BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH --------(cid:89)(cid:90)--------
ĐỖ VĂN ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THỦY SẢN
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
CỦA TỈNH KHÁNH HÒA GIAI ĐOẠN 2011-2020
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60310102
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.TRẦN VĂN NHƯNG
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2011-2020”.
Là đề tài nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trước đó ở bất cứ công trình nào.
Tác giả
Đỗ Văn Đạo
Mục lục
Trang
Trangphụbìa
Lời cam đoan
Mụclục
Danhmụccáckýhiệu, chữviếttắt
Danhmụccácbảng,biểu
Mởđầu 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển 7
dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng CNH, HĐH
1.1-Cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản: 7
Khái niệm, đặc trưng và những nhân tố tác động.
1.1.1- Cơcấungànhvàchuyểndịchcơcấukinhtếngành 7
1.1.2- Cơcấukinhtếngànhthủysảnvàchuyểndịchcơcấukinhtế 9
ngànhthủysản
1.1.3- Nhữngnhântốchủyếutácđộngtớichuyểndịchcơcấukinhtế 12
ngànhthủysản
1.2- MộtsốquanđiểmcủaĐảngcộngsảnViệt Nam vềchuyểndịch 19
cơcấukinhtếngành – Vaitrò, vịtríngànhthủysảntrongnền
kinhtếquốcdân.
1.2.1- QuanđiểmcủaĐảngcộngsảnViệt Nam vềchuyểndịchcơcấu 19
kinhtếngành.
1.2.2- Vaitrò, vịtríngànhthủysảntrongnềnkinhtếquốcdân.
24
1.3- Kinhnghiệmchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản ở mộtsố 28
địaphươngtrongnướcvàbàihọckinhnghiệmrútra
1.3.1- Kháiquáttiếntrìnhchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 28
củamộtsốđịaphươngtrongnước
1.3.2- Mộtsốbàihọckinhnghiệmvềchuyểndịchcơcấukinhtế 34
ngànhthủysảnrútratừcácđịaphương
Chương 2: Thựctrạngchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 37
tỉnhKhánhHòa – Nhữngvấnđềđặtra
2.1- ĐặcđiểmtỉnhKhánhHòanhìntừgócđộchuyểndịchcơcấukinhtế 37
ngànhthủysản
2.1.1- Đặcđiểmtựnhiên 37
2.1.2- Đặcđiểmkinhtế - xãhội 40
2.1.3- ĐặcđiểmtăngtrưởngvàchuyểndịchcơcấukinhtếtỉnhKhánh 41
Hòathờigian qua
2.2- Thựctrạngcơcấuvàchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysảncủa 43
tỉnhKhánhHòa qua cácgiaiđoạn
2.2.1- TổngquanvềchuyểndịchcơcấukinhtếcủatỉnhKhánhHòa 43
2.2.2- Giaiđoạn 2000-2005
562.2.3- Giaiđoạn 2006-2011. 58
2.3- Đánhgiáchungvànhữngvấnđềđặtrachochuyểndịchcơcấukinh 70
tếngànhthờigiantới.
2.3.1- Đánhgiáchung 70
2.3.2- Nhữngvấnđềđặtra. 74
Chương III:Phươnghướngvànhữnggiảiphápchủyếuchuyểndịch 77
cơcấukinhtếngànhthủysảntheohướngcôngnghiệphóa,
hiệnđạihóacủatỉnhKhánhHòa
3.1- Mụctiêuvànhữngquanđiểmchuyểndịchcơcấukinhtếngành 77
thủysảncủatỉnhKhánhHòa
77 3.1.1- Mụctiêutổngquát.
3.1.2- Nhữngquanđiểmchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 77
củatỉnhKhánhHòa.
3.2- Phươnghướngchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 81
3.2.1-Phươnghướngchungchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản 81
3.2.2- Phươnghướngpháttriểnvàchuyểndịchcơcấukinhtếcác 82
phânngànhtrongnộibộngànhthủysảnKhánhHòa
3.3-Cácgiảiphápchủyếuđểchuyểndịchcơcấukinhtếngànhthủysản
86
theohướng CNH, HĐH củatỉnhKhánhHòa
3.3.1-GiảiphápvềquyhoạchngànhthủysảntỉnhKhánhHòa 86
3.3.2- Giảiphápvềthịtrường 87
3.3.3- GiảiphápvềvốnđầutưchongànhThủysản
89
3.3.4- Giảiphápvềkhoahọc – côngnghệ
91
3.3.5- Giảiphápvềnguồnnhânlực 93
3.3.6- Giảiphápvềtổchức, quảnlývàchínhsách
94
3.3.7- Mộtsốkiếnnghị 95
Kếtluận 99
Tàiliệuthamkhảo 101
Danhmụccáckýhiệu, chữviếttắt
CNH, HĐH Côngnghiệphóa, hiệnđạihóa
Sở NN & PTNT SởNôngnghiệpvàPháttriểnNôngthôn
UBND Ủy Ban Nhândân
XHCN Xãhộichủnghĩa
Danh mục các bảng, biểu
Trang 46
thủysảngiaiđoạn 2000-2005 47 giaiđoạn 2000-2005. 48 giaiđoạn 2000-2005 49 giaiđoạn 2000-2005 50
51 giaiđoạn 2000-2005 52 chủyếugiaiđoạn 2000-2005 53 chủyếugiaiđoạn 2000-2005 54 chủyếugiaiđoạn 2000-2005 56 khaitháctínhđếnnăm 2005 ở tỉnhKhánhHòa. 58 giaiđoạn 2006-2012. 59 giaiđoạn 2006-2011 61 giaiđoạn 2006-2011 62 tínhđếnnăm 2012. 63 giaiđoạn2006-2011. 64 chủyếugiaiđoạn 2006-2011 65 chủyếugiaiđoạn 2006-2011 65 chủyếugiaiđoạn 2006-2011 66 giaiđoạn 2006-2011 68 giaiđoạn 2006-2011
Bảng 2.1- Chuyển dịch cơ cấu giá trịsảnxuấtngànhnông – lâm – Bảng 2.2- CơcấugiátrịsảnxuấtngànhthủysảnKhánhHòa Bảng 2.3- TốcđộpháttriểnnghềnuôithủysảnKhánhHòa Bảng 2.4- Tốcđộpháttriểntầuthuyềnkhaithácthủysản Bảng 2.5- Cơcấuvàtỷtrọngnghềnghiệpkhaithácthủysản toàntỉnhKhánhHòatínhđếnnăm 2005. Bảng 2.6- TốcđộpháttriểnnghềchếbiếnthủysảnKhánhHòa Bảng 2.7- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmnuôitrồngthủysản Bảng 2.8- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmkhaithácthủysản Bảng 2.9- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmchếbiếnthủysản Bảng 2.10- Cơcấunguồnvốnđầutưvàcơcấusởhữuphươngtiện Bảng 2.11- CơcấugiátrịsảnxuấtngànhthủysảnKhánhHòa Bảng 2.12- CơcấunghềnuôitrồngthủysảncủatỉnhKhánhHòa Bảng 2.13- CơcấutầuthuyềnkhaithácthủysảncủatỉnhKhánhHòa Bảng 2.14- CơcấunghềnghiệpkhaithácthủysảncủaKhánhHòa Bảng 2.15- CơcấungànhnghềchếbiếnthủysảncủaKhánhHòa Bảng 2.16- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmnuôitrồngthủysản Bảng 2.17- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmkhaithácthủysản Bảng 2.18- Tốcđộpháttriểnmộtsốsảnphẩmchếbiếnthủysản Bảng 2.19- Cơcấunguồnvốnđầutưvàongànhthủysản Bảng 2.20- CơcấulaođộngngànhthủysảncủaKhánhHòa
1
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km, với 112 cửa sông, trên 3000 đảo lớn nhỏ,
nhiều eo biển, hồ, đầm lầy, phá, trên 1 triệu km2 diện tích vùng đặc quyền kinh tế.
Hơn nữa, do Việt Nam nằm trong khu vực sinh thái nhiệt đới, ít bị ô nhiễm, nên
nguồn lợi thuỷ sản rất đa dạng, phong phú, và có khả năng tự hồi sinh cao. Theo
đánh giá của các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật thuỷ sản, Việt Nam có trên 6000 loài
động vật đáy, 2038 loài cá, mực... được phân bố ở hầu hết các vùng, với trữ lượng
cao. Khả năng khai thác cá ở vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam có thể đạt
trên 4 triệu tấn/năm. Với những tiềm năng to lớn đó, cùng với việc chủ động đổi
mới cơ chế quản lý, tiếp cận thị trường quốc tế, ngành thuỷ sản nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu đáng kể, trở thành một trong những ngành kinh tế, xuất khẩu chủ
lực của đất nước. Trong thời gian qua, thuỷ sản của Việt Nam đã và đang trực tiếp
đóng góp vào sự phát triển năng động của ngành; góp phần chuyển đổi cơ cấu nông
nghiệp vùng ven biển, đảm bảo công ăn việc làm, nâng cao đời sống cho hàng triệu
người lao động. Hơn nữa, xuất khẩu thuỷ sản là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực
trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và là nguồn thu ngoại tệ lớn cho công cuộc
CNH, HĐH đất nước.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng đã xác định đối với ngành thủy sản
trong thời gian tới: “Xây dựng ngành thuỷ sản Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong
khu vực…Phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng theo quy hoạch, phát huy lợi
thế từng vùng gắn với thị trường; coi trọng hình thức nuôi công nghiệp thâm canh là
chủ yếu đối với cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn; gắn nuôi trồng với chế biến bảo
đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Đẩy mạnh việc đánh bắt hải sản xa bờ với ứng
dụng công nghệ cao trong khâu tìm kiếm ngư trường, đánh bắt và hiện đại hóa các
cơ sở chế biến. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, cơ sở dịch vụ phục vụ nuôi
trồng, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu thủy sản” [6, tr 761].
2
Đối với Khánh Hoà, là một tỉnh thuộc Duyên Hải Nam Trung bộ, được thiên
nhiên ưu đãi về điều kiện phát triển nguồn lợi thuỷ sản cả trong lĩnh vực khai thác
tự nhiên cũng như nuôi trồng thuỷ sản. Ngành thủy sản của tỉnh đã và đang có vị trí
đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đối với tỉnh Khánh
Hòa. Tuy nhiên, trong nông nghiệp nói chung và ngành thủy sản nói riêng, chuyển
dịch cơ cấu ngành còn chậm, những lợi thế về Biển vẫn chưa được phát huy tối đa.
Để phát huy hơn nữa vai trò của ngành thủy sản và những lợi thế về biển
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, thì tỉnh Khánh Hòa cần phải xây dựng được
một cơ cấu ngành thủy sản hợp lý theo hướng CNH,HĐH, để qua đó tạo ra khối
lượng hàng hoá lớn, chất lượng cao, tăng năng lực cạnh tranh của thủy sản của tỉnh
trên thị trường trong nước và thế giới, bên cạnh đó là khai thác được lợi thế so sánh
mà tỉnh có được, đưa nông nghiệp của tỉnh lên trình độ hiện đại, góp phần cùng với
những lĩnh vực khác thực hiện thành công những mục tiêu kinh tế - xã hội mà tỉnh
Khánh Hòa đã đề ra.
Do đó, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng
CNH,HĐH nằm trong chiến lược tổng thể về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói
chung theo hướng CNH,HĐH của tỉnh Khánh Hòa có ý nghĩa quan trọng. Quá trình
này cần có sự kết hợp giữa nghiên cứu về mặt lý luận với giải quyết vấn đề thực
tiễn. Xuất phát từ vị trí vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề trên, tôi chọn
đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2011-2020” làm luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành kinh tế chính trị, mã số: 60310102
2- Tình hình nghiên cứu đề tài
Để trang bị kiến thức về lý luận phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài của mình,
tác giả đã tìm hiểu và nghiên cứu những tài liệu, công trình nghiên cứu sau đây:
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại hoá nền kinh
tế quốc dân 2 tập của GS.TS Ngô Đình Giao (1998). Ở tác phẩm này, tác giả Ngô
Đình Giao đã phân tích các căn cứ lý luận và thực tiễn trong quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và phân tích quan điểm, phương hướng xây dựng cơ cấu kinh tế có
3
hiệu quả ở Việt Nam.
+ Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ
CNH, HĐH ở Việt Nam. Bùi Tất Thắng, Chủ biên (1997), Nhà xuất bản khoa học
xã hội, Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành, bao gồm: nhân tố vốn đầu tư; nhân tố thị trường và trình độ phát
triển của kinh tế thị trường, nhân tố trình độ khoa học kỹ thuật – công nghệ; nhân tố
lợi thế so sánh về vị trí địa lý, tài nguyên, khí hậu; nhân tố kinh tế - xã hội.
+ Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh. TS.Trần Văn Nhưng – Luận án tiến sĩ, Hà Nội 2001. Tác
giả đã tiến hành khảo sát, phân tích thực trạng xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp trên địa bàn Tp Hồ Chí Minh, trên cơ sở phân tích đó rút ra
những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những thành tựu, hạn chế, những mâu
thuẫn mới nảy sinh phải giải quyết và xác định xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành công nghiệp trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh cho thời gian tới.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản nước ta qua khảo sát ở tỉnh
Khánh Hòa”. TS.Nguyễn Đề Thanh - Luận án tiến sĩ, Tp HCM.2005. Trong luận án
tác giả cho rằng, một trong những nguyên nhân chính làm cho ngành thủy sản chưa
phát huy được tiềm năng cũng như những lợi thế mà ngành thủy sản có được, đó là
do ngành thủy sản Khánh Hòa tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm. Từ
đó tác giả đi đến kết luận: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản, không chỉ
làm cho độ trình lực lượng sản xuất của ngành thủy sản được nâng lên, mà quá trình
này cũng sẽ làm cho ngành thủy sản có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, gồm:
chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành thủy sản, chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp,
chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động.
+ Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Tô Thị Hiền Vinh - Luận án tiến sĩ.
Tp Hồ Chí Minh 2009. Trong luận án này tác giả Tô Thị Hiền Vinh cho rằng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lý giữa: nông nghiệp, công
4
nghiệp nông thôn, dịch vụ nông nghiệp. Đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn là góp phần giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở các
tỉnh duyên hải Nam Trung bộ.
Ngoài những tài liệu nêu trên, còn có nhiều tài liệu và công trình nghiên cứu
khác đã đề cập đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư….
Từ thực tế của các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành, tác giả nhận thấy rằng ở trong nước vẫn chưa có một đề tài
nghiên cứu nào đề cập tới chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ngành thủy sản theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xét thấy, đây là một hướng đi mới cho sự
nghiên cứu để góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước ta dưới góc độ tiếp cận của kinh tế chính
trị, nên tôi đã chọn đề tài này.
3- Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1- Mục đích
Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng
CNH,HĐH của tỉnh Khánh Hòa, từ đó rút ra những kết luận về những tồn tại,
nguyên nhân và mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình chuyển dịch của tỉnh. Qua đó
xác định, mục tiêu, quan điểm, phương hướng chuyển dịch và những giải pháp
nhằm tiếp tục thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh
Hòa thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả cao.
3.2- Nhiệm vụ
- Một là: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và
cơ cấu ngành thủy sản; những kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
thủy sản ở một số tỉnh trong nước; những nhân tố tác động tới chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành thủy sản, để làm căn cứ lý luận và thực tiễn cho chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa.
- Hai là: Phân tích thực trạng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản
của Khánh Hòa qua các giai đoạn. Đánh giá chung, rút ra những vấn đề cần giải
5
quyết và xác định xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản của tỉnh
Khánh Hòa thời gian tới.
- Ba là: Trình bày các mục tiêu, quan điểm chuyển dịch, xây dựng phương
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, định hướng bước đi, đề xuất các
giải pháp và những kiến nghị nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của
tỉnh Khánh Hòa thời kỳ CNH, HĐH.
4- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
4.1- Đối tượng
Nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa.
4.2- Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế ngành và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hoà.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa từ năm 2000 đến năm 2011; dự báo xu hướng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đề ra các giải pháp thúc đẩy chuyển dịch giai đoạn
2011 - 2020.
4.3- Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận xuyên suốt trong toàn bộ quá trình nghiên cứu của
luận văn là phương pháp duy vật biện chứng. Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản trong mối quan hệ tác động qua lại với cơ cấu kinh tế ngành nói
chung, cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế thành phần; giữa chuyển dịch cơ cấu
kinh tế với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Ngoài ra trong luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp, được tác giả sử dụng để phân tích ở
chương 2, nhằm tìm ra các mối quan hệ để luận giải về các vấn đề có liên quan đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng CNH, HĐH.
+ Phương pháp phân tích thống kê, so sánh đối chiếu được sử dụng để phân
tích thực trạng ở chương 2, qua đó đưa ra cái nhìn tổng quát, xác thực và đo lường
6
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động. Hiệu quả kinh tế - xã hội do quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản.
- Tài liệu nghiên cứu bao gồm: tư liệu thống kê, điều tra kinh tế – xã hội của
Cục thống kê tỉnh; tư liệu của ngành, các cấp trong tỉnh, cùng các tư liệu của các cơ
quan nghiên cứu khác. Các Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, Văn
kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VI đến Đại hội XI…
5- Tên và kết cấu luận văn
Tên luận văn: “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2011-2020”
Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương:
CHƯƠNG 1: Một số vấn đề lý luận chung về cơ cấu kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CHƯƠNG 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
tỉnh Khánh Hòa – Những vấn đề đặt ra
CHƯƠNG 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh
Khánh Hòa
Dưới đây là nội dung cơ bản của luận văn.
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THỦY SẢN
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1- Cơ cấu kinh tế ngành và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản:
Khái niệm, đặc trưng và những nhân tố tác động
1.1.1- Cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Cơ cấu kinh tế là cấu trúc của nền kinh tế với các bộ phận hợp thành, với vị
trí, tỷ trọng tương ứng của mỗi bộ phận và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận
ấy trong quá trình sản xuất xã hội.
“Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ
hữu cơ, tương đối ổn định hợp thành. Có các loại cơ cấu kinh tế khác nhau: cơ cấu
nền kinh tế quốc dân, cơ cấu ngành kinh tế kỹ thuật; cơ câu kinh tế theo vùng, cơ
cấu đơn vị hành chính, lãnh thổ; cơ câu thành phần kinh tế, trong đó cơ cấu kinh tế
kỹ thuật mà trước hết là cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ là
quan trọng nhất” [10, tr 14].
Cơ cấu kinh tế có những đặc trưng:
Thứ nhất: Nó là sự cấu thành giữa các bộ phận một cách hữu cơ. Hai mặt cơ
bản của chính sách kinh tế: mặt kỹ thuật và mặt kinh tế xã hội là một tổng thể hữu
cơ, chỉ có thể phát triển trong sự nương tựa, thúc đẩy lẫn nhau như một quá trình
tiến hóa tự nhiên. Từ đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển năng động, thúc đẩy
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường.
Thứ hai: Cơ cấu kinh tế được hình thành, xác định trên cơ sở các quy luật
kinh tế khách quan chi phối nền kinh tế, nhu cầu thị trường, lợi thế so sánh của nền
kinh tế, của ngành, vùng và các nhân tố khác.
Thứ ba: Cơ cấu kinh tế mạng tính lịch sử, cụ thể. Không có một cơ cấu
chung duy nhất cho mọi quốc gia hay một quốc gia trong mọi giai đoạn lịch sử.
8
Khi nói đến cơ cấu kinh tế, trước hết người ta nói đến cơ cấu kinh tế ngành,
vì đây là biểu hiện đầu tiên của cơ cấu kinh tế và là tiền đề để hình thành mỗi nền
kinh tế quốc dân. Có thể nói cơ cấu kinh tế ngành là góc độ nghiên cứu kinh tế chủ
yếu, phản ánh mối liên hệ kinh tế kỹ thuật và công nghệ sản xuất.
* Cơ cấu kinh tế ngành của nền kinh tế là kết cấu các ngành hợp thành tổng
thể bao gồm các mối quan hệ tương tác về mặt tỷ lệ, biểu hiện mối quan hệ giữa các
ngành đó với nhau và với nền kinh tế quốc dân.
Có nhiều cách phân loại ngành trong mỗi nền kinh tế:
- Có thể dựa vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của mỗi ngành mà phân thành
ba ngành chủ yếu: công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Hay chi tiết hơn: công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, xây dựng cơ bản, thương mại…
- Trong mỗi ngành lại bao gồm các phân ngành như:
+ Trong công nghiệp có: cơ khí, điện lực, hóa chất…
+ Trong nông nghiệp có: chăn nuôi, trồng trọt…
+ Trong ngành dịch vụ bao gồm: thương mại, bưu điện, du lịch...
- Hoặc có thể phân theo tính chất tác động của lao động và đối tượng lao
động, như: khối ngành khai thác, khối ngành chế biến, khối ngành dịch vụ…
Cơ cấu ngành luôn vận động và biến đổi phát triển không ngừng, nhất là
trong điều kiện cơ chế thị trường. Cho nên khi phân tích cơ cấu ngành, phải làm rõ
tính quy luật của sự vận động, tìm ra phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành phù hợp với các cơ cấu kinh tế khác và đáp ứng được yêu cầu phát triển của
nền kinh tế quốc dân trong từng giai đoạn phát triển chung của đất nước.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là quá trình làm thay đổi cấu trúc và
các mối liên hệ của các ngành hoặc các phân ngành trong ngành theo xu hướng,
mục tiêu và phương hướng nhất định. Đó là sự thay đổi có mục đích, có định hướng
và lựa chọn trên cơ sở phân tích đầy đủ, có cơ sở lý luận và thực tiễn, cùng với việc
áp dụng đồng bộ các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu ngành từ trạng thái này sang
trạng thái khác một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.
9
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng CNH, HĐH là quá trình
làm thay đổi nền kinh tế từ chỗ có cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, sang cơ
cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ hiện đại, đó là quá trình làm tăng tốc độ
và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế gắn với sự biến đổi của công nghệ và
năng suất lao động, tạo nên sự phát triển nhanh và bền vững trong nền kinh tế quốc
dân. Trong quá trình ấy cơ cấu phân ngành trong nội bộ ngành cũng sẽ có những biến
đổi đáng kể cả về chất và lượng. Yêu cầu đặt ra là phải xác định được cơ cấu kinh tế
hợp lý và có hiệu quả, xác định được ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm, những
ngành có tương lai phát triển hoặc đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước, ngoài
nước và những vấn đề kinh tế xã hội đặt ra trong mỗi giai đoạn lịch sử của đất nước.
1.1.2- Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
thủy sản
Thủy sản là ngành kinh tế - kỹ thuật thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất trực
tiếp, một bộ phận cấu thành của nền sản xuất vật chất của xã hội, là ngành sản xuất
vật chất mà quá trình sản xuất của nó phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên.
Đặc trưng về mặt kinh tế - kỹ thuật
Ngành thủy sản là một ngành sản xuất vật chất mang tính mùa vụ. Do sự tác
động của điều kiện tự nhiên, môi trường sống và tập tính sống của các đối tượng,
các chủng loại động thực vật làm cho các yếu tố sản xuất trong ngành thủy sản
không sử dụng hết thời gian trong năm.
Về sự biến đổi của đối tượng lao động, sau mỗi chu kỳ sản xuất, các đối
tượng lao động của ngành thủy sản thay đổi từ giá trị sử dụng này thành giá trị sử
dụng khác, hoặc cùng loại nguyên liệu có thể sản xuất ra nhiều giá trị sử dụng khác,
tùy thuộc vào mục đích của người sử dụng.
Về công dụng kinh tế của sản phẩm, thủy sản là ngành sản xuất vật chất tạo
ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sản xuất
và đời sống xã hội.
10
Đặc trưng về mặt kinh tế xã hội
Ngành thủy sản là ngành sử dụng công nghệ tiên tiến kết hợp với công nghệ
truyền thống, sự phân công lao động xã hội và tính xã hội hóa của sản xuất được thể
hiện sâu sắc.
Hoạt động của ngành thủy sản bao gồm: sản xuất nguyên liệu (bao gồm hoạt
động sản xuất của ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản), chế biến thủy sản và
dịch vụ hậu cần thương mại nghề cá.
Đối với Khánh Hòa, với bờ biển dài hơn 300km, các hoạt động kinh tế - xã
hội của tỉnh hầu như đều gắn với biển. Ở tỉnh đã có những làng nghề truyền thống
hoạt động ở lĩnh vực thủy sản từ lâu đời, cùng với những hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh theo quy mô công nghiệp với trang thiết bị hiện đại, thu hút nhiều lao
động. Tất cả nhuãng hình thức này đều hoạt động cả trên ba lĩnh vực: nuôi trồng
thủy sản, khai thác thủy sản, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá.
Phân loại thủy sản thành bốn ngành: khai thác thủy sản, nuôi trồng thủy
sản, chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản.
Căn cứ của việc phân loại này dựa vào phương hướng sản xuất kinh doanh
chủ yếu và sản phẩm được sản xuất ra là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng.
Phân loại thủy sản thành ba nhóm: nhóm ngành sản xuất nguyên liệu (bao
gồm hoạt động sản xuất của ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản), nhóm ngành
chế biến và nhóm ngành dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản.
Căn cứ chủ yếu của sự phân chia này là tính chất khác nhau của sự biến đổi
đối tượng lao động và công dụng sản phẩm của mỗi loại hoạt động.
Phân loại các ngành thủy sản thành các ngành chuyên môn hóa hẹp
Sự phân chia này dựa vào đặc trưng kỹ thuật trong quá trình sản xuất để phân
thành các ngành chuyên môn hóa hẹp. Cụ thể:
+ Ngành nuôi trồng thủy sản, có các ngành chuyên môn hẹp là: Nuôi thủy sản
thương phẩm (nuôi thủy sản nước mặn; nuôi thủy sản nước lợ; nuôi thủy sản nước
ngọt.) và sản xuất giống thủy sản (Giống nuôi bố mẹ và giống nuôi thương phẩm)
+ Ngành chế biến thủy sản có: chế biến nội địa và chế biến xuất khẩu.
11
+ Khai thác thủy sản có: Nghề lưới vây, lưới kéo, lưới rê, nghề câu…
+ Dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản: bao gồm các ngành cơ khí thủy
sản, các hoạt đông dịch vụ cung ứng nguyên vật liệu, vật tư kỹ thuật, thông tin tiếp
thị, tài chính tín dụng, hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu…
* Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản là mối quan hệ tỷ lệ giữa các phân ngành
trong tổng thể ngành thủy sản, được lượng hóa bằng tỷ trọng của mỗi ngành trong
tổng sản phẩm thủy sản, tổng số lao động, tỷ trọng của ngành thủy sản tạo ra trong
tổng thu nhập quốc dân ở lĩnh vực nông nghiệp, thương mại xuất khẩu.
Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản không phải là cố định, mà nó thay đổi theo
từng thời kỳ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản được đo
bằng các chỉ tiêu: Số ngành chuyên môn hóa trong ngành thủy sản, tỷ trọng của các
phân ngành trong tổng sản phẩm thủy sản; tỷ trọng lao động ngành thủy sản trong
tổng lao số lao động trong nông nghiệp…
Sự hình thành cơ cấu ngành thủy sản gắn liền với sự phát triển của phân công
lao động xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ, nó phản ánh trình độ của phân công
lao động, trình độ phát triển thủy sản và trình độ tổ chức quản lý. Kết cấu ngành có
thể thay đổi và sự thay đổi có thể diễn ra theo cách tự phát hoặc tự giác nếu được kế
hoạch hóa. Do vậy, phải xây dựng được cơ cấu ngành tối ưu, số lượng các chuyên
ngành càng phát triển, thì càng có khả năng thỏa mãn nhu cầu đa dạng, phong phú
của xã hội, đáp ứng được các yêu cầu về phân công và hợp tác quốc tế, về khả năng
hội nhập.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
Chuy ển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản là quá trình làm thay đổi cơ cấu
tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành ngành thủy sản, nhằm hình thành lên một cơ cấu
kinh tế ngành hợp lý, có hiệu quả kinh tế cao cho nền kinh tế trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chuy ển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quá trình phát triển lực lượng sản xuất, đưa nhanh tiến bộ khoa học
– kỹ thuật – công nghệ hiện đại vào tất cả các khâu trong ngành, từ sản xuất nguyên
12
liệu đến khâu bảo quản, chế biến, dịch vụ thương mại và hậu cần. Thực hiện cơ khí
hóa, tự động hóa, thủy lợi hóa, thông tin hóa, sinh học hóa…trong đó, trước hết tiến
hành cơ khí hóa phổ biến trong lĩnh vực sản xuất thủy sản; đầu tư công nghệ cho
khai thác xa bờ; ứng dụng công nghệ sinh học để tạo ra giống nuôi mới có giá trị
kinh tế cao; phát triển công nghiệp chế biến với công nghệ cao gắn với vùng nguyên
liệu tập trung và thị trường tiêu thụ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là xây dựng quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất trong ngành thủy sản, đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản
lý ngành thủy sản, tạo động lực cho lực lượng sản xuất thủy sản phát triển, nâng cao
đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thực chất là làm thay đổi cơ bản không những cơ cấu tỉ lệ phân ngành trong
tổng thể ngành thủy sản, mà còn làm thay đổi cơ bản lực lượng sản xuất, trình độ công
nghệ, quan hệ sản xuất, tư duy và lối sống của mọi tầng lớp ngư dân vùng biển.
1.1.3- Những nhân tố chủ yếu tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản
1.1.3.1- Những nhân tố nội sinh
* Nhân tố thứ nhất: Các nguồn lực và lợi thế so sánh
Vị trí địa lý – kinh tế - xã hội
Khánh Hoà là tỉnh ven biển có điểm cực đông của Việt Nam, là một tỉnh
thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, phía bắc Khánh Hoà giáp với tỉnh Phú Yên,
phía nam giáp với Ninh Thuận; Đăk lăk và Lâm Đồng ở phía tây. Phía đông của
Khánh Hoà là biển Đông với đường bờ biển dài 200 km (kể cả chu vi các đảo là 385
km). Khánh Hòa nằm giữa hai trung tâm kinh tế năng động của cả nước là Thành
phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng. Thuận lợi về vị trí này tạo điều kiện cho
Khánh Hòa phát triển lưu thông, vận tải hàng hóa, giao lưu kinh tế cả về đường bộ,
đường biển và đường hàng không, phát triển kinh tế dịch vụ - du lịch; thu hút đầu tư
trong và nước để trở thành trung tâm kinh tế của miền Trung và Tây Nguyên.
13
Khánh Hòa có đủ những nhân tố ảnh hưởng để phát triển kinh tế biển, như:
Có bờ biển dài, có ba vịnh lớn với nhiều bãi biển đẹp, như: Vịnh Cam Ranh, vịnh
Nha Trang, Vịnh Vân Phong; có các cảng biển sâu để tầu có công suất hàng nghìn
mã lực cập cảng, như: Cảng Nha Trang, cảng Cam Ranh và cảng Vân Phong, ngoài
ra còn có các cảng nhỏ phục vụ cho đánh bắt thủy sản, hoạt động du lịch và các nơi
tránh, trũ bão cho tầu biển. Thời tiết được chia làm hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa
kéo dài từ tháng 9 – 12 và mùa khô kéo dài từ tháng 1 – 8, vào mùa mưa thường có
gió mùa đông bắc thổi, nhưng cũng ảnh hưởng ít. Nhiệt độ tuyệt đối cao không vượt quá 400C, trung bình khoảng 250C, đặc biệt nhiệt độ chênh lệch ngày không quá lớn từ 5 – 80C rất phù hợp cho nuôi trồng thuỷ sản và ra khơi khai thác thuỷ sản.
Vị trí địa lý – kinh tế - xã hội thuận lợi trên kết hợp với sự ổn định chính trị -
xã hội của tỉnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Hoà phát triển sản xuất hàng
hoá và mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh trong cả nước và quốc tế. Tạo
điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và ngành thuỷ
sản nói riêng.
Thứ hai: Yếu tố lao động
Dân số và lao động được coi là nguồn lực quan trọng để phát triển thủy sản
nói riêng và nền kinh tế nói chung, bao gồm các yếu tố: Dân số và mức thu nhập
của dân cư tạo thành thị trường nội địa to lớn; trình độ dân trí, khả năng tiếp thu cái
mới của lao động tạo thành cơ sở quan trọng để phát triển những ngành kỹ thuật
cao; các nghề truyền thống của từng vùng chính là một lợi thế để so sánh về lao
động.
Dân số của tỉnh Khánh Hòa là 1.174.848 người với mật độ dân số toàn tỉnh
là 225 người/km², trong đó nam giới có khoảng 581.299 người (49.47%) và nữ giới
khoảng 593.549 người (50.53%); năm 2011, Khánh Hòa có 568.459 người sinh
sống ở khu vực đô thị (48.4% dân số toàn tỉnh) và 606.389 người sống ở khu vực
nông thôn (51,6%). Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật toàn tỉnh có 6.082 người có
trình độ cao đẳng, 14.444 người đại học, 232 thạc sĩ, 107 tiến sĩ. Ngoài ra với
46,6% dân số trong độ tuổi lao động đã góp phần đáng để trong quá trình phát triển
14
kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Hiện lao động trong lĩnh vực
thủy sản là hơn 80.000 lao động, chiếm 31,5% số lao động của tỉnh và 72,34% lĩnh
vực nông nghiệp.[8, tr 15,16]
Đối với Khánh Hòa, dân số, lao động và trình độ lao động có ảnh hưởng lớn
đến ngành thủy sản. Đối với ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản, với đặc điểm là
tiếp súc với biển liên tục, dài ngày và đòi hỏi phải có sức khỏe, do đó đã từ lâu
người dân miền biển nói chung và Khánh Hòa nói riêng, đều có quan niệm ở hai
ngành này đòi hỏi nhiều về lao động nam giới. Vì vậy dân số và cơ cấu dân số nam
– nữ có sự tác động lớn đến lao động thủy sản nói chung và đến khai thác thủy sản
và nuôi trồng thủy sản nói riêng.
Trình độ lao động trong ngành thủy sản ảnh hưởng đến việc tiếp thu và triển
khai các công nghệ và kỹ thuật. Đối với Khánh Hòa, phần lớn lao động hoạt động
trong ngành khai thác, nuôi trồng và các nghề chế biến truyền thống có trình độ văn
hóa còn thấp, lao động thủ công còn nhiều. Đây là một thách thức lớn đối ngành
thủy sản của tỉnh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
* Nhân tố thứ hai: Trình độ kỹ thuật của lực lượng lao động ngành thủy sản
Thứ nhất: Trình độ kỹ thuật khai thác thủy sản. Trình độ kỹ thuật khai thác
thủy sản không chỉ nói lên năng lực khai thác, mà nó còn khái quát chung trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất trong ngành thủy sản. Đây cũng chính là mục tiêu,
nhiệm vụ của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng nào. Sự
phát triển của trình độ kỹ thuật khai thác thủy sản sẽ thúc đẩy phân công lao động
xã hội không chỉ ở ngành thủy sản nói riêng mà của nền kinh tế nói chung, đồng
thời sự phân công lao động xã hội hợp lý trong ngành thủy sản sẽ thúc đẩy khoa
học, công nghệ phát triển. Việc nâng cao trình độ kỹ thuật khai thác cũng là đòi hỏi
bức thiết không chỉ cho công tác chuyển dịch cơ cấu, mà còn là để nâng cao năng
suất lao động, đáp ứng nhu cầu của thị trường và tiến tới giải phóng sức lao động,
bảo đảm sự phát triển bền vững ta trong lĩnh vực thủy sản. Trong thời gian qua,
ngành khai thác thủy sản Khánh Hòa đã đẩy mạnh việc nâng cao trình độ khai thác
15
thủy sản, thông qua việc phát triển đội tầu khai thác xa bờ, hiện đại hóa trang thiết
bị nghề cá. Các thuyền trưởng, máy trưởng trên các tầu khai thác đều đã được đào
tạo và tập huấn chuyên môn, lao động trên tầu có 30% tốt nghiệp phổ thông.
Thư hai: Trình độ kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. Yếu tố này không chỉ phản
ánh trình độ phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản, mà nó quyết định đến chất và
lượng của năng suất lao động ngành nuôi trồng thủy sản. Ngày nay, với sự phát
triển của kỹ thuật nuôi thủy sản, nó cho phép chúng ta bớt phụ thuộc vào yếu tố tự
nhiên như, khí hậu, môi trường, kể cả là nguồn giống cung cấp cho việc nuôi. Bên
cạnh đó, việc đẩy mạnh ứng dụng trình độ kỹ thuật nuôi tiên tiến sẽ đảm bảo tính
hài hòa giữa sản xuất với bảo tồn phát triển bền vững. Thực tế trong những năm qua
cho thấy nuôi trồng thủy sản của Khánh Hòa thực sự đã được đầu tư để trở thành
một thế mạnh của ngành thủy sản sản lượng sản xuất tăng với tốc độ phát triển khá
ổn định. Sự phát triển của nuôi trồng thủy sản là có sự đóng góp tích cực của khoa
học kỹ thuật, điều này được thể hiện trong phát triển nuôi tôm thịt thương phẩm và
nghề sản xuất giống thủy sản, đặc biệt là tôm sú giống.
Thứ ba: Trình độ kỹ thuật chế biến thủy sản
Đây là ngành chủ yếu sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong việc
tao ra đa dạng hóa mặt hàng thủy sản, sử dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu, nâng
cao chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa thủy sản. Trình độ
kỹ thuật chế biến thủy sản cũng là một trong những động lực trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành chế biến về cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành nghề.
Đối với Khánh Hòa, ở các nghề chế biến thủy sản truyền thống như: chế biến
nước mắm, cá khô, mực khô …vẫn sử dụng phương pháp, kỹ thuật và kinh nghiệm
truyền thống cha truyền con nối ở khâu chế biến, còn khâu đóng gói, bao bỳ và tiêu
thụ đã ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để bảo đảm chất lượng và cung ứng ra thị trường
được kịp thời. Xuất khẩu thủy sản có một vị trí và vai trò quan trọng của chuyển
dịch cơ cấu ngành chế biến thủy sản Khánh hòa, vì vậy chế biến thủy sản không
ngừng nâng cấp, xây dựng mới, mua sắm trang thiết bị, dây chuyền hiện đại đạt tiêu
chuẩn ngành và để đáp ứng cho mục tiêu xuất khẩu. Đặc biệt các doanh nghiệp phải
16
xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý đạt tiêu chuẩn ISO, HACCP 14000. Tóm lại,
nhân tố trình độ kỹ thuật chế biến thủy sản có sự tác động đến chuyển dịch cơ cấu
ngành nghề và chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong ngành chế biến Khánh Hòa.
* Nhân tố thứ ba: Nhân tố thị trường
Thị trường tác động trực tiếp đêna việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành nói chung và với ngành thủy sản nói riêng của mỗi nước. Hạt nhân cơ
bản của thị trường là các doanh nghiệp, các doanh nghiệp hướng ra thị trường, căn
cứ vào cung-cầu hàng hóa trên thị trường để xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh
doanh, tiếp thị của mình. Các loại thị trường bao gồm: thị trường hàng hóa, thị
trường lao động, thị trường dịch vụ, thị trường tài chính, thị trường khoa học công
nghệ…. Tất cả đều tác động tổng hợp lên các doanh nghiệp và ảnh hưởng đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong công nghiệp. Thị trường tác động lên cơ cấu
kinh tế ngành trước hết thông qua nhu cầu tiêu dùng cuối cùng, bởi vì sản xuất
trong nền kinh tế thị trường suy đến cùng là do nhu cầu quyết định.
Đối với ngành thủy sản Khánh Hòa, nhân tố thị trường có vai trò quan trọng
đối với việc phát triển quy mô của ngành thủy sản, đến chuyển dịch cơ cấu phân
ngành, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu lao động và các hoạt động
sản xuất kinh doanh của ngành thủy sản nói chung.
* Nhân tố thứ tư: Vốn đầu tư
Tư liệu sản xuất quyết định sự phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu, đồng
thời quyết định đến tổng mức và cơ cấu vốn đầu tư. Đến lượt mình, đầu tư lại nâng
cao chất lượng tư liệu sản xuất và dịch chuyển cơ cấu ngành theo hướng tiến bộ hơn.
Ở Khánh Hòa, thủy sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển ngành
thủy sản còn nhằm thực hiện các mục tiêu kinh - tế xã hội cho tỉnh, như: tăng nguồn
thu cho ngân sách của tỉnh, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn và miền biển,
giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện đời sống nhân dân…Để thực hiện được những
mục tiêu này đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn, trong khi thu nhập của người dân hoạt
động trong ngành thủy sản còn thấp, lại bấp bênh, trong những đợt biến động về giá
xăng, dầu và khủng hoảng tài chính vừa qua, nhiều hộ gia đình không tiếp cận được
17
nguồn vốn vay nên không thể duy trì được hoạt động sản xuất. Thiếu vốn cũng gây
cản trở trong việc triển khai nâng cấp trang thiết bị sản xuất hiện đại hay để mở
rộng sản xuất… Có thể nói trong quá trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản của Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì việc
nhân tố vốn đầu tư là một thách thức lớn cho ngành thủy sản.
1.1.3.2- Các yếu tố ngoại sinh
* Nhân tố thứ nhất: Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thế giới
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới đã hình thành lên những ngành kỹ
thuật cao. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ là rất lớn trong
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như: Cơ cấu sản xuất cũng sẽ được điều chỉnh
theo hướng hiện đại hóa và cao cấp hơn. Cơ cấu sức lao động cũng được trí thức
hóa. Cơ cấu sản phẩm cũng thay đổi theo hướng hàm lượng chất xám trong sản
phẩm ngày càng tăng, hàm lượng nguyên liệu và lao động chân tay ngày càng giảm
xuống…dẫn đến quá trình phân công lại lao động xã hội và xu hướng quốc tế hóa
sản xuất.
Đối với ngành thủy sản Khánh Hòa, nhân tố cuộc cách mạng khoa học –
công nghệ tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, được thể hiện: Trình độ phương tiện khai tác thủy
sản được trang bị hiện đại, công suất đánh bắt xa bờ…, hay hiện đại hóa cac ngành
khai thác truyền thống. Trong nuôi trồng thủy sản, cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ, đặc biệt là cách mạng công nghệ sinh học, sẽ tác động đến việc phát triển
nghề nuôi thủy sản thương phẩm, nghề nuôi và tạo giống nuôi thủy sản, cũng như
việc kiểm soát dịch bệnh thủy sản. Trong chế biến thủy sản, sự tác động của nhân tố
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đó là hiện đại hóa dây chuyền sản xuất, tiêu
chuẩn và chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm được đa dạng hơn…
Có thể nói, nhân tố cuộc cách mạng khoa học – công nghệ thế giới vừa là
động lực, vừa là thách thức đối với ngành thủy sản và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản Khánh Hòa trong quá trình phát triển của mình.
18
* Nhân tố thứ hai: Toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế thế giới
Toàn cầu hóa kinh tế thế giới, bao gồm các nội dung: Quốc tế hóa thị trường,
quốc tế hóa sản xuất, quốc tế hóa tư bản và quốc tế hóa khoa học kỹ thuật.
Đối với ngành thủy sản Khánh Hòa, nhân tố toàn cầu hóa và khu vực hóa
kinh tế thế giới tạo ra cơ hội cho sự phát triển mạnh mẽ ngành thủy sản và trong quá
trình chuyển dich cơ cấu kinh tế ngành, đó là: Sẽ mở ra được một thị trường rộng
lớn cho tiêu thụ sản phẩm thủy sản và thị trường nguyên liệu thủy sản; thu hút đầu
tư của nước ngoài vào ngành thủy sản; tiếp thu được khoa học – công nghệ và kỹ
thuật hiện đại của ngành thủy sản trong khu vực và thế giới để phát triển ngành
thủy sản của tỉnh. Bên cạnh đó, nhân tố này cũng đặt ra những thách thức cho ngành
thủy sản đó là: Hàng hóa thủy sản Khánh Hòa phải đối mặt với sự cạnh tranh của
hàng hóa thủy sản của các nước trong khu vực và trên thế giới, hành hóa nước ngoài
được sản xuất trên dây chuyền hiện đại đạt được những yêu cầu cao về chất lượng,
vì vậy đây là một thách thức lớn của ngành thủy sản.
Mặt khác, các công ty, tập đoàn kinh tế nước ngoài họ mạnh cả về vốn và
công nghệ, trong khi đó các doanh nghiệp thủy sản Khánh Hòa đều hoạt động trong
tình trạng thiếu vốn, trình độ trang thiết bị còn thấp, do đó khi hội nhập kinh tế quốc
tế rất dễ bị thôn tính hoặc bị phá sản.
Cuối cùng là, ngày nay các quốc gia có biển họ đã thấy được tầm quan trọng
của biển, vì thế họ đã đầu tư các nguồn lực để phát triển kinh tế biển, các hoạt động
đánh bắt khai thác đại dương được tăng cường, nhất là các nước trong khu vực, thời
gian qua vấn đề tranh chấp về biển đông, về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và
Trường Sa đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngành khai thác thủy sản
nói riêng và đối với bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước nói chung.
1.2- Một số quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành – Vai trò, vị trí ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1- Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành
Quan điểm của Đảng ta về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu
19
kinh tế ngành nói riêng được thể hiện trong các văn kiện của Đại hội Đảng toàn
quốc. Kể từ năm 1986 đến nay, khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bối cảnh trong nước và quốc tế có
nhiều thay đổi và đã có những tác động rất lớn đến sự nhận thức và đổi mới tư duy
của Đảng ta về quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Điều này được thể
hiện trong các Văn kiện của Đảng, từ Đại hội VI (tháng 12/1986) đến Đại hội XI
(tháng 01/2011) như sau:
* Đại hội VI (12/1986), Đảng đưa ra quan điểm: “Muốn đưa nền kinh tế sớm
thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế
quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí
cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế
phát triển ổn định. Để thực hiện sự sắp xếp đó, trước hết phải bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư.” [6, tr 36]
Cụ thể:
- Về nông nghiệp: “Phương châm phát triển nông nghiệp là kết hợp chuyên
môn hoá với phát triển toàn diện, cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, lúa và màu,
cây lương thực và cây công nghiệp”[6, tr 37]
- Công nghiệp nhẹ và tiểu, thủ công nghiệp: “Công nghiệp nhẹ và tiểu công
nghiệp, thủ công nghiệp đáp ứng cho được nhu cầu của nhân dân về những loại
hàng thông thường, bảo đảm yêu cầu chế biến nông, lâm, thuỷ sản, tăng nhanh việc
làm hàng gia công xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác, đồng thời mở rộng
mặt hàng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Khai thác triệt để mọi
nguồn nguyên liệu; tận dụng các loại phế liệu; tranh thủ nguồn nguyên liệu gia công
của nước ngoài.”[6, tr 38]
- Công nghiệp năng được xác định: “Việc phát triển công nghiệp nặng và
xây dựng kết cấu hạ tầng phải nhằm phục vụ các mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong
chặng đường đầu tiên, và theo khả năng thực tế, chuẩn bị tiền đề cho sự phát triển
kinh tế trong chặng đường tiếp theo. Ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng
20
(điện than, dầu khí). Ngành công nghiệp cơ khí của tất cả các bộ và các địa phương
phải được sắp xếp lại, đồng bộ hoá, chuyên môn hoá, từng bước đổi mới thiết
bị”.[6, tr 39]
- Về dịch vụ: “Phát triển rộng rãi các loại hoạt động dịch vụ: kỹ thuật, phục
vụ sản xuất và đời sống nhân dân.”[6, tr 39]
Như vậy, quan điểm của Đảng về cơ cấu kinh tế ngành và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành giai đoạn này được đề ra là để nhằm thực hiện mục tiêu giải quyết
vấn đề cấp thiết của đất nước là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu, chứ không đề cập đến vấn đề vị trí ngành kinh tế mũi nhọn, cũng không xác
định tỷ trọng của từng ngành trong tổng cơ cấu. Đại hội VI cũng đánh dấu bước
ngoặt quyết định trong sự chuyển đổi cơ chế nền kinh tế theo hướng chuyển sang
nền kinh tế thị trường.
* Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng từng bước công nghiệp hóa, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu…
Phát triển nông – lâm – ngư gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh
tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ hàng đầu để ổn định kinh tế –
xã hội; đồng thời tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch vụ
theo hướng huy động triệt để các khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Cơ cấu kinh tế bao gồm nhiều ngành nghề, nhiều loại hình kinh tế, nhiều trình
độ công nghệ, nhiều quy mô, trong đó quy mô vừa và nhỏ là chính, hình thành và
phát triển trong quá trình vận động của kinh tế hàng hoá”.[6, tr 247].
Từ quan điểm của Đảng ở trên cho thấy điểm mới trong quan điểm về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành đó là: Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở nước
ta giai đoạn này là phải gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nằm trong quá trình vận động
của kinh tế thị trường. Thứ ba, cơ cấu kinh tế nước ta có sự đa dạng về ngành nghề,
loại hình kinh tế, nhiều trình độ công nghệ và nhiều quy mô.
* Sang Đại hội lần thứ VIII, cơ cấu kinh tế ngành được xác định: “Phát
triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy
21
sản và đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hang năm 4,5 – 5%.
Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công
nghiệp hàng tiêu dùng và hang xuất khẩu. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
bình quân hàng năm 14-15%. Phát triển các ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực
vận tải, thông tin liên lạc, thương mại, du lịch, các dịch vụ tài chính, ngân hàng, công
nghệ, pháp lý, tốc độ tăng giá trị dịch vụ bình quân hang năm 12-13%. Đến năm 2000
tỉ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 34-35% GDP; nông, lâm, ngư nghiệp chiếm
khoảng 19-20% trong GDP; dịch vụ chiếm khoảng 45-46%”[6, tr 395].
Ở giai đoạn này Đảng ta vẫn tiếp tục duy trì quan điểm về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành phải gắn liền với CNH,HĐH. Bên cạnh đó đã xác định tỷ trọng
cho từng ngành trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội cũng như tốc độ phát triển giá
trị của từng ngành.
* Đại hội IX Đảng ta đã xác định: Một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương
của nó” là cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân công và hợp tác
quốc tế sâu rộng. “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị
trường và điều kiện sinh thái của từng vùng; chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu
lao động; giá trị gia tăng của nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng bình quân hàng năm
4,0-4,5%/năm. Tỷ trọng nông nghiệp (nông, lâm, ngư) trong GDP khoảng 16-17%.
Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh,
chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Nhịp độ tăng trưởng giá trị
gia tăng công nghiệp bình quân trong 10 năm tới đạt khoảng 10-15%/năm, đến năm
2010, công nghiệp và xây dựng chiếm 40-41% GDP và sử dụng 23-24% lao động.
Các ngành dịch vụ phát triển mạnh thương mại, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt
động để mở rộng thị trường trong nước và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Hình thành
các trung tâm thương mại lớn, phát triển du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế
mũi nhọn…Toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng
trưởng bình quân 7- 8%/năm và đến 2010 chiếm 42 - 43% GDP, 26 - 27% lao
22
động”.[6, tr 503,508]
Quan điểm phát triển về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế
của Đảng ta ở thời kỳ này đó là phát huy các lợi thế so sánh của đất nước; chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành phải nằm trong sự quy hoạch của cả
nước. Trong cơ cấu kinh tế ngành, Đảng đã xác định tỷ trọng của công nghiệp và dịch
vụ tăng lên tỷ trọng của nông nghiệp giảm xuống so với thời kỳ trước.
* Đại hội X Đảng ta nhấn mạnh hơn nữa đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể:
- Với nông nghiệp: “Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
và kinh tế nông thôn, chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và
hiệu quả kinh tế cao…Xây dựng các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung gắn
với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến và bảo quản…Phấn đấu giá trị tăng
thêm trong nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3 – 3,2%/năm; vào năm 2010 tỉ trọng
khu vực nông nghiệp khoảng 15-16% trong GDP”.[6, tr 690]
- Với công nghiệp: “Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo
hướng nâng cao chất lượng sức cạnh tranh và hiện đại hóa…phát triển công nghiệp
và xây dựng với cơ cấu ngành, nghề phù hợp. Nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh,
hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị tăng thêm, giá trị nội địa trong sản
phẩm công nghiệp. Phát triển công nghiệp và xây dựng gắn với phát triển dịch vụ,
phát triển đô thị và bảo vệ môi trường…Phấn đấu đạt tốc độ tăng giá trị tăng thêm
trong công nghiệp và xây dựng 10-10,2%/năm; năm 2010 tỉ trọng khu vực công
nghiệp và xây dựng khoảng 43-44% trong GDP”.[6, tr 693]
- Với dịch vụ: “Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng yêu cầu và phù
hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế
giới. Ưu tiên phát triển các ngàn dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống…Phấn
đấu đạt 7,7-8,2%/năm giá trị tăng thêm; năm 2010 tỉ trọng khu vực dịch vụ khoảng
40-41% trong GDP”.[6, tr 696]
Vẫn trên quan điểm xác định cơ cấu kinh tế ngành của nước ta là công
23
nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp, nhưng ở giai đoạn này xác định tỷ trọng của Công
nghiệp cao hơn ở giai đoạn trước (giai đoạn này tỷ trọng công nghiệp trong GDP cả
nước là 43-44%, thời kỳ trước là 40-41%), tỷ trọng dịch vụ giảm xuống còn 40-
41% và nông nghiệp vẫn tiếp tục được xác định giảm xuống so với trước, thời kỳ
này tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP chỉ còn là 15-16%(trước là 16-17%).
Khẳng địnhchuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải bảo đảm tính hiệu quả.
* Đại hội XI trong Văn kiện chỉ rõ “Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trọng
tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ phù hợp với các vùng; thúc đẩy cơ cấu
lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh giá trị nội địa, giá trị
gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế; phát
triển kinh tế tri thức. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế
xanh. [6, tr 752]
Về công nghiệp: Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển
mạnh những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối
với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền
kinh tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và
phân phối toàn cầu…Phấn đấu giá trị gia tăng công nghiệp - xây dựng bình quân 5
năm tăng 7,7-8%/năm; tỉ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm khoảng
41-42%. [6, tr 759]
Về nông – lâm – ngư nghiệp: Phát triển nông – lâm – ngư nghiệp toàn diện
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với tính hiệu quả, bền vững, phát huy
lợi thế của nông nghiệp nhiệt đới và giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn…Phấn
đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm đạt 2,6-3%/năm; tỉ trọng nông
nghiệp trong cơ cấu GDP 17-18%. Tỉ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm
40-41% lao động xã hội. [6, tr 759,760]
Về các ngành dịch vụ: Phấn đấu khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao
hơn tốc độ tăng GDP và gấp ít nhất 1,3 lần tốc độ tăng trưởng của các ngành sản
xuất sản phẩm vật chất; tốc độ tăng trưởng dịch vụ bình quân 5 năm đạt 8-
8,5%/năm, tỉ trọng trong GDP chiếm khoảng 41-42%” [4, tr 761]
24
Như vậy, cùng với thời gian, nhận thức cơ cấu kinh tế ngành trong thời kỳ
công nghiệp hoá ở nước ta đã có sự thay đổi to lớn và căn bản trong quá trình nhận
thức lý luận. Cơ cấu kinh tế và cơ câu ngành kinh tế được xác định lấy cơ cấu kinh
tế ngành là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp và được xác định cả về cơ cấu tỷ
trọng, của mối ngành trong sự đóng góp vào GDP, xác định tốc độ phát triển của
mỗi ngành qua các giai đoạn, trong đó công nghiệp và dịch vụ tăng và chiếm bình
quân là 85% trong GDP, còn nông nghiệp giảm dần và chỉ còn chiếm 15% trong
GDP. Quan điểm xuyên suốt từ khi đổi mới nền kinh tế cho đến nay về xây dựng cơ
cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là phải gắn với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, gắn với thị trường và hội nhập quốc tế, bảo
đảm tính hiệu quả và phát triển bền vững.
1.2.2- Vai trò, vị trí ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
* Vai trò
- Thủy sản góp phần vào việc nâng tầm Việt Nam trên trường thế giới.
Kể từ khi đất nước đổi mới cho tới nay, thủy sản cùng với sản xuất lúa gạo là
hai ngành có đóng góp lớn nhất trong việc đưa vị thể Việt Nam trên trường quốc tế,
về đề xuất khẩu lương thực thực phẩm, luôn đứng trong tốp 5 nước dẫn đầu về xuất
khẩu gạo, và thủy sản. Năm 2010, Liên Hợp Quốc đã công nhận nước ta là nước
đầu tiên trên thế giới hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo.
(Năm 2000, tỷ lệ đói nghèo của nước ta là 32%, mục tiêu thiên niên kỷ mà Liên
Hợp Quốc đề ra cho nước ta là đến năm 2020 tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam giảm
xuống còn 13%. Nhưng mục tiêu thiên niên kỷ này đã được Việt Nam hoàn thành
vào năm 2010, tỷ lệ người nghèo ở nước ta còn 13%, không có người bị đói, điều
này đã được Liên Hợp Quốc công nhận). Thành công này có sự đóng góp chung của
cả nền kinh tế, nhưng trong đó phải kể đến vai trò của ngành nông nghiệp nói
chung, mà cụ thể ở đây là sản xuất lúa gạo và sản xuất thủy sản. Có thể nói trên đây
là thành tựu điển hình có sự đóng góp của thủy sản Việt Nam trong việc đưa vị thế
nước ta trên trường quốc tế.
- Về vai trò của ngành thủy sản đối với kinh tế - xã hội trong nước được thể
25
hiện ở các vai trò sau:
Thứ nhất: Ngành thủy sản đã góp phần vào việc Chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp nông thôn. Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện
một nền kinh tế biển. Trong những năm qua sự biến động về giá cả thủy sản trên
thế giới theo chiều hướng tăng, trong khi giá lúa gạo lại giảm. Do đó ngành thủy sản
đã tận dụng một phần lớn diện tích canh tác lúa kém hiệu quả đã được chuyển sang
nuôi trồng thuỷ sản. Quá trình chuyển đổi diện tích, chủ yếu từ lúa kém hiệu quả,
sang nuôi trồng thuỷ sản diễn ra mạnh mẽ nhất vào các năm 2000-2002: hơn
200.000 ha diện tích được chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản hoặc kết hợp nuôi
trồng thủy sản, tuy nhiên từ 2003 đến nay ở nhiều vùng vẫn tiếp tục chuyển đổi
mạnh, năm 2003 đạt 49.000 ha và năm 2011 đạt 125.400 ha. Có thể nói nuôi trồng
thủy sản đã phát triển với tốc độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể,
từng bước góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp
phần xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nông dân.
Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh
mẽ. Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một
trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu
nhập cho người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Tính đến nay, tổng
diện tích ruộng trũng có thể đưa vào nuôi cá theo mô hình cá - lúa là 446.151 ha.
Năm 20011, diện tích đã nuôi được xác định là 439.379 ha, con số này vẫn tiếp tục
tăng trong những năm tiếp theo.[1, tr 3].
Thứ hai: Thủy sản là nguồn xuất khẩu quan trọng mang lại lượng ngoại tệ
quan trọng cho nền kinh tế. Từ thập niên 90 của thế kỷ XX cho đến nay, ngành thuỷ
sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ 4 trong bảng danh sách các ngành có giá trị kim
ngạch xuất khẩu lớn nhất đất nước. Ngành Thuỷ sản còn là một trong 10 ngành có
kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
đạt 6,11 tỷ USD, năm 2012 đạt 6,09 tỷ USD.[21, tr 1]. Kết quả này đã đưa thủy sản
Việt Nam lên bản đồ xuất khẩu của thế giới. Thế giới không chỉ biết đến gạo xuất
khẩu của Việt Nam, mà còn biết đến những sản phẩm thủy đặc sản biển xuất khẩu.
26
Thứ ba: Thủy sản đóng góp vai trò trong việc đảm bảo an ninh lương thực,
thực phẩm. Ngành thuỷ sản đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm
cho người dân, không những thế nó còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn
việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng
ven biển. Để làm được việc này, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt động
trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người nghèo
làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết cơ bản
công ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu chủ và
kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở các
vùng, nhất là lao động nông nhàn trên phạm vi cả nước.[1, tr 4]
Thứ tư là: Ngành thủy sản đã góp phần tạo nghề nghiệp mới, tăng hiệu quả
sử dụng đất đai ao hồ nhỏ ở vùng nông thôn. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành, chuyển dịch cơ cấu nghề, ngành thủy sản đã tận dụng và sử dụng
hiệu quả diện tích mặt nước, ao hồ nhỏ như một cách tận dụng đất đai và lao động.
Người dân hầu như họ không phải chi phí nhiều tiền vốn vì phần lớn là nuôi quảng
canh, những năm gần đay ngày càng có nhiều người nông dân tận dụng các mặt
nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm
canh và thâm canh có chọn lọc đối tượng cho năng suất cao cá mè, trắm, cá chép,
trôi Ấn Độ và các loài cá rô phi đơn tính. Điều này đã làm cho nông thôn Việt Nam
nói chung ngày càng đa dạng ngành nghề, giải quyết viếc làm, nâng cao thu nhập
khi mà các đối tượng gieo trồng kém hiệu quả.
Thứ năm: Góp phần đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc
phòng ở vùng sâu, vùng xa, nhất là ở vùng biển và hải đảo. Với quan điểm, thủy sản
là nghề cá nhân dân, do đó thủy sản không chỉ là ngành nghề kiếm kế sinh nhai, mà
với việc phát triển đánh bắt xa bờ bằng các phương tiện hiện đại, ngành thủy sản đã
góp phần vào bảo vệ chủ quyền biển đảo, vùng đặc quyền kinh tế và khai thác nước
ta. Với phương tram “Mỗi ngư dân là một chiến sĩ, tầu thuyền là một pháo đài”.
Thủy sản Việt Nam đã và đang góp phần vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
27
Từ những vai trò trên đã cho thấy, quan điểm của Đảng ta về đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng thể
hiện được tính đúng đắn, điều này được thể hiện rất rõ trong ngành thủy sản. Bên
cạnh đó, những đóng góp của thủy sản nước ta ở trên, sẽ là động lực để các nhà
hoạch định chính sách, các nhà kinh tế và nhà khoa học tìm ra những hướng đi,
những giải pháp hữu hiệu mới về chính sách, vốn, phát triển khoa học kỹ thuật cho
thủy sản, đẩy mạn thị trường xuất khẩu, phát triển nguồn nhân lực… để qua đó
nhằm phát huy hơn nữa vai trò, vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế. Thành
công của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản sẽ là động lực, bài học kinh
nghiệm cho việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành cở các lĩnh vực khác.
* Vị trí của ngành thủy sản trong nền kinh tế
Ngành thủy sản có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội Việt nam. Trong những năm qua sản xuất thủy sản đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Năm 2011, tổng sản lượng thủy sản đạt trên 5,2 triệu tấn
(tăng gấp 5,1 lần so với năm 1990, bình quân tăng 8,49%/năm ); sản lượng nuôi
trồng đạt 3 triệu tấn (tăng gấp 9,7 lần so với năm 1990, bình quân tăng
12,02%/năm ); sản lượng khai thác thủy sản đạt trên 2,2 triệu tấn (tăng gấp 3,1
lần so với năm 1990, bình quân tăng 5,83%/năm). Hàng thủy sản Việt Nam đã có
mặt ở trên 164 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu năm
2011 đạt trên 6,11 tỷ USD (tăng gấp 29,8 lần so năm 1990, bình quân tăng
18,5%/năm), 6,09 tỷ USD vào năm 2012 . Đặc biệt, tôm và cá tra là hai mặt hàng
xuất khẩu chủ lực trong nhiều năm, năm 2011 đạt kim ngạch xuất khẩu tôm là 2,39
tỷ USD và cá tra là 1,8 tỷ USD. Thủy sản luôn trong top ñầu các mặt hàng xuất
khẩu của đất nước và giữ vững vị trí top 10 nước xuất khẩu thủy sản hàng ñầu
thế giới. Đến nay nay, thủy sản đã phát triển thành một ngành kinh tế mũi nhọn,
một ngành sản xuất hàng hóa lớn, đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh
đó, với sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả, thủy sản đã đóng góp tích cực trong
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, đóng góp hiệu quả cho công
cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho trên 4 triệu lao động, nâng cao
28
đời sống cho cộng đồng cư dân khắp các vùng nông thôn ven biển, hải đảo, đồng
bằng, trung du, miền núi, đồng thời, góp phần quan trọng trong bảo vệ an ninh
quốc phòng trên vùng biển, đảo của Tổ quốc.[21, tr 1]
Những con số ấn tượng trên của ngành thủy sản đạt được không phải tự
nhiên mà có. Tiềm năng và lợi thế mà ngành thủy sản có được chỉ được khơi dậy
bằng các chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, của ngành và sự phát huy
nguồn lực của nhân dân. Một trong những chính sách đúng đắn đó là đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trên phạm vi cả nước nói chung và Khánh Hòa nói chung. Vai trò, vị trí của
ngành thủy sản nêu trên sẽ cho hướng đi đúng đắn của quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành thủy sản về các mặt: chuyển dịch cơ cấu phân ngành, chuyển dịch cơ cấu
nghề và chuyển dịch cơ cấu sản phẩm….
1.3- Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản ở một số địa
phương trong nước và bài học kinh nghiệm rút ra
1.3.1- Khái quát tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của
một số địa phương trong nước
* Chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản Tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản từ năm
2001 đến nay. Trong chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản, Quảng Ninh xác định lấy
nuôi trồng là ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản. Với chủ trương đó nuôi trồng thủy sản đã chuyển biến tích cực theo
hướng sản xuất hàng hoá, tập trung về xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Tốc độ tăng
sản lượng hàng năm luôn đạt mức cao từ 12% đến 18%/năm trong cả giai đoạn từ
năm 2001 đến nay. Năm 2011, diện tích nuôi đạt 3.180ha , vượt ngưỡng cho phép là
59%, sản lượng nuôi đạt 7.175 tấn (vượt 79,3%).[17, tr 15].
Các địa phương trong tỉnh đã có sự quan tâm đầu tư xây dựng vùng nuôi tập
trung theo quy mô công nghiệp, hiện đại.
+ Công nghệ nuôi một số đối tượng nuôi chủ đạo như: cá rô phi, tôm sú, tôm
29
chân trắng... về cơ bản đã hoàn thiện và chủ động trong sản xuất. Một số đối tượng
nuôi mới như: tôm he, ghẹ xanh, tu hài, cá giò, hầu... bước đầu được nghiên cứu
ứng dụng đạt kết quả tốt, ngọc trai….
+ Hình thức nuôi ngày càng đa dạng, đặc biệt ở các vùng đất chuyển đổi đã
thu hút được nhiều doanh nghiệp và hộ nông dân tham gia đầu tư với quy mô lớn.
Trong năm 2009 đã thực hiện chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi
cá rô phi tập trung với 43 hộ tham gia trên 16 ha mặt nước; năng suất bình quân
12,7 tấn/ha. Tổng sản lượng đạt 202,194 tấn; thu được 240 triệu đồng/ha; lãi bình
quân 51 triệu đồng/ha. Các mô hình nuôi trồng thủy sản chính là hướng làm giàu
bền vững phù hợp với điều kiện thực tế và tiềm năng của tỉnh đem lại hiệu quả thiết
thực, giúp người dân phát triển kinh tế gia đình, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp.
+ Chuyển đổi đất nông nghiệp kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản là
đúng hướng, phù hợp với thực tế, phù hợp với đông đảo nguyện vọng của nhân dân,
đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Hiệu quả kinh tế ở những vùng chuyển đổi sang
nuôi trồng thủy sản cao hơn hẳn so với canh tác nông nghiệp truyền thống, nhiều
nơi giá trị thu nhập từ thủy sản nuôi trồng tăng gấp 4 - 8 lần trồng lúa.
+ Việc sản xuất cung ứng giống thủy sản nước ngọt có tính ổn định cao hơn.
Chất lượng con giống được nâng lên rõ rệt hàng năm. Công nghệ sản xuất giống tu
hài, hầu biển, cá rô phi lai xa, cá chim trắng, tôm sú, tôm chân trắng cơ bản đã hoàn
thiện và chủ động trong sản xuất. Một số giống nuôi mới đang được nghiên cứu ứng
dụng, bước đầu đạt kết quả tốt như ốc nhảy, điệp quạt. Hiện, tỉnh có 14 trại sản xuất
giống, trong đó có 9 trại sản xuất tôm giống, 5 trại sản xuất giống nhuyễn thể với sản
lượng năm 2009 là 208 triệu con tôm giống, trong đó: tôm he chân trắng 230 triệu,
tôm sú 50 triệu con; giống cá nước ngọt 105 triệu con, cá biển 1 triệu con, giống ngọc
trai 60 triệu con, giống thủy sản khác 64 triệu con. [17, tr 15]
+ Từ sản xuất, nuôi trồng đã thúc đẩy một số ngành dịch vụ đi kèm, trong đó
có Nhà máy chế biến thủy sản xuất khẩu Quảng Ninh tại Móng Cái mới đi vào hoạt
động có công suất 60 tấn/ngày, tạo động lực cho bà con yên tâm nuôi trồng và góp
30
phần nâng cao giá trị hàng xuất khẩu thủy sản.
+ Thị trường đầu ra cho nuôi trồng thủy sản nói riêng và ngành thủy sản của
Quảng Ninh nói chung, gồm: Thị trường trong nước: Hà Nội, Hưng Yên, Hải
Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang và các tỉnh Tây Bắc. Thị trường nước ngoài đó là:
Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…
Từ sự nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của Quảng
Ninh đã rút ra bài học đó là: Xác định ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển
dịch, từ đó đưa ra đồng bộ các gải pháp để thực hiện, trong đó phát huy nguồn lực
trong dân đã góp phần quan trọng cho sự thành công trên.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản Tỉnh Quảng Ngãi
Quảng Ngãi là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước trong lĩnh vực khai
thác, phát triển kinh tế biển, sản lượng khai thác bình quân trên 100.000 tấn/năm,
với hơn 5.630 chiếc tàu đánh cá, tổng công suất 540.000CV và trên 4 vạn lao động
trực tiếp sản xuất trên biển.
Tỉnh Quảng Ngãi trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
đã xác định lấy ngành khai thác làm ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thủy sản của tỉnh.
Chính sách hỗ trợ của tỉnh để phát triển nghề khai thác: Trên cơ sở của Quyết
định số 32/2007/QĐ-UBND ngày 22/10/2007, tỉnh đã hỗ trợ cho nhiều ngư dân vay
vốn để đóng mới tàu thuyền đáp ứng niềm mong mỏi của ngư dân. Từ đó, tàu công
suất lớn cứ dần tăng lên, tàu công suất từ 50 CV - 90 CV, 100 CV - 250 CV khá
nhiều, ở tỉnh còn có tàu đánh cá công suất lên đến 400 - 450 CV. Trong giai đoạn
2006 - 2010, ngư dân đã đầu tư đóng mới, cải hoán, nâng cấp tàu thuyền lên đến
5.622 chiếc, với tổng công suất ước đạt 480.000 CV/305.000 CV (hơn 157%).
Phát triển cơ sở hạ tầng. Tiến hành quy hoạch xây dựng 5 cơ sở hạ tầng
cảng, thông luồng và vũng neo đậu tàu thuyền. Trong đó có 3 cơ sở bước đầu đã
phát huy tác dụng. Theo thống kê, trong 5 năm qua Quảng Ngãi đã đầu tư tổng thể
khoảng hơn 584,5 tỷ đồng/686,7 tỷ đồng để phát triển kinh tế thủy sản. Nhờ đó cơ
sở hạ tầng nghề cá ngày một cải thiện tạo điều kiện cho bà con ngư dân đánh bắt,
31
nuôi trồng thủy sản đạt hiệu quả cao.
Những năm qua ngoài vùng ngư trường đánh bắt ở Hoàng Sa, Trường Sa,
một số ngư dân đã hợp đồng sang đánh bắt ở các vùng biển nước bạn Philippin,
Malaysia.
Phát triển mô hình nghề cá nhân dân. Từ những năm 2000, các tàu cá Quảng
Ngãi đã bước đầu hình thành (tự phát) các tổ, đội sản xuất trên biển theo nguyên tắc
“ba cùng”: cùng địa phương, cùng nghề và cùng ngư trường khai thác. Đây là việc
làm cần thiết của ngư dân để hỗ trợ nhau lúc khó khăn và tiết kiệm chi phí khai thác.
Sự hình thành các tổ, đội này đã mang lại những lợi ích thiết thực, góp phần hỗ trợ
nhau trong khai thác; ứng cứu kịp thời khi thời tiết nguy hiểm, tai nạn trên biển,
giảm chi phí sản, tạo tiền đề cho việc hình thành và phát triển hình thức quản lý
khai thác mới, sẵn sàng giúp nhau trong quá trình chuẩn bị, đánh bắt, tiêu thụ sản
phẩm, chia sẻ thông tin, áp dụng các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phù hợp với
điều kiện sản xuất; đồng thời góp phần triển khai các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chủ động
xây dựng phương án phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai...
Thực hiện chính sách khuyến ngư, bên cạnh đầu tư trực tiếp về tiền của để
xây dựng cở sở hạ tầng, tỉnh đã hỗ trợ kỹ thuật cho ngư dân làm ăn. Thông qua
chương trình khuyến ngư, Trung tâm khuyến nông - khuyến ngư tỉnh tổ chức 190
lớp tập huấn với 8.800 lượt người tham dự và triển khai thực hiện 80 mô hình
khuyến ngư tỉnh, đào tạo trên 2.500 thuyền trưởng, máy trưởng và thuyền viên.
Đi đôi với việc khai thác đánh bắt ở biển khơi, dọc dài ven biển, tỉnh đã quy
hoạch để thực hiện các dự án nuôi tôm. Từ năm 2009 - 2011, đã có 5 dự án nuôi
tôm ven biển đạt hiệu quả. Tuy mỗi dự án hiện chỉ thực hiện được 1/3 - 1/2 diện
tích quy hoạch nhưng nhờ thực hiện đúng quy trình kỹ thuật nuôi nên đã cho hiệu
quả rõ rệt. Mỗi ha đạt bình quân từ 8 - 16 tấn/ha/vụ. Cá biệt như dự án nuôi tôm
trên cát thuộc xã Đức Chánh (Mộ Đức) đạt 17 tấn/ha/vụ.
Trong những năm qua, nghề nuôi trồng thủy sản đã đem lại hiệu quả kinh tế
khá cao. Tổng diện tích nuôi trồng ước đến năm 2010 gần 2.100 ha (đạt 102%),
32
sản lượng hơn 7.600 tấn hải sản, vượt 21% so với kế hoạch.
Khi khai thác và nuôi trồng phát triển thì cũng kéo theo các cơ sở mua bán
thủy hải sản hoạt động, giải quyết hàng ngàn công lao động trên bờ ở các địa
phương và các nhà máy chế biến thủy sản mang tính quy mô công nghiệp.
Bài học rút ra từ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản ở
Quảng Ngãi đó là: Lựa chọn ngành mũi nhọn cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành, biết tận dụng và phát huy thế mạnh những lợi thế để thúc đẩy ngành
kinh tế mũi nhọn phát huy hơn nữa. Sự hỗ trợ kịp thời về vốn và chính sách của
chính quyền địa phương để tháo gỡ khó khăn cho ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt
là kết hợp giữa sự hỗ trợ của chính quyền là sự phát huy nhân tố nội lực của nhân
dân qua chủ trương 3 cùng. Bên cạnh việc tập trung phát huy thế mạnh của ngành
mũi nhọn, là cũng cần có sự hỗ trợ và phát triển các các ngành khác trong cơ cấu
ngành để quá trình chuyển dịch được diễn ra nhanh và mạnh mẽ.
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản Tỉnh Cà Mau
Trên cơ sở những thuận lợi về tự nhiên so với cả nước, tỉnh Cà Mau đã phát
triển thủy sản trên cả ba ngành là nuôi trồng, chế biến và khai thác. Chọn thủy sản
là kinh tế mũi nhọn của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Cà Mau
đã định hướng chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp: từ nông - lâm –
ngư sang ngư - nông - lâm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế thủy sản trong cơ cấu
nông-lâm-thủy sản tương ứng là 20,4% - 4,6% - 75%. Nhằm phát huy lợi thế so
sánh, chọn thủy sản làm mũi nhọn đột phá, trong đó chọn con tôm là sản phẩm xuất
khẩu chủ lực; mô hình kết hợp nông nghiệp - thủy sản; lâm nghiệp - thủy sản, kết
hợp nông - lâm - ngư áp dụng trên quy mô lớn đạt hiệu quả kinh tế cao hơn các thời
kỳ trước, toàn tỉnh hiện có diện tích nuôi thủy sản chiếm 31%, sản lượng tôm nuôi
chiếm 30%, kim ngạch xuất khẩu chiếm 20% so của cả nước.
- Về nuôi trồng thủy hải sản: Ngành nuôi tôm xuất khẩu đã trở thành một
ngành sản xuất hàng hóa năng động, thành phong trào quần chúng rộng lớn, nhất là
từ năm 2001 được chính quyền cho phép chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ nông - lâm -
ngư sang ngư - nông – lâm, cơ cấu ngành thủy sản của tỉnh đến 2011là: tổng diện
33
tích nuôi trồng 282.404 ha, trong đó 240.834 ha nuôi tôm, với các loại hình chính
là: tôm-lúa 72.000-82.000 ha; tôm-vườn 8.500 ha; chuyên tôm dạng sinh thái
110.334-119.334 ha; tôm-rừng 30.000 ha; tôm công nghiệp tập trung 7.000-7.500
ha; tôm công nghiệp quy mô gia đình 3.000-3.500 ha. Nghề nuôi tôm sú Cà Mau
năm 2011 đã đạt tổng sản lượng tôm nuôi 258.509 tấn.[24, tr 15]
- Đẩy mạnh áp dụng ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào
sản xuất tôm giống, tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản phát triển và quá
trình chuyển dịch cơ cấu nuôi trồng thủy sản. Cà Mau đã nghiên cứu, ứng dụng
thành công một số giống mới phục vụ chuyển dịch cơ cấu, vật nuôi trong tỉnh. Sản
phẩm chủ yếu là các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, phù hợp với đặc điểm
các tiểu vùng sản xuất thủy sản. Sự kết hợp giữa khoa học - công nghệ mới với đặc
điểm tự nhiên của từng vùng biển của địa phương, thảm thực vật và hệ động vật
phong phú, của Cà Mau đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kết quả
là Cà Mau đã vươn lên từ chỗ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn tôm giống du nhập, nay
đã tự cung ứng được trên 50% giống cho nuôi trồng thủy sản. Một hệ thống sản
xuất giống được phát triển, từ 438 trại sản xuất 1,5 tỷ con sú giống vào năm 2000;
tăng lên 905 trại, sản xuất 8 tỷ con giống, đáp ứng 74,5% tổng nhu cầu tôm giống
vào năm 2011.
- Về chế biến xuất khẩu thủy sản. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi và tiềm
năng thủy sản to lớn, đa dạng để phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần
đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH, đưa kinh tế từng bước hội nhập với kinh tế khu
vực và thế giới, chế biến xuất khẩu 170.443 tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 730 triệu
USD năm 2011. Do các nhà máy tăng cường đổi mới thiết bị công nghệ, dây
chuyền sản xuất tiên tiến, từ đó mức độ tham gia thị trường rộng và chuyên sâu hơn,
sản xuất được nhiều mặt hàng giá trị gia tăng. Đây là thành tựu lớn, khẳng định vai
trò ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chất thúc đẩy các ngành nghề và kinh tế xã hội
tỉnh phát triển. Thị trường xuất khẩu chủ yếu là: Mỹ, Nhật, Thị trường chung Châu
Âu, Úc, Canada, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc
- Về khai thác thủy sản: Đối với một lĩnh vực mà Cà Mau có tiềm năng phong
34
phú nhất - lĩnh vực khai thác biển, tỉnh đã tổ chức lại hoạt động khai thác theo hướng
giảm chi phí, nâng cao hiệu quả gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đẩy nhanh tiến độ
xây dựng các cảng cá, khu neo đậu tránh, trú bão; phát triển mạnh các dịch vụ hậu
cần nghề cá. Số lượng tàu thuyền khai thác biển hiện có 5.335 chiếc, với tổng công
suất 382.714 CV.
- Chú trọng đến đầu tư xây dựng cảng cá để phục vụ cho công tác khai thác,
hệ thống dịch vụ phục vụ nuôi trồng thủy sản cũng không ngừng lớn mạnh với nghề
nuôi tôm. Hiện nay, toàn tỉnh có trên 300 cơ sở kinh doanh thuốc thú y, thức ăn
thủy sản, bước đầu cung ứng kịp thời các yêu cầu sản xuất của nông dân. Hệ thống
thu mua nguyên liệu thủy sản cùng phát triển mạnh, với hơn 750 cơ sở có đăng ký
và hàng trăm phương tiện thu gom, góp phần kết nối giữa người nuôi tôm với các xí
nghiệp chế biến xuất khẩu.
Bài hoạc rút ra tư mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của Cà
Mau là. Từ những lợi thế có được từ tự nhiên, xác định thủy sản là ngành kinh tế
mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, tư đó tập trung phát triển trên cả
3 lợi thế có được của thủy sản là nuôi trồng, chế biến, khai thác. Trong 3 phân
ngành này, lại xác định sản phẩm mũi nhọn, ở đây là đối tượng tôm sú. Kết hợp
nhiều mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, trong đó thủy sản vẫn được xác định là ngành mũi nhọn trong
cơ cấu ngành nông nghiệp.
1.3.2- Một số bài học kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản
rút ra từ các địa phương trong nước
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản ở 3 tỉnh trong nước nêu
trên cũng như những bài học kinh nghiệm rút ra, chỉ có tính chất gợi mở cho quá
trình thực hiện ở Khánh Hòa, trên cở sở nghiên cứu những điểm tương đồng của
những địa phương này để tỉnh Khánh Hòa tham khảo những thành công của họ,
tránh được những thất bại, hạn chế, sai lầm mà trong quá trình thực hiện chuyển
dịch cơ cấu ngành thủy sản ở các địa phương này gặp phải.
35
Bài học kinh nghiệm thứ nhất: chọn đúng hướng chuyển dịch và chọn
đúng ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển dịch
Trong cả ba địa phương là Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Cà Mau, đều có một
đặc điểm chung của sự thành công trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
đó là xác định đúng hướng chuyển dịch và ngành kinh tế mũi nhọn. Cả ba tỉnh này
đều xác định hướng chuyển dịch đó là: chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
theo hướng sản xuất hàng hóa hướng ra xuất khẩu, ở Quảng Ninh chọn nuôi trồng là
ngành kinh tế mũi nhọn; Quảng Ngãi chọn ngành Khai thác và Cà Mau chọn ngành
thủy sản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Cơ sở chung để lựa
chọn ngành kinh tế mũi nhọn cho quá trình chuyển dịch đó là dựa trên lợi thế tự
nhiên của từng địa phương có được.
Bài học kinh nghiệm thứ hai: Đa dạng hóa mô hình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành
Trên cơ sở đã xác định ngành kinh tế mũi nhọn cho sự chuyển dịch, từ đó
tiến hành đa dạng hóa mô hình chuyển dịch cơ cấu xoay quanh ngành kinh tế mũi
nhọn, bao gồm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu phân ngành, cơ cấu ngành
chuyên môn hóa, cơ cấu nghề nghiệp. Bài học này được rút ra điển hình nhất là ở
tỉnh Cà Mau, sau đó là Quảng Ninh. Sau khi xác định ngành kinh tế mũi nhọn là
ngành thủy sản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Lúc này Cà
Mau lại tiến hành đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản trên cơ sở cả ba
phân ngành: Nuôi trồng, chế biến, khai thác, từ đó lại xác định nghề nuôi tôm sú là
nghề mũi nhọn trong nuôi thủy sản. Trong nuôi thủy sản lại có sự đa dạng về nghê
nghiệp, gồm nuôi thương phẩm, nuôi giống thủy sản…..
Bài học kinh nghiệm thứ ba: Về vai trò của chính quyền trong xác định
hướng chuyển dịch và tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Qua nghiên cứu kinh nghiệm chuyển dịch của 3 tỉnh cho thấy rằng, sau khi
đã đề ra hướng chuyển dịch cho cơ cấu ngành, ngành mũi nhọn, chính quyền đã có
những tác động tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, thể hiện như:
chính sách hỗ trợ vốn (Quảng Ngãi), phát triển cơ sở hạ tầng; đảm bảo về diện tích;
36
chính sách khuyến ngư…tất cả những điều này đã tác động đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành thủy sản theo chiều hướng tích cực qua thực tiễn ở ba tỉnh trên.
Bài học kinh nghiệm thứ tư là: Phát huy yếu tố nội lực trong nhân dân để
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Từ thực tế ở ba tỉnh cho thấy bên cạnh việc tận dụng hiệu quả và đúng đắn
những lợi thế về tự nhiên cho sự chuyển dịch, các tỉnh đã phát huy được yếu tố nội
lực trong nhân dân, đặc biệt là yếu tố vốn cho sản xuất kinh doanh. Với chính sách
đúng đắn của chính quyền đã khuyến khích được nhân dân đồng tình tham gia, và
đây chính là sự thành công đầu tiên của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.
Những bài học này được rút ra từ thực tiễn của 3 tỉnh trong nước, trong quá
trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, tất cả các bài học này nó hòa quện
cùng thời trong quá trình thực hiện, nó có mối quan hệ biện chứng với nhau để đưa
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đi đến thành công.
Kết luận chương 1
Chương 1 đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản của sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành và ngành thủy sản gồm:
M ột là: Trình khái niệm, đặc trưng, phân loại cơ cấu kinh tế ngành, quan
điểm của Đảng về cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành, vai trò, vị trí của ngành
thủy sản trong nền kinh tế quốc dân.
Hai là: Nêu lên nh ững nhân tố chủ yếu tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành thủy sản, bao gồm những nhân tố nội sinh và những nhân tố ngoại sinh.
Ba là: Tổng kết kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của
3 địa phương trong nước, gồm: Quảng Ninh; Quảng Ngãi; Cà Mau, rút ra những bài
hoạc kinh nghiệm thiết thực để tham khảo cho tỉnh Khánh Hòa.
Những vấn đề lý luận chung của chương 1 là cơ sở lý luận để phân tích thực
trạng ở chương 2 và luận bàn về phương hướng, giải pháp chuyển dịch ở chương 3.
37
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NGÀNH THỦY SẢN TỈNH KHÁNH HÒA – NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1- Đặc điểm tỉnh Khánh Hòa nhìn từ góc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản
2.1.1- Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1- Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu
Vị trí địa lý
Khánh Hoà là tỉnh ven biển có điểm cực đông của Việt Nam, là một tỉnh
thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, nằm ở phần cong vươn ra biển xa nhất về phía đông, Khánh Hoà có phạm vi lãnh thổ từ 11041’53” đến 12052’35” vĩ độ Bắc và từ 108040’ đến 109023’24” kinh độ Đông. Khánh Hoà giáp với tỉnh Phú Yên ở phía
bắc, Ninh Thuận ở phía nam, Đăk lăk và Lâm Đồng ở phía tây. Phía đông của
Khánh Hoà là biển Đông với đường bờ biển dài 200 km (kể cả chu vi các đảo là 385 km). Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 5.197 km2 với dân số 1.110 nghìn người, chiếm
1,58% về diện tích và 1,35% về dân số của cả nước; đứng thứ 24 về diện tích và thứ
32 về dân số trong 64 tỉnh, thành phố nước ta.
Nằm trên trục giao thông quan trọng của cả nước, quốc lộ 1A và đường sắt
chạy từ phía Bắc đến phía Nam tỉnh, nối liền Khánh Hoà với các tỉnh phía Bắc, phía
Nam. Quốc lộ 26 nối Khánh Hoà với Đăk Lăk, quốc lộ 27 và tuyến quốc lộ nối
vùng du lịch núi Đà Lạt. Tỉnh có cảng biển Nha Trang và tương lai có cảng trung
chuyển quốc tế Vân Phong; có sân bay quốc tế Cam Ranh. Phần lãnh hải có hệ
thống đảo, đặc biệt là huyện đảo Trường Sa.
Khánh Hoà nằm giữa hai thành phố lớn là thành phố Hồ CHí Minh và Đà
Nẵng, là các trọng điểm phát triển kinh tế của cả nước, Nha Trang cách thành phố
Hồ Chí Minh 400 km. Điều này vừa là lợi thế trong giao lưu kinh tế, mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm và thu hút vốn đầu tư, song nó cũng là một thách thức lớn
của Khánh Hoà trong điều kiện cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
38
Vị trí địa lý như trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Khánh Hoà phát triển sản
xuất hàng hoá và mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh trong cả nước và
quốc tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung và
ngành thuỷ sản nói riêng.
Địa hình
Địa hình có nhiều dạng khác nhau tạo ra nhiều cảnh quan thiên nhiên phong
phú đa dạng tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho việc xây dựng các công trình
kinh tế phát triển du lịch mà còn có tác động rất lớn tới phát triển ngành thuỷ sản.
Khánh Hoà có bờ biển rất khúc khuỷu tạo ra nhiều vũng, vịnh sâu, ngoài việc
thuận lợi cho xây dựng cảng biển nước sâu còn là nơi rất lý tưởng cho việc sinh sản,
sinh trưởng của nhiều loại thuỷ sinh. Với hơn 200 hòn đảo lớn nhỏ, trong 72 đảo gần bờ có 19 đảo ốc diện tích lớn hơn 0,05 km2 là nơi cư trú của cộng đồng dân cư nghề cá ven biển. Có 10 bán đảo với diện tích 400 km2 rất thuận lợi cho phân bố
dân cư sản xuất thuỷ sản. Dọc bờ biển có những vũng,vịnh, bãi triều rất thuận lợi
cho nuôi trồng thuỷ sản; trong đó phải kể đến 3 vịnh lớn là Cam Ranh, Nha Trang,
Vân Phong rất thuận tiện cho xây dựng cảng biển nước sâu và nuôi trồng thuỷ sản
trên biển. Ngoài ra trên biển Khánh Hoà còn có các đầm nhỏ độ sâu không lớn như
Thuỷ Triều – Cam Ranh, Nha Phu – Ninh Hòa rất thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản. Khánh Hoà có vùng đất ngập mặn với diện tích khoảng 1.660 km2 là nơi phát
sinh chủ yếu nguồn lợi thuỷ sản của tỉnh.
Tóm lại: Với chiều dài đường biển 335 km (bờ biển + chu vi các đảo), diện tích vùng vịnh, đất ngập triều lên tới 1.660 km2 Khánh Hoà là tỉnh thực sự được
thiên nhiên ưu đãi về điều kiện phát triển nguồn lợi thuỷ sản cả trong lĩnh vực khai
thác tự nhiên cũng như nuôi trồng thuỷ sản.
Khí hậu, thuỷ văn
Về khí hậu: Khánh Hoà có đặc điểm là không có mùa lạnh ít khi nhiệt độ xuống dưới 230C, và cũng không quá nóng. Nhiệt độ tuyệt đối cao không vượt quá 400C, trung bình khoảng 250C, đặc biệt nhiệt độ chênh lệch ngày không quá lớn từ 5
39
– 80C rất phù hợp cho nuôi trồng thuỷ sản và ra khơi khai thác thuỷ sản. Thời tiết
được chia làm hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa kéo dài từ tháng 9 – 12 và mùa khô kéo
dài từ tháng 1 – 8, vào mùa mưa thường có gió mùa đông bắc thổi, nhưng cũng ảnh
hưởng ít.
Về thuỷ văn: Chế độ thuỷ triều của Khánh Hoà ảnh hưởng sâu sắc của đại
dương do ở vị trí cực đông của Việt Nam, nước biển có độ mặn cao, độ trong lớn
nên thường có những đàn cá lớn di cư vào sát bờ rất thuận tiện cho lĩnh vực khai
thác. Chế độ thuỷ văn còn chịu ảnh hưởng của dòng nước tầng mặt biển theo mùa,
mùa đông chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, mùa hè theo hướng ngược lại với
tốc độ 50 – 70 cm/s tạo ra dòng nước trồi thu hút nhiều loài cá từ phía Bắc cũng như
phía Nam tới các khu vực khai thác của tỉnh Khánh Hoà. Nước biển có độ mặn cao,
trong xanh tạo điều kiện rất tốt cho nuôi trên biển cũng như sản xuất giống các loài
thuỷ sản đặc biệt là giống tôm sú.
2.1.1.2- Đặc điểm nguồn lợi thuỷ sản
Trữ lượng hải sản thuộc vùng biển Khánh Hòa ước khoảng 150 nghìn tấn,
trong đó chủ yếu là cá nổi (70%). Khả năng cho phép hàng năm khai thác khoảng
70.000 tấn. Ngoài các hải sản như cá, mực và các loại ốc, biển Khánh Hòa còn là
nơi trú ngụ của chim yến, hàng năm cho phép khai thác khoảng 2.000 kg yến sào.
Đây là một đặc sản quý mà không phải tỉnh nào trong cả nước cũng có thể có được,
là nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp chế biến dược liệu bổ dưỡng cao cấp.
Biển Khánh Hòa còn có ý nghĩa với việc sản xuất muối do nước biển có
nồng độ muối tương đối cao, thuận lợi cho việc sản xuất muối tập trung và các sản
phẩm sau muối, nhất là muối công nghiệp.
- Sinh vật nổi gồm:
Theo thống kê có khoảng 150 loài trong đó chủ yếu là lớp chân phụ mái
chèo Coppepoda ( 86 loài ~ 57%). Đặc biệt là loài sứa thuỷ mẫu với đường kính lên
tới 20 – 30 cm cung cấp cho xuất khẩu sứa muối phèn và loài ruốc Accter cho sản
xuất mắm ruốc đặc sản. Trên dưới 30 loài cá ( nhiều nhất là loài cá bống trắng 12%,
sau đó là cá cơm, cá trích, thu ngừ, chuồn, măng…)
40
- Sinh vật đáy: Có trên 2.000 loài động vật đáy cỡ lớn ở vùng biển Khánh
Hoà chủ yếu là thân mềm, giáp xác.
+ Thân mềm chủ yếu là các loài Sò Lông lớn, Vẹm Xanh, Ngao Giá,
Sút, Sò Huyết, Sò Lông nhỏ, Phi, Ốc Nhảy, Móng tay, Mực Ống, Mực Lá, Mực
Vây, Bào Ngư, Bàn Mài, ốc Đụn, ốc Xà Cừ, ốc Kim Khôi…
+ Giáp sát chủ yếu gồm các loài: Tôm Bạc, Tôm Sú, Tôm Gân, Tôm
Đất, Tôm Hùm, Tôm Rằn, Tôm Rảo, Ghẹ Xanh, Ghẹ 3 Chấm, Cua Xanh…
+ Da gai: Hải Sâm Cát, Hải Sâm Đen, Hải Sâm Mít, Hải Sâm Lựu…
- Cá biển: Khu vực biển Khánh Hoà có 600 loài cá trong đó có khoảng 50
loài có giá trị kinh tế.
+ Cá nổi: Chiếm tỷ lệ trọng lượng cao gồm các loài cá lớn như Nhám,
Thu, Ngừ, Bạc Má… cá nhỏ như cá Cơm, Trích, Nục, Chuồn, Chỉ Vàng…
+ Cá đáy: chiếm tỷ trọng không lớn nhưng có giá trị kinh tế cao như
cá Mú, Đổng, Mối, Đỏ Da…
2.1.2- Đặc điểm kinh tế - xã hội
Theo số liệu điều tra ngày 1 tháng 4 năm 2011 dân số tỉnh Khánh Hòa là
1.174.848 người với mật độ dân số toàn tỉnh là 225 người/km², trong đó nam giới
có khoảng 581.299 người (49.47%) và nữ giới khoảng 593.549 người (50.53%); tỷ
lệ tăng dân số của tỉnh bình quân từ năm 1999-2009 là 1,1%; tỷ số giới tính là
97,9%. Theo điều tra biến động dân số năm 2011, Khánh Hòa có 568.459 người
sinh sống ở khu vực đô thị (48.4% dân số toàn tỉnh) và 606.389 người sống ở khu
vực nông thôn (51,6%). Số lượng và tỷ lệ dân thành thị đông khiến Khánh Hòa trở
thành tỉnh đô thị hóa cao nhất trong các tỉnh khu vực miền Trung.[8, tr 9]
Dân số Khánh Hòa hiện nay phân bố không đều. Dân cư tập trung đông nhất
ở thành phố Nha Trang (chiếm 1/3 dân số toàn tỉnh), trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa của tỉnh. Huyện Diên Khánh và thành phố Cam Ranh cũng có mật độ dân
số khá cao (xấp xỉ 400 người/km²) thị xã Ninh Hòa và các huyện còn lại ở đồng
bằng có mật độ dân cư không chênh lệch lớn và gần bằng mức trung bình toàn tỉnh
(khoảng 200 người/km²), các huyện miền núi có mật độ dân số tương đối thấp là
41
Khánh Sơn (62 người/km²) và Khánh Vĩnh (29 người/km²). Nơi có mật độ dân số
thấp nhất tỉnh là huyện đảo Trường Sa (0.39 người/km²). Theo số liệu của Tổng cục
Thống kê Việt Nam năm 2010 thì toàn tỉnh có khoảng 519.600 người sinh sống tại
khu vực thành thị và 648.100 sinh sống ở khu vực nông thôn. Đội ngũ cán bộ khoa
học kỹ thuật toàn tỉnh có 6.082 người có trình độ cao đẳng, 14.444 người đại học,
232 thạc sĩ, 107 tiến sĩ. Ngoài ra với 46,6% dân số trong độ tuổi lao động đã góp
phần đáng để trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của tỉnh. [8, tr 9, 13]
Về độ tuổi năm 2009 toàn tỉnh có 526.061 người dưới 25 tuổi (45% dân số),
450.393 người từ 25 đến 50 tuổi (39% dân số) và 183.150 trên 50 tuổi (16%)
Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh và vững
của Việt Nam. Theo số liệu thống kê cho thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh là
11,55%, giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tăng 15,5%, giá trị nông lâm thủy
sản tăng 2,81%, ngành dịch vụ du lịch tăng 14,5%. GDP bình quân đầu người năm
2011 là 1.710 USD cao hơn mức bình quân chung của Việt Nam. Dịch vụ - du lịch
chiếm 45% cơ cấu kinh tế, công nghiệp - xây dựng là 42%, còn nông - lâm - thủy
sản chiếm 13%. Tính đến năm 2011, thủy sản Khánh Hòa đã thu hút được 86.442
lao động.[23, tr 9,22]
2.1.3- Đặc điểm tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Khánh Hòa
thời gian qua
* Tình hình tăng trưởng GDP
Trong những năm qua, kinh tế tỉnh Khánh Hòa liên tục phát triển với nhịp độ
tăng trưởng tương đối cao và ổn định, đạt được những thành tựu quan trọng, là một
trong những tỉnh có đóng góp cho ngân sách Trung ương, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước đưa Khánh Hòa
trở thành trung tâm kinh tế của khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh cao hơn tốc độ tăng bình quân của cả nước,
cụ thể: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân thời kỳ 1996-2005 là 9,6%/năm (cả nước
42
7,1%-7,2%), trong đó giai đoạn 2001-2005 tăng bình quân 10,8%/năm; giai đoạn
2006-2010 bình quân tăng bình quân khoảng 11%/năm.
* Đặc điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nếu mức tăng GDP bình quân hằng năm của Khánh Hòa giai đoạn 1991-
1995 là 6%; giai đoạn 1996-2000 là 8,2% thì đến giai đoạn 2001-2010 mức tăng
trưởng là 10,8%. Cơ cấu kinh tế của Khánh Hòa đã có sự chuyển dịch theo hướng
hiện đại. Tỷ trọng dịch vụ - du lịch; công nghiệp - xây dựng tăng; nông nghiệp
giảm. Điều này được thể hiện, những năm trước 2000, tỷ trọng của dịch vụ - du lịch
là 39,3%; công nghiệp – xây dựng 37,4% và nông nghiệp là 23,3%. Ðến năm 2009,
tỷ trọng dịch vụ - du lịch chiếm 43,32% trong cơ cấu kinh tế; công nghiệp - xây
dựng chiếm 41,71%; nông nghiệp 14,97%. Năm 2012, cơ cấu kinh tế tiếp tục
chuyển dịch theo hướng công nghiệp - xây dựng 46,3%, dịch vụ 41,6%, nông - lâm
nghiệp và thủy sản 12,1%. [23, tr 12]
Trong quá trình phát triển, tỷ trọng dịch vụ - du lịch trong cơ cấu kinh tế tăng
khá nhanh, với mức tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân hằng năm khoảng 16,3%.
Nhiều ngành dịch vụ, như hoạt động trung chuyển xăng, dầu, đã có đóng góp khá
lớn vào GDP của Khánh Hòa. Năng lực về cơ sở vật chất, dịch vụ của ngành du lịch
đang có bước phát triển mạnh cả về quy mô lẫn chất lượng.
Công nghiệp tăng trưởng bình quân hằng năm ở mức 12,4%, bước đầu đã
hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn như: Ðóng tàu, chế biến, xuất khẩu thủy
sản... Trong cơ cấu cây trồng, vật nuôi, diện tích, số lượng cây, con có giá trị kinh tế
cao đang được nâng lên. Ðiều đáng lưu ý là tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh
tế tuy giảm nhưng chất lượng tăng trưởng liên tục tăng lên nhờ được chú trọng đầu
tư nhiều mặt.
- Quá trình CNH, HÐH nông nghiệp và nông thôn đã có sự tăng tốc; tốc độ
đô thị hóa nông thôn diễn ra nhanh hơn trước thông qua việc thực hiện các chương
trình kinh tế - xã hội lớn của tỉnh như: Giao thông nông thôn; điện nông thôn; kiên
cố hóa kênh mương... Cơ cấu lao động nông thôn, theo đó, cũng đang chuyển biến
43
theo hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động dịch vụ, công
nghiệp, lao động có trình độ kỹ thuật, lao động được đào tạo.
- Vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh luôn tăng trưởng với tốc độ cao
trong thời gian qua, bình quân trên 20%/năm trong giai đoạn 2001-2010, trong đó
tăng với tốc độ cao chủ yếu trong giai đoạn 2006-2010. Trong đó nguồn vốn nhà
nước đã được chủ trương đầu tư theo quy định nên tăng với tốc độ vừa phải theo
tiến độ hàng năm, chủ yếu tăng cao từ nguồn vốn dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà
nước, bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng chững lại và tăng
chậm so với tốc độ tăng bình quân chung.
- Tốc độ đô thị hóa có bước phát triển nhanh, diện mạo đô thị văn minh, hiện
đại ngày càng định hình rõ nét. Đến năm 2009, thành phố Nha Trang đã được công
nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh, thị xã Cam Ranh lên Thành phố và là đô thị loại
III, thị trấn Ninh Hòa lên Thị xã và là đô thị loại IV… Hỗ trợ đầu tư nhiều hơn cho
miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; quản lý chặt chẽ đất đai, rừng, biển, cảnh
quan môi trường.
2.2- Thực trạng cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh
Khánh Hòa qua các giai đoạn
2.2.1- Tổng quan về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Khánh Hòa thời gian qua
* Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Khánh Hòa thời gian qua
Cơ cấu kinh tế của Khánh Hòa đang chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng
dần tỷ trọng của ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ - du lịch và giảm dần tỷ
trọng của nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Điều này được thể hiện:
Năm 1986, tỷ trọng nông nghiệp (nông – lâm - ngư) chiểm 47%; công
nghiệp, xây dựng 23%; dịch vụ 30%.
Năm 2000, tỷ trọng của nông nghiệp là 23,3%; công nghiệp – xây dựng
37,4% và dịch vụ - du lịch là 39,3%.
Ðến năm 2005, tỷ trọng nông nghiệp 17,61%; công nghiệp - xây dựng
41,44%; dịch vụ - du 40, 95%.
44
Năm 2010, chuyển dịch theo cơ cấu dịch vụ - du lịch 44,19%, công nghiệp -
xây dựng 42,23%, nông - lâm - thủy sản 13,58%.
Năm 2012, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp - xây
dựng 46,3%, dịch vụ 41,6%, nông - lâm nghiệp và thủy sản 12,1%.
Hình 2.1- Cơ cấu GDP các ngành kinh tế tỉnh Khánh Hòa các năm 1986,2000, 2005, 2010 và 2012 (%).
2010
Nông nghiệp 13,58%
DV,DL 44,19%
CN,XD 42,23%
2012
Nông nghiệp 12%
DV,DL 42%
CN,XD 46%
Nguồn: Niên giám thống kê (2000), (2012) Cục thống kê Khánh Hòa
45
Như vây, qua phân tích sơ bộ cho thấy cơ cấu kinh tế Khánh Hòa đã bước
đầu phát huy thế mạnh của mình và là một trong những tỉnh có quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế tương đối nhanh và tiến bộ.
* Cơ cấu ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
- Năm 2000, tổng giá trị GDP của tỉnh Khánh Hòa là 6.328 tỷ đồng (theo giá
thực tế); giá trị sản xuất của nông - lâm - thủy sản là 3.122 tỷ đồng, trong đó giá trị sản
xuất của ngành thủy sản là 2.881,545tỷ đồng (92,3% trong nông – lâm – thủy sản).
- Năm 2005, GDP của tỉnh là 13.397 tỷ đồng; nông – lâm – thủy sản là
5.735 tỷ đồng, trong đó thủy sản là 5.389,036 tỷ đồng(đóng góp vào nông – lâm –
ngư là 94%).
- Năm 2010, GDP của Khánh Hòa là 33.749 tỷ đồng; nông – lâm – thủy sản
là 10.066,223 tỷ đồng, trong đó của thủy sản là 6.029,036 tỷ đồng(chiếm tỷ lệ 60%
trong ngành nông – lâm – thủy sản)
- Năm 2012, GDP Khánh Hòa 43.903,440 tỷ đồng; nông – lâm – thủy sản
11.842,323 tỷ đồng, trong đó thủy sản 6.556,350 tỷ đồng (chiếm trong nông – lâm –
thủy sản).
Như vậy, giá trị GDP của tỉnh đã tăng nhanh trong thời gian qua, trong sự gia
tăng này có sự đóng góp không nhỏ giá trị của ngành thủy sản, qua đây cho thấy vị
thế của thủy sản trong nền kinh tế Khánh Hòa thời gian qua.
* Cơ cấu giá trị sản xuất của ngành thủy sản trong cơ cấu nông – lâm –
thủy sản
Trước năm 2007, ngành thủy là một bộ phận trong cơ cấu ngành của GDP,
nhưng từ năm 2007 đến nay, ngành thủy sản sáp nhập với nông – lâm nghiệp, tạo
thành cơ cấu kinh tế nông – lâm – thủy sản, trong cơ cấu kinh tế ngành cùng với
công nghiệp – xây dựng; dịch vụ - du lịch trong của GDP. Vì vậy ta cần xem xét sự
cơ cấu kinh tế nông – lâm – thủy sản để thấy được vị thế của thủy sản trong co cấu
ngành này.
46
Bảng 2.1- Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất ngành nông – lâm – thủy sản giai đoạn 2000-2005
Nông nghiệp Lâm nghiệp Thủy sản
Năm
Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Tổng giá trị ngành nông – lâm – TS (tỷ đồng) Tỷ lệ trong tổng giá trị (%)
2.881,545 185,06 55,4 2000 3.122,00 5,93 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 1,77
2001 90,40 58,7 3.516,10 2.57 1,67
281,00 54,7 2002 3.869,034 7,26 1,44
2003 274,94 51,6 4.363,00 6,3 1,18
2004 290,42 51,6 4.968,00 5,85 1,04
Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 92,3 3.366,989 95,76 3.533,334 91,32 4.036,455 92,52 4.625,982 93,12 5.389,036 2005 290,47 55,5 5.735,00 5,06 1,0 94,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2012, Cục thống kê Khánh Hòa [5, tr 38,68,69]
Tổng giá trị sản xuất của ngành nông – lâm – thủy sản gia tăng hàng năm, sự
gia tăng này chủ yếu là do sự gia tăng giá trị sản xuất của ngành thủy sản, chiếm tỷ
trọng trung bình 92% trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông – lâm – thủy sản;
nông nghiệp và lâm nghiệp giữ được tỷ lệ ổn định trong cơ cấu giá trị qua các năm,
nông nghiệp bình quân là hơn 5% và lâm nghiệp là hơn 1,0%. Sự chuyển dịch về cơ
cấu giá trị sản xuất theo hướng gia tăng của ngành thủy sản, cho thấy thủy sản đang
từng bước phát huy những lợi thế để phát triển và giữ vị trí đặc biệt quan trọng
trong ngành nông – lâm – thủy sản của Khánh Hòa.
2.2.2- Giai đoạn 2000-2005
2.2.2.1- Cơ cấu các phân ngành trong ngành thủy sản
Cơ cấu các phân ngành trong ngành thủy sản bao gồm: nuôi trồng thủy sản,
khai thác thủy sản, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần thủy sản. Sự phân tích số
liệu dưới đây sẽ cho ta thấy vị trí của từng phân ngành trong cơ cấu ngành thủy sản.
47
Bảng 2.2- Cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản Khánh Hòa giai đoạn
2000-2005.
Chế biến TS
Nuôi trồng TS
Khai thác thủy sản Dịch vụ hậu cần TS
Năm
Tổng giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng)
1.421 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 2000 2.881,545 627,109 21,76 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 25,30 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 49,31 104,400 Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 3,62 729,036
1.740 2001 3.366,989 748,409 22,22 22,47 51,68 122,140 3,63 756,440
2.030 83,835 2002 3.533,334 719,496 20,36 19,81 57,45 2,38 700,003
2.291 2003 4.036,455 899,917 22,29 18,17 56,76 109,900 2,78 733,638
2.755 67,725 2004 4.625,982 885,220 19,14 19,63 59,55 1,68 908,037
3.335 57,707 62,90 1,07 2005 5.389,036 883,660 16,40 1.112,669 20,65
Nguồn: Niên giám thống kê 2012, Cục thống kê Khánh Hòa [5, tr 69,70]
Từ bảng 2.2 cho thấy, giá trị sản xuất của ngành thủy sản Khánh Hòa tăng lên
hàng năm. Trong cơ cấu giá trị của ngành thủy sản, thì tỷ trọng của chế biến thủy sản
chiếm hơn 55%, tiếp đó là khai thác thủy sản 23%, nuôi trồng thủy sản, nuôi trồng 21%
và cuối cùng là dịch vụ hậu cần 1,5%. Như vậy, trong cơ cấu giá trị của ngành thủy
sản, thì chế biến đã có sự đóng góp chủ lực, khẳng định thế mạnh của mình trong cơ
cấu ngành thủy sản.
2.2.2.2- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong các phân ngành thủy sản.
* Nuôi trồng thủy sản
Chuyển dịch cơ cấu nghề nuôi trồng thủy sản
Nghề nghiệp nuôi thủy sản Khánh Hòa tập trung ở các nghề: nuôi cá, nuôi
tôm, nuôi tôm giống và từ năm 2000 trở lại đây có nghề trồng rong sụn. Những năm
đầu của giai đoạn 2000-2005, nghề nuôi thủy sản Khánh Hòa đã đứng đầu cả nước
về sản lượng nuôi tôm thương phẩm và nuôi tôm giống. Nhưng về cuối giai đoạn
này nghề nuôi tôm nói chung của Khánh Hòa đã dần đánh mất đi lợi thế và có xu
hướng giảm mạnh.
48
Bảng 2.3- Tốc độ phát triển nghề nuôi thủy sản Khánh Hòa giai đoạn 2000-2005
Đvt 2000 2001 2001 2003 2004 2005 Ngành nghề nuôi thủy sản
129 131 235 227 580 678 1. Nuôi cá tấn Tốc độ phát triển bình quân (%) 141,7
6.928 8.200 6.609 8.072 5.968 5.330 tấn 97,2
2. Nuôi tôm thương phẩm 3. Nuôi tôm giống
- Trại sx giống 89,7 1.308 1.318 1.110 851 638
91,2 3.140 3.480 3.940 3.105 1.709 1.528 - Sản lượng giống Trại 1.289 Triệu con
4. Trồng Rong sụn
350 280 185 185 215 98,26 275 ha - Diện tích
101,12 Tấn 10.156 12.800 11.500 5.360 5.700 7.860 - Sản lượng
Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.
Bảng 2.3 cho thấy. Năm 2000, sản lượng nuôi tôm thương phẩm là 6.928
tấn, đã giảm xuống còn 5.330 tấn vào năm 2005, tốc độ giảm sản lượng bình quân
là 2,8%/năm. Nuôi tôm giống có tốc độ giảm mạnh nhất về số trại giống và sản
lượng giống, tốc độ giảm của trại nuôi tôm giống giai đoạn này bình quân là
10,3%/năm, tốc độ giảm của sản lượng con tôm giống bình quân là 8,8%. Ngược lại
với xu hướng giảm của nghề nuôi tôm, nghề nuôi cá giai đoạn này có xu hướng tăng
với tốc độ tăng cao, tốc độ tăng bình quân hàng năm của nghề nuôi cá là
41,7%/năm. Trồng rong sụn là nghề mới trong nuôi trồng thủy sản, tuy vậy nghề
này cũng không giữ được tốc độ phát triển như thời kỳ đầu, tốc độ giảm bình quân
của diện tích là 1,74%/năm, sản lượng vẫn giữ đuộc tốc độ phát triển bình quân là
1,12%/năm.
Sự sụt giảm về sản lượng tôm nuôi thương phẩm là do chất lượng giống
giống Post không được tốt, nguồn nước nuôi bị ô nhiễm, do mật độ nuôi quá dầy, vệ
sinh đìa nuôi không tốt dẫn đến dịch bệnh làm tôm chết nhiều. Về nuôi tôm giống,
cũng gặp khó khăn về chất lượng giống bố mẹ không tốt, nên gây giống nhưng
49
không sinh sản, mặt khác nguồn tôm giống bố mẹ phụ thuộc rất lớn từ việc đánh bắt
từ tự nhiên, nhưng nay đã đi vào thời kỳ cạn kiệt. Đây chính là những nguyên nhân
gây ra sự sụt giảm về sản lượng của nuôi thủy sản nói chung.
* Khai thác thủy sản
- Chuyển dịch cơ cấu tầu thuyền khai thác thủy sản
Ngành khai thác thủy sản có đặc điểm là gắn với ngư trường khai thác, ngư
trường khai thác lại có: ngư trường ven bờ (đánh bắt gần bờ) và ngư trường xa bờ
(đánh bắt xa bờ). Chính đặc điểm này nó cho thấy được năng lực khai thác thủy sản.
Mà năng lực khai thác thủy sản được thể hiện ở số lượng tầu thuyền và cơ cấu tầu
thuyền khai thác. Nhìn chung, ở giai đoạn 2000-2005 này số lượng tầu thuyền máy
phục vụ khai thác thủy sản tăng đều qua các năm, nếu như năm 2000 tổng số tầu
thuyền đánh bắt là 5.205 chiếc, với tổng công suất là 119.695CV; đến năm 2005 con số
này tăng lên là 5.646 chiếc (tăng 8,45% so với năm 2000), công suất tăng 126.482CV
(tăng 5,7%). Con số đáng chú ý ở giai đoạn này là số thuyền đánh bắt thủ công được
giữ nguyên từ đầu kỳ đến cuối kỳ là 1.500 chiếc, với tổng trọng tải là 4.782 tấn.
Bảng 2.4- Tốc độ phát triển tầu thuyền khai thác thủy sản
giai đoạn 2000-2005
Tầu đánh bắt gần bờ T ầu đánh bắt xa bờ
Năm Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng công suất (CV) Tổng số tầu thuyền máy (chiếc)
Số lượng (chiếc) 4.790
5.205
119.695
Số lượng (chiếc) 415 2000 92,03 7,97
5.325
120.942
4.895 430 91,92 8,08 2001
122.604
4.976 441 91,86 8,14 5.417 2002
5.439
123.161
4.981 458 2003 89,92 10,08
5.476
124.938
4.867 609 89,80 10,20 2004
5.646
126.482
5.021 625 88,93 11,07 2005
Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.
Từ phân tích Bảng 2.4 đã cho thấy, cả số lượng tầu khai thác gần bờ và xa
bờ đều tăng, nhưng tốc độ tăng của số lượng tầu máy khai thác xa bờ tăng nhanh
50
hơn, con số này ở năm 2000 là 7,97%, đến năm 2005 đã lên đến 11,07%. Trong khi
tỷ trọng của tầu máy khai thác gần bờ giảm xuống, năm 2000 là 92,03%, giảm
xuống còn 88,93% năm 2005. Bên cạnh đó, số lượng thuyền khai thác thủ công vẫn
giữ nguyên về số lượng 1.550 chiếc và tổng trọng tải là 4.782 tấn. Điều này đã cho
thấy nguồn lực thủy sản ven bờ đã dần cạn kiệt, chủ trương đầu tư đánh bắt xa bờ
ngày càng được chú trọng.
- Chuyển dịch cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản
Ngành nghề khai thác thủy sản ở tỉnh Khánh Hòa ngày càng đa dạng, những
ngành đòi hỏi phải có sự đầu tư phương tiện đánh bắt hiện đại, công suất lớn và thời
gian đánh bắt xa bờ dài ngày như ngành: Lưới kéo, lưới vây, lưới rê và nghề câu.
Bên cạnh những nghề khai thác mạng tính truyền thống như: nghề lưới mành, lưới
cước, pha xúc, trủ…
Bảng 2.5- Cơ cấu và tỷ trọng nghề nghiệp khai thác thủy sản toàn tỉnh Khánh Hòa tính đến năm 2005
Nhóm công suất
Loại nghề
20 - < 90CV 90 – 250CV 250 – 400CV Trên 400CV Tỷ trọng công suất theo loại nghề (%) Tổng Công suất theo loại nghề (CV)
1. Lưới kéo (giả) 150 250 65 125 590 17,4
2. Lưới vây 35 43 68 52 198 5,8
3. Lưới rê (cản) 1.012 205 125 105 1.447 42,7
85 958 45 68 1.156 34,1
3.391 2155 100 326 582 327
4. Nghề câu Tổng số tầu máy theo nhóm công suất (chiếc) Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.
Từ sự phân tích số liệu Bảng 2.5 cho biết, đến năm 2005, bốn ngành nghề
khai thác chủ lực là: Lưới kéo, lưới vây, lưới rê và nghề câu, trong đó nghề lưới rê
chiếm tỷ trọng 42,7% tổng công suất; tiếp đến là nghê câu với tỷ lệ 34,1%; nghề
lưới kéo tỷ lệ là 17,4% và cuối cùng là nghề lưới vây, tỷ lệ 5,8%. Trong bốn nghề
51
khai thác chủ lực trên, thì nghề lưới rê và nghề câu đã chiểm tỷ trọng 76.8% trong
tổng công suất. Từ bảng số liệu 2.6 còn cho thấy số tầu thuyền có công suất từ
20CV đến 90 CV được sử dụng trong 4 nghề khai thác này vẫn còn lớn 2.155 chiếc,
trong đó nghề lưới rê chiếm 1.012 chiếc (47%). Điều này cho thấy ở giai đoạn này,
năng lực khai thác thủy sản của Khánh Hòa còn yếu.
* Chế biến thủy sản
Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề chế biến thủy sản
Cơ cấu nghề chế biến thủy sản tỉnh Khánh Hòa gồm: Chế biến cho tiêu dùng
nội địa và chế biến xuất khẩu. Cả hai lĩnh vực này trong thời gian qua đều tăng
mạnh, điều này cho thấy cả tiêu dùng nội địa và tiêu dùng xuất khẩu về mặt hàng
thủy sản ngày càng tăng. Trong đó tỷ trọng và tốc độ tăng của chế biến thủy sản nội
địa tăng nhanh hơn chế biến thủy sản xuất khẩu.
Bảng 2.6- Tốc độ phát triển nghề chế biến thủy sản Khánh Hòa giai đoạn 2000-2005
Ngành nghề 2004 2000 2002 2001 2003 2005 Sản lượng
Chế biến XK
Tấn 21.800 22.828 23.700 35.000 45.248 45.700 2.875 3.250 9.180 11.000 8.780 9.320
Tốc độ phát triển bình quân (%) 114,4 Chế biến nội địa Tấn 133,6 Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010.
Chế biến thủy sản tiêu dùng nội địa, gồm các sản phẩm: Đồ khô, nước mắm,
đồ chế biến sẵn…ở năm 2000, sản lượng 2.875 tấn, đén 2005 sản lượng tăng lên
9.320 tấn, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 33,6%/năm. Điều này cho thấy, các
doanh nghiệp chế biến thủy sản đã quan tâm đến thị trường nội địa, khi mà thị
trường xuất khẩu gặp khó khăn.
Chế biến xuất khẩu tiếp tục khẳng định thế mạnh của mình, đã tăng mạnh về
sản lượng xuất khẩu, nếu năm 2000 xuất khẩu đạt 21.800 tấn, đến năm 2005 tăng
lên 45.700 tấn, tốc độ tăng bình quân của cả giai đoạn là 14,4%/năm.
52
2.2.2.3- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong các phân ngành thủy sản
* Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành nuôi trồng thủy sản
Những năm cuối thập kỷ 90 và đầu những năm 2000, Khánh Hòa có thế
manh về nuôi tôm sú, tôm sú đã chở thành đối tượng nuôi chủ lực để đáp ứng nhu
cầu thị trường và đảm bảo nguyên liệu cho chế biến thủy sản. Những năm gần đây,
tính chủ lực của tôm sú đã có xu hướng giảm. Cơ cấu sản phẩm nuôi trồng có sự
chuyển dịch từ nuôi tôm sú sang nuôi hải đặc sản biển (Tôm hùm, tôm thẻ chân
trắng). Sự chuyển dịch một mặt là do nhu cầu của thị trường về sản phẩm hải đặc
sản biển, mặt khác do tôm sú ở giai đoạn dịch bệnh nhiều, đã làm thiệt hại về kinh
tế đối với người nuôi, do đó diện tích và sản lượng của tôm sú đã giảm tương đối,
thế vào đó là sự gia tăng tỷ trọng của hải đặc sản biển.
Bảng 2.7- Tốc độ phát triển một số sản phẩm nuôi trồng thủy sản chủ yếu
giai đoạn 2000-2005
Tôm sú Hải đặc sản biển
Năm
Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn)
Tốc độ tăng, giảm (%) 100 105 122,35 154,91 100,4 1.133 1.190 1.456 2.271 2.279 8.072 7.457 6.017 5.330 4.836 2001 2002 2003 2004 2005
Tốc độ tăng, giảm (%) 100 92,38 80,69 88,58 90,73 Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010
Bảng 2.7, cho thấy tốc độ tăng bình quân của cả giai đoạn của sản phẩm hải
đặc sản là 117,25%/năm. Cùng với thời điểm này, thì sản phẩm tôm sú có sự sụt
giảm mạnh, nếu như năm 2001, sản lượng của tôm sú là 8.072 tấn, thì đến năm
2005 chỉ còn 4.836 tấn, đã giảm 40,10%, giảm bình quân của cả giai đoạn là
9,52%/năm. Sự chuyển dịch này cho thấy, do nhu cầu của thị trường tăng về sản
phẩm hải đặc sản, nên người dân đã chuyển dần từ nuôi tôm sú sang nuôi hải đặc
sản biển có giá trị kinh tế cao, trong khi điều kiện nuôi và kỹ thuật nuôi sản của hải
đặc sản biển cũng tương đồng nhau. Hình thành hướng đi mới bớt phụ thuộc vào
sản phẩm chủ lực của thủy sản Khánh Hòa.
53
- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành khai thác thủy sản
Từ năm 2000 trở lại đây ngành khai thác thủy sản Khánh Hòa đã áp dụng
hình thức tự cân đối tự trang trải theo kinh tế thị trường, khai thác thủy sản đã phát
triển trong đầu tư mua sắm phương tiện đánh bắt mới tạo ra sản lượng khai thác
năm sau cao hơn năm trước và vươn dần ra các ngư trường xa bờ, bên cạnh đó sản
phẩm khai thác cũng đa dạng hơn, có sự chuyển dịch theo hướng đáp ứng nhu cầu
thị trường. Cơ cấu sản phẩm ngành khai thác những năm đầu 2000 là: Cá 72,83%;
mực 15%, thủy sản khác 9,5%; tôm 2,65%.
Bảng 2.8- Tốc độ phát triển một số sản phẩm khai thác thủy sản chủ yếu giai đoạn 2000-2005
Cá Tôm Mực Thủy sản khác Năm
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn)
Sản lượng (tấn) 5.133 Sản lượng (tấn) 2000 54.080 39.388 72,83 1.434 2,65 8.125 15,0 9,5
2001 56.645 42.564 75,14 1.034 1,82 7.927 14,00 5.120 9,03
5.429 2002 60.972 45.471 74,58 985 1,62 9.087 14,9 6,0
2003 60.210 41.142 68,33 2.210 3,67 10.345 17,18 6.513 10,8
9.926 2004 63.106 38.895 61,63 3.700 5,86 11.285 17,9 14,6
2005 65.130 39.771 61,06 4.058 6,23 12.138 18,63 9.163 14,1
Nguồn: Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản KH 2015-2020, Sở NN & PTNT KH, 2010
Bảng 2.8 cho thấy, sản phẩm cá mặc dù vẫn là sản phẩm khai thác chủ yếu
và chiếm tỷ trọng lớn, 72,38% ở năm 2000, nhưng tỷ trọng này đã bị giảm xuống
còn 61,06%, các sản phẩm khác đều tăng tỷ trọng, trong đó: mực tăng từ 15% năm
2000 lên 18,63% ở năm 2005; thủy sản khác tăng từ 9,5% ở năm 2000 lên 14,1%
vào năm 2005; tôm tăng từ 2,65% năm 2000 lên 6,23% năm 2005.
* Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm ngành chế biến thủy sản
Tính đến năm 2005, ở Khánh Hòa có 28 nhà máy chế biến xuất khẩu, trong đó
20 nhà máy đông lạnh với công suất đông là 318 tấn/ngày; có khoảng 10.000 tấn kho
bảo quản. Cơ cấu sản phẩm của ngành chế biến thủy sản năm 2000: sản phẩm thủy
54
sản đông lạnh 71,11%, sản phẩm thủy sản khô 18,87%, sản phẩm thủy sản tươi
sống 10,01%. Đến cuối năm 2005, tỉnh Khánh Hòa có 4 nhà máy được cấp Code
xuất khẩu vào thị trường Châu Âu, 01 nhà máy được công nhận đạt tiêu chuẩn
HACCB của Mỹ, số nhà máy còn lại đều đạt tiêu chuẩn của ngành. Hầu hết các nhà
máy đông lạnh đều được nâng cấp với các trang thiết bị hiện đại như dây chuyền luộc
tôm, rửa và lựa cỡ tôm, thiết bị cấp đông nhanh các loại.
Sản phẩm khô
Năm
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản phẩm đông lạnh Sản lượng (tấn)
Bảng 2.9- Tốc độ phát triển một số sản phẩm chế biến thủy sản chủ yếu giai đoạn 2000-2005 Sản phẩm tươi sống Sản lượng (tấn) 2.092 Sản lượng (tấn) 3.944 18,87 10,01
2.771 4.561 2000 20.896 14.860 71,11 2001 22.828 15.496 68,82 12,13 20,7
2.470 10,42 5.040 21,25 2002 23.711 16.201 68,32
2.750 2003 35.000 27.150 77,57 7,86 5.100 14,57
2.790 2004 45.300 35.067 77.41 6,16 7.443 16,43
2.850 2005 45.800 35.400 78,14 6,29 7.550 16,67
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH, Sở TS KH, từ 2000 đến 2005
Từ số liệu thống kê ở Bảng 2.9, cho thấy rằng cơ cấu sản lượng thủy sản chế
biến của tỉnh Khánh Hòa đã có sự biến động. Trong đó, sản lượng thủy sản đông
lạnh vẫn chiếm tỷ trọng đa số, cụ thể: năm 2000, sản lượng thủy sản đông lạnh là
14.860 tấn, chiếm 71,11% tổng sản lượng thủy sản chế biến, sau đó có sự sụt gảm ở
năm 2001 và 2002, nhưng đến năm 2005, sản phẩm đông lạnh thủy sản đã chiếm
78,14% trong cơ cấu; sản phẩm này đến năm 2005 đã tăng lên là 35.400 tấn, chiếm
77,46%. Kế đến là sản phẩm thủy sản khô, năm 2000 là 3.944 tấn, chiếm 18,87%,
đến năm 2005 con số của sản phẩm này là 7.550 tấn, chiếm tỷ trọng là 16,67%. Xếp
cuối cùng là sản phẩm thủy sản tươi sống, năm 2000 là 2.092 tấn, chiếm 10,01%,
đến năm 2005 con số của sản phẩm này là 2.850 tấn, chiếm 6,29% trong tổng sản
lượng thủy sản chế biến. Nhìn chung, tỷ trọng của sản phẩm đông lạnh thủy sản và
55
sản phẩm khô thủy sản vẫn giữ được vị thế nhất nhì của mình, riêng sản phẩm thủy
sản tươi sống về tỷ lệ đã có sự sụt giảm. Nguyên nhân, do thị trường EU và Mỹ đã
đặt ra tiêu chẩn an toàn vệ sinh và dư lượng thuốc bảo quản ngày càng khắt khe
hơn, trong khi đó các doanh nghiệp chưa đáp ứng kịp thời công nghệ, mặt khác sản
phẩm này đòi hỏi cao về công nghệ, chi phí cũng cao, nên 1 số doanh nghiệp
chuyển hướng sang đối tượng khác.
2.2.2.4- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo phân ngành thủy sản
Xu hướng chung là sự tăng lên liên tục của lực lượng lao động trong ngành
thủy sản ở giai đoạn này, từ 58.500 người năm 2000 tăng lên 67.400 người vào năm
2005. Cơ cấu lao động ngành thủy sản năm 2000: Tổng lao động là 58.000 người,
trong đó, khai thác thủy sản tỷ trọng 43,62% với 25.300 lao động; nuôi trồng thủy
sản chiếm 28,44%, với 16.500 lao động; chế biến thủy sản chiếm 27,93%, với
16.200 lao động.
Đến cuối giai đoạn, cơ cấu lao động ngành thủy sản Khánh Hòa đã có sự thay
đổi. Trong khi lao động trong ngành khai thác thủy sản và chế biến thủy sản có xu
hướng tăng mạnh, thì ở ngành nuôi trồng thủy sản lao động vẫn giữ nguyên. Tổng số
lao động ngành thủy sản vào năm 2005 là 67.400 người, trong đó: Khai thác thủy sản
tăng lên 33.700 lao động, chiếm 50,0%; chế biến thủy sản tăng lên là 17.200 lao
động, chiếm 25,52%; nuôi trồng thủy sản 16.500 lao động, chiếm 24,48%.
Trong cơ cấu lao động của ngành thủy sản qua phân tích ở trên cho thấy, lao
động ngành khai thác thủy sản chiếm đến 50% trong tổng số lao động của ngành.
Nhưng theo báo cáo của Sở NN & PT nông thôn, chất lượng lao động của ngành
khai thác thủy sản còn thấp: Với hoạt động trên biển nên ngư dân ít được học hành,
trình độ văn hóa tới 80% chưa phổ cập chương trình giáo dục cơ sở. Trình độ nghề
nghiệp chủ yếu theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Các thuyền trưởng, máy
trưởng tuy đã được qua các lớp đào tạo nhưng chủ yếu vẫn là các lớp ngắn ngày nên
vẫn chủ yếu hoạt động nhờ vào kinh nghiệm trong quá trình khai thác trên biển.
Khả năng tiếp thu, sử dụng các phương tiện hiện đại cho khai thác hạn chế. Những
56
năm gần đây do ngư trường dần hướng ra biển khơi nên ý thức học tập để đủ kiến
thức tiếp thu các phương tiện phục vụ khai thác đã dần thay đổi, tuy nhiên vẫn chỉ
trong thành phần các máy trưởng, thuyền trưởng còn đa số nhân công lao động vẫn
là sử dụng sức lao động cơ bắp là chính.
2.2.2.5- Chuyển dịch cơ cấu vốn theo thành phần kinh tế
Khánh Hòa từ trước cho đến nay, ngành thủy sản được coi là nghề cá nhân
dân. Từ năm 1978 đến năm 1986 là giai đoạn phát triển kinh tế hợp tác xã nghề cá,
nhưng từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động của hợp tác xã đều kém hiệu
quả và đi đến giải thể. Đến năm 2005 phương thức hoạt động chủ yếu là kinh tế tư
nhân. Điều này được minh chứng ở lĩnh vực khai thác thủy sản.
Bảng 2.10- Cơ cấu nguồn vốn đầu tư và cơ cấu sở hữu phương tiện khai thác tính đến năm 2005 ở tỉnh Khánh Hòa Tổng vốn (tỉ đồng) Tỷ lệ (%) 1- Nguồn vốn
- Nhà nước 69,338 9,35
672,77 90,65
Số lượng (chiếc) Tỷ lệ (%) - Tự có của dân 2- Cơ cấu sở hữu phương tiện khai thác (Tầu máy)
- Toàn tỉnh 5.646 100%
+ Nhà nước 0,52 29
+ Tập thể 3,8 215
+ Tư nhân 95,68
5.402 Nguồn: Báo cáo thống kê về cơ cấu thuyền – nghề của tỉnh Khánh Hòa - Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi KH- 2010
Từ Bảng 2.10 cho thấy, trong cơ cấu đầu tư cho khai thác thủy sản giai đoạn
này, thì vốn tự có của nhân dân chiếm hơn 90%, vốn đầu tư của Nhà nước chỉ
chiếm hơn 9%. Đây cũng là một xu hướng phát triển tất yếu khi đất nước chuyển
mạnh sang cơ chê kinh tế thị trường, không còn cơ chế bao cấp và cũng là dịp để
kinh tế tư nhân trong lĩnh vực kinh tế thủy sản phát triển. Điều này được thể hiện
qua sự phát triển của số lượng tầu đánh bắt thuộc sở hữu của nhân dân, chiếm hơn
99% trong tổng số tầu khai thác.
57
2.2.2.6- Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá ở tỉnh Khánh Hòa
* Hệ thống cảng cá, bến cá và dịch vụ hậu cần nghề cá
Hệ thống các cảng cá, bến cá phục vụ cho khai thác thủy sản
Tính đến năm 2005, toàn tỉnh có 18 cảng cá, bến cá, trong đó: Tp Nha Trang
có 3 cảng cá; thành phố Cam Ranh có 5 cảng cá, bến cá; Huyện Ninh Hòa có 2 bến
cá; Huyện Vạn Ninh có 8 cảng cá và bến cá.
Hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá
Tỉnh Khánh Hòa đã không ngừng đầu tư, xây dựng hoàn thiện hệ thống các
cảng cá, bến cá, khu tránh trú bão, nạo vét luồng lạch trên cơ sở nguồn vốn ngân
sách và các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác. Đã hoàn thiện hệ thống các
cửa hàng bán ngư, lưới cụ trên địa bàn tỉnh và củng cố các cơ sở đóng mới và sửa
chữa tàu thuyền. Cụ thể trong 8 năm (1998-2005) tỉnh đã đầu tư 135 tỷ đồng từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ khai thác thủy
sản. Đã lập và triển khai 9 dự án như: Dự án đóng mới tàu khai thác Xa bờ; Dự án
Chợ thủy sản nam trung bộ; Dự án nâng cấp Cảng cá; Dự án xây dựng CSHT khu
dịch vụ hậu cần nghề cá; Dự án Nạo vét dòng sông Tắc Nha Trang; Dự án nâng cấp
bến cá Cam Ranh; Dự án Khu neo đậu tránh trú bão Đại Lãnh – Đầm Môn – Vạn
Ninh; Dự án xây dựng đường cơ động và bến cập tàu tại xã Cam Bình; Dự án Cảng
cá Đại lãnh – Vạn Ninh.
* Về hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi trồng thủy sản
Cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản ở giai đoạn này ở tỉnh Khánh Hòa đã có
những bước phát triển vượt bậc, hàng loạt dự án như xây dựng cơ sở hạ tầng, quy
hoạch vùng nuôi, vùng sản xuất và kiểm định giống thủy sản đã được triển khai
thực hiện. Trong thực tế với tổng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tính từ
năm 2002 đến năm 2005 lên đến 114,834 tỷ đồng. Tính đến năm 2005, từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước ngành thủy sản tỉnh Khành Hòa đã lập và triển khai được 7
dự án về nuôi trồng thủy sản.
* Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến và thương mại thủy sản
Trong những năm qua tỉnh đã chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục
58
vụ cho chế biến thủy sản trong các khu công nghiệp như: khu công nghiệp Suối Dầu
ở Diên Khánh, khu công nghiệp Bình Tân… đã thu hút nhiều doanh nghiệp chế biến
thủy sản trong tỉnh, ngoài tỉnh và nước ngoài vào đầu tư. Tỉnh đã có chủ trương và
đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ để di dời các cơ sở chế biến thủy sản lớn đang sản
xuất trên nội thị thành phố Nha trang, thị xã Cam Ranh ra các khu công nghiệp có
quy hoạch cho chế biến thủy sản.
2.2.3- Giai đoạn 2006-2011
2.2.3.1- Cơ cấu các phân ngành trong ngành thủy sản
* Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành
Bảng 2.11- Cơ cấu giá trị sản xuất ngành thủy sản Khánh Hòa giai đoạn
2006-2012
Chế biến TS
Nuôi trồng TS
Khai thác thủy sản Dịch vụ hậu cần TS
Năm
Tổng giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng) Giá trị (tỷ đồng)
Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) Tỷ lệ trong tổng giá trị (%)
Tỷ lệ trong tổng giá trị (%) 0,70
2006 6.793,086 1.210,291 17,81 1.385,685 20,40 4.151,680 61,11 45,430 2007 7.037,742 933,203 13,26 1.794,094 25,49 4.266,765 60,62 43,680 0,62 2008 7.783,835 948,611 12,20 2.161,901 27,77 4.624,760 59,41 48,563 0,62 9,32 2.838,671 31,10 5.369,000 58,78 54,683 0,60 2009 9.133,905 851,551 2010 9.899,195 1.161,534 16,78 2.875,653 29,05 5.679,600 57,37 182,408 1,84 2011 11.579,283 1.825,218 15,76 3.020,299 26,08 6.469,733 55,87 264,033 2,28 2012 12.526,778 2.265,588 18,10 3.172,219 25,32 6.810,756 54,37 278,215 2,22
Nguồn: Niên giám thống kê 2012, Cục Thống kê Khánh Hòa [5, tr 69,70]
Về cơ cấu giá trị, ở giai đoạn này chế biến thủy sản vẫn chiếm trên 55%
trong tổng giá trị sản xuất của ngành thủy sản; khai thác đóng góp bình quân 25%;
nuôi trồng 18,5% và dịch vụ 1,5%. Cơ cấu giá trị có sự chuyển dịch như sau: Cơ
cấu giá trị của chế biến có xu hướng giảm, năm 2006 cơ cấu tỷ trọng của chế biến là
61,11%, nhưng tỷ trọng này giảm dần qua các năm, đến năm 2012, tỷ trọng của chế
59
biến chỉ còn 54,37% trong tổng giá trị. Sự sụt giảm về tỷ trọng của chế biến thủy
sản là do giá trị của nuôi trồng, khai thác và dịch vụ nghề cá tăng theo thời gian. Cụ
thể: Nuôi trồng tăng từ 17,81% năm 2006 lên 18,10% ở năm 2012; khai thác tăng từ
20,40% năm 2006 lên 25,32% ở năm 2012; dịch vụ hậu cần nghề cá tăng từ 0,70%
năm 2006 lên 2,22% ở năm 2012.
2.2.3.2- Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong các phân ngành thủy sản.
* Nuôi trồng thủy sản
Bảng 2.12- Cơ cấu nghề nuôi trồng thủy sản của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2006-2011
Chỉ tiêu ĐVT 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Tốc độ PTbq (%)
ha 5.456 5.629 6.077 6.336 5.677 6.182 102,4
1.076 4.100 280 1.150 4.812 220 1.076 4.368 185 1.100 4.792 185 1.100 5.021 215 101,2 103 97,6 1025 4.454 198
ha ha ha lồng 24.900 27.726 29.000 21.460 21.136 28.550 102,63
507 475 474 445 435 430 97,4
tấn 24.700 24.765 25.900 23.500 20.686 23.910 99,02
tấn ấn 400 8.108 600 9.144 700 9.110 680 6.900 499 7.012 540 7.025 107,45 98,32
tấn 11.500 5.360 8.860 8.700 5.650 8.525 104,3
I. Tổng diện tích NTTS 1. Nước ngọt 2. Nước lợ 3.Trồng rong biển 4. Nuôi biển 5. Nuôi tôm giống Trại II. Tổng sản lượng NTTS 1. Nước ngọt 2. Nước lợ t 3. Rong biển (tươi) 4. Nuôi biển 4.692 9.661 7.230 7.220 7.525 7.820 114,8
5. Nuôi tôm giống 2.065 2.109 2.030 2.676 2.298 2.476 103,9 tấn Triệu con
Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện công tác NN & PTNT. Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011
Bảng 2.12 trên đây phản ánh:
- Về diện tích nuôi trồng: Nhìn chung về diện tích nuôi trồng ở giai đoạn này
có sự biến động theo chiều hướng tăng, bình quân tăng hàng năm là 2,4% (chưa kể
nuôi lồng bè). Trong đó diện tích nuôi trồng nước ngọt và nuôi nước lợ tăng, cụ thể:
diện tích nuôi nước ngọt tăng bình quân là 1,2%/năm; nước lợ tăng 3,0%/ năm.
60
Riêng diện tích trồng rong biển có sự giảm mạnh ở hai năm 2009 và 2010,
làm cho diện tích trồng rong biển của cả giai đoạn giảm xuống còn 97,6%.
Tốc độ tăng bình quân của tổng số lượng nuôi lồng bè cả giai đoạn tăng lên
là 102,4%, bình quân tăng 2,4%/năm.
Nuôi tôm giống đã giảm về số trại nuôi, tôc độ giảm bình quân của cả giai
đoạn là 2,6%/năm.
- Về sản lượng nuôi trồng thủy sản: Do sự biến động của diện tích nuôi trồng
đã làm cho sản lượng cũng có sự biến động theo, tốc độ phát triển bình quân của sản
lượng giảm còn 99,0%. Cụ thể của từng đối tượng nuôi trồng:
+ Sản lượng nuôi trồng nước ngọt, trong cả giai đoạn có sự biến động về sản
lượng của từng năm, nhưng vẫn đảm bảo được tốc độ phát triển của cả giai đoạn là
107,45%, tốc độ tăng bình quân 7,45%/năm.
+ Sản lượng nuôi trồng nước lợ biến động theo xu hướng giảm nhẹ, tốc độ
phát triển về sản lượng của cả giai đoạn này còn 98,32%, bình quân đã giảm là
1,68%/ năm. Sự sụt giảm về sản lượng của đối tượng này đã làm ảnh hưởng tới tổng
sản lượng thủy sản nuôi trồng thủy sản của cả giai đoạn này.
+ Sản lượng trồng rong biển cũng có sự biến động qua từng năm. Trong đó
năm 2007 sản lượng là 5.360 tấn, giảm 6.140 tấn so với năm 2006; các năm 2008 và
2009 sản lượng lại tăng lên so với năm 2007 lần lượt là 3.500 tấn và 3.340 tấn. Sang
năm 2010 sản lượng lại giảm xuống so với năm 2009 là 3.050 tấn. Mặc dù có sự
tăng, giảm về sản lượng qua từng năm, nhưng vẫn đảm bảo được xu thế phát triển
chung là theo chiều hướng tăng, cả giai đoạn này tốc độ phát triển chung đạt
104,3%, sản lượng tăng bình quân hàng năm là 4,3%.
+ Sản lượng nuôi biển mặc dù cũng có sự biến động tăng giảm qua các năm,
nhưng đây là đối tượng có tốc độ phát triển cao nhất về sản lượng so với các đối
tượng thủy sản khác, tốc độ phát triển về sản lượng của cả giai đoạn là 114,8%, bình
quân tăng 14,8%/năm.
+ Sản lượng tôm giống vẫn giữ được mức tăng bình quân là 3,9%/năm.
61
* Khai thác thủy sản
- Chuyển dịch cơ cấu tầu thuyền khai thác thủy sản
Tính đến năm 2011 toàn tỉnh Khánh Hòa có tổng số tầu phục vụ cho khai
thác thủy sản là 9.261 chiếc với tổng công suất là 272.125 CV. Năng lực của ngành
khai thác thủy sản ở giai đoạn này đã có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năng lực về công suất được tăng dần từ 23 CV/chiếc năm
2005 lên 30CV/chiếc năm 2011.
Bảng 2.13- Cơ cấu tầu thuyền khai thác thủy sản của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2006-2011
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2009 2010 2011
1.Tổng số tàu thuyền: 5.610 5.816 6.350 8.721 9.077 10.200
Tổng công suất (CV) 126.358 126.775 132.213 219.121 269.208 302.509
2. Cơ cấu tầu máy (Chiếc)
- 20 - < 90CV 2.691 2.684 3.213 6.377 6.343 6.298
- 90 - 250CV 1.588 1.578 1.956 2.019 2.010 2.162
- 250CV - 400CV 786 786 778 934 893 952
- > 400 CV 387 469 403 771 784 815
620 620 560 554 504 727
14.200 14.200 10.900 10.700 9.500 19.700 3. Số lượng tầu đánh bắt xa bờ (chiếc) - Tổng công suất các tàu đánh bắt hải sản xa bờ (nghìn CV)
Nguồn: Báo cáo thống kê về cơ cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh KH - Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi KH- 2011
Bảng 2.13 đã cho thấy trong giai đoạn từ năm 2006 – 2011 số lượng tàu
thuyền khai thác thủy sản và công suất đánh bắt có sự biến thiên tăng giảm không
đều nhau, nhưng về tổng thể là có chiếu hướng tăng. Từ năm 2006 – 2009, số lượng
tàu thuyền tăng mạnh, năm 2006 tổng số lượng tầu là 5.610 chiếc, thì đến năm 2009
tổng số tầu đã tăng lên là 8.721 chiếc, tức tăng lên hơn năm 2006 là 55,5%. Đến
năm 2011 số lượng tầu lại tăng hơn so với năm 2010 là 1.123 chiếc, tức tăng hơn
gần 12,37%, cùng với đó là công suất của năm 2011 cũng tăng hơn năm 2010 là
12,5%. Đặc biệt, ở giai đoạn này, số lượng tầu có công suất từ 250CV đến trên 400
CV đã tăng hơn gấp 2 lần so với giai đoạn trước đó, từ 387 chiếc vào năm 2005 lên
62
đến 815 chiếc vào năm 2011 tức tăng lên 210%. Về đánh bắt xa bờ, số lượng tầu có
sự biến động trong 3 năm từ 2008 đến 2010, nguyên nhân do ảnh hưởng của khủng
hoảng kinh tế thế giới và giá nhiên liệu tăng, nên các chủ tầu gặp khó khăn về vốn
để duy trì cho hoạt động đánh bắt xa bờ. Sang năm 2011, Nhà nước với chương
trình hỗ trợ ngư dân về vốn với lãi suất thấp để mua nhiên liệu duy trì hoạt động
đánh bắt xa bờ, số tầu đánh bắt xa bờ đã tăng lên 727 chiếc, với tổng công suất
19.700CV.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành nghề khai thác:
Cơ cấu nghề nghiệp khai thác thuỷ sản của tỉnh Khánh Hoà đa dạng và luôn
thay đổi theo tình hình biến động của nguồn lợi thuỷ sản. Hầu hết trên các tàu đều
có nghề kiêm như vây rút kiêm vó ánh sáng, lưới cản kiêm vó ánh sáng, lưới kéo
kiêm lưới màng hoặc lưới cản, câu vàng kiêm câu tay.
Bảng 2.14- Cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản của Khánh Hòa Tính đến năm 2012
Nhóm công suất
Loại nghề
20 – <90CV 90 – 250CV 250 – 400CV Trên 400CV Tỷ trọng theo loại nghề (%)
1. Lưới kéo (giả) 2. Lưới vây 330 82 505 101 253 123 132 138 12,04 4,4 Tổng công suất theo loại nghề (CV) 1.220 444
3. Lưới rê (cản) 2.144 467 182 207 29.62 3000
4. Nghề câu 1.315 155 97 160 17,05 1.727
5. Nghề khác 2.427 874 270 168 36,89 3.739
10.130 2.102 6.298 925 805 100
Tổng công suất Nguồn: Báo cáo thống kê về cơ cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh Khánh Hòa - Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi KH- 2012
Theo Bảng 2.14, trong cơ cấu nghề nghiệp khai thác thủy sản chính của tỉnh
Khánh Hòa đến năm 2011 thì nghề Lưới rê (cản) chiếm tỷ trọng cao nhất về công
suất khái thác 29,62% và đây cũng là ngành cố lượng tầu công suất trên 400CV cao
nhất, với 207 chiếc. Tiếp theo đó là nghề câu, chiếm 17,05% công suất khai thác,
với số tầu có công suất trên 400CV là 160 chiếc. Nghề lưới kéo(giả) chiếm 12,04%
63
và có 132 chiếc tầu có công suất trên 400CV. Các nghề khác chiếm 36,89% công
suất. Nhìn chung trong cơ cấu của nghề nghiệp khai thác thủy sản của tỉnh Khánh
Hòa chưa có sự đồng đều, nguyên nhân đó là sự phụ thuộc vào kinh nghiệm khai
thác của các chủ tầu, cũng như ngành nghề truyền thống của địa phương và vốn đầu
tư vào phương tiện khai thác.
* Chế biến thủy sản
Bảng 2.15- Cơ cấu ngành nghề chế biến thủy sản của Khánh Hòa
giai đoạn 2006-2011.
Sản phẩm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Tốc độ PTbq (%)
CB tiêu thụ nội địa
1. Nước mắm 7.110 7.040 8.000 8.080 8.160 8.575 103,8
2.250 2.475 3.100 3.160 3.200 3.557 109,6
(nghìn lít) 2. Sản phẩm Khô và đông lạnh các loại (tấn)
3. Đồ hộp (tấn) 170 190 200 210 230 298 111,8
105 CB xuất khẩu (tấn) 45.300 47.500 52.000 56.000 58.000 61.000
Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện công tác NN & PTNT. Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011
Bảng 2.15, cho thấy trong cơ cấu nghề chế biến, gồm hàng nội địa và hàng
xuất khẩu, sản lượng tăng đều qua các năm , trong đó sản phẩm đồ hộp của ngành
hàng nội địa là tăng cao nhất, tốc độ tăng bình quân 11,8 %/năm bình quân, sau đó
đến sản phẩm khô các loại tăng 9,6%/năm; chế biến xuất khẩu tăng bình quân
5%/năm cuối cùng là sản phẩm nước mắm, tăng 3,8%/năm.
2.2.3.3- Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong các phân ngành
* Nuôi trồng thủy sản
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản nuôi trồng thủy sản giai đoạn này là giữ
vững tỷ trọng sản phẩm nuôi chủ lực là tôm sú, kết hợp với phát triển nuôi các sản
phẩm thủy đặc sản có giá trị kinh tế cao.
64
Bảng 2.16- Tốc độ phát triển một số sản phẩm nuôi trồng thủy sản chủ yếu giai đoạn 2006-2011
Tôm sú Tôm thẻ Tôm hùm
Năm
Lồng Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích (ha)
0 83 390 3.632 3.976 4.125 0 332 1.561 3.477 5.550 5.825 24.700 1.100 24.700 600 28.000 1.142 20.226 863 19.489 983 19.802 1.022 2006 4.100 4.234 2007 3.917 4.276 2008 3.478 4.875 960 1.050 2009 832 925 2010 875 978 2011 Tốc độ tăng,giảm bình quân năm (%) 100 101 114 21,54 88,1 105,7 Tốc độ tăng, giảm bình quân năm (%) 0 332 479,2 222,7 159,6 105 Tốc độ tăng, giảm bình quân năm (%) 100 54,54 190,33 75,57 114,0 104,0
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH. Sở NN & PTTN từ 2006 đến 2011 Bảng 2.16 cho thấy: Cơ cấu sản phẩm nuôi trồng thủy sản giai đoạn này đã
có sự chuyển dịch đáng kể, từ tôm sú sang nuôi tôm thẻ và tôm hùm. Tôm sú từ vị
trí chủ lực, giai đoạn này đã giảm mạnh cả về diện tích và sản lượng, tốc độ giảm
trung bình hàng năm của tôm sú là 11,61%/năm. Tôm thẻ đã tăng mạnh, chỉ mới bắt
đầu nuôi từ năm 2007 với diện tích khiêm tốn là 83ha (sản lượng 332 tấn), nhưng
đến 2011 đã tăng lên 4.125ha, với sự gia tăng nhanh chóng về diện tích nuôi, đã làm
tôc độ tăng trung bình của sản lượng của cả giai đoạn là 216,4%/năm và tôm thẻ
đang trở thành sản phẩm nuôi chủ lực của Khánh Hòa. Đối với tôm hùm, ở giai
đoạn này có sự biến động về sản lượng theo chiều hướng sụt giảm, nguyên nhân: đó
là năm 2007 dịch đốm sữa trắng ở tôm hùm đã gây chết hàng loạt, kết hợp với sự
ảnh hưởng của cơn bão số 11 năm 2009 đổ bộ vào biển Khánh Hòa, làm hư hỏng
nhiều lồng tôm hùm. Mặc dù vậy sản lượng tôm hùm vẫn giữ được tốc độ tăng bình
quân hàng năm là 6,4%/năm.
* Khai thác thủy sản
Ở giai đoạn này sản lượng của tôm, cá, mực và sản phẩm khác tăng đều qua
các năm, do đó cơ cấu sản phẩm phẩm ngành khai thác đã ổn định về tỷ trọng, cụ
thể: Tỷ lệ trung bình sản lượng sản phẩm của cá là 48,13%; của tôm là 8,66%; của
65
mực là 21,58% và của sản phẩm khai thác khác là 21,48%. Bảng 2.17, dưới đây
phản ánh rõ nội dung này.
Bảng 2.17- Tốc độ phát triển một số sản phẩm khai thác thủy sản chủ yếu giai đoạn 2006-2011
Cá Tôm Mực Thủy sản khác Năm
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn) Sản lượng (tấn)
2006 65.000 31.500 48,46 5.500 6,48 14.000 21,53 14.000 23,53
2007 66.872 32.216 48,18 5.793 8,66 14.431 21,58 14.431 21,58
2008 68.000 32.728 48,13 5.902 8,68 14.688 21,60 14.664 21,59
2009 72.301 34.808 48,14 6.275 8,68 15.609 21,60 15.609 21,58
2010 76.571 36.797 48,10 6.830 8,92 16.452 21,50 16.492 21,48
2011 78.700 37.820 48,10 7.020 8,92 16.909 21,50 16.951 21,48 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH. Sở NN & PTTN, 2006 - 2011
* Chế biến thủy sản
Sản phẩm khô
Năm
Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tổng sản lượng (tấn) Sản phẩm đông lạnh Sản lượng (tấn)
Bảng 2.18- Tốc độ phát triển một số sản phẩm chế biến thủy sản chủ yếu giai đoạn 2006-2011 Sản phẩm tươi sống Sản lượng (tấn) 2.790 Sản lượng (tấn) 7.443 16,43 6,16
2.750 7.550 2006 45.300 35.067 77,41 2007 47.500 35.400 77,52 5,8 16,0
2.920 8.065 2008 52.000 41.015 79,0 5,6 15,5
2.795 8.848 2009 56.000 44.357 79,2 5,2 15,8
2.657 8.943 2010 58.000 46.400 80,0 4,6 15,4
61.000 48.800 2.806 9.394 2011 80,0 4,6 15,4
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản KH. Sở NN & PTTN, 2006 - 2011
66
Bảng 2.18 cho thấy: Sản phẩn đông lạnh có sự gia tăng về cả sản lượng và tỷ
trọng trong cơ cấu sản phẩm chế biến thủy sản, cụ thể, năm 2006 sản lượng đạt
35.067 tấn, tỷ lệ trong cơ cấu sản phẩm là 77,41%, đến năm 2011 sản lượng là 48.800
tấn, tỷ trọng tăng lên là 80% (tăng hơn năm 2006 là 2,6%). Sản phẩm tươi sống có tỷ
trọng giảm trong cơ cấu sản phẩm chế biến, cụ thể: năm 2006 tỷ lệ là 6,16% trong cơ
cấu tổng sản phẩm chế biến thủy sản, năm 2011 đã giảm xuống còn 4,6%. Sản phẩm
khô cũng có sự giảm nhẹ về tỷ trọng trong cơ cấu tổng sản phẩm, từ 16,43% năm
2006, giảm xuống 15,4% ở năm 2011.
2.2.3.4- Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư
Trong hoạt động của ngành thủy sản hiện nay ở nước ta nói chung và ở tỉnh
Khánh Hòa nói chung, cơ cấu vốn đảm bảo cho hoạt động thủy sản, vẫn chủ yếu dựa
vào nguồn vốn trong dân; từ nguồn vốn của nhà nươc (chủ yêu được sử dụng để phát
triển cơ sở hạ tầng cho ngành thủy sản và hỗ trợ qua chính sách vay với lãi suất thấp);
vốn vay từ hệ thống ngân hàng thương mai; từ đầu tư trực tiếp của nước ngoài
Bảng 2.19- Cơ cấu nguồn vốn đầu tư vào ngành thủy sản giai đoạn 2006-2011
Nguồn vốn 2006 2007 2008 2009 2010 2011
30.000 37.314 45.000 60.000 30.000 20.000 Tổng số (Tr.đồng) 222.314
15.000 32.000 0 0 20.000 10.000 77.000
234.200 246.000 215.000 220.000 200.000 160.000 1.265
35.000 30.000 30.000 20.500 18.000 15.000 148.500 1. Vốn ngân sách 2. Vốn vay tín dụng nhà nước 3. Nguồn vốn của dân 4. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tổng cộng 295 319.314 275 240 188 135 1.712.814
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm của ngành thủy sản Khánh Hòa. Sở NN &
PTTN Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011
Nguồn vốn đầu tư của nước ngoài 148,5 tỷ bằng 8,66% tổng số vốn đầu tư vào
lĩnh vực kinh tế thủy sản. Nguồn vốn vay nhà nước (77 tỷ ) bằng 4,5%. Nguồn vốn
nội lực của dân (1.485,5 tỷ) chiếm 73,86%. Nguồn vốn đầu tư của nhà nước (222,314
tỷ ) chiếm 13,0%. Từ phân tích sơ bộ này cho thấy, nguồn vốn được huy động cho
67
ngành thủy sản Khánh Hòa vẫn chủ yếu dựa vào nguồn vốn tự có trong dân. Điều này
được thể hiện rõ nhất ở ngành khai thác thủy sản, minh chứng dưới đây.
Cơ cấu vốn đầu tư trong lĩnh vực khai thác thủy sản
Biểu đồ 1- Nguồn vốn đầu tư trong lĩnh vực Khai thác thủy sản của tỉnh Khánh Hòa tính đến 2011 (tỷ đồng)
900
775,75
800
700
600
500
400
306,58
300
200
79,25
100
52,58
0
Vốn ngân sách
Vốn của dân
Vốn vay tín dụng nhà nước
Vốnđầu tư trực tiếp nước ngoài
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Khánh Hòa, 2012
Nhận xét: Từ những số liệu trên đã cho ta thấy trong lĩnh vực Khai thác thủy
sản của tỉnh Khánh Hòa giai đoạn này đã mang tính xã hội hóa cao. Trong cơ cấu
vốn đầu tư cho ngành Khai thác, ta thấy nguồn vốn Nhà nước đầu tư là 52,58 tỷ
đồng, chiếm khoảng 4,33% tổng vốn đầu tư. Theo tài liệu của Sở Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn tỉnh Khánh Hòa cho thấy, vốn ngân sách Nhà nước chủ yếu
được sử dụng vào việc xây dựng, tu bổ cầu cảng bến bãi phục vụ cho khai thác thủy
sản, một phần được sử dụng để hỗ trợ giá mua nhiên liệu phục vụ cho đánh bắt xa
bờ. Nguồn vốn được nhân dân vay từ các tổ chức tín dụng nhà nước 79,25 tỷ đồng,
chiếm khoảng 6,53%, nguồn vốn này hỗ trợ ngư dân trong những lúc gặp khó khăn
về vốn lưu động phục vụ cho các chuyến biển dài ngày. Nguồn vốn của dân là
775,75 Tỷ đồng, chiếm 63,9%, đây là nguồn vốn có vai trò quyết định đến sự phát
triển của ngành khai thác của tỉnh, nguồn vốn này được tích lũy trong dân, nó được
sử dụng để đầu tư đóng mới tầu, mua sắm ngư cụ và vốn lưu động cho các chuyến
biển…Cuối cùng là nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, 306,58 tỷ, chiếm
68
khoảng 25,25%, đây là nguồn vốn của tập đoàn Huyndai Hàn Quốc, thông qua việc
trực tiếp xây dựng nhà máy sửa chữa và đóng mới tầu biển
2.2.3.5- Chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong thủy sản Tình hình chuyển dịch số lượng và cơ cấu lao động của các ngành nuôi trồng
thủy sản, khai thác thủy sản và chế biến thủy sản như sau
Bảng 2.20- Cơ cấu lao động ngành thủy sản của Khánh Hòa giai đoạn 2006-2011
Chỉ tiêu 2006 2007 2008 2011 2010 2009
Khai thác 29.450 31.000 31.000 ĐVT: người Tốc độ PTbq(%) 32.210 34.684 37.215 104,17
Nuôi trồng 16.500 16.500 16.500 16.500 16.225 16.000 99,22
Chế biến
2.036 2.036 2.036 1.934
Cơ khí, đóng tàu 1.789 Dịch vụ hậu cần 6.046 6.364 6.364 6.364 5.857
17.270 18.640 19.600 21.200 22.946 24.827 106,27 2.036 102,23 6.364 101,42 Tổng LĐ 70.866 74.120 75.500 78.310 82.255 86.442 103,38
Nguồn: Niên giám thống kê 2012 – Cục Thống kê Khánh Hòa.
Từ Bảng 2.20, cho thấy, tổng số lao động tham gia trong ngành thủy sản của
tỉnh có tăng lên với mức tăng bình quân hàng năm là 2,65% từ 64.030 người lên
71.084 người chiếm gần 10% dân số toàn tỉnh; trong đó tăng mạnh nhất là số lao
động trong ngành khai thác thủy sản với mức tăng bình quân hàng năm là 4,17% và
đây cũng là ngành có số lao động tham gia nhiều nhất; các ngành nuôi trồng, chế
biến, đóng sửa tàu và dịch vụ hậu cần nghề cá đều gia tăng với mức tăng bình quân
hàng năm là 1,29%.
2.2.3.6- Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác thuỷ sản
* Các bến cá, cảng cá đã được đầu tư xây dựng
Tính đến hết năm 2011, toàn tỉnh Khánh Hòa đã có 25 cảng cá, bến cá được
đầu tư xây dựng phục vụ cho khai thác thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá, cụ thể:
Các cảng cá, bến cá đều được đầu tư kết hợp tránh trú bão, năm 2009 đã đầu
tư xây dựng các khu neo đậu tránh trú bão chuyên biệt.
69
+ Khu neo đậu tránh trú bão cấp vùng (1000T/600CV) Sông Tắc – Nha Trang
+ Khu neo đậu tránh trú bão cấp tỉnh (500T/300CV) Bình Tây – Ninh Hòa
* Các cơ sở đóng, sửa chữa tầu thuyền
Trước đây khi nguồn lợi thuỷ sản ven bờ còn khả năng khai thác, trên địa
bàn tỉnh Khánh Hòa có hàng trăm cơ sở đóng mới và sửa chữa tầu thuyền, đến nay
do nguồn lợi ven bờ cạn kiệt nên chỉ còn lại các cơ sở đóng, sửa chữa tầu thuyền có
năng lực đóng mới và sửa chữa tầu xa bờ. Theo thống kê của Sở NN và PTNT
Khánh Hòa đến năm 2010 còn khoảng 20 cơ sở tập trung tại thị xã Cam Ranh,
thành phố Nha Trang và huyện Vạn Ninh.
* Các cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần khác
Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần khác bao gồm: chợ cá, kho bảo quản, hệ
thống cung cấp dịch vụ, cung cấp lương thực thực phẩm, nhân lực, ngư lưới cụ....
Được đầu tư trên nguyên tắc xã hội hóa: Nhà nước và các thành phần kinh tế cùng
đầu tư. Nhà nước đầu tư xây dựng được các trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tại
các cảng cá, với các hạng mục chủ yếu như cầu tầu, nhà phân loại, hệ thống giao
thông nội bộ, cấp điện, nước, nhà quản lý....Các thành phần kinh tế khác đầu tư xây
dựng theo quy hoạch các hạng mục công trình dịch vụ hậu cần như cấp xăng dầu,
lương thực, thực phẩm, ngư lưới cụ, tại các trung tâm dịch vụ hậu cần đã được Nhà
nước hỗ trợ đầu tư.
* Cơ sở hạ tầng cho chế biến thuỷ sản xuất khẩu
Tính đến năm 2011, Khánh Hòa đã có 60 Doanh nghiệp chế biến xuất khẩu,
trong đó: có 33 nhà máy chế biến đông lạnh, 5 phân xưởng chế biến đồ hộp, 22 cơ
sở chế biến thủy sản khô. Đến năm 2011 đã có 11 nhà máy đông lạnh đạt tiêu chuẩn
được cấp Code xuất khẩu vào thị trường châu Âu. Có 25 nhà máy chế biến đông
lạnh, 16 phân xưởng chế biến thủy sản khô, 4 phân xưởng chế biến đồ hộp được Bộ
Thủy sản chứng nhận đạt tiêu chuẩn ngành. Năng lực chế biến với công xuất sản
xuất trung bình 320 tấn/ ngày và kho trữ lạnh khoảng 6.800 tấn. Tổng công suất
đông lạnh là 390 tấn/ ngày, năng lực chế biến là 70.200 tấn/năm (390 tấn/ngày ×
180 ngày/năm).
70
* Cơ sở hạ tầng phục vụ chế biến nội địa
Trong tỉnh có hàng trăm cơ sở chế biến nước mắm, mắm khô và các mặt
hàng thuỷ sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước chủ yếu tập trung gần các cảng
cá với quy mô nhỏ theo gia đình.
Từ năm 2010 đến nay đã có một số doanh nghiệp đầu tư sản xuất hàng tiêu
dùng nội địa với công nghệ mới, mẫu mã đẹp để phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao của nhân dân (hàng cấp cho siêu thị trong nước), tuy nhiên việc quá chú
trọng đến hàng xuất khẩu đã hạn chế sự phát triển của chế biến hàng tiêu dùng nội địa
dẫn đến hàng hóa thuỷ sản của các nước khác thâm nhập vào thị trường trong nước.
2.3- Đánh giá chung thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
Khánh Hòa thời gian qua và những vấn đề đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành
thời gian tới
2.3.1- Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra
2.3.1.1- Những thành tựu đã đạt được và nguyên nhân
Những thành tựu đã đạt được
Thứ nhất: Cơ cấu kinh tế ngành thủy sản đã và đang tiếp tục chuyển dịch
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy tiềm năng lợi thế của vùng biển
Khánh Hòa. Trong cơ cấu ngành thủy sản, thì nuôi trồng thủy sản vẫn khẳng định
được vị trí chủ lực của ngành trong việc đáp ứng nguồn nguyên liêu ổn định cho chế
biến, cũng như nhu cầu ngày càng cao của thị trường; cơ cấu tàu thuyền và nghề
nghiệp trong lĩnh vự khai thác được điều chỉnh theo hướng vừa khai thác xa bờ kết
hợp với khai thác gần bờ hợp lý để nâng cao hiệu quả và bảo vệ môi trường, nguồn
lợi; trong lĩnh vực chế biến vừa kết hợp chế biến truyền thống với chế biến ra các
sản phẩm cao cấp, có giá trị kinh tế cao, dựa trên công nghệ tiên tiến của thế giới.
Thứ hai: Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành đã tiến tới có sự kết hợp
hài hóa giữa các khâu để đảm bảo phát triển bền vững, đó là: đẩy mạnh phát triển
nuôi thương phẩm với phát triển sản xuất giống; giữa đánh bắt hiệu quả ven bờ với
đẩy mạnh khai thác xa bờ để bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững; trong
chế biến đó là không ngừng đẩy mạnh chế biến xuất khẩu để thu về ngoại tệ với đa
71
dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng đối với thi trường nội địa; sự kết hợp
giữa sản xuất với bảo vệ môi trường cũng ngày càng được chú trọng.
Thứ ba: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản đã từng bước xây dựng
những cơ sở vật chất kỹ thuật rất quan trọng cho ngành thủy sản. Trình độ công
nghệ đang chuyển dần từ công nghệ thủ công mang tính truyền thống sang cơ cấu
công nghệ nhiều tầng, đã ứng dụng có hiệu quả những thành tựu khoa học – công
nghệ mới vào sản xuất kinh doanh ngành thủy sản, nâng cao sức cạnh tranh của
hàng hóa thủy sản.
Thứ tư: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, đã tạo việc
làm cho hơn 80 ngàn lao động cho tỉnh. Trong điều kiện tình hình kinh tế trong
nước gặp nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, ngành thủy sản
Khánh Hòa vẫn đứng vững và phát triển, năm 2012 đã thu về 327 triệu USD của
kim ngạch xuất khẩu, nhiều sản phẩm thủy sản Khánh Hòa đã thâm nhập được vào
những thị trường khó tính như EU, Mỹ. Cả nuôi trồng, khai thác và chế biến đều
gắn sản xuất với yếu tố thị trường và hội nhập quốc tế, qua đó có sự tác động nhất
định đến quá trình sản xuất chung của tỉnh và quá trình phát triển nông nghiệp.
Thứ năm: Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành thủy sản đã dẫn đến sự biến
đổi của cơ cấu sở hữu và cơ cấu thành phần kinh tế, sản xuất, kinh doanh thủy sản
ngày càng mang tính xã hội hóa cao, phát huy được nguồn nội lực trong tỉnh, nhất là
về vốn để qua đó nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất ngành thủy sản.
Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Ngành thủy sản Khánh Hòa đạt được những thành tựu trên là do sự quan tâm
lãnh đạo của Đảng và các cấp chính quyền ở địa phương, sự nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, đã sớm triển khai
tổ chức thực hiện cụ thể hóa một bước đường lối của Đảng, nhanh chóng chuyển hoạt
động của ngành thủy sản sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lãnh đạo và cơ quan quản lý ngành thủy sản Khánh Hòa sớm nhận thức
được vai trò vị trí của nghề cá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đề ra
chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
72
hóa, có bước đi thích hợp với điều kiện và đặc điểm của tỉnh; có chính sách đầu tư
hỗ trợ của Nhà nước trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, hỗ
trợ về vốn, thực hiện tốt về công tác khuyến ngư. Ngành thủy sản đã gắn sản xuất
với thị trường, dựa vào thị trường để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hướng đến mục
tiêu xuất khẩu, coi sức mua của thị trường nội địa và xuất khẩu là thước đo giá trị
của giá trị hàng hóa; là sự biểu hiện thành công trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Ngành thủy sản đã phát huy thế mạnh về biển ở địa phương mình, xác định
thủy sản là một trong 3 thế mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh; khai thác nguồn vốn
dồi dào trong nhân dân, có cơ chế thông thoáng để khai thác tiềm năng thế mạnh
của các thành phần kinh tế, tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển,
nhất là khi có luật Doanh nghiệp ra đời.
2.3.1.2- Những tồn tại và nguyên nhân
Những tồn tại cần khắc phục
Một là, cơ cấu kinh tế ngành thủy sản chuyển dịch còn chưa cân đối và thiếu
bền vững. Nuôi trồng tuy đã có tốc độ phát triển nhanh nhưng chưa tương xứng với
tiềm năng, và còn phụ thuộc nhiều về yếu tố thời tiết, môi trường và giống. Trong
khi đó nguồn tài nguyên ven bờ đã dần đi đến cạn kiệt, mà khả năng khai thác xa bờ
còn yếu, dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến khâu chế biến và ảnh hưởng đến tốc độ
chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa của ngành.
Hai là, Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế ngành diễn ra chậm chạp và thiếu bền
vững. Nuôi trồng chưa chủ động được vấn đề dịch bệnh, vấn đề sản xuất giống nuôi
thương phẩm và giống bố mẹ. Khai thác vẫn chuyển dịch chậm về cơ cấu tầu thuyền
khai thác theo hướng đánh bắt xa bờ và tầu công suất lớn. Cả hai điều này và cùng
với các yếu tố khác tác động làm tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành còn chậm.
Ba là: Chuyển dịch về cơ cấu sản phẩm nuôi trồng diễn ra nhanh, nhưng
thiếu sự chắc chắn, đó là: trong nuôi trồng chuyển dịch từ nuôi tôm sú sang nuôi
tôm thẻ chân trắng, sang hải đặc sản biển. Trong chến biến chuyển từ hàng tươi
sống sang hàng khô và hàng nội địa. Tất cả sự chuyển dịch này đều mang tính tự
73
phát nhất thời khi sản phẩm tôm sú gặp khó khăn.
Bốn là: Chuyển dịch cơ cấu lao động cũng còn chậm giữa các ngành, đó là
trong khi lao động trong khai thác và chế biến tăng đều qua các năm, còn trong nuôi
trồng lại chững lại và có xu hướng sụt giảm ở năm 2011, bên cạnh đó là trình độ lao
động trong ngành thủy sản còn thấp, vẫn chịu ảnh hưởng của cách làm truyền thống.
Năm là: Ngành nuôi giống thương phẩm và giống bố mẹ đã dần đánh mất đi
thế mạnh, không tận dụng được những lợi thế về tài nguyên để phát triển nghề vốn
đã đã một thời là thế mạnh.
Sáu là: Thị trường trong nước thời kỳ đầu chưa được chú trọng, được coi là
giải pháp tình thế khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, do đó để sản phẩm Trung
Quốc, Đài Loan chiếm lĩnh. Với thị trường ngoài nước, sản phẩm chủ yếu xuất sang
Mỹ, Nhật, Châu Âu, nên khi nền kinh tế của các nước này gặp khó khăn, hoặc đua
ra những quy định khắt khe về chất lượng, hàng hóa thủy sản khó khăn cho việc tìn
thị trường thay thế.
Nguyên nhân của những tồn tại
Thứ nhất: Ngành thủy sản Khánh Hòa thiếu một chiến lược tổng thể trong
bố trí, quy hoạch về ngành nghề; trong quy hoạch về diện tích tập trung cho phát
triển thủy sản. Công tác dự báo về thị trường đầu ra cho sản phẩm thủy sản, thị
trường khoa học công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình chuyển
dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa còn yếu. Trong quá trình chuyển
dịch vẫn để tính tự phát không theo quy hoạch tổng thể.
Thứ hai: Thiếu vốn để đảm bảo cho quá trình chuyển dịch theo đúng hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Được coi là nghề cá nhân dân, nên việc nhân dân
vẫn duy trì những phương pháp trong khai thác, chế biến và nuôi trồng kiểu truyền
thống với kỹ thuật lạc hậu, không thân thiện với môi trường; tổ chức sản xuất manh
mún, chụp giật và tự phát còn tồn tại. Tất cả những vướng mắc này đều có cùng
nguyên nhân đó là không có vốn để đầu tư. Điều này làm cho việc chuyển dịch cơ
cấu theo ngành nghề, theo phương tiện khai thác còn chậm.
74
Thứ ba: Sự gắn kết giữa các bộ phận hợp thành ngành, đó là nuôi trồng, khai
thác, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá chưa thực sự chặt chẽ, vẫn còn mang tính
“mạnh ai nấy làm”, vì vậy chưa có sự thống nhất để cùng nhau tháo gỡ những khó
khăn chung của ngành khi gặp phải, ví dụ như, sự cạnh tranh của hàng hóa nước
ngoài, thôn tin thị trường, khó khăn về vốn….
Thứ tư: Trình độ khoa học, công nghệ, trình độ tổ chức quản lý thủy sản còn
chậm được đổi mới, vì vậy làm cho sức cạnh tranh của hàng hóa thủy sản trên thị
trường trong nước và quốc tế chưa cao; thất thoát sau thu hoạch còn lớn, năng suất
lao động và sự giải phóng sức lao động thấp.
Thứ năm: Ngoài các nguyên nhân chủ quan trên, có nguyên nhân khách
quan đó là, ngành thủy sản Khánh Hòa tiến hành chuyển dịch cơ cấu ngành theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ xuất phát điểm thấp, kinh tế kém phát triển,
ngư dân ven biển đa số là nghèo, công cụ lao động thô sơ, tàu thuyền nhỏ bé; tốc độ
dân số tăng nhanh trình độ dân trí thấp nên gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận
và ứng dụng các thành tự khoa học, kỹ thuật, tiếp cận với kinh tế thị trường. Mặt
khác thủy sản là ngành luôn phải chịu sự tác động của tố môi trường tự nhiên, sản
xuất kinh doanh mang tính rủi ro cao. Ngoài ra còn có yếu tố thị trường đầu ra cho
sản phẩm, nhất là khi hướng ra xuất khẩu.
2.3.2- Những vấn đề đặt ra
Thứ nhất, cần tập trung giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu cần phải xây
dựng ngành thủy sản hiện đại, có cơ cấu hợp lý và hiệu quả với sự chưa cân đối
giữa các khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến trong ngành thủy sản hiện nay. Giữa
yêu cầu ngành thủy sản phải nắm bắt nhanh những thành tựu khoa học, kỹ thuật
mới, khả năng ứng dụng rộng rãi vào trong sản xuất kinh doanh thủy sản…với
trinhg độ dân trí còn thấp, thiếu vốn và trình độ quản lý tổ chức chưa đáp ứng kip.
Thứ hai: Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển có kế hoạch, theo qui hoạch
trong tổng thể cơ cấu kinh tế của tỉnh, của vùng, với tình trạng tự phát, lộn xộn,
không có quy hoạch hoặc thiếu quy hoạch đồng bộ; tình trạng ô nhiễm môi trường,
cơ sở hạ tầng nghề cá chưa nâng cấp kịp thời… gây cản trở không nhỏ đến quá trình
75
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa yêu cầu phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy
sản theo hướng công nhiệp hóa, hiện đại hóa là ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên
tiến, hiện đại vào sản xuất kinh doanh, với yêu cầu vẫn phái tiếp tục phát triển với
sự kết hợp với công nghệ truyền thống, sử dụng nhiều lao động, để giải quyết việc
làm và giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội của tỉnh, của vùng.
Thư tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
thủy sản tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi nguồn
vốn lớn. Trong khi đó nguồn vốn đầu tư của tỉnh còn hạn chế, thu nhập của ngư dân
còn thấp.
Thứ năm, mâu thuẫn giữa yêu cầu đa dạng hóa mặt hàng thủy sản, chất
lượng cao, mở rộng thị trường xuất khẩu để thu ngoại tệ, nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hóa thủy sản… với những yếu tố trình độ lực lượng sản xuất còn thấp; cơ
chế, chính sách, môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn, hệ thống dự báo, thu thập
thông tin chưa phát triển, đội ngũ quản lý chưa đáp ứng được so với yêu cầu.
76
Kết luận chương 2
Trong chương 2, luận văn đã tập trung vào phân tích:
Thứ nhất, những đặc điểm của tỉnh Khánh Hòa nhìn từ góc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành thủy sản, bao gồm: đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội. Những
đặc điểm này như là những nhân tố đặc thù tác động, ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành thủy sản của Khánh Hòa.
Thứ hai, luận văn đưa ra tổng quan về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh
Khánh Hòa, vị trí của ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế của tỉnh và trong cơ cấu
ngành nông – lâm – thủy sản.
Thứ ba, luận văn phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy
sản qua hai giai đoạn: Giai đoạn 2000-2005, là giai đoạn đầu của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành thủy sản trong cơ chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa. Giai đoạn 2006-2011, giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, luận văn cũng đã trình bày những đánh giá chung về thành tựu, tồn
tại và nguyên nhân…Đồng thời luận văn cũng đã khái quát những vấn đề đặt ra cần
phải giải quyết trong quá trình chuyển dịch trong thời gian tới
77
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHUYỂN DỊCH
CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH THỦY SẢN THEO HƯỚNG CNH, HĐH
CỦA TỈNH KHÁNH HÒA
3.1- Mục tiêu và những quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
của tỉnh Khánh Hòa
3.1.1- Mục tiêu tổng quát
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản nhằm phát triển ổn định, bền
vững cho hiện tại và tương lai trên cơ sở đẩy mạnh tốc độ phát triển nghề cá nhân
dân theo các định hướng hiệu quả gắn liền với bảo vệ môi trường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa để tạo lập được hệ thống kinh tế sản xuất hàng hóa đủ sức cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
của tỉnh khánh Hòa nhằm bố trí, định vị phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế
trong nội bộ ngành phù hợp với kinh tế thị trường, thị hiếu tiêu dùng trên cơ sở khai
thác tốt các lợi thế về tiềm năng nguồn lợi thủy sản, vị trí địa lý, hệ thống cơ sở hạ
tầng, cơ sở vật chất đã được đầu tư, nguồn lực của các thành phần kinh tế đã và
đang tham gia sản xuất kinh doanh thủy sản và đồng thời tranh thủ các nguồn vốn
đầu tư từ các chương trình phát triển kinh tế thủy sản. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản của tỉnh khánh Hòa nhằm tăng tiềm lực khoa học – công nghệ, gắn
sản xuất thủy sản với nghiên cứu khoa học và đào tạo nguồn nhân lực. Chuyển dịch
cơ cấu ngành thủy sản nhằm kết hợp chặt chẽ với các yếu tố kinh tế, xã hội, an ninh
quốc phòng, phối hợp với các ngành kinh tế khác trong tỉnh cùng phát triển, tạo
công ăn việc làm, nâng cao đời sống và trình độ dân trí, xóa đói giảm nghèo cho
nhân dân vùng ven biển.
3.1.2- Những quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh
Khánh Hòa
Trên cơ sở coi kinh tế thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, trong tiến trình
chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong mối
78
quan hệ biện chứng với các ngành kinh tế khác của tỉnh và những mục tiêu mà
ngành phải đạt được, do đó các quan điểm đó là:
* Quan điểm toàn diện trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn và phát triển kinh tế biển của ở Khánh Hòa.
Khi tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải xác định không vì mục đích tự thân, lợi ích cục
bộ của ngành thủy sản, mà nó còn liên quan đến các ngành kinh tê khác, đến cả hệ
thống kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh theo
định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến
nhiều ngành kinh tế khác như: công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thủy lợi, dịch
vụ, du lịch… như là một tất yếu tự nhiên và ngược lại. Điều đó tạo ra sức mạnh
đồng thuận về hiệu quả kinh tế - xã hội của nhiều ngành trong một chiến lược
chung, khai thác, phát huy và sử dụng mọi tiềm năng kinh tế của các ngành trong
tỉnh Khánh Hòa.
* Quan điểm lấy con người là nhân tố trung tâm của sự phát triển bền
vững ngành Thủy sản
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phải coi trọng việc xây dựng nguồn nhân lực, tạo thêm
việc làm, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho ngư dân.
Con người mà tổng thể là nguồn lực trong sự ngiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ngành thủy sản, đó là: đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật, cán bộ quản lý
ngành, quản lý kinh tế, cán bộ trong quản lý kinh doanh, ngư dân trong hoạt động
trong ngành thủy sản. Chỉ có xác định và phát huy nguồn lực con người, lấy con
người làm vị trí trung tâm thì công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới tiến triển và thắng lợi.
79
* Quan điểm Khoa học – công nghệ là động lực của chuyển dịch cơ cấu kinh
tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Khoa học – công nghệ là khâu đột phá, có khả năng làm thay đổi tiến trình, tính
chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đưa khoa học – công nghệ tiên tiến vào
nghề cá là tạo ra cơ cấu công nghệ nhiều tầng, nhiều trình độ, kết hợp công nghệ
truyền thống với công nghệ tiên tiến là phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta và
với nghề cá Khánh Hòa nói riêng, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy kinh tế
thủy sản phát triển nhanh. Bên canh đó nhanh chóng xây dựng, kiện toàn đội ngũ
cán bộ khoa học kỹ thuật có đủ trình độ, năng lực chuyên môn triển khai, chuyển
giao, hướng dẫn ngư dân ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới vào
sản xuất kinh doanh của ngành.
* Quan điểm hợp lý trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản
Thủy sản là ngành kinh tế kỹ thuật, có sự liên kết đồng bộ giữa các khâu:
Khai thác – nuôi trồng – chế biến trong một quy trình khép kín. Vì vậy, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là sự triển khai đồng bộ giữa các khâu thì mới đem lại hiệu quả. Nếu sự
triển khai có sự mất cân đối, riêng lẻ cho từng khâu mà không thấy được mối liên hệ
tất yếu nội tại giữa ba khâu sẽ làm suy yếu toàn ngành. Điều đó có nghĩa là, muốn
đẩy nhanh tiến trình chyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thì cần giải quyết đồng bộ mối quan hệ giữa vốn – công
nghệ - thị trường trong chu trình khép kín từ khâu sản xuất nguyên liệu đến bảo
quản, chế biến và tiêu thụ. Mỗi khâu là một mắt xích quan trọng, tạo ra sự chuyển
biến mạnh mẽ trong toàn ngành, trong đó công nghiệp chế biến phải là khâu trọng
tâm, phải đi trước một bước, vừa lôi kéo vừa tạo điều kiện cho khái thác, nuôi trồng
phát triển.
Trong tiến trình đẩy mạnh chyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải xác định phát triển kinh tế phải gắn
liền với bảo vệ, tái tạo nguồn lợi và môi trường sinh thái cho sự phát triển bền vững.
80
* Quan điểm phát huy nội lực trong trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành Thủy sản
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Khành Hòa, cần huy động tối đa nguồn lực trong tỉnh về mọi mặt:
nguồn tài chính, sức lao động, tri thức, khoa học – công nghệ, kinh nghiệm… bên
cạnh việc tăng tỷ lệ đầu tư ngân sách Nhà nước cho phát triển nghề cá, tỉnh cần có
những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế trong ngành tự đầu tư; huy
động tín dụng, vốn trong dân, vốn từ các ngành nghề khác, các địa phương khác để
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh việc hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra một
cơ hội lớn cho ngành thủy sản Khánh Hòa nói riêng, để qua đó tiến hành tìm kiếm
đối tác để xúc tiến thương mại, đầu tư, thị trường quốc tế, tiếp nhận khoa học tiên
tiến…Trong quá trình này, vẫn cần phải quan điểm phát huy nội lực, lấy nội lực làm
nhân tố quyết định để, ngoại lực là yếu tố quan trọng cho sự phát triển.
* Quan điểm hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản
Khi xây dựng quy hoạch, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy
sản Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần lựa chọn phương án,
xác định mức độ quy mô đầu tư vốn và công nghệ vào các khâu nuôi trồng, khai
thác, chế biến hợp lý như thế nào, bó trí nguồn lực ra sao…Phải lấy hiệu quả kinh tế
- xã hội, môi trường làm mục tiêu tiến hành. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Thủy sản là để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế nhưng phải kết hợp giải quyết công ăn
việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân
dân; thực hiện công bằng; xây dựng an ninh chính trị vùng biển đảo ổn định; bảo vệ
nguồn lợi và môi trường. Nếu chỉ đặt mục tiêu hiệu quả kinh tế, mà không quan tâm
đến vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường, hoặc ngược lại, thì đều phải trả giá mà hậu
quả là khó có thể lường trước được.
Trên đây là những quan điểm mang tính định hướng trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản Khánh Hòa nói riêng trong thời gian tới. Những quan điểm này giúp
81
đưa ra những định hướng và giải pháp để thực hiện thành công quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản được thành công.
3.2- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản tỉnh Khánh
Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3.2.1- Phương hướng chung phát triển chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
thủy sản
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XVI
(30/9/2010), xác định cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ – du lịch; công
nghiệp – xây dựng; nông, lâm, thủy sản. Trong đó: tỷ trọng dịch vụ – du lịch và công
dịch vụ – du lịch tăng bình quân trên 14%; giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng
tăng bình quân trên 17%; giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tăng trên 4%.
nghiệp – xây dựng cùng chiếm 45,5%; nông lâm thủy sản chiếm 9% GDP. Giá trị
Nghị quyết tỉnh Đảng bộ Khánh Hòa lần thứ XVI và quy hoạch kinh tế xã
hội tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 đều chỉ ra, ngành thủy sản trong những năm tới
vẫn là ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh Khánh Hòa là cơ sở để thúc đẩy tăng
trưởng công nghiệp chế biến và tăng kim ngạch xuất khẩu. Tập trung huy động mọi
nguồn lực trong các thành phần kinh tế cùng với nhà nước đầu tư phát triển nhanh
ngành thủy sản cả trên 4 lĩnh vực: Khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu.
Tiếp cận công nghệ hiện đại trong đó ưu tiên cho khâu nuôi trồng và chế biến nhất
là nuôi trồng trên biển để tăng nguồn nguyên liệu cho sản xuất chế biến hàng xuất
khẩu với giá trị gia tăng cao. Gắn kết chặt chẽ giữa khai thác với an ninh quốc
phòng vùng biển tạo tiền đề để đưa ngành thủy sản Khánh Hòa tới năm 2020 thành
ngành kinh tế mạnh đồng bộ từ khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ và xuất
khẩu, góp phần tích cực vào GDP của tỉnh. Trong 5 đến 10 năm tới thủy sản vẫn
được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và đến năm 2015 thủy sản phải
thực sự vững mạnh đồng bộ trong các lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, khai thác, chế
biến, xuất khẩu.
82
3.2.2- Phương hướng phát triển ngành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế các
phân ngành trong nội bộ ngành thủy sản Khánh Hòa
3.2.2.1- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành khai thác thủy
sản Khánh Hòa
* Chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền
+ Không đóng mới và cấp phép cho những tàu cá hoạt động trong nghề lưới
kéo có công suất dưới 90CV và các tàu cá nghề khác có công suất dưới 20CV.
+ Khuyến khích các thành phần kinh tế đóng mới tàu khai thác có công suất
lớn trên 90CV để vươn ra xa bờ, đại dương.
* Chuyển đổi cơ cấu ngành nghề
+ Khuyến khích phát triển các nghề đánh bắt xa bờ như câu khơi, rê khơi, kéo
khơi, câu mực, câu cá ngừ đại dương. Trang bị nhiều nghề trên một đơn vị thuyền, di
chuyển theo ngư trường theo mùa vụ để tăng thời gian bám biển khai thác.
+ Tạo cơ chế phù hợp để chuyển đổi các nghề cấm khai thác sang các nghề
thuộc lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản hoặc các nghề khác để vừa bảo vệ được nguồn
lợi vừa đảm bảo hiệu quả kinh tế và thu nhập cho ngư dân.
+ Có biện pháp hạn chế rồi tiến đến cấm khai thác đối với các phương tiện
đánh bắt mang tính hủy diệt tận thu như: sử dụng điện, chất độc, thuốc nổ, các nghề
sử dụng lưới có kích thước nhỏ hơn quy định, nghề lưới kéo hoạt động ven bờ.
3.2.2.2- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nuôi trồng thủy
sản Khánh Hòa
* Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản nước lợ và nuôi biển là tận dụng
tối đa tiềm năng, lợi thế về đất đai, vùng nước huy động mọi nguồn lực trong nhân
dân và tranh thủ nguồn vốn từ các chương trình phát triển của Chính phủ về nuôi
trồng thủy sản để nuôi trồng thủy sản nước lợ và nuôi biển để cung cấp nguyên liệu
cho chế biến xuất khẩu. Bên cạnh đó phải gắn sản xuất với thị trường tiêu thụ. Phát
triển nuôi trồng thủy sản nước lợ và nuôi biển gắn liền với quy hoạch tổng thể phát
triển của tỉnh, huyện và các ngành khác tránh chồng chéo gây xung đột về lợi ích.
Cần làm theo các định hướng sau:
83
* Đẩy mạnh phát triển nuôi vùng nước lợ chủ yếu theo hướng giữ ổn định
diện tích, đẩy mạnh thâm canh, sử dụng giống tốt, giống sạch bệnh, thức ăn chất
lượng cao, công nghệ nuôi có sử lý nước, để trên cùng một diện tích tăng sản lượng.
Tận dụng diện tích mặt nước để đa dạng hóa đối tượng nuôi trồng, tập trung trung
vào những đối tượng nuôi có giá trị kinh tế cao và là thế mạnh của tỉnh, như tôm sú,
tôm thẻ chân trắng, tôm hùm; các đối tượng cá, như: cá bớp, cá chẽm…
* Phương hướng quy hoạch nuôi vùng nước ngọt. Tận dụng tối đa diện tích
các hồ, ao nước ngọt để nuôi cá nước ngọt; nuôi các loài thủy sản có thị trường và
giá trị tiêu dùng như tôm càng xanh, cá bống tượng, sặn dằn, thác lát, rô phi đơn
tính, chắm, chép, quả và một số loại đặc sản như ba ba, ếch, cá sấu ... để tạo ra
nguồn thực phẩm cung cấp cho tiêu dùng nội địa.
* Khôi phục lại thế mạnh của sản xuất giống thủy sản. Quy hoạch vùng
chuyên canh nuôi giống thủy sản, một mặt nhằm đảm bảo tính ổn định của sản
lượng giống cung cấp cho nuôi thương phẩm trong tỉnh và đẩy mạnh ra các tỉnh
khác, mặt khác kiểm soát được môi trường và dịch bệnh. Kết hợp với các Trung
tâm nghiên cứu và sản xuất giống trong và ngoài tỉnh để nhận chuyển giao công
nghệ, kỹ thuật về tạo và chăm sóc giống.
3.2.2.3- Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chế biến và
thương mại
* Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong phân ngành chế biến
thủy sản xuất khẩu
Chuyển dịch về nhóm mặt hàng chế biến xuất khẩu
+ Tôm đông lạnh: Chuyển toàn bộ lượng tôm chế biến dạng nguyên liệu
sang chế biến hàng có giá trị gia tăng, hàng cấp siêu thị. Sản phẩm chủ yếu là các
loại tôm rời, hướng tới các thị trường có nhu cầu lớn về số lượng và an toàn vệ sinh
thực phẩm.
+ Các loại cá: Tập trung vào chế biến cá cá filet như thu, ngừ đại dương,
mú, bạc má... Tận dụng tối đa nhóm các loại cá để sản xuất các loại sản phẩm ăn
84
sống như cá shushi, giảm dần xuất khẩu hàng khô theo dạng nguyên liệu mà phải
qua chế biến để tăng giá trị cá tẩm gia vị, tẩm bột, xiên que...
+ Các loại nhuyễn thể: Gồm các mặt hàng chủ yếu mực nang phi lê,
shashimi, sushi, cắt miếng, lột da đóng rời theo từng block nhỏ để bán siêu thị ngoài
ra tận dụng tối đa nguyên liệu để chế biến mực ống cắt khoanh, lột da, bạch tuộc cắt
luộc... xuất sang thị trường Nhật, Hàn quốc, Đài Loan..
+ Các loại nhuyễn thể 2 mảnh vỏ (sò huyết, ốc hương, điệp nghêu và các
loại khác): chế biến dạng đóng hộp, đóng rời hoặc xuất tươi sống sang các thị
trường châu á: Trung Quốc, Nhật..
+ Nhóm hàng xuất khẩu khô: Đây là nhóm hàng chủ yếu xuất khẩu sang
thị trường châu á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước Asean) do đó
ngoài việc cần thực hiện thương mại như hàng chế biến đông lạnh xuất khẩu cần
liên kết với các hiệp hội thương mại để tạo thêm các thị trường mới. Tăng cường
việc tìm hiểu thị hiếu khách hàng để sản xuất các mặt hàng có giá trị tăng cao tránh
việc xuất khẩu nguyên liệu.
+ Nhóm hàng xuất khẩu sống: Thực hiện theo hình thức đặt hàng giữ
sống xuất khẩu sang thị trường có nhu cầu ăn sống (Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng
Kông, Đài Loan ..)
Hệ thống thương mại xuất khẩu thuỷ sản
+ Phát triển mạng lưới thông tin thương mại xuất khẩu đến từng cơ sở
sản xuất, lập các wessitte của từng cơ sở để thực hiện maketing trên toàn cầu, thu
thập thông tin về thị trường thông qua các kênh thông tin qua mạng Internet
+ Phối hợp chặt chẽ và vận động mọi cơ sở sản xuất thuỷ sản đông lạnh
xuất khẩu tham gia hiệp hội chế biến thuỷ sản Việt Nam.
+ Khuyến khích xây dựng mới các cơ sở sản xuất với công nghệ tiên tiến,
cùng với việc đầu tư nâng cao năng lực chế biến, đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã
bao bì đẹp.
+ Yêu cầu tất cả các cơ sở chế biến xuất khẩu đông lạnh phải áp dụng các tiêu
chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm để sản xuất theo yêu cầu của các thị trường Nhật, Mỹ, EU.
85
* Phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chế biến thủy sản nội địa
Chuyển dịch cơ cấu mặt hàng chế biến và nhu cầu nguyên liệu
- Hàng khô các loại: Chuyển sản xuất hàng khô theo dạng nguyên liệu sang
các mặt hàng tinh chế, tẩm ướp gia vị có bao bì, mẫu mã, đa dạng hoá sản phẩm
đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Nước mắm và mắm các loại: Sản xuất đa dạng những loại sản phẩm mẫu
mã bao bì đẹp đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm để phát huy và bảo vệ thương
hiệu mắm Khánh Hoà.
- Đồ hộp: Tuỳ theo khả năng cung cấp nguyên liệu và nhu cầu, khẩu vị của
thị trường nội địa sản xuất các mặt hàng thuỷ sản đóng hộp, kết hợp sản xuất đồ hộp
thuỷ sản với các loại thực phẩm khác.
3.2.2.4- Phương hướng chuyển dịch về cơ sở hạ tầng và dịch vụ thủy sản
Xây dựng cơ sở hạ tầng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá là
khâu then chốt để phát triển kinh tế thuỷ sản bền vững tạo ra những trung tâm nghề
cá giải quyết việc làm, góp phần phát triển kinh tế xã hội các địa phương vùng ven
biển và các vùng nông thôn có điều kiện nuôi thuỷ sản. Do đó phương hướng về cơ
sở hạ tầng và dịch vụ thủy sản giai đoạn 2015 có tính đến 2020 như sau:
* Phục vụ khai thác thủy sản
+ Hoàn thiện hệ thống cảng cá, bến cá, khu tránh trú bão, nạo vét luồng lạch
trên cơ sở nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác.
+ Hoàn thiện hệ thống các cửa hàng bán ngư lưới cụ trên cơ sở phát huy
nguồn vốn của các thành phần kinh tế khác.
+ Củng cố các cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu thuyền. Ưu tiên công nghệ
vật liệu mới thay gỗ.
* Phục vụ nuôi trồng thủy sản
+ Xây dựng hoàn thiện hệ thống thủy lợi, kiên cố kênh mương cấp thoát
nước cho nuôi trồng thủy sản, hệ thống điện, đường giao thông, đê bao, cống thoát
lũ cho các vùng dự án nuôi trồng thủy sản nhất là các vùng chưa được đầu tư hệ
thống cơ sở hạ tầng trên cơ sở nguồn vốn ngân sách.
86
+ Củng cố và mở rộng hệ thống mạng lưới cung cấp thiết bị, thức ăn công
nghiệp, thuốc, hóa chất phục vụ nuôi trồng thủy sản.
+ Đầu tư xây dựng các vùng sản xuất và kiểm định giống thủy sản tập
trung trên nguyên tắc Nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng còn nhân dân đầu tư
xây dựng trại sản xuất. Đa dạng hóa các loại giống thủy sản.
* Phục vụ cho chế biến và thương mại thủy sản
+ Chuyển dần các cơ sở chế biến thủy sản ở nội đô thành phố Nha Trang và
thị xã Cam Ranh ra các khu công nghiệp, chế xuất có quy hoạch cho thủy sản trên
nguyên tắc Nhà nước hỗ trợ vốn di dời.
+ Khuyến kích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến
thức ăn công nghiệp phục vụ nuôi thủy sản.
3.3- Các giải pháp chủ yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo
hướng CNH, HĐH của tỉnh Khánh Hòa
3.3.1- Giải pháp về quy hoạch ngành thủy sản tỉnh Khánh Hòa trong quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Thủy sản
Qua thực tiễn tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh
Khánh Hòa ở thời gian qua, cho thấy: Bên cạnh những mặt tích cực, đã làm được.
Xong vẫn còn bộc lộ những khuynh hướng tự phát, manh mún, phát triển mất cân
đối ở một số lĩnh vực nghề cá, như: Nhân dân đua nhau nuôi trông, khai thác, chế
biến… đã làm cho nguồn lợi ven bờ bị cạn kiệt, tình trạng ô nhiễm môi trường, dịch
bệnh tràn lan… Điêu này không những làm giảm tốc độ phát triển, mà tiềm năng ,
nguồn lợi của tỉnh không được khai thác hiệu quả, lâu dài. Một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng “tự phát” này chính là sự chậm trễ và còn yếu kém trong
công tác quy hoạch.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn về quy hoạch ngành thủy sản tỉnh Khánh
Hòa trong thời gian qua cho thấy còn có nhiều bất cập. Để khắc phục những bất cập
này, ngành thủy sản Khánh Hòa, mà cơ quan chủ quản trực tiếp đó là Sở Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Khánh Hòa cần hoàn thiện các vấn đề sau:
87
- Hoàn thiện việc điều tra, thống kê, quy hoạch, đánh giá lại tiềm năng kinh tế
thủy sản của tỉnh về: Nguồn lợi, điều kiện khai thác, nuôi trồng, chế biến, môi trường
sinh thái… để qua đó thấy được những ưu thế và hạn chế của ngành. Mặt khác, để
khai thác hiệu quả các các tiềm năng này phải thông qua các nguồn lực, trước hết là
nội lực của tỉnh, bao gồm: nguồn nhân lực, khả năng tài chính, trình độ công nghệ,
kinh nghiệm…các công tác này phải được quy hoạch và tính toán chính xác.
- Hoạt động ngành thủy sản luôn gắn với thị trường: thị trường đầu ra và thị
trường đầu vào; thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Do đó việc tiến
hành điều tra, khảo sát, dự báo chính xác và cập nhật thông tin thường xuyên những
biến động của thị trường cũng như xu hướng phát triển nghề cá, là việc làm rất quan
trọng để ngành có những định hướng phát triển trong sản xuất kinh doanh.
- Tiến hành quy hoạch cơ cấu nghề nghiệp, sắp xếp, phân công lại lao động
một cách hợp lý; quy hoạch các phương tiện khai thác, trình độ công nghệ của
phương tiện khai thác; tổ chức sản xuất dựa trên phân tuyến khai thác phù hợp với
đặc điểm, tiềm năng nguồn lợi của từng ngư trường. Thiết lập bản đồ khai thác, xác
định rõ khu vực cấm và hạn chế khai thác để nuôi dưỡng, bảo tồn nguồn lợi, bảo vệ
ngư trường. Kết hợp giữa khai thác với xây dựng các cơ sở dịch vụ hậu cần, tổ chức
bảo vệ an ninh quốc phòng trên biển – đảo.
- Tiến hành quy hoạch nuôi trồng thủy sản, nhằm khai thác triệt để, có hiệu
quả các tiềm năng, lợi thế môi trường sinh thái tự nhiên của vùng đất triều và vùng
nước ven bờ tỉnh Khánh Hòa. Đồng thời, tiến hành phát triển những đối tượng nuôi
trồng ít xâm hại tới môi trường và các đối tượng thủy sản khác.
- Quy hoạch lại mạng lưới các nhà máy chế biến thủy sản gần các vùng cung
cấp nguyên liệu; các cơ sở sửa chữa tầu, thuyền, các cảng cá, bến cá phù hợp cho
sản xuất.
3.3.2- Giải pháp về thị trường
Có thể nói thị trường trong nước và nước ngoài là một trong những yếu tố
có sự tác động lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản Khánh
Hòa. Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa
88
đến năm 2015, tỉnh Khánh Hòa cần thực hiện những phương hướng sau:
- Đẩy mạnh thị trường theo hướng xuất khẩu và khai thác các lợi thế so sánh
về thủy sản ở Khánh Hòa với các địa phương khác để phát triển. Muốn vậy cần
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ thủy sản như tôm, cá, mực cấp đông,
ngọc trai, yến sào, cá cảnh … để mở rộng thị trường ngoài nước. Đẩy mạnh công
tác nghiên cứu điều tra, thăm dò, dự báo thị trường trong nước và ngoài nước, nhất
là các đối tác đã có quan hệ thương mại truyền thống như Nhật Bản, Đài Loan,
Trung Quốc, EU, Mỹ … và những đối tác tiềm năng khác để có chính sách thị
trường thích hợp để thực hiện kế hoạch xuất khẩu của ngành đề ra. Xây dựng chính
sách giá hợp lý, tạo được thế cạnh tranh ở thị trường trong nước và thị trường ngoài
nước để khuyến khích ngư dân và các tổ chức kinh tế phát huy năng lực sản xuất –
kinh doanh của mình.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cần có biện pháp tổ chức tốt công
tác thông tin thị trường. Công tác thông tin thị trường rất quan trọng nhất là những
thông tin về kinh tế và thương mại của các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các
chủ thể kinh tế trong nước cho đối tác nước ngoài và ngược lại. Đẩy mạnh các tổ
chức làm dịch vụ nghiên cứu, thăm dò, dự báo giới thiệu thị trường và bạn hàng
cho các cơ sở sản xuất chế biến xuất khẩu những thông tin cần thiết …
- Các đơn vị sản xuất, các nhà máy chế biến đông lạnh có biện pháp đầu tư
công nghệ hiện đại để đổi mới cơ cấu sản xuất, không ngừng tạo ra những mặt hàng
xuất khẩu mới, hấp dẫn thị trường ngoài nước theo hướng tăng hàm lượng công
nghệ tiên tiến, hàm lượng chất xám trong các hàng hóa xuất khẩu; cố gắng giảm tối
đa xuất khẩu hàng hóa thủy sản thô. Chủ động cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng,
hạ giá thành hàng hóa và bao bì xuất khẩu để nâng sức cạnh tranh ở thị trường nước
ngoài, cũng như thị trường nội địa.
Để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hóa thủy sản Khánh Hòa trên thị
trường thế giới, cần xây dựng và củng cố hiệp hội các nhà xuất khẩu thủy sản trong
tỉnh, tăng cường công tác tiếp thị, mở rộng các hoạt động quảng cáo và giao lưu
thương mại.
89
Đối với thị trường nội địa, tỉnh cần đẩy mạnh nghiên cứu, tổ chức tốt mạng
lưới thương mại hàng hóa thủy sản nội địa, kết hợp với việc xây dựng tiện nghi các
chợ cá. Tỉnh Khánh Hòa cần có chính sách yểm trợ tài chính thích hợp đối với
những cơ sở sản xuất và các hộ gia đình làm nghề chế biến, kinh doanh các sản
phẩm thủy sản phục vụ cho tiêu thụ nội địa, đặc biệt đối với các vùng sâu, vùng xa
như các huyện miền núi trong tỉnh, các tỉnh vùng Tây Nguyên. Cơ quan quản lý
ngành cần có biện pháp quản lý các hoạt động của các chủ vựa, những người buôn
bán nguyên liệu và sản phẩm thủy sản để lưu thông phân phối hàng hóa thủy sản
diễn ra bình thường.
3.3.3- Giải pháp về vốn đầu tư cho ngành Thủy sản
Từ thực tế cho thấy, nguồn vốn được hoạt động trong ngành thủy sản chỉ đáp
ứng được 60 đến 70% so với yêu cầu đầu tư vốn cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do nguồn vốn hạn hẹp nên nhiều ngư
dân không có khả năng đóng tàu thuyền với công suất để khai thác xa bờ, hoặc nuôi
trồng dừng lại ở quy mô nhỏ, phương thức nuôi thủ công; các cơ sở chế biến với kỹ
thuật thô sơ khó có khả năng nâng cao trình độ công nghệ, để sản xuất có hiệu quả.
Đây là rào cản làm giảm tốc độ trên con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ngành
thủy sản ở Khánh Hòa.
Để huy động nguồn vốn cho mục tiêu trên, tỉnh Khánh Hòa cần thực hiện
những giải pháp đồng bộ sau:
- Khuyến khích các thành phần kinh tế trong ngành phát huy cơ chế tự chủ, sử
dụng nguồn vốn tự có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh dựa trên việc ứng dụng
những thành tự khoa học - công nghệ hiện đại; thường xuyên cải tiến tổ chức lại sản
xuất, tăng năng suất lao động để nâng cao khả năng tích lũy, tạo ra nguồn vốn để tái
sản xuất mở rộng. Đây là giải pháp dùng vốn tự có để đầu tư vào khoa học - công
nghệ và ngược lại thông qua khoa học – công nghệ để tạo ra nguồn vốn lớn hơn.
- Thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp có hiệu quả để kích thích sản xuất
phát triển; xây dựng các hợp tác xã kiểu mới, các hình thức hợp tác, nhóm bạn
nghề, các chi hội nghề cá … nhằm đánh thức những nguồn vốn nằm im thành vốn
90
hoạt động, biến vốn thuộc sỡ hữu tư nhân thành vốn xã hội, vốn của ít người thành
vốn của nhiều người; đưa các doanh nghiệp thủy sản có đủ điều kiện tham gia vào
thị trường chứng khóa để thu hút vốn đầu tư thông qua việc phát hành cổ phiếu.
- Xây dựng cơ chế tự tạo vốn trong cộng đồng ngư dân bằng nhiều hình thức
như “quỹ tín dụng nông thôn”, “quỹ tín dụng nghề cá” … huy động nguồn vốn nhàn
rỗi trong nhân dân hỗ trợ cho sản xuất phát triển. Thực hiện phương thức “Nhà nước và
nhân dân cùng làm” để Nhà nước cùng nhân dân đầu tư sản xuất xây dựng mới các
tuyến giao thông, bến cảng, chợ cá để đáp ứng nhu cầu vận chuyển, lưu thông nguồn
hàng được thuận tiện.(Bài học rút ra từ Quảng Ngãi)
- Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa chính sách cho nhân dân vay vốn với lãi
suất thấp, thời hạn lâu dài để ngư dân có điều kiện đóng mới tàu thuyền công suất
lớn, mua sắm các thiết bị, ngư cụ hiện d dại để khai thác, nuôi trồng, chế biến ngày
càng có hiệu quả.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng hình thức đầu tư trực tiếp 100%, vốn
đầu tư phát triển ODA, hoặc liên doanh liên kết với nước ngoài trong các lĩnh vực
như: xây dựng các tuyến giao thông đến các trung tâm nghề cá, xây dựng các cảng
cá, các nhà máy chế biến hiện đại … liên doanh trong các lĩnh vực nuôi ngọc trai,
nuôi tôm, nuôi cá cảnh xuất khẩu v.v…
Để có thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thủy sản, tỉnh Khánh Hòa cần
phải thực hiện:
+ Xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng với các thủ tục hành
chính đơn giản, thời gian cấp giấy phép nhanh chóng, có nhiều ưu đãi như giá thuê
đất, mặt nước thấp, thời gian thuê đất, mặt nước dài hạn v.v … Các dự án về thủy
sản được quy hoạch, có kết cấu hạ tầng tốt, ở khu vực giao thông thuận lợi … để
thu hút các nhà đầu tư.
+ Tỉnh cần có biện pháp tăng cường hợp tác với các quốc gia có nghề cá phát
triển trong khu vực và trên thế giới để giao lưu và học hỏi kinh nghiệm, trao đổi
khoa học – công nghệ mới, tiếp nhận viện trợ vốn và các thiết bị thủy sản tiên tiến.
Tổ chức các hội chợ quốc tế để quảng bá tiềm năng về biển, sản phẩm và ẩm thực
91
thủy sản của Khánh Hòa với bạn bè quốc tế, và tìm kiếm khách hàng và thị trường
thế giới.
3.3.4- Giải pháp về khoa học – công nghệ
- Tiến hành xây dựng chiến lược đến năm 2020 và thiết lập lộ trình, bước đi
để có cơ sở đẩy mạnh việc nghiên cứu chuyển giao, áp dụng tiến bộ khoa học –
công nghệ vào sản xuất kinh doanh của ngành. Trong quá trình xây dựng chiến lược
cần xác định lựa chọn công nghệ phù hợp vào nuôi trồng khai thác, chế biến của
từng giai đoạn phát triển và đứng đầu, tiếp nhận những công nghệ cao để thu hẹp
khoảng cách với nghề cá các nước trong khu vực. Trong những năm trước mắt, dựa
vào khoa học – công nghệ tập trung giải quyết những bức xúc hiện tại của ngành
như: đưa ra giải đáp một cách chính xác về tiềm năng nguồn lợi của các ngư trường
biển Khánh Hòa, những công nghệ thích hợp cho khai thác xa bờ; xác định ngân
hàng giống cho nuôi nước lợ và nuôi biển, xác định công nghệ chế biến tiên tiến để
tạo ra nhóm sản phẩm xuất khẩu mang tính đặc trưng của Tỉnh.
- Hướng dẫn, khuyến khích các thành phẩn kinh tế ứng dụng những tiến bộ
khoa học – công nghệ vào sản xuất kinh doanh với nhiều hình thức, biện pháp như:
+ Nâng cao trình độ học vấn cho ngư dân, giúp ngư dân có điều kiện tiếp
nhận và ứng dụng những khoa học – công nghệ mới vào hoạt động sản xuất kinh
doanh của họ.
+ Phát huy vai trò tổ chức khuyên ngư, triển khai hệ thống khuyến ngư đến
tận xã, phường, làng cá. Thường xuyên mở các lớp tập huấn, hội thảo hướng dẫn
ngư dân những thành tựu công nghệ mới vào sản xuất.
+ Hình thành các trung tâm dịch vụ về khoa học – công nghệ thủy sản, thông
qua diễn đàn ở các câu lạc bộ để thông tin, tư vấn cho ngư dân, các chủ thể kinh tế
lựa chọn thiết bị công nghệ, đối tượng nuôi thích hợp với điều kiện đất đai, mặt
nước, môi trường ở địa phương để đạt được hiệu quả đồng thời giúp đỡ họ trong
quá trình triển khai ứng dụng công nghệ mới.
- Đẩy mạnh mô hình hợp tác “bốn nhà”: Nhà nước - nhà nông – nhà doanh
nghiệp – nhà khoa học. Sở thủy sản là cầu nối giữa ngư dân và các nhà khoa học ở
92
Viện Hải dương học. Trung tâm Nuôi trồng Thủy sản 3, Trường Đại Nha Trang, để
giúp ngư dân tiếp nhận những thành tựu khoa học – công nghệ mới, đồng thời các
nhà khoa học có nhiệu vụ giải đáp những vấn đề kỹ thuật trong thực tiễn mà ngư
dân yêu cầu.
- Khuyến khích các doanh nghiệp nhập thiết bị công nghệ hiện đại, các loại
giống có năng suất, sạch bệnh của nước ngoài. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thường
xuyên trao đổi thông tin, hội thảo khoa học để tiếp cận những thành tựu khoa học –
công nghệ mới trong nghề cá, tìm kiếm sự giúp đỡ, viện trợ về kỹ thuật của nước
ngoài rồi đẩy nhanh ứng dụng vào thực tiễn.
- Hợp lý hóa khai thác thủy sản, bao gồm phát triển có hiệu quả khai thác
thủy sản xa bờ và điều chỉnh hợp lý nghề cá ven bờ; vừa khai thác, vừa bảo vệ, phát
triển và tái tạo nguồn lợi, đảm bảo phát triển cá ổn định, bền vững. Tăng cường mở
rộng hợp tác với nước ngoài để thu nhập công nghệ mối, hiện đại; thúc đẩy khai
thác thủy sản xa bờ và tiến tới phát triển nghề cá viễn dương. Xây dựng đồng bộ
ngành công nghiệp khai thác thủy sản (đội tàu, bến, cảng cá, cơ khí đóng, sửa tàu
thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu cần an toàn trên biển…) trong mối quan hệ hệ thống
nhất với các ngành nghề khác.
- Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản theo hướng phát triển chiến lược; tạo ra
bước ngoặt lớn trong lĩnh vực nuôi trồng, đặc biệt là nuôi biển. Tỉnh Khánh Hòa
cần tập trung lực lượng các nhà khoa học của địa phương kết hợp với trường Đại
học Nha Trang, các viện khoa học trên địa bàn nghiên cứu những kỹ thuật công
nghệ mới và lựa chọn du nhập những công nghệ tiên tiến về nuôi trồng trên thế giới
để thúc đẩy ngành nuôi trồng ngày càng phát triển.
+ Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chiến lược sản phẩm và định
hướng thị trường, gia tăng giá trị thương mại. Khai thác và sử dụng tối ưu nguồn
nguyên liệu, kể cả nguyên liệu nhập khẩu. Khánh Hòa cần qui hoạch lại và nâng cấp
hệ thống các nhà máy chế biến thủy sản ở thành phố Nha Trang, thị xã Cam Ranh,
huyện Vạn Ninh với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của thế giới. Đầu tư nghiên cứu
tiếp thị và phát triển nhiều mặt hàng mới để đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và
93
xuất khẩu. Tăng cường và hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng và vệ sinh an
toàn thực phẩm với các thiết bị kỹ thuật hiện đại để ngày càng nâng cao giá trị hàng
hóa thủy sản.
+ Phát triển lĩnh vực cơ khí – hậu cần – dịch vụ nghề cá theo hướng vừa đầu
tư củng cố nâng cấp, kết hợp chặt chẽ với việc chuyển đổi quản lí các cơ sở hiện có,
vừa xây dựng các cơ sở mới hiện đại, đảm bảo năng lực phục vụ có hiệu quả cho
đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, thương mại thủy sản … Cần củng cố hệ thống cung
ứng và dịch vụ động cơ thủy, gắn với bảo hành sửa chữa và tiến tới hình thành
ngành công nghệ đóng tàu cá có công suất lớn phục vụ cho công tác khai thác xa bờ
và địa dương (tàu vỏ gỗ, vỏ sắt, compozit …) Xây dựng ngành công nghiệp dệt lưới
kết hợp với sản xuất các thiết bị cứu hộ, cứu sinh, bảo hộ lao động nghề cá để đáp
ứng nhu cầu hoạt động khai thác của ngư dân.
3.3.5- Giải pháp về nguồn nhân lực
Trong việc phát triển nguồn nhân lực của ngành thủy sản Khánh Hòa, cần coi
trọng nguồn nhân lực có trình độ khoa học – kỹ thuật, quản lý kinh doanh … Trong
đào tạo bồi dưỡng cần kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp với đào tạo bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nhằm hình thành một đội ngũ cán
bộ cần cù, sáng tạo, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phong cách lao động công
nghiệp. Để phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy
sản, Khánh Hòa cần giải quyết tốt những vấn đề cơ bản sau:
- Nâng cao trình độ văn hóa cho mọi đối tượng ngư dân, kiên quyết xóa mù
đối với những ngư dân chưa biết chữ. Phấn đấu phổ cập cấp một tự đối với toàn ngư
dân trong tỉnh. Động viên, tạo mọi điều kiện để ngư dân cho con em họ ở độ tuổi đi
học đến trường, vì đây là nguồn nhân lực dồi dào thay thế cho lớp người lớn tuổi
trong ngành.
- Tỉnh và ngành thủy sản Khánh Hòa cần có chính sách khuyến khích để phát
triển việc đào tạo mới đội ngũ công nhân có chất lượng: đặc biệt là công nhân lành
nghề, công nhân bậc cao trong các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản
theo yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đào tạo lại, bổ túc nâng
94
cao trình độ văn hóa, nghiệp vụ chuyên môn ngành nghề cho đội ngũ công nhân hiện
có; đào tạo bồi dưỡng chuyên môn cho ngư dân hoạt động trong lĩnh vực nghề cá.
- Bằng nhiều hình thức khác nhau tạo ra một đội ngũ cán bộ có trình độ trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học trong các lĩnh vực của ngành
hoạt động ở các cấp tỉnh, huyện, trạm, trại, trung tâm v.vv…
- Là một tỉnh có thế mạnh về thủy sản, số lượng hoạt động trong ngành thủy
sản chiếm gần 7% dân số trong tỉnh, vì vậy tỉnh và ngành thủy sản nên thành lập
Trường Trung học Thủy sản hoặc Trường đào tạo công nhân để có nguồn nhân lực
phục vụ lâu dài cho ngành: Có biện pháp tổ chức tốt trung tâm khuyến ngư, thành
lập các hiệp hội nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản, khai thác thủy sản nhằm
giúp họ tiếp nhận và ứng dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới để hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
3.3.6- Giải pháp về tổ chức, quản lý và chính sách đối với ngành thủy sản
* Về tổ chức, quản lý thủy sản trên địa bản tỉnh
Kiện toàn bộ máy hệ thống quản lý, chỉ đạo khối ngành thủy sản trên địa bàn
tỉnh, tăng cường cải tiến hệ thống quản lý theo hướng hiện đại, tinh giản. Khắc phục
tình trạng chồng chéo, vừa phân tán, cục bộ, tạo nhiều sơ hở gây nên những tiêu cực,
thất thoát tài nguyên do buông lỏng quản lý trong ngành thủy sản thời gian qua.
Tăng cường chức năng dự báo, định hướng quy hoạch của các cơ quan
chuyên môn quản lý tổng hợp. Sớm hình thành các định chế về tài chính, tín dụng
phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển ngành thủy sản. Tăng
cường vai trò quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên môn đối với các chủ thể
hoạt động trong ngành thủy sản, như: vốn; qui mô sản xuất chế biến, nuôi trồng,
khai thác; thị trường… cũng như việc chấp hành kỷ cương, pháp luật về bảo vệ môi
trường, chế độ tài chính, tuân thủ quy hoạch…
Đề cao vai trò của các tổ chức Đảng trong ngành thủy sản nói riêng. Cần khẳng
định, tổ chức Đảng là hạt nhân lãnh đạo toàn diện, là nhân tố để định hướng XHCN
cho các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực thủy sản.
95
* V ề cơ chế, chính sách
- Chính sách về tín dụng: Chính sách tín dụng đó là: vốn vay ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn. Đây là nguồn vốn đầu tư chủ đạo cho hộ dân trong quá trình sản
xuất. Nguồn vốn tín dụng đầu tư tập trung vào duy trì và phát triển sản xuất chế
biến, nuôi trồng thủy sản và khai thác, bên cạnh đó là xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật hoặc sửa chữa cải tạo lại cơ sở vật chất kỹ thuật; đầu tư thâm canh tăng năng
suất, mở rộng quy mô diện tích sản xuất.
Tổ chức tín dụng nông thôn chính hiện nay gồm có hệ thống ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn của các tỉnh, quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng phục
vụ người nghèo hoạt động dựa trên nguồn vốn tài trợ nước ngoài thực hiện mục tiêu
xoá đói giảm nghèo với lãi suất ưu đãi.
Để tạo điều kiện đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.
Chính sách cần được thực hiện:
Chuyển đổi phương thức đầu tư tín dụng nông nghiệp nông thôn từ cho vay
riêng lẻ sang hướng đầu tư tập trung cho các chương trình, dự án chuyển dịch cơ
cấu kinh tế; đặc biệt chú ý đến dự án có sản phẩm xuất khẩu. Mở rộng cho vay tới
các ngành nghề, các vùng chuyên canh.
Mở rộng chi nhánh ngân hàng nông nghiệp đến tận các xã, ngay cả vùng sâu,
vùng xa. Cán bộ ở các chi nhánh có trình độ để tìm hiểu nhu cầu vốn của các đối
tượng vay vốn và tận tình giúp đỡ họ xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh
khả thi khi vay vốn.
Tăng cường tín dụng trung, dài hạn, cho các phương án ứng dụng các công
nghệ mới, phát triển công nghiệp chế biến sử dụng lao động tại chỗ, phát triển nuôi
thâm canh tăng năng suất; đánh bắt xa bờ.
3.3.7- Một số kiến nghị
Để những phương hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy
sản của tỉnh Khánh Hòa trở thành hiện thực, thì cần thiết phải thực hiện một cách
động đồng bộ các chính sách kinh tế. Vì vậy, những kiến nghị này chỉ đề cập đến
một số chính sách, theo tác giả là quan trọng và cấp thiết.
96
3.3.7.1- Kiến nghị đối về vai trò quản lý của Nhà nước trong việc thực hiện
các chức năng nhằm thúc đẩy ngành thủy sản phát triển
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản cả nước nói
chung, của Khánh Hòa nói riêng, tác giả thấy Nhà nước nên thực hiện vai trò quản
lý Nhà nước ở những chức năng sau:
Chức năng định hướng
Nhà nước cần đưa ra các chính sách vĩ mô để định hướng, vừa là công cụ
đòn bẩy thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là chức năng quan trọng của Nhà nước, vì vậy đòi hỏi
các cấp chính quyền, cán bộ công chức trong ngành thủy sản lấy đó làm tư tưởng
chủ đạo để tiến hành thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thành công.
Chức năng tổ chức
Quá trình tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản theo hướng
công nghiệp hóa, là làm thay đổi cơ bản cơ cấu tổ chức sản xuất của ngành sang
một trình độ tổ chức quản lí cao hơn. Nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện nền kinh tế mở và đẩy mạnh hội nhập, do đó tất yếu phải điều
chỉnh lại cơ cấu kinh tế, các hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn bộ nền kinh
tế. Quá trình này đòi hỏi phải có vai trò của Nhà nước trong việc đỏi mới bộ máy tổ
chức quản lý, sắp xếp lại cơ cấu sản xuất nhằm đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả
phù hợp với cơ chế thị trường; khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, quan liêu, và
cũng qua đó thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chức năng tạo môi trường
Để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản nằm trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói chung khi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Nhà nước cần tạo ra môi trường thông thoáng, đó là: Giữ vững sự
ổn định chính trị - xã hội ở khu vực nông thôn miền biển; môi trường thể chế - pháp
luật; phát triển đồng bộ thị trường và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, cuối
cùng là kết cấu hạ tầng kỹ thuật nghề cá. Bằng những chính sách, cơ chế, nhà nước
97
khuyến khích xây dựng các thị trường vốn, lao động, khoa học – công nghệ, dịch vụ
và thông tin…. Qua đó tạo ra một môi trường thuận lợi để tiến hành chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành thủy sản nói riêng theo hưỡng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
giành thắng lợi hoàn toàn.
3.3.7.2- Kiến nghị với tỉnh Khánh Hòa
Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được của quá trình chuyển dịch và
đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển dịch cơ câu ngành theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa và Sở Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn cần thực hiện:
- Đối với khai thác hải sản trên biển nhất là các đội tàu đánh bắt xa bờ, cần
được Ủy ban Nhân dân tỉnh và Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đẩy mạnh
việc khuyến khích thông qua các chính sách về vốn, thông tin thị trường, môi
trường pháp lý, để ngư dân liên kết lập ra các tổ hợp tác xã kiểu mới giúp đỡ lẫn
nhau trong khai thác, phòng tránh rủi ro trong sản xuất cũng như tìm kiến cứu nạn.
- Đối với chế biến thuỷ sản xuất khẩu, tỉnh Khánh Hòa cần có những chính
sách hỗ trợ về mặt bằng, cơ sở hạ tầng để khuyến khích các mô hình tập đoàn sản
xuất đa ngành nghề chế biến xuất khẩu với công suất lớn và tập trung. Chuyển đổi
các công ty quốc doanh trong chế biến thuỷ sản xuất khẩu sang công ty cổ phần.
Phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội chế biến thuỷ sản xuất khẩu trong việc sản xuất và
buôn bán thuỷ sản.
- Đối với chế biến thuỷ sản tiêu dùng nội địa tỉnh và ngành cần tuyên truyền
và tạo hành lang pháp lý để các thành phần tham gia chế biến nhận thấy lợi ích và
hiệu quả trong việc chuyển đổi làm ăn cá thể manh múm sang các hình thức công ty
cổ phần; khuyến khích thành lập các hợp tác xã, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn
- Đối với nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Khánh Hòa cần có các chính sách tạo mối
liên kết giữa 4 nhà: Nhà quản lý, Nhà khoa học, Nhà Doanh nghiệp và Nhà nông
(ngư dân), để tạo thành một chuyễn khép kín giữa cơ chế, khoa học – công nghệ,
yếu tố đầu ra cho sản phẩm và người nuôi trồng. Có như vậy mới tạo ra được sức
98
mạnh tổng hợp để đưa ngành thủy sản nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng
phát triển và khai thác được mọi tiềm năng nọi lực trong tỉnh.
Kết luận chương 3
Trong ch ương 3, luận văn đã trình bày:
Th ứ nhất: Những mục tiêu tổng quát và những quan đểm chuyển dịch chủ
yếu có tính phương pháp luận nhằm xây dựng căn cứ cho định hướng chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.
Th ứ hai: Trên cơ sở mục tiêu tổng quát và các quan điểm chủ yếu, luận văn
xây dựng phương hướng chung và phương hướng tương đối cụ thể cho Nuôi trồng,
Khai thác, Chế biến thương mại và Dịch vụ hậu cần nghề cá trong tiến trình chuyển
đổi cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.
Th ứ ba: Luận văn đã mạnh dạn nêu ra 6 giải pháp mà tác giả cho rằng đó là
những giải pháp chủ yếu nhất, phải tiến hành đồng bộ để quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được thành công. Cùng với những kiến nghị có tính khả thi nhằm thúc đẩy
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
99
Kết luận
Bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống của kinh tế
chính trị, như: trừu tượng hóa khoa học, logich kết hợp lịch sử, phân tíc và tổng
hợp, sử dụng các số liệu thống kê, luận văn đã đạt được những mục đích và hoàn
thành được nhiệm vụ đề ra đó là:
Thứ nhất: Luận văn đã khái quát những vấn đề lý luận chung của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản về: Khái niệm, đặc trưng của cơ cấu, nội dung
của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và ngành thủy sản, trên cơ sở kế thừa và phát
triển; trình bày khái quát một số quan điểm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của
các trường phái kinh tế chủ yếu, luận văn đã rút ra những vấn đề chung làn cơ sở lý
luận cho việc nghiên cứu vấn đề. Luận văn cũng đã thông qua việc tổng kết những
bài hoạc kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của 3 tỉnh trong
nước. Đồng thời nêu lên những nhân tố tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành thủy sản.
Thứ hai: Qua rất nhiều số liệu thống kê và tài liệu tham khảo, luận văn đã
phân tích làm rõ những đặc điểm của tỉnh Khánh Hòa nhìn từ góc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành thủy sản. Thực hiện việc phân tích thực trạng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế và
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Luận văn đã phân tích thực trạng hai giai đoạn
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản. Qua đây, luận văn đã nêu lên được
những xu hướng thực trạng, những thành tựu, tồn tại và những nguyên nhân của
những thành tựu, tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản.
Thứ ba: Luận văn cũng đã đưa ra mục tiêu tổng quát và những quan điểm về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa; phương hướng
chung có tính định hướng cơ bản, là cơ sở để xây dựng những phương hướng cụ thể
cho mỗi ngành trong tổng thể của ngành thủy sản trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Luận văn đã trình bày tổng quát phương hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành cho nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản, chế biến và thương mại
thủy sản, dịch vụ hậu cần thủy sản.
100
Thứ tư: Luận văn đã mạnh dạn nêu ra 6 giải pháp mà tác giả cho rằng đó là
những giải pháp chủ yếu nhất, phải tiến hành đồng bộ, không thể bỏ qua một giải
pháp nào. Cùng với những kiến nghị có tính khả thi nhằm thúc đẩy sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa; đạt được một cơ cấu kinh tế ngành năng động, có hiệu quả nhất, phát
huy lợi thế so sánh của tỉnh, hội nhập được vào quá trình phân công, hợp tác với
vùng, cả nước và khu vực; góp phần có tác động tích cực đến đời sống kinh tế - xã
hội của tỉnh Khánh Hòa nói chung và đối với người dân nói riêng.
Thứ năm: Luận văn đã nêu lên một số kiến nghị cần thiết đối với Nhà nước
và đối với tỉnh Khánh Hòa, để qua đó thực hiện các giải pháp một cách có hiệu quả
và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa được
thành công.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa là một bộ
phận không thể tách rời với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói chung của tỉnh
Khánh Hòa (Dịch vụ, du lịch – Công nghiệp, xây dựng – nông nghiệp), cũng là nằm
trong xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của cả nước. Vì vậy,
trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã đưa ra những luận giải, phân tích, đề xuất,
chính là nhằm nghiên cứu một bộ phận trong một chỉnh thể thống nhất hữu cơ. Các
bộ phận khác trong chỉnh thể cũng cần có sự nghiên cứu tiếp tục trong các đề tài
khác để có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành một cách đồng bộ, thống nhất, hoàn
chỉnh và hiệu quả cao.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thủy sản của tỉnh Khánh Hòa theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là một đề tài nghiên cứu đầu tiên đề cập đến vấn đề
này trong phạm vi một tỉnh, theo đánh giá chủ quan của tác giả, đây là một đề tài
khó và rộng. Để nghiên cứu sâu hơn và hoàn thiện hơn, thì cần phải có sự đầu tư
tiếp tục nhiều hơn nữa cả về công sức và trí tuệ. Trong quá trình thực hiện đề tài
này, tác giả gặp không ít những khó khăn và có thể còn có nhiều hạn chế, nguyên
nhân xuất phát vẫn là từ nhận thức của bản thân về vấn đề này còn hạn chế. Tuy
nhiên về mặt cơ bản, tác giả đã thực hiện được mục đích của luận văn đề ra.
101
Tài liệu tham khảo
1- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2013. Vị trí của ngành thủy sản trong
nền kinh tế quốc dân. Trung tâm Tin học. Bộ NN&PTNT.
2- Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi Khánh Hòa, 2010. Báo cáo thống kê về cơ
cấu thuyền – nghề của tỉnh Khánh Hòa.
3- Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi Khánh Hòa, 2011. Báo cáo thống kê về cơ
cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh Khánh Hòa.
4- Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi Khánh Hòa, 2012. Báo cáo thống kê về cơ
cấu thuyền - nghề khai thác của tỉnh Khánh Hòa.
5- Cục Thống kê Khánh Hòa, 2012. Niên giám thống kê 2012. Tp.HCM: Nhà xuất
bản Thống kê.
6- Đảng cộng sản Việt Nam, 2013. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội
nhập (Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI). Hà Nội: Nhà xuất bản CTQG.
7- Ngô Đình Giao, 1998. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá
nền kinh tế quốc dân. Hà Nội: Nhà xuất bản Thống kê.
8- Nguyễn Xuân Long, 4/2000. Công nghiệp chế biến với quá trình chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp Khánh Hoà thời kỳ 2000- 2010. Tạp chí công nghệ, số tháng
4/2000, trang 10-13.
9- Nguyễn Xuân Long, 8/2000. Cơ cấu kinh tế nông thôn Khánh Hoà hướng phát
triển giai đoạn 2000- 2010. Tạp chí Kinh tế nông nghiệp, số tháng 8/2000,
trang 15-17.
10- Trần Văn Nhưng, 2001. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công
nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án Tiến sĩ. Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
11- Nguyễn Đình Phan, 6/2000. Phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình
CNH, HĐH. Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 28 tháng 8, trang 31 - 33.
12- Sở NN & PTNT Khánh Hòa, 2010. Báo cáo Quy hoạch ngành thủy sản Khánh
Hòa 2015-2020.
13- Sở Thủy sản Khánh Hòa, từ 2000 đến 2005. Báo cáo tổng kết năm của ngành
102
thủy sản Khánh Hòa.
14- Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011. Báo cáo tổng kết năm của
ngành thủy sản Khánh Hòa.
15- Sở NN & PTNT Khánh Hòa, từ 2006 đến 2011. Báo cáo tổng kết tình hình thực
hiện công tác Nông nghiệp & PTNT.
16- Sở NN & PTNT Quảng Ngãi, 2010. Quy hoạch phát triển ngành thủy sản tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn từ 2015 đến năm 2020.
17- Sở NN & PTNT Quảng Ninh, 2010. Quy hoạch phát triển ngành thủy sản tỉnh
Quảng Ninh giai đoạn từ 2015 đến năm 2020.
18- Nguyễn Đề Thanh, 2005. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản nước
ta qua khảo sát ở tỉnh Khánh Hòa. Luận án Tiến sĩ. ĐH Quốc gia Tp.HCM.
19- Bùi Tất Thắng, 1997. Các nhân tố ảnh hưởng tới chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế trong thời kỳ CNH, HĐH ở Việt Nam. Hà Nội: Nxb KH xã hội.
20- Bùi Tất Thắng, 2006. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam. Hà Nội:
Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
21- Tổng cục Thủy sản, 2012. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt
Nam năm 2020 tầm nhìn 2030.
22- Thủ tướng Chính phủ, 2006. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thuỷ sản đến
năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Quyết định Số:10/2006/QĐ-TTg.
23- UBND tỉnh Khánh Hoà, từ 2006 đến 2012. Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội.
24- UBND tỉnh Cà Mau, 2001. Phương án điều chỉnh quy hoạch sản xuất ngư -
nông - lâm nghiệp tỉnh Cà Mau giai đoạn 2001 – 2010. Quyết định số
1116/QĐ-CTUB.
25- Tô Thị Hiền Vinh, 2009. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nông thôn theo
hướng CNH, HĐH các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ. Luận án Tiến sĩ. ĐH
Quốc gia Tp.HCM.