BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH --------(cid:89)(cid:90)--------

ĐỖ VĂN ĐẠO

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THỦY SẢN

THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

CỦA TỈNH KHÁNH HÒA GIAI ĐOẠN 2011-2020

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60310102

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS.TRẦN VĂN NHƯNG

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2011-2020”.

Là đề tài nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những kết luận khoa học của luận văn

chưa từng được công bố trước đó ở bất cứ công trình nào.

Tác giả

Đỗ Văn Đạo

Mục lục

Trang

Trangphụbìa

Lời cam đoan

Mụclục

Danhmụccáckýhiệu, chữviếttắt

Danhmụccácbảng,biểu

Mởđầu 1

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển 7

dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng CNH, HĐH

1.1-Cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản: 7

Khái niệm, đặc trưng và những nhân tố tác động.

1.1.1- Cơcấungànhvàchuyểndịchcơcấukinhtếngành 7

1.1.2- Cơcấukinhtếngànhthủysảnvàchuyểndịchcơcấukinhtế 9

ngànhthủysản

1.1.3- Nhữngnhântốchủyếutácđộngtớichuyểndịchcơcấukinhtế 12

ngànhthủysản

1.2- MộtsốquanđiểmcủaĐảngcộngsảnViệt Nam vềchuyểndịch 19

cơcấukinhtếngành – Vaitrò, vịtríngànhthủysảntrongnền

kinhtếquốcdân.

1.2.1- QuanđiểmcủaĐảngcộngsảnViệt Nam vềchuyểndịchcơcấu 19

kinhtếngành.

1.2.2- Vaitrò, vịtríngànhthủysảntrongnềnkinhtếquốcdân.

24

1.3- Kinhnghiệmchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản ở mộtsố 28

địaphươngtrongnướcvàbàihọckinhnghiệmrútra

1.3.1- Kháiquáttiếntrìnhchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 28

củamộtsốđịaphươngtrongnước

1.3.2- Mộtsốbàihọckinhnghiệmvềchuyểndịchcơcấukinhtế 34

ngànhthủysảnrútratừcácđịaphương

Chương 2: Thựctrạngchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 37

tỉnhKhánhHòa – Nhữngvấnđềđặtra

2.1- ĐặcđiểmtỉnhKhánhHòanhìntừgócđộchuyểndịchcơcấukinhtế 37

ngànhthủysản

2.1.1- Đặcđiểmtựnhiên 37

2.1.2- Đặcđiểmkinhtế - xãhội 40

2.1.3- ĐặcđiểmtăngtrưởngvàchuyểndịchcơcấukinhtếtỉnhKhánh 41

Hòathờigian qua

2.2- Thựctrạngcơcấuvàchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysảncủa 43

tỉnhKhánhHòa qua cácgiaiđoạn

2.2.1- TổngquanvềchuyểndịchcơcấukinhtếcủatỉnhKhánhHòa 43

2.2.2- Giaiđoạn 2000-2005

562.2.3- Giaiđoạn 2006-2011. 58

2.3- Đánhgiáchungvànhữngvấnđềđặtrachochuyểndịchcơcấukinh 70

tếngànhthờigiantới.

2.3.1- Đánhgiáchung 70

2.3.2- Nhữngvấnđềđặtra. 74

Chương III:Phươnghướngvànhữnggiảiphápchủyếuchuyểndịch 77

cơcấukinhtếngànhthủysảntheohướngcôngnghiệphóa,

hiệnđạihóacủatỉnhKhánhHòa

3.1- Mụctiêuvànhữngquanđiểmchuyểndịchcơcấukinhtếngành 77

thủysảncủatỉnhKhánhHòa

77 3.1.1- Mụctiêutổngquát.

3.1.2- Nhữngquanđiểmchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 77

củatỉnhKhánhHòa.

3.2- Phươnghướngchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 81

3.2.1-Phươnghướngchungchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 81

3.2.2- Phươnghướngpháttriểnvàchuyểndịchcơcấukinhtếcác 82

phânngànhtrongnộibộngànhthủysảnKhánhHòa

3.3-Cácgiảiphápchủyếuđểchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản

86

theohướng CNH, HĐH củatỉnhKhánhHòa

3.3.1-GiảiphápvềquyhoạchngànhthủysảntỉnhKhánhHòa 86

3.3.2- Giảiphápvềthịtrường 87

3.3.3- GiảiphápvềvốnđầutưchongànhThủysản

89

3.3.4- Giảiphápvềkhoahọc – côngnghệ

91

3.3.5- Giảiphápvềnguồnnhânlực 93

3.3.6- Giảiphápvềtổchức, quảnlývàchínhsách

94

3.3.7- Mộtsốkiếnnghị 95

Kếtluận 99

Tàiliệuthamkhảo 101

Danhmụccáckýhiệu, chữviếttắt

CNH, HĐH Côngnghiệphóa, hiệnđạihóa

Sở NN & PTNT SởNôngnghiệpvàPháttriểnNôngthôn

UBND Ủy Ban Nhândân

XHCN Xãhộichủnghĩa

Danh mục các bảng, biểu

Trang 46

thủysảngiaiđoạn 2000-2005 47 giaiđoạn 2000-2005. 48 giaiđoạn 2000-2005 49 giaiđoạn 2000-2005 50

51 giaiđoạn 2000-2005 52 chủyếugiaiđoạn 2000-2005 53 chủyếugiaiđoạn 2000-2005 54 chủyếugiaiđoạn 2000-2005 56 khaitháctínhđếnnăm 2005 ở tỉnhKhánhHòa. 58 giaiđoạn 2006-2012. 59 giaiđoạn 2006-2011 61 giaiđoạn 2006-2011 62 tínhđếnnăm 2012. 63 giaiđoạn2006-2011. 64 chủyếugiaiđoạn 2006-2011 65 chủyếugiaiđoạn 2006-2011 65 chủyếugiaiđoạn 2006-2011 66 giaiđoạn 2006-2011 68 giaiđoạn 2006-2011

Bảng 2.1- Chuyển dịch cơ cấu giá trịsảnxuấtngànhnông – lâm – Bảng 2.2- CơcấugiátrịsảnxuấtngànhthủysảnKhánhHòa Bảng 2.3- TốcđộpháttriểnnghềnuôithủysảnKhánhHòa Bảng 2.4- Tốcđộpháttriểntầuthuyềnkhaithácthủysản Bảng 2.5- Cơcấuvàtỷtrọngnghềnghiệpkhaithácthủysản toàntỉnhKhánhHòatínhđếnnăm 2005. Bảng 2.6- TốcđộpháttriểnnghềchếbiếnthủysảnKhánhHòa Bảng 2.7- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmnuôitrồngthủysản Bảng 2.8- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmkhaithácthủysản Bảng 2.9- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmchếbiếnthủysản Bảng 2.10- Cơcấunguồnvốnđầutưvàcơcấusởhữuphươngtiện Bảng 2.11- CơcấugiátrịsảnxuấtngànhthủysảnKhánhHòa Bảng 2.12- CơcấunghềnuôitrồngthủysảncủatỉnhKhánhHòa Bảng 2.13- CơcấutầuthuyềnkhaithácthủysảncủatỉnhKhánhHòa Bảng 2.14- CơcấunghềnghiệpkhaithácthủysảncủaKhánhHòa Bảng 2.15- CơcấungànhnghềchếbiếnthủysảncủaKhánhHòa Bảng 2.16- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmnuôitrồngthủysản Bảng 2.17- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmkhaithácthủysản Bảng 2.18- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmchếbiếnthủysản Bảng 2.19- Cơcấunguồnvốnđầutưvàongànhthủysản Bảng 2.20- CơcấulaođộngngànhthủysảncủaKhánhHòa

1

MỞ ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, với 112 cửa sông, trên 3000 đảo lớn nhỏ,

nhiều eo biển, hồ, đầm lầy, phá, trên 1 triệu km2 diện tích vùng đặc quyền kinh tế.

Hơn nữa, do Việt Nam nằm trong khu vực sinh thái nhiệt đới, ít bị ô nhiễm, nên

nguồn lợi thuỷ sản rất đa dạng, phong phú, và có khả năng tự hồi sinh cao. Theo

đánh giá của các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật thuỷ sản, Việt Nam có trên 6000 loài

động vật đáy, 2038 loài cá, mực... được phân bố ở hầu hết các vùng, với trữ lượng

cao. Khả năng khai thác cá ở vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam có thể đạt

trên 4 triệu tấn/năm. Với những tiềm năng to lớn đó, cùng với việc chủ động đổi

mới cơ chế quản lý, tiếp cận thị trường quốc tế, ngành thuỷ sản nước ta đã đạt được

nhiều thành tựu đáng kể, trở thành một trong những ngành kinh tế, xuất khẩu chủ

lực của đất nước. Trong thời gian qua, thuỷ sản của Việt Nam đã và đang trực tiếp

đóng góp vào sự phát triển năng động của ngành; góp phần chuyển đổi cơ cấu nông

nghiệp vùng ven biển, đảm bảo công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho hàng triệu

người lao động. Hơn nữa, xuất khẩu thuỷ sản là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực

trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là nguồn thu ngoại tệ lớn cho công cuộc

CNH, HĐH đất nước.

Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định đối với ngành thủy sản

trong thời gian tới: “Xây dựng ngành thuỷ sản Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong

khu vực…Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi

thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp thâm canh là

chủ yếu đối với cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo

đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với ứng

dụng công nghệ cao trong khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại hóa các

cơ sở chế biến. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi

trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thủy sản” [6, tr 761].

2

Đối với Khánh Hoà, là một tỉnh thuộc Duyên Hải Nam Trung bộ, được thiên

nhiên ưu đãi về điều kiện phát triển nguồn lợi thuỷ sản cả trong lĩnh vực khai thác

tự nhiên cũng như nuôi trồng thuỷ sản. Ngành thủy sản của tỉnh đã và đang có vị trí

đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đối với tỉnh Khánh

Hòa. Tuy nhiên, trong nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng, chuyển

dịch cơ cấu ngành còn chậm, những lợi thế về Biển vẫn chưa được phát huy tối đa.

Để phát huy hơn nữa vai trò của ngành thủy sản và những lợi thế về biển

trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, thì tỉnh Khánh Hòa cần phải xây dựng được

một cơ cấu ngành thủy sản hợp lý theo hướng CNH,HĐH, để qua đó tạo ra khối

lượng hàng hoá lớn, chất lượng cao, tăng năng lực cạnh tranh của thủy sản của tỉnh

trên thị trường trong nước và thế giới, bên cạnh đó là khai thác được lợi thế so sánh

mà tỉnh có được, đưa nông nghiệp của tỉnh lên trình độ hiện đại, góp phần cùng với

những lĩnh vực khác thực hiện thành công những mục tiêu kinh tế - xã hội mà tỉnh

Khánh Hòa đã đề ra.

Do đó, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng

CNH,HĐH nằm trong chiến lược tổng thể về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói

chung theo hướng CNH,HĐH của tỉnh Khánh Hòa có ý nghĩa quan trọng. Quá trình

này cần có sự kết hợp giữa nghiên cứu về mặt lý luận với giải quyết vấn đề thực

tiễn. Xuất phát từ vị trí vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề trên, tôi chọn

đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2011-2020” làm luận văn thạc sĩ,

chuyên ngành kinh tế chính trị, mã số: 60310102

2- Tình hình nghiên cứu đề tài

Để trang bị kiến thức về lý luận phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài của mình,

tác giả đã tìm hiểu và nghiên cứu những tài liệu, công trình nghiên cứu sau đây:

+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại hoá nền kinh

tế quốc dân 2 tập của GS.TS Ngô Đình Giao (1998). Ở tác phẩm này, tác giả Ngô

Đình Giao đã phân tích các căn cứ lý luận và thực tiễn trong quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế và phân tích quan điểm, phương hướng xây dựng cơ cấu kinh tế có

3

hiệu quả ở Việt Nam.

+ Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ

CNH, HĐH ở Việt Nam. Bùi Tất Thắng, Chủ biên (1997), Nhà xuất bản khoa học

xã hội, Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành, bao gồm: nhân tố vốn đầu tư; nhân tố thị trường và trình độ phát

triển của kinh tế thị trường, nhân tố trình độ khoa học kỹ thuật – công nghệ; nhân tố

lợi thế so sánh về vị trí địa lý, tài nguyên, khí hậu; nhân tố kinh tế - xã hội.

+ Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh. TS.Trần Văn Nhưng – Luận án tiến sĩ, Hà Nội 2001. Tác

giả đã tiến hành khảo sát, phân tích thực trạng xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành công nghiệp trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh, trên cơ sở phân tích đó rút ra

những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những thành tựu, hạn chế, những mâu

thuẫn mới nảy sinh phải giải quyết và xác định xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành công nghiệp trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh cho thời gian tới.

+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản nước ta qua khảo sát ở tỉnh

Khánh Hòa”. TS.Nguyễn Đề Thanh - Luận án tiến sĩ, Tp HCM.2005. Trong luận án

tác giả cho rằng, một trong những nguyên nhân chính làm cho ngành thủy sản chưa

phát huy được tiềm năng cũng như những lợi thế mà ngành thủy sản có được, đó là

do ngành thủy sản Khánh Hòa tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm. Từ

đó tác giả đi đến kết luận: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản, không chỉ

làm cho độ trình lực lượng sản xuất của ngành thủy sản được nâng lên, mà quá trình

này cũng sẽ làm cho ngành thủy sản có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, gồm:

chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành thủy sản, chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp,

chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động.

+ Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Tô Thị Hiền Vinh - Luận án tiến sĩ.

Tp Hồ Chí Minh 2009. Trong luận án này tác giả Tô Thị Hiền Vinh cho rằng

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là

nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý giữa: nông nghiệp, công

4

nghiệp nông thôn, dịch vụ nông nghiệp. Đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông

thôn là góp phần giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở các

tỉnh duyên hải Nam Trung bộ.

Ngoài những tài liệu nêu trên, còn có nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu

khác đã đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành, chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư….

Từ thực tế của các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành, tác giả nhận thấy rằng ở trong nước vẫn chưa có một đề tài

nghiên cứu nào đề cập tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ngành thủy sản theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xét thấy, đây là một hướng đi mới cho sự

nghiên cứu để góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn của

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta dưới góc độ tiếp cận của kinh tế chính

trị, nên tôi đã chọn đề tài này.

3- Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

3.1- Mục đích

Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng

CNH,HĐH của tỉnh Khánh Hòa, từ đó rút ra những kết luận về những tồn tại,

nguyên nhân và mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình chuyển dịch của tỉnh. Qua đó

xác định, mục tiêu, quan điểm, phương hướng chuyển dịch và những giải pháp

nhằm tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh

Hòa thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả cao.

3.2- Nhiệm vụ

- Một là: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và

cơ cấu ngành thủy sản; những kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

thủy sản ở một số tỉnh trong nước; những nhân tố tác động tới chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành thủy sản, để làm căn cứ lý luận và thực tiễn cho chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa.

- Hai là: Phân tích thực trạng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản

của Khánh Hòa qua các giai đoạn. Đánh giá chung, rút ra những vấn đề cần giải

5

quyết và xác định xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản của tỉnh

Khánh Hòa thời gian tới.

- Ba là: Trình bày các mục tiêu, quan điểm chuyển dịch, xây dựng phương

hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, định hướng bước đi, đề xuất các

giải pháp và những kiến nghị nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của

tỉnh Khánh Hòa thời kỳ CNH, HĐH.

4- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu

4.1- Đối tượng

Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa.

4.2- Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế ngành và chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hoà.

- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa từ năm 2000 đến năm 2011; dự báo xu hướng

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đề ra các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch giai đoạn

2011 - 2020.

4.3- Phương pháp nghiên cứu

- Cơ sở phương pháp luận xuyên suốt trong toàn bộ quá trình nghiên cứu của

luận văn là phương pháp duy vật biện chứng. Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản trong mối quan hệ tác động qua lại với cơ cấu kinh tế ngành nói

chung, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế thành phần; giữa chuyển dịch cơ cấu

kinh tế với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Ngoài ra trong luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, được tác giả sử dụng để phân tích ở

chương 2, nhằm tìm ra các mối quan hệ để luận giải về các vấn đề có liên quan đến

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng CNH, HĐH.

+ Phương pháp phân tích thống kê, so sánh đối chiếu được sử dụng để phân

tích thực trạng ở chương 2, qua đó đưa ra cái nhìn tổng quát, xác thực và đo lường

6

mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động. Hiệu quả kinh tế - xã hội do quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản.

- Tài liệu nghiên cứu bao gồm: tư liệu thống kê, điều tra kinh tế – xã hội của

Cục thống kê tỉnh; tư liệu của ngành, các cấp trong tỉnh, cùng các tư liệu của các cơ

quan nghiên cứu khác. Các Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, Văn

kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội XI…

5- Tên và kết cấu luận văn

Tên luận văn: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2011-2020”

Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu

tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương:

CHƯƠNG 1: Một số vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CHƯƠNG 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

tỉnh Khánh Hòa – Những vấn đề đặt ra

CHƯƠNG 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh

Khánh Hòa

Dưới đây là nội dung cơ bản của luận văn.

7

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THỦY SẢN

THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA

1.1- Cơ cấu kinh tế ngành và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản:

Khái niệm, đặc trưng và những nhân tố tác động

1.1.1- Cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Cơ cấu kinh tế là cấu trúc của nền kinh tế với các bộ phận hợp thành, với vị

trí, tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận

ấy trong quá trình sản xuất xã hội.

“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ

hữu cơ, tương đối ổn định hợp thành. Có các loại cơ cấu kinh tế khác nhau: cơ cấu

nền kinh tế quốc dân, cơ cấu ngành kinh tế kỹ thuật; cơ câu kinh tế theo vùng, cơ

cấu đơn vị hành chính, lãnh thổ; cơ câu thành phần kinh tế, trong đó cơ cấu kinh tế

kỹ thuật mà trước hết là cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ là

quan trọng nhất” [10, tr 14].

Cơ cấu kinh tế có những đặc trưng:

Thứ nhất: Nó là sự cấu thành giữa các bộ phận một cách hữu cơ. Hai mặt cơ

bản của chính sách kinh tế: mặt kỹ thuật và mặt kinh tế xã hội là một tổng thể hữu

cơ, chỉ có thể phát triển trong sự nương tựa, thúc đẩy lẫn nhau như một quá trình

tiến hóa tự nhiên. Từ đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển năng động, thúc đẩy

nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường.

Thứ hai: Cơ cấu kinh tế được hình thành, xác định trên cơ sở các quy luật

kinh tế khách quan chi phối nền kinh tế, nhu cầu thị trường, lợi thế so sánh của nền

kinh tế, của ngành, vùng và các nhân tố khác.

Thứ ba: Cơ cấu kinh tế mạng tính lịch sử, cụ thể. Không có một cơ cấu

chung duy nhất cho mọi quốc gia hay một quốc gia trong mọi giai đoạn lịch sử.

8

Khi nói đến cơ cấu kinh tế, trước hết người ta nói đến cơ cấu kinh tế ngành,

vì đây là biểu hiện đầu tiên của cơ cấu kinh tế và là tiền đề để hình thành mỗi nền

kinh tế quốc dân. Có thể nói cơ cấu kinh tế ngành là góc độ nghiên cứu kinh tế chủ

yếu, phản ánh mối liên hệ kinh tế kỹ thuật và công nghệ sản xuất.

* Cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế là kết cấu các ngành hợp thành tổng

thể bao gồm các mối quan hệ tương tác về mặt tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các

ngành đó với nhau và với nền kinh tế quốc dân.

Có nhiều cách phân loại ngành trong mỗi nền kinh tế:

- Có thể dựa vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của mỗi ngành mà phân thành

ba ngành chủ yếu: công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Hay chi tiết hơn: công

nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, xây dựng cơ bản, thương mại…

- Trong mỗi ngành lại bao gồm các phân ngành như:

+ Trong công nghiệp có: cơ khí, điện lực, hóa chất…

+ Trong nông nghiệp có: chăn nuôi, trồng trọt…

+ Trong ngành dịch vụ bao gồm: thương mại, bưu điện, du lịch...

- Hoặc có thể phân theo tính chất tác động của lao động và đối tượng lao

động, như: khối ngành khai thác, khối ngành chế biến, khối ngành dịch vụ…

Cơ cấu ngành luôn vận động và biến đổi phát triển không ngừng, nhất là

trong điều kiện cơ chế thị trường. Cho nên khi phân tích cơ cấu ngành, phải làm rõ

tính quy luật của sự vận động, tìm ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành phù hợp với các cơ cấu kinh tế khác và đáp ứng được yêu cầu phát triển của

nền kinh tế quốc dân trong từng giai đoạn phát triển chung của đất nước.

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là quá trình làm thay đổi cấu trúc và

các mối liên hệ của các ngành hoặc các phân ngành trong ngành theo xu hướng,

mục tiêu và phương hướng nhất định. Đó là sự thay đổi có mục đích, có định hướng

và lựa chọn trên cơ sở phân tích đầy đủ, có cơ sở lý luận và thực tiễn, cùng với việc

áp dụng đồng bộ các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang

trạng thái khác một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.

9

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng CNH, HĐH là quá trình

làm thay đổi nền kinh tế từ chỗ có cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, sang cơ

cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ hiện đại, đó là quá trình làm tăng tốc độ

và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế gắn với sự biến đổi của công nghệ và

năng suất lao động, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững trong nền kinh tế quốc

dân. Trong quá trình ấy cơ cấu phân ngành trong nội bộ ngành cũng sẽ có những biến

đổi đáng kể cả về chất và lượng. Yêu cầu đặt ra là phải xác định được cơ cấu kinh tế

hợp lý và có hiệu quả, xác định được ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm, những

ngành có tương lai phát triển hoặc đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước, ngoài

nước và những vấn đề kinh tế xã hội đặt ra trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước.

1.1.2- Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

thủy sản

Thủy sản là ngành kinh tế - kỹ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất trực

tiếp, một bộ phận cấu thành của nền sản xuất vật chất của xã hội, là ngành sản xuất

vật chất mà quá trình sản xuất của nó phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên.

Đặc trưng về mặt kinh tế - kỹ thuật

Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất mang tính mùa vụ. Do sự tác

động của điều kiện tự nhiên, môi trường sống và tập tính sống của các đối tượng,

các chủng loại động thực vật làm cho các yếu tố sản xuất trong ngành thủy sản

không sử dụng hết thời gian trong năm.

Về sự biến đổi của đối tượng lao động, sau mỗi chu kỳ sản xuất, các đối

tượng lao động của ngành thủy sản thay đổi từ giá trị sử dụng này thành giá trị sử

dụng khác, hoặc cùng loại nguyên liệu có thể sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng khác,

tùy thuộc vào mục đích của người sử dụng.

Về công dụng kinh tế của sản phẩm, thủy sản là ngành sản xuất vật chất tạo

ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất

và đời sống xã hội.

10

Đặc trưng về mặt kinh tế xã hội

Ngành thủy sản là ngành sử dụng công nghệ tiên tiến kết hợp với công nghệ

truyền thống, sự phân công lao động xã hội và tính xã hội hóa của sản xuất được thể

hiện sâu sắc.

Hoạt động của ngành thủy sản bao gồm: sản xuất nguyên liệu (bao gồm hoạt

động sản xuất của ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản), chế biến thủy sản và

dịch vụ hậu cần thương mại nghề cá.

Đối với Khánh Hòa, với bờ biển dài hơn 300km, các hoạt động kinh tế - xã

hội của tỉnh hầu như đều gắn với biển. Ở tỉnh đã có những làng nghề truyền thống

hoạt động ở lĩnh vực thủy sản từ lâu đời, cùng với những hình thức tổ chức sản xuất

kinh doanh theo quy mô công nghiệp với trang thiết bị hiện đại, thu hút nhiều lao

động. Tất cả nhuãng hình thức này đều hoạt động cả trên ba lĩnh vực: nuôi trồng

thủy sản, khai thác thủy sản, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá.

Phân loại thủy sản thành bốn ngành: khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy

sản, chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản.

Căn cứ của việc phân loại này dựa vào phương hướng sản xuất kinh doanh

chủ yếu và sản phẩm được sản xuất ra là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng.

Phân loại thủy sản thành ba nhóm: nhóm ngành sản xuất nguyên liệu (bao

gồm hoạt động sản xuất của ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản), nhóm ngành

chế biến và nhóm ngành dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản.

Căn cứ chủ yếu của sự phân chia này là tính chất khác nhau của sự biến đổi

đối tượng lao động và công dụng sản phẩm của mỗi loại hoạt động.

Phân loại các ngành thủy sản thành các ngành chuyên môn hóa hẹp

Sự phân chia này dựa vào đặc trưng kỹ thuật trong quá trình sản xuất để phân

thành các ngành chuyên môn hóa hẹp. Cụ thể:

+ Ngành nuôi trồng thủy sản, có các ngành chuyên môn hẹp là: Nuôi thủy sản

thương phẩm (nuôi thủy sản nước mặn; nuôi thủy sản nước lợ; nuôi thủy sản nước

ngọt.) và sản xuất giống thủy sản (Giống nuôi bố mẹ và giống nuôi thương phẩm)

+ Ngành chế biến thủy sản có: chế biến nội địa và chế biến xuất khẩu.

11

+ Khai thác thủy sản có: Nghề lưới vây, lưới kéo, lưới rê, nghề câu…

+ Dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản: bao gồm các ngành cơ khí thủy

sản, các hoạt đông dịch vụ cung ứng nguyên vật liệu, vật tư kỹ thuật, thông tin tiếp

thị, tài chính tín dụng, hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu…

* Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản là mối quan hệ tỷ lệ giữa các phân ngành

trong tổng thể ngành thủy sản, được lượng hóa bằng tỷ trọng của mỗi ngành trong

tổng sản phẩm thủy sản, tổng số lao động, tỷ trọng của ngành thủy sản tạo ra trong

tổng thu nhập quốc dân ở lĩnh vực nông nghiệp, thương mại xuất khẩu.

Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản không phải là cố định, mà nó thay đổi theo

từng thời kỳ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản được đo

bằng các chỉ tiêu: Số ngành chuyên môn hóa trong ngành thủy sản, tỷ trọng của các

phân ngành trong tổng sản phẩm thủy sản; tỷ trọng lao động ngành thủy sản trong

tổng lao số lao động trong nông nghiệp…

Sự hình thành cơ cấu ngành thủy sản gắn liền với sự phát triển của phân công

lao động xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ, nó phản ánh trình độ của phân công

lao động, trình độ phát triển thủy sản và trình độ tổ chức quản lý. Kết cấu ngành có

thể thay đổi và sự thay đổi có thể diễn ra theo cách tự phát hoặc tự giác nếu được kế

hoạch hóa. Do vậy, phải xây dựng được cơ cấu ngành tối ưu, số lượng các chuyên

ngành càng phát triển, thì càng có khả năng thỏa mãn nhu cầu đa dạng, phong phú

của xã hội, đáp ứng được các yêu cầu về phân công và hợp tác quốc tế, về khả năng

hội nhập.

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

Chuy ển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản là quá trình làm thay đổi cơ cấu

tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành ngành thủy sản, nhằm hình thành lên một cơ cấu

kinh tế ngành hợp lý, có hiệu quả kinh tế cao cho nền kinh tế trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chuy ển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, đưa nhanh tiến bộ khoa học

– kỹ thuật – công nghệ hiện đại vào tất cả các khâu trong ngành, từ sản xuất nguyên

12

liệu đến khâu bảo quản, chế biến, dịch vụ thương mại và hậu cần. Thực hiện cơ khí

hóa, tự động hóa, thủy lợi hóa, thông tin hóa, sinh học hóa…trong đó, trước hết tiến

hành cơ khí hóa phổ biến trong lĩnh vực sản xuất thủy sản; đầu tư công nghệ cho

khai thác xa bờ; ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra giống nuôi mới có giá trị

kinh tế cao; phát triển công nghiệp chế biến với công nghệ cao gắn với vùng nguyên

liệu tập trung và thị trường tiêu thụ.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa là xây dựng quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp với tính chất và trình

độ của lực lượng sản xuất trong ngành thủy sản, đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản

lý ngành thủy sản, tạo động lực cho lực lượng sản xuất thủy sản phát triển, nâng cao

đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa, thực chất là làm thay đổi cơ bản không những cơ cấu tỉ lệ phân ngành trong

tổng thể ngành thủy sản, mà còn làm thay đổi cơ bản lực lượng sản xuất, trình độ công

nghệ, quan hệ sản xuất, tư duy và lối sống của mọi tầng lớp ngư dân vùng biển.

1.1.3- Những nhân tố chủ yếu tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản

1.1.3.1- Những nhân tố nội sinh

* Nhân tố thứ nhất: Các nguồn lực và lợi thế so sánh

Vị trí địa lý – kinh tế - xã hội

Khánh Hoà là tỉnh ven biển có điểm cực đông của Việt Nam, là một tỉnh

thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, phía bắc Khánh Hoà giáp với tỉnh Phú Yên,

phía nam giáp với Ninh Thuận; Đăk lăk và Lâm Đồng ở phía tây. Phía đông của

Khánh Hoà là biển Đông với đường bờ biển dài 200 km (kể cả chu vi các đảo là 385

km). Khánh Hòa nằm giữa hai trung tâm kinh tế năng động của cả nước là Thành

phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Thuận lợi về vị trí này tạo điều kiện cho

Khánh Hòa phát triển lưu thông, vận tải hàng hóa, giao lưu kinh tế cả về đường bộ,

đường biển và đường hàng không, phát triển kinh tế dịch vụ - du lịch; thu hút đầu tư

trong và nước để trở thành trung tâm kinh tế của miền Trung và Tây Nguyên.

13

Khánh Hòa có đủ những nhân tố ảnh hưởng để phát triển kinh tế biển, như:

Có bờ biển dài, có ba vịnh lớn với nhiều bãi biển đẹp, như: Vịnh Cam Ranh, vịnh

Nha Trang, Vịnh Vân Phong; có các cảng biển sâu để tầu có công suất hàng nghìn

mã lực cập cảng, như: Cảng Nha Trang, cảng Cam Ranh và cảng Vân Phong, ngoài

ra còn có các cảng nhỏ phục vụ cho đánh bắt thủy sản, hoạt động du lịch và các nơi

tránh, trũ bão cho tầu biển. Thời tiết được chia làm hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa

kéo dài từ tháng 9 – 12 và mùa khô kéo dài từ tháng 1 – 8, vào mùa mưa thường có

gió mùa đông bắc thổi, nhưng cũng ảnh hưởng ít. Nhiệt độ tuyệt đối cao không vượt quá 400C, trung bình khoảng 250C, đặc biệt nhiệt độ chênh lệch ngày không quá lớn từ 5 – 80C rất phù hợp cho nuôi trồng thuỷ sản và ra khơi khai thác thuỷ sản.

Vị trí địa lý – kinh tế - xã hội thuận lợi trên kết hợp với sự ổn định chính trị -

xã hội của tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Hoà phát triển sản xuất hàng

hoá và mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh trong cả nước và quốc tế. Tạo

điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và ngành thuỷ

sản nói riêng.

Thứ hai: Yếu tố lao động

Dân số và lao động được coi là nguồn lực quan trọng để phát triển thủy sản

nói riêng và nền kinh tế nói chung, bao gồm các yếu tố: Dân số và mức thu nhập

của dân cư tạo thành thị trường nội địa to lớn; trình độ dân trí, khả năng tiếp thu cái

mới của lao động tạo thành cơ sở quan trọng để phát triển những ngành kỹ thuật

cao; các nghề truyền thống của từng vùng chính là một lợi thế để so sánh về lao

động.

Dân số của tỉnh Khánh Hòa là 1.174.848 người với mật độ dân số toàn tỉnh

là 225 người/km², trong đó nam giới có khoảng 581.299 người (49.47%) và nữ giới

khoảng 593.549 người (50.53%); năm 2011, Khánh Hòa có 568.459 người sinh

sống ở khu vực đô thị (48.4% dân số toàn tỉnh) và 606.389 người sống ở khu vực

nông thôn (51,6%). Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật toàn tỉnh có 6.082 người có

trình độ cao đẳng, 14.444 người đại học, 232 thạc sĩ, 107 tiến sĩ. Ngoài ra với

46,6% dân số trong độ tuổi lao động đã góp phần đáng để trong quá trình phát triển

14

kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Hiện lao động trong lĩnh vực

thủy sản là hơn 80.000 lao động, chiếm 31,5% số lao động của tỉnh và 72,34% lĩnh

vực nông nghiệp.[8, tr 15,16]

Đối với Khánh Hòa, dân số, lao động và trình độ lao động có ảnh hưởng lớn

đến ngành thủy sản. Đối với ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản, với đặc điểm là

tiếp súc với biển liên tục, dài ngày và đòi hỏi phải có sức khỏe, do đó đã từ lâu

người dân miền biển nói chung và Khánh Hòa nói riêng, đều có quan niệm ở hai

ngành này đòi hỏi nhiều về lao động nam giới. Vì vậy dân số và cơ cấu dân số nam

– nữ có sự tác động lớn đến lao động thủy sản nói chung và đến khai thác thủy sản

và nuôi trồng thủy sản nói riêng.

Trình độ lao động trong ngành thủy sản ảnh hưởng đến việc tiếp thu và triển

khai các công nghệ và kỹ thuật. Đối với Khánh Hòa, phần lớn lao động hoạt động

trong ngành khai thác, nuôi trồng và các nghề chế biến truyền thống có trình độ văn

hóa còn thấp, lao động thủ công còn nhiều. Đây là một thách thức lớn đối ngành

thủy sản của tỉnh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa.

* Nhân tố thứ hai: Trình độ kỹ thuật của lực lượng lao động ngành thủy sản

Thứ nhất: Trình độ kỹ thuật khai thác thủy sản. Trình độ kỹ thuật khai thác

thủy sản không chỉ nói lên năng lực khai thác, mà nó còn khái quát chung trình độ

phát triển của lực lượng sản xuất trong ngành thủy sản. Đây cũng chính là mục tiêu,

nhiệm vụ của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng nào. Sự

phát triển của trình độ kỹ thuật khai thác thủy sản sẽ thúc đẩy phân công lao động

xã hội không chỉ ở ngành thủy sản nói riêng mà của nền kinh tế nói chung, đồng

thời sự phân công lao động xã hội hợp lý trong ngành thủy sản sẽ thúc đẩy khoa

học, công nghệ phát triển. Việc nâng cao trình độ kỹ thuật khai thác cũng là đòi hỏi

bức thiết không chỉ cho công tác chuyển dịch cơ cấu, mà còn là để nâng cao năng

suất lao động, đáp ứng nhu cầu của thị trường và tiến tới giải phóng sức lao động,

bảo đảm sự phát triển bền vững ta trong lĩnh vực thủy sản. Trong thời gian qua,

ngành khai thác thủy sản Khánh Hòa đã đẩy mạnh việc nâng cao trình độ khai thác

15

thủy sản, thông qua việc phát triển đội tầu khai thác xa bờ, hiện đại hóa trang thiết

bị nghề cá. Các thuyền trưởng, máy trưởng trên các tầu khai thác đều đã được đào

tạo và tập huấn chuyên môn, lao động trên tầu có 30% tốt nghiệp phổ thông.

Thư hai: Trình độ kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. Yếu tố này không chỉ phản

ánh trình độ phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản, mà nó quyết định đến chất và

lượng của năng suất lao động ngành nuôi trồng thủy sản. Ngày nay, với sự phát

triển của kỹ thuật nuôi thủy sản, nó cho phép chúng ta bớt phụ thuộc vào yếu tố tự

nhiên như, khí hậu, môi trường, kể cả là nguồn giống cung cấp cho việc nuôi. Bên

cạnh đó, việc đẩy mạnh ứng dụng trình độ kỹ thuật nuôi tiên tiến sẽ đảm bảo tính

hài hòa giữa sản xuất với bảo tồn phát triển bền vững. Thực tế trong những năm qua

cho thấy nuôi trồng thủy sản của Khánh Hòa thực sự đã được đầu tư để trở thành

một thế mạnh của ngành thủy sản sản lượng sản xuất tăng với tốc độ phát triển khá

ổn định. Sự phát triển của nuôi trồng thủy sản là có sự đóng góp tích cực của khoa

học kỹ thuật, điều này được thể hiện trong phát triển nuôi tôm thịt thương phẩm và

nghề sản xuất giống thủy sản, đặc biệt là tôm sú giống.

Thứ ba: Trình độ kỹ thuật chế biến thủy sản

Đây là ngành chủ yếu sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong việc

tao ra đa dạng hóa mặt hàng thủy sản, sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu, nâng

cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa thủy sản. Trình độ

kỹ thuật chế biến thủy sản cũng là một trong những động lực trong việc chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành chế biến về cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành nghề.

Đối với Khánh Hòa, ở các nghề chế biến thủy sản truyền thống như: chế biến

nước mắm, cá khô, mực khô …vẫn sử dụng phương pháp, kỹ thuật và kinh nghiệm

truyền thống cha truyền con nối ở khâu chế biến, còn khâu đóng gói, bao bỳ và tiêu

thụ đã ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để bảo đảm chất lượng và cung ứng ra thị trường

được kịp thời. Xuất khẩu thủy sản có một vị trí và vai trò quan trọng của chuyển

dịch cơ cấu ngành chế biến thủy sản Khánh hòa, vì vậy chế biến thủy sản không

ngừng nâng cấp, xây dựng mới, mua sắm trang thiết bị, dây chuyền hiện đại đạt tiêu

chuẩn ngành và để đáp ứng cho mục tiêu xuất khẩu. Đặc biệt các doanh nghiệp phải

16

xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý đạt tiêu chuẩn ISO, HACCP 14000. Tóm lại,

nhân tố trình độ kỹ thuật chế biến thủy sản có sự tác động đến chuyển dịch cơ cấu

ngành nghề và chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong ngành chế biến Khánh Hòa.

* Nhân tố thứ ba: Nhân tố thị trường

Thị trường tác động trực tiếp đêna việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành nói chung và với ngành thủy sản nói riêng của mỗi nước. Hạt nhân cơ

bản của thị trường là các doanh nghiệp, các doanh nghiệp hướng ra thị trường, căn

cứ vào cung-cầu hàng hóa trên thị trường để xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh

doanh, tiếp thị của mình. Các loại thị trường bao gồm: thị trường hàng hóa, thị

trường lao động, thị trường dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường khoa học công

nghệ…. Tất cả đều tác động tổng hợp lên các doanh nghiệp và ảnh hưởng đến

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong công nghiệp. Thị trường tác động lên cơ cấu

kinh tế ngành trước hết thông qua nhu cầu tiêu dùng cuối cùng, bởi vì sản xuất

trong nền kinh tế thị trường suy đến cùng là do nhu cầu quyết định.

Đối với ngành thủy sản Khánh Hòa, nhân tố thị trường có vai trò quan trọng

đối với việc phát triển quy mô của ngành thủy sản, đến chuyển dịch cơ cấu phân

ngành, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu lao động và các hoạt động

sản xuất kinh doanh của ngành thủy sản nói chung.

* Nhân tố thứ tư: Vốn đầu tư

Tư liệu sản xuất quyết định sự phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu, đồng

thời quyết định đến tổng mức và cơ cấu vốn đầu tư. Đến lượt mình, đầu tư lại nâng

cao chất lượng tư liệu sản xuất và dịch chuyển cơ cấu ngành theo hướng tiến bộ hơn.

Ở Khánh Hòa, thủy sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển ngành

thủy sản còn nhằm thực hiện các mục tiêu kinh - tế xã hội cho tỉnh, như: tăng nguồn

thu cho ngân sách của tỉnh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn và miền biển,

giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện đời sống nhân dân…Để thực hiện được những

mục tiêu này đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn, trong khi thu nhập của người dân hoạt

động trong ngành thủy sản còn thấp, lại bấp bênh, trong những đợt biến động về giá

xăng, dầu và khủng hoảng tài chính vừa qua, nhiều hộ gia đình không tiếp cận được

17

nguồn vốn vay nên không thể duy trì được hoạt động sản xuất. Thiếu vốn cũng gây

cản trở trong việc triển khai nâng cấp trang thiết bị sản xuất hiện đại hay để mở

rộng sản xuất… Có thể nói trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản của Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì việc

nhân tố vốn đầu tư là một thách thức lớn cho ngành thủy sản.

1.1.3.2- Các yếu tố ngoại sinh

* Nhân tố thứ nhất: Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thế giới

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới đã hình thành lên những ngành kỹ

thuật cao. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ là rất lớn trong

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như: Cơ cấu sản xuất cũng sẽ được điều chỉnh

theo hướng hiện đại hóa và cao cấp hơn. Cơ cấu sức lao động cũng được trí thức

hóa. Cơ cấu sản phẩm cũng thay đổi theo hướng hàm lượng chất xám trong sản

phẩm ngày càng tăng, hàm lượng nguyên liệu và lao động chân tay ngày càng giảm

xuống…dẫn đến quá trình phân công lại lao động xã hội và xu hướng quốc tế hóa

sản xuất.

Đối với ngành thủy sản Khánh Hòa, nhân tố cuộc cách mạng khoa học –

công nghệ tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, được thể hiện: Trình độ phương tiện khai tác thủy

sản được trang bị hiện đại, công suất đánh bắt xa bờ…, hay hiện đại hóa cac ngành

khai thác truyền thống. Trong nuôi trồng thủy sản, cuộc cách mạng khoa học – công

nghệ, đặc biệt là cách mạng công nghệ sinh học, sẽ tác động đến việc phát triển

nghề nuôi thủy sản thương phẩm, nghề nuôi và tạo giống nuôi thủy sản, cũng như

việc kiểm soát dịch bệnh thủy sản. Trong chế biến thủy sản, sự tác động của nhân tố

cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đó là hiện đại hóa dây chuyền sản xuất, tiêu

chuẩn và chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm được đa dạng hơn…

Có thể nói, nhân tố cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thế giới vừa là

động lực, vừa là thách thức đối với ngành thủy sản và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản Khánh Hòa trong quá trình phát triển của mình.

18

* Nhân tố thứ hai: Toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế thế giới

Toàn cầu hóa kinh tế thế giới, bao gồm các nội dung: Quốc tế hóa thị trường,

quốc tế hóa sản xuất, quốc tế hóa tư bản và quốc tế hóa khoa học kỹ thuật.

Đối với ngành thủy sản Khánh Hòa, nhân tố toàn cầu hóa và khu vực hóa

kinh tế thế giới tạo ra cơ hội cho sự phát triển mạnh mẽ ngành thủy sản và trong quá

trình chuyển dich cơ cấu kinh tế ngành, đó là: Sẽ mở ra được một thị trường rộng

lớn cho tiêu thụ sản phẩm thủy sản và thị trường nguyên liệu thủy sản; thu hút đầu

tư của nước ngoài vào ngành thủy sản; tiếp thu được khoa học – công nghệ và kỹ

thuật hiện đại của ngành thủy sản trong khu vực và thế giới để phát triển ngành

thủy sản của tỉnh. Bên cạnh đó, nhân tố này cũng đặt ra những thách thức cho ngành

thủy sản đó là: Hàng hóa thủy sản Khánh Hòa phải đối mặt với sự cạnh tranh của

hàng hóa thủy sản của các nước trong khu vực và trên thế giới, hành hóa nước ngoài

được sản xuất trên dây chuyền hiện đại đạt được những yêu cầu cao về chất lượng,

vì vậy đây là một thách thức lớn của ngành thủy sản.

Mặt khác, các công ty, tập đoàn kinh tế nước ngoài họ mạnh cả về vốn và

công nghệ, trong khi đó các doanh nghiệp thủy sản Khánh Hòa đều hoạt động trong

tình trạng thiếu vốn, trình độ trang thiết bị còn thấp, do đó khi hội nhập kinh tế quốc

tế rất dễ bị thôn tính hoặc bị phá sản.

Cuối cùng là, ngày nay các quốc gia có biển họ đã thấy được tầm quan trọng

của biển, vì thế họ đã đầu tư các nguồn lực để phát triển kinh tế biển, các hoạt động

đánh bắt khai thác đại dương được tăng cường, nhất là các nước trong khu vực, thời

gian qua vấn đề tranh chấp về biển đông, về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và

Trường Sa đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngành khai thác thủy sản

nói riêng và đối với bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước nói chung.

1.2- Một số quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành – Vai trò, vị trí ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân

1.2.1- Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành

Quan điểm của Đảng ta về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu

19

kinh tế ngành nói riêng được thể hiện trong các văn kiện của Đại hội Đảng toàn

quốc. Kể từ năm 1986 đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế

thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bối cảnh trong nước và quốc tế có

nhiều thay đổi và đã có những tác động rất lớn đến sự nhận thức và đổi mới tư duy

của Đảng ta về quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Điều này được thể

hiện trong các Văn kiện của Đảng, từ Đại hội VI (tháng 12/1986) đến Đại hội XI

(tháng 01/2011) như sau:

* Đại hội VI (12/1986), Đảng đưa ra quan điểm: “Muốn đưa nền kinh tế sớm

thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế

quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế,

các loại hình sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí

cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế

phát triển ổn định. Để thực hiện sự sắp xếp đó, trước hết phải bố trí lại cơ cấu sản

xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư.” [6, tr 36]

Cụ thể:

- Về nông nghiệp: “Phương châm phát triển nông nghiệp là kết hợp chuyên

môn hoá với phát triển toàn diện, cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, lúa và màu,

cây lương thực và cây công nghiệp”[6, tr 37]

- Công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp: “Công nghiệp nhẹ và tiểu công

nghiệp, thủ công nghiệp đáp ứng cho được nhu cầu của nhân dân về những loại

hàng thông thường, bảo đảm yêu cầu chế biến nông, lâm, thuỷ sản, tăng nhanh việc

làm hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác, đồng thời mở rộng

mặt hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Khai thác triệt để mọi

nguồn nguyên liệu; tận dụng các loại phế liệu; tranh thủ nguồn nguyên liệu gia công

của nước ngoài.”[6, tr 38]

- Công nghiệp năng được xác định: “Việc phát triển công nghiệp nặng và

xây dựng kết cấu hạ tầng phải nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong

chặng đường đầu tiên, và theo khả năng thực tế, chuẩn bị tiền đề cho sự phát triển

kinh tế trong chặng đường tiếp theo. Ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng

20

(điện than, dầu khí). Ngành công nghiệp cơ khí của tất cả các bộ và các địa phương

phải được sắp xếp lại, đồng bộ hoá, chuyên môn hoá, từng bước đổi mới thiết

bị”.[6, tr 39]

- Về dịch vụ: “Phát triển rộng rãi các loại hoạt động dịch vụ: kỹ thuật, phục

vụ sản xuất và đời sống nhân dân.”[6, tr 39]

Như vậy, quan điểm của Đảng về cơ cấu kinh tế ngành và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành giai đoạn này được đề ra là để nhằm thực hiện mục tiêu giải quyết

vấn đề cấp thiết của đất nước là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất

khẩu, chứ không đề cập đến vấn đề vị trí ngành kinh tế mũi nhọn, cũng không xác

định tỷ trọng của từng ngành trong tổng cơ cấu. Đại hội VI cũng đánh dấu bước

ngoặt quyết định trong sự chuyển đổi cơ chế nền kinh tế theo hướng chuyển sang

nền kinh tế thị trường.

* Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng từng bước công nghiệp hóa, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu…

Phát triển nông – lâm – ngư gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh

tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu để ổn định kinh tế –

xã hội; đồng thời tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ

theo hướng huy động triệt để các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất

khẩu. Cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều ngành nghề, nhiều loại hình kinh tế, nhiều trình

độ công nghệ, nhiều quy mô, trong đó quy mô vừa và nhỏ là chính, hình thành và

phát triển trong quá trình vận động của kinh tế hàng hoá”.[6, tr 247].

Từ quan điểm của Đảng ở trên cho thấy điểm mới trong quan điểm về chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành đó là: Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước

ta giai đoạn này là phải gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền

kinh tế. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nằm trong quá trình vận động

của kinh tế thị trường. Thứ ba, cơ cấu kinh tế nước ta có sự đa dạng về ngành nghề,

loại hình kinh tế, nhiều trình độ công nghệ và nhiều quy mô.

* Sang Đại hội lần thứ VIII, cơ cấu kinh tế ngành được xác định: “Phát

triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy

21

sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hang năm 4,5 – 5%.

Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công

nghiệp hàng tiêu dùng và hang xuất khẩu. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp

bình quân hàng năm 14-15%. Phát triển các ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực

vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công

nghệ, pháp lý, tốc độ tăng giá trị dịch vụ bình quân hang năm 12-13%. Đến năm 2000

tỉ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 34-35% GDP; nông, lâm, ngư nghiệp chiếm

khoảng 19-20% trong GDP; dịch vụ chiếm khoảng 45-46%”[6, tr 395].

Ở giai đoạn này Đảng ta vẫn tiếp tục duy trì quan điểm về chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành phải gắn liền với CNH,HĐH. Bên cạnh đó đã xác định tỷ trọng

cho từng ngành trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội cũng như tốc độ phát triển giá

trị của từng ngành.

* Đại hội IX Đảng ta đã xác định: Một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương

của nó” là cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác

quốc tế sâu rộng. “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông

thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị

trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu

lao động; giá trị gia tăng của nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân hàng năm

4,0-4,5%/năm. Tỷ trọng nông nghiệp (nông, lâm, ngư) trong GDP khoảng 16-17%.

Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh,

chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Nhịp độ tăng trưởng giá trị

gia tăng công nghiệp bình quân trong 10 năm tới đạt khoảng 10-15%/năm, đến năm

2010, công nghiệp và xây dựng chiếm 40-41% GDP và sử dụng 23-24% lao động.

Các ngành dịch vụ phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt

động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Hình thành

các trung tâm thương mại lớn, phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế

mũi nhọn…Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng

trưởng bình quân 7- 8%/năm và đến 2010 chiếm 42 - 43% GDP, 26 - 27% lao

22

động”.[6, tr 503,508]

Quan điểm phát triển về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế

của Đảng ta ở thời kỳ này đó là phát huy các lợi thế so sánh của đất nước; chuyển

dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành phải nằm trong sự quy hoạch của cả

nước. Trong cơ cấu kinh tế ngành, Đảng đã xác định tỷ trọng của công nghiệp và dịch

vụ tăng lên tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống so với thời kỳ trước.

* Đại hội X Đảng ta nhấn mạnh hơn nữa đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể:

- Với nông nghiệp: “Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp

và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và

hiệu quả kinh tế cao…Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn

với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản…Phấn đấu giá trị tăng

thêm trong nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3 – 3,2%/năm; vào năm 2010 tỉ trọng

khu vực nông nghiệp khoảng 15-16% trong GDP”.[6, tr 690]

- Với công nghiệp: “Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo

hướng nâng cao chất lượng sức cạnh tranh và hiện đại hóa…phát triển công nghiệp

và xây dựng với cơ cấu ngành, nghề phù hợp. Nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh,

hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản

phẩm công nghiệp. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ,

phát triển đô thị và bảo vệ môi trường…Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm

trong công nghiệp và xây dựng 10-10,2%/năm; năm 2010 tỉ trọng khu vực công

nghiệp và xây dựng khoảng 43-44% trong GDP”.[6, tr 693]

- Với dịch vụ: “Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng yêu cầu và phù

hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế

giới. Ưu tiên phát triển các ngàn dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao.

Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống…Phấn

đấu đạt 7,7-8,2%/năm giá trị tăng thêm; năm 2010 tỉ trọng khu vực dịch vụ khoảng

40-41% trong GDP”.[6, tr 696]

Vẫn trên quan điểm xác định cơ cấu kinh tế ngành của nước ta là công

23

nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp, nhưng ở giai đoạn này xác định tỷ trọng của Công

nghiệp cao hơn ở giai đoạn trước (giai đoạn này tỷ trọng công nghiệp trong GDP cả

nước là 43-44%, thời kỳ trước là 40-41%), tỷ trọng dịch vụ giảm xuống còn 40-

41% và nông nghiệp vẫn tiếp tục được xác định giảm xuống so với trước, thời kỳ

này tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP chỉ còn là 15-16%(trước là 16-17%).

Khẳng địnhchuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải bảo đảm tính hiệu quả.

* Đại hội XI trong Văn kiện chỉ rõ “Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng

tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu

lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị

gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát

triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế

xanh. [6, tr 752]

Về công nghiệp: Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển

mạnh những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối

với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền

kinh tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và

phân phối toàn cầu…Phấn đấu giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5

năm tăng 7,7-8%/năm; tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm khoảng

41-42%. [6, tr 759]

Về nông – lâm – ngư nghiệp: Phát triển nông – lâm – ngư nghiệp toàn diện

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với tính hiệu quả, bền vững, phát huy

lợi thế của nông nghiệp nhiệt đới và giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn…Phấn

đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6-3%/năm; tỉ trọng nông

nghiệp trong cơ cấu GDP 17-18%. Tỉ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm

40-41% lao động xã hội. [6, tr 759,760]

Về các ngành dịch vụ: Phấn đấu khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao

hơn tốc độ tăng GDP và gấp ít nhất 1,3 lần tốc độ tăng trưởng của các ngành sản

xuất sản phẩm vật chất; tốc độ tăng trưởng dịch vụ bình quân 5 năm đạt 8-

8,5%/năm, tỉ trọng trong GDP chiếm khoảng 41-42%” [4, tr 761]

24

Như vậy, cùng với thời gian, nhận thức cơ cấu kinh tế ngành trong thời kỳ

công nghiệp hoá ở nước ta đã có sự thay đổi to lớn và căn bản trong quá trình nhận

thức lý luận. Cơ cấu kinh tế và cơ câu ngành kinh tế được xác định lấy cơ cấu kinh

tế ngành là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp và được xác định cả về cơ cấu tỷ

trọng, của mối ngành trong sự đóng góp vào GDP, xác định tốc độ phát triển của

mỗi ngành qua các giai đoạn, trong đó công nghiệp và dịch vụ tăng và chiếm bình

quân là 85% trong GDP, còn nông nghiệp giảm dần và chỉ còn chiếm 15% trong

GDP. Quan điểm xuyên suốt từ khi đổi mới nền kinh tế cho đến nay về xây dựng cơ

cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là phải gắn với quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, gắn với thị trường và hội nhập quốc tế, bảo

đảm tính hiệu quả và phát triển bền vững.

1.2.2- Vai trò, vị trí ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân

* Vai trò

- Thủy sản góp phần vào việc nâng tầm Việt Nam trên trường thế giới.

Kể từ khi đất nước đổi mới cho tới nay, thủy sản cùng với sản xuất lúa gạo là

hai ngành có đóng góp lớn nhất trong việc đưa vị thể Việt Nam trên trường quốc tế,

về đề xuất khẩu lương thực thực phẩm, luôn đứng trong tốp 5 nước dẫn đầu về xuất

khẩu gạo, và thủy sản. Năm 2010, Liên Hợp Quốc đã công nhận nước ta là nước

đầu tiên trên thế giới hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo.

(Năm 2000, tỷ lệ đói nghèo của nước ta là 32%, mục tiêu thiên niên kỷ mà Liên

Hợp Quốc đề ra cho nước ta là đến năm 2020 tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam giảm

xuống còn 13%. Nhưng mục tiêu thiên niên kỷ này đã được Việt Nam hoàn thành

vào năm 2010, tỷ lệ người nghèo ở nước ta còn 13%, không có người bị đói, điều

này đã được Liên Hợp Quốc công nhận). Thành công này có sự đóng góp chung của

cả nền kinh tế, nhưng trong đó phải kể đến vai trò của ngành nông nghiệp nói

chung, mà cụ thể ở đây là sản xuất lúa gạo và sản xuất thủy sản. Có thể nói trên đây

là thành tựu điển hình có sự đóng góp của thủy sản Việt Nam trong việc đưa vị thế

nước ta trên trường quốc tế.

- Về vai trò của ngành thủy sản đối với kinh tế - xã hội trong nước được thể

25

hiện ở các vai trò sau:

Thứ nhất: Ngành thủy sản đã góp phần vào việc Chuyển dịch cơ cấu nông

nghiệp nông thôn. Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện

một nền kinh tế biển. Trong những năm qua sự biến động về giá cả thủy sản trên

thế giới theo chiều hướng tăng, trong khi giá lúa gạo lại giảm. Do đó ngành thủy sản

đã tận dụng một phần lớn diện tích canh tác lúa kém hiệu quả đã được chuyển sang

nuôi trồng thuỷ sản. Quá trình chuyển đổi diện tích, chủ yếu từ lúa kém hiệu quả,

sang nuôi trồng thuỷ sản diễn ra mạnh mẽ nhất vào các năm 2000-2002: hơn

200.000 ha diện tích được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp nuôi

trồng thủy sản, tuy nhiên từ 2003 đến nay ở nhiều vùng vẫn tiếp tục chuyển đổi

mạnh, năm 2003 đạt 49.000 ha và năm 2011 đạt 125.400 ha. Có thể nói nuôi trồng

thủy sản đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể,

từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp

phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân.

Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh

mẽ. Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một

trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu

nhập cho người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Tính đến nay, tổng

diện tích ruộng trũng có thể đưa vào nuôi cá theo mô hình cá - lúa là 446.151 ha.

Năm 20011, diện tích đã nuôi được xác định là 439.379 ha, con số này vẫn tiếp tục

tăng trong những năm tiếp theo.[1, tr 3].

Thứ hai: Thủy sản là nguồn xuất khẩu quan trọng mang lại lượng ngoại tệ

quan trọng cho nền kinh tế. Từ thập niên 90 của thế kỷ XX cho đến nay, ngành thuỷ

sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng danh sách các ngành có giá trị kim

ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành Thuỷ sản còn là một trong 10 ngành có

kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản

đạt 6,11 tỷ USD, năm 2012 đạt 6,09 tỷ USD.[21, tr 1]. Kết quả này đã đưa thủy sản

Việt Nam lên bản đồ xuất khẩu của thế giới. Thế giới không chỉ biết đến gạo xuất

khẩu của Việt Nam, mà còn biết đến những sản phẩm thủy đặc sản biển xuất khẩu.

26

Thứ ba: Thủy sản đóng góp vai trò trong việc đảm bảo an ninh lương thực,

thực phẩm. Ngành thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm

cho người dân, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn

việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng

ven biển. Để làm được việc này, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động

trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo

làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản

công ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và

kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các

vùng, nhất là lao động nông nhàn trên phạm vi cả nước.[1, tr 4]

Thứ tư là: Ngành thủy sản đã góp phần tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả

sử dụng đất đai ao hồ nhỏ ở vùng nông thôn. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu nghề, ngành thủy sản đã tận dụng và sử dụng

hiệu quả diện tích mặt nước, ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động.

Người dân hầu như họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng

canh, những năm gần đay ngày càng có nhiều người nông dân tận dụng các mặt

nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm

canh và thâm canh có chọn lọc đối tượng cho năng suất cao cá mè, trắm, cá chép,

trôi Ấn Độ và các loài cá rô phi đơn tính. Điều này đã làm cho nông thôn Việt Nam

nói chung ngày càng đa dạng ngành nghề, giải quyết viếc làm, nâng cao thu nhập

khi mà các đối tượng gieo trồng kém hiệu quả.

Thứ năm: Góp phần đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc

phòng ở vùng sâu, vùng xa, nhất là ở vùng biển và hải đảo. Với quan điểm, thủy sản

là nghề cá nhân dân, do đó thủy sản không chỉ là ngành nghề kiếm kế sinh nhai, mà

với việc phát triển đánh bắt xa bờ bằng các phương tiện hiện đại, ngành thủy sản đã

góp phần vào bảo vệ chủ quyền biển đảo, vùng đặc quyền kinh tế và khai thác nước

ta. Với phương tram “Mỗi ngư dân là một chiến sĩ, tầu thuyền là một pháo đài”.

Thủy sản Việt Nam đã và đang góp phần vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và

toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

27

Từ những vai trò trên đã cho thấy, quan điểm của Đảng ta về đẩy chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng thể

hiện được tính đúng đắn, điều này được thể hiện rất rõ trong ngành thủy sản. Bên

cạnh đó, những đóng góp của thủy sản nước ta ở trên, sẽ là động lực để các nhà

hoạch định chính sách, các nhà kinh tế và nhà khoa học tìm ra những hướng đi,

những giải pháp hữu hiệu mới về chính sách, vốn, phát triển khoa học kỹ thuật cho

thủy sản, đẩy mạn thị trường xuất khẩu, phát triển nguồn nhân lực… để qua đó

nhằm phát huy hơn nữa vai trò, vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế. Thành

công của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản sẽ là động lực, bài học kinh

nghiệm cho việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cở các lĩnh vực khác.

* Vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế

Ngành thủy sản có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển

kinh tế-xã hội Việt nam. Trong những năm qua sản xuất thủy sản đã đạt được

những thành tựu đáng kể. Năm 2011, tổng sản lượng thủy sản đạt trên 5,2 triệu tấn

(tăng gấp 5,1 lần so với năm 1990, bình quân tăng 8,49%/năm ); sản lượng nuôi

trồng đạt 3 triệu tấn (tăng gấp 9,7 lần so với năm 1990, bình quân tăng

12,02%/năm ); sản lượng khai thác thủy sản đạt trên 2,2 triệu tấn (tăng gấp 3,1

lần so với năm 1990, bình quân tăng 5,83%/năm). Hàng thủy sản Việt Nam đã có

mặt ở trên 164 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu năm

2011 đạt trên 6,11 tỷ USD (tăng gấp 29,8 lần so năm 1990, bình quân tăng

18,5%/năm), 6,09 tỷ USD vào năm 2012 . Đặc biệt, tôm và cá tra là hai mặt hàng

xuất khẩu chủ lực trong nhiều năm, năm 2011 đạt kim ngạch xuất khẩu tôm là 2,39

tỷ USD và cá tra là 1,8 tỷ USD. Thủy sản luôn trong top ñầu các mặt hàng xuất

khẩu của đất nước và giữ vững vị trí top 10 nước xuất khẩu thủy sản hàng ñầu

thế giới. Đến nay nay, thủy sản đã phát triển thành một ngành kinh tế mũi nhọn,

một ngành sản xuất hàng hóa lớn, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh

đó, với sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả, thủy sản đã đóng góp tích cực trong

chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đóng góp hiệu quả cho công

cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho trên 4 triệu lao động, nâng cao

28

đời sống cho cộng đồng cư dân khắp các vùng nông thôn ven biển, hải đảo, đồng

bằng, trung du, miền núi, đồng thời, góp phần quan trọng trong bảo vệ an ninh

quốc phòng trên vùng biển, đảo của Tổ quốc.[21, tr 1]

Những con số ấn tượng trên của ngành thủy sản đạt được không phải tự

nhiên mà có. Tiềm năng và lợi thế mà ngành thủy sản có được chỉ được khơi dậy

bằng các chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, của ngành và sự phát huy

nguồn lực của nhân dân. Một trong những chính sách đúng đắn đó là đẩy mạnh

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trên phạm vi cả nước nói chung và Khánh Hòa nói chung. Vai trò, vị trí của

ngành thủy sản nêu trên sẽ cho hướng đi đúng đắn của quá trình chuyển dịch cơ cấu

ngành thủy sản về các mặt: chuyển dịch cơ cấu phân ngành, chuyển dịch cơ cấu

nghề và chuyển dịch cơ cấu sản phẩm….

1.3- Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản ở một số địa

phương trong nước và bài học kinh nghiệm rút ra

1.3.1- Khái quát tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của

một số địa phương trong nước

* Chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản Tỉnh Quảng Ninh

Quảng Ninh đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản từ năm

2001 đến nay. Trong chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản, Quảng Ninh xác định lấy

nuôi trồng là ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản. Với chủ trương đó nuôi trồng thủy sản đã chuyển biến tích cực theo

hướng sản xuất hàng hoá, tập trung về xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Tốc độ tăng

sản lượng hàng năm luôn đạt mức cao từ 12% đến 18%/năm trong cả giai đoạn từ

năm 2001 đến nay. Năm 2011, diện tích nuôi đạt 3.180ha , vượt ngưỡng cho phép là

59%, sản lượng nuôi đạt 7.175 tấn (vượt 79,3%).[17, tr 15].

Các địa phương trong tỉnh đã có sự quan tâm đầu tư xây dựng vùng nuôi tập

trung theo quy mô công nghiệp, hiện đại.

+ Công nghệ nuôi một số đối tượng nuôi chủ đạo như: cá rô phi, tôm sú, tôm

29

chân trắng... về cơ bản đã hoàn thiện và chủ động trong sản xuất. Một số đối tượng

nuôi mới như: tôm he, ghẹ xanh, tu hài, cá giò, hầu... bước đầu được nghiên cứu

ứng dụng đạt kết quả tốt, ngọc trai….

+ Hình thức nuôi ngày càng đa dạng, đặc biệt ở các vùng đất chuyển đổi đã

thu hút được nhiều doanh nghiệp và hộ nông dân tham gia đầu tư với quy mô lớn.

Trong năm 2009 đã thực hiện chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi

cá rô phi tập trung với 43 hộ tham gia trên 16 ha mặt nước; năng suất bình quân

12,7 tấn/ha. Tổng sản lượng đạt 202,194 tấn; thu được 240 triệu đồng/ha; lãi bình

quân 51 triệu đồng/ha. Các mô hình nuôi trồng thủy sản chính là hướng làm giàu

bền vững phù hợp với điều kiện thực tế và tiềm năng của tỉnh đem lại hiệu quả thiết

thực, giúp người dân phát triển kinh tế gia đình, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh

tế nông nghiệp.

+ Chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản là

đúng hướng, phù hợp với thực tế, phù hợp với đông đảo nguyện vọng của nhân dân,

đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Hiệu quả kinh tế ở những vùng chuyển đổi sang

nuôi trồng thủy sản cao hơn hẳn so với canh tác nông nghiệp truyền thống, nhiều

nơi giá trị thu nhập từ thủy sản nuôi trồng tăng gấp 4 - 8 lần trồng lúa.

+ Việc sản xuất cung ứng giống thủy sản nước ngọt có tính ổn định cao hơn.

Chất lượng con giống được nâng lên rõ rệt hàng năm. Công nghệ sản xuất giống tu

hài, hầu biển, cá rô phi lai xa, cá chim trắng, tôm sú, tôm chân trắng cơ bản đã hoàn

thiện và chủ động trong sản xuất. Một số giống nuôi mới đang được nghiên cứu ứng

dụng, bước đầu đạt kết quả tốt như ốc nhảy, điệp quạt. Hiện, tỉnh có 14 trại sản xuất

giống, trong đó có 9 trại sản xuất tôm giống, 5 trại sản xuất giống nhuyễn thể với sản

lượng năm 2009 là 208 triệu con tôm giống, trong đó: tôm he chân trắng 230 triệu,

tôm sú 50 triệu con; giống cá nước ngọt 105 triệu con, cá biển 1 triệu con, giống ngọc

trai 60 triệu con, giống thủy sản khác 64 triệu con. [17, tr 15]

+ Từ sản xuất, nuôi trồng đã thúc đẩy một số ngành dịch vụ đi kèm, trong đó

có Nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu Quảng Ninh tại Móng Cái mới đi vào hoạt

động có công suất 60 tấn/ngày, tạo động lực cho bà con yên tâm nuôi trồng và góp

30

phần nâng cao giá trị hàng xuất khẩu thủy sản.

+ Thị trường đầu ra cho nuôi trồng thủy sản nói riêng và ngành thủy sản của

Quảng Ninh nói chung, gồm: Thị trường trong nước: Hà Nội, Hưng Yên, Hải

Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang và các tỉnh Tây Bắc. Thị trường nước ngoài đó là:

Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…

Từ sự nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của Quảng

Ninh đã rút ra bài học đó là: Xác định ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển

dịch, từ đó đưa ra đồng bộ các gải pháp để thực hiện, trong đó phát huy nguồn lực

trong dân đã góp phần quan trọng cho sự thành công trên.

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản Tỉnh Quảng Ngãi

Quảng Ngãi là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước trong lĩnh vực khai

thác, phát triển kinh tế biển, sản lượng khai thác bình quân trên 100.000 tấn/năm,

với hơn 5.630 chiếc tàu đánh cá, tổng công suất 540.000CV và trên 4 vạn lao động

trực tiếp sản xuất trên biển.

Tỉnh Quảng Ngãi trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

đã xác định lấy ngành khai thác làm ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế thủy sản của tỉnh.

Chính sách hỗ trợ của tỉnh để phát triển nghề khai thác: Trên cơ sở của Quyết

định số 32/2007/QĐ-UBND ngày 22/10/2007, tỉnh đã hỗ trợ cho nhiều ngư dân vay

vốn để đóng mới tàu thuyền đáp ứng niềm mong mỏi của ngư dân. Từ đó, tàu công

suất lớn cứ dần tăng lên, tàu công suất từ 50 CV - 90 CV, 100 CV - 250 CV khá

nhiều, ở tỉnh còn có tàu đánh cá công suất lên đến 400 - 450 CV. Trong giai đoạn

2006 - 2010, ngư dân đã đầu tư đóng mới, cải hoán, nâng cấp tàu thuyền lên đến

5.622 chiếc, với tổng công suất ước đạt 480.000 CV/305.000 CV (hơn 157%).

Phát triển cơ sở hạ tầng. Tiến hành quy hoạch xây dựng 5 cơ sở hạ tầng

cảng, thông luồng và vũng neo đậu tàu thuyền. Trong đó có 3 cơ sở bước đầu đã

phát huy tác dụng. Theo thống kê, trong 5 năm qua Quảng Ngãi đã đầu tư tổng thể

khoảng hơn 584,5 tỷ đồng/686,7 tỷ đồng để phát triển kinh tế thủy sản. Nhờ đó cơ

sở hạ tầng nghề cá ngày một cải thiện tạo điều kiện cho bà con ngư dân đánh bắt,

31

nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả cao.

Những năm qua ngoài vùng ngư trường đánh bắt ở Hoàng Sa, Trường Sa,

một số ngư dân đã hợp đồng sang đánh bắt ở các vùng biển nước bạn Philippin,

Malaysia.

Phát triển mô hình nghề cá nhân dân. Từ những năm 2000, các tàu cá Quảng

Ngãi đã bước đầu hình thành (tự phát) các tổ, đội sản xuất trên biển theo nguyên tắc

“ba cùng”: cùng địa phương, cùng nghề và cùng ngư trường khai thác. Đây là việc

làm cần thiết của ngư dân để hỗ trợ nhau lúc khó khăn và tiết kiệm chi phí khai thác.

Sự hình thành các tổ, đội này đã mang lại những lợi ích thiết thực, góp phần hỗ trợ

nhau trong khai thác; ứng cứu kịp thời khi thời tiết nguy hiểm, tai nạn trên biển,

giảm chi phí sản, tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển hình thức quản lý

khai thác mới, sẵn sàng giúp nhau trong quá trình chuẩn bị, đánh bắt, tiêu thụ sản

phẩm, chia sẻ thông tin, áp dụng các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phù hợp với

điều kiện sản xuất; đồng thời góp phần triển khai các chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chủ động

xây dựng phương án phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai...

Thực hiện chính sách khuyến ngư, bên cạnh đầu tư trực tiếp về tiền của để

xây dựng cở sở hạ tầng, tỉnh đã hỗ trợ kỹ thuật cho ngư dân làm ăn. Thông qua

chương trình khuyến ngư, Trung tâm khuyến nông - khuyến ngư tỉnh tổ chức 190

lớp tập huấn với 8.800 lượt người tham dự và triển khai thực hiện 80 mô hình

khuyến ngư tỉnh, đào tạo trên 2.500 thuyền trưởng, máy trưởng và thuyền viên.

Đi đôi với việc khai thác đánh bắt ở biển khơi, dọc dài ven biển, tỉnh đã quy

hoạch để thực hiện các dự án nuôi tôm. Từ năm 2009 - 2011, đã có 5 dự án nuôi

tôm ven biển đạt hiệu quả. Tuy mỗi dự án hiện chỉ thực hiện được 1/3 - 1/2 diện

tích quy hoạch nhưng nhờ thực hiện đúng quy trình kỹ thuật nuôi nên đã cho hiệu

quả rõ rệt. Mỗi ha đạt bình quân từ 8 - 16 tấn/ha/vụ. Cá biệt như dự án nuôi tôm

trên cát thuộc xã Đức Chánh (Mộ Đức) đạt 17 tấn/ha/vụ.

Trong những năm qua, nghề nuôi trồng thủy sản đã đem lại hiệu quả kinh tế

khá cao. Tổng diện tích nuôi trồng ước đến năm 2010 gần 2.100 ha (đạt 102%),

32

sản lượng hơn 7.600 tấn hải sản, vượt 21% so với kế hoạch.

Khi khai thác và nuôi trồng phát triển thì cũng kéo theo các cơ sở mua bán

thủy hải sản hoạt động, giải quyết hàng ngàn công lao động trên bờ ở các địa

phương và các nhà máy chế biến thủy sản mang tính quy mô công nghiệp.

Bài học rút ra từ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản ở

Quảng Ngãi đó là: Lựa chọn ngành mũi nhọn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành, biết tận dụng và phát huy thế mạnh những lợi thế để thúc đẩy ngành

kinh tế mũi nhọn phát huy hơn nữa. Sự hỗ trợ kịp thời về vốn và chính sách của

chính quyền địa phương để tháo gỡ khó khăn cho ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt

là kết hợp giữa sự hỗ trợ của chính quyền là sự phát huy nhân tố nội lực của nhân

dân qua chủ trương 3 cùng. Bên cạnh việc tập trung phát huy thế mạnh của ngành

mũi nhọn, là cũng cần có sự hỗ trợ và phát triển các các ngành khác trong cơ cấu

ngành để quá trình chuyển dịch được diễn ra nhanh và mạnh mẽ.

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản Tỉnh Cà Mau

Trên cơ sở những thuận lợi về tự nhiên so với cả nước, tỉnh Cà Mau đã phát

triển thủy sản trên cả ba ngành là nuôi trồng, chế biến và khai thác. Chọn thủy sản

là kinh tế mũi nhọn của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Cà Mau

đã định hướng chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp: từ nông - lâm –

ngư sang ngư - nông - lâm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủy sản trong cơ cấu

nông-lâm-thủy sản tương ứng là 20,4% - 4,6% - 75%. Nhằm phát huy lợi thế so

sánh, chọn thủy sản làm mũi nhọn đột phá, trong đó chọn con tôm là sản phẩm xuất

khẩu chủ lực; mô hình kết hợp nông nghiệp - thủy sản; lâm nghiệp - thủy sản, kết

hợp nông - lâm - ngư áp dụng trên quy mô lớn đạt hiệu quả kinh tế cao hơn các thời

kỳ trước, toàn tỉnh hiện có diện tích nuôi thủy sản chiếm 31%, sản lượng tôm nuôi

chiếm 30%, kim ngạch xuất khẩu chiếm 20% so của cả nước.

- Về nuôi trồng thủy hải sản: Ngành nuôi tôm xuất khẩu đã trở thành một

ngành sản xuất hàng hóa năng động, thành phong trào quần chúng rộng lớn, nhất là

từ năm 2001 được chính quyền cho phép chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nông - lâm -

ngư sang ngư - nông – lâm, cơ cấu ngành thủy sản của tỉnh đến 2011là: tổng diện

33

tích nuôi trồng 282.404 ha, trong đó 240.834 ha nuôi tôm, với các loại hình chính

là: tôm-lúa 72.000-82.000 ha; tôm-vườn 8.500 ha; chuyên tôm dạng sinh thái

110.334-119.334 ha; tôm-rừng 30.000 ha; tôm công nghiệp tập trung 7.000-7.500

ha; tôm công nghiệp quy mô gia đình 3.000-3.500 ha. Nghề nuôi tôm sú Cà Mau

năm 2011 đã đạt tổng sản lượng tôm nuôi 258.509 tấn.[24, tr 15]

- Đẩy mạnh áp dụng ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào

sản xuất tôm giống, tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản phát triển và quá

trình chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thủy sản. Cà Mau đã nghiên cứu, ứng dụng

thành công một số giống mới phục vụ chuyển dịch cơ cấu, vật nuôi trong tỉnh. Sản

phẩm chủ yếu là các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với đặc điểm

các tiểu vùng sản xuất thủy sản. Sự kết hợp giữa khoa học - công nghệ mới với đặc

điểm tự nhiên của từng vùng biển của địa phương, thảm thực vật và hệ động vật

phong phú, của Cà Mau đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kết quả

là Cà Mau đã vươn lên từ chỗ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tôm giống du nhập, nay

đã tự cung ứng được trên 50% giống cho nuôi trồng thủy sản. Một hệ thống sản

xuất giống được phát triển, từ 438 trại sản xuất 1,5 tỷ con sú giống vào năm 2000;

tăng lên 905 trại, sản xuất 8 tỷ con giống, đáp ứng 74,5% tổng nhu cầu tôm giống

vào năm 2011.

- Về chế biến xuất khẩu thủy sản. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và tiềm

năng thủy sản to lớn, đa dạng để phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần

đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH, đưa kinh tế từng bước hội nhập với kinh tế khu

vực và thế giới, chế biến xuất khẩu 170.443 tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 730 triệu

USD năm 2011. Do các nhà máy tăng cường đổi mới thiết bị công nghệ, dây

chuyền sản xuất tiên tiến, từ đó mức độ tham gia thị trường rộng và chuyên sâu hơn,

sản xuất được nhiều mặt hàng giá trị gia tăng. Đây là thành tựu lớn, khẳng định vai

trò ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chất thúc đẩy các ngành nghề và kinh tế xã hội

tỉnh phát triển. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là: Mỹ, Nhật, Thị trường chung Châu

Âu, Úc, Canada, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc

- Về khai thác thủy sản: Đối với một lĩnh vực mà Cà Mau có tiềm năng phong

34

phú nhất - lĩnh vực khai thác biển, tỉnh đã tổ chức lại hoạt động khai thác theo hướng

giảm chi phí, nâng cao hiệu quả gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đẩy nhanh tiến độ

xây dựng các cảng cá, khu neo đậu tránh, trú bão; phát triển mạnh các dịch vụ hậu

cần nghề cá. Số lượng tàu thuyền khai thác biển hiện có 5.335 chiếc, với tổng công

suất 382.714 CV.

- Chú trọng đến đầu tư xây dựng cảng cá để phục vụ cho công tác khai thác,

hệ thống dịch vụ phục vụ nuôi trồng thủy sản cũng không ngừng lớn mạnh với nghề

nuôi tôm. Hiện nay, toàn tỉnh có trên 300 cơ sở kinh doanh thuốc thú y, thức ăn

thủy sản, bước đầu cung ứng kịp thời các yêu cầu sản xuất của nông dân. Hệ thống

thu mua nguyên liệu thủy sản cùng phát triển mạnh, với hơn 750 cơ sở có đăng ký

và hàng trăm phương tiện thu gom, góp phần kết nối giữa người nuôi tôm với các xí

nghiệp chế biến xuất khẩu.

Bài hoạc rút ra tư mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của Cà

Mau là. Từ những lợi thế có được từ tự nhiên, xác định thủy sản là ngành kinh tế

mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, tư đó tập trung phát triển trên cả

3 lợi thế có được của thủy sản là nuôi trồng, chế biến, khai thác. Trong 3 phân

ngành này, lại xác định sản phẩm mũi nhọn, ở đây là đối tượng tôm sú. Kết hợp

nhiều mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế nông nghiệp, trong đó thủy sản vẫn được xác định là ngành mũi nhọn trong

cơ cấu ngành nông nghiệp.

1.3.2- Một số bài học kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản

rút ra từ các địa phương trong nước

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản ở 3 tỉnh trong nước nêu

trên cũng như những bài học kinh nghiệm rút ra, chỉ có tính chất gợi mở cho quá

trình thực hiện ở Khánh Hòa, trên cở sở nghiên cứu những điểm tương đồng của

những địa phương này để tỉnh Khánh Hòa tham khảo những thành công của họ,

tránh được những thất bại, hạn chế, sai lầm mà trong quá trình thực hiện chuyển

dịch cơ cấu ngành thủy sản ở các địa phương này gặp phải.

35

Bài học kinh nghiệm thứ nhất: chọn đúng hướng chuyển dịch và chọn

đúng ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển dịch

Trong cả ba địa phương là Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Cà Mau, đều có một

đặc điểm chung của sự thành công trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

đó là xác định đúng hướng chuyển dịch và ngành kinh tế mũi nhọn. Cả ba tỉnh này

đều xác định hướng chuyển dịch đó là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

theo hướng sản xuất hàng hóa hướng ra xuất khẩu, ở Quảng Ninh chọn nuôi trồng là

ngành kinh tế mũi nhọn; Quảng Ngãi chọn ngành Khai thác và Cà Mau chọn ngành

thủy sản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Cơ sở chung để lựa

chọn ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển dịch đó là dựa trên lợi thế tự

nhiên của từng địa phương có được.

Bài học kinh nghiệm thứ hai: Đa dạng hóa mô hình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành

Trên cơ sở đã xác định ngành kinh tế mũi nhọn cho sự chuyển dịch, từ đó

tiến hành đa dạng hóa mô hình chuyển dịch cơ cấu xoay quanh ngành kinh tế mũi

nhọn, bao gồm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu phân ngành, cơ cấu ngành

chuyên môn hóa, cơ cấu nghề nghiệp. Bài học này được rút ra điển hình nhất là ở

tỉnh Cà Mau, sau đó là Quảng Ninh. Sau khi xác định ngành kinh tế mũi nhọn là

ngành thủy sản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Lúc này Cà

Mau lại tiến hành đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản trên cơ sở cả ba

phân ngành: Nuôi trồng, chế biến, khai thác, từ đó lại xác định nghề nuôi tôm sú là

nghề mũi nhọn trong nuôi thủy sản. Trong nuôi thủy sản lại có sự đa dạng về nghê

nghiệp, gồm nuôi thương phẩm, nuôi giống thủy sản…..

Bài học kinh nghiệm thứ ba: Về vai trò của chính quyền trong xác định

hướng chuyển dịch và tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Qua nghiên cứu kinh nghiệm chuyển dịch của 3 tỉnh cho thấy rằng, sau khi

đã đề ra hướng chuyển dịch cho cơ cấu ngành, ngành mũi nhọn, chính quyền đã có

những tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, thể hiện như:

chính sách hỗ trợ vốn (Quảng Ngãi), phát triển cơ sở hạ tầng; đảm bảo về diện tích;

36

chính sách khuyến ngư…tất cả những điều này đã tác động đến chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành thủy sản theo chiều hướng tích cực qua thực tiễn ở ba tỉnh trên.

Bài học kinh nghiệm thứ tư là: Phát huy yếu tố nội lực trong nhân dân để

đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Từ thực tế ở ba tỉnh cho thấy bên cạnh việc tận dụng hiệu quả và đúng đắn

những lợi thế về tự nhiên cho sự chuyển dịch, các tỉnh đã phát huy được yếu tố nội

lực trong nhân dân, đặc biệt là yếu tố vốn cho sản xuất kinh doanh. Với chính sách

đúng đắn của chính quyền đã khuyến khích được nhân dân đồng tình tham gia, và

đây chính là sự thành công đầu tiên của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.

Những bài học này được rút ra từ thực tiễn của 3 tỉnh trong nước, trong quá

trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tất cả các bài học này nó hòa quện

cùng thời trong quá trình thực hiện, nó có mối quan hệ biện chứng với nhau để đưa

quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đi đến thành công.

Kết luận chương 1

Chương 1 đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản của sự chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành và ngành thủy sản gồm:

M ột là: Trình khái niệm, đặc trưng, phân loại cơ cấu kinh tế ngành, quan

điểm của Đảng về cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành, vai trò, vị trí của ngành

thủy sản trong nền kinh tế quốc dân.

Hai là: Nêu lên nh ững nhân tố chủ yếu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành thủy sản, bao gồm những nhân tố nội sinh và những nhân tố ngoại sinh.

Ba là: Tổng kết kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của

3 địa phương trong nước, gồm: Quảng Ninh; Quảng Ngãi; Cà Mau, rút ra những bài

hoạc kinh nghiệm thiết thực để tham khảo cho tỉnh Khánh Hòa.

Những vấn đề lý luận chung của chương 1 là cơ sở lý luận để phân tích thực

trạng ở chương 2 và luận bàn về phương hướng, giải pháp chuyển dịch ở chương 3.

37

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ

NGÀNH THỦY SẢN TỈNH KHÁNH HÒA – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

2.1- Đặc điểm tỉnh Khánh Hòa nhìn từ góc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản

2.1.1- Đặc điểm tự nhiên

2.1.1.1- Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu

Vị trí địa lý

Khánh Hoà là tỉnh ven biển có điểm cực đông của Việt Nam, là một tỉnh

thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, nằm ở phần cong vươn ra biển xa nhất về phía đông, Khánh Hoà có phạm vi lãnh thổ từ 11041’53” đến 12052’35” vĩ độ Bắc và từ 108040’ đến 109023’24” kinh độ Đông. Khánh Hoà giáp với tỉnh Phú Yên ở phía

bắc, Ninh Thuận ở phía nam, Đăk lăk và Lâm Đồng ở phía tây. Phía đông của

Khánh Hoà là biển Đông với đường bờ biển dài 200 km (kể cả chu vi các đảo là 385 km). Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 5.197 km2 với dân số 1.110 nghìn người, chiếm

1,58% về diện tích và 1,35% về dân số của cả nước; đứng thứ 24 về diện tích và thứ

32 về dân số trong 64 tỉnh, thành phố nước ta.

Nằm trên trục giao thông quan trọng của cả nước, quốc lộ 1A và đường sắt

chạy từ phía Bắc đến phía Nam tỉnh, nối liền Khánh Hoà với các tỉnh phía Bắc, phía

Nam. Quốc lộ 26 nối Khánh Hoà với Đăk Lăk, quốc lộ 27 và tuyến quốc lộ nối

vùng du lịch núi Đà Lạt. Tỉnh có cảng biển Nha Trang và tương lai có cảng trung

chuyển quốc tế Vân Phong; có sân bay quốc tế Cam Ranh. Phần lãnh hải có hệ

thống đảo, đặc biệt là huyện đảo Trường Sa.

Khánh Hoà nằm giữa hai thành phố lớn là thành phố Hồ CHí Minh và Đà

Nẵng, là các trọng điểm phát triển kinh tế của cả nước, Nha Trang cách thành phố

Hồ Chí Minh 400 km. Điều này vừa là lợi thế trong giao lưu kinh tế, mở rộng thị

trường tiêu thụ sản phẩm và thu hút vốn đầu tư, song nó cũng là một thách thức lớn

của Khánh Hoà trong điều kiện cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

38

Vị trí địa lý như trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Hoà phát triển sản

xuất hàng hoá và mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh trong cả nước và

quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và

ngành thuỷ sản nói riêng.

Địa hình

Địa hình có nhiều dạng khác nhau tạo ra nhiều cảnh quan thiên nhiên phong

phú đa dạng tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho việc xây dựng các công trình

kinh tế phát triển du lịch mà còn có tác động rất lớn tới phát triển ngành thuỷ sản.

Khánh Hoà có bờ biển rất khúc khuỷu tạo ra nhiều vũng, vịnh sâu, ngoài việc

thuận lợi cho xây dựng cảng biển nước sâu còn là nơi rất lý tưởng cho việc sinh sản,

sinh trưởng của nhiều loại thuỷ sinh. Với hơn 200 hòn đảo lớn nhỏ, trong 72 đảo gần bờ có 19 đảo ốc diện tích lớn hơn 0,05 km2 là nơi cư trú của cộng đồng dân cư nghề cá ven biển. Có 10 bán đảo với diện tích 400 km2 rất thuận lợi cho phân bố

dân cư sản xuất thuỷ sản. Dọc bờ biển có những vũng,vịnh, bãi triều rất thuận lợi

cho nuôi trồng thuỷ sản; trong đó phải kể đến 3 vịnh lớn là Cam Ranh, Nha Trang,

Vân Phong rất thuận tiện cho xây dựng cảng biển nước sâu và nuôi trồng thuỷ sản

trên biển. Ngoài ra trên biển Khánh Hoà còn có các đầm nhỏ độ sâu không lớn như

Thuỷ Triều – Cam Ranh, Nha Phu – Ninh Hòa rất thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Khánh Hoà có vùng đất ngập mặn với diện tích khoảng 1.660 km2 là nơi phát

sinh chủ yếu nguồn lợi thuỷ sản của tỉnh.

Tóm lại: Với chiều dài đường biển 335 km (bờ biển + chu vi các đảo), diện tích vùng vịnh, đất ngập triều lên tới 1.660 km2 Khánh Hoà là tỉnh thực sự được

thiên nhiên ưu đãi về điều kiện phát triển nguồn lợi thuỷ sản cả trong lĩnh vực khai

thác tự nhiên cũng như nuôi trồng thuỷ sản.

Khí hậu, thuỷ văn

Về khí hậu: Khánh Hoà có đặc điểm là không có mùa lạnh ít khi nhiệt độ xuống dưới 230C, và cũng không quá nóng. Nhiệt độ tuyệt đối cao không vượt quá 400C, trung bình khoảng 250C, đặc biệt nhiệt độ chênh lệch ngày không quá lớn từ 5

39

– 80C rất phù hợp cho nuôi trồng thuỷ sản và ra khơi khai thác thuỷ sản. Thời tiết

được chia làm hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa kéo dài từ tháng 9 – 12 và mùa khô kéo

dài từ tháng 1 – 8, vào mùa mưa thường có gió mùa đông bắc thổi, nhưng cũng ảnh

hưởng ít.

Về thuỷ văn: Chế độ thuỷ triều của Khánh Hoà ảnh hưởng sâu sắc của đại

dương do ở vị trí cực đông của Việt Nam, nước biển có độ mặn cao, độ trong lớn

nên thường có những đàn cá lớn di cư vào sát bờ rất thuận tiện cho lĩnh vực khai

thác. Chế độ thuỷ văn còn chịu ảnh hưởng của dòng nước tầng mặt biển theo mùa,

mùa đông chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, mùa hè theo hướng ngược lại với

tốc độ 50 – 70 cm/s tạo ra dòng nước trồi thu hút nhiều loài cá từ phía Bắc cũng như

phía Nam tới các khu vực khai thác của tỉnh Khánh Hoà. Nước biển có độ mặn cao,

trong xanh tạo điều kiện rất tốt cho nuôi trên biển cũng như sản xuất giống các loài

thuỷ sản đặc biệt là giống tôm sú.

2.1.1.2- Đặc điểm nguồn lợi thuỷ sản

Trữ lượng hải sản thuộc vùng biển Khánh Hòa ước khoảng 150 nghìn tấn,

trong đó chủ yếu là cá nổi (70%). Khả năng cho phép hàng năm khai thác khoảng

70.000 tấn. Ngoài các hải sản như cá, mực và các loại ốc, biển Khánh Hòa còn là

nơi trú ngụ của chim yến, hàng năm cho phép khai thác khoảng 2.000 kg yến sào.

Đây là một đặc sản quý mà không phải tỉnh nào trong cả nước cũng có thể có được,

là nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp chế biến dược liệu bổ dưỡng cao cấp.

Biển Khánh Hòa còn có ý nghĩa với việc sản xuất muối do nước biển có

nồng độ muối tương đối cao, thuận lợi cho việc sản xuất muối tập trung và các sản

phẩm sau muối, nhất là muối công nghiệp.

- Sinh vật nổi gồm:

Theo thống kê có khoảng 150 loài trong đó chủ yếu là lớp chân phụ mái

chèo Coppepoda ( 86 loài ~ 57%). Đặc biệt là loài sứa thuỷ mẫu với đường kính lên

tới 20 – 30 cm cung cấp cho xuất khẩu sứa muối phèn và loài ruốc Accter cho sản

xuất mắm ruốc đặc sản. Trên dưới 30 loài cá ( nhiều nhất là loài cá bống trắng 12%,

sau đó là cá cơm, cá trích, thu ngừ, chuồn, măng…)

40

- Sinh vật đáy: Có trên 2.000 loài động vật đáy cỡ lớn ở vùng biển Khánh

Hoà chủ yếu là thân mềm, giáp xác.

+ Thân mềm chủ yếu là các loài Sò Lông lớn, Vẹm Xanh, Ngao Giá,

Sút, Sò Huyết, Sò Lông nhỏ, Phi, Ốc Nhảy, Móng tay, Mực Ống, Mực Lá, Mực

Vây, Bào Ngư, Bàn Mài, ốc Đụn, ốc Xà Cừ, ốc Kim Khôi…

+ Giáp sát chủ yếu gồm các loài: Tôm Bạc, Tôm Sú, Tôm Gân, Tôm

Đất, Tôm Hùm, Tôm Rằn, Tôm Rảo, Ghẹ Xanh, Ghẹ 3 Chấm, Cua Xanh…

+ Da gai: Hải Sâm Cát, Hải Sâm Đen, Hải Sâm Mít, Hải Sâm Lựu…

- Cá biển: Khu vực biển Khánh Hoà có 600 loài cá trong đó có khoảng 50

loài có giá trị kinh tế.

+ Cá nổi: Chiếm tỷ lệ trọng lượng cao gồm các loài cá lớn như Nhám,

Thu, Ngừ, Bạc Má… cá nhỏ như cá Cơm, Trích, Nục, Chuồn, Chỉ Vàng…

+ Cá đáy: chiếm tỷ trọng không lớn nhưng có giá trị kinh tế cao như

cá Mú, Đổng, Mối, Đỏ Da…

2.1.2- Đặc điểm kinh tế - xã hội

Theo số liệu điều tra ngày 1 tháng 4 năm 2011 dân số tỉnh Khánh Hòa là

1.174.848 người với mật độ dân số toàn tỉnh là 225 người/km², trong đó nam giới

có khoảng 581.299 người (49.47%) và nữ giới khoảng 593.549 người (50.53%); tỷ

lệ tăng dân số của tỉnh bình quân từ năm 1999-2009 là 1,1%; tỷ số giới tính là

97,9%. Theo điều tra biến động dân số năm 2011, Khánh Hòa có 568.459 người

sinh sống ở khu vực đô thị (48.4% dân số toàn tỉnh) và 606.389 người sống ở khu

vực nông thôn (51,6%). Số lượng và tỷ lệ dân thành thị đông khiến Khánh Hòa trở

thành tỉnh đô thị hóa cao nhất trong các tỉnh khu vực miền Trung.[8, tr 9]

Dân số Khánh Hòa hiện nay phân bố không đều. Dân cư tập trung đông nhất

ở thành phố Nha Trang (chiếm 1/3 dân số toàn tỉnh), trung tâm chính trị, kinh tế,

văn hóa của tỉnh. Huyện Diên Khánh và thành phố Cam Ranh cũng có mật độ dân

số khá cao (xấp xỉ 400 người/km²) thị xã Ninh Hòa và các huyện còn lại ở đồng

bằng có mật độ dân cư không chênh lệch lớn và gần bằng mức trung bình toàn tỉnh

(khoảng 200 người/km²), các huyện miền núi có mật độ dân số tương đối thấp là

41

Khánh Sơn (62 người/km²) và Khánh Vĩnh (29 người/km²). Nơi có mật độ dân số

thấp nhất tỉnh là huyện đảo Trường Sa (0.39 người/km²). Theo số liệu của Tổng cục

Thống kê Việt Nam năm 2010 thì toàn tỉnh có khoảng 519.600 người sinh sống tại

khu vực thành thị và 648.100 sinh sống ở khu vực nông thôn. Đội ngũ cán bộ khoa

học kỹ thuật toàn tỉnh có 6.082 người có trình độ cao đẳng, 14.444 người đại học,

232 thạc sĩ, 107 tiến sĩ. Ngoài ra với 46,6% dân số trong độ tuổi lao động đã góp

phần đáng để trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh

tế của tỉnh. [8, tr 9, 13]

Về độ tuổi năm 2009 toàn tỉnh có 526.061 người dưới 25 tuổi (45% dân số),

450.393 người từ 25 đến 50 tuổi (39% dân số) và 183.150 trên 50 tuổi (16%)

Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh và vững

của Việt Nam. Theo số liệu thống kê cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh là

11,55%, giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tăng 15,5%, giá trị nông lâm thủy

sản tăng 2,81%, ngành dịch vụ du lịch tăng 14,5%. GDP bình quân đầu người năm

2011 là 1.710 USD cao hơn mức bình quân chung của Việt Nam. Dịch vụ - du lịch

chiếm 45% cơ cấu kinh tế, công nghiệp - xây dựng là 42%, còn nông - lâm - thủy

sản chiếm 13%. Tính đến năm 2011, thủy sản Khánh Hòa đã thu hút được 86.442

lao động.[23, tr 9,22]

2.1.3- Đặc điểm tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Khánh Hòa

thời gian qua

* Tình hình tăng trưởng GDP

Trong những năm qua, kinh tế tỉnh Khánh Hòa liên tục phát triển với nhịp độ

tăng trưởng tương đối cao và ổn định, đạt được những thành tựu quan trọng, là một

trong những tỉnh có đóng góp cho ngân sách Trung ương, cơ cấu kinh tế chuyển

dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước đưa Khánh Hòa

trở thành trung tâm kinh tế của khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh cao hơn tốc độ tăng bình quân của cả nước,

cụ thể: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1996-2005 là 9,6%/năm (cả nước

42

7,1%-7,2%), trong đó giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 10,8%/năm; giai đoạn

2006-2010 bình quân tăng bình quân khoảng 11%/năm.

* Đặc điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nếu mức tăng GDP bình quân hằng năm của Khánh Hòa giai đoạn 1991-

1995 là 6%; giai đoạn 1996-2000 là 8,2% thì đến giai đoạn 2001-2010 mức tăng

trưởng là 10,8%. Cơ cấu kinh tế của Khánh Hòa đã có sự chuyển dịch theo hướng

hiện đại. Tỷ trọng dịch vụ - du lịch; công nghiệp - xây dựng tăng; nông nghiệp

giảm. Điều này được thể hiện, những năm trước 2000, tỷ trọng của dịch vụ - du lịch

là 39,3%; công nghiệp – xây dựng 37,4% và nông nghiệp là 23,3%. Ðến năm 2009,

tỷ trọng dịch vụ - du lịch chiếm 43,32% trong cơ cấu kinh tế; công nghiệp - xây

dựng chiếm 41,71%; nông nghiệp 14,97%. Năm 2012, cơ cấu kinh tế tiếp tục

chuyển dịch theo hướng công nghiệp - xây dựng 46,3%, dịch vụ 41,6%, nông - lâm

nghiệp và thủy sản 12,1%. [23, tr 12]

Trong quá trình phát triển, tỷ trọng dịch vụ - du lịch trong cơ cấu kinh tế tăng

khá nhanh, với mức tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hằng năm khoảng 16,3%.

Nhiều ngành dịch vụ, như hoạt động trung chuyển xăng, dầu, đã có đóng góp khá

lớn vào GDP của Khánh Hòa. Năng lực về cơ sở vật chất, dịch vụ của ngành du lịch

đang có bước phát triển mạnh cả về quy mô lẫn chất lượng.

Công nghiệp tăng trưởng bình quân hằng năm ở mức 12,4%, bước đầu đã

hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn như: Ðóng tàu, chế biến, xuất khẩu thủy

sản... Trong cơ cấu cây trồng, vật nuôi, diện tích, số lượng cây, con có giá trị kinh tế

cao đang được nâng lên. Ðiều đáng lưu ý là tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh

tế tuy giảm nhưng chất lượng tăng trưởng liên tục tăng lên nhờ được chú trọng đầu

tư nhiều mặt.

- Quá trình CNH, HÐH nông nghiệp và nông thôn đã có sự tăng tốc; tốc độ

đô thị hóa nông thôn diễn ra nhanh hơn trước thông qua việc thực hiện các chương

trình kinh tế - xã hội lớn của tỉnh như: Giao thông nông thôn; điện nông thôn; kiên

cố hóa kênh mương... Cơ cấu lao động nông thôn, theo đó, cũng đang chuyển biến

43

theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động dịch vụ, công

nghiệp, lao động có trình độ kỹ thuật, lao động được đào tạo.

- Vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh luôn tăng trưởng với tốc độ cao

trong thời gian qua, bình quân trên 20%/năm trong giai đoạn 2001-2010, trong đó

tăng với tốc độ cao chủ yếu trong giai đoạn 2006-2010. Trong đó nguồn vốn nhà

nước đã được chủ trương đầu tư theo quy định nên tăng với tốc độ vừa phải theo

tiến độ hàng năm, chủ yếu tăng cao từ nguồn vốn dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà

nước, bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng chững lại và tăng

chậm so với tốc độ tăng bình quân chung.

- Tốc độ đô thị hóa có bước phát triển nhanh, diện mạo đô thị văn minh, hiện

đại ngày càng định hình rõ nét. Đến năm 2009, thành phố Nha Trang đã được công

nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh, thị xã Cam Ranh lên Thành phố và là đô thị loại

III, thị trấn Ninh Hòa lên Thị xã và là đô thị loại IV… Hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho

miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; quản lý chặt chẽ đất đai, rừng, biển, cảnh

quan môi trường.

2.2- Thực trạng cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh

Khánh Hòa qua các giai đoạn

2.2.1- Tổng quan về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Khánh Hòa thời gian qua

* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Khánh Hòa thời gian qua

Cơ cấu kinh tế của Khánh Hòa đang chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng

dần tỷ trọng của ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ - du lịch và giảm dần tỷ

trọng của nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Điều này được thể hiện:

Năm 1986, tỷ trọng nông nghiệp (nông – lâm - ngư) chiểm 47%; công

nghiệp, xây dựng 23%; dịch vụ 30%.

Năm 2000, tỷ trọng của nông nghiệp là 23,3%; công nghiệp – xây dựng

37,4% và dịch vụ - du lịch là 39,3%.

Ðến năm 2005, tỷ trọng nông nghiệp 17,61%; công nghiệp - xây dựng

41,44%; dịch vụ - du 40, 95%.

44

Năm 2010, chuyển dịch theo cơ cấu dịch vụ - du lịch 44,19%, công nghiệp -

xây dựng 42,23%, nông - lâm - thủy sản 13,58%.

Năm 2012, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp - xây

dựng 46,3%, dịch vụ 41,6%, nông - lâm nghiệp và thủy sản 12,1%.

Hình 2.1- Cơ cấu GDP các ngành kinh tế tỉnh Khánh Hòa các năm 1986,2000, 2005, 2010 và 2012 (%).

2010

Nông nghiệp 13,58%

DV,DL 44,19%

CN,XD 42,23%

2012

Nông nghiệp 12%

DV,DL 42%

CN,XD 46%

Nguồn: Niên giám thống kê (2000), (2012) Cục thống kê Khánh Hòa

45

Như vây, qua phân tích sơ bộ cho thấy cơ cấu kinh tế Khánh Hòa đã bước

đầu phát huy thế mạnh của mình và là một trong những tỉnh có quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế tương đối nhanh và tiến bộ.

* Cơ cấu ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân

- Năm 2000, tổng giá trị GDP của tỉnh Khánh Hòa là 6.328 tỷ đồng (theo giá

thực tế); giá trị sản xuất của nông - lâm - thủy sản là 3.122 tỷ đồng, trong đó giá trị sản

xuất của ngành thủy sản là 2.881,545tỷ đồng (92,3% trong nông – lâm – thủy sản).

- Năm 2005, GDP của tỉnh là 13.397 tỷ đồng; nông – lâm – thủy sản là

5.735 tỷ đồng, trong đó thủy sản là 5.389,036 tỷ đồng(đóng góp vào nông – lâm –

ngư là 94%).

- Năm 2010, GDP của Khánh Hòa là 33.749 tỷ đồng; nông – lâm – thủy sản

là 10.066,223 tỷ đồng, trong đó của thủy sản là 6.029,036 tỷ đồng(chiếm tỷ lệ 60%

trong ngành nông – lâm – thủy sản)

- Năm 2012, GDP Khánh Hòa 43.903,440 tỷ đồng; nông – lâm – thủy sản

11.842,323 tỷ đồng, trong đó thủy sản 6.556,350 tỷ đồng (chiếm trong nông – lâm –

thủy sản).

Như vậy, giá trị GDP của tỉnh đã tăng nhanh trong thời gian qua, trong sự gia

tăng này có sự đóng góp không nhỏ giá trị của ngành thủy sản, qua đây cho thấy vị

thế của thủy sản trong nền kinh tế Khánh Hòa thời gian qua.

* Cơ cấu giá trị sản xuất của ngành thủy sản trong cơ cấu nông – lâm –

thủy sản

Trước năm 2007, ngành thủy là một bộ phận trong cơ cấu ngành của GDP,

nhưng từ năm 2007 đến nay, ngành thủy sản sáp nhập với nông – lâm nghiệp, tạo

thành cơ cấu kinh tế nông – lâm – thủy sản, trong cơ cấu kinh tế ngành cùng với

công nghiệp – xây dựng; dịch vụ - du lịch trong của GDP. Vì vậy ta cần xem xét sự

cơ cấu kinh tế nông – lâm – thủy sản để thấy được vị thế của thủy sản trong co cấu

ngành này.

46

Bảng 2.1- Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông – lâm – thủy sản giai đoạn 2000-2005

Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản

Năm

Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Tổng giá trị ngành nông – lâm – TS (tỷ đồng) Tỷ lệ trong tổng giá trị (%)

2.881,545 185,06 55,4 2000 3.122,00 5,93 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 1,77

2001 90,40 58,7 3.516,10 2.57 1,67

281,00 54,7 2002 3.869,034 7,26 1,44

2003 274,94 51,6 4.363,00 6,3 1,18

2004 290,42 51,6 4.968,00 5,85 1,04

Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 92,3 3.366,989 95,76 3.533,334 91,32 4.036,455 92,52 4.625,982 93,12 5.389,036 2005 290,47 55,5 5.735,00 5,06 1,0 94,0

Nguồn: Niên giám thống kê 2012, Cục thống kê Khánh Hòa [5, tr 38,68,69]

Tổng giá trị sản xuất của ngành nông – lâm – thủy sản gia tăng hàng năm, sự

gia tăng này chủ yếu là do sự gia tăng giá trị sản xuất của ngành thủy sản, chiếm tỷ

trọng trung bình 92% trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông – lâm – thủy sản;

nông nghiệp và lâm nghiệp giữ được tỷ lệ ổn định trong cơ cấu giá trị qua các năm,

nông nghiệp bình quân là hơn 5% và lâm nghiệp là hơn 1,0%. Sự chuyển dịch về cơ

cấu giá trị sản xuất theo hướng gia tăng của ngành thủy sản, cho thấy thủy sản đang

từng bước phát huy những lợi thế để phát triển và giữ vị trí đặc biệt quan trọng

trong ngành nông – lâm – thủy sản của Khánh Hòa.

2.2.2- Giai đoạn 2000-2005

2.2.2.1- Cơ cấu các phân ngành trong ngành thủy sản

Cơ cấu các phân ngành trong ngành thủy sản bao gồm: nuôi trồng thủy sản,

khai thác thủy sản, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần thủy sản. Sự phân tích số

liệu dưới đây sẽ cho ta thấy vị trí của từng phân ngành trong cơ cấu ngành thủy sản.

47

Bảng 2.2- Cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản Khánh Hòa giai đoạn

2000-2005.

Chế biến TS

Nuôi trồng TS

Khai thác thủy sản Dịch vụ hậu cần TS

Năm

Tổng giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng)

1.421 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 2000 2.881,545 627,109 21,76 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 25,30 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 49,31 104,400 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 3,62 729,036

1.740 2001 3.366,989 748,409 22,22 22,47 51,68 122,140 3,63 756,440

2.030 83,835 2002 3.533,334 719,496 20,36 19,81 57,45 2,38 700,003

2.291 2003 4.036,455 899,917 22,29 18,17 56,76 109,900 2,78 733,638

2.755 67,725 2004 4.625,982 885,220 19,14 19,63 59,55 1,68 908,037

3.335 57,707 62,90 1,07 2005 5.389,036 883,660 16,40 1.112,669 20,65

Nguồn: Niên giám thống kê 2012, Cục thống kê Khánh Hòa [5, tr 69,70]

Từ bảng 2.2 cho thấy, giá trị sản xuất của ngành thủy sản Khánh Hòa tăng lên

hàng năm. Trong cơ cấu giá trị của ngành thủy sản, thì tỷ trọng của chế biến thủy sản

chiếm hơn 55%, tiếp đó là khai thác thủy sản 23%, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng 21%

và cuối cùng là dịch vụ hậu cần 1,5%. Như vậy, trong cơ cấu giá trị của ngành thủy

sản, thì chế biến đã có sự đóng góp chủ lực, khẳng định thế mạnh của mình trong cơ

cấu ngành thủy sản.

2.2.2.2- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các phân ngành thủy sản.

* Nuôi trồng thủy sản

Chuyển dịch cơ cấu nghề nuôi trồng thủy sản

Nghề nghiệp nuôi thủy sản Khánh Hòa tập trung ở các nghề: nuôi cá, nuôi

tôm, nuôi tôm giống và từ năm 2000 trở lại đây có nghề trồng rong sụn. Những năm

đầu của giai đoạn 2000-2005, nghề nuôi thủy sản Khánh Hòa đã đứng đầu cả nước

về sản lượng nuôi tôm thương phẩm và nuôi tôm giống. Nhưng về cuối giai đoạn

này nghề nuôi tôm nói chung của Khánh Hòa đã dần đánh mất đi lợi thế và có xu

hướng giảm mạnh.

48

Bảng 2.3- Tốc độ phát triển nghề nuôi thủy sản Khánh Hòa giai đoạn 2000-2005

Đvt 2000 2001 2001 2003 2004 2005 Ngành nghề nuôi thủy sản

129 131 235 227 580 678 1. Nuôi cá tấn Tốc độ phát triển bình quân (%) 141,7

6.928 8.200 6.609 8.072 5.968 5.330 tấn 97,2

2. Nuôi tôm thương phẩm 3. Nuôi tôm giống

- Trại sx giống 89,7 1.308 1.318 1.110 851 638

91,2 3.140 3.480 3.940 3.105 1.709 1.528 - Sản lượng giống Trại 1.289 Triệu con

4. Trồng Rong sụn

350 280 185 185 215 98,26 275 ha - Diện tích

101,12 Tấn 10.156 12.800 11.500 5.360 5.700 7.860 - Sản lượng

Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.

Bảng 2.3 cho thấy. Năm 2000, sản lượng nuôi tôm thương phẩm là 6.928

tấn, đã giảm xuống còn 5.330 tấn vào năm 2005, tốc độ giảm sản lượng bình quân

là 2,8%/năm. Nuôi tôm giống có tốc độ giảm mạnh nhất về số trại giống và sản

lượng giống, tốc độ giảm của trại nuôi tôm giống giai đoạn này bình quân là

10,3%/năm, tốc độ giảm của sản lượng con tôm giống bình quân là 8,8%. Ngược lại

với xu hướng giảm của nghề nuôi tôm, nghề nuôi cá giai đoạn này có xu hướng tăng

với tốc độ tăng cao, tốc độ tăng bình quân hàng năm của nghề nuôi cá là

41,7%/năm. Trồng rong sụn là nghề mới trong nuôi trồng thủy sản, tuy vậy nghề

này cũng không giữ được tốc độ phát triển như thời kỳ đầu, tốc độ giảm bình quân

của diện tích là 1,74%/năm, sản lượng vẫn giữ đuộc tốc độ phát triển bình quân là

1,12%/năm.

Sự sụt giảm về sản lượng tôm nuôi thương phẩm là do chất lượng giống

giống Post không được tốt, nguồn nước nuôi bị ô nhiễm, do mật độ nuôi quá dầy, vệ

sinh đìa nuôi không tốt dẫn đến dịch bệnh làm tôm chết nhiều. Về nuôi tôm giống,

cũng gặp khó khăn về chất lượng giống bố mẹ không tốt, nên gây giống nhưng

49

không sinh sản, mặt khác nguồn tôm giống bố mẹ phụ thuộc rất lớn từ việc đánh bắt

từ tự nhiên, nhưng nay đã đi vào thời kỳ cạn kiệt. Đây chính là những nguyên nhân

gây ra sự sụt giảm về sản lượng của nuôi thủy sản nói chung.

* Khai thác thủy sản

- Chuyển dịch cơ cấu tầu thuyền khai thác thủy sản

Ngành khai thác thủy sản có đặc điểm là gắn với ngư trường khai thác, ngư

trường khai thác lại có: ngư trường ven bờ (đánh bắt gần bờ) và ngư trường xa bờ

(đánh bắt xa bờ). Chính đặc điểm này nó cho thấy được năng lực khai thác thủy sản.

Mà năng lực khai thác thủy sản được thể hiện ở số lượng tầu thuyền và cơ cấu tầu

thuyền khai thác. Nhìn chung, ở giai đoạn 2000-2005 này số lượng tầu thuyền máy

phục vụ khai thác thủy sản tăng đều qua các năm, nếu như năm 2000 tổng số tầu

thuyền đánh bắt là 5.205 chiếc, với tổng công suất là 119.695CV; đến năm 2005 con số

này tăng lên là 5.646 chiếc (tăng 8,45% so với năm 2000), công suất tăng 126.482CV

(tăng 5,7%). Con số đáng chú ý ở giai đoạn này là số thuyền đánh bắt thủ công được

giữ nguyên từ đầu kỳ đến cuối kỳ là 1.500 chiếc, với tổng trọng tải là 4.782 tấn.

Bảng 2.4- Tốc độ phát triển tầu thuyền khai thác thủy sản

giai đoạn 2000-2005

Tầu đánh bắt gần bờ T ầu đánh bắt xa bờ

Năm Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng công suất (CV) Tổng số tầu thuyền máy (chiếc)

Số lượng (chiếc) 4.790

5.205

119.695

Số lượng (chiếc) 415 2000 92,03 7,97

5.325

120.942

4.895 430 91,92 8,08 2001

122.604

4.976 441 91,86 8,14 5.417 2002

5.439

123.161

4.981 458 2003 89,92 10,08

5.476

124.938

4.867 609 89,80 10,20 2004

5.646

126.482

5.021 625 88,93 11,07 2005

Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.

Từ phân tích Bảng 2.4 đã cho thấy, cả số lượng tầu khai thác gần bờ và xa

bờ đều tăng, nhưng tốc độ tăng của số lượng tầu máy khai thác xa bờ tăng nhanh

50

hơn, con số này ở năm 2000 là 7,97%, đến năm 2005 đã lên đến 11,07%. Trong khi

tỷ trọng của tầu máy khai thác gần bờ giảm xuống, năm 2000 là 92,03%, giảm

xuống còn 88,93% năm 2005. Bên cạnh đó, số lượng thuyền khai thác thủ công vẫn

giữ nguyên về số lượng 1.550 chiếc và tổng trọng tải là 4.782 tấn. Điều này đã cho

thấy nguồn lực thủy sản ven bờ đã dần cạn kiệt, chủ trương đầu tư đánh bắt xa bờ

ngày càng được chú trọng.

- Chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản

Ngành nghề khai thác thủy sản ở tỉnh Khánh Hòa ngày càng đa dạng, những

ngành đòi hỏi phải có sự đầu tư phương tiện đánh bắt hiện đại, công suất lớn và thời

gian đánh bắt xa bờ dài ngày như ngành: Lưới kéo, lưới vây, lưới rê và nghề câu.

Bên cạnh những nghề khai thác mạng tính truyền thống như: nghề lưới mành, lưới

cước, pha xúc, trủ…

Bảng 2.5- Cơ cấu và tỷ trọng nghề nghiệp khai thác thủy sản toàn tỉnh Khánh Hòa tính đến năm 2005

Nhóm công suất

Loại nghề

20 - < 90CV 90 – 250CV 250 – 400CV Trên 400CV Tỷ trọng công suất theo loại nghề (%) Tổng Công suất theo loại nghề (CV)

1. Lưới kéo (giả) 150 250 65 125 590 17,4

2. Lưới vây 35 43 68 52 198 5,8

3. Lưới rê (cản) 1.012 205 125 105 1.447 42,7

85 958 45 68 1.156 34,1

3.391 2155 100 326 582 327

4. Nghề câu Tổng số tầu máy theo nhóm công suất (chiếc) Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.

Từ sự phân tích số liệu Bảng 2.5 cho biết, đến năm 2005, bốn ngành nghề

khai thác chủ lực là: Lưới kéo, lưới vây, lưới rê và nghề câu, trong đó nghề lưới rê

chiếm tỷ trọng 42,7% tổng công suất; tiếp đến là nghê câu với tỷ lệ 34,1%; nghề

lưới kéo tỷ lệ là 17,4% và cuối cùng là nghề lưới vây, tỷ lệ 5,8%. Trong bốn nghề

51

khai thác chủ lực trên, thì nghề lưới rê và nghề câu đã chiểm tỷ trọng 76.8% trong

tổng công suất. Từ bảng số liệu 2.6 còn cho thấy số tầu thuyền có công suất từ

20CV đến 90 CV được sử dụng trong 4 nghề khai thác này vẫn còn lớn 2.155 chiếc,

trong đó nghề lưới rê chiếm 1.012 chiếc (47%). Điều này cho thấy ở giai đoạn này,

năng lực khai thác thủy sản của Khánh Hòa còn yếu.

* Chế biến thủy sản

Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề chế biến thủy sản

Cơ cấu nghề chế biến thủy sản tỉnh Khánh Hòa gồm: Chế biến cho tiêu dùng

nội địa và chế biến xuất khẩu. Cả hai lĩnh vực này trong thời gian qua đều tăng

mạnh, điều này cho thấy cả tiêu dùng nội địa và tiêu dùng xuất khẩu về mặt hàng

thủy sản ngày càng tăng. Trong đó tỷ trọng và tốc độ tăng của chế biến thủy sản nội

địa tăng nhanh hơn chế biến thủy sản xuất khẩu.

Bảng 2.6- Tốc độ phát triển nghề chế biến thủy sản Khánh Hòa giai đoạn 2000-2005

Ngành nghề 2004 2000 2002 2001 2003 2005 Sản lượng

Chế biến XK

Tấn 21.800 22.828 23.700 35.000 45.248 45.700 2.875 3.250 9.180 11.000 8.780 9.320

Tốc độ phát triển bình quân (%) 114,4 Chế biến nội địa Tấn 133,6 Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.

Chế biến thủy sản tiêu dùng nội địa, gồm các sản phẩm: Đồ khô, nước mắm,

đồ chế biến sẵn…ở năm 2000, sản lượng 2.875 tấn, đén 2005 sản lượng tăng lên

9.320 tấn, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 33,6%/năm. Điều này cho thấy, các

doanh nghiệp chế biến thủy sản đã quan tâm đến thị trường nội địa, khi mà thị

trường xuất khẩu gặp khó khăn.

Chế biến xuất khẩu tiếp tục khẳng định thế mạnh của mình, đã tăng mạnh về

sản lượng xuất khẩu, nếu năm 2000 xuất khẩu đạt 21.800 tấn, đến năm 2005 tăng

lên 45.700 tấn, tốc độ tăng bình quân của cả giai đoạn là 14,4%/năm.

52

2.2.2.3- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong các phân ngành thủy sản

* Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành nuôi trồng thủy sản

Những năm cuối thập kỷ 90 và đầu những năm 2000, Khánh Hòa có thế

manh về nuôi tôm sú, tôm sú đã chở thành đối tượng nuôi chủ lực để đáp ứng nhu

cầu thị trường và đảm bảo nguyên liệu cho chế biến thủy sản. Những năm gần đây,

tính chủ lực của tôm sú đã có xu hướng giảm. Cơ cấu sản phẩm nuôi trồng có sự

chuyển dịch từ nuôi tôm sú sang nuôi hải đặc sản biển (Tôm hùm, tôm thẻ chân

trắng). Sự chuyển dịch một mặt là do nhu cầu của thị trường về sản phẩm hải đặc

sản biển, mặt khác do tôm sú ở giai đoạn dịch bệnh nhiều, đã làm thiệt hại về kinh

tế đối với người nuôi, do đó diện tích và sản lượng của tôm sú đã giảm tương đối,

thế vào đó là sự gia tăng tỷ trọng của hải đặc sản biển.

Bảng 2.7- Tốc độ phát triển một số sản phẩm nuôi trồng thủy sản chủ yếu

giai đoạn 2000-2005

Tôm sú Hải đặc sản biển

Năm

Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn)

Tốc độ tăng, giảm (%) 100 105 122,35 154,91 100,4 1.133 1.190 1.456 2.271 2.279 8.072 7.457 6.017 5.330 4.836 2001 2002 2003 2004 2005

Tốc độ tăng, giảm (%) 100 92,38 80,69 88,58 90,73 Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010

Bảng 2.7, cho thấy tốc độ tăng bình quân của cả giai đoạn của sản phẩm hải

đặc sản là 117,25%/năm. Cùng với thời điểm này, thì sản phẩm tôm sú có sự sụt

giảm mạnh, nếu như năm 2001, sản lượng của tôm sú là 8.072 tấn, thì đến năm

2005 chỉ còn 4.836 tấn, đã giảm 40,10%, giảm bình quân của cả giai đoạn là

9,52%/năm. Sự chuyển dịch này cho thấy, do nhu cầu của thị trường tăng về sản

phẩm hải đặc sản, nên người dân đã chuyển dần từ nuôi tôm sú sang nuôi hải đặc

sản biển có giá trị kinh tế cao, trong khi điều kiện nuôi và kỹ thuật nuôi sản của hải

đặc sản biển cũng tương đồng nhau. Hình thành hướng đi mới bớt phụ thuộc vào

sản phẩm chủ lực của thủy sản Khánh Hòa.

53

- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành khai thác thủy sản

Từ năm 2000 trở lại đây ngành khai thác thủy sản Khánh Hòa đã áp dụng

hình thức tự cân đối tự trang trải theo kinh tế thị trường, khai thác thủy sản đã phát

triển trong đầu tư mua sắm phương tiện đánh bắt mới tạo ra sản lượng khai thác

năm sau cao hơn năm trước và vươn dần ra các ngư trường xa bờ, bên cạnh đó sản

phẩm khai thác cũng đa dạng hơn, có sự chuyển dịch theo hướng đáp ứng nhu cầu

thị trường. Cơ cấu sản phẩm ngành khai thác những năm đầu 2000 là: Cá 72,83%;

mực 15%, thủy sản khác 9,5%; tôm 2,65%.

Bảng 2.8- Tốc độ phát triển một số sản phẩm khai thác thủy sản chủ yếu giai đoạn 2000-2005

Cá Tôm Mực Thủy sản khác Năm

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn)

Sản lượng (tấn) 5.133 Sản lượng (tấn) 2000 54.080 39.388 72,83 1.434 2,65 8.125 15,0 9,5

2001 56.645 42.564 75,14 1.034 1,82 7.927 14,00 5.120 9,03

5.429 2002 60.972 45.471 74,58 985 1,62 9.087 14,9 6,0

2003 60.210 41.142 68,33 2.210 3,67 10.345 17,18 6.513 10,8

9.926 2004 63.106 38.895 61,63 3.700 5,86 11.285 17,9 14,6

2005 65.130 39.771 61,06 4.058 6,23 12.138 18,63 9.163 14,1

Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010

Bảng 2.8 cho thấy, sản phẩm cá mặc dù vẫn là sản phẩm khai thác chủ yếu

và chiếm tỷ trọng lớn, 72,38% ở năm 2000, nhưng tỷ trọng này đã bị giảm xuống

còn 61,06%, các sản phẩm khác đều tăng tỷ trọng, trong đó: mực tăng từ 15% năm

2000 lên 18,63% ở năm 2005; thủy sản khác tăng từ 9,5% ở năm 2000 lên 14,1%

vào năm 2005; tôm tăng từ 2,65% năm 2000 lên 6,23% năm 2005.

* Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành chế biến thủy sản

Tính đến năm 2005, ở Khánh Hòa có 28 nhà máy chế biến xuất khẩu, trong đó

20 nhà máy đông lạnh với công suất đông là 318 tấn/ngày; có khoảng 10.000 tấn kho

bảo quản. Cơ cấu sản phẩm của ngành chế biến thủy sản năm 2000: sản phẩm thủy

54

sản đông lạnh 71,11%, sản phẩm thủy sản khô 18,87%, sản phẩm thủy sản tươi

sống 10,01%. Đến cuối năm 2005, tỉnh Khánh Hòa có 4 nhà máy được cấp Code

xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, 01 nhà máy được công nhận đạt tiêu chuẩn

HACCB của Mỹ, số nhà máy còn lại đều đạt tiêu chuẩn của ngành. Hầu hết các nhà

máy đông lạnh đều được nâng cấp với các trang thiết bị hiện đại như dây chuyền luộc

tôm, rửa và lựa cỡ tôm, thiết bị cấp đông nhanh các loại.

Sản phẩm khô

Năm

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản phẩm đông lạnh Sản lượng (tấn)

Bảng 2.9- Tốc độ phát triển một số sản phẩm chế biến thủy sản chủ yếu giai đoạn 2000-2005 Sản phẩm tươi sống Sản lượng (tấn) 2.092 Sản lượng (tấn) 3.944 18,87 10,01

2.771 4.561 2000 20.896 14.860 71,11 2001 22.828 15.496 68,82 12,13 20,7

2.470 10,42 5.040 21,25 2002 23.711 16.201 68,32

2.750 2003 35.000 27.150 77,57 7,86 5.100 14,57

2.790 2004 45.300 35.067 77.41 6,16 7.443 16,43

2.850 2005 45.800 35.400 78,14 6,29 7.550 16,67

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH, Sở TS KH, từ 2000 đến 2005

Từ số liệu thống kê ở Bảng 2.9, cho thấy rằng cơ cấu sản lượng thủy sản chế

biến của tỉnh Khánh Hòa đã có sự biến động. Trong đó, sản lượng thủy sản đông

lạnh vẫn chiếm tỷ trọng đa số, cụ thể: năm 2000, sản lượng thủy sản đông lạnh là

14.860 tấn, chiếm 71,11% tổng sản lượng thủy sản chế biến, sau đó có sự sụt gảm ở

năm 2001 và 2002, nhưng đến năm 2005, sản phẩm đông lạnh thủy sản đã chiếm

78,14% trong cơ cấu; sản phẩm này đến năm 2005 đã tăng lên là 35.400 tấn, chiếm

77,46%. Kế đến là sản phẩm thủy sản khô, năm 2000 là 3.944 tấn, chiếm 18,87%,

đến năm 2005 con số của sản phẩm này là 7.550 tấn, chiếm tỷ trọng là 16,67%. Xếp

cuối cùng là sản phẩm thủy sản tươi sống, năm 2000 là 2.092 tấn, chiếm 10,01%,

đến năm 2005 con số của sản phẩm này là 2.850 tấn, chiếm 6,29% trong tổng sản

lượng thủy sản chế biến. Nhìn chung, tỷ trọng của sản phẩm đông lạnh thủy sản và

55

sản phẩm khô thủy sản vẫn giữ được vị thế nhất nhì của mình, riêng sản phẩm thủy

sản tươi sống về tỷ lệ đã có sự sụt giảm. Nguyên nhân, do thị trường EU và Mỹ đã

đặt ra tiêu chẩn an toàn vệ sinh và dư lượng thuốc bảo quản ngày càng khắt khe

hơn, trong khi đó các doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp thời công nghệ, mặt khác sản

phẩm này đòi hỏi cao về công nghệ, chi phí cũng cao, nên 1 số doanh nghiệp

chuyển hướng sang đối tượng khác.

2.2.2.4- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo phân ngành thủy sản

Xu hướng chung là sự tăng lên liên tục của lực lượng lao động trong ngành

thủy sản ở giai đoạn này, từ 58.500 người năm 2000 tăng lên 67.400 người vào năm

2005. Cơ cấu lao động ngành thủy sản năm 2000: Tổng lao động là 58.000 người,

trong đó, khai thác thủy sản tỷ trọng 43,62% với 25.300 lao động; nuôi trồng thủy

sản chiếm 28,44%, với 16.500 lao động; chế biến thủy sản chiếm 27,93%, với

16.200 lao động.

Đến cuối giai đoạn, cơ cấu lao động ngành thủy sản Khánh Hòa đã có sự thay

đổi. Trong khi lao động trong ngành khai thác thủy sản và chế biến thủy sản có xu

hướng tăng mạnh, thì ở ngành nuôi trồng thủy sản lao động vẫn giữ nguyên. Tổng số

lao động ngành thủy sản vào năm 2005 là 67.400 người, trong đó: Khai thác thủy sản

tăng lên 33.700 lao động, chiếm 50,0%; chế biến thủy sản tăng lên là 17.200 lao

động, chiếm 25,52%; nuôi trồng thủy sản 16.500 lao động, chiếm 24,48%.

Trong cơ cấu lao động của ngành thủy sản qua phân tích ở trên cho thấy, lao

động ngành khai thác thủy sản chiếm đến 50% trong tổng số lao động của ngành.

Nhưng theo báo cáo của Sở NN & PT nông thôn, chất lượng lao động của ngành

khai thác thủy sản còn thấp: Với hoạt động trên biển nên ngư dân ít được học hành,

trình độ văn hóa tới 80% chưa phổ cập chương trình giáo dục cơ sở. Trình độ nghề

nghiệp chủ yếu theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Các thuyền trưởng, máy

trưởng tuy đã được qua các lớp đào tạo nhưng chủ yếu vẫn là các lớp ngắn ngày nên

vẫn chủ yếu hoạt động nhờ vào kinh nghiệm trong quá trình khai thác trên biển.

Khả năng tiếp thu, sử dụng các phương tiện hiện đại cho khai thác hạn chế. Những

56

năm gần đây do ngư trường dần hướng ra biển khơi nên ý thức học tập để đủ kiến

thức tiếp thu các phương tiện phục vụ khai thác đã dần thay đổi, tuy nhiên vẫn chỉ

trong thành phần các máy trưởng, thuyền trưởng còn đa số nhân công lao động vẫn

là sử dụng sức lao động cơ bắp là chính.

2.2.2.5- Chuyển dịch cơ cấu vốn theo thành phần kinh tế

Khánh Hòa từ trước cho đến nay, ngành thủy sản được coi là nghề cá nhân

dân. Từ năm 1978 đến năm 1986 là giai đoạn phát triển kinh tế hợp tác xã nghề cá,

nhưng từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động của hợp tác xã đều kém hiệu

quả và đi đến giải thể. Đến năm 2005 phương thức hoạt động chủ yếu là kinh tế tư

nhân. Điều này được minh chứng ở lĩnh vực khai thác thủy sản.

Bảng 2.10- Cơ cấu nguồn vốn đầu tư và cơ cấu sở hữu phương tiện khai thác tính đến năm 2005 ở tỉnh Khánh Hòa Tổng vốn (tỉ đồng) Tỷ lệ (%) 1- Nguồn vốn

- Nhà nước 69,338 9,35

672,77 90,65

Số lượng (chiếc) Tỷ lệ (%) - Tự có của dân 2- Cơ cấu sở hữu phương tiện khai thác (Tầu máy)

- Toàn tỉnh 5.646 100%

+ Nhà nước 0,52 29

+ Tập thể 3,8 215

+ Tư nhân 95,68

5.402 Nguồn: Báo cáo thống kê về cơ cấu thuyền – nghề của tỉnh Khánh Hòa - Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi KH- 2010

Từ Bảng 2.10 cho thấy, trong cơ cấu đầu tư cho khai thác thủy sản giai đoạn

này, thì vốn tự có của nhân dân chiếm hơn 90%, vốn đầu tư của Nhà nước chỉ

chiếm hơn 9%. Đây cũng là một xu hướng phát triển tất yếu khi đất nước chuyển

mạnh sang cơ chê kinh tế thị trường, không còn cơ chế bao cấp và cũng là dịp để

kinh tế tư nhân trong lĩnh vực kinh tế thủy sản phát triển. Điều này được thể hiện

qua sự phát triển của số lượng tầu đánh bắt thuộc sở hữu của nhân dân, chiếm hơn

99% trong tổng số tầu khai thác.

57

2.2.2.6- Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá ở tỉnh Khánh Hòa

* Hệ thống cảng cá, bến cá và dịch vụ hậu cần nghề cá

Hệ thống các cảng cá, bến cá phục vụ cho khai thác thủy sản

Tính đến năm 2005, toàn tỉnh có 18 cảng cá, bến cá, trong đó: Tp Nha Trang

có 3 cảng cá; thành phố Cam Ranh có 5 cảng cá, bến cá; Huyện Ninh Hòa có 2 bến

cá; Huyện Vạn Ninh có 8 cảng cá và bến cá.

Hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá

Tỉnh Khánh Hòa đã không ngừng đầu tư, xây dựng hoàn thiện hệ thống các

cảng cá, bến cá, khu tránh trú bão, nạo vét luồng lạch trên cơ sở nguồn vốn ngân

sách và các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác. Đã hoàn thiện hệ thống các

cửa hàng bán ngư, lưới cụ trên địa bàn tỉnh và củng cố các cơ sở đóng mới và sửa

chữa tàu thuyền. Cụ thể trong 8 năm (1998-2005) tỉnh đã đầu tư 135 tỷ đồng từ

nguồn vốn ngân sách nhà nước để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác thủy

sản. Đã lập và triển khai 9 dự án như: Dự án đóng mới tàu khai thác Xa bờ; Dự án

Chợ thủy sản nam trung bộ; Dự án nâng cấp Cảng cá; Dự án xây dựng CSHT khu

dịch vụ hậu cần nghề cá; Dự án Nạo vét dòng sông Tắc Nha Trang; Dự án nâng cấp

bến cá Cam Ranh; Dự án Khu neo đậu tránh trú bão Đại Lãnh – Đầm Môn – Vạn

Ninh; Dự án xây dựng đường cơ động và bến cập tàu tại xã Cam Bình; Dự án Cảng

cá Đại lãnh – Vạn Ninh.

* Về hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản

Cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản ở giai đoạn này ở tỉnh Khánh Hòa đã có

những bước phát triển vượt bậc, hàng loạt dự án như xây dựng cơ sở hạ tầng, quy

hoạch vùng nuôi, vùng sản xuất và kiểm định giống thủy sản đã được triển khai

thực hiện. Trong thực tế với tổng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tính từ

năm 2002 đến năm 2005 lên đến 114,834 tỷ đồng. Tính đến năm 2005, từ nguồn

vốn ngân sách nhà nước ngành thủy sản tỉnh Khành Hòa đã lập và triển khai được 7

dự án về nuôi trồng thủy sản.

* Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến và thương mại thủy sản

Trong những năm qua tỉnh đã chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục

58

vụ cho chế biến thủy sản trong các khu công nghiệp như: khu công nghiệp Suối Dầu

ở Diên Khánh, khu công nghiệp Bình Tân… đã thu hút nhiều doanh nghiệp chế biến

thủy sản trong tỉnh, ngoài tỉnh và nước ngoài vào đầu tư. Tỉnh đã có chủ trương và

đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ để di dời các cơ sở chế biến thủy sản lớn đang sản

xuất trên nội thị thành phố Nha trang, thị xã Cam Ranh ra các khu công nghiệp có

quy hoạch cho chế biến thủy sản.

2.2.3- Giai đoạn 2006-2011

2.2.3.1- Cơ cấu các phân ngành trong ngành thủy sản

* Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành

Bảng 2.11- Cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản Khánh Hòa giai đoạn

2006-2012

Chế biến TS

Nuôi trồng TS

Khai thác thủy sản Dịch vụ hậu cần TS

Năm

Tổng giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng)

Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) Tỷ lệ trong tổng giá trị (%)

Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 0,70

2006 6.793,086 1.210,291 17,81 1.385,685 20,40 4.151,680 61,11 45,430 2007 7.037,742 933,203 13,26 1.794,094 25,49 4.266,765 60,62 43,680 0,62 2008 7.783,835 948,611 12,20 2.161,901 27,77 4.624,760 59,41 48,563 0,62 9,32 2.838,671 31,10 5.369,000 58,78 54,683 0,60 2009 9.133,905 851,551 2010 9.899,195 1.161,534 16,78 2.875,653 29,05 5.679,600 57,37 182,408 1,84 2011 11.579,283 1.825,218 15,76 3.020,299 26,08 6.469,733 55,87 264,033 2,28 2012 12.526,778 2.265,588 18,10 3.172,219 25,32 6.810,756 54,37 278,215 2,22

Nguồn: Niên giám thống kê 2012, Cục Thống kê Khánh Hòa [5, tr 69,70]

Về cơ cấu giá trị, ở giai đoạn này chế biến thủy sản vẫn chiếm trên 55%

trong tổng giá trị sản xuất của ngành thủy sản; khai thác đóng góp bình quân 25%;

nuôi trồng 18,5% và dịch vụ 1,5%. Cơ cấu giá trị có sự chuyển dịch như sau: Cơ

cấu giá trị của chế biến có xu hướng giảm, năm 2006 cơ cấu tỷ trọng của chế biến là

61,11%, nhưng tỷ trọng này giảm dần qua các năm, đến năm 2012, tỷ trọng của chế

59

biến chỉ còn 54,37% trong tổng giá trị. Sự sụt giảm về tỷ trọng của chế biến thủy

sản là do giá trị của nuôi trồng, khai thác và dịch vụ nghề cá tăng theo thời gian. Cụ

thể: Nuôi trồng tăng từ 17,81% năm 2006 lên 18,10% ở năm 2012; khai thác tăng từ

20,40% năm 2006 lên 25,32% ở năm 2012; dịch vụ hậu cần nghề cá tăng từ 0,70%

năm 2006 lên 2,22% ở năm 2012.

2.2.3.2- Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong các phân ngành thủy sản.

* Nuôi trồng thủy sản

Bảng 2.12- Cơ cấu nghề nuôi trồng thủy sản của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2006-2011

Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Tốc độ PTbq (%)

ha 5.456 5.629 6.077 6.336 5.677 6.182 102,4

1.076 4.100 280 1.150 4.812 220 1.076 4.368 185 1.100 4.792 185 1.100 5.021 215 101,2 103 97,6 1025 4.454 198

ha ha ha lồng 24.900 27.726 29.000 21.460 21.136 28.550 102,63

507 475 474 445 435 430 97,4

tấn 24.700 24.765 25.900 23.500 20.686 23.910 99,02

tấn ấn 400 8.108 600 9.144 700 9.110 680 6.900 499 7.012 540 7.025 107,45 98,32

tấn 11.500 5.360 8.860 8.700 5.650 8.525 104,3

I. Tổng diện tích NTTS 1. Nước ngọt 2. Nước lợ 3.Trồng rong biển 4. Nuôi biển 5. Nuôi tôm giống Trại II. Tổng sản lượng NTTS 1. Nước ngọt 2. Nước lợ t 3. Rong biển (tươi) 4. Nuôi biển 4.692 9.661 7.230 7.220 7.525 7.820 114,8

5. Nuôi tôm giống 2.065 2.109 2.030 2.676 2.298 2.476 103,9 tấn Triệu con

Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện công tác NN & PTNT. Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011

Bảng 2.12 trên đây phản ánh:

- Về diện tích nuôi trồng: Nhìn chung về diện tích nuôi trồng ở giai đoạn này

có sự biến động theo chiều hướng tăng, bình quân tăng hàng năm là 2,4% (chưa kể

nuôi lồng bè). Trong đó diện tích nuôi trồng nước ngọt và nuôi nước lợ tăng, cụ thể:

diện tích nuôi nước ngọt tăng bình quân là 1,2%/năm; nước lợ tăng 3,0%/ năm.

60

Riêng diện tích trồng rong biển có sự giảm mạnh ở hai năm 2009 và 2010,

làm cho diện tích trồng rong biển của cả giai đoạn giảm xuống còn 97,6%.

Tốc độ tăng bình quân của tổng số lượng nuôi lồng bè cả giai đoạn tăng lên

là 102,4%, bình quân tăng 2,4%/năm.

Nuôi tôm giống đã giảm về số trại nuôi, tôc độ giảm bình quân của cả giai

đoạn là 2,6%/năm.

- Về sản lượng nuôi trồng thủy sản: Do sự biến động của diện tích nuôi trồng

đã làm cho sản lượng cũng có sự biến động theo, tốc độ phát triển bình quân của sản

lượng giảm còn 99,0%. Cụ thể của từng đối tượng nuôi trồng:

+ Sản lượng nuôi trồng nước ngọt, trong cả giai đoạn có sự biến động về sản

lượng của từng năm, nhưng vẫn đảm bảo được tốc độ phát triển của cả giai đoạn là

107,45%, tốc độ tăng bình quân 7,45%/năm.

+ Sản lượng nuôi trồng nước lợ biến động theo xu hướng giảm nhẹ, tốc độ

phát triển về sản lượng của cả giai đoạn này còn 98,32%, bình quân đã giảm là

1,68%/ năm. Sự sụt giảm về sản lượng của đối tượng này đã làm ảnh hưởng tới tổng

sản lượng thủy sản nuôi trồng thủy sản của cả giai đoạn này.

+ Sản lượng trồng rong biển cũng có sự biến động qua từng năm. Trong đó

năm 2007 sản lượng là 5.360 tấn, giảm 6.140 tấn so với năm 2006; các năm 2008 và

2009 sản lượng lại tăng lên so với năm 2007 lần lượt là 3.500 tấn và 3.340 tấn. Sang

năm 2010 sản lượng lại giảm xuống so với năm 2009 là 3.050 tấn. Mặc dù có sự

tăng, giảm về sản lượng qua từng năm, nhưng vẫn đảm bảo được xu thế phát triển

chung là theo chiều hướng tăng, cả giai đoạn này tốc độ phát triển chung đạt

104,3%, sản lượng tăng bình quân hàng năm là 4,3%.

+ Sản lượng nuôi biển mặc dù cũng có sự biến động tăng giảm qua các năm,

nhưng đây là đối tượng có tốc độ phát triển cao nhất về sản lượng so với các đối

tượng thủy sản khác, tốc độ phát triển về sản lượng của cả giai đoạn là 114,8%, bình

quân tăng 14,8%/năm.

+ Sản lượng tôm giống vẫn giữ được mức tăng bình quân là 3,9%/năm.

61

* Khai thác thủy sản

- Chuyển dịch cơ cấu tầu thuyền khai thác thủy sản

Tính đến năm 2011 toàn tỉnh Khánh Hòa có tổng số tầu phục vụ cho khai

thác thủy sản là 9.261 chiếc với tổng công suất là 272.125 CV. Năng lực của ngành

khai thác thủy sản ở giai đoạn này đã có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năng lực về công suất được tăng dần từ 23 CV/chiếc năm

2005 lên 30CV/chiếc năm 2011.

Bảng 2.13- Cơ cấu tầu thuyền khai thác thủy sản của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2006-2011

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011

1.Tổng số tàu thuyền: 5.610 5.816 6.350 8.721 9.077 10.200

Tổng công suất (CV) 126.358 126.775 132.213 219.121 269.208 302.509

2. Cơ cấu tầu máy (Chiếc)

- 20 - < 90CV 2.691 2.684 3.213 6.377 6.343 6.298

- 90 - 250CV 1.588 1.578 1.956 2.019 2.010 2.162

- 250CV - 400CV 786 786 778 934 893 952

- > 400 CV 387 469 403 771 784 815

620 620 560 554 504 727

14.200 14.200 10.900 10.700 9.500 19.700 3. Số lượng tầu đánh bắt xa bờ (chiếc) - Tổng công suất các tàu đánh bắt hải sản xa bờ (nghìn CV)

Nguồn: Báo cáo thống kê về cơ cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh KH - Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi KH- 2011

Bảng 2.13 đã cho thấy trong giai đoạn từ năm 2006 – 2011 số lượng tàu

thuyền khai thác thủy sản và công suất đánh bắt có sự biến thiên tăng giảm không

đều nhau, nhưng về tổng thể là có chiếu hướng tăng. Từ năm 2006 – 2009, số lượng

tàu thuyền tăng mạnh, năm 2006 tổng số lượng tầu là 5.610 chiếc, thì đến năm 2009

tổng số tầu đã tăng lên là 8.721 chiếc, tức tăng lên hơn năm 2006 là 55,5%. Đến

năm 2011 số lượng tầu lại tăng hơn so với năm 2010 là 1.123 chiếc, tức tăng hơn

gần 12,37%, cùng với đó là công suất của năm 2011 cũng tăng hơn năm 2010 là

12,5%. Đặc biệt, ở giai đoạn này, số lượng tầu có công suất từ 250CV đến trên 400

CV đã tăng hơn gấp 2 lần so với giai đoạn trước đó, từ 387 chiếc vào năm 2005 lên

62

đến 815 chiếc vào năm 2011 tức tăng lên 210%. Về đánh bắt xa bờ, số lượng tầu có

sự biến động trong 3 năm từ 2008 đến 2010, nguyên nhân do ảnh hưởng của khủng

hoảng kinh tế thế giới và giá nhiên liệu tăng, nên các chủ tầu gặp khó khăn về vốn

để duy trì cho hoạt động đánh bắt xa bờ. Sang năm 2011, Nhà nước với chương

trình hỗ trợ ngư dân về vốn với lãi suất thấp để mua nhiên liệu duy trì hoạt động

đánh bắt xa bờ, số tầu đánh bắt xa bờ đã tăng lên 727 chiếc, với tổng công suất

19.700CV.

- Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề khai thác:

Cơ cấu nghề nghiệp khai thác thuỷ sản của tỉnh Khánh Hoà đa dạng và luôn

thay đổi theo tình hình biến động của nguồn lợi thuỷ sản. Hầu hết trên các tàu đều

có nghề kiêm như vây rút kiêm vó ánh sáng, lưới cản kiêm vó ánh sáng, lưới kéo

kiêm lưới màng hoặc lưới cản, câu vàng kiêm câu tay.

Bảng 2.14- Cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản của Khánh Hòa Tính đến năm 2012

Nhóm công suất

Loại nghề

20 – <90CV 90 – 250CV 250 – 400CV Trên 400CV Tỷ trọng theo loại nghề (%)

1. Lưới kéo (giả) 2. Lưới vây 330 82 505 101 253 123 132 138 12,04 4,4 Tổng công suất theo loại nghề (CV) 1.220 444

3. Lưới rê (cản) 2.144 467 182 207 29.62 3000

4. Nghề câu 1.315 155 97 160 17,05 1.727

5. Nghề khác 2.427 874 270 168 36,89 3.739

10.130 2.102 6.298 925 805 100

Tổng công suất Nguồn: Báo cáo thống kê về cơ cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh Khánh Hòa - Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi KH- 2012

Theo Bảng 2.14, trong cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản chính của tỉnh

Khánh Hòa đến năm 2011 thì nghề Lưới rê (cản) chiếm tỷ trọng cao nhất về công

suất khái thác 29,62% và đây cũng là ngành cố lượng tầu công suất trên 400CV cao

nhất, với 207 chiếc. Tiếp theo đó là nghề câu, chiếm 17,05% công suất khai thác,

với số tầu có công suất trên 400CV là 160 chiếc. Nghề lưới kéo(giả) chiếm 12,04%

63

và có 132 chiếc tầu có công suất trên 400CV. Các nghề khác chiếm 36,89% công

suất. Nhìn chung trong cơ cấu của nghề nghiệp khai thác thủy sản của tỉnh Khánh

Hòa chưa có sự đồng đều, nguyên nhân đó là sự phụ thuộc vào kinh nghiệm khai

thác của các chủ tầu, cũng như ngành nghề truyền thống của địa phương và vốn đầu

tư vào phương tiện khai thác.

* Chế biến thủy sản

Bảng 2.15- Cơ cấu ngành nghề chế biến thủy sản của Khánh Hòa

giai đoạn 2006-2011.

Sản phẩm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Tốc độ PTbq (%)

CB tiêu thụ nội địa

1. Nước mắm 7.110 7.040 8.000 8.080 8.160 8.575 103,8

2.250 2.475 3.100 3.160 3.200 3.557 109,6

(nghìn lít) 2. Sản phẩm Khô và đông lạnh các loại (tấn)

3. Đồ hộp (tấn) 170 190 200 210 230 298 111,8

105 CB xuất khẩu (tấn) 45.300 47.500 52.000 56.000 58.000 61.000

Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện công tác NN & PTNT. Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011

Bảng 2.15, cho thấy trong cơ cấu nghề chế biến, gồm hàng nội địa và hàng

xuất khẩu, sản lượng tăng đều qua các năm , trong đó sản phẩm đồ hộp của ngành

hàng nội địa là tăng cao nhất, tốc độ tăng bình quân 11,8 %/năm bình quân, sau đó

đến sản phẩm khô các loại tăng 9,6%/năm; chế biến xuất khẩu tăng bình quân

5%/năm cuối cùng là sản phẩm nước mắm, tăng 3,8%/năm.

2.2.3.3- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong các phân ngành

* Nuôi trồng thủy sản

Xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản nuôi trồng thủy sản giai đoạn này là giữ

vững tỷ trọng sản phẩm nuôi chủ lực là tôm sú, kết hợp với phát triển nuôi các sản

phẩm thủy đặc sản có giá trị kinh tế cao.

64

Bảng 2.16- Tốc độ phát triển một số sản phẩm nuôi trồng thủy sản chủ yếu giai đoạn 2006-2011

Tôm sú Tôm thẻ Tôm hùm

Năm

Lồng Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha)

0 83 390 3.632 3.976 4.125 0 332 1.561 3.477 5.550 5.825 24.700 1.100 24.700 600 28.000 1.142 20.226 863 19.489 983 19.802 1.022 2006 4.100 4.234 2007 3.917 4.276 2008 3.478 4.875 960 1.050 2009 832 925 2010 875 978 2011 Tốc độ tăng,giảm bình quân năm (%) 100 101 114 21,54 88,1 105,7 Tốc độ tăng, giảm bình quân năm (%) 0 332 479,2 222,7 159,6 105 Tốc độ tăng, giảm bình quân năm (%) 100 54,54 190,33 75,57 114,0 104,0

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH. Sở NN & PTTN từ 2006 đến 2011 Bảng 2.16 cho thấy: Cơ cấu sản phẩm nuôi trồng thủy sản giai đoạn này đã

có sự chuyển dịch đáng kể, từ tôm sú sang nuôi tôm thẻ và tôm hùm. Tôm sú từ vị

trí chủ lực, giai đoạn này đã giảm mạnh cả về diện tích và sản lượng, tốc độ giảm

trung bình hàng năm của tôm sú là 11,61%/năm. Tôm thẻ đã tăng mạnh, chỉ mới bắt

đầu nuôi từ năm 2007 với diện tích khiêm tốn là 83ha (sản lượng 332 tấn), nhưng

đến 2011 đã tăng lên 4.125ha, với sự gia tăng nhanh chóng về diện tích nuôi, đã làm

tôc độ tăng trung bình của sản lượng của cả giai đoạn là 216,4%/năm và tôm thẻ

đang trở thành sản phẩm nuôi chủ lực của Khánh Hòa. Đối với tôm hùm, ở giai

đoạn này có sự biến động về sản lượng theo chiều hướng sụt giảm, nguyên nhân: đó

là năm 2007 dịch đốm sữa trắng ở tôm hùm đã gây chết hàng loạt, kết hợp với sự

ảnh hưởng của cơn bão số 11 năm 2009 đổ bộ vào biển Khánh Hòa, làm hư hỏng

nhiều lồng tôm hùm. Mặc dù vậy sản lượng tôm hùm vẫn giữ được tốc độ tăng bình

quân hàng năm là 6,4%/năm.

* Khai thác thủy sản

Ở giai đoạn này sản lượng của tôm, cá, mực và sản phẩm khác tăng đều qua

các năm, do đó cơ cấu sản phẩm phẩm ngành khai thác đã ổn định về tỷ trọng, cụ

thể: Tỷ lệ trung bình sản lượng sản phẩm của cá là 48,13%; của tôm là 8,66%; của

65

mực là 21,58% và của sản phẩm khai thác khác là 21,48%. Bảng 2.17, dưới đây

phản ánh rõ nội dung này.

Bảng 2.17- Tốc độ phát triển một số sản phẩm khai thác thủy sản chủ yếu giai đoạn 2006-2011

Cá Tôm Mực Thủy sản khác Năm

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn)

2006 65.000 31.500 48,46 5.500 6,48 14.000 21,53 14.000 23,53

2007 66.872 32.216 48,18 5.793 8,66 14.431 21,58 14.431 21,58

2008 68.000 32.728 48,13 5.902 8,68 14.688 21,60 14.664 21,59

2009 72.301 34.808 48,14 6.275 8,68 15.609 21,60 15.609 21,58

2010 76.571 36.797 48,10 6.830 8,92 16.452 21,50 16.492 21,48

2011 78.700 37.820 48,10 7.020 8,92 16.909 21,50 16.951 21,48 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH. Sở NN & PTTN, 2006 - 2011

* Chế biến thủy sản

Sản phẩm khô

Năm

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản phẩm đông lạnh Sản lượng (tấn)

Bảng 2.18- Tốc độ phát triển một số sản phẩm chế biến thủy sản chủ yếu giai đoạn 2006-2011 Sản phẩm tươi sống Sản lượng (tấn) 2.790 Sản lượng (tấn) 7.443 16,43 6,16

2.750 7.550 2006 45.300 35.067 77,41 2007 47.500 35.400 77,52 5,8 16,0

2.920 8.065 2008 52.000 41.015 79,0 5,6 15,5

2.795 8.848 2009 56.000 44.357 79,2 5,2 15,8

2.657 8.943 2010 58.000 46.400 80,0 4,6 15,4

61.000 48.800 2.806 9.394 2011 80,0 4,6 15,4

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH. Sở NN & PTTN, 2006 - 2011

66

Bảng 2.18 cho thấy: Sản phẩn đông lạnh có sự gia tăng về cả sản lượng và tỷ

trọng trong cơ cấu sản phẩm chế biến thủy sản, cụ thể, năm 2006 sản lượng đạt

35.067 tấn, tỷ lệ trong cơ cấu sản phẩm là 77,41%, đến năm 2011 sản lượng là 48.800

tấn, tỷ trọng tăng lên là 80% (tăng hơn năm 2006 là 2,6%). Sản phẩm tươi sống có tỷ

trọng giảm trong cơ cấu sản phẩm chế biến, cụ thể: năm 2006 tỷ lệ là 6,16% trong cơ

cấu tổng sản phẩm chế biến thủy sản, năm 2011 đã giảm xuống còn 4,6%. Sản phẩm

khô cũng có sự giảm nhẹ về tỷ trọng trong cơ cấu tổng sản phẩm, từ 16,43% năm

2006, giảm xuống 15,4% ở năm 2011.

2.2.3.4- Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư

Trong hoạt động của ngành thủy sản hiện nay ở nước ta nói chung và ở tỉnh

Khánh Hòa nói chung, cơ cấu vốn đảm bảo cho hoạt động thủy sản, vẫn chủ yếu dựa

vào nguồn vốn trong dân; từ nguồn vốn của nhà nươc (chủ yêu được sử dụng để phát

triển cơ sở hạ tầng cho ngành thủy sản và hỗ trợ qua chính sách vay với lãi suất thấp);

vốn vay từ hệ thống ngân hàng thương mai; từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài

Bảng 2.19- Cơ cấu nguồn vốn đầu tư vào ngành thủy sản giai đoạn 2006-2011

Nguồn vốn 2006 2007 2008 2009 2010 2011

30.000 37.314 45.000 60.000 30.000 20.000 Tổng số (Tr.đồng) 222.314

15.000 32.000 0 0 20.000 10.000 77.000

234.200 246.000 215.000 220.000 200.000 160.000 1.265

35.000 30.000 30.000 20.500 18.000 15.000 148.500 1. Vốn ngân sách 2. Vốn vay tín dụng nhà nước 3. Nguồn vốn của dân 4. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tổng cộng 295 319.314 275 240 188 135 1.712.814

Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản Khánh Hòa. Sở NN &

PTTN Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011

Nguồn vốn đầu tư của nước ngoài 148,5 tỷ bằng 8,66% tổng số vốn đầu tư vào

lĩnh vực kinh tế thủy sản. Nguồn vốn vay nhà nước (77 tỷ ) bằng 4,5%. Nguồn vốn

nội lực của dân (1.485,5 tỷ) chiếm 73,86%. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước (222,314

tỷ ) chiếm 13,0%. Từ phân tích sơ bộ này cho thấy, nguồn vốn được huy động cho

67

ngành thủy sản Khánh Hòa vẫn chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có trong dân. Điều này

được thể hiện rõ nhất ở ngành khai thác thủy sản, minh chứng dưới đây.

Cơ cấu vốn đầu tư trong lĩnh vực khai thác thủy sản

Biểu đồ 1- Nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực Khai thác thủy sản của tỉnh Khánh Hòa tính đến 2011 (tỷ đồng)

900

775,75

800

700

600

500

400

306,58

300

200

79,25

100

52,58

0

Vốn ngân sách

Vốn của dân

Vốn vay tín dụng nhà nước

Vốnđầu tư trực tiếp nước ngoài

Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Khánh Hòa, 2012

Nhận xét: Từ những số liệu trên đã cho ta thấy trong lĩnh vực Khai thác thủy

sản của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn này đã mang tính xã hội hóa cao. Trong cơ cấu

vốn đầu tư cho ngành Khai thác, ta thấy nguồn vốn Nhà nước đầu tư là 52,58 tỷ

đồng, chiếm khoảng 4,33% tổng vốn đầu tư. Theo tài liệu của Sở Nông nghiệp và

Phát triển Nông thôn tỉnh Khánh Hòa cho thấy, vốn ngân sách Nhà nước chủ yếu

được sử dụng vào việc xây dựng, tu bổ cầu cảng bến bãi phục vụ cho khai thác thủy

sản, một phần được sử dụng để hỗ trợ giá mua nhiên liệu phục vụ cho đánh bắt xa

bờ. Nguồn vốn được nhân dân vay từ các tổ chức tín dụng nhà nước 79,25 tỷ đồng,

chiếm khoảng 6,53%, nguồn vốn này hỗ trợ ngư dân trong những lúc gặp khó khăn

về vốn lưu động phục vụ cho các chuyến biển dài ngày. Nguồn vốn của dân là

775,75 Tỷ đồng, chiếm 63,9%, đây là nguồn vốn có vai trò quyết định đến sự phát

triển của ngành khai thác của tỉnh, nguồn vốn này được tích lũy trong dân, nó được

sử dụng để đầu tư đóng mới tầu, mua sắm ngư cụ và vốn lưu động cho các chuyến

biển…Cuối cùng là nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, 306,58 tỷ, chiếm

68

khoảng 25,25%, đây là nguồn vốn của tập đoàn Huyndai Hàn Quốc, thông qua việc

trực tiếp xây dựng nhà máy sửa chữa và đóng mới tầu biển

2.2.3.5- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong thủy sản Tình hình chuyển dịch số lượng và cơ cấu lao động của các ngành nuôi trồng

thủy sản, khai thác thủy sản và chế biến thủy sản như sau

Bảng 2.20- Cơ cấu lao động ngành thủy sản của Khánh Hòa giai đoạn 2006-2011

Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2011 2010 2009

Khai thác 29.450 31.000 31.000 ĐVT: người Tốc độ PTbq(%) 32.210 34.684 37.215 104,17

Nuôi trồng 16.500 16.500 16.500 16.500 16.225 16.000 99,22

Chế biến

2.036 2.036 2.036 1.934

Cơ khí, đóng tàu 1.789 Dịch vụ hậu cần 6.046 6.364 6.364 6.364 5.857

17.270 18.640 19.600 21.200 22.946 24.827 106,27 2.036 102,23 6.364 101,42 Tổng LĐ 70.866 74.120 75.500 78.310 82.255 86.442 103,38

Nguồn: Niên giám thống kê 2012 – Cục Thống kê Khánh Hòa.

Từ Bảng 2.20, cho thấy, tổng số lao động tham gia trong ngành thủy sản của

tỉnh có tăng lên với mức tăng bình quân hàng năm là 2,65% từ 64.030 người lên

71.084 người chiếm gần 10% dân số toàn tỉnh; trong đó tăng mạnh nhất là số lao

động trong ngành khai thác thủy sản với mức tăng bình quân hàng năm là 4,17% và

đây cũng là ngành có số lao động tham gia nhiều nhất; các ngành nuôi trồng, chế

biến, đóng sửa tàu và dịch vụ hậu cần nghề cá đều gia tăng với mức tăng bình quân

hàng năm là 1,29%.

2.2.3.6- Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác thuỷ sản

* Các bến cá, cảng cá đã được đầu tư xây dựng

Tính đến hết năm 2011, toàn tỉnh Khánh Hòa đã có 25 cảng cá, bến cá được

đầu tư xây dựng phục vụ cho khai thác thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá, cụ thể:

Các cảng cá, bến cá đều được đầu tư kết hợp tránh trú bão, năm 2009 đã đầu

tư xây dựng các khu neo đậu tránh trú bão chuyên biệt.

69

+ Khu neo đậu tránh trú bão cấp vùng (1000T/600CV) Sông Tắc – Nha Trang

+ Khu neo đậu tránh trú bão cấp tỉnh (500T/300CV) Bình Tây – Ninh Hòa

* Các cơ sở đóng, sửa chữa tầu thuyền

Trước đây khi nguồn lợi thuỷ sản ven bờ còn khả năng khai thác, trên địa

bàn tỉnh Khánh Hòa có hàng trăm cơ sở đóng mới và sửa chữa tầu thuyền, đến nay

do nguồn lợi ven bờ cạn kiệt nên chỉ còn lại các cơ sở đóng, sửa chữa tầu thuyền có

năng lực đóng mới và sửa chữa tầu xa bờ. Theo thống kê của Sở NN và PTNT

Khánh Hòa đến năm 2010 còn khoảng 20 cơ sở tập trung tại thị xã Cam Ranh,

thành phố Nha Trang và huyện Vạn Ninh.

* Các cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần khác

Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần khác bao gồm: chợ cá, kho bảo quản, hệ

thống cung cấp dịch vụ, cung cấp lương thực thực phẩm, nhân lực, ngư lưới cụ....

Được đầu tư trên nguyên tắc xã hội hóa: Nhà nước và các thành phần kinh tế cùng

đầu tư. Nhà nước đầu tư xây dựng được các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tại

các cảng cá, với các hạng mục chủ yếu như cầu tầu, nhà phân loại, hệ thống giao

thông nội bộ, cấp điện, nước, nhà quản lý....Các thành phần kinh tế khác đầu tư xây

dựng theo quy hoạch các hạng mục công trình dịch vụ hậu cần như cấp xăng dầu,

lương thực, thực phẩm, ngư lưới cụ, tại các trung tâm dịch vụ hậu cần đã được Nhà

nước hỗ trợ đầu tư.

* Cơ sở hạ tầng cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu

Tính đến năm 2011, Khánh Hòa đã có 60 Doanh nghiệp chế biến xuất khẩu,

trong đó: có 33 nhà máy chế biến đông lạnh, 5 phân xưởng chế biến đồ hộp, 22 cơ

sở chế biến thủy sản khô. Đến năm 2011 đã có 11 nhà máy đông lạnh đạt tiêu chuẩn

được cấp Code xuất khẩu vào thị trường châu Âu. Có 25 nhà máy chế biến đông

lạnh, 16 phân xưởng chế biến thủy sản khô, 4 phân xưởng chế biến đồ hộp được Bộ

Thủy sản chứng nhận đạt tiêu chuẩn ngành. Năng lực chế biến với công xuất sản

xuất trung bình 320 tấn/ ngày và kho trữ lạnh khoảng 6.800 tấn. Tổng công suất

đông lạnh là 390 tấn/ ngày, năng lực chế biến là 70.200 tấn/năm (390 tấn/ngày ×

180 ngày/năm).

70

* Cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến nội địa

Trong tỉnh có hàng trăm cơ sở chế biến nước mắm, mắm khô và các mặt

hàng thuỷ sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước chủ yếu tập trung gần các cảng

cá với quy mô nhỏ theo gia đình.

Từ năm 2010 đến nay đã có một số doanh nghiệp đầu tư sản xuất hàng tiêu

dùng nội địa với công nghệ mới, mẫu mã đẹp để phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày

càng cao của nhân dân (hàng cấp cho siêu thị trong nước), tuy nhiên việc quá chú

trọng đến hàng xuất khẩu đã hạn chế sự phát triển của chế biến hàng tiêu dùng nội địa

dẫn đến hàng hóa thuỷ sản của các nước khác thâm nhập vào thị trường trong nước.

2.3- Đánh giá chung thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

Khánh Hòa thời gian qua và những vấn đề đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành

thời gian tới

2.3.1- Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra

2.3.1.1- Những thành tựu đã đạt được và nguyên nhân

Những thành tựu đã đạt được

Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản đã và đang tiếp tục chuyển dịch

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy tiềm năng lợi thế của vùng biển

Khánh Hòa. Trong cơ cấu ngành thủy sản, thì nuôi trồng thủy sản vẫn khẳng định

được vị trí chủ lực của ngành trong việc đáp ứng nguồn nguyên liêu ổn định cho chế

biến, cũng như nhu cầu ngày càng cao của thị trường; cơ cấu tàu thuyền và nghề

nghiệp trong lĩnh vự khai thác được điều chỉnh theo hướng vừa khai thác xa bờ kết

hợp với khai thác gần bờ hợp lý để nâng cao hiệu quả và bảo vệ môi trường, nguồn

lợi; trong lĩnh vực chế biến vừa kết hợp chế biến truyền thống với chế biến ra các

sản phẩm cao cấp, có giá trị kinh tế cao, dựa trên công nghệ tiên tiến của thế giới.

Thứ hai: Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành đã tiến tới có sự kết hợp

hài hóa giữa các khâu để đảm bảo phát triển bền vững, đó là: đẩy mạnh phát triển

nuôi thương phẩm với phát triển sản xuất giống; giữa đánh bắt hiệu quả ven bờ với

đẩy mạnh khai thác xa bờ để bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững; trong

chế biến đó là không ngừng đẩy mạnh chế biến xuất khẩu để thu về ngoại tệ với đa

71

dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng đối với thi trường nội địa; sự kết hợp

giữa sản xuất với bảo vệ môi trường cũng ngày càng được chú trọng.

Thứ ba: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản đã từng bước xây dựng

những cơ sở vật chất kỹ thuật rất quan trọng cho ngành thủy sản. Trình độ công

nghệ đang chuyển dần từ công nghệ thủ công mang tính truyền thống sang cơ cấu

công nghệ nhiều tầng, đã ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học – công

nghệ mới vào sản xuất kinh doanh ngành thủy sản, nâng cao sức cạnh tranh của

hàng hóa thủy sản.

Thứ tư: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, đã tạo việc

làm cho hơn 80 ngàn lao động cho tỉnh. Trong điều kiện tình hình kinh tế trong

nước gặp nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, ngành thủy sản

Khánh Hòa vẫn đứng vững và phát triển, năm 2012 đã thu về 327 triệu USD của

kim ngạch xuất khẩu, nhiều sản phẩm thủy sản Khánh Hòa đã thâm nhập được vào

những thị trường khó tính như EU, Mỹ. Cả nuôi trồng, khai thác và chế biến đều

gắn sản xuất với yếu tố thị trường và hội nhập quốc tế, qua đó có sự tác động nhất

định đến quá trình sản xuất chung của tỉnh và quá trình phát triển nông nghiệp.

Thứ năm: Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản đã dẫn đến sự biến

đổi của cơ cấu sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế, sản xuất, kinh doanh thủy sản

ngày càng mang tính xã hội hóa cao, phát huy được nguồn nội lực trong tỉnh, nhất là

về vốn để qua đó nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất ngành thủy sản.

Nguyên nhân của những kết quả đạt được

Ngành thủy sản Khánh Hòa đạt được những thành tựu trên là do sự quan tâm

lãnh đạo của Đảng và các cấp chính quyền ở địa phương, sự nhận thức đúng đắn về

tầm quan trọng của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, đã sớm triển khai

tổ chức thực hiện cụ thể hóa một bước đường lối của Đảng, nhanh chóng chuyển hoạt

động của ngành thủy sản sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Lãnh đạo và cơ quan quản lý ngành thủy sản Khánh Hòa sớm nhận thức

được vai trò vị trí của nghề cá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đề ra

chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

72

hóa, có bước đi thích hợp với điều kiện và đặc điểm của tỉnh; có chính sách đầu tư

hỗ trợ của Nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, hỗ

trợ về vốn, thực hiện tốt về công tác khuyến ngư. Ngành thủy sản đã gắn sản xuất

với thị trường, dựa vào thị trường để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hướng đến mục

tiêu xuất khẩu, coi sức mua của thị trường nội địa và xuất khẩu là thước đo giá trị

của giá trị hàng hóa; là sự biểu hiện thành công trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.

Ngành thủy sản đã phát huy thế mạnh về biển ở địa phương mình, xác định

thủy sản là một trong 3 thế mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh; khai thác nguồn vốn

dồi dào trong nhân dân, có cơ chế thông thoáng để khai thác tiềm năng thế mạnh

của các thành phần kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển,

nhất là khi có luật Doanh nghiệp ra đời.

2.3.1.2- Những tồn tại và nguyên nhân

Những tồn tại cần khắc phục

Một là, cơ cấu kinh tế ngành thủy sản chuyển dịch còn chưa cân đối và thiếu

bền vững. Nuôi trồng tuy đã có tốc độ phát triển nhanh nhưng chưa tương xứng với

tiềm năng, và còn phụ thuộc nhiều về yếu tố thời tiết, môi trường và giống. Trong

khi đó nguồn tài nguyên ven bờ đã dần đi đến cạn kiệt, mà khả năng khai thác xa bờ

còn yếu, dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến khâu chế biến và ảnh hưởng đến tốc độ

chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của ngành.

Hai là, Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngành diễn ra chậm chạp và thiếu bền

vững. Nuôi trồng chưa chủ động được vấn đề dịch bệnh, vấn đề sản xuất giống nuôi

thương phẩm và giống bố mẹ. Khai thác vẫn chuyển dịch chậm về cơ cấu tầu thuyền

khai thác theo hướng đánh bắt xa bờ và tầu công suất lớn. Cả hai điều này và cùng

với các yếu tố khác tác động làm tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành còn chậm.

Ba là: Chuyển dịch về cơ cấu sản phẩm nuôi trồng diễn ra nhanh, nhưng

thiếu sự chắc chắn, đó là: trong nuôi trồng chuyển dịch từ nuôi tôm sú sang nuôi

tôm thẻ chân trắng, sang hải đặc sản biển. Trong chến biến chuyển từ hàng tươi

sống sang hàng khô và hàng nội địa. Tất cả sự chuyển dịch này đều mang tính tự

73

phát nhất thời khi sản phẩm tôm sú gặp khó khăn.

Bốn là: Chuyển dịch cơ cấu lao động cũng còn chậm giữa các ngành, đó là

trong khi lao động trong khai thác và chế biến tăng đều qua các năm, còn trong nuôi

trồng lại chững lại và có xu hướng sụt giảm ở năm 2011, bên cạnh đó là trình độ lao

động trong ngành thủy sản còn thấp, vẫn chịu ảnh hưởng của cách làm truyền thống.

Năm là: Ngành nuôi giống thương phẩm và giống bố mẹ đã dần đánh mất đi

thế mạnh, không tận dụng được những lợi thế về tài nguyên để phát triển nghề vốn

đã đã một thời là thế mạnh.

Sáu là: Thị trường trong nước thời kỳ đầu chưa được chú trọng, được coi là

giải pháp tình thế khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, do đó để sản phẩm Trung

Quốc, Đài Loan chiếm lĩnh. Với thị trường ngoài nước, sản phẩm chủ yếu xuất sang

Mỹ, Nhật, Châu Âu, nên khi nền kinh tế của các nước này gặp khó khăn, hoặc đua

ra những quy định khắt khe về chất lượng, hàng hóa thủy sản khó khăn cho việc tìn

thị trường thay thế.

Nguyên nhân của những tồn tại

Thứ nhất: Ngành thủy sản Khánh Hòa thiếu một chiến lược tổng thể trong

bố trí, quy hoạch về ngành nghề; trong quy hoạch về diện tích tập trung cho phát

triển thủy sản. Công tác dự báo về thị trường đầu ra cho sản phẩm thủy sản, thị

trường khoa học công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình chuyển

dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa còn yếu. Trong quá trình chuyển

dịch vẫn để tính tự phát không theo quy hoạch tổng thể.

Thứ hai: Thiếu vốn để đảm bảo cho quá trình chuyển dịch theo đúng hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Được coi là nghề cá nhân dân, nên việc nhân dân

vẫn duy trì những phương pháp trong khai thác, chế biến và nuôi trồng kiểu truyền

thống với kỹ thuật lạc hậu, không thân thiện với môi trường; tổ chức sản xuất manh

mún, chụp giật và tự phát còn tồn tại. Tất cả những vướng mắc này đều có cùng

nguyên nhân đó là không có vốn để đầu tư. Điều này làm cho việc chuyển dịch cơ

cấu theo ngành nghề, theo phương tiện khai thác còn chậm.

74

Thứ ba: Sự gắn kết giữa các bộ phận hợp thành ngành, đó là nuôi trồng, khai

thác, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá chưa thực sự chặt chẽ, vẫn còn mang tính

“mạnh ai nấy làm”, vì vậy chưa có sự thống nhất để cùng nhau tháo gỡ những khó

khăn chung của ngành khi gặp phải, ví dụ như, sự cạnh tranh của hàng hóa nước

ngoài, thôn tin thị trường, khó khăn về vốn….

Thứ tư: Trình độ khoa học, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý thủy sản còn

chậm được đổi mới, vì vậy làm cho sức cạnh tranh của hàng hóa thủy sản trên thị

trường trong nước và quốc tế chưa cao; thất thoát sau thu hoạch còn lớn, năng suất

lao động và sự giải phóng sức lao động thấp.

Thứ năm: Ngoài các nguyên nhân chủ quan trên, có nguyên nhân khách

quan đó là, ngành thủy sản Khánh Hòa tiến hành chuyển dịch cơ cấu ngành theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ xuất phát điểm thấp, kinh tế kém phát triển,

ngư dân ven biển đa số là nghèo, công cụ lao động thô sơ, tàu thuyền nhỏ bé; tốc độ

dân số tăng nhanh trình độ dân trí thấp nên gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận

và ứng dụng các thành tự khoa học, kỹ thuật, tiếp cận với kinh tế thị trường. Mặt

khác thủy sản là ngành luôn phải chịu sự tác động của tố môi trường tự nhiên, sản

xuất kinh doanh mang tính rủi ro cao. Ngoài ra còn có yếu tố thị trường đầu ra cho

sản phẩm, nhất là khi hướng ra xuất khẩu.

2.3.2- Những vấn đề đặt ra

Thứ nhất, cần tập trung giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải xây

dựng ngành thủy sản hiện đại, có cơ cấu hợp lý và hiệu quả với sự chưa cân đối

giữa các khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến trong ngành thủy sản hiện nay. Giữa

yêu cầu ngành thủy sản phải nắm bắt nhanh những thành tựu khoa học, kỹ thuật

mới, khả năng ứng dụng rộng rãi vào trong sản xuất kinh doanh thủy sản…với

trinhg độ dân trí còn thấp, thiếu vốn và trình độ quản lý tổ chức chưa đáp ứng kip.

Thứ hai: Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển có kế hoạch, theo qui hoạch

trong tổng thể cơ cấu kinh tế của tỉnh, của vùng, với tình trạng tự phát, lộn xộn,

không có quy hoạch hoặc thiếu quy hoạch đồng bộ; tình trạng ô nhiễm môi trường,

cơ sở hạ tầng nghề cá chưa nâng cấp kịp thời… gây cản trở không nhỏ đến quá trình

75

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh.

Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy

sản theo hướng công nhiệp hóa, hiện đại hóa là ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên

tiến, hiện đại vào sản xuất kinh doanh, với yêu cầu vẫn phái tiếp tục phát triển với

sự kết hợp với công nghệ truyền thống, sử dụng nhiều lao động, để giải quyết việc

làm và giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội của tỉnh, của vùng.

Thư tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

thủy sản tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi nguồn

vốn lớn. Trong khi đó nguồn vốn đầu tư của tỉnh còn hạn chế, thu nhập của ngư dân

còn thấp.

Thứ năm, mâu thuẫn giữa yêu cầu đa dạng hóa mặt hàng thủy sản, chất

lượng cao, mở rộng thị trường xuất khẩu để thu ngoại tệ, nâng cao sức cạnh tranh

của hàng hóa thủy sản… với những yếu tố trình độ lực lượng sản xuất còn thấp; cơ

chế, chính sách, môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn, hệ thống dự báo, thu thập

thông tin chưa phát triển, đội ngũ quản lý chưa đáp ứng được so với yêu cầu.

76

Kết luận chương 2

Trong chương 2, luận văn đã tập trung vào phân tích:

Thứ nhất, những đặc điểm của tỉnh Khánh Hòa nhìn từ góc độ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, bao gồm: đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội. Những

đặc điểm này như là những nhân tố đặc thù tác động, ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành thủy sản của Khánh Hòa.

Thứ hai, luận văn đưa ra tổng quan về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh

Khánh Hòa, vị trí của ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế của tỉnh và trong cơ cấu

ngành nông – lâm – thủy sản.

Thứ ba, luận văn phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy

sản qua hai giai đoạn: Giai đoạn 2000-2005, là giai đoạn đầu của chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành thủy sản trong cơ chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ

nghĩa. Giai đoạn 2006-2011, giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, luận văn cũng đã trình bày những đánh giá chung về thành tựu, tồn

tại và nguyên nhân…Đồng thời luận văn cũng đã khái quát những vấn đề đặt ra cần

phải giải quyết trong quá trình chuyển dịch trong thời gian tới

77

CHƯƠNG 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHUYỂN DỊCH

CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THỦY SẢN THEO HƯỚNG CNH, HĐH

CỦA TỈNH KHÁNH HÒA

3.1- Mục tiêu và những quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

của tỉnh Khánh Hòa

3.1.1- Mục tiêu tổng quát

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản nhằm phát triển ổn định, bền

vững cho hiện tại và tương lai trên cơ sở đẩy mạnh tốc độ phát triển nghề cá nhân

dân theo các định hướng hiệu quả gắn liền với bảo vệ môi trường công nghiệp hóa,

hiện đại hóa để tạo lập được hệ thống kinh tế sản xuất hàng hóa đủ sức cạnh tranh

trên thị trường trong nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

của tỉnh khánh Hòa nhằm bố trí, định vị phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế

trong nội bộ ngành phù hợp với kinh tế thị trường, thị hiếu tiêu dùng trên cơ sở khai

thác tốt các lợi thế về tiềm năng nguồn lợi thủy sản, vị trí địa lý, hệ thống cơ sở hạ

tầng, cơ sở vật chất đã được đầu tư, nguồn lực của các thành phần kinh tế đã và

đang tham gia sản xuất kinh doanh thủy sản và đồng thời tranh thủ các nguồn vốn

đầu tư từ các chương trình phát triển kinh tế thủy sản. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản của tỉnh khánh Hòa nhằm tăng tiềm lực khoa học – công nghệ, gắn

sản xuất thủy sản với nghiên cứu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực. Chuyển dịch

cơ cấu ngành thủy sản nhằm kết hợp chặt chẽ với các yếu tố kinh tế, xã hội, an ninh

quốc phòng, phối hợp với các ngành kinh tế khác trong tỉnh cùng phát triển, tạo

công ăn việc làm, nâng cao đời sống và trình độ dân trí, xóa đói giảm nghèo cho

nhân dân vùng ven biển.

3.1.2- Những quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh

Khánh Hòa

Trên cơ sở coi kinh tế thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, trong tiến trình

chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong mối

78

quan hệ biện chứng với các ngành kinh tế khác của tỉnh và những mục tiêu mà

ngành phải đạt được, do đó các quan điểm đó là:

* Quan điểm toàn diện trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp và nông thôn và phát triển kinh tế biển của ở Khánh Hòa.

Khi tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải xác định không vì mục đích tự thân, lợi ích cục

bộ của ngành thủy sản, mà nó còn liên quan đến các ngành kinh tê khác, đến cả hệ

thống kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh theo

định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến

nhiều ngành kinh tế khác như: công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thủy lợi, dịch

vụ, du lịch… như là một tất yếu tự nhiên và ngược lại. Điều đó tạo ra sức mạnh

đồng thuận về hiệu quả kinh tế - xã hội của nhiều ngành trong một chiến lược

chung, khai thác, phát huy và sử dụng mọi tiềm năng kinh tế của các ngành trong

tỉnh Khánh Hòa.

* Quan điểm lấy con người là nhân tố trung tâm của sự phát triển bền

vững ngành Thủy sản

Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa phải coi trọng việc xây dựng nguồn nhân lực, tạo thêm

việc làm, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho ngư dân.

Con người mà tổng thể là nguồn lực trong sự ngiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa ngành thủy sản, đó là: đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật, cán bộ quản lý

ngành, quản lý kinh tế, cán bộ trong quản lý kinh doanh, ngư dân trong hoạt động

trong ngành thủy sản. Chỉ có xác định và phát huy nguồn lực con người, lấy con

người làm vị trí trung tâm thì công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới tiến triển và thắng lợi.

79

* Quan điểm Khoa học – công nghệ là động lực của chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Khoa học – công nghệ là khâu đột phá, có khả năng làm thay đổi tiến trình, tính

chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đưa khoa học – công nghệ tiên tiến vào

nghề cá là tạo ra cơ cấu công nghệ nhiều tầng, nhiều trình độ, kết hợp công nghệ

truyền thống với công nghệ tiên tiến là phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta và

với nghề cá Khánh Hòa nói riêng, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy kinh tế

thủy sản phát triển nhanh. Bên canh đó nhanh chóng xây dựng, kiện toàn đội ngũ

cán bộ khoa học kỹ thuật có đủ trình độ, năng lực chuyên môn triển khai, chuyển

giao, hướng dẫn ngư dân ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới vào

sản xuất kinh doanh của ngành.

* Quan điểm hợp lý trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản

Thủy sản là ngành kinh tế kỹ thuật, có sự liên kết đồng bộ giữa các khâu:

Khai thác – nuôi trồng – chế biến trong một quy trình khép kín. Vì vậy, chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa là sự triển khai đồng bộ giữa các khâu thì mới đem lại hiệu quả. Nếu sự

triển khai có sự mất cân đối, riêng lẻ cho từng khâu mà không thấy được mối liên hệ

tất yếu nội tại giữa ba khâu sẽ làm suy yếu toàn ngành. Điều đó có nghĩa là, muốn

đẩy nhanh tiến trình chyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì cần giải quyết đồng bộ mối quan hệ giữa vốn – công

nghệ - thị trường trong chu trình khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến bảo

quản, chế biến và tiêu thụ. Mỗi khâu là một mắt xích quan trọng, tạo ra sự chuyển

biến mạnh mẽ trong toàn ngành, trong đó công nghiệp chế biến phải là khâu trọng

tâm, phải đi trước một bước, vừa lôi kéo vừa tạo điều kiện cho khái thác, nuôi trồng

phát triển.

Trong tiến trình đẩy mạnh chyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải xác định phát triển kinh tế phải gắn

liền với bảo vệ, tái tạo nguồn lợi và môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững.

80

* Quan điểm phát huy nội lực trong trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành Thủy sản

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa của Khành Hòa, cần huy động tối đa nguồn lực trong tỉnh về mọi mặt:

nguồn tài chính, sức lao động, tri thức, khoa học – công nghệ, kinh nghiệm… bên

cạnh việc tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách Nhà nước cho phát triển nghề cá, tỉnh cần có

những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong ngành tự đầu tư; huy

động tín dụng, vốn trong dân, vốn từ các ngành nghề khác, các địa phương khác để

hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh việc hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra một

cơ hội lớn cho ngành thủy sản Khánh Hòa nói riêng, để qua đó tiến hành tìm kiếm

đối tác để xúc tiến thương mại, đầu tư, thị trường quốc tế, tiếp nhận khoa học tiên

tiến…Trong quá trình này, vẫn cần phải quan điểm phát huy nội lực, lấy nội lực làm

nhân tố quyết định để, ngoại lực là yếu tố quan trọng cho sự phát triển.

* Quan điểm hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản

Khi xây dựng quy hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy

sản Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần lựa chọn phương án,

xác định mức độ quy mô đầu tư vốn và công nghệ vào các khâu nuôi trồng, khai

thác, chế biến hợp lý như thế nào, bó trí nguồn lực ra sao…Phải lấy hiệu quả kinh tế

- xã hội, môi trường làm mục tiêu tiến hành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

Thủy sản là để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế nhưng phải kết hợp giải quyết công ăn

việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân

dân; thực hiện công bằng; xây dựng an ninh chính trị vùng biển đảo ổn định; bảo vệ

nguồn lợi và môi trường. Nếu chỉ đặt mục tiêu hiệu quả kinh tế, mà không quan tâm

đến vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, hoặc ngược lại, thì đều phải trả giá mà hậu

quả là khó có thể lường trước được.

Trên đây là những quan điểm mang tính định hướng trong quá trình đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản Khánh Hòa nói riêng trong thời gian tới. Những quan điểm này giúp

81

đưa ra những định hướng và giải pháp để thực hiện thành công quá trình chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản được thành công.

3.2- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản tỉnh Khánh

Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3.2.1- Phương hướng chung phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành

thủy sản

Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XVI

(30/9/2010), xác định cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ – du lịch; công

nghiệp – xây dựng; nông, lâm, thủy sản. Trong đó: tỷ trọng dịch vụ – du lịch và công

dịch vụ – du lịch tăng bình quân trên 14%; giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng

tăng bình quân trên 17%; giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tăng trên 4%.

nghiệp – xây dựng cùng chiếm 45,5%; nông lâm thủy sản chiếm 9% GDP. Giá trị

Nghị quyết tỉnh Đảng bộ Khánh Hòa lần thứ XVI và quy hoạch kinh tế xã

hội tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 đều chỉ ra, ngành thủy sản trong những năm tới

vẫn là ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh Khánh Hòa là cơ sở để thúc đẩy tăng

trưởng công nghiệp chế biến và tăng kim ngạch xuất khẩu. Tập trung huy động mọi

nguồn lực trong các thành phần kinh tế cùng với nhà nước đầu tư phát triển nhanh

ngành thủy sản cả trên 4 lĩnh vực: Khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu.

Tiếp cận công nghệ hiện đại trong đó ưu tiên cho khâu nuôi trồng và chế biến nhất

là nuôi trồng trên biển để tăng nguồn nguyên liệu cho sản xuất chế biến hàng xuất

khẩu với giá trị gia tăng cao. Gắn kết chặt chẽ giữa khai thác với an ninh quốc

phòng vùng biển tạo tiền đề để đưa ngành thủy sản Khánh Hòa tới năm 2020 thành

ngành kinh tế mạnh đồng bộ từ khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ và xuất

khẩu, góp phần tích cực vào GDP của tỉnh. Trong 5 đến 10 năm tới thủy sản vẫn

được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và đến năm 2015 thủy sản phải

thực sự vững mạnh đồng bộ trong các lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, khai thác, chế

biến, xuất khẩu.

82

3.2.2- Phương hướng phát triển ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế các

phân ngành trong nội bộ ngành thủy sản Khánh Hòa

3.2.2.1- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khai thác thủy

sản Khánh Hòa

* Chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền

+ Không đóng mới và cấp phép cho những tàu cá hoạt động trong nghề lưới

kéo có công suất dưới 90CV và các tàu cá nghề khác có công suất dưới 20CV.

+ Khuyến khích các thành phần kinh tế đóng mới tàu khai thác có công suất

lớn trên 90CV để vươn ra xa bờ, đại dương.

* Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề

+ Khuyến khích phát triển các nghề đánh bắt xa bờ như câu khơi, rê khơi, kéo

khơi, câu mực, câu cá ngừ đại dương. Trang bị nhiều nghề trên một đơn vị thuyền, di

chuyển theo ngư trường theo mùa vụ để tăng thời gian bám biển khai thác.

+ Tạo cơ chế phù hợp để chuyển đổi các nghề cấm khai thác sang các nghề

thuộc lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản hoặc các nghề khác để vừa bảo vệ được nguồn

lợi vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế và thu nhập cho ngư dân.

+ Có biện pháp hạn chế rồi tiến đến cấm khai thác đối với các phương tiện

đánh bắt mang tính hủy diệt tận thu như: sử dụng điện, chất độc, thuốc nổ, các nghề

sử dụng lưới có kích thước nhỏ hơn quy định, nghề lưới kéo hoạt động ven bờ.

3.2.2.2- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nuôi trồng thủy

sản Khánh Hòa

* Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ và nuôi biển là tận dụng

tối đa tiềm năng, lợi thế về đất đai, vùng nước huy động mọi nguồn lực trong nhân

dân và tranh thủ nguồn vốn từ các chương trình phát triển của Chính phủ về nuôi

trồng thủy sản để nuôi trồng thủy sản nước lợ và nuôi biển để cung cấp nguyên liệu

cho chế biến xuất khẩu. Bên cạnh đó phải gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Phát

triển nuôi trồng thủy sản nước lợ và nuôi biển gắn liền với quy hoạch tổng thể phát

triển của tỉnh, huyện và các ngành khác tránh chồng chéo gây xung đột về lợi ích.

Cần làm theo các định hướng sau:

83

* Đẩy mạnh phát triển nuôi vùng nước lợ chủ yếu theo hướng giữ ổn định

diện tích, đẩy mạnh thâm canh, sử dụng giống tốt, giống sạch bệnh, thức ăn chất

lượng cao, công nghệ nuôi có sử lý nước, để trên cùng một diện tích tăng sản lượng.

Tận dụng diện tích mặt nước để đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng, tập trung trung

vào những đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao và là thế mạnh của tỉnh, như tôm sú,

tôm thẻ chân trắng, tôm hùm; các đối tượng cá, như: cá bớp, cá chẽm…

* Phương hướng quy hoạch nuôi vùng nước ngọt. Tận dụng tối đa diện tích

các hồ, ao nước ngọt để nuôi cá nước ngọt; nuôi các loài thủy sản có thị trường và

giá trị tiêu dùng như tôm càng xanh, cá bống tượng, sặn dằn, thác lát, rô phi đơn

tính, chắm, chép, quả và một số loại đặc sản như ba ba, ếch, cá sấu ... để tạo ra

nguồn thực phẩm cung cấp cho tiêu dùng nội địa.

* Khôi phục lại thế mạnh của sản xuất giống thủy sản. Quy hoạch vùng

chuyên canh nuôi giống thủy sản, một mặt nhằm đảm bảo tính ổn định của sản

lượng giống cung cấp cho nuôi thương phẩm trong tỉnh và đẩy mạnh ra các tỉnh

khác, mặt khác kiểm soát được môi trường và dịch bệnh. Kết hợp với các Trung

tâm nghiên cứu và sản xuất giống trong và ngoài tỉnh để nhận chuyển giao công

nghệ, kỹ thuật về tạo và chăm sóc giống.

3.2.2.3- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chế biến và

thương mại

* Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong phân ngành chế biến

thủy sản xuất khẩu

Chuyển dịch về nhóm mặt hàng chế biến xuất khẩu

+ Tôm đông lạnh: Chuyển toàn bộ lượng tôm chế biến dạng nguyên liệu

sang chế biến hàng có giá trị gia tăng, hàng cấp siêu thị. Sản phẩm chủ yếu là các

loại tôm rời, hướng tới các thị trường có nhu cầu lớn về số lượng và an toàn vệ sinh

thực phẩm.

+ Các loại cá: Tập trung vào chế biến cá cá filet như thu, ngừ đại dương,

mú, bạc má... Tận dụng tối đa nhóm các loại cá để sản xuất các loại sản phẩm ăn

84

sống như cá shushi, giảm dần xuất khẩu hàng khô theo dạng nguyên liệu mà phải

qua chế biến để tăng giá trị cá tẩm gia vị, tẩm bột, xiên que...

+ Các loại nhuyễn thể: Gồm các mặt hàng chủ yếu mực nang phi lê,

shashimi, sushi, cắt miếng, lột da đóng rời theo từng block nhỏ để bán siêu thị ngoài

ra tận dụng tối đa nguyên liệu để chế biến mực ống cắt khoanh, lột da, bạch tuộc cắt

luộc... xuất sang thị trường Nhật, Hàn quốc, Đài Loan..

+ Các loại nhuyễn thể 2 mảnh vỏ (sò huyết, ốc hương, điệp nghêu và các

loại khác): chế biến dạng đóng hộp, đóng rời hoặc xuất tươi sống sang các thị

trường châu á: Trung Quốc, Nhật..

+ Nhóm hàng xuất khẩu khô: Đây là nhóm hàng chủ yếu xuất khẩu sang

thị trường châu á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước Asean) do đó

ngoài việc cần thực hiện thương mại như hàng chế biến đông lạnh xuất khẩu cần

liên kết với các hiệp hội thương mại để tạo thêm các thị trường mới. Tăng cường

việc tìm hiểu thị hiếu khách hàng để sản xuất các mặt hàng có giá trị tăng cao tránh

việc xuất khẩu nguyên liệu.

+ Nhóm hàng xuất khẩu sống: Thực hiện theo hình thức đặt hàng giữ

sống xuất khẩu sang thị trường có nhu cầu ăn sống (Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng

Kông, Đài Loan ..)

Hệ thống thương mại xuất khẩu thuỷ sản

+ Phát triển mạng lưới thông tin thương mại xuất khẩu đến từng cơ sở

sản xuất, lập các wessitte của từng cơ sở để thực hiện maketing trên toàn cầu, thu

thập thông tin về thị trường thông qua các kênh thông tin qua mạng Internet

+ Phối hợp chặt chẽ và vận động mọi cơ sở sản xuất thuỷ sản đông lạnh

xuất khẩu tham gia hiệp hội chế biến thuỷ sản Việt Nam.

+ Khuyến khích xây dựng mới các cơ sở sản xuất với công nghệ tiên tiến,

cùng với việc đầu tư nâng cao năng lực chế biến, đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã

bao bì đẹp.

+ Yêu cầu tất cả các cơ sở chế biến xuất khẩu đông lạnh phải áp dụng các tiêu

chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm để sản xuất theo yêu cầu của các thị trường Nhật, Mỹ, EU.

85

* Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chế biến thủy sản nội địa

Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng chế biến và nhu cầu nguyên liệu

- Hàng khô các loại: Chuyển sản xuất hàng khô theo dạng nguyên liệu sang

các mặt hàng tinh chế, tẩm ướp gia vị có bao bì, mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm

đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

- Nước mắm và mắm các loại: Sản xuất đa dạng những loại sản phẩm mẫu

mã bao bì đẹp đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm để phát huy và bảo vệ thương

hiệu mắm Khánh Hoà.

- Đồ hộp: Tuỳ theo khả năng cung cấp nguyên liệu và nhu cầu, khẩu vị của

thị trường nội địa sản xuất các mặt hàng thuỷ sản đóng hộp, kết hợp sản xuất đồ hộp

thuỷ sản với các loại thực phẩm khác.

3.2.2.4- Phương hướng chuyển dịch về cơ sở hạ tầng và dịch vụ thủy sản

Xây dựng cơ sở hạ tầng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá là

khâu then chốt để phát triển kinh tế thuỷ sản bền vững tạo ra những trung tâm nghề

cá giải quyết việc làm, góp phần phát triển kinh tế xã hội các địa phương vùng ven

biển và các vùng nông thôn có điều kiện nuôi thuỷ sản. Do đó phương hướng về cơ

sở hạ tầng và dịch vụ thủy sản giai đoạn 2015 có tính đến 2020 như sau:

* Phục vụ khai thác thủy sản

+ Hoàn thiện hệ thống cảng cá, bến cá, khu tránh trú bão, nạo vét luồng lạch

trên cơ sở nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác.

+ Hoàn thiện hệ thống các cửa hàng bán ngư lưới cụ trên cơ sở phát huy

nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác.

+ Củng cố các cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu thuyền. Ưu tiên công nghệ

vật liệu mới thay gỗ.

* Phục vụ nuôi trồng thủy sản

+ Xây dựng hoàn thiện hệ thống thủy lợi, kiên cố kênh mương cấp thoát

nước cho nuôi trồng thủy sản, hệ thống điện, đường giao thông, đê bao, cống thoát

lũ cho các vùng dự án nuôi trồng thủy sản nhất là các vùng chưa được đầu tư hệ

thống cơ sở hạ tầng trên cơ sở nguồn vốn ngân sách.

86

+ Củng cố và mở rộng hệ thống mạng lưới cung cấp thiết bị, thức ăn công

nghiệp, thuốc, hóa chất phục vụ nuôi trồng thủy sản.

+ Đầu tư xây dựng các vùng sản xuất và kiểm định giống thủy sản tập

trung trên nguyên tắc Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng còn nhân dân đầu tư

xây dựng trại sản xuất. Đa dạng hóa các loại giống thủy sản.

* Phục vụ cho chế biến và thương mại thủy sản

+ Chuyển dần các cơ sở chế biến thủy sản ở nội đô thành phố Nha Trang và

thị xã Cam Ranh ra các khu công nghiệp, chế xuất có quy hoạch cho thủy sản trên

nguyên tắc Nhà nước hỗ trợ vốn di dời.

+ Khuyến kích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến

thức ăn công nghiệp phục vụ nuôi thủy sản.

3.3- Các giải pháp chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo

hướng CNH, HĐH của tỉnh Khánh Hòa

3.3.1- Giải pháp về quy hoạch ngành thủy sản tỉnh Khánh Hòa trong quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản

Qua thực tiễn tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh

Khánh Hòa ở thời gian qua, cho thấy: Bên cạnh những mặt tích cực, đã làm được.

Xong vẫn còn bộc lộ những khuynh hướng tự phát, manh mún, phát triển mất cân

đối ở một số lĩnh vực nghề cá, như: Nhân dân đua nhau nuôi trông, khai thác, chế

biến… đã làm cho nguồn lợi ven bờ bị cạn kiệt, tình trạng ô nhiễm môi trường, dịch

bệnh tràn lan… Điêu này không những làm giảm tốc độ phát triển, mà tiềm năng ,

nguồn lợi của tỉnh không được khai thác hiệu quả, lâu dài. Một trong những nguyên

nhân dẫn đến tình trạng “tự phát” này chính là sự chậm trễ và còn yếu kém trong

công tác quy hoạch.

Xuất phát từ tình hình thực tiễn về quy hoạch ngành thủy sản tỉnh Khánh

Hòa trong thời gian qua cho thấy còn có nhiều bất cập. Để khắc phục những bất cập

này, ngành thủy sản Khánh Hòa, mà cơ quan chủ quản trực tiếp đó là Sở Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn Khánh Hòa cần hoàn thiện các vấn đề sau:

87

- Hoàn thiện việc điều tra, thống kê, quy hoạch, đánh giá lại tiềm năng kinh tế

thủy sản của tỉnh về: Nguồn lợi, điều kiện khai thác, nuôi trồng, chế biến, môi trường

sinh thái… để qua đó thấy được những ưu thế và hạn chế của ngành. Mặt khác, để

khai thác hiệu quả các các tiềm năng này phải thông qua các nguồn lực, trước hết là

nội lực của tỉnh, bao gồm: nguồn nhân lực, khả năng tài chính, trình độ công nghệ,

kinh nghiệm…các công tác này phải được quy hoạch và tính toán chính xác.

- Hoạt động ngành thủy sản luôn gắn với thị trường: thị trường đầu ra và thị

trường đầu vào; thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Do đó việc tiến

hành điều tra, khảo sát, dự báo chính xác và cập nhật thông tin thường xuyên những

biến động của thị trường cũng như xu hướng phát triển nghề cá, là việc làm rất quan

trọng để ngành có những định hướng phát triển trong sản xuất kinh doanh.

- Tiến hành quy hoạch cơ cấu nghề nghiệp, sắp xếp, phân công lại lao động

một cách hợp lý; quy hoạch các phương tiện khai thác, trình độ công nghệ của

phương tiện khai thác; tổ chức sản xuất dựa trên phân tuyến khai thác phù hợp với

đặc điểm, tiềm năng nguồn lợi của từng ngư trường. Thiết lập bản đồ khai thác, xác

định rõ khu vực cấm và hạn chế khai thác để nuôi dưỡng, bảo tồn nguồn lợi, bảo vệ

ngư trường. Kết hợp giữa khai thác với xây dựng các cơ sở dịch vụ hậu cần, tổ chức

bảo vệ an ninh quốc phòng trên biển – đảo.

- Tiến hành quy hoạch nuôi trồng thủy sản, nhằm khai thác triệt để, có hiệu

quả các tiềm năng, lợi thế môi trường sinh thái tự nhiên của vùng đất triều và vùng

nước ven bờ tỉnh Khánh Hòa. Đồng thời, tiến hành phát triển những đối tượng nuôi

trồng ít xâm hại tới môi trường và các đối tượng thủy sản khác.

- Quy hoạch lại mạng lưới các nhà máy chế biến thủy sản gần các vùng cung

cấp nguyên liệu; các cơ sở sửa chữa tầu, thuyền, các cảng cá, bến cá phù hợp cho

sản xuất.

3.3.2- Giải pháp về thị trường

Có thể nói thị trường trong nước và nước ngoài là một trong những yếu tố

có sự tác động lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản Khánh

Hòa. Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa

88

đến năm 2015, tỉnh Khánh Hòa cần thực hiện những phương hướng sau:

- Đẩy mạnh thị trường theo hướng xuất khẩu và khai thác các lợi thế so sánh

về thủy sản ở Khánh Hòa với các địa phương khác để phát triển. Muốn vậy cần

nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ thủy sản như tôm, cá, mực cấp đông,

ngọc trai, yến sào, cá cảnh … để mở rộng thị trường ngoài nước. Đẩy mạnh công

tác nghiên cứu điều tra, thăm dò, dự báo thị trường trong nước và ngoài nước, nhất

là các đối tác đã có quan hệ thương mại truyền thống như Nhật Bản, Đài Loan,

Trung Quốc, EU, Mỹ … và những đối tác tiềm năng khác để có chính sách thị

trường thích hợp để thực hiện kế hoạch xuất khẩu của ngành đề ra. Xây dựng chính

sách giá hợp lý, tạo được thế cạnh tranh ở thị trường trong nước và thị trường ngoài

nước để khuyến khích ngư dân và các tổ chức kinh tế phát huy năng lực sản xuất –

kinh doanh của mình.

- Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cần có biện pháp tổ chức tốt công

tác thông tin thị trường. Công tác thông tin thị trường rất quan trọng nhất là những

thông tin về kinh tế và thương mại của các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các

chủ thể kinh tế trong nước cho đối tác nước ngoài và ngược lại. Đẩy mạnh các tổ

chức làm dịch vụ nghiên cứu, thăm dò, dự báo giới thiệu thị trường và bạn hàng

cho các cơ sở sản xuất chế biến xuất khẩu những thông tin cần thiết …

- Các đơn vị sản xuất, các nhà máy chế biến đông lạnh có biện pháp đầu tư

công nghệ hiện đại để đổi mới cơ cấu sản xuất, không ngừng tạo ra những mặt hàng

xuất khẩu mới, hấp dẫn thị trường ngoài nước theo hướng tăng hàm lượng công

nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám trong các hàng hóa xuất khẩu; cố gắng giảm tối

đa xuất khẩu hàng hóa thủy sản thô. Chủ động cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng,

hạ giá thành hàng hóa và bao bì xuất khẩu để nâng sức cạnh tranh ở thị trường nước

ngoài, cũng như thị trường nội địa.

Để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa thủy sản Khánh Hòa trên thị

trường thế giới, cần xây dựng và củng cố hiệp hội các nhà xuất khẩu thủy sản trong

tỉnh, tăng cường công tác tiếp thị, mở rộng các hoạt động quảng cáo và giao lưu

thương mại.

89

Đối với thị trường nội địa, tỉnh cần đẩy mạnh nghiên cứu, tổ chức tốt mạng

lưới thương mại hàng hóa thủy sản nội địa, kết hợp với việc xây dựng tiện nghi các

chợ cá. Tỉnh Khánh Hòa cần có chính sách yểm trợ tài chính thích hợp đối với

những cơ sở sản xuất và các hộ gia đình làm nghề chế biến, kinh doanh các sản

phẩm thủy sản phục vụ cho tiêu thụ nội địa, đặc biệt đối với các vùng sâu, vùng xa

như các huyện miền núi trong tỉnh, các tỉnh vùng Tây Nguyên. Cơ quan quản lý

ngành cần có biện pháp quản lý các hoạt động của các chủ vựa, những người buôn

bán nguyên liệu và sản phẩm thủy sản để lưu thông phân phối hàng hóa thủy sản

diễn ra bình thường.

3.3.3- Giải pháp về vốn đầu tư cho ngành Thủy sản

Từ thực tế cho thấy, nguồn vốn được hoạt động trong ngành thủy sản chỉ đáp

ứng được 60 đến 70% so với yêu cầu đầu tư vốn cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do nguồn vốn hạn hẹp nên nhiều ngư

dân không có khả năng đóng tàu thuyền với công suất để khai thác xa bờ, hoặc nuôi

trồng dừng lại ở quy mô nhỏ, phương thức nuôi thủ công; các cơ sở chế biến với kỹ

thuật thô sơ khó có khả năng nâng cao trình độ công nghệ, để sản xuất có hiệu quả.

Đây là rào cản làm giảm tốc độ trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ngành

thủy sản ở Khánh Hòa.

Để huy động nguồn vốn cho mục tiêu trên, tỉnh Khánh Hòa cần thực hiện

những giải pháp đồng bộ sau:

- Khuyến khích các thành phần kinh tế trong ngành phát huy cơ chế tự chủ, sử

dụng nguồn vốn tự có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh dựa trên việc ứng dụng

những thành tự khoa học - công nghệ hiện đại; thường xuyên cải tiến tổ chức lại sản

xuất, tăng năng suất lao động để nâng cao khả năng tích lũy, tạo ra nguồn vốn để tái

sản xuất mở rộng. Đây là giải pháp dùng vốn tự có để đầu tư vào khoa học - công

nghệ và ngược lại thông qua khoa học – công nghệ để tạo ra nguồn vốn lớn hơn.

- Thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp có hiệu quả để kích thích sản xuất

phát triển; xây dựng các hợp tác xã kiểu mới, các hình thức hợp tác, nhóm bạn

nghề, các chi hội nghề cá … nhằm đánh thức những nguồn vốn nằm im thành vốn

90

hoạt động, biến vốn thuộc sỡ hữu tư nhân thành vốn xã hội, vốn của ít người thành

vốn của nhiều người; đưa các doanh nghiệp thủy sản có đủ điều kiện tham gia vào

thị trường chứng khóa để thu hút vốn đầu tư thông qua việc phát hành cổ phiếu.

- Xây dựng cơ chế tự tạo vốn trong cộng đồng ngư dân bằng nhiều hình thức

như “quỹ tín dụng nông thôn”, “quỹ tín dụng nghề cá” … huy động nguồn vốn nhàn

rỗi trong nhân dân hỗ trợ cho sản xuất phát triển. Thực hiện phương thức “Nhà nước và

nhân dân cùng làm” để Nhà nước cùng nhân dân đầu tư sản xuất xây dựng mới các

tuyến giao thông, bến cảng, chợ cá để đáp ứng nhu cầu vận chuyển, lưu thông nguồn

hàng được thuận tiện.(Bài học rút ra từ Quảng Ngãi)

- Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa chính sách cho nhân dân vay vốn với lãi

suất thấp, thời hạn lâu dài để ngư dân có điều kiện đóng mới tàu thuyền công suất

lớn, mua sắm các thiết bị, ngư cụ hiện d dại để khai thác, nuôi trồng, chế biến ngày

càng có hiệu quả.

- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng hình thức đầu tư trực tiếp 100%, vốn

đầu tư phát triển ODA, hoặc liên doanh liên kết với nước ngoài trong các lĩnh vực

như: xây dựng các tuyến giao thông đến các trung tâm nghề cá, xây dựng các cảng

cá, các nhà máy chế biến hiện đại … liên doanh trong các lĩnh vực nuôi ngọc trai,

nuôi tôm, nuôi cá cảnh xuất khẩu v.v…

Để có thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thủy sản, tỉnh Khánh Hòa cần

phải thực hiện:

+ Xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng với các thủ tục hành

chính đơn giản, thời gian cấp giấy phép nhanh chóng, có nhiều ưu đãi như giá thuê

đất, mặt nước thấp, thời gian thuê đất, mặt nước dài hạn v.v … Các dự án về thủy

sản được quy hoạch, có kết cấu hạ tầng tốt, ở khu vực giao thông thuận lợi … để

thu hút các nhà đầu tư.

+ Tỉnh cần có biện pháp tăng cường hợp tác với các quốc gia có nghề cá phát

triển trong khu vực và trên thế giới để giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, trao đổi

khoa học – công nghệ mới, tiếp nhận viện trợ vốn và các thiết bị thủy sản tiên tiến.

Tổ chức các hội chợ quốc tế để quảng bá tiềm năng về biển, sản phẩm và ẩm thực

91

thủy sản của Khánh Hòa với bạn bè quốc tế, và tìm kiếm khách hàng và thị trường

thế giới.

3.3.4- Giải pháp về khoa học – công nghệ

- Tiến hành xây dựng chiến lược đến năm 2020 và thiết lập lộ trình, bước đi

để có cơ sở đẩy mạnh việc nghiên cứu chuyển giao, áp dụng tiến bộ khoa học –

công nghệ vào sản xuất kinh doanh của ngành. Trong quá trình xây dựng chiến lược

cần xác định lựa chọn công nghệ phù hợp vào nuôi trồng khai thác, chế biến của

từng giai đoạn phát triển và đứng đầu, tiếp nhận những công nghệ cao để thu hẹp

khoảng cách với nghề cá các nước trong khu vực. Trong những năm trước mắt, dựa

vào khoa học – công nghệ tập trung giải quyết những bức xúc hiện tại của ngành

như: đưa ra giải đáp một cách chính xác về tiềm năng nguồn lợi của các ngư trường

biển Khánh Hòa, những công nghệ thích hợp cho khai thác xa bờ; xác định ngân

hàng giống cho nuôi nước lợ và nuôi biển, xác định công nghệ chế biến tiên tiến để

tạo ra nhóm sản phẩm xuất khẩu mang tính đặc trưng của Tỉnh.

- Hướng dẫn, khuyến khích các thành phẩn kinh tế ứng dụng những tiến bộ

khoa học – công nghệ vào sản xuất kinh doanh với nhiều hình thức, biện pháp như:

+ Nâng cao trình độ học vấn cho ngư dân, giúp ngư dân có điều kiện tiếp

nhận và ứng dụng những khoa học – công nghệ mới vào hoạt động sản xuất kinh

doanh của họ.

+ Phát huy vai trò tổ chức khuyên ngư, triển khai hệ thống khuyến ngư đến

tận xã, phường, làng cá. Thường xuyên mở các lớp tập huấn, hội thảo hướng dẫn

ngư dân những thành tựu công nghệ mới vào sản xuất.

+ Hình thành các trung tâm dịch vụ về khoa học – công nghệ thủy sản, thông

qua diễn đàn ở các câu lạc bộ để thông tin, tư vấn cho ngư dân, các chủ thể kinh tế

lựa chọn thiết bị công nghệ, đối tượng nuôi thích hợp với điều kiện đất đai, mặt

nước, môi trường ở địa phương để đạt được hiệu quả đồng thời giúp đỡ họ trong

quá trình triển khai ứng dụng công nghệ mới.

- Đẩy mạnh mô hình hợp tác “bốn nhà”: Nhà nước - nhà nông – nhà doanh

nghiệp – nhà khoa học. Sở thủy sản là cầu nối giữa ngư dân và các nhà khoa học ở

92

Viện Hải dương học. Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản 3, Trường Đại Nha Trang, để

giúp ngư dân tiếp nhận những thành tựu khoa học – công nghệ mới, đồng thời các

nhà khoa học có nhiệu vụ giải đáp những vấn đề kỹ thuật trong thực tiễn mà ngư

dân yêu cầu.

- Khuyến khích các doanh nghiệp nhập thiết bị công nghệ hiện đại, các loại

giống có năng suất, sạch bệnh của nước ngoài. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thường

xuyên trao đổi thông tin, hội thảo khoa học để tiếp cận những thành tựu khoa học –

công nghệ mới trong nghề cá, tìm kiếm sự giúp đỡ, viện trợ về kỹ thuật của nước

ngoài rồi đẩy nhanh ứng dụng vào thực tiễn.

- Hợp lý hóa khai thác thủy sản, bao gồm phát triển có hiệu quả khai thác

thủy sản xa bờ và điều chỉnh hợp lý nghề cá ven bờ; vừa khai thác, vừa bảo vệ, phát

triển và tái tạo nguồn lợi, đảm bảo phát triển cá ổn định, bền vững. Tăng cường mở

rộng hợp tác với nước ngoài để thu nhập công nghệ mối, hiện đại; thúc đẩy khai

thác thủy sản xa bờ và tiến tới phát triển nghề cá viễn dương. Xây dựng đồng bộ

ngành công nghiệp khai thác thủy sản (đội tàu, bến, cảng cá, cơ khí đóng, sửa tàu

thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu cần an toàn trên biển…) trong mối quan hệ hệ thống

nhất với các ngành nghề khác.

- Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản theo hướng phát triển chiến lược; tạo ra

bước ngoặt lớn trong lĩnh vực nuôi trồng, đặc biệt là nuôi biển. Tỉnh Khánh Hòa

cần tập trung lực lượng các nhà khoa học của địa phương kết hợp với trường Đại

học Nha Trang, các viện khoa học trên địa bàn nghiên cứu những kỹ thuật công

nghệ mới và lựa chọn du nhập những công nghệ tiên tiến về nuôi trồng trên thế giới

để thúc đẩy ngành nuôi trồng ngày càng phát triển.

+ Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chiến lược sản phẩm và định

hướng thị trường, gia tăng giá trị thương mại. Khai thác và sử dụng tối ưu nguồn

nguyên liệu, kể cả nguyên liệu nhập khẩu. Khánh Hòa cần qui hoạch lại và nâng cấp

hệ thống các nhà máy chế biến thủy sản ở thành phố Nha Trang, thị xã Cam Ranh,

huyện Vạn Ninh với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của thế giới. Đầu tư nghiên cứu

tiếp thị và phát triển nhiều mặt hàng mới để đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và

93

xuất khẩu. Tăng cường và hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng và vệ sinh an

toàn thực phẩm với các thiết bị kỹ thuật hiện đại để ngày càng nâng cao giá trị hàng

hóa thủy sản.

+ Phát triển lĩnh vực cơ khí – hậu cần – dịch vụ nghề cá theo hướng vừa đầu

tư củng cố nâng cấp, kết hợp chặt chẽ với việc chuyển đổi quản lí các cơ sở hiện có,

vừa xây dựng các cơ sở mới hiện đại, đảm bảo năng lực phục vụ có hiệu quả cho

đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, thương mại thủy sản … Cần củng cố hệ thống cung

ứng và dịch vụ động cơ thủy, gắn với bảo hành sửa chữa và tiến tới hình thành

ngành công nghệ đóng tàu cá có công suất lớn phục vụ cho công tác khai thác xa bờ

và địa dương (tàu vỏ gỗ, vỏ sắt, compozit …) Xây dựng ngành công nghiệp dệt lưới

kết hợp với sản xuất các thiết bị cứu hộ, cứu sinh, bảo hộ lao động nghề cá để đáp

ứng nhu cầu hoạt động khai thác của ngư dân.

3.3.5- Giải pháp về nguồn nhân lực

Trong việc phát triển nguồn nhân lực của ngành thủy sản Khánh Hòa, cần coi

trọng nguồn nhân lực có trình độ khoa học – kỹ thuật, quản lý kinh doanh … Trong

đào tạo bồi dưỡng cần kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề

nghiệp với đào tạo bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm hình thành một đội ngũ cán

bộ cần cù, sáng tạo, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phong cách lao động công

nghiệp. Để phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy

sản, Khánh Hòa cần giải quyết tốt những vấn đề cơ bản sau:

- Nâng cao trình độ văn hóa cho mọi đối tượng ngư dân, kiên quyết xóa mù

đối với những ngư dân chưa biết chữ. Phấn đấu phổ cập cấp một tự đối với toàn ngư

dân trong tỉnh. Động viên, tạo mọi điều kiện để ngư dân cho con em họ ở độ tuổi đi

học đến trường, vì đây là nguồn nhân lực dồi dào thay thế cho lớp người lớn tuổi

trong ngành.

- Tỉnh và ngành thủy sản Khánh Hòa cần có chính sách khuyến khích để phát

triển việc đào tạo mới đội ngũ công nhân có chất lượng: đặc biệt là công nhân lành

nghề, công nhân bậc cao trong các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản

theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đào tạo lại, bổ túc nâng

94

cao trình độ văn hóa, nghiệp vụ chuyên môn ngành nghề cho đội ngũ công nhân hiện

có; đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho ngư dân hoạt động trong lĩnh vực nghề cá.

- Bằng nhiều hình thức khác nhau tạo ra một đội ngũ cán bộ có trình độ trung

học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học trong các lĩnh vực của ngành

hoạt động ở các cấp tỉnh, huyện, trạm, trại, trung tâm v.vv…

- Là một tỉnh có thế mạnh về thủy sản, số lượng hoạt động trong ngành thủy

sản chiếm gần 7% dân số trong tỉnh, vì vậy tỉnh và ngành thủy sản nên thành lập

Trường Trung học Thủy sản hoặc Trường đào tạo công nhân để có nguồn nhân lực

phục vụ lâu dài cho ngành: Có biện pháp tổ chức tốt trung tâm khuyến ngư, thành

lập các hiệp hội nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản, khai thác thủy sản nhằm

giúp họ tiếp nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới để hoạt

động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

3.3.6- Giải pháp về tổ chức, quản lý và chính sách đối với ngành thủy sản

* Về tổ chức, quản lý thủy sản trên địa bản tỉnh

Kiện toàn bộ máy hệ thống quản lý, chỉ đạo khối ngành thủy sản trên địa bàn

tỉnh, tăng cường cải tiến hệ thống quản lý theo hướng hiện đại, tinh giản. Khắc phục

tình trạng chồng chéo, vừa phân tán, cục bộ, tạo nhiều sơ hở gây nên những tiêu cực,

thất thoát tài nguyên do buông lỏng quản lý trong ngành thủy sản thời gian qua.

Tăng cường chức năng dự báo, định hướng quy hoạch của các cơ quan

chuyên môn quản lý tổng hợp. Sớm hình thành các định chế về tài chính, tín dụng

phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển ngành thủy sản. Tăng

cường vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên môn đối với các chủ thể

hoạt động trong ngành thủy sản, như: vốn; qui mô sản xuất chế biến, nuôi trồng,

khai thác; thị trường… cũng như việc chấp hành kỷ cương, pháp luật về bảo vệ môi

trường, chế độ tài chính, tuân thủ quy hoạch…

Đề cao vai trò của các tổ chức Đảng trong ngành thủy sản nói riêng. Cần khẳng

định, tổ chức Đảng là hạt nhân lãnh đạo toàn diện, là nhân tố để định hướng XHCN

cho các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực thủy sản.

95

* V ề cơ chế, chính sách

- Chính sách về tín dụng: Chính sách tín dụng đó là: vốn vay ngắn hạn, trung

hạn và dài hạn. Đây là nguồn vốn đầu tư chủ đạo cho hộ dân trong quá trình sản

xuất. Nguồn vốn tín dụng đầu tư tập trung vào duy trì và phát triển sản xuất chế

biến, nuôi trồng thủy sản và khai thác, bên cạnh đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ

thuật hoặc sửa chữa cải tạo lại cơ sở vật chất kỹ thuật; đầu tư thâm canh tăng năng

suất, mở rộng quy mô diện tích sản xuất.

Tổ chức tín dụng nông thôn chính hiện nay gồm có hệ thống ngân hàng nông

nghiệp và phát triển nông thôn của các tỉnh, quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng phục

vụ người nghèo hoạt động dựa trên nguồn vốn tài trợ nước ngoài thực hiện mục tiêu

xoá đói giảm nghèo với lãi suất ưu đãi.

Để tạo điều kiện đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.

Chính sách cần được thực hiện:

Chuyển đổi phương thức đầu tư tín dụng nông nghiệp nông thôn từ cho vay

riêng lẻ sang hướng đầu tư tập trung cho các chương trình, dự án chuyển dịch cơ

cấu kinh tế; đặc biệt chú ý đến dự án có sản phẩm xuất khẩu. Mở rộng cho vay tới

các ngành nghề, các vùng chuyên canh.

Mở rộng chi nhánh ngân hàng nông nghiệp đến tận các xã, ngay cả vùng sâu,

vùng xa. Cán bộ ở các chi nhánh có trình độ để tìm hiểu nhu cầu vốn của các đối

tượng vay vốn và tận tình giúp đỡ họ xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh

khả thi khi vay vốn.

Tăng cường tín dụng trung, dài hạn, cho các phương án ứng dụng các công

nghệ mới, phát triển công nghiệp chế biến sử dụng lao động tại chỗ, phát triển nuôi

thâm canh tăng năng suất; đánh bắt xa bờ.

3.3.7- Một số kiến nghị

Để những phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy

sản của tỉnh Khánh Hòa trở thành hiện thực, thì cần thiết phải thực hiện một cách

động đồng bộ các chính sách kinh tế. Vì vậy, những kiến nghị này chỉ đề cập đến

một số chính sách, theo tác giả là quan trọng và cấp thiết.

96

3.3.7.1- Kiến nghị đối về vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện

các chức năng nhằm thúc đẩy ngành thủy sản phát triển

Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản cả nước nói

chung, của Khánh Hòa nói riêng, tác giả thấy Nhà nước nên thực hiện vai trò quản

lý Nhà nước ở những chức năng sau:

Chức năng định hướng

Nhà nước cần đưa ra các chính sách vĩ mô để định hướng, vừa là công cụ

đòn bẩy thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là chức năng quan trọng của Nhà nước, vì vậy đòi hỏi

các cấp chính quyền, cán bộ công chức trong ngành thủy sản lấy đó làm tư tưởng

chủ đạo để tiến hành thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản

theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thành công.

Chức năng tổ chức

Quá trình tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng

công nghiệp hóa, là làm thay đổi cơ bản cơ cấu tổ chức sản xuất của ngành sang

một trình độ tổ chức quản lí cao hơn. Nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trong điều kiện nền kinh tế mở và đẩy mạnh hội nhập, do đó tất yếu phải điều

chỉnh lại cơ cấu kinh tế, các hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh

tế. Quá trình này đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nước trong việc đỏi mới bộ máy tổ

chức quản lý, sắp xếp lại cơ cấu sản xuất nhằm đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả

phù hợp với cơ chế thị trường; khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, quan liêu, và

cũng qua đó thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Chức năng tạo môi trường

Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản nằm trong quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói chung khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước. Nhà nước cần tạo ra môi trường thông thoáng, đó là: Giữ vững sự

ổn định chính trị - xã hội ở khu vực nông thôn miền biển; môi trường thể chế - pháp

luật; phát triển đồng bộ thị trường và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cuối

cùng là kết cấu hạ tầng kỹ thuật nghề cá. Bằng những chính sách, cơ chế, nhà nước

97

khuyến khích xây dựng các thị trường vốn, lao động, khoa học – công nghệ, dịch vụ

và thông tin…. Qua đó tạo ra một môi trường thuận lợi để tiến hành chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành thủy sản nói riêng theo hưỡng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

giành thắng lợi hoàn toàn.

3.3.7.2- Kiến nghị với tỉnh Khánh Hòa

Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của quá trình chuyển dịch và

đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ câu ngành theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa. Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa và Sở Nông nghiệp và Phát

triển Nông thôn cần thực hiện:

- Đối với khai thác hải sản trên biển nhất là các đội tàu đánh bắt xa bờ, cần

được Ủy ban Nhân dân tỉnh và Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đẩy mạnh

việc khuyến khích thông qua các chính sách về vốn, thông tin thị trường, môi

trường pháp lý, để ngư dân liên kết lập ra các tổ hợp tác xã kiểu mới giúp đỡ lẫn

nhau trong khai thác, phòng tránh rủi ro trong sản xuất cũng như tìm kiến cứu nạn.

- Đối với chế biến thuỷ sản xuất khẩu, tỉnh Khánh Hòa cần có những chính

sách hỗ trợ về mặt bằng, cơ sở hạ tầng để khuyến khích các mô hình tập đoàn sản

xuất đa ngành nghề chế biến xuất khẩu với công suất lớn và tập trung. Chuyển đổi

các công ty quốc doanh trong chế biến thuỷ sản xuất khẩu sang công ty cổ phần.

Phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội chế biến thuỷ sản xuất khẩu trong việc sản xuất và

buôn bán thuỷ sản.

- Đối với chế biến thuỷ sản tiêu dùng nội địa tỉnh và ngành cần tuyên truyền

và tạo hành lang pháp lý để các thành phần tham gia chế biến nhận thấy lợi ích và

hiệu quả trong việc chuyển đổi làm ăn cá thể manh múm sang các hình thức công ty

cổ phần; khuyến khích thành lập các hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách

nhiệm hữu hạn

- Đối với nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Khánh Hòa cần có các chính sách tạo mối

liên kết giữa 4 nhà: Nhà quản lý, Nhà khoa học, Nhà Doanh nghiệp và Nhà nông

(ngư dân), để tạo thành một chuyễn khép kín giữa cơ chế, khoa học – công nghệ,

yếu tố đầu ra cho sản phẩm và người nuôi trồng. Có như vậy mới tạo ra được sức

98

mạnh tổng hợp để đưa ngành thủy sản nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng

phát triển và khai thác được mọi tiềm năng nọi lực trong tỉnh.

Kết luận chương 3

Trong ch ương 3, luận văn đã trình bày:

Th ứ nhất: Những mục tiêu tổng quát và những quan đểm chuyển dịch chủ

yếu có tính phương pháp luận nhằm xây dựng căn cứ cho định hướng chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại

hóa trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.

Th ứ hai: Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và các quan điểm chủ yếu, luận văn

xây dựng phương hướng chung và phương hướng tương đối cụ thể cho Nuôi trồng,

Khai thác, Chế biến thương mại và Dịch vụ hậu cần nghề cá trong tiến trình chuyển

đổi cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.

Th ứ ba: Luận văn đã mạnh dạn nêu ra 6 giải pháp mà tác giả cho rằng đó là

những giải pháp chủ yếu nhất, phải tiến hành đồng bộ để quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện

đại hóa được thành công. Cùng với những kiến nghị có tính khả thi nhằm thúc đẩy

sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công

nghiệp hóa, hiện đại hóa.

99

Kết luận

Bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống của kinh tế

chính trị, như: trừu tượng hóa khoa học, logich kết hợp lịch sử, phân tíc và tổng

hợp, sử dụng các số liệu thống kê, luận văn đã đạt được những mục đích và hoàn

thành được nhiệm vụ đề ra đó là:

Thứ nhất: Luận văn đã khái quát những vấn đề lý luận chung của chuyển

dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản về: Khái niệm, đặc trưng của cơ cấu, nội dung

của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và ngành thủy sản, trên cơ sở kế thừa và phát

triển; trình bày khái quát một số quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của

các trường phái kinh tế chủ yếu, luận văn đã rút ra những vấn đề chung làn cơ sở lý

luận cho việc nghiên cứu vấn đề. Luận văn cũng đã thông qua việc tổng kết những

bài hoạc kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của 3 tỉnh trong

nước. Đồng thời nêu lên những nhân tố tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế

ngành thủy sản.

Thứ hai: Qua rất nhiều số liệu thống kê và tài liệu tham khảo, luận văn đã

phân tích làm rõ những đặc điểm của tỉnh Khánh Hòa nhìn từ góc độ chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành thủy sản. Thực hiện việc phân tích thực trạng chuyển dịch cơ

cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế và

hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Luận văn đã phân tích thực trạng hai giai đoạn

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản. Qua đây, luận văn đã nêu lên được

những xu hướng thực trạng, những thành tựu, tồn tại và những nguyên nhân của

những thành tựu, tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.

Thứ ba: Luận văn cũng đã đưa ra mục tiêu tổng quát và những quan điểm về

chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa; phương hướng

chung có tính định hướng cơ bản, là cơ sở để xây dựng những phương hướng cụ thể

cho mỗi ngành trong tổng thể của ngành thủy sản trong quá trình chuyển dịch cơ

cấu kinh tế. Luận văn đã trình bày tổng quát phương hướng chuyển dịch cơ cấu

kinh tế ngành cho nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản, chế biến và thương mại

thủy sản, dịch vụ hậu cần thủy sản.

100

Thứ tư: Luận văn đã mạnh dạn nêu ra 6 giải pháp mà tác giả cho rằng đó là

những giải pháp chủ yếu nhất, phải tiến hành đồng bộ, không thể bỏ qua một giải

pháp nào. Cùng với những kiến nghị có tính khả thi nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa; đạt được một cơ cấu kinh tế ngành năng động, có hiệu quả nhất, phát

huy lợi thế so sánh của tỉnh, hội nhập được vào quá trình phân công, hợp tác với

vùng, cả nước và khu vực; góp phần có tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã

hội của tỉnh Khánh Hòa nói chung và đối với người dân nói riêng.

Thứ năm: Luận văn đã nêu lên một số kiến nghị cần thiết đối với Nhà nước

và đối với tỉnh Khánh Hòa, để qua đó thực hiện các giải pháp một cách có hiệu quả

và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa được

thành công.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa là một bộ

phận không thể tách rời với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói chung của tỉnh

Khánh Hòa (Dịch vụ, du lịch – Công nghiệp, xây dựng – nông nghiệp), cũng là nằm

trong xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của cả nước. Vì vậy,

trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã đưa ra những luận giải, phân tích, đề xuất,

chính là nhằm nghiên cứu một bộ phận trong một chỉnh thể thống nhất hữu cơ. Các

bộ phận khác trong chỉnh thể cũng cần có sự nghiên cứu tiếp tục trong các đề tài

khác để có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách đồng bộ, thống nhất, hoàn

chỉnh và hiệu quả cao.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là một đề tài nghiên cứu đầu tiên đề cập đến vấn đề

này trong phạm vi một tỉnh, theo đánh giá chủ quan của tác giả, đây là một đề tài

khó và rộng. Để nghiên cứu sâu hơn và hoàn thiện hơn, thì cần phải có sự đầu tư

tiếp tục nhiều hơn nữa cả về công sức và trí tuệ. Trong quá trình thực hiện đề tài

này, tác giả gặp không ít những khó khăn và có thể còn có nhiều hạn chế, nguyên

nhân xuất phát vẫn là từ nhận thức của bản thân về vấn đề này còn hạn chế. Tuy

nhiên về mặt cơ bản, tác giả đã thực hiện được mục đích của luận văn đề ra.

101

Tài liệu tham khảo

1- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2013. Vị trí của ngành thủy sản trong

nền kinh tế quốc dân. Trung tâm Tin học. Bộ NN&PTNT.

2- Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi Khánh Hòa, 2010. Báo cáo thống kê về cơ

cấu thuyền – nghề của tỉnh Khánh Hòa.

3- Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi Khánh Hòa, 2011. Báo cáo thống kê về cơ

cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh Khánh Hòa.

4- Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi Khánh Hòa, 2012. Báo cáo thống kê về cơ

cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh Khánh Hòa.

5- Cục Thống kê Khánh Hòa, 2012. Niên giám thống kê 2012. Tp.HCM: Nhà xuất

bản Thống kê.

6- Đảng cộng sản Việt Nam, 2013. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội

nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI). Hà Nội: Nhà xuất bản CTQG.

7- Ngô Đình Giao, 1998. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá

nền kinh tế quốc dân. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.

8- Nguyễn Xuân Long, 4/2000. Công nghiệp chế biến với quá trình chuyển dịch cơ

cấu nông nghiệp Khánh Hoà thời kỳ 2000- 2010. Tạp chí công nghệ, số tháng

4/2000, trang 10-13.

9- Nguyễn Xuân Long, 8/2000. Cơ cấu kinh tế nông thôn Khánh Hoà hướng phát

triển giai đoạn 2000- 2010. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số tháng 8/2000,

trang 15-17.

10- Trần Văn Nhưng, 2001. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công

nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án Tiến sĩ. Học viện Chính

trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

11- Nguyễn Đình Phan, 6/2000. Phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình

CNH, HĐH. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 28 tháng 8, trang 31 - 33.

12- Sở NN & PTNT Khánh Hòa, 2010. Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản Khánh

Hòa 2015-2020.

13- Sở Thủy sản Khánh Hòa, từ 2000 đến 2005. Báo cáo tổng kết năm của ngành

102

thủy sản Khánh Hòa.

14- Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011. Báo cáo tổng kết năm của

ngành thủy sản Khánh Hòa.

15- Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011. Báo cáo tổng kết tình hình thực

hiện công tác Nông nghiệp & PTNT.

16- Sở NN & PTNT Quảng Ngãi, 2010. Quy hoạch phát triển ngành thủy sản tỉnh

Quảng Ngãi giai đoạn từ 2015 đến năm 2020.

17- Sở NN & PTNT Quảng Ninh, 2010. Quy hoạch phát triển ngành thủy sản tỉnh

Quảng Ninh giai đoạn từ 2015 đến năm 2020.

18- Nguyễn Đề Thanh, 2005. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản nước

ta qua khảo sát ở tỉnh Khánh Hòa. Luận án Tiến sĩ. ĐH Quốc gia Tp.HCM.

19- Bùi Tất Thắng, 1997. Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế trong thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb KH xã hội.

20- Bùi Tất Thắng, 2006. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam. Hà Nội:

Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

21- Tổng cục Thủy sản, 2012. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt

Nam năm 2020 tầm nhìn 2030.

22- Thủ tướng Chính phủ, 2006. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản đến

năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Quyết định Số:10/2006/QĐ-TTg.

23- UBND tỉnh Khánh Hoà, từ 2006 đến 2012. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội.

24- UBND tỉnh Cà Mau, 2001. Phương án điều chỉnh quy hoạch sản xuất ngư -

nông - lâm nghiệp tỉnh Cà Mau giai đoạn 2001 – 2010. Quyết định số

1116/QĐ-CTUB.

25- Tô Thị Hiền Vinh, 2009. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông thôn theo

hướng CNH, HĐH các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Luận án Tiến sĩ. ĐH

Quốc gia Tp.HCM.