BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
---------------------------------------
TRẦN THỊ CẦM NHUNG
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHI MINH
---------------------------------------
TRẦN THỊ CẦM NHUNG
NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Chuyên ngành: KINH TẾ TÀI CHÍNH- NGÂN HÀNG
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS ĐOÀN ĐỈNH LAM
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn tốt nghiệp do tôi nghiên cứu, không hề
sao chép của bất cứ ai. Tôi xin hòan toàn chịu trách nhiệm về những lới
cam đoan của mình
TP.HCM , ngày 06 tháng 06 năm 2012
NGƯỜI CAM ĐOAN
TRẦN THỊ CẨM NHUNG
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ................................................. 2
1. Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu của đề tài: ............................................... 2
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: ...................................................................... 4
3. Phƣơng pháp nghiên cứu: .................................................................................... 5
4. Dữ liệu nghiên cứu: ............................................................................................. 5
5. Nội dung luận văn: ............................................................................................... 5
CHƢƠNG 2: KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ............................................... 7
2.1 Các khái niệm giám sát tài chính: ...................................................................... 7
2.2 Các nghiên cứu về giám sát tài chính: ............................................................... 8
CHƢƠNG 3: VAI TRÒ CỦA GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRONG CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ 2008-2009 ............................................................... 14
3.1 Những sai sót trong giám sát là một trong những yếu tố góp phần khủng hoảng ở các nƣớc trên thế giới ............................................................................... 14
3.2 Bằng chứng thực nghiệm ................................................................................. 18
3.2.1 Các tƣ liệu nghiên cứu liên quan ............................................................... 19
3.2.2 Định lƣợng hai vấn đề của giám sát tài chính ........................................... 20
3.2.2.1 Cơ cấu giám sát ................................................................................... 20
3.2.2.2 Quản trị giám sát ................................................................................. 26
3.2.3 Kết qủa nghiên cứu về mối liên quan giữa giám sát và phục hồi kinh tế ...... 27
CHƢƠNG 4: GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM ................................... 35
4.1 Mô hình giám sát tài chính tại Việt Nam: ....................................................... 35
4.2 Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại ở Việt nam ............... 38
CHƢƠNG 5. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ GIÁM SÁT TÀI CHÍNH ................................................................................................................................... 43
5.1 Tổng quan về giải pháp: .................................................................................. 43
5.2 Sự kết hợp giữa cấu trúc giám sát và quản trị giám sát để tìm ra những động lực thúc đẩy giám sát tài chính .............................................................................. 46
5.3 Kiến nghị hoạt động giám sát tài chính ở Việt nam ........................................ 49
KẾT LUẬN: ............................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
IFI Tổ chức Tài chính quốc tế
BASEL Ủy ban giám sát ngân hàng BASEL
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
FSA Cơ quan dịch vụ tài chính
BIS Ngân hàng thanh tóan quốc tế
WB Ngân hàng thế giới
IOSCO Cơ quan giám sát hoạt động chứng khoán
IAIS Cơ quan giám sát bảo hiểm
OLS Phương pháp trong hồi quy tuyến tính
UBCKNN Ủy Ban chứng khoán Nhà nước
TTCK Thị trường chứng khóan
OTC Thị trường chứng khoán phi tập trung
UBGSTCQG Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
BHTGVN
Ngân hàng nhà nước
TCTD
Tổ chức tín dụng
NHNN
Phương pháp phân tích họat động rủi ro Ngân hàng
CAMELS
Hệ thống kế tóan quốc tế
IFRS
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Tập hợp các nhận định về sự thất bại trong cấu trúc giám sát và Bảng 1 quản trị giám sát
Bảng 2 Khả năng phục hồi, Cấu trúc giám sát và quản trị giám sát
Khả năng phục hồi, Quy định về chất lượng, Cấu trúc giám sát
Bảng 3 và Quản trị giám sát
Khả năng phục hồi, Quy định chất lượng tài chính, Cấu trúc giám sát và Quản trị giám sát Dựa vào biến phụ thuộc: Tăng trưởng trung bình GDP thực từ Bảng 4
năm 2008-2009
Khả năng phục hồi, Quy định chất lượng tài chính, Cấu trúc
giám sát và Quản trị giám sát
Bảng 5 Dựa vào biến phụ thuộc: Tăng trưởng trung bình GDP thực từ
năm 2008-2009
Khả năng phục hồi, Quy định chất lượng tài chính, Cấu trúc
giám sát và Quản trị giám sát
Bảng 6 Dựa vào biến phụ thuộc: Tăng trưởng trung bình GDP thực từ
năm 2008-2009
Bảng 7 Độ co giãn, giám sát hợp nhất, quản trị và các biến tương tác
Bảng 8 Cơ cấu giám sát và quy mô khu vực tài chính
Bảng 9 Quản trị giám sát và quy mô khu vực tài chính
Bảng 10 Cấu trúc giám sát, quản trị giám sát và các biến kết quả tài chính
Bảng 11 Cấu trúc giám sát, Biến quản trị giám sát và cấu trúc tài chính
Bảng 12 Các kiến nghị đề cập đến cấu trúc giám sát
Bảng 13
Các kiến nghị đối với sự thất bại giám sát
1
LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 đánh dấu một sự khởi
đầu của những nỗ lực trên toàn cầu nhằm cải thiện hiệu quả của việc giám sát
tài chính. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng trở lại vào năm 2007 - 2008 một lần
nữa làm thức tỉnh những nỗ lực của các tổ chức kinh tế và các quốc gia,những
cải trƣớc cuộc khủng hoảng 2007 dƣờng nhƣ không thể giúp tránh hoặc giảm
nhẹ các cuộc khủng hoảng tiếp theo.
Luận văn này tổng hợp những nghiên cứu và đƣa ra những phân tích
một cách có hệ thống đầu tiên về vai trò của sự thay đổi trong cơ cấu giám sát
tài chính cũng nhƣ quản trị giám sát tài chính, và kết luận rằng những nỗ lực
này không có tác dụng đối với khả năng phục hồi của nền kinh tế.
Qua việc sử dụng những khác biệt rõ rệt giữa giám sát vi mô và vĩ mô,
luận văn đúc kết rằng cần duy trì hai hệ thống tổ chức tách biệt nhằm kiểm tra
và cân bằng tốt hơn để cải thiện hoạt động quản trị giám sát, qua đó làm giảm
tỉ lệ thất bại của giám sát tài chính.
2
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, các quốc gia liên quan, tổ chức
Tài chính quốc tế (IFI), cũng nhƣ giới nghiên cứu đã dành nhiều công sức để
cải thiện chất lƣợng của các quy định và khung giám sát tài chính. Việc kết
hợp giữa khung pháp lý chặt chẽ hơn và giám sát tài chính hiệu quả hơn đƣợc
kì vọng sẽ giúp tránh hoặc giảm thiểu ảnh hƣởng của những cuộc khủng
hoảng tài chính kế tiếp có thể xảy ra.
Những sáng kiến liên tục đã đƣợc nghiên cứu và quan tâm nhƣ
“Nguyên tắc cốt lõi để giám sát ngân hàng hiệu quả” (BCPs) của tổ chức
Basel, sáng kiến mới về “Chƣơng trình đánh giá khu vực tài chính của ngân
hàng thế giới” của IMF, hay nghiên cứu khung pháp lý của Basel II. Trên
phạm vi quốc tế, những nỗ lực của một số chính quyền quốc gia đang tập
trung vào việc sửa đổi cơ cấu giám sát nhằm nâng cao hiệu quả giám sát. Trào
lƣu của những cải thiện này đƣợc khơi mào ở Anh từ việc hợp nhất tất cả các
tổ chức giám sát tài chính của họ thành cơ quan dịch vụ tài chính (FSA) vào
năm 1997. Sau đó, sự lắng xuống của cuộc khủng hoảng dẫn đến những tranh
luận khác về việc sửa đổi cơ cấu giám sát quốc gia. Cuối cùng, những công
trình này cũng đƣợc tiến hành để tăng cƣờng việc quản trị các cơ quan giám
sát.
Mặc dù không đƣa ra kết luận, nhƣng một số nghiên cứu trƣớc năm
2007 cho thấy việc thực hiện nguyên tắc cốt lõi để giám sát ngân hàng hiệu
quả (BCPs), quản trị giám sát và giám sát hợp nhất tốt hơn sẽ tạo ra tác động
tích cực đối với một khu vực tài chính ổn định và lành mạnh. Chính vì vậy,
những cải tiến này ngày càng đƣợc kì vọng sẽ giảm thiểu bất kì cuộc khủng
hoảng tài chính nào có thể xảy ra trong tƣơng lai.
3
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế bắt đầu vào năm
2007 đã dập tắt niềm hy vọng này. Các học giả và các nhà hoạch định chính
sách đã đề cập sự thất bại trong giám sát là một trong những nguyên nhân
chính, bên cạnh yếu tố kinh tế vĩ mô, sai lầm trong quản lý và sai lầm trong
các bộ phận của quản trị hệ thống tài chính nhƣ thực hành kế toán và tính
minh bạch.
Mục tiêu của bài nghiên cứu này gồm hai phần:
Thứ nhất, tác giả tổng hợp các kết quả kiểm tra thực nghiệm mới nhất
của nhóm nghiên cứu Donato Masciandaro, Rosaria Vega Pansini, Marc
Quintyn (thành viên độc lập của IMF) về ảnh hƣởng của những nỗ lực tăng
cƣờng giám sát bao gồm sự thay đổi trong cơ cấu giám sát và quản trị giám
sát (vấn đề quan trọng trong chƣơng trình nghị sự của các quốc gia) đối với sự
phục hồi của nền kinh tế. Tác giả muốn giới thiệu các kết quả thực nghiệm
chính đƣợc khảo sát bởi các thành viên độc lập của IMF, và có thể đƣợc tóm
tắt nhƣ sau:
(i) Những sửa đổi đƣợc đƣa ra trong giám sát tài chính bao gồm mô hình
giám sát hợp nhất và sắp xếp quản trị tốt hơn không có ảnh hƣởng tích
cực đối với sự phục hồi của nền kinh tế.
(ii) Kết quả thực nghiệm cũng tìm ra rằng chất lƣợng quản trị khu vực
công và mức độ tự do hóa tài chính cũng không tác động đến sự phục
hồi kinh tế đối với cuộc khủng hoảng này.
(iii) Mức độ tham gia của ngân hàng trung ƣơng không có bất kì tác động
đáng kể nào đến khả năng phục hồi.
Thứ hai, luận văn đƣa ra kết luận rằng hƣớng giám sát hợp nhất cho
các lĩnh vực và sắp xếp quản trị tốt hơn đều không ảnh hƣởng tích cực đến sự
4
phục hồi của nền kinh tế, đồng thời xem xét các đề nghị đã đƣợc đƣa ra để cải
thiện hiệu quả giám sát.
Ngoài ra, luận văn cũng đề nghị nên tiến hành giám sát thông qua hai
cơ quan riêng biệt (một cho giám sát vĩ mô và một cho giám sát vi mô) để cân
nhắc và kiểm tra cần thiết trong quá trình giám sát nhằm làm tăng hiệu quả
của quản trị giám sát.
Đề tài nghiên cứu là tƣ liệu tham khảo hữu ích để các nhà nghiên cứu,
nhà hoạch định chính sách cân nhắc để điều chỉnh mô hình giám sát tài chính
phù hợp, hiệu quả, tránh lập lại sai lầm ở các quốc gia khác nhằm tái cấu trúc
nền tài chính của Việt Nam hiện nay và hƣớng đến một hệ thống tài chính
chuyên nghiệp và hiệu quả sao cho xứng tầm với sự phát triển chung của kinh
tế đất nƣớc.
Đổi mới, hoàn thiện và xây dựng đƣợc hoạt động giám sát tài chính
một cách tổng thể cho Việt Nam chính là nền tảng căn bản cho mọi ngành
nghề khác của đất nƣớc cùng phát triển theo, hƣớng đến một nền kinh tế ổn
định, phát triển bền vững và lâu dài.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò giám sát tài chính trong khủng
hoảng kinh tế của các nƣớc trên thế giới và đề cập sâu những hƣớng khác
nhau với cách tiếp cận có hệ thống về cấu trúc giám sát, quản lý giám sát và
vai trò ảnh hƣởng của nó đối với tình hình kinh tế của một quốc gia.
Luận văn không nghiên cứu những ảnh hƣởng của sự mất cân bằng
kinh tế vĩ mô, sai lầm trong chính sách kinh tế vĩ mô, và sai lầm trong các bộ
phận của quản trị hệ thống tài chính nhƣ thực hành kế toán và tính minh bạch
có ảnh hƣởng đến khủng hoảng kinh tế.
5
3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn tổng hợp các lý luận đƣợc tổng kết từ kinh nghiệm của các
nƣớc trên thế giới, đặc biệt là các lý thuyết hiện đại về giám sát tài chính của
các nhà nghiên cứu kinh tế.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, phƣơng pháp nghiên cứu diễn
dịch - quy nạp đƣợc vận dụng để đánh giá hoạt động, bản chất giám sát tài
chính đối với sự khủng hoảng kinh tế thế giới.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng, đƣa
ra đề xuất giải pháp về vấn đề giám sát tài chính tại các quốc gia và kiến nghị
hoạt động giám sát tài chính tại Việt nam.
4. Dữ liệu nghiên cứu:
Luận văn tổng hợp các kết quả kiểm tra thực nghiệm mới nhất về ảnh
hƣởng của những nỗ lực tăng cƣờng giám sát bao gồm sự thay đổi trong cơ
cấu giám sát và quản trị giám sát đối với sự phục hồi của nền kinh tế. Phân
tích thực nghiệm sử dụng một cơ sở dữ liệu mới và phức tạp về cơ cấu giám
sát và quản trị giám sát của 102 quốc gia, cho phép phân biệt những ảnh
hƣởng liên quan của tính năng giám sát (cấu trúc và quản trị) đối với khả năng
phục hồi.
Luận văn sử dụng dữ liệu đƣợc công bố chính thức từ cơ quan Chính
phủ nhƣ Bộ Tài chính, Ủy Ban Giám sát tài chính quốc gia, các hãng tin uy
tín trên thế giới nhƣ BMI (Business Monitor International), SSRN (Social
Science Research Network), … các tƣ liệu từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành.
5. Nội dung luận văn:
Luận văn này có cấu trúc nhƣ sau.
Chƣơng 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
6
Chƣơng 2: Khái niệm và cơ sở lý luận.
Chƣơng 3: Vai trò của giám sát tài chính trong cuộc khủng hoảng kinh tế
2008-2009
Chƣơng 4: Giám sát tài chính tại Việt nam
Chƣơng 5: Trình bày kiến nghị về việc làm thế nào kết hợp cơ cấu giám sát và
quản trị giám sát để thúc đẩy giám sát tốt hơn.
Kết luận.
7
CHƢƠNG 2: KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Các khái niệm giám sát tài chính:
(i) Khái niệm giám sát tài chính:
Giám sát tài chính là sự giám sát của chính phủ đối với các tổ chức tài
chính theo luật. Mục tiêu nhằm phát huy những quy định hiện hành liên quan
đến khu vực tài chính và mục tiêu là duy trì sự ổn định của thị trƣờng tài
chính (Nguồn: Investor dictionary.com)
Theo dự thảo của Bộ Tài Chính Việt Nam, “Giám sát tài chính là việc
theo dõi, kiểm tra đánh giá các vấn đề về tài chính, chấp hành chính sách pháp
luật của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh”.
(ii) Giám sát thận trọng vĩ mô:
Giám sát vĩ mô tập trung giám sát vào sự ổn định của hệ thống tài
chính một cách tổng thể, hơn là các thành phần của nó. Sự cần thiết của
những quy định vĩ mô của hệ thống phát sinh bởi vì các hành động của các
công ty đơn lẻ hành động thận trọng trong hƣớng dẫn chung có thể dẫn đến sự
bất ổn của hệ thống tài chính. Ví dụ, nếu tất cả ngƣời cho vay hạn chế cho vay
hoặc tất cả các công ty bán tài sản cùng một lúc. (Nguồn: Qfinance - The
Ultimate Financial Resource)
Giám sát thận trọng vĩ mô tập trung vào các vấn đề chi tiết càng nhiều
càng tốt. Ví dụ: một trong những mục tiêu liên quan đến chính sách thận trọng
vĩ mô là để đảm bảo bong bóng về giá đƣợc định hƣớng (nhƣ thị trƣờng bất
động sản), hoặc làm nguội chúng trƣớc khi gây hại đến sự ổn định của tài
chính. Từ đó các tổ chức có nhiệm vụ đánh giá các rủi ro đối với sự ổn định
của hệ thống tài chính và ƣu tiên các đề nghị để kìm chế hoặc loại bỏ chúng.
8
Điều này có nghĩa là can thiệp kịp thời, chính xác những trƣờng hợp cụ thể.
(Theo Deutsche Bank AG)
(iii) Giám sát thận trọng vi mô:
Giám sát tập trung vào sự ổn định của những thành phần tạo nên hệ
thống tài chính. (Nguồn: Qfinance - The Ultimate Financial Resource)
2.2 Các nghiên cứu về giám sát tài chính:
Kể từ giữa những năm 1990, các tổ chức tài chính quốc tế (BIS, IMF,
WB), các học giả và chính quyền quốc gia đã bắt đầu chú ý đến chất lƣợng
giám sát, nhƣ một sự bổ sung cho những quan tâm từ lâu đối với những quy
định tài chính.
Mục đích của nghiên cứu tập trung vào hai vấn đề hiện đang nhận
đƣợc nhiều sự chú ý của các tổ chức trên bao gồm:
(i) Những sửa đổi trong cơ cấu giám sát (chủ yếu theo hƣớng hợp nhất
các cơ quan giám sát)
(ii) Những cải thiện trong quản trị giám sát.
Trƣớc khi đề cập sâu hơn vào hai vấn đề này, chúng ta cần đặt các sáng
kiến cải thiện hiệu quả giám sát đã thực hiện trong bối cảnh lớn hơn.Các sáng
kiến này thƣờng đƣợc tập trung bốn nhóm sau:
(i) N là các nguyên tắc cốt lõi Basel để giám sát ngân hàng hiệu quả
(BCPs). Nguyên tắc này đƣợc ban hành từ năm 1996 (Ủy ban Basel, 1996) và
đƣợc áp dụng ít nhiều trƣớc cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Mục tiêu của
BCPs là đẩy mạnh các phƣơng pháp tốt nhất trong khung quy định cũng nhƣ
trong sự giám sát ngân hàng. BCPs đã đƣợc bổ sung vài năm sau đó bằng các
nguyên tắc tƣơng tự cho việc giám sát hoạt động chứng khoán (IOSCO) và
giám sát bảo hiểm (IAIS).
9
Việc áp dụng BCPs đƣợc đẩy mạnh nhiều hơn nhằm đối phó với cuộc
khủng hoảng châu Á. Cuộc khủng hoảng này đã làm phát sinh nhiều sai sót
lớn trong quá trình giám sát bên cạnh các lỗ hổng pháp lý. Vì vậy, các nguyên
tắc BCPs đã đƣợc sử dụng đề cùng đánh giá dự án đánh giá khu vực tài chính
(FSAPs) do IMF và ngân hàng thế giới phối hợp thực hiện. (ii) Khuynh
hƣớng cải tiến thứ hai đối với giám sát tài chính là việc nghiên cứu của các
cấp chính quyền quốc gia nhằm xây dựng cơ cấu kiểm soát tài chính để giúp
việc giám sát đạt đƣợc kết quả cao nhất có thể.
Bên cạnh tầm quan trọng của chất lƣợng và quy trình giám sát thì cơ
cấu giám sát vẫn nhận đƣợc rất nhiều sự quan tâm. Việc hợp nhất tất cả các
khu vực giám sát cùng một cơ chế đƣợc quản lý bởi một tổ chức ngày càng
đƣợc và đƣợc xem là giải pháp tối ƣu nhất để xóa mờ ranh giới giữa các tổ
chức tài chính đồng thời là nền tảng hoạt động cho tất cả các tập đoàn tài
chính.
Vào những năm 1990, ác quốc gia trong khu vực Scandinavia là những
nƣớc có những “cuộc cải cải cách rầm rộ” và đƣợc xem là những tiên cho
phong trào này. Tại Anh, cơ quan dịch vụ tài chính (FSA) cũng đƣợc chính
thức thành lập từ năm 1997. Kể từ đó, rất nhiều quốc gia đã cải tổ lại cơ cấu
giám sát của họ. Tuy nhiên, chắc chắn không có giải pháp nào phù hợp với tất
cả mọi quốc gia. Vì vậy, không phải tất cả các quốc gia đều lựa chọn hình
thức hợp nhất, nhƣng một số mô hình đã xuất hiện với các vai trò khác nhau
của Ngân hàng Trung ƣơng trong quá trình giám sát. Trong nỗ lực phân biệt
các xu hƣớng giám sát mới, Masciandaro và Quintyn (2009) đã rút ra kết luận
trong báo cáo “Cải cách giám sát tài chính và vai trò của ngân hàng trung
ương” rằng trƣớc cuộc khủng hoảng năm 2008, xu hƣớng của những thay đổi
trong cơ cấu giám sát dƣờng nhƣ có đặc trƣng và quan hệ mật thiết với nhau
là: sự hợp nhất của cơ cấu giám sát lúc nào cũng song hành với việc chuyên
10
môn hóa Ngân hàng Trung ƣơng trong việc theo đuổi các chính sách tiền tệ,
vào ngƣợc lại, ở đâu có sự hiện diện của các tổ chức giám sát thì có sự tham
gia của Ngân hàng Trung ƣơng.
(iii) Cải tiến thứ ba tập trung vào sự cần thiết của các nguyên tắc đối với
quản lý giám sát tốt nhằm đứng vững trƣớc những thâu tóm khác nhau về
chính trị, thâu tóm công nghiệp và sự tự thâu tóm, mà các nhà giám sát đang
phải đối mặt. Das và Quintyn (2002) Quintyn (2007) đã đề xuất một khuôn
khổ quản trị bao gồm bốn khía cạnh đó là: độc lập, trách nhiệm, minh bạch
their Political Maters: và toàn vẹn. (Nguồn: Robust Regulators and
Independence and Accountability in Theory)
Quintyn và Taylor, năm 2002 cũng nhƣ Hüpkes, Quintyn và Taylor,
2005 đã có công trình nghiên cứu về tính độc lập của giám sát và tính trách
nhiệm nhƣ là các yếu tố quan trọng cần thiết trong những trụ cột quản trị.
Ponce (2009) đã phát triển một mô hình lý thuyết cho thấy rằng giám
sát độc lập có tác động tích cực đến việc quản lý giám sát. Điểm mấu chốt của
công tác quản trị là giám sát viên độc lập cần xây dựng, thiết lập các sắp xếp
có trách nhiệm bởi vì không thể đƣa ra đƣợc những quy định chi tiết trong
thực tế do có rất nhiều tình huống có thể xảy ra trong khi giám sát. (Nguồn: A
Normative Analysis of Banking Supervision: Independece, Legal Protection
and Accountability – Paolo Baffi Centre Research Paper, SSRN”
(iv) Thứ tƣ, một số học giả cho rằng việc quản trị tài chính có thể có
lợi khi dựa trên nguyên tắc thị trƣờng nhiều hơn, và sẽ đƣợc bổ sung trong
quá trình giám sát. Calomiris (1999a và 1999b) lập luận rằng việc yêu cầu các
ngân hàng duy trì trích một khoản dự phòng tối thiểu với các khoản nợ của
các tổ chức tài chính con sẽ làm giảm rủi ro đạo đức thƣờng có đƣợc tạo
ra bởi các mạng lƣới an toàn của chính phủ (trong đó bao gồm giám
11
sát). Cùng ý tƣởng đó, Barth, Caprio và Levine (2006) cũng lập luận rằng cơ
chế khuyến khích giám sát không bao giờ hoàn toàn giống nhau, chủ yếu là vì
lý do chính trị và quan liêu. Vì vậy, cơ chế và động cơ của giám sát cần
phải đƣợc tạo ra để thúc đẩy theo quy luật thị trƣờng nhƣ là một sự kiểm tra
bổ sung về hệ thống giám sát và quản trị tổ chức tài chính.
Bằng chứng thực nghiệm thu thập đƣợc trƣớc cuộc khủng hoảng về tác
động của những sáng kiến giúp tăng cƣờng hiệu quả giám sát trong khu vực
tài chính lành mạnh đã làm gia tăng những kì vọng, mặc dù không chắc
chắn. Những phát hiện chính đƣợc xem xét theo thứ tự nhƣ trƣớc: BCPs, cơ
cấu giám sát và quản lý giám sát (nguyên tắc thị trƣờng đƣợc đề cập trong ba
yếu tố này khi áp dụng).
Sundararajan, Marston và Basu (2001) đã có những nỗ lực đầu
tiên để đánh giá tác động của việc áp dụng BCPs trong các hệ thống tài chính,
nhƣng họ đã không thể tìm ra sự tác động trực tiếp. Nhƣng gián tiếp, việc tuân
thủ các nguyên tắc BCPs dƣờng nhƣ có một tác động lành mạnh ngân hàng
thông qua hiệu ứng tƣơng tác với các biến số vĩ mô có liên quan. (Nguồn: Bài
nghiên cứu “Financial System Standards and Financial Stability: the case of
Basel Core Principles, IMF Working Paper”
Ngƣợc lại, Podpiera (2006) nghiên cứu với một mẫu lớn hơn cho thấy
độ phù hợp cao hơn của BCP có tác động tích cực đến chất lƣợng tài sản ngân
hàng và cũng có xu hƣớng hạ thấp mức lãi ròng.
Công trình của Demirgüç-Kunt, Detragiache, và Tressel (2006) nói
chung đƣa ra cùng một kết luận. Tuy nhiên, họ cũng phân tích các đánh giá
BCP trong một nỗ lực tìm hiểu xem các bộ phận khác nhau của BCP có
tác động khác nhau về tính lành mạnh của ngân hàng. Kết luận rằng việc tuân
thủ những nguyên tắc có đề cập đến vấn đề công khai và minh bạch, đặc biệt
12
nguyên tắc 21 có tác động đáng kể nhất đối với sự minh bạch tài
chính. Điều này cũng phù hợp với những phát hiện của Beck, et al.
(2003). Một bài báo sau này (Demirgüç- Kunt, Detragiache, 2010)
kết luận rằng việc áp dụng BCPs hoặc các thành phần riêng lẻ của nó là không
liên quan chặt chẽ đến các chỉ số lành mạnh ngân hàng nhƣ là mô hình Z-
scores hay hệ thống Z-score mở rộng.
Các tài liệu về cơ cấu giám sát đề cập đến hai câu hỏi chính: (i) Liệu
một ngƣời giám sát có làm việc cho nhiều tổ chức hay không? (ii) Ngân hàng
trung ƣơng nên tham gia vào giám sát hay không?
Barth, Nolle, Phumiwasana và Yago (2002) đã sử dụng các thử nghiệm
khác nhau để xác định liệu rằng sự khác biệt trong cơ cấu giám sát có
tƣơng quan một cách đáng kể với sự khác biệt trong cấu trúc ngành công
nghiệp ngân hàng hay không. Đối với một mẫu 133 quốc gia giai đoạn 1996 -
1999, họ không tìm thấy mối tƣơng quan giữa số lƣợng các cơ quan giám sát
với bất kỳ tính năng chính của một hệ thống ngân hàng.
Čihák và Podpiera, (2007) cho rằng tính hợp nhất nên đƣợc kết hợp với
chất lƣợng cao hơn và tính nhất quán của giám sát qua các tổ chức giám
sát, và đƣợc đo bằng mức độ phù hợp với tiêu chuẩn BCP, IOSCO, và IAIS.
Cho dù cơ quan giám sát hợp nhất nằm bên trong hoặc bên ngoài các Ngân
hàng Trung ƣơng thì cũng không có một tác động đáng kể nào về chất lƣợng
giám sát.
Arnone và Gambini (2007) sử dụng mức độ phù hợp với BCPs để điều
tra mối quan hệ có thể có giữa khả năng áp dụng của mỗi nƣớc và cách mà
những nƣớc này đã tổ chức cơ cấu giám sát của họ, cụ thể thông qua sự tham
khảo với hai vấn đề cơ bản: mô hình giám sát và vai trò của các Ngân hàng
Trung ƣơng. Hai cuộc kiểm tra kinh tế dựa trên một đặc điểm kỹ thuật thống
13
kê OLS với các lỗi tiêu chuẩn về phƣơng sai không đồng nhất cho thấy các
quốc gia áp dụng một mô hình giám sát hợp nhất sẽ đạt đƣợc một mức
độ tuân thủ cao hơn, với một số bằng chứng ủng hộ của những ngƣời trong
các Ngân hàng Trung ƣơng.
Với mẫu 140 quốc gia giai đoạn 1998-2006, Eichengreen và Dincer
(2011) tìm ra rằng sự hiện diện của các giám sát viên độc lập nằm bên ngoài
các ngân hàng trung ƣơng có liên quan với ít các khoản nợ xấu hơn, và rằng
những quốc gia đó ít gặp phải các cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng.
Theo nhóm nghiên cứu Donato, Pansini, Quintyn, tác động của chất
lƣợng quản trị giám sát về tính lành mạnh tài chính chỉ đƣợc phân tích theo
kinh nghiệm của một nghiên cứu. Chất lƣợng của quản trị là vấn đề tạo nên
tính lành mạnh của ngân hàng. Kết quả cũng chỉ ra rằng quản trị tốt khu vực
công sẽ khuếch đại các tác động của quản trị giám sát trong hệ thống tài chính
lành mạnh.
14
CHƢƠNG 3: VAI TRÒ CỦA GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TRONG CÁC CUỘC KHỦNG HOẢNG KINH TẾ 2008- 2009 3.1 Những sai sót trong giám sát là một trong những yếu tố góp phần
khủng hoảng ở các nƣớc trên thế giới
Bên cạnh sự mất cân bằng kinh tế vĩ mô, sai lầm trong chính sách kinh
tế vĩ mô, thì những thất bại về quy định trong tất cả các phân đoạn của hệ
thống tài chính đã thu hút đƣợc nhiều sự chú ý và là yếu tố góp phần dẫn đến
khủng hoảng bắt đầu vào năm 2007, và lan mạnh hơn trong năm 2008.
Nhiều nhà kinh tế đã đề cập đến những sai lầm trong giám sát tài chính
đã dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhóm nghiên cứu Donato, Pansini,
Quintyn, đã đƣa ra những nghiên cứu chuyên sâu hơn và đánh giá đầy đủ hơn
về những sai lầm trong giám sát đối với cuộc khủng hoảng.
Những kết luận tiêu biểu nhất đƣợc tóm tắt trong Bảng 1. Đây là tập
hợp các tài liệu tham khảo đề cập đến những sai lầm trong cơ cấu giám sát và
quản trị giám sát.
Bảng 1: Tập hợp các nhận định về sự thất bại trong cấu trúc giám sát và
quản trị giám sát
Cấu trúc giám sát
Thất bại trong sự hợp tác- Ngân hàng trung ƣơng không có đủ
Builter (2009) thông tin về tình trạng của hệ thống ngân hàng (Anh)
Sự giám sát nên đƣợc đặt ở trong ngân hàng TW – cuộc
khủng hoảng đã chỉ ra rằng sự tách biệt giữa cơ quan giám sát Cecchetti (2008) và ngƣời cho vay đã tạo thêm nhiều áp lực lên hệ thống.
Thiếu sự phối hợp giữa cơ quan giám sát ở cấp quốc gia và
Claessens (2010) quốc tế.
15
Thiếu quan tâm đến những rủi ro mang tính hệ thống
Mức độ siêu quốc gia của giám sát ở Châu Âu không đƣợc
xây dựng một cách thỏa đáng để bắt kịp với các vấn đề xuyên
De Larosiere (2009) quốc gia
Cấu trúc giám sát phân mãng ở Mỹ không có khả năng giám
sát thị trƣờng tài chính Mỹ vốn có nhiều phức tạp, quan hệ Leijonhufv ud (2009) chằng chịt trong thực tế.
Đối với quản trị giám sát
Sự thâu tóm quyền lực (cụ thể là FED)
Builter (2008) Nhận thức về sự thâu tóm quyền lực (do Wall street)
Mâu thuẫn chính trị và động cơ quan liêu đối với ngƣời giám
sát
Thiếu sự giám sát Caprio (2008)
Những ngƣời giám sát thiếu trách nhiệm
Thiếu nguồn lực giám sát
Claessens (2010) Thiếu sự quan tâm đến các rủi ro mang tính hệ thống
Các nhà giám sát đã không kiên trì thu thập thông tin trên mối
liên kết hệ thống
Các quy trình và hành động không đầy đủ để có những quyết
định giám sát mang tính thách thức trong hoàn cảnh xuyên
quốc gia (cụ thể là EU) De Larosiere (2009)
Thiếu sự thẳng thắn và hợp tác giữa các giám sát viên
Không đồng đều về mặt quyền hạn của các giám sát viên ở
các nƣớc
16
Thiếu sót trong vấn đề quản trị của các giám sát viên
Enriques và Hertig (2010)
Giám sát tập trung quá nhiều vào các ngân hàng riêng lẻ,
không dựa trên các rủi ro mang tính hệ thống.
Những sự thiếu sót trong các quy trình nội bộ, kỷ luật quản trị
và kỹ năng giám sát
FSA (the turner review 2009) Thiếu sót trong việc giám sát ngành ngân hàng xuyên quốc
gia.
Sự lựa chọn các chính sách khác nhau trong việc cải thiện sự
cân bằng và bền vững
Sự điên rồ của các đám đông
Áp lực mang tính thị trƣờng và chính trị lên các giám sát viên
Một cuộc đua sinh tử của các giám sát viên để tạo ra một ê kip
Mô hình quản trị giám sát yếu kém và nhiệm vụ chƣa đầy đủ
Văn hóa giám sát yếu kém cùng với các ƣu đãi chƣa phù hợp
trong các cơ quan giám sát
Sự hiểu biết chƣa đầy đủ trong nội bộ các tổ chức giám sát
Palmer và Cerutti (2009) của các định chế tài chính và những gì điều khiển hành vi của
họ
Các quy định của ngân hàng trung ƣơng/sự giám sát và những
thỏa thuận ba bên chƣa đầy đủ
Sự hợp tác tối ƣu giữa các tổ chức giám sát và sự giám sát
đƣợc hợp nhất nhƣng kém hiệu quả của các nhóm tài chính
lớn
Không có sự giám sát thực tế ở một vài tổ chức giám sát
Tabellini Quan liêu
17
Phán quyết yếu kém của các giám sát viên
Các ƣu đãi bị bóp méo
Giám sát bị hạn chế bởi khung pháp lý
Không chủ động trong việc đối phó với những rủi ro mới phát
sinh
Viñals (2010) Thiếu sự toàn diện
Không giải quyết và đƣa ra kết luận đối các vấn đề nảy sinh
Các sai lầm về động cơ giám sát:
+ Các tổ chức giám sát thƣờng không thể hiện tính độc lập
ở các ngân hàng trung ƣơng
+ Các giám sát viên không gây ra rủi ro cho tổ chức của họ.
+ Các tổ chức giám sát có xu hƣớng bảo hộ cho ngành
Weder di Mauro (2009) công nghiệp địa phƣơng hoặc bảo đảm lợi thế cạnh tranh
cho ngành công nghiệp địa phƣơng hơn là các tổ chức tài
chính khác
Sai lầm trong cơ cấu giám sát đƣợc đề cập trong hai trƣờng hợp cụ
thể. Đối với Mỹ, hệ thống giám sát phân mảng ở Mỹ đã góp phần lớn dẫn
đến cuộc khủng hoảng. Một ví dụ khác là Vƣơng quốc Anh, ngân hàng Anh
báo cáo là không có thông tin về tình hình của các ngân hàng và do đó không
thể can thiệp kịp thời thông qua kế hoạch cho vay. Các nƣớc khác cũng
thƣờng cho rằng, trong bất kỳ các quốc gia nào bị ảnh hƣởng bởi cuộc khủng
hoảng, việc không có tổ chức đảm trách giám sát hệ thống hay bảo đảm an
toàn vĩ mô là một sai lầm về mặt cơ cấu.
Ngoài ra, còn có những vấn đề đi ngƣợc với thực tế đƣợc cảnh tỉnh từ
cuộc khủng hoảng. Nhiều quốc gia đã sửa đổi cơ cấu giám sát của mình (ví
18
dụ: Bỉ, Đức, Ireland), đây là dấu hiệu cho thấy rằng lỗ hổng trong cơ cấu giám
sát là một phần nguyên nhân gây ra khủng hoảng ở các quốc gia này.
Ngƣợc lại, những lỗ hổng trong quản trị giám sát cũng đƣợc nghiên
cứu kĩ. Hầu hết các nhà nghiên cứu đã đề cập ít nhiều đến các vấn đề liên
quan một cách giống nhau, nhƣng thƣờng đƣợc đặt tên hơi khác nhau.
Các tác giả này đã cho rằng tính độc lập và trách nhiệm yếu kém trong
giám sát, sự thâu tóm về công nghiệp hoặc chính trị, sự sai lầm về động cơ
giám sát xuất phát từ nền tảng chính trị, thiếu sự táo bạo để tìm hiểu hoặc đƣa
ra kết luận và giải quyết.
Một số tác giả cũng chỉ ra rằng sự thiếu kỹ năng của các giám sát viên
dẫn đến việc họ không hiểu rõ những rủi ro liên quan đến các sản phẩm tài
chính phức tạp cũng nhƣ những hoạt động ngầm khác.
Ở cấp độ quốc tế (liên quan giám sát xuyên biên giới), một vài điểm
liên quan đến sự không nhất quán về các động cơ cho các giám sát viên giúp
họ tự nguyện hợp tác, hoặc thiếu cơ chế hợp tác, và có nhiều điểm khác biệt
về chất lƣợng giám sát.
Tóm lại, đề tài này tập hợp những đánh giá về vai trò của giám sát
trong cuộc khủng hoảng tài chính và cho rằng những cải tiến trong cơ cấu
khuyến khích giám sát là không hiệu quả.
3.2 Bằng chứng thực nghiệm
Phần này đề cập đến các phân tích thực nghiệm về vai trò của hai tính
năng giám sát (cấu trúc và quản trị) đối với khả năng chống lại những cú sốc
từ cuộc khủng hoảng của một quốc gia. Các ảnh hƣởng của suy thoái kinh tế
gần đây đối với các quốc gia là rất đa dạng và hầu nhƣ phụ thuộc chủ yếu vào
thể chế và đặc điểm kinh tế từng quốc gia.
19
Các phân tích thực nghiệm sử dụng một cơ sở dữ liệu mới và phức tạp
về cơ cấu giám sát và quản trị giám sát của 102 quốc gia, cho phép phân biệt
những ảnh hƣởng liên quan của tính năng giám sát (cấu trúc và quản trị) đối
với khả năng phục hồi.
3.2.1 Các tƣ liệu nghiên cứu liên quan
Nhóm nghiên cứu Donato Masciandaro, Rosaria Vega Pansini, Marc
Quintyn (thành viên độc lập của IMF) đã dựa trên các nghiên cứu khác và bổ
sung hai vấn đề quan trọng trong các nghiên cứu thực nghiệm hiện tại.
Trƣớc tiên là tập trung vào các động lực để phục hồi vĩ mô. Vấn đề
thứ hai đề cập đến những phân tích ảnh hƣởng đến hoạt động giám sát nhƣ đã
thảo luận trong phần trƣớc.
Nghiên cứu gần đây giữa các quốc gia đã đƣa ra các dự đoán về khả
năng phục hồi bằng cách phân tích những nguyên nhân tiềm ẩn của cuộc suy
thoái kinh tế và tài chính. Cuộc khủng hoảng gần đây là một cú sốc cho hầu
hết các nƣớc trên thế giới. Đồng thời, mức độ của cuộc suy thoái kinh tế thay
đổi đáng kể giữa nƣớc này và nƣớc khác. Nhƣ Giannone đã chỉ ra trong tài
liệu nghiên cứu “Sự tự do về thị trường và suy thoái toàn cầu - 2010”, thì tính
chất toàn cầu của cuộc khủng hoảng và mức độ ảnh hƣởng khác nhau là cơ
hội duy nhất để làm sáng tỏ các mối quan hệ nếu có giữa các đặc điểm của
các hệ thống giám sát tài chính quốc gia và khả năng phục hồi của nó đối với
những cú sốc tài chính, kinh tế. Nghiên cứu này tập trung vào các tính
năng của giám sát tài chính.
Về khía cạnh này, trong tài liệu nghiên cứu “Yếu tố quyết định tài
chính vĩ mô đối với cuộc đại khủng hoảng tài chính của nhóm Caprio –
2010” cũng có đánh giá tƣơng tự. Trong đó sử dụng một chỉ số về thực hành
20
giám sát để đánh giá các mối quan hệ của nó với khả năng gây ra một cuộc
khủng hoảng.
Chỉ số này đo lƣờng mức độ các giám sát viên ngân hàng quốc gia có
quyền đƣa ra những hành động giải quyết cụ thể, và mức độ này là không
đáng kể.
Bài nghiên cứu này đào sâu những hƣớng khác nhau với cách tiếp cận
có hệ thống về cấu trúc giám sát, quản lý giám sát và vai trò ảnh hƣởng của
nó đối với tình hình kinh tế của một quốc gia
3.2.2 Định lƣợng hai vấn đề của giám sát tài chính
3.2.2.1 Cơ cấu giám sát
Để đo lƣờng các tính năng của hoạt động giám sát, chúng ta cần phải
chuyển đổi thông tin từ định tính sang định lƣợng.
Đối với cơ cấu giám sát, có hai chỉ số để đánh giá các đặc điểm nổi
bật đã đề cập, đó là mức độ hợp nhất (thống nhất) của cơ cấu giám sát và sự
tham gia của ngân hàng trung ƣơng trong việc giám sát.
Bằng việc áp dụng chỉ số giám sát tài chính Herfindahl Hirschman
(FSHH) (FSHH là một công cụ đo lường mức độ hợp nhất của các quyền hạn
giám sát), chúng ta có thể phân tích đƣợc mức độ tập trung quyền lực trong
giám sát tài chính phụ thuộc vào ba giả thuyết rất quan trọng sau đây:
(i) Trƣớc hết, cần phải xác định đƣợc cả hai khía cạnh địa lý và thể
chế của mỗi thị trƣờng. Do đó trong mỗi quốc gia, chúng ta có thể xác định
lĩnh vực khác nhau để giám sát. Tại mỗi quốc gia, thị trƣờng tài chính đƣợc
giả định tạo thành một thị trƣờng riêng biệt để giám sát. Cho đến nay vẫn có
thể xác định đƣợc các thị trƣờng riêng biệt, mặc dù trên thực tế, các ranh giới
21
truyền thống đang dần mất đi giữa ngành ngân hàng, chứng khoán, các hoạt
động bảo hiểm và sự hình thành các tập đoàn tài chính.
Tiếp theo, chúng ta có thể xác định rõ ràng quyền lực giám sát trong
từng lĩnh vực. Nếu số lĩnh vực giám sát nhiều hơn, thì cần xác định mức độ
quyền lực trên từng lĩnh vực. Đối với từng lĩnh vực, mức độ hợp nhất giám
sát sẽ giảm đi nếu có nhiều cơ quan cùng tham gia giám sát.
(ii) Thứ hai, chúng ta xem quyền lực giám sát theo cách tổng thể từ
các hoạt động giám sát khác nhau (giám sát ngân hàng, giám sát thị trƣờng
chứng khoán, giám sát bảo hiểm). Chúng ta giả định khả năng thay thế hoàn
hảo giữa các hoạt động này liên quan đến quyền lực giám sát và kỹ năng giám
sát.
Quyền lực giám sát là một đặc điểm của mỗi cơ quan giám sát, không
phân biệt quyền lực giám sát này đƣợc thực hiện ở đâu hay quy mô ra sao. Vì
vậy, trong mỗi quốc gia và mỗi cơ quan giám sát, chúng ta có thể tổng hợp
mức độ quyền lực giám sát giữa các khu vực khác nhau mà nó tham gia (nếu
có). Đối với mỗi cơ quan giám sát, mức độ quyền lực giám sát tăng lên, thì số
lƣợng các khu vực mà cơ quan chịu trách nhiệm cũng tăng lên. Tất cả ba yếu tố:
địa lý, thể chế và cơ quan giám sát đều có cơ sở pháp lý và có ý nghĩa kinh tế.
Chúng ta tính toán chỉ số FSHH bằng cách tổng hợp các khu vực giám
sát cho tất cả các quốc gia.
Đối với mỗi quốc gia, chỉ số FSHH là:
H
Trong đó si là phần quyền lực giám sát của cơ quan giám sát i và N là
tổng số các cơ quan giám sát trong một quốc gia nhất định.
22
Đối với cơ quan giám sát i, chúng ta xem rằng ở mỗi quốc gia có ba
khu vực để giám sát (mỗi khu vực có tầm quan trọng giống nhau) và trong
từng khu vực, chúng ta có thể có nhiều hơn một cơ quan giám sát (các cơ
và Sj=
quan đều có tầm quan trọng tƣơng tự). Chúng ta sử dụng công thức:
Trong đó
- m phản ánh số lƣợng các khu vực mà cơ quan giám sát i có hiện diện
- q là số lƣợng các cơ quan tham gia giám sát trong mỗi khu vực j. Hay
nói cách khác, nếu một khu vực có từ hai cơ quan giám sát trở lên, thì quyền
lực giám sát đƣợc chia đều cho các giám sát phụ trách.
Sử dụng chỉ số FSHH, Hình 1 thể hiện tình hình trƣớc và sau cuộc
khủng hoảng gần đây đối với nhóm các quốc gia. Trƣớc cuộc khủng hoảng
năm 2007, thanh màu xanh thể hiện mức độ hợp nhất trên trung bình trong
Liên minh châu Âu (EU) cao hơn các nƣớc công nghiệp nói chung, hoặc cả
Châu Âu; ba nhóm quốc gia này có điểm số cao hơn so với tất cả các quốc gia
trong mẫu thực nghiệm.
Hình 1: Tính hợp nhất của giám sát tài chính
(Nguồn: Marc Quintyn tổng hợp tháng 11/2011)
23
Quá trình hợp nhất của ba nhóm quốc gia trên vẫn tiếp tục diễn ra trong
giai đoạn khủng hoảng năm 2009, thanh màu đỏ trong toàn bộ mẫu cho thấy
sự giảm nhẹ về mức độ hợp nhất.
Tóm lại, trong suốt giai đoạn khủng hoảng, hình thức giám sát ở các
nƣớc tiên tiến tiếp tục thay đổi từ xu hƣớng giảm số lƣợng các cơ quan giám
sát để hình thành nên một mô hình hợp nhất, hoặc là mô hình một đỉnh và có
xu hƣớng kéo dài, áp dụng rộng rãi cả hai thập kỷ 1986-2006.
Phƣơng pháp mới cũng có thể đƣợc áp dụng để xây dựng các chỉ số
liên quan đến sự tham gia giám sát của ngân hàng trung ƣơng: hay còn gọi là
Chỉ số giám sát tài chính của Ngân hàng Trung ƣơng (CBSS).
Việc áp dụng chỉ số này khá đơn giản. Đó là sự tham gia giám sát của
ngân hàng trung ƣơng ở mức độ tối đa khi ngân hàng trung ƣơng là ngƣời phụ
trách giám sát duy nhất, sự tham gia này là thấp khi số lƣợng khu vực mà các
ngân hàng trung ƣơng có trách nhiệm giám sát ít hơn. Để xây dựng chỉ số
CBSS, nhóm nghiên cứu Donato Masciandaro, Rosaria Vega Pansini, Marc
Quintyn đã đơn giản hóa bằng cách sử dụng giới hạn phần vai trò của các
ngân hàng trung ƣơng trong từng nƣớc nằm trong khoảng từ 0-1.
Hình 2 thể hiện những thay đổi trong chỉ số CBSS trƣớc và sau khi
cuộc khủng hoảng. Có hai vấn đề đƣợc rút ra: Trong giai đoạn trƣớc cuộc
khủng hoảng năm 2007 (thanh màu vàng), ở nhóm các nƣớc tiên tiến, mức độ
tham gia giám sát của ngân hàng trung ƣơng thể hiện trên trung bình và nhỏ
hơn so với toàn bộ mẫu. Ngƣợc lại, trong số các nƣớc tiên tiến, các nƣớc châu
Âu và các thành viên EU cho thấy mức độ tham gia giám sát của ngân hàng
trung ƣơng là cao hơn. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng, chúng ta chứng
kiến một "Sự đảo ngƣợc lớn", từ dữ liệu năm 2009 (thanh màu xanh lá cây)
cho thấy trong các nƣớc tiên tiến, châu Âu và Các nƣớc EU, sự tham gia của
24
ngân hàng trung ƣơng đã tăng lên, trong khi có khuynh hƣớng giảm nhẹ đối
với toàn bộ mẫu.
Hình 2: Ngân hàng trung ƣơng trong việc giám sát
All OECD EUROPE EU
(Nguồn: Marc Quintyn tổng hợp tháng 11/2011)
Có hai cách giải thích để đƣa ra một xu hƣớng mới này.
Thứ nhất, ở một số quốc gia, ngân hàng trung ƣơng muốn tham gia
giám sát nhiều hơn bởi vì trách nhiệm về chính sách tiền tệ không phải
hoàn toàn nằm trong tay của họ. Cụ thể, trƣờng hợp ngân hàng trung ƣơng ở
các nƣớc thuộc EMU đã chọn khuynh hƣớng chuyên môn hóa trong việc giám
sát. Trƣờng hợp điển hình nhất là Bỉ, Cộng hòa Séc, Đức, Ireland, Hà Lan và
Cộng hòa Slovak. Herring và Carmassi (2008) cho rằng các ngân hàng trung
ƣơng của thành viên EMU chủ yếu trở thành cơ quan ổn định tài chính.
Thứ hai, nguyên nhân việc tăng cƣờng giám sát vĩ mô bởi khuynh
hƣớng khủng hoảng ngày càng rõ rệt. Sự thờ ơ hoặc thiếu hiểu biết về những
rủi ro có tính hệ thống của cấu trúc tài chính trong cuộc khủng hoảng đã cho
thấy rằng việc giám sát và đánh giá các mối đe dọa là rất quan trọng, nhằm ổn
định tài chính từ kinh tế vĩ mô cũng nhƣ phát triển tài chính vĩ mô. Điều này
25
dẫn đến việc giám sát vĩ mô buộc các nhà làm chính sách phải xác định trách
nhiệm của cơ quan giám sát một cách cụ thể .
Để thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm an toàn vĩ mô, yêu cầu phải có
thông tin về toàn bộ hệ thống kinh tế và tài chính. Sự xáo trộn hiện nay
đã nhấn mạnh vai trò của các ngân hàng trung ƣơng trong việc phòng
ngừa, quản lý và giải quyết các cuộc khủng hoảng tài chính. Do đó, ngân
hàng trung ƣơng đƣợc xem là cơ quan tốt nhất để thu thập và phân tích các
loại thông tin, nhờ vào vai trò quản lý chính sách tiền tệ trong điều kiện thông
thƣờng cũng nhƣ các phƣơng sách giải quyết trong những bối cảnh đặc biệt.
Vì vậy, từ quan điểm của các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng
trung ƣơng trong việc giám sát vĩ mô, có liên quan đến lợi ích tiềm năng về
thu thập và chia sẻ thông tin (Cecchetti, 2008). Đồng thời, họ có thể cho rằng
chi phí phát sinh của việc tham gia giám sát vĩ mô nhỏ hơn giám sát vi mô có
liên quan. Sự tham gia giám sát vi mô của Ngân hàng trung ƣơng từ lâu đã
đƣợc coi là tốn kém vì có ít nhất hai lý do sau đây:
(i) Đầu tiên đó là nguy cơ xảy ra các rủi ro đạo đức truyền thống
(Công dụng của rủi ro đạo đức của Masciandaro 2009), ngân hàng
trở nên ít chịu rủi ro hơn nếu ngƣời cho vay cuối cùng cũng là
ngƣời giám sát. Rủi ro đạo đức này là nhỏ hơn nếu các ngân hàng
trung ƣơng không phải là ngƣời giám sát vi mô.
(ii) Thứ hai, nếu ngân hàng trung ƣơng đƣợc giám sát vĩ mô và vi mô,
chính phủ có thể lo sợ rằng sự quan liêu, quyền hạn của các ngân
hàng trung ƣơng trở nên quá lớn (Tác dụng của quan liêu của
Masciandaro 2009).
Vì vậy, nếu tổng thể các quyền hạn giám sát đƣợc phân chia giữa vi mô
và vĩ mô, rủi ro phải đối mặt với sự quan liêu lớn là ít hơn. Nói cách khác,
26
tách biệt giữa giám sát vi mô và vĩ mô có thể đƣợc sử dụng để làm giảm nỗi
lo do ngân hàng trung ƣơng tham gia quá nhiều.
3.2.2.2 Quản trị giám sát
Qua các chỉ số quản trị, dựa trên cách tính toán đánh giá tính độc lập và
trách nhiệm của các cơ quan giám sát ngân hàng. Chúng ta có thể điều chỉnh
một số tiêu chí.
Xếp hạng "2" nếu đáp ứng các tiêu chí của khuôn khổ pháp lý
Xếp hạng "1" nếu tuân thủ một phần các tiêu chí
Xếp hạng "0" nếu không tuân thủ.
Xếp hạng "-1" nếu tính độc lập và trách nhiệm khả năng đạt dƣới tiêu
chuẩn (chẳng hạn nhƣ một bộ trƣởng tham gia làm chủ tịch hội đồng quản trị,
hay quy định của pháp luật cho Bộ trƣởng quyền can thiệp vào quá trình giám
sát). Các xếp hạng riêng biệt đƣợc tổng hợp và đánh giá từ 0 và 1.
Hình 3 phản ánh đánh giá của tính độc lập và trách nhiệm. Trƣớc cuộc
khủng hoảng năm 2007, thanh màu xám thể hiện chất lƣợng của sự sắp xếp
quản trị đƣợc đánh giá cao nhất ở các nƣớc thuộc EU, tiếp theo là châu Âu và
cuối cùng là các nƣớc công nghiệp. Ba nhóm này có điểm số cao hơn đáng kể
so với mẫu quốc gia tổng thể. Từ khi cuộc khủng hoảng lan rộng năm 2009,
thanh màu xanh cho thấy tất cả các nhóm có sự gia tăng trong chất lƣợng
quản trị.
27
Hình 3: Xếp hạng của quản trị giám sát
Nguồn: (Bảng đánh giá thực nghiệm của Donato, Pansini và Quintyn-
11/2011)
3.2.3 Kết qủa nghiên cứu về mối liên quan giữa giám sát và phục hồi kinh tế
Phần này sẽ phân tích các chỉ số đƣợc tính toán nhƣ thế nào trƣớc cuộc
khủng hoảng, các chỉ số này có liên quan đến sự thay đổi trong hoạt động
kinh tế vĩ mô rộng khắp các quốc gia trong suốt khủng hoảng. Trƣớc cuộc
khủng hoảng xu hƣớng giám sát hợp nhất và tăng cƣờng quản lý đƣợc kỳ
vọng sẽ giúp cho hệ thống tài chính vững mạnh, từ đó sẽ ảnh hƣởng tính cực
để ổn định kinh tế vĩ mô. Càng ít những sự bất ổn trong khu vực tài chính có
nghĩa càng ít tổn thất xảy ra trong nền kinh tế.
Những vấn đề của bất ổn tài chính thƣờng gắn liền với sự suy thoái
kinh tế, và có xu hƣớng nghiêm trọng hơn trong những năm gần đây; Cụ thể
là các vấn đề phát sinh từ ngân hàng sẽ càng ảnh hƣởng đến các hoạt động về
kinh tế. Nhƣng sự ảnh hƣởng của việc tham gia của ngân hàng trung ƣơng vẫn
còn là dấu hỏi.
28
Chúng ta có phƣơng trình tổng quát sau :
Trong đó, biến phụ thuộc là tổng sản phẩm quốc nội thực tế bình quân
từ năm 2008 đến năm 2009.
+ i đại diện cho một quốc gia.
+ SUPn là tập hợp của ba biến số mô tả các khía cạnh quan trọng của cấu
trúc giám sát ở mỗi quốc gia bao gồm:
(i) FSHH đo lường mức độ hợp nhất của việc giám sát
(ii) CBSS đo lường mức độ tham gia của ngân hàng trung ương
(iii) GOVRATING là chỉ số quản trị giám sát tài chính.
Các chỉ số được tính toán ở năm 2007
+ Biến xm đại diện cho một tập hợp của ba biến số kiểm soát vĩ mô tiêu
chuẩn:
(i) Thứ nhất là log của mức thu nhập bình quân đầu ngƣời, thể hiện
sự kiểm soát giữa mối liên hệ giữa sự giàu có và khủng hoảng
(log GDP/POP).
(ii) Tốc độ tăng trƣởng trung bình của GDP trong giai đoạn từ năm
2004 đến năm 2006 nhằm để kiểm soát tính không đồng nhất
giữa các quốc gia.
(iii) Log của dân số từ năm 1996 đến năm 2006, ghi lại tác động của
quy mô theo cấu trúc (tác động phụ) (log POP)
29
+ Biến zp đại diện cho một số các biến kiểm soát khác, đƣợc sử dụng
nhằm kiểm tra tính chặt chẽ của các kết quả đƣợc tìm ra và xác định các mối
liên quan khác đối với sự phục hồi kinh tế. Điều này cũng bao gồm vai trò của
quản trị khu vực công, tác động của việc tự do hóa tài chính và tập hợp các
biến phản ánh quy mô, chiều sâu và sức khỏe của ngân hàng và ngành tài
chính. Mô tả dữ liệu và các dữ liệu thống kê đƣợc tóm tắt ở phụ lục 1 và 2.
Tất cả các biến ở phía bên phải đều đƣợc thu thập vào trƣớc năm 2008 để loại
bỏ các biến nội sinh.
Bảng 2 cho thấy các kết quả đầu tiên với những biến đƣợc liệt kê ở
trên. Hồi qui 1 và 2 bao gồm 2 vấn đề của cơ cấu giám sát bao gồm mức độ
của sự hợp nhất giám sát và sự tham gia của ngân hàng trung ƣơng. Có ba kết
quả quan trọng:
(i) Trƣớc tiên, tính hợp nhất càng cao thì khả năng phục hồi càng ít.
Tác động của tính hợp nhất ở đây có tính chất phủ định.
(ii) Thứ hai là sự can thiệp sâu của ngân hàng trung ƣơng lại mang tín
hiệu lạc quan. Các kết quả này đã đƣợc xác nhận nếu chúng ta xem xét cả hai
biến (hồi qui 3), và dấu hiệu của hồi qui tổng quát tăng nhẹ.
(iii) Hồi qui thứ 4 chỉ ra chất lƣợng của việc quản trị giám sát cũng
không tác động tích cực đối với sự phục hồi kinh tế.
Xem xét kết hợp cả ba chỉ số hồi qui (hồi quy 5), chúng ta cũng thu
đƣợc kết quả tƣơng tự, ngoại trừ sự tác động của ngân hàng trung ƣơng không
ảnh hƣởng nhiều. Vì vậy sự hợp nhất trong giám sát và chất lƣợng quản trị
giám sát tốt lại có mối liên hệ phủ định với phục hồi kinh tế, trong khi sự can
thiệp của ngân hàng trung ƣơng lại ảnh hƣởng tích cực mặc dù khá yếu ớt.
Ở bƣớc tiếp theo, chúng ta sẽ tập hợp một số biến kiểm soát quan trọng
nhằm kiểm tra tính chặt chẽ của các kết quả và xác định những mối liên hệ
30
khác đối với sự phục hồi nền kinh tế. Đầu tiên chúng ta sẽ đánh giá vai trò của
việc quản trị khu vực công, theo sau đó là tác động của tự do hóa tài chính.
Trong các tài liệu nghiên cứu khác, chất lƣợng của các quy định trong
khu vực công trong sự phục hồi nền kinh tế và tài chính (Das et al 2004) đã
phát hiện ra rằng trong điều kiện bình thƣờng, quản lý tốt khu vực công sẽ
làm tăng cƣờng hiệu quả của việc quản trị giám sát nhằm đạt đƣợc sự ổn định
trong nền tài chính. Tuy nhiên trong cuộc khủng hoảng gần đây, Giannone et
al (2010) lại thấy rằng các chỉ số thể hiện hiệu quả của các quy định tại khu
vực công đại diện cho “tính thân thiện thị trường” của nền kinh tế, các chỉ số
này lại không có liên quan tích cực đối với tăng trƣởng kinh tế. Các quốc gia
có số điểm cao nhất ở chất lƣợng của quy định thì cũng có khả năng phục hồi
kém nhất sau cuộc khủng hoảng toàn cầu.
Đi vào mối liên hệ trực tiếp này, mức độ ảnh hƣởng về quy định của
ngân hàng dƣờng nhƣ rất quan trọng, càng nhiều sự bãi bỏ quy định thì càng
có mối liên hệ phủ định đến với sự phục hồi kinh tế của các quốc gia
(Giannone et al 2010). Điều này dƣờng nhƣ cũng đúng khi Caprio et al xem
xét vấn đề phục hồi kinh tế. Ông phát hiện ra rằng, giả sử các vấn đề khác
không đổi, thì càng nhiều sự hạn chế trong hoạt động ngân hàng dƣờng nhƣ sẽ
giảm thiểu đƣợc khả năng phải hứng chịu cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
gần đây.
Chỉ có vấn đề chƣa rõ là việc bãi bỏ quy định tài chính (hay tự do hóa)
đối với sự phục hồi kinh tế. Tiền đề của sự tự do hóa tài chính sẽ thúc đẩy sự
phát triển của ngành tài chính, điều này sẽ thúc đẩy sự tăng trƣởng kinh tế và
phát triển. Tuy nhiên mối liên hệ hóa ra lại phức tạp hơn thế. Các tài liệu viết
về tự do hóa trƣớc đây (ví dụ nhƣ Diaz – Alejandro 1985) đã quan sát thấy
rằng trong trƣờng hợp của Châu Mỹ la tinh thì tự do hóa ở nhiều khu vực đã
31
dẫn đến khủng hoảng tài chính. Tác giả ban đầu cho rằng sự giám sát trong
một môi trƣờng tự do hóa sẽ góp phần dẫn đến kết quả này. Dần dần một ý
tƣởng khác của vấn đề đã bắt đầu đƣa ra bằng chứng cho rằng “sự đào sâu về
mặt tài chính” đã dẫn đến tăng trƣởng kinh tế (ví dụ nhƣ Beck, Levine, 2000
và Rajan, Zingales, 1998). Tại cùng một thời điểm, những ngƣời khác cũng đã
đƣa ra bằng chứng cho rằng tự do hóa tài chính giúp đào sâu về mặt tài chính,
nhƣng dẫn đến lãng phí vì kết quả biến động nhiều hơn (Easterly, Islan 2010).
Phân tích của họ ngụ ý rằng việc đào sâu về mặt tài chính sẽ làm cho kết quả
trở nên biến động nhiều hơn. Mặt khác, sự đào sâu về mặt tài chính dẫn đến
tăng trƣởng nhanh hơn, nhƣng nó có thể dẫn đến một sự trả giá cho sự biến
động về kết quả (Tornell, Westermann 2008). Đối mặt với cuộc khủng hoảng
tài chính kinh tế 2008, câu hỏi ngày càng đƣợc quan tâm là rằng liệu các hệ
thống tài chính có trở nên quá to lớn và vì vậy đang bắt đầu gây ra tác động
tiêu cực lên sự tăng trƣởng kinh tế hay không.
Chất lƣợng của các quy định tại khu vực công đƣợc đo lƣờng bởi các
chỉ số quản trị toàn cầu tƣơng ứng (do ngân hàng thế giới tính toán từ 1996-
2006). Chúng ta sử dụng chỉ số đƣợc tính toán bởi tổ chức Frazer nhƣ là đại
diện cho tự do hóa trong ngành ngân hàng. (Số liệu đƣợc tính toán cho giai
đoạn từ năm 2004 đến năm 2006).
Bảng thứ 3 thể hiện kết quả của chất lƣợng kiểm soát nói chung nhƣ là
một biến số phụ ở phần bên trái. Biến này thể hiện sự phủ định (negative) và
rất quan trọng (significant). Từ đó kết luận rằng, tác động đến các biến số
khác là không đáng kể. Sự củng cố và tăng cƣờng chất lƣợng kiểm soát của
chính phủ ngày càng tăng lên vẫn làm cho sự phục hồi chậm đi, trong khi tác
động của ngân hàng trung ƣơng là không đáng kể.
32
Bảng 4 giới thiệu các quy định ngân hàng đƣợc xem nhƣ là biến đƣợc
kiểm soát (CreditmktReg_0406). Hệ số coefficients âm đã chỉ ra rằng các
quốc gia nào tự do hóa nền tài chính nhiều nhất thì sẽ chịu tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính nặng nề nhất. Các kết quả này cũng trùng với nghiên
cứu của Giannone (2010) và Caprio (2011). Các biến số về giám sát tài chính
xác nhận không có mối ảnh hƣởng tích cực đối với tính hợp nhất và tác động
quản trị.
Để kiểm tra tính chặt chẽ từ các kết quả khảo sát, chúng ta sử dụng
thêm một chỉ số cho biến kiểm soát đó là chỉ số tự do hóa tài chính từ Abiad
et al (2008). Chỉ số này xem xét các khía cạnh của sự kiểm soát ngân hàng và
tài chính; với mẫu thu hẹp từ 91 đến 71 trong số mẫu nghiên cứu.
Bảng 5 xác định các quốc gia chịu ảnh hƣởng nặng nề nhất của khủng
hoảng là những quốc gia đã tự do hóa nền tài chính của họ nhiều nhất. Không
có sự thay đổi nào xảy ra ở các dấu hiệu của hệ số tại các biến kiểm soát,
nhƣng chỉ có biến đầu tiên là quan trọng.
Cuối cùng nếu nhƣ chúng ta xem xét các biến của chất lƣợng giám sát
ở bảng 6 sẽ thấy rằng cả tính hợp nhất giám sát và quản trị giám sát vẫn còn
ảnh hƣởng phủ định (negative) đến tăng trƣởng sản lƣợng. Hệ số của sự tham
gia của ngân hàng trung ƣơng thì không quan trọng. Trong hai biến kiểm soát,
biến kiểm soát tổng thể dƣờng nhƣ thể hiện sự biến động nhiều hơn.
Để tìm hiểu xem các biến kiểm soát tác động thế nào đến mối quan hệ
giữa biến giám sát và sự phục hồi kinh tế, chúng ta kết hợp chất lƣợng giám
sát và mức độ của tính hợp nhất (bảng 7, cột 1 và 2) và sau đó với quản trị
kiểm soát (cột 3 và 4). Các dấu hiệu của các biến kết hợp này đều là âm
nhƣng không quan trọng. Hầu hết các biến độc lập đều giống nhƣ vậy. Vì thế
cuộc kiểm tra này không đƣa ra đƣợc hƣớng khám phá mới nào.
33
Cuối cùng chúng ta kiểm soát các chỉ số liên quan đến qui mô, chiều
sâu và tình hình sức khỏe của ngành tài chính ngân hàng. Giannone et al và
Caprio et al (2010) đã chỉ ra rằng các biến thể hiện tính qui mô và hiệu quả
của ngành tài chính ngân hàng cũng có tác động lên sự phục hồi. Vì thế sau
khi kiểm tra lần lƣợt qui mô của hệ thống tài chính và ngân hàng (bảng 8 và
9), kết quả của nó (bảng 10), và các đặc điểm cấu trúc của ngành ngân hàng
nhƣ mức độ tập trung hóa, quốc tế hóa và sự sáp nhập (bảng 11). Tất cả cá
biến này đều đƣợc tính toán trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2006.
Bảng 8 và 9 dựa trên sự kết hợp các loại chỉ số khác nhau của qui mô
ngành tài chính ngân hàng (liên quan đến tài sản tiền ký quĩ ngân hàng/GDP,
nguồn vốn có tính thanh khoản cao, tài sản của ngân hàng trung ƣơng/GDP,
tín dụng ngân hàng đối với khu vực tƣ/GDP, tiền ký quỹ ngân hàng/GDP, và
ký quỹ trong hệ thống tài chính/GDP). Mối tƣơng quan là âm vẫn tồn tại giữa
tính hợp nhất và quản trị, tuy nhiên chỉ có tính hợp nhất vẫn đƣợc đánh giá
quan trọng.
Các hồi quy cũng xác nhận vai trò ngày càng mạnh về chất lƣợng kiểm
soát tại khu vực công, đƣợc so sánh với sự kiểm soát ngân hàng. Chúng ta
biết rằng các loại tài sản ngân hàng khác nhau đều có tác động phủ định
(negative) và quan trọng (significant) đến sự phục hồi. Các quốc gia có những
ngân hàng lớn hơn thƣờng liên quan đến sự phục hồi ít hơn. Tuy nhiên sự ảnh
hƣởng này lại không xuất hiện trong hồi qui về quản trị kiểm soát.
Bảng 10 bao gồm các chỉ số thể hiện sức khỏe của của ngành tài chính
ngân hàng: định phí của ngân hàng/tài sản (chi phí/tài sản), lãi suất ròng/tài
sản, tín dụng/các khoản ký quỹ. Có sự xuất hiện ảnh hƣởng phủ định
(negative) của quản trị, trong khi tính hợp nhất dần trở nên ít quan trọng hơn.
Một lần nữa nó nhấn mạnh vai trò lớn hơn của chất lƣợng kiểm soát tổng thể.
34
Trong số các biến kiểm soát đƣợc lựa chọn, chỉ có chỉ số về tỷ lệ tín dụng/các
khoản thế chấp ký quỹ là quan trọng (và phủ định), nó xác nhận lại phát hiện
của Caprio et al (2010) rằng các ngân hàng có xu hƣớng thu hút tài chính từ
các nguồn khác hơn là sử dụng tiền gửi, hệ thống ngân hàng sẽ phục hồi ít
hơn bởi vì các nguồn tài chính này không ổn định nhƣ tiền gửi.
Cuối cùng bảng 11 cho thấy rằng, bằng việc kết hợp các chỉ số về cấu
trúc của ngành ngân hàng (sự tập trung, quốc tế hóa, việc hình thành các tập
đoàn), thì vẫn tồn tại các tác động phủ định (negative) của tính hợp nhất và
quản trị, nhƣng nó không còn quan trọng (not significant). Các kết quả liên
quan đến tầm quan trọng của hai biến thể hiện chất lƣợng kiểm soát đƣợc kết
hợp. Các biến đƣợc thêm vào ở hầu hết các trƣờng hợp đều không quan trọng,
điều này chỉ ra rằng cấu trúc ngân hàng đã không có một sự tác động đáng
chú ý nào vào sự phục hồi.
Chúng ta có thể đi đến kết luận, các phát hiện đã cho thấy rằng việc đẩy
mạnh sự giám sát, tăng tính hợp nhất giám sát hay quản trị tốt hơn thì không
thực sự dẫn đến phục hồi kinh tế tài chính. Thông qua các phép toán hồi qui,
tất cả những đặc điểm trên đều có liên quan đến sự phục hồi kinh tế yếu hơn.
Chúng ta cũng nhận ra rằng các quốc gia có tỷ lệ giám sát khu vực công
tốt nhất, và cũng là các quốc gia có sự bãi bỏ các quy định tài chính nhiều
nhất đều gặp phải khó khăn kinh tế nhiều nhất.
Cuối cùng mức độ của sự can thiệp của ngân hàng trung ƣơng trong
việc giám sát dƣờng nhƣ không có một tác động quan trọng nào đối với sự
phục hồi.
35
CHƢƠNG 4: GIÁM SÁT TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM
4.1 Mô hình giám sát tài chính tại Việt Nam:
Hiện nay mô hình giám sát tài chính Việt Nam theo mô hình phân tán
dựa trên cơ sở thể chế hay về thực chất đƣợc tổ chức theo mô hình phân tán
chuyên ngành, tức là mỗi bộ phận của thị trƣờng tài chính đƣợc giám sát bởi
một cơ quan giám sát chuyên ngành nhƣ: Thị trƣờng ngân hàng đƣợc giám sát
bởi cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng (trực thuộc Ngân hàng Nhà nƣớc
Việt Nam); thị trƣờng chứng khoán đƣợc giám sát bởi Ủy ban chứng khoán
Nhà nƣớc (trực thuộc Bộ Tài chính) ; thị trƣờng bảo hiểm đƣợc giám sát bởi
Cục quản lý, giám sát bảo hiểm (trực thuộc Bộ Tài chính).
z
Chính Phủ
Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia
Bộ Tài chính
Ngân hàng nhà nước
UBCKNN
Cục Bảo hiểm
Bảo hiểm TG
Vietnam
Bảo hiểm
Tổ chức tín dụng
Chứng khoán
4.1.1 Ủy Ban chứng khoán Nhà nƣớc (UBCKNN)
UBCKNN chính thức đƣợc thành lập vào ngày 28/11/1996, là cơ quan
thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nƣớc về chứng khoán và
Thị trƣờng chứng khoán (TTCK). Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn
quan trọng của UBCKNN là quản lý, thanh tra, kiểm tra và giám sát các tổ
36
chức và cá nhân tham gia hoạt động trên TTCK và xử lý các vi phạm về hoạt
động chứng khoán theo quy định của Pháp luật. Sau một thời gian hoạt động,
Ủy ban này đƣợc Chính phủ chuyển vào Bộ Tài chính nhằm tăng cƣờng hiệu
quả điều phối hoạt động của các bộ, ngành chức năng trong việc thúc đẩy
TTCK phát triển.
Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh của TTCK từ cuối năm 2006 đến
nay dƣờng nhƣ vƣợt quá năng lực quản lý của UBCKNN. Trên thực tế, cơ
quan này còn non trẻ, chƣa có đủ điều kiện cần thiết để quản lý và giám sát có
hiệu quả hoạt động trên TTCK. Ngoài ra, thị trƣờng chứng khoán phi tập
trung (OTC) cũng đang hoạt động một cách tự phát, chƣa đƣợc quản lý và bảo
vệ, và không có đƣợc sự minh bạch nhƣ ở Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Trƣớc tình hình nhƣ vậy, Chính phủ cũng đã yêu cầu Bộ Tài chính phải
tăng cƣờng quản lý, theo dõi, thanh tra, kiểm tra để đảm bảo cho thị trƣờng
phát triển theo đúng định hƣớng đề ra, phát huy mặt tích cực, hạn chế tối đa
những mặt tiêu cực đối với thị trƣờng, không để xảy ra những biến động lớn
vƣợt ra ngoài tầm kiểm soát.
4.1.2 Cục Bảo hiểm
Thành lập từ tháng 3 năm 2003, trực thuộc Bộ Tài chính và chịu trách
nhiệm giúp Bộ trƣởng Bộ Tài chính quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm
trong phạm vi cả nƣớc. Cụ thể là kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh
nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Việt Nam, văn phòng
đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài và doanh nghiệp môi giới
nƣớc ngoài tại Việt Nam, đồng thời phối hợp với Thanh tra Bộ trong việc xây
dựng kế hoạch và thực hiện thanh tra hoạt động của các doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm.
37
4.1.3 Ủy ban giám sát tài chính quốc gia (UBGSTCQG)
Đƣợc thành lập ngày 3/3/2008, cơ quan này có chức năng tƣ vấn cho
Thủ tƣớng Chính phủ trong điều phối giám sát thị trƣờng tài chính quốc gia
(trên cả 3 lĩnh vực Ngân hàng, Bảo hiểm, Chứng khoán), giúp Thủ tƣớng
Chính phủ giám sát chung thị trƣờng tài chính quốc gia. Theo Quyết định này,
Ủy Ban GSTCQG sẽ là đầu mối điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành,
giám sát chung thị trƣờng tài chính và việc chấp hành các thông lệ, chuẩn
mực quốc tế về hoạt động giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát chuyên
ngành trên cả ba lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng.
Ủy ban cũng tiến hành phân tích dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ
thống tài chính ngân hàng và nguy cơ rủi ro với thị trƣờng tài chính quốc gia,
thiết lập cơ sở dữ liệu, tổng hợp, xử lý và cung cấp thông tin về thị trƣờng tài
chính quốc gia báo cáo Chính phủ.
4.1.4 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN)
Đƣợc thành lập ngày 9 tháng 1 năm 1999, nhiệm vụ của BHTGVN là
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của ngƣời gửi tiền, góp phần duy trì sự
ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát triển lành mạnh, an toàn
của hệ thống ngân hàng.
Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động cho đến nay, BHTG Việt Nam đã
có những đóng góp rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời gửi
tiền, góp phần nâng cao niềm tin công chúng và duy trì một phần sự ổn định
của hệ thống tài chính ngân hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ
thống ngân hàng, với mức tăng trƣởng huy động vốn bình quân hàng năm là
30% , số lƣợng các tổ chức tham gia vào BHTG cũng gia tăng mạnh mẽ.
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, hoạt động của BHTG Việt nam còn
nhiều bất cập và hạn chế nhƣ: chức năng và nhiệm vụ chƣa đƣợc quy định
38
đầy đủ và rõ ràng theo thông lệ quốc tế, năng lực tài chính của các cán bộ còn
hạn chế, chƣa có sự trao đổi kết hợp với các cơ quan trong mạng lƣới an toàn
quốc gia khác. Điều này ảnh hƣởng tới việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của BHTG.
4.1.5 Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng
Từ ngày 30 tháng 7 năm 2009 Ngân Hàng Nhà nƣớc đã chính thức
công bố quyết định thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng. Cơ quan
đƣợc thành lập trên cơ sở tổ chức lại 4 đơn vị trực thuộc NHNN bao gồm:
Thanh tra, Vụ các ngân hàng, Vụ các TCTD hợp tác và trung tâm phòng
chống rửa tiền. Thành lập Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng đƣợc coi là
một công cuộc cải tổ đáng kể của NHNN nhằm tăng cƣờng khả năng thanh
tra, giám sát hệ thống các TCTD. Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng là cơ
quan thƣờng trực của NHNN thực hiện chức năng thanh tra hành chính, thanh
tra chuyên ngành và giám sát chuyên ngành về ngân hàng trong các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý nhà nƣớc của NHNN; tham mƣu giúp Thống đốc
NHNN quản lý nhà nƣớc đối với các TCTD, tổ chức tài chính quy mô nhỏ,
hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; thực hiện phòng chống rửa tiền
theo quy định của Pháp luật.
4.2 Những bất cập của hệ thống giám sát tài chính hiện tại ở Việt nam
Trƣớc sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ tài chính trong nền
kinh tế, đặc biệt trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế diễn ra hết
sức mãnh liệt ở tất cả các quốc gia trên thế giới, thì hệ thống giám sát tài
chính hiện tại của Việt Nam đang nổi lên một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, chƣa có những quy định rõ ràng về quyền hạn và chức năng xử lý
của từng bộ phận.
39
Mục tiêu của hệ thống thanh tra giám sát là nhằm đảm bảo cho sự duy
trì ổn định, phát triển lành mạnh của hệ thống tài chính và bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tƣ và ngƣời gửi tiền. Để đạt đƣợc các mục tiêu này, các cơ quan
thanh tra, giám sát thƣờng sử dụng các công cụ nhƣ: Công cụ quản lý, công
cụ giám sát, công cụ “kỷ luật thị trƣờng”, …Các công cụ, chức năng và phạm
vi hoạt động của từng cơ quan giám sát phải đƣợc quy định rõ trong luật, tạo
tiền đề cho hoạt động giám sát có hiệu quả, không chồng chéo.
Thực tế hiện nay, khung pháp lý cho hoạt động thanh tra giám sát chủ
yếu dựa trên các luật: Luật Ngân hàng Nhà nƣớc và Luật các TCTD, Luật
thanh tra, Luật chứng khoán, Luật kinh doanh bảo hiểm, Hệ thống văn bản
dƣới luật, quy định cụ thể các hoạt động giám sát cho từng lĩnh vực: ngân
hàng, chứng khoán, Bảo hiểm
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khu vực tài chính ngân hàng,
những nguồn luật trên thể hiện những bất cập, cần phải đƣợc bổ sung, làm
mới nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát. Cụ thể là:
Chƣa có một luật thanh tra giám sát chuyên ngành quy định rõ chức
năng, nhiệm vụ và cách thức hoạt động các các cơ quan giám sát. Và đặc biệt
để làm rõ cơ chế phối hợp hoạt động và trao đổi thông tin giữa các cơ quan
chủ chốt: NHNN, Bộ Tài chính, Bảo hiểm tiền gửi, và Ủy ban Giám sát tài
chính quốc gia (UBGSTCQG).
Các cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra truyền thống bỏ sót nhiều
lĩnh vực hoạt động, dịch vụ, sản phẩm mới của các tổ chức tài chính, đặc biệt
là những sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự kết hợp giữa các lĩnh vực kinh
doanh khác nhau.
Kiểm soát rủi ro các tập đoàn tài chính, cho đến thời điểm này, chƣa có
một quyết định rõ ràng cho phép một cơ quan có thẩm quyền tiến hành thanh
40
tra các tập đoàn tài chính trên cơ sở hợp nhất. Thực tế, nhiệm vụ kiểm soát rủi
ro chung này, tạm thời đƣợc coi là thuộc chức năng của UBGSTCQG. Tuy
nhiên cơ quan này lại không có chức năng giám sát từng định chế tài chính
mà chỉ là tƣ vấn cho Thủ tƣớng Chính phủ trong giám sát tổng thể thị trƣờng
tài chính.
Với mô hình nhƣ trên sẽ tất yếu dẫn đến những khoảng trống trong hoạt
động giám sát nhƣ giám sát chéo hoạt động trong các tập đoàn tài chính kinh
doanh đa ngành và giám sát rủi ro đan xen giữa các bộ phận của thị trƣờng
khó thực hiện, giám sát an toàn vĩ mô thị trƣờng tài chính bị xem nhẹ, đồng
thời việc điều phối hoạt động giám sát chuyên ngành không thực hiện đƣợc.
Thứ hai, hiệu quả giám sát của các cơ quan thanh tra giám sát còn thấp
Ngoài những bất cập về cơ sở pháp lý cho hệ thống thanh tra giám sát,
hoạt động thanh tra, cả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, có hiệu quả rất thấp
bởi nhiều nguyên nhân:
Một là, công nghệ thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động giám sát
từ xa rất lạc hậu. Trong khi, hoạt động giám sát tài chính lại phụ thuộc rất
nhiều về khả năng thu thập thông tin. Để hoạt động giám sát có hiệu quả hơn,
ít nhất phải có một hệ thống thông tin quản lý có khả năng cập nhật thông tin
từ cơ sở đến cơ quan giám sát một cách nhanh chóng và chính xác.
Hai là, chƣa có một quy định chung về cách thức giám sát cho cả hệ
thống tài chính. Hiện nay, Cơ quan thanh tra giám sát đã áp dụng chỉ tiêu
CAMELS trong hoạt động giám sát từ xa. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chỉ
mang tính định lƣợng chỉ áp dụng cho khu vực ngân hàng.
Ba là, chƣa thiết lập các công cụ phục vụ cho giám sát an toàn vĩ mô
(cho cả hệ thống) và giám sát an toàn vi mô (cho từng định chế tài chính) một
cách có hiệu quả, nhất là trong điều kiện chuyển sang thanh tra giám sát dựa
41
trên rủi ro trong thời gian tới. Các mô hình phân tích, dự báo, kiểm định “độ
căng” (stress test) của cả hệ thống và cho từng định chế tài chính chƣa đƣợc
phát triển.
Bốn là, năng lực cán bộ của hệ thống thanh tra còn yếu so với yêu cầu
đảm bảo an toàn an toàn cho hoạt động khu vực tài chính. Về cơ bản, cán bộ
thanh tra chƣa có khả năng sử dụng mô hình kiểm định và kiểm tra tính hiệu
quả của mô hình quản trị rủi ro của các tổ chức tài chính. Ngoài ra, theo nhƣ
nhận định của một số chuyên gia trong ngành tài chính ngân hàng, văn hóa
giám sát cũng nhƣ động lực thanh tra tại chỗ của cán bộ thanh tra còn yếu.
Mặc dù Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy Giám sát tài chính quốc
gia để khắc phục những nhƣợc điểm trên. Ủy ban này có chức năng giám sát
chung thị trƣờng tài chính và tham mƣu, tƣ vấn cho Thủ tƣớng trong điều
phối hoạt động giám sát thị trƣờng tài chính. Kể từ khi đƣợc thành lập và đi
vào hoạt động đến nay đã 03 năm nhƣng việc khắc phục những nhƣợc điểm
nêu trên chƣa đƣợc là bao. Một số nguyên nhân chủ yếu của tình hình đó là:
- Vị thế pháp lý của Ủy ban còn thấp;
- Không có quyền lực quản lý Nhà nƣớc mà Ủy ban thực chất chỉ là cơ
quan tham mƣu, tƣ vấn;
- Đội ngũ cán bộ còn mỏng và non trẻ chƣa có nhiều kinh nghiệm;
- Hỗ trợ kỹ thuật từ phía nƣớc ngoài chƣa có;
- Quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế chƣa thiết lập đƣợc.
Đánh giá thực trạng về hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam thời
gian qua cho thấy còn rất nhiều hạn chế, bất cập nhƣ khuôn khổ pháp lý về
giám sát tài chính còn nhiều khe hở, chƣa đồng bộ; năng lực giám sát của các
cơ quan giám sát giám sát chuyên ngành còn yếu; thiếu sự liên thông trong
42
việc giám sát chung thị trƣờng tài chính do các cơ quan giám sát chuyên
ngành hoạt động độc lập, thực hiện nhiệm vụ giám sát theo từng cách riêng
của họ, chƣa có sự điều phối giữa các cơ quan giám sát chuyên ngành, dẫn
đến gây nhiều khó khăn cho việc giám sát rủi ro chéo; thực tiễn áp dụng các
chuẩn mực quốc tế về giám sát thị trƣờng tài chính vẫn còn nhiều bất cập,
chƣa quan tâm tới giám sát an toàn vĩ mô; việc giám sát hoạt động xuyên biên
giới của các định chế tài chính có vốn nƣớc ngoài còn yếu; các quy định về
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan giám sát chuyên ngành còn nhiều quy
định chồng chéo vì thế đã tạo ra nhiều kẽ hở trong việc giám sát.
Thứ ba, sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động của Việt Nam với
tiêu chuẩn của quốc tế
Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn về hoạt động an toàn tài chính riêng
phù hợp với tình hình kinh tế và chính trị của mỗi nƣớc. Không có một khuôn
mẫu chuẩn nào cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hệ thống
kế toán Việt Nam và hệ thống kế toán theo chuẩn quốc tế làm việc áp dụng
các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính theo Basel không mang lại kết quả
nhƣ ý muốn. Ví dụ nhƣ chỉ số về nợ xấu của hệ thông ngân hàng sẽ thay đổi
đáng kể khi chúng ta áp dụng hệ thống kế toán quốc tế (IFRS).
Ngoài ra, sự khác biệt này cũng gây ra một số khó khăn khi thực hiện
giám sát các tổ chức tài chính quốc tế có hoạt động tại Việt Nam. Nhƣ trƣờng
hợp của các ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài mới đƣợc cấp phép, hiện nay
các hoạt động về an toàn tài chính của họ thực chất là tuân theo các quy định
của ngân hàng mẹ, có sự khác biệt với quy định an toàn của Việt Nam.
43
CHƢƠNG 5. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỀ GIÁM SÁT TÀI CHÍNH 5.1 Tổng quan về giải pháp:
Phân tích thực nghiệm trên đây đã cho thấy rằng không phải cấu trúc
giám sát hay các cải thiện trong quản trị giám sát có thể ngăn chặn hoặc làm
giảm bớt khủng hoảng. Hiện nay một số quốc gia đã có đề xuất thay đổi, sửa
đổi các mô hình nhằm khắc phục các sai sót.
Dựa trên cơ cấu giám sát (bảng 12), chúng ta có thể tóm tắt nhƣ sau:
(i) Giám sát vĩ mô nên đƣợc xây dựng nhƣ là một hoạt động giám sát
tách rời với giám sát vi mô.
(ii) Các ngân hàng trung ƣơng nên đóng vai trò chủ chốt trong vấn đề
này. Thực hiện việc giám sát ở những lĩnh vực đang thay đổi nhanh.
Nhƣ vậy mô hình trƣớc khủng hoảng ủng hộ cho xu hƣớng mô hình
giám sát hợp nhất và chuyên môn hóa ngân hàng trung ƣơng nên
đƣợc thay thế bằng mô hình 2 đỉnh trong giám sát (vĩ mô và vi mô)
hoặc ít nhất là ở giám sát vĩ mô.
Đối với quản trị giám sát, một câu hỏi quan trọng nữa là: Cơ cấu
khuyến khích đƣợc xây dựng nhƣ thế nào để giúp cho các nhà giám sát gắn
kết tốt hơn nhằm tránh lặp lại những vấn đề đã xảy ra trong việc chuẩn bị cho
một cuộc khủng hoảng mới? Hầu nhƣ tất cả các kiến nghị đều đi cùng một
hƣớng (bảng 13). Các thất bại đã xác định ở bảng 1 đều nhất quán nhau, có
một sự đồng thuận đang tồn tại rằng giám sát cần phải sâu sát hơn, năng động,
phải dựa trên rủi ro và định hƣớng theo kết quả.
Hƣớng tiếp cận giám sát mới này cần phải đạt đƣợc bằng cách cải thiện
động cơ cho các giám sát viên. Hầu hết các nhà phân tích đều tập trung đƣa ra
44
các biện pháp cho ngƣời giám sát nhƣ làm rõ các nhiệm vụ bắt buộc, có tính
độc lập, trách nhiệm hơn, và đem lại cho các chuyên gia hàng đầu những
khoản tiền thƣởng cao hơn. Các chuyên gia càng giỏi thì khoản tiền thƣởng
càng cao cũng là điều cần thiết để tránh cho nghề này bị tụt hậu so với sự phát
triển trong hệ thống tài chính.
Trong khi đồng tình với những nguyên tắc từ phân tích này và cách đề
xuất cải thiện việc quản trị, bài nghiên cứu này cũng muốn chỉ ra một số giới
hạn và những trở ngại có thể xảy ra. Thực tế là sự giám sát tài chính cần phải
có chất lƣợng nhƣ đã liệt kê trên. Palmer và Cerutti (2009) đã chỉ ra rằng ở
một số quốc gia nhƣ Australia và Canada, nơi mà các nhà giám sát có những
phẩm chất này thì tình hình kinh tế có vẻ tốt hơn trong cuộc khủng hoảng (các
nhân tố khác cũng góp phần vào sự thành công này)
Các điểm nhấn mới trong hƣớng tiếp cận giám sát là sắp xếp quản trị có
thể cần đƣợc cũng cố vững chắc hơn. Chắc chắn rằng giám sát tài chính cần
phải có những cải thiện để đƣa ra những hỗ trợ phù hợp nhằm đối phó với 3
rào cản: thâu tóm chính trị, thâu tóm ngành, và sự tự thâu tóm.
Nhƣ đã đề cập, tính độc lập và trách nhiệm trong giám sát thì rất đa
dạng trên thế giới. Trung bình thì tính độc lập của các ngân hàng trung ƣơng,
tổ chức hoạch định chính sách tài chính tiền tệ, là thấp.
Một phần bổ sung không thể thiếu đối với tính độc lập là trách nhiệm,
và tính trách nhiệm thƣờng đƣợc phát huy rất kém. Chính vì vậy, nó cần đƣợc
cải thiện. Theo nhƣ bảng 3, có nhiều quốc gia đã thực hiện điều này.
Tuy nhiên kinh nghiệm trong hai thập kỷ vừa qua đã cho thấy các giới
hạn quan trọng liên quan đến sự tác động của hoạt động quản trị giám sát.
Theo bản chất của việc giám sát, những hạn chế này xuất phát từ thực tế rằng
các giao ƣớc giữa nhà giám sát và xã hội sẽ không hoàn toàn đầy đủ vì có rất
45
nhiều tình huống ngẫu nhiên xảy ra trong các quy định và kiểm soát. Do vậy,
rất khó khăn để xác định chính xác mục tiêu của tổ chức giám sát. Và thật
không đúng khi tin rằng cơ cấu quản trị giám sát có thể đƣợc hiểu và thực
hiện nếu có thể xóa bỏ từng mỗi khả năng thâu tóm ngành kinh doanh, chính
trị, và sự tự thâu tóm. Vì thế, giải pháp tốt nhất trƣớc tiên là xác định mô
hình quản trị phù hợp để giải quyết vấn đề động cơ của giám sát.
Hơn thế nữa, kinh nghiệm trong suốt cuộc khủng hoảng gần đây đã chỉ
ra rằng một vài hƣớng tiếp cận thành công hơn đối với sự giám sát là kết quả
của các nền văn hóa doanh nghiệp đƣợc hình thành trong một thời gian dài và
đƣợc khuyến khích phát triển lâu dài nhằm giúp các tổ chức chống lại đƣợc
nhiều hình thức đa dạng của sự thâu tóm. Vì thế, sự độc lập trên thực tế ít ra
cũng dƣờng nhƣ quan trọng nhƣ sự độc lập dựa trên giấy tờ. Thực vậy cuộc
khủng hoảng cũng chỉ ra rằng, một mặt, một số quốc gia có sự độc lập cao và
bố trí tính trách nhiệm tốt hầu hết đều bị ảnh hƣởng bởi cuộc khủng hoảng
nặng nề, trong khi các nƣớc khác có cơ cấu yếu hơn trên giấy tờ lại không bị
ảnh hƣởng trong cuộc khủng hoảng.
Hãy lấy Canada làm ví dụ, cơ quan giám sát không ghi điểm cao về
tính độc lập trên giấy tờ. Tuy nhiên quá trình thực hiện đã chỉ ra rằng tính độc
lập thực tế thì lại cao, nó đã kết hợp với truyền thống giám sát mạnh mẽ và
góp phần giúp nƣớc này thoát khỏi khủng hoảng. Ngƣợc lại, các quốc gia có
mức quản trị cao hơn, hoặc là đã không hoàn toàn sử dụng chúng, hoặc là đã
bị mất đi văn hóa giám sát phù hợp nhƣ mô tả ở trên và đã thất bại.
Vì thế điểm rút ra là những sự cải thiện trong quản trị giám sát không
phải là một liều thuốc có thể chữa đƣợc tất cả các thất bại, điều này đã đƣợc
chứng minh bằng các phân tích thực nghiệm. Những sự cải thiện trong quản
trị giám sát cần thời gian để thay đổi về văn hóa và hƣớng tiếp cận giám sát.
46
Kết hợp 2 điểm quan trọng này – việc cải thiện quản trị sẽ luôn luôn có
những hạn chế của nó, bởi vì khó có một kết quả tốt gắn liền đầy đủ với động
cơ và cơ chế quản trị mà bản thân nó không có những sự cải thiện trong cách
tiếp cận giám sát và văn hóa giám sát, buộc chúng ta phải suy nghĩ về giải
pháp thứ hai đó là động cơ cho việc giám sát.
Cấu trúc tài chính mới đang hình thành trong bối cảnh của cuộc khủng
hoảng, đó là sự tách biệt giữa giám sát thận trọng vĩ mô và vi mô, mà có thể
mang lại một cơ hội tuyệt vời để đƣa ra một giải pháp phù hợp nhằm bổ sung
các điểm yếu trong cách tiếp cận ban đầu: đó là kết hợp cấu trúc giám sát
thận trọng vĩ mô, vi mô cùng các phƣơng pháp quản trị tốt nhằm gắn kết
tốt hơn với động cơ của việc giám sát.
Đây cũng là mô hình đề nghị áp dụng cho hệ thống giám sát tài chính
của Việt Nam.
5.2 Sự kết hợp giữa cấu trúc giám sát và quản trị giám sát để tìm ra
những động lực thúc đẩy giám sát tài chính
Với những hạn chế trong giải pháp đầu tiên đề cập đến hiện tƣợng thâu
tóm, nghiên cứu đề nghị sử dụng giải pháp thứ hai để hoàn thiện cơ cấu quản
trị khi đề cập đến vấn đề khuyến khích trong giám sát. Giải pháp này đƣợc
đƣa ra bởi một trong những câu trả lời nảy sinh trong cuộc khủng hoảng gần
đây: sử dụng cấu trúc giám sát để xác định động cơ của giám sát tài chính.
Đây là lý do, để đối phó với cuộc khủng hoảng, một số nƣớc có xu
hƣớng thiết lập một chức năng tách rời cho giám sát thận trọng vĩ mô. Mặc dù
các dạng tổ chức này khá đa dạng và đang phát triển, tuy nhiên lại có một
hƣớng phổ biến là giao nhiệm vụ này cho ngân hàng trung ƣơng hoặc là ngân
hàng trung ƣơng đóng vai trò then chốt. Theo cuộc khảo sát của Nier et al
(2011) thì trong số 21 quốc gia có 19 quốc gia có hình thức bắt buộc với giám
47
sát an toàn vĩ mô, ngân hàng trung ƣơng là tổ chức duy nhất chịu trách nhiệm
hoặc là đóng một vai trò chính cùng với một trong các tổ chức khác (ủy ban
giám sát tài chính quốc gia, bộ tài chính, ủy ban giám sát ngân hàng, cơ quan
bảo hiểm tiền gởi). Do vậy sự thay đổi cơ bản giờ đây đƣợc đặt trong mô hình
hai đỉnh với một trục là giám sát an toàn vĩ mô, và trục kia là giám sát an toàn
vi mô. Mô hình này đang đƣợc nhiều sự đồng thuận, một số quốc gia đang
giao nhiệm vụ cho hai cơ quan biệt lập, trong khi các nƣớc khác lại thích áp
dụng một cơ quan quản lý cả giám sát an toàn vi mô và vĩ mô.
Sự hiện diện của hai tổ chức cùng liên quan đến một lĩnh vực nhƣng có
nhiệm vụ khác nhau sẽ cho phép việc kiểm tra và cân bằng sự hoạt động ở cả
hai tổ chức. Các cuộc kiểm tra và cân bằng này có thể giảm thiểu khả năng bị
thâu tóm. Việc đề xuất dựa trên sự kiểm tra và cân bằng giữa hai tổ chức liên
quan đến giám sát dựa trên mô hình đƣợc phát triển bởi Laffont và Martimort.
Mô hình của Laffont và Martimort bắt đầu từ ý tƣởng rằng sức mạnh
của tổ chức giám sát là khả năng sử dụng thông tin mà nó thu thập đƣợc từ
các thực thể đƣợc giám sát để cải thiện phúc lợi xã hội. Họ chỉ ra rằng khi các
nhà giám sát phụ trách việc triển khai các cam kết có lợi cho xã hội thì không
có lý do gì để tách biệt quyền hạn. Ví dụ nhƣ tách biệt các cơ quan có thẩm
quyền với các tổ chức giám sát. Họ luôn luôn thận trọng đến mức có thể nhƣ
là dùng quyền lực để tối đa hóa phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên không có các nhà giám sát nào có thể sử dụng quyền lực của
họ để theo đuổi các chƣơng trình mang tính cá nhân, ví dụ nhƣ thông đồng
với các thực thể giám sát. Trong trƣờng hợp này có sự giới hạn phạm vi để
tách biệt với nhau. Việc tách các nhà giám sát đã chia thông tin xử lý của họ
và nhƣ vậy giới hạn sự thận trọng của họ trong việc tham gia vào các hoạt
động gây lãng phí xã hội. Thay thì có một nhà giám sát duy nhất thực hiện vụ
48
thông đồng cá nhân có lợi đối với một công ty đƣợc kiểm soát, thì sự chia
tách này giúp có đƣợc thông tin báo cáo khác nhau. Hành vi này là cách các
nhà làm luật đƣa ra những khoản mua chuộc an toàn dành cho các nhóm lợi
ích. Kết quả là, chi phí giao dịch của các hoạt động thông đồng này vừa tăng
mà vừa ngăn chặn những vụ thông đồng dễ dàng hơn. Sự tách biệt này giúp
cải thiện phúc lợi xã hội.
Boyer và Ponce (2010) đã áp dụng mô hình này để phân tích các vấn đề
của sự thâu tóm trong việc phân chia giám sát an toàn tối ƣu cho vi mô và vĩ
mô. Từ mô hình này, họ kết luận rằng sự tập trung quyền lực của cả hai cơ
quan giám sát ở cùng một tổ chức có thể gây ra những hậu quả không tốt vì sự
độc quyền từ những thông tin thu thập đƣợc có thể là một tai họa khi có sự
thâu tóm xảy ra. Hay nói cách khác, sự tách biệt về thể chế trong giám sát vĩ
mô và vi mô giờ đây đem đến một cơ hội duy nhất để tạo nên một hệ thống
kiểm tra và cân bằng giúp mang lai những tác động tích cực lên cơ cấu
khuyến khích cho các nhà giám sát, miễn là cả hai cơ quan này có một sự sắp
xếp quản trị tốt, nó sẽ thúc đẩy tính hiệu quả và sự phản hồi của công tác
giám sát. Hai mô hình này đƣợc chứng minh tồn tại ở bất kỳ loại thâu tóm
nào.
Một cấu trúc thích hợp sẽ là sự giám sát an toàn vĩ mô nội bộ trong
ngân hàng trung ƣơng và giám sát an toàn vi mô trong một tổ chức vốn là
cánh tay nối dài của ngân hàng trung ƣơng. Những lợi thế của cấu trúc này sẽ
là
(i) Cung cấp các kiểm tra và cân bằng nhằm gắn kết tốt hơn với động
cơ của các giám sát viên.
(ii) Không phải tất cả quyền lực đƣợc tập trung vào một tổ chức
49
(iii) Tạo ra sự phối hợp bởi vì phạm vi phân tích về giám sát an toàn vĩ
mô gần hơn với những vấn đề cốt lõi của ngân hàng trung ƣơng
(iv) Có một mối liên hệ rõ ràng giữa giám sát an toàn vĩ mô và chức
năng thanh khoản của ngân hàng trung ƣơng .
Đề xuất phân chia về lao động cũng sẽ đòi hỏi một số chi phí:
(i) Để duy trì các kiểm soát và cân bằng, sẽ cần phải có báo cáo gấp
đôi của các tổ chức tài chính.
(ii) Sẽ cần có sự phối hợp chung giữa hai tổ chức trong khi vẫn duy trì
các kiểm soát và cân bằng
(iii) Sự phối hợp cũng thật sự cần thiết khi nảy sinh quyết định ai sẽ
nhận nhiệm vụ cụ thể (các ngân hàng riêng lẻ hay các nhóm ngân
hàng), và cũng cần phối hợp nhiều hơn khi sự ủy quyền cần đƣợc
chuyển giao cho một cơ quan giải quyết.
(iv) Cuối cùng là cơ cấu bố trí này có thể dẫn đến sự cạnh tranh giữa
các nhà giám sát nhƣng vì nhiệm vụ của họ sẽ khác nhau nên sẽ
không có hình thức cạnh tranh mà các tổ chức tài chính có thể khai
thác.
Trong bất kỳ trƣờng hợp nào, các mô hình dựa trên đề xuất này
đều cho thấy rằng các chi phí đều thấp hơn các lợi ích sẽ mang lại.
5.3 Kiến nghị hoạt động giám sát tài chính ở Việt nam
Để khắc phục những tồn tại trong hệ thống kiểm soát tài chính tại nêu
trên ở Việt nam, thông qua những phân tích đã đề cập, luận văn mạnh dạn đề
xuất một số các giải pháp dƣới đây:
(i) Tách chức năng giám sát tài chính ra khỏi cơ quan quản lý Nhà nƣớc
về thị trƣờng tài chính. Từ đó, cơ quan giám sát tài chính sẽ đƣợc chủ động
50
trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát, hạn chế đến mức thấp nhất các can
thiệp hành chính vào quá trình vận hành thị trƣờng. Nhƣ vậy, hoạt động giám
sát tài chính sẽ bảo đảm đƣợc tính độc lập, chủ động trong việc thực hiện
giám sát, từng bƣớc giám sát thị trƣờng tài chính thông qua các công cụ của
thị trƣờng, hạn chế sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính đối với hoạt
động của thị trƣờng;
(ii) Nghiên cứu và nhanh chóng ban hành Luật về giám sát tài chính an
toàn hai đỉnh (vĩ mô và vi mô)
(iii) Ba là, cần nhanh chóng đổi mới, hoàn thiện mô hình hệ thống giám
sát tài chính.
Có nhiều ý kiến cho rằng Việt nam cần chuyển hƣớng từ phƣơng thức
giám sát theo từng lĩnh vực riêng sang hình thành một cơ quan giám sát hợp
nhất, thực hiện giám sát toàn bộ hệ thống tài chính theo các mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên theo phân tích thực nghiệm nhƣ trên cho thấy rằng mô hình này
không mang lại hiệu quả để chống lại một cuộc khủng hoảng tài chính có thể
xảy ra. Vì thế, đối với Việt nam, theo quan điểm riêng của tôi, chúng ta cần
xây dựng mô hình giám sát tài chính hai đỉnh (giám sát vĩ mô và giám sát vi
mô) đƣợc cơ cấu bởi hai cơ quan quản lý độc lập.
Sự hiện diện của hai tổ chức cùng liên quan đến một lĩnh vực nhƣng có
nhiệm vụ khác nhau sẽ cho phép việc kiểm tra và cân bằng sự hoạt động ở cả
hai tổ chức. Việc kiểm tra và cân bằng này có thể giảm thiểu khả năng bị thâu
tóm hay sự can thiệp về hành chính.
Trong đó cơ quan giám sát an toàn vĩ mô đề nghị trực thuộc ngân hàng
trung ƣơng và giám sát an toàn vi mô đƣợc quản lý bởi một tổ chức tách biệt
vốn là cánh tay nối dài của ngân hàng trung ƣơng.
51
(iv) Trong khi chờ đợi thời cơ chín muồi để cơ cấu lại cơ quan giám sát
tài chính, Chính phủ cần nhanh chóng có những biện pháp kịp thời nhằm củng
cố năng lực giám sát chung thị trƣờng tài chính và năng lực tham mƣu, tƣ vấn
cho Thủ tƣớng trong điều phối hoạt động giám sát thị trƣờng tài chính quốc
gia (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm) của Ủy ban Giám sát tài chính quốc
gia.
(v) Cần nhanh chóng có những cải tiến, thay đổi đồng bộ. Hiện nay, hệ
thống giám sát tài chính chƣa theo kịp với sự phát triển của thị trƣờng, chƣa
đảm bảo khả năng giám sát bao quát và sâu sát thị trƣờng tài chính vốn có
tính chất phức tạp, quan hệ đan xen trong thực tế. Hệ thống giám sát tài chính
vẫn chƣa mang tính độc lập, trách nhiệm, minh bạch, và toàn diện. Vì thế cần
có những cải thiện đồng bộ sau:
- Về nguồn nhân lực cần tăng cƣờng đội ngũ cán bộ có trình độ, dầy
dạn kinh nghiệm, kỹ năng cao để thực hiện các hoạt động giám sát tài chính
phù hợp với tình hình mới. Cần tuyển chọn những giám sát viên có đủ năng
lực, hỗ trợ bởi chính sách về thu nhập ổn định đủ để khuyến khích và duy trì
đội ngũ này.
- Về nguồn lực kỹ thuật, cần thiết lập sớm các hệ thống công nghệ
thông tin và các tiện ích điện tử hoàn chỉnh cho việc giám sát và phân tích dữ
liệu phục vụ công tác giám sát cho cả ba lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán,
bảo hiểm.
- Về công tác đào tạo cán bộ và hợp tác quốc tế, cần xây dựng kế hoạch
và các chƣơng trình đào tạo cán bộ về các kỹ năng giám sát thị trƣờng tài
chính cụ thể, sát với các yêu cầu của hoạt động giám sát. Kế hoạch và các
chƣơng trình này cần đƣợc làm bài bản và tác dụng của công việc này phải
52
đƣợc đánh giá thực sự nghiêm túc nhằm tránh việc đào tạo mang nặng tính
hình thức.
- Ngoài ra cần nhanh chóng thiết lập đƣợc quan hệ hợp tác với các tổ
chức quốc tế cũng nhƣ các cơ quan giám sát nƣớc ngoài để có thể nhận đƣợc
các hỗ trợ kỹ thuật cho nghiệp vụ giám sát tài chính và hỗ trợ lẫn nhau trong
việc giám sát các hoạt động xuyên biên giới liên quan đến thị trƣờng tài
chính.
- Đặc biệt, Việt nam cần xây dựng một đội ngũ giám sát viên có tính
độc lập, và trách nhiệm cao trong thực tế, tránh căn bệnh hình thức nhằm
mang lại hiệu quả cao cho việc giám sát. Để xây dựng đƣợc đội ngũ này, cần
có một quá trình từ khâu tuyển chọn, huấn luyện, giám sát thực hành, cơ cấu
và cơ chế khuyến khích… nhằm tạo ra văn hóa giám sát minh bạch và trách
nhiệm.
53
KẾT LUẬN:
Kết thúc cuộc khủng hoảng hệ thống tài chính Châu Á đã đánh dấu một
sự khởi đầu cho những nỗ lực to lớn để nâng cao tính hiệu quả của các hoạt
động giám sát ở khu vực tài chính. Các nguyên tắc để quản lý hệ thống ngân
hàng hiệu quả (BCPs) đã đƣợc ban hành nhƣ là những thực hành tốt nhất để
bố trí và hƣớng dẫn quy trình giám sát. Sự quan tâm này đã đi đến những sắp
xếp bố trí để nâng cao quản trị giám sát, ở cả nội bộ (sự trong sạch) và bên
ngoài (độc lập, trách nhiệm và tính minh bạch). Và các cấu trúc giám sát đã
đƣợc xem xét lại để nâng cao hiệu suất và tính hiệu quả của các quá trình
giám sát. Cuối cùng thì sự phụ thuộc nhiều hơn vào những quy luật thị trƣờng
cũng đã đƣợc thúc đẩy nhƣ là một sự kiểm tra đối với quá trình kiểm soát.
Giai đoạn cao trào của những năm đầu tiên trong thiên niên kỷ mới, các bằng
chứng thực nghiệm về những tác động tích cực của những sáng kiến mới đối
với tính bền vững của ngân hàng vẫn không đƣợc kết luận, nhƣng vẫn còn hy
vọng rằng khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng mới có thể đƣợc giảm bớt
bằng các cơ cấu bố trí và quy trình mới.
Tuy nhiên cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới bắt đầu từ năm
2007-2008 đã làm thức tỉnh giấc mơ tuyệt vời đó. Các quốc gia đƣợc xem là
các nƣớc có hệ thống giám sát vững chắc nhất đã phải chịu thiệt hại nặng nề
nhất trong cuộc khủng hoảng. Nhiều báo cáo của các viện nghiên cứu và các
nhà làm chính sách đã chỉ ra đƣợc những thất bại chính yếu trong hệ thống
giám sát trong giai đoạn trƣớc cuộc khủng hoảng.
Báo cáo này là nghiên cứu đầu tiên nhằm tổng hợp các nghiên cứu mới
nhất trên thế giới, giới thiệu kết quả phân tích thực nghiệm một cách có hệ
thống về tác động của những đặc điểm khác nhau về cấu trúc giám sát và
quản trị đối với sự phục hồi kinh tế của 100 quốc gia. Các phát hiện đã để lại
54
một chút nghi ngờ về: sự củng cố trong giám sát và quản trị giám sát tốt có
tác động ngƣợc lại đối với sự phục hồi, mức độ liên quan của ngân hàng trung
ƣơng trong việc giám sát không có tác động rõ rệt đến sự phục hồi. Cuối
cùng, ảnh hƣởng đến sự phục hồi của cơ chế kiểm soát đƣợc kết hợp chặt chẽ
với chất lƣợng kiểm soát khu vực công và với mức độ cụ thể của sự tự do hóa
tài chính. Mỗi đặc điểm giám sát có một tác động khác nhau phụ thuộc vào
các thiết lập tổng thể đó.
Các kiến nghị của một vài tác giả tập trung vào việc thúc đẩy sự giám
sát chuyên nghiệp và sâu sát hơn, và đƣợc thực hiện bởi các nhân viên có kỹ
năng cao hơn. Tất cả các học giả và các nhà làm chính sách đều đồng ý rằng
cách tiếp cận mới này cần phải đƣợc bổ sung bằng các cơ cấu sắp xếp về quản
trị tốt hơn.
Bài viết này chỉ ra rằng những cải thiện trong quản trị giám sát, chắc
chắn là cần thiết nhƣng vẫn có những hạn chế. Quản trị tốt hơn sẽ không bao
giờ hoàn toàn phù hợp với cơ cấu khuyến khích giám sát bởi vì bản chất của
những sắp xếp về giám sát sẽ không bao giờ hoàn chỉnh.
Vì vậy luận văn đề nghị nên khai thác các cơ hội tạo ra bởi cấu trúc
giám sát mới với một nhánh chịu trách nhiệm giám sát an toàn vĩ mô và
nhánh kia là giám sát an toàn vi mô. Nếu hai nhánh này đƣợc cơ cấu tách biệt,
thì sẽ tạo ra một hệ thống kiểm tra và cân bằng của cả hai. Điều này sẽ làm
giảm cơ hội cho sự thâu tóm chính trị, công nghiệp và tự thâu tóm. Dƣờng
nhƣ các lợi ích của sự sắp xếp này sẽ tốt hơn nhiều so với các chi phí phát
sinh từ cơ cấu đó. Một số quốc gia vẫn đang trong giai đoạn thiết kế hoặc
thiết kế lại cơ cấu giám sát và cơ chế tối ƣu thứ hai này có thể đƣợc sử dụng
để kết hợp với những cải tiến trong quản trị giám sát nhằm phù hợp tốt hơn
với các động cơ giám sát.
55
Đây cũng là mô hình đề nghị đƣợc áp dụng cho Việt nam nhằm tái cấu
trúc nền tài chính của Việt Nam hiện nay là hƣớng đến một hệ thống tài chính
chuyên nghiệp và hiệu quả sao cho xứng tầm với sự phát triển chung của kinh
tế đất nƣớc.
Đổi mới, hoàn thiện và xây dựng đƣợc công việc giám sát tài chính một
cách tổng thể cho Việt Nam chính là nền tảng căn bản cho mọi ngành nghề
khác của đất nƣớc cùng phát triển theo, hƣớng đến một nền kinh tế ổn định,
phát triển bền vững và lâu dài.
56
PHỤ LỤC
Bảng 2: Khả năng phục hồi, Cấu trúc giám sát và quản trị giám sát
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
57
Bảng 3: Khả năng phục hồi, Quy định về chất lƣợng, Cấu trúc giám sát và
Quản trị giám sát
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
58
Bảng 4: Khả năng phục hồi, Quy định chất lƣợng tài chính, Cấu trúc giám sát
và Quản trị giám sát
Dựa vào biến phụ thuộc: Tăng trƣởng trung bình GDP thực từ năm 2008-
2009
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
59
Bảng 5: Khả năng phục hồi, Quy định chất lƣợng tài chính, Cấu trúc giám sát
và Quản trị giám sát
Dựa vào biến phụ thuộc: Tăng trƣởng trung bình GDP thực từ năm 2008-
2009
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
60
Bảng 6: Khả năng phục hồi, Quy định chất lƣợng tài chính, Cấu trúc giám sát
và Quản trị giám sát
Dựa vào biến phụ thuộc: Tăng trƣởng trung bình GDP thực từ năm 2008-
2009
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
61
Bảng 7: Độ co giãn, giám sát hợp nhất, quản trị và các biến tƣơng tác
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
62
Bảng 8: Cơ cấu giám sát và quy mô khu vực tài chính
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
63
Bảng 9: Quản trị giám sát và quy mô khu vực tài chính
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%.
64
Bảng 10: Cấu trúc giám sát, quản trị giám sát và các biến kết quả tài chính
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
65
Bảng 11: Cấu trúc giám sát, Biến quản trị giám sát và cấu trúc tài chính
Giá trị tuyệt đối của t-thống kê trong ngoặc đơn
*,**,*** ý nhĩa ở mức 10%, 5%, 1%
66
Bảng 12: Các kiến nghị đề cập đến cấu trúc giám sát
Tác giả Giải pháp đề xuất
Ngày càng nhiều sự tham gia của ngân hàng trung ƣơng
Builter (2009) vào công tác giám sát bởi vì sự liên hệ với ngƣời cho vay
là chức năng cuốicùng đƣợc sử dụng
Các ngân hàng trung ƣơng nên tham gia vào công tác
Cecchetti (2008) giám sát vì các lý do hiệu quả trong sản xuất, sử dụng
thông tin kịp thời, và thu thập các thông tin thƣơng mại
Sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát Claessens et al Uỷ quyền rõ ràng (2010)
Giới hạn giao tiếp và phối hợp giữa các tổ chức giám sát
De Grauwe Các ngân hàng trung ƣơng nên tham gia vào việc giám
(2007) sát các định chế tài chính tạo ra tín dụng và thanh khoản
De Grauwe ECB nên chịu trách nhiệm giám sát của SIBI (2008)
Cả ngân hàng của Anh và FSA nên có sự hợp tác to lớn FSA (2009) hơn trong vấn đề giám sát an toàn vĩ mô.
Mô hình hai đỉnh với giám sát vĩ mô an toàn ở ngân hàng Brunnemeier et
trung ƣơng, giám sát an toàn vi mô ở tổ chức khác. Cơ sở al. (2009)
lý luận dựa trên cách tiếp cận truyền thống của hai tổ
chức
67
Bảng 13: Các kiến nghị đối với sự thất bại giám sát
Tác giả Giải pháp đề xuất
Giám sát cần phải thích nghi với những sự thay đổi và các tổ
chức giám sát nên chịu trách nhiệm cho tính thay đổi đó.
Caprio et al Các kiểm soát viên nên tiết lộ thông tin dựa trên giá trị và sự
(2008) đo lƣờng các khiếu nại có khả năng xảy ra, điều này tác động
đến sự an toàn của chính phủ
Xây dựng cấu trúc hỗ trợ phù hợp cho các giám sát viên,
những ngƣời đang đòi hỏi một loạt các cải cách
Giảm nhẹ các rủi ro mang tính hệ thống nên đƣợc nhìn nhận
nhƣ là một mục tiêu rõ ràng cho các tổ chức tham gia vào
công tác giám nhằm nâng cao tính trách nhiệm
Các ủy quyền cần rõ ràng và có các công cụ phù hợp với sự
Claessens et ủy quyền để nằm duy trì sự ổn định của tình hình tài chính
al (2010) Có đủ nguồn lực
Phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan
Thông tin giao tiếp giữa các tổ chức cần đƣợc minh bạch rõ
ràng
Đề cập đến sự đổi mới và tính không chắc chắn của hệ thống
tài chính, giám sát viên nên đóng vai trò chính. Để giữ cho
De la Torre đổi mới tài chính luôn nằm dƣới sự kiểm soát, giám sát viên
và Ize (2009) giờ đây không còn nhƣ là một cảnh sát mà phải vừa là trinh
sát vừa là ngƣời điều hành công việc có liên hệ mật thiết và
hợp tác với các định chế đƣợc giám sát và các thị trƣờng.
68
Điều này đòi hỏi các tổ chức giám sát phải có sự độc lập
mạnh mẽ, hội tụ các công chức có kỹ năng cao
Tăng cƣờng công tác quản trị cả trong và ngoài của các tổ
chức giám sát
Ban giám đốc cùng với quyền lực của hội đồng đã giới hạn Enriques và
những quyết định chính sách cơ bản Hertig (2010)
Tăng cƣờng giới hạn trách nhiệm cho nhân viên
Yêu cầu các tổ chức giám sát cần phải tiết lộ các yêu cầu
Cần phải có nhiều hơn sự giám sát chuyên sâu, nhiều hơn
nữa các giám sát có kết quả đƣợc định hƣớng và nhiều hơn
sự giám sát dựa vào rủi ro FSA
Cần phải có sự giám sát mang tính chất hệ thống
Cần nhiều hơn sự hợp tác giám sát quốc tế
Brunnemeier Cần phải có nhiều hơn các quy luật hành động “sửa chữa”
et kịp thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tận dụng cơ
hội al (2009)
Cần dựa vào cơ hội nhiều hơn
Tăng cƣờng nội dung của giám sát : sự độc lập, lãnh đạo,
Palmer and trách nhiệm
Tăng cƣờng các quy trình giám sát bằng cách làm cho chúng Cerutti
chuyên sâu, có định hƣớng kết quả, dựa trên rủi ro và chủ (2009)
động
Tăng cƣờng giám sát an toàn vĩ mô và làm giảm bớt tính chu
kỳ
69
Nâng cao hợp tác giám sát quốc tế
Tabellini Tổ chức giám sát tại cấp độ Châu Âu để khắc phục những
(2008) khuyết điểm cố hữu của công tác giám sát tại cấp quốc gia
Giám sát sâu hơn Viñals et al
Giám sát chủ động (2010) Toàn diện
Thích ứng
Thuyết phục
Thông qua việc : đẩy mạnh các nguồn lực pháp luật và ngân
sách, chiến lƣợc rõ ràng, tổ chức nội bộ vững chắc, phối hợp
hiệu quả với các cơ quan khác
Để làm đƣợc điều này cần có sự ủy quyền rõ ràng, độc lập và
trách nhiệm, nhân viên có kỹ năng, quan hệ tốt với ngành
kinh doanh và hợp tác với hội đồng quản trị
Weder di Cần nhiều hơn sự độc lập và trách nhiệm của các giám sát
Mauro viên để giải quyết các vấn đề không theo thứ tự thời gian
(2009 Mức ƣu đãi cao hơn cho các giám sát viên
Giám sát ở những mức độ cao hơn để loại bỏ sự độc quyền
công nghiệp địa phƣơng
Wellinck Cần có sự giám sát chuyên sâu
(2011
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu tiếng Việt Trịnh Thanh Huyền, Trường Đào tạo&PTNNL VietinBank, Mô hình giám sát tài chính hợp nhất: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam:< http://www.vietinbank.vn/web/home/vn/research/10/100712.htm>
Trần Văn Hùng, Tạp chí giáo dục và thời đại:Tìm hiểu vài nét hoạt động giám sát tài chính ở Việt nam hiện nay Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định, Tài chính quốc tế trang 465 – 490, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM. Website http://www.sbv.gov.vn Website: http://vneconomy.vn Website: http://baodientu.chinhphu.vn Website: http://vanban.chinhphu.vn Danh mục tài liệu tiếng Anh Arnone, M. and Gambini, A. (2007), ―Architecture of Supervisory Authorities and Banking Supervision,‖ in Designing Financial Supervision Institutions: Independence, Accountability and Governance, Edward Elgar, Cheltenham, ed. by Masciandaro, D.and Quintyn, Basel Committee on Banking Supervision, 1997, Core Principles for Effective Banking Supervision (Basel: Bank for International Settlements). Calomiris, C., 1999a, ―Building an Incentive-Compatible Safety Net,‖ Journal of Banking and Finance, Calomiris, C., 1999b, ―Market-based Banking Supervision,‖ The Financial Regulator. Donato Masciandaro, Rosaria Vega Pansini, Marc Quintyn, 2011 ― The Economic crisis: Did financial Supervision matter?‖ Caprio G., D’Apice, V., Ferri, G., and Puopolo G.W. (2010), ―Macro Financial Determinants of the Great Financial Crisis: Implications for Financial Regulation,‖ MPRA Paper No. 26088. Available via the Internet: http://ssrn.com/abstract=1788063. Cecchetti, S., 2008, ―The subprime series, Part 3: Why central banks should be financial supervisors,‖ in The First Global Financial Crisis in the 21st Century—A VoxEU.org Publication, CERP, Andrew Felton and Carmen Reinhart.
in Designing Financial Supervision
Čihák, M. and Podpiera, R., 2007, ―Experience with Integrated Supervisors: Governance Institutions: and Quality of Supervision,‖ Independence, Accountability and Governance, Edward Elgar and Cheltenham, ed. by Masciandaro, D. and Quintyn, M., Macro-Prudential Financal Supervision
and ESRB – Deutsche Bank AG,
http://www.group 30.org/images/PDF/Macroprudential-report-final.pdf Das, U. and M. Quintyn, 2002, ―Financial Crisis Prevention and Crisis Management—The Role of Regulatory Governance,‖ in Financial Sector Governance: The Roles of the Public and Private Sectors, ed. by Robert Litan, Michel Pomerleano, and V. Sundararajan (Washington: Brookings Institution Press)
D’Hulster, K., 2011, ―Cross-border banking supervision: Incentive Conflicts and Supervisory Information sharing between Home and Host Supervisors,‖ World Bank Working Paper Series, forthcoming. Demirgüç-Kunt, A., E. Detragiache, and T. Tressel, 2006, ―Banking on the Principles: Compliance with Basel Core Principles and Bank Soundness,‖ Demirgüç-Kunt, A. and E. Detragiache, 2010, Basel Core Principles and Bank Soundness: Does Compliance Matter?‖ Journal of Financial Stability, Donato Masciandaro, Rosaria Vega Pansini, Marc Quintyn, 2011 ― The Economic crisis: Did financial Supervision matter?‖ Dijkstra, R., 2010, ―Accountability of financial supervisory agencies: An Incentive Approach,‖ Journal of Banking Regulation. Llewellyn, D., 2006, ―Integrated Agencies and the Role of Central Banks‖ in Handbook of Central Banking and Financial Authorities in Europe, Edward Elgar, ed. byD.Masciandaro Masciandaro D. 2009, ―Politicians and Financial Supervision outside the Central Bank: WhyDo They Do It?‖ Journal of Financial Stability, Masciandaro, D. and Quintyn, M., 2009, ―Reforming Financial Supervision and the Role of the Central Banks: a Review of Global Trends, Causes and Effects‖ (1998–2008). Masciandaro, D. and Quintyn, M., 2011, ―The Architecture of Insurance Supervision: Global Trends Before and After the Financial Crisis,‖ in The Fundamentals of Future Insurance Regulation and Supervision. A Global Perspective, Palgrave Macmillan, ed. by P. Liedtke and J. Monkiewick. Ponce, J., 2009, ―A Normative Analysis of Banking Supervision: Independence, Legal Protection and Accountability‖ Paolo Baffi Centre Research Paper No 2009–48. Available at SSRN.