ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------****-------

NGUYỄN ĐỨC NHUẬN

QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC

GIAI ĐOẠN 1992 ĐẾN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Hà Nội -2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ --------****-------

NGUYỄN ĐỨC NHUẬN

QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC

GIAI ĐOẠN 1992 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: Kinh tế thế giới & Quan hệ kinh tế quốc tế

Mã số: 60 31 07

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN DUY DŨNG

Hà Nội -2007

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU...………………………………………………………………………….1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT

NAM – HÀN QUỐC……………………………………………………………….5

1.1. SỰ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC KINH TẾ KHU VỰC VÀ VIỆT NAM – HÀN

QUỐC………..………………………………………………………...…………....6

1.2. KHAI THÁC LỢI THẾ SO SÁNH VÀ ĐÁP ỨNG NHU CẦU LỢI ÍCH CỦA

HAI

NƢỚC……...……………………………………………………..…….............9

1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ CẦN THIẾT ĐẢM BẢO VÀ THÚC ĐẨY QUAN HỆ

KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC………………….…………...….................11

1.4. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG LÊN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN

QUỐC THẬP KỶ ĐẦU CỦA THẾ KỶ 21......…….…….......................................13

1.4.1. Các yếu tố toàn cầu……...………..………………………………………..13

1.4.2. Các yếu tố khu vực…..………………………..……….….………………..14

1.4.3. Các yếu tố quốc gia...………………...…………………………………..…16

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN

QUỐC TỪ 1992 ĐẾN

NAY……………………………………………………...24

2.1. TRAO ĐỔI HÀNG HOÁ VIỆT NAM – HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN NAY..

…24

2.1.1. Thực trạng……...………. ...……………………………………………… 24

2.1.1.1. Kim ngạch trao đổi thương mại……………………….………………….24

2.1.1.2. Cơ cấu hàng hoá trao đổi……………………..…………………………..28

2.1.1.3. Vị trí của thị trường Hàn Quốc trong ngoại thương của Việt Nam……...38

2.1.2. Nhận xét………..………...…………………………………………………41

2.2. ĐẦU TƢ HÀN QUỐC VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1992 ĐẾN NAY VÀ

TÁC ĐỘNG CỦA NÓ............................................................................................. 46

2.2.1. Dòng FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam giai đoạn 1992 đến nay………….46

2.2.2. Những tác động của đầu tư Hàn Quốc đối với nền kinh tế Việt

Nam…...51

2.2.3. Nhận xét và đánh giá……...…….…………………………………………54

2.3. TRAO ĐỔI DU LỊCH VÀ HỢP TÁC LAO ĐỘNG GIỮA VIỆT NAM VÀ

HÀN QUỐC…….…………..……………………………………………...……....55

2.3.1. Du lịch…………….....………………………………………………………55

2.3.2. Sự phát triển quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc trong lĩnh vực hợp tác lao

động………………………………………………………………………………..65

2.3.3 Nhận xét và đánh giá…….…..……………………………………………...73

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN

QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 ĐẾN NAY…..…..………………………………75

CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN QUAN

HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC THỜI GIAN TỚI…..….………….82

3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN

QUỐC TRONG THỜI GIAN TỚI………….……………………………………..82

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT

NAM – HÀN QUỐC THỜI GIAN TỚI…………………………………………...88

3.2.1. Các giải pháp chung……...……...…………………………………………89

3.2.2. Nhóm các giải pháp trong một số lĩnh vực cụ thể…...……….…………...94

3.2.2.1. Các giải pháp trong lĩnh vực thương mại…….……..………….………...94

3.2.2.2. Các giải pháp trong lĩnh vực đầu tư…………………………………….103

3.2.2.3. Các giải pháp trong lĩnh vực trao đổi dịch vụ……...…...……..………..106

3.2.2.4. Các giải pháp trong lĩnh vực trao đổi lao động...……...………………..109

Kết luận………...………………………………………………………………...112

Tài liệu tham khảo…………….…………………………………………………115

BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu Nghĩa đầy đủ

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dƣơng Diễn đàn hợp tác á - âu Khu vực mậu dịch tự do của ASEAN Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá Doanh nghiệp Cộng đồng Châu âu Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài Quỹ tiền tệ quốc tế Các hiệp định thƣơng mại song phƣơng Tổng sản phẩm quốc nội Tổng sản phẩm quốc dân Khoa học xã hội Khu công nghiệp Khu chế xuất Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc Cục Xúc tiến đầu tƣ thƣơng mại Hàn Quốc Hiệp hội Thƣơng mại Quốc tế Hàn Quốc Hiệp hội các nhà nhập khẩu Hàn Quốc Thƣơng mại Quốc tế Hàn Quốc Nhà xuất bản Các nền kinh tế mới

ASEAN 1. APEC 2. ASEM 3. AFTA 4. CNH-HĐH 5. DN 6. EU 7. FDI 8. IMF 9. 10. FTAs 11. GDP 12. GNP 13. KHXH 14. KCN 15. KCX 16. KFSB 17. KOTRA 18. KITA 19. KOIMA 20. KOTI 21. NXB 22. NIEs 23. NAFIQAVED Cục Quản lý Chất lƣợng và Vệ sinh Thú y Thuỷ sản Việt

24. ODA 25. OECD SME 26. SMBA 27. TƢ 28. TNHH 29. 30. TNS 31. USD 32. VNĐ 33. XKLĐ 34. XTTM 35. XTĐT 36. WTO Nam Viện trợ phát triển chính thức Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế Hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ Tổ chức quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc Trung ƣơng Trách nhiệm hữu hạn Tu nghiệp sinh Đô la Mỹ Việt Nam đồng Xuất khẩu lao động Xúc tiến thƣơng mại Xúc tiến đầu tƣ Tổ chức Thƣơng mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ

Bảng 1.1 Liên kết với nền kinh tế toàn

cầu..……………..……………………........6

Bảng 1.2 Tỷ trọng của thƣơng mại nội vùng trong tổng xuất khẩu của các nƣớc Đông Á

1985, 1995 và 2001.……………………………………………………..…………...7

Bảng 1.3 Qui mô nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc năm 2006.…………………10

Bảng 1.4 Các sự kiện quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc

(1992- 2007)………………………………………………………………….11

Bảng 2.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992-2006….25

Bảng 2.2 Kim ngạch xuất khẩu của các nƣớc ASEAN sang Hàn

Quốc……….26

Bảng 2.3 Kim ngạch nhập khẩu của các nƣớc ASEAN từ Hàn

Quốc………...27

Bảng 2.4 Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hàn

Quốc…..30

Bảng 2.5 Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Hàn

Quốc……34

Bảng 2.6 Một số thị trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2006………...39

Bảng 2.7 Đầu tƣ trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam theo

năm…………………48

Bảng 2.8 Danh sách các dự án đầu tƣ lớn của Hàn Quốc ở Việt Nam ……….49

Bảng 2.9 Các thị trƣờng khách du lịch chính của Việt Nam………………………57

Bảng 2.10 Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc (1995-2006)……………………….71

Bảng 2.11 Lao động phân theo ngành nghề tại Hàn Quốc (1995-2006)…………..72

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới nền kinh tế đến nay, Đảng và chính

phủ Việt Nam luôn quan tâm đến việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nƣớc, các

khu vực khác nhau trên thế giới, đặc biệt với các nƣớc thuộc Châu Á - Thái

Bình Dƣơng, trong đó có Hàn Quốc. Tính từ cuối năm 1992 khi Việt Nam và Hàn

Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay quan hệ hai nƣớc ngày càng

đƣợc tăng cƣờng, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Hàn Quốc hiện là bạn hàng lớn

thứ 5 trong tổng số trên 100 nƣớc có quan hệ buôn bán với Việt Nam và là nƣớc đầu

tƣ lớn thứ 4 ở nƣớc ta. Mặc dù quan hệ kinh tế hai nƣớc đã đạt đƣợc những kết quả

khá khả quan, song thực tế đang tồn tại nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhất là sự

mất cân đối quá lớn trong cán cân thƣơng mại song phƣơng. Nếu nhƣ những năm cuối

thập kỷ 1990, mức nhập siêu của Việt Nam với Hàn Quốc thƣờng trên 1 tỷ USD thì

đến năm 2005 đã tăng lên 2,75 tỷ USD và năm 2006 con số này là hơn 3 tỷ USD.

Thực tế đó đòi hỏi phải xem xét đánh giá một cách toàn diện, khách quan mối quan

hệ kinh tế giữa hai nƣớc trong thời gian qua từ đó đƣa ra các giải pháp phù hợp nhằm

góp phần thúc đẩy hợp tác Việt Nam và Hàn Quốc trong thời gian tới.

Xuất phát từ tình hình cấp thiết trên tôi đã lựa chọn đề tài “Quan hệ

kinh kế Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 đến nay” làm nội dung nghiên

cứu của luận văn.

2. Tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc nói chung, quan hệ kinh tế nói

riêng đã thu hút sự chú ý đặc biệt của các học giả hai nƣớc và nƣớc ngoài. Ở Việt

Nam, trong thời gian gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài tạp chí về chủ

đề này đƣợc công bố. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau các công trình trên đã có

một số đóng góp nổi bật:

- Nêu đƣợc các nhân tố tác động đến quan hệ kinh tế hai nƣớc.

- Làm rõ đƣợc thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc ở bình diện

chung cũng nhƣ các lĩnh vực cụ thể.

1

- Đề xuất nhiều giải pháp có tính khả thi về mở rộng và tăng cƣờng quan hệ

kinh tế hai nƣớc.

Trong đó đáng chú ý là các công trình sau:

+ Ngô Xuân Bình (2005), Hội nhập kinh tế Đông Á và tác động của nó tới

quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc, Nhà xuất bản KHXH.

+ Ngô Xuân Bình và Phạm Quí Long (2000), Tăng trƣởng của Hàn Quốc,

NXB Thống kê.

+ Trần Quang Minh – Võ Hải Thanh (2005), FDI và ODA của Hàn Quốc vào

Việt Nam: Thực trạng và triển vọng, Nhà xuất bản KHXH.

+ Đỗ Hoài Nam, Ngô Xuân Bình, SUNG-YEAL KOO (2005), Hợp tác

kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập Đông Á, Viện Khoa học xã

hội Việt Nam.

Những nền tảng cơ sở lý luận, phân tích khoa học trên là cơ sở rất quan trọng

trong việc nghiên cứu vấn đề Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc trong thời kỳ

mới, nhất là khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực

và thế giới. Cần đánh giá đầy đủ và toàn diện về mối quan hệ này nhằm tìm ra

những gợi ý giải pháp giúp phát triển hiệu quả hơn nữa trong quan hệ hợp tác kinh

tế giữa hai nƣớc, tạo tiền đề cho phát triển quan hệ kinh tế với các quốc gia khác.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở một số lý thuyết chủ yếu có liên quan

luận văn tập trung luận giải thực trạng phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn

Quốc và từ đó nêu lên những giải pháp nhằm thúc đẩy mối quan hệ này trong thời

gian tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở và các yếu tố tác động lên sự phát

triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế.

- Tìm hiểu những đặc điểm, thực trạng quan hệ thƣơng mại giữa Hàn Quốc và Việt

Nam kể từ khi hai nƣớc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức năm 1992 đến

nay, từ đó chỉ ra những kết quả và các vấn đề đang tồn tại cần phải giải quyết.

2

- Dự báo về triển vọng phát triển quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hàn Quốc và

trên cơ sở đó đƣa ra những chính sách, giải pháp chủ yếu cho phíaViệt Nam

nhằm tiếp tục tăng cƣờng hợp tác với Hàn Quốc.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.

Với mục tiêu và nội dung trên, đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu trong luận

văn là: những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực trạng phát triển quan hệ kinh tế

Việt Nam - Hàn Quốc trên các lĩnh vực: đầu tƣ, thƣơng mại, hợp tác lao động và

du lịch. Vì viện trợ chính thức (ODA) của Hàn Quốc cho Việt Nam chƣa thực sự

nổi bật nên không phải là đối tƣợng nghiên cứu của luận văn này.

Phạm vi đề tài nghiên cứu là quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc từ 1992

đến nay, trong đó để có thể làm rõ hơn một số vấn đề, ở một số mục luận văn sử

dụng cả số liệu của các năm trƣớc đó.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trƣớc hết luận văn sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng để phân tích sự

hình thành và phát triển của quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc.

Bên cạnh đó, các phƣơng pháp phân tích cụ thể là: Phân tích tổng hợp, thống

kê, so sánh, lôgíc, lịch sử cụ thể… đƣợc sử dụng để làm nổi bật thực trạng và ảnh

hƣởng của bối cảnh và các nhân tố mới khi Việt Nam gia nhập sâu rộng hơn vào nền

kinh tế khu vực và thế giới tới quan hệ kinh tế hai nƣớc.

Ngoài ra đề tài cũng đã tham khảo ý kiến một số chuyên gia nhằm tổng hợp,

phân tích đánh giá và đƣa ra những nhận xét, dự đoán triển vọng phát triển mối quan

hệ này trong thời gian tới.

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn

- Hệ thống hoá và cập nhật thực trạng quan hệ kinh tế Việt nam - Hàn quốc

từ thập kỉ 1990 cho đến nay, đặc biệt là trong bối cảnh mới khi Việt Nam gia nhập

WTO.

- Làm rõ những nét tƣơng đồng và khác biệt về văn hoá, tâm lý, hệ thống

chính sách thƣơng mại, đầu tƣ, chiến lƣợc kinh doanh của Việt Nam và Hàn Quốc

và tác động của chúng đối với việc phát triển quan hệ kinh tế hai nƣớc.

3

- Đƣa ra một số gợi ý giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển hiệu quả hơn nữa

mối quan hệ này trong thời gian tiếp theo.

7. Bố cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục

các bảng, biểu đồ, đồ thị, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu

thành ba chƣơng:

Chƣơng 1: “Cơ sở cho sự phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn

Quốc” Chƣơng này sẽ hệ thống hoá cơ sở và các yếu tố tác động đến sự phát triển

quan hệ kinh tế giữa Việt Nam - Hàn Quốc trong quá khứ, hiện tại và tƣơng lai.

Chƣơng 2 “Thực trạng quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc từ năm

1992 đến nay” tập trung làm rõ những đặc điểm và thực trạng cơ bản của quan

hệ Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn từ 1992 nay trong các lĩnh vực trao đổi hàng

hoá, đầu tƣ… đƣa ra đánh giá chung về sự phát triển của mối quan hệ này.

Chƣơng 3 “Triển vọng và giải pháp phát triển quan hệ kinh tế Việt

Nam - Hàn Quốc” đƣa ra dự báo về xu hƣớng phát triển của mối quan hệ này, từ

đó đề ra các giải pháp chung và cụ thể nhằm tăng cƣờng và mở rộng quan hệ

kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc trong thời gian tới.

4

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ

VIỆT NAM - HÀN QUỐC

Từ lý thuyết và thực tiễn về kinh tế quốc tế, thƣơng mại quốc tế và đầu tƣ

quốc tế có thể thấy rằng để phát triển quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, bên cạnh

yếu tố nền tảng là sự tồn tại của lợi thế so sánh giữa họ, còn phải có một số yếu

tố khác nữa. Chúng có thể mang tính khách quan (quá trình toàn cầu hoá, khu

vực hoá, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ), và có thể mang

tính chủ quan (chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng và toàn bộ hệ thống chính

sách kinh tế của các nƣớc nói chung). Sự phát triển nhanh chóng quan hệ thƣơng

mại, đầu tƣ nói riêng và quan hệ kinh tế nói chung giữa Việt Nam và Hàn Quốc

trong suốt hai thập kỷ qua đã góp phần khẳng định cho nhận định trên.

Trên thực tế, quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đƣợc bắt đầu từ đầu thập

kỷ 1980, chủ yếu thông qua trao đổi hàng hoá một cách tự phát. Vào thời điểm

này, ở Hàn Quốc đã xuất hiện những nhu cầu mới, đòi hỏi chính phủ phải cải cách

nền kinh tế theo hƣớng mở cửa và tăng cƣờng hội nhập vào nền kinh tế

khu vực và thế giới. Còn ở Việt Nam, công cuộc cải cách nền kinh tế sang kinh tế

thị trƣờng cũng đƣợc bắt đầu vào thời gian này, và đƣợc tăng cƣờng sau khi

khối XHCN sụp đổ vào đầu những năm 1990. Thực tế khách quan này đã tạo đà

cho việc xích lại gần nhau hơn giữa hai nƣớc. Bên cạnh đó, dựa trên các lợi thế so

sánh, chính phủ hai nƣớc đã có những bƣớc đi thích đáng nhằm xây dựng môi

trƣờng pháp lý cho sự phát triển vững chắc quan hệ kinh tế song phƣơng. Hơn nữa,

yêu cầu đòi hỏi của quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá kinh tế đã buộc Việt

Nam và Hàn Quốc phải có những điều chỉnh trong quan điểm, định hƣớng

chính sách và chiến lƣợc phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình mới.

Những thay đổi này đã có tác động tích cực lên sự phát triển quan hệ kinh tế giữa

hai nƣớc thời gian qua. Vậy, cơ sở nào chi phối sự phát triển quan hệ kinh tế

Việt Nam - Hàn Quốc và các tác động nào đã ảnh hƣởng và tác động đến mối

quan hệ này trong thời gian qua? đây là những câu hỏi cần phải giải đáp trong

5

chƣơng này.

1.1. SỰ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC KINH TẾ KHU VỰC VÀ VIỆT NAM

- HÀN QUỐC

Mối quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đã đƣợc phát triển trong bối cảnh

toàn cầu hoá và khu vực hoá đƣợc tăng cƣờng mạnh mẽ từ cuối thập kỷ 1980. Căn cứ

vào các số liệu ở bảng 1.1, có thể thấy rằng từ thời điểm đó, các nƣớc Châu Á - Thái

Bình Dƣơng đã gia tăng đáng kể mức độ liên kết vào nền kinh tế toàn cầu. Các

nƣớc này đều đã rất coi trọng việc mở rộng thƣơng mại nội bộ và với các nƣớc khác

nhằm thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhất là FDI. Đồng thời đây cũng là thời gian

liên kết kinh tế khu vực đƣợc tăng cƣờng thông qua các hoạt động đa dạng của

ASEAN và APEC. Trong đó, các nƣớc trong khu vực đã giành sự quan tâm đáng kể

cho việc mở rộng trao đổi buôn bán thƣơng mại. Điều này đƣợc minh chứng qua

các số liệu ở Bảng 1.2. Trong giai đoạn này, tỷ trọng của xuất khẩu nội vùng trong

tổng xuất khẩu của nhiều nƣớc Đông Á đã gia tăng mạnh, trong đó Hàn Quốc và

Việt Nam đã tăng gấp hơn hai lần, tƣơng ứng từ 5,8% và 0,4% lên 13,3% và 1%.

Bảng 1.1 Liên kết với nền kinh tế toàn cầu

Trao đổi hàng Tổng dòng Trao đổi hàng Tổng FDI hoá (% so với vốn vào tƣ hoá (% so với (% so với GDP hàng nhân (% so Tên nƣớc GDP) GDP) hoá) với GDP)

1990 2000 1990 2000 1990 2000 1990 2000

Hàn Quốc 53,4 72,8 72,8 153,8 6,2 11,5 0,7 3,2

Việt Nam 79,7 96,0 96,0 - 10,8 4,1 -

Thái Lan 66,1 107,2 107,2 211,4 13,5 11,3 2,8 3,0

Indonexia 41,5 62,4 62,4 97,2 4,1 8,5 4,2 1,0

Trung Quốc 32,5 43,9 43,9 65,8 2,5 12,7 4,3 1,2

Nguồn: World Development Indicators 2002, WB, p. 332-334.

Cũng vào những năm cuối thập kỷ 1980, đã có nhiều thay đổi xuất hiện trong

nội bộ các nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc, khiến chính phủ hai nƣớc phải quan

6

tâm hơn đến việc mở rộng quan hệ với bên ngoài, đặc biệt là với các nƣớc trong khu

vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng. Ở Hàn Quốc lúc đó, vai trò của tiêu dùng trong nƣớc

nhƣ là động lực về nhu cầu cho tăng trƣởng kinh tế đã giảm dần và thay vào đó là sự gia

tăng vai trò của xuất khẩu và đầu tƣ ra nƣớc ngoài. Có một số nguyên nhân dẫn đến việc

Hàn Quốc tăng cƣờng mở rộng xuất khẩu và đầu tƣ ra bên ngoài vào thời điểm này. Đó

là:

a) Sau nhiều năm đạt tăng trƣởng kinh tế với tốc độ cao, cán cân thanh toán đã đạt

thặng dƣ 4,2 tỷ USD vào năm 1986, nguồn dự trữ ngoại tệ của Hàn Quốc đã gia tăng

đáng kể - từ 6,57 tỷ USD năm 1980 lên 14,8 tỷ năm 1990 và 32,7 tỷ USD năm 1995;

Bảng 1.2 Tỷ trọng của thƣơng mại nội vùng trong tổng xuất khẩu

của các nƣớc Đông Á 1985, 1995 và 2001

Tỷ trọng Giá trị xuất khẩu nội Tỷ trọng của xuất trong GDP Nƣớc xuất vùng (triệu USD) khẩu nội vùng (%) toàn vùng khẩu

1985 1995 2001 1985 1995 2001 2001

0,3 Brunei 922 951 1.192 2,1 0,3 0,4

6,1 Campuchia 3 276 182 0,1

Trung Quốc 10.867 90.799 127.796 24,7 28,9 30,6 43,1

6,4 HongKong 6.637 20.016 26.981 15,1 5 7,5

3,8 4,4 Indonexia 1.953 12.008 17.155 4,1 4,2

5,8 Hàn Quốc 2.559 40.346 55.748 12,8 13,3 14,4

Lào 17 199 220 0,1 0,1 0,1

Malaysia 6.844 37.642 46.759 15,5 12 11,2 3,3

Mông Cổ 4 111 242 0 0 0,1 0,1

Philippin 1.071 4.645 14.736 2,4 1,5 3,5 2,9

Singapore 6.032 38.979 41.806 13,7 12,4 10 3,8

Đài Loan 4.994 49.959 62.477 11,3 15,6 14,9 13,9

Thái Lan 1.982 17.548 24.359 4,5 5,6 5,8 5

Việt Nam 182 1.916 4.354 0,4 0,6 1 1,2

7

Tổng số 44.067 314.496 418.007 100 100 100 100

Nguồn: IMF, Direction of Trade Statistics.

b) Trong điều kiện lao động và vốn đóng góp nhiều hơn cho tăng trƣởng GNP

so với việc tăng năng suất, tiền lƣơng thực tế ở Hàn Quốc luôn gia tăng với tốc độ từ

6-8% suốt từ đầu thập kỷ 1980 đã làm cho khả năng cạnh tranh về giá của hàng hoá

xuất khẩu của nƣớc này bị giảm dần. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải tìm kiếm

nguồn lao động rẻ hơn ở các nƣớc khác.

c) Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia đã đạt mức khá cao (trên 30%) và đã vƣợt quá tỷ

lệ đầu tƣ. Nền kinh tế Hàn Quốc đƣợc coi là nền kinh tế tự cung tự cấp.

d) Từ những năm đầu 1990, nền kinh tế Hàn Quốc bắt đầu bƣớc vào một thời

kỳ phát triển mới - thời kỳ của dân chủ hoá, tƣ nhân hoá và tự do hoá mạnh mẽ.

Đối tƣợng đầu tiên đƣợc chính phủ Hàn Quốc quan tâm đến khi tăng

cƣờng thực hiện chiến lƣợc toàn cầu hoá của mình là các nƣớc Đông Nam Á khu

vực dân cƣ đông đúc, giá lao động lại rẻ, giàu tài nguyên thiên nhiên, trình độ phát

triển kinh tế lại lạc hậu hơn và đang kiên trì theo đuổi đƣờng lối kinh tế hƣớng ngoại.

Vào thời gian trên, Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế. Quá

trình này đƣợc tăng cƣờng rõ rệt sau năm 1990, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan

rã. Tinh thần quyết tâm đổi mới sang nền kinh tế thị trƣờng, sự chuyển

hƣớng trong chính sách kinh tế đối ngoại nhằm đa dạng hoá thị trƣờng, đa

phƣơng hoá các bạn hàng và các đối tác là chủ trƣơng quan trọng mà Việt Nam đã

khởi xƣớng và nhận đƣợc sự đồng tình và ủng hộ trong nƣớc và quốc tế. Mặc dù vào

thời điểm đó, qui mô thị trƣờng trong nƣớc còn nhỏ hẹp, nền kinh tế lại kém phát

triển, tài nguyên thiên nhiên đa dạng và còn chƣa đƣợc khai thác hiệu quả trong

khi nhu cầu về vốn và công nghệ cần thiết cho công cuộc đổi mới là rất lớn. Vì

vậy, đổi mới hoạt động đối ngoại nói chung, kinh tế đối ngoại nói riêng là yêu

cầu khách quan nhằm đƣa Việt nam thoát khỏi thế cô lập và nhanh chóng hoà

nhập với thế giới. Trong bối cảnh đó Việt Nam đã tranh thủ đƣợc sự quan tâm

của nhiều nƣớc trong khu vực, trong đó có chính phủ và giới kinh doanh Hàn

Quốc. Một khi hợp tác khu vực đƣợc tăng cƣờng sẽ tạo cơ hội cho các nƣớc nói

8

chung, Việt Nam - Hàn Quốc nói riêng có điều kiện mở rộng hợp tác trên nhiều

lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt kể từ khi hai nƣớc chính thức thiết lập quan hệ ngoại

giao (22-12-1992). Có thể coi đây là cái mốc quan trọng mở ra một trang sử mới

cho mối quan hệ song phƣơng nhiều mặt giữa Việt Nam và Hàn Quốc.

Cho đến nay, trải qua chặng đƣờng 15 năm phát triển chƣa phải là dài, song

những thành tựu đã đạt đƣợc trong mối quan hệ song phƣơng giữa Việt Nam và

Hàn Quốc rất đáng đƣợc ghi nhận, đặc biệt trong hợp tác kinh tế. Nếu nhƣ năm

1992, kim ngạch trao đổi thƣơng mại hai chiều giữa Việt Nam và Hàn Quốc mới

chỉ đạt 581,7 triệu USD, thì đến năm 2005 đã tăng lên 4,23 tỷ USD và năm 2006 đã

lên đến hơn 5 tỷ USD. Theo Cục Xúc tiến đầu tƣ thƣơng mại Hàn Quốc

(KOTRA), tính đến hết tháng 7 năm 2007 Hàn Quốc đã chính thức vƣợt qua

Singapore để trở thành nhà đầu tƣ lớn nhất tại Việt Nam với tổng vốn đầu tƣ trực

tiếp nƣớc ngoài (FDI) lên tới 10,33 tỷ USD, trong đó phần lớn là vào khu vực

công nghiệp và xây dựng. Hợp tác song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc còn đƣợc

phát triển trong các lĩnh vực khác, nhƣ khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục...

1.2. KHAI THÁC LỢI THẾ SO SÁNH VÀ ĐÁP ỨNG NHU CẦU LỢI ÍCH CỦA

HAI NƢỚC

Những thành tựu to lớn đó đã góp phần khẳng định rằng mối quan hệ song

phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc thể hiện sự gặp nhau giữa nhu cầu và lợi ích của cả hai

bên và đƣợc phát triển dựa trên những lợi thế so sánh của mỗi nƣớc. Xét về nhiều

mặt, hai nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc có tính bổ sung cho nhau rất rõ rệt. Việt

Nam nằm trên bán đảo Đông Dƣơng, có vị trí thuận lợi về giao thông, đặc biệt là giao

thông biển, nối liền các nƣớc Đông Nam Á và Đông Bắc Á, trong đó có Hàn Quốc.

Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế đến nay, Việt Nam liên tục cố

gắng trong việc khai thông các tuyến đƣờng sắt, đƣờng thuỷ và đƣờng hàng không,

nối liền các thành phố lớn của Việt Nam với nhiều thành phố, trung tâm lớn trong khu

vực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các quan hệ kinh tế với bên ngoài.

Xét về qui mô nền kinh tế, Việt Nam có một số điểm lợi thế hơn so với Hàn Quốc,

nhƣ dân số lớn hơn, mật độ dân số chỉ bằng 1/2 của Hàn Quốc do diện tích lớn hơn, tài

nguyên thiên nhiên giàu có, đa dạng hơn tuy hoạt động khai thác còn kém hiệu quả.

9

Đáng tiếc rằng những điểm lợi thế này chủ yếu là do thiên nhiên ban tặng, và chúng

đang bị giảm dần ý nghĩa của mình. Trong khi đó, Việt Nam đang và sẽ còn kém xa Hàn

Quốc về các chỉ tiêu phát triển kinh tế cơ bản - tổng thu nhập quốc dân thấp hơn 14

lần, do đó thu nhập quốc dân trên đầu ngƣời tính theo ngang giá sức mua cũng thấp

hơn gần 9 lần.

Từ những trình bày ở trên, có thể nói khái quát hơn rằng trong quan hệ

song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc, Việt Nam có lợi thế về lao động và tài

nguyên, còn Hàn Quốc có lợi thế về vốn và công nghệ. Sự tồn tại của chúng

trong điều kiện cả hai nƣớc đều đặt trọng tâm vào việc tăng cƣờng liên kết kinh

tế khu vực chính là nền móng cho sự phát triển nhanh chóng quan hệ nhiều mặt

giữa hai quốc gia, đặc biệt sau năm 1992. Trong mối quan hệ này, cả hai nƣớc đều

có lợi: Việt Nam có điều kiện tiếp cận đƣợc với nguồn vốn dồi dào và công

nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý khoa học và tác phong làm việc

nghiêm túc và rất kỷ luật của ngƣời Hàn Quốc. Hàn Quốc sẽ có đƣợc nhiều cơ

hội đầu tƣ mới hiệu quả hơn, do có thể giảm đƣợc chi phí lao động, tiếp cận đƣợc

với thị trƣờng trên 80 triệu dân của Việt Nam, có thể chuyển giao các ngành công

nghiệp cần nhiều lao động ra nƣớc ngoài, trong đó có Việt Nam, để tập trung vào

việc phát triển các ngành công nghệ cao ở trong nƣớc. Tính bổ sung của hai nền

kinh tế này đƣợc thể hiện chính là ở chỗ đó.

Bảng 1.3 Qui mô nền kinh tế Việt Nam và Hàn Quốc năm 2006

Các chỉ tiêu cơ bản Việt Nam Hàn Quốc

1. Dân số (triệu ngƣời) 84 48,5

2. Diện tích (ngàn km2) 332 99

3. Mật độ dân số (ngƣời/km2) 253 489

4. Tổng thu nhập quốc dân (tỷ USD) 50,9 793

- Xếp hạng 59 10

10

5. Tổng thu nhập quốc dân trên đầu ngƣời:

- Tính bằng đô la 725,3 16.270

- Xếp hạng 123 33

6. Tổng thu nhập quốc dân tính theo

ngang giá sức mua : - Tính bằng đô la 3.025 22.620

- Xếp hạng 123 34

7. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

Tốc độ tăng trƣởng 2005-2006 (%) 8 10,2

Trên đầu ngƣời, % tăng trƣởng 2005-2006 13,6 10,1

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

1.3. CƠ SỞ PHÁP LÝ CẦN THIẾT ĐẢM BẢO VÀ THÚC ĐẨY QUAN

HỆ KINH TẾ VIỆT NAM – HÀN QUỐC

Quá trình xây dựng cơ sở pháp lý cho việc điều tiết các hoạt động kinh tế

song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc đƣợc tiến hành một cách tích cực ngay sau

khi hai nƣớc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào cuối năm 1992. Về

cơ chế hợp tác, ngay đầu năm 1993, chính phủ hai nƣớc đã thành lập Uỷ ban

liên chính phủ về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật và từ năm 1995 - cơ

chế về trao đổi chính sách thƣờng niên cấp vụ, cục trƣởng giữa hai Bộ Ngoại

giao. Điều đáng chú ý là các cơ chế đó đã đƣợc duy trì đều đặn hàng năm và có

kết quả thiết thực, thể hiện quyết tâm của hai nƣớc, hai chính phủ muốn phát

triển mạnh mẽ mối quan hệ song phƣơng giữa họ. Những sự kiện quan trọng

trong quan hệ song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc trong suốt thời gian qua với

nhiều chuyến viếng thăm lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo cấp cao của hai nƣớc đã

cải thiện đáng kể sự hiểu biết lẫn nhau giữa chính phủ và nhân dân hai nƣớc.

Bảng 1.4 Các sự kiện quan trọng trong quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc

(1992- 2007)

Thời gian Sự kiện

01-1992 Ký hiệp định thành lập Văn phòng liên lạc

08-1992 Hàn Quốc mở Văn phòng liên lạc tại Việt Nam

11

10-1992 Việt Nam mở Văn phòng liên lạc tại Hàn Quốc

12-1992 Chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hàn Quốc

11-1993 Mở Tổng lãnh sự quán Hàn Quốc tại TP Hồ Chí Minh

05-1994 Bộ trƣởng Ngoại giao Hàn Quốc Han Sung Joo thăm Việt Nam

08-1994 Thủ tƣớng Hàn Quốc Lee Young Dug thăm Việt Nam

05-1995 Tổng bí thƣ Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mƣời thăm Hàn Quốc

07-1996 Bộ trƣởng ngoại giao Hàn Quốc Gong Ro Myung thăm Việt Nam

08-1996 Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Young Sam thăm Việt Nam

11-1997 Phó thủ tƣớng Bộ trƣởng Bộ Thống nhất Hàn Quốc Kwon O.Kie

thăm Việt Nam

03-1998 Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nông Đức Mạnh thăm Hàn Quốc

08-1998 Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao và thƣơng mại Hàn Quốc Park Chung Soo

thăm Việt nam

09-1998 Chủ tịch uỷ ban kiểm soát và thanh tra Hàn Quốc thăm Việt Nam

12-1998 Tổng thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung thăm Việt Nam

12-1998 Phó chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Shin Sang Woo thăm Việt Nam

07-1999 Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao và thƣơng mại Hàn Quốc Hong Soon

Young thăm Việt Nam

08-2000 Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên thăm Hàn

Quốc

10-2000 Thủ tƣớng Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm thăm Hàn Quốc

12-2000 Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng Hàn Quốc Cho Sung Tae thăm Việt Nam

07-2001 Bộ trƣởng Bộ Ngoại giao và thƣơng mại Hàn Quốc Han Seung Soo

thăm Việt Nam

08-2001 Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Phan Văn Trà thăm Hàn Quốc

08-2001 Chủ tịch nƣớc Việt Nam Trần Đức Lƣơng thăm Hàn Quốc

12-2001 Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng Hàn Quốc Kim Dong Shin thăm Việt

Nam

04-2002 Thủ tƣớng Hàn Quốc Lee Han Dong thăm Việt Nam

12

09-2002 Phó thủ tƣớngViệt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm Hàn Quốc

09-2003 Thủ tƣớng Việt Nam Phan Văn Khải thăm Hàn Quốc

07-2004 Chủ tịch quốc hội Việt Nam Nguyễn Văn An thăm Hàn Quốc

10-2004 Tổng thống Hàn Quốc Rô Mu Hiên thăm Việt Nam

04-2005 Thủ tƣớng Hàn Quốc Li He Chan thăm Việt Nam

05-2005 Bộ trƣởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Dy Niên thăm Hàn Quốc

11-2005 Chủ tịch nƣớc Trần Đức Lƣơng dự hội nghị APEC-13 tại Hàn Quốc,

đã có cuộc gặp song phƣơng cấp cao với Tổng thống Rô Mu Hiên

01-2006 Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Kim Won Ki thăm Việt Nam

11-2006 Tổng thống Hàn Quốc Rô Mu Hiên dự Hội nghị APEC-14 tại Hà

Nội, đã có cuộc gặp song phƣơng cấp cao với Chủ tịch nƣớc Nguyễn

Minh Triết ngày 17/11/2006

05-2007 Phó thủ tƣớng Thƣờng trực Nguyễn Sinh Hùng thăm làm việc tại

Hàn Quốc

Nguồn: http://www.mofa.gov.vn/vi/bng_vietnam/

Thông qua hoạt động của các cơ chế hợp tác trên, cho đến nay, hai nƣớc

Việt Nam và Hàn Quốc đã ký nhiều hiệp định quan trọng, bao gồm Hiệp định

hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật (2/1993), Hiệp định thƣơng mại (5/1993),

Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tƣ (5/1993), Hiệp định hàng không

(5/1993), Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (5/1994), Hiệp định hợp tác về văn

hoá (8/1994), Hiệp định hợp tác hải quan (3/1995), Hiệp định hợp tác vận tải

biển (4/1995), Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ (4/1995), Hiệp định về sử

dụng hoà bình năng lƣợng hạt nhân (11/1996), Hiệp định miễn thị thực hộ

chiếu ngoại giao và công vụ (12/1998), Hiệp định hợp tác du lịch (8-2002),…

Những hiệp định này chính là nền tảng pháp lý vững chắc, giúp cho mối quan

hệ kinh tế song phƣơng giữa hai nƣớc đƣợc phát triển nhanh chóng trên nhiều

mặt nhƣ ngày nay.

1.4. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC

THẬP KỶ ĐẦU CỦA THẾ KỶ 21

13

1.4.1. Các yếu tố toàn cầu

Có hai yếu tố quan trọng tác động lên toàn bộ nền kinh tế thế giới là cuộc

cách mạng khoa học và công nghệ và làn sóng tự do hoá và toàn cầu hoá kinh tế.

Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là

công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, đang làm thay đổi và làm xuất hiện các

phƣơng thức kinh doanh và quản lý mới, buộc các nền kinh tế phải thích ứng với

một giai đoạn phát triển mới là nền kinh tế tri thức. Làn sóng tự do hoá kinh tế,

bao gồm tự do hoá thƣơng mại, đầu tƣ và tài chính, đƣợc diễn ra rộng khắp với

mọi cấp độ khác nhau đang làm cho sự lƣu chuyển các dòng hàng hoá, dịch vụ, vốn

và lao động ngày càng đƣợc tự do hơn trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, đến năm

2010 hay xa hơn nữa là năm 2020, nhiều khối kinh tế - thƣơng mại sẽ đi vào hoạt

động, trong đó có ASEAN và APEC. Lúc đó, nhiều nền kinh tế khu vực với các

các mạng lƣới sản xuất và thị trƣờng khu vực rộng lớn sẽ là những chủ thể tham

gia vào nền kinh tế thế giới. Chúng sẽ tác động đáng kể lên quan hệ nội bộ giữa

các nƣớc thành viên tham gia.

1.4.2. Các yếu tố khu vực

Trong một hai thập kỷ tới, Đông Á vẫn đƣợc coi là khu vực có khả năng phát

triển năng động nhất trên thế giới với sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc, sự

vững mạnh của các NIEs và sự phát triển với tốc độ cao của các nền kinh tế chuyển

đổi. Dựa trên thực tiễn thực tiễn phát triển kinh tế, đặc biệt là khả năng thu hút FDI và

đƣờng lối cải cách kinh tế trong thập kỷ qua, nhiều dự báo đã cho rằng đến năm

2020, nền kinh tế Trung Quốc sẽ lớn mạnh nhƣ nền kinh tế Mỹ hiện nay (tuy chỉ

xét về tổng GDP) và nƣớc này sẽ trở thành một siêu cƣờng kinh tế trong thế kỷ

21. Ngay trong những năm đầu tiên của thế kỷ này, việc Trung Quốc trở thành thành

viên của WTO đã tạo nên những thay đổi đáng kể trong quan hệ của nƣớc này với Nhật

Bản, Hàn Quốc, và đặt ra cho các nƣớc ASEAN, trong đó có Việt Nam, nhiều thách

thức lớn trong việc thu hút nguồn FDI cần thiết cho phát triển kinh tế.

Một nhân tố khác góp phần tạo nên tính năng động của các nền kinh tế

Đông Á là sự lớn mạnh của các NIEs thế hệ thứ nhất là Hồng Kông, Đài Loan,

Hàn Quốc và Singapore. Những cải cách tích cực của họ sau cuộc khủng hoảng

14

tài chính - tiền tệ khu vực đã mang lại kết quả tốt. Đà tăng trƣởng kinh tế đã

đƣợc phục hồi, cán cân thƣơng mại và thanh toán đƣợc cải thiện. Các dòng vốn

bên ngoài đã quay trở lại, tạo điều kiện gia tăng dự trữ ngoại tệ. Với các hoạt

động rất tích cực theo hƣớng tự do hoá thƣơng mại, đƣợc thể hiện rõ nét

nhất ở Singapore thông qua việc ký kết và đàm phán để ký kết các hiệp định

thƣơng mại tự do với nhiều nƣớc khác nhau, các nƣớc này sẽ là những chủ thể

tích cực của quá trình liên kết kinh tế khu vực. Nhóm các nƣớc đang trong quá

trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng nhƣ Việt Nam, Cămpuchia, Lào...

đang có nhiều hứa hẹn về một tƣơng lai tốt đẹp ở phía trƣớc.

Xu hƣớng ký kết các hiệp định thƣơng mại song phƣơng (FTAs) đang

đƣợc nở rộ ở khắp Châu Á trừ hai trƣờng hợp ngoại lệ là Bắc Triều Tiên và Mông

Cổ. Đi đầu trong hoạt động này là Singapore. Hiện tại, Singapore đã ký hiệp định

thƣơng mại tự do song phƣơng với Nhật Bản, Mỹ, đang trong quá trình đàm phán

để ký kết với Canađa, Chi Lê, Mexico, Ôxtralia, thậm chí với cả Hồng Kông.

Sự mở màn của Singapore đã kéo theo nhiều nƣớc khác trong ASEAN vào cuộc

nhƣ Thái Lan, Malayxia, Philippin. Trong một vài năm gần đây, đến lƣợt 3

cƣờng quốc kinh tế khu vực là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản đã nhập cuộc.

Đối với Hàn Quốc, việc tham gia vào cuộc chạy đua này là cần thiết, bởi vị trí

hiện nay của nó trong thƣơng mại quốc tế (là bạn hàng lớn thứ 12 của thế giới)

và sự phụ thuộc nặng nề của tăng trƣởng kinh tế vào thƣơng mại quốc tế. Với

tinh thần đó, Chính phủ Hàn Quốc đã ký FTA với Chi Lê - một thị trƣờng ở tận

Châu Mỹ song lại rất quan trọng đối với ngành công nghiệp ô tô của nƣớc này.

Các nhà xuất khẩu ô tô Hàn Quốc chiếm lĩnh khoảng 25% thị trƣờng ô tô của

Chi Lê. Với vị thế nhƣ vậy, trong quá trình đàm phán, tuy Hàn Quốc đƣa ra

những nhƣợng bộ đáng kể trong lĩnh vực nông nghiệp, Chi Lê vẫn yêu cầu Hàn

Quốc phải giảm thuế quan đối với một số mặt hàng nông sản mà đối với Chi Lê là

quan trọng nhất. Song, quan điểm của Hàn Quốc là tối thiểu hoá các tác động tiềm

tàng của FTA đối với nông dân và FTA với Chi Lê đã thể hiện rất rõ điều đó. Họ

đã kiên trì theo đuổi quan điểm của mình. Kết quả là, Chi Lê đã đồng ý mở cửa thị

trƣờng ngay lập tức sau khi hiệp định đƣợc ký kết đối với ô tô, điện thoại di động

15

và máy tính của Hàn Quốc - những mặt hàng này chiếm tới 66% tổng xuất khẩu

của Hàn Quốc sang Chi Lê. Hàn Quốc đã thành công trong việc loại trừ các sản

phẩm táo, đào và gạo, tức những sản phẩm có ảnh hƣởng xấu nhất đến các chủ

trang trại của họ ra khỏi danh sánh giảm thuế. Mặc dù vậy, quá trình phê chuẩn

FTA Hàn Quốc - Chi Lê đã kéo dài tới trên một năm, sự phản đối mạnh mẽ của

dân chúng. Đến tận ngày 1/4/2004, nó mới bắt đầu có hiệu lực. Chính phủ Hàn

Quốc hy vọng hiệp định này sẽ mở đƣờng cho các hiệp định buôn bán có giá trị lớn

hơn với hai nƣớc láng giềng là Trung Quốc và Nhật Bản. Với các nƣớc ASEAN

khác, Hàn Quốc chủ trƣơng tiếp tục duy trì và phát triển các mối quan hệ kinh tế

hiện có.

Tuy triển vọng phát triển kinh tế là tƣơng đối sáng sủa đối với hầu hết các

nƣớc Đông Á, song các nhà chuyên gia kinh tế vẫn nhận định rằng trong tƣơng

lai sự chênh lệch phát triển giữa các nền kinh tế trong khu vực sẽ ngày càng sâu

sắc hơn. Một số nƣớc giàu có nhƣ Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan

và một số vùng ở Trung Quốc sẽ ngày càng giàu hơn, trong khi một số nƣớc

khác nhƣ Việt Nam, Lào, Cămpuchia và một số vùng ở miền Tây Trung Quốc sẽ

tiếp tục bị lạc hậu hơn. Triển vọng phát triển kinh tế sáng sủa hiện diện cùng với

sự chênh lệch phát triển giữa các nƣớc trong khu vực trong tƣơng lai là một trong

những nhân tố quan trọng để đi đến nhận định rằng quan hệ thƣơng mại Việt

Nam - Hàn Quốc sẽ tiếp tục đƣợc phát triển. Song khả năng cải thiện vị thế của

Việt Nam trong mối quan hệ này là không cao, do lợi thế so sánh của Hàn Quốc

vẫn tiếp tục là vốn và công nghệ cộng với nguồn nhân lực đƣợc đào tạo tốt, còn

của Việt Nam vẫn tiếp tục là nơi cung cấp tài nguyên và nguồn lao động rẻ hơn

mà thôi.

1.4.3. Các yếu tố quốc gia

Định hƣớng phát triển kinh tế của Việt Nam

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng tổ chức vào năm 2001 đã

quyết định Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ 21.

“Chiến lƣợc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hƣớng xã hội

chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nƣớc ta cơ bản trở thành một

16

nƣớc công nghiệp”. Trên cơ sở đó đã đề ra định hƣớng phát triển cho từng khu vực

kinh tế, từng vùng địa lý. Trong Chiến lƣợc này, khu vực nông nghiệp đƣợc coi là

trọng tâm. Việt Nam chủ trƣơng đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông

nghiệp và nông thôn theo hƣớng hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp

với nhu cầu thị trƣờng và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu

ngành, nghề, cơ cấu lao động, đƣa tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất nông

nghiệp, đạt mức tiến tiến về trình độ công nghệ trong khu vực, tăng năng suất

lao động, nâng cao chất lƣợng và sức cạnh tranh của sản phẩm, nhằm mở rộng thị

trƣờng tiêu thụ nông sản cả trong và ngoài nƣớc. Mục tiêu là năm 2010, tỷ trọng

của nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn 16-17%, tỷ trọng của ngành chăn

nuôi trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%, thuỷ sản đạt

sản lƣợng 3,0-3,5 triệu tấn, trong đó khoảng 1/3 là sản phẩm nuôi trồng, kim ngạch

xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản đạt 9-10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản khoảng 3,5 tỷ

USD. Để đạt đƣợc các chỉ tiêu này, Việt Nam chủ trƣơng phát triển theo quy

hoạch và đầu tƣ thâm canh các vùng cây công nghiệp nhƣ cà phê, cao su, chè, hạt

điều, dừa, dâu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá... và các vùng cây ăn quả và rau xanh,

phát triển và nâng cao chất lƣợng đàn gia súc, gia cầm, gắn chăn nuôi với chế

biến, phát huy lợi thế về thuỷ sản để xây dựng trở thành một ngành kinh tế mũi

nhọn, đứng đầu trong khu vực, trong đó chú trọng cả khai thác, nuôi trồng và chế

biến. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải tăng cƣờng tiềm lực khoa học và công nghệ

cho nông nghiệp, nhất là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin, phát triển

mạnh các ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, phục vụ cho sản xuất nông

nghiệp và đời sống của nông dân.

Quan điểm phát triển ngành công nghiệp của Việt Nam trong thập kỷ đầu tiên

của thế kỷ 21 là phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế

cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trƣờng trong nƣớc và đẩy mạnh xuất khẩu, nhƣ chế biến

nông, lâm, thuỷ sản, may mặc, da giầy, điện tử - tin học, một số sản phẩm cơ khí

và hàng tiêu dùng và một số ngành công nghệ cao nhƣ thông tin, viễn thông, điện tử

và tự động hoá, đồng thời xây dựng có chọn lọc một số ngành công nghệ nặng nhƣ

dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng.

17

Công trình nghiên cứu do Viện Nghiên cứu Chiến lƣợc và chính sách Công nghiệp,

Bộ Công nghiệp thực hiện năm 2002 đã đƣa ra những dự báo về khả năng cạnh tranh

của một số hàng hoá công nghiệp Việt Nam thông qua việc phân tích lợi thế phát

triển và các yếu tố ảnh hƣởng đến khả năng cạnh tranh của chúng. Theo kết quả của

công trình nghiên cứu này, những mặt hàng có khả năng cạnh tranh của nƣớc ta là:

 Nhóm hàng dệt may: hàng may mặc và ngành Dâu - Tằm tơ là những mặt

hàng có thể cạnh tranh đƣợc, song hàng may mặc mức độ cạnh tranh không

cao, bởi phải nhập khẩu tới 80% nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ qua nƣớc

thứ ba. Nếu thực hiện đƣợc theo hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm,

giá trị xuất khẩu sẽ có thể tăng lên tới 4-5 lần. Và nếu tự cung cấp đƣợc vải

từ sản xuất trong nƣớc, khả năng tăng giá trị xuất khẩu còn cao hơn nữa. Mặt

hàng có tiềm năng cạnh tranh là sợi, nhất là sợi tơ chải kỹ, và lĩnh vực dệt,

loại trừ sợi hoá học và sợi vật liệu mới.

 Nhóm hàng giầy dép: Những mặt hàng có thể cạnh tranh đƣợc là giầy thể

thao, giầy nữ, giầy vải. Mặt hàng không có khả năng cạnh tranh là da thuộc,

vì nguyên liệu trong nƣớc không đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế, thị trƣờng tiêu

thụ lại bấp bênh.

 Nhóm hàng cơ khí: Những mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao là kết cấu

thép, thiết bị phi tiêu chuẩn, siêu trƣờng - siêu trọng, nhờ lợi thế cạnh tranh

tại chỗ. Các mặt hàng có khả năng cạnh tranh thấp là kỹ thuật thiết bị điện,

sản phẩm phục vụ nông nghiệp, tàu thuỷ trọng tải dƣới 30.000 tấn, đóng mới

toa xe lửa, sản phẩm cơ khí xây dựng.

 Sản phẩm hoá chất: Mặt hàng có khả năng cạnh tranh là phân lân nung chảy

và phân bón hỗn hợp NPK, săm lốp xe đạp, xe máy, ắc quy các loại, bột giặt.

Một số mặt hàng có tiềm năng cạnh tranh là: phân lân Super, phân đạm ure,

săm lốp các loại và các sản phẩm cao su kỹ thuật.

 Sản phẩm điện tử, máy tính: Các sản phẩm có khả năng cạnh tranh là máy

tính và phần mềm máy tính. Đồ điện tử dân dụng là mặt hàng có khả năng

cạnh tranh yếu. Những sản phẩm có tiềm năng cạnh tranh là nguyên liệu và

18

linh kiện điện tử và công nghệ thông tin.

Tuy đối tƣợng nghiên cứu của công trình chƣa bao trùm tất cả các ngành

công nghiệp Việt Nam, song nó đã đề cập đến hầu hết các ngành có khả năng

cạnh tranh của nƣớc ta đƣợc quan tâm phát triển trong thời gian tới, theo

Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 thông qua tại đại hội IX

của Đảng. Thế nhƣng, những mặt hàng đƣợc đánh giá là có khả năng cạnh

tranh, vẫn thấp hơn của các mặt hàng tƣơng tự trong khu vực và trên thế giới.

Hơn nữa, một số nhóm hàng có đƣợc khả năng cạnh tranh do mức bảo hộ hữu

hiệu cao nhƣ may mặc và giầy dép, một số mặt hàng khác lại do có lợi thế về

địa lý nhƣ các loại vật liệu xây dựng cấp thấp, các loại kết cấu thép siêu

trƣờng - siêu trọng. Lợi thế cạnh tranh của hàng hoá công nghiệp Việt Nam hiện

tại chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và lao động rẻ, nhƣng những lợi thế

này lại đang bị giảm đi. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng để có đƣợc những mặt hàng

có khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế trong tƣơng lai, Việt Nam cần

phải có những giải pháp liên quan đến vấn đề duy trì và nâng cao năng lực cạnh

tranh cho hàng hoá xuất khẩu.

Trong khu vực dịch vụ, Đảng và Chính phủ Việt Nam chủ trƣơng phát

triển mạnh các ngành thƣơng mại, vận tải, bƣu chính, viễn thông và du lịch, mở

rộng các ngành dịch vụ tài chính - tiền tệ nhƣ tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán,

chứng khoán. Mục tiêu chiến lƣợc phát triển ngành du lịch Việt Nam 2001-2010 là

phấn đấu đạt mức tăng trƣởng GDP bình quân hàng năm của ngành đạt từ 11-

11,5%, trong đó đến năm 2010, lƣợng khách quốc tế vào Việt Nam đạt từ là 5,5-

6 triệu lƣợt ngƣời, khách nội địa từ 25-26 triệu ngƣời, thu nhập từ du lịch đạt từ

4-4,5 tỷ USD. Phƣơng hƣớng phát triển ngành du lịch trong thập kỷ đầu thế kỷ 21

là khai thác khách du lịch từ các thị trƣờng quốc tế và nội địa, đầu tƣ phát triển

các điểm du lịch trọng điểm, tăng cƣờng xúc tiến và quảng bá du lịch, tăng

cƣờng hợp tác quốc tế về du lịch. Ngành du lịch cũng đã đề ra một số giải pháp

chủ yếu để đạt đƣợc mục tiêu phát triển của mình, nhƣ hoàn thiện hệ thống luật

pháp, tăng cƣờng đầu tƣ kết cấu hạ tầng, cải tổ các doanh nghiệp nhà nƣớc, cải

cách hành chính, kết hợp linh hoạt các hình thức tuyên truyền, quảng bá du lịch,

19

đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực và tăng cƣờng vai trò và hiệu quả của quản lý

nhà nƣớc đối với các hoạt động trong ngành du lịch.

Các ngành thƣơng mại, vận tải, bƣu chính, viễn thông cũng đã đề ra

phƣơng hƣớng phát triển của ngành mình. Trong lĩnh vực thƣơng mại, cả nội

thƣơng và ngoại thƣơng, phải đảm bảo lƣu thông hàng hoá thông suốt trên thị

trƣờng nội địa cũng nhƣ giao lƣu buôn bán với nƣớc ngoài, chú trọng công tác

tiếp thị và mở rộng thị trƣờng nông thôn và miền núi, kết hợp chặt chẽ các vùng

trong cả nƣớc, củng cố vai trò quản lý của nhà nƣớc, sao cho đảm bảo mục tiêu đạt

mức tăng trƣởng bán lẻ hàng hoá trên thị trƣờng hàng năm 11-14%. Ngành vận tải

cần tăng khối lƣợng và độ an toàn trong vận chuyển hành khách. Ngành Bƣu chính

- Viễn thông phấn đấu đến năm 2010, đạt mức độ phục vụ bình quân khoảng gần

7000 ngƣời dân trên một điểm phục vụ bƣu chính – viễn thông, bán kính phục vụ

bình quân dƣới 3km. Đạt chỉ tiêu 100% số xã đồng bằng và hầu hết các xã miền núi

có báo đến trong ngày.

Để thực hiện tốt Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ

21 mà đại hội IX đã đề ra, cũng nhƣ chiến lƣợc phát triển của các ngành trong

nội bộ nền kinh tế, nhận thức rõ vai trò của kinh tế đối ngoại và giáo dục đối với

phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập gia tăng, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã

có định hƣớng rất rõ ràng cho hai lĩnh vực này. Chúng ta chủ trƣơng tăng nhanh

tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tƣ, thiết bị chủ yếu, có

tác động tích cực đến sản xuất, kinh doanh, tăng cƣờng đầu tƣ cho sản xuất các

mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Bên cạnh đó, cần tiếp tục cải tạo môi trƣờng đầu

tƣ và kinh doanh trong nƣớc, để thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài, tăng cƣờng thu hút

và sử dụng có hiệu quả nguốn vốn ODA. Trong giáo dục, cần chú trọng nhiều hơn

đến việc điều chỉnh cơ cấu ngành nghề đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển

nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời nâng cao chất lƣợng

đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học, nhằm đáp ứng tốt nhu cầu về lao động kỹ năng

cho quá trình hội nhập.

Nhƣ vậy, đến năm 2010, trọng tâm phát triển kinh tế của Việt Nam là

công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn, phát triển

20

nhanh các ngành công nghiệp có khả năng cạnh tranh, phát triển có chọn lọc

một số ngành công nghiệp nặng, mở rộng hoạt động các ngành trong khu vực

dịch vụ để phục vụ tốt cho quá trình công nghiệp hoá đất nƣớc.

Định hƣớng phát triển kinh tế của Hàn Quốc

Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ năm 1997-1998, vấn đề trọng tâm

đƣợc chính phủ và giới kinh doanh Hàn Quốc quan tâm là nâng cao năng lực

cạnh tranh của toàn quốc gia, từng ngành, cũng nhƣ của từng sản phẩm trên thị

trƣờng quốc tế. Với mục đích đó, Chƣơng trình cải cách nền kinh tế sau khủng

hoảng của Hàn Quốc gồm 4 nội dung chính là cải cách tài chính, khu vực doanh

nghiệp nhà nƣớc và tƣ nhân, cải cách hành chính và thị trƣờng lao động. Để

nâng cao năng lực cạnh tranh cho khu vực doanh nghiệp, cùng với việc cơ cấu lại

các khoản nợ, chính phủ nƣớc này còn yêu cầu các doanh nghiệp cơ cấu lại hoạt

động sản xuất - kinh doanh, tăng cƣờng chuyên môn hoá và thu hẹp những ngành

sản xuất không hiệu quả. Ở cấp quốc gia, tinh thần này cũng đƣợc Chính phủ Hàn

Quốc áp dụng thông qua việc xác định các ngành công nghiệp mũi nhọn sẽ phát

triển trong những thập niên đầu thế kỷ 21.

Theo Bộ Thƣơng mại, Công nghiệp và Năng lƣợng Hàn Quốc, trong

những năm đầu thế kỷ 21, Chính phủ chủ trƣơng tăng cƣờng đầu tƣ 1000 tỷ won

để tăng cƣờng khả năng cạnh tranh cho 8 ngành công nghiệp then chốt của quốc gia.

Đó là ngành xe hơi, bán dẫn, chế tạo máy, điện tử, dệt, hoá chất, đóng tàu và

ngành thép. Khoản tiền lớn này đƣợc đầu tƣ để phát triển 80 loại công nghệ chiến

lƣợc liên quan đến các ngành nói trên, trong đó bốn ngành bao gồm công nghiệp

xe hơi, điện tử, bán dẫn và chế tạo máy đang là những ngành xuất khẩu hàng đầu

của Hàn Quốc với hy vọng sẽ có đƣợc các sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao

trên thị trƣờng quốc tế. Trong ngành công nghiệp xe hơi, việc phát triển công

nghệ sản xuất động cơ chạy xăng sạch, động cơ điezen ít khí thải sẽ tạo cơ hội sản

xuất ra những chiếc xe hơi có tính năng bảo vệ môi trƣờng cao hơn các xe hơi

hiện nay. Kế hoạch phát triển công nghệ nhuộm không gây ô nhiễm môi trƣờng

trong ngành dệt, công nghệ không dây hiện đại và công nghệ lắp ráp trong ngành

điện tử, việc sản xuất các bộ nhớ thế hệ sau nhƣ P-RAM, MRAM và Fe-RAM trong

21

ngành công nghiệp bán dẫn cũng sẽ tạo cho Hàn Quốc có đƣợc những sản phẩm

công nghệ cao.

Trong thời gian qua, Chính phủ Hàn Quốc đã xác định 12 ngành công

nghiệp mới giữ vai trò là động lực tăng trƣởng cho nền kinh tế nƣớc này trong

tƣơng lai. Đó là ngành công nghiệp truyền thông, công nghiệp vũ trụ, nƣớc giải

khát, máy tính, mỹ phẩm và chăm sóc thân thể, các sản phẩm và dịch vụ chăm

sóc sức khoẻ, bảo hiểm, sản xuất hàng tạp hoá, dầu khí, dƣợc phẩm và ngành

công nghiệp phần mềm. Có bốn yếu tố chính, bao gồm những biến đổi về nhân

khẩu học, sự phát triển kinh tế, quá trình tƣ nhân hoá và thị trƣờng Trung Quốc,

giữ vai trò nền tảng cho việc xác định các ngành công nghiệp trên là động lực

tăng trƣởng kinh tế Hàn Quốc trong tƣơng lai. Hiện tƣợng già hoá dân số sẽ làm

tăng nhu cầu về chăm sóc sức khoẻ. Mức GDP bình quân đầu ngƣời của Hàn

Quốc dự kiến sẽ đạt 31.000 USD vào năm 2010 là một nhân tố quan trọng góp

phần làm biến đổi diện mạo của nền kinh tế Hàn Quốc. Sự lớn mạnh của nền

kinh tế Trung Quốc hiện đang là động lực tăng trƣởng kinh tế không chỉ đối với

Hàn Quốc, mà còn đối với nhiều nƣớc Châu Á khác, trong đó có Nhật Bản và

ASEAN. Năm 2003, xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm 18% tổng xuất khẩu của

Hàn Quốc, 12% tổng xuất khẩu của Nhật Bản và 6,7% tổng xuất khẩu của các

nƣớc ASEAN. Để gia tăng năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế, Chính phủ Hàn

Quốc chủ trƣơng trong giai đoạn tới, sẽ tạo thêm nhiều loại hình và hàng ngàn

công việc mới trong khu vực dịch vụ, đồng thời loại bỏ trên 800 loại ngành nghề

hoạt động kém hoặc không hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp.

Khi ông Roh Moo-hyun lên nắm quyền Tổng thống Hàn Quốc vào tháng

2/2003, ông đã đề ra phƣơng hƣớng chính sách kinh tế của chính phủ mới, dựa

trên triết lý rằng “Nền kinh tế Hàn Quốc đã hội nhập sâu sắc vào nền kinh tế

toàn cầu. Giờ đã đến thời điểm nền kinh tế Hàn Quốc tìm kiếm phƣơng thức để

đóng góp một cách có ý thức trách nhiệm cho thế giới. Con đƣờng mà nền kinh tế

Hàn Quốc sẽ đi trong thế kỷ 21 là hƣớng tới một cơ cấu kinh tế tiên tiến, hoàn

toàn có thể hoà nhập và cạnh tranh trong kỷ nguyên toàn cầu. Tầm nhìn đó đòi hỏi

phải duy trì những cải cách về thị trƣờng, về công ty, về các qui định hành chính

22

và qui định đầu tƣ nƣớc ngoài cũng nhƣ về mối quan hệ giữa ngƣời lao động

với giới chủ”. Thông qua triết lý kinh tế này, chính phủ của ông Roh Moo-

hyun muốn khẳng định rằng họ sẽ tiếp tục theo đuổi còn đƣờng cải cách kinh tế

sâu rộng mà chính phủ tiền nhiệm đã khởi xƣớng và thực hiện khá kiên quyết,

nhằm xây dựng Hàn Quốc trở thành một trung tâm kinh tế quốc tế. Khát vọng trở

thành đầu mối liên hệ trong khu vực đối với cộng đồng kinh tế thế giới đòi hỏi

Hàn Quốc phải có cơ sở hạ tầng cần thiết, một môi trƣờng kinh doanh thuận lợi

cho các công ty nƣớc ngoài, phải phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công

nghệ thông tin và viễn thông, phải tiếp tục cải tổ cơ cấu nền kinh tế dựa trên lợi

thế cạnh tranh, phải xây dựng nền tài chính vững mạnh, tiếp tục cải tổ hệ thống

luật pháp, đặc biệt phải ủng hộ những nguyên tắc của nền kinh tế thị trƣờng nhƣ

minh bạch, công bằng, tham gia tích cực vào quá trình tự do hoá thƣơng mại

toàn cầu, khu vực và song phƣơng. Gần đây, Chính phủ Hàn Quốc đã công bố kế

hoạch phát triển đất nƣớc đến năm 2020. Kế hoạch này nhằm đạt đƣợc 5 mục

tiêu chiến lƣợc là xây dựng đất nƣớc theo hƣớng cải cách nhiều trung tâm,

tránh tập trung vào một khu vực, liên kết các vùng với nhau và các vùng với thế

giới, phát triển bền vững, bảo vệ môi trƣờng và phát triển phù hợp với xu thế

quốc tế hoá và khu vực hoá. Nếu thực hiện thành công kế hoạch này, Hàn Quốc

hy vọng đến năm 2012, GDP trên đầu ngƣời sẽ đạt 20.000 USD, đến năm 2020 sẽ

đạt 33.000 USD.

Kết luận

15 năm qua quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đã đạt đƣợc những thành

tựu đáng khích lệ. Các lĩnh vực hợp tác ngày càng trở nên đa dạng hơn, hiệu quả

hơn. Kết quả này đƣợc tạo nên trên những cơ sở khá vững chắc. Đó là sự gặp nhau

giữa nhu cầu và lợi ích giữa hai nƣớc. Hàn Quốc là nƣớc có lợi thế về vốn và

công nghệ, cộng với nguồn nhân lực trong nƣớc và tài nguyên thiên nhiên khan

hiếm, nên nhu cầu đầu tƣ ra ngoài nƣớc là rất lớn. Ngƣợc lại, Việt Nam hiện vẫn

rất thiếu vốn và công nghệ, có lợi thế về tài nguyên và lao động rẻ. Sự gặp nhau

này là nền tảng cho sự phát triển quan hệ kinh tế giữa hai nƣớc. Nó thúc đẩy

23

chính phủ hai nƣớc nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cần thiết

để điều tiết các quan hệ kinh tế, tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hoá, khu

vực hoá, tạo thuận lợi cho phát triển quan hệ song phƣơng. Trong tƣơng lai, dƣới tác

động của quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá, cũng nhƣ các yếu tố khác nhau trong

khu vực nhƣ sự lớn mạnh của Trung Quốc và các NIE, xu hƣớng tìm kiếm FTA, sự

chênh lệch phát triển giữa các quốc gia, dựa trên những định hƣớng chiến lƣợc

phát triển kinh tế và xu thế tiêu dùng của hai nƣớc, có thể thấy rằng nhu cầu và lợi

ích của hai nƣớc tiếp tục gặp nhau và hỗ trợ tốt cho nhau. Vì thế, mối quan hệ này

sẽ đƣợc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực khác nhau và nhất định đem lại

kết quả to lớn trong tƣơng lai.

24

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC

TỪ 1992 ĐẾN NAY

2.1. TRAO ĐỔI THƢƠNG MẠI VIỆT NAM - HÀN QUỐC TỪ 1992 ĐẾN

NAY

2.1.1. Thực trạng

2.1.1.1. Kim ngạch trao đổi thương mại

Quan hệ thƣơng mại Việt Nam và Hàn Quốc đƣợc bắt đầu từ năm 1983 và

đƣợc phát triển rất mạnh sau năm 1992, khi hai nƣớc chính thức thiết lập quan

hệ ngoại giao. Kể từ đó đến nay, quan hệ ngoại thƣơng giữa hai nƣớc ngày càng

phát triển. Tổng giá trị mậu dịch hai chiều của Việt Nam với Hàn Quốc hàng năm

luôn tăng so với năm trƣớc với tốc độ tăng trung bình hàng năm đạt 18,4% trong

giai đoạn 1992-2006. Trong khoảng thời gian này chỉ có 2 năm 1997 và 1998, kim

ngạch mậu dịch hai chiều giữa hai nƣớc giảm chút ít một phần do hậu quả của cuộc

khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực. Tính đến năm 2006, tổng kim ngạch mậu

dịch hai chiều của Việt Nam với Hàn Quốc đạt hơn 5 tỷ USD, trong đó Việt Nam

xuất khẩu sang Hàn Quốc đạt trên 700 triệu USD và Việt Nam nhập khẩu từ Hàn

Quốc hơn 4 tỷ USD, với thâm hụt mậu dịch là hơn 3 tỷ USD. Qua các số liệu thống

kê có thể nhận thấy rõ một đặc điểm đặc trƣng nhất trong quan hệ thƣơng mại song

phƣơng giữa hai nƣớc là kim ngạch trao đổi đƣợc gia tăng liên tục và Việt Nam luôn ở

trong tình trạng nhập siêu.

Hiện Hàn Quốc đứng thứ 6 trong số các bạn hàng có kim ngạch buôn bán

lớn nhất với Việt Nam sau Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Đài Loan và Mỹ.

Tuy vậy, từ các số liệu trong Bảng 2.1 có thể thấy rằng mức gia tăng kim ngạch

trao đổi, bao gồm cả xuất khẩu và nhập khẩu, trong giai đoạn trên là không

đồng đều. Trừ một năm có mức tăng trƣởng âm và một năm ở mức một con số, đa

số các năm còn lại ở mức 10-20%, riêng năm 1994 và 1995, tốc độ tăng trƣởng

cao hơn hẳn, tƣơng ứng ở mức 40,3% và 84,1%. Một trong những nguyên nhân

tạo nên sự gia tăng này là dòng FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam tăng mạnh trong

25

những năm 1993-1996, kéo theo sự gia tăng nhập khẩu máy móc và thiết bị,

cũng nhƣ các đầu vào khác phục vụ cho các cơ sở đƣợc đầu tƣ.

Bảng 2.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Hàn Quốc

giai đoạn 1992-2006

Đơn vị: triệu USD, %

Cán cân thƣơng mại Xuất khẩu Nhập khẩu

Năm Tăng/ Kim Tăng/ Kim Tăng/ Kim

ngạch giảm ngạch giảm ngạch giảm

1992 493 106,3 57 39,0 436 20,2

1993 818 65,9 90 57,9 728 66,9

1994 1.141 39,5 114 26,6 1.027 41,1

1995 1.545 35,4 194 70,2 1.351 31,5

1996 1.666 7,8 216 11,3 1.450 7,3

1997 1.843 10,6 238 10,2 1.603 10,5

1998 1.652 -10,4 1.422 -11,9 230 -3,7

1999 1.759 6,5 319 38,7 1.440 1,3

2000 2.082 18,4 352 10,3 1.730 20,1

2001 2.300 10,5 406 15,3 1.894 9,5

2002 2.751 19,6 466 14,8 2.285 20,6

2003 3.116 13,3 492 5,8 2.624 14,8

2004 3.967,5 27,3 28,0 608,1 23,6 3.359,4

2005 4.231,4 6,7 630,9 3,7 3.600,5 7,2

2006 5.100 20,5 700 11,0 4.100 13,9

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

Dựa trên các số liệu trong Bảng 2.1, có thể nhận thấy một đặc điểm nữa

trong buôn bán hai chiều Việt Nam - Hàn Quốc. Đó là tốc độ tăng trƣởng của

kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu tƣơng đối cân bằng trong giai

đoạn 1993-2006, tức là từ khi hai nƣớc bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao cho

tới nay. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2006 là hơn 700 triệu USD, gấp

26

7,8 lần kim ngạch xuất khẩu năm 1993. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam

năm 2006 là 4,1 tỷ USD, gấp 5,63 lần kim ngạch nhập khẩu năm 1993. Đây là

một điểm khác so với giai đoạn 1983-1992. Khi đó, tốc độ tăng trƣởng nhập

khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam

vẫn luôn bị nhập siêu trong quan hệ buôn bán với Hàn Quốc và mức nhập siêu

vẫn luôn gia tăng - từ 379 triệu USD năm 1993 lên gần 1,2 tỷ USD năm 1998

và 3,1 tỷ USD năm 2006, tƣơng ứng chiếm 41,7%, 56,1% và 42% tổng thâm

hụt của cả nƣớc.

Để có đƣợc những đánh giá về vai trò và vị trí của trao đổi thƣơng mại song

phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc đối với mỗi nƣớc, cần so sánh thực trạng quan hệ này

với một số bạn hàng khác của Hàn Quốc, trƣớc hết là với các nƣớc ASEAN. Khi so

sánh với các nƣớc ASEAN khác, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc vẫn còn rất

khiêm tốn. Về xuất khẩu, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn

Quốc đạt 700 triệu USD, chiếm tỷ trọng 4,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của

các nƣớc ASEAN sang thị trƣờng này, đứng thứ 6 trong số 10 nƣớc ASEAN (Bảng

2.2). Xét về tốc độ tăng trƣởng của xuất khẩu sang Hàn Quốc trong 15 năm qua,

Việt Nam đứng thứ 2 ở khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Philíppin. Trong khi đó,

cũng trong năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Indonesia sang Hàn Quốc đạt 5,2 tỷ

USD, đứng thứ 9, của Malaysia - đạt 4,2 tỷ USD, đứng thứ 10, Singapore - đạt 4,1 tỷ

USD, đứng thứ 11, Philíppin - đạt 1,96 tỷ USD, đứng thứ 20; Thái Lan - đạt 1,9 tỷ

USD, đứng thứ 21 trong tổng số các nƣớc tham gia xuất khẩu vào Hàn Quốc.

Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của các nƣớc ASEAN sang Hàn Quốc

Đơn vị: 1.000 USD

Nƣớc 1993 1997 2006

4.107.068 5.213.030 Indonesia 2.588.386

3.282.678 4.007.358 Malaysia 1.946.508

2.416.906 2.803.112 Singapore 1.540.013

712.391 1.397.047 Philippin 317.509

1.283.580 2.386.509 Thái Lan 538.546

27

Việt Nam 90.629 238.558 700.000

Brunei 273.437 486.614 664.082

Myanmar 14.816 16.929 19.489

Campuchia - 2.083 -

Lào - - -

Tổng cộng: 7.309.844 12.548.804 17.190.627

Nguồn: Korea International Trade Association (www.kita.org)

Về nhập khẩu, năm 2006, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc

đạt 4,1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 15,4% tổng kim ngạch nhập khẩu của các nƣớc

ASEAN từ Hàn Quốc, đứng thứ 5 trong số 10 nƣớc ASEAN. Về tốc độ tăng trƣởng

của nhập khẩu từ Hàn Quốc, trong giai đoạn 1993-2006, Việt Nam đứng đầu ở khu

vực Đông Nam Á, chỉ sau Myanmar, do Myanmar có kim ngạch nhập khẩu nhỏ

nên tốc độ tăng trƣởng nhanh hơn. Các số liệu ở Bảng 2.3 cho thấy rằng kim ngạch

nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc năm 2003 bằng khoảng 50% kim ngạch nhập

khẩu của Singapore, thấp hơn một chút so với kim ngạch nhập khẩu của Malayxia và

Indonexia và ngang bằng với mức nhập khẩu của Thái Lan và Philippin. Thực tế đó

chứng tỏ Việt Nam là một trong những thị trƣờng nhập khẩu quan trọng của Hàn Quốc.

Bảng 2.3: Kim ngạch nhập khẩu của các nƣớc ASEAN từ Hàn Quốc

Đơn vị: 1.000 USD

Nƣớc 1993 1997 2006

Singapore 5.796.810 5.070.637 3.109.474

Malaysia 4.356.295 4.153.761 1.429.970

Indonesia 3.540.862 3.725.600 2.094.819

Philíppin 2.601.247 3.375.010 934.891

Việt Nam 1.603.126 4.100.000 728.268

Thái Lan 2.242.834 3.006.469 1.760.580

Myanmar 136.504 184.011 41.661

Campuchia 51.924 408.599 -

Brunei 29.080 101.460 9.723

28

Lào - 6.650 14.756

Tổng cộng 10.109.387 20.365.332 24.140.303

Nguồn: Korea International Trade Association (www.kita.org)

2.1.1.2. Cơ cấu hàng hoá trao đổi

Cơ cấu hàng xuất khẩu:

Trong giai đoạn 1992-2006, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam

sang Hàn Quốc đã có những chuyển biến tích cực. Năm 1993, nhóm hàng

nguyên liệu thô và nhiên liệu chiếm 35,26% kim ngạch xuất khẩu, chủ yếu bao

gồm than (19,7 triệu USD), cao su, một số loại gỗ, cát thạch anh, sợi dệt và các

nguyên liệu thực vật khác. Hai nhóm hàng có tỷ trọng lớn khác là nhóm hàng chế

tạo đƣợc phân loại dựa trên nguyên liệu (chiếm 24,59%) và nhóm các mặt hàng

chế tạo khác (chiếm 16,68%). Trong những nhóm mặt hàng này, các mặt hàng có

kim ngạch đáng kể là hàng dệt may, thiếc, sản phẩm gỗ và một số hàng đan lát

nhƣ rổ rá, chiếu,… Trong năm này, mặt hàng thuỷ sản mới chỉ chiếm 9,39%

kim ngạch xuất khẩu. Qua cơ cấu hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc

năm 1993, có thể thấy nƣớc ta mới chỉ xuất chủ yếu là nguyên liệu thô và sơ chế,

các mặt hàng chế tạo có hàm lƣợng lao động cao, hàm lƣợng công nghệ và hàm

lƣợng vốn thấp.

Năm 1997, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc đã có

thay đổi đáng kể. Nhóm hàng nguyên liệu và nhiên liệu vẫn có kim ngạch ổn định

(khoảng hơn 30 triệu USD) nhƣng chỉ còn chiếm tỷ trọng 13,3% trong tổng kim

ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc. Trong nhóm này, cơ cấu mặt hàng cũng có thay

đổi, với mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất là dầu thô (15 triệu USD),

ngoài ra còn có than (4 triệu USD), nguyên liệu thực vật để làm thuốc, lông và da

động vật. Thuỷ sản vẫn tiếp tục ở mức khiêm tốn, chỉ chiếm tỷ trọng 7,58%. Tỷ

trọng các mặt hàng nông sản tăng lên, đạt 7,15% so với 2,49% năm 1993. Trong

nhóm hàng nông sản này, Việt Nam xuất chủ yếu là cà phê và sắn lát. Thay đổi rõ

nhất là nhóm hàng chế tạo, tăng tỷ trọng từ 42,37% năm 1993 lên 64,3% năm

1997. Trong nhóm hàng này, những mặt hàng có kim ngạch đáng kể là hàng dệt

29

may, thiết bị và dụng cụ điện, linh kiện điện tử viễn thông (loa, điện thoại, máy

ghi hình,…), tụ điện, túi xách, đồ nội thất, giầy dép, đồ chơi, đồ thể thao, chiếu.

Nhƣ vậy là đến năm 1997, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn

Quốc đã chuyển dịch theo hƣớng tăng dần những mặt hàng có hàm lƣợng công

nghệ, xuất hiện thêm nhiều mặt hàng mới có kim ngạch cao nhƣ thiết bị và

dụng cụ điện, tụ điện, linh kiện điện tử viễn thông, giầy dép,… Những mặt hàng

xuất khẩu của Việt Nam có hàm lƣợng công nghệ cao trong giai đoạn này chủ yếu

là hàng gia công, lắp ráp từ các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Tuy vậy,

đó cũng là một bƣớc phát triển trong xuất khẩu của nƣớc ta, khi so sánh với năm

1993 chỉ xuất khẩu các sản phẩm thô, sơ chế hoặc sử dụng lao động giản đơn.

Kể từ năm 2000 đến nay, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn

Quốc tiếp tục đƣợc thay đổi với việc thuỷ sản vƣơn lên trở thành một trong

những nhóm mặt hàng có tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Các

doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận đƣợc với thị trƣờng hàng thuỷ sản

Hàn Quốc, một thị trƣờng có nhu cầu lớn, trong khi sản lƣợng đánh bắt trong

nƣớc liên tục suy giảm. Sản lƣợng đánh bắt nội địa của Hàn Quốc năm 1999 đạt

2,9 triệu tấn, sang năm 2000 chỉ còn 2,5 triệu tấn trong khi nhu cầu trong nƣớc

tƣơng đối cao. Theo điều tra, mỗi năm một ngƣời Hàn Quốc tiêu thụ khoảng 33 kg

hàng thuỷ sản và con số này dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng. Vì vậy, tổng kim ngạch

nhập khẩu thuỷ sản của Hàn Quốc tăng từ 1,11 tỷ USD năm 1999 lên 1,34 tỷ

USD năm 2000. Kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của Hàn Quốc từ Việt Nam

năm 2000 đạt 72 triệu USD, gấp 4 lần năm 1997, chiếm tỷ trọng 22,32% trong

tổng kim ngạch nhập khẩu của Hàn Quốc từ Việt Nam. Hàng nông sản tiếp tục tăng

ổn định với hai mặt hàng chính là sắn lát (21 triệu USD) và cà phê (17 triệu USD).

Xuất khẩu sắn lát sang Hàn Quốc đạt đƣợc kim ngạch 21 triệu USD là một con

số rất đáng kể trong bối cảnh Hàn Quốc áp dụng chế độ bảo hộ chặt chẽ đối với

hàng nông sản. Nhìn chung, Hàn Quốc rất hạn chế nhập khẩu và đặc biệt còn áp

dụng chế độ đấu thầu hạn ngạch đối với mặt hàng gạo. Về chính sách xuất khẩu,

chúng ta tăng xuất khẩu nông sản sang Hàn Quốc nói chung, mặt hàng sắn lát nói

riêng không chỉ tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn góp phần giải quyết vấn đề thu

30

nhập, việc làm… đối với những ngƣời nông dân thuộc các tỉnh miền Trung- khu

vực canh tác chế biến và xuất khẩu sắn sang Hàn Quốc.

Đáng chú ý là tỷ trọng nhóm hàng nguyên, nhiên liệu thô giảm xuống chỉ còn

6,85% do Việt Nam không xuất khẩu dầu thô sang Hàn Quốc và kim ngạch xuất

khẩu than tiếp tục giảm chỉ còn khoảng gần 3 triệu USD. Trong khi đó, kim ngạch

các mặt hàng nguyên liệu đã có từ những năm trƣớc vẫn ổn định. Tỷ trọng nhóm

hàng nguyên nhiên liệu còn giữ đƣợc mức gần 7% là do có thêm mặt hàng cao su

của Việt Nam xuất sang Hàn Quốc. Tỷ trọng nhóm hàng chế tạo sau khi đạt

mức cao nhất trong năm 1997 đã giảm dần, còn khoảng 55% trong năm 2000

nhƣng kim ngạch vẫn tăng. Trong số các mặt hàng chế tạo xuất hiện thêm nhiều

mặt hàng mới nhƣ đồ gốm sứ, máy phát điện, dây điện và dây cáp điện, bóng

đèn hình, mạch tích hợp. Hàng giày dép tăng khá ổn định, hàng dệt may chứng

kiến hai xu thế trái chiều nhau. Trong khi hàng dệt (vải, sợi) có dấu hiệu giảm

xuống do sản phẩm làm ra chuyển sang phục vụ nhu cầu trong nƣớc thì hàng may

mặc lại tăng mạnh, đạt 38,2 triệu USD, gần gấp đôi năm 1999.

Bảng 2.4: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hàn Quốc

Đơn vị: 1.000 USD, %

2005 2006 Mã STT Nhóm mặt hàng Kim Tăng/ Kim Tăng/ SITC ngạch giảm ngạch giảm

Động vật giáp xác, động vật

1 036 thân mềm và các loại thuỷ sản 84.899 15,4 94.426 11,2

không sƣơng sống khác

Thực phẩm chế biến từ thuỷ 40.750 23,2 43.003 5,5 037 2 sản

13.650 14,7 16.671 22,1 651 Chỉ dệt 3

24.034 30,8 24.097 0,3 851 Giầy dép 4

5 034 Cá tƣơi sống hoặc đông lạnh 26.956 11,2 33.239 23,3

6 776 Đèn điện tử 47.267 57,9 31.983 -32,3

31

7 071 Cà phê 21.669 -4,2 23.742 9,6

8 821 Đồ gỗ, đồ nội thất 21.740 52,3 23.742 9,2

9 231 Cao su 15.565 13,3 22.276 4,6

10 054 Sắn lát 13.940 -41,6 14.610 4,8

11 841 Quần áo nam 30.782 0,8 28.155 -8,5

12 764 Thiết bị viễn thông 21.477 21,5 19.757 -8,9

13 321 Than đá 9.744 78,5 16.664 70,8

14 831 Va-li, túi xách, hòm đựng 7.865 20,7 8.589 9,2

15 842 Quần áo nữ 15.887 94,6 15.218 -4,2

Các sản phẩm làm từ vật liệu 16 658 6.814 85,2 7.108 4,3 dệt (không phải quần áo)

17 716 Động cơ điện và linh kiện 18.631 25,4 16.744 10,1

18 894 Đồ chơi, đồ thể thao 10.645 -13,7 10.887 2,3

19 778 Máy móc thiết bị điện 9.759 17,0 10.075 3,2

20 663 Các sản phẩm từ khoáng sản 9.247 15,4 11.523 24,6

Nguồn: Korea International Trade Association (www.kita.org)

Thực tế cho thấy không có nhiều biến động trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của

Việt Nam sang Hàn Quốc kể từ năm 2000 cho tới nay. Năm 2006, thuỷ sản trở thành

mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu với 32,1%. Xuất

khẩu thuỷ sản sang Hàn Quốc chiếm 7,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả

nƣớc, chỉ sau ba thị trƣờng có dung lƣợng lớn là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Đạt

đƣợc kết quả nhƣ vậy là do Việt Nam đã ký kết đƣợc thoả thuận về kiểm dịch

hàng thuỷ sản với Hàn Quốc, theo đó Hàn Quốc công nhận giấy chứng nhận vệ sinh

thực phẩm do Cục Quản lý Chất lƣợng và Vệ sinh Thú ý Thuỷ sản Việt Nam

(NAFIQAVED) cấp. Hiện tại, các doanh nghiệp Việt Nam nằm trong danh sách

đƣợc phía Hàn Quốc công nhận chỉ cần có đƣợc giấy chứng nhận của

NAFIQAVED là có thể xuất hàng vào Hàn Quốc mà không phải qua kiểm định của

cơ quan an toàn vệ sinh thực phẩm của Hàn Quốc. Đây là một điểm tƣơng đối đặc thù

của thị trƣờng Hàn Quốc khi so sánh với các thị trƣờng khác trong khu vực, vì mức độ

32

đạt đƣợc thoả thuận về vệ sinh an toàn thực phẩm của các thị trƣờng đó đối với hàng

thuỷ sản, kể cả của Nhật, đều thấp hơn so với của Hàn Quốc.

Năm 2006, tỷ trọng nhóm hàng chế tạo giảm nhẹ, trong khi tỷ trọng nhóm

hàng nông sản và máy móc và thiết bị vận tải tăng nhẹ, so với năm 2000. Tuy

nhiên, nếu xem xét chi tiết hơn cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc

năm 2006 sẽ thấy có một số khác biệt so với những năm trƣớc. Xuất khẩu cao su

tăng mạnh tới 43,1%, đạt kim ngạch kỷ lục là 22,3 triệu USD, giúp tăng tỷ trọng của

nhóm hàng nguyên liệu. Nhóm hàng nhiên liệu cũng tăng tỷ trọng do xuất khẩu

than tìm lại đƣợc thị trƣờng. Hàng quần áo may sẵn giảm mạnh do các doanh

nghiệp Việt Nam tập trung xuất khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ. Đây cũng là tình trạng

chung không chỉ đối với thị trƣờng Hàn Quốc mà còn đối với nhiều thị trƣờng

khác trong khu vực nhƣ Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông,… Tuy nhiên, xuất

khẩu chỉ may lại tăng mạnh, lên đến 30,6 triệu USD. Xuất khẩu giầy dép vẫn tiếp

tục đà tăng trƣởng từ các năm trƣớc, đạt 30,1 triệu USD.

Trong các mặt hàng nông sản, kim ngạch xuất khẩu sắn lát giảm, chỉ còn 18

triệu USD do phía Hàn Quốc giảm hạn ngạch nhập khẩu. Ngƣợc lại, kim ngạch

xuất khẩu cà phê tiếp tục tăng, mặc dù giá cà phê ở mức thấp so với các năm

trƣớc. Năm 2006, Việt Nam xuất khẩu đƣợc 29.501 tấn cà phê sang thị trƣờng

Hàn Quốc, đạt kim ngạch 34,6 triệu USD. Cà phê của Việt Nam chiếm tỷ trọng

đến 30% trong tổng lƣợng cà phê nhập khẩu của Hàn Quốc, vƣợt trên các quốc gia

xuất khẩu cà phê lớn nhƣ Honduras, Colombia, Brazil hay Indonesia. Trong số

các thị trƣờng thuộc khu vực Châu Á-Thái Bình Dƣơng, Hàn Quốc là một trong

những thị trƣờng nhập khẩu nhiều cà phê nhất của Việt Nam.

Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu:

Khác với cơ cấu xuất khẩu, cơ cấu nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ

Hàn Quốc biến động không nhiều trong giai đoạn 1993-2006. Nhóm hàng nông

sản chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong kim ngạch nhập khẩu (khoảng 0,2% đến

0,5%), trong khi nhóm hàng chế tạo chiếm từ 70% đến 80% kim ngạch nhập

khẩu. Nhóm hàng hóa chất và các sản phẩm từ hóa chất cũng chiếm một tỷ

trọng đáng kể trong tổng kim ngạch nhập khẩu, khoảng từ 10-15%. Thay đổi lớn

33

nhất trong cơ cấu là nhóm hàng nhiên liệu khoáng và dầu nhờn. Năm 1993 khi hai

nƣớc bắt đầu có quan hệ ngoại giao, nhóm hàng này có kim ngạch 104 triệu USD,

chiếm tỷ trọng 14,5% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn

Quốc. Con số này giảm dần cả về kim ngạch và tỷ trọng qua các năm, để đến

năm 2006 chỉ còn là 12 triệu USD và chiếm 0,5% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Tuy nhóm hàng chế tạo chiếm tỷ trọng 70-80% trong cơ cấu nhập khẩu

của Việt Nam từ Hàn Quốc, cao hơn một chút so với tỷ trọng nhóm hàng này

trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc, nhƣng tính chất của

chúng lại khác nhau. Hàng chế tạo Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc tập trung

chủ yếu là nguyên liệu dệt may, da, máy móc, trang thiết bị vận tải, sắt thép,

thiết bị viễn thông (năm 2006 chiếm tỷ trọng đến 61,6%) trong khi hàng chế tạo

Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc tập trung vào hàng dệt, giầy dép, bóng đèn

hình ti vi, các loại đỗ gỗ nội thất là những mặt hàng có hàm lƣợng chế biến ở

mức độ trung bình.

Nếu phân tích chi tiết hơn cơ cấu mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Hàn

Quốc, có thể thấy có sự biến đổi, phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế-xã

hội của mỗi nƣớc, cũng nhƣ quan hệ thƣơng mại trong bối cảnh quan hệ kinh tế

chung giữa hai nƣớc.

Những năm đầu 1990, khi mới bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao, các

mặt hàng chính mà Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc là nguyên liệu dệt,

nguyên liệu nhựa, phân bón, sắt thép, xăng dầu, máy móc thiết bị, máy thu hình,

thiết bị viễn thông, xe máy và linh kiện xe máy. Tại thời điểm đó, những mặt hàng

trên là cần thiết để Việt Nam bƣớc đầu phát triển các ngành sản xuất có trình độ

công nghệ thấp nhƣng sử dụng nhiều lao động nhằm tận dụng nguồn lao động dồi

dào sẵn có trong nƣớc. Đặc biệt là kim ngạch của nhóm mặt hàng liên quan đến

ngành dệt tƣơng đối lớn (máy móc, nguyên liệu dệt), đạt trên 200 triệu USD trong

tổng số 728 triệu USD kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc sang Việt Nam. Thực

tế này cũng phần nào phản ánh cơ cấu đầu tƣ sang Việt Nam của các doanh

nghiệp dệt may Hàn Quốc. Đồng thời khi mức sống của ngƣời dân Việt Nam dần

đƣợc nâng cao, nhu cầu về những mặt hàng tiêu dùng có giá trị lớn nhƣ máy thu

34

hình hay xe máy tăng mạnh. Đây là điều kiện thuận lợi cho Hàn Quốc xuất khẩu

những mặt hàng này sang Việt Nam.

Năm 1997, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc đã tăng gấp hơn

2 lần so với năm 1993. Nhóm hàng nguyên liệu cho các ngành công nghiệp nhẹ

(dệt, may, da, đồ nhựa) chiếm tỷ trọng đến 40% kim ngạch nhập khẩu. Đặc biệt là

nguyên liệu da, giá trị nhập khẩu đã tăng từ 2 triệu USD năm 1993 đã lên tới 56 triệu

USD năm 1997. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, diện mặt hàng

nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc ngày càng đa dạng hơn. Đã xuất hiện

thêm nhiều mặt hàng mới có kim ngạch đáng kể nhƣ giấy (21,3 triệu USD),

thuỷ tinh (17,8 triệu USD), dầm và các cấu kiện thép (106 triệu USD), bóng

điện tử (23,5 triệu USD), các bộ phận của giầy dép (28,9 triệu USD),… Nhập

khẩu giấy, thuỷ tinh tăng là do sản xuất trong nƣớc chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu

về chất lƣợng và số lƣợng của thị trƣờng nội địa. Nhập khẩu dầm và các cấu kiện

thép tăng là do xây dựng thêm các nhà xƣởng mới của các dự án đầu tƣ. Nhập

khẩu bóng điện tử và các bộ phận của giầy dép có cùng tính chất với nhập khẩu

nguyên liệu dệt may da, chúng là đầu vào cho sản xuất của các dự án đầu tƣ.

Bảng 2.5: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Hàn Quốc

Đơn vị: 1.000 USD, %

2005 2006 Mã STT Nhóm mặt hàng Kim Tăng/ Kim Tăng/ SITC ngạch giảm ngạch giảm

655 Vải dệt kim 111.089 80,6 178.354 60,6 1

Ô tô chở hàng và ô tô 782 130.585 17,3 167.948 28,6 2 chuyên dụng

Vải dệt và chỉ dệt chuyên 3 657 145.154 16,1 155.744 7,3 dụng

Vải dệt thoi hoặc vật liệu 653 114.906 19,5 146.447 27,5 4 dệt bằng sợi nhân tạo

764 Thiết bị viễn thông 85.262 82 123.689 45,1 5

35

Máy móc dệt, may, da và 6 724 79.790 82,7 116.029 45,4 linh kiện

7 611 Da 77.712 32,6 90.831 16,9

8 651 Chỉ dệt 59.473 44,6 82.704 39,1

Các mặt hàng không phân 9 991 84.169 12,5 74.234 -11,8 loại

10 783 Xe chở ngƣời 68.560 -10,8 66.044 -3,7

Máy móc, thiết bị công 11 728 41.836 56,9 65.376 56,3 nghiệp chuyên dụng

12 575 Nhựa tiền chế 42.633 2,7 53.254 24,9

13 851 Giầy dép, các bộ phận giầy dép 54.977 -3,4 52.340 -4,8

Sắt hoặc thép không hợp 14 673 28.011 49,5 45.722 63,2 kim cán phẳng

Vải tuyn, ren, ruy băng, đồ 15 656 41.589 20,1 44.978 8,2 trang trí tƣơng tự

Các vật dụng chế tạo không 16 899 27.566 41,6 43.856 59,1 phân loại

17 641 Giấy và bìa giấy 28.712 -10,6 43.405 51,2

18 652 Vải bông dệt thoi 38.768 66 42.665 10,1

19 784 Phụ tùng, linh kiện ô tô 23.662 10,3 42.315 78,8

Dƣợc phẩm (bao gồm cả 20 542 37.203 11,3 41.728 12,2 thuóc thú y)

Nguồn: Korea International Trade Association (www.kita.org)

Kể từ năm 1997 đến nay, cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc có

một số thay đổi nhỏ. Nhóm hàng máy móc và trang thiết bị vận tải có xu hƣớng

tăng dần, trong khi nhóm hàng nguyên liệu dùng trong sản xuất công nghiệp nhẹ

(dệt, may, da giầy) ổn định ở mức tỷ trọng khoảng 40%. Tỷ trọng nhóm hàng

máy móc và trang thiết bị vận tải trong những năm từ 1999 đến 2001 tăng là nhờ

sự đóng góp của kim ngạch nhập khẩu xe máy tăng mạnh (năm 1999 là 45,8 triệu

36

USD), năm 2000 là 49 triệu USD). Nguyên nhân là xe máy Hàn Quốc có giá cả

cạnh tranh so với các loại xe máy của Nhật Bản, thích hợp với thu nhập của ngƣời

dân Việt Nam có mức sống trung bình và nhu cầu đi lại của ngƣời dân ngày càng

cao. Các năm 2002 và 2003, do Chính phủ thắt chặt việc quản lý nhập khẩu xe máy

thông qua thuế quan, nhập khẩu xe máy từ Hàn Quốc giảm mạnh, đến năm 2005

chỉ còn 1,8 triệu USD. Tuy nhiên, tỷ trọng nhóm mặt hàng phƣơng tiện giao

thông vận tải vẫn tăng do kim ngạch nhập khẩu ô tô tăng mạnh. Ô tô đã thay

thế xe máy để trở thành mặt hàng chính trong nhóm mặt hàng các phƣơng tiện

giao thông vận tải của Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc.

So sánh với các nƣớc ASEAN

Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu, do có cơ cấu các ngành công nghiệp tƣơng

đƣơng nhau, khí hậu và địa lý có nhiều điểm tƣơng đồng, nên trong cơ cấu hàng

xuất khẩu của Việt Nam và các nƣớc ASEAN khác có nhiều điểm giống nhau.

Những mặt hàng nhƣ dệt may, giầy dép, cao su, cà phê, thuỷ sản, bóng điện tử, đồ

gỗ,… đều hiện diện trong cơ cấu hàng xuất khẩu của các nƣớc ASEAN khác sang

Hàn Quốc. Mặc dù vậy, giữa các nƣớc cũng có một số điểm khác nhau và chính

những điểm khác nhau đó đã tạo nên sự khác biệt về kim ngạch trao đổi giữa các

nƣớc này với Hàn Quốc. Indonesia có kim ngạch vƣợt trội 5,2 tỷ USD là nhờ

xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu sang Hàn Quốc lớn. Trên 50% kim ngạch xuất

khẩu của Indonesia sang Hàn Quốc là dầu mỏ, khí đốt và than đá. Ngoài ra, trong

số những mặt hàng xuất khẩu đáng chú ý của Indonesia còn có quặng đồng và

đồng tinh chế, cao su, hoá chất vô cơ, thiết bị viễn thông, giấy và bìa giấy, gỗ, thức

ăn gia súc gia cầm, bóng điện tử, thiết bị điện.

Hàng nhiên liệu của Malaysia xuất khẩu sang Hàn Quốc chiếm tỷ trọng

không lớn nhƣ của Indonesia, chỉ khoảng 27% (1,15 tỷ USD). Nổi bật trong cơ

cấu xuất khẩu của Malaysia là các sản phẩm điện và điện tử, chiếm một tỷ trọng lớn

nhƣ bóng điện tử (gần 1,4 tỷ USD), các thiết bị truyền dữ liệu tự động (219 triệu

USD). Ngoài ra, Malaysia cũng là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong một số

mặt hàng nhƣ cao su, đồ gỗ, chỉ dệt,…

Cơ cấu xuất khẩu của Singapore sang Hàn Quốc lại chủ yếu là các mặt

37

hàng điện và điện tử. Singapore có trình độ phát triển với công nghệ, công nghiệp

dịch vụ và công nghiệp chế tạo tiên tiến. Vì thế, phần lớn các mặt hàng xuất

khẩu của Singapore sang Hàn Quốc là các mặt hàng chế tạo, trong đó kim ngạch

vƣợt trội là bóng điện tử (2,1 tỷ USD, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất

khẩu sang Hàn Quốc). Xuất khẩu nông, thuỷ sản không đáng kể, xuất khẩu

nhiên liệu (xăng dầu) chỉ chiếm 1,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Cơ cấu xuất khẩu của Philíppin sang Hàn Quốc có điểm tƣơng tự nhƣ

Malaysia và Singapore: có cùng hai nhóm mặt hàng có kim ngạch lớn nhất là

bóng điện tử và các thiết bị truyền dữ liệu tự động. Hai nhóm mặt hàng này

chiếm tỷ trọng gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Philíppin sang Hàn

Quốc. Tuy nhiên, khác với Malaysia, Singapore và cả Indonesia, Philíppin xuất

khẩu một lƣợng đáng kể các loại nông sản sang Hàn Quốc. Tổng xuất khẩu hàng

nông sản của Philíppin sang Hàn Quốc năm 2005 là khoảng gần 198 triệu USD,

trong đó chủ yếu là các loại quả nhiệt đới. Đƣợc kết quả này là do Philíppin đã

làm tốt việc hợp tác với Hàn Quốc trong vấn đề vệ sinh kiểm dịch hàng nông

sản, vì vậy mà Hàn Quốc cho phép nhập khẩu một số loại quả từ Philíppin

nhƣng cấm nhập khẩu từ các nƣớc khác.

Hai nhóm hàng bóng điện tử và các thiết bị truyền dữ liệu tự động cũng là

hai nhóm hàng chiếm kim ngạch lớn nhất trong xuất khẩu của Thái Lan sang

Hàn Quốc. Tuy nhiên, các nhóm hàng này không chiếm tỷ trọng nhiều nhƣ của

Singapore, Malaysia hay Philíppin (chỉ khoảng 27,5% tổng kim ngạch xuất khẩu

của Thái Lan sang Hàn Quốc). Thế mạnh nổi bật của Thái Lan là xuất khẩu cao

su, nông sản và thuỷ sản. Xét trong số 5 nƣớc thành viên ASEAN cũ, xuất khẩu

của Thái Lan là nghiêng về các sản phẩm nông lâm ngƣ nghiệp nhất với tỷ trọng

nhóm hàng nông sản khoảng 10,5%, cao su khoảng 9,4% và nhóm hàng thuỷ

sản khoảng 5%.

Xuất khẩu của Brunei sang Hàn Quốc chủ yếu là dầu mỏ và khí đốt, trong

khi xuất khẩu của Myanmar, Lào và Campuchia sang Hàn Quốc có kim ngạch

không đáng kể.

Xét về cơ cấu hàng nhập khẩu, các mặt hàng nhập khẩu của các nƣớc

38

ASEAN từ Hàn Quốc đều tƣơng tự nhau, phản ánh những ngành sản xuất mà

nền kinh tế Hàn Quốc có thế mạnh nhƣ điện tử viễn thông, hoá chất, sắt thép,

đóng tàu, chế tạo ô tô, sản xuất giấy, dệt, da,… Tuy nhiên, nhập khẩu của các

nƣớc ASEAN-5 từ Hàn Quốc và hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc có

khác nhau về vị trí của những mặt hàng trong cơ cấu nhập khẩu.

Việt Nam nhập khẩu từ Hàn Quốc chủ yếu là các nguyên liệu dệt, may, da

giầy; sắt thép; ô tô; giấy và bìa giấy. Phần lớn các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu

của Việt Nam từ Hàn Quốc (ngoại trừ ô tô) là nguyên liệu hoặc máy móc thiết bị

cho các ngành công nghiệp truyền thống (dệt may, giày dép, luyện kim, xây

dựng). Trong khi đó, nhập khẩu của các nƣớc thành viên ASEAN-5 từ Hàn Quốc

là thiết bị viễn thông và linh kiện điện tử. Đặt trong mối quan hệ giữa xuất khẩu với

nhập khẩu thì sự khác biệt trên là hoàn toàn hợp lý. Nhƣ đã phân tích ở phần trên,

xuất khẩu của Việt Nam và của các nƣớc ASEAN-5 sang Hàn Quốc khác biệt

chủ yếu là tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản, nông sản và các sản phẩm công nghiệp

nhẹ truyền thống (dệt, may, giầy dép) lớn, trong khi trong xuất khẩu của các

nƣớc ASEAN-5, tỷ trọng các sản phẩm linh kiện điện tử và thiết bị viễn thông lớn.

Điều đó phản ánh rằng luồng trao đổi của Hàn Quốc với Việt Nam là đầu tƣ vào

các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động (dệt may, giầy dép), xuất khẩu

máy móc thiết bị và nguyên liệu dùng trong những ngành sản xuất đó, tận dụng

nguồn lao động rẻ để sản xuất và và nhập khẩu ngƣợc trở lại thành phẩm làm ra

hoặc xuất khẩu sang các nƣớc thứ ba. Luồng trao đổi giữa Hàn Quốc với các

nƣớc ASEAN-5 lại là đầu tƣ vào những ngành chế tạo đòi hỏi công nghệ cao

(điện tử viễn thông), cũng xuất khẩu nguyên liệu là các linh kiện sang đó, qua

khâu lắp ráp tại nƣớc sở tại và nhập khẩu ngƣợc trở lại Hàn Quốc hoặc cũng xuất

khẩu sang các nƣớc thứ ba.

Bên cạnh luồng trao đổi chính đó, tất nhiên mỗi nƣớc, tuỳ theo lợi thế

tƣơng đối của mình, còn có những luồng trao đổi khác. Chẳng hạn, nhƣ Việt

Nam với ngành chế biến và nuôi trồng thuỷ sản phát triển đã đẩy mạnh xuất

khẩu thuỷ sản sang Hàn Quốc. Thái Lan ngoài thuỷ sản còn có cao su, đƣờng, thịt

gia súc gia cầm, Indonesia có dầu mỏ và khí đốt, Philíppin có các loại rau quả.

39

Về phía mình, Hàn Quốc có ngành luyện kim, chế tạo ô tô, đóng tàu phát triển

trong khi các ngành này ở các nƣớc ASEAN chƣa phát triển hoặc phát triển chƣa

đầy đủ. Vì vậy, Hàn Quốc có thể xuất khẩu những sản phẩm của các ngành công

nghiệp này sang các nƣớc ASEAN.

2.1.1.3. Đánh giá vị trí của thị trường Hàn Quốc trong ngoại thương của Việt Nam

Vị trí trong xuất khẩu:

Dựa trên các số liệu trong Niên giám thống kê của Việt Nam, từ đầu

những năm 1990 đến nay, Hàn Quốc thƣờng là một trong 10 thị trƣờng xuất khẩu

chủ yếu của Việt Nam. Năm 1990, thị trƣờng Hàn Quốc đứng thứ 10 trong số

các thị trƣờng xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1995, nó vƣơn lên đứng vị trí thứ 6,

do sự gia tăng đột biến của kim ngạch xuất khẩu với mức trên 70% so với năm

trƣớc. Năm 2001, Hàn Quốc lại trở lại vị trí thứ 10 trong số các thị trƣờng xuất

khẩu của Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, năm 2003

Hàn Quốc nhập khẩu hơn 492 triệu USD hàng hóa từ Việt Nam, đứng thứ 11 trong

số các thị trƣờng xuất khẩu. Nhƣng, nếu không kể dầu thô trong xuất khẩu của

Việt Nam, Hàn Quốc vƣơn lên đứng thứ 9 trong số các thị trƣờng xuất khẩu.

Kim ngạch xuất khẩu phi dầu thô của Việt Nam sang Hàn Quốc chỉ đứng sau

kim ngạch xuất khẩu sang các nền kinh tế lớn (Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Đức)

hoặc những thị trƣờng có lợi thế về vị trí địa lý hơn (Trung Quốc, Đài Loan).

Bảng 2.6: Một số thị trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2006

Đơn vị: 1.000 USD

STT Thị trƣờng Kim ngạch

1 Hoa kỳ 8.600.000

2 Nhật Bản 4.610.000

3 Trung Quốc 3.030.000

4 Australia 3.200.000

5 Singapore 1.500.000

6 Đức 1.445.000

7 Anh 1.450.000

40

8 Pháp 1.400.000

9 Hà Lan 900.000

10 Hàn Quốc 700.000

26.835.000 Tổng kim ngạch xuất khẩu

Nguồn: Thống kê hải quan của Hải quan Việt Nam

Có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến Hàn Quốc trở thành một trong

những thị trƣờng xuất khẩu chính của Việt Nam. Đó là:

- Hàn Quốc là một thị trƣờng có sức mua tƣơng đối lớn. GDP tính theo đầu

ngƣời của Hàn Quốc năm 2005 là 20.400 USD, ở mức trung bình trong số

các nƣớc thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và đứng thứ

hai ở Đông Bắc Á, sau Nhật Bản.

- Mặc dù cũng là nƣớc thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế nhƣng yêu

cầu về chất lƣợng hàng hóa của thị trƣờng Hàn Quốc không quá cao nhƣ của

Hoa Kỳ, Nhật Bản hay EU, do đó nhiều hàng hóa của Việt Nam vẫn có khả năng

thâm nhập đƣợc.

- Hàn Quốc có vị trí địa lý tuơng đối gần với Việt Nam. Từ Việt Nam tới Hàn Quốc

theo đƣờng hàng không hết 4 giờ, theo đƣờng biển hết từ 10 đến 15 ngày.

- Hàn Quốc và Việt Nam cùng chịu ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Đông nên

có nhiều điểm tƣơng đồng, vì vậy nhiều sản phẩm của Việt Nam phù hợp với

thị hiếu của ngƣời Hàn Quốc, đƣợc thị trƣờng Hàn Quốc chấp nhận.

Mặc dù có mức tăng trƣởng tƣơng đối cao nhờ có những thuận lợi trên,

xuất khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch nhập

khẩu của Hàn Quốc. Theo thống kê của Hiệp hội Thƣơng mại Quốc tế Hàn

Quốc (KITA), năm 2006, Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc hơn 700 triệu USD

hàng hóa, đứng thứ 35 trong số các thị trƣờng có hàng xuất khẩu sang Hàn

Quốc. Kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam chiếm tỷ trọng 0,31% tổng kim ngạch

nhập khẩu của Hàn Quốc.

Vị trí trong nhập khẩu :

Nếu xét về kim ngạch nhập khẩu, từ giữa thập kỷ 1990, Hàn Quốc luôn là

41

một trong 5 thị trƣờng nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 1995, nó đứng vị

trí thứ 2, chỉ sau Singapore. Từ năm 2000 đến nay, Hàn Quốc luôn đứng vị trí thứ

4 trong tổng kim ngạch nhập khẩu chia theo thị trƣờng của Việt Nam, sau

Singapore, Nhật Bản và Đài Loan (riêng năm 2003 - sau Nhật Bản, Trung Quốc

và Đài Loan). Nguyên nhân khiến kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn

Quốc tƣơng đối lớn là do:

- Việt Nam là một nƣớc đang phát triển trong khi Hàn Quốc đã là một nƣớc

công nghiệp phát triển. Vì vậy, hàng hóa của Hàn Quốc có chất lƣợng và giá

cả phù hợp với nhu cầu của Việt Nam; đặc biệt là các loại máy móc, thiết bị,

công nghệ;

- Hàn Quốc là nhà đầu tƣ lớn thứ 4 ở Việt Nam. Do đó, một khối lƣợng lớn

máy móc, thiết bị cũng nhƣ nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất tại các

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ Hàn Quốc đƣợc nhập khẩu từ nƣớc này. Điều này

đƣợc thể hiện đặc biệt rõ nét trong các ngành dệt, may, da giầy;

- Chính sách thƣơng mại của Việt Nam đang đƣợc tự do hóa, các hạn chế thuế

quan và phi thuế quan đối với nhập khẩu đang dần đƣợc dỡ bỏ. Điều này đã

giúp cho hàng hóa của Hàn Quốc nhập khẩu vào Việt Nam thuận lợi hơn so

với trƣớc đây.

Xuất khẩu sang Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển

ngoại thƣơng của Hàn Quốc nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế của đất

nƣớc này nói chung. Theo thống kê của Hải quan Hàn Quốc đƣợc Hiệp hội Th-

ƣơng mại Quốc tế Hàn Quốc công bố, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Hàn

Quốc sang Việt Nam là 4,1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 1,87% trong tổng kim ngạch

xuất khẩu của Hàn Quốc. Con số này lớn hơn nhiều so với tỷ trọng 0,31% của nhập

khẩu từ Việt Nam trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Hàn Quốc. Việt Nam là

thị trƣờng xuất khẩu lớn thứ 15 của Hàn Quốc năm 2006, so với thứ 35 với tƣ cách

là thị trƣờng nhập khẩu của nƣớc này.

2.1.2. Nhận xét

Qua nghiên cứu quan hệ trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Hàn Quốc

giai đoạn 1992 đến nay, có thể rút ra một số nhận xét sau đây:

42

 Về kim ngạch và cán cân thƣơng mại

Kim ngạch trao đổi giữa hai nƣớc Việt Nam và Hàn Quốc đƣợc gia tăng

khá ổn định kể từ năm 1992 đến nay, trong đó tốc độ tăng trƣởng kim ngạch

nhập khẩu của Việt Nam luôn cao hơn tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất

khẩu. Vì thế, Việt Nam luôn bị nhập siêu và mức nhập siêu ngày càng gia

tăng. Hiện chiếm khoảng 50-60% tổng nhập siêu của cả nƣớc. Hàn Quốc là

nƣớc mà Việt Nam chịu nhập siêu nhiều nhất. Ngƣợc lại, trong nhiều năm Hàn

Quốc đã có thặng dƣ thƣơng mại với nƣớc ta. Tỷ lệ cao nhất của mức xuất

siêu so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Hàn Quốc cũng chỉ đạt 17,3%

(trong khi đó của Việt Nam là khoảng 70%). Tính trung bình ba năm trở lại

đây, mỗi năm Hàn Quốc xuất siêu đƣợc khoảng 11,5 tỷ USD thì xuất siêu sang

Việt Nam đã là 1,83 tỷ USD, chiếm khoảng gần 1/6 của tổng mức xuất siêu

của nƣớc này.

So với các nƣớc ASEAN, xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc là rất

khiêm tốn. Năm 2006, nó chiếm 2,8% tổng xuất khẩu của ASEAN sang thị

trƣờng này và đứng thứ 6/10, nhƣng tốc độ tăng trƣởng thì đứng thứ 2/10, sau

Philippin, và chiếm 12,6% tổng nhập khẩu của ASEAN từ Hàn Quốc, đứng thứ

5/10 và tốc độ tăng trƣởng nhập khẩu thì đứng thứ 2/10, sau Myamar.

Tình trạng nhập siêu lớn từ Hàn Quốc là do ảnh hƣởng của một số yếu tố

sau:

- Một lƣợng lớn hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc là nguyên,

nhiên liệu phục vụ cho sản xuất. Đây là kết quả của dòng đầu tƣ Hàn Quốc

vào Việt Nam khá lớn. Tuy nhiên, chỉ một phần xuất khẩu của Việt Nam sang

Hàn Quốc là sản phẩm sản xuất từ các nguyên liệu trên, số sản phẩm còn lại

đƣợc xuất khẩu sang nƣớc thứ ba;

- Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, bao gồm nông sản và thuỷ sản, là những

hàng hoá có giá trị gia tăng thấp, đồng thời giá trị xuất khẩu không cao.

Trong khi đó, ngoài các nguyên liệu, nhiên liệu và máy móc thiết bị của các

dự án đầu tƣ, nhập khẩu từ Hàn Quốc chủ yếu là các mặt hàng công nghiệp

43

có giá trị gia tăng cao và giá trị lớn nhƣ sắt thép, ô tô,…

- Dầu thô là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao của Việt Nam nhƣng xuất khẩu

không đáng kể sang thị trƣờng Hàn Quốc;

- Do cơ cấu xuất khẩu nói chung của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào hàng

nông sản, thuỷ sản nên phải chịu nhiều hạn chế về các hàng rào thuế và phi

thuế của Hàn Quốc, đồng thời phải chịu sự cạnh tranh từ các nƣớc khác trong

khu vực cũng nhƣ trên thế giới;

- Chƣa có thỏa thuận cụ thể về vệ sinh kiểm dịch hàng nông sản. Do vậy các

mặt hàng rau quả không thâm nhập đƣợc vào thị trƣờng này;

- Công tác xúc tiến thƣơng mại chƣa đƣợc thực hiện có hiệu quả, chƣa

tƣơng xứng với nhu cầu của thị trƣờng. Đã nhiều năm nay, Việt Nam không

tổ chức đƣợc các đoàn xúc tiến thƣơng mại có quy mô tham gia các hội chợ

triển lãm tại Hàn Quốc, cũng nhƣ không tổ chức đƣợc các đoàn giao dịch

thƣơng mại sang thị trƣờng này. Hoạt động xúc tiến thƣơng mại mới chỉ

dừng ở mức cung cấp thông tin, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp hai bên

khi có yêu cầu, đón tiếp các đoàn doanh nghiệp Hàn Quốc sang Việt Nam

(hàng năm, Hiệp hội các nhà nhập khẩu Hàn Quốc-KOIMA có tổ chức

một đoàn doanh nghiệp nhập khẩu Hàn Quốc sang Việt Nam để gặp gỡ với

các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh doanh) và các hoạt động

đơn lẻ tham gia hội chợ triển lãm, khảo sát thị trƣờng của một số doanh

nghiệp, một số địa phƣơng.

 Về cơ cấu hàng hoá trao đổi

Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc: Có chuyển biến tích cực theo

hƣớng giảm dần tỷ trọng của nguyên, nhiên liệu, các sản phẩm có hàm lƣợng

lao động cao và gia tăng các sản phẩm chế tạo, có hàm lƣợng công nghệ trung

bình trở lên. Đặc biệt từ giữa thập kỷ 1990, đã xuất hiện nhiều mặt hàng mới nhƣ

dụng cụ điện, linh kiện điện tử, viễn thông, bóng đèn hình, mạch tích hợp và gần

đây là TV màu. Tuy nhiên, cần ghi nhận một số đặc điểm sau:

- Kim ngạch xuất khẩu dầu thô chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ, có năm Việt Nam còn

44

không xuất khẩu dầu thô sang Hàn Quốc. Trong khi đó xuất khẩu sang nhiều thị

trƣờng trong khu vực, xuất khẩu dầu thô có kim ngạch tƣơng đối lớn (Nhật Bản:

320 triệu USD, Indonesia: 215 triệu USD, Singapore: 754 triệu USD,

Australia: 1,165 tỷ USD);

- Nhóm hàng thuỷ sản có tỷ trọng tăng dần trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Riêng năm 2003, nó chiếm tỷ trọng lớn nhất - tới 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu

của Việt Nam sang Hàn Quốc;

- Hàng nông sản vẫn chƣa thật sự tìm đƣợc chỗ đứng trên thị trƣờng Hàn Quốc,

ngoại trừ sắn lát và cà phê. Sắn lát xuất khẩu chủ yếu sang Hàn Quốc và

Trung Quốc, còn Hàn Quốc là nƣớc nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam

ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dƣơng;

- Trong số các mặt hàng công nghiệp nhẹ, kim ngạch hàng dệt may giảm kim

ngạch do chuyển hƣớng xuất khẩu sang Hoa Kỳ, kim ngạch hàng giầy dép tăng;

- Các mặt hàng thuộc các ngành chế tạo nhƣ động cơ điện, bóng điện tử, thiết

bị viễn thông,… trong những năm gần đây bắt đầu có tỷ trọng đáng kể trong cơ

cấu xuất khẩu, đƣợc xuất khẩu sang Hàn Quốc chủ yếu từ các doanh nghiệp có

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài;

- Một số mặt hàng khác có thế mạnh của Việt Nam vẫn chƣa phát huy hết tiềm

năng của mình tại thị trƣờng Hàn Quốc, nhƣ đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ.

Qua so sánh cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam với các nƣớc ASEAN khác, có

thể thấy sự khác biệt nhất định. Mặt hàng xuất khẩu chủ lực nhất của Việt Nam

là thuỷ sản, trong khi của Singapore, Malaysia, Philíppin và kể cả Thái Lan là linh

kiện và đồ điện tử, của Indonesia và Brunei là dầu mỏ và khí đốt. Có sự cạnh

tranh giữa các nƣớc ASEAN trên thị trƣờng Hàn Quốc, bởi lẽ, đối với một số

nhóm hàng thƣờng có vài nƣớc ASEAN đóng vai trò cung cấp chính. Về thuỷ sản,

ngoài Việt Nam là còn có Thái Lan, Philíppin. Về các loại rau quả, ngoài

Philíppin còn có Thái Lan và một phần là Việt Nam (sắn lát). Về cao su, Thái

Lan là nƣớc xuất khẩu chính, ngoài ra còn có Malaysia, Indonesia, Việt Nam. Về

cà phê có Việt Nam. Về linh kiện và đồ điện tử, ngoài các nƣớc thành viên cũ vốn

có kim ngạch tƣơng đối cao, còn có Indonesia và Việt Nam bắt đầu tăng dần kim

45

ngạch xuất khẩu sang Hàn Quốc. Về dầu mỏ và khí đốt, có Indonesia và Brunei.

Khi đặt quan hệ xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc trong xuất khẩu của

ASEAN sang Hàn Quốc, ta thấy có sự liên hệ giữa bộ phận với tổng thể, xuất

khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc cấu thành nên một phần bổ sung cho xuất

khẩu của ASEAN sang Hàn Quốc.

Cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc: Không có biến động lớn trong

giai đoạn 1992-2006. Nó phản ánh lợi thế so sánh của hai nƣớc Việt Nam và Hàn

Quốc, và phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá ở Việt Nam, cũng nhƣ củng cố

tăng trƣởng kinh tế ở Hàn Quốc. Hàng chế tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất, từ 70-

80% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó riêng nguyên liệu cho các ngành công

nghiệp nhẹ chiếm khoảng 40%, tiếp đến là hoá chất và các sản phẩm từ hoá

chất - 10-15%, nhiên liệu khoáng và dầu nhờn có tỷ trọng không đáng kể và đang

giảm dần. Về cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc, cần ghi nhận

một số đặc trƣng sau:

- Tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc của

nhóm hàng nguyên liệu và máy móc dùng cho sản xuất công nghiệp nhẹ nhƣ

dệt, may, da giầy, nhựa cùng với các cấu kiện dùng để xây dựng nhà xƣởng

là phản ánh quy mô và phạm vi đầu tƣ của các doanh nghiệp Hàn Quốc vào

Việt Nam;

- Ngƣợc lại với xuất khẩu, các mặt hàng nông sản và thuỷ sản Việt Nam nhập

khẩu từ Hàn Quốc có kim ngạch không đáng kể;

- Hàn Quốc đã tận dụng đƣợc những tiềm năng trong ngành công nghiệp mà

mình có lợi thế. Đó là những ngành: sắt thép, hóa chất, điện tử và điện dân

dụng, thiết bị viễn thông, ô tô, xe máy. Chỉ còn duy nhất ngành đóng tàu là

chƣa có sản phẩm xuất khẩu sang Việt Nam;

- So sánh với các nƣớc thành viên cũ của ASEAN, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu

của Việt Nam từ Hàn Quốc phần nào phản ánh trình độ phát triển thấp hơn

của Việt Nam so với các nƣớc này (Việt Nam nhập khẩu nhiều nguyên liệu

cho công nghiệp nhẹ, các nƣớc kia - chủ yếu là thiết bị viễn thông, linh kiện

điện tử, tức nguyên liệu đầu vào cho các sản phẩm công nghệ cao).

46

 Vị trí của thị trƣờng Hàn Quốc trong ngoại thƣơng của Việt Nam

Hàn Quốc thƣờng là một trong 10 thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của Việt

Nam, thƣờng đứng ở vị trí thứ 9 hoặc 10, xét theo kim ngạch xuất khẩu phi dầu

thô, ngoại trừ năm 1995 đứng thứ 5. Đây là thị trƣờng có sức mua lớn, yêu cầu về

chất lƣợng hàng hoá không cao nhƣ Mỹ hoặc EU, vị trí địa lý thuận lợi và có nhiều

nét tƣơng đồng về văn hoá đối với Việt Nam. Tuy nhiên, theo số liệu của KITA,

năm 2006, Việt Nam chỉ đứng thứ 35 trong số các nƣớc xuất khẩu sang Hàn Quốc

và chiếm 0,31% tổng kim ngạch nhập khẩu của nƣớc này, điều này phần nào phản

ánh sự giảm sút của hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc trong thời gian

gần đây.

Hàn Quốc là nƣớc đứng thứ 4 trong 5 thị trƣờng cung cấp hàng hoá nhập

khẩu lớn nhất cho Việt Nam, sau Singapor, Nhật Bản, Đài Loan (năm 2003

Trung Quốc đã thay thế vị trí của Singapore). Có đƣợc vị trí này là do hàng hoá

của Hàn Quốc có chất lƣợng và giá cả phù hợp và dòng vốn FDI vào Việt Nam

khá lớn. Theo số liệu của KITA, năm 2003, Việt Nam chiếm 1,32% tổng kim

ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc và đứng thứ 15 trong số các thị trƣờng nhập

khẩu của nƣớc này.

   Về chính sách thƣơng mại

Cả hai nƣớc Việt Nam và Hàn Quốc đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể

trên con đƣờng tự do hoá thƣơng mại và đầu tƣ nói riêng và tự do hoá kinh tế nói

chung. Thuế quan đã đƣợc giảm nhiều, các rào cản phi thuế quan đã đƣợc cải

cách nhiều theo các quy định của WTO. Tuy vậy, khi xâm nhập vào thị trƣờng

Hàn Quốc, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý nhiều đến các yêu cầu về

tiêu chuẩn, yêu cầu kỹ thuật, về dán nhãn hàng hoá, đặc biệt là phải chú ý

đến thói quen ƣa dùng biện pháp chống bán phá giá của Hàn Quốc để bảo hộ thị

trƣờng trong nƣớc. Hiện nay, một số hàng hoá của Việt Nam, nhất là hàng

nông sản, vẫn chƣa có đƣợc chỗ đứng trên thị trƣờng Hàn Quốc, bởi nƣớc này

có chính sách bảo hộ cao đối với mặt hàng này và quá trình tự do hoá gặp

nhiều khó khăn, trong đó có sức ép chính trị, nên tiến triển khá chậm chạp.

47

Chính sách bảo hộ của Hàn Quốc đƣợc phản ánh qua việc áp dụng hạn ngạch

thuế quan đối với nhiều mặt hàng nông sản, trong đó có gạo, sắn lát, áp dụng

chặt chẽ những yêu cầu về kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực

phẩm. Hàn Quốc quy định danh sách các loại quả bị cấm nhập khẩu, nhập

khẩu hạn chế và đƣợc phép nhập khẩu vào Hàn Quốc từ một số thị trƣờng,

do lo ngại sâu bệnh. Theo danh sách đó, hiện tại Việt Nam chỉ đƣợc phép

xuất khẩu dừa, dứa và chuối xanh. Các loại quả nhiệt đới mà Việt Nam có

tiềm năng nhƣ thanh long, xoài, măng cụt, nhãn, vải,… đều không đƣợc phép

xuất khẩu vào Hàn Quốc.

   Về hoạt động hỗ trợ phát triển thƣơng mại của chính phủ

Cả Việt Nam và Hàn Quốc đều rất quan tâm đến vấn đề này, song Hàn

Quốc thành công hơn, do kinh nghiệm đã đƣợc tích luỹ trong nhiều thập kỷ

phát triển chính sách hƣớng ngoại và khả năng tài chính tốt hơn.

2.2. ĐẦU TƢ HÀN QUỐC VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1992 ĐẾN NAY

VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ

2.2.1. Dòng FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam giai đoạn 1992 đến nay

Nhờ những nỗ lực trong công cuộc đổi mới đất nƣớc Việt Nam ngày

càng trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tƣ Hàn Quốc. Hiện Hàn Quốc là

nƣớc đầu tƣ lớn thứ 4 vào Việt Nam với tổng vốn đầu tƣ tính đến năm 2006 là

trên 6 tỷ USD, với hơn 1.183 dự án còn hiệu lực. Ngoài ra, với thiện chí tăng

cƣờng hợp tác kinh tế với Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế, hội

nhập vào kinh tế khu vực và thế giới, trong thời gian qua, chính phủ Hàn Quốc

đã tiến hành viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam hơn 60 triệu USD và cho

vay ƣu đãi 169 triệu USD để thực hiện các dự án hạ tầng kinh tế xã hội, xoá đói

giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực… Dòng đầu tƣ từ Hàn Quốc không

những là một nguồn cung cấp vốn, mà còn là một kênh chuyển giao công nghệ

quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Về quan hệ đầu tƣ

Quan hệ đầu tƣ giữa Hàn Quốc và Việt nam chỉ diễn ra một chiều, chủ

48

yếu là từ phía Hàn Quốc đầu tƣ sang Việt Nam. Về phía Việt Nam, do còn

nhiều hạn chế nên việc thực hiện đầu tƣ sang Hàn Quốc chỉ là cơ hội tiềm

năng đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ta. Trong tƣơng lai, hy vọng với sự tăng

trƣởng kinh tế nhanh, ổn định và duy trì đƣợc trong thời gian dài và sự hỗ

trợ từ hai phía chính phủ, các doanh nghiệp của Việt Nam có đủ tiềm năng

năng lực để đầu tƣ đầu tƣ sang thị trƣờng Hàn Quốc. Về phía Hàn Quốc,

tuy đầu tƣ vào Việt Nam chƣa lâu nhƣng đã nhanh chóng trở thành một

trong 10 nƣớc đầu tƣ lớn nhất vào Việt Nam, xếp thứ 4 trong số 78 quốc

gia và vùng lãnh thổ có đầu tƣ tại Việt Nam, chỉ sau Singapore, Đài Loan

và Nhật Bản. Việt Nam đứng hàng thứ 2 về vốn đầu tƣ của Hàn Quốc vào

Châu Á chỉ sau Indonesia, và đứng thứ 8 trong số các nƣớc nhận đầu tƣ

của Hàn Quốc ra nƣớc ngoài chỉ sau một số nƣớc nhƣ: Mỹ, Trung Quốc và

Nhật Bản… Ngoài ra, nếu chỉ tính riêng 7 tháng năm 2007 thì Hàn Quốc

đã vƣợt lên trở thành nƣớc đầu tƣ lớn nhất tại Việt Nam.

Qui mô và tốc độ gia tăng đầu tƣ

Hàn quốc đã đầu tƣ vào Việt Nam tất cả 1.183 dự án với tổng số vốn

trên 6 tỷ USD. Tính bình quân mỗi năm Hàn Quốc đầu tƣ 49,78 dự án với

mức 307,972 triệu USD vốn đăng ký. Phần lớn các dự án có qui mô vừa và

nhỏ, vốn trung bình cho một dự án là 6,186 triệu USD. Hầu hết các tập đoàn

lớn của hàn Quốc đã đầu tƣ tại Việt Nam, nhiều dự án có qui mô lớn (trên 40

triệu USD) nhƣ: Nhà máy đóng tàu biển Hyundai – Vinshin vốn đầu tƣ 192,6

triệu USD, Xí nghiệp Samsung – Vina Sythetic sản xuất vải, sợi polyster với

192,6 triệu USD, Công ty đèn hình ORION – HANEL tại khu công nghiệp

Sài Đồng, Hà Nội với tổng số vốn đầu tƣ trên 178 triệu USD… .

Bảng 2.7: Đầu tƣ trực tiếp của Hàn Quốc vào Việt Nam theo năm

(chỉ tính những dự án còn hiệu lực đến năm 2006)

Đơn vị: triệu USD

Năm Tổng số vốn đầu tƣ

49

1992 140,6

1993 508,5

1994 345,2

1995 656,8

1996 844,5

1997 345,9

1998 27,8

1999 173,6

2000 75,4

2001 116,3

2002 267,3

2003 344,4

2004 493

2005 808,7

2006 2.420

Nguồn: Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ Việt Nam

Các số liệu ở bảng 2.7 cho thấy, đầu tƣ của hàn Quốc vào Việt Nam diễn

biến khá thăng trầm. Chủ yếu tăng mạnh nhất vào giai đoạn 1993-1996 và 2005-

2006. Trong các giai đoạn này, có những năm đầu tƣ của Hàn Quốc dẫn đầu về số

lƣợng dự án và vốn đầu tƣ. Nhìn chung, từ năm 1992 đến nay, Hàn Quốc luôn nằm

trong số 10 nƣớc và vùng lãnh thổ đầu tƣ hàng đầu vào Việt Nam. Tuy nhiên nhịp độ

đầu tƣ của Hàn Quốc có xu hƣớng giảm dần trong giai đoạn từ 1997 đến 2000 do ảnh

hƣởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á. Do các công ty của Hàn Quốc

gặp khó khăn, đầu tƣ của Hàn Quốc vào Việt Nam bị giảm sút mạnh, nhất là các năm

1998, 1999. Kể từ năm 2000 đến nay, cùng với quá trình phục hồi của kinh tế Hàn

Quốc, tình hình đã có những chuyển biến tích cực đáng kể. Đầu tƣ của các công ty

Hàn Quốc vào Việt Nam đã dần lấy lại đƣợc nhịp độ trƣớc đây, mà đỉnh cao là năm

2002 với 149 dự án với tổng số vốn đăng ký là 269,5 triệu USD và đến 7/2007 với

tổng số 1.458 dự án và trên 9,36 tỷ USD vốn đăng ký và trở thành nƣớc dẫn đầu

50

trong số 78 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào Việt

Nam. Điều này có thể đƣợc giải thích là do mối quan hệ giữa Việt Nam – Hàn

Quốc ngày càng đƣợc cải thiện, các chuyến thăm cấp cao lẫn nhau diễn ra liên tục,

môi trƣờng đầu tƣ của Việt Nam ngày càng đƣợc cải thiện. Đặc biệt là từ khi Việt

Nam ký kết hiệp định thƣơng mại Việt – Mỹ, và trở thành thành viên chính thức

của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới, ngoài ra Việt Nam còn đƣợc đánh giá là điểm

đến an toàn cho các nhà đầu tƣ, trong khi nhiều nƣớc trong khu vực và trên thế giới

đang xảy ra những bất ổn về chính trị – xã hội và liên tục xảy ra khủng bố.

Bảng 2.8: Danh sách một số dự án đầu tƣ lớn của Hàn Quốc ở Việt Nam

Tổng vốn Tỷ lệ

đầu tư đóng góp Lĩnh vực Tên nhà Vị trí Tên dự án hoạt động đầu tư đầu tư (triệu vốn

USD) (%)

Orion-Hanel 178.6 70 TV’s CRT Deaewoo Hà Nội

Deeha Hotel 177.0 70 Khách sạn Daewoo Hà Nội

Huyndai 167.0 70 Đóng tàu Huyndai Nha Trang Vinashin

Xây dựng 60 I.B.C 91.9 Posco HCM và Dịch vụ

Samsung 192.7 100 Dệt may Samsung Đồng Nai

Vina Kolon 147.9 100 Dệt May Kolon Đồng Nai VN Ind

Xi măng Quảng 250 65 Xi măng Hanjung Hạ Long Ninh

Kumho Xây dựng 223 65 XD Kombo HCM Sài Gòn nhà VP

Nguồn: Cục đầu tƣ nƣớc ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ

Hầu hết các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc đã có mặt ở Việt Nam và

chiếm gần một nửa tổng số vốn đầu tƣ. Điều đáng nói ở đây là sự có mặt của 7 tập

51

đoàn kinh tế lớn nhƣ Samsung, Daewoo, công ty Xây dựng và Công nghiệp nặng

Hàn Quốc, Tập đoàn kinh tế Kumbo, Kolon, Hyundai và Tập đoàn LG. Các tập

đoàn này đã triển khai đầu tƣ trên qui mô lớn và diện rộng, từ bất động sản và xây

dựng cơ sở hạ tầng đến các lĩnh vực: điện - điện tử, sản xuất ô tô, dƣợc phẩm,…

riêng tập đoàn Daewoo là nhà đầu tƣ vào Việt Nam lớn nhất với tổng số vốn đăng

ký lên tới 700 triệu USD.

Theo văn phòng KOTRA (thuộc Đại sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội), phần

lớn các dự án đầu tƣ của Hàn Quốc tại Việt Nam có thời hạn từ 10 đến 30 năm.

Trong số các dự án đã đƣợc ký kết, số dự án có thời hạn từ 35 năm đến 75 năm là

rất ít. Các dự án liên doanh là 100% vốn nƣớc ngoài có thời hạn kinh doanh chủ

yếu là 20 đến 50 năm, các dự án có thời hạn kinh doanh 40 – 50 năm thƣờng là các

dự án lớn, có mức vốn từ 50 – 100 triệu USD.

Về hình thức đầu tƣ, tập trung chủ yếu là: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, Liên

doanh và 100% vốn nƣớc ngoài.

Cơ cấu đầu tƣ theo ngành

Trong suốt giai đoạn từ 1992 đến nay, các dự án đầu tƣ của Hàn Quốc vào

Việt Nam chủ yếu tập trung vào khu công nghiệp và xây dựng với hơn 70% tổng số

vốn; tiếp theo là vào các ngành dịch vụ với hơn 20% tổng số vốn, và phần còn lại

dƣới 10% vào các ngành nông, lâm, ngƣ nghiệp.

Nếu nhƣ đầu tƣ của Đài Loan, Singapore vào Việt Nam chủ yếu hƣớng vào

các ngành dịch vụ, khách sạn, nhà hàng và du lịch, thì đầu tƣ của Hàn Quốc tập

trung chủ yếu vào sản xuất công nghiệp, trong đó công nghiệp nhẹ chiếm chủ yếu

với 378 dự án, tổng vốn đầu tƣ đăng ký đạt tới 1,6 tỷ USD. Lĩnh vực dịch vụ và

du lịch thu hút 78 dự án, với tổng số vốn đầu tƣ gần 1,8 tỷ USD. Trong đó, riêng

giao thông vận tải và bƣu điện có 24 dự án với tổng số vốn đầu tƣ đăng ký đạt

257,2 triệu USD. Bên cạnh đó, đầu tƣ của Hàn Quốc cũng tập trung vào những

ngành công nghiệp nặng. Cụ thể, có 158 dự án (chiếm 22,67% số dự án) có tổng

số vốn đăng ký 1,2 tỷ USD (chiếm 28,02% về vốn đầu tƣ). Do vậy, nếu chỉ xem

xét đơn thuần về số liệu thống kê về vốn đầu tƣ của Hàn Quốc ở Việt Nam vào các

ngành nhƣ trên, có thể dễ làm cho ta nhận thấy sự phù hợp tƣơng đối của các chỉ số

52

này với yêu cầu về cơ cấu của một nền kinh tế hiện đại, phù hợp với nhu cầu phát

triển của Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc.

Về địa bàn đầu tƣ

Các dự án đầu tƣ của Hàn Quốc có mặt ở 30 tỉnh, thành phố trên toàn

quốc, nhƣng phần lớn tập trung tại hai vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc và phía

Nam. Các thành phố, tỉnh nhƣ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình

Dƣơng là các địa phƣơng có cơ sở hạ tầng tốt, những nơi có nhiều khu công

nghiệp, khu chế xuất, nên thu hút đƣợc nhiều dự án nhất – với 502 dự án, chiếm

72,02% về số dự án và 1,885 tỷ USD, chiếm 43,72% về tổng vốn đăng ký. Hà

Nội thu hút 47 dự án, với tổng số vốn đầu tƣ là 1,0 tỷ USD. Đồng Nai thu hút 97

dự án, với tổng số vốn đầu tƣ là 0,989 tỷ USD; thành phố Hồ Chí Minh thu hút

0,236 dự án, tổng vốn đầu tƣ là 0,9 tỷ USD; Hải phòng thu hút 19 dự án, với tổng

số vốn 0,226 tỷ USD. Bảng 2.8 thể hiện sự phân bố vốn đầu tƣ trực tiếp của Hàn

Quốc vào các vùng lãnh thổ của Việt Nam. Có thể nói, mức độ chênh lệch giữa

các vùng về thu hút vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài của Hàn Quốc là tƣơng đối

và đồng thuận với mức độ thuận lợi của yếu tố kinh tế – xã hội và cơ sở hạ tầng

của Việt Nam.

2.2.2. Những tác động của đầu tƣ Hàn Quốc đối với nền kinh tế Việt Nam

Kể từ khi ban hành Luật đầu tƣ nƣớc ngoài đến nay, khu vực đầu tƣ nƣớc

ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Nó góp

phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng CNH-HĐH,

phát triển lực lƣợng sản xuất. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tƣ

trực tiếp nƣớc ngoài tăng nhanh. Thời kỳ 1991 -1995 đạt 1,12 tỷ USD, thời kỳ

1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD, thời kỳ 2001-2006 đạt 28,8 tỷ USD, gấp 2,7 lần

so với 5 năm trƣớc và chiếm 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc. Sau

năm 2006, hoạt động xuất khẩu của khu vực đầu tƣ nƣớc ngoài còn tăng mạnh

hơn, cùng với nhịp độ tăng chung của xuất khẩu cả nƣớc và hiện chiếm khoảng

27% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Điều đặt biệt là có khoảng trên

80% số các cơ sở đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia xuất khẩu, nhiều cơ sở xuất khẩu

100%. Đầu tƣ nƣớc ngoài đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào tăng trƣởng

53

kinh tế của Việt Nam. Tỷ trọng đóng góp trong GDP và nguồn thu ngân sách từ

khu vực đầu tƣ nƣớc ngoài ngày càng tăng.

Dòng vốn đầu tƣ từ Hàn Quốc đã đóng góp đáng kể vào thành tích

chung trên đây của khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài của Việt Nam. Ở Việt

Nam hiện nay, có trên 200 doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của Hàn Quốc đã đi

vào sản xuất kinh doanh, 74 dự án đang trong quá trình xây dựng cơ bản và

167 dự án mới đƣợc cấp giấy phép đang hoàn tất các thủ tục hành chính. Các

dự án đầu tƣ của Hàn Quốc đã góp phần giải quyết việc làm và tham gia phát

triển nguồn nhân lực cho ngƣời lao động ở Việt Nam. Các dự án này đã trực

tiếp tạo việc làm cho trên 82.000 ngƣời lao động Việt Nam, hàng chục nghìn

lao động gián tiếp khác trong xây dựng và cung ứng dịch vụ và một số lƣợng

lao động lớn hơn thế trong các ngành công nghiệp phụ trợ. Một số lƣợng đáng

kể lao động của Việt Nam đã đƣợc đào tạo nâng cao năng lực quản lý, trình độ

đủ để thay thế các chuyên gia nƣớc ngoài.

Cũng nhƣ các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài khác, các doanh

nghiệp Hàn Quốc ở Việt Nam rất tích cực tham gia vào hoạt động xuất khẩu và đã

nhanh chóng khẳng định đƣợc vai trò của mình trong lĩnh vực này. Dựa trên số

liệu thống kê của Cục Đầu tƣ Nƣớc ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, về doanh thu

và kim ngạch xuất khẩu của 67 cơ sở có vốn đầu tƣ Hàn Quốc, có thể nhận thấy

rằng trong những năm gần đây, cả doanh thu và kim ngạch xuất khẩu của các cơ

sở này đều có xu hƣớng tăng lên. Cụ thể, năm 2005 xuất khẩu của các doanh

nghiệp này đạt 1.046 triệu USD chiếm 24,7% tổng xuất khẩu của Việt Nam; năm

2006 đạt 1.261,4 triệu USD tăng 20,6% so với năm 2005. Nhiều cơ sở, chủ yếu

trong ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất giày thể thao, ba lô, túi xách, đế giầy, lụa

tơ tằm, đã xuất khẩu 100%. Điển hình trong số này là Công ty TNHH Tae Kwang

Vina Industrial (Đồng Nai) với kim ngạch xuất khẩu năm 2005 là 113 triệu USD

và 2006 là 122,7 triệu USD, Công ty Chang Shin Việt Nam (Đồng Nai) với kim

ngạch xuất khẩu năm 2005 là trên 64 triệu USD, năm 2006 là gần 75 triệu USD.

Nhiều cơ sở khác, chủ yếu sản xuất linh kiện điện tử, đã đạt tỷ trọng xuất khẩu

khá lớn so với tổng doanh thu, nhƣ Công ty đèn hình ORION-HANEL năm 2005

54

xuất khẩu 81,4 triệu USD/108 triệu doanh thu, năm 2006 tỷ lệ này là 65,6 triệu

USD/99 triệu USD. Nhiều công ty có doanh thu rất nhỏ, chỉ vài triệu USD/năm,

nhƣng cũng tham gia xuất khẩu 100%, nhƣ Công ty sản xuất đế giầy Sung Hyun

Vina (Bình Dƣơng), Công ty TNHH Yujin Vina chuyên sản xuất các loại dụng cụ

bàn ăn bằng thép ở thành phố Hồ Chí Minh… Có những công ty khác lại chuyên

cung cấp hàng hoá cho thị trƣờng nội địa Việt Nam, nhƣ Công ty liên doanh sản

xuất sợi cáp quang VINA GSC (Hà Nội), Công ty ống thép Việt Nam (Hải

Phòng), Công ty liên doanh hoá chất LG VINA (Đồng Nai). Nhƣ vậy, có thể thấy

các cơ sở có vốn đầu tƣ của Hàn Quốc đã có những đóng góp quan trọng trong

việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài nói

riêng và của Việt Nam nói chung, đồng thời cũng cung cấp cho thị trƣờng nội địa

nhiều mặt hàng mà hiện chúng ta đang phải nhập khẩu.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ Hàn Quốc hàng năm còn

đóng góp vào ngân sách một khoản đáng kể. Tiêu biểu trong những lĩnh vực này

là Công ty TNHH Pang Rim Yochang (sản xuất vải, dệt, nhuộm) tại Phú Thọ,

nộp ngân sách trung bình hàng năm gần 3 triệu USD, tạo việc làm cho 2000 lao

động trực tiếp; Công ty đèn hình ORION - HANEL tại khu công nghiệp Sài

Đồng, tạo việc làm cho gần 1200 lao động, xuất khẩu năm 2006 đạt trên 100

triệu USD, nộp ngân sách hàng năm khoảng 1,9 triệu USD.

Trong những năm qua, mặc dù đã gặt hái đƣợc nhiều thành công, các nhà đầu

tƣ Hàn Quốc cũng gặp không ít khó khăn do phải cạnh tranh với các nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài khác trên thị trƣờng Việt Nam. Đặc biệt, xung đột nảy sinh giữa chủ (ngƣời Hàn

Quốc) và thợ (ngƣời Việt Nam) trong một số doanh nghiệp có vốn đầu tƣ của Hàn

Quốc tập trung chủ yếu ở một số địa bàn nhƣ thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và

Bình Dƣơng. Có rất nhiều lý do của tình hình trên, trong đó có sự khác biệt về văn

hoá, phong cách ứng xử và thái độ lao động. Mặc dù các sự việc trên đều đƣợc giải

quyết một cách ổn thoả trên cơ sở hoà giải, thƣơng lƣợng, nhân nhƣợng lẫn nhau với

sự tham gia phối hợp của các cơ quan chức năng có thẩm quyền của hai bên. Đặc biệt

ở những tỉnh, thành phố ở phía Nam, Tổng Lãnh sự Hàn Quốc và chính quyền địa

phƣơng sở tại đã tổ chức những buổi tập huấn về Bộ luật lao động của Việt Nam cho

55

các chủ doanh nghiệp Hàn Quốc và những ngƣời lao động Việt Nam. Song, những sự

kiện đáng tiếc trên cũng đã gây ảnh hƣởng đến cả hai phía cần phải đƣợc chấn chỉnh kịp

thời.

2.2.3 Nhận xét và đánh giá

Cũng nhƣ trong lĩnh vực trao đổi hàng hoá, hợp tác đầu tƣ giữa Việt Nam và

Hàn Quốc trong giai đoạn 1992 đến nay đã đƣợc phát triển với tốc độ rất cao. Dòng vốn

từ Hàn Quốc đổ vào ngày càng nhiều, đi kèm với nó là kỹ thuật công nghệ, quản lý…

Tuy nhiên, cho đến nay, mối quan hệ này chỉ mới đƣợc diễn ra một chiều – chỉ có vốn

từ Hàn Quốc chảy sang Việt Nam. Nhƣng xét trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện nay

của hai nƣớc, các nhà đầu tƣ Hàn Quốc có điều kiện và đang đƣợc chính phủ khuyến

khích đầu tƣ ra nƣớc ngoài, còn Việt Nam đang cố gắng cải cách nền kinh tế để thu hút

ngày càng nhiều hơn dòng vốn và công nghệ từ bên ngoài, trong đó có Hàn Quốc.

Nhƣ vậy, giống nhƣ trao đổi hàng hoá, trong quan hệ đầu tƣ song phƣơng

giữa Hàn Quốc và Việt Nam đã đáp ứng nhu cầu và lợi ích của các bên. Đó chính là

nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng của mối quan hệ này.

So với một số nƣớc khác trong khu vực nhƣ Đài Loan, Singapore, Malayxia,

dòng vốn đầu tƣ từ Hàn Quốc vào nƣớc ta tập trung nhiều vào lĩnh vực sản xuất và tỷ lệ

vốn thực hiện đạt khá cao. Theo số liệu của Cục đầu tƣ Nƣớc ngoài, Bộ Kế hoạch và

Đầu tƣ, tính đến 2006, tổng giá trị vốn đăng ký của các dự án Đài Loan, Singapore và

Malayxia đầu tƣ vào các ngành công, nông và lâm nghiệp của Việt Nam tƣơng ứng là

6,6 tỷ USD, 3,8 tỷ USD và 1,1 tỷ USD, chiếm tƣơng ứng là 89%, 37% và 64% tổng

vốn đầu tƣ đăng ký. Các số liệu tƣơng ứng của Hàn Quốc là 3,13 tỷ USD và 72,5%. Tỷ

lệ vốn đầu tƣ thực hiện so với tổng vốn đầu tƣ đăng ký trong các ngành này của Đài

Loan, Singapore, Malayxia và Hàn Quốc tƣơng ứng là 42%, 40%, 68% và 63%. Với

kết quả đó, có thể thấy rằng dòng đầu tƣ từ Hàn Quốc vào Việt Nam hoạt động khá

hiệu quả, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nƣớc ta.

Có thể nói, giống nhiều nhà đầu tƣ Châu Á khác, đầu tƣ của Hàn Quốc đƣợc

phân bổ vào nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong đó sự quan tâm đặc biệt đƣợc

giành cho các ngành công nghiệp nhẹ nhƣ dệt, may mặc, da giầy… nhằm mục đích

khai thác tốt nhất lợi thế của Việt Nam. Hàn Quốc là nƣớc đầu tƣ khá nhiều vào ngành

56

công nghiệp nhẹ – 378 dự án với số vốn đăng ký là 1,8 tỷ USD, cao hơn nhiều so với

Đài Loan, Singapore và Malayxia, tƣơng ứng chỉ có 832 triệu USD, 229 triệu USD và

198,4 triệu USD. Vì thế, mặc dù tỷ lệ đầu tƣ, mặc dù tỷ lệ đầu tƣ thực hiện so với tổng

vốn đầu tƣ đăng ký vào ngành công nghiệp nhẹ của Hàn Quốc thấp hơn so với các các

nƣớc còn lại – 39% so với các số liệu tƣơng ứng là 36,7%, 75% và 52,5%, nƣớc này

vẫn luôn là một nhà đầu tƣ lớn ở Việt Nam trong lĩnh vực này.

Dòng vốn đầu tƣ của Hàn Quốc vào Việt Nam đã và đang có những đóng góp

đáng kể vào hoạt động xuất khẩu của nƣớc ta. Trong những năm đầu của thế kỷ 21, mỗi

năm, các cơ sở có vốn đầu tƣ của Hàn Quốc đã xuất khẩu hàng trăm triệu đô la hàng

hoá sang các nƣớc thứ ba và một phần quay trở lại thị trƣờng Hàn Quốc. Bên cạnh đó,

các cơ sở này còn cung cấp cho thị trƣờng Việt Nam nhiều hàng hoá mà đáng ra chúng

ta phải nhập khẩu. Với đóng góp này, gánh nặng về một cán cân thƣơng mại thâm hụt

quá cao trong quan hệ với Hàn Quốc đối với Việt Nam phần nào đƣợc giảm bớt.

Một hạn chế của dòng vốn đầu tƣ Hàn Quốc vào Việt Nam là chúng đƣợc

phân bổ không đồng đều, tập trung chủ yếu ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,

Đồng Nai và Bình Dƣơng. Đáng tiếc hơn nữa là các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài khác từ

Đài Loan, Singapore, Malayxia cũng trong tình trạng tƣơng tự. Ngoài ra, trong một

số cơ sở có vốn đầu tƣ Hàn Quốc đã xảy ra xung đột giữa những ngƣời chủ sử dụng

lao động và những ngƣời lao động Việt Nam. Mặc dù, tình hình đã đƣợc cải thiện

nhiều, song đó cũng đã để lại cho chúng ta bài học lớn rằng cần phải quan tâm hơn

đến việc nâng cao hiểu biết lẫn nhau về văn hoá giữa nƣớc nhận và nƣớc đầu tƣ.

Với những thành công nhƣ trên, cộng với sự ủng hộ của chính phủ, sự gặp nhau

giữa nhu cầu và lợi ích trong mối quan hệ song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc trong

bối cảnh quốc tế thuận lợi, có thể khẳng định rằng hợp tác hai nƣớc trong lĩnh vực

đầu tƣ sẽ tiếp tục đƣợc phát triển trong tƣơng lai.

2.3. TRAO ĐỔI DU LỊCH VÀ HỢP TÁC LAO ĐỘNG GIỮA VIỆT NAM VÀ

HÀN QUỐC.

2.3.1. Du lịch

Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia có mối quan hệ kinh tế khá phát

triển trong thời gian qua. Trao đổi thƣơng mại dịch vụ giữa hai nƣớc ngày càng

57

tăng cả về qui mô lẫn lĩnh vực hoạt động. Trong các mối quan hệ kinh tế đó, du

lịch đƣợc xác định nhƣ một ngành xuất khẩu tại chỗ đã có những đóng góp tích

cực

cho sự phát triển quan hệ kinh tế Việt - Hàn. Có nhiều yếu tố chủ quan và

khách quan khiến cho trao đổi du lịch giữa hai nƣớc đƣợc phát triển thuận lợi

nhƣ khá gần nhau, có sự tƣơng đồng về truyền thống văn hoá, lợi ích, nhu cầu giao

lƣu tìm hiểu lẫn nhau, sự chênh lệch về mức giá hàng hoá, dịch vụ… Từ nhiều

năm nay, thị trƣờng du lịch Hàn Quốc đã đƣợc xác định là thị trƣờng mục tiêu của

du lịch Việt Nam. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi trên thế giới xảy ra

nhiều biến động do khủng bố và chiến tranh I rắc, du lịch Việt Nam đã tập trung

mọi nỗ lực vào khai thác các thị trƣờng gần và trung bình, cụ thể là đẩy mạnh khai

thác các thị trƣờng Đông Bắc Á, trong đó có Hàn Quốc, nhằm bù đắp sự suy giảm

khách từ các thị trƣờng truyền thống ở xa nhƣ châu Âu và Bắc Mỹ. Mặc dù hiện

nay, lƣợng khách du lịch từ Hàn Quốc đến Việt Nam đang có xu hƣớng tăng nhanh,

song tiềm năng phát triển du lịch giữa hai nƣớc vẫn chƣa đƣợc khai thác hết. Trong

thực tế, còn có những bất cập làm cản trở trao đổi du lịch. Để đẩy mạnh hơn nữa giữa

trao đổi du lịch Việt Nam - Hàn Quốc, cần có những đánh giá đầy đủ hiện trạng, chỉ

rõ những tồn tại và nguyên nhân của chúng, từ đó đề ra các giải pháp nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho sự phát triển du lịch hai nƣớc trong thời gian tới.

Sự phát triển của du lịch Việt Nam là một minh chứng cho sự thành công của

chính sâch đổi mới khi mà ngành này đã phần nào bắt nhịp với sự phát triển của du

lịch thế giới và khu vực. Trong thời gian qua, du lịch Việt Nam đã có những điều

kiện thuận lợi để phát triển. Kinh tế đất nƣớc đang trên đà tăng trƣởng với tốc độ

cao; văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao đã đạt đƣợc nhiều thành tựu. Việt

Nam đƣợc dƣ luận thế giới bình chọn là một trong những nƣớc có môi trƣờng đầu

tƣ an toàn, một điểm đến thân thiện và khá hấp dẫn trong khu vực Châu Á - Thái

Bình Dƣơng. Đặc biệt, hoạt động du lịch đƣợc sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của

Đảng và Nhà nƣớc. Nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành về

phát triển du lịch đƣợc chuyển biến rõ rệt. Pháp lệnh du lịch và nhiều quy định

khá thông thoáng đã đƣợc ban hành góp phần tháo gỡ nhiều khó khăn, vƣớng mắc

58

mang tính liên ngành, giúp du lịch phát triển với tốc độ cao. Nhà nƣớc đã đầu tƣ

trực tiếp vào phát triển cơ sở hạ tầng du lịch từ nguồn vốn ngân sách, tạo tiền đề

cơ bản cho đầu tƣ phát triển du lịch. Sự phối, kết hợp giữa du lịch và các bộ,

ngành, địa phƣơng chặt chẽ hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển.

Hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế trong du lịch đạt đƣợc sự tiến bộ, cả trong hợp

tác đa phƣơng và song phƣơng nhằm tranh thủ kinh nghiệm quốc tế, thu hút nguồn

vốn FDI, ODA và khai thác các thị trƣờng khách quốc tế.

Bên cạnh những thuận lợi trên, sự phát triển của du lịch Việt Nam đang

phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tình hình chính trị và kinh tế thế giới diễn

biến nhanh và phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc khó lƣờng. Khủng hoảng

kinh tế thế giới và khu vực, khủng bố quốc tế gia tăng, chiến tranh I rắc, dịch

SARS, dịch cúm gà là những tác động quốc tế bất lợi đến sự phát triển du lịch

Việt Nam. Ở trong nƣớc, hạn hán, lụt lội, cháy rừng xảy ra ở một số nơi, gây thiệt

hại lớn, ảnh hƣởng không tốt đến hoạt động du lịch. Chi phí đầu vào bị đẩy lên

do giá nguyên, nhiên, vật liệu, điện, nƣớc… tăng, khiến cho giá cả dịch vụ du lịch

còn cao, hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trƣờng du lịch khu vực. Mặc dù

vậy, Việt Nam vẫn đạt đƣợc những thành tựu đáng kể trong phát triển du lịch nói

chung và trong quan hệ song phƣơng với Hàn Quốc nói riêng.

Bảng 2.9: Các thị trƣờng khách du lịch chính của Việt Nam (1000 lƣợt ngƣời)

STT 2001 2002 2003 2004 2005 2006

1 Trung Quốc 673 633 752 456 693 724

2 Hàn Quốc 75 323 317 339 130 105

3 Mỹ 230 253 334 322 219 260

4 Nhật Bản 153 238 321 312 210 280

5 Đài Loan 200 240 286 230 208 211

6 Australia 68 161 145 138 - 96

7 Campuchia 76 122 187 135 84 70

8 Pháp 86 86 124 107 87 112

9 Thái Lan 32 71 84 97 40 41

59

10 Singapore 32 35 37 82 78 81

Tổng cộng 1330 2628 2429 2928 2863 2953

Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam

Giai đoạn 2001-2006, tốc độ tăng trƣởng GDP của cả nƣớc đạt khoảng

7,8%, trong đó riêng năm 2006 tỷ lệ tăng trƣởng GDP của Việt Nam là 8,2%.

Cùng với sự tăng trƣởng chung của lƣợng khách du lịch, hoạt động du lịch cũng

phát triển với tốc độ cao, đóng góp quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu

kinh tế.

Số lƣợng khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam ngày càng tăng, đặc biệt là

trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch, năm 2001

có khoảng 75.000 lƣợt khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam. Tuy nhiên, con số

này đã tăng nhanh qua các năm : 2002: 100.000 lƣợt ngƣời, 2003: 130.000; 2004:

323.000; 2005: 317.000; và 2006: 339.000 lƣợt ngƣời.

Kể từ 1/7/2004, Việt Nam đã đơn phƣơng miễn thị thực cho các khách

Hàn Quốc đến Việt Nam dƣới 15 ngày. Điều này đã góp phần khuyến khích

khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam với số lƣợng ngày càng tăng. Khách du

lịch Hàn Quốc hiện đứng thứ 5 trong số các thị trƣờng du lịch hàng đầu đến

Việt Nam. Từ thị trƣờng tiềm năng, Hàn Quốc đã trở thành thị trƣờng trọng

điểm của du lịch Việt Nam. Nguyên nhân cơ bản làm cho lƣợng khách du lịch

Hàn Quốc đến Việt Nam tăng nhanh là do sự trao đổi thông tin, liên kết thƣơng

mại giữa hai nƣớc đƣợc mở rộng, làm cho ngƣời Hàn Quốc hiểu biết nhiều hơn

về Việt Nam. Mặt khác, khả năng tiếp cận Việt Nam trở nên dễ dàng hơn nhờ

mở đƣờng bay thẳng giữa hai nƣớc.

Mặc dù cho đến nay chƣa có những nghiên cứu đánh giá cụ thể, chi tiết về

thị trƣờng khách du lịch Hàn Quốc, nhƣng căn cứ vào một số kết quả điều tra thị

trƣờng chung cho ngành du lịch Việt Nam hoặc của các tổ chức quốc tế tiến

hành trong thời gian vừa qua, có thể thấy mục đích đi du lịch Việt Nam của

khách Hàn Quốc đƣợc liệt kê theo thứ tự ƣu tiên lựa chọn nhƣ sau:

60

 Du lịch thăm quan thành phố: Việt Nam là một điểm đến du lịch tƣơng

đối mới mẻ đối với nhiều khách du lịch Hàn Quốc. Thông tin về Việt

Nam mà họ có đƣợc thông thƣờng chỉ là những địa danh nơi đóng quân

của quân đội Hàn Quốc trong thời gian chiến tranh chống Mỹ. Vì thế,

khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam chủ yếu với mục đích thăm quan,

ngắm cảnh, tìm hiểu cuộc sống ở những thành phố lớn của Việt Nam.

Những thành phố mà khách du lịch thƣờng muốn đến là Thành phố Hồ

Chí Minh, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng.

 Du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch tàu biển: Do biết đƣợc giá trị nổi bật của tài

nguyên du lịch biển của Việt Nam, số khách Hàn Quốc đi du lịch Việt Nam

với mục đích nghỉ dƣỡng tại các khu du lịch biển hoặc tham gia các chuyến du

lịch trên tàu biển qua Việt Nam ngày càng tăng lên.

 Du lịch công vụ (bao gồm du lịch hội nghị, hội thảo, khen thƣởng, hội chợ,

du lịch văn hoá): Việt Nam hiện là một thị trƣờng giàu tiềm năng đối với việc

đầu tƣ, buôn bán của ngƣời Hàn Quốc. Mặt khác, do giữa hai dân tốc có những

điểm tƣơng đồng về văn hoá, nên lƣợng khách Hàn Quốc đến Việt Nam để

tìm hiểu môi trƣờng kinh doanh, văn hoá Việt Nam cũng chiếm tỷ trọng

đáng kể trong tổng số khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam.

 Du lịch với các mục đích khác: Ngoài những mục đích trên, khách du lịch Hàn

Quốc đến Việt Nam với các mục đích khác có số lƣợng ít hơn.

Mặc dù số lƣợng khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam có xu hƣớng tăng nhanh,

nhƣng nguồn thu từ thị trƣờng khách du lịch này còn hạn chế. Tuy chƣa có điều tra riêng

về cơ cấu chi tiêu của khách du lịch Hàn Quốc, nhƣng theo quan sát thực tế, nhìn chung

khách du lịch Hàn Quốc chi tiêu ở mức trung bình so với khách quốc tế đến Việt Nam.

Bình quân họ chi khoảng 500 - 700 USD cho một chuyến du lịch tại Việt Nam, không kể

chi phí về vé máy bay quốc tế. Đây là mức chi tiêu thấp so với các nƣớc khác trong khu

vực. Khách Hàn Quốc chủ yếu chi cho lƣu trú, ăn uống, đi lại tại Việt Nam, chi cho mua

sắm hàng hoá và vui chơi giải trí còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do sản phẩm dịch

vụ của Việt Nam còn nghèo nàn, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của khách du lịch Hàn

61

Quốc.

Tuy Hàn Quốc nằm trong nhóm các quốc gia dẫn đầu về đầu tƣ trực tiếp vào

Việt Nam trong thời gian qua, nhƣng trong lĩnh vực du lịch, đầu tƣ của Hàn Quốc còn

hạn chế so với các nƣớc khác. Đến năm 2006, đầu tƣ trực tiếp vào lĩnh vực du lịch ở

Việt Nam chỉ có 9 dự án, đạt 702,82 triệu USD, chiếm 8,6% trong tổng số vốn FDI vào

lĩnh vực du lịch ở Việt Nam. Các dự án đầu tƣ chủ yếu của Hàn Quốc gồm Liên doanh

khách sạn DAEWOO tại Hà Nội, một số liên doanh lữ hành quốc tế, sân golf, khu vui

chơi giải trí, các nhà hàng Hàn Quốc tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Rõ ràng, Việt

Nam cần có chính sách khai thác vốn đầu tƣ của Hàn Quốc vào lĩnh vực du lịch, tƣơng

xứng với vai trò của thị trƣờng khách du lịch của nƣớc này tại Việt Nam.

Khách du lịch Việt Nam đến Hàn Quốc

Trong những năm qua, cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác, trao đổi với

các nƣớc, ngày càng có nhiều ngƣời Việt Nam đi du lịch nƣớc ngoài. Tuy nhiên, do

hạn chế về khả năng thanh toán, nên khách du lịch Việt Nam thƣờng chọn

những điểm đến có khoảng cách gần và mức giá phù hợp, nhƣ Trung Quốc, các

nƣớc ASEAN và Hàn Quốc. Theo thống kê của Bộ Văn hoá, Du lịch Hàn Quốc,

năm 2006 khách du lịch Việt Nam đến Hàn Quốc là 34.574 ngƣời, tăng 6,6% so với

năm 2001. Con số này tuy còn rất khiêm tốn, song nó cũng chứng tỏ xu hƣớng

khách du lịch Việt Nam đến Hàn Quốc không ngừng tăng lên.

Khách du lịch Việt Nam đến Hàn Quốc chủ yếu với mục đích công vụ,

học tập kết hợp thăm quan du lịch. Mức chi tiêu còn hạn chế với độ dài lƣu trú

trung bình thấp.

Nhìn chung, sự phát triển quan hệ song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc

trong lĩnh vực du lịch với những thành tựu nhƣ đã trình bày ở trên là rất khả

quan. Song, thực tế đang tồn tại những hạn chế, thách thức cần sớm đƣợc khắc

phục. Có thể nêu một số nguyên nhân cơ bản về thực trạng hợp tác du lịch Việt Nam - Hàn

Quốc thời gian qua nhƣ sau:

 Trƣớc hết, Việt Nam chƣa có chính sách khuyến khích, ƣu tiên đặc biệt để thu hút

khách du lịch và các nhà đầu tƣ Hàn Quốc vào du lịch Việt Nam. Muốn tăng khả

62

năng thu hút khách du lịch quốc tế Hàn Quốc, Việt Nam phải tìm cách đáp ứng

nhu cầu chính đáng của du khách, theo thông lệ quốc tế, phù hợp với xu thế hội nhập.

Ví dụ, đối với lĩnh vực xuất nhập cảnh, khách du lịch Hàn Quốc vào Việt Nam trên

15 ngày vẫn cần phải xin visa, trong khi các nƣớc khác trong khu vực đã áp dụng

biện pháp miễn visa đối với khách du lịch Hàn Quốc. Điều này chƣa tạo điều kiện

thuận lợi cho khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam. Mặc dù Hiệp định Du lịch

Việt Nam - Hàn Quốc đã đƣợc ký từ năm 1998, nhƣng đến nay nhiều hoạt động vẫn

chƣa đƣợc triển khai để phát triển du lịch giữa hai nƣớc.

 Công tác nghiên cứu thị trƣờng còn yếu, tản mạn, tự phát, thiếu thông tin, đặc biệt

thiếu những nghiên cứu chi tiết, chuyên sâu về thị trƣờng du lịch Hàn Quốc. Do

không có sự nghiên cứu cơ bản, cụ thể, nên du lịch Việt Nam chƣa nắm bắt đƣợc đầy

đủ, kịp thời tâm lý, thị hiếu, sở thích của khách du lịch Hàn Quốc, chƣa dự báo

đƣợc xu hƣớng phát triển của thị trƣờng này. Chính vì vậy, hiện nay du lịch Việt

Nam thiếu những sản phẩm phù hợp, đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trƣờng khách du

lịch Hàn Quốc.

 Hiện nay du lịch Việt Nam thiếu hƣớng dẫn viên nói tiếng Hàn quốc. Điều này

rất quan trọng đối với sự phát triển của thị trƣờng du lịch này vì phần lớn khách

du lịch Hàn Quốc không thông thạo tiếng Anh. Họ chỉ hiểu tiếng Hàn Quốc.

Do vậy, muốn thu hút khách du lịch Hàn Quốc thì nhất thiết phải có đủ đội ngũ

hƣớng dẫn viên du lịch nói tiếng Hàn Quốc.

 Nhìn chung, chất lƣợng dịch vụ du lịch của Việt Nam còn thấp so với các nƣớc khác

trong khu vực, trong khi khách du lịch Hàn Quốc ngày càng đòi hỏi khá cao về chất

lƣợng phục vụ. Thực tế cho thấy du lịch Việt Nam chƣa đáp ứng đƣợc tốt các nhau

cầu của khách du lịch Hàn Quốc, còn có một bộ phận khách chƣa hài lòng về chất

lƣợng dịch vụ của du lịch Việt Nam. Hầu hết các khu du lịch, điểm du lịch đƣợc

khai thác ở dạng tự nhiên, chƣa đƣợc đầu tƣ tôn tạo một cách bài bản, có chất lƣợng.

Tình trạng mất trật tự, mỹ quan, đeo bám khách du lịch ở các điểm tham quan làm

phiền lòng du khách, giảm đáng kể chất lƣợng dịch vụ du lịch.

63

 Điểm hạn chế cơ bản của sản phẩm du lịch Việt Nam so với các nƣớc trong khu vực

là thiếu các hàng hoá lƣu niệm và dịch vụ vui chơi giải trí. Khách du lịch Hàn

Quốc khi đi du lịch thƣờng chi nhiều tiền cho mua sắm hàng hoá lƣu niệm và

các dịch vụ vui chơi giải trí nhƣ casino, chơi golf … Du lịch là ngành thực

hiện xuất khẩu tại chỗ. Kinh nghiệm của các nƣớc cho thấy tỷ lệ chi tiêu cho

mua sắm hàng hoá, dịch vụ của du khách thƣờng chiếm 30-50% tổng chi phí

của chuyến du lịch. Ở Việt Nam, tỷ lệ này mới khoảng 10%. đây cũng là một

trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho du lịch

Việt Nam chƣa thu hút đƣợc nhiều khách du lịch Hàn Quốc, so với các nƣớc

khác trong khu vực. Việc kết hợp giữa du lịch với ngành thƣơng mại, văn hoá, hải

quan trong việc tổ chức khôi phục các làng nghề, các cơ sở sản xuất hàng thủ công

mỹ nghệ, đồ lƣu niệm; trong việc giới thiệu, chào bán sản phẩm, cho phép xuất

khẩu; trong công tác kiểm tra hàng hoá (chống buôn lậu, chống buôn bán đồ cổ…)

chƣa đƣợc tốt, nên chƣa khuyến khích đƣợc khách du lịch mua hàng, chƣa tạo điều

kiện cho sản xuất trong nƣớc phát triển.

 Chi phí cho một chuyến đi du lịch của khách Hàn Quốc ở Việt Nam còn cao hơn

một số nƣớc. Điều này cho thấy giá cả dịch vụ du lịch của Việt Nam chƣa cạnh

tranh đƣợc với các nƣớc trong khu vực. Trong khi đó, giá cả là một trong những

yếu tố cơ bản để khách du lịch cân nhắc, lựa chọn các điểm đến của chuyến du

lịch.

 Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch tại Hàn Quốc bƣớc đầu đã đƣợc tiến

hành, nhƣng qui mô còn hạn chế, hiệu quả không cao. Chƣa có nhiều ấn phẩm

có ấn tƣợng quảng bá về du lịch Việt Nam bằng tiếng Hàn Quốc. Hoạt động tiếp

thị sản phẩm của các doanh nghiệp còn phân tán, bị động, thiếu tính chuyên

nghiệp. Mặc dù đã đƣợc xác định là thị trƣờng du lịch trọng điểm của Việt Nam,

nhƣng đến nay vẫn chƣa có văn phòng đại diện của du lịch Việt Nam tại Hàn

Quốc để thực hiện công tác thông tin, xúc tiến, quảng bá du lịch.

Rõ ràng cơ hội cho sự phát triển quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lĩnh

vực du lịch còn đang ở phía trƣớc. Ngoài những cơ hội chung cho sự phát triển các

64

quan hệ kinh tế, thƣơng mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc nhƣ tăng trƣởng kinh tế

khá cao, ổn định chính trị, tăng cƣờng ngoại giao, tăng cƣờng đầu tƣ, mở rộng giao

lƣu văn hoá, còn có một số cơ hội đặc thù cho sự phát triển quan hệ du lịch song

phƣơng giữa hai nƣớc. Đó là:

Thứ nhất là, với 48,85 triệu dân, Hàn Quốc là thị trƣờng du lịch có nhiều

tiềm năng đối với các nƣớc Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Với

mức GDP bình quân đầu ngƣời tƣơng đối cao so với các nƣớc trong khu vực,

đạt khoảng 20.500 USD/ năm, cho phép nhiều ngƣời Hàn Quốc đi du lịch ra

nƣớc ngoài hàng năm. Theo thống kê của Bộ Văn hoá - Du lịch Hàn Quốc,

năm 2006 có 9.084.476 ngƣời Hàn Quốc đi du lịch nƣớc ngoài, trong đó 60%

đến các nƣớc Châu Á. Khách du lịch Hàn Quốc thƣờng ƣa thích các chuyến du

lịch tầm ngắn và trung bình hơn những chuyến du lịch tầm xa đến châu Âu hoặc

châu Mỹ. Chính vì vậy, số lƣợng khách du lịch Hàn Quốc đến Nhật Bản và

Trung Quốc chiếm gần 2/3 tổng số khách du lịch Hàn Quốc ra nƣớc ngoài. Xu

hƣớng này càng đƣợc củng cố trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều phức

tạp thời gian vừa qua. Việt Nam ở khoảng cách tƣơng đối gần với Hàn Quốc, do

vậy có điều kiện thuận lợi để khai thác thị trƣờng này. Hơn 43,5% số khách du lịch

Hàn Quốc ra nƣớc ngoài có mục đích thăm quan. Số khách du lịch là nam giới

nhiều hơn nữ giới, với tỷ lệ tƣơng ứng là 59/41, nhƣng xu hƣớng khách du lịch

Hàn Quốc là nữ giới ngày càng tăng nhanh.

Theo số liệu thống kê của Ban thƣ ký ASEAN, năm 2006 có 2.458.759

khách du lịch Hàn Quốc đến các nƣớc Đông Nam Á, trong đó Việt Nam chỉ đón

đƣợc 339.276 khách, chiếm khoảng 13,8%. Trong khi đó, năm 2006 Thái Lan đã

đón đƣợc 716.580 khách du lịch Hàn Quốc. Nhƣ vậy, cơ hội để Việt Nam cạnh

tranh chiếm lĩnh thêm thị phần khách du lịch Hàn Quốc là rất lớn, nếu có các

biện pháp tích cực thu hút khách.

Thứ hai, nguồn tài nguyên du lịch của Việt Nam rất phong phú, đa dạng,

hấp dẫn, chƣa đƣợc khám phá hết đối với khách du lịch Hàn Quốc. Với tài

nguyên nhiên thiên nhiên trải rộng trên nhiều địa hình - biển, rừng, sống, hồ, đồi

núi, các giá trị văn hoá đặc sắc, mang đậm tính truyền thống, lịch sử từ lâu đời,

65

Việt Nam đang nổi lên nhƣ một điểm du lịch mới, có sức thu hút, hấp dẫn khách

du lịch từ mọi nơi trên thế giới, trong đó có khách du lịch Hàn Quốc. So với các

nƣớc trong khu vực, Việt Nam là một vùng đất còn khá mới lạ đối với nhiều ngƣời.

Điều này đã gây sự tò mò, thích thú đƣợc khám phá của khách du lịch. Theo kết

quả một số nghiên cứu thị trƣờng, mục đích chủ yếu của khách du lịch Hàn Quốc

thƣờng nhằm: tham quan (chiếm 43,5% trong tổng số khách đi du lịch), thƣơng

mại (chiếm 6,6%), công vụ (chiếm 16,4%), nghiên cứu, học tập (chiếm 9,3%).

Việt Nam có nhiều thế mạnh về tài nguyên du lịch để thoả mãn theo cơ cấu nhu

cầu nêu trên.

Thứ ba, Việt Nam đang đƣợc công nhận là điểm đến thân thiện và an toàn

trong khu vực. Đây có thể coi là một cơ hội rất lớn để phát triển du lịch, đặc biệt là

thị trƣờng du lịch Hàn Quốc. Trong bối cảnh tình hình thế giới đang diễn ra phức

tạp, rất mất ổn định ở nhiều quốc gia và khu vực đã dẫn đến tâm lý lo ngại cho

khách du lịch. Do vậy, Việt Nam đã trở thành điểm đến lý tƣởng, đáp ứng tốt yêu

cầu về an toàn đối với các đối tƣợng khách du lịch. Thực tế cho thấy sau một loạt

các vụ khủng bố xảy ra tại các nƣớc trong khu vực thì khách du lịch tới các nƣớc

này đều giảm đi, trong khi đó khách du lịch Hàn Quốc lại tăng mạnh tại Việt Nam.

Thứ tư, khả năng thanh toán của khách du lịch Hàn Quốc tƣơng đối cao so với các

thị trƣờng khác. Trung bình một khách du lịch Hàn Quốc tiêu 1.786 USD cho một chuyến

du lịch, không kể chi phí cho vận chuyển quốc tế. Do vậy, cơ hội để du lịch Việt Nam

tăng nguồn thu từ khai thác thị trƣờng khách du lịch Hàn Quốc là rất lớn.

Thứ năm, chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010 đã xác định

Hàn Quốc là một trong những thị trƣờng du lịch trọng điểm. Trên cơ sở nhận thức

đƣợc vai trò quan trọng của thị trƣờng Hàn Quốc, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã kiến

nghị với chính phủ cho phép miễn thị thực nhập cảnh đối với khách du lịch Hàn Quốc.

Đây là cơ hội tạo sự đột biến về số lƣợng khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam trong

thời gian tới.

Và thứ sáu, mối quan hệ thƣơng mại và đầu tƣ với Hàn Quốc đƣợc mở rộng là cơ

hội tốt để du lịch phát triển. Do số lƣợng các dự án đầu tƣ trực tiếp của Hàn Quốc vào

Việt Nam tăng lên, nên số khách Hàn Quốc đến Việt Nam vì mục đích tìm hiểu thị

66

trƣờng, buôn bán, làm ăn ngày càng tăng lên.

Những thách thức sẽ phải đối mặt

Phát triển du lịch giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong thời gian tới đứng trƣớc

một số thách thức chủ yếu sau:

Thứ nhất, tình hình thế giới có nhiều bất ổn, không lƣờng trƣớc đƣợc do chiến

tranh cục bộ, nạn khủng bố, dịch bệnh, thiên tai xảy ra liên tiếp, tác động tiêu cực đến

hoạt động du lịch, làm giảm nhu cầu đi du lịch nƣớc ngoài của ngƣời Hàn Quốc.

Hoạt động du lịch rất nhạy cảm trƣớc những biến động của tình hình thế giới và

khu vực. Do vậy, sự thành công của phát triển du lịch phụ thuộc nhiều vào các

nhân tố khó có thể kiểm soát đƣợc.

Thứ hai, trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mức sống của ngƣời dân còn

thấp, ảnh hƣởng đến khả năng thoả mãn nhu cầu của khách du lịch Hàn Quốc,

đặc biệt là chất lƣợng hàng hoá, dịch vụ phục vụ khách du lịch.

Thứ ba, cạnh tranh du lịch ngày càng quyết liệt trong bối cảnh quá trình toàn

cầu hoá đƣợc đẩy mạnh. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam

còn kém hơn so với các nƣớc trong khu vực. Các nƣớc này đã áp dụng nhiều chính sách

có hiệu quả để tăng thị phần từ thị trƣờng khách du lịch Hàn Quốc.

Thứ tư, tài nguyên môi trƣờng du lịch Việt Nam tuy phong phú, có sức thu hút

lớn đối với khách du lịch Hàn Quốc, song đang bị suy giảm nghiêm trọng do khai

thác, sử dụng thiếu hợp lý. Nếu không biết cách bảo vệ, giữ gìn và tôn tạo thì du

lịch Việt Nam sẽ đánh mất tính hấp dẫn của mình, khó có thể thu hút đƣợc

khách du lịch.

Và thứ năm, bản thân những yếu kém của du lịch Việt Nam nhƣ xuất phát

điểm thấp hơn so với các nƣớc trong khu vực, trình độ quản lý, kinh doanh du

lịch còn nhiều bất cập, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển… cũng là một trong

những thách thức lớn đối với sự phát triển thị trƣờng khách du lịch Hàn Quốc.

2.3.2. Sự phát triển quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lĩnh vực hợp tác

lao động.

Hợp tác lao động là một nội dung quan trọng trong quan hệ kinh tế Việt

Nam - Hàn Quốc thời gian qua. Để làm rõ mối quan hệ này cần tìm hiểu đặc điểm

67

của thị trƣờng lao động Hàn Quốc, thực trạng của tình hình này và từ đó đề ra các

giải pháp phù hợp cho thời gian tới.

a. Đặc điểm của thị trường lao động Hàn Quốc và sự gặp gỡ giữa nhu

cầu và lợi ích của mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lĩnh vực hợp tác

lao động.

Nhìn chúng, số ngƣời tham gia vào lực lƣợng ở Hàn Quốc khá cao hiện

vào khoảng 22 triệu ngƣời. Lao động nƣớc này có trình độ kỹ năng cao và đƣợc

đào tạo tốt. Trên 73% tổng số lao động có trình độ học vấn trung học và 58% - có

trình độ trung cao. Hàn Quốc là nƣớc có tỷ lệ những ngƣời có trình độ tiến sĩ trong

tổng dân số cao nhất thế giới. Hiện tại, trên 87% số ngƣời trong lực lƣợng làm việc

trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Vào những năm 1950 và 1960, với mức lƣơng thấp,

giờ làm việc kéo dài, Hàn Quốc đã trở thành một địa điểm lý tƣởng cho việc

phát triển các ngành nghề cần nhiều lao động. Hơn nữa, lực lƣợng lao động của

Hàn Quốc có danh tiếng, vì làm việc chất lƣợng cao, năng suất hiệu quả và trình

độ giáo dục tốt. Thêm vào đó, so với các quốc gia công nghiệp khác, nhƣ Mỹ, Nhật

Bản và Đức, mức lƣơng của Hàn Quốc đƣợc xem là rất thấp (mức lƣơng công nhân

trung bình là 100 USD, thấp hơn cả của Ấn Độ). Cộng với sự chuyển hƣớng từ

chiến lƣợc công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang hƣớng về xuất khẩu vào

đầu những năm 1960, Hàn Quốc đƣợc coi là một địa điểm hấp dẫn các nhà đầu

tƣ nƣớc ngoài lúc đó.

Sau một thời gian ngắn thực hiện chiến lƣợc công nghiệp hoá hƣớng về

xuất khẩu, nền kinh tế Hàn Quốc bắt đầu cất cánh. Tăng trƣởng kinh tế của Hàn

Quốc với tốc độ cao và kèm theo đó là sự gia tăng tiền lƣơng của ngƣời lao

động. Thông thƣờng, đầu những năm 1990, mức lƣơng tháng của những ngƣời

quản lý trung bình và các chuyên gia vào khoảng từ 1.392 USD tới 1.671 USD,

tuỳ thuộc vào từng ngành công nghiệp, công ty, tổ chức, cá nhân hay mức thâm

niên công tác. Những ngƣời quản lý cấp cao và những ngƣời điều hành có đƣợc

mức lƣơng cao hơn, khoảng 4.177 USD – 5.570 USD. Họ còn nhận đƣợc những

quyền lợi khác, nhƣ có ô tô, tài xế riêng, thành viên câu lạc bộ và đƣợc tự do chi

tiêu những khoản nhất định trong số tiền của công ty mà không phải liệt kê từng

68

khoản cho những khoản chi tiêu đó. Đến năm 2002, mức lƣơng trung bình tháng

của các công ty có từ 5 công nhân trở lên là 1.630 USD, tăng khoảng 11,2% so

với năm 2001. Cũng trong năm này, mức tăng lƣơng cao nhất là trong khu vực

chế tạo (22,8%), tiếp đến là khu vực dịch vụ xã hội (19%), cao hơn nhiều so

với mức tăng trung bình của toàn bộ lực lƣợng lao động (15,7%). Việc mức

lƣơng gia tăng đã giúp cải thiện đáng kể đời sống sinh hoạt của ngƣời lao động,

song đồng thời nó làm cho Hàn Quốc không còn lợi thế cạnh tranh trong nhiều

ngành công nghiệp, đặc biệt là những ngành có hàm lƣợng lao động cao.

Bên cạnh việc tiền lƣơng leo thang, thị trƣờng lao động Hàn Quốc còn rơi

vào tình trạng khan hiếm lao động. Năm 1991, Bộ Lao động của Hàn Quốc đã

ƣớc tính sự khan hiếm lao động của quốc gia là 220,000 lao động trong ngành

sản xuất và 30.000 lao động kỹ thuật. Tính từ đầu năm 1992, các xí nghiệp vừa và

nhỏ ở Hàn Quốc tính bình quân thiếu 25% lao động. Do thiếu lao động và giá công

lao động tăng cao nên nhiều xí nghiệp vừa và nhỏ bị phá sản, năng lực cạnh

tranh quốc tế giảm. Theo tổ chức quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc

(SMBA), qua một cuộc điều tra 1029 doanh nghiệp vừa và nhỏ với biên chế từ 5

- 300 lao động cho thấy, tỷ lệ thiếu hụt nhân công vào khoảng 9,41 %. Nếu tính

cho toàn bộ 130.000 SMBA của Hàn Quốc, con số lao động cần bổ sung lên đến

201.200 ngƣời. Đến năm 2006, tỷ lệ thiếu hụt nhân công vẫn đang leo thang - nó ở

mức 9,36%, so với 3,98% năm 2005.

Có một số nguyên nhân tạo nên sự khan hiếm lao động ở Hàn Quốc.

Trước hết, là do ảnh hƣởng của chính sách hạn chế tăng dân số. Họ theo đuổi

chính sách này một cách mạnh mẽ, có hệ thống và coi đó nhƣ là một phần của

chiến lƣợc kinh tế tổng quát. Chính phủ Hàn Quốc còn chủ trƣơng tạo thêm

công ăn việc làm cho phụ nữ ở tuổi sinh sản. Điều đó đã làm gia tăng số phụ nữ

tham gia vào lực lƣợng lao động và đồng thời cũng làm giảm tỷ lệ sinh sản của họ.

Thứ hai, với thất nghiệp ở mức thấp 3,7% trong giai đoạn 2000-2006, ngƣời dân

Hàn Quốc có xu hƣớng tránh làm các công việc 3 D “dirty - bẩn; dangerous -

nguy hiểm; difficult - khó khăn). Điều này đã làm cho nền kinh tế của Hàn Quốc

phải trải qua một sự khan hiếm về lao động, đặc biệt trong ngành chế tạo. Bên cạnh

69

đó, do nền kinh tế Hàn Quốc phát triển nhanh đã làm cho nhu cầu sử dụng lao

động tăng mạnh ở các ngành nhƣ may mặc, xây dựng, đóng tàu, làm hàng xuất

khẩu... chủ yếu tập trung nhiều nhất ở các xí nghiệp vừa và nhỏ, điều này là một

trong những lý do khiến cho nền kinh tế của Hàn Quốc đã phải đối mặt với vấn

đề khan hiếm lao động. Thứ ba, suy giảm sự tham gia của lực lƣợng lao động trẻ

vào thị trƣờng và vấn đề già hoá lực lƣợng lao động. Ngay từ giữa những năm

1970, mức độ tham gia của các lao động ở độ tuổi 15-19 vào thị trƣờng lao động đã

bị giảm đi. Vào những năm 2000, trong khi tỷ lệ thất nghiệp trung bình của cả

nƣớc khoảng 3,7%, thì của lao động trẻ từ 7-8%. Nguyên nhân chủ yếu là do thời

gian đi học và mong muốn có đƣợc trình độ học vấn cao của thanh niên và suy

giảm cơ hội tìm kiếm việc làm theo giờ (part time). Hàn Quốc đang phải đối mặt

với vấn đề già hoá lực lƣợng lao động. Tỷ lệ ngƣời lao động ở độ tuổi từ 55 trở lên

đã tăng từ 10% năm 1990 lên 19% năm 2005.

Để giúp đỡ giải quyết vấn đề khan hiếm lao động, chính phủ Hàn Quốc đã

đƣa ra một chƣơng trình cho phép ngƣời nƣớc ngoài vào Hàn Quốc làm việc từ

1 đến 2 năm và một vài năm gần đây chính phủ Hàn Quốc đã tạm dừng việc cƣỡng

chế xuất cảnh đối với công nhân nƣớc ngoài làm việc bất hợp pháp tại Hàn

Quốc. Tuy nhiên, tỷ lệ thiếu hụt lao động vẫn đang ngày một trở nên nghiêm

trọng. Theo ý kiến của ông Park Soong Hee, Chủ tịch Liên đoàn công nghiệp

vừa và nhỏ của Hàn Quốc, hoạt động với tƣ cách là phái viên của chính phủ, tình

trạng thiếu lao động ở những xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ là rất gay gắt. Nếu

nhƣ không cho nhập cƣ công nhân ngƣời nƣớc ngoài thì một số lớn xƣởng máy sẽ

buộc phải đóng cửa hoặc phải chuyển cơ sở ra nƣớc ngoài.

Vấn đề đặt ra là Hàn Quốc thiếu lao động loại gì, trình độ nhƣ thế nào?

Vào đầu những năm 1990, thiếu hụt lao động chủ yếu xảy ra trong khu vực sản

xuất vật chất, trong các SME và với trình độ kỹ năng thấp. Còn trong những năm

gần đây, đặc biệt khi chuyển sang nền kinh tế tri thức, nhu cầu về lao động có

trình độ kỹ năng cao dần dần đƣợc tăng lên. Vì thế, Hàn Quốc không chỉ có nhu cầu

nhập khẩu lao động kỹ năng thấp, mà cả lao động có kỹ năng cao.

70

Nhƣ vậy, Hàn Quốc có nhu cầu nhập khẩu lao động nƣớc ngoài. Còn nƣớc

ngoài cũng có nhu cầu xuất khẩu lao động vào Hàn Quốc. Hãy làm phép so sánh mức

lƣơng trung bình của Hàn Quốc với các nƣớc khác trong khu vực. Trong khi mức

lƣơng trung bình của Hàn Quốc trong một vài năm gần đây là 1.800 USD, thì mức

lƣơng trung bình của một ngƣời có trình độ đại học ở Philippin chỉ là 150 USD,

Malaixia 170-250 USD/tháng, Thái Lan là 200 baht một ngày (5,41 USD), tức

khoảng 162,3 USD/tháng, Việt Nam còn thấp hơn nhiều. Thực tế đó đã làm xuất

hiện nhu cầu xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc từ các nƣớc nói trên. Do vậy, có

thể nói rằng nhu cầu về nhập khẩu lao động, đặc biệt là lao động giản đơn từ nƣớc

ngoài, của Hàn Quốc phần nào sẽ đƣợc đáp ứng thông qua trao đổi lao động song

phƣơng với Việt Nam và các nƣớc khác có mức lƣơng thấp hơn. Qua đó, Việt

Nam thu đƣợc một số lợi ích nhất định - giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho

ngƣời lao động, tăng thu nhập cho họ, lại có đƣợc nguồn thu ngoại tệ tiềm năng.

b. Chính sách của Hàn Quốc đối với ngƣời lao động nƣớc ngoài

Từ năm 1992, Hàn Quốc bắt đầu chấp nhận lao động nhập cƣ. Có điều,

theo Luật nhập cƣ và di cƣ Hàn Quốc, chỉ có những ngƣời lao động nƣớc ngoài có

kỹ năng nhƣ chuyên gia, nhà nghiên cứu... mới có thể làm việc tại nƣớc này, còn

những ngƣời lao động không kỹ năng chỉ đƣợc phép tham gia vào Chƣơng trình

Tu nghiệp sinh. Cũng theo luật này, những ngƣời lao động bất hợp pháp ở Hàn

Quốc là những ngƣời lao động ở lại quá thời hạn cho phép, những ngƣời nhập

cƣ không đăng ký. Những ngƣời này không những bị phạt tiền, tuỳ theo thời gian

ở lại quá hạn, mà còn phải chịu mọi phí tổn liên quan đến chuyển hồi hƣơng.

Chính sách nhập cƣ của Hàn Quốc tập trung giải quyết một số vấn đề lớn là

đƣa ra các biện pháp khuyến khích việc nhập cƣ của các lao động nƣớc ngoài có

kỹ năng, thể chế hoá việc nhập cƣ của những ngƣời lao động không kỹ năng,

ngăn chặn dòng ngƣời di cƣ bất hợp pháp và tạo điều kiện cho ngƣời lao động

nƣớc ngoài hoà nhập vào cộng đồng ngƣời Hàn Quốc. Đối với những ngƣời lao

động hợp pháp ở Hàn Quốc, bao gồm cả tu nghiệp sinh, chính phủ đã tạo điều

kiện cho họ đƣợc nhập cảnh và đƣợc hƣởng rất nhiều quyền lợi, đồng thời đƣợc

bảo hộ bởi một hành lang pháp lý rất chặt chẽ. Họ đƣợc trả lƣơng một cách đầy

71

đủ, không phải trả tiền thuê nhà, tiền ăn và nhiều loại chi phí khác và đƣợc tham

gia các loại bảo hiểm. Đối với lao động có kỹ năng, chính sách đƣợc nới lỏng

đáng kể, bởi quan điểm cho rằng đây là lực lƣợng bổ sung rất tốt cho thị trƣờng

lao động Hàn Quốc. Thời gian lƣu trú của họ tại Hàn Quốc hầu nhƣ không bị

giới hạn, các thủ tục hành chính liên quan đến việc nhập cảnh và đăng ký lƣu trú

đều đƣợc đơn giản hoá. Còn đối với lao động không kỹ năng, chính sách đƣợc

thắt chặt hơn, bởi quan điểm cho rằng vƣợt qua một giới hạn nhất định, lực

lƣợng này sẽ giữ vai trò thay thế lao động trong nƣớc, tức làm cho họ bị mất việc

làm. Chính vì thế, việc nhập khẩu lao động không kỹ năng đƣợc thực hiện thông

qua Chƣơng trình Tu nghiệp sinh, đƣợc đặt dƣới sự quản lý của Liên đoàn các

nhà kinh doanh nhỏ Hàn Quốc (KFSB). Cơ quan này quyết định số lƣợng lao

động nƣớc ngoài đƣợc nhập cảnh vào Hàn Quốc thông qua Chƣơng trình tu

nghiệp sinh, phân bổ cho các nƣớc đƣợc phép và vào các ngành nghề có nhu

cầu. Hiện tại, 15 nƣớc (trong đó có Việt Nam) đƣợc tham gia vào chƣơng trình

này. Theo Luật Tiêu chuẩn Lao động và Luật Bảo hiểm Tai nạn Lao động và

Lƣơng tối thiểu, các tu nghiệp sinh đƣợc hƣởng chế độ bảo hiểm y tế, đƣợc áp

dụng hệ thống lƣơng tối thiểu và bảo hiểm tai nạn lao động. Do thời hạn tối đa

đƣợc ở Hàn Quốc là 3 năm và nguy cơ bị mất việc làm là rất thấp, nên những

ngƣời này không đƣợc hƣởng trợ cấp thất nghiệp và hƣu trí.

Vấn đề lao động nƣớc ngoài bất hợp pháp, chiếm khoảng 64% tổng số lao

động nƣớc ngoài, hiện đang rất bức xúc và gây nhiều tranh cãi cho chính phủ Hàn

Quốc. Quan điểm chung của Hàn Quốc là không ủng hộ dòng lao động nƣớc

ngoài nhập cƣ bất hợp pháp, bởi lẽ sự có mặt của họ buộc chính phủ phải tăng

thêm chi phí quản lý, làm cho những ngƣời lao động trong nƣớc có nguy cơ bị mất

việc làm, những ngƣời chủ thì có cơ hội để trở thành những kẻ ăn không do giảm

đƣợc chi phí so với việc thuê nhân công bản địa. Trƣớc khủng hoảng 1997-1998,

chính phủ Hàn Quốc thƣờng áp dụng hình thức phạt tiền và bắt buộc phải hồi hƣơng

đối với các lao động bất hợp pháp. Sau khủng hoảng, chính phủ Hàn Quốc coi cải

cách thị trƣờng lao động là một trong bốn lĩnh vực chính của chƣơng trình phục

hồi kinh tế, nhằm nâng cao tính linh hoạt của thị trƣờng này và đáp ứng những

72

đòi hỏi của nền kinh tế hiện đại. Để giải quyết hiệu quả hơn vấn đề lao động

nƣớc ngoài bất hợp pháp, Luật Cấp phép Lao động đã đƣợc Quốc hội Hàn Quốc

thông qua ngày 31/7/2003, đƣợc Tổng thống phê chuẩn vào tháng 9/2003, với hai

nội dung chính là Cơ chế cấp phép lao động và các giải pháp phân loại và chấp

nhận lao động nƣớc ngoài đang cƣ trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc. Theo tinh thần

của Luật này, từ tháng 8/2004, lao động nƣớc ngoài tại thị trƣờng lao động Hàn

Quốc làm việc trong cùng điều kiện và đƣợc hƣởng quyền lợi nhƣ lao động sở tại.

Trên nền tảng đó, nhiều chính sách liên quan đến lao động nhập cƣ nói chung và

lao động bất hợp pháp nói riêng đã và đang đƣợc sửa đổi, tạo cơ hội mới cho các

doanh nghiệp xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc, trong đó có Việt Nam.

c. Thực trạng xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc

Để giải quyết vấn đề việc làm cho ngƣời lao động, từ những năm 1980,

chính phủ Việt Nam đã thực hiện việc xuất khẩu lao động ra nƣớc ngoài. Ngoài

các thị trƣờng xuất khẩu lao động truyền thống trƣớc đây nhƣ Libi, I rắc, Liban,

Arập, Iêmen, Liên Xô (cũ) và Đông Âu, lao động Việt Nam đã đƣợc xuất khẩu

sang một số nƣớc trong khu vực Đông Á nhƣ Nhật Bản, Đài Loan, Singapore,

Malaixia, Lào, Hàn Quốc…

So với các nƣớc khác trong khu vực, chính phủ Việt Nam và Hàn Quốc đã sớm

quan tâm đến việc phát triển mối quan hệ hợp tác về lao động. Đầu những năm 1990,

nhiều nhà doanh nghiệp của Hàn Quốc đã vào Việt Nam để tìm hiểu các chính sách đầu

tƣ và sử dụng lao động Việt Nam. Một số công ty của hai nƣớc đã ký kết nhiều hợp

đồng lao động và đƣa đƣợc khoảng 2.500 lao động sang làm việc tại Hàn Quốc ở

các tàu cá, tàu vận tải và các công trƣờng xây dựng của công ty Hàn Quốc tại Libya.

Bảng 2.10: Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc (1995-2006)

Đơn vị: ngƣời

Năm Số lao động

1995 5.674

1996 6.275

1997 4.880

73

1998 1.322

1999 4.518

2000 7.316

2001 3.910

2002 1.190

2003 4.336

2004 4.783

2005 12.102

2006 9.000

Nguồn: Cục Quản lý Lao động ngoài nƣớc.

Hàn Quốc là một trong những thị trƣờng thu hút nhiều lao động xuất khẩu nhất

của Việt Nam. Từ năm 1993 đến nay, lao động của Việt Nam có mặt tại Hàn Quốc

khoảng 60.000 lao động, trong đó trên 40.000 làm việc tại các xí nghiệp vừa và nhỏ và

khoảng 6.500 lao động là thuyền viên tàu cá. Trong năm 2006, Hàn Quốc tiếp nhận

khoảng 102.000 lao động nƣớc ngoài. Trong đó, chƣơng trình cấp phép lao động tiếp

nhận 70.000 lao động và chƣơng trình tu nghiệp sinh tiếp nhận khoảng 32.000 ngƣời.

Thái Lan có số lao động theo chƣơng trình này là nhiều nhất với 11.000 ngƣời, tiếp đến

là Phillíppin với 10.000 ngƣời và Việt Nam là 9000 ngƣời. Số lƣợng lao động Việt

Nam sang tu nghiệp sinh tại Hàn Quốc tăng lên đáng kể từ 5.674 lao động năm 1995

lên 7.316 lao động năm 2000 và 9.000 lao động năm 2006. Đội quân lao động xuất

khẩu này đã mang lại nguồn ngoại tệ không nhỏ, bổ sung nguồn thu ngoại tệ cho đất

nƣớc. Năm nay, phía Hàn quốc không phân bổ chỉ tiêu tiếp nhận lao động, mà căn cứ

vào khả năng tiếp nhận của thị trƣờng. Theo nhận định của Trung tâm Lao động ngoài

nƣớc (Bộ Lao động – Thƣơng binh và Xã hội) thì nhiều khả năng năm 2007, sẽ có hơn

6.000 lao động Việt Nam sang làm việc tại thị trƣờng này.

Lao động xuất khẩu của Việt Nam sang Hàn Quốc chủ yếu dƣới dạng tu nghiệp

sinh công nghiệp hoặc thực tập sinh. Đây là chƣơng trình đối với lao động nƣớc ngoài

làm việc tại Hàn Quốc do Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ Hàn Quốc (KFSB) quản lý,

đƣợc áp dụng từ năm 1993 nhằm giải quyết việc thiếu nguồn lao động tại các ngành

74

công nghiệp huy hiểm, khó khăn và độc hại (3D), có mức lƣơng thấp, mà ngƣời lao

động sở tại không muốn làm. Các số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê cho thấy Việt

Nam đứng thứ ba (sau Trung Quốc và indonexia) về số chỉ tiêu tu nghiệp sinh đƣợc

KFSB phân bổ. Thông thƣờng, mức lƣơng bình quân của mỗi ngƣời lao động Việt Nam

tại Hàn Quốc khoảng từ 750 - 1200 USD/tháng. Một mức lƣơng khá hấp dẫn đối với

ngƣời lao động Việt Nam, đặc biệt với những ngƣời từ nông thôn đi tìm việc làm, những

ngƣời có trình độ học vấn thấp chủ yếu tìm công việc sử dụng đến nhiều sức lao động.

Bảng 2.11: Lao động phân theo ngành nghề tại Hàn Quốc (1995-2006)

Đơn vị: ngƣời, %

Ngành nghề Số lao động Tỷ lệ

Công nghiệp 42.105 74,78

Xây dựng 1.954 3,47

Giao thông vận tải 5.495 9,76

Nông nghiệp 214 0,38

Lâm nghiệp 0 0,00

Thƣơng mại và dịch vụ 0 0,00

Thuỷ sản 6.514 11,57

Hàng không 24 0,04

Y tế 0 0,00

Ngành khác 0 0,00

Tổng cộng 56.306 100

Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nƣớc

Hiện có 8 công ty Việt Nam đƣợc công nhận là các công ty phái cử, đảm

nhận việc tuyển chọn và đƣa ngƣời sang lao động tại Hàn Quốc. Các công ty

đó là VINACONEX, SOVILACO, LOD, SULECO, TRACIMEXCO, OLECO,

RACODI, IMS. Các số liệu cung cấp cho chúng ta thông tin về chỉ tiêu đƣợc

phân bổ, số tu nghiệp sinh đã nhập cảnh vào Hàn Quốc, số hiện đang còn làm

việc tại nƣớc này, cũng nhƣ số lao động bỏ hợp đồng trốn ra ngoài. Qua đó,

có thể thấy rằng tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng trốn ra ngoài của Việt Nam là

75

khá cao (58,4%). Họ là những ngƣời tham gia vào lực lƣợng lao động nƣớc

ngoài bất hợp pháp tại Hàn Quốc và là đối tƣợng điều chỉnh của Luật Cấp

phép Lao động. Căn cứ vào hoạt động của các công ty phái cử này, vào giữa

năm 2005, KFSB đã chấm điểm, xếp hạng các công ty phái cử của Việt

Nam. SULECO đạt điểm cao nhất (85,41 điểm) và đƣợc xếp loại B, các

công ty còn lại đều xếp loại C.

Để chuẩn bị cho việc thực hiện Luật Cấp phép Lao động, chính phủ Hàn

Quốc đã có chính sách ra hạn cƣ trú cho số lao động nƣớc ngoài có thời gian

làm việc dƣới 4 năm tại nƣớc này. Bộ Ngoại giao và Bộ Lao động, Thƣơng binh

và Xã hội Việt Nam đã phối hợp vận động, khuyến khích ngƣời lao động thực

hiện đúng quy định của Hàn Quốc. Đến ngày 31/10/2003, tức ngày cuối cùng

của thời hạn đăng trình để xin cấp phép lao động đối với những ngƣời lao động

bất hợp pháp tại Hàn Quốc, đã có 7.360 ngƣời đăng trình tại các Văn phòng

Lao động của Bộ Lao động Hàn Quốc trong tổng số 10.871 ngƣời có đủ điều

kiện đƣợc đăng trình. Đa số trong số này đã đƣợc cấp phép lao động ngay sau

đó. Số còn lại (822 ngƣời) đƣợc cấp phép sau khi bổ sung những giấy từ cần

thiết khác. Nhƣ vậy, khoảng trên 3.500 ngƣời lao động bất hợp pháp của Việt

Nam phải tự nguyện về nƣớc theo tinh thần của Luật Cấp phép Lao động (trong

số này không bao gồm những ngƣời nhập cảnh bất hợp pháp - cũng khoảng

trên 3.500 ngƣời nữa). Sự chấp hành nghiêm túc luật pháp nƣớc sở tại của ngƣời

lao động Việt Nam này đã đƣợc chính phủ Hàn Quốc đánh giá rất cao.

2.3.3. Nhận xét và đánh giá

Nhìn chung, xuất khẩu lao động Việt Nam - Hàn Quốc đã đóng vai trò quan

trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho ngƣời lao động Việt Nam, tăng

thu nhập cho họ và tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nƣớc và qua đó, càng thắt chặt

hơn tình hữu nghị giữa hai quốc gia. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, trong thời

gian qua xuất khẩu lao động của Việt Nam cũng bộc lộ một số yếu kém sau:

Thứ nhất, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Hàn Quốc chủ

yếu đƣợc thực hiện theo Chƣơng trình Tu nghiệp sinh. Hạn chế của chƣơng

trình này là nó luôn bị khống chế về số lƣợng, giới hạn về thời gian lao động ở

76

nƣớc ngoài của TNS và chịu sự quản lý rất chặt chẽ của chính phủ Hàn Quốc.

Thứ hai, tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng trốn ra ngoài khá cao. Khoảng

60% số lƣợng lao động phá vỡ hợp đồng để nộp đơn xin việc vào các doanh

nghiệp vừa và nhỏ có mức lƣơng cao hơn. Với mức này, Việt Nam đứng

thứ ba (sau Banglades và Myanmar) trong tổng số 15 nƣớc tham gia

Chƣơng trình Tu nghiệp sinh của Hàn Quốc và cũng cao hơn nhiều so với

tỷ lệ này của tu nghiệp sinh và thực tập kỹ thuật Việt Nam ở Nhật Bản

(trung bình năm khoảng trên 24,5% trong giai đoạn 2000-2006). Ngoài việc

để có đƣợc mức lƣơng cao hơn, lao động Việt Nam bỏ hợp đồng ra ngoài

còn bởi mâu thuẫn với chủ sử dụng lao động do bất đồng ngôn ngữ, bất

mãn vì cách cƣ xử của chủ nhƣ bị chửi mắng, đánh đập; không muốn hoặc

không chịu đƣợc các nội qui, quy định của xí nghiệp và yêu cầu công việc.

Hoặc họ muốn bỏ ra bên ngoài để đƣợc “tự do” hơn nhằm thoả mãn các

nhu cầu của cá nhân và cả việc muốn ở lại lâu hơn vì họ lo sợ rằng về nƣớc

thì không biết làm gì để sinh sống. Thực tế này không chỉ gây cản trở đến

các kế hoạch sản xuất của các xí nghiệp Hàn Quốc, mà còn làm tăng chi phí

quản lý xã hội đối với Hàn Quốc.

Thứ ba, ngƣời lao động Việt Nam chậm thích nghi với phong tục và

phong cách sống của ngƣời Hàn Quốc bởi vì Hàn Quốc là một quốc gia có tính

kỷ luật cao trong công việc.

Và thứ tư, chất lƣợng lao động xuất khẩu của Việt Nam còn rất hạn chế,

yếu nhất là trình độ ngoại ngữ, tay nghề chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của

công nghệ sản xuất hiện đại, ý thức kỷ luật kém. Không ít ngƣời lao động còn

quan niệm đi làm việc ở nƣớc ngoài là dễ kiếm tiền, khi không đạt đƣợc thì vô

kỷ luật, bỏ hợp đồng lao động.

Tất cả những tồn tại này đã cản trở không nhỏ cho việc xuất khẩu lao

động của Việt Nam sang Hàn Quốc. Nguyên nhân của những tồn tại này đƣợc bắt

nguồn từ cả hai phía - Việt Nam và Hàn Quốc : bao gồm quan điểm hạn chế nhập

khẩu lao động không kỹ năng của chính phủ Hàn Quốc sự đối xử có phân biệt của

các chủ sử dụng lao động Hàn Quốc giữa lao động nƣớc ngoài và lao động bản

77

địa (lƣơng của lao động nƣớc ngoài chỉ bằng khoảng 60-70% mức lƣơng của

ngƣời lao động Hàn Quốc), yếu kém trong việc tạo nguồn, tuyển chọn và quản lý lao

động xuất khẩu của Việt Nam .

Trong thời gian tới, để có thể nắm bắt đƣợc cơ hội gia tăng xuất khẩu lao

động vào thị trƣờng Hàn Quốc - nơi vẫn sẽ tiếp tục bị thiếu hụt cả lao động

không và có kỹ năng, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức khác nhau. Đó

là: a) quan điểm của ngƣời lao động Hàn Quốc về lao động nhập cƣ, khi họ coi

những ngƣời này là nguyên nhân làm hạ thấp mức lƣơng và các điều kiện lao động

khác của họ, làm cho họ phải đối mặt với nguy cơ bị mất việc làm và bị rơi vào

xung đột do bất đồng về văn hoá; b) Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ

phía các nƣớc khác tham gia xuất khẩu lao động vào thị trƣờng Hàn Quốc và c) Việt

Nam phải nâng cao chất lƣợng nguồn lao động xuất khẩu, cả về kỹ năng, trình độ

ngoại ngữ và tác phong làm việc trong nền kinh tế hiện đại.

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM -

HÀN QUỐC GIAI ĐOẠN 1992 ĐẾN NAY

Qua nghiên cứu thực trạng quan hệ song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc trong

lĩnh vực thƣơng mại, đầu tƣ, du lịch và lao động trong giai đoạn từ khi hai nƣớc thiết

lập quan hệ ngoại giao chính thức đến nay, có thể thấy rằng mối quan hệ này đã đƣợc

phát triển trong một bối cảnh hết sức thuận lợi, nên đã đạt đƣợc những thành tựu đáng

khích lệ. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của mối quan hệ này là Việt Nam luôn ở trong

tình trạng nhập siêu trong cán cân thƣơng mại và mức nhập siêu ngày càng tăng.

Vào những năm 1990, tiềm lực kinh tế của Hàn Quốc ngày càng lớn

mạnh, trình độ công nghệ ngày càng đƣợc cải thiện, bối cảnh trong nƣớc có

những biểu hiện bất lợi cho việc duy trì khả năng cạnh tranh vì tiền lƣơng của

ngƣời lao động đã tăng khá cao, còn Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới nền

kinh tế, tài nguyên thiên nhiên khá phong phú, lao động dồi dào và rẻ, nhƣng

lại thiếu vốn và công nghệ cần thiết để thực hiện công nghiệp, hiện đại hoá

đất nƣớc. Trong điều kiện đó, nhu cầu tìm kiếm tài nguyên và lao động rẻ cần

thiết cho sản xuất để đảm bảo duy trì khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất

khẩu của Hàn Quốc và lợi ích từ việc thu hút nguồn vốn và công nghệ bên ngoài

78

của Việt Nam cho quá trình công nghiệp hoá… đã là cơ sở thuận lợi để hai nƣớc

có thể hợp tác với nhau. Đó chính là nền tảng để hai nƣớc nhanh chóng thiết lập

quan hệ ngoại giao chính thức vào cuối năm 1992 và quan hệ song phƣơng giữa

hai nƣớc luôn nhận đƣợc sự ủng hộ từ phía hai chính phủ. Sự ủng hộ này đƣợc

thể hiện thông qua việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cần thiết để điều

tiết quan hệ giữa hai nƣớc, tổ chức các chuyến viếng thăm lẫn nhau của các

nhà lãnh đạo cấp cao hai nƣớc, tiến hành ngoại giao kinh tế, phát triển hợp tác

trong các lĩnh vực văn hoá - xã hội để tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân

tộc.

Trong thời gian qua, bối cảnh khu vực và quốc tế cũng có nhiều thuận lợi

cho sự phát triển quan hệ thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc. Sau

khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, hầu hết các nƣớc trong khu vực Châu Á

Thái Bình Dƣơng đều nhận thức rất rõ vai trò của việc phát triển liên kết kinh tế

khu vực, ASEAN đã có bƣớc tiến mới trên con đƣờng liên kết thông qua việc

thành lập AFTA, và gần đây nhất là cuộc thảo luận về sự hình thành khối liên

kết toàn Đông Á. Tất cả những hoạt động này đã làm cho các nƣớc trong khu

vực xích lại gần nhau hơn, trong đó bao gồm cả Việt Nam và Hàn Quốc.

Nhìn chung, quan hệ kinh tế Việt Nam Hàn Quốc giai đoạn 1992 đến

nay đã đƣợc phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trƣớc đây, quan

hệ chủ yếu chỉ đƣợc thực hiện thông qua trao đổi hàng hoá, nay nó đƣợc mở

rộng sang nhiều lĩnh vực khác, nhƣ đầu tƣ, du lịch, hợp tác lao động, trao đổi

văn hoá, đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác khoa học kỹ thuật... Trong mỗi lĩnh

vực, quan hệ đã và đang đƣợc cải thiện đáng kể, đƣợc thể hiện qua một số

kết quả cơ bản sau đây:

 Trong trao đổi hàng hoá, tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu và nhập

khẩu của Việt Nam sang và từ Hàn Quốc đạt khá cao, tƣơng ứng đạt

19,96%/năm và 20,2%/năm, tức gấp 4,93 lần và 5,45 lần trong giai đoạn

1992 đến nay. Tuy tốc độ tăng trƣởng này có thấp hơn so với giai đoạn trƣớc

1992 và thấp hơn một chút so với mức trung bình của cả nƣớc, nhƣng điều

79

đặc biệt là không có sự khác biệt lớn giữa tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu

và nhập khẩu. Điều đó thể hiện sự thành công ở mức khá cao của việc xuất khẩu

hàng hoá Việt Nam sang thị trƣờng Hàn Quốc. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã

đƣợc cải thiện đáng kể theo hƣớng giảm dần tỷ trọng của nguyên nhiên liệu,

hàng hoá có hàm lƣợng lao động cao (dệt may) và tăng dần hàng hoá chế biến

(thuỷ sản), chế tạo và có hàm lƣợng công nghệ trung bình trở lên (động cơ điện,

bóng điện tử, thiết bị viễn thông).

 Cả hai nƣớc Việt Nam và Hàn Quốc đều rất nỗ lực trong việc cải cách chính

sách thƣơng mại theo hƣớng tự do hoá trong khuôn khổ WTO, APEC và

ASEAN. Vì thế, các rào cản thƣơng mại đã đƣợc giảm đáng kể. Hiện tại đa

số các mặt hàng công nghiệp của Hàn Quốc có mức thuế nhập khẩu 8% và sẽ

có mức thấp hơn, đôi khi sẽ đƣợc miễn thuế, khi quy chế thành viên của

WTO đƣợc áp dụng. Riêng đối với hàng nông sản, Hàn Quốc vẫn có mức bảo

hộ khá cao, đồng thời tiến trình tự do hoá thƣơng mại trong lĩnh vực nông

nghiệp diễn ra khá chậm chạp. Lý do chủ yếu là vì số nghị sĩ đại diện cho nông

dân chiếm tỷ lệ khá cao trong nghị viện (khoảng 1/3), gây khó khăn cho quá

trình ra quyết định, đặc biệt khi nó liên quan đến vấn đề tự do hoá trong nông

nghiệp. Minh chứng cho nhận định này là sự chậm trễ trong việc thực hiện Hiệp

định Thƣơng mại Tự do Hàn Quốc - Chi Lê, bởi lẽ nó có chứa đựng những điều

khoản liên quan đến tự do hoá thƣơng mại hàng nông sản của Hàn Quốc. Trên thị

trƣờng Việt Nam, các rào cản thƣơng mại đã đƣợc giảm bớt khá nhiều. Chính

sách thƣơng mại của nƣớc ta đã đƣợc cải cách tích cực đáng kể và đƣợc minh

chứng bằng việc chúng ta đã trở thành thành viên chính thức của WTO.

 Trong quan hệ đầu tƣ, sau 15 năm phát triển, ngày nay Hàn Quốc đã là một

trong 5 nƣớc cung cấp FDI lớn nhất cho Việt Nam. Tính đến 7/2007, Hàn

Quốc đã có 1.458 dự án đầu tƣ vào Việt Nam, với tổng vốn đầu tƣ đăng ký là

trên 9,36 tỷ USD và vốn đầu tƣ thực hiện là trên 6 tỷ USD, đạt 64,1%, gần

bằng mức của Malayxia (68%), nhƣng cao hơn nhiều so với mức của Đài Loan

và Singapore (tƣơng ứng là 44,3% và 38%). Dòng đầu tƣ của Hàn Quốc

80

đƣợc phân bổ vào cả ba khu vực - công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, song

chủ yếu tập trung vào sản xuất vật chất, với trọng tâm là các ngành công

nghiệp nhẹ. So với các nƣớc Malayxia, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc là

nƣớc đầu tƣ lớn nhất vào các ngành công nghiệp nhẹ của Việt Nam - 378 dự

án với 1,6 tỷ USD vốn đăng ký. Vì thế, tuy tỷ lệ vốn đầu tƣ thực hiện

trong ngành này của Hàn Quốc thấp hơn so với ba nƣớc kia (39% so với

tƣơng ứng là 52,5%, 75% và 36,7%), nhƣng vốn thực hiện của nó so với tổng

vốn đăng ký của nƣớc đầu tƣ lớn nhất trong ba nƣớc so sánh (Đài Loan) chỉ

thấp hơn chút ít (629 triệu USD so với 832 triệu USD). Đáng ghi nhận là hầu hết

các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc đều đã có mặt ở Việt Nam và nhiều

dự án đầu tƣ của họ đã có giá trị rất lớn (hàng trăm triệu USD, cao hơn nhiều

so với mức trung bình của tất cả các dự án của Hàn Quốc đầu tƣ vào Việt Nam

là 6,2 triệu USD).

 Trong lĩnh vực trao đổi du lịch, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đƣợc phát

triển trong bối cảnh tăng trƣởng chung của toàn ngành du lịch Việt Nam

cũng nhƣ du lịch khu vực và thế giới, nên đã đạt đƣợc thành tựu khả quan.

Dòng khách du lịch từ Hàn Quốc tăng nhanh, đặc biệt trong những năm đầu thế

kỷ 21 - từ 75.000 khách năm 2001 lên 317.000 khách năm 2005 và 339.276

khách năm 2006. Hiện Hàn Quốc là thị trƣờng khách du lịch lớn thứ 5 trong 15 thị

trƣờng khách du lịch lớn nhất của Việt Nam và đƣợc coi là thị trƣờng trọng điểm

đầy tiềm năng trong tƣơng lai. Hàn Quốc đã có dự án đầu tƣ vào ngành du lịch

Việt Nam, điển hình nhất là Liên doanh khách sạn DAEWOO tại Hà Nội.

 Trong lĩnh vực trao đổi lao động, Hàn Quốc đã dành cho Việt Nam sự ƣu

tiên nhất định. Trong giai đoạn 1992-2006, Việt Nam đã đƣa sang Hàn Quốc

khoảng trên 40.000 lao động, trong tổng số 250.880 lao động đƣợc xuất khẩu

ra nƣớc ngoài. Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Hàn Quốc chủ yếu đi

theo Chƣơng trình Tu nghiệp sinh do Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ Hàn

Quốc (KFSB) quản lý. Việt Nam đƣợc KFSB phân bổ 18.770 chỉ tiêu trong tổng

số 130.000 chỉ tiêu TNS của cả chƣơng trình, chiếm 14,4%, đứng thứ 3 trong 15

81

nƣớc tham gia, sau Trung Quốc và Philippin. Lao động Việt Nam đƣợc đánh giá

là chăm chỉ, cần cù và có khả năng tiếp thu và thích ứng với các yêu cầu của

quá trình sản xuất.

 Các kết quả đạt đƣợc trong quan hệ song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc trên

bốn lĩnh vực đƣợc nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định cho sự phát

triển kinh tế của cả hai nƣớc. Về phía Hàn Quốc, các nhà kinh doanh nƣớc

này đã có điều kiện tiếp cận ngày càng sâu hơn vào thị trƣờng Việt Nam, có

thêm nhiều cơ hội đầu tƣ mới, tận dụng đƣợc nguồn tài nguyên và lao động

rẻ ở đây, qua đó tạo ra đƣợc những hàng hoá có sức cạnh tranh cung cấp lại

cho thị trƣờng Hàn Quốc và xuất khẩu sang các nƣớc thứ ba. Về phía Việt

Nam, chúng ta tiếp cận đƣợc với nguồn vốn, máy móc thiết bị, công nghệ cao

của Hàn Quốc thông qua các dự án đầu tƣ, tạo việc làm cho trên 82.000 lao

động Việt Nam làm việc trực tiếp trong các cơ sở có vốn đầu tƣ của Hàn

Quốc, hàng nghìn lao động khác tham gia gián tiếp trong các ngành khác, tạo

nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu tại chỗ (du lịch), xuất khẩu lao động và

gia tăng xuất khẩu từ các cơ sở có vốn đầu tƣ Hàn Quốc ra nƣớc ngoài và quay

trở lại Hàn Quốc.

Bên cạnh những thành tích rất đáng tự hào kể trên, mối quan hệ thƣơng

mại song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc giai đoạn 1992 đến nay cũng còn

nhiều tồn tại. Đó là:

 Việt Nam luôn ở trong tình trạng nhập siêu trong buôn bán với Hàn Quốc và

mức nhập siêu ngày càng gia tăng - từ 382 triệu USD năm 1993 lên hơn 3 tỷ

USD năm 2006. Nguyên nhân có nhiều, song chủ yếu là do dòng đầu tƣ Hàn

Quốc vào Việt Nam lớn, hạn chế trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, khả năng

tiếp cận thị trƣờng Hàn Quốc của Việt Nam.

 Sự phân bổ dòng FDI của Hàn Quốc ở Việt Nam có độ tập trung quá cao, chủ

yếu ở bốn tỉnh, thành là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình

Dƣơng. Quan hệ giữa chủ đầu tƣ Hàn Quốc và ngƣời lao động Việt Nam còn

xảy ra những bất đồng, chủ yếu do sự thiếu hiểu biết lẫn nhau về văn hoá.

82

 Lƣợng khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam tuy tăng nhanh, song vẫn

chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số khách quốc tế đến nƣớc ta. Trong lĩnh vực

này, Việt Nam chƣa có những chính sách khuyến khích đặc biệt đối với

khách du lịch từ Hàn Quốc. Nguyên nhân của tồn tại này là do công tác

nghiên cứu thị trƣờng của Việt Nam còn yếu, các sản phẩm du lịch chƣa

phong phú, công tác xúc tiến, quảng cáo du lịch kém hiệu quả, chất lƣợng

dịch vụ thấp, đồng thời chi phí lại cao hơn so với các nƣớc trong khu vực.

Ngoài ra, còn một nguyên nhân khách quan khác là khách du lịch Hàn Quốc có

mức chi phí thấp, chỉ khoảng 600 USD/khách, chủ yếu là chi phí đi lại, lƣu

trú và ăn uống. Họ khá tiết kiệm trong việc mua sắm.

 Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ hợp đồng

trốn ra ngoài làm việc ở Hàn Quốc khá cao, tới 59,2%, đứng thứ 3 trong tổng

số 15 nƣớc có TNS tại Hàn Quốc, sau Bangladesh và Myanmar. Việc làm

này chỉ mang lại lợi ích trƣớc mắt cho bản thân ngƣời lao động, nhƣng gây

bất lại nhiều cho hai quốc gia. Chính phủ Hàn Quốc phải tăng chi phí quản

lý, kế hoạch sản xuất của các cơ sở tiếp nhận lao động bị ảnh hƣởng, ngƣời

quản lý Hàn Quốc có nhận thức không tốt về kỷ luật lao động của ngƣời lao

động Việt Nam. Việc làm này còn gây khó khăn cho cơ quan quản lý lao

động của Việt Nam ở nƣớc ngoài, làm hạn chế thiện chí của nƣớc tiếp nhận

lao động đối với mở rộng quan hệ hợp tác, chính phủ Việt Nam không quản

lý đƣợc nguồn thu nhập ngoại tệ của ngƣời lao động.

Trên đây là một số tồn tại chính trong quan hệ song phƣơng Việt Nam -

Hàn Quốc. Trong số đó, điều gây lo ngại lớn nhất cho chính phủ Việt Nam là

vấn đề nƣớc ta bị nhập siêu ngày càng gia tăng trong quan hệ với Hàn Quốc.

Vấn đề là chúng ta đánh giá nhƣ thế nào về hiện tƣợng này, nó có thực sự đáng

lo ngại đến mức Việt Nam phải có các biện pháp bảo vệ thị trƣờng trong buôn

bán với Hàn Quốc hay chƣa? Để trả lời câu hỏi này, cần xem xét hiện tƣợng

nhập siêu trong cán cân thƣơng mại trong mối liên hệ với các bộ phận khác của

cán cân thanh toán Việt Nam - Hàn Quốc. Về mặt lý thuyết, cán cân thanh toán

83

của một nƣớc trong một khoảng thời gian nhất định bao gồm tài khoản vãng lai

và tài khoản vốn. Trong tài khoản vãng lai bao gồm tất cả giao dịch liên quan

đến trao đổi hàng hoá và dịch vụ hiện tại, còn đƣợc gọi là cán cân hữu hình và

vô hình. Còn trong tài khoản vốn bao gồm tất cả các giao dịch các tài sản nợ và

có, chính thức và tƣ nhân của một nƣớc với nƣớc ngoài. Hãy xem xét cụ thể

trong mối quan hệ thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc, dựa trên các

kết quả nghiên cứu trong bốn lĩnh vực là trao đổi hàng hoá, đầu tƣ Hàn Quốc

vào Việt Nam, trao đổi du lịch và lao động. Các kết quả nghiên cứu cho thấy

mối quan hệ trao đổi hàng hoá Việt Nam - Hàn Quốc là hai chiều, quan hệ đầu

tƣ là một chiều - từ Hàn Quốc sang Việt Nam, quan hệ du lịch chủ yếu là một

chiều - Hàn Quốc sang Việt Nam, và quan hệ trao đổi lao động cũng một chiều -

Việt Nam sang Hàn Quốc.

Với mô tả trên đây, có thể thấy rằng sức ép về mức thâm hụt thƣơng mại

trong quan hệ song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc đối với các nhà hoạch định

chính sách đã giảm đƣợc phần nào. Sau khi đã cân đối với các dòng vốn vào,

mức thâm hụt cán cân thanh toán của Việt Nam trong mối quan hệ với Hàn

Quốc đã giảm đƣợc khoảng 40%, tức còn khoảng 1,7 tỷ USD năm 2006. Mặc dù

đây chỉ là kết quả mô phỏng, do số liệu thống kê thực tế chƣa đầy đủ và

chuẩn xác, nhƣng nó đã cho chúng ta thấy rõ đƣợc rằng sức ép về mức thâm hụt

trong cán cân thƣơng mại của Việt Nam với Hàn Quốc chƣa nặng nề đến mức

phải áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hoá nhập khẩu từ Hàn Quốc để

bảo vệ thị trƣờng nội địa. Bởi suy cho cùng, mức nhập siêu chủ yếu do dòng

đầu tƣ từ Hàn Quốc tạo nên.

84

CHƢƠNG 3

TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM - HÀN QUỐC THỜI GIAN TỚI

3.1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT NAM -

HÀN QUỐC TRONG THỜI GIAN TỚI.

Ở mục 1.4 đã trình bày ba nhóm yếu tố tác động đến quan hệ kinh tế Việt

Nam - Hàn Quốc trong thời gian tới - các yếu tố toàn cầu, khu vực và quốc gia.

Điều này thể hiện ở khía cạnh chủ yếu sau:

 Tiềm năng phát triển kinh tế của Hàn Quốc với tƣ cách là một NIE của Châu

Á tiếp tục làm cho nƣớc này trở thành một nền kinh tế lớn trong khu vực. Sự

vƣợt trội về năng lực vốn và công nghệ của Hàn Quốc so với Việt Nam

làm cho hai nƣớc có khả năng thích ứng khác nhau đối với tốc độ phát triển

nhanh của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và đòi hỏi cao về vốn đầu

tƣ của hoạt động này. Trong bối cảnh đó, Hàn Quốc tiếp tục có lợi thế hơn

hẳn Việt Nam về năng lực công nghệ và vốn, cũng nhƣ chiến lƣợc đầu tƣ cho

R&D, còn Việt Nam hiện đang có lợi thế về tài nguyên và lao động so với

Hàn Quốc. Quan hệ song phƣơng giữa hai nƣớc tiếp tục đƣợc phát triển trên

nền tảng đó - lợi ích và nhu cầu của hai bên vẫn tiếp tục gặp nhau;

 Việc thực hiện các cam kết theo các chƣơng trình tự do hoá thƣơng mại và

đầu tƣ khu vực và toàn cầu trong phạm vi APEC và WTO, nhất là khi

Chƣơng trình nghị sự Dôha đã đƣợc thông qua với sự chấp thuận cắt giảm trợ

cấp nông nghiệp ở các nƣớc phát triển và giảm thuế quan ở các nƣớc đang

phát triển, đã và đang làm cho chế độ thƣơng mại và đầu tƣ của hai nƣớc ngày

càng đƣợc tự do hơn, tạo điều kiện gia tăng trao đổi song phƣơng;

 Trên cơ sở định hƣớng chiến lƣợc phát triển kinh tế của Hàn Quốc và Việt

Nam có thể nhận thấy rằng trong tƣơng lai, xu hƣớng chuyển dịch cơ cấu

ngành nghề của hai nƣớc tiếp tục bổ sung cho nhau. Việt Nam chủ trƣơng

phát triển ngành nông nghiệp thông qua cải tạo giống cây trồng, vật nuôi, phát

85

triển các vùng chuyên canh, thuỷ sản, đặc biệt là các sản phẩm nuôi trồng, tiếp

tục phát huy lợi thế về nguồn lực lao động thông qua phát triển các ngành công

nghiệp nhẹ, phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng. Hàn Quốc

đang tiếp tục đầu tƣ vào công nghệ để tạo nên những sản phẩm đạt tiêu chuẩn

bảo vệ môi trƣờng, phát triển các sản phẩm phục vụ cho sự phát triển một số

ngành dịch vụ mới, nhƣ chăm sóc sức khoẻ, giáo dục… Sự khác nhau trong xu

hƣớng chuyển dịch cơ cấu tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển trao

đổi song phƣơng giữa hai nƣớc.

Một số yếu tố hạn chế sự phát triển quan hệ thương mại song phương

Việt Nam - Hàn Quốc. Đó là:

 Yếu tố Trung Quốc: Trong những năm gần đây, sự nổi lên của Trung Quốc

không những là thách thức đối với Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài, mà hầu nhƣ đối với toàn khối ASEAN. Những thành tựu to lớn

trong quá trình cải cách nền kinh tế, sự chuyển hƣớng phát triển kinh tế

của

Trung Quốc sang phía Tây với những biện pháp ƣu đãi đầu tƣ nƣớc ngoài vào

khu vực này của chính phủ, và đặc biệt là giá nhân công rẻ và năng suất lao

động khá cao trong nhiều ngành, nhƣ dệt may, điện tử, đã làm cho dòng đầu

tƣ nƣớc ngoài đổ vào đây khá mạnh. Từ năm 2004, Trung Quốc đã tăng

cƣờng cải cách hệ thống thuế, bao gồm cả thuế VAT, thuế thu nhập và

các khoản phí ở khu vực nông thôn. Theo đó, dựa vào mức tiêu thụ sản phẩm,

các doanh nghiệp có thể đƣợc giảm thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị,

nhằm khuyến khích họ đầu tƣ vào tài sản cố định nhiều hơn. Việc cải

cách các khoản chi phí ở nông thôn, trong đó có thuế nông sản, nhằm giảm

bớt gánh nặng tài chính cho nông dân. Chính vì thế, nhiều nhà đầu tƣ Hàn

Quốc và Nhật Bản đã chuyển hƣớng đầu tƣ vào Trung Quốc, thay vì đầu tƣ

vào Đông Nam Á.

 Việc tìm kiếm các hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng ở Đông Á đã lôi

cuốn Hàn Quốc vào cuộc. Hiện tại, nƣớc này đã ký hiệp định với Chi Lê - một

86

thị trƣờng quan trọng đối với các hàng hoá xuất khẩu chủ lực của Hàn Quốc,

đang đàm phán với Singapore, Trung Quốc và Nhật Bản. Rõ ràng, Hàn Quốc

đang tìm kiếm các FTA trƣớc hết với các bạn hàng lớn của mình. Việt Nam

tuy là thị trƣờng xuất khẩu lớn thứ 15 của Hàn Quốc, nhƣng chƣa phải là một

bạn hàng lớn nhƣ Trung Quốc và có tầm quan trọng nhƣ Nhật Bản, vì sự gia

tăng xuất khẩu chủ yếu lại do dòng FDI của nƣớc này tạo nên. Nếu dòng FDI

chuyển hƣớng sang Trung Quốc, rất có thể, tốc độ tăng trƣởng xuất khẩu sang

Việt Nam sẽ chậm lại, làm ảnh hƣởng đến vai trò và vị trí của Việt Nam trong

trao đổi thƣơng mại với Hàn Quốc.

Vấn đề đặt ra là trong những năm tới, liệu tác động thúc đẩy hay hạn chế

quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc sẽ lớn hơn? Câu trả lời là tác động thúc

đẩy sẽ lớn hơn, bởi những thành tựu đã đạt đƣợc trong quan hệ song phƣơng

trong thời gian qua là rất đáng khích lệ, vì đƣợc xây dựng trên một cơ sở pháp lý

khá vững chắc, bởi thiện chí của chính phủ, các nhà kinh doanh của hai nƣớc.

Chính sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng của các quốc gia trong khu vực

Đông Á, bởi sự nổi lên của Trung Quốc chỉ có thể làm chệch hƣớng đầu tƣ của Hàn

Quốc chứ không làm chuyển hƣớng hoàn toàn của dòng đầu tƣ đó, đặc biệt khi

môi trƣờng thƣơng mại và đầu tƣ của Việt Nam tiếp tục đƣợc cải thiện hơn nữa.

Tuy rất quan trọng, song tác động thúc đẩy của các yếu tố đƣợc trình bày

ở mục 1.5 là chƣa đủ để tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ quan hệ kinh tế Việt

Nam - Hàn Quốc trong tƣơng lai. Thực tế cho thấy qua hơn hai thập kỷ phát

triển quan hệ song phƣơng, hai nƣớc Việt Nam và Hàn Quốc vẫn chƣa khai thác hết

tiềm năng sẵn có của mình. Điều này đƣợc thể hiện khá rõ nét trong hầu hết các lĩnh

vực quan hệ khác nhau:

 Trong trao đổi hàng hoá, nhiều mặt hàng có khả năng xuất khẩu đƣợc của

Việt Nam chƣa tiếp cận đƣợc thị trƣờng Hàn Quốc hoặc tiếp cận ở mức thấp

nhƣ sản phẩm nông sản nhiệt đới, dầu thô, đồ gỗ, đồ nội thất, hàng thủ công

mỹ nghệ, các sản phẩm đƣợc sản xuất từ các cơ sở có vốn đầu tƣ Hàn Quốc

đƣợc xuất khẩu trở lại nƣớc này không nhiều. Trong khi đó, do khai thác tốt thị

87

trƣờng Hàn Quốc, hàng năm Philippin và Thái Lan đã xuất khẩu đƣợc hàng

trăm triệu USD các loại hoa quả nhiệt đới sang thị trƣờng này.

 Trong lĩnh vực đầu tƣ, cho đến nay, Việt Nam chƣa thu hút đƣợc nhiều lƣợng

vốn đầu tƣ của Hàn Quốc vào các ngành công nghiệp phụ trợ, đặc biệt cho

sản xuất sản phẩm may mặc, dệt, trong khi nƣớc này lại có thế mạnh về các

ngành này và Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu. Mãi đến đầu năm

2004, một dự án xây dựng 4 xí nghiệp liên hiệp trong ngành dệt may ở Nam

Định, trong đó có sản xuất phụ liệu may mặc, của Hàn Quốc đã đƣợc phê

duyệt và dự kiến sẽ hoàn tất vào năm 2007. Đây là một trong những hƣớng

đầu tƣ đáng đƣợc quan tâm trong tƣơng lai. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tiếp

tục khai thác thế mạnh của Hàn Quốc trong lĩnh vực điện tử và công nghệ

thông tin thông qua việc tiếp tục cải cách môi trƣờng đầu tƣ thông thoáng và

đào tạo nguồn nhân lực để thu hút FDI từ Hàn Quốc.

 Trong lĩnh vực du lịch, tiềm năng phát triển quan hệ song phƣơng còn rất

lớn, bởi Việt Nam mới thu hút đƣợc một phần rất nhỏ lƣợng khách của Hàn

Quốc, chi phí của khách du lịch Hàn Quốc ở Việt Nam còn thấp hơn mức chi

phí trung bình cho một chuyến đi của họ ra nƣớc ngoài. Hơn nữa, với xu

hƣớng chung của ngƣời tiêu dùng Hàn Quốc là tăng chi tiêu, đặc biệt cho

các loại dịch vụ, trong đó có du lịch, Việt Nam lại là một điểm đến thân

thiện và khá hấp dẫn. Đó là điều kiện tốt cho sự phát triển hơn nữa quan

hệ giữa Việt Nam - Hàn Quốc trong lĩnh vực này trong tƣơng lai.

Trong lĩnh vực trao đổi lao động, hiện tƣợng khan hiếm lao động trên

thị trƣờng Hàn Quốc vẫn còn tồn tại, nên lao động Việt Nam tiếp tục có

cơ hội đƣợc tham gia vào thị trƣờng này. Lao động Việt Nam sang Hàn

Quốc chủ yếu vẫn bằng con đƣờng tu nghiệp sinh. Cơ chế này vẫn tiếp

tục đƣợc áp dụng trong thời gian tới. Hiện tại, chính phủ Hàn Quốc đang

nghiên cứu áp dụng chế độ tuyển dụng lao động nƣớc ngoài. Vì thế, triển

vọng tăng cƣờng xuất khẩu lao động sang thị trƣờng Hàn Quốc là khá

sáng sửa. Tuy nhiên, khả năng gia tăng trao đổi tuỳ thuộc rất nhiều vào

88

chất lƣợng và tác phong làm việc của lao động Việt Nam, việc giải

quyết vấn đề lao động bỏ hợp đồng trốn ra ngoài làm việc và lao động

bất hợp pháp, cũng nhƣ khả năng đàm phán để cải thiện các điều kiện trao

đổi giữa hai chính phủ.

Để có thể tranh thủ đƣợc các cơ hội phát triển trao đổi song phƣơng giữa

Việt Nam và Hàn Quốc nhƣ đã nêu trên, Việt Nam phải đối mặt với những thách

thức không nhỏ. Trước hết, đó là những bất ổn xảy ra của nền kinh tế thế giới, khu

vực và một số thị trƣờng lớn. Với sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị

trƣờng Mỹ trong mấy năm gần đây của Việt Nam có thể nói rằng không chỉ riêng

xuất khẩu của Hàn Quốc, mà cả của Việt Nam đều phụ thuộc vào thị trƣờng lớn

nhất hành tinh này. Sự thăng trầm của nền kinh tế của Mỹ và những bất ổn luôn

xảy ra trong nền kinh tế thế giới hiện nay thƣờng gây tác động trực tiếp đến tăng

trƣởng kinh tế của các nƣớc trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng, trong đó

có Việt Nam và Hàn Quốc. Bên cạnh đó, sự tăng trƣởng này lại bị đe doạ bởi giá

dầu lửa tăng cao, sự quay trở lại của bệnh dịch cúm gia cầm trong khu vực, sự gia

tăng nạn dịch AIDS, nạn khủng bố,... sẽ tác động xấu đến kinh tế của các nƣớc. Thứ

hai, là sự cạnh tranh gay gắt từ phía các nƣớc ASEAN và Trung Quốc với tƣ cách là

các bạn hàng của Hàn Quốc. Tiềm lực vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý,

cũng nhƣ chất lƣợng nguồn nhân lực của Hàn Quốc luôn là các yếu tố hấp dẫn các

nƣớc nhận đầu tƣ, khiến họ cạnh tranh gay gắt với nhau để có đƣợc nguồn vốn cùng

với công nghệ và nhân lực của nƣớc này. Tuy nhiên, theo kết quả của một cuộc

điều tra 1.000 doanh nghiệp Hàn Quốc của Bộ Thƣơng mại, Công nghiệp và

Năng lƣợng và Viện Nghiên cứu Kinh tế và Thƣơng mại của nƣớc này đƣợc tiến

hành vào tháng 6/2005, các doanh nghiệp này vẫn rất quan tâm đến việc đầu tƣ

vào các nƣớc ASEAN nhằm trƣớc hết xây dựng các cơ sở sản xuất dƣới hình thức

thành lập các chi nhánh hoặc liên doanh. Các doanh nghiệp này cho rằng họ tăng

cƣờng đầu tƣ ra nƣớc ngoài là trƣớc hết để mở rộng thị trƣờng, sau mới đến mục

tiêu giảm giá thành sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là sản phẩm của các cơ sở có

vốn đầu tƣ của Hàn Quốc sẽ thƣờng đƣợc tiêu thụ ở các nƣớc nhận đầu tƣ hoặc

đƣợc xuất khẩu sang các nƣớc thứ ba. Và thứ ba, những hạn chế đang tồn tại trong

89

nội bộ nền kinh tế Việt Nam, nhƣ hệ thống luật pháp chƣa hoàn thiện, kinh

nghiệm quản lý yếu kém, nạn tham nhũng ở mức trầm trọng, thủ tục hành chính

tuy đã đƣợc cải thiện song vẫn còn khá phức tạp và chƣa đạt đƣợc mức độ minh

bạch cần thiết. Hơn nữa, chính sách thƣơng mại còn có xu hƣớng bảo hộ khá rõ

rệt, đặc biệt đối với khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc - một khu vực hoạt động

kém hiệu quả và trong các ngành thay thế nhập khẩu nhƣ xi măng, sắt thép, mía

đƣờng, ô tô, xe máy. Thực tế đó làm ảnh hƣởng đến việc phân bổ các nguồn lực

và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Trong những năm gần đây,

khoảng 70% tổng vốn tín dụng của nhà nƣớc đƣợc đầu tƣ cho các doanh nghiệp

nhà nƣớc. Ngoài ra, quá trình cải cách hệ thống chính sách còn chƣa đạt đƣợc tính

ổn định, thƣờng có những thay đổi bất ngờ. Ví dụ, việc đột ngột áp đặt hạn ngạch

đối với phụ tùng xe máy nhập khẩu vào tháng 9/2002, việc tăng thuế nhập khẩu

đối với phụ tùng xe ô tô vào tháng 12/2002 đã vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ của

các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Tuy các quy định này sau đó đã đƣợc bãi bỏ, song

chúng đã làm cho các bạn hàng nƣớc ngoài luôn lo ngại về tính chƣa ổn định

trong quá trình cải cách chính sách của Việt Nam.

Với những phân tích trên đây, có thể đi đến nhận định rằng đến năm

2010, quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc sẽ vẫn tiếp tục đƣợc phát triển theo

chiều hƣớng nhƣ hiện nay, tức Việt Nam tiếp tục bị thâm hụt trong cán cân

thƣơng mại song phƣơng. Tuy nhiên, mức thâm hụt có thể sẽ đƣợc giảm bớt, bởi

một số nguyên nhân sau đây:

- Kế hoạch cải tổ ngành nông nghiệp của Hàn Quốc đã đƣợc xác định, kết quả mới

của Chƣơng trình Phát triển Doha đƣợc thể hiện thông qua Chƣơng trình nghị sự

Tháng 7 là những động lực chính thúc đẩy Hàn Quốc đẩy nhanh hơn nữa quá

trình tự do hoá thƣơng mại trong ngành nông nghiệp trong thời gian tới. Trong

điều kiện đó, nếu Việt Nam cố gắng trong việc tạo ra những sản phẩm phù hợp

với thị hiếu tiêu dùng của ngƣời Hàn Quốc và đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an

toàn thực phẩm, khả năng gia tăng xuất khẩu hàng nông sản, nhất là các loại

rau quả nhiệt đới, vào thị trƣờng này là khá lớn. Ngoài ra, Việt Nam có thể tăng

cƣờng xuất khẩu sang Hàn Quốc một số sản phẩm đang có sức cạnh tranh nhƣ đồ

90

gỗ, đồ nội thất, hàng thủ công mỹ nghệ.

- Khả năng gia tăng thu nhập từ ngành “xuất khẩu tại chỗ” - du lịch - của Việt

Nam là rất lớn, bởi trong thời gian gần đây, khách du lịch Hàn Quốc vào Việt

Nam luôn có xu hƣớng gia tăng.

- Với chiến lƣợc chuyển dịch cơ cấu ngành của Hàn Quốc (tập trung vào

những ngành có công nghệ cao và có giá trị gia tăng cao), có nhiều khả năng họ

sẽ di chuyển các cơ sở sản xuất trong một số ngành công nghiệp phụ trợ, nhất

là trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ, ra nƣớc ngoài. Nếu Việt Nam tranh thủ

đƣợc cơ hội này, việc có thêm đƣợc các dự án đầu tƣ vào các ngành công nghiệp

phụ trợ sẽ tạo điều kiện cho nƣớc ta giảm đƣợc nhập khẩu nguyên liệu, đặc

biệt cho các ngành công nghiệp nhẹ, từ đó, sẽ giảm đƣợc mức nhập siêu trong

quan hệ thƣơng mại với Hàn Quốc.

- Việt Nam vẫn tiếp tục có cơ hội xuất khẩu lao động sang thị trƣờng Hàn

Quốc, nếu chúng ta chuẩn bị tốt nguồn lao động xuất khẩu đáp ứng yêu cầu về

chất lƣợng và tiêu chuẩn của thị trƣờng này.

Tuy nhiên, cần ghi nhận rằng tốc độ tăng trƣởng kim ngạch trao đổi song

phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian tới sẽ còn phụ thuộc vào khả năng

chuyển hƣớng đầu tƣ của Hàn Quốc sang thị trƣờng Trung Quốc. Cho đến nay,

ảnh hƣởng của yếu tố Trung Quốc đối với dòng đầu tƣ từ Hàn Quốc vào Việt

Nam chƣa nhiều. Song, khi hai nƣớc trên ký kết đƣợc FTA, thì ảnh hƣởng sẽ lớn

hơn. Dòng đầu tƣ từ Hàn Quốc vào Việt Nam giảm đi sẽ làm chậm lại tốc độ gia

tăng kim ngạch trao đổi thƣơng mại giữa hai nƣớc. Trong điều kiện đó, một mặt,

Việt Nam có khả năng giảm bớt thâm hụt trong cán cân thƣơng mại giữa hai

nƣớc, song mặt khác, sẽ giảm khả năng tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ của

Hàn Quốc - một trong năm nƣớc đầu tƣ lớn nhất. Xu hƣớng này có thể sẽ thúc đẩy

các nhà lãnh đạo Việt Nam tìm kiếm FTA với Hàn Quốc. Đây sẽ là kế hoạch dài

hạn đòi hỏi sự cố gắng và nỗ lực từ hai phía.

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ VIỆT

NAM - HÀN QUỐC THỜI GIAN TỚI

Qua phân tích ở Chƣơng 2, có thể thấy rằng quan hệ thƣơng mại song

91

phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc đã và đang đƣợc phát triển với tốc độ cao. Mối

quan hệ này đƣợc xây dựng trên một nền tảng pháp lý khá vững chắc, nhận đƣợc sự

quan tâm thƣờng xuyên của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nƣớc và nhất là có sự gặp

nhau giữa nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia nhờ sự hiện diện của lợi thế so

sánh giữa hai nƣớc mang lại. Trong tƣơng lai, mối quan hệ này có nhiều cơ hội để

tiếp tục đƣợc phát triển. Đối với Việt Nam, mối quan hệ thƣơng mại song phƣơng

với Hàn Quốc có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nƣớc này là một trong 10 bạn hàng

lớn nhất và một trong năm nƣớc đầu tƣ lớn nhất vào nƣớc ta. Để nắm bắt đƣợc

những cơ hội phát triển, Việt Nam cần phải đối mặt với những thách thức khác

nhau. Vì thế, việc đề ra các giải pháp nhằm đối mặt với những thách thức đó là

rất cần thiết. Trong chƣơng này sẽ đề cập đến hai nhóm giải pháp chính nhằm

phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc: nhóm các giải pháp chung và

nhóm các giải pháp trong từng lĩnh vực cụ thể. Ở đây sẽ không đề cập đến các giải

pháp liên quan đến các doanh nghiệp - tức các tổ chức có nhiệm vụ thực hiện các

chính sách của nhà nƣớc và của các ngành liên quan, mặc dù họ vẫn có thể ban hành

và thực hiện các chính sách trong nội bộ doanh nghiệp.

3.2.1. Các giải pháp chung

Nhóm các giải pháp chung bao gồm tăng cƣờng tự do hoá kinh tế nói chung

và tự do hoá thƣơng mại và đầu tƣ nói riêng, đa dạng hoá, đa phƣơng hoá

các quan hệ kinh tế đối ngoại, tích cực chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên cơ

sở lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, và nâng cao hiệu quả của đàm phán song

phƣơng. Việc áp dụng các giải pháp chung này sẽ tác động không chỉ đến quan hệ

thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc, mà còn đến quan hệ thƣơng

mại của nƣớc ta với nhiều nƣớc và khu vực khác nhau trên thế giới. Song, cần

phải ghi nhận rằng việc lựa chọn các giải pháp trên đƣa vào nhóm các giải pháp

chung nhằm phát triển quan hệ thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc

đƣợc dƣa trên thực trạng quan hệ giữa hai nƣớc trong thời gian qua.

Giải pháp 1: Tăng cƣờng tự do hoá kinh tế, trong đó bao gồm tự

do hoá thƣơng mại và đầu tƣ

Chủ trƣơng tăng cƣờng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã đƣợc Đảng

92

và Chính phủ Việt Nam quan tâm thực hiện trong nhiều năm qua. Chúng ta đã

hiểu rất rõ tầm quan trọng của nó đối với tăng trƣởng kinh tế, đặc biệt khi Việt

Nam đang theo đuổi chiến lƣợc công nghiệp hoá hƣớng về xuất khẩu. Trong lĩnh

vực này, Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu rất đáng khích lệ. Việt Nam đã là

thành viên của ASEAN, APEC và WTO. Đối với việc phát triển quan hệ thƣơng

mại Việt Nam - Hàn Quốc trong tƣơng lai, việc tăng cƣờng tự do hoá kinh tế nói

chung và tự do hoá thƣơng mại và đầu tƣ nói riêng ở mọi cấp độ - quốc gia, khu

vực hay toàn cầu - có ý nghĩa rất lớn, bởi một số lý do cơ bản sau đây:

- Trƣớc mắt, Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với các nƣớc trong khu vực,

nhất là với Trung Quốc trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm có hàm lƣợng lao

động cao và thu hút FDI, đặc biệt khi nƣớc này đã trở thành thành viên của WTO

và đang có khả năng sẽ tiến hành đàm phán để ký kết FTA với Hàn Quốc.

Hơn nữa, thực tế cho thấy quá trình cải cách hệ thống chính sách kinh tế của

Việt Nam khi thực hiện các chƣơng trình tự do hoá thƣơng mại còn nhiều bất

cập và kém hiệu quả hơn Trung Quốc. Vì thế, để duy trì sức hấp dẫn đối

với các bạn hàng và các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, trong đó có Hàn Quốc, đồng

thời để ngăn chặn sự chuyển hƣớng đầu tƣ nƣớc ngoài sang thị trƣờng này, Việt

Nam cần quan tâm và có những bƣớc đi thiết thực hơn nữa trong quá trình

cải cách chính sách kinh tế theo hƣớng tự do hoá.

- Việc thực hiện các cam kết trong WTO, đặc biệt là các cam kết về mở cửa thị

trƣờng, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá của hai nƣớc tiếp cận thị

trƣờng của nhau đƣợc dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, các qui định về quản lý và

kiểm soát nhập khẩu cũng minh bạch hơn và ít bị bóp méo thƣơng mại hơn.

Điều này đặc biệt có lợi cho các nhà xuất khẩu nông, thuỷ sản Việt Nam, vì từ

trƣớc tới nay họ gặp trở ngại đáng kể bởi các hàng rào kiểm dịch động thực

vật và các tiêu chuẩn của Hàn Quốc.

- Các hoạt động hợp tác trong APEC, trong đó có các hoạt động hỗ trợ, xây

dựng năng lực và trao đổi thông tin… góp phần củng cố năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp Việt Nam trong thƣơng mại quốc tế. Thông qua các hoạt động

tạo thuận lợi cho thƣơng mại, những trở ngại đối với các doanh nghiệp đã và

93

đang đƣợc giảm đi dáng kể, thông qua việc hài hoà hoá các thủ tục hải quan,

thừa nhận lẫn nhau đối với các tiêu chuẩn.

- Các cam kết về mở cửa thị trƣờng dịch vụ của Việt Nam trong WTO sẽ tạo

thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tƣ Hàn Quốc.

- Là thành thành viên của WTO, cả hai nƣớc sẽ đƣợc hƣởng sự bảo vệ bởi các qui

định chung, có điều kiện vận dụng cơ chế tham vấn và giải quyết tranh chấp

thƣơng mại công bằng của WTO. Các vấn đề còn tồn tại về mặt chính sách,

nhƣ các biện pháp phi thuế quan, các tiêu chuẩn kỹ thuật… cũng có thể đƣợc

giải quyết thông qua cơ chế đối thoại và hợp tác trong phạm vi APEC.

Là một nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam phải đồng thời thực hiện hai

nhiệm vụ quan trọng là chuyển sang nền kinh tế thị trƣờng và tiến hành tự do

hoá. Vì thế, cho đến đầu thế kỷ 21, trong điều kiện nhận thức và kinh nghiệm quản

lý kinh tế thị trƣờng còn non yếu, quá trình cải cách hệ thống chính sách của

Việt Nam đƣợc tiến hành một cách chậm chạp, kém đồng bộ và ít hiệu quả là

điều không thể tránh khỏi. Song, với việc là thành viên chính thức của WTO, đã

cho thấy Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, và

điều này cũng đồng nghĩa với việc những thay đổi của nền kinh tế thế giới sẽ có

tác động ngày càng nhiều đến nền kinh tế của Việt Nam trong một vài năm gần

đây đã đạt đƣợc những bƣớc tiến bộ đáng kể. Hệ thống luật pháp, gồm các luật và

các văn bản dƣới luật, đã đƣợc cải thiện đáng kể thông qua việc ban hành một số

luật mới và sửa đổi các luật đang hiện hành cho phù hợp với yêu cầu của WTO.

Việt Nam đã thông qua nhiều văn bản quan trọng nhƣ Pháp lệnh về tối huệ quốc và

đối xử quốc gia, Pháp lệnh về tự vệ nhập khẩu hàng hoá từ nƣớc ngoài vào Việt

Nam, tiếp tục sửa đổi Luật Thƣơng mại, Luật Đất đai... Việt Nam đã, đang thực

hiện các cam kết về giảm thuế và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan theo AFTA.

Chính phủ cũng đã thông qua nhiều chƣơng trình hành động nhằm thực hiện

các hiệp định trong phạm vi WTO. Bên cạnh những thành tích nêu trên, chúng ta

cần phải giải quyết một số tồn tại trong quá trình cải cách để tăng cƣờng hội

nhập khu vực và quốc tế sâu rộng và hiệu quả hơn nữa. Đó là vấn đề cải thiện

môi trƣờng pháp lý, cải cách hệ thống ngân hàng, đảm bảo tính đồng bộ và ổn định

94

trong cải cách hệ thống chính sách kinh tế.

Giải pháp 2: Đa phƣơng hoá, đa dạng hoá thị trƣờng

Cho đến nay, không chỉ riêng Việt Nam, mà hầu hết các nƣớc trên thế

giới đều chủ trƣơng tiến hành đa phƣơng hoá, đa dạng hoá thị trƣờng trong chính

sách kinh tế đối ngoại của mình. Mục tiêu trƣớc hết là để tránh phụ thuộc quá

nhiều vào một vài thị trƣờng, bạn hàng lớn, đồng thời lại có cơ hội mở rộng thị

trƣờng cho hàng hoá xuất khẩu.

Trong quan hệ thƣơng mại song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc, giải pháp về

đa phƣơng hoá, đa dạng hoá thị trƣờng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nó

sẽ giúp Việt Nam, nhất là các cơ sở có vốn FDI của Hàn Quốc, có đƣợc cơ hội

mở rộng xuất khẩu sang các nƣớc thứ ba, trong lúc xuất khẩu trở lại Hàn Quốc còn

gặp nhiều trở ngại, và đặc biệt là không phải mục đích chính của các nhà đầu tƣ

nƣớc này. Hiện tại, các sản phẩm từ các cơ sở FDI Hàn Quốc thƣờng đƣợc xuất

khẩu sang các thị trƣờng lớn nhƣ Mỹ, EU. Thế nhƣng, những hàng hoá này cũng

có thể xuất khẩu sang các thị trƣờng khác nữa. Việc chính phủ Việt Nam quan

tâm đến mở rộng xuất khẩu sang các thị trƣờng ở châu Phi chính là nhằm thực

hiện đa dạng hoá, đa phƣơng hoá thị trƣờng cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam.

Châu Phi là nơi mà hàng hoá nƣớc ta có thể cạnh tranh đƣợc, mặc dù điều kiện

về cơ sở hạ tầng thƣơng mại, cũng nhƣ hệ thống phân phối của Việt Nam và khả

năng thanh toán của các bạn hàng ở đây đang là trở lực đối với việc mở rộng

thƣơng mại giữa hai bên.

Giải pháp 3: Tích cực chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên cơ sở

lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh

Đây là giải pháp chung đòi hỏi phải đƣợc thực hiện khi Việt Nam tăng

cƣờng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Nhƣ đã phân

tích ở Chƣơng 1, một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển quan hệ kinh tế

Việt Nam - Hàn Quốc hiện tại và tƣơng lai là sự khác nhau về qui mô nền kinh

tế, dẫn đến sự khác nhau trong lợi thế so sánh giữa hai nƣớc - Việt Nam có

ƣu thế về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động rẻ, còn Hàn Quốc - là vốn và

công nghệ. Trong Chiến lƣợc Phát triển Kinh tế - Xã hội đến năm 2010,

95

Việt Nam chủ trƣơng phát triển mạnh nông nghiệp, lâm nghiêp, thuỷ sản và

công nghiệp nhẹ, tức các ngành dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động.

Điều đó sẽ giúp Việt Nam có thêm đƣợc nguồn hàng hoá xuất khẩu sang thị

trƣờng Hàn Quốc, nhất là khi chúng ta quan tâm đến việc tạo nên những sản

phẩm nông sản nhiệt đới có chất lƣợng cao, đến việc tạo nên những sản phẩm

đồ gỗ có tính riêng biệt và những sản phẩm thuỷ sản đạt tiêu chuẩn vệ sinh

an toàn thực phẩm mà thị trƣờng Hàn Quốc yêu cầu.

Giải pháp 4: Nâng cao hiệu quả của đàm phán song phƣơng

Dựa trên hai cơ chế hợp tác chính là Uỷ ban liên chính phủ về hợp tác

kinh tế khoa học kỹ thuật và các cuộc trao đổi chính sách thƣờng niên cấp vụ,

cục trƣởng giữa bộ ngoại giao hai nƣớc, cũng nhƣ thông qua các cuộc viếng

thăm lẫn nhau giữa các quan chức cấp cao của hai chính phủ, phía Việt Nam có

thể có nhiều cơ hội để tiến hành đàm phán với Hàn Quốc về việc mở cửa thị

trƣờng. Trong điều kiện Việt Nam hiện đang và sẽ tiếp tục có lợi thế trong xuất

khẩu hàng nông, lâm và thuỷ sản, trong khi những lĩnh vực này đƣợc bảo hộ khá

cao trên thị trƣờng Hàn Quốc và xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng

khá khiêm tốn trong tổng kim ngạch nhập khẩu của nƣớc này, làm thế nào

Việt Nam có thể đàm phán với Hàn Quốc, để họ mở cửa thị trƣờng hơn nữa

đối với hàng hoá nƣớc ta, đặc biệt là hàng nông sản. Qua nghiên cứu thực

trạng quan hệ thƣơng mại Việt Nam - Hàn Quốc trong thời gian qua, có thể đƣa ra

một số đề xuất sau đây:

Thứ nhất, Việt Nam cần tạo thế chủ động trong đàm phán với Hàn Quốc.

Chúng ta biết rằng, Chi Lê đã rất kiên quyết khi đƣa ra các đòi hỏi của mình

trong quá trình đàm phán Hiệp định Thƣơng mại Tự do với Hàn Quốc về việc

tiếp cận thị trƣờng nƣớc này và họ đã thành công. Cơ sở của sự mặc cả đó đƣợc

tạo nên bởi vai trò và vị trí của thị trƣờng Chi Lê đối với các nhà sản xuất ô tô

Hàn Quốc (25% thị phần). Còn đối với Việt Nam, tuy Hàn Quốc nhập khẩu

hàng hoá từ nƣớc ta không nhiều, song Việt Nam là một thị trƣờng đầu tƣ quan

trọng của họ. Trong điều kiện nhu cầu đầu tƣ ra ngoài nƣớc của các nhà đầu tƣ

96

Hàn Quốc ngày một gia tăng, thì đây sẽ là cơ sở để Việt Nam có thể thảo luận

với Hàn Quốc về việc mở cửa thị trƣờng hơn nữa cho hàng hoá xuất khẩu của

ta, đặc biệt là hàng nông sản.

Thứ hai, quan tâm hơn nữa đến việc tìm kiếm các giải pháp nhằm tạo

thuận lợi cho hoạt động thƣơng mại. Trong điều kiện hiện nay, khi nhiều nƣớc,

trong đó có Hàn Quốc, rất coi trọng sử dụng các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ

thị trƣờng trong nƣớc, nhƣ áp dụng thuế chống phá giá, sử dụng các tiêu chuẩn kỹ

thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ …Từ kinh nghiệm gia tăng xuất khẩu của

ngành thuỷ sản Việt Nam vào thị trƣờng Hàn Quốc, có thể thấy rõ vai trò quan

trọng của việc tìm kiếm các biện pháp nhằm thúc đẩy trao đổi thƣơng mại giữa

hai nƣớc. Việt Nam đã ký đƣợc thoả thuận về kiểm dịch hàng thuỷ sản với Hàn

Quốc, theo đó nƣớc này đã công nhận giấy chứng nhận vệ sinh thực phẩm do Cục

quản lý chất lƣợng và vệ sinh thuỷ sản Việt Nam (NAFIQAVED) cấp. Chúng ta

hiện có khoảng 10 phòng thí nghiệm các loại đã đƣợc các nƣớc ASEAN công

nhận đủ điều kiện cơ sở hạ tầng để đánh giá chất lƣợng sản phẩm. Vậy tại sao

chúng ta không tìm kiếm thoả thuận về kiểm dịch nhƣ vậy với Hàn Quốc trong

lĩnh vực nông nghiệp? Philippin đã có đƣợc thoả thuận nhƣ vậy và họ đã xuất khẩu

đƣợc rất nhiều hoa quả nhiệt đới sang thị trƣờng Hàn Quốc. Ngoài ra, chúng ta

cũng có thể tìm kiếm sự hỗ trợ kỹ thuật từ phía Hàn Quốc trong quá trình sản xuất

và chế biến hàng nông sản, để có thể có đƣợc các sản phẩm đáp ứng yêu cầu cụ thể

của thị trƣờng này. Hàn Quốc đã giúp Việt Nam trong việc đào tạo công nhân kỹ

thuật để cung cấp cho các cơ sở có đầu tƣ Hàn Quốc tại nƣớc ta. Trong khi Hàn

Quốc đang khởi động quá trình cải tổ khu vực nông nghiệp, Việt Nam nên tranh thủ

cơ hội này thu hút vốn của họ vào ngành nông nghiệp của nƣớc ta.

Thứ ba, tăng cƣờng hoạt động hợp tác giữa các cơ quan hai nƣớc trong các

lĩnh vực chuyên ngành. Trong vài năm gần đây, hoạt động hợp tác chuyên ngành

giữa của hai nƣớc Việt Nam và Hàn Quốc đã đƣợc tăng cƣờng đáng kể, nhất là

trong ngành công nghệ thông tin, du lịch. Dựa trên những lợi thế của mình, các

nhà nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ thông tin Hàn Quốc đã đƣa ra những đề

xuất nhằm tăng cƣờng hợp tác giữa hai nƣớc trong lĩnh vực này. Theo họ, cả hai

97

nƣớc đều không đủ mạnh để trở thành một thế lực vƣợt trội trên thế giới, tài

nguyên thiên nhiên và nguồn lực con ngƣời thì có hạn, Hàn Quốc có thế mạnh về

khoa học kỹ thuật nói chung và công nghệ thông tin nói riêng so với Việt Nam.

Vì thế, hợp tác chuyên ngành trong lĩnh vực này sẽ làm cho cả hai nƣớc đều có

lợi.

3.2.2. Nhóm các giải pháp trong một số lĩnh vực cụ thể

3.2.2.1. Các giải pháp trong lĩnh vực thương mại

Trong trao đổi hàng hoá song phƣơng, Việt Nam luôn rơi vào tình trạng bị

nhập siêu trong cán cân thƣơng mại với Hàn Quốc và mức nhập siêu luôn gia

tăng theo thời gian. Tuy vậy, trong mối quan hệ này, Việt Nam đã đạt đƣợc tốc độ

gia tăng kim ngạch xuất khẩu hàng năm khá cao và chỉ kém tốc độ gia tăng kim

ngạch nhập khẩu hàng năm chút ít trong giai đoạn 1992-2006. Thực tế đó cộng

với những tiềm năng còn chƣa khai thác hết trong quan hệ song phƣơng chứng tỏ

Việt Nam có thể tiếp tục gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trƣờng Hàn Quốc

trong thời gian tới. Điều đó đòi hỏi phải có các giải pháp chính sách hữu hiệu.

Bên cạnh đó, sự gia tăng nhập khẩu của Việt Nam từ Hàn Quốc chủ yếu do

dòng FDI từ nƣớc này chảy vào, mà dòng FDI đó lại có vai trò khá quan trọng

trong việc phát triển kinh tế ở nƣớc ta, nên không thể áp dụng các biện pháp

giảm nhập khẩu từ Hàn Quốc để cân bằng cán cân thƣơng mại đƣợc. Trong điều

kiện đó, Việt Nam chỉ có thể đƣa ra những giải pháp nhằm định hƣớng dòng

hàng hoá nhập khẩu từ Hàn Quốc thông qua định hƣớng đầu tƣ vào phát triển

các ngành công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp nhẹ chẳng hạn, qua đó hạn chế

nhập khẩu nguyên liệu từ thị trƣờng này.

Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu bao gồm:

 Tăng cƣờng công tác xúc tiến thƣơng mại, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu.

Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã quan tâm nhiều đến hoạt động xúc

tiến thƣơng mại, song vẫn còn nhiều bất cập cần phải giải quyết. Nhận thức về

hoạt động xúc tiến xuất khẩu còn chƣa đầy đủ. Thông thƣờng, xúc tiến xuất

khẩu đƣợc hiểu là các hoạt động đƣợc thiết kế để làm tăng xuất khẩu của cả

đất nƣớc hay của các doanh nghiệp. Chính vì thế, nên trong thời gian qua, Việt

98

Nam mới chú trọng vào các hoạt động thông tin thƣơng mại, quảng cáo,

khuyến mại, tổ chức các hội chợ, triển lãm để giới thiệu sản phẩm với những

ngƣời tiêu dùng trong và ngoài nƣớc. Trong các hoạt động này, chúng ta mới

tập trung vào việc xúc tiến bán các sản phẩm hiện có. Các hội chợ, triển lãm

đƣợc tổ chức chủ yếu ở Việt Nam, nên tác động quảng bá sản phẩm Việt Nam

đến ngƣời tiêu dùng nƣớc ngoài thấp. Môi trƣờng pháp lý cho hoạt động xúc

tiến xuất khẩu còn chƣa hoàn thiện, chƣa đạt đƣợc sự đồng bộ giữa các luật

kinh tế và luật doanh nghiệp. Công tác điều phối hoạt động xúc tiến xuất khẩu

của của chính phủ còn nhiều bất cập. Nguồn lực cho hoạt động xúc tiến xuất

khẩu rất hạn chế (bằng 0,25% tổng giá trị xuất khẩu phi dầu thô của cả nƣớc

của năm trƣớc), chƣa đƣợc huy động và khai thác một cách hiệu quả.

Vấn đề là Việt Nam nên tăng cƣờng hoạt động xúc tiến xuất khẩu theo hƣớng

nào để có thể làm tăng xuất khẩu nói chung và sang thị trƣờng Hàn Quốc nói riêng?

Điều quan trọng nhất là cần nhận thức đầy đủ hơn về xúc tiến xuất khẩu, phải

coi đó là chiến lƣợc phát triển kinh tế nhấn mạnh đến việc mở rộng xuất khẩu

thông qua các biện pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ cao nhất cho hoạt động

xuất khẩu. Nhƣ vậy, trong giai đoạn hiện nay, khi hoạt động xuất khẩu sang Hàn

Quốc đƣợc coi là một trong những giải pháp để giảm mức nhập siêu, thì chiến

lƣợc phát triển xuất khẩu quốc gia cần phải đƣợc chuẩn bị kỹ lƣỡng và đòi hỏi

sự tham gia của mọi đối tác liên quan - nhà nƣớc, các cơ quan hỗ trợ xuất khẩu

và các doanh nghiệp cần thiết phải tập trung nguồn lực vào một số ngành, hàng

xuất khẩu có lựa chọn, tức những ngành, những sản phẩm có khả năng cạnh

tranh và chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chúng ta đã thông qua

Chƣơng trình xúc tiến thƣơng mại trọng điểm quốc gia với hàng trăm dự án trên

nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, bao gồm tƣ vấn xuất khẩu, đào tạo, khảo sát

thị trƣờng nƣớc ngoài, quảng bá thƣơng hiệu... Nhà nƣớc hỗ trợ khoảng 150 tỷ

đồng cho chƣơng trình này. Nếu thực hiện có hiệu quả, thì đây là một giải pháp tốt

để thúc đẩy xuất khẩu. Tham gia vào công tác xúc tiến thƣơng mại không chỉ có

Cục XTTM của Bộ Thƣơng mại trƣớc đây, mà còn các tham tán, thƣơng vụ ở nƣớc

99

ngoài, các hiệp hội ngành nghề và các cơ quan XTTM của các bộ, tổng công ty

ngành nghề. Vì thế, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này để đảm

bảo hiệu quả của công tác XTTM.

Riêng đối với thị trƣờng Hàn Quốc, hoạt động xúc tiến xuất khẩu trong

thời

gian tới cần tập trung vào việc nghiên cứu thị trƣờng, mở rộng danh mục sản

phẩm xuất khẩu, xây dựng thƣơng hiệu và hoàn thiện mạng lƣới xúc tiến xuất

khẩu.

 Tăng cƣờng công tác nghiên cứu và cung cấp thông tin về thị trƣờng Hàn Quốc.

Thực tế cho thấy công tác nghiên cứu thị trƣờng của nƣớc ta còn rất kém

hiệu quả. Vì thế, để mở rộng xuất khẩu, không chỉ riêng thị trƣờng Hàn Quốc, mà

tất cả các thị trƣờng khác đều cần phải đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống. Cho

đến nay, các bộ chuyên ngành, đặc biệt những bộ có sản phẩm tham gia xuất khẩu,

đều thực hiện nghiên cứu các thị trƣờng xuất khẩu cho sản phẩm của ngành mình.

Để tránh chồng chéo, hoạt động nghiên cứu thị trƣờng xuất khẩu trong phạm vi Bộ

công thƣơng có thể đƣợc tiến hành thông qua một số vụ trong cơ quan Bộ nhƣ

Vụ Châu Á Thái Bình Dƣơng, Vụ Xuất nhập khẩu, Viện Nghiên cứu Thƣơng mại,

Trung tâm Thông tin thƣơng mại và các thƣơng vụ Việt Nam ở nƣớc ngoài. Các cơ

quan này tập trung nghiên cứu tổng quan về thị trƣờng Hàn Quốc. Cụ thể là chỉ ra

những xu hƣớng phát triển của toàn bộ nền kinh tế, giới thiệu các tập quán kinh

doanh của Hàn Quốc cũng nhƣ các vùng khác nhau của nƣớc này, giới thiệu cho

doanh nghiệp về hệ thống phân phối của Hàn Quốc, thói quen tiêu dùng của ngƣời

Hàn Quốc...

Trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá đƣợc tăng cƣờng nhƣ hiện

nay,

cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để giành thị phần là rất quyết liệt. Hơn

nữa, sự phát triển của khoa học và công nghệ đã làm thay đổi phần nào các

yếu tố tác động lên khả năng cạnh tranh của các quốc gia, các ngành và các

doanh nghiệp. Ngày nay, các yếu tố nhƣ tri thức và liên quan với nó là chất

lƣợng nguồn nhân lực, vốn, sự khác biệt của sản phẩm và sự tham gia có lực

100

chọn của chính phủ vào một số hoạt động kinh tế giữ vai trò quan trọng hơn

so với một số yếu tố khác nhƣ đất đai, điều kiện tự nhiên, lao động rẻ. Trong

bối cảnh đó, việc nghiên cứu thị trƣờng Hàn Quốc nói riêng và nghiên cứu các

thị trƣờng nƣớc ngoài nói chung cần phải đƣợc tập trung nhiều hơn vào việc tìm

hiểu thói quen, sở thích, điều kiện kinh tế của ngƣời tiêu dùng, nhằm tạo nên những

sản phẩm không những chỉ phù hợp với nhu cầu của họ, mà còn làm thỏa mãn

chúng đến mức tối đa. Tuy ngƣời dân Hàn Quốc theo nhiều dòng đạo khác

nhau, song trong một vài lĩnh vực nhƣ giáo dục, hành chính quốc gia, phong tục

tập quán, các mối quan hệ xã hội lại chịu ảnh hƣởng rất mạnh của đạo Khổng.

Họ là những ngƣời có ý thức dân tộc rất mạnh, giữ tôn ti trật tự và lễ giáo rất kỷ

cƣơng. Việc quan tâm đến những giá trị đạo đức truyền thống này trong quá trình

nghiên cứu thị trƣờng Hàn Quốc sẽ giúp chúng ta có thể nhìn nhận thói quen tiêu

dùng của ngƣời dân nƣớc này một cách toàn diện hơn.

Thông qua việc nghiên cứu thị trƣờng, hãy làm cho các doanh nghiệp Việt

Nam hiểu rằng trong giai đoạn hiện tại, muốn chiếm lĩnh thị trƣờng, họ

không thể bán ra các sản phẩm họ có, mà phải tạo nên các sản phẩm mà ngƣời

tiêu dùng cần để bán cho họ với mức giá cạnh tranh so với các đối thủ. Ngoài ra,

các doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến việc đạt đƣợc tính khác biệt trong

các sản phẩm xuất khẩu của mình. Chính đặc trƣng này sẽ tạo nên sự hấp dẫn của

sản phẩm đối với ngƣời tiêu dùng và khuyến khích họ mua hàng.

Các kết quả từ hoạt động nghiên cứu thị trƣờng phải đƣợc phổ biến một

cách hiệu quả và nhanh nhất đến các đối tƣợng quan tâm. Chúng có thể đƣợc cập

nhật trên trang Web của Bộ, hoặc đƣợc cung cấp dƣới dạng các ấn phẩm.

 Mở rộng danh mục sản phẩm xuất khẩu.

Việc mở rộng danh mục hàng hoá xuất khẩu sang thị trƣờng Hàn Quốc

trong thời gian tới cần đƣợc dựa trên khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu

của Việt Nam và đặc điểm của thị trƣờng ngƣời tiêu dùng Hàn Quốc. Theo các

nhà nghiên cứu, Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất và chế biến

nhiều mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản, hàng may mặc, dâu tằm tơ, sản xuất sợi, sản

xuất giày thể thao, giày vải và giày nữ, nguyên liệu, linh kiện điện tử và công

101

nghệ thông tin. Tuy nhiên, trên thị trƣờng Hàn Quốc, một số hàng có khả năng

cạnh tranh của Việt Nam nhƣ may mặc, đồ chơi, khó có thể trụ đƣợc, bởi sự cạnh

tranh của hàng hoá từ Trung Quốc.. Vì thế, để mở rộng danh mục hàng hoá xuất

khẩu, Việt Nam cần tập trung vào những hàng hoá mà thị trƣờng Hàn Quốc đã

chấp nhận và có khả năng sẽ chấp nhận. Đối với những hàng hoá đã đƣợc thị

trƣờng Hàn Quốc chấp nhận nhƣ thực phẩm chế biến từ thuỷ sản, thuỷ sản đông

lạnh, đồ gỗ, đồ nội thất, đèn điện tử, thiết bị viễn thông, một số nguyên liệu nhƣ

cao su, khoáng sản, chúng ta sẽ phải cố gắng đảm bảo chất lƣợng, cũng nhƣ

những yêu cầu ngày càng chặt chẽ hơn của thị trƣờng về vệ sinh an toàn thực

phẩm và các tiêu chuẩn khác, để nắm bắt đƣợc các cơ hội mở rộng xuất khẩu. Đối

với những sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu cao của Việt Nam nhƣ hàng thủ công

mỹ nghệ (cạnh tranh đƣợc do giá cả thấp hơn sản phẩm của Trung Quốc từ 8-10%),

đồ gỗ nội thất, cần phải có chiến lƣợc xây dựng thƣơng hiệu, quảng bá và giới

thiệu sản phẩm thích hợp đến ngƣời tiêu dùng. Riêng đối với các sản phẩm nông

sản nhiệt đới, để có thể xuất khẩu vào thị trƣờng Hàn Quốc, vấn đề cơ bản là

phải đạt đƣợc các tiêu chuẩn về chất lƣợng sản phẩm, các doanh nghiệp xuất khẩu

phải có đƣợc giấy chứng nhận tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và phải có giá

cả cạnh tranh so với hàng Thái Lan và Philippin trên thị trƣờng này và với điều

kiện thị trƣờng Hàn Quốc phải mở cửa thị trƣờng hơn nữa đối với mặt hàng này.

 Vấn đề xây dựng thƣơng hiệu cho hàng hoá Việt Nam.

Vấn đề này đang đòi hỏi phải có sự quan tâm thích đáng từ phía chính

phủ trong việc nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp và doanh nhân cũng nhƣ

tạo khung pháp lý cần thiết, từ phía các doanh nghiệp trong việc xây dựng và

bảo vệ thƣơng hiệu cho các sản phẩm của mình trên thị trƣờng. Đây là một giải

pháp cần thiết không chỉ riêng đối với hàng hoá xuất khẩu sang thị trƣờng Hàn

Quốc, mà với tất cả các hàng hoá cũng nhƣ dịch vụ đƣợc lƣu thông trên thị

trƣờng. Bởi trong điều kiện cuộc cạnh tranh trên thị trƣờng trong nƣớc cũng nhƣ

quốc tế ngày càng gay gắt, sự khác biệt của sản phẩm là một trong những yếu

tố tạo nên và duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm và nó sẽ đƣợc bảo về hữu hiệu

nếu hàng hoá có thƣơng hiệu và đƣợc đăng ký hợp pháp.

102

 Hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả đối với công tác xúc tiến xuất khẩu.

Hiện nay, tham gia vào mạng lƣới các tổ chức xúc tiến xuất khẩu của Việt

Nam bao gồm Bộ Thƣơng mại và các đơn vị trực thuộc, các cơ quan xúc tiến

xuất khẩu của các bộ ngành liên quan, các tổ chức xúc tiến xuất khẩu phi

chính phủ, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu và các doanh

nghiệp sản xuất và xuất khẩu, trong đó Cục Xúc tiến Thƣơng mại (đƣợc thành

lập vào năm 2000) của Bộ Thƣơng mại thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc

trong lĩnh vực này và tiến hành các hoạt động hƣớng dẫn và hỗ trợ xuất khẩu ở

qui mô quốc gia. Nhƣ vậy, về cơ bản, mạng lƣới tổ chức hoạt động xúc tiến

thƣơng mại của Việt Nam đã đƣợc hình thành và phát huy tác dụng, đã có

những tác động tích cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị

trƣờng quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, do mới hình thành và phát

triển, nên hệ thống xúc tiến thƣơng mại của nƣớc ta còn nhiều bất cập, nhƣ

thiếu sự liên kết giữa các tổ chức thành viên trong hệ thống, năng lực thực

hiện xúc tiến xuất khẩu còn yếu, các luồng thông tin thƣơng mại chƣa đƣợc

lƣu thông thông suốt trong toàn bộ hệ thống, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thông

tin cho các đối tác trong hệ thống, cơ sở hạ tầng cho xúc tiến xuất khẩu còn

chƣa hoàn thiện và thiếu nguồn kinh phí cần thiết.

Nhƣ đã phân tích ở mục 2.1, mạng lƣới xúc tiến xuất khẩu của Hàn

Quốc đã đƣợc phát triển rất mạnh và rất thành công. Vì thế, trong việc hoàn

thiện tổ chức đối với mạng lƣới xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam, chúng ta có

thể học tập nhiều từ Hàn Quốc. Có hai tổ chức giữ vai trò khá quan trọng trong

mạng lƣới xúc tiến xuất khẩu của Hàn Quốc là Tổ chức Xúc tiến Thƣơng mại

Hàn Quốc (KOTRA) và Công ty Thƣơng mại Quốc tế Hàn Quốc (KOTI).

KOTRA cung cấp các dịch vụ cho các nhà kinh doanh và đầu tƣ trên khắp thế

giới thông qua hệ thống thông tin thƣơng mại đƣợc lƣu giữ tại trụ sở chính ở

Seoul, 10 chi nhánh ở trong nƣớc và 82 trung tâm thƣơng mại ở nƣớc ngoài.

Bên cạnh việc cung cấp thông tin, KOTRA còn thực hiện các dự án nghiên

cứu, nhằm hỗ trợ các nhà xuất khẩu Hàn Quốc xác định các cơ hội kinh doanh

mới ở nƣớc ngoài, sắp xếp các cuộc gặp gỡ vì mục đích kinh doanh giữa các

103

nhà sản xuất Hàn Quốc với các ngƣời mua hàng nƣớc ngoài, đƣa ra các đề xuất

cho các hoạt động thƣơng mại đối lƣu và giúp đỡ một cách hiệu quả cho các

nhà nhập khẩu Hàn Quốc. Với tƣ cách là một tổng công ty thƣơng mại, KOTI

có nhiệm vụ thực hiện hoạt động xuất khẩu các hàng hoá do 3.000 doanh

nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc sản xuất ra và nhập khẩu các hàng hoá cần

thiết từ nƣớc ngoài cho thị trƣờng trong nƣớc. Với 7 chi nhánh đƣợc thành lập

trên cả nƣớc, KOTI đã và đang tập trung vào việc tìm kiếm thị trƣờng tiêu thụ

sản phẩm cho các doanh nghiệp thành viên thông qua việc tham gia vào các

hội chợ, triển lãm quốc tế và trong nƣớc.

Qua so sánh, có thể thấy rằng Cục Xúc tiến Thƣơng mại thuộc Bộ Công

Thƣơng Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ tƣơng đƣơng nhƣ của KOTRA.

Trong điều kiện Cục chƣa thành lập đƣợc nhiều trung tâm thƣơng mại ở nƣớc

ngoài, hoạt động xúc tiến xuất khẩu và nghiên cứu thị trƣờng thƣờng do các

thƣơng vụ Việt Nam ở nƣớc ngoài đảm nhận. Thực tế đó đòi hỏi phải có sự kết

hợp rất chặt chẽ giữa hai tổ chức này. Rất may mắn là Thƣơng vụ Việt Nam tại

Hàn Quốc là một trong số 42 thƣơng vụ Việt Nam ở nƣớc ngoài. Theo đánh giá

của các chuyên gia Bộ Thƣơng mại, hoạt động của các thƣơng vụ đạt kết quả

khá tốt trong lĩnh vực cung cấp thông tin về sự phát triển kinh tế-xã hội của

nƣớc sở tại, về hệ thống chính sách, trong đó đặc biệt là chính sách thƣơng mại

và đầu tƣ của họ, về các cơ hội xuất khẩu và nhu cầu nhập khẩu của các thị

trƣờng tƣơng ứng, tham gia chuẩn bị nội dung và phục vụ các đoàn công tác của

chính phủ và giới kinh doanh đi công tác và khảo sát thị trƣờng nƣớc ngoài,

cung cấp các thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp phục vụ cho hoạt động sản

xuất và xuất khẩu của họ, tổ chức các đoàn doanh nghiệp Việt Nam tham dự hội

chợ ở nƣớc ngoài... Bên cạnh đó, hoạt động của các thƣơng vụ vẫn còn nhiều bất

cập cần khắc phục, nhƣ chƣa cung cấp thƣờng xuyên thông tin về cơ quan bộ,

chƣa có trang Web riêng, nội dung của việc nghiên cứu thị trƣờng nƣớc sở tại còn

nghèo nàn, chƣa đáp ứng yêu cầu trong nƣớc. Đặc biệt, thƣơng vụ ở Hàn Quốc -

một thị trƣờng mà Việt Nam bị nhập siêu lớn - chƣa đề xuất đƣợc các giải pháp

hữu hiệu để giảm nhập siêu.

104

Trong điều kiện đó, trƣớc mắt, để nâng cao vai trò của các thƣơng vụ trong

việc thực hiện chiến lƣợc phát triển xuất khẩu quốc gia, cần xác định rõ

nhiệm vụ của họ, tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật cũng nhƣ năng lực cán bộ để họ có

thể thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trƣờng theo đúng nhƣ yêu cầu mà công tác

xúc tiến xuất khẩu đòi hỏi và cung cấp thông tin cần thiết về trong nƣớc một

cách liên tục và kịp thời thông qua mạng thông tin nội bộ. Trong dài hạn, hoạt

động xúc tiến xuất khẩu (đƣợc hiểu theo nghĩa rộng) của các thƣơng vụ cần phải đặt

dƣới sự quản lý của Cục Xúc tiến Thƣơng mại và nếu cần, chúng có thể là bộ phận

(chi nhánh) của Cục này.

Ngoài ra, cần nâng cao năng lực hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các hiệp hội

ngành hàng, qua đó, có thể hỗ trợ hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và

nhỏ, bởi lẽ các thành viên của các hiệp hội này phần lớn là các doanh nghiệp vừa và

nhỏ.

 Mở rộng khả năng tiếp cận nguốn vốn cần thiết cho hoạt động xuất khẩu.

Theo ý kiến của các nhà xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng Việt

Nam sang Hàn Quốc nhìn chung rất khó tiếp cận với nguồn tài chính từ Quỹ Hỗ

trợ Phát triển nói riêng và từ nguồn tín dụng cho xuất khẩu nói chung. Thực tế

này gây khó khăn cho những doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng

hoá nông sản, nhƣ cà phê, chè..., vì họ luôn cần lƣợng vốn lớn khi đến vụ thu

hoạch. Vì thế, nên có những ngoại lệ đối với các trƣờng hợp này. Bên cạnh đó,

các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thƣờng có qui mô vừa và nhỏ, với nguồn tài

chính hạn hẹp, nên chính phủ cần đƣa ra các chính sách thích hợp nhằm mở rộng

khả năng tiếp cận với nguồn tín dụng của chính phủ, đồng thời đáp ứng các yêu

cầu của các hiệp định trong phạm vi WTO, nhƣ bảo lãnh vay tín dụng, áp dụng

các qui chế tiếp cận vốn riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

 Hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.

Trong tƣơng lai, khi quá trình hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng đƣợc

tăng cƣờng, cuộc cạnh tranh giành thị trƣờng, giành nguồn cung cấp đầu vào sẽ rất

gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, sản phẩm có khả năng cạnh tranh hơn sẽ là

những sản phẩm làm thoả mãn sở thích, mong muốn của ngƣời tiêu dùng lớn hơn.

105

Chính vì thế, để có đƣợc những mặt hàng thoả mãn ở mức độ ngày càng cao sở

thích của ngƣời tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải tập trung nhiều hơn vào việc

nghiên cứu thị trƣờng ngƣời tiêu dùng, thiết kế sản phẩm và tạo ra những sản

phẩm có thƣơng hiệu riêng với những đặc trƣng riêng của mỗi doanh nghiệp. Để

làm đƣợc điều đó, các doanh nghiệp cần đƣợc sự hỗ trợ của nhà nƣớc trong việc

cung cấp các thông tin về các thị trƣờng xuất khẩu, cụ thể là Hàn Quốc, và ngƣời

tiêu dùng ở đó. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề đảm

bảo các qui định về tiêu chuẩn khi tham gia xuất khẩu. Đây hiện đang là một rào

cản phi thuế quan đƣợc sử dụng khá phổ biến trên thế giới. Vừa qua, Việt

Nam có thể gia tăng mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trƣờng Hàn Quốc, một

phần bởi số doanh nghiệp Việt Nam đƣợc Trung tâm kiểm tra chất lƣợng vệ sinh

thuỷ sản Hàn Quốc công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trƣờng này tăng lên.

Để làm đƣợc việc này, chính phủ cần trang bị kiến thức cho các doanh nghiệp về

vấn đề tiêu chuẩn nói chung, giới thiệu về tiêu chuẩn của các thị trƣờng xuất

khẩu cụ thể...

Các giải pháp định hƣớng nhập khẩu:

 Tăng cƣờng thu hút đầu tƣ của Hàn Quốc vào các ngành công nghiệp phụ

trợ và một số ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh.

Nhƣ sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may, phát triển công nghệ thông

tin chẳng hạn. Vừa qua trong kỳ họp của Uỷ ban liên chính phủ Việt Nam - Hàn

Quốc, hai bên đã nhất trí rằng cần khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu

tƣ Hàn Quốc tăng cƣờng đầu tƣ vào Việt Nam, nhất là trong một số ngành công

nghiệp dệt, may, da giày, công nghệ thông tin, thông tin liên lạc, khai khoáng, năng

lƣợng và vào một số lĩnh vực có thể xuất khẩu quay trở lại Hàn Quốc đƣợc nhƣ

nuôi, trồng và chế biến thuỷ sản, nông sản. Đầu năm 2004, một dự án của Hàn

Quốc về việc đầu tƣ xây dựng 4 xí nghiệp liên kết nhau để sản xuất phụ liệu cho

ngành dệt, may đã đƣợc phê duyệt. Dự kiến năm 2007, dự án này sẽ hoàn tất và đi

vào hoạt động và có thể tuyển dụng tới 15.000 lao động. Đây là hƣớng đi thích hợp

để giảm bớt nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ Hàn Quốc. Bên cạnh đó, Việt

Nam và Hàn Quốc đã ký kết Chƣơng trình hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông

106

tin. Trong chƣơng trình này, Hàn Quốc đã chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân

lực Việt Nam cho ngành công nghiệp quan trọng này không chỉ để giúp Việt

Nam nâng cao trình độ nguồn nhân lực, mà còn cung cấp lao động có đủ trình độ

và kỹ năng cho các cơ sở có vốn đầu tƣ của Hàn Quốc ở nƣớc ta, và có thể còn xuất

khẩu lao động có kỹ năng sang Hàn Quốc.

 Tăng cƣờng và khuyến khích tìm nguồn nguyên liệu thay thế trong nƣớc.

Trƣớc thực tế rằng hiện nay, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam phần

lớn đều là những hàng hoá có giá trị gia tăng thấp, do phải nhập khẩu các nguyên

liệu đầu vào. Đặc điểm này đƣợc thể hiện rất rõ nét trong trao đổi hàng hoá Việt

Nam - Hàn Quốc. Các chuyên gia kinh tế đã cho rằng trong ngành may mặc

chẳng hạn, nếu Việt Nam sản xuất đƣợc, hoặc chỉ cần chủ động đƣợc nguồn

nguyên liệu đầu vào, cụ thể là vải các loại, thì giá trị xuất khẩu có thể tăng gấp 4-5

lần. Chúng ta đã xác định rằng Việt Nam có lợi thế cạnh tranh trong sản xuất sợi,

đặc biệt là sợi tơ chải kỹ. Trong điều kiện đó, nếu có đƣợc công nghệ thích hợp,

Việt Nam có thể sản xuất đƣợc nhiều loại vải cho ngành may mặc.

3.2.2.2. Các giải pháp trong lĩnh vực đầu tư

 Đối với công tác quản lý Nhà nƣớc về hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài:

Tổng kết thực hiện quá trình Thực hiện hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài

trong những năm qua, nhằm đổi mới toàn diện công tác quản lý Nhà nƣớc về

đầu tƣ nƣớc ngoài về bộ máy tổ chức, từ quy trình thẩm định dự án, cấp giấy

phép đầu tƣ và điều chỉnh giấy phép đầu tƣ, phân cấp quản lý các dự án theo

cấp TƢ và địa phƣơng; công tác quản lý Nhà nƣớc về vận động và xúc tiến đầu

tƣ cho phù hợp với thực trạng của tình hình mới của Việt Nam hiện nay và

trong bối cảnh sự cạnh tranh thu hút luồng vốn đầu tƣ giữa các nƣớc, nhất là

các nƣớc đang phát triển ngày càng quyết liệt.

Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ là cơ quan đại diện của Chính phủ thực hiện

nhiệm vụ chủ yếu về công tác lập chính sách vĩ mô về thu hút và sử dụng nguồn

vốn Đầu tƣ nƣớc ngoài, thực hiện chức năng giám sát việc tổ chức quản lý và

điều hành của các Bộ ngành, các Tỉnh, Thành phố trong lĩnh vực Đầu tƣ nƣớc

ngoài.

107

Công tác quản lý Nhà nƣớc ở cấp TƢ chuyển mạnh từ hình thức cấp Giấy

phép đầu tƣ sang hình thức Đăng ký cấp phép; phân cấp công tác cấp phép cho cấp

Tỉnh; công tác quản lý Nhà nƣớc về Đầu tƣ nƣớc ngoài của các Bộ ngành, chuyển

sang hình thức xây dựng chính sách và giám sát hoạt động các địa phƣơng và Ban

Quản lý KCN, KCX trong cả nƣớc theo hƣớng:

- Tiến hành tổng kết, đánh giá toàn diện tình hình thực hiện chủ trƣơng phân

cấp, uỷ quyền cấp phép, quản lý hoạt động Đầu tƣ nƣớc ngoài cho các địa

phƣơng, Ban quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh; trên cơ sở đó, trình Thủ

tƣớng Chính phủ đề án mở rộng phân cấp cấp Giấy phép đầu tƣ; chế độ đăng

ký cấp phép đầu tƣ phù hợp với lộ trình thực hiện các Cam kết quốc tế của

Việt Nam đi đôi với việc xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành và địa

phƣơng trong việc quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động Đầu tƣ nƣớc ngoài.

- Hoàn chỉnh và sớm ban hành quyết định về việc hỗ trợ vốn trung ƣơng đầu tƣ

xây dựng hạ tầng kỹ thuật KCN tại các địa phƣơng có điều kiện kinh tế – xã

hội khó khăn; gia hạn thêm thời gian về việc thí điểm thực hiện mở rộng

công năng KCX nhằm phát huy hơn nữa vai trò của các KCX này trong việc

mở rộng thị trƣờng xuất khẩu và để tạo điều kiện để những KCX này trở

thành những khu thƣơng mại tự do của Việt Nam.

- Rà soát, đánh giá và giải quyết kịp thời các vƣớng mắc phát sinh của các dự

án Đầu tƣ nƣớc ngoài nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy nhanh

tiến độ triển khai dự án thuận lợi, hiệu quả; xem xét rút Giấy phép đầu tƣ đối

với các dự án không còn năng lực và điều kiện triển khai theo đúng thủ tục

và quy trình pháp lý. Trong năm 2008, chuẩn bị cho công tác tổng kết, đánh

giá toàn diện tình hình hoạt động và sử dụng nguồn vốn Đầu tƣ nƣớc ngoài,

đề xuất các giải pháp tổng thể, toàn diện cho việc thu hút Đầu tƣ nƣớc ngoài

cho thời kỳ kế hoạch 5 năm tới.

- Tiếp tục cải tiến và công khai hoá các quy trình, thủ tục hành chính để đơn giản

hoá thủ tục đầu tƣ, chuyển từ cơ chế xin – cho sang cơ chế hỗ trợ và giám sát; rút

ngắn thời gian thẩm tra, cấp phép đầu tƣ, mở rộng diện đăng ký cấp phép đầu tƣ.

108

- Thực hiện nghiêm chỉnh quy trình, quy phạm ban hành văn bản pháp luật; chấm

dứt tình trạng ban hành văn bản vƣợt thẩm quyền; thực hiện nghiêm chỉnh thời

hạn xem xét, góp ý thẩm tra dự án Đầu tƣ nƣớc ngoài đã quy định trong các Luật

đầu tƣ, Luật Doanh nghiệp.

 Kiện toàn bộ máy tổ chức của cơ quan quản lý Nhà nƣớc về Đầu tƣ nƣớc

ngoài cho phù hợp với yêu cầu và nội dung của thời kỳ phát triển mới.

Trƣớc đòi hỏi phát triển của hoạt động Đầu tƣ nƣớc ngoài trong thời kỳ

mới, cơ cấu tổ chức bộ máy của Cơ quan quản lý Nhà nƣớc về Đầu tƣ nƣớc

ngoài cần đƣợc đổi mới theo hƣớng đảm bảo nội dung Xây dựng chính sách

quản lý vĩ mô; giám sát hoạt động quản lý Nhà nƣớc về hoạt động Đầu tƣ nƣớc

ngoài của các Bộ ngành, Tỉnh, Thành phố; là đầu mối xây dựng chính sách

điều phối nguồn lực cho các hoạt động XTĐT và các Chƣơng trình quốc gia

hàng năm về xúc tiến và vận động đầu tƣ.

 Nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý về

Đầu tƣ nƣớc ngoài.

Có kế hoạch cụ thể đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực vững

vàng về chính trị, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có

đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ, có tác phong công

nghiệp và tinh thần kỷ luật cao. Trong phát triển nguồn nhân lực theo những

tiêu chuẩn chung nói trên, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và kinh

doanh hiểu biết sâu về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt

nhanh những chuyển biến trên thƣơng trƣờng quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm

đƣợc những kỹ năng thƣơng thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Bên cạnh đó,

cần hết sức coi trọng việc đào tạo đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao.

Các giải pháp cụ thể:

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về Đầu tƣ nƣớc ngoài theo

hƣớng hình thành một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tƣ trong nƣớc và đầu tƣ

nƣớc ngoài, tạo thêm điều kiện thuận lợi, đảm bảo tính minh bạch và dễ tiên

đoán, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.

109

- Nghiên cứu kế hoạch thu hút và sử dụng hiệu quả vốn Đầu tƣ Hàn Quốc, xác

định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho từng năm, từng giai đoạn. Tạo

điều kiện cho khu vực Đầu tƣ nƣớc ngoài Hàn Quốc tham gia nhiều hơn vào

phát triển các ngành. Điều chỉnh các chính sách, quy định về đầu tƣ theo

hƣớng loại bỏ dần các hạn chế đối với Đầu tƣ nƣớc ngoài phù hợp với các cam

kết thoả thuận giữa hai nƣớc, và quốc tế.

- Đa dạng hoá hình thức đầu tƣ, nghiên cứu ban hành chính sách ƣu đãi thuế đối

với doanh nghiệp có vốn Đầu tƣ nƣớc ngoài khi cổ phần hoá và tham gia niêm

yết thị trƣờng chứng khoán, nâng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài lên 49%; ban hành quy chế quản lý và chính sách khuyến khích hoạt động

của các quỹ đầu tƣ tại Việt Nam.

- Nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp phụ trợ và

các giải pháp nhằm tăng cƣờng liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn đầu tƣ Hàn

Quốc nói riêng và nƣớc ngoài nói chung với kinh tế trong nƣớc.

3.2.2.3. Các giải pháp trong lĩnh vực trao đổi dịch vụ

Để có thể vƣợt qua đƣợc những thách thức đang đặt ra, nhằm mục tiêu

tăng cƣờng thu hút ngày càng nhiều khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam, du

lịch Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau:

 Xây dựng cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch Hàn

Quốc đến du lịch Việt Nam.

- Trƣớc hết cần đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập cảnh đối với khách du lịch

Hàn Quốc. Cụ thể cần miễn thị thực nhập cảnh đối với công dân Hàn Quốc

vào Việt Nam.

- Khuyến khích du lịch Hàn Quốc mua sắm các hàng hóa tại Việt Nam thông

qua việc áp dụng biện pháp hoàn thuế giá trị gia tăng nhƣ các nƣớc khác

đã thực hiện.

- Bảo đảm cung cấp thông tin đầy đủ cho khách du lịch Hàn Quốc về các

chính sách ƣu tiên của Việt Nam đối với thị trƣờng này cũng nhƣ các dịch vụ

phục vụ khách du lịch.

- Có các chính sách bảo đảm an ninh, an toàn cho khách du lịch, giữ vững uy

110

tín của Việt Nam nhƣ một điểm đến an toàn và thân thiện trong khu vực. Đây

là điều kiện quan trọng có tính quyết định đối với sự phát triển du lịch nói

chung trong đó có thị trƣờng du lịch Hàn Quốc.

- Ngành hàng không cần nghiên cứu tăng thêm tần xuất chuyến bay giữa Việt

Nam và Hàn Quốc, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của du khách.

 Đầu tƣ xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của khách

du lịch Hàn Quốc.

- Thực hiện qui hoạch xây dựng các khu du lịch nghỉ dƣỡng biển có qui mô

lớn và có khả năng cạnh trạnh trong khu vực để thu hút khách du lịch Hàn

Quốc đến nghỉ.

- Phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo chất lƣợng cao, dịch vụ đồng bộ,

đặc biệt tăng cƣờng các dịch vụ vui chơi giải trí, đồng thời tiến hành tôn tạo,

tu bổ các công trình văn hóa, di tích lịch sử phục vụ tốt việc khai thác kinh

doanh du lịch.

- Khuyến khích mở ra các loại hình du lịch mới nhƣ: du lịch sinh thái về các

vùng nông thôn, miền núi và đồng bằng sông Cửu Long, du lịch lặn biển,

nhảy dù. Đổi mới hoạt động lữ hành, lựa chọn tổ chức các chƣơng trình du

lịch phù hợp với đặc điểm và thị hiếu của khách du lịch Hàn Quốc.

 Việt Nam tăng cƣờng các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam

tại Hàn Quốc.

- Mở văn phòng đại diện du lịch Việt nam tại Hàn Quốc với chức năng thực

hiện các hoạt động nghiên cứu thị trƣờng, quảng bá, xúc tiến thu hút khách du

lịch Hàn Quốc đến Việt Nam. Trong trƣờng hợp du lịch Việt Nam chƣa đủ

điều kiện mở văn phòng đại diện riêng thì các cơ quan ngoại giao và thƣơng

vụ tại Hàn Quốc cần đứng ra thực hiện nhiệm vụ này, coi việc phát triển du

lịch cũng là một nhiệm vụ của phát triển kinh tế đối ngoại.

- Tổ chức các chƣơng trình giới thiệu du lịch Việt Nam tại Hàn Quốc. Tham

gia các hội chợ du lịch tại Hàn Quốc để giới thiệu các sản phẩm du lịch Việt

Nam tại thị trƣờng này.

- Tổ chức cung cấp thông tin đầy đủ về Việt Nam và du lịch Việt Nam thông

111

qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng của Hàn Quốc nhƣ: báo chí, vô

tuyến truyền hình, đài phát thanh của địa phƣơng, v.v. In ấn, phát hành các ấn

phẩm quảng bá về du lịch Việt Nam bằng tiếng Hàn Quốc.

- Tất cả các hoạt động xúc tiến du lịch tại Hàn Quốc cần đƣợc thống nhất

trong một chƣơng trình tổng thể chung, tránh dàn trải, manh mún giữa các

địa phƣơng, trong đó đề nghị Nhà nƣớc cấp một phần kinh phí hoạt động,

phần còn lại cần đƣợc huy động từ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần

kinh tế và từ sự trợ giúp quốc tế.

 Khai thác các yếu tố tích cực của hợp tác quốc tế và hội nhập kinh tế thế

giới để thu hút khách du lịch Hàn Quốc.

- Trên cơ sở Hiệp định hợp tác du lịch với Hàn Quốc đã đƣợc ký kết, cần xây

dựng và triển khai các chƣơng trình, nội dung hợp tác cụ thể về các lĩnh vực

nghiên cứu thị trƣờng, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, đầu

tƣ kinh doanh, cung cấp dịch vụ, v.v.

- Chủ động tham gia các hoạt động của các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực

nhƣ WTO, PATA, ASEANTA; khai thác các cam kết về tự do hóa thƣơng

mại dịch vụ trong lĩnh vực du lịch của các nƣớc ASEAN nhằm thu hút khách

du lịch Hàn Quốc đến du lịch Việt Nam thông qua nƣớc thứ ba đƣợc thể hiện

bằng việc tăng cƣờng nối Tour với các nƣớc, nhất là các nƣớc có chung

đƣờng biên giới.

 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ khách du lịch Hàn Quốc.

- Trƣớc mắt cần nhanh chóng đào tạo đội ngũ hƣớng dẫn viên du lịch biết tiếng

Hàn Quốc để có thể phục vụ số lƣợng khách ngày càng tăng. Ngoài ra cần

khuyến khích đội ngũ lao động phục vụ khách du lịch trong khách sạn, nhà

hàng, cơ sở dịch vụ học tiếng Hàn để có khả năng giao tiếp phục vụ khách.

- Chú trọng đào tạo bồi dƣỡng nghề du lịch nhằm nâng cao chất lƣợng phục

vụ. Mở rộng mạng lƣới các trƣờng dạy nghề du lịch ở miền Trung, Tây

Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ đạo các trƣờng đào tạo nghề du lịch

nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên, xây dựng và từng bƣớc hoàn chỉnh

chƣơng trình, giáo trình, sách giáo khoa để áp dụng thống nhất trong cả nƣớc.

112

- Phối hợp với Bộ Giáo dục-Đào tạo tăng cƣờng chất lƣợng đào tạo về du lịch

bậc đại học và trên đại học nhằm cung cấp cho ngành đội ngũ quản lý du lịch có

đủ trình độ, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn kinh doanh.

 Tăng cƣờng sự phối hợp liên ngành, liên vùng để triển khai đồng bộ các biện

pháp đẩy mạnh khai thác thị trƣờng khách du lịch Hàn Quốc.

- Sản phẩm du lịch mang tính tổng hợp, có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều

địa phƣơng. Chính vì vậy để có thể tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn

đối với khách du lịch Hàn Quốc thì cần có sự thống nhất, phối hợp chặt

chẽ giữa các ngành, địa phƣơng liên quan trong việc tạo lập cơ chế chính sách

và điều hành các hoạt động cụ thể.

- Những nội dung quan trọng cần có sự phối hợp liên ngành gồm: phát triển cơ sở

hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật giao thông, nhất là hàng không nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho khách du lịch Hàn Quốc vào, ra và đi lại trong lãnh thổ

Việt Nam; bảo vệ và tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa, cách mạng có sức thu hút

khách du lịch; bảo vệ tôn tạo cảnh quan môi trƣờng tại các khu điểm du lịch,

khôi phục các làng nghề truyền thống.

- Đối với các địa phƣơng, cần có mối liên kết chặt chẽ trong việc xây dựng qui

hoạch và tổ chức thực hiện qui hoạch phát triển du lịch sao cho có thể bổ sung

cho nhau, tránh trùng lắp về sản phẩm du lịch, làm triệt tiêu các lợi thế cạnh

trạnh giữa các địa phƣơng; xây dựng các tuyến du lịch liên vùng để phục vụ

khách du lịch một cách liên hoàn, thống nhất đảm bảo chất lƣợng.

3.2.2.4. Các giải pháp trong lĩnh vực trao đổi lao động

Thời gian qua hợp tác lao động của hai nƣớc đã đạt đƣợc những kết quả tốt đẹp,

song vẫn còn nhiều hạn chế bất cập cần giải quyết. Để khắc phục tồn tại trên và nắm

bắt đƣợc cơ hội mới, Việt Nam cần áp dụng một số giải pháp chính sách sau đây:

 Đổi mới quan điểm đối với vấn đề xuất khẩu lao động.

Cho đến nay, Việt Nam mới xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc theo

Chƣơng trình tu nghiệp sinh, tức là chỉ xuất khẩu lao động không kỹ năng. Điều kiện

ăn ở cho ngƣời lao động theo chƣơng trình này đƣợc đảm bảo, song mức lƣơng quá

thấp so với ngƣời bản xứ đã không hấp dẫn đƣợc ngƣời lao động. Sắp tới, rất có thể

113

Hàn Quốc sẽ huỷ bỏ việc nhập khẩu lao động theo chƣơng trình này,

mà chỉ nhập khẩu lao động theo Luật cấp phép lao động. Điều đó hàm ý rằng

vấn đề xuất khẩu lao động không kỹ năng sang Hàn Quốc là ít có triển vọng

phát triển. Vì thế, để có thể tiếp tục xuất khẩu lao động sang thị trƣờng Hàn

Quốc, Việt Nam cần phải xuất khẩu lao động có trình độ tay nghề nhất định, phải

quan tâm hơn đến vấn đề đào tạo nguồn lao động để xuất khẩu.

 Thúc đẩy đàm phán để tiến tới ký kết với Hàn Quốc thoả thuận về nhận lao

động Việt Nam theo hệ thống cấp phép lao động.

Đây là giải pháp tốt, có lợi cho cả chính phủ, khi Việt Nam đang muốn tăng

cƣờng xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc, và cho cả ngƣời lao động, vì thu

nhập của họ sẽ có cơ may đƣợc cải thiện và điều kiện lao động, sinh hoạt của họ sẽ

đƣợc đảm bảo tốt hơn.

 Chính sách tạo nguồn lao động xuất khẩu.

Đảm bảo chất lƣợng của lao động xuất khẩu là một trong những mục tiêu

cơ bản của chính sách tạo nguồn lao động xuất khẩu. Trong tƣơng lai, không chỉ

riêng thị trƣờng Hàn Quốc - nơi vốn dĩ có đòi hỏi rất cao về trình độ lao động, mà

tất cả thị trƣờng xuất khẩu lao động khác đều muốn thu hút lao động có tay nghề.

Hiện tại, chính phủ Việt Nam đang trao trách nhiệm đào tạo nguồn lao động cho

các doanh nghiệp xuất khẩu lao động thực hiện. Vì thế, mỗi doanh nghiệp cần

xây dựng kế hoạch, chƣơng trình, nội dung đào tạo cho phù hợp với nhu cầu của

thị trƣờng nhập khẩu và khả năng ký kết hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp.

Đối với thị trƣờng Hàn Quốc, việc đào tạo nghề, tiếng Hàn, tác phong làm việc, ý

thức chấp hành luật pháp, cũng nhƣ văn hoá Hàn Quốc là rất quan trọng.

Trong quá trình tạo nguồn lao động xuất khẩu, công tác chuẩn bị, tuyển chọn

lao động để đào tạo là hết sức cần thiết. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần

phối hợp chặt chẽ với chính quyền các địa phƣơng để phổ biến chủ trƣơng, chính

sách của nhà nƣớc về vấn đề xuất khẩu lao động, về yêu cầu của thị trƣờng nƣớc

ngoài đối với ngƣời lao động, kết hợp với các chính sách hỗ trợ kinh phí khác của

nhà nƣớc và địa phƣơng, tạo điều kiện cho ngƣời lao động có đủ điều kiện tài chính

để tham gia khoá đào tạo. Các doanh nghiệp này phải quan tâm đến việc lựa chọn

114

giáo viên phù hợp cho các khoá đào tạo, đặc biệt về kinh nghiệm nghề nghiệp,

nhằm đảm bảo chất lƣợng lao động đƣợc đào tạo.

 Nâng cao năng lực của doanh nghiệp xuất khẩu lao động.

Căn cứ vào hoạt động của các công ty phái cử, vào giữa năm 2005, KFSB

đã chấm điểm, xếp hạng các công ty phái cử của Việt Nam. SULECO đạt điểm

cao nhất (85,41 điểm) và đƣợc xếp loại B, các công ty còn lại đều xếp loại C.

Thực tế đó cho thấy năng lực hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao

động Việt Nam còn rất yếu, thể hiện chủ yếu thông qua trách nhiệm, khả

năng quản lý, chất lƣợng lao động xuất khẩu. Để cải thiện thực trạng này, về

phía nhà nƣớc, cần sửa đổi một số qui định chính sách, nhƣ làm rõ trách nhiệm

của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đối với cơ sở tiếp nhận lao động

cũng nhƣ đối với ngƣời lao động, trao cho họ quyền chủ động trong việc

chuẩn bị, đào tạo và tuyển chọn lao động xuất khẩu, đồng thời đƣa ra các chế tài

xử phạt khi khi các qui định chính sách, hoặc các điều khoản của hợp đồng

lao động không đƣợc thực hiện nghiêm.

115

KẾT LUẬN

Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đƣợc bắt đầu từ năm 1983 và đƣợc

phát triển mạnh sau khi hai nƣớc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào cuối

năm 1992. Mối quan hệ này đƣợc phát triển trên một nền tảng khá vững chắc. Đó là

sự kết hợp lợi thế so sánh - Hàn Quốc có khả năng về vốn, công nghệ và nguồn

nhân lực có tay nghề, còn Việt Nam có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động

dồi dào và rẻ, Hàn Quốc có nhu cầu mở rộng quan hệ kinh tế ra bên ngoài, trong

đó quan trọng nhất là quan hệ thƣơng mại và đầu tƣ, còn Việt Nam cũng có nhu cầu

mở rộng quan hệ kinh tế với các nƣớc với hy vọng thu hút đƣợc nguồn vốn và

công nghệ tiên tiến. Do nhu cầu và lợi ích của hai bên gặp nhau nhƣ vậy, quan hệ

song phƣơng Việt Nam - Hàn Quốc đã nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của hai

chính phủ. Vì thế, ngay sau khi hai nƣớc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức,

nhiều cơ chế hợp tác đã đƣợc hình thành, nhiều hiệp định đã đƣợc ký kết, tạo

nền tảng pháp lý cho sự phát triển quan hệ kinh tế giữa hai nƣớc. Bƣớc sang đầu

thế kỷ 21, trong bối cảnh hội nhập khu vực đƣợc tăng cƣờng, mối quan hệ này

tiếp tục nhận đƣợc sự quan tâm của hai chính phủ và giới kinh doanh hai nƣớc, do

đó, chắc chắn sẽ tiếp tục đƣợc phát triển đầy hứa hẹn.

Dù quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đƣợc phát triển với tốc độ cao trên

tất cả các lĩnh vực - trao đổi hàng hoá, quan hệ đầu tƣ, trao đổi dịch vụ và hợp

tác lao động, song tiềm năng phát triển còn chƣa khai thác hết. Trong lĩnh vực

trao đổi hàng hoá, Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu đáng khích lệ. Kim

ngạch trao đổi hàng hoá hai chiều luôn gia tăng. Trong giai đoạn 1992 đến nay,

tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt khá cao và chỉ thấp hơn

chút ít so với tốc độ tăng trƣởng kim ngạch nhập khẩu, tức mức độ gia tăng xuất

khẩu vào thị trƣờng Hàn Quốc của Việt Nam là khá lớn. Cơ cấu hàng hoá trao đổi

phản ánh trình độ phát triển của mỗi nƣớc, song có nhiều chuyển biến tích cực

trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hàn Quốc, thể hiện thông qua

sự giảm dần tỷ trọng của nguyên, nhiên liệu và tăng dần tỷ trọng của hàng chế

tạo, đồng thời xuất hiện một số mặt hàng mới. Hàn Quốc luôn là một trong 10 thị

trƣờng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trong tƣơng lai, Việt Nam vẫn có những

116

cơ hội gia tăng xuất khẩu sang thị trƣờng này, bởi nhiều mặt hàng có khả năng

xuất khẩu đƣợc của nƣớc ta chƣa tiếp cận đƣợc thị trƣờng Hàn Quốc hoặc chỉ

ở mức thấp nhƣ sản phẩm nông sản nhiệt đới, dầu thô, đồ gỗ, đồ nội thất, hàng

thủ công mỹ nghệ. Những thành tựu tƣơng tự cũng đƣợc thể hiện trong quan hệ

đầu tƣ và trao đổi dịch vụ giữa hai nƣớc.

Đối với Việt Nam, quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc đóng một vai trò

quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Hiện tại,

Hàn Quốc là nƣớc đầu tƣ lớn thứ 4, là thị trƣờng xuất khẩu lớn thứ 9 (không kể kim

ngạch xuất khẩu dầu thô), là nƣớc cung cấp hàng hoá nhập khẩu lớn thứ 5, là thị

trƣờng khách du lịch lớn thứ 5 và là thị trƣờng xuất khẩu lao động lớn thứ 4

của Việt Nam. Các dòng hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động đƣợc di chuyển

giữa hai nƣớc ngày càng gia tăng. Nhờ có sự di chuyển này, Việt Nam có cơ hội

tiếp thu những công nghệ hiện đại của Hàn Quốc, có đƣợc nhiều cơ sở sản xuất

mới, từ đó làm phong phú hơn nguồn hàng hoá cho xuất khẩu, cũng nhƣ cho tiêu

dùng trong nƣớc, tạo thêm đƣợc nhiều việc làm cho ngƣời lao động, trực tiếp và

gián tiếp và có thêm nguồn thu nhập ngoại tệ. Doanh nghiệp có vốn đầu tƣ Hàn

Quốc đã có những đóng góp lớn cho ngân sách quốc gia, trong việc đào tạo, nâng

cao trình độ quản lý cũng nhƣ tay nghề cho ngƣời lao động.

Thị trƣờng Việt Nam có vai trò rất quan trọng đối với các nhà đầu tƣ

Hàn Quốc. Trong điều kiện giá công lao động trong nƣớc rất cao, tài nguyên

nghèo nàn, nhiều nhà đầu tƣ Hàn Quốc đã coi Việt Nam là địa điểm hấp dẫn để

có đƣợc nguồn tài nguyên và lao động rẻ cần thiết cho việc sản xuất các sản

phẩm có hàm lƣợng lao động cao và các ngành công nghiệp lắp ráp. Thông

qua quan hệ với Việt Nam, các nhà kinh doanh Hàn Quốc không những đã mở

rộng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, vốn sang Việt Nam, mà còn mở rộng xuất

khẩu sang các nƣớc thứ ba. Vì thế, lợi ích của họ từ mối quan hệ này đƣợc

nhân lên gấp bội. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam chƣa phải là một thị

trƣờng nhập khẩu lớn của Hàn Quốc. Tình hình nhập siêu của Việt Nam với

Hàn Quốc vẫn còn khá lớn. Dù rằng, dòng FDI từ Hàn Quốc sang Việt Nam có

xu hƣớng tăng, tinh hình xuất khẩu lao động ngày càng khả quan hơn… Song,

117

cần thiết phải có các giải pháp nhằm khắc phục sự mất cân đối này.

Trong những năm tới, dƣới tác động của làn sóng toàn cầu hoá kinh tế và hội

nhập khu vực, quan hệ kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc sẽ tiếp tục đƣợc phát triển

mạnh mẽ. Hàn Quốc sẽ là bạn hàng lớn của Việt Nam trong trao đổi hàng hoá

và dịch vụ, là nƣớc đầu tƣ lớn vào Việt Nam, là thị trƣờng hấp dẫn để xuất khẩu

lao động của Việt Nam và là đối tác tin cậy của nƣớc ta trong hợp tác khoa học -

kỹ thuật, giáo dục, và văn hoá. Có thể nói triển vọng phát triển quan hệ Việt Nam -

Hàn Quốc là khá sáng sủa, cơ hội có nhiều, song thách thức cũng không ít. Việt

Nam cần phải có chiến lƣợc cạnh tranh với các nƣớc (nhất là với Trung Quốc và

nhiều nƣớc ASEAN) trong việc thu hút FDI, mở rộng trao đổi thƣơng mại, dịch

vụ, du lịch, hợp tác lao động với Hàn Quốc… .

Bên cạnh các giải pháp ở tầm vĩ mô, cần áp dụng một số giải pháp cụ thể

trong các lĩnh vực trao đổi hàng hoá, thu hút đầu tƣ và trao đổi dịch vụ. Trong

nhóm này bao gồm các giải pháp nhƣ điều chỉnh các qui định, văn bản pháp luật cho

thông thoáng hơn, tăng cƣờng công tác xúc tiến thị trƣờng, trong đó đặc biệt quan

tâm đến việc nghiên cứu thị trƣờng, xây dựng thƣơng hiệu, nâng cao chất lƣợng

hàng hoá và dịch vụ và đa dạng hoá sản phẩm, đào tạo nguồn nhân lực có chất

lƣợng và phù hợp với nhu cầu thực tế.

118

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Báo cáo Chiến lƣợc Phát triển Kinh tế - Xã hội năm 2001 - 2010 trình Đại

hội Đảng CSVN lần thứ IX.

2. Báo cáo của Dự án Vie/99/002 (2000), Hội nhập kinh tế và Chiến lƣợc phát triển

của Việt Nam.

3. Ngô Xuân Bình (2005), Hội nhập kinh tế Đông Á và tác động của nó tới quan hệ

kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc, Nhà xuất bản KHXH.

4. Ngô Xuân Bình và Phạm Quí Long (2000), Tăng trƣởng của Hàn Quốc, Nhà xuất

bản Thống kê.

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2004), Báo cáo quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc.

6. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (2006), Tổng quan về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt

Nam 15 năm qua.

7. Bộ tài chính và Kinh tế Hàn Quốc (2003), Bản dịch của Vụ Châu Á - Thái Bình

Dƣơng, Bộ Thƣơng mại Việt Nam. Hƣớng tới chân trời mới Phƣơng hƣớng chính

sách kinh tế của chính phủ kế nhiệm.

8. Các nghị định của chính phủ Việt Nam liên quan đến việc điều tiết hoạt động

thƣơng mại và đầu tƣ.

9. Ahn Seng-Chul (1997), Vai trò mới của chính phủ Hàn Quốc và ý nghĩa đối với

sự phát triển kinh tế Việt Nam, Kinh tế - Xã hội.

10. Nguyễn Cảnh Huệ và Nguyễn Trinh Nghiệu (2003), Nhìn lại 10 năm quan hệ

Việt Nam - Hàn Quốc, Nghiên cứu Đông Nam Á.

11. Nguyễn Thị Hƣờng (2003), Chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam trong xu thế

tự do hoá thƣơng mại, luận án tiến sĩ kinh tế, Hà Nội.

12. Claes Lindahl (2001), Đánh giá sơ bộ về tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam, Dự

án Vie/98/021 “Hỗ trợ xúc tiến thƣơng mại và phát triển xuất khẩu” do chính

phủ Thuỵ sĩ và UNDP tài trợ, VIETRADE và ITC thực hiện.

13. Trần Quang Minh (2007), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc: 15 năm hợp tác

119

và phát triển, Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 74, tr.5-10.

14. Trần Quang Minh – Võ Hải Thanh (2005), FDI và ODA của Hàn Quốc vào Việt

Nam: Thực trạng và triển vọng, Nhà xuất bản KHXH.

15. Đỗ Hoài Nam, Ngô Xuân Bình, SUNG-YEAL KOO (2005), Hợp tác kinh tế

Việt Nam – Hàn Quốc trong bối cảnh hội nhập Đông Á, Viện Khoa học xã hội

Việt Nam.

16. Nguyễn Lƣơng Phƣơng (2002), Hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia

và những giải pháp pháp lý trong tình hình mới, Những vấn đề kinh tế thế giới,

số 1, tr.48-52.

17. Nguyễn Quế (2003), Hoạt động hợp tác đầu tƣ Hàn Quốc - Việt Nam, Nhà xuất

bản Thống kê.

18. Phạm Minh Sơn và Chung Yoon-Jae (2003), Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc

- Thành tựu và thách thức, Nghiên cứu Đông Nam Á.

19. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á các số năm 2004-2007, Viện Nghiên cứu Đông

Bắc Á - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

20. Nguyễn Bá Thành (1996), Những tƣơng đồng về văn hoá giữa Việt Nam và Hàn

Quốc – Nhà xuất bản thông tin.

21. Thông tin từ mạng Internet, các trang web: http://www.wto.org,

http://apecsec.org.sg, http://www.dafel.gov.vn, http://www.kita.org,

http://www.mot.org.vn, http://www.mofa.gov.vn, …

22. Tổng cục Thống kê Việt Nam.

23. Trần Thị Thanh Trà (2006), Xuất khẩu lao động của Việt Nam sang thị trƣờng

Đông Bắc Á, Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Nguyễn Quang Vinh (2007), Thu hút nguồn vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt

Nam trong điều kiện hội nhập, Đại học Quốc gia Hà nội.

25. Viện Nghiên cứu Thƣơng mại (2002), Bộ Thƣơng mại, Quan hệ thƣơng mại

Việt Nam - Hàn Quốc.

120

Tiếng Anh

26. Ames Gross (2003), Human Resource Issues in South Korea (Presentation),

Pacific

Bridge, Inc, from Internet, http://www.pacificbridge.com

27. Chung Hue-kwan (2001), The Korea-Chile FTA - Significance and Implications,

East Asian Review, Vol. 12, No. 1, p.71-86.

28. Country Commercial Guide: Korea, Fiscal Year 2004, US Embasy in Seoul,

Korea.

29. Facts about Korea, Korean Overseas Culture and Information Service, Seul

Korea.

30. Human Resource Issues in Asia, Pacific Bridge, Inc, Internal publication,

Summer 1996, from Internet, http://www.pacificbridge.com

31. Korea trade and investment, các số năm 2006.

32. Korea Trade Policy Review, tháng 8/2000 (Rà soát chính sách Thƣơng mại

của Hàn Quốc trong WTO).

33. Korea’s Individual Action Plan 2003 (Kế hoạch hành động Quốc gia APEC

của Hàn Quốc năm 2003).

34. Kilssang Yoo (2001), Immigration and Labor Market Issues in Korea,

paper prepared for the Workshop on International Migration and Labor Market in

Asia, Tokyo, Japan.

35. KOICA, (2005), Partnership Building with ASEAN countries.

36. Uwe Schmidt (2002), Roadmap for Vietnam’s accession to the WTO, Viện

nghiên cứu Thƣơng mại.

121

Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF Merger! To remove this page, please register your program!

Go to Purchase Now>>

AnyBizSoft

PDF Merger

 Merge multiple PDF files into one

 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge

 Extract page(s) from different PDF

files and merge into one