm vi lãnh thổ. Đặc điểm của chuyển

dịch cơ cấu lao động theo vùng là:

- Gắn với điều kiện tự nhiên, địa lý và một không gian lãnh thổ nhất định.

- Thể hiện của chuyển dịch cơ cấu lao động ngành về vị trí địa lý,

không gian đƣợc sắp xếp phù hợp với sự phân công lao động và chuyên môn

hoá trong nền kinh tế, tạo nên những tiền đề của mối liên hệ giữa các vùng.

- Gắn liền với chuyển dịch cơ cấu lao động ngành của cả nƣớc và

chuyển dịch cơ cấu lao động các vùng khác. Bởi hoạt động kinh tế đặc thù

nhất định giữa nó với các vùng kinh tế khác làm cho mỗi vùng không đồng

nhất với các vùng khác.

Sự ra đời cơ cấu lao động mỗi vùng thƣờng chịu sự tác động lớn bởi

điều kiện riêng của từng vùng, đặc biệt điều kiện tự nhiên, yêu cầu của thị

trƣờng địa phƣơng trong cả nƣớc và quốc tế, sự tác động của khoa học công

32

nghệ. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ hình thành nhằm phát

huy những lợi thế của từng vùng. Mỗi vùng có những đặc điểm riêng về tự

nhiên, kinh tế xã hội nhất định. Những đặc điểm đó bao hàm cả thuận lợi và

khó khăn. Một cơ cấu lao động hợp lý phải phát huy đƣợc các lợi thế, hạn chế

đƣợc những khó khăn. Do đó mỗi vùng cần kết hợp giữa chuyên môn hoá và

tập trung. Chuyên môn hoá để phát huy hiệu quả kinh tế các lợi thế so sánh,

đồng thời tập trung để hình thành những vùng sản xuất với qui mô lớn.

Khi chuyển sang kinh tế hàng hoá, việc chuyển dịch cơ cấu lao động

phải hình thành theo vùng và tiểu vùng. Mỗi vùng hoặc tiểu vùng có thể

chuyên môn hoá. Dƣới góc độ kinh tế xã hội có thể chia cơ cấu lao động theo

vùng thành thị, đồng bằng, miền núi. Dƣới góc độ kinh tế kỹ thuật có thể chia

cơ cấu lao động theo vùng cây công nghiệp, vùng lúa, vùng nuôi trồng đánh

bắt thuỷ sản... Xét dƣới góc độ vai trò kinh tế có thể chia cơ cấu lao động theo

vùng kinh tế trọng điểm. Mục đích của việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo

vùng là để khai thác ƣu thế của từng vùng, nâng cao hiệu quả đầu tƣ sản xuất.

Trong khi nguồn nhân lực phân công và phân bố chƣa hợp lý, việc chuyển

dịch cơ cấu lao động theo vùng lãnh thổ còn có ý nghĩa quan trọng trong việc

xây dựng hệ thống chính sách vĩ mô phù hợp nhằm góp phần thúc đẩy tăng

trƣởng và phát triển kinh tế tƣơng đối đồng đều trong phạm vi cả nƣớc và

phạm vi địa phƣơng.

Ba là, chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế

Hoạt động kinh tế bao gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau thực

hiện, do đó hoạt động lao động có mặt trong các thành phần kinh tế.Một bộ

phận ngƣời lao động làm việc trong thành phần kinh tế nhà nƣớc, trong kinh

tế tập thể, trong kinh tế cá thể, tiểu chủ, trong kinh tế tƣ bản tƣ nhân, kinh tế

tƣ bản nhà nƣớc và kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Do sự khác nhau về

33

trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất làm cho lực lƣợng lao động trong

các thành phần kinh tế không giống nhau.

Việc xác định chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế

nhằm nhận thức rõ vai trò của các thành phần kinh tế trong việc phát triển và

giải phóng nguồn lực lao động. Ở nƣớc ta, phát triển nền kinh tế nhiều thành

phần là điều kiện thuận lợi để giải phóng mọi năng lực sản xuất, nhằm phát

huy hết mọi tiềm năng, trí tuệ của tất cả mọi ngƣời lao động.

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế là sự thay đổi

quan hệ tỷ lệ lao động giữa các thành phần kinh tế dựa trên trình độ khác nhau

của lực lƣợng sản xuất.

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế phụ thuộc vào

nhiều yếu tố nhƣ: khả năng mở rộng sản xuất trình độ lao động, khoa học

công nghệ, môi trƣờng thể chế, điều kiện tự nhiên... Trong đó yếu tố quan

trọng nhất là trình độ lao động. Một cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế

hợp lý phải là một cơ cấu lao động phù hợp với sự phát triển của lực lƣợng

sản xuất theo hƣớng CNH, HĐH. Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế tồn

tại trong không gian và thời gian nhất định, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Xu

hƣớng chung của chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế là

giảm dần tỷ trọng lao động cá thể, tƣ nhân, tăng nhanh lao động trong thành

phần kinh tế tập thể, kinh tế tƣ bản nhà nƣớc và kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc

ngoài, bảo đảm Kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể

lớn mạnh trở thành nền tảng cho chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm qua thực hiện chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc, các

địa phƣơng đã và đang tiến hành chuyển đổi cơ cấu lao động theo thành phần

kinh tế. Kết quả tạo ra đƣợc động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH và kinh

tế xã hội phát triển. Kinh tế ngoài nhà nƣớc đã tự khẳng định đƣợc mình,

đóng góp 2/3 tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, thu hút đƣợc hàng

34

triệu lao động vào các xí nghiệp tƣ nhân, giải quyết một số lƣợng đáng kể

công ăn việc làm cho ngƣời lao động. Trong thực tế, kinh tế ngoài nhà nƣớc

có vị trí quan trọng trong phát triển nông nghiệp, thƣơng nghiệp dịch vụ.

Có thể nói việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, theo vùng và

theo thành phần kinh tế nhằm phát huy và sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao

động và các tiềm năng khác của đất nƣớc trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hoá.

Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu lao động là đòi hỏi khách quan của quá

trình phát triển sản xuất xã hội và ngày càng có vai trò quan trọng trong quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH, HĐH. Luận văn đã hệ

thống hoá lý luận của Mác, Lênin và các nhà kinh tế khác liên quan đến việc

chuyển dịch cơ cấu lao động. Xuất phát từ vai trò lao động đối với việc phát

triển kinh tế - xã hội, xuất phát từ thực trạng cơ cấu lao động cũng nhƣ do yêu

cầu của thị trƣờng lao động, khoa học - công nghệ, hội nhập kinh tế quốc tế

để phân tích sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH,

HĐH. Đồng thời chỉ ra những nhân tố ảnh hƣởng, xu hƣớng và nội dung

chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH.

Luận văn đã phân tích khái quát tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động

ở Việt Nam trong thời gian qua và khẳng định việc tiến hành chuyển dịch cơ

cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH có ý nghĩa rất quan trọng làm cơ sở

khoa học cho việc nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động ở các địa phƣơng

nói riêng trong đó, có tỉnh Nghệ An.

35

CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ THỜI GIAN QUA Ở TỈNH NGHỆ AN

2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ THỂ CHẾ Ở NGHỆ AN

ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

- Vị trí địa lí:

Nghệ An là tỉnh trung tâm vùng Bắc Trung Bộ, nằm ở vị trí tiếp nối

giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ và duyên hải miền trung, trên tuyến giao lƣu

kinh tế - xã hội trong mối quan hệ Bắc - Nam, có sân bay, hải cảng, có quốc

lộ 1A, đƣờng sắt Bắc - Nam xuyên suốt chiều dài của tỉnh, có cửa khẩu quốc

gia... Đây là những đầu mối giao thông quan trọng nối liền Nghệ An với khu

vực Đông Nam Á, với các nƣớc trên thế giới.

Phía Đông, giáp với biển Đông có bờ biển dài 82 km với nguồn hải sản

phong phú và đa dạng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế biển.

Phía Tây, tiếp giáp với nƣớc bạn Lào, có đƣờng biên giới 419 km, có

lịch sử quan hệ láng giềng thân thiện lâu đời. Đây là điều kiện thuận lợi để

mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế giữa Nghệ An với nƣớc bạn và là cửa ngõ để

phát triển mối quan hệ với các nƣớc Asean.

Về địa hình, Nghệ An là một tỉnh lớn, nằm trên dải Trƣờng Sơn có

hƣớng chạy từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam, địa hình Nghệ An có đặc trƣng

đồi núi nhiều, 83% diện tích của tỉnh có độ cao trung bình 400 - 500 m và

chia cắt mạnh bởi những dòng sông có độ dốc lớn và những dãy núi xen kẽ

vùng đồng bằng nhỏ hẹp. Địa hình chia cắt mạnh là một trở ngại lớn cho việc

phát triển mạng lƣới giao thông đƣờng bộ, đặc biệt là các tuyến liên huyện

36

vùng trung du và miền núi. Các dòng sông hẹp và dốc chẳng những không

thuận lợi cho phát triển vận tải đƣờng sông mà còn hạn chế khả năng điều hoà

nguồn nƣớc mặt trong các mùa phục vụ cho canh tác nông, lâm nghiệp. Hệ

thống sông ngòi có độ dốc lớn (117 thác lớn nhỏ) là nguồn thuỷ năng dồi dào

để phát triển thuỷ điện phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển kinh

tế xã hội miền núi. Địa hình có độ dốc lớn cũng là một khó khăn cho chuyển

dịch cơ cấu lao động phát triển lâm nghiệp và bảo vệ đất đai khỏi bị xói mòn,

gây lũ lụt cho nhiều vùng trong tỉnh.

Dƣới góc độ chuyển dịch cơ cấu lao động, nhìn chung vị trí địa lí của

Nghệ An có nhiều điều kiện thuận lợi, gần đường giao thông, có khả năng

hợp tác với các vùng trong nước và quốc tế. Đồng thời do vùng đồi núi dốc,

hẹp, đồng bằng nhỏ hẹp, địa hình dốc ra biển, khí hậu khắc nghiệt. khó tập

trung xây dựng mô hình sản xuất lớn nên cũng tồn tại các yếu tố bất lợi ảnh

hƣởng đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhất là miền núi, vùng sâu

vùng xa của tỉnh..

- Tài nguyên đất đai:

Theo tài liệu của Cục thống kê Nghệ An, tính đến năm 2002, Nghệ An

có quỹ đất tự nhiên là 1.648.729 ha chiếm 5% diện tích cả nƣớc, trong đó đất

đã sử dụng cho nông nghiệp 195.944 ha, đất lâm nghiệp 685.504 ha, đất

chuyên dùng 59.221 ha, còn lại đất chƣa sử dụng là 693.166 ha (chiếm

42,04% diện tích tự nhiên). Trong số 693.166 ha chƣa sử dụng có 17.454 ha

đất trống đồng bằng, 608.617 ha đất đồi núi. Đây chính là quỹ đất còn lại cần

khai thác cho mục tiêu kinh tế, phát triển nông - lâm - ngƣ nghiệp, thiết kế cơ

sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở công nghiệp và đô thị. Ngoài ra toàn vùng còn

có 4.663 ha mặt nƣớc chƣa sử dụng, có 27.934 ha sông suối là điều kiện để

phát triển nghề nuôi trồng thuỷ.

37

Bảng 2.1: Cơ cấu sử dụng đất Nghệ An năm 2002 [31]

Đơn vị tính: ha

Loại đất Tổng diện tích trong địa giới hành chính Tỉ lệ % so với tổng diện tích

Tổng diện tích tự nhiên 1.648.729 100

Đất nông nghiệp 195.994 11,88

Đất lâm nghiệp có rừng 685.504 41,58

Đất chuyên dùng 59.221 3,59

Đất ở 14.893 0,90

693.166 42,04

Đất chƣa sử dụng và sông suối, núi đá

Nguồn: Số liệu Cục thống kê Nghệ An 2002

Mặc dù có diện tích tự nhiên rộng lớn nhƣng năm 2002, đất nông

nghiệp bình quân đầu ngƣời thấp hơn so với cả nƣớc. Ngoài một số vùng đất

phì nhiêu ở đồng bằng và các thung lũng vùng cao, còn lại đất kém màu mỡ.

Đất vùng cao phần lớn bị rửa trôi, xói mòn do phá rừng làm nƣơng rẫy. Các

vùng đất trống bị bạc màu không thể cải tạo đƣợc, ảnh hƣởng xấu đến việc

hình thành cơ cấu ngành nghề, cũng nhƣ quá trình tổ chức sản xuất và chuyển

dịch cơ cấu lao động theo vùng kinh tế lãnh thổ.

- Khí hậu, thời tiết:

Nghệ An có khí hậu nhiệt đới gió mùa diễn biến phức tạp theo từng

mùa, vừa có mùa nắng nóng, vừa có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình 23 -

24 0 C, độ ẩm trung bình tới 71 - 91%. Lƣợng mƣa trung bình hàng năm từ

1800 - 2000mm /năm. Số giờ nắng trong năm từ 1500 - 1700 giờ, bức xạ mặt trời hàng năm khá lớn tới 74,6 kl calo/ cm2. Chế độ nhiệt nhƣ trên giúp cho

nhiều loài cây trồng phát triển nhƣng cũng kéo theo sự phát triển của nhiều

loài sâu bệnh, nấm mốc, gây khó khăn trong việc bảo quản các sản phẩm và

tài sản trong sản xuất.

38

Thời tiết của Nghệ An khá phức tạp, có hai loại gió chủ yếu. Gió mùa

Đông Bắc từ tháng 10 đến tháng 4 mang theo không khí lạnh và gió Tây Nam

từ tháng 5 đến tháng 9 (mỗi năm có 20 - 30 ngày) mang theo khí khô nóng.

Do địa hình ven biển thấp và tƣơng đối bằng phẳng nên mỗi năm từ 1 đến 2

cơn bão từ biển Đông đổ bộ vào kéo theo mƣa gây úng lụt ở nhiều nơi, tàn

phá mùa màng và cơ sở hạ tầng, đòi hỏi cần tính đến khi chuyển dịch cơ cấu

lao động.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội

Quá trình phát triển kinh tế Nghệ An luôn gặp những khó khăn trong

việc giải quyết mối quan hệ giữa lực lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực

lƣợng sản xuất và quan hệ sản xuất còn nảy sinh những mâu thuẫn.

Giữa yêu cầu phát triển sản xuất gắn với việc phân công lao động với

việc chậm giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các tổ

chức, các hộ cá nhân để họ thực sự làm chủ trên mảnh đất đƣợc giao, tạo động

lực thúc đẩy quá trình sản xuất và chuyển dịch cơ cấu lao động.

Phát triển kinh tế hàng hoá, cùng với việc chuyển dịch cơ cấu lao động

đòi hỏi phải tích tụ tập trung ruộng đất mâu thuẫn với thực trạng phân tán,

manh mún, do yêu cầu tập trung với việc bảo đảm cho ngƣời lao động không

bị mất ruộng, không phải đi làm thuê.

Để chuyển dịch cơ cấu lao động đòi hỏi phải giao quyền sử dụng đất

lâu dài ổn định đang mâu thuẫn với những vấn đề mới nảy sinh nhƣ gia tăng

của dân số và thất nghiệp, lao động dƣ thừa.

Lao động nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn. Lao động công

nghiệp, dịch vụ tuy có tăng lên nhƣng còn ít, chƣa tƣơng xứng với tiềm năng

của tỉnh. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ là lĩnh vực thu hút

39

nhiều lao động nhƣng trƣớc mắt chƣa đủ sức phát triển mạnh mẽ cho nên nên

kết quả thu hút lao động chƣa đáng kể.

Đồng thời trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xuất hiện những

vấn đề mới nhƣ phân hoá thu nhập, phân hoá giàu nghèo, giải quyết việc làm

cho ngƣời lao động và việc thực hiện chính sách đối với ngƣời có công với

cách mạng.

Cơ chế chính sách đối với việc chuyển dịch cơ cấu lao động khai thác

tiềm năng thế mạnh các vùng chậm đƣợc đổi mới. Kết cấu hạ tầng còn nhiều

yếu kém, thiếu quy hoạch tổng thể, đồng bộ. Tình trạng lạc hậu về hệ thống

kết cấu hạ tầng đang là trở ngại lớn cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động, cho

sự tăng trƣởng kinh tế và tiến bộ xã hội.

Chính sách đầu tƣ cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ

theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chƣa đáp ứng yêu cầu cho sự phát

triển kinh tế - xã hội. Chính sách thu hút lao động, mở rộng ngành nghề, phát

triển kinh tế chƣa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới. Việc đào tạo, bồi

dƣỡng đội ngũ lao động cho các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế và

vùng kinh tế còn nhiều bất cập. Mặt khác, phần lớn cán bộ khoa học kỹ thuật

đang tập trung chủ yếu ở cấp tỉnh, thành phố, thị xã còn ở cấp huyện và các

cơ sở sản suất trên địa bàn nông thôn, vùng núi, vùng xa còn thiếu và yếu.

Về dân số, Nghệ An tính đến 1.7.2002 là 2,9 triệu ngƣời, chiếm 3,63%

dân số cả nƣớc. Tỉ lệ tăng dân số 2% / năm. Dân số trong độ tuổi lao động là

1648022 ngƣời, chiếm 56, 12 % tổng dân số cả vùng. Dân cƣ phân bố không

đồng đều, tập trung chủ yếu ở vùng ven biển và đô thị, trung du miền núi thƣa

thớt. Có 6 dân tộc sinh sống nhƣng ngƣời Kinh là chủ yếu. Quá trình lịch sử

lâu dài do phải chống chọi với tự nhiên khắc nghiệt đã tạo nên tính cách và

40

bản sắc của ngƣời dân Nghệ An: cần cù, thông minh, chịu khó, giàu lòng yêu

nƣớc.

Nghệ An cũng là nơi trình độ giáo dục của lực lƣợng lao động tƣơng

đối cao. Theo thống kê tính đến ngày 1-7-2002 tỉ lệ biết chữ 98,77%. Hiện tại

có 19 huyện thị phổ cập tiểu học, có tới gần 95,60% lực lƣợng lao động trong

cả tỉnh đã tốt nghiệp từ tiểu học trở lên. Số lao động tốt nghiệp trung học cơ

sở chiếm 58,24%, phổ thông trung học chiếm 19,03% tổng lực lƣợng lao

động. Tuy nhiên còn có sự khác biệt khá lớn về trình độ văn hoá của lực

lƣợng lao động giữa các vùng, các miền. Phần đông lao động đã tốt nghiệp

phổ thông trung học tập trung chủ yếu ở thành phố và thị xã. Ngƣợc lại ở khu

vực nông thôn, miền núi, lao động tốt nghiệp trung học cơ sở và tiểu học

chiếm đa số. Đây là trở ngại lớn cho việc chuyển dịch cơ cấu lao động của

tỉnh nhà.

Biểu 2.2: Cơ cấu lao động Nghệ An

chia theo trình độ văn hoá năm 2002

[33]

Đơn vị:%

Chung Thành thị Nông thôn

Tổng số Tổng số Tổng số

Toàn tỉnh 100 100 100

Trong đó:

Chƣa biết chữ 0,23 1,34 1,23

Chƣa tốt nghiệp tiểu học 2,59 3,24 3,17

Tốt nghiệp tiểu học 13,74 18,87 18,33

Tốt nghiệp THCS 31,61 61,38 58,24

Nguồn: UBND tỉnh Nghệ An, Thực trạng lao động - việc làm Nghệ An năm 2002

Tốt nghiệp PTTH 51,83 15,16 19,03

41

Về khoa học công nghệ, đây là nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần

thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động. Ở Nghệ An trong thời gian qua việc

ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất rất chậm

nên hiệu quả kinh tế thấp. Một trong những nguyên nhân đó là chƣa phối hợp

chặt chẽ giữa các cơ quan khoa học với các trung tâm đào tạo và các doanh

nghiệp trong việc sử dụng tiềm lực của đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ

nhất là đội ngũ chuyên gia ở các ngành mũi nhọn, trong việc đƣa khoa học và

công nghệ vào sản xuất quản lý để các đề tài nghiên cứu có địa chỉ ứng dụng

cụ thể. Các ngành khoa học xã hội và nhân văn chƣa đi sâu nghiên cứu những

đặc trƣng của ngƣời xứ Nghệ. Những truyền thống tốt đẹp, những trở lực về

tƣ tƣởng và tâm lí phải vƣợt qua khi tiến hành chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng nền kinh tế thị trƣờng

theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.

Bên cạnh đó việc tiếp cận chậm các thành tựu sinh học hiện đại, nhƣ

đƣa các loại giống cây, con có năng suất, chất lƣợng và tính thích nghi cao

vào sản xuất đã ảnh hƣởng không nhỏ đến đến sự tăng trƣởng của nền kinh tế.

Trong những năm gần đây Nghệ An đã có nhiều cố gắng tăng mức đầu tƣ kết

cấu hạ tầng sản xuất, từng bƣớc cơ giới hoá, hiện đại hoá các khâu làm đất,

thu hoạch, bảo quản chế biến sau thu hoạch..., ứng dụng công nghệ thông tin

trong hoạt động sản xuất kinh doanh và hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên do

khó khăn về vốn, việc đầu tƣ đổi mới công nghệ chƣa đƣợc thực hiện toàn

diện và nhanh chóng.

Tóm lại, Nghệ An là vùng lãnh thổ không chỉ có sự đa dạng về điều

kiện tự nhiên mà còn có sự đa dạng về tiềm năng phát triển kinh tế. Chính nơi

đây là mảnh đất có truyền thống hiếu học đã sản sinh ra những nhân tài cho

đất nƣớc. Trải qua cuộc sống lao động gian khổ và đấu tranh chống thiên tai,

địch hoạ đã tạo nên tính cách đặc trƣng cho con ngƣời xứ Nghệ: chăm chỉ,

42

thông minh, hiếu học, giàu lòng vị tha, yêu nƣớc, đoàn kết gắn bó mật thiết

với nhau trong các thiết chế văn hoá làng, xã truyền thống. Đây là điều kiện

thuận lợi cho việc nghiên cứu, khai thác trong quá trình chuyển dịch cơ cấu

2.2. TÌNH HÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG

NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ CỦA NGHỆ AN TRONG NHỮNG NĂM QUA

lao động của tỉnh theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian tới

2.2.1. Vài nét về cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động từ

trƣớc năm 1996

Nhìn một cách tổng quát, cơ cấu lao động Nghệ An chƣa có sự chuyển

dịch đáng kể, chủ yếu thiên về nông nghiệp, tỷ trọng lao động trong các

ngành nghề khác còn thấp, tốc độ phát triển chậm.

2.2.1.1. Về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế

Bảng 2.3: Cơ cấu lao động Nghệ An chia theo ngành năm 1991 - 1995. [29]

Đơn vị tính: Người, %

1991

1992

1993

1994

1995

TT Ngành

%

%

%

% Số lượng %

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Tổng số

100 113077

100 114080

100 115092

100 1160594 100

4

2

7

111769 0

1 Nông

894152

80

903058 79,16 909232 79

913735 78,73

899869 79,5 8

nghiệp

67064

6

6,3 72649

6,5

76002 6,8

78238

7,0

2 Công

707041 4

nghiệp

145299

13

3 Dịch vụ

137922 12,34 139375 12,4 7

141052 12,62 142505 12,7 5

Nguồn: Cục thống kê Nghệ An 1996

Từ bảng số liệu trên cho thấy trong các ngành kinh tế lớn, ngành

nông nghiệp thƣờng có tốc độ tăng chậm (4 - 5%) do quỹ đất đai có giới

hạn, kỹ thuật canh tác và công nghệ còn hạn chế. Năm 1992 nông nghiệp

43

Nghệ An tăng 9%, năm 1993 tăng 6,08%. Vì vậy, tỉ trọng lao động trong

ngành nông nghiệp tuy có giảm, nhƣng chậm (từ 80% năm 1991 xuống còn

79,58% năm 1992; 79,16% năm 1993; 79% năm 1994 và 78,73% năm

1995).

Tỉ trong lao động công nghiệp Nghệ An đã tăng 6% năm 1991; 6,3%

năm 1992; 6,5% năm 1993; 6,8% năm 1994 và 7% năm 1995, nhƣng tốc độ

tăng còn chậm. Tỉ trọng lao động dịch vụ tăng từ 12,34% năm 1991;

12,47% năm 1992; 12,62% năm 1993; 12,75 % năm 1994 và 13% năm

1995.

Từ thực tế trên cho thấy cơ cấu lao động ở Nghệ An chuyển dịch

trong các ngành kinh tế quốc dân từ năm 1995 trở về trƣớc vẫn tập trung

chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp. Mặc dù, sự chuyển dịch cơ cấu lao động

đã theo hƣớng giảm tỉ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỉ trọng lao động

công nghiệp và dịch vụ, nhƣng với tốc độ còn chậm chƣa có bƣớc và khâu

đột phá để tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu lao động tăng

nhanh.

2.2.12. Về cơ cấu lao động theo thành phần

Bảng 2.4: Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành

và thành phần kinh tế năm 1995 [28]

Nhà nước

Tập thể

Công ty TNHH

Cá thể

Tổng số

TT

Nhóm ngành

Tỷ trọng

Tỷ trọng

Số lượng

Tỉ trọng

Số lượng

Số lượng

Tỷ trọng

Số lượng

Tổng số

77,5 2316

0,16 191520

10151 0

7,75 101707 0

14,59 131241 6

10770

0,97 990760

89,45

106009

1 Nông

9,57 110753 9

nghiệp

25630 30,89

614

0,74 1837

2,21

54885

66,15

82966

2 Công

nghiệp

Đơn vị tính: Người, %

44

3 Dịch vụ

65080 53,45

25714

21,12

317

0,26

30629

25,15 121740

Nguồn: Niên giám thống kê 1995

Theo số liệu thống kê ở bảng trên cho thấy tỉ lệ lao động trong thành

phần kinh tế nhà nƣớc so với tổng lao động làm việc trong nền kinh tế quốc

dân chỉ có 7,75%, lao động tập thể 77,5%, lao động trong các công ty trách

nghiệm hữu hạn 0,16%, cá thể 14,59 %. Có thể thấy Nghệ An trƣớc 1995

kinh tế tập thể vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Trong nông nghiệp, kinh tế tập thể hợp

tác vẫn là thành phần kinh tế quan trọng.

2.2.13. Về cơ cấu lao động theo vùng

Bảng 2.5: Phân bố lao động theo vùng kinh tế

ở Nghệ An 1991 - 1995 [28 và 29]

1991

1992

1993

1994

1995

Vùng

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Tỉ lệ

Lao động

Lao động

Lao động

Lao động

Lao động

685623 58,94 688539 58,3

Đồng bằng

668111 60,6 7

671891 59,88 678197 59,4 1

Miền núi 367918 33,4 1

376900 33,59 386301 33,8 4

395740 34,02 403675 34,1 8

65192 5,92

73270

6,53

77054 6,75

81893

7,04

88813 7,52

Thành thị

100

110122 2

100 112206 3

100 114155 4

100 116325 7

100 118102 9

Tổng số

Nguồn: Niên giám thống kê Nghệ An 1995

Từ số liệu ở bảng trên cho thấy: Nghệ An có 10 huyện miền núi và 9

huyện, thị đồng bằng. Phân bố dân cƣ tập trung chủ yếu ở đồng bằng và thành

thị. Tổng số lao động vùng đồng bằng năm 1993 là 678197 ngƣời chiếm

45

59,41% tổng nguồn lao động của tỉnh, trong khi diện tích chỉ có 11,88%, vùng

núi với diện tích 83,36% nhƣng chỉ có 386.301 lao động chiếm 33,84%.

Miền núi, mặc dù có thế mạnh về tiềm năng kinh tế, đất đai, tài

nguyên... nhƣng số lƣợng lao động hạn chế. Nghệ An đã có chủ trƣơng di dân

từ đồng bằng lên trung du miền núi, đã có hàng vạn lao động từ miền xuôi lên

miền núi khai hoang, phục hoá. Chủ trƣơng đúng nhƣng hiệu quả kinh tế còn

thấp. Vấn đề chuyển dịch lao động gắn liền với khả năng đầu tƣ phát triển

kinh tế xã hội ở miền núi đang đƣợc xúc tiến. Theo số liệu thống kê đến năm

1995 lao động đƣợc phân bổ lên miền núi là 586069 [25, tr 4].

Lao động khu vực thành thị chiếm tỉ lệ thấp, năm 1991 có 5,92%;

năm 1995 tăng lên 7,52% do lao động ở khu vực nông thôn bổ sung vào là

cơ bản.

Tỉ trọng lao động nông thôn so với tổng nguồn có giảm nhƣng không

đáng kể do sự biến động của dân số trong lúc quỹ đất đai ngày càng thu

hẹp.

Tóm lại, từ năm 1995 trở về trƣớc cơ cấu lao động của Nghệ An đã có

sự chuyển dịch giữa các ngành nghề, các vùng và các thành phần kinh tế song

còn diễn ra với tốc độ rất chậm. Điều đó đã ảnh hƣởng không nhỏ đến tiến

trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Chỉ đến khi đất nƣớc

bƣớc vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH (từ năm 1996), Nghệ An đã có

những bƣớc đột phá mới trong chuyển đổi cơ cấu lao động theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

2.2.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá và kinh tế tri thức, từ năm 1996 đến nay

2.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế

46

Tình hình phân bố, sử dụng lao động xã hội trên địa bàn Nghệ An từ

năm 1996 đến nay cho thấy: Do tác động ảnh hƣởng của công nghiệp hoá,

hiện đại hoá và kinh tế tri thức nên việc chuyển dịch cơ cấu lao động đã có

chuyển biến theo hƣớng giảm lao động nông nghiệp, tăng dần lao động công

nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Theo số liệu thống kê, việc chuyển dịch cơ cấu

lao động của tỉnh cho thấy tỷ trọng lao động nông - lâm - ngƣ nghiệp đã giảm

xấp xỉ 0,52%/năm, lao động công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng gần

0,27%/năm và lao động dịch vụ tăng gần 0,22% /năm. Việc gia tăng tỷ trọng

lao động công nghiệp xây dựng cơ bản và dịch vụ là đúng hƣớng cho thấy do

quy mô sản xuất của các ngành này đã tăng lên và cơ cấu lao động đã có dấu

hiệu chuyển dịch tích cực theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. (Xem

bảng 2.6)

Bảng 2.6: Cơ cấu lao động Nghệ An

chia theo ngành kinh tế thời kỳ 1996 -2002. [29 và 31]

Đơn vị tính: Người

1996

1998

2000

2001

2002

Ngành

%

%

%

%

%

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Số lượng

Tổng số

100

120211 3

100 124155 4

100 128101 9

100 130309 2

100 132788 1

Nông nghiệp

919318 78,7 3

949.771 78,1 6

975,866 77,1 7

986,237 76,45 995195 75,5 7

90815 7,78 97,212 8,00 107,797 8,52 114778

8,90 123350 9,37

Công nghiệp

47

Dịch vụ

154605 13,2 4

164.319 13,5 2

175726 13,9 0

183252 14,21 192038 14,5 8

Nguồn: Số liệu Cục thống kê Nghệ An 1996 -2002

Mặc dù vậy, nhìn chung cơ cấu lao động Nghệ An cho đến nay cơ bản

vẫn còn thiên về nông nghiệp. Tính đến năm 2002, tỷ trọng lao động nông

nghiệp -lâm nghiệp - ngƣ nghiệp vẫn chiếm 75,57%. Tỷ trọng này phản ánh

sự phân công lao động xã hội còn kém, trình độ sản xuất và cơ cấu lao động

còn lạc hậu. Xét về mặt quy mô, tỷ trọng lao động nông - lâm - ngƣ nghiệp

vẫn lớn gấp 8,06 lần so với lao động công nghiệp xây dựng cơ bản và gấp

5,18 lần so với lao động dịch vụ của tỉnh Nghệ An.

Có thể nói, tỷ trọng lao động nông - lâm - ngƣ nghiệp có giảm, tỷ trọng

lao động công nghiệp - xây dựng tăng dần. Song cơ cấu lao động của hai

ngành từ năm 1996 tới nay chuyển dịch diễn ra còn chậm chạp. Một cơ cấu

lao động nhƣ vậy xét về trình độ và tốc độ phát triển là chƣa đáp ứng yêu cầu

của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh,.vì vậy cần phải tạo ra

đƣợc động lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nhanh chóng

hơn đáp ứng theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bƣớc tiếp cận

kinh tế tri thức. Cần có nhiều biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động từ

nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời tổ chức sắp xếp lại sản

xuất nông nghiệp theo hƣớng giảm tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp tăng

tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ trong thời gian tới. Dƣới đây là

chuyển dịch cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế cụ thể:

* Đối với ngành nông nghiệp (nghĩa rộng):

- Lao động trồng trọt:

Cho đến nay toàn tỉnh có 468.896 hộ nông nghiệp. Hầu hết các hộ nông

dân đã từng bƣớc có ý thức tổ chức lao động hợp lí, từng bƣớc vận dụng các

tiến bộ khoa học kỹ thuật, đƣa giống mới vào sản xuất, đầu tƣ thực hiện thâm

canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi mùa vụ phù hợp với đặc điểm

48

môi trƣờng sinh thái từng vùng cho hiệu quả kinh tế cao. Tƣ duy sản xuất

hàng hoá đã hình thành rõ nét trong ngƣời dân. Các mô hình kinh tế hộ làm ăn

giỏi đƣợc nhân rộng, kinh tế trang trại hình thành và phát triển tốt. Chú trọng

phát triển nông nghiệp theo hƣớng đa canh và chuyên canh theo từng vùng.

Ngoài việc thâm canh nâng cao sản lƣợng cây lƣơng thực nhƣ lúa, ngô, còn

mở rộng diện tích nâng cao năng suất các loại cây công nghiệp ngắn ngày.

Diện tích cây lạc, cây vừng và cây mía cũng tăng lên nhanh đạt 23.198 ha lạc,

10.087 ha vừng và 24.988 ha mía (năm 2002) Sản lƣợng đạt 40.719 tấn lạc,

4.356 tấn vừng và 1,392 triệu tấn mía. Lao động còn đƣợc đầu tƣ thời gian

sản xuất các loại cây khác nhƣ cây chè, cây cà phê, cây dứa tại các huyện: Đô

Lƣơng, Thanh Chƣơng, Nghĩa Đàn, Quỳnh Lƣu, Yên Thành... Kết quả của

trồng trọt không tách rời thành tựu của chuyển dịch cơ cấu lao đọng trong nội

bộ ngành nông nghiệp thời gian qua.

- Lao động chăn nuôi:

Sự chuyển dịch lao động từ trồng trọt sang ngành chăn nuôi phát triển

khá. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An những năm qua chăn nuôi luôn đƣợc mở

rộng. Đặc biệt là chăn nuôi lợn, trâu, bò. Năm 1996 toàn tỉnh có 741.793 con

lợn, 245.384 con bò, 250.051 con trâu. đến năm 2002 đàn lợn có 1.117.825

con tăng 357.825 con so với năm 1996, đàn bò có 294.688 con tăng 52.488

con, đàn trâu có 283.385 con tăng 37.585 con. Tính đến năm 2002, lao động

nông nghiệp đã tạo ra giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 5.355,7 tỷ đồng, so với

năm 1996 (đạt 3.000,8 tỷ đồng) tăng 2.354,9 tỷ đồng.

Nhƣ vậy trong ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp của tỉnh cơ cấu lao

động đã từng bƣớc chuyển dịch vào sản suất những cây trồng mang lại hiệu

quả kinh tế cao và các lĩnh vực mà nhu cầu thị trƣờng đang đòi hỏi. Tuy

nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu lao động trong các ngành trồng trọt và chăn

nuôi việc tách bạch chỉ có tính chất tương đối, vì hiện nay mô hình hộ nông

49

nghiệp đang phát triển. Các hộ này luôn mở rộng các loại hình sản xuất theo

hƣớng liên kết đa dạng, vừa phát triển chăn nuôi vừa đa canh, xen canh. Có

thể hiểu điều này qua số liệu bảng 2.7 dƣới đây.

Bảng 2.7: Hộ và nhân khẩu nông nghiệp Nghệ An (1996 - 2002) [31]

Đơn vị tính: Hộ, nhân khẩu

Chia ra 1996 1998 2000 2001 2002

Hộ nông nghiệp 412395 435189 440765 452316 468896

Nhân khẩu nông nghiệp 2015145 2115697 2167953 2200659 2250492

Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An 1996 -2002

- Lao động lâm nghiệp:

Thực hiện từng bƣớc xã hội hoá nghề rừng, lao động lâm nghiệp Nghệ

An từ năm 1996 đến nay cơ bản tập trung cho việc trồng mới 10 ngàn ha hàng

năm, chăn nuôi bảo vệ 56 vạn ha rừng tự nhiên và 7 vạn ha rừng trồng. Số lao

động có việc làm chuyên lâm nghiệp từ 2726 ngƣời năm 1996 lên 5687 ngƣời

năm 2000 và 9715 ngƣời năm 2002. Số lao động tăng lên trong lâm nghiệp

chủ yếu tập trung cho việc trồng rừng nguyên liệu và khoanh nuôi, bảo vệ

rừng. Cùng với nông nghiệp, lâm nghiệp Nghệ An đƣợc xác định là một trong

những ngành kinh tế - xã hội quan trọng, có vai trò to lớn trong việc cung cấp

lâm sản, đặc sản cho nền kinh tế, tạo việc làm và nâng cao mức sống cho 25

vạn ngƣời, phòng hộ đầu nguồn sông Lam, sông Hiếu và 82 km bờ biển, đảm

bảo tỷ lệ che phủ cần thiết, góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững, bảo vệ

môi trƣờng sinh thái. Theo tài liệu Sở lâm nghiệp tỉnh Nghệ An, hiện có 58,4 vạn ha rừng với trữ lƣợng 40,2 triệu m3 gỗ, 815 triệu cây tre nứa và sản lƣợng gỗ tròn khai thác bình quân hàng năm 15-20 vạn m3,,nứa 13-14 triệu cây/năm,

củi 3 triệu ste/năm, nhựa thông 400 tấn/năm. Giá trị sản xuất ƣớc đạt 453,5 tỷ

đồng (năm 2002). Kết quả giá trị gia tăng của ngành lâm nghiệp Nghệ An

50

không chỉ thể hiện qua các chỉ tiêu tuyệt đối về kinh tế của ngành, mà quan

trọng hơn là kết quả của sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành

nông nghiệp có liên quan đến vấn đề xã hội và quốc phòng, an ninh của tỉnh

thời gian qua.

- Lao động thuỷ sản:

Dƣới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nền kinh tế tri thức

cơ cấu lao động Nghệ An không những có sự chuyển dịch trong ngành nông

nghiệp, lâm nghiệp mà còn có sự chuyển dịch lao động sang ngành thuỷ sản.

Trong những năm qua nhờ việc áp dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã

giúp ngƣời lao động đổi mới phƣơng thức đánh bắt, chế biến. Phong trào ngƣời

lao động chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển mạnh ở nhiều nơi trong

tỉnh. Nhiều mô hình nuôi trồng thuỷ sản có hiệu quả cao ở Quỳnh Lƣu, Diễn

Châu, Nghi Lộc... Việc làm cho ngƣời lao động ngành thuỷ sản tăng lên nhanh

nhờ kết hợp mở rộng đánh bắt, khai thác xa bờ với việc khôi phục, mở rộng,

phát triển các nghề truyền thống nhƣ chế biến thuỷ sản, dịch vụ nghề biển...

Đặc biệt nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh mẽ nhƣ nuôi tôm, cua ở ven

biển, đƣa diện tích nuôi trồng thuỷ sản lên 13.278 ha, trong đó có 1.187 ha mặn

lợ. Sản lƣợng thuỷ sản nuôi tôm cả năm đạt 550 tấn, tăng 22,2% so với năm

2001. Giá trị sản xuất ngành thuỷ sản cả năm 2002 đạt 312,2 tỷ đồng, tăng 10%

so với năm 2001 [27].

Cùng với sự đổi mới và mở cửa của nền kinh tế, hàng vạn lao động

chuyển sang ngành kinh tế thuỷ sản đã làm cho Nghệ An có những bƣớc tiến

đáng kể về kinh tế và xã hội, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời

sống cho ngƣời lao động. Năm 1996 lao động đƣợc bố trí, sắp xếp vào ngành

ngƣ nghiệp là 31.840 ngƣời, năm 2000 tăng lên 39.656 ngƣời và năm 2002 là

44.465 ngƣời. Tăng thu ngân sách cho nhà nƣớc tăng xuất khẩu và từng bƣớc

nâng cao mức sống cho ngƣ dân, góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia

51

và củng cố an ninh quốc phòng. Tuy vậy so với lợi thế thì những kết quả đạt

đƣợc còn rất thấp, tỷ trọng lao động trong ngành thuỷ sản tăng rất chậm chiếm

tỷ trọng 3,46 % (năm 1996) đến 4,06% (năm 2002).

* Đối với ngành công nghiệp, xây dựng

Động thái chuyển dịch cơ cấu lao động ngành ngành công nghiệp - xây

dựng cơ bản của Nghệ An, từ năm 1996 đến nay đƣợc thể hiện:

Công nghiệp ở tỉnh Nghệ An từ năm 1996 bắt đầu đi vào thế ổn định và

đến nay có hƣớng phát triển đúng, ƣu tiên đầu tƣ cho các ngành công nghiệp

chế biến nông, lâm, thuỷ sản, thực phẩm, vật liệu xây dựng có lợi thế cạnh

tranh, khai thác đƣợc tiềm năng trên địa bàn, nhịp độ tăng trƣởng bình quân

đạt 13,3%.Theo hƣớng đó, lao động đƣợc chuyển dịch sang công nghiệp xây

dựng cơ bản có nhịp độ tăng qua các năm, từ 7,78% năm 1996 lên 8,52% năm

2000 và 9,37% năm 2002. Số lao động tăng lên của ngành công nghiệp tập

trung ở các cơ sở công nghiệp mới đƣợc đầu tƣ và chủ yếu ở thành phần kinh

tế ngoài kinh tế nhà nƣớc. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp từ năm

1996 đến nay dần dần đƣợc khôi phục và phát triển, đã giải quyết việc làm

cho hàng vạn lao động. Theo số liệu thống kê tính đến năm 2002 Nghệ An có

30 làng nghề với các mặt hàng: chế biến nông sản thực phẩm mây tre đan, đá

mỹ nghệ, hàng thủ công mỹ nghệ, mộc xuất khẩu, thêu ren, dệt thổ cẩm, ƣơm

tơ... bƣớc đầu có sản phẩm xuất khẩu trực tiếp. Các làng nghề đƣợc tập trung

tại một số khu vực nhƣ: Nghi Lộc, thị xã Cửa Lò, Diễn Châu, Quỳ Hợp,

Nghĩa Đàn, Vinh, Quỳnh Lƣu, Thanh Chƣơng, Nam Đàn... Nhiều cơ sở công

nghiệp nhƣ chế biến nông lâm, hải sản, xay xát, chế biến thức ăn gia súc, khai

thác và sản suất vật liệu xây dựng: Đá, sỏi, gạch, ngói, sản xuất hàng kim khí

nhƣ xe vận tải, đúc nhôm, luyện cán thép... phát triển nhanh, sử dụng nguyên

liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động. Năm 2002 đã thu hút 80.915 lao động

với mức thu nhập ổn định 400.000 đồng ngƣời/tháng.

52

Nhìn chung công nghiệp, xây dựng cơ bản, tiểu thủ công nghiệp và

làng nghề ở Nghệ An có bƣớc phát triển, nhƣng còn chậm, tốc độ phát triển

hàng năm thấp, qui mô nhỏ bé, vốn sản xuất, công nghệ thiết bị lạc hậu, sản

phẩm chƣa thành hàng hoá lớn, chƣa đủ sức cạnh tranh trên thị trƣờng trong

và ngoài nƣớc, chủ yếu là tự cung, tự cấp, nội tiêu trên địa bàn.

* Đối với ngành dịch vụ:

Thời kỳ từ năm 1996 đến nay, ngành thƣơng mại dịch vụ bƣớc đầu

khởi sắc, trong đó phát triển nhanh nhất là dịch vụ, hàng nghìn lao động đƣợc

chuyển dịch vào ngành này làm cho cơ cấu lao động trong ngành này thay đổi

nhanh chóng. Nhờ đó đã thúc đẩy thƣơng mại dịch vụ có bƣớc phát triển khá.

Tính đến năm 2002 dịch vụ đã lên tới 45.313 hộ kinh doanh hoạt động nhiều

mặt hàng phong phú, đa dạng, doanh thu đạt 4.646.210 triệu đồng, năm 2002

cao hơn so với tổng giá trị sản xuất kinh doanh của thƣơng nghiệp quốc

doanh. Tốc độ đô thị hoá ở Nghệ An phát triển nhanh kéo theo sự gia tăng các

dịch vụ. Các nhà hàng, khách sạn, các quầy hàng của tƣ nhân đua nhau mở ra,

hoạt động sôi nổi làm sầm uất bộ mặt các thị trấn, thị xã của tỉnh. Tại các thị

trấn Nghĩa Đàn, Quỳnh Lƣu, Đô Lƣơng, Thanh chƣơng, Diễn Châu, tiểu thủ

công nghiệp và dịch vụ phát triển nhanh, đa dạng. Tuy nhiên các dịch vụ phổ

biến là ăn uống, giải khát, còn lại là các cửa hàng buôn bán các mặt hàng tiêu

dùng, vật liệu xây dựng khác.Tại các huyện ven đô, gần đƣờng quốc lộ c hính

nhƣ Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lƣu dịch vụ phát triển nhanh. Sự phát triển

nhanh dịch vụ đã kéo theo sự chuyển dịch lao động nông nghiệp theo hƣớng

vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm gia công đặt hàng tiểu thủ công nghiệp,

buôn bán hoặc làm các dịch vụ khác...

Tính đến năm 2002, tổng số lao động dịch vụ của tỉnh là 192.038

ngƣời, chiếm 14,58% lao động của toàn tỉnh. Tuy nhiên sự chuyển dịch lao

động từ nông nghiệp sang dịch vụ ở các địa bàn tỉnh không đều nhau. Ở các

53

huyện xa các trung tâm công nghiệp và thƣơng mại, lao động vẫn chủ yếu là

nông nghiệp dịch vụ chiếm tỷ trọng ít. Trên thị trƣờng, cung cầu, giá cả,

thƣờng xuyên không ổn định đã tác động đến kết qua hoạt động kinh doanh

của ngành dịch vụ. Mặt khác, trong quá trình kinh doanh đòi hỏi phải có vốn,

có vị trí thuận lợi, có uy tín với khách hàng, trong khi vốn đầu tƣ của nhà

nƣớc còn ít, vốn của tƣ nhân có hạn, mức sống của ngƣời dân còn thấp nên

sức mua hạn chế. Vì vậy từ năm 1996 đến nay, lao động dịch vụ tuy có tăng

lên nhƣng còn rất chậm và thiếu ổn định. Năm 2002 tỷ trọng lao động dịch vụ

tuy có đạt14,58%, nhƣng cũng chỉ tăng so với năm 1996 là 1,34% (năm1996

là 13,24%)

Tóm lại, việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung cũng nhƣ

trong nội bộ ngành, tuy có tiến bộ, nhƣng diễn ra với tộc độ chậm, dẫn đến

phân công lao động xã hội vào các ngành kinh tế quốc dân còn hạn chế. Số

lao động đƣợc bố trí sắp xếp việc làm trong các ngành chƣa tƣơng xứng với

tiềm năng và thế mạnh vốn có. Tồn tại này bắt nguồn tƣ nguyên nhân: Từ

năm 1996 đến nay, công nghiệp và dịch vụ đã có nhiều tiến bộ, nhiều ngành

nghề đƣợc phục hồi và mở rộng, Nhƣng hàng năm vẫn chƣa thu hút đƣợc

nhiều lao động từ nông nghiệp sang những ngành này. Mặt khác, công nghiệp

chế biến chƣa phát triển, lao động dịch vụ biến động... Vì vậy, lao động lại

dồn vào nông nghiệp, nên tình trạng công ăn việc làm ngày càng khó khăn

nhất là dân cƣ trong độ tuổi lao động. Các ngành nghề phát triển chƣa đủ

mạnh, nên việc di chuyển lao động nông nghiệp sang khu vực dịch vụ, công

nghiệp nhƣng không thay đổi địa bàn cƣ trú, không tạo ra sự di chuyển dân cƣ

về địa lí, hay đổ dồn vào các trung tâm công nghiệp là một chủ trƣơng đúng

cần quan tâm. Hiện nay cả nƣớc nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng,

lao động hàng ngày vẫn tập trung về thành phố làm việc và buôn bán. Vì vậy

trong tƣơng lai cần có quy hoạch chuyển dịch mạnh công nghiệp - xây dựng

54

cơ bản và dịch vụ ở các vùng nông thôn, miền núi nhằm sử dụng lao động tại

chỗ, giải quyết tình trạng di chuyển lao động nhƣ đã nói trên.

2.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế.

* Chuyển dịch cơ cấu lao động trong thành phần kinh tế nhà nước

Thực hiện tinh thần đổi mới toàn diện từ sau đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ VI (1986) đến nay, các thành phần kinh tế ở Nghệ An đã từng bƣớc

khôi phục và phát triển. Tuy nhiên thời kỳ từ 1991 đến 1995 nền kinh tế nƣớc

ta vẫn chƣa ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội. Khu vực kinh tế nhà nƣớc

đứng trƣớc cơ chế mới đã bộc lộ hạn chế, làm ăn kém hiệu quả thua lỗ kéo

dài, nên phải tổ chức sắp xếp lại. Một số cơ sở sản xuất phải phá sản. Vì vậy,

lao động trong khu vực này cũng có sự bố trí, sắp xếp lại.

Quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh Nghệ

An diễn ra chậm. Việc tổ chức lại lao động cho phù hợp với cơ cấu sản xuất

mới, giải thể một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, đã làm cho nhiều

lao động mất việc làm. Họ buộc phải đi kiếm việc làm ở các đơn vị sản xuất

tƣ nhân hoặc tham gia vào các loại hình dịch vụ khác, số đông họ trở về lao

động nông nghiệp, tạo nên sức ép lớn về việc làm ở khu vực nông thôn trong

thời kỳ này. Dƣới đây là tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động trong kinh tế

nhà nƣớc từ năm 1996 đến nay:

- Về lao động trong nông - lâm - ngƣ nghiệp nhà nƣớc:

Tính đến năm 2002, số lao động trong ngành nông và lâm nghiệp là

8549 ngƣời và thuỷ sản (ngƣ nghiệp) là 327 ngƣời. Qua số liệu trên cho thấy,

trong cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế, thi ngành nông - lâm -ngƣ

nghiệp, thì thành phần kinh tế nhà nƣớc chiếm tỷ trong thấp so với các thành

phần kinh tế khác nhất là kinh tế cá thể và kinh tế tập thể.

- Về lao động công nghiệp nhà nƣớc:

55

Lực lƣợng lao động công nghiệp nhà nƣớc chỉ chiếm 17,9% lao động

toàn ngành. Bình quân hàng năm lao động đƣợc tạo việc làm trong công

nghiệp gồm 6000 ngƣời. Tỉnh đã chú trọng đầu tƣ và phát triển các cơ sở

công nghiệp sẵn có về chiều rộng lẫn chiều sâu. Từ năm 1996 đến nay, 60%

các xí nghiệp nhà nƣớc trên địa bàn tỉnh làm ăn có hiệu quả và thu hút đƣợc

hàng nghìn lao động vào làm việc nhƣ: Nhà máy dệt kim Hoàng Thị Loan,

Công ty cổ phần Bia Nghệ An, nhà máy xi măng Cầu Đƣớc, Nhà máy cao su,

Nhà máy xi măng Hoàng Mai... Các công ty ngoài quốc doanh phát triển

mạnh, ngành nghề phong phú đa dạng. Trên địa bàn tỉnh có 637 doanh nghiệp

ngoài doanh nghiệp nhà nƣớc, 44 công ty cổ phần, 261 doanh nghiệp tƣ nhân,

90 HTX và các loại doanh nghiệp khác. Những cơ sở này đã vƣơn lên nhanh

trong cơ chế thị trƣờng, đã thu hút đƣợc hàng nghìn lao động từ nông nghiệp

sang và ở các địa phƣơng khác đến. Từ năm 2000 đến nay, khu vực công

nghiệp quốc doanh đã khôi phục và phát triển. Các doanh nghiệp của trung

ƣơng nhƣ: Công ty dệt kim Hoàng Thị Loan, Công ty Xi măng Hoàng Mai,

Công ty cơ khí Vinh, Công ty xây dựng công trình giao thông 496... đã vƣơn

lên trong cơ chế thị trƣờng, mở rộng sản xuất giải quyết việc làm cho hàng

nghìn ngƣời lao động. Các xí nghiệp quản lí các công trình thuỷ lợi, xí

nghiệp, cơ giới, các công ty chế biến nông - lâm - thuỷ sản, ngân hàng... của

tỉnh đƣợc mở rộng làm ăn ngày càng có hiệu quả, lao động đƣợc củng cố và

tăng cƣờng. Tỉnh đã quy hoạch, xây dựng các cụm khu công nghiệp nhƣ: Khu

công nghiệp Bắc Vinh, khu công nghiệp Cửa Hội, khu công nghiệp tập trung

Cửa Lò, khu công nghiệp Hoàng Mai, khu công nghiệp Nghĩa Đàn tập trung

với qui mô lớn thu hút đƣợc hàng vạn lao động. Đến năm 2002 công nghiệp

nhà nƣớc đi vào thế ổn định.

- Lao động trong ngành thƣơng nghiệp dịch vụ nhà nƣớc

56

Lao động trong ngành thƣơng nghiệp dịch vụ nhà nƣớc từ năm 1996

đến nay không ngừng đƣợc củng cố, tổ chức lại từ 500 cơ sở kinh doanh (năm

1996) xuống còn 380 cơ sở thƣơng nghiệp dịch vụ (năm 2002). Do bỏ chế độ

bao cấp nên các cửa hàng bán lẻ của các công ty không còn hoạt động. Lao

động ở khu vực này giảm nhanh chóng, từ 120.000 nghìn ngƣời lao động

(năm 1996) xuống còn 74.283 ngƣời lao động (năm 2002).Nhờ vậy từ năm

1996 trở lại đây ở Nghệ An, kinh tế nhà nƣớc nói chung và công thƣơng

nghiệp quốc nói riêng đã từng bƣớc phục hồi và phát triển, giải quyết đƣợc

một số lƣợng lao động trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tế thì

thƣơng mại,dịch vụ nhà nƣớc vẫn còn yếu và thiếu ảnh hƣởng đến việc giữ

vững vai trò chủ đạo, để dẫn dắt các thành phần khác phát triển theo định

hƣớng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghệ An cần phải mở rộng và phát triển hơn

nữa khu vực kinh tế này, nhằm tạo nhiều việc làm cho ngƣời lao động, góp

phần làm chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp

hoá, hiện đại hoá.

Công nghiệp nhà nƣớc của tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, tốc độ

phát triển không ổn định chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, do vậy lao động vẫn

còn tăng chậm. Những ngành công nghiệp phục vụ trực tiếp cho phát triển sản

xuất và đời sống ở tỉnh Nghệ An những năm qua kém phát triển. Các cơ sở

chế biến nông - lâm - hải sản, các cơ sở lắp ráp điện tử, khai thác và sản xuất

vật liệu xây dựng, công nghiệp hàng tiêu dùng, cơ khí, hoá chất, khai khoáng

và luyện kim... cơ bản là sử dụng lao động thủ công với trình độ công nghệ

lạc hậu, trang bị không đồng bộ, chất lƣợng thấp, phân tán về quản lí, vai trò

định hƣớng của nhà nƣớc hạn chế. Nguyên nhân do khó khăn về vốn, việc đầu

tƣ đổi mới công nghệ chƣa đƣợc thực hiện toàn diện và nhanh chóng. Vì vậy

quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm chạp.

57

* Chuyển dịch cơ cấu lao động trong các thành phân kinh tế ngoài kinh

tế nhà nước.

- Trong công nghiệp ngoài nhà nƣớc

Theo số liệu thống kê của tỉnh Nghệ An năm 2002, trong tổng số lao

động công nghiệp, thì lao động ngoài công nghiệp nhà nƣớc thuộc thành phần

kinh tế cá thể là chủ yếu (trên 80%.) với 27608 ngƣời. Kinh tế tập thể có 641

ngƣời chiếm 1,86%; kinh tế tƣ nhân có 244 ngƣời chiếm 0,65%; kinh tế hỗn

hợp có 603 ngƣời chiếm 17,49%. Có thể nói công nghiệp ngoài nhà nƣớc

trong thời gian qua đã thu hút đƣợc một lực lƣợng lao động khá đông đảo,

hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát triển cả về số lƣợng và chất lƣợng

Công nghiệp ngoài nhà nƣớc của tỉnh từ khi thực hiện quá trình đổi mới

đã phát triển khá nhanh. Số công ty trách nhiệm hữu hạn và xí nghiệp tƣ nhân

tăng gấp 6 lần, xí nghiệp ngoài quốc doanh phát triển mạnh (261 doanh

nghiệp tƣ nhân, 44 công ty cổ phần, 90 hợp tác xã đã góp phần đƣa giá trị sản

xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tăng cao từ 312.120 triệu đồng trong năm

1996) lên 620.729 triệu đồng (năm 2000) và 734.320 triệu đồng (năm 2002).

Lao động công nghiệp ngoài quốc doanh với số lƣợng lớn, hàng năm tiếp tục

tăng lên. Năm 1996 có 30.427 ngƣời đến năm 2000 tăng lên 32.940 ngƣời và

tính đến đến năm 2002 số lao động này tăng lên 34.511 ngƣời. Ngoài ra trên

địa bàn Nghệ An còn có một số công ty liên doanh của nƣớc ngoài hoạt động

nhƣ công ty khoáng sản Việt Nhật, xí nghiệp liên doanh chế biến gỗ, công ty

liên doanh mía đƣờng Tale & Lyle đã thu hút đƣợc một lực lƣợng lao động trẻ

từ lao động nông nghiệp sang, góp phần tạo công ăn việc làm cho con em

nhân dân trong tỉnh. Đây là khu vực kinh tế quan trọng không những góp

phần phát triển tỉnh nhà mà còn giải quyết một phần công ăn việc làm cho

ngƣời lao động, là nơi tạo động lực chuyển dịch lao động nông nghiệp sang

58

lao động công nghiệp, làm thay đổi cơ cấu lao động giữa các ngành theo

hƣớng CNH, HĐH.

- Thƣơng nghiệp dịch vụ ngoài nhà nƣớc

Từ sau thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, đến năm 2002

thƣơng nghiệp dịch vụ tƣ nhân có 45.313 hộ với 166.661 lao động, chiếm

6,32% lao động của tỉnh. Dịch vụ nông nghiệp phát triển, nhiều hộ nông dân

đã đầu tƣ mua sắm máy cày nhỏ, máy tuốt lúa, máy xay xát và các phƣơng

tiện vận chuyển khác để cho thuê. Lao động đƣợc giảm nhẹ ở các khâu nặng

nhọc. Hàng nghìn lao động trƣớc đây làm nghề nông, nay chuyển hẳn sang

làm dịch vụ hoặc kiêm nghề, vừa làm dịch vụ, vừa làm nông nghiệp.

- Trong nông nghiệp ngoài doanh nghiệp nhà nƣớc

Từ năm 1996 đã có 512 hợp tác xã, hiện nay có 514 hợp tác xã, tồn tại

chủ yếu chỉ làm tƣ vấn và dịch vụ cho các hộ nông dân. Năm 1996 toàn tỉnh

có 458.729 hộ nông nghiệp với 2.150.238 nhân khẩu. Đến năm 2000 tăng lên

469.923 hộ với 935.247 lao động. Từ năm 2001 số hộ nông nghiệp bắt đầu

giảm nhẹ do các hộ di chuyển dần các khu vực đô thị mới, gần đƣờng quốc lộ.

Một số chuyển sang làm dịch vụ các loại. Một số sản xuất tiểu thủ công

nghiệp nhƣ làm nghề mây tre đan, gốm sứ, đồ da, gạch ngói... Năm 2002 số

hộ nông nghiệp giảm xuống còn 468.896 hộ, tuy vậy số lao động nông nghiệp

vẫn tăng bởi sự dƣ thừa lao động còn rất lớn, tình trạng thất nghiệp và thiếu

việc làm. Các hộ nông nghiệp ở tỉnh Nghệ An trong cơ chế mới đã phát huy

năng lực sáng tạo của mình, nhiều hộ đã mạnh dạn chuyển sang đầu tƣ sản

xuất các loại cây, con có giá trị kinh tế cao nhƣ sản xuất các loại cây giống,

đầu tƣ nuôi tôm, cá, chăn nuôi vịt, lợn nạc, bò...Nhờ đó làm cho thu nhập của

lao động nông thôn gần đây không ngừng đƣợc cải thiện, tổng giá trị sản xuất

nông nghiệp hàng năm tăng đáng kể, năm 2002 ƣớc đạt 3.768 tỉ đồng, tăng

59

4,96% so với năm 2001, đời sống của nông dân ổn định, đƣờng làng ngõ xóm

hầu hết đƣợc bê tông hoá,cảnh quan nông thôn đổi mới.

2.2.2.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng

Cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, cơ cấu lao động

theo thành phần kinh tế, việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng ở Nghệ

An dƣới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và kinh tế tri thức, từ

năm 1996 đến nay có sự chuyển dịch nhằm sử dụng tối đa nguồn lực lao động

trên địa bàn tỉnh. Căn cứ vào lợi thế tự nhiên của từng vùng, cơ cấu lao động

ở Nghệ An đƣợc chuyển dịch theo 3 vùng kinh tế: (Xem bảng sau)

Bảng 2. 8: Diện tích - Dân số- Lao động tỉnh Nghệ An

chia theo vùng năm 2002 [31]

Vùng đô thị Vùng miền núi Vùng đồng bằng ven biển Chỉ tiêu

Số lượng (người) Cơ cấu (%) Số lượng (người) Cơ cấu (%) Số lượng (người) Cơ cấu (%)

tích đất tự 163117 11,88 74114 4,49 1374498 83,36 Diện nhiên (ha)

Dân số (ngƣời) 1516792 51,38 307702 10,42 1127390 38,19

Lao động (ngƣời) 706119 53,18 135979 10,24 474785 35,76

Nguồn: Cục thống kê Nghệ An năm 2002

* Lao động vùng đồng bằng ven biển:

Vùng đồng bằng ven biển có số dân là 1516792 ngƣời với diện tích tự

nhiên là 163117 ha gồm 7 huyện, một thành phố, một thị xã. Thế mạnh của

vùng này là: trồng lúa và màu (lạc, vừng, rau, đậu), nuôi trồng và khai thác

thuỷ sản. Tính đến năm 2002 lao động vùng này có 706.119 người chiếm

53,18% lao động toàn tỉnh. Từ năm 1996 đến nay cơ cấu lao động vùng đồng

bằng ven biển đang trong quá trình chuyển dịch từ lao động độc canh thuần

nông sang đa canh, đa dạng hoá ngành nghề. Ngành nghề ngoài nông nghiệp

60

đã và đang đƣợc hình thành. Cơ cấu lao động nông nghiệp, công nghiệp, dịch

vụ kết hợp với nhau thành hệ thống. Trong nông nghiệp đang có bƣớc chuyển

từ trồng trọt sang chăn nuôi. Trong trồng trọt, giảm trồng cây lƣơng thực, phát

triển cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả cao hơn.

Sự phát triển này đã làm cho cơ cấu lao động trong nông nghiệp có sự thay

đổi. Lao động nông nghiệp đã giảm dần, lao động công nghiệp và dịch vụ

tăng lên. Khu vực đồng bằng ven biển năm 2002 lao động công nghiệp và

dịch vụ chiếm 52,48% tổng lao động toàn vùng. (Xem bảng 2.8) Việc nuôi

trồng và đánh bắt thuỷ sản ở vùng này phát triển vào những năm 1996, hiện

nay đang tiếp tục đƣợc mở rộng (các trung tâm nuôi trồng, đánh bắt ở Nghi

Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lƣu). Năm 2002 đƣợc phát triển sang các huyện Yên

Thành, Hƣng Nguyên, Nam Đàn. Theo số liệu thống kê năm 2002 nuôi trồng

và khai thác thuỷ sản sản lƣợng đạt 44685 tấn, giá trị sản xuất đạt 312,3 tỉ

đồng. Sự phát triển của nuôi trồng và khai thác thuỷ sản đã tạo việc làm cho

hàng vạn lao động thất nghiệp và lao động trong thời kỳ nông nhàn của các

huyện. Thu nhập của ngƣời lao động tăng lên. Kinh tế xã hội của vùng ổn

định và phát triển.

Lao động của vùng đồng bằng ven biển còn đƣợc chuyển dịch mạnh

theo hƣớng phát triển các dịch vụ nghề biển. Nghệ An là một tỉnh có vị trí đặc

biệt thuận lợi cho phát triển dịch vụ nghề biển. Với 82km bờ biển có nhiều bãi

tắm đẹp là những tiền đề tự nhiên hết sức thuận lợi cho phát triển dịch vụ nghề

biển. Các xã Nghi Thu, Nghi Hải, Nghi Thiết... đã từ lâu trở thành truyền thống

cung cấp các sản phẩm chế biến hải sản cho nhân dân tỉnh nhà và xuất khẩu.

Đồng thời nơi đây còn hình thành các bãi tắm lý tƣởng phục vụ du khách trong

và ngoài tỉnh. Năm 2002 Bãi biển Cửa Lò đón 63 vạn lƣợt khách du lịch, trong

đó có trên 20 vạn lƣợt khách quốc tế. Doanh thu du lịch đạt 183,9 tỉ đồng. Thu

nhập của ngƣời làm các dịch vụ nghề biển đƣợc cải thiện. Tuy nhiên, do chƣa

61

có hƣớng đầu tƣ lớn, quy mô du lịch nhỏ, cò con, ăn xổi, thiếu vốn, thiếu năng

lực tổ chức hoạt động, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu nên các dịch vụ nghề biển

chƣa tận dụng hết thế mạnh điều kiện tự nhiên. Vì vậy số lƣợng lao động trong

nghề này còn hạn chế.

* Lao động vùng đô thị:

Diện tích tự nhiên 74114 ha, dân số 307702 ngƣời, có 135.979 lao

động, chiếm 10,24% lao động của tỉnh. Khu vực này gồm thành phố Vinh, thị

xã Cửa Lò và 7 thị trấn thuộc các huyện: Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lƣu,

Yên Thành, Hƣng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lƣơng có tốc độ đô thị hoá nhanh.

- Phần lớn các công ty xí nghiệp của trung ƣơng, thành phố và của tỉnh

đều nằm trên vùng lãnh thổ này. Các công ty may mặc, dệt, da, sợi là nơi

hàng năm thu hút hàng nghìn lao động của vùng và của tỉnh vào sản xuất nhƣ:

Công ty may Nghệ An, Xí nghiệp may quân đội, Công ty dệt kim Hoàng Thị

Loan, Nhà máy thuộc da Vinh, Nhà máy cọc sợi Vinh. Hình thức gia công đặt

hàng tƣơng đối phổ biến. Từ năm 1996 đến nay, sau khi công nghiệp nhà

nƣớc trên địa bàn tỉnh phục hồi và phát triển đã có hàng nghìn lao động khác

của vùng và của tỉnh đƣợc tuyển dụng vào làm việc tại các cơ sở sản xuất

này.Các cơ sở sản xuất công nghiệp tƣ nhân cũng đã thu hút đƣợc nhiều lao

động nhƣ cơ sở chế biến hải sản, nông sản, thực phẩm, sản xuất gạch ngói, cơ

khí, đóng tàu thuyền, mộc... Năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp chiếm

trên 60% giá trị thu nhập của toàn vùng. Từ năm 1996 đến năm 2002, tỷ trọng

lao động công nghiệp của vùng này tăng từ 6,71 % lên hơn 10%.

- Các loại hình dịch vụ nhƣ: các ngành xây dựng kết cấu hạ tầng sản

xuất, dịch vụ thƣơng mại, tài chính, ngân hàng, văn hoá, giáo dục, y tế, thể

thao, nghiên cứu khoa học, quản lí nhà nƣớc... giữ một vai trò rất quan

trọng.Theo số liệu thống kê của Cục thống kê tỉnh, tỉ trọng các ngành dịch vụ

trong GDP của vùng này đã tăng từ 55,62% (năm 1996) lên 65,08% (năm

62

2002). So với đồng bằng ven biển, miền núi thì vùng đô thị có điều kiện thuận

lợi để phát triển các ngành xây dựng, thƣơng mại - dịch vụ, du lịch giải quyết

việc làm cho hàng vạn lao động.Thế mạnh của vùng đô thị là vị trí địa lí có hệ

thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng sông, đƣờng biển và đƣờng không tƣơng

đối thuận lợi, lao động dồi dào bao quanh các thành phố thị xã, nhân dân có

trình độ học vấn cao có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới tạo động lực

thúc đẩy dịch vụ phát triển. Tuy nhiên, dƣới góc độ lao động dịch vụ, vùng

kinh tế này còn có những hạn chế nhất định chƣa thích ứng với cơ chế thị

trƣờng. Cách tổ chức kinh doanh khai thác những tiềm năng du lịch còn ở

mức rất thấp. Tổ chức quản lí yếu kém, hoạt động kinh doanh thụ động ỷ lại

vào cấp trên. Đội ngũ lao động (cán bộ công nhân viên) làm trong ngành dịch

vụ nhất là dịch vụ du lịch đông về số lƣợng nhƣng trình độ nghiệp vụ chuyên

môn về du lịch còn thấp kém, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế, hiểu biết về thị

trƣờng còn ít, mang nặng dấu ấn bao cấp, thiếu tính cạnh tranh, chất lƣợng

phục vụ chƣa cao, chậm, chƣa đa dạng và phong phú, chƣa lôi cuốn đƣợc du

khách đến với Nghệ An.

Lao động vùng miền núi:

Tổng diện tích đất tự nhiên toàn vùng là 1.374.498 ha, trong đó đất

nông nghiệp có 95.932 ha, đất lâm nghiệp là 947.780 ha, dân số 1.127.390

ngƣời và số lao động là 474.785 người, chiếm 35,76% lao động của ba vùng.

Vùng miền núi có nhiều lợi thế phát triển công nghiệp, cây ăn quả, lâm

nghiệp và chăn nuôi.

Những năm trƣớc đây, các huyện Thanh Chƣơng, Anh Sơn, Tân Kỳ,

Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong chủ yếu sản xuất cây lƣơng thực

nhƣ lúa, ngô và một số cây công nghiệp nhƣ chè, cà phê, cao su, cam, dứa.

Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động vừa qua, lao

63

động đã đƣợc chuyển sang sản xuất theo hƣớng đa canh và thâm canh, kết

hợp với chăn nuôi. Điển hình có các huyện nhƣ Nghĩa Đàn, Thanh Chƣơng,

Tân Kỳ, Anh Sơn đã có nhiều hộ gia đình bỏ vốn ra phát triển chăn nuôi bò

Lai Sind, bò sữa, lợn thịt, hình thành một vùng chăn nuôi lớn của tỉnh. Để

việc chăn nuôi này ổn định và tiếp tục phát triển nhanh, cần có đƣợc hỗ trợ

thêm về vốn, con giống, mở các lớp đào đạo ngắn hạn về cách chăm sóc, bảo

quản..., có cơ chế thu mua hợp lý, giá cả ổn định...

Có thể nói, vùng miền núi Nghệ An là nơi có tài nguyên rừng phong

phú, có khu rừng nguyên sinh Pumát, có đƣờng quốc lộ số 7 thông qua Lào, là

con đƣờng huyết mạch cho sự giao lƣu kinh tế từ Lào ra cảng Cửa Lò của

tỉnh. Tại đây có nguồn thuỷ điện dồi dào với dự án thuỷ điện Bản Mai ở

huyện Tƣơng Dƣơng sẽ biến Nghệ An thành một trong những nơi cung cấp

năng lƣợng điện cho hệ thống điện quốc gia. Do vậy, thƣơng mại và dịch vụ ở

nơi đây phát triển nhanh, nhiều ngành nghề đƣợc mở rộng, thu hút hàng ngàn

lao động của các huyện trong tỉnh.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở một số huyện đặc biệt là huyện

Nghĩa Đàn có sự chuyển dịch lao động khá mạnh. Toàn huyện có 86.469 lao

động, 38.743 hộ gia đình. Lao động ở đây hoạt động kinh doanh nhiều ngành

nghề, phần lớn là kinh doanh tổng hợp (làm ruộng, nghề thủ công, dịch vụ

buôn bán...). Nhiều hộ đã chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp sang kinh

doanh các lĩnh vực khác nhƣ may mặc, chế biến nông sản, buôn bán... Hiện

nay, số hộ và số lao động sống bằng nghề thuần nông còn khoảng 20 đến 25

%. Nhờ đó thu nhập của ngƣời lao động trong huyện tăng lên khá nhanh, đa

phần các hộ gia đình có nhà khang trang, tiện nghi đầy đủ. Đời sống vật chất

và tinh thần nói chung của nhân dân trong huyện đƣợc cải thiện. Phƣơng

hƣớng của tỉnh trong những năm tới là phát triển vùng này thành vùng lâm -

64

nông - công nghiệp tổng hợp kết hợp với phát triển chăn nuôi gia súc có sừng,

đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ buôn bán.

Nhìn chung cơ cấu lao động của vùng từ chỗ tập trung vào sản xuất nông

nghiệp là chủ yếu, đã dần dần chuyển sang phát triển chăn nuôi, ngành nghề,

dịch vụ và công nghiệp chế biến các sản phẩm từ nông - lâm nghiệp... Do sự

dịch chuyển cơ cấu lao động này phù hợp với tiềm năng thế mạnh của vùng,

nên kinh tế vùng đã có bƣớc phát triển nhanh. Diện mạo nông thôn miền núi

từng bƣớc đã thay đổi, đƣờng làng, ngõ xóm đƣợc bê tông hoá, đời sống vật

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

chất, tinh thần của dân cƣ trong vùng đƣợc cải thiện.

2.3.1. Đánh giá chung

2.3.1.1. Thành tựu

Thời gian qua, cơ cấu lao động đã từng bƣớc chuyển dịch phù hợp với

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng rút bớt lao động nông nghiệp, tăng lao

động công nghiệp, phát triển thủ công nghiệp và dịch vụ; đa dạng hoá việc

làm trong các thành phần kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hoá ở

nhiều vùng. Khái quát lại, có thể thấy quá trình dịch chuyển cơ cấu lao động

của Nghệ An đã đạt đƣợc những thành tựu sau đây:

Thứ nhất: Cơ cấu lao động theo ngành đã có dấu hiệu chuyển dịch tích

cực, phù hợp xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH

nền kinh tế quốc dân. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm đáng kể, tỷ trọng

lao động công nghiệp và dịch vụ tăng lên, trong đó tốc độ tăng của tỷ trọng

lao động công nghiệp nhanh hơn. (Xem bảng 2. 9)

Bảng 2.9: Cơ cấu lao động theo ngành qua các năm [31]

Đơn vị: %

Ngành kinh tế 1991 1996 2002

65

Nông nghiệp 80 78,73 75,57

Công nghiệp 6 7,78 9,37

Dịch vụ 12,34 13,24 14,58

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Nghệ An năm 2002

Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu lao động nông nghiệp từng

bƣớc chuyển dịch theo hƣớng giảm tỷ trọng lao động trồng trọt từ 73,8%

(năm1996) xuống 69,3% (năm2002), tăng tỷ trọng lao động ngành chăn nuôi

cùng thời điểm từ 25% lên 29,2%. Cơ cấu ngành trồng trọt chuyển dịch theo

hƣớng giảm tỷ trọng cây lƣơng thực, tăng tỷ trọng rau màu, cây công nghiệp.

Bƣớc đầu hình thành một số vùng sản xuất rau màu có hiệu quả kinh tế cao. ở

các huyện Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lƣu hình thành một số vùng trồng

cây nông nghiệp, cây ăn quả gắn với phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp

và chế biến. Trong cơ cấu giống vật nuôi có sự chuyển dịch theo hƣớng tăng

dần tỷ trọng các giống gia súc, gia cầm có chất lƣợng cao nhƣ: lợn nạc, bò

Laisind, vịt siêu trứng... Thuỷ hải sản phát triển mạnh đã mở ra hƣớng mới

cho tập trung đầu tƣ khai thác, đánh bắt xa bờ và nuôi trồng ven biển. Do đó

tỷ trọng của ngành thuỷ sản tăng từ 4,86% (năm 1996) lên 6,54% (năm 2002).

Lao động công nghiệp tăng nhanh hơn cả do sự thu hút của các xí nghiệp

trung ƣơng, của tỉnh và các công ty TNHH và của các cơ sở sản xuất tƣ nhân

khác. Sự phát triển của các làng nghề truyền thống đã chuyển một bộ phận lao

động không nhỏ từ nông nghiệp sang các ngành nghề mới. Sự phát triển

nhanh chóng của lực lƣợng lao động công nghiệp, cùng với sự sử dụng công

nghệ hiện đại, đã tạo ra một khối lƣợng lớn sản phẩm chất lƣợng cao, sử dụng

có hiệu quả nguồn vốn, vật tƣ. Năng suất lao động tăng lên tạo điều kiện tích

luỹ vốn.

Công nghiệp hoá, đô thị hoá tạo điều kiện cho các ngành nghề mở rộng

và phát triển, kỹ thuật ngày càng cao. Các ngành nhƣ may mặc, đóng giày, xi

66

măng phát triển mạnh. Các dịch vụ ăn uống, nhà hàng, khách sạn, các cửa

hàng mua bán các loại hàng hoá phát triển nhanh chóng đã thu hút hàng vạn

lao động của tỉnh và các vùng khác đến.

Năm 2002, trên địa bàn tỉnh có 160 doanh nghiệp nhà nƣớc, trong đó có

45 doanh nghiệp trung ƣơng và 115 doanh nghiệp địa phƣơng. Ngoài ra còn

có các công ty TNHH, các Hợp tác xã, các tổ chức sản xuất, các hộ gia đình

cũng tham gia sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

Từ năm 2001 đến năm 2002, sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công

nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng 36,07%. Bộ phận của tỉnh quản lý tăng 10,41%

với những sản phẩm công nghiệp quan trọng nhƣ may mặc, dệt kim, xi măng,

phân NPK, thức ăn gia súc, bia hơi, ống thép mã kẽm, chế biến thuỷ hải sản.

Đây là những ngành có nhiều tiềm năng chuyển đƣợc nhanh lao động từ nông

nghiệp sang.

Ngành thƣơng mại dịch vụ ở tỉnh Nghệ An cũng có sự chuyển biến tích

cực. Năm 2002, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu của dịch vụ tiêu dùng

xã hội đạt 5.885,6 tỷ đồng, tăng 7,35% so với năm 2001. Trong đó khu vực

ngoài quốc doanh đạt 4.714,1 tỷ đồng, chiếm 79,86%, tăng 7,45%.

Ngoài các dịch vụ thƣơng mại, ăn uống, vận tải... thì các dịch vụ khác

cũng có vai trò quan trọng nhƣ khách sạn, ngân hàng, y tế, giáo dục...theo

hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Hệ thống giáo dục, y tế của tỉnh Nghệ An mấy năm gần đây có sức phát

triển đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi trong việc nâng cao trình độ văn hoá,

kiến thức khoa học cho đội ngũ lao động mới.

Những kết quả nói trên từng bƣớc khẳng định trong thực tế chủ trƣơng

của Đảng thông qua phân công lại lao động để chuyển dịch cơ cấu lao động

vào các ngành công nghiệp và dịch vụ gắn liền với đổi mới căn bản về công

67

nghệ, là nhiệm vụ cấp thiết để tạo nền tảng cho sự tăng trƣởng nhanh, hiệu

quả và bền vững của toàn bộ nền kinh tế là đúng đắn.

Thứ hai: Thông qua việc thực hiên chủ trƣơng phát triển kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần đã thực sự mở ra khả năng to lớn để phát huy mọi tiềm

năng, giải phóng triệt để hơn sức sản xuất. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh

ngoài nhà nƣớc hoạt động có hiệu quả, kinh tế hộ gia đình phát triển phong

phú, đa dạng trong các lĩnh vực, góp phần cơ bản trong việc giải quyết việc

làm tại chỗ cho ngƣời lao động.

Theo số liệu điều tra về lao động có việc làm thƣờng xuyên chia theo

thành phần kinh tế tính đến ngày1 tháng 7 năm 2002, thì trong tổng số lao

động có việc làm thƣờng xuyên, khu vực kinh tế nhà nƣớc chiếm 8%, tập thể

64,86%, tƣ nhân 1,5%, cá thể 27%, hỗn hợp 0,3%, có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài

0,85%.

Thứ ba: Dựa trên thế mạnh của từng vùng, trong những năm qua ở Nghệ

An đã bƣớc đầu hình thành đƣợc những vùng sản xuất hàng hoá tập trung,

nhƣ vùng sản xuất vật liệu xây dựng, vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế

biến, vùng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản...Trong đó:

- Khu vực đồng bằng ven biển, cơ cấu lao động đang trong quá trình

chuyển dịch từ lao động độc canh thuần nông sang đa canh, đa dạng hoá

ngành nghề. Cơ cấu lao động nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ kết hợp với

nhau thành hệ thống.

- Khu vực đô thị trong những năm qua đã kết hợp giữa công nghiệp và

dịch vụ. So với các vùng, sự chuyển dịch cơ cấu lao động ở vùng đô thị tăng

nhanh hơn cả từ 6,71% năm 1996 lên hơn 10% năm 2002. Trình độ học vấn

của dân cƣ cao và vị trí địa lý thuận lợi đã tạo động lực thúc đẩy công nghiệp

và dịch vụ phát triển kéo theo sự gia tăng của lao động nông nghiệp vào các

ngành này.

68

- Khu vực miền núi phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả, lâm

nghiệp và chăn nuôi. Do vậy, kinh tế vùng núi đã có bƣớc phát triển khá.

2.3.1.2. Những tồn tại

Tuy đã đạt đƣợc một số thành tựu, song quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

động ở tỉnh Nghệ An còn một số tồn tại sau:

- Một là, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang

công nghiệp và dịch vụ diễn ra còn chậm, lao động nông nghiệp vẫn tiếp tục

tăng lên hằng năm. Tỷ trọng lao động nông nghiệp tuy có giảm nhƣng ít và

còn ở mức cao (75,57% năm 2002). Tỷ trọng lao động dịch vụ trong mấy năm

gần đây tăng nhƣng không đáng kể. Do vậy chƣa giải quyết đƣợc vấn đề bức

xúc ở Nghệ An hiện nay là thiếu việc làm.

- Hai là, cơ cấu lao động chuyển dịch còn bất hợp lý cả trình độ và

ngành nghề, lao động công nghiệp chỉ chiếm 9,37% (năm 2002). Phần lớn lao

động tập trung vào lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp. Số lao động có trình đô

chuyên môn phân bỏ không hợp lý, hầu nhƣ tập trung ở thành thị. Cơ cấu lao

động mang rõ nét đặc điểm của nền sản xuất lạc hậu, chƣa phát triển.

- Ba là, chất lƣợng lao động còn thấp và chƣa có sự biến đổi rõ nét. Lao

động có chuyên môn còn rất ít,lao động thủ công là chủ yếu. Đây cũng là một

trở ngại không nhỏ cho quá trình chuyển dịch ngành nghề và tiếp thu các kỹ

thuật sản xuất mới.

Sở dĩ có những tồn tại nói trên trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

động của tỉnh Nghệ An là do các nguyên nhân cơ bản sau đây:

- Thiếu và chƣa đồng bộ về cơ chế, chính sách để đẩy nhanh quá trình

chuyển dịch cơ cấu lao động. Thời gian qua, các chính sách, đặc biệt là chính

sách về đầu tƣ, tín dụng, chính sách giá cả, chính sách đất đai, thị trƣờng và

khoa học công nghệ chƣa thực sự tạo đà thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ

cấu lao động ở Nghệ An.

69

- Vốn đầu tƣ giải quyết việc làm còn ở trong tình trạng vừa thiếu vừa

phân bổ không đồng đều nên không tạo thêm đƣợc nhiều việc làm mới, trong

khi đất đai nông nghiệp hàng năm bị thu hẹp dần. Lao động không có việc

làm hoặc làm những công việc lặt vặt trong gia đình nên thu nhập thấp. Nhiều

tệ nạn xã hội và tiêu cực tăng lên nhƣ trộm cắp, cờ bạc, mại dâm...

- Công tác đào tạo nghề cho ngƣời lao động chƣa đƣợc đặt ra một cách

đúng mức nên chất lƣợng lao động còn thấp. Phát triển nhiều ngành công

nghiệp dịch vụ gặp nhiều khó khăn do thiếu lao động đƣợc đào tạo.

2.3.2 Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới

Thứ nhất, do cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm nên cơ cấu lao động còn

bất hợp lý cả trong cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng. Lao

động có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu. Thừa lao động thủ công, thiếu lao

động có tay nghề. Thừa lao động ngành nông nghiệp ở nông thôn, đồng bằng

nhƣng thiếu lao động ngành công nghiệp và dịch vụ ở miền núi, vùng sâu,

vùng xa.

Thứ hai, trình độ chuyên môn của lao động còn bất cập. Lao động đào

tạo không thích ứng đƣợc yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là yêu

cầu của các ngành công nghiệp và dịch vụ chƣa đáp ứng các điều kiện thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Thứ ba, chƣa có cơ chế sử dụng lao động hợp lý nhất là cơ chế tiền

lƣơng chƣa thoả đáng với công việc, tuyển dụng thiếu tính công khai, dân

chủ. Đào tạo không gắn với sử dụng, khoa học - công nghệ không gắn với sản

xuất, coi trọng bằng cấp, ít chú ý tới năng lực, chuyên môn.

Thứ tư, chế độ chính sách đối với ngƣời lao động chậm bổ sung, sửa

đổi. Vì vậy, tiền lƣơng và các khoản phụ cấp danh nghĩa của ngƣời lao động

còn thấp so với tiên lƣơng thực tế, mức sống chƣa đảm bảo.

70

Thứ năm, tâm lý tập quán của ngƣời lao động chƣa chuyển đổi kịp với

yêu cầu của nền kinh tế thị trƣờng. Tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, tự

cung tự cấp vẫn còn tồn tại, hạn chế khả năng chuyển đổi nghề nghiệp.

Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH là một tất

yếu khách quan và ngày càng có vai trò quan trọng đói với sự tăng trƣởng và

phát triển bền vững. Thực tế đã chứng minh, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

động theo hƣớng CNH, HĐH của tỉnh thời gian qua đã đạt đƣợc những thành

tựu đáng kể, nhƣng tốc độ chuyển dịch còn chậm, chất lƣợng lao động còn

thấp, phân bố chƣa hợp lý giữa các ngành, các vùng,giữa các thành phần kinh

tế, đặc biệt tỷ trọng lao động nông nghiệp còn lớn với năng suất thấp đang là

nỗi lo đối với sự phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của tỉnh. Đã

đến lúc, những bất cập nói trên cần đƣợc giải quyết nhằm đẩy mạnh chuyển

dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH của tỉnh trong thời gian tới.

71

CHƢƠNG 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẨY MẠNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở TỈNH NGHỆ AN

3.1. PHƢƠNG HƢỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG

Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH gắn liền với cơ

sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng cơ sở kỹ thuật và công nghệ ngày

càng hiện đại; gắn liền với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trƣờng

thể chế của cả nƣớc và địa phƣơng; gắn liền với các ngành trong nền kinh tế

quốc dân nói chung và ở Nghệ An nói riêng. Để việc đẩy mạnh chuyển dịch

cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH diễn ra với nhịp độ nhanh, đúng

hƣớng và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, đòi hỏi việc chuyển dịch cơ cấu

lao động phải thấu suốt các phƣơng hƣớng sau đây:

3.1.1. Phát triển và chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng đảm

bảo khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về tự nhiên, con ngƣời, nguồn

vốn

Lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thế giới và trong nƣớc cho thấy nhịp

độ và hiệu quả của việc chuyển dịch cơ cấu lao động không thể tách rời việc

tối ƣu hoá chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Song để tối ƣu hoá việc chuyển dịch cơ

cấu kinh tế lại phải gắn với khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về tự nhiên,

con ngƣời, nguồn vốn. Nhƣ đã phân tích ở chƣơng 2, tiết 2.1, Nghệ An là một

tỉnh giàu tiềm năng, có nhiều yếu tố tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển một

nền nông nghiệp sinh thái, đa dạng; cho việc phát triển công nghiệp và du

lịch; cho việc phát triển các vùng kinh tế trù phú, cho việc hình thành khu

kinh tế mở và có khả năng giao lƣu với các nƣớc trong khu vực và thế giới.

72

Là một tỉnh có truyền thống cần cù, chịu khó, hiếu học, tính cộng đồng rất cao

nhƣng lại luôn là vùng nghèo khó bậc nhất cả nƣớc. Đây là điều mà cán bộ và

ngƣời dân Nghệ An luôn trăn trở. Phải chăng cái mà tỉnh Nghệ An còn thiếu

là cơ chế chính sách gắn với nó là một thể chế phù hợp để phát huy hết sức

mạnh về sức ngƣời sức của ở tất cả các thành phần kinh tế ? Sự nghiệp CNH,

HĐH đã và đang đòi hỏi Nghệ An cần có chính sách và cách ứng xử thích

hợp để khai thác sức ngƣời và các nguồn vốn đầu tƣ từ ngân sách Nhà nƣớc;

từ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngƣ nghiệp và chế

biến thủy sản; từ dân cƣ; từ vốn tín dụng và nguồn vốn đầu tƣ từ nƣớc ngoài.

Thực hiện theo phƣơng hƣớng nói trên tuy chƣa đủ, nhƣng rất cần thiết, nếu

biết khai thác, tận dụng tốt sẽ tăng quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao

động, nhằm mục tiêu đƣa Nghệ An thoát khỏi tỉnh nghèo và phấn đấu trở

thành tỉnh giàu của cả nƣớc trong thời gian không dài.

3.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng gắn với việc hình

thành và phát triển thị trƣờng sức lao động

Thị trƣờng sức lao động hiện nay có xu hƣớng dƣ thừa lao động thủ

công, lao động truyền thống, thiếu lao động chất xám, chứa đựng hàm lƣợng

tri thức cao. Nhƣ vậy để cơ cấu lao động phù hợp với nhu cầu lao động cần

phải có sự chuyển dịch lao động từ lao động thủ công sang lao động sử dụng

máy móc, lao động điều khiển; chuyển từ lao động ứng dụng sang lao động

sáng tạo. Sự chuyển đổi này đòi hỏi vừa nâng cao chất lƣợng giáo dục đào tạo

vừa đổi mới công nghệ. Thực tế ở tỉnh Nghệ An lao động dƣ thừa nhiều, đời

sống khó khăn, khả năng đầu tƣ cho giáo dục - đào tạo hạn chế, vì vậy phải có

bƣớc đi và cách làm thích hợp để thực hiện việc xã hội hóa giáo dục và đào

tạo, để có cung sức lao động phù hợp về số lƣợng và chất lƣợng trên thị

trƣờng sức lao động phù hợp với CNH, HĐH “rút ngắn” theo hƣớng tiếp cận

kinh tế tri thức. Mặt khác việc hình thành thị trƣờng sức lao động còn tạo điều

73

kiện thuận lợi cho cả ngƣời sử dụng sức lao động, đơn vị đào tạo và ngƣời lao

động nhận biết đƣợc cung - cầu sứ lao động để tìm cách thích ứng nhanh, kịp

thời, tránh đƣợc những lãng phí cả về vật chất (chi phí đào tạo) và tiềm năng

nguồn nhân lực.

Ở nƣớc ta do chậm trễ trong việc hình thành thị trƣờng sức lao động,

nên thời gian qua, nhiều nơi có nhu cầu sử dụng nhƣng không tuyển chọn

đƣợc lao động đáp ứng yêu cầu chuyên môn kỹ thuật. Trong khi đó, nhiều

ngƣời sau khi đƣợc đào tạo lại không biết tìm đâu ra việc. Đa số sinh viên đều

băn khoăn, lo lắng vì không biết làm cách nào để tìm đƣợc việc làm sau khi

tốt nghiệp. Điều này làm ảnh hƣởng không ít đến động cơ học tập của sinh

viên. Về phía ngƣời sử dụng lao động, phƣơng thức tuyển dụng chƣa đa dạng,

chậm thích ứng với thực tế, chủ yếu dựa vào các mối quan hệ cá nhân, thông

qua bạn bè giới thiệu. Phạm vi thông tin nhỏ hẹp - thậm chí nhiều khi còn

thiếu chính xác là một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên hiện tƣợng

dƣ thừa giả tạo. Thực hiện theo phƣơng hƣớng này trong thời gian tới, Nghệ

An sẽ góp phần hình thành đồng bộ các loại thị trƣờng trong đó. có thị trƣờng

sức lao động trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa mà đại

hội Đảng lần thứ IX đề ra.

3.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hƣớng tiến bộ của khoa

học - công nghệ, từng bƣớc tiếp cận kinh tế tri thức

Khoa học và công nghệ là yếu tố quan trọng và là động lực mạnh mẽ thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ảnh hƣởng không nhỏ đến chuyển dịch cơ cấu

lao động về chất lƣợng. Nó đòi hỏi cơ cấu lao động phải chuyển dịch theo hƣớng

tỷ trọng lao động trí tuệ (Lao động kỹ thuật,lao động quản lý...) tăng lên, tỷ trọng

lao động cơ bắp giảm dần trong tổng lao động xã hội. Hiện nay, khoa học và

công nghệ trên thế giới đã và đang diễn ra mạnh mẽ tác động sâu sắc, toàn diện

đến đời sống kinh tế thế giới. Trong khi đó, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động

74

nƣớc ta nói chung và tỉnh Nghệ An nói riêng còn ở một trình độ rất thấp về kỹ

thuật và công nghệ. Vấn đề đó đặt ra cho chúng ta là phải nhanh chóng tiếp cận

và ứng dụng khoa học - công nghệ vào các ngành kinh tế, tăng cƣờng đầu tƣ cho

giáo dục đào tạo, khai thác phân bố và sử dụng hợp lý nguồn lao động, nhất là

nguồn lao động có chất lƣợng cao.

Quá trình thực hiện phƣơng hƣớng này đòi hỏi việc phân công lại lao

động xã hội, chuyển dịch lao động từ nơi có năng suất lao động thấp sang nơi

có năng suất lao động cao hơn. Chuyển từ lao động nông nghiệp sang lao

động công nghiệp và dịch vụ, kết hợp phát triển nông - công nghiệp và dịch

vụ ngay tại nông thôn. Phấn đấu để đến năm 2010: Lao động nông nghiệp là

1102 nghìn ngƣời, chiếm tỷ trọng là 55,34%; công nghiệp và xây dựng là 340

ngàn ngƣời chiếm 17,07%; dịch vụ là 433 ngàn ngƣời chiếm 21,74% và

khoảng 5,8% lao động chƣa có việc làm. [35; 103]. Thực hiện phƣơng châm

vừa đa dạng hoá vừa chuyên môn hoá lao dộng, vừa giải quyết lao động tại chổ

trong nội bộ ngành nông nghiệp vừa chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang

các ngành khác, khu vực khác. Giải quyết tốt khoảng cách giữa lao động trí tuệ

và lao động chân tay. Bằng cách đó khắc phục sự tách biệt quá xa giữa thành

thị với nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, nhất là vùng núi Tây Bắc và

vùng núi Tây Nam; giải quyết tốt lao động việc làm tại chỗ, tăng thu nhập nâng

cao đời sống cho nông dân, góp phần xây dựng nông thôn mới văn minh, giàu

đẹp.

3.1.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng nâng cao sức cạnh

tranh, tham gia vào quá trình phân công lao động và chủ động hội nhập

kinh tế khu vực và quốc tế

Trƣớc đây Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng có lợi thế là

nguồn nhân công rẻ so với thế giới nhƣng hiện nay lợi thế đó đang mất dần.

Bởi vì, lao động ở Nghệ An tuy rẻ nhƣng trình độ tay nghề thấp, phần lớn lao

75

động thủ công, năng suất thấp. Sự cần cù khéo léo của con ngƣời không thể

cạnh tranh đƣợc với lao động trí tuệ và máy móc tinh vi hiện đại trƣớc xu

hƣớng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Đây là một thách đố

trong quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng tham gia

vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Vì vậy, muốn chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hƣớng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế

đòi hỏi phải nâng cao sức cạnh tranh, cơ cấu lại các ngành nghề đào tạo cho

phù hợp với cơ cấu kỹ thuật - công nghệ hiện đại, thích ứng ngày càng tốt hơn

nhu cầu sử dụng sức lao động có hàm lƣợng trí tuệ trên thị trƣờng sức lao

động. Phát triển mạnh đào tạo nghề bằng nhiều hình thức (công lập, bán công,

dân lập...), nhiều trình độ để nâng số lao động đƣợc đào tạo nghề lên 30% vào

năm 2005 và cao hơn nhiều vào năm 2010. Chú trọng đào tạo lao động có

chất lƣợng cao để phục vụ nhu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp và

xuất khẩu lao động. Thực hiện phân luồng 8 - 10% học sinh tốt nghiệp trung

học cơ sở và 15 - 20% tốt nghiệp trung học phổ thông vào học nghề, áp dụng

mô hình dạy nghề theo 2 cấp: Đào tạo thợ và đào tạo tiếp cho những ngƣời

thợ học giỏi trở thành ngƣời chủ sản xuất độc lập.

3.1.5. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng xây dựng nền kinh

tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa

Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi sức lao

động đƣợc coi là hàng hoá thực sự, có mua bán với giá cả do giá trị sức lao

động và cung cầu sức lao động trên thị trƣờng xác định. Nhƣng điều đó không

có nghĩa là mặc cho thị trƣờng tự điều tiết mà không có sự can thiệp của Nhà

nƣớc. Một mặt Nhà nƣớc phải tạo ra cơ sở pháp lý, tâm lý lành mạnh để lao

động đƣợc tự do di chuyển, đƣợc đánh giá đúng giá trị của nó, mặt khác Nhà

nƣớc phải tổ chức cho ngƣời lao động có việc làm, có thu nhập, đảm bảo cuộc

sống ổn định. Đây là 2 mặt của một vấn đề luôn có mâu thuẫn nảy sinh. Trong

76

chuyển dịch cơ cấu lao động cả nƣớc nói chung và Nghệ An nói riêng không

thể để diễn ra một cách tự phát mà Nhà nƣớc các cấp phải hỗ trợ, điều phối để

lao động đƣợc phân công một cách tƣơng đối hợp lý giữa các ngành, các vùng

và các thành phần kinh tế. Ví dụ nếu để tự phát chuyển dịch sẽ có hiện tƣợng

chạy theo những ngành nghề mới có thu nhập cao trƣớc mắt mà không hình

dung đƣợc sau một chu kỳ cung sẽ vƣợt cầu sức lao động, thất nghiệp là khó

tránh khỏi.

Với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị

trƣờng cơ sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa- kinh tế

thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa - đòi hỏi cơ chế phân phối ngoài cơ

chế phân phối theo kiểu kinh tế thị trƣờng, còn phải có và lấy cơ chế phân

phối theo kiểu chủ nghĩa xã hội làm chủ đạo. Bằng cách đó, thực hiện chính

sách xã hội công bằng, hợp lý để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao

động theo hƣớng giảm lao động nông nghiệp xuống tƣơng đối và tuyệt đối

còn lao động công nghiệp và dịch vụ tăng lên cả tƣơng đối và tuyệt đối trong

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

3.2.1. Đẩy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và thành

phần kinh tế

3.2.1.1. Về cơ cấu ngành

Trong quy hoạch phát triển kinh tế -xã hội thời kỳ (2001-2010), nhịp độ

tăng trƣởng và cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Nghệ An dự báo nhƣ sau:

Bảng 3.1: Nhịp độ tăng trƣởng và cơ cấu ngành kinh tế

thời kỳ (2001 - 2010) [35]

Nhịp độ tăng trƣởng (%)

Cơ cấu ngành kinh tế (%)

Phương án 1

Phương án 2 Phương án 1 Phương án2

Tổng số

13,5

11,4

100

100

77

17,0

35,1

31,3

CN và XD

19,5

5,5

16,9

21,7

5,5

Nông nghiệp

12,3

48,0

47,0

Dịch vụ

14,5

Để thực hiện tốt dự báo trên trong thời gian tới cần tập trung giải quyết

tốt các vấn đề sau:

- Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông -

lâm - ngƣ nghiệp theo hƣớng đa canh, đa dạng hoá vật nuôi cây trồng. Hình

thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn, trên cơ sở điện khí hoá, cơ giới hoá

nông nghiệp, nông thôn, đƣa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất

nông nghiệp góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lƣợng và sức

cạnh tranh của sản phẩm.

- Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công và dịch vụ với phƣơng châm đƣa

công nghiệp gắn với các vùng nguyên liệu, với thị trƣờng, tạo sự liên kết gắn

bó giữa công nghiệp với nông nghiệp và thu hút lao động dƣ thừa. Trƣớc mắt

cần tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến sử dụng nguyên liệu tại

chỗ nhƣ mía đƣờng, cà phê, chè, dứa, cam, chế biến thuỷ sản, chế biến gỗ và

lâm sản; các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động nhƣ sản xuất vật liệu

xây dựng, thủ công mỹ nghệ, cơ điện, dệt may... khôi phục các làng nghề

truyền thống, phát triển các làng nghề mới.

- Phát triển nhanh và có hiệu quả các ngành sản xuất vật chất và dịch

vụ trong một cơ cấu: công - nông nghiệp - dịch vụ, vừa khai thác nguồn lợi và

lợi thế của tiểu vùng trong tỉnh vừa tham gia vào sự phân công hợp tác với

khu vực miền Trung, với cả nƣớc và quốc tế. Hiện nay, tổng sản phẩm xã hội

và thu nhập bình quân đầu ngƣời ở tỉnh Nghệ An còn rất thấp, trong khi đó

nhiều tiềm năng về đất đai, con ngƣời chƣa khai thác và sử dụng hợp lý, tỉ lệ

thất nghiệp còn cao cho nên phải chú trọng phát triển các ngành sản xuất vật

chất để tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội và tăng thu nhập quốc dân, phục vụ

78

cho sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu, tạo ra nhiều việc làm cho ngƣời lao

động. Cần có sự gắn bó hữu cơ trong phát triển công nghiệp và nông nghiệp.

Phát triển mạnh công nghiệp hàng tiêu dùng với các biện pháp cụ thể: Tận

dụng khả năng của tất cả các thành phần kinh tế, với những hình thức tổ chức,

quy mô thích hợp tạo nguồn nguyên liệu và kỹ thuật ổn định, bằng cách phát

triển các khu công nghiệp của tỉnh và nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị máy

móc mà tỉnh cần; đổi mới thiết bị công nghệ là điều kiện cần thiết để nâng cao

sức cạnh tranh của hàng hoá; mở rộng liên doanh, liên kết với các vùng trong

nƣớc và nƣớc ngoài.

- Phát triển kết cấu hạ tầng nhƣ điện, nƣớc, thông tin liên lạc. Có kế

hoạch khắc phục thiên tai, hạn hán, lũ lụt gây nên, phát triển và nâng cấp các

cơ sở giáo dục, đào tạo, văn hoá, xã hội và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.

3.2.1.2. Về cơ cấu vùng kinh tế

Sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo lãnh thổ, các vùng phát triển

chuyên môn hoá theo ngành và trong điều kiện kinh tế thị trƣờng đòi hỏi phải

có sự trao đổi liên vùng, vì chính sự trao đổi đã đƣợc quy định bởi quan hệ

phụ thuộc lẫn nhau giữa các ngành sản xuất, giữa các vùng và các thành phần

kinh tế khác nhau trong nền kinh tế quốc dân.

* Trong những năm tới, cần làm tốt các vấn đề sau:

- Cần quy hoạch các vùng chuyên canh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu

cây trồng vật nuôi cho phù hợp với lợi thế của từng vùng, từng địa phƣơng.

- Coi trọng đầu tƣ cả chiều rộng lẫn chiều sâu để tạo sự chuyển biến

tích cực về - Phát triển các ngành dịch vụ thƣơng nghiệp, khách sạn nhà hàng,

vận tải, bƣu điện, bảo hiểm, du lịch.và các dịch vụ khác.

- Chuyển dịch cơ cấu lao động, trƣớc hết xây dựng vùng kinh tế trọng

điểm, kinh tế tập trung sản xuất nguyên liệu và nông sản xuất khẩu, phù hợp

với đặc điểm kinh tế - xã hội và lợi thế của từng vùng trong tỉnh.

79

- Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế cho phù hợp

với chiến lƣợc của cả nƣớc. Phát huy thế mạnh của từng vùng, từng địa

phƣơng, khai thác các nguồn lực tại chỗ, đồng thời chủ động mở rộng quan hệ

phân công hợp tác, liên kết với các vùng trong tỉnh, trong cả nƣớc, khu vực và

quốc tế.

- Xác định chính sách đầu tƣ phát triển đô thị và hai trung tâm lớn nhất

của tỉnh là thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò. Cần lựa chọn những nơi có vị trí

thích hợp để xây dựng thành các trung tâm kinh tế, văn hoá của từng vùng.

- Trong thời gian sắp tới, cần có kế hoạch để khai thác các thế mạnh

của các vùng miền núi (Tây Bắc và vùng núi Tây Nam), vùng đồng bằng ven

biển nhằm tạo ra sự chuyển biến rõ nét ở một số vùng. Cần có chính sách và

biện pháp riêng đối với vùng miền núi, vùng đồng bằng ven biển, xúc tiến các

chƣơng trình, các giải pháp thích hợp, thiết thực để hỗ trợ những vùng nghèo,

vùng có nhiều khó khăn vƣơn lên nhanh. Nền kinh tế của cả nƣớc hay của

tỉnh bao gồm nhiều ngành, thuộc ba ngành cơ bản: công - nông nghiệp và

dịch vụ có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, ràng buộc lẫn nhau trong sự phát

triển. Vì thế việc chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải thực hiện trên cơ sở lợi thế của vùng.

- Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động tổng thể trên từng vùng hình

thành cơ cấu lao động hợp lý về nông - lâm - ngƣ nghiệp - công nghiệp phù

hợp với sinh thái vùng, bảo vệ tài nguyên, gắn phát triển sản xuất nông - lâm -

ngƣ nghiệp và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp

chế biến bằng các công nghệ thích hợp. Gắn với việc xây dựng các điểm kinh

tế kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn.

3.2.1.3. Về cơ cấu thành phần kinh tế

Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất, kinh

doanh là nhằm mục đích huy động khai thác và sử dụng hợp lý và có hiệu quả

80

sức mạnh tổng hợp vật chất, sức lao động và các nguồn lợi khác của tỉnh, góp

phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH, kinh tế thị

trƣờng mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Hiện nay trên địa bàn

tỉnh Nghệ An đồng thời tồn tại các thành phần kinh tế Nhà nƣớc, kinh tế tập

thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tƣ nhân. Những năm gần đây, trong khi khả

năng tạo việc làm và duy trì việc làm của kinh tế nhà nƣớc, kinh tế tập thể ngày

càng giảm thì kinh tế tƣ nhân và kinh tế hộ gia đình tỏ ra có nhiều ƣu việt trong

việc tạo việc làm và tăng thu nhập cho ngƣời lao động. Có thể nói, chính các

thành phần kinh tế đã trở thành nhân tố tích cực để thu hút số lao động dƣ

thừa, qua đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa và hội nhập kinh tế. Để nhịp độ chuyển dịch

cơ cấu thành phần kinh tế phát triển nhanh, Nhà nƣớc cần quan tâm giải quyết

các vấn đề sau:

- Thay đổi nhận thức của ngƣời lao động: Trƣớc đây, coi việc làm ổn

định chỉ có vào biên chế nhà nƣớc, nay cần chuyển đổi để chuyển sang nhận

thức, quan niệm mới về lao động, việc làm và chủ động tự tạo việc làm cho

mình và cho xã hội, không thụ động trông chờ vào sự bố trí việc làm của Nhà

nƣớc địa phƣơng, đó là một mặt. Mặt khác,Nhà nƣớc sớm tạo ra hành lang

pháp lý và điều kiện kinh tế, kỹ thuật để có môi trƣờng đầu tƣ lành mạnh của

toàn xã hội; khuyến khích mọi ngƣời đầu tƣ phát triển sản xuất - kinh doanh,

tạo việc làm cho mình và thu hút lao động xã hội. Ngƣời lao động đƣợc tự do

hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, tự do thuê mƣớn lao động theo pháp

luật và sự hƣớng dẫn của Nhà nƣớc; mọi hoạt động có ích đem lại thu nhập

mà không bị pháp luật cấm đều đƣợc coi là việc làm.

- Tạo điều kiện để cho kinh tế tƣ nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế

hộ, kinh tế tập thể phát triển theo tinh thần Nghị quyết TW 3 và TW 5 khoá

IX, vì nó sẽ là khu vực kinh tế thu hút nhiều lao động xã hội, sử dụng tối ƣu

81

các nguồn lực phù hợp với từng trình độ phát triển của lực lƣợng sản xuất trên

các vùng lãnh thổ. Phát triển các thành phần kinh tế này thu hút đƣợc nhiều

loại lao động khác nhau, từ những ngƣời lao động có tay nghề cao đến những

ngƣời lao động có tay nghề hoặc trình độ văn hoá thấp, đặc biệt là lao động

phổ thông chƣa có nghề nghiệp.

Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu lao động một cách đồng bộ trên cả ba bộ

phận cấu thành (cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, và cơ cấu thành phần kinh tế)

theo hƣớng CNH, HĐH là con đƣờng cơ bản để tiến hành chuyển dịch cơ cấu

lao động, xã hội hoá nền sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề nhằm sử dụng lao

động dƣ thừa, tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân. Chuyển mạnh cơ

cấu kinh tế sớm hình thành những vùng hàng hoá tập trung, những sản phẩm

mũi nhọn có chất lƣợng, nâng sức canh tranh và góp phần hội nhập kinh tế

khu vực và quốc tế của tỉnh trong thời gian tới.

3.2.2. Đẩy mạnh phân công lao động theo hƣớng chuyên môn hoá

kết hợp với đa dạng hoá

Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu lao động, cần phải mở rộng phân công lao động xã hội,

phân bố lại lao động và dân cƣ trong phạm vi cả tỉnh cũng nhƣ từng địa

phƣơng, từng vùng theo hƣớng chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm khai thác

mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất

- kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho ngƣời lao động. Cùng với mở rộng phân

công lao động xã hội trong tỉnh, phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với

ngoại tỉnh, nƣớc ngoài nhằm gắn phân công lao động trong tỉnh với phân công

lao động ngoại tỉnh và quốc tế.

Hệ thống phân công lao động “mở” là sự kết hợp có lợi nhất cho hai

loại định hƣớng: Phát triển lao động thay thế nhập khẩu và lao động hƣớng về

xuất khẩu. Loại lao động nào làm trong tỉnh có lợi hơn (cả về kinh tế - xã hội)

82

so với thu hút ở bên ngoài tỉnh thì cần phát triển nhanh để thoả mãn nhu cầu

trong tỉnh, loại lao động nào có lợi thế so sánh trong cạnh tranh bên ngoài thì

phải ra sức khai thác bằng sức mình và qua liên kết để phát triển và giành lấy

lợi thế so sánh trên thị trƣờng bên ngoài. Do yêu cầu phát triển liên tỉnh, quá

trình chuyển dịch cơ cấu lao động không thể không hƣớng về chiến lƣợc xuất

khẩu lao động và chuyên môn hoá để giải quyết việc làm, góp phần tăng thu

nhập và cải thiện đời sống cho ngƣời lao động.

3.2.3. Tăng cƣờng đầu tƣ cho giáo dục đào tạo và khoa học công

nghệ để từng bƣớc đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao

Thực tế của những năm đổi mới cho thấy tạo việc làm và tăng thu nhập

thƣờng phát triển ở những ngành, nghề, vùng có điều kiện thuận lợi về môi

trƣờng sản xuất kinh doanh. Song do trình độ dân trí giữa các ngành,vùng

không đồng đều, trình độ tay nghề của lao động còn thấp, năng lực quản lý

của cán bộ còn yếu, nên chất lƣợng hàng hóa còn thấp, chi phí cao, khả năng

cạnh tranh trên thị trƣờng kém. Vì vậy tăng cƣờng đầu tƣ cho giáo dục và

khoa học - công nghệ để từng bƣớc đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn

cao trong các ngành, vùng ở Nghệ An là vấn đề cấp thiết. Nó đòi hỏi đồng

thời với việc đẩy mạnh các quá trình phân bố, sử dụng nguồn lao động nhằm

tăng nhanh số chỗ làm việc - phần cầu của sức lao động, cần phải chủ động

tác động vào phần cung của sức lao động để tạo ra sự phù hợp giữa cung và

cầu sức lao động.

Trong điều kiện hiện nay với sự phát triển nhƣ vũ bão của cách mạng

khoa học - công nghệ, khoa học trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp thì việc

đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao là đòi hỏi khách quan, là yêu cầu

chung của sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc nói chung và Nghệ An

nói riêng. Vì vậy trong thời gian tới cần mở rộng các trƣờng dạy nghề cho

ngƣời lao động trên cơ sở quy hoạch phát triển vùng kinh tế và ngành nghề

83

mới ở địa phƣơng là yêu cầu bức xúc đang đặt ra. Nâng dần tỷ trọng chi ngân

sách cho giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ. Sử dụng hợp lý nguồn

ngân sách đáp ứng yêu cầu của công tác đào tạo đội ngũ lao động có chuyên

môn cao cho nền kinh tế xã hội trong giai đoạn mới. Nguồn chi ngân sách

Nhà nƣớc cho giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ phải đƣợc thể hiện

trong kế hoạch Nhà nƣớc hàng năm một cách công khai và phải đƣợc ƣu tiên

trong việc cấp phát kinh phí, bảo đảm nhanh chóng, thuận tiện, hiệu quả.

Cùng với nguồn chi trong ngân sách Nhà nƣớc, cần tích cực huy động các

nguồn lực khác theo hƣơng xã hội hóa giáo dục và đào tạo; sớm có quy định

và công khai hoá mức độ đóng góp chi phí cho giáo dục đào tạo từ các doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế - từ các cơ sở sử dụng sức lao động.

Nâng nhận thức cho cán bộ, đảng viên và công dân thấy rõ đầu tƣ cho

giáo dục là đầu tƣ cho việc phát triển. Có tác dụng to lớn đối với việc nâng

cao trình độ văn hoá khoa học kỹ thuật và chuyên môn - điều kiện tốt nhất -

để ngƣời lao động có cơ hội việc làm, và là động lực để thực hiện việc chuyển

dịch cơ cấu lao động, nâng cao năng suất lao động trong toàn xã hội.

Tỉnh cần có chính sách thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế,

các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội tích cực tham gia hỗ trợ vật chất và

tinh thần vào việc đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao. Đồng thời

chú ý đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế giỏi, các giám đốc năng động với

cơ chế mới, các kỹ sƣ giỏi trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến. Mặt khác

khuyến khích thiết lập quỹ hỗ trợ tài năng trẻ cho học sinh, sinh viên xuất sắc,

những ngƣời lao động giỏi. Mở rộng chính sách hỗ trợ học bổng cho con em

gia đình nghèo, gia đình chính sách có lao động, xây dựng quê hƣơng khi ra

trƣờng.

Mở rộng các hình thức đào tạo nghề nghiệp phù hợp với định hƣớng

phát triển kinh tế của tỉnh. Có chính sách hợp lý để khuyến khí ch các chuyên

84

gia đầu ngành truyền nghề cho các thế hệ lao động trẻ. Tăng cƣờng liên kết,

hợp tác đào tạo nguồn lao động trong và ngoài nƣớc. Có chính sách khuyến

khích mời các nhà tài trợ, đầu tƣ đào tạo nghề cho đội ngũ lao động của tỉnh

thông qua việc mở lớp, mở trƣờng dạy nghề. Sắp xếp các loại hình trƣờng đào

tạo nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá. Nội dung, chƣơng trình đào tạo phải linh hoạt phù hợp với từng vùng,

từng địa phƣơng. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật. Coi

trọng hệ thống đào tạo chính quy, nâng cao chất lƣợng đào tạo nghề. Chú ý

xây dựng cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên có đủ điều kiện để đảm nhận

công tác đào tạo nghề nghiệp cho nguồn lao động xã hội.

Phấn đấu đƣa tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ 20,91%

năm 2002 lên 30,03% vào năm 2004 và cao hơn trong những năm tiếp theo,

trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề lên 16,5%.(4,5% dài hạn và 12% ngắn

hạn), 100% lao động nông nghiệp có độ tuổi dƣới 50 đều đƣợc học về kỹ thuật

nông nghiệp, tỷ lệ đào tạo giữa đại học, trung học và dạy nghề là 1 - 4 - 10

(1đại học, 4 trung học, 10 công nhân kỹ thuật).

3.2.4. Phát triển thị trƣờng sức lao động

Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đã thúc đẩy sự hình thành và

phát triển thị trƣờng sức lao động. Trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH,

xây dựng KTTT, mở cửa và hội nhập kinh tế, thị trƣờng sức lao động đòi hỏi

cần đƣợc mở rộng và nâng cao chất lƣợng. Cụ thể:

3.2.4.1. Đối với thị trường sức lao động trong tỉnh

- Đầu tƣ phát triển, mở mang sản xuất kinh doanh trong các ngành và

các thành phần kinh tế trên cơ sở sử dụng có hiệu quả thế mạnh tiềm năng

kinh tế của từng vùng, tạo việc làm tại chỗ cho lao động là hƣớng chủ yếu.

85

- Vùng miền núi của tỉnh, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chƣơng trình

định canh định cƣ, di dân, giãn dân; phát triển kinh tế trang trại để thu hút lao

động và việc làm.

- Vùng đồng bằng ven biển, bên cạnh việc bố trí lao động thực hiện

chƣơng trình phát triển nông nghiệp, ngƣ nghiệp; khuyến khích phát triển

ngành nghề, xây dựng làng nghề, chú trọng khai thác lợi thế mở rộng diện

tích nuôi trồng thuỷ sản...

- Vùng đô thị, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cơ sở, tổ hợp

sản xuất trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ.

- Nâng cao hiệu quả dịch vụ tƣ vấn giới thiệu việc làm để cung ứng lao

động của tỉnh cho các đối tác cần tuyển, giảm số lao động các tỉnh khác đến

làm việc trên địa bàn.

3.2.4.2. Đối với thị trường lao động trong nước

- Để góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn, vấn

đề khai thác thị trƣờng lao động trong nƣớc cần đƣợc quan tâm hơn; các trung

tâm dịch vụ việc làm, bên cạnh việc mở rộng quan hệ khai thác, ký kết hợp

đồng, phải nắm bắt chặt chẽ yêu cầu chất lƣợng của phía đối tác để có kế

hoạch đào tạo dạy nghề cho lao động, đảm bảo yêu cầu của cung. Dự kiến số

lao động đi làm việc ở các tỉnh năm 2002 là 5.000 ngƣời, năm 2005 nâng lên

6.000 - 6.500 ngƣời.

- Mặt khác, khuyến khích và có chính sách hỗ trợ để các tổ chức kinh

tế, các cá nhân ký kết các hợp đồng kinh tế, nhận thầu các công trình... để tổ

chức đƣa lao động của tỉnh đến các tỉnh thực hiện hợp đồng.

3.2.4.3. Đối với thị trường lao động nước ngoài

Đƣa lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nƣớc ngoài là

một chủ trƣơng lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta, mang lại lợi ích nhiều mặt cho

bản thân ngƣời lao động và cho xã hội, phối hợp với xu thế phát triển chung

86

trên thế giới và khu vực. Trong những năm qua, bằng nhiều con đƣờng khác

nhau, một số doanh nghiệp, trung tâm dịch vụ việc làm và cá nhân trong tỉnh

đã khai thác hợp đồng xuất khẩu lao động, bình quân hàng năm của thời kỳ

1996 - 2002 toàn tỉnh đã đƣa đƣợc từ 1.000 - 1.500 lao động đi làm việc ở

nƣớc ngoài. Tuy nhiên, số lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài của tỉnh Nghệ

An còn ít. Nguyên nhân của tình hình trên là:

Về khách quan, hệ thống cơ chế, chính sách của Nhà nƣớc trong vấn đề

xuất khẩu lao động thiếu đồng bộ; nhận thức về xuất khẩu lao động mang

nặng tƣ duy của thời bao cấp.

Về chủ quan, đã có một số doanh nghiệp trên địa bàn thực hiện nhiệm

vụ trực tiếp xuất khẩu lao động nhƣng hoạt động kém hiệu quả; số xuất khẩu

trong thời gian qua là do các trung tâm dịch vụ việc làm và cá nhân làm dịch

vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động ở các bộ, ngành trung ƣơng. Mặt

khác, công tác đào tạo, chuẩn bị nguồn lao động để phù hợp với yêu cầu thị

trƣờng sức lao động của các nƣớc chƣa đƣợc chú trọng. Một số lao động của

tỉnh sau khi sang các nƣớc bạn làm việc đã vi phạm hợp đồng, nhất là tình

trạng bỏ làm việc ở nơi đã đăng ký hợp đồng sang làm việc ở nơi khác làm

cho phía đối tác mất niềm tin, ảnh hƣởng đến việc ký kết hợp đồng cung ứng

mới. Chƣa có quy định thống nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời lao

động trong vay vốn để xuất khẩu lao động.

- Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần có chính sách khuyến khích và

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhiệm vụ xuất khẩu lao động, các trung

tâm dịch vụ việc làm, các tổ chức kinh tế xã hội trên địa bàn phối hợp chặt

chẽ với chính quyền xã, phƣờng, các cơ sở dạy nghề để chuẩn bị nguồn lao

động; mở rộng liên doanh liên kết, quan hệ tốt với các doanh nghiệp trực tiếp

xuất khẩu lao động để khai thác, ký kết đƣợc nhiều hợp đồng cung ứng lao

động nƣớc ngoài.

87

- Các trƣờng dạy nghề và các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm

trên địa bàn phối hợp với các công ty và các trung tâm dịch vụ việc làm trong

việc tuyển chọn, đào tạo lao động xuất khẩu. Tổ chức đào tạo nghề, dạy tiếng

nƣớc ngoài, chuẩn bị tốt nguồn cung của lao động xuất khẩu phù hợp với yêu

cầu thị trƣờng lao động các nƣớc. Nắm vững thông tin thị trƣờng lao động,

kịp thời xử lý các vấn đề liên quan đến khai thác, kí kết hợp đồng.

- Thực hiện chế độ tín dụng cho vay xuất khẩu lao động theo hƣớng

ngƣời lao động và gia đình có ngƣời đi xuất khẩu lao động vay, trung tâm

dịch vụ việc làm và chính quyền xã, phƣờng bảo lãnh và trả nợ ngân hàng qua

việc khấu trừ vào lƣơng hàng tháng mà ngƣời đi lao động nƣớc ngoài chuyển

về.

- Tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc trong công tác xuất khẩu lao động,

nhằm đảm bảo trật tự kỷ cƣơng và tạo điều kiện, môi trƣờng thuận lợi thực

hiện có hiệu quả mục tiêu xuất khẩu lao động.

3.2.5. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách có liên quan đến

chuyển dịch cơ cấu lao dộng theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3.2.5.1. Hệ thống luật pháp

Để cơ cấu tỉnh Nghệ An chuyển dịch nhanh, trƣớc hết cần phải hoàn

thiện hệ thống pháp luật, trong đó cần tập trung vào:

Luật lao động, điều kiện pháp lý cần thiết cho việc thúc đẩy chuyển

dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Nghệ An là Bộ luật Lao động do Quốc hội ban

hành và có hiệu lực từ ngày 01-1-1995.và các văn bản nhƣ: Chế độ bảo hiểm

xã hội, chế độ tiền lƣơng; Luật Công đoàn; Pháp lệnh hợp đồng lao động;

Quy chế lao động trong các doanh nghiệp. Quá trình thực hiện Bộ luật Lao

động và các văn bản nói trên cần quán triệt những vấn đề cơ bản sau:

88

- Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho ngƣời lao động. Tạo thế bình đẳng

trong quan hệ lao động về mặt pháp lý giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời

lao động

- Xây dựng mối quan hệ lao động mới phù hợp với yêu cầu đổi mới về

cơ chế quản lý. Việc thực hiện Luật lao động phải thể hiện sự bình đẳng và

quyền lợi của mỗi bên đƣợc tôn trọng trên cơ sở thoả thuận hợp pháp. Ngƣời

lao động đƣợc tạo điều kiện có khả năng tham gia quản lý doanh nghiệp và

ngƣời sử dụng lao động quản lý và điều hành doanh nghiệp theo cách thức

tiên tiến, dân chủ, quan tâm và phát huy tính sáng tạo của ngƣời lao động.

- Nhà nƣớc tăng cƣờng quản lý lao động thông qua chính sách phát

triển nguồn nhân lực, phát triển các hình thức đào tạo, dạy nghề gắn với vấn

đề tạo việc làm, các chính sách làm chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với

cơ cấu kinh tế.

Luật đầu tư nước ngoài: Để thu hút các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài đến đầu

tƣ, lập cơ sở kinh doanh ở Nghệ An đòi hỏi phải có môi trƣờng pháp lý cho

hoạt động đầu tƣ. Trong điều kiện đó các nhà đầu tƣ sẽ an tâm đầu tƣ vào phát

triển sản xuất, trên cơ sở sản xuất đƣợc mở rộng, nhu cầu tuyển dụng lao động

tăng lên, thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm. Ở

Việt Nam, tuy có luật đầu tƣ nƣớc ngoài song hệ thống luật chƣa hoàn chỉnh

còn đơn giản, chƣa bao quát hết các hình thái hoạt động phong phú của các

doanh nghiệp, còn gây trở ngại về mặt thủ tục hành chính và quản lý Nhà

nƣớc cho các doanh nghiệp nƣớc ngoài dẫn đến tình trạng trì trệ trong việc

cấp giấy phép kinh doanh.Những khiếm khuyết này của hệ thống luật cần

đƣợc khắc phục, tạo điều kiện cho hoạt động kinh tế phát triển. Đặc biệt là để

khai thác nguồn vốn, tranh thủ đƣợc công nghệ của nƣớc ngoài trên địa bàn

tỉnh, Nghệ An cần có cơ chế vận dụng Luật đầu tƣ nƣớc ngoài sao cho hấp

89

dẫn và thích hợp với địa phƣơng để thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, tạo điều

kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động trong thời gian tới.

3.2.5.2. Chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, thu hút lao động,

xuất khẩu lao động

Trong hệ thống chính sách tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu lao

động thì chính sách tiền lƣơng, bảo hiểm xã hội, thu hút lao động, xuất khẩu

lao động có vai trò quan trọng đặc biệt.

Về chính sách tiền lương: Tiền lƣơng là một công cụ quan trọng góp

phần nâng cao tính tích cực của ngƣời lao động. Vì vậy đổi mới nhận thức và

chính sách về tiền lƣơng trong nền kinh tế thị trƣờng sẽ có ý nghĩa rất lớn

trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động. Trong bối cảnh đó, cần phải

xây dựng một khung chính sách tiền lƣơng vừa tính đến nguyên tắc của thị

trƣờng, vừa quán triệt nguyên tắc theo định hƣớng XCHCN. Tăng cƣờng tính

linh hoạt của tiền lƣơng và phân biệt rõ tiền lƣơng với các chính sách xã hội.

Trên thị trƣờng sức lao động Nghệ An, quan hệ cung cầu về lao động hiện

đang có sự mất cân đối khá lớn, cần quán triệt nguyên tắc trả công theo hƣớng

lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật sẽ đƣợc trả công cao hơn và ngƣợc

lại lao động giản đơn sẽ đƣợc trả thấp hơn vì trong cùng một đơn vị thời gian

lao động này tạo ra giá trị nhiều hơn so với lao động giản đơn và còn do tình

hình cung cầu sức lao động.. Từ tình hình thực tế đó, vấn đề đặt ra là phải xây

dựng quy chế tiền lƣơng vừa phù hợp với nguyên tắc của thị trƣờng và định

hƣớng XHCN, vừa đảm bảo quyền lợi cho ngƣời lao động. Vì vậy, Nhà nƣớc

một mặt mức lƣơng tối thiểu phải đƣợc thay đổi phù hợp với sự thay đổi về

chỉ số giá cả hàng tiêu dùng và có hệ số điều chỉnh theo từng vùng. Mặt khác,

cần có chính sách thích hợp đối với khu vực doanh nghiệp và đối với khu vực

hành chính sự nghiệp theo hƣớng sao cho chính sách tiền lƣơng thực sự là

đòn bẩy kích thích ngƣời lao động.

90

* Về chính sách bảo hiểm xã hội:

Nghệ An nói riêng và cả nƣớc nói chung cần mở rộng hơn nữa diện bảo

hiểm của hệ thống bảo hiểm xã hội cho ngƣời lao động, nhất là ở các vùng có

nhiều lao động nông nghiệp và không có có chế độ tiền lƣơng. Ở Nghệ An,

phần lớn lao động hiện đang còn ở nông thôn và đa số ngƣời lao động chƣa có

đầy đủ các điều kiện hƣởng các chế độ trợ cấp, điều đó đã ảnh hƣởng đến việc

chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì vậy, việc mở rộng từng bƣớc diện của bảo

hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Trên cơ sở của Bộ luật Lao động, Chính phủ

đã ban hành điều lệ bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26-1-

1995, cần vận dụng nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản có tác

dụng nhiều mặt trong việc bảo đảm an toàn xã hội, một vấn đề có ý nghĩa

kinh tế - xã hội rất quan trọng.

Tuy nhiên bên cạnh việc mở rộng từng bƣớc diện của bảo hiểm xã hội

nói trên, Nghệ An cần quan tâm đến chính sách bảo hiểm xã hội cho ngƣời

thất nghiệp. (Nghệ An là một tỉnh lao động chủ yếu thuần nông, tỷ lệ thất

nghiệp ở đô thị còn ở mức cao 5,69%), trợ cấp đối với việc làm có lƣơng

thấp. Các biện pháp này có một vai trò quan trọng trong việc làm giảm những

bất bình đẳng trên thị trƣờng sức lao động và phòng tránh nghèo nàn, thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH.

* Về chính sách khuyến khích lợi ích vật chất đối với người lao động

làm việc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn

Nghệ An là tỉnh có vùng núi rộng lớn, có tài nguyên sinh thái và

khoáng sản tập trung. Mặt khác, vùng núi Nghệ An có tầm quan trọng đặc

biệt về quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử, do điều kiện

thực tế, vùng miền núi Nghệ An còn phát triển chậm hơn so với vùng đồng

bằng và miền biển, đặc biệt là vùng núi cao, biên giới. Trong tƣơng lai những

91

khó khăn của vùng miền núi chƣa phải đã khắc phục ngay đƣợc. Đặc biệt là

việc chuyển dịch cơ cấu lao động.

Những năm gần đây, địa phƣơng đã có nhiều chính sách ƣu đãi đối với

ngƣời lao động đi làm việc ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó

khăn nhƣ tăng lƣơng, phụ cấp, lƣơng hƣởng 100% trong thời gian tập sự,

trong thời gian nghỉ phép lên gấp đôi, cùng nhiều chế độ ƣu đãi khác. Mặc dù

vậy, các chính sách ƣu đãi chƣa đủ sức hấp dẫn mạnh mẽ, nhiều ngƣời lao

động còn băn khoăn về khả năng phát triển nghề nghiệp và vị trí xã hội khi

đến làm việc tại vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Phải thừa nhận

rằng, hiện vẫn còn sự chênh lệch khá lớn và về chất lƣợng cuộc sống giữa lao

động thành phố với lao động của vùng sâu vùng xa. Những ngƣời lao động có

trình độ chuyên môn kỹ thuật đến công tác ở vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt

khó khăn ít có điều kiện để tiếp tục học tập do thiếu thông tin, sách báo và cả

môi trƣờng tâm lý - xã hội thuận lợi cho việc học tập. Hơn nữa, sau một thời

gian làm việc ở nơi đây, khi họ muốn quay trở về thành phố để làm việc hoặc

tiếp tục học tập nâng cao trình độ cũng rất khó khăn.

Để thu hút lao động lên làm việc ở vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó

khăn, ngoài những chính sách ƣu đãi trên thì một số vấn đề hết sức quan trọng

là tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ, phát triển nghề nghiệp và vị trí xã

hội; tạo điều kiện cho lao động đã qua đào tạo dễ dàng di chuyển từ nơi này

đến nơi khác. chúng ta sẽ tạo ra đƣợc “luồng lƣu thông” nguồn lao động giữa

các vùng khác nhau trong vùng kinh tế. Từ đó phát huy hiệu quả sử dụng

nguồn lao động đã qua đào tạo, góp phần khắc phục sự phân công lao động

bất hợp lý hiện nay.

* Chính sách thu hút lao động có chất lượng cao, một chính sách có ý

nghĩa hết sức to lớn trong việc phát huy nhân tố con ngƣời - một yêu cầu cơ

bản của chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH. So với toàn bộ

92

nguồn nhân lực thì lao động có chất lƣợng cao tuy số lƣợng không nhiều

nhƣng lại có vai trò cực kỳ quan trọng đến sự phát triển của tỉnh. Trong thời

vừa qua Nghệ An đã có nhiều cố gắng thực hiện chính sách lợi ích vật chất để

thu hút lao động có trình độ cao cho các doanh nghiệp, cơ quan và đơn vị sự

nghiệp Nhà nƣớc trong tỉnh nhau: Một tiến sĩ tình nguyện về quê công tác sẽ

đƣợc hỗ trợ 20 triệu, thạc sĩ 15 triệu đồng, chỉ cần họ làm đúng cam kết trong

hợp đồng (trong đó yêu cầu 5 năm công tác kể từ ngày tiếp nhận); nếu tình

nguyện phục vụ các huyện miền núi cao còn đƣợc hỗ trợ thêm 5 triệu đồng,

miền núi thấp 3 triệu đồng. Sinh viên tốt nghiệp đại học chính quy đạt loại

giỏi, loại xuất sắc nhận công tác theo yêu cầu của tỉnh 5 năm trở lên vẫn đƣợc

trợ cấp ban đầu 10 triệu đồng, đƣợc hƣởng lƣơng đủ 100% bậc lƣơng đang

xếp trong thời gian tập sự. Ngoài ra muốn đi phục vụ miền núi cao, đƣợc trợ

cấp thêm 5 triệu đồng; miền núi thấp 3 triệu đồng. Trong thời gian tới, tỉnh

cần cần tiếp tục bổ sƣng và hoàn thiên chính sách trọng dụng nhân tài nhằm

thu hút mọi tài năng tại chỗ và bên ngoài về phục vụ địa phƣơng. Cần nhấn

mạnh rằng cuộc sống của lao động có chất lƣợng cao không thể chỉ đo bằng

những điều kiện vật chất thông thƣờng mà quan trọng hơn là điều kiện học tập

và phát triển trong tƣơng lai của họ và gia đình. Vì vậy, chính sách ƣu đãi cho

đội ngũ này không thể chỉ giới hạn về ƣu đãi vật chất mà phải bao hàm nhiều

yếu tố khác. Trong đó, vấn đề cơ bản nhất vẫn là thái độ thật sự tôn trọng

nhân tài, trọng trí thức khoa học, những hình thức biểu dƣơng khen thƣởng

kịp thời và đặc biệt là sự tôn vinh địa vị xã hội của họ đối với quê hƣơng, đất

nƣớc. Điều đó có tác dụng to lớn đối với việc chuyển dịch cơ cấu lao động

của tỉnh theo hƣớng CNH, HĐH,

* Về chính sách xuất khẩu lao động:

Xuất khẩu lao động bao gồm: Xuất khẩu lao động ra các tỉnh khác, ra

nƣớc ngoài làm việc và xuất khẩu lao động tại chỗ. Đây là một hình thức có

93

liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động ở Nghệ An. trong thời gian tới.

Nghệ An là tỉnh đang trong tình trạng thừa lao động, chính vì thế để giải

quyết nguồn lao động sự dƣ thừa này cần tăng cƣờng đầu tƣ và phát triển theo

hƣớng xuất khẩu lao động ra ngoài tỉnh và nƣớc ngoài.

Xuất phát từ đặc điểm của thị trƣờng lao động các tỉnh, nƣớc ngoài

hiện nay là nhu cầu lao động lớn tập trung ở ngành công nghiệp, xây dựng và

dịch vụ và yêu cầu lao động có văn hoá, ngoại ngữ, có sức khỏe và tuổi đời từ

18 - 25 tuổi. Để mở rộng xuất khẩu lao động Nghệ An trong thời gian tới cần

phải xây dựng chính sách xuất khẩu theo hƣớng:

- Ƣu đãi nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đƣợc phép xuất khẩu lao

động, phát triển bằng hình thức xem xét miễn hoặc giảm thuế trong giai đoạn

đầu, ban hành hệ thống chính sách phí dịch vụ xuất khẩu lao động thống nhất

nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nguồn tài chính đầu tƣ vào công

tác tiếp thị, đào tạo đội ngũ lao động phù hợp với yêu cầu sử dụng của thị

trƣờng lao động ngoài tỉnh và quốc tế.

- Cần khẩn trƣơng tổ chức đào tạo, huấn luyện lao động đi làm việc ở

ngoại tỉnh, nƣớc ngoài theo hƣớng đa dạng hoá ngành nghề đƣa đi, hoàn thiện

các thủ tục theo hƣớng đơn giản hoá, giảm phiền hà đối với ngƣời lao động đi

làm việc ở ngoại tỉnh, ở nƣớc ngoài.

- Thực hiện chế độ tín dụng cho vay xuất khẩu lao động, khi ngƣời lao

động và gia đình có ngƣời đi xuất khẩu lao động có nhu cầu vay. Các trung

tâm dịch vụ việc làm (nơi tuyển chọn và trả lƣơng) và chính quyền xã,

phƣờng bảo lãnh và trả nợ ngân hàng qua việc khấu trừ vào lƣơng hàng tháng

mà ngƣời xuất khẩu lao động chuyển về nƣớc.

Tóm lại, từ thực trạng của việc chuyển dịch cơ cấu lao động ở Nghệ An

và yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, luận văn đã xác định rõ những phƣơng

94

hƣớng và các giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hƣớng CNH, HĐH phù hợp ở Nghệ An hiện nay

Để việc chuyển dịch cơ cấu lao động ở Nghệ An theo hƣớng CNH,

HĐH với nhịp độ nhanh và hiệu quả, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, địa

phƣơng, các ngành kinh tế cần quán triệt và vận dụng các phƣơng hƣớng, giải

pháp cơ bản vào thực tiễn một cách linh hoạt và sáng tạo.

95

KẾT LUẬN

Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH, HĐH ở tỉnh

Nghệ An, luận văn đã giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:

1. Chuyển dịch cơ cấu lao động là một tất yếu khách quan trong lịch sử

phát triển xã hội loài ngƣời. Trình độ phát triển của chuyển dịch cơ cấu lao

động phản ánh trình độ xã hội hoá sản xuất, thể hiện rõ nét trình độ phát triển

nguồn nhân lực, khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

đƣợc thực hiện trong sự gắn bó hữu cơ và là tiền đề của chuyển dịch cơ cấu

lao động trong tiến trình CNH, HĐH.

2. Chuyển dịch cơ cấu lao động có vai trò và tác dụng to lớn trên các

mặt: thúc đẩy lực lƣợng sản xuất phát triển và nâng cao năng suất lao động xã

hội; củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN; tạo cơ sở cho sự

phát triển KTTT, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế; thúc đẩy tăng trƣởng và

phát triển kinh tế - xã hội.

3. Nghệ An là một tỉnh giàu tiềm năng đất đai, tài nguyên, lao động, là

những nhân tố và điều kiện thuận lợi có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu

lao động theo hƣớng CNH, HĐH

4. Thời gian qua ở Nghệ An, việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo

hƣớng CNH, HĐH bƣớc đầu đã khởi sắc, nhất là từ năm 1996 đến nay. Tuy

vậy, việc chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra còn rất chậm chƣa đáp ứng yêu

cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và chƣa tƣơng xứng với tiềm năng, lợi thế vốn

có của tỉnh. Nguyên nhân chính là chất lƣợng nguồn lao động còn thấp, môi

trƣờng thể chế còn nhiều bất cập, nhất là trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý

và sự hạn chế về năng lực chỉ đạo điều hành của bộ máy quản lý trên địa bàn

tỉnh. Chính những nguyên nhân này đã làm cho những hạn chế cũ về chuyển

96

dịch cơ cấu lao động chậm khắc phục và làm nẩy sinh những vấn đề mới, đòi

hỏi cần tập trung sức để giải quyết trong thời gian tới

5. Quá trình giải quyết những hạn chế cũ và những vấn đề mới nẩy sinh

trong chuyển dịch cơ cấu lao động cần quán triệt các phƣơng hƣớng cơ bản

nhằm phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế của địa phƣơng trong quy hoạch

tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; giải quyết việc làm, tăng thu nhập

và nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần của ngƣời lao động.

6. Để các phƣơng hƣớng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng

CNH, HĐH từ nay đến năm 2010 trở thành hiện thực và có tính khả thi, cần

thực hiện đồng bộ các giải pháp: Đẩy mạnh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu

ngành, vùng, thành phần kinh tế; Đẩy mạnh phân công lao động theo hƣớng

chuyên môn hoá và “mở” với bên ngoài; tăng cƣờng đầu tƣ cho giáo dục đào

tạo và khoa học - công nghệ để từng bƣớc đào tạo đội ngũ lao động có chuyên

môn cao; phát triển thị trƣờng sức lao động; hoàn thiện hệ thống luật pháp,

chính sách có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng CNH,

HĐH.

Tác giả tin tƣởng rằng, bằng các giải pháp nói trên nếu đƣợc triển khai

đồng bộ và đƣợc Đảng, chính quyền các cấp trong tỉnh lãnh đạo, quan tâm chỉ

đạo, điều hành linh hoạt và kiên quyết thì việc chuyển dịch cơ cấu lao động

theo hƣớng CNH, HĐH ở Nghệ An đƣợc thực thi nhanh chóng và với hiệu

quả cao. Từ đó, góp phần cùng khu vực miền Trung thúc đẩy chuyển dịch cơ

cấu lao động cả nƣớc, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành một

nƣớc công nghiệp tiên tiến và XHCN, có khả năng cạnh tranh và chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế.

97

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Đăng Bằng, 2002, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Bắc Trung bộ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Nông nghiệp, Hà Nội

[2] Báo cáo: Chiến lược về lao động việc làm mức sống tỉnh Nghệ An 1991

- 2000, Sở Lao động - Thƣơng binh - Xã hội.

[3] Báo cáo: Nhận định tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ X V về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 11/2001.

[4] Báo cáo tóm tắt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Nghệ An năm 2003.

[5] Mai Quốc Chánh, 1999 ,Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền, 1996, Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn

đến đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[7] Đảng cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh

Nghệ An lần thứ XV, NXB Nghệ An, 2001.

[8] Đảng CSVN: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm

2000, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, trang 5, 23.

[9] Đảng cộng sản Việt Nam ,1986, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

[10] Đảng cộng sản Việt Nam , 1994: Văn kiện Hội nghị lần thứ VII BCH

TW khoá VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 42.

[11] Đảng cộng sản Việt Nam, 1996, Văn kiện Đại hội đại biểu đại biểu

toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[12] Đảng cộng sản Việt Nam, 2001, Văn kiện Đại hội đại biểu đại biểu

toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội .

98

[13] Đề án: Giải quyết việc làm giai đoạn 2003-2005 và dự báo đến năm

2010 tỉnh Nghệ An, UBND tỉnh Nghệ An, tháng 11-2002.

[14] Ngô Đình Giao,1994, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.

[15] Trần Kim Hải, Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta (Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội 1998).

[16] Lê Doãn Khải,2002, Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng đồng bằng Bắc bộ nước ta, NXB Lao động, Hà Nội.

[17] Kinh tế chính trị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, trang 81, 82.

[18] Phạm Sỹ Mẫn, Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn hiện

nay, Tạp chí nghiên cứu kinh tế tháng 2-1999.

[19] Trần Thị Ngọc Lan, Vấn đề phân công lại lao động xã hội trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Tiền Giang (Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội, 2000, trang 56).

[20] V.I Lênin, toàn tập, tập 2và 3 NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, trang 98.

[21] V.I Lênin, toàn tập, tập 38, NXB T.M,1977, trang 30.

[22] Các Mác, Tƣ bản, tập 2, NXB Sự thật, Hà Nội 1975, trang 77.

[23] Các Mác, Tƣ bản, tập 1, quyển 1, NXB Sự thật, Hà Nội 1984, trang

230, 321.

[24]

Jean-Yves Martin, Lao động việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới, NXB Thế giới, H 2001.

[25] Nghị quyết 02 Hội nghị TW VIII về Định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá , NXB Chính trị quốc gia.

[26] Phan Thanh Phố, Kinh tế và đổi mới kinh tế - NXB Giáo dục năm 2000,

trang 104 -114.

99

[27] Phan Thanh Phố, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự gắn bó với phân công lao động xã hội - Tạp chí Lao động và Xã hội số tháng 1/1994, trang 17,18.

[28] Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An 1995

[29] Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An 1996

[30] Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An 2001

[31] Số liệu thống kê tỉnh Nghệ An 2002

[32] Thông tin khoa học và xã hội: Thực trạng việc làm và sự chuyển đổi nghề nghiệp lao động nông thôn. Bộ Lao động Thƣơng binh - Xã hội, 4/1995.

[33] Thực trạng lao động - việc làm ở Nghệ An năm 2002, Uỷ ban nhân dân

tỉnh Nghệ An 7 tháng 10/2002.

[34] Trần Văn Tùng, Phát triển nguồn nhân lực - Kinh nghiệm thế giới và

thực tiễn nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.

[35] Uỷ ban kế hoạch tỉnh Nghệ An, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -

xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2010.

[36] Đỗ Thế Tùng, Vấn đề lao động và việc làm. Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh. Trung tâm thông tin tƣ liệu. Hà Nội. 1996.

[37] Việt Nam - Cải cách kinh tế theo hướng rồng bay. NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội 1994.

100

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .................................................. 3 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................. 3 5. Phƣơng pháp nghiên cứu.............................................................. 4 6. Đóng góp của luận văn ................................................................ 4 7. Kết cấu luận văn .......................................................................... 4 NỘI DUNG.................................................................... Error! Bookmark not defined.

Chƣơng 1 Cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ............................................................... 5 1.1. Cơ cấu lao động và sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ............................................... 5 1.1.1. Một số khái niệm ............................................................... 5 1.1.1.1. Cơ cấu lao động........................................................... 5 1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động ....................................... 6 1.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.................................................................... 12

1.1.2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ............................................................ 14 1.1.2.1. Do yêu cầu phát huy vai trò của lao động đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển theo con đƣờng rút ngắn hiện đại......................................................................................... 14 1.1.2.2. Do yêu cầu phải đảy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, một nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nƣớc ta.................................................................................. 16 1.1.2.3. Do yêu cầu của sự hình thành và phát triển thị trƣờng sức lao động theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa................. 19 1.1.2.4. Do yêu cầu của việc ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ .............................................................................. 21

101

1.1.2.5. Do yêu cầu của việc thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. ................................................................................. 21 1.2. Nhân tố ảnh hƣởng, xu hƣớng và nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.............................. 22

1.2.1. Những nhân tố ảnh hƣởng đến chuyển dịch cơ cấu lao động ................................................................................................. 22 1.2.1.1. Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế .......... 22 1.2.1.2. Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của ngƣời lao động ...................................................................................... 23 1.2.1.3. Tình hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là cơ cấu ngành và nội bộ ngành kinh tế trong từng thời kỳ .................... 24 1.2.1.4. Môi trƣờng, thể chế có liên quan ................................ 25

1.2.2. Xu hƣớng và nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.......................................... 26 1.2.2.1. Xu hƣớng khách quan của chuyển dịch cơ cấu lao động ............................................................................................. 26 1.2.3.1. Nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động ....................... 28

Chƣơng 2 Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời gian qua ở tỉnh Nghệ An...................... 36 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và thể chế ở Nghệ An ảnh hƣởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ........................... 36 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên ............................................................ 36 2.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ................................................... 39

2.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Nghệ An trong những năm qua ...................... 43 2.2.1. Vài nét về cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động từ trƣớc năm 1996 ......................................................................... 43

2.2.1.1. Về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ....................... 43 2.2.12. Về cơ cấu lao động theo thành phần ............................ 44 2.2.13. Về cơ cấu lao động theo vùng ..................................... 45

2.2.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và kinh tế tri thức, từ năm 1996 đến nay 46

2.2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành kinh tế ......... 46 2.2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế.. 55

102

2.2.2.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo vùng ...................... 60 2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra.................................... 65

2.3.1. Đánh giá chung ................................................................ 65 2.3.1.1. Thành tựu.................................................................. 65 2.3.1.2. Những tồn tại ............................................................ 69 2.3.2 Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới .... 70

Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Nghệ An .................................................................................... 72 3.1. Phƣơng hƣớng chuyển dịch cơ cấu lao động ............................ 72 3.1.1. Phát triển và chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng đảm bảo khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng về tự nhiên, con ngƣời, nguồn vốn ................................................................................. 72 3.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng gắn với việc hình thành và phát triển thị trƣờng sức lao động ................................. 73 3.1.3. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo xu hƣớng tiến bộ của khoa học - công nghệ, từng bƣớc tiếp cận kinh tế tri thức .................... 74

3.1.4. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng nâng cao sức cạnh tranh, tham gia vào quá trình phân công lao động và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ................................................. 75

3.1.5. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hƣớng xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa................................... 76 3.2. Các giải pháp cơ bản ............................................................... 77 3.2.1. Đẩy nhanh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế............................................................................... 77 3.2.1.1. Về cơ cấu ngành ........................................................ 77 3.2.1.2. Về cơ cấu vùng kinh tế .............................................. 79 3.2.1.3. Về cơ cấu thành phần kinh tế ..................................... 80

3.2.2. Đẩy mạnh phân công lao động theo hƣớng chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá ............................................................. 82 3.2.3. Tăng cƣờng đầu tƣ cho giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ để từng bƣớc đào tạo đội ngũ lao động có chuyên môn cao . 83

3.2.4. Phát triển thị trƣờng sức lao động ..................................... 85 3.2.4.1. Đối với thị trƣờng sức lao động trong tỉnh .................. 85

103

3.2.4.2. Đối với thị trƣờng lao động trong nƣớc....................... 86 3.2.4.3. Đối với thị trƣờng lao động nƣớc ngoài ...................... 86

3.2.5. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao dộng theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa............................................................................................ 88 3.2.5.1. Hệ thống luật pháp..................................................... 88 3.2.5.2. Chính sách tiền lƣơng, bảo hiểm xã hội, thu hút lao động, xuất khẩu lao động................................................................. 90 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 98

104