i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ PHÁ SẢN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
HVTH
: Tạ Ngọc Thiện Thảo
GVHD
: TS. Võ Hồng Đức
Chuyên ngành
: Tài chính – Ngân hàng
020116140226
MSHV
:
TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016
i
TÓM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đo lường tác động của các chỉ
số tài chính đến nguy cơ phá sản các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Mẫu nghiên cứu bao gồm 471 doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao
dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao dịch chứng khoán TPHCM (HOSE)
trong giai đoạn 2012-2014. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy Logistic để
ước lượng các kết quả cần đạt được từ mô hình hồi quy. Phương pháp này được lựa
chọn nhằm mục đích đảm bảo được sự phù hợp với cách xác định “nguy cơ phá
sản” của một doanh nghiệp (biến nhị phân chỉ nhận giá trị 0 hoặc 1). Xác suất phá
sản của doanh nghiệp trong nghiên cứu này được xác định trên cơ sở của các nghiên
cứu trước trên thị trường Việt Nam (nghiên cứu của Hoàng Tùng (2011) và Nguyễn
Trọng Hòa (2009)).
Kết quả nghiên cứu cho thấy nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam chịu tác động bởi các yếu tố: (i) Tính thanh
khoản (được thể hiện thông qua tỷ số tài chính tài sản lưu động/Nợ ngắn hạn phải
trả), (ii) Hiệu quả hoạt động (được thể hiện thông qua hai tỷ số tài chính là ROA và
EBIT/Doanh thu thuần), (iii) Đòn bẩy tài chính (được thể hiện thông qua tỷ số Tổng
nợ/Tổng tài sản) và (iv) Kỳ vọng thị trường (được thể hiện thông qua tỷ số Vốn hóa
thị trường/Tổng nợ)
Kết quả đạt được từ nghiên cứu này đã cung cấp thêm một số bằng chứng
khoa học định lượng có liên quan đến mối liên hệ giữa các tỷ số tài chính thường
được sử dụng với nguy cơ phá sản doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Do đó, kết quả nghiên cứu thực nghiệm rất có ích khi hướng đến
các đối tượng khác nhau như: các nhà quản lý doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng
và các nhà đầu tư chứng khoán.
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy TS.Võ Hồng Đức, người đã hướng
dẫn tôi thực hiện bài luận văn Thạc sỹ này.Thầy đã luôn quan tâm, hướng dẫn tận
tình và động viên tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô của Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh
và Phòng Đào tạo sau đại học đã truyền đạt những kiến thức bổ ích, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tại trường cũng như quá trình thực hiện đề
tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình những người đã luôn bên tôi trong
mọi hoàn cảnh và cảm ơn bạn bè đã luôn bên cạnh cổ vũ, động viên tôi để vượt qua
khó khăn trong cuộc sống cũng như quá trình thực hiện luận văn. Tất cả những
thiếu sót của nghiên cứu này đều thuộc trách nhiệm của tôi và tôi mong nhận được ý
kiến đóng góp.
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài “Đánh giá nguy cơ phá
sản của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam”
này là công trình nghiên cứu của chính cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Võ Hồng Đức. Các số liệu, nội dung nghiên cứu và kết quảđược trình
bày trong bài luận văn là trung thực, chính xác trong phạm vi hiểu biết của tôi và
chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Các số liệu, các nguồn
trích dẫn trong luận văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, minh bạch.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính trung thực của đề tài
nghiên cứu này.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 10 năm 2016
Học viên
Tạ Ngọc Thiện Thảo
iv
MỤC LỤC
TÓM TẮT ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................... iii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ ...................................................... vi
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................ vii
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ....................................................................... 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 3
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 3
1.5 Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu ........................................... 4
1.6 Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 4
1.7 Bố cục dự kiến của đề tài ............................................................................... 5
CHƢƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................. 6
2.1 Tổng quan cơ sở lý thuyết ............................................................................. 6
2.1.1 Các khái niệm, nhận định về tình trạng kiệt quệ tài chính và phá sản doanh nghiệp ........................................................................................................ 6
2.1.2 Các nghiên cứu về mức xác định kiệt quệ tài chính ............................... 8
2.1.3 Chi phí kiệt quệ tài chính ...................................................................... 10
2.1.4 Một số nguyên nhân dẫn đến phá sản doanh nghiệp ........................... 12
2.2 Một số nghiên cứu trước về dự báo phá sản và nguy cơ phá sản ................ 15
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 26
3.1 Xây dựng giả thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu .................................. 26
3.1.1 Điều kiện của dữ liệu thu thập và biến lựa chọn trong mô hình nghiên cứu ............................................................................................................... 26
3.1.2 Xây dựng mô hình ................................................................................. 26
3.1.2.1 Mô hình nghiên cứu tổng quát .............................................................. 26
v
3.1.2.2 Mô hình nghiên cứu cụ thể ................................................................... 28
3.2 Dữ liệu nghiên cứu ...................................................................................... 34
3.2.1 Dữ liệu thu thập .................................................................................... 34
3.2.2 Xử lý dữ liệu thu thập ........................................................................... 34
3.3 Phương pháp hồi quy ..................................................................................... 36
3.3.1 Phương pháp hồi quy dữ liệu bảng....................................................... 37
3.3.2 Trình tự thực hiện nghiên cứu định lượng ............................................ 37
3.3.2.1 Phân tích thống kê mô tả ................................................................... 37
3.3.2.2 Phân tích tương quan ..................................................................... 37
3.3.2.3 Phân tích hồi quy .............................................................................. 38
3.3.3 Các phương pháp kiểm định ................................................................. 39
3.3.3.1 Kiểm định lựa chọn mô hình ............................................................. 39
3.3.3.2 Các kiểm định giả thuyết hồi quy .................................................. 39
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 41
4.1 Thống kê mô tả các biến định lượng trong mô hình ................................... 41
4.2 Phân tích ma trận tương quan ...................................................................... 44
4.3 Phân tích mô hình hồi quy ........................................................................... 47
4.4 Kiểm định khả năng dự báo của mô hình .................................................... 50
4.5 Giải thích các biến độc lập .......................................................................... 52
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................... 57
5.1 Tóm tắt kết quả nghiên cứu ......................................................................... 57
5.2 Kiến nghị ..................................................................................................... 58
5.3 Hạn chế của đề tài và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo ......................... 61
5.3.1 Hạn chế của đề tài ................................................................................ 61
5.3.2 Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo ..................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 64
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 67
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ
Bảng 3.1 Bảng tóm tắt các biến số và dấu kỳ vọng trong mô hình nghiên cứu : 33
Bảng 3.2 Tỷ lệ các thành phần trong nhóm quan sát : 35
Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến định lượng : 41
Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan : 45
Bảng 4.3 Kết quả kiểm định Hausman : 47
Bảng 4.4 Kết quả hồi quy mô hình tác động ngẫu nhiên : 48
Bảng 4.5 Kết quả kiểm định Wald : 49
Bảng 4.6 Kết quả VIF : 50
Bảng 4.7 Thống kê kết quả dự báo của mô hình : 50
Đồ thị 4.1 Đồ thị phân tích ROC : 51
vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
: Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh HOSE
: Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
: Các tác giả Ctg
: Mô hình các yếu tố tác động ngẫu nhiên (Random Effect model) REM
: Mô hình các yếu tố ảnh hưởng cố định (Fixed Effect model) FEM
: Hệ số phóng đại phương sai (Variance Inflation Factor) VIF
1
CHƢƠNG 1
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế thế giới đang gặp rất nhiều khó
khăn. Khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua đã để lại hậu quả nặng nề ở mức độ vĩ
mô là nền kinh tế thế giới bị suy giảm mạnh, sản xuất suy giảm, thất nghiệp tăng
cao, các cuộc khủng hoảng về nợ công diễn ra ở châu Âu (nổi bật nhất là ở Hy Lạp).
Tại Việt Nam, trong giai đoạn 2011-2014, dưới sự tác động của khủng hoảng kinh
tế thế giới kèm theo đó là những vấn đề nội tại khiến kinh tế Việt Nam phải đối mặt
với nhiều khó khăn và thử thách: tốc độ tăng trưởng chậm dao động quanh mức 5-
7%/năm, sức mua trong nước giảm, doanh nghiệp phá sản với số lượng lớn.
Theo Tổng cục Thống kê, ước tính năm 2013, số doanh nghiệp gặp khó khăn
phải giải thể hoặc ngừng hoạt động là 60.737 doanh nghiệp, tăng 11,9% so với năm
trước. Trong đó, số doanh nghiệp đã giải thể là 9.818 doanh nghiệp, tăng 4,9%; số
doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10.803 doanh nghiệp, tăng 35,7%; số
doanh nghiệp ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40.116 doanh nghiệp, tăng
8,6%.
Trong năm 2014, đà phá sản của các doanh nghiệp vẫn tiếp tục tăng. Cả nước
có 67.823 doanh nghiệp gặp khó khăn buộc phải giải thể, hoặc đăng ký tạm ngừng
hoạt động có thời hạn, hoặc ngừng hoạt động chờ đóng mã số doanh nghiệp hoặc
không đăng ký. Trong đó có 9.501 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể,
giảm 3,2% so với năm 2013, số lượng doanh nghiệp giải thể phần lớn là những
doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng; 58.322 doanh nghiệp khó khăn phải
ngừng hoạt động, tăng 14,5% so với năm trước.
Theo Cục quản lý đăng ký kinh doanh của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm
2015, cả nước có 68.350 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, nhưng số doanh
nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt hoạt động trong thời gian này là hơn
2
7.000 doanh nghiệp và số doanh nghiệp khó khăn tạm ngừng hoạt động lên tới hơn
47.600.
Như vậy, số liệu thống kê cho thấy số doanh nghiệp ngừng hoạt động qua các
năm gần đây rấtlớn. Tuy nhiên, thực tế thể hiện rằng số doanh nghiệp bị công bố
phá sản lại chiếm tỷ lệ thấp. Cần lưu ý rằngthủ tục phá sản các doanh nghiệp trên
thế giới đơn giản, trong khi ở Việt Nam thì thủ tục phức tạp. Như vậy, có quan điểm
cho rằng tỷ lệ phá sản tại Việt Nam qua các số liệu thống kê chưa phản ánh đúng
thực trạng hoạt động. Thực tế thể hiện rằng có thể có nhiều công ty hoạt động yếu
kém nhưng vì thủ tục phá sản phức tạp mà vẫn chưa thể phá sản, đặc biệt là tình
trạng thông tin kém minh bạch vẫn còn tồn tại ở đa số doanh nghiệp.
Với một nền kinh tế có quá nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động,
đặc biệt trong bối cảnh khi Việt Nam đang xây dựng một môi trường kinh doanh ổn
định nhằm thu hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài thì việc có tới hàng chục nghìn
doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, chấm dứt và tạm dừng hoạt động trong một
năm cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến cái nhìn của các nhà đầu tư đối với môi
trường kinh doanh trong nước. Mặt khác, những hệ lụy về mặt xã hội như việc làm,
môi trường sinh thái cũng là vấn đề đáng lưu ý khi nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt
động. Do đó, cần có những biện pháp hỗ trợ để doanh nghiệp hoạt động tốt hơn và
có thể quay lại thị trường, giúp kinh tế trong nước hồi phục và phát triển.
Chính vì vậy, việc dự báo chính xác khả năng rơi vào tình trạng có nguy cơ
phá sản của doanh nghiệp là một trong vấn đề cốt lõi giúp các nhà quản lý đưa ra
những quyết định phù hợp, duy trì sự tồn tại và thúc đẩy sự phát triển của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, các ngân hàng trước khi cấp tín dụng thì mỗi ngân hàng sẽ có
các mô hình, quy trình riêng để xếp hạng tín dụng hay đánh giá khả năng trả nợ của
các doanh nghiệp. Từ đó làm căn cứ để tiến hành cấp hạn mức tín dụng, tuy nhiên
tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng hiện nay vẫn còn cao và một trong những nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên là do quy trình đánh giá khả năng trả nợ của ngân hàng
chưa hoạt động hiệu quả. Từ thực tiễn như trên học viên chọn đề tài “Đánh giá
3
nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán
Việt Nam” để nghiên cứu.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu tìm hiểu khả năng dự báo của các
mô hình dự báo nguy cơ phá sản doanh nghiệp đã được xây dựng trên phạm vi toàn
thế giới để ứng dụng vào nghiên cứu thực tiễn dự báo nguy cơ phá sản phù hợp với
các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Với mục tiêu như trên, vấn đề cần nghiên cứu là tiến hành làm rõ thế nào là
phá sản doanh nghiệp; xác định mẫu nghiên cứu để đánh giá mô hình dự báo phá
sản; tìm kiếm, kế thừa những mô hình dự báo phá sản đã được phát triển trên thế
giới trong thời gian qua để ứng dụng vào nghiên cứu thực tiễn dự báo sớm nguy cơ
phá sản cho các doanh nghiệp Việt Nam; xác định chiều hướng tác động của các tỷ
số tài chính đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp và đo lường mức độ chính xác
của mô hình trong việc dự báo sớm nguy cơ phá sản.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu trên, tác giả đưa ra câu hỏi nghiên cứu như
sau:
Các nhân tố nào tác động đến nguy cơ xảy ra phá sản các doanh nghiệp
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam?
Mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến nguy cơ phá sản của các doanh
nghiệp niêm yết như thế nào?
Từ kết quả nghiên cứu, có những kiến nghị gì để có thể hạn chế được
nguy cơ phá sản các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán
Việt Nam?
1.4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sự ảnh hưởng của các tỷ số tài chính đến nguy cơ phá
sản các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam.
4
Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp đang niêm yết trên sàn chứng khoán
Việt Nam giai đoạn từ 2012 đến 2014 có Báo cáo tài chính đã qua kiểm toán.
Nghiên cứu cũng loại trừ các doanh nghiệp là tổ chức tài chính, bảo hiểm do cấu
trúc vốn của các doanh nghiệp này khác so với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh.
1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. Với sự hỗ trợ của phần
mềm phân tích chuyên dụng Stata, mô hình hồi quy Logistic được sử dụng để để
tiến hành phân tích thống kê mô tả, phân tích tương quan cũng như phân tích chạy
mô hình hồi quy và thực hiện các kiểm định cần thiết.
Dữ liệu nghiên cứu của đề tài là dữ liệu thứ cấp được trích từ báo cáo tài
chính (đã được kiểm toán) kết thúc năm 2012, 2013, 2014 của 471 doanh nghiệp
niêm yết trên sàn chứng khoán HOSE và HNX.
1.6 Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học:
Đóng góp một phần vào nền tảng lý thuyết tài chính doanh nghiệp qua bằng
chứng thực nghiệm về vấn đề dự báo nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp tại
nước ta. Đánh giá một cách hệ thống tình hình, dự báo nguy cơ phá sản của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Về mặt thực tế:
Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, góp phần xây dựng nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh, giảm thiểu tình trạng kiệt quệ tài chính có nguy cơ dẫn đến phá
sản. Đối với các tổ chức tín dụng, góp phần trong việc ban hành chính sách tín
dụng, nâng cao khả năng thu hồi nợ vay qua việc dự báo nguy cơ phá sản của các
định chế tài chính. Đối với các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư nhận định tình hình
doanh nghiệp để đưa ra quyết định đầu tư.
5
Quá trình thực hiện đề tài giúp cho bản thân người thực hiện củng cố thêm
những kiến thức quý giá trong phương pháp nghiên cứu, cũng như cơ sở lý thuyết
làm nền tảng cho những nghiên cứu khác thiết thực hơn sau này.
1.7 Bố cục dự kiến của đề tài
- Chương 1: Giới thiệu đề tài
- Chương 2: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
- Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu
- Chương 5: Kết luận và kiến nghị
6
CHƢƠNG 2
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan cơ sở lý thuyết
2.1.1 Các khái niệm, nhận định về tình trạng kiệt quệ tài chính và phá sản
doanh nghiệp
Mỗi quốc gia với đặc điểm nền kinh tế có các đặc trưng khác nhau nên các
quy định về phá sản doanh nghiệp sẽ có những điểm khác nhau. Trong các nghiên
cứu tùy vào thời điểm, thị trường được nghiên cứu mà các tác giả có quan điểm
khác nhau về phá sản và nguy cơ phá sản (tình trạng kiệt quệ tài chính).
Tình trạng kiệt quệ tài chính (Financial distress) là tình trạng mà công ty
không đáp ứng hoặc gặp khó khăn trong việc thanh toán các nghĩa vụ tài chính đối
với các chủ nợ. Tình trạng kiệt quệ tài chính sẽ gia tăng khi công ty có chi phí cố
định cao, tài sản có tính thanh khoản kém hay doanh thu nhạy cảm với các biến
động xấu của nền kinh tế (Investopedia, 2012). Kiệt quệ tài chính ở mức độ nghiêm
trọng sẽ dẫn đến phá sản. Wruck (1990) cho rằng tình trạng kiệt quệ tài chính của
doanh nghiệp là khi dòng tiền không đủ để đảm bảo các nghĩa vụ tài chính, khi đó
các cổ đông cũ mất quyền sở hữu doanh nghiệp, các chủ nợ sẽ nắm giữ tài sản của
doanh nghiệp và trở thành các cổ đông mới. Purnanandam (2005) xem xét kiệt quệ
tài chính như là một tình trạng về khả năng thanh toán. Ông đã phát triển một mô
hình lý thuyết về quản trị rủi ro công ty trong đó có sự xuất hiện của chi phí kiệt quệ
tài chính. Kiệt quệ tài chính được xem như là một giai đoạn trung gian giữa việc
còn khả năng thanh toán và mất khả năng thanh toán. Một doanh nghiệp đang trong
tình trạng kiệt quệ tài chính có thể có các dấu hiệu như tiền mặt bị giảm thường
xuyên, liên tục, không có sản phẩm mang tính cạnh tranh, không thu được nợ hoặc
đang nợ quá nhiều, không lập quỹ dự phòng tài chính, thay đổi kiểm toán độc lập,
cắt giảm cổ tức, các nhân sự quản lý cấp cao ra đi, bán các tài sản hàng đầu, cắt
giảm các khoản thù lao doanh nghiệp kiệt quệ tài chính có thể bán những tài sản
7
chính yếu, sáp nhập vào doanh nghiệp khác, giảm chi phí sử dụng vốn, phát hành cổ
phần, gia hạn các khoản vay, chuyển nợ thành cổ phần…
Altman (1968) khi thực hiện nghiên cứu tại thị trường Mỹ cho rằng công ty
phá sản khi công ty không giải quyết được nghĩa vụ nợ và nộp đơn xin phá sản.
Theo Shelagh Heffernan (2005) khả năng phá sản của các doanh nghiệp xảy ra khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, khi nợ phải trả vượt quá
tài sản hoặc tài sản ròng âm.
Kiệt quệ tài chính và phá sản giống nhau về khó khăn trong việc thực hiện
việc trả nợ. Kiệt quệ tài chính có thể xảy ra ở nhiều giai đoạn với nhiều mức độ,
trong khi đó phá sản là tình trạng pháp lý để giải quyết quyền lợi các bên và là sự
kiện đánh dấu sự chấm dứt của một doanh nghiệp. Kiệt quệ tài chính có thể không
dẫn đến phá sản nếu doanh nghiệp khắc phục được kiệt quệ tài chính, trong khi đó
phần lớn các trường hợp phá sản đều trải qua giai đoạn kiệt quệ tài chính (Platt H.D
& Platt M.B, 2006). Trước khi phá sản, doanh nghiệp cũng thường trải qua một giai
đoạn chờ đợi, thanh lý tài sản và giải thể chứ không phải là phá sản ngay lập tức.
Theo các nghiên cứu của Theodossiou (1993) các doanh nghiệp Mỹ thường mất khả
năng trả nợ vay khoảng 2 năm trước khi đi đến phá sản. Tinoco & Wilson (2013)
nghiên cứu các doanh nghiệp tại Anh cho thấy 1,17 năm là khoảng cách trung bình
giữa ngày doanh nghiệp rơi vào kiệt quệ tài chính với ngày chính thức phá sản về
mặt pháp lý (khoảng cách này cũng có thể lên tới 3 năm).
Foster (1986) định nghĩa kiệt quệ tài chính là một vấn đề về thanh khoản, vấn
đề có thể được giải quyết bằng việc tái cơ cấu quy mô lớn về hoạt động kinh doanh
hoặc cấu trúc của tổ chức kinh tế. Gordon (1971) nhấn mạnh rằng kiệt quệ tài chính
chỉ là một giai đoạn trong một quá trình mà tiếp theo sau đó là sự thất bại và tái cấu
trúc. Theo Lemma và Tracy (2012) ba giải pháp tài chính mà các công ty có thể
chọn để đối phó với kiệt quệ tài chính thay vì lựa chọn thủ tục phá sản của tòa án:
cơ cấu lại nợ, bán tài sản hoặc tiếp nhận vốn mới từ nguồn bên ngoài. Phá sản
không phải là nguyên nhân của sự sụt giảm giá trị, nó là hậu quả.
8
2.1.2 Các nghiên cứu về mức xác định kiệt quệ tài chính
Tinoco và Wilson (2013) nghiên cứu các doanh nghiệp tại Anh nhận thấy
doanh nghiệp kiệt quệ tài chính khi lợi nhuận trước thuế, trước lãi vay và khấu hao
(EBITDA – Earnings before interest, taxes, depreciation and amortization) thấp hơn
so với chi phí lãi vay và khi doanh nghiệp có mức tăng trưởng âm trong giá trị thị
trường trong năm quan sát. Nghiên cứu của Sori, Z.M & Jalil, H.A (2009) cho các
doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán Singapore nhận thấy doanh nghiệp kiệt
quệ tài chính khi cùng xảy ra các điều kiện doanh nghiệp bị yêu cầu phải cấu trúc
lại, doanh nghiệp đang phải giao tài sản để thanh toán nợ, doanh nghiệp thua lỗ liên
tục trong 3 năm, doanh nghiệp có dòng tiền âm liên tục trong 3 năm.
Nghiên cứu của Pindado, J. & Rodrigues, L. (2009) xác định doanh nghiệp
kiệt quệ tài chính khi: lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA) nhỏ hơn
chi phí tài chính. Trước đó nghiên cứu của Zhang (2007) khi nghiên cứu thị trường
chứng khoán Trung Quốc thì có quan điểm rằng công ty bị đưa vào diện kiểm soát
khi thu nhập tích lũy âm 2 năm liên tiếp hoặc giá trị tài sản ròng trên cổ phiếu thấp
hơn giá trị sổ sách.
Platt, H.D. & Platt, M.B. (2006) xác định doanh nghiệp kiệt quệ tài chính khi
đồng thời 3 chỉ tiêu tỷ lệ chi trả lãi trước thuế, lãi vay và khấu hao; lợi nhuận trước
thuế và lãi vay (EBIT), lợi nhuận sau thuế bị âm liên tục trong 2 năm.Abid, F. &
Zouari, A. (2003) xác định doanh nghiệp kiệt quệ tài chính bằng cách sử dụng công
thức Black – Scholes. Khi đó doanh nghiệp có xác suất lớn hơn 0,01 được xem là
kiệt quệ tài chính, nhỏ hơn 0,01 là doanh nghiệp lành mạnh.
Tại Việt Nam hiện nay theo quy chế giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước
kinh doanh thua lỗ, hoạt động không có hiệu quả, doanh nghiệp thuộc đối tượng
giám sát nếu rơi vào một trong các trường hợp kinh doanh thua lỗ 3 năm liên tiếp,
kinh doanh thua lỗ 1 năm nhưng mất 30% vốn chủ sở hữu trở lên, kinh doanh giữa
hai năm lỗ có một năm lãi, có hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn nhỏ hơn 0,5.
9
Tại Việt Nam, luật phá sản năm 2004 quy định “Doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì
coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Theo như nhận định của Lê Văn Hưng (2007) thì
dấu hiệu để cho rằng công ty lâm vào tình trạng phá sản chính là vì nó mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu. Vì vậy việc xác định dấu hiệu
mất khả năng thanh toán có ý nghĩa hết sức quan trọng, là căn cứ khởi đầu cho một
quá trình tiến hành các thủ tục giải quyết phá sản. Nhưng cách xác định mất khả
năng thanh toán ở các nước cũng không hoàn toàn giống nhau. Luật Phá sản ở Việt
Nam không qui định các dấu hiệu cụ thể để xác định công ty mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn, tạo điều kiện cho việc sớm mở thủ tục phá sản cũng như khả năng
phục hồi hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, công ty lâm vào tình trạng
phá sản chưa hẳn đã bị phá sản, nó chỉ bị coi là phá sản khi tiến hành thủ tục tuyên
bố phá sản. Theo quy chế niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán (ký ngày
07/12/2007), quy định liên quan đến vấn đề hiệu quả hoạt động của công ty, nếu
“Tổ chức niêm yết cổ phiếu, trái phiếu có kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh bị
lỗ trong 03 năm liên tục và tổng số lỗ lũy kế vượt quá vốn chủ sở hữu trong báo cáo
tài chính tại thời điểm gần nhất” thì công ty sẽ bị đưa vào diện “hủy niêm yết bắt
buộc”.
Trong nghiên cứu về rủi ro tín dụng doanh nghiệp, tác giả Hoàng Tùng (2011)
và Nguyễn Trọng Hòa (2009) đều cho rằng công ty có rủi ro tín dụng khi xảy ra một
trong các yếu tố: hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ tín dụng đối với đối
tác (nợ quá hạn trên tổng dư nợ ngân hàng); hoặc vốn lưu động âm; hoặc có giá trị
thị trường của công ty nhỏ hơn tổng nợ.
Tóm lại, phá sản công ty tại thị trường Việt Nam nếu chỉ căn cứ vào quy định
của Luật phá sản và các quy định về thủ tục phá sản thì sẽ có rất ít công ty phá sản.
Đặc biệt là các công ty sản xuất có số lượng lao động lớn, các thủ tục phá sản lại
càng khó khăn hơn do ảnh hưởng về mặt xã hội. Vì vậy phá sản tại thị trường Việt
Nam chịu tác động bởi khá nhiều yếu tố chủ quan (kết quả hoạt động kinh doanh
10
của công ty – đại diện bởi các chỉ tiêu tài chính) và khách quan (sự ràng buộc về các
chính sách của nhà nước như ổn định xã hội, sự kì vọng của nhà đầu tư).
Để thuận tiện trong việc xác định đối tượng, dữ liệu nghiên cứu dựa trên các
nghiên cứu trước kết hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam, nghiên cứu chỉ đưa ra
quan điểm là công ty có nguy cơ phá sản (kiệt quệ tài chính (Financial distress)) và
công ty không có nguy cơ phá sản, dựa vào các nghiên cứu đã nghiên cứu trước trên
thị trường Việt Nam và một số thị trường khác đề tài đưa ra 2 tiêu chí để nhận diện
công ty có nguy cơ phá sản như sau:
Các công ty bị Sở Giao dịch chứng khoán công bố hủy niêm yết, bị cảnh
báo ngừng giao dịch hay những công ty có cổ phiếu bị đưa vào diện phải
kiểm soát thì đều thuộc dạng công ty có nguy cơ phá sản (ở đây nghiên cứu
chỉ xét các công ty bị cảnh báo do liên quan đến vấn đề hiệu quả hoạt động,
không xét các trường hợp khác chẳng hạn do vi phạm qui tắc công bố thông
tin, thời hạn nộp các báo cáo tài chính).
Các công ty đồng thời có ROA hoặc vốn lưu động (tổng tài sản ngắn hạn –
tổng nợ ngắn hạn) âm và vốn hóa thị trường (số cổ phiếu đang lưu hành x
giá thị trường 1 cổ phiếu) nhỏ hơn tổng nợ phải trả cũng là các công ty có
nguy cơ phá sản.
Nghiên cứu này chọn xác định tình trạng kiệt quệ tài chính dựa trên các khả
năng đáp ứng nghĩa vụ nợ. Từ đó xây dựng mô hình dự báo nguy cơ phá sản cho
các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam theo mô hình hồi quy
Logit trong phần sau. Đây là mô hình ước lượng xác suất của một sự kiện sẽ xảy ra
và biến phụ thuộc là biến nhận một trong hai giá trị “1” là có nguy cơ phá sản và
“0” là không có nguy cơ phá sản.
2.1.3 Chi phí kiệt quệ tài chính
Đầu tiên, một doanh nghiệp kiệt quệ tài chính có thể mất nhiều khách hàng,
giá trị sản phẩm và nhân viên chủ chốt.Opler và Titman (1994) đưa ra bằng chứng
11
thực nghiệm rằng các doanh nghiệp lâm vào kiệt quệ tài chính mất đi đáng kể thị
phần cho các đối thủ mạnh trong một nền công nghiệp suy thoái. Sử dụng dữ liệu từ
thị trường công nghiệp tiêu dùng (Chevalier 1995a, b) tìm thấy bằng chứng rằng nợ
làm yếu đi vị thế cạnh tranh của một doanh nghiệp. Nguyên nhân là do khách hàng
không thích kinh doanh với một doanh nghiệp đang trong tình trạng kiệt quệ tài
chính. Hơn nữa, các đối thủ cạnh tranh lợi dụng tình trạng doanh nghiệp đang suy
yếu về tài chính để giảm giá sản phẩm, thực hiện các chiến lược quảng cáo mạnh
mẽ nhằm thu hút khách hàng. Sự sụt giảm doanh số bán hàng của Apple và Chrysler
trong thời kỳ khó khăn tài chính đã cung cấp bằng chứng để chứng minh cho những
tổn thất đó.
Thứ hai, khi một doanh nghiệp gặp khó khăn thì cả trái chủ lẫn cổ đông đều
muốn doanh nghiệp phục hồi, nhưng ở các khía cạnh khác quyền lợi của họ có thể
mâu thuẩn nhau. Vào các thời điểm kiệt quệ tài chính những người nắm giữ chứng
khoán giống như nhiều Đảng phái chính trị ở các nước Tư bản: đoàn kết trên những
vấn đề tổng quát nhưng bị đe dọa bởi những tranh cãi với nhau về một vấn đề cụ thể
nào đó (GS Trần Ngọc Thơ và các cộng sự, 2007, tr385). Một doanh nghiệp kiệt
quệ tài chính thì có nhiều khả năng vi phạm các hợp đồng nợ hoặc chậm trễ trong
việc thanh toán lãi và nợ gốc. Các vi phạm này chịu tổn thất vô ích dưới dạng các
hình phạt tài chính, trả nợ nhanh, hoạt động thiếu linh động, quản lý thời gian và
nguồn chi tiêu trong những đàm phán với chủ nợ.
Cuối cùng, một doanh nghiệp tài chính có thể phải từ bỏ dự án NPV dương do
chi phí tài chính bên ngoài tốn kém, theo Froot, Scharfstein và Stein (1993). Kiệt
quệ tài chính tốn kém khi các mâu thuẫn quyền lợi cản trở các quyết định đúng đắn
về hoạt động đầu tư và tài trợ. Các cổ đông thường từ bỏ mục tiêu thông thường là
tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp và thay vào đó là theo đuổi mục tiêu
hạn hẹp hơn là quyền lợi riêng của mình. Họ thường có khuynh hướng thực hiện
các ý đồ riêng mà phần thiệt hại sẽ do các chủ nợ gánh chịu (GS Trần Ngọc Thơ và
các cộng sự, 2007, tr385). Các ý đồ ở đây có thể là: dịch chuyển rủi ro, từ chối đóng
12
góp vốn cổ phần, thu tiền và bỏ chạy, kéo dài thời gian, thả mồi bắt bóng làm mất đi
sự linh hoạt trong hoạt động của doanh nghiệp.
Chi phí kiệt quệ tài chính có thể được chia ra thành chi phí phá sản và chi phí
nhưng chưa phá sản.Smith và Stulz (1985) là những người đầu tiên nghiên cứu về
tình trạng kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp đã kết luận rằng một doanh nghiệp
rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính có thể phải gánh chịu chi phí kiệt quệ tài chính
trực tiếp và chi phí kiệt quệ tài chính gián tiếp. Chi phí phá sản gồm các chi phí trực
tiếp như lệ phí tòa án và các chi phí gián tiếp phản ánh khó khăn trong việc quản lý
một doanh nghiệp đang bị tái cơ cấu. Chi phí kiệt quệ tài chính nhưng chưa phá sản
gồm các mâu thuẫn quyền lợi giữa trái chủ và cổ đông của doanh nghiệp trong kiệt
quệ tài chính có thể đưa đến các quyết định xấu về hoạt động đầu tư và các điều
khoản trong hợp đồng nợ được thiết kế để ngăn ngừa lợi ích riêng của cổ đông.
Qua phân tích ta thấy rõ ảnh hưởng của kiệt quệ tài chính đến hoạt động của
doanh nghiệp là vô cùng mạnh mẽ. Do đó, việc đánh giá, dự báo được kiệt quệ tài
chính là một việc làm quan trọng từ đó làm cơ sở hoạch định chính sách cho các
nhà quản trị doanh nghiệp ở Việt Nam, cũng là cơ sở cho các chủ nợ và nhà đầu tư
trong quá trình ra quyết định của mình.
2.1.4 Một số nguyên nhân dẫn đến phá sản doanh nghiệp
Để một doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản thì có nhiều nguyên nhân.
Theo Holland (1998) cho rằng có 2 loại cơ bản của thất bại trong kinh doanh: thất
bại thảm khốc (Catastrophic Failure) và thất bại do thiếu thành công (General Lack
of Success Failure). Theo đó, thất bại thảm khốc được hiểu là những doanh nghiệp
bị ảnh hưởng do một cú sốc đột ngột trong hoạt động kinh doanh như: mất hoàn
toàn vốn lưu động, không thể khắc phục được thiệt hại…Còn thất bại do thiếu thành
công chủ yếu do lợi nhuận thu được không đáp ứng được kỳ vọng của chủ sở hữu,
từ đó dẫn đến công ty bị bán, đóng cửa ngừng hoạt động…
13
Theo Ooghe và Prijcker (2006) dựa vào việc nghiên cứu các trường hợp cụ thể
kết hợp với các đặc điểm về quản lý và tuổi đời của doanh nghiệp đã chia ra 4 loại
quá trình thất bại trong kinh doanh:
Quá trình thất bại đầu tiên sự không thành công xảy ra ở các doanh nghiệp
mới thành lập được lãnh đạo bởi những nhà quản lý thiếu kinh nghiệm
trong vấn đề quản lý và cả trong lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Quá trình thất bại thứ hai xảy ra tại các doanh nghiệp tăng trưởng đầy
tham vọng. Tại các doanh nghiệp này, sau khi đầu tư thất bại họ không
còn đủ tiềm lực tài chính để điều chỉnh cách thức kinh doanh với điều kiện
môi trường thay đổi để tránh thất bại;
Quá trình thất bại thứ ba là tại các doanh nghiệp tăng trưởng lóa mắt.
Doanh nghiệp được lãnh đạo bởi những nhà quản lý quá tự tin mà không
có cái nhìn thực tế về tình hình tài chính của doanh nghiệp;
Cuối cùng là các doanh nghiệp sau khi được thành lập do thiếu động lực
trong kinh doanh, không nhận ra môi trường kinh doanh thay đổi từ đó
mất dần cơ sở để cạnh tranh, kết quả dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp.
Như vậy dựa trên các nghiên cứu đã tham khảo, đề tài tạm phân chia các
nguyên nhân dẫn đến phá sản công ty như sau:
Doanh nghiệp phá sản do khả năng quản lý kém: Holland (1998) cho rằng
theo đánh giá của công ty Dun&Bradstreet số liệu thống kê cho thấy
nguyên nhân thất bại do thiếu thành công (GLOS) là do những sai lầm
trong quản lý chiếm khoảng 88,7% của tất cả các thất bại trong kinh
doanh. Theo Ooghe và Prijcker (2006) thì 4 loại thất bại trong kinh doanh
đều có nguyên nhân liên quan đến sai lầm trong quản lý của người quản lý
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phá sản do tình hình tài chính không tốt: Beaver (1966) cho
rằng một trong những dấu hiệu để nhận biết công ty phá sản là công ty
14
không thanh toán được trái phiếu công ty khi đến hạn, không chi trả được
cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi. Trong nghiên cứu về dự báo phá sản của
Altman và cộng sự (1968, 1977, 2000, 2007) đều cho thấy rằng mô hình
dự báo phá sản luôn tồn tại các tỷ số phản ánh tình hình tài chính. Như
vậy, tình hình tài chính là một trong những yếu tố đảm bảo sự sống còn
của doanh nghiệp và cũng là yếu tố tồn tại trong hầu hết các mô hình dự
báo phá sản cũng như xếp hạng tín dụng doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phá sản do hiệu quả hoạt động kinh doanh kém: Trong mô
hình dự báo phá sản của Altman và cộng sự thì bên cạnh các chỉ số tài
chính thì các tỷ số liên quan đến lợi nhuận của công ty luôn xuất hiện và
có xu hướng ảnh hưởng nghịch chiều với nguy cơ phá sản, nếu các tỷ số
này càng cao thì xác xuất xảy ra phá sản càng thấp. Theo Ooghe và
Prijcker (2006) thì 4 loại thất bại trong kinh doanh đều có nguyên nhân
liên quan đến sai lầm trong quản lý mà kết quả thường thấy là sự suy giảm
lợi nhuận, hiệu quả hoạt động giảm sút. Tại Việt Nam trong nghiên cứu về
rủi ro tín dụng doanh nghiệp, Hoàng Tùng (2011) cho rằng hiệu quả hoạt
động là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro phá sản của doanh
nghiệp. Trong nghiên cứu về xếp hạng tín dụng doanh nghiệp của Nguyễn
Trọng Hòa (2009) cũng cho rằng hiệu quả hoạt động là một trong số các
chỉ tiêu để xếp hạng tín dụng doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phá sản do phụ thuộc vào quy mô của công ty: Theo Garcia
– Marco và Robles Fernander (2008) các doanh nghiệp lớn có khả năng đa
dạng hóa rủi ro trên các dòng sản phẩm và quản lý rủi ro tốt hơn so với
những doanh nghiệp nhỏ. Tương tự như vậy, nghiên cứu của Saibol Ghosh
(2014), Salkeld (2011) và Nguyễn Trọng Hòa (2009) cho rằng các doanh
nghiệp nhỏ phải đối mặt với rủi ro cao hơn vì họ không có khả năng đa
dạng hóa danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro, do đó quy mô doanh
nghiệp có tác động ngược chiều với rủi ro phá sản. Những công ty lớn thì
mặc nhiên các nguồn lực về tài chính, tài sản, con người cũng sẽ lớn. Vì
15
vậy phá sản công ty có quy mô lớn sẽ liên quan đến các yếu tố về an sinh
xã hội, nên Chính phủ thường sẽ có những biện pháp hỗ trợ, tái cơ cấu.
Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác cũng có thể dẫn đến phá sản
công ty như: tuổi đời công ty, các chính sách vĩ mô của Chính phủ.
2.2 Một số nghiên cứu trƣớc về dự báo phá sản và nguy cơ phá sản
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về dự báo phá sản, đánh giá nguy cơ phá
sản của doanh nghiệp, tuỳ đặc điểm riêng của từng thị trường mà có sự thay đổi
tương ứng. Một số nghiên cứu tiêu biểu nhất có thể tóm tắt như sau:
Trong nghiên cứu về “Các chỉ số tài chính dự báo sự phá sản”, Beaver (1966)
cho rằng một trong những dấu hiệu để nhận biết công ty phá sản là công ty không
thanh toán được trái phiếu công ty khi đến hạn, không chi trả được cổ tức cho cổ
phiếu ưu đãi, có tài khoản ngân hàng bị thấu chi. Các phân tích kỹ thuật đơn biến
của mô hình dự báo phá sản của Beaver đã thiết lập nền tảng cho các nỗ lực sử dụng
đa biến để các tác giả khác đi theo. Beaver đã tiến hành so sánh 6 tỷ số tài chính,
bao gồm: dòng tiền/tổng nợ, thu nhập ròng/tổng tài sản, tổng nợ/tổng tài sản, vốn
lưu động/tổng tài sản, tài sản ngắn hạn/nợ ngắn hạn, tài sản ngắn hạn/chi tiêu hoạt
động hàng ngày giữa các công ty vỡ nợ và không vỡ nợ. Đối với mỗi tỷ số, tác giả
tìm ra một ngưỡng giới hạn. Từ đó nghiên cứu cho rằng có thể dự đoán được nguy
cơ vỡ nợ qua các tỷ số tài chính. Tuy nhiên trong nghiên cứu, Beaver (1966) chỉ
kiểm định khả năng dự báo của từng tỷ số tài chính riêng lẻ chứ không có sự kết
hợp giữa các tỷ số tài chính hay so sánh với các loại dự báo phá sản khác như dự
báo thông qua các biến thị trường.
Trong nghiên cứu có liên quan đến“Tỷ số tài chính, phân tích biệt số và dự
báo phá sản doanh nghiệp”Alman (1968) đã phát triển một mô hình dự báo phá sản
mới có tên gọi: kỹ thuật phân tích đa biệt số (Multiple Discriminant Analysis -
MDA) dựa trên sự kết hợp nhiều tỷ số để đưa ra một mô hình dự báo tốt hơn. Đây
là một kỹ thuật thống kê được dùng để phân loại một quan sát vào một nhóm cho
trước dựa vào các đặc trưng riêng biệt của quan sát đó. Kỹ thuật được sử dụng chủ
16
yếu để phân loại hoặc đưa ra những vấn đề mà các biến phụ thuộc xuất hiện trong
dạng định tính như: nam hay nữ, bị phá sản hoặc không bị phá sản. Vì vậy, bước
đầu tiên là phải phân nhóm rõ ràng. Số lượng các nhóm ban đầu có thể là hai hoặc
nhiều hơn. MDA tạo ra một kết hợp tuyến tính hoặc bậc hai của các biến - các đặc
trưng sao cho phân biệt tốt nhất giữa các nhóm.
Alman (1968) chọn 66 công ty sản xuất làm mẫu nghiên cứu ban đầu và chia
thành hai nhóm là nhóm 33 công ty đã nộp đơn xin phá sản và nhóm 33 công ty vẫn
đang hoạt động. Mô hình cho kết quả dự báo có độ chính xác đến 95% các công ty
phá sản trong thời gian trước 1 nămvà 72% trong vòng 2 năm. Tác giả sử dụng
phương pháp phân tích đa nhân tố (MDA) để đưa ra mô hình Z-core dự báo khả
năng phá sản của công ty với 5 biến: X1 - vốn lưu động/tổng tài sản; X2 - lợi nhuận
giữ lại/tổng tài sản; X3 - lợi nhuận trước thuế và lãi vay/tổng tài sản; X4 - giá thị
trưởng của vốn chủ sở hữu/giá trị sổ sách của tổng nợ; X5 - doanh thu/tổng tài sản.
Mô hình đưa ra hệ số cho các biến như sau:
Z = 0,012X1 + 0,014X2 + 0,033X3 + 0,006X4 + 0,999X5
Với mức đánh giá:
Nếu Z<1,81 công ty ở trong vùng có nguy cơ phá sản rất cao.
Nếu 1,81 Nếu Z>2,99 Công ty nằm trong vùng an toàn. Theo thời gian khi các điều kiện thay đổi thì khả năng dự báo của mô hình chỉ số Z-core (Altman 1968) giảm đi như là: qui mô các công ty thay đổi và xu hướng ngày càng lớn, sự thay đổi các chuẩn mực báo cáo tài chính, dữ liệu theo thời gian không còn nhiều ý nghĩa và nhiều nhân tố khác… Do vậy cần xây dựng mô hình mới liên quan đến tính thời gian của dữ liệu nghiên cứu. Năm 1977 Altman, Haldenman và Narayanan đã xây dựng mô hình mới để xác định nguy cơ phá sản của các tập đoàn (mô hình ZETA). Mô hình sử dụng dữ liệu trong giai đoạn 1969 đến 1975 gồm 53 công ty phá sản và 58 công ty không 17 phá sản. Các công ty này được chia thành 2 nhóm sản xuất và thương mại bán lẻ, với hệ thống chuẩn mực kế toán mới. Mô hình cho kết quả dự báo có độ chính xác đến 95% các công ty phá sản trong thời gian trước 1 năm và đến 70% các công ty phá sản trong thời gian trước 5 năm. Nghiên cứu cho thấy rằng không có sự khác biệt lớn giữa các công ty thuộc lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực khác. Mô hình đưa ra 7 biến để xác định nguy cơ phá sản: X1- tỷ lệ lợi nhuận trước thuế và lãi vay/tổng tài sản; X2- độ lệch chuẩn của X1 trong khoản 5 năm đến 10 năm; X3- lợi nhuận trước thuế và lãi vay/tổng lãi vay phải trả; X4- lợi nhuận chưa phân phối/tổng tài sản; X5- hệ số thanh khoản ngắn hạn; X6- vốn chủ sở hữu/tổng nguồn vốn; và X7- tổng tài sản của công ty lấy theo hàm log. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ đưa ra các biến để để dự báo phá sản nhưng không đưa ra các hệ số cho các biến nên không được sử dụng rộng rãi và kiểm định tính thực tiễn bởi các nghiên cứu khác. Đến năm 2000, Altman và các cộng sự đã phát triển từ mô hình dự báo năm 1968 thành ba mô hình dự báo khác nhau như sau: Mô hình chỉ số Z có dạng: Z= 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 + 1,0X5 Với mức đánh giá: Nếu Z<1,81 công ty ở trong vùng có nguy cơ phá sản rất cao. Nếu 1,81 Nếu Z>2,99 Công ty nằm trong vùng an toàn. 18 Mô hình chỉ số Z’ có dạng: *+ 1,0X5 Z‟= 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,6X4 * được xác định là tỷ lệ giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu/tổng nợ. Trong đó các biến X1, X2, X3, X5 được xác định giống mô hình chỉ số Z. Riêng biến X4 Với mức đánh giá: Nếu Z‟<1,23 công ty ở trong vùng có nguy cơ phá sản rất cao. Nếu 1,23 Nếu Z‟>2,9 Công ty nằm trong vùng an toàn. * Mô hình chỉ số Z’’ có dạng: * được xác định giống mô hình chỉ số Z‟. Z‟‟= 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4 Trong đó các biến X1, X2, X3, X4 Với mức đánh giá: Nếu Z‟‟<1,1 công ty ở trong vùng có nguy cơ phá sản rất cao. Nếu 1,1 Nếu Z‟‟>2,67 Công ty nằm trong vùng an toàn. Phương pháp phân tích đa nhân tố MDA được sử dụng rộng rãi trước những năm 1980. Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình là các biến độc lập phải tuân theo các giả định: có phân phối chuẩn, có hệ số tương quan thấp hoặc không tương quan ma trận hiệp phương sai của các nhóm là như nhau... mà thực tế các biến độc lập đôi khi rất khó để thỏa mãn được các yêu câu này. Từ các hạn chế đó sau những năm 1980 thì mô hình Logit và mô hình Probit được sử dụng rộng rãi hơn và mang lại hiệu quả cao hơn trong khả năng phân tích. Để khắc phục một số vấn đề liên quan đến việc phân tích đa biến, trong nghiên cứu “Tỷ số tài chính và dự báo xác suất phá sản”Ohlson (1980) đã sử dụng mô hình logit để dự báo phá sản của các công ty. Với dữ liệu bao gồm 105 công ty phá 19 sản và 2058 công ty không phá sản giai đoạn từ 1970 đến 1976 tại thị trường Mỹ Ohlson (1980) đã phát hiện ra rằng có 04 yếu tố cơ bản có ý nghĩa thống kê trong việc xác định khả năng phá sản. Các yếu tố đó bao gồm: quy mô công ty, cấu trúc tài chính, hiệu quả hoạt động, tính thanh khoản hiện tại. Kết quả có 9 biến độc lập được dùng để dự báo xác suất phá sản của công ty với các biến: TLTA (tổng nợ phải trả/tổng tài sản), CLCA (nợ ngắn hạn chia tài sản ngắn hạn) và INTWO (= 1 nếu lợi nhuận ròng âm trong 2 năm gần nhất, ngược lại = 0) có quan hệ thuận với xác suất phá sản. Còn các biến như: SIZE (log(tổng tài sản/chỉ số giá)), WCTA (vốn lưu động chia tổng tài sản), NITA (thu nhập ròng chia tổng tài sản), FUTL (các quỹ dự phòng chia tổng nợ phải trả), CHIN (= (NIt – NIt-1)/ (|NIt|- |NIt-1|) - đo lường sự thay đổi của thu nhập ròng lại có quan hệ nghịch chiều với xác suất phá sản. Trong khi biến OENEG (=1 nếu tổng nợ lớn hơn tông tài sản và ngược lại thì =0) lại không rõ ràng. Kết quả cho thấy mô hình Ohlson có thể dự đoán chính xác 92%- 96% các trường hợp phá sản 1-2 năm trước đó. Theodossiou (1991) đã tiến hành dự báo khả năng phá sản cho các công ty ở Hy Lạp trong giai đoạn 1975 – 1986 theo cả 2 phương pháp Logit và Probit. Kết quả cho thấy mức độ chính xác trong dự báo khả năng phá sản khi sử dụng mô hình Logit thì cao hơn so với kết quả thu được từ mô hình Probit, tuy nhiên chênh lệch là không nhiều. Ugurlu và Aksoy (2006) sử dụng cả hai mô hình Logit và một mô hình MDA để đánh giá doanh nghiệp phá sản và so sánh sự chính xác của hai mô hình trong một thị trường mới nổi Thổ Nhĩ Kỳ. Mẫu nghiên cứu bao gồm 54 doanh nghiệp trong đó có 27 doanh nghiệp phá sản đã được chọn trên thị trường chứng khoán Istanbul trong giai đoạn 1996 – 2003, 11 biến được đưa vào mô hình Logit và 10 biến được đưa vào mô hình MDA. Kết quả của nghiên cứu cho thấy mô hình Logit vượt trội hơn so với mô hình MDA. Trong một nghiên cứu sử dụng mô hình hồi qui Logistic để dự báo kinh doanh thất bại của các công ty trong ngành công nghiệp công nghệ tại thị trường của Thái 20 Lan. Hai tác giả Puagwatana và Gunawardana (2005) đã sử dụng mô hình chỉ số Z của Altman (có sự điều chỉnh) để dự báo, trong đó biến X4 - Tỷ lệ giá thị trường của vốn chủ sở hữu trên giá trị sổ sách của tổng nợ (Market value equity/Book value of total debt) được thay thế bởi biến thu nhập ròng trên tổng số cổ phiếu (Net income (loss)/Amount of Shares). Và mô hình dự báo được xây dựng theo phương trình: Xác suất (sức khỏe tài chính) = 1 / (l+e-z) Với Z = - 0,373 + 0,701X1 - 0,508X2+ 1,641X3 + 0,011X4 + 0,595X5 Trong đó: X1 - tỷ lệ vốn lưu động trên tổng tài sản; X2 - tỷ lệ lợi nhuận giữ lại trên tổng tài sản ; X3 - tỷ lệ lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên tổng tài sản; X4 - tỷ lệ thu nhập ròng trên tổng số cổ phần; X5 - tỷ số doanh thu trên tổng tài sản. Với kết quả thấy rằng mô hình dự báo chính xác 77,8% về sức khỏe tài chính tổng thể với mức độ tin cậy 95%. Ngoài các nghiên cứu được thực hiện tại thị trường Mỹ, năm 2007 Altman, Heine, Zhang và Yen thực hiện nghiên cứu về chẩn đoán tình trạng lâm nguy tài chính của các công ty trên Thị trường Chứng khoán Trung Quốc. Dữ liệu bao gồm 120 doanh nghiệp, nghiên cứu đã khảo sát 15 biến số tài chính liên quan đến các vấn đề như lợi nhuận, tính thanh khoản, khả năng thanh toán nhanh, hiệu quả của quản lý tài sản, tăng trưởng bền vững và cơ cấu vốn. Kết quả đưa ra mô hình dự báo phá sản của các công ty Trung Quốc bao gồm 4 biến như sau: Z = 0,517 – 0,460X6 + 9,320X7 + 0,388X8 + 1,158X9 Trong đó: X6: tổng nợ/tổng tài sản; X7: lợi nhuận ròng/tổng tài sản; X8: vốn lưu động/tổng tài sản; X9: lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản. Và đưa ra nhận định: 21 Những công ty có Z < 0,5 thuộc nhóm có nguy cơ phá sản cao. Những công ty có 0,5< Z < 0,9 thì thuộc diện có nguy cơ cần theo dõi, giám sát. Những công ty có Z > 0,9 được xếp loại các công ty có tài chính vững mạnh và an toàn. Trong một nghiên cứu khác về các công ty ở thị trường Trung Quốc nhóm tác giả Zhang, Chen, Yen và Altman đã sử dụng mô hình phân tích đa nhân tố (MDA) với việc chọn 32 chỉ số tài chính liên quan đến các vấn đề như: lợi nhuận, tính thanh khoản, hiệu quả của quản lý tài sản, tăng trưởng bên vững và đòn bẩy tài chính. Tác giả chọn mẫu gồm 164 công ty tại thị trường Trung Quốc thuộc 10 ngành công nghiệp khác nhau (74 công ty ở lĩnh vực sản xuất, 39 cồng ty hỗn hợp, 15 công ty bán buôn và bán lẻ, 12 công ty thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông, 10 công ty thương mại và dịch vụ (không bao gồm ngân hàng và bất động sản), 5 công ty thuộc lĩnh vực cung cấp năng lượng và nước, 5 thuộc về giao thông vận tải và kho bãi, 3 thuộc về kiến trúc và xây dựng và 1 công ty thuộc về lĩnh vực y tế) và được chia thành 2 nhóm. Nhóm 1, mẫu dùng để xây dựng mô hình gồm 86 công ty với 43 công ty thuộc diện kiểm soát đặc biệt “ST” (được định nghĩa là các công ty gặp khủng hoảng về tài chính) và 43 công ty không gặp các khó khăn vê tài chính. Nhóm 2, mẫu dùng để thử nghiệm mô hình bao gồm 78 công ty với 40 công ty bị khủng hoảng và 38 công ty được lựa chọn ngẫu nhiên từ những công ty không gặp khủng hoảng. Nghiên cứu đã xây dựng mô hình dự báo nguy cơ gặp khủng hoảng tài chính (phá sản) của các công ty bao gồm 7 biến sau: Z = -8,751+ 6,3X1 + 10,761X6 + 1,29X21 + 0,41X23 + 0,015X24 + 0,105X31 - 21,104X32 Trong đó: X1 - lợi nhuận trên tổng tài sản; X6 - luồng tiền mặt từ hoạt động kinh doanh trên tổng số cổ phiếu quỹ; X21 - log(tài sản cố định); X23 - tốc độ tăng trưởng từ hoạt động kinh doanh; X24 - lợi nhuận giữ lại trên lợi nhuận ròng; X31 - giá thị trường của cổ phiếu niêm yết trên tổng nợ; X32 - giá trị sổ sách của tổng vốn 22 cổ phần trên giá thị trường của tổng số cổ phần và đưa ra các mức chỉ số Z để dự báo phá sản: Nếu Z > 0,71: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản (công ty có sức khỏe tài chính tốt). Nếu - 0,5< Z < 0,71: Doanh nghiệp không thuộc diện kiểm soát “ST” nhưng cần phải xem xét (có thể xem là vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản). Nếu z < -0,5: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm có nguy cơ phá sản cao (công ty thuộc diện “ST”). Trong nghiên cứu về “Ứng dụng mô hình Ohlson dự báo phá sản các công ty thương mại của Trung Quốc” Wang và Campbell (2010) nhận thấy rằng các mô hình dự đoán có tỉ lệ dự đoán chính xác nói chung là trên 95% tùy thuộc vào điểm cắt được chọn. Đặc biệt khi họ áp dụng chọn 5 biến trong số 9 biến ban đầu của mô hình Ohlson (TLTA, WCTA, CLCA, OENEG, INTWO) thì kết quả nhận được tương tự như kết quả khi sử dụng cả 9 biến. Nghiên cứu của Abbas, Qaiser & Rashid Abdul (2011) đã tiến hành nghiên cứu các chỉ số tài chính có vai trò quan trọng trong dự báo phá sản doanh nghiệp ở khu vực phi tài chính của Pakistan dựa vào mẫu dữ liệu các công ty phá sản trong giai đoạn 1996-2006. Mô hình đã sử dụng 24 tỷ số tài chính như những biến độc lập và chia thành bốn nhóm chỉ số: khả năng sinh lợi, tính thanh khoản, đòn bẩy tài chính và hiệu quả sử dụng tài sản, và được kiểm nghiệm độc lập cho các công ty phá sản và không phá sản trong vòng 5 năm trước khi phá sản. Mô hình đã sử dụng 24 biến tài chính ban đầu để phân tích và có kết quả dự báo theo dạng mô hình sau: Z = 1,147X1 + 0,701X2 - 0,732X3 Trong đó: Z - điểm số phân biệt; X1 - doanh thu trên tổng tài sản; X2 - lợi nhuận trước thuế (EBIT); X3 - tỷ lệ dòng tiền (được tính bằng cách lấy lợi nhuận sau thuế cộng với khấu hao trong năm chia khấu hao trong năm cộng với những 23 thay đổi trong vốn làm việc (capital employed). Với nhận định những công ty có hệ số Z dưới 0 thì bị xếp vào dạng phá sản, còn nếu có Z trên 0 thì được xếp vào dạng không phá sản. Mô hình phân loại chính xác đến 76,9% cho thấy khả năng phân loại cao của 3 biến tài chính có ý nghĩa trong mẫu phân tích. Nghiên cứu của Akbar, Behzad, Seyed & Mohammad (2012) sử dụng mô hình logit để dự báo kiệt quệ tài chính. Đối tượng nghiên cứu bao gồm 98 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán Iran thời kỳ từ năm 2005 đến năm 2007, trong đó có một nửa doanh nghiệp phá sản. Tổng cộng có 19 tỷ số tài chính được sử dụng trong mô hình. Kết quả cho thấy mô hình phân loại chính xác 92% công ty không bị phá sản và 85% các công ty bị phá sản trong mẫu đã được nghiên cứu. Trong nghiên cứu về “phân tích rủi ro tín dụng doanh nghiệp bằng mô hình logistic” năm 2011 của tác giả Hoàng Tùng dựa trên 7 chỉ tiêu được tính toán từ báo cáo tài chính năm 2009 của khoảng 463 công ty trên thị trường chứng khoán Việt Nam đưa ra mô hình dự báo như sau: Z = .0,749 + 0,074Hs + 2,458Ts_TSNH - 5,985Ts_No - 2,060DBN + 0,992Ts_LNDT + 145,363ROA+ 26,151ROE Trong đó: Hs - số vòng quay tài sản (doanh thu / tổng tài sản); Ts_TSNH - tỷ suất tài sản ngắn hạn (tài sản ngắn hạn / tổng tài sản); Ts_No - tỷ suất nợ (nợ phải trả / tổng tài sản); DBN - đòn bẩy nợ (nợ phải trả / vốn chủ sở hữu); Ts_LNDT - tỷ suất lợi nhuận doanh thu (lợi nhuận / doanh thu); ROA - tỷ suất sinh lời tài sản (lợi nhuận / tổng tài sản); ROE - tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (lợi nhuận / vốn chủ sở hữu). Nghiên cứu đã đưa ra kết quả dự báo về rủi ro trả nợ của các công ty như sau: Nếu z < 0,5 thì công ty không có khà năng trả nợ (có rủi ro), ngược lại nếu z > 0,5 công ty có khả năng trả nợ (không rủi ro). Trong nghiên cứu “Xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế chuyển đổi”,Nguyễn Trọng Hòa (2009) đã sử dụng mô hình phân tích phân biệt và mô hình logit để phân tích xây dựng mô hình. 24 Với quan điểm doanh nghiệp có nguy cơ phá sản khi xảy ra một trong các tình huống: - Không có khả năng thực hiện nghĩa vụ tín dụng với bên đối tác. - Vốn lưu động thường xuyên nhỏ hơn không. - Giá trị thị trường của doanh nghiệp nhỏ hơn tổng nợ phải trả. Nghiên cứu đã tiến hành phân tích 37 chỉ tiêu tài chính được thu thập từ các báo cáo tài chính của 286 công ty trên cả hai sàn giao dịch TP.Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HASTC) tại thời điểm 31/12/2007. Tác giả đã chia mẫu ban đầu thành 5 mẫu thành phần đểước lượng hàm phân biệt và hàm phân bố logistic với các điều kiện nguy cơ phá sản khác nhau để xây dựng mô hình. Kết quả cả 5 nhóm thành phần đều xây dựng được các hàm ước lượng khác nhau phù hợp cho từng nhóm với các đặc điểm riêng. Và với 37 biến ban đầu thì chỉ có các biến được chọn như sau: tiền mặt / tổng tài sản; vốn lưu động / nợ ngắn hạn; vốn chủ sở hữu / tổng tài sản; giá vốn hàng bán / doanh thu thuần; chi phí quản lí doanh nghiệp / doanh thu thuần; hàng tồn kho / doanh thu thuần; các khoản phải thu / (doanh thu thuần / 365); lợi nhuận sau thuế / doanh thu thuần; lợi nhuận sau thuế / vốn chủ sở hữu. Từ đó kết hợp xếp hạng các công ty thành 9 hạng tò loại rất tốt (AAA) đến loại rất yếu kém (C). Trong báo cáo về xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp đã lên sàn chứng khoán Nguyễn Trọng Hòa dựa trên kết quả thực nghiệm đã xây dựng mô hình xếp hạng tín nhiệm theo hàm phân biệt như sau: Z= - 0,52 - 3,118X4 + 2,763X8 – 0,55X22 - 0,163X24 + 6,543X29 + 0,12X53 Trong đó: X4 - tỷ số Tổng vốn vay/ Tổng tài sản; X8 - tỷ số vốn lưu động/Tổng tài sản; X22 - tỷ số Các khoản phải thu/ Doanh thu thuần; X24 - tỷ số Các khoản phải thu/Nợ phải trả; X29 - tỷ số Lợi nhuận trước lãi vay và thuế/ Tổng tài sản; X53 - tỷ số Lợi nhuận sau thuế / Vốn chủ sở hữu. Với việc kết hợp các tỷ số thì tác giả cho rằng chỉ số Z càng lớn thì càng chứng tỏ doanh nghiệp có tình hình tài 25 chính tốt, kinh doanh hiệu quả. Từ đó đưa ra các điểm cắt để phân lớp xếp hạng doanh nghiệp. Như vậy, qua các nghiên cứu đã khảo sát về dự báo nguy cơ phá sản công ty. Đề tài nghiên cứu của tác giả cũng mang tính chất kế thừa các nghiên cứu thực nghiệm trên trong việc đánh giá nguy cơ phá sản của các công ty trên sàn chứng khoán. Về tổng quát, các nghiên cứu có cấu trúc tương đối giống nhau, biến phụ thuộc là nguy cơ phá sản công ty, biến độc lập là các tỷ số tài chính liên quan đến các vấn đề như: tính thanh khoản, hiệu quả hoạt động, tăng trưởng, đòn bẩy tài chính, quy mô công ty. Trong nghiên cứu của Tinoco và Wilson (2013) sử dụng phương pháp mạng thần kinh nhân tạo ANN để so sánh với kết quả dự báo theo phương pháp Logit, tuy nhiên mô hình mạng thần kinh nhân tạo khá phức tạp và khó nắm bắt hơn sử dụng mô hình Logit, chính vì thế nghiên cứu này chọn mô hình logit. Do tình hình thực tế tại Việt Nam và để thuận tiện trong việc thu thập các dữ liệu mà các biến độc lập không hoàn toàn giống với các nghiên cứu trước, có thể điều chỉnh thêm vào hoặc bớt đi một số biến. 26 3.1 Xây dựng giả thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu 3.1.1 Điều kiện của dữ liệu thu thập và biến lựa chọn trong mô hình nghiên cứu Việc lựa chọn các biến và dữ liệu sử dụng trong mô hình phải đáp ứng được các yêu cầu sau. Thứ nhất, số liệu được lựa chọn là số liệu từ báo cáo tài chính đã qua kiểm toán của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HNX trong giai đoạn 2012-2014. Thứ hai, các biến trong mô hình phải có đầy đủ dữ liệu trong giai đoạn 2012-2014. Thứ ba, mô hình hồi quy và các biến được lựa chọn phải là mô hình bao gồm các biến đã được các nhà kinh tế khác nghiên cứu và công bố trong các báo cáo trước đây. 3.1.2 Xây dựng mô hình 3.1.2.1 Mô hình nghiên cứu tổng quát Tổng quan về mô hình hồi qui Binary logistic Với hồi qui Binary Logistic, thông tin cần thu thập về biến phụ thuộc là một sự kiện nào đó có xảy ra hay không, biến phụ thuộc Y lúc này có hai giá trị “0” và “1”, với “0” là không xảy ra sự kiện ta quan tâm và “1” là có xảy ra sự kiện đó. Từ biến phụ thuộc này, ta sử dụng một thủ tục để dự đoán xác suất sự kiện xảy ra theo quy tắc nếu xác suất được dự đoán lớn hơn 0.5 thì kết quả sẽ là “có” và ngược lại cho kết quả là “không”. Mô hình hàm Binary Logistic 1 biến độc lập như sau: (3.1) Pi = E(Y=1/X) = P(Y=1) gọi là xác suất để sự kiện xảy ra (Y=1) khi biến độc lập X có giá trị cụ thể là Xi. Ký hiệu biểu thức (B0+B1X) là z, ta viết lại mô hình hàm hồi qui Binary Logisticnhư sau: 27 (3.2) Với công thức trên thì xác suất không xảy ra sự kiện là: (3.3) Ta có tỷ lệ : (3.4) Dùng phép biến đổi Logarit ta được kết quả cuối cùng là dạng hàm hồi quy Binary Logistic: (3.5) Mở rộng cho 2 hay nhiều biến độc lập Xk có dạng hàm như sau: (3.6) Áp dụng phương pháp tuyến tính hoá mô hình được viết thành: Z= ln[Pi/(1-Pi)] = B0 + B1X1 +…+ BkXk (3.7) Tương tự phương trình (3.7) có thể gọi là dạng hàm hồi qui của mô hình nghiên cứu. Cũng từ phương trình (3.7) ta có thể hiểu các hệ sốước lượng Bi của các biến Xi là khi tăng 1 biến Xi nào đó 1 đơn vị và các biến khác giữ không đổi thì ln[Pi/(l-Pi)] sẽ tăng tương ứng Bi đơn vị. Còn nếu chỉ quan tâm đến chiều hướng tác động của các biến độc lập thì ta thấy rằng hàm ln[Pi/(l-Pi)] là hàm đồng biến với biến Pi (tức là xác suất xảy ra sự kiện Y=1). Vì vậy nếu Bi mang dấu dương thì khi tăng Xi sẽ làm tăng khả năng Y nhận giá trị 1 trong khi hệ số Bi âm sẽ làm giảm khả năng (xác suất) để Y nhận giá trị 1. = (𝑃 1 − 𝑃 Bi điều này 𝜕𝑃(𝑌=1|𝑋
𝜕𝑋 Từ các biểu thức (3.1), (3.2) và (3.3) ta có được diễn dịch là tác động biên của Xi lên xác suất Y nhận giá trị 1 phụ thuộc vào 28 giá trị của Bi. Tác động biên của Xi lên khả năng Y nhận giá trị 1 xác định với xác suất ban đầu là P (thường chọn P = 0,5). Gọi “c” là giá trị điểm cắt thì một công ty có P(Y=1) > c tức là công ty đó có nguy cơ phá sản, trường hợp khác được gọi là công ty không có nguy cơ phá sản. Ở đây chúng ta cần lưu ý điểm cắt “c” có thể có giá trị khác nhau tùy vào sự phân tích chủ quan của người nghiên cứu đối với vấn đề cần nghiên cứu. Như trong đề tài là sự phân tích, đánh giá nền kinh tế Việt Nam, mức độ tin cậy của các thông tin có được, mức độ đánh giá cũng như chấp nhận rủi ro của người nghiên cứu mà có thể chọn điểm cắt là 0,5 hoặc có thể cao, thấp hơn. Dựa vào các nghiên cứu thực nghiệm đã khảo sát ở phần trên, kết hợp với việc phân tích tình hình thực tế tại Việt Nam. Đề tài thấy rằng nguy cơ phá sản công ty phụ thuộc vào các yếu tố: (1) tính thanh khoản, (2) hiệu quả hoạt động, (3) đòn bẩy tài chính, (4) tăng trưởng và (5) kì vọng thị trường. Từ đó tác giả đưa ra mô hình tổng quát của đề tài như sau: Trong đó: P (Y=1): Xác suất xảy ra nguy cơ phá sản P(Y=0): Xác suất không xảy ra nguy cơ phá sản Hệ số gốc của mô hình β0: βk: Hệ số hồi quy của biến Xk Các biến độc lập Xk : 3.1.2.2 Mô hình nghiên cứu cụ thể Biến phụ thuộc Căn cứ vào các nghiên cứu đã tham khảo kết hợp với tình hình thực tế tại thị trường Việt Nam, đềtài đưa ra quan điểm để xác định một công ty có nguy cơ phá sản khi để xảy ra 1 trong 2 tình huống sau: 29 - Các công ty bị Sở Giao dịch chứng khoán công bố hủy niêm yết, bị cảnh báo ngừng giao dịch hay những công ty có cổ phiếu bị đưa vào diện phải kiểm soát thì đều thuộc dạng các công ty có nguy cơ phá sản (ở đây nghiên cứu chỉ xét các công ty bị cảnh báo do liên quan đến vấn đề hiệu quả hoạt động, không xét các trường hợp khác chẳng hạn do vi phạm qui tắc công bố thông tin, thời hạn nộp các báo cáo tài chính...). - Các công ty có đồng thời ROA hoặc vốn lưu động (tổng tài sản ngắn hạn - tổng nợ ngắn hạn) âm và vốn hóa thị trường (số cổ phiếu đang lưu hành x giá thị trường 1 cổ phiếu) nhỏ hơn tổng nợ phải trả cũng là các công ty có nguy cơ phá sản. Ta thấy rằng với 2 chỉ tiêu trên thì việc xác định biến phụ thuộc (Y=l công ty có nguy cơ phá sản) sẽ có 2 trường hợp: thứ nhất, công ty có ROA âm và vốn hóa thị trường nhỏ hơn tổng nợ. Thứ hai, công ty có vốn lưu động âm và vốn hóa thị trường nhỏ hơn tổng nợ. Ngoài ra các trường hợp còn lại (Y=0) công ty không có nguy cơ phá sản. Các biến độc lập và các giả thuyết nghiên cứu Tính thanh khoản: là một yếu tốảnh hưởng đến nguy cơ phá sản công ty thông qua biến hệ số thanh khoản ngắn hạn (Altman và ctg, 1977), (Zang và ctg, 2007), Graham (2000) định nghĩa biến hệ số thanh khoản dùng để “ước tính thời gian mà công ty có thể tài trợ các chi phí kinh doanh hiện tại của mình từ các nguồn tài sản có thanh khoản với giả định công ty không thể tạo ra doanh thu nữa”. Tỷ số thanh khoản ngắn hạn được xác định bằng giá trị tài sản lưu động chia giá trị nợ ngắn hạn phải trả. Hệ số thanh khoản ngắn hạn cho ta biết được mỗi đồng nợ ngắn hạn phải trả của công ty có bao nhiêu đồng tài sản lưu động có thể sử dụng để thanh toán. Nếu hệ số này quá thấp cho thấy rằng khả năng thanh toán của công ty không tốt. Điều này có thể dẫn đến khi công ty cần thêm vốn để hoạt động thì sẽ gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, làm ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của công ty. Hoặc nếu công ty không thanh toán 30 được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu câu thì có thể ảnh hưởng đến uy tín, hình ảnh công ty, tình trạng xấu nhất có thể xảy ra là chủ nợ có thể nộp đơn đòi giải quyết phá sản theo qui định của pháp luật. H1: Hệ số thanh khoản ngắn hạn có tác động ngược chiều với xác suất xảy ra nguy cơ phá sản công ty. Hiệu quả hoạt động: là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến nguy cơ phá sản công ty (Altman và ctg, 1968, 1977), (Zang và ctg, 2007) và (Hoàng Tùng, 2011). Yếu tố này trong đề tài được đại diện bởi ba biến ROA, ROE và suất sinh lợi căn bản, nghiên cứu đưa cả ba yếu tố vào mô hình bởi vì: Nếu xét quan điểm của các tổ chức tín dụng thì họ quan tâm đến suất sinh lợi của tổng tài sản, để xem công ty có khả năng thu hồi vốn và trả được nợ hay không. Quan trọng hơn đây là một trong các tiêu chí mà Sở Giao dịch chứng khoán sẽ xem xét để xếp loại công ty vào diện cảnh báo hay không. Khác với tổ chức tín dụng, các nhà đầu tư khi đầu tư vào một công ty thì họ quan tâm nhiều nhất đến suất sinh lợi của vốn chủ sở hữu; tức một đồng họ đầu tư vào sẽ thu được bao nhiêu lãi. Còn suất sinh lợi căn bản thì phản ánh khả năng sinh lợi căn bản chưa tính đến ảnh hưởng của thuế và đòn bẩy tài chính. Biến này có thể cho ta thấy được một phần của yếu tố ngành trong nghiên cứu. Mỗi ngành khác nhau có thể sẽ có các chế độưu đãi về thuế suất, lãi vay khác nhau do mục tiêu của các nhà quản lí vĩ mô. Bên cạnh đó thì hai biến: vòng quay tổng tài sản được tính bằng cách lấy doanh thu thuần chia tổng tài sản (Altman, 1968, Sori và Karbhari, 2004) và tỷ số lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) chia cho doanh thu thuần cũng được xem xét đưa vào làm biến độc lập. Vòng quay tổng tài sản sẽ cho biết hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của công ty. Nó cho biết được mỗi đồng tổng tài sản sẽ tạo được mấy đồng doanh thu. Biến này cũng góp phần giải thích thêm yếu tố ngành cho mô hình nghiên cứu. Vì mỗi ngành khác nhau sẽ có vòng quay tổng tài sản khác nhau. Kết hợp với tỷ số EBIT trên doanh thu thuần giúp đánh giá thêm tính hiệu quả của yếu tố hoạt động đối với sự tồn tại của công ty hay nguy cơ phá sản công ty. 31 H2: Hiệu quả hoạt động của công ty (đại diện là ROA, ROE, suất sinh lợi căn bản, vòng quay tổng tài sản và tỷ số lợi nhuận trên doanh thu) đều có ảnh hưởng ngược chiều với xác suất xảy ra nguy cơ phá sản công ty. Đòn bẩy tài chính hay cơ cấu vốn: đây cũng là một yếu tố tác động đến nguy cơ phá sản công ty (Beaver, 1966, Sori và Karbhari, 2004, Zang và ctg, 2007). Tỷ số nợ trên tổng tài sản phản ánh mức độ sử dụng nợ của công ty. Với tỷ lệ đòn bẩy cao, doanh nghiệp sẽ gánh chịu rủi ro tài chính cao và đẩy doanh nghiệp tới khả năng bị phá sản cao. Tương tự như vậy, một giá trị nhỏ hoặc âm của tỷ số đòn bẩy tài chính cho thấy tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi vốn chủ sở hữu thay vì các khoản nợ. Nếu công ty sử dụng tốt yếu tố này thì có thê tận dụng lá chắn thuế. Nhưng chủ nợ thường lại muốn tỉ lệ này thấp vì như thế công ty có khả năng trả nợ cao hơn. Vì thế tùy ngành hoạt động và tình hình riêng của mỗi công ty mà có các tỷ số khác nhau. Tuy nhiên đây cũng là một tỷ số mà các tổ chức tín dụng quan tâm trong việc cấp tín dụng cho công ty. Đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng cùng chiều với xác suất xảy ra nguy H3: cơ phả sản công ty. Yếu tố tăng trƣởng: là một trong những biến tác động đến nguy cơ phá sản công ty(Altman, 1968, Zang và cộng sự, 2007)4. Nghiên cứu chỉ xét đến yếu tố tăng trưởng bình thường, không xét đến sự tăng trưởng nóng (tăng trưởng quá mức) hay tăng trưởng bền vững (dựa trên lợi nhuận giữ lại). Một công ty có tỷ lệ tăng trưởng dương thì chăc chắn xác suất xảy ra nguy cơ phá sản thấp. Ngược lại nếu một công ty có tỷ lệ tăng trưởng âm thì nguy cơ phá sản sẽ lớn hơn. Do đặc thù của kinh tế Việt Nam và để thuận tiện trong việc thu thập số liệu đề tài tính yếu tố tăng trưởng qua hai biến là: tốc độ tăng doanh thu thuần và tốc độ tăng tổng tài sản. Một công ty vẫn có tốc độ tăng doanh thu và tăng tổng tài sản dương thì thường cho thấy công ty đang có các hoạt động sản xuất kinh doanh tốt và ngược lại. Với những công ty có tốc độ tăng trưởng quá cao đôi khi lại có tác 32 dụng ngược lại (tăng nguy cơ phá sản), vì thế chúng ta cần lưu ý khi phân tích kết quả. H4: Tăng trưởng bình thường của công ty có tác động ngược chiểu với nguy cơ phả sản công ty. Yếu tố kì vọng của thị trường, giá cổ phiếu của một công ty phụ thuộc rất nhiều vào tình hình sức khỏe của công ty đó. Nếu công ty đang phát triển mạnh, sức khỏe tài chính tốt, triển vọng ngành nghề tốt, dĩ nhiên giá cổ phiếu công ty đó sẽ cao. Ngược lại nếu công ty có tình hình sức khỏe kém, gặp khó khăn về tài chính thì mặc nhiên giá cổ phiếu sẽ giảm. Như vậy giá cổ phiếu phản ánh sự kì vọng của nhà đầu tư, thị trường. Nếu sự kì vọng là tốt có thể hiểu sức khỏe công ty đang tốt và nguy cơ phá sản sẽ thấp, ngược lại thì nguy cơ phá sản sẽ cao. Yếu tố kì vọng của thị trường trong đề tài chọn đại diện bởi tỷ số vốn hóa thị trường chia tổng nợ. Với biến vốn hóa thị trường chia tổng nợ cho thấy rằng mỗi đồng nợ có thể huy động được bao nhiêu đồng từ thị trường để có thể thanh toán cho đồng nợ đó. Trong yếu tố kì vọng của thị trường thì biến vôn hóa thị trường / tổng H5: nợ có ảnh hưởng ngược chiều với nguy cơ xảy ra phá sản công ty. 33 Bảng 3.1 Bảng tóm tắt các biến số và dấu kỳ vọng trong mô hình nghiên cứu Altman (1977), (-) 1 X1 Tài sản lưu động / nợ
ngắn hạn phải trả Thanh
khoản Zang (2007) Hệ số
thanh
khoản Altman (1968, 1977), 2 ROA X2 Lợi nhuận sau thuế /
tổng tài sản Puagwatana & Gunawardana(2005),
Zang (2007), Hoàng Tùng (2011) ROE 3 X3 Lợi nhuận sau thuế /
VCSH Hoàng Tùng (2011), Nguyễn Trọng
Hòa (-) EBIT / tổng tài sản 4 X4 EBIT/TT
S Atlman (1968, 1977), Puagwatana &
Gunawardana (2005) Hiệu
quả
hoạt
động Doanh thu thuần / 5 X5 DTT/TT
S tổng tài sản Atlman (1968), Puagwatana
&Gunawardana (2005), Rashid
&Abbas (2011) 6 X6 EBIT/D
TT EBIT / Doanh thu
thuần Hoàng Tùng (2011), Nguyễn Trọng
Hòa Tổng nợ / tổng tài sản (+) 7 X7 Đòn bẫy
tài chính Đòn bẩy
tài chính Beaver (1966), Altman (2007), Ohlson
(1980), Wang & Campbell (2010),
Hoàng Tùng (2011) Zang & Chen 8 X8 Tăng
DTT Tăng DTT = (DT năm
sau - DT năm trước) /
(DT năm trước) (-) Tăng
trưởng 9 X9 Tăng
TTS Tăng TTS = (TTS năm
sau - TTS năm trước) /
(TTS năm trước) VHTT/ Zang & Chen (-) 10 X10 Vốn hóa thị trường /
tổng nợ Tổngnợ Kì vọng
thị
trường Nợ ngắn hạn / tổng nợ 11 X11 Cơ cấu
nợ Cơ cấu
nợ Biến
kiểm
soát 12 X12 Cơ cấu
tài sản Cơ cấu
tài sản Tài sản ngắn hạn / tổng
tài sản Hoàng Tùng (2011), Nguyễn Bảo
Khang (2012) Ghi chú: Dấu + : tác động cùng chiều; Dấu - : tác động nghịch chiều Nguồn: Tổng hợp của tác giả 34 3.2 Dữ liệu nghiên cứu 3.2.1 Dữ liệu thu thập Dữ liệu nghiên cứu của đề tài là dữ liệu thứ cấp được trích từ báo cáo tài chính (đã được kiểm toán) kết thúc năm 2012, 2013, 2014 của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán HOSE và HNX. Nghiên cứu cũng loại trừ các quan sát là các tổ chức tín dụng như: ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài chính vì các công ty này có cơ cấu tài sản và vốn khác với các công ty sản xuất kinh doanh khác. Theo Li-Jen Ko, Edward J. Blocher and P. Paul Lin (2003) cho thấy rằng các mô hình sử dụng tỷ số tài chính trong năm ngay trước khi xảy ra việc phá sản thường đưa tới kết quả tốt nhất, do đó thời gian được nghiên cứu là các năm 2012, 2013, 2014 để mô hình có tính cập nhật. Trong tổng số 668 doanh nghiệp thu thập số liệu hoạt động liên tục trong 3 năm 2012-2014, mẫu cuối cùng được chọn gồm 471 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có giá trị dị biệt ở các biến bị loại ra khỏi mẫu. 3.2.2 Xử lý dữ liệu thu thập Sau khi xác định được đối tượng, phương tiện và phạm vi nghiên cứu, tác giả tiến hành các bước lọc mẫu như sau: Bƣớc 1: Đầu tiên trong 668 doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HNX hoạt động liên tục trong khoảng thời gian 2012-2014, tác giả loại bỏ 79 doanh nghiệp có báo cáo tài chính không được kiểm toán và là các tổ chức tín dụng, tác giả chọn 589 doanh nghiệp. Bƣớc 2: Tác giả tiếp tục loại bỏ các doanh nghiệp có vốn hóa thị trường bằng 0 và doanh thu 2 năm liền kề bằng 0, với tiêu chí trên tác giả loại 86 doanh nghiệp, còn lại 503 doanh nghiệp. Bƣớc 3: Để tránh làm ảnh hưởng đến kết quả hồi quy, với 503 doanh nghiệp tác giả loại 32 doanh nghiệp cho ra báo cáo dị biệt như: thanh 35 khoản, vốn hóa thị trường/tổng nợ, EBIT/doanh thu thuần cho ra kết quả quá cao (229,779; 327,193) hay quá thấp (-39,866). Từ đó còn lại 471 doanh nghiệp. Bƣớc 4: Tác giả đã xây dựng bộ dữ liệu gồm 471 doanh nghiệp niêm yết trên sàn HOSE và HNX, thời gian nghiên cứu là 3 năm (2012- 2014), kích cở mẫu gồm 1413 quan sát. Dữ liệu ban đầu (từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán – dữ liệu thô) sẽ được trích ra xử lý qua excel để tính toán và tạo ra các biến số cần thiết trong quá trình nghiên cứu. Với điều kiện để xếp các công ty vào diện phá sản bao gồm 2 trường hợp: Trường hợp 1: ROA < 0 và vốn hoá thị trường < tổng nợ phải trả. Trường hợp 2: Vốn lưu động < 0 và vốn hoá thị trường < tổng nợ phải trả. Bảng 3.2 thống kê số lượng công ty có nguy cơ phá sản ứng với các điều kiện xác định nguy cơ phá sản khác nhau: Bảng 3.2 Tỷ lệ các thành phần trong nhóm quan sát 1413 1326 87 Trường hợp 1 (100%) (93,84%) (6,16%) 1413 1276 137 Trường hợp 2 (100%) (90,3%) (9,69%) 1413 1203 210 Trường hợp 1 hoặc trường hợp 2 (100%) (85,13%) (14,86%) 1413 1367 46 Đồng thời cả 2 trường hợp (100%) (96,74%) (3,26%) Nguồn: tác giả tính toán từ số liệu thực tế thu thập được Do số lượng các quan sát có nguy cơ phá sản tương đối thấp nên đề tài sẽ sử dụng điều kiện để xác định nguy cơ phá sản là trường hợp 1 hoặc trường hợp 2, tức số quan sát có nguy cơ phá sản là 210 (chiếm 14,86%) để chạy mô hình hồi quy. 36 3.3 Phƣơng pháp hồi quy Nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng cho việc phân tích hồi quy. Những ưu điểm của việc sử dụng dữ liệu bảng trong ước lượng, theo Gujarati (2004), như sau: - Dữ liệu bảng liên kết các đối tượng cá thể (các công ty, các quốc gia) theo thời gian, nên có sự không đồng nhất (heterogeneity) giữa các cá thể này. Kỹ thuật ước lượng dữ liệu bảng có thể xem xét đến sự không đồng nhất này bằng cách đưa vào những biến số đặc trưng riêng của từng cá thể (các công ty, các quốc gia) nghiên cứu. - Bằng cách kết hợp những chuỗi quan sát theo thời gian và không gian, dữ liệu bảng hạn chế được hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến số độc lập, bậc tự do được tăng thêm và hiệu quả hơn. - Dữ liệu bảng có thể phát hiện và đo lường một cách tốt hơn sự tác động không thể quan sát được theo dữ liệu chỉ theo thời gian hoặc chỉ theo không gian thuần túy, tránh được phần nào việc bỏ sót các biến số có ý nghĩa trong mô hình. - Dữ liệu bảng có thể tối thiểu hóa độ chệch (bias) có thể phát sinh nếu chúng ta kết hợp các cá thể thành nhóm. Tác giả so sánh phương pháp chạy mô hình FEM (Fixed Effect model) và REM (Random Effect model) để lựa chọn mô hình phù hợp nhất cho dữ liệu bảng. Sau khi thu thập xong dữ liệu, số liệu được xử lý theo trình tự khai báo biến, nhập dữ liệu, khảo sát tương quan cặp giữa các biến, chạy thống kê mô tả và trình bày dữ liệu, phân tích hồi quy. Trong việc lý giải kết quả nghiên cứu, tác giả sẽ sử dụng các lý thuyết đã nghiên cứu, kết hợp thực tiễn của môi trường khảo sát để biện luận ý nghĩa kinh tế của mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa các biến độc lập từ kết quả kiểm định. 37 3.3.1 Phương pháp hồi quy dữ liệu bảng Đối với dữ liệu bảng, có rất nhiều phương pháp để ước lượng hồi quy cho mô hình nghiên cứu. Mỗi một phương pháp đều có ưu và nhược điểm của nó, hầu hết các nghiên cứu sử dụng từ mô hình phổ biến nhất đến phức tạp hơn, phù hợp với dữ liệu nghiên cứu. Như đã trình bày ở phần trên, do biến phụ thuộc là biến nhị phân nhận giá trị là 0 và 1 nên mô hình hồi quy được chọn trong mô hình nghiên cứu là mô hình logit. Với dữ liệu hồi quy là dữ liệu bảng thì có 2 mô hình thông dụng để chạy hồi quy là:mô hình các yếu tố ảnh hưởng cố định (Fixed Effect model – FEM) và mô hình các yếu tố tác động ngẫu nhiên (Random Effect model – REM). Mô hình FEM phân tích những khác biệt về các hệ số chặn của nhóm, trong khi đó giả sử rằng các độ dốc là giống nhau và sai số không đổi. Ngược lại, mô hình REM phân tích những thành phần của phương sai và sai số, trong khi giả sử rằng các hệ số chặn không thay đổi và các độ dốc là giống nhau. 3.3.2 Trình tự thực hiện nghiên cứu định lượng Bằng phương pháp xử lý số liệu và ước lượng hồi quy đã được trình bày ở phần trên, nghiên cứu thực hiện lần lượt theo trình tự sau: 3.3.2.1 Phân tích thống kê mô tả Phương pháp này được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ bản của dữ liệu thu thập nhằm có cái nhìn tổng quát nhất về mẫu nghiên cứu. Thông qua phân tích thống kê mô tả, có thể đánh giá được sơ bộ về các biến độc lập đưa vào mô hình nghiên cứu (giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất). 3.3.2.2 Phân tích tương quan Được sử dụng để xem xét mối quan hệ giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc. Kết quả phân tích tương quan có thể bước đầu đánh giá được các dự báo của mô hình. Ngoài ra, trong trường hợp các biến độc lập có mối tương quan cao thì đây là dấu hiệu của đa cộng tuyến. Để phát hiện trường hợp một biến có tương quan tuyến tính mạnh với các biến còn lại của mô hình, ta khảo sát các cặp tương quan 38 giữa các biến độc lập được thực hiện bằng cách thiết lập ma trận hệ số tương quan để tìm ra những cặp biến có hệ số tương quan cao. Gujarati K. (1995) cho rằng để loại trừ vấn đề đa cộng tuyến, cần nghiên cứu kỹ hệ số tương quan giữa các biến, nếu chúng vượt quá 0,8 mô hình hồi quy sẽ gặp vấn đề đa cộng tuyến nghiêm trọng. 3.3.2.3 Phân tích hồi quy Trong khi phân tích tương quan kiểm tra có tồn tại mối tương quan giữa các biến hay không thì phân tích hồi quy được dùng để đo lường mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập với biến phụ thuộc, qua đó cho biết chiều tác động của từng biến độc lập đến biến phụ thuộc. Phân tích này sẽ cho phép tác giả đưa ra những bằng chứng xác thực để trả lời các câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Thông qua phương pháp hồi quy Binary logistic, hằng số và các tham số của mô hình sẽ được ước lượng. Hệ số Prob (p-value) của kết quả phân tích hồi quy cho biết mức độ tác động của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc. Các mức thống kê có ý nghĩa thường được sử dụng là 1%, 5% hoặc 10% (hay nói cách khác độ tin cậy là 99%, 95% hoặc 90%). Trong luận văn này, tác giả chọn mức thống kê là 5%, tức là biến độc lập chỉ được xem là có ảnh hưởng mạnh đến biến phụ thuộc khi giá trị Prob của từng biến độc lập trong mô hình hồi quy nhỏ hơn 5% (p-value <0,05), và ngược lại. Các bước thực hiện phân tích hồi quy và kiểm định trong đề tài này: Bƣớc 1: So sánh mô hình theo phương pháp FEM với phương pháp REM, tác giả kiểm chứng bằng kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình. Bƣớc 2: Sau khi lựa chọn phương pháp chạy mô hình phù hợp, tác giả sẽ kiểm tra đa cộng tuyến, kiểm định ý nghĩa các hệ số, đo lường độ chính xác của mô hình và phân tích đường cong ROC 39 3.3.3 Các phương pháp kiểm định 3.3.3.1 Kiểm định lựa chọn mô hình Kiểm định Hausman Trong 2 mô hình Fixed Effect và Random Effect, để lựa chọn mô hình hồi quy nào là phù hợp nhất tác giả sẽ thực hiện kiểm định Hausman (1978) để quyết định lựa chọn mô hình. Trong đó, nếu giả thiết H0 của kiểm định Hausman là đúng thì cả Fixed Effect và Random Effect đều tương thích nhưng Random Effect sẽ giải thích tốt hơn nên lựa chọn Random Effect. Ngược lại nếu giả thiết H0 là sai thì Fixed Effect sẽ giải thích tốt hơnRandom Effect nên lựa chọn Fixed Effect. 3.3.3.2 Các kiểm định giả thuyết hồi quy Kiểm định đa cộng tuyến Khi phân tích tương quan, hệ số tương quan giữa các biến cao là dấu hiệu của hiện tượng đa cộng tuyến. Để phát hiện trường hợp một biến có tương quan tuyến tính mạnh với các biến còn lại của mô hình, ta khảo sát các cặp tương quan giữa các biến độc lập được thực hiện bằng cách thiết lập ma trận hệ số tương quan để tìm ra những cặp biến có hệ số tương quan cao Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008). Gujarati K. (1995) cho rằng để loại trừ vấn đề đa cộng tuyến, cần nghiên cứu kỹ hệ số tương quan giữa các biến, nếu chúng vượt quá 0,8 mô hình hồi quy sẽ gặp vấn đề đa cộng tuyến nghiêm trọng. Do đó, để giảm thiểu đa cộng tuyến tác giả sẽ loại bỏ biến ra khỏi mô hình hồi quy đối với cặp biến có hệ số tương quan lớn hơn 0,8. Ngoài ra, để đảm bảo tính chính xác, tác giả sẽ sử dụng thêm hệ số phóng đại phương sai (VIF – Variance Inflation Factor) để kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Theo quy tắc khi VIFj > 10 thì mức độ cộng tuyến được xem là cao, và khi đó các hệ số hồi quy được ước lượng với độ chính xác không cao. Vì vậy các biến có hệ số VIF > 10 sẽ bị loại ra khỏi mô hình và tiếp tục phân tích hồi quy cho đến khi không còn biến nào có giá trị VIF > 10, tức là không còn hiện tượng đa cộng tuyến. 40 Kiểm định ý nghĩa các hệ số của mô hình (kiểm định Wald) Trong mô hình nghiên cứu căn cứ vào hệ số ý nghĩa thống kê (p-value) để loại bỏ các biến có mức ý nghĩa thống kê thấp. Tuy nhiên, ta cần phải kiểm định xem việc loại bỏ các biến này có ảnh hưởng nhiều đến khả năng dự báo của mô hình hay không. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) cho rằng đối với hồi quy tuyến tính thì sử dụng kiểm định T để kiểm định giả thiết H0: βk=0. Còn đối với mô hình hồi quy Binary Logistic, đại lượng Wald Chi Square được sử dụng để kiểm định ý nghĩa thống kê của hệ số hồi quy tổng thể. Từ kết quả kiểm định Wald ta có thêm cơ sở để loại bỏ các biến có mức ý nghĩa thống kê thấp mà không ảnh hưởng kết quả dự báo của mô hình. Kiểm định độ chính xác của mô hình so với kết quả thực tế Sau khi phân tích hồi quy tác giả sẽ kiểm định xem mô hình hồi quy này đánh giá đúng và sai bao nhiêu công ty được xếp vào có hay không có nguy cơ phá sản theo điều kiện: + Trường hợp 1: ROA < 0 và vốn hoá thị trường < tổng nợ phải trả. + Trường hợp 2: Vốn lưu động < 0 và vốn hoá thị trường < tổng nợ phải trả. Phân tích đƣờng cong ROC Sử dụng AUC (Area Under the ROC Curve). AUC là vùng diện tích vùng dưới đường ROC cho đến điểm có tọa độ (1;0) ở góc phải của đồ thị. Altman và các cộng sự (2010) đã cho rằng “vùng dưới đường cong ROC (AUC) là một công cụ đo lường mức độ chính xác trong dự báo của mô hình, với giá trị bằng 1 đại diện cho một mô hình hoàn hảo”. Hay nói cách khác, nếu đường ROC càng gần điểm (0;1) ở góc trái của đồ thị thì khả năng dự báo của mô hình càng tốt. 41 4.1 Thống kê mô tả các biến định lƣợng trong mô hình Để có đánh giá sơ bộ về các biến độc lập dựa vào mô hình nghiên cứu. Bảng 4.1 sẽ trình bày tóm tắt các thống kê về giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất, giá trị nhỏ nhất của các biến độc lập trong mô hình nghiên cứu. Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến định lƣợng Hệ số thanh khoản 1413 1,838117 1,272227 0,143 9,786 ROA 0,719 1413 0,0893609 0,1478275 -1,134 ROE 0,398 1413 0,0463687 0,0713238 -0,39 0,432 EBIT/Tổng tài sản 1413 0,0612994 0,0738916 -0,53 1413 1,173648 1,107951 0 10,632 Doanh thu thuần/Tổng
tài sản EBIT/Doanh thu thuần 1413 0,0568401 0,1812128 -2,124 0,809 Đòn bẩy tài chính 1413 0,5233121 0,2140167 0,027 0,967 Tăng doanh thu thuần 1413 0,111644 0,668054 -1 11,304 Tăng tổng tài sản 1413 0,0671904 0,239975 -0,687 2,808 1413 1,348656 2,115389 0,021 20,269 Vốn hóa thị
trường/Tổng nợ Cơ cấu nợ 1413 0,8233892 0,222019 0,052 1 Cơ cấu tổng tài sản 1413 0,6212562 0,2276448 0,027 0,995 Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả từ phần mềm Stata 12 42 Bảng 4.1 thể hiện rằng: Hệ số thanh khoản ngắn hạn (X1) - tài sản ngắn hạn trên nợ ngắn hạn:có giá trị lớn nhất là 9,786 của LBE năm 2012, giá trị nhỏ nhất là 0,143 của SBA năm 2012, giá trị trung bình của các doanh nghiệp là 1,84 và độ lệch chuẩn là 1,272. Các biến đại diện cho hiệu quả hoạt động: ROA (X2) - Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản: có giá trị trung bình là 0,89 với giá trị nhỏ nhất thuộc về mã PVX vào năm 2014 là -1,134 giá trị lớn nhất là 0,719 của mã LGC năm 2014. Nhìn chung, tỷ số lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản của các quan sát ở mức tương đối nhỏ. Đặc biệt có 139/1413 quan sát có giá trị âm thể hiện thời điểm các công ty làm ăn thua lỗ chiếm 9,84% tổng số quan sát. ROE (X3) - Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu:có giá trị trung bình là 0,046 với giá trị nhỏ nhất -0,39 thuộc về mã VNH năm 2014, còn giá trị lớn nhất 0,398 thuộc về WCS năm 2014. Cũng giống như biến ROA thì biến ROE cũng có 139/1413 quan sát có giá trị âm. X4 - EBIT chia tổng tài sản: cũng có phân bố tương tự như ROE và ROA khi có giá trị trung bình là 0,061 giá trị lớn nhất thuộc về mã NNC năm 2014 với giá trị là 0,432 và giá trị nhỏ nhất thuộc về LAF năm 2012 với giá trị là -0,53. X5 - doanh thu thuần trên tổng tài sản: có giá trị trung bình là 1,174 giá trị nhỏ nhất quan sát được là 0 thuộc về mã CNV năm 2014 và giá trị lớn nhất là 10,632 thuộc về mã COM năm 2014. X6 - EBIT trên doanh thu thuần:Biến độc lập sau cùng trong yếu tố hiệu quả hoạt động có giá trị trung bình là 0,057 giá trị lớn nhất là 0,809 của mã SDU năm 2013 và giá trị nhỏ nhất là -2,124 của mã PV2 năm 2014. Đòn bẩy tài chính (X7) - tỷ số nợ trên tổng tài sản: có giá trị trung bình là 0,523. Đây là tỷ số mà nhà đầu tư rất quan tâm vì nếu tỷ số này càng cao thì công ty sẽ tận dụng được lá chắn thuế. Trong giai đoạn nền kinh tế gặp nhiều khó khăn thì việc sử dụng đòn bẩy tài chính một cách hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt 43 động của công ty. Vì vậy có thể coi đây là một biến ảnh hưởng đến quyết định chiến lược hoạt động của người chủ công ty và tác động đến nguy cơ phá sản của công ty. Giá trị lớn nhất của biến X7 là 0,967 của mã VMD năm 2014, giá trị nhỏ nhất của biến X7 là 0,027 của mã IDJ năm 2014. Các biến đại diện cho tăng trƣởng: Tăng trưởng là yếu tố phản ánh sự lớn mạnh của công ty. Trong nghiên cứu thì tăng trưởng được đại diện bởi hai biến tốc độ tăng tổng tài sản (X9: đại diện cho sự lớn mạnh về giá trị tổng tài sản, một mức độ nào đó có thể coi là qui mô của công ty) và tốc độ tăng doanh thu thuần (X8: đại diện cho sự lớn mạnh về hoạt động của công ty). Về tốc độ tăng doanh thu thuần mẫu quan sát có giá trị trung bình là 0,112. Mã có tốc độ tăng doanh thu thuần lớn nhất là PXA năm 2014 với giá trị là 11,304 và nhỏ nhất thuộc về mã PVR năm 2013 với giá trị là -1. Còn tốc độ tăng tổng tài sản X9 của nhóm mẫu quan sát có giá trị trung bình là 0,067 giá trị nhỏ nhất là -0,687 năm 2013 của DXV giá trị cao nhất là 2,808 vào năm 2014 của LGC. Yếu tố kì vọng của thị trƣờng (X10) - vốn hoá thị trường chia tổng nợ: có giá trị trung bình là 1,349 giá trị nhỏ nhất là 0,021 vào năm 2013 của VMD, giá trị lớn nhất là 20,269 năm 2012 của MCC. Biến kiểm soát: Bên cạnh các biến chính thì các biến thuộc về cơ cấu nợ và tài sản được đưa thêm vào trong nghiên cứu như biến X11 (nợ ngắn hạn trên tổng nợ) cho thấy thêm rằng cơ cấu nợ của các mẫu quan sát. Với giá trị trung bình là 0,823 giá trị nhỏ nhất là 0,052 và giá trị lớn nhất là 1 thì cơ cấu nợ của các mẫu quan sát là nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn. Trong khi đó biến cơ cấu tài sản (X12 - tài sản ngắn hạn chia tổng tài sản) thì lại có giá trị trung bình là 0,621 giá trị nhỏ nhất là 0,027 giá trị lớn nhất là 0,995. Mặc dù trong cơ cấu tài sản thì tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản nhưng vẫn nhỏ hơn cơ cấu của nợ, đây là điểm mà ta cần phải lưu ý khi phân tích. 44 4.2 Phân tích ma trận tƣơng quan Hệ số tương quan (r) là chỉ số thống kê phản ánh mức độ quan hệ tuyến tính giữa các biến. Hệ số này biến thiên từ -1 đến +1. Thông qua hệ số tương quan có thể biết chiều tương quan riêng giữa biến phụ thuộc với biến giải thích. Đồng thời cho thấy xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình hồi quy (nếu r > 0,8 Theo Gujarati K. (1995)). Trong trường hợp có sự khác biệt về xu hướng tác động của các biến độc lập và biến phụ thuộc giữa kết quả theo hệ số tương quan và kết quả mô hình hồi quy. Khi đó, mô hình hồi quy có thể chưa đáp ứng đủ các giả thuyết của mô hình nghiên cứu, điều này làm dấu của hệ số ước lượng có thể khác biệt so với xu hướng tác động dựa trên số liệu thực tế. Nhìn vào ma trận hệ số tương quan giữa các biến trình bày trong bảng 4.2 cho thấy những mối quan hệ giữa biến phụ thuộc với các biến độc lập và biến kiểm soát trong mô hình. 45 Bảng 4.2 Ma trận hệ số tƣơng quan 1 -0.3127 1 -0.4183 0.1122 1 -0.4008 0.2784 0.8579 1 -0.2543 0.1149 0.7426 0.8254 1 -0.1268 -0.0689 0.2435 0.2219 0.2331 1 -0.2007 0.0622 0.4974 0.5033 0.5547 -0.0266 1 0.3318 -0.6461 -0.1866 -0.4032 -0.1990 -0.0161 -0.0664 1 -0.0794 -0.0007 0.0909 0.0596 0.0578 -0.0016 0.1043 0.0316 1 -0.0531 -0.0384 0.2813 0.2470 0.1900 -0.0041 0.1598 0.0780 0.1360 1 -0.2329 0.6277 0.2342 0.4681 0.3372 0.0185 0.1532 -0.6768 -0.0216 0.0023 1 -0.2285 0.0167 0.0950 0.1428 0.0992 0.3116 -0.1210 -0.2418 -0.0238 -0.0654 0.1743 1 -0.3376 0.1866 0.0835 0.0456 0.0229 0.1883 -0.0903 0.1783 0.0359 -0.009 -0.1469 0.5239 1 Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả từ phần mềm Stata 12 Với Y – Nguy cơ phá sản; X1- Hệ số thanh khoản ngắn hạn; X2– ROA; X3– ROE; X4- EBIT trên tổng tài sản; X5 – doanh thu thuần trên
tổng tài sản; X6– EBIT trên doanh thu thuần; X7 - Đòn bẩy tài chính; X8 - tăng doanh thu thuần; X9- tăng tổng tài sản; X10 - kì vọng
của thị trường; X11- cơ cấu nợ; X12 - cơ cấu tài sản. 46 Kết quả tại bảng 4.2 cho thấy, các biến độc lập và biến kiểm soát đều có mối quan hệ tuyến tính với biến phụ thuộc. Tuy nhiên, mối quan hệ tuyến tính này là yếu (r < 0,4 theo Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008)); và chiều hướng tác động phù hợp với kỳ vọng của giả thuyết cũng như kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả trước. Cụ thể như sau: Biến phụ thuộc Y có tương quan ngược chiều với biến độc lập X1 (hệ số thanh khoản) với giá trị -0,3127, cho thấy tỷ lệ hệ số thanh khoản càng cao thì xác suất xảy ra kiệt quệ tài chính càng thấp và ngược lại. Mối tương quan ngược chiều này là phù hợp với kết quả nghiên cứu của Alman (1977) và Zang (2007). Mối tương quan ngược chiều với các biến hiệu quả hoạt động X2,X3, X4,X5,X6 (ROA, ROE, EBIT/tổng tài sản, doanh thu thuần/tổng tài sản, EBIT/doanh thu thuần) cho thấy khả năng sinh lợi của doanh nghiệp càng cao thì nguy cơ xảy ra phá sản của doanh nghiệp càng thấp và ngược lại. Mối tương quan ngược chiều này là phù hợp với kết quả nghiên cứu của Alman (1977), Puagwatana & Gunawardana (2005), Rashid & Abbas (2011) và Hoàng Tùng (2011). Biến độc lập đòn bẩy tài chính X7 và biến phụ thuộc Y có mối tương quan cùng chiều với giá trị 0,3318 kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Beaver (1966), Alman (1977), Ohlson (1980), Wang & Campbell (2010), Hoàng Tùng (2011). Đòn bẩy tài chính phản ánh mức độ sử dụng nợ của công ty, khi công ty có đòn bẩy tài chính càng cao thì xác suất xảy ra phá sản càng cao và ngược lại. Bảng 4.2 cũng cho thấy rằng xác suất xảy ra phá sản với yếu tố tăng trưởng (biến X8 tốc độ tăng doanh thu thuần và biến X9 tốc độ tăng tổng tài sản) có mối tương quan ngược chiều với giá trị -0,0794 và -0,0531. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Zang & Chen cho thấy công ty tăng trưởng càng cao thì nguy cơ xảy ra phá sản càng thấp và ngược lại. Tương quan ngược chiều giữa xác suất xảy ra phá sản với kỳ vọng thị trường (biến X10 đo bằng vốn hóa thị trường/tổng nợ) với giá trị -0,2329 cho thấy nếu công ty đang phát triển mạnh, sức khỏe tài chính tốt, triển vọng ngành nghề tốt, dĩ nhiên 47 giá cổ phiếu công ty đó sẽ cao. Ngược lại nếu công ty có tình hình sức khỏe kém, gặp khó khăn về tài chính thì mặc nhiên giá cổ phiếu sẽ giảm. Như vậy giá cổ phiếu phản ánh sự kì vọng của nhà đầu tư, thị trường. Nếu sự kì vọng là tốt có thể hiểu sức khỏe công ty đang tốt và nguy cơ phá sản sẽ thấp, ngược lại thì nguy cơ phá sản sẽ cao. Giải thích này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Zang & Chen. Tương tự, hai biến kiểm soát X11 (nợ ngắn hạn/tổng nợ) và X12 (tài sản ngắn hạn/tổng tài sản) sẽ cho biết việc cơ cấu nợ hay cơ cấu tài sản có ảnh hưởng đến nguy cơ phá sản của công ty như thế nào. 4.3 Phân tích mô hình hồi quy Như đã trình bày ở phần trên, do biến phụ thuộc là biến nhị phân nhận giá trị là 0 và 1 nên mô hình hồi quy được chọn trong mô hình nghiên cứu là mô hình logit. Với dữ liệu hồi quy là dữ liệu bảng thì có 2 mô hình thông dụng để chạy hồi quy là mô hình các yếu tố ảnh hưởng cố định (Fixed Effect model – FE) và mô hình các yếu tố tác động ngẫu nhiên (Random Effect model – RE). Với biến phụ thuộc là công ty sẽ bị xếp vào có nguy cơ phá sản khi xảy ra ít nhất một trong hai điều kiện là: hoặc có ROA âm và vốn hóa thị trường nhỏ hơn tổng nợ, hoặc có vốn lưu động âm và vốn hóa thị trường nhỏ hơn tổng nợ. Khi đó bảng kiểm định Hausman được trình bày trong bảng 4.3. Bảng 4.3 Kết quả kiểm định Hausman Nguy cơ phá sản (Y) 13,47 0,3357 Random Effect Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm stata 12 Theo như kết quả phân tích có được, do chỉ số Prob(chi2) = 0,3357 lớn hơn 0,05 (không thể bác bỏ giả thiết H0 hay nói cách khác giả thiết H0 của kiểm định Hausman là đúng). Vì vậy, có thể kết luận rằng sử dụng mô hình Random Effect (RE) sẽ giải thích tốt hơn mô hình Fixed Effect (FE). 48 Bảng 4.4 Kết quả hồi quy mô hình tác động ngẫu nhiên Hệ số thanh khoản 1,909474 0,705128 0,007 2,71 ROA -19,69329 5,078316 0,000 -3,88 ROE 1,381484 11,13453 0,901 0,12 EBIT/Tổng tài sản 10,40926 5,732146 0,069 1,82 Doanh thu thuần/Tổng tài sản -0,204026 0,245967 0,407 -0,83 EBIT/Doanh thu thuần -2,978569 1,224519 0,015 -2,43 Đòn bẩy tài chính 12,43857 3,450188 0,000 3,61 Tăng doanh thu thuần -0,383327 0,370038 0,300 -1,04 Tăng tổng tài sản 1,264492 0,760920 0,097 1,66 Vốn hóa thị trường/Tổng nợ -6,247676 1,265013 0,000 -4,94 Cơ cấu nợ 12,18692 2,782239 0,000 4,38 Cơ cấu tổng tài sản -23,65706 4,080993 0,000 -5,80 -1,67 -4,823614 2,891694 0,0095 Log likelihood = -276,91567 Prob > Chi2 = 0,000 Nguồn: Kết quả tính toán của tác giả từ phần mềm Stata 12 Dựa vào kết quả p-value trong bảng kết quả ta thấy các biến X1, X2, X6, X7, X10, X11, X12 có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và các biến X3, X4, X5, X8, X9 không có ý nghĩa thống kê khi chạy hồi quy dữ liệu tổng thể. Kết quả Prob(chi2) là 0,000 điều đó có thể khẳng định rằng đủ độ tin cậy để bác bỏ giả thiết H0: βk=0. Vậy xét về mặt tổng thể mô hình có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, ta cần phải kiểm định xem việc loại bỏ các biến này có ảnh hưởng nhiều đến khả năng dự báo của mô hình hay không. Hoàng Trọng (2008) cho rằng đối với hồi quy tuyến tính thì sử dụng kiểm định t để kiểm định giả thiết H0: βk=0. Còn đối với mô hình hồi quy Binary Logistic, đại lượng Wald Chi Square được sử dụng để kiểm định ý nghĩa thống kê 49 của hệ số hồi quy tổng thể. Vì vậy ta có thể dùng kiểm định Wald để kiểm định hệ số hồi quy của các biến X3, X4, X5, X8, X9 có khác 0 hay không. Bảng 4.5 Kết quả kiểm định Wald ROE 0,901 0,9013 X3 EBIT/Tổng tài sản 0,069 0,0694 X4 Doanh thu thuần/Tổng tài sản 0,407 0,4068 X5 Tăng doanh thu thuần 0,300 0,3002 X8 Tăng tổng tài sản 0,097 0,0966 X9 Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm stata 12 Qua bảng 4.5 cho thấy rằng không đủ cơ sở bác bỏ giả thiết H0. Như vậy dựa vào hệ số ý nghĩa thống kê của các biến trong mô hình hồi quy kết hợp với bảng kiểm định Wald ta hoàn toàn có cơ sở để loại bỏ các biến X3, X4, X5, X8, X9ra khỏi mô hình hồi quy mà không ảnh hưởng đến kết quả dự báo. Từ kết quả thu được từ bảng 4.4 mô hình logit được viết như sau: Z =ln[P/(1-P)] = – 4,824 + 1,909X1 – 19,693 X2– 2,979X6 + 12,439X7 – 6,248X10 + 12,187X11 – 23,657X12 Kiểm định hiện tƣợng đa cộng tuyến Để phát hiện hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình, tác giả sử dụng hệ số phóng đại phương sai (VIF). Có nhiều đề xuất khác nhau cho giá trị của VIF, nhưng phổ biến nhất là 10, theo đó là mức tối đa của VIF mà vượt quá giá trị đó có thể gây ra hiện tượng đa cộng tuyến (Hair, Anderson, Taham và Black (1995); Kennedy (1992); Neter, Wasserman và Kurtner (1989)). Kết quả bảng 4.7 hệ số hồi quy VIF của mô hình, hệ số VIF của các biến < 10 nên không có hiện tượng đa cộng tuyến xảy ra giữa các biến trong các mô hình. 50 Bảng 4.6 Kết quả hồi quy VIF ROE 8,22 0,121703 ROA 4,62 0,216286 Hệ số thanh khoản 4,47 0,223801 Đòn bẩy tài chính 4,28 0,233848 EBIT/Tổng tài sản 3,75 0,266851 Cơ cấu tổng tài sản 3,62 0,276107 Cơ cấu nợ 3,09 0,323610 Vốn hóa thị trường/Tổng nợ 3,07 0,325596 EBIT/Doanh thu thuần 1,61 0,619382 Doanh thu thuần/Tổng tài sản 1,23 0,812716 Tăng tổng tài sản 1,15 0,867807 Tăng doanh thu thuần 1,03 0,969143 3,35 Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm stata 12 4.4 Kiểm định khả năng dự báo của mô hình Ngoài trị số prob(chi2), để có thể đánh giá mức độ phù hợp (khả năng dự báo) của mô hình ta sẽ căn cứ vào bảng thống kê kết quả dự báo chính xác của mô hình cũng như căn cứ vào phân tích đường cong ROC. Qua đó cung cấp cho ta số liệu để đánh giá sự sai lệch giữa giá trị tính toán của mô hình và giá trị thực tế của số liệu. Dự báo (điểm cắt là 0,5) Có nguy cơ phá sản Tổng Không có nguy cơ phá
sản (Y=0) (Y=1) Có nguy cơ phá sản (Y=1) 85 258 173 Không có nguy cơ phá sản (Y=0) 1118 1155 37 Tổng 1203 1413 210 Dự báo đúng 92,93% 91,37% 82,38% Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm stata 12 Bảng 4.7 Thống kê kết quả dự báo của mô hình 51 Với kết quả có trong bảng 4.8 ta thấy rằng với dữ liệu ban đầu là 210 quan sát công ty có nguy cơ phá sản thì mô hình dự báo chính xác 173 chiếm tỷ lệ 82,38%, trong khi đó với 1203 quan sát công ty không có nguy cơ phá sản ban đầu thì mô hình dự báo chính xác là 1118 chiếm tỷ lệ 92,93%. Như vậy tỷ lệ dự báo chính xác của toàn bộ mô hình là 1291 quan sát trên tổng số 1413 quan sát chiếm tỷ lệ 91,37% chứng tỏ độ tin cậy của mô hình là khá tốt. Đường cong ROC – đồ thị của độ nhạy, là đường cong bắt đầu từ điểm (0;0) tương ứng với điểm cắt c =1 và kết thúc tại điểm (1;1) tương ứng với c =0. Một mô
hình có sức mạnh tiên đoán thì đường cong ROC sẽ là một đường thẳng có góc 450. Diện tích phía dưới đường cong là tập hợp các dự báo chính xác. Vì thế nó thường được sử dụng xem như một tiêu chí để đánh giá sức mạnh tiên đoán của mô hình. Một mô hình không có sức mạnh tiên đoán khi diện tích bằng 0,5; một mô hình có sức mạnh tiên đoán hoàn hảo khi có diện tích bằng 1. Với kết quả tính toán của đồ thị phân tích ROC, diện tích phía dưới đường cong của mô hình là 0,9511 điều đó cho thấy sức mạnh dự báo của mô hình là tốt. Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm stata 12 Hình 4.1 Đồ thị phân tích ROC 52 4.5 Giải thích các biến độc lập Với kết quả hồi qui trong mô hình thu được trong phần kết quả hồi qui là: Z =ln[P/(1-P)] = – 4,824 + 1,909X1 – 19,693 X2 – 2,979X6 + 12,439X7 – 6,248X10 + 12,187X11 – 23,657X12 Biến X1(tài sản lƣu động trên nợ ngắn hạn) - hệ số thanh khoản ngắn hạn Hệ số thanh khoản là tỷ số đo lường khả năng chi trả các khoản nợ ngắn hạn. Trong nghiên cứu của Alman và các cộng sự (1977) thì hệ số thanh khoản ngắn hạn là một trong những biến của mô hình ZETA. Tuy nhiên, mô hình không đưa ra các hệ số hồi quy cũng như chiều hướng ảnh hưởng của biến này với xác suất xảy ra phá sản doanh nghiệp. Đây là tỷ số cần phải quan tâm hàng đầu nếu ta đứng trên quan điểm phá sản doanh nghiệp theo quy định của Luật phá sản Việt Nam. Vì nếu tỷ số này thấp thì khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của công ty sẽ kém, dẫn đến nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản nếu doanh nghiệp không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu. Trong các nghiên cứu tại thị trường Việt Nam đề tài đã tham khảo thì tác giả Nguyễn Trọng Hòa (2009) cũng đã sử dụng biến hệ số thanh khoản ngắn hạn trong đề tài “Xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế chuyển đổi”, tuy nhiên kết quả hồi quy cuối cùng thì biến này không có ý nghĩa. Với kết quả hồi quy từ dữ liệu thu thập được thì đề tài thấy rằng hệ số thanh khoản ngắn hạn tác động thuận chiều với xác suất xảy ra phá sản, tức là hệ số thanh khoản càng cao thì nguy cơ phá sản càng cao, điều này ngược với kỳ vọng giả thuyết ban đầu. Tuy nhiên, giai đoạn 2012-2014 nền kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn: nền kinh tế tăng trưởng chậm, những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại, lãi suất cho vay cao làm cho doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn, nhiều doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể, với lãi suất cao việc một doanh nghiệp dành quá nhiều nguồn lực (tài sản lưu động) để đảm bảo chi trả 53 cho các khoản nợ tới hạn mà bỏ qua các cơ hội đầu tư hiệu quả, từ đó làm kết quả tổng thể của doanh nghiệp có thể xấu đi và dẫn đến nguy cơ phá sản cũng sẽ tăng theo. Tóm lại, để có thể khẳng định chính xác hệ số thanh khoản ngắn hạn có tác động như thế nào đối với khả năng xảy ra phá sản của doanh nghiệp thì cần có them các nghiên cứu sâu hơn nữa, sử dụng dữ liệu trong giai đoạn dài hơn nữa để có các kết luận chính xác. Biến X2 (ROA) và biến X6 (EBIT/doanh thu thuần) ROA và EBIT/doanh thu thuần là các biến đặc trưng cho hiệu quả hoạt động của công ty. Để đánh giá nguy cơ phá sản công ty thì hiệu quả hoạt động là một trong những yếu tố rất quan trọng. Trong hầu hết các nghiên cứu về phá sản công ty thì các biến về hoạt động luôn tồn tại trong các mô hình dự báo cuối cùng. Trong nghiên cứu của Beaver (1966) biến hiệu quả hoạt động trong mô hình là thu nhập ròng trên tổng tài sản, còn các mô hình của Altman (1968, 1977...) biến hiệu quả hoạt động là lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên tổng tài sản, Ohlson (1980) thi biến hiệu quả là thu nhập ròng trên tổng tài sản, còn Zhang (2007) thì biến hiệu quả hoạt động là lợi nhuận trên tổng tài sản... tại Việt Nam theo Hoàng Tùng (2011) các biến hiệu quả là ROA, ROE, doanh thu trên tổng tài sản. Như vậy yếu tố hiệu quả hoạt động là một trong những biến có ảnh hưởng trực tiếp đến nguy cơ phá sản. Với dữ liệu thu thập được trong 3 năm từ 2012 đến năm 2014 thì kết quả hồi qui như sau: Biến X2 (ROA) có hệ số hồi qui trong mô hình là -19,693 chứng tỏ ROA có ảnh hưởng ngược chiều với xác suất xảy ra nguy cơ phá sản công ty, tức là nếu ROA càng cao thì nguy cơ xảy ra phá sản sẽ thấp và ngược lại. Điều này phản ánh đúng với kỳ vọng giả thuyết và cũng đúng với hầu hết các kết quả nghiên cứu mà đề tài đã tham khảo. Đây là tỷ số mà nhà đầu tư sẽ quan tâm trước khi ra quyết định đầu tư. Vì nó cho biết được khi đầu tư vào 1 đồng tài sản thì sẽ thu được lợi nhuận là bao nhiêu đồng. 54 Biến X6 (EBIT/doanh thu thuần): là biến thể hiện hiệu quả hoạt động kinh doanh bán hàng của công ty. Hầu hết các công ty từ sản xuất đến dịch vụ thì hoạt động kinh doanh, bán hàng là hoạt động vô cùng quan trọng. Dựa vào đó có thể giúp người lãnh đạo công ty quyết định tiếp tục sản xuất kinh doanh hay dừng hoạt động. Qua kết quả hồi quy Binay Logistic biến X6 có hệ số hồi quy là-2,978, điều đó cho thấy rằng biến X6 có tác động ngược chiều với nguy cơ phá sản công ty, với ý nghĩa là 1 đồng doanh thu thuần tạo được càng nhiều lợi nhuận thì nguy cơ xảy ra phá sản công ty sẽ càng thấp và ngược lại. Biến X7 (Tổng nợ / Tổng tài sản) - đòn bẩy tài chính Đây là biến phản ánh sự tác động của đòn bẩy tài chính lên khả năng xảy ra phá sản công ty. Cũng giống như các nghiên cứu trước đã tham khảo thì đòn bẩy tài chính xuất hiện trong hầu hết các mô hình dự báo phá sản, Beaver (1966), Ohlson (1980), Sori (2004), Zhang (2007), Wang (2010)... và Việt Nam thì có Hoàng Tùng (nghiên cứu về rủi ro tín dụng) hay Nguyễn Trọng Hòa (nghiên cứu về xếp hạng tín dụng)... Với kết quả thu được thì hệ số hồi qui trong tất cả các trường hợp đều có ý nghĩa thống kê và cũng có dấu đúng với kì vọng giả thuyết đặt ra ban đầu. Biến đó có ý nghĩa là biến đòn bẩy tài chính có tác động cùng chiều đến nguy cơ phá sản tức là nếu đòn bẩy tài chính có trị số càng lớn thì nguy cơ xảy ra phá sản càng cao. Bên cạnh đó tỷ số này còn cho biết có bao nhiêu tỷ lệ tài sản được tài trợ bởi nợ, từ đó có thể đánh giá khả năng tự chủ tài chính của công ty. Nếu tỷ số này quá thầp thì hàm ý công ty chưa khai thác hết được lợi ích của đòn bẩy tài chính, chưa biết cách huy động vốn bằng hình thức đi vay. Ngược lại, nếu tỷ số này quá cao thì có thể đánh giá công ty không có thực lực tài chính mạnh, nguồn vốn có được chủ yếu là từ vay muợn. Vì vậy rủi ro tài chính hay rủi ro phá sản công ty cũng sẽ tăng lên. Biến X10 (Vốn hóa TT / Tổng nợ) Biến X10 đại diện cho yếu tố kỳ vọng của thị trường, nhà đầu tư đối với triển vọng của công ty. Biến này chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều, trong các nghiên cứu đã tham khảo chỉ có nghiên cứu cửa Altman (1968) là có xét đến. 55 Đặc biệt trong thị trường chứng khoán của Việt Nam thì theo ý kiến chủ quan của học viên việc ra quyết định của các nhà đầu tư còn bị ảnh hưởng bởi tâm lý đám đông. Việc nắm được những thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư, vì thế có những giai đoạn giá cổ phiếu của một vài công ty không phản ánh đúng tình hình thực tế của công ty đó. Biến X10 (vốn hóa thị trường /tổng nợ) đại diện cho khả năng huy động vốn của công ty từ thị trường chứng khoán. Ở đây ta xét ở góc độ nhà đầu tư quyết định đầu tư vào cổ phiếu là do hiệu quả hoạt động chứ không phải là đầu tư theo dạng lướt sóng để kiếm lợi nhuận. Nếu cổ phiếu của một công ty nào đó được nhà đầu tư kì vọng đánh giá cao, giá cổ phiếu đó sẽ tăng và thường kéo theo tính thanh khoản của cổ phiếu đó cũng tăng. Vì vậy khi công ty cần nguồn vốn để có thể thanh toán các khoản nợ đến hạn cũng như nguồn vốn để đầu tư vào các dự án, thì việc huy động sẽ gặp thuận lợi hơn. Ngược lại nếu nhà đầu tư không kì vọng vào cổ phiếu của công ty thì giá của công ty cũng sẽ giảm và tính thanh khoản cũng giảm làm cho việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Đề tài chọn so sánh vốn hóa thị trường với tổng nợ để làm yếu tố tác động bởi vì vốn hóa thị trường đại diện cho khả năng huy động vốn của công ty trên thi trường chứng khoán con giá trị tổng nợ đại diện cho các khoản công ty cần phải chi trả. Biến này cũng góp phần chứng tỏ mức độ tự chủ tài chính của công ty. Kết quả hồi qui chứng tỏ rằng với số liệu thu thập được thì biến X10 có ảnh hưởng đến khả năng xảy ra phá sản của công ty và có ảnh hưởng ngược chiều đến khả năng phá sản, tức là nếu giá trị của biến X10 càng tăng tức kì vọng của nhà đầu tư càng cao thi khả năng xảy ra phá sản sẽ càng thấp hay ta có thể suy luện rằng vốn hóa thị trường càng cao thi khả năng chi trả càng được đảm bảo và ngược lại. Các biến về cơ cấu: X11 (nợ ngắn hạn / tổng nợ), X12 (tài sản ngắn hạn / tổng tài sản) Hai biến này sẽ cho biết được việc cơ cấu nợ (tỷ lệ giữa nợ ngắn hạn trên tổng nợ) hay cơ cấu tài sản (tài sản ngắn hạn / tổng tài sản) có ảnh hưởng đến nguy cơ 56 phá sản của công ty như thế nào. Nếu kết hợp với biến đòn bẩy tài chính thì hai biến cơ cấu nợ và cơ cấu tài sản sẽ giúp đánh giá tình hình công ty sử dụng cơ cấu nợ như thế nào và việc sử dụng các loại nợ vào đầu tư các loại tài sản cũng như tình hình quản lý tài sản của công ty. Kết quả hồi qui từ dữ liệu có được thấy rằng biến cơ cấu nợ có ảnh hưởng cùng chiều với nguy cơ xảy ra phá sản công ty. Nghĩa là nếu cơ cấu mà trong đó nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng càng lớn thì nguy cơ xảy ra phá sản càng cao và ngược lại. Tương tự, biến cơ cấu tài sản cũng có tác động đến khả năng xảy ra phá sản công ty nhưng ngược chiều. Tức là nếu trong cơ cấu tài sản mà tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng càng lón thì khả năng xảy ra phá sản sẽ càng thấp và ngược lại. Ảnh hưởng của 2 biến này sẽ rõ ràng hơn nếu ta xét trong mối quan hệ, cơ cấu nợ cao tức nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn và cơ cấu tài sản thấp tức tài sản ngắn hạn chiếm tỷ trọng nhỏ thì nguy cơ xảy ra phá sản sẽ tăng lên cao. Bởi vì, điều đó có thể dẫn tới suy luận rằng công ty đã sử dụng các khoản nợ ngắn hạn để tài trợ đầu tư vào các tài sản dài hạn. Khi các khoản nợ đến hạn cần thanh toán thì khả năng thanh toán kém do các tài sản dài hạn có tính thanh khoản thấp, khả năng thanh khoản nói chung của công ty giảm và đây cũng là yếu tố dẫn đến phá sản công ty. Ngược lại tức là công ty sử dụng các khoản vay dài hạn để đầu tư tài trợ cho các loại tài sản ngắn hạn, mà các tài sàn này lại có tính thanh khoản cao nên khả năng chi trả các khoản nợ của công ty luôn được đảm bảo và làm giảm rủi ro về tài chính của công ty nói riêng và giảm rủi ro phá sản nói chung. Bên cạnh các biến có ý nghĩa thống kê tồn tại trong mô hình thì với dữ liệu thu thập được các biến về hiệu quả hoạt động, tốc độ tăng trưởng không ảnh hưởng đến khả năng đánh giá nguy cơ phá sản của công ty. Để có đánh giá đầy đủ hơn cần các nghiên cứu chuyên sâu về phân tích, dữ liệu rộng hơn về mẫu cũng như giai đoạn dài hơn. 57 5.1 Tóm tắt kết quả nghiên cứu Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích đo lường tác động của các chỉ số tài chính đến nguy cơ phá sản các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy Logistic để ước lượng các kết quả cần đạt được từ mô hình hồi quy. Phương pháp này được lựa chọn nhằm mục đích đảm bảo được sự phù hợp với cách xác định “nguy cơ phá sản” của một công ty (biến nhị phân chỉ nhận giá trị 0 hoặc 1). Mẫu nghiên cứu bao gồm 471 doanh nghiệp niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX) và Sở giao dịch chứng khoán TPHCM (HOSE) trong giai đoạn 2012-2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy nguy cơ phá sản của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam chịu tác động bởi các yếu tố: (i) tính thanh khoản, (ii) hiệu quả hoạt động, (iii) đòn bẩy tài chínhvà (iv) kì vọng thị trường. Kết quả đạt được từ nghiên cứu này có thể được sử dụng nhằm mục đích xác định được các tỷ số (biến) tài chính có tác động đến nguy cơ xảy ra phá sản công ty và chiều hướng ảnh hưởng của chúng đối với các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. Kết quả này có thể được tóm tắt như sau: Thứ nhất, nguy cơ phá sản doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng của hệ số thanh khoản ngắn hạn của doanh nghiệp. Mối quan hệ cùng chiều giữa hệ số thanh khoản ngắn hạn và nguy cơ phá sản doanh nghiệp được tìm thấy trong nghiên cứu này. Kết quả nghiên cứu thể hiện rằng hệ số thanh khoản càng cao thì nguy cơ phá sản cũng tăng theo và ngược lại. Kết quả hồi quy đạt được ngược với kỳ vọng giả thuyết, điều này cho thấy cần phải lưu ý khi phân tích tình hình thực tế trong giai đoạn khảo sát. Thứ hai, các tỷ số có liên quan đến hiệu quả hoạt động (ROA, EBIT/doạnh thu thuần) có ảnh hưởng đến xác suất xảy ra phá sản công ty. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Beaver (1966), các nghiên cứu của Altman và các cộng sự 58 (1968, 1977, 2000), Ohlson (1980) và Zhang (2007). Kết quả hồi qui đạt được từ nghiên cứu này cho thấy rằng cả 2 tỷ số này có tác động ngược chiều với rủi ro xảy ra phá sản công ty. Điều này có nghĩa là khi lợi nhuận càng cao thì nguy cơ xảy ra phá sản càng thấp. Thứ ba, phù hợp với kết quả đạt được từ các nghiên cứu trước của Beaver (1966), Ohlson (1980), Sori (2004), Zhang (2007), Wang (2010), Hoàng Tùng (nghiên cứu về rủi ro tín dụng) hay Nguyễn Trọng Hoà (nghiên cứu về xếp hạng tín dụng), đòn bẩy tài chính (tổng nợ / tổng tài sản) có tác động và cùng chiều với nguy cơ xảy ra phá sản công ty. Kết quả này thể hiện rằng trong đòn bẩy tài chính nếu nợ chiếm tỷ lệ lớn thì nguy cơ phá sản của công ty sẽ tăng theo và ngược lại. Thứ tư, bên cạnh các yếu tố có liên quan đến đòn bẩy tài chính và hiệu quả hoạt động công ty, kỳ vọng của thị trường như là vốn hoá thị trường trên tổng nợ cũng có tác động đến khả năng xảy ra phá sản công ty. Trong nghiên cứu này kỳ vọng của thị trường đối với công ty được thể hiện thông qua giá cổ phiếu của công ty đó trên sàn niêm yết. Kết quả đạt được dựa trên số liệu thực tế đã cung cấp bằng chứng khoa học định lượng để kết luận rằng: vốn hoá thị trường trên tổng nợ có tác động nghịch chiều với xác suất xảy ra phá sản công ty. Kết quả này mang hàm ý rằng nếu vốn hoá thị trường của công ty càng lớn hơn tổng nợ thì xác suất phá sản sẽ càng thấp, và ngược lại. Cuối cùng, bên cạnh các tỷ số tài chính được trình bày ở trên thì cơ cấu nợ và cơ cấu tài sản cũng ảnh hưởng đến nguy cơ xảy ra phá sản. Kết quả hồi qui có được cơ cấu nợ có tác động cùng chiều với nguy cơ phá sản, trong khi đó cơ cấu tài sàn thì có tác động ngược chiều. 5.2 Kiến nghị Kết quả đạt được từ nghiên cứu này có thể cung cấp bằng chứng khoa học định lượng để kết luận rằng các yếu tố sau đây, bao gồm (i) tính thanh khoản, (ii) hiệu quả hoạt động, (iii) đòn bẩy tài chính và (iv) kì vọng thị trường có tác động đếnnguy 59 cơ xảy ra phá sản doanh nghiệp. Trên cơ sở kết quả đạt được từ nghiên cứu, một số kiến nghị sau đây được xem là phù hợp: Thứ nhất, về tính thanh khoản Kết quả nghiên cứu cho thấy không phải hệ số thanh khoản ngắn hạn càng lớn thì càng tốt vì tính hợp lý của hệ số phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành nghề. Hơn thế nữa hệ số này chỉ phản ánh một cách khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc phân tích chỉ tiêu trên mang tính thời điểm, không phản ánh được cả một thời kỳ, một giai đoạn hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, hệ số thanh toán hiện hành cần phải được xem xét liên tục cùng với việc phân tích chất lượng của các yếu tố tài sản ngắn hạn. Thứ hai, về hiệu quả hoạt động Đây là một trong những nhân tố tác động lớn đến khả năng xảy ra phá sản của doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động thể hiện khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Muốn cải thiện chỉ tiêu này, doanh nghiệp cần có những biện pháp thúc đẩy sự gia tăng của doanh thu, cụ thể, doanh nghiệp có thể áp dụng các chính sách gia tăng nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng thông qua các chương trình giảm giá, khuyến mãi, chiết khấu. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần đẩy mạnh chính sách bán hàng: chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng kênh phân phối, xây dựng giá cả hợp lý. Ngoài ra, dịch vụ sau bán hàng cũng là một trong những chính sách hỗ trợ cho việc thúc đẩy tăng trưởng doanh thu. Hiện nay, khi sự cạnh tranh diễn ra trong nền kinh tế ngày càng gay gắt thì các dịch vụ sau bán hàng như: vận chuyển, lắp đặt, bảo hành, tư vấncó một ý nghĩa đặc biệt quan trọng và trở thành vũ khí sắc bén của cạnh tranh. Doanh nghiệp có dịch vụ sau bán hàng tốt sẽ lại được sự hưởng ứng từ phía khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Chính vì thế mà uy tín của doanh nghiệp từ đó cũng được nâng lên. Thứ ba, về đòn bẫy tài chính Xác định được một cơ cấu vốn tối ưu là vấn đề mà các doanh nghiệp cần quan tâm. Đòn bẫy tài chính liên quan mật thiết đến việc doanh nghiệp sử dụng nguồn tài 60 trợ từ nợ trong cơ cấu nguồn vốn. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, kết quả đạt được cho thấy đòn bẫy tài chính có tác động cùng chiều với nguy cơ phá sản. Do đó, việc quản lý, kiểm soát và cơ cấu lại tỷ lệ nợ trên tổng tài sản ở mức thích hợp, đặc biệt là các khoản nợ vay sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt áp lực đối với các khoản chi phí lãi vay. Việc sử dụng đòn bẫy tài chính trong một mức nhất định sẽ làm cho chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp giảm thấp, doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi để tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, điều này chỉ thích hợp khi sử dụng đòn bẫy ở các doanh nghiệp tăng trưởng cao và ổn định với chi phí lãi vay thấp sẽ mang lại hiệu quả đáng kể. Ngoài ra, nguy cơ vỡ nợ sẽ rất cao và có thể dẫn đến phá sản nếu doanh nghiệp sử dụng đòn bẫy lớn nhưng lợi nhuận thu về lại không đủ để trả nợ và lãi vay. Đối với các khoản vay nhỏ hoặc các khoản vay có tính chất tạm thời, doanh nghiệp có thể quyết định theo chính sách của đơn vị. Trước khi tiến hành vay các khoản lớn và dài hạn, cần phải đánh giá một cách chặt chẽ tỷ suất sinh lợi nhằm xem xét những khoản vay này có tạo được mức sinh lời đủ để bù đắp cho chi phí lãi vay hay không. Cũng như các khoản vay ngắn hạn nêu trên, doanh nghiệp câng đưa ra một kế hoạch vay cụ thể, rõ ràng về mục đích và hiệu quả sử dụng khoản vay, tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ được cải thiện như thế nào so với trước khi vay, đề ra các phương án trả nợ thích hợp. Các khoản vay phải được theo dõi trên sổ chi tiết mở theo từng chủ nợ và theo từng khoản vay. Hàng tháng, những số liệu này phải được đối chiếu với sổ cái và định kỳ đối chiếu với chủ nợ. Thứ tư, về kỳ vọng thị trƣờng Giá trị vốn hóa thị trường là thước đo quy mô của một doanh nghiệp. Giá trị vốn hóa này thể hiện tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp. Quy mô và tốc độ tăng của giá trị vốn hóa thị trường là thước đo quan trọng để đánh giá thành công hay thất bại của một doanh nghiệp niêm yết công khai. Một công ty đang phát triển mạnh, tình hình tài chính tốt, triển vọng ngành nghề tốt, dĩ nhiên giá cổ phiếu công 61 ty đó sẽ cao và ngược lại. Như vậy giá cổ phiếu phản ánh sự kì vọng của nhà đầu tư, thị trường. Nếu sự kì vọng là tốt có thể hiểu sức khỏe công ty đang tốt và nguy cơ phá sản sẽ thấp, ngược lại thì nguy cơ phá sản sẽ cao. Với biến vốn hóa thị trường chia tổng nợ cho thấy rằng mỗi đồng nợ có thể huy động được bao nhiêu đồng từ thị trường để có thể thanh toán cho đồng nợ đó. Vì vậy tỷ số vốn hóa thị trường trên tổng nợ càng cao công ty càng dễ huy động vốn từ thị trường để bảo đảm thanh khoản và ngân lưu ổn định cho các dự án kinh doanh với chi phí hợp lý. Do đó, các công ty cần thực hiện tốt việc công bố thông tin, đảm bảo các thông tin tích cực đến được với các nhà đầu tư một cách chính xác, tránh và xử lý các thông tin không tốt về công ty. Thực hiện kiểm toán hằng năm bởi các công ty kiểm toán độc lập có uy tín giúp nhà quản lý có cái nhìn khách quan về công ty để ra các quyết sách phù hợp và thị trường có thông tin minh bạch để định hướng dòng vốn đầu tư. Bên cạnh đó cần có chiến lược kinh doanh dài hạn cụ thể phù hợp với từng ngành nghề kinh doanh. Ngoài ra, bên cạnh việc quản lý chặt chẽ các khoản nợ, công ty cũng cần phải chú ý sử dụng các loại nợ trong việc tài trợ, đầu tư vào tài sản. Hạn chế việc sử dụng nợ ngắn hạn để đầu tư vào các loại tài sản dài hạn. Việc tăng tổng tài sản công ty nên ưu tiên từ nguồn vốn chủ sở hữu vì sẽ làm giảm rủi ro về mặt tài chính. Cần xây dựng các quy định cụ thể rõ ràng, mang tính thống nhất để phân loại giữa công ty có nguy cơ phá sản và công ty không có nguy cơ phá sản. Từ đó giúp nhà nghiên cứu cũng như nhà quản lý công ty, nhà đầu tư nhận diện được tình trạng của công ty. 5.3 Hạn chế của đề tài và đề xuất hƣớng nghiên cứu tiếp theo 5.3.1 Hạn chế của đề tài Thứ nhất, biến phụ thuộc của nghiên cứu là xác suất xảy ra phá sản của công ty. Việc phân loại công ty rơi vào diện có nguy cơ và không có nguy cơ phá sản đề tài đưa ra là: công ty có nguy cơ phá sản là công ty rơi vào ít nhất 1 trong 2 trường hợp. Thứ nhất, công ty có ROA âm và vốn hóa thị trường nhỏ hơn tổng nợ. Thứ 62 hai, công ty có vốn lưu động âm và vốn hóa thị trường nhỏ hơn tổng nợ. Ngoài ra các trường hợp còn lại thì xếp công ty vào diện không có nguy cơ phá sản. Trên thực tế thì có thể có công ty dựa vào các nhận định trên bị xếp vào diện có nguy cơ phá sản nhưng thực tế lại không phá sản. Ngược lại, có những công ty được xếp vào diện không có nguy cơ nhưng thực tế lại có nguy cơ phá sản rất cao. Có thể tùy thuộc vào ngành nghề hoạt động loại hình công ty... vì thế các nhận định trên chỉ mang tính tương đối. Thứ hai, các biến độc lập được đưa vào nghiên cứu thì do khó khăn trong việc thu thập số liệu, mẫu mà đề tài chưa xét đến các biến như là ngành hoạt động, loại hình công ty, tuổi đời, các biến và các loại chi phí, yếu tố tăng trưởng cũng chưa xét đến yếu tố tăng trưởng bền vững là tăng trưởng dựa trên lợi nhuận giữ lại... Ở đây đề tài chỉ tập trung vào phân tích ảnh hưởng của các tỷ số tài chính. Vì thế việc bỏ qua một số biến giải thích như đã nêu sẽ làm giảm khả năng dự báo của mô hình nghiên cúu. Thứ ba, thời gian khảo sát của nghiên cứu là từ năm 2012 đến năm 2014 là giai đoạn các công ty Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Đây là tình hình chung của nền kinh tế thế giới, do những nguyên nhân khách quan không phải chỉ do những khó khăn tồn tại bên trong công ty. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ tập trung vào phân tích các tỷ số tài chính là các biến phản ánh nội tại của công ty. Do đó, đề tài có thể đưa ra những nhận định chưa hoàn toàn chính xác nhất về mối liên hệ, tác động của các biến. Thứ tư, nghiên cứu đã loại trừ công ty là các tổ chức tín dụng như: ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các công ty tài chính vì các công ty này có cơ cấu về tài sản và vốn khác với các công ty sản xuất kinh doanh khác. Dữ liệu nghiên cúu có 417 công ty trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2014 bao gồm 1413 quan sát . Đây là mẫu tương đối lớn có thể chấp nhận để đại diện cho tổng thể nhưng thời gian nghiên cứu chỉ có 3 năm nên khá ngắn, số quan sát có nguy cơ phá sản là tương đối ít (chiếm 14,86%). Vì thế có thể chưa thấy được tác 63 động ảnh hưởng của các biến trong dài hạn, chưa xét đến tính trễ của các biến nếu có. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ tập trung các công ty trên sàn chứng khoán có báo cáo tài chính đã được kiểm toán mà chưa khảo sát các công ty có báo cáo tài chính chưa kiểm toán và không có báo cáo tài chính tham gia niêm yết... Trong khi đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn đối với các công ty vừa và nhỏ. Vì vậy mô hình được xây dựng chưa phản ánh chính xác hoàn toàn được tình hình thực tế. Thứ năm, dữ liệu nghiên cứu được thu thập hoàn toàn từ các báo cáo tài chính sau kiểm toán được công bố. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam chưa có tổ chức nào uy tín cung cấp số liệu có tính thống nhất và độ tin cậy cao để phục vụ công tác nghiên cứu. Do đó, trong một chừng mực nào đó thì việc tự thu thập số liệu có ảnh hưởng đến kết luận của nghiên cứu. 5.3.2 Đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo Với các hạn chế của đề tài thì nghiên cứu tiếp theo có thể thực hiện mở rộng ở các khía cạnh như: Xây dựng lại các chỉ tiêu để nhận diện công ty có nguy cơ phá sản sao cho đầy đủ hơn và phản ánh đúng với tình hình thực tế hơn. Đưa thêm các biến độc lập để tăng khả năng giải thích của mô hình như các biến ngành, biến chi phí, tuổi đời, yếu tố tăng trưởng bền vững... Tăng thời gian khảo sát nghiên cứu để có thể đánh giá tổng thể trong dài hạn. Mở rộng đối tượng nghiên cứu ra ngoài phạm vi các sàn chứng khoán, các công ty vừa và nhỏ để tăng số lượng quan sát. Từ đó làm tăng giá trị thực tế của mô hình. Việc ước lượng mô hình không dừng lại ở mô hình hồi qui logistic mà có thể thực hiện với các mô hình probit, mô hình phân biệt để có cái nhìn tổng thể, so sánh hiệu quả dự báo của các mô hình. Cuối cùng, dữ liệu cần đối chiếu, so sánh với nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo tính chính xác. 64 Tài liệu tiếng Việt 1. Hoàng Tùng (2011),„Phân tích rủi ro tín dụng doanh nghiệp bằng mô hình hồi quy logistic‟,Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đà Nẵng, số 43/2011, trang 17- 22. 2. Hoàng Tùng (2011), „Mô hình định lượng phân tích rủi ro tín dụng doanh nghiệp‟,Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 6/2011, trang 37- 41. 3. Đinh Thị Thanh Vân (2012),„Đánh giá nợ xấu theo quy định Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế‟, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 186, trang 31-36. 4. Nguyễn Trọng Hòa (2009), Xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế chuyển đổi, Luận văn tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. 5. Bùi Nguyễn Trọng Đạt (2015), Dự báo kiệt quệ tài chính và phá sản của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán sử dụng các biến tài chính, các biến thị trường và các biến vĩ mô,Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM. 6. Nguyễn Thị Phương Thảo (2012), Mô hình dự báo phá sản cho các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam,Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM. 7. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2007), Thống kê ứng dụng trong kinh tế xã hội, NXB Thống Kê. 8. Trần Ngọc Thơ (2007), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, NXB Thống Kê. 9. Phạm Hữu Hồng Thái (2015), Sách chuyên khảo: Phân tích và quản lý danh mục đầu tư, NXB Tài chính. 10. Nguyễn Văn Tuấn,Mô hình hồi quy Logistic,truy cập tại https://www.youtube.com/watch?v=0yILsvQZ0Uw 65 11. Nguyễn Văn Tuấn, Phân tích hồi quy logistic, truy cập tại http://www.ykhoa.net/baigiang/lamsangthongke/lstk15_logistic.pdf 12. Võ Hồng Đức (2013), Cách tiếp cận mới về xếp hạng tín nhiệm Ngân hàng thương mại Việt Nam, truy cập tại http://www.ou.edu.vn/ncktxh/Documents/Seminars/Duc_Thien_%20Xep%20Hang %20Tin%20Nhiem%20NHTM.pdf Tài liệu tiếng Anh 1. Altman, E. I. (1968), Financial ratios, discriminant analysis and the prediction of corporate bankruptcy, The Journal of Finance, Vol. 23, No. 4, pp. 589-609. 2. Altman, E. I., Haldeman R. G., and Narayanan R (1977), ZETA™Analysis: New Model to Identify Bankruptcy Risk of Corporations, Journal of Banking and Finance 1: pp 29-54. 3. Altman, E.I. (2000), Predicting financial distress of companies: Revisiting the Z-score and zeta models, download: pages.stern.nyu.edu/~ealtman/Zscores.pdf 4. Altman, E. I., Zhang, L. and Yen, J. (2007), Corporate Financial Distress Diagnosis in China, New York University Salomon Center Working Paper, download: http://pages.stem.nvu.edu/~ealtman/WP-China.pdf. 5. Beaver, W.H. (1966), Financial Ratios as Predictors ofFailure, Journal of Accounting Research, Vol. 4 (Supplement), pp. 71-111. 6. Lifschutz, S. and Jacobi, A. (2010), Predicting Bankruptcy: Evidencefrom Israel, International Journal of Business and Management, Vol. 5, No. 4 7. Ohlson, J. A. (1980), Financial Ratios and the Probabilistic Prediction of Bankruptcy, Journal of accounting research, Vol. 18. No.l 66 8. Ooghe, H. and Prijcker, S. D. (2006), Failure processes and causes of company bankruptcy: a typology, Vlerick Leuven Gent Management School Working Paper Series download: http://econpapers.repec.org/paper/vlgvlgwps/2006-21 .htm 9. Rashid, A. and Abbas, Q. (2011), Predicting Bankruptcy in Pakistan, Theoretical and Applied Economics, Vol. XVIII, No. 9, pp. 103-128 10. Zhang, L. and ctg, Corporate Financial Distress Diagnosis in China, Natural Science Foundation of China (NSFC), download: http://pages.stem.nyu.edu/~ealtman/ZhanglingPaper.pdf. 11. Puagwatana. S and Gunawardana. D.K (2005), Logistic Regression Model for Business Failures Prediction of Technology Industry in Thailand, Special Issue of the International Journal of the Computer, the Internet and Management, Vol. 13 No.SP2 12. Sori, Z. M. and Karbhari, Y. (2004), “Bankruptcy prediction during the IMF crisis: evidence from Malaysian listed industrial companies”, download: http://paoers.ssm.com/sol3/papers.cfm7abstract id=596183 13. Samarakoon, L.P. and Hasan, T. (2003), Altman’s Z-Score Models of Predicting Corporate Distress: Evidence from the Emerging Sri Lankan Stock Market, Journal of Academy of Finance, Vol. l,pp. 119-125. 14. Wang. Y, and Campbell. M (2010), Financial ratios and the prediction of bankruptcy: the Ohlson model applied to Chinese publicly traded companies, Proceedings of ASBB, Vol. 1 7 Number 1. 67 Dữ liệu nghiên cứu AAA 2014 1,368 0,072 0,037 0,053 1,213 0,043 0,447 0,348 0,236 0,866 0,799 0,488 0 AAA 2013 0,96 0,104 0,054 0,069 1,006 0,068 0,52 0,146 0,278 0,586 0,861 0,43 1 AAA 2012 1,212 0,129 0,065 0,104 1,122 0,092 0,415 0,109 0,103 0,598 0,956 0,481 0 AAM 2014 6,299 0,034 0,03 0,013 1,465 0,009 0,134 -0,177 -0,016 4,566 0,922 0,779 0 AAM 2013 5,776 0,032 0,028 0,028 1,766 0,016 0,145 0,099 0,057 4,098 0,929 0,778 0 AAM 2012 8,201 0,052 0,045 0,032 1,699 0,019 0,107 -0,24 -0,134 8,307 0,898 0,785 0 ABT 2014 2,424 0,187 0,115 0,084 0,667 0,125 0,367 -0,16 -0,046 3,074 0,971 0,864 0 ABT 2013 2,178 0,185 0,123 0,088 0,777 0,114 0,397 -0,157 0,334 2,089 1 0,865 0 ABT 2012 3,285 0,204 0,159 0,142 1,229 0,115 0,255 -0,043 0,08 3,535 1 0,838 0 ACC 2014 2,254 0,198 0,135 0,127 1,18 0,108 0,333 -0,046 0,358 2,85 0,989 0,742 0 ACC 2013 3,885 0,169 0,131 0,142 1,459 0,098 0,201 -0,043 -0,106 5,333 1 0,78 0 ACC 2012 3,046 0,308 0,231 0,223 1,363 0,163 0,252 0,122 0,09 2,578 1 0,768 0 ACL 2014 1,068 0,045 0,016 0,046 1,098 0,042 0,665 -0,134 0,165 0,377 0,979 0,695 0 ACL 2013 1,074 0,019 0,007 0,043 1,373 0,031 0,626 -0,044 -0,136 0,388 0,947 0,637 0 ACL 2012 1,113 0,053 0,019 0,046 1,241 0,037 0,669 -0,199 0,048 0,569 0,97 0,722 0 ADC 2014 1,549 0,241 0,098 0,105 2,535 0,041 0,592 0,335 0,228 1,01 1 0,918 0 ADC 2013 1,516 0,231 0,093 0,096 2,116 0,046 0,596 0,295 0,387 0,671 1 0,904 0 ADC 2012 1,572 0,294 0,132 0,106 2,267 0,047 0,6 0,478 0,54 0,256 1 0,942 0 AGF 2014 1,354 0,086 0,032 0,039 1,245 0,032 0,61 -0,09 -0,015 0,403 0,991 0,818 0 AGF 2013 1,284 0,029 0,011 0,03 1,358 0,022 0,636 0,095 0,438 0,355 0,991 0,809 0 AGF 2012 1,273 0,052 0,021 0,059 1,784 0,033 0,579 0,049 -0,089 0,304 0,981 0,723 0 ALT 2014 4,854 0,005 0,004 0 0,604 0 0,108 0,089 0,018 2,807 0,925 0,485 0 ALT 2013 4,287 0,011 0,009 0,002 0,559 0,004 0,107 -0,087 -0,056 2,763 1 0,458 0 ALT 2012 2,836 -0,035 -0,029 -0,032 0,579 -0,056 0,166 -0,181 -0,064 1,679 1 0,471 0 ALV 2014 3,278 0,027 0,02 0,032 0,167 0,191 0,229 -0,615 0,389 1,86 1 0,751 0 ALV 2013 2,407 0,035 0,023 0,054 0,52 0,103 0,306 0,272 -0,048 0,875 1 0,737 0 ALV 2012 1,913 0,029 0,019 0,042 0,389 0,107 0,357 -0,274 0,131 0,651 1 0,683 0 AMV 2014 4,317 -0,561 -0,352 -0,119 0,16 -0,745 0,532 -0,461 -0,067 0,599 0,153 0,352 1 AMV 2013 2,089 0,007 0,006 0,016 0,286 0,057 0,223 -0,192 0,127 2,523 0,749 0,35 0 AMV 2012 3,165 -0,025 -0,02 0,021 0,399 0,053 0,131 -0,003 -0,146 3,444 0,656 0,271 0 68 Thống kê mô tả Ma trận tƣơng quan 69 Kiểm định đa cộng tuyến 70 Mô hình FE 71 Mô hình RE 72 Kiểm định Hausman Kiểm định Wald 73 Kiểm định mức độ dự báo chính xác của mô hình Đƣờng cong ROCCHƢƠNG 3:
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Z= ln[Pi/(1-Pi)] = β0 + β1X1 + β2X2 +…+ βkXk
STT
Biến
Kí hiệu
Cách tính
Các nghiên cứu trƣớc
Kì
vọng
Biến
thuộc
yếu tố
tác động
Tổng số quan sát
Điều kiện để xác định nguy cơ
phá sản
Không có nguy cơ
phá sản
Có nguy cơ phá
sản
CHƢƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Biến
Số
quan sát
Giá trị
trung bình
Độ lệch
chuẩn
Giá trị
nhỏ nhất
Giá trị
lớn nhất
Ký
hiệu
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
X11
X12
Y
Biến
quan
sát
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
X11
X12
Y
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
X11
X12
Biến phụ thuộc
Chi2(12)
Prob(chi2)
Lựa chọn mô hình
Hệ số
Sai số
Giá trị
Biến
Ký
hiệu
Giá trị
thống kê z
hồi quy
Chuẩn
p-value
X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10
X11
X12
Hằng số
Ký hiệu
Prob(F-statistic)
Prob(chi2)
Biến
Ký hiệu
Biến
VIF
1/VIF
X3
X2
X1
X7
X4
X12
X11
X10
X6
X5
X9
X8
Trung bình VIF
CHƢƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
firm
year X1
X2
X3
X4
X5
X6
X7
X8
X9
X10 X11 X12 Y