intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hiệu quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:126

20
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của Luận văn này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hiệu quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ĐỖ KHẮC QUẢN HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ ĐỖ KHẮC QUẢN HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHÙNG VĂN NHƯ HÀ NỘI - 2014
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT Giá trị gia tăng GTGT Kinh tế thị trường KTTT Ngân sách Nhà nước NSNN Thu nhâ ̣p cá nhân TNCN Xã hội chủ nghĩa XHCN
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ 10 THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. Những vấn đề chung về thuế giá trị gia tăng và hiệu quả 10 thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng 1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về thực hiện Luâ ̣t thuế 26 giá trị gia tăng - một số vấn đề rút ra đối với Việt Nam Chương 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT 38 THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1. Đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng ở 38 Việt Nam - những mặt tích cực và hạn chế 2.2. Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế trong viê ̣c thực hiê ̣n 68 Luâ ̣t thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiê ̣n nay Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU 74 QUẢ SỬ DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Quan điểm về thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam 74 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực 77 hiện Luật Thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 PHỤ LỤC 97
  5. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đất nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hệ thống thuế, phí có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh. Trong các sắc thuế hiện hành, chi phối mạnh mẽ nhất đến toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội là thuế GTGT. Luật Thuế giá trị gia tăng của nước ta được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997, tại kỳ họp thứ 11, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1999 và thay thế cho thuế thu doanh thu. Quá trình từ khi được triển khai thực hiện đến nay, Luật Thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa và tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Luật Thuế GTGT đi vào cuộc sống đã và đang tác động tích cực đến kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Việc thực hiện thuế giá trị gia tăng đã góp phần làm tăng thu cho NSNN, giúp nhà nước quản lý và điều tiết nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vận động và phát triển đạt được nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội quan trọng. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân và tính chất đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta có mặt chưa cao, xét trên cả góc độ là nguồn thu cho NSNN và công cụ để nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế. Trên tinh thần đó, vấn đề thực tiễn đang đặt ra là phải nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc nhằm từng bước nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam. Xuất phát từ các lý do trên, tác giải đã chọn: “Hiệu quả thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế.
  6. 4 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Thuế GTGT đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Những vấn đề xung quanh thuế GTGT và thực hiện Luật Thuế GTGT đã được nhiều tác giả bàn luận đến ở các góc độ khác nhau, từ đề tài nghiên cứu các cấp, các luận văn, luận án cho đến các bài báo khoa học. Dưới góc độ hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước. Từ năm 1997 đến nay, Quốc hội nước ta đã ban hành và nhiều lần sửa đổi Luật Thuế GTGT. Sau mỗi lần ban hành và sửa đổi Luật Thuế, Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đã có văn bản hướng dẫn về thi hành Luật Thuế GTGT. Đến nay, đã có rất nhều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung, tổ chức, triển khai, áp dụng Luật Thuế GTGT. Dưới góc độ đề tài khoa học các cấp. Tiêu biểu có đề tài cấp Bộ của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng ở Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh bàn về “Những tác động về kinh tế - xã hội của thuế GTGT và hướng hoàn thiện thuế GTGT ở Việt Nam”. Trong đề tài này, nhóm tác giả đã đề cập một cách khá toàn diện những tác động về mặt kinh tế, xã hội của Luật Thuế GTGT sau 5 năm thực hiện ở Việt Nam. Trên cơ sở sự đánh giá này, nhóm tác giả cũng đã phân tích, chỉ ra những điểm còn bất cập trong nội dung của Luật Thuế GTGT năm 1997, đã sửa đổi, bổ sung 2003 từ đó tiếp tục đề xuất các giải pháp hoàn thiện Luật Thuế GTGT cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Cùng với đề tài cấp Bộ của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng còn một số đề tài khác cũng liên quan đến đề tài luận văn. Dưới góc độ luận văn, luận án. Lý Thị Thùy Trang với đề tài “Đánh giá hiệu quả quản lý thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang”, đăng trên http://m.doko.vn/luan-van/danh-gia-hieu-qua-quan-ly-thue-gia-tri-gia-tang- thue-thu-nhap-doanh-nghiep-tai-chi-cuc-thue-huyen-tan-chau-tynh-an-giang- 311700. Trong luận văn này, Lý Thị Thùy Trang đã bàn một khía cạnh khá
  7. 5 sâu xung quanh việc triển khai, tổ chức thực hiện Luật Thuế GTGT đó là hiệu quả quản lý thuế. Nghiên cứu đề tài này có thể thấy, đối tượng nghiên cứu của đề tài “Đánh giá hiệu quả quản lý thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang” vừa rộng, vừa hẹp hơn đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn của tác giả. Vấn đề này được minh chứng ở chỗ, đề tài của Lý Thị Thùy Trang không chỉ nghiên cứu về thuế GTGT, mà còn nghiên cứu cả về thuế thu nhập doanh nghiệp. Thêm vào đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài của đề tài “Đánh giá hiệu quả quản lý thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp tại Chi cục thuế huyện Tân Châu, tỉnh An Giang” hẹp hơn nhiều so với đề tài luận văn bàn về “Hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam”. Cùng với Lý Thị Thùy Trang còn có tác giả Mai Thị Mai Hoa nghiên cứu về “Định hướng hoàn thiện chính sách thuế trong bối cảnh tài chính hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam” trong Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Trường Đại Học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả của luận văn đã luận giải khá thuyết phục về những mặt tích cực và hạn chế trong chính sách thuế của Việt Nam. Tác giả cũng đã nghiên cứu về những tác động của bối cảnh tài chính hóa và hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đến việc thực thi chính sách thuế, trong đó có thuế GTGT ở nước ta. Từ những kết quả nghiên cứu trên, tác giả đã đề xuất định hướng hoàn thiện chính sách thuế của Việt Nam. Năm 2010, Tác giả Hoàng Vũ Diệu Thúy của Trường Đại học Xây dựng đã bảo vệ thành công đề tài luận văn cao học "Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình". Ở đề tài này, với đối tượng nghiên cứu là “hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho đầu tư xây dựng”, tác giả đã hệ thống hoá lý luận về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng thuộc NSNN; Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thuộc NSNN trong
  8. 6 lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng thuộc NSNN ở thành phố Đồng Hới. Cả về mặt lý luận và thực tiễn cho thấy, nguồn thu từ thuế, trong đó có thuế GTGT và các nguồn thu khác hình thành nên NSNN và NSNN được sử dụng chi tiêu vào các nhiệm vụ khác nhau. Vì thế, cách tiếp cận về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước có những nét tương đồng so với nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT nhưng không nhiều, chỉ dừng lại ở cách tiếp cận về hiệu quả. Bên cạnh luận văn của các tác giả Lý Thị Thùy Trang, Mai Thị Mai Hoa còn nhiều luận văn khác cũng bàn đến những vấn đề xung quanh việc thực hiện Luật Thuế GTGT, tiêu biểu như Đào Thị Ngọc Ánh với đề tài luận văn thạc sỹ “Pháp luật về khấu trừ và hoàn thuế GTGT tại Việt Nam”, chuyên ngành luật Kinh tế, bảo vệ năm 2011 hay “Thực tiễn áp dụng luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Thuế giá trị gia tăng” trên http://dl.vnu.edu.vn/bitstream/11126/67/1 /00050000937.pdf; đề án “Thực trạng, vai trò và giải pháp hoàn thiện thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam” trên http://timtailieu.vn/tai-lieu/de-an-thuc-trang- vai-tro-va-giai-phap-hoan-thien-thue-gia-tri-gia-tang-o-viet-nam-13249.... Dưới góc độ các bài báo khoa học. Trên địa chỉ website http://www. dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx? co_id=30597&cn_id=215529. Tác giả Phạm Thế Duyệt bàn về “Chỉ thị Số 44-CT/TW ngày 04 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện Luật Thuế giá trị gia tăng và các Luật Thuế mới”. Trong bài viết này, tác giả đã nêu rõ, Luật Thuế GTGT là một loại thuế mới áp dụng ở Việt Nam, để đảm bảo một cách chắc chắn cho Luật Thuế GTGT thực sự phát huy tác dụng trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, hướng tới hoàn thành các mục tiêu của thời kỳ quá độ lên
  9. 7 CNXH, Đảng phải tăng cường lãnh đạo quá trình triển khai, tổ chức thực hiện Luật Thuế GTGT. Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện Luật Thuế GTGT, trước tình hình trốn thuế có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp ở các địa phương và trên cả nước dưới chiêu bài “lỗ giả, lãi thật”, các cơ quan thuế lúng túng trong xử lý nợ đọng thuế, hàng loạt các bài báo khoa học đã được các nhà khoa học bàn về tình trạng thất thu thuế, thất thu ngân sách nhà nước và đề xuất các giải pháp chống thất thu ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý ngân sách nhà nước, thuế và thuế GTGT … tiêu biểu có Ka Ka với “Chú trọng chống thất thu, tăng cường xử lý nợ đọng thuế”; Hiểu Trân nêu vấn đề cần “Tăng cường công tác thu hồi nợ thuế” trên http://www.baoquangninh.com.vn/kinh-te/201203/Tang-cuong-cong-tac-thu- hoi-no-thue-2164217/hoặc Hoàng Hải Vân với “Một cách chống thất thu thuế ở Trung Quốc”… Bài biết của Ka Ka không chỉ phân tích và chỉ ra rằng quá trình thực hiện Luật Thuế GTGT và các thuế khác, do nhiều nguyên nhân, chúng ta đã để thất thu một lượng thuế khá lớn và còn nhiều doanh nghiệp đang nợ thuế khó thu hồi, mà còn đặt ra yêu cầu phải chống thất thu thuế và xử lý nợ đọng thuế một cách kiên quyết và triệt để. Từ thực trạng thất thu thuế ở Trung Quốc với nhiều cách thức và biện pháp tinh vi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, Hoàng Hải Vân đã nêu những biện pháp tích cực mà chính phủ Trung Quốc đã áp dụng để chống thất thu thuế, đảm bảo sự công bằng và nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Kinh nghiệm của Trung Quốc có thể nghiên cứu, ứng dụng ở Việt Nam để thực hiện có hiệu quả Luật Thuế GTGT. Khi phân tích những nguyên nhân của tình trạng thất thu, nợ đọng khó thu hồi thuế, trong đó có thuế GTGT, Đặng Văn Thanh có nêu “Những vấn đề đặt ra với kiểm toán thuế và giải pháp nâng cao chất lượng” trên Tạp chí
  10. 8 kiểm toán số 8/2011. Bài viết này đã chỉ ra các vấn đề mà công tác kiểm toán thuế cần đặc biệt chú ý để đảm bảo kê khai, thu thuế, hoàn thuế… diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật, đảm bảo sự minh bạch, công bằng cho các chủ doanh nghiệp và cải thiện nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Có thể nói rằng, hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có việc áp ngưỡng tính thuế GTGT. Các nước áp dụng thuế GTGT căn cứ vào điều kiện cụ thể để thực hiện việc áp ngưỡng tính thuế. Năm 2013, trước những băn khoăn về áp ngưỡng tính thuế GTGT, Hội Tư vấn thuế Việt Nam đã có bài “Áp ngưỡng tính thuế GTGT tại Việt Nam: một số vấn đề đặt ra” đăng trên http://www.vtca.vn/vtca.nsf/0/Ap-nguong-tinh-thue-GTGT- tai-Viet-Nam-mot-so-van-de-dat-ra-35.htm. Bài viết này đã phân tích sâu vấn đề áp ngưỡng tính thuế dưới góc độ kinh tế học, tài chính trên cơ sở chỉ rõ những thông lệ quốc tế về ngưỡng đăng ký thuế GTGT ở các nước trên thế giới, trong khu vực, từ đó chỉ ra rằng, cần làm rõ tại các văn bản dưới luật những vấn đề như trường hợp có doanh thu biến động so với mức ngưỡng, cách xác định doanh thu ngưỡng … nâng cao hiệu quả áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam. Phạm Hoàng cũng bàn về “Một số biện pháp góp phần hoàn thiện Luật Thuế giá trị gia tăng đến 2020”, trên http://www.asoft.com.vn/vn/tin- tuc/tai-chinh-ke-toan/mot-so-bien-phap-gop-phan-hoan-thien-luat-thue-gia- tri-gia-tang-den-2020/200/1 và nhiều bài viết của các tác giả khác. Mặc dù có nhiều công trình đã được công bố có liên quan đến đề tài luận văn nhưng chưa có bài viết hay công trình nào bàn đến một cách trực tiếp về hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở nước ta hiện nay.
  11. 9 * Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT. - Đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam từ khi thực hiện đến nay (chủ yếu 5 năm gần đây) và chỉ rõ các nguyên nhân cơ bản. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT ở Việt Nam trong những năm tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT . * Phạm vi nghiên cứu: Trong đề tài này, thuế GTGT được hiểu cùng với các nguồn thu khác tạo thành ngân sách nhà nước để dùng cho nhiều hoạt động kinh tế, xã hội; Việc đánh giá hiệu quả thực hiện Luật Thuế GTGT được tiến hành chủ yếu trong thời gian từ năm 2008 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luâ ̣n Đề tài dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước xung quanh việc thực hiện Luật Thuế GTGT. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là phương pháp nghiên cứu đặc thù của Kinh tế Chính trị Mác Lênin là phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Bên cạnh đó, đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, khái quát, thống kê xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia và tham khảo các công trình khoa học đã công bố. 6. Ý nghĩa của đề tài - Làm phong phú thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc nhà nước thực hiện các công cụ trong quản lý, điều tiết nền kinh tế. - Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy môn Kinh tế Chính trị Mác Lênin.
  12. 10 7. Kết cấu của đề tài: Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết.
  13. 11 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. Những vấn đề chung về thuế giá trị gia tăng và hiệu quả thực hiện Luật thuế Giá trị gia tăng 1.1.1. Những vấn đề chung về Luật thuế Giá trị gia tăng Từ khi xuất hiện nhà nước, các loại thuế, phí đã được đặt ra. Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các thể nhân và pháp nhân, được nhà nước qui định thông qua hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Đồng thời, thuế là công cụ điều tiết kinh tế linh hoạt nhạy bén và hiệu quả đối với nền kinh tế. Tính hợp lý của các hình thức và biện pháp thuế khiến cho thuế trở thành công cụ điều tiết sắc bén, đa diện và thâm nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế xã hội. Trải qua lịch sử phát triển của xã hội loài người, các loại thuế, phí không ngừng biến đổi cả về tên gọi và số lượng. Thuế GTGT là một trong những sắc thuế hiện đại, theo tiếng Anh được viết là Value Added Tax (VAT) do một nhà kinh tế học người Pháp là Maurice Lauré đề xuất vào năm 1954, khi là giám đốc cơ quan thuế của Pháp (Direction générale des impôts), dưới tên gọi taxe sur la valeur ajoutée (TVA). Ngày 10 tháng 4 năm 1954, thuế GTGT lần đầu tiên được áp dụng đối với các doanh nghiệp lớn của Pháp. Sau quá trình thử nghiệm, trước những ích lợi mà thuế GTGT mang lại, thuế GTGT đã được mở rộng theo thời gian tới tất cả các bộ phận của nền kinh tế. Thuế GTGT thật sự trở thành nguồn thu quan trọng nhất, chiếm tới khoảng 45% lượng thu của ngân khố quốc gia. Sau khi xuất hiện ở Pháp, thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Tại một số quốc gia như Canada, New Zealand, Singapore, thuế GTGT được gọi là "goods and services tax" (viết tắt GST) nghĩa là thuế hàng hóa và dịch vụ. Tại Nhật Bản, thuế GTGT được biết đến
  14. 12 với tên gọi "thuế tiêu thụ" - một loại thuế gián thu, được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem nộp nó cho cơ quan thu là các doanh nghiệp. Hiện tại, trên 130 nước ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Châu Âu, Châu Á, trong đó có Việt Nam đã và đang thực hiện thuế GTGT như một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý và điều tiết nền kinh tế. Theo các nhà nghiên cứu, một loại thuế được coi là lý tưởng khi nó thỏa mãn bốn tiêu chuẩn: Mô ̣t là, đơn giản về mặt kỹ thuật, tức là không tạo ra cơ hội trốn thuế; Hai là hiệu quả về mặt tài chính, tức là có năng suất cao; Ba là, công bằng về mặt xã hội, tức là đưa lại kết quả phân phối lại của cải xã hội Bốn là, có tác dụng khuyến khích về mặt kinh tế, tức là có tác động thúc đẩy kinh tế phát triển Xét theo bốn tiêu chuẩn này, Luâ ̣t thuế GTGT thể hiện tính hơn hẳn của nó so với thuế doanh thu. Thứ nhất, về kỹ thuật Luâ ̣t thuế GTGT đơn giản hơn thuế DT. Nếu thuế doanh thu bao gồm 11 mức thay đổi từ 0% đến 40% thì thuế GTGT chỉ bao gồm 3 mức (không kể thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu) thay đổi từ 5% đến 20%. Điều này giúp giảm đáng kể hiện tượng trốn thuế. Thứ hai, Luâ ̣t thuế GTGT hiệu quả hơn về tài chính thể hiện ở cơ sở tính thuế của nó rộng hơn. Về nguyên tắc, Luâ ̣t thuế GTGT đánh trên tất cả mọi hàng hóa, dịch vụ (HHDV) tiêu dùng cuối cùng (trừ những trường hợp miễn thuế). Thứ ba, về mặt xã hội Luâ ̣t thuế GTGT công bằng hơn nhờ vào cơ chế đánh thuế của nó với mức thuế suất thấp đánh vào các mặt hàng tiêu dùng thông thường và mức cao đánh vào các mặt hàng xa xỉ, nhờ đó nó góp phần vào phân phối lại thu nhập.
  15. 13 Thứ tư, Luâ ̣t thuế GTGT có tác dụng khuyến khích hơn về mặt kinh tế nhờ vào cơ chế khấu trừ thuế đầu vào và miễn thuế đối với hàng xuất khẩu. Đặc biệt ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh một ưu thế quan trọng nổi bật của Luâ ̣t thuế GTGT, đó là Luâ ̣t thuế GTGT giải quyết được vấn đề đánh thuế trùng lặp của thuế DT, bởi vì nó chỉ đánh một lần duy nhất trên giá trị của hàng hóa dịch vụ tiêu dùng cuối cùng không phụ thuộc vào độ dài của chu kỳ sản xuất và tiêu thụ các hàng hóa dịch vụ này Quá trình áp dụng Luâ ̣t thuế GTGT, người ta đã đưa ra nhiều quan niệm về Luâ ̣t thuế GTGT. Theo cách hiểu chung nhất, Luâ ̣t thuế GTGT là thuế đánh trên phần giá trị gia tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được thu ở khâu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Dưới góc độ kinh tế chính trị, sự tồn tại và phát triển của xã hội không thể tách rời với quá trình tái sản xuất - thực chất là sự lặp đi, lặp lại của sản xuất. Quá trình tái sản xuất xã hội gồm 4 khâu quan hệ biện chứng, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau: Sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Để 4 khâu trên vận hành liên tục, đạt được các mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử, nhà nước cần phải thực hiện vai trò điều tiết trên cơ sở sử dụng những công cụ, trong đó có thuế. Điều đáng chú ý là qua mỗi khâu của quá trình tái sản xuất, giá trị của hàng hóa, dịch vụ có thể tăng thêm, nhất là đối với những hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng cho sản xuất. Trước đây, người ta không tính đến phần tăng thêm về giá trị của hàng hóa, dịch vụ trong tay mỗi chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh mà chỉ quan tâm đến doanh số, từ đó quy định mức thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải trực tiếp nộp cho nhà nước. Khi Luâ ̣t thuế GTGT ra đời đã thay thế cho thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài việc tạo ra nguồn thu lớn hơn cho ngân sách nhà nước, Luâ ̣t thuế GTGT thật sự trở thành công cụ đắc lực cho nhà nước trong hoạt động quản lý, điều tiết một cách hiệu quả nền kinh tế. Muốn
  16. 14 thúc đẩy hay hạn chế sự phát triển của ngành, lĩnh vực nào, bên cạnh các công cụ và chính sách kinh tế khác, nhà nước có thể thay đổi mức thuế GTGT - điều mà ở thuế doanh thu rất khó thực hiện. Từ cách hiểu chung nhất và từ sự phân tích quá trình tái sản xuất nêu trên, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị có thể thấy rằng, Luâ ̣t thuế GTGT là một trong những công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, thay thế cho thuế doanh thu, được áp dụng cho phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ qua mỗi khâu của quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Ở Việt Nam, Luật Thuế GTGT số 57/1997/L-CTN lần đầu tiên được ban hành vào ngày 10/5/1997, chính thức đưa vào áp dụng từ 1/1/1999 thay thế cho thuế thu nhập doanh nghiệp (thuế doanh thu) ở những doanh nghiệp lớn thuộc các thành phần kinh tế. Sau 4 năm thực hiện, trước những thành tựu và hạn chế mà thuế GTGT đã mang lại cho nền kinh tế, năm 2003, Quốc hội đã thực hiện sửa đổi Luật Thuế GTGT năm 1997, hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2004. Đến năm 2008, Luật Thuế GTGT được xây dựng và ban hành mới trên cơ sở Luật Thuế GTGT năm 1997, sửa đổi năm 2003, có hiệu lực từ ngày 1/1/2009. Gần đây nhất, ngày 19/6/2013, Kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2014. Kết cấu nội dung của Luật Thuế GTGT đang có hiệu lực pháp lý ở Việt Nam (Luật Thuế GTGT năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2014) gồm 4 chương, 16 điều. Chương 1: Xác định những quy định chung gồm 5 điều quy định phạm vi điều chỉnh của Luật Thuế GTGT( Điều 1); khái niệm về t huế GTGT (Điều 2); Đối tượng chịu thuế GTGT (Điều 3); Người nộp thuế GTGT (Điều 4) và Đối tượng không chịu thuế (Điều 5). Chương 2: Xác định căn cứ và phương pháp tính thuế gồm 6 điều (từ điều 6 đến điều 11). Điều 6 quy định căn cứ tính thuế; Điều 7 quy định giá
  17. 15 tính thuế; Điều 8 quy định về thuế suất; Điều 9 về phương pháp tính thuế; Điều 10 quy định rõ phương pháp khấu trừ thuế và Điều 11 quy định phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Chương 3: Khấu trừ, hoàn thuế, gồm 3 điều (từ điều 12 đến điều 14) quy định những vấn đề liên quan đến khấu trừ thuế GTGT đầu vào (Điều 12); Các trường hợp hoàn thuế (Điều 13) và hóa đơn, chứng từ (Điều 14). Chương 4 quy định điều khoản thi hành gồm 2 điều (điều 15 và điều 16). Điều 15 xác định hiệu lực thi hành của Luật Thuế GTGT là từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 và thay thế Luật Thuế giá trị gia tăng năm 1997; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng số 07/2003/QH11; Bãi bỏ Điều 2 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế giá trị gia tăng số 57/2005/QH11. Điều 16 quy định hướng dẫn thi hành Luật Thuế GTGT. Theo đó, Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều 5, 7, 8, 12, 13 và các nội dung cần thiết khác của Luật này theo yêu cầu quản lý. Nội dung, cơ bản của Luật Thuế GTGT ở Việt Nam thể hiện các vấn đề sau: - Quan niệm về thuế GTGT, đối tượng chịu thuế và không chịu thuế. Luật Thuế GTGT xác định, thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng“. Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ mua của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài), trừ các đối tượng không chịu thuế GTGT gồm 25 danh mục (điều 5, phụ lục 1 và điều 1, phục lục 2). - Căn cứ tính thuế GTGT thể hiện ở giá tính thuế, số lượng và mức thuế suất. Giá tính thuế là một căn cứ quan trọng để xác định số thuế GTGT phải nộp. Nguyên tắc chung xác định giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT được ghi trên hoá đơn bán hàng của người bán hàng, người cung
  18. 16 cấp dịch vụ hoặc giá chưa có thuế GTGT được ghi trên chứng từ của hàng hoá nhập khẩu. (Theo Điều 7, Luật Thuế GTGT). Việc lựa chọn số lượng và mức thuế suất thuế GTGT khác nhau tuỳ thuộc vào quan điểm, đặc điểm kinh tế-xã hội và mục tiêu đặt ra cho chính sách thuế của từng nước. Ở Việt Nam, Luật Thuế GTGT quy định 3 mức thuế suất là: Một là, Mức thuế suất 0%: Là mức thuế suất áp dụng đối với các hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT quy định tại điều 5 Luật Thuế GTGT số 13/QH/2008/QH12 khi xuất khẩu, trừ các trường hợp chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính viễn thông; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế biến. Hai là, Mức thuế suất 5%: Là mức thuế suất áp dụng đối với các loại hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng và các hàng hoá dịch vụ cần ưu đãi, hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất trong các lĩnh vực: nông nghiệp, y tế, giáo dục, khoa học - kỹ thuật, nhằm thực hiện chính sách xã hội, khuyến khích đầu tư sản xuất. Ba là, Mức thuế suất 10%: Áp dụng cho các hàng hóa, dịch vụ thông thường không nằm trong diện chịu các mức thuế suất nói trên và danh mục không áp dụng thuế GTGT như: sản phẩm điện tử, dầu mỏ, khí đốt, sản phẩm may mặc, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ tư vấn… - Phương pháp tính thuế GTGT. Luật Thuế GTGT quy định việc tính thuế GTGT phải nộp có thể thức hiện bằng phương pháp khấu trừ hoặc phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Một là, Phương pháp khấu trừ thuế: Phương pháp này được áp dụng cho tất cả các đơn vị, tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp thành lập theo luật Doanh nghiệp Nhà nước (nay là luật Doanh nghiệp), luật doanh nghiệp, luật hợp tác xã,
  19. 17 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các đơn vị tổ chức kinh doanh khác được áp dụng phương pháp khấu trừ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT theo quy định. Yêu cầu chung đối với các đối tượng nộp thuế theo phuơng pháp khấu trừ là phải có đầy đủ các căn cứ, chứng từ hợp pháp để xác định số thuế GTGT được khấu trừ đầu vào. Số thuế phải nộp được tính như sau: Số thuế phải nộp = A - B Trong đó: A: Thuế GTGT đầu ra. Được tính bằng tích của giá tính thuế của hàng hóa,dịch vụ chịu thuế bán ra và mức thuế suất thuế GTGT. B: Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Xác định bằng cách căn cứ vào tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định) dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay có phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính áp dụng đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài không có tư cách pháp nhân tại Việt Nam và cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào là doanh nghiêp, cá nhân có hoá đơn GTGT hợp pháp của hàng hoá, dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu hoặc chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính và có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào từ 20 triệu đồng trở lên. Ngoài ra Luật Thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn còn quy định điều kiện khấu trừ trong trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào từng lần theo hoá đơn trên 20 triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng; mua hàng hoá, dịch vụ trả chậm, trả góp, phương thức thanh toán bù trừ, thanh
  20. 18 toán uỷ quyền … Hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, hoàn thuế GTGT phải đáp ứng đủ các điều kiện khấu trừ nêu trên và các điều kiện sau: Một là, Có hợp đồng theo quy định. Đó là các hợp đồng bán hàng hoá, gia công hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài, hợp đồng uỷ thác xuất khẩu… Hai là, Có tờ khai hải quan hợp lệ. Đó là tờ khai hải quan về hàng xuất khẩu có xác nhận đã xuất khẩu của cơ quan Hải quan, trừ một số trường hợp không cần tờ khai hải quan theo quy định. Ba là, Phải thực hiện thanh toán theo yêu cầu của nhà nước. Cụ thể là thanh toán qua hệ thống ngân hàng hay các hình thức thanh toán khác theo quy định của Chính phủ. Bốn là, Có hóa đơn GTGT. Hóa đơn này có thể là hóa đơn bán hàng hoá, dịch vụ hoặc hóa đơn đối với tiền công gia hàng hoá. Ngoài ra Luật Thuế GTGT còn quy định điều kiện, thủ tục và hồ sơ để khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với một số trường hợp hàng hoá được coi như xuất khẩu (gia công chuyển tiếp, xuất khẩu tại chỗ, hàng hoá do doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu để thực hiện công trình xây dựng ở nước ngoài). Hai là, Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Đối tượng áp dụng là cá nhân, hộ kinh doanh, tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo luật đầu tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ theo quy định của pháp luật, các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ. Số thuế GTGT phải nộp được tính như sau: Số thuế GTGT phải nộp = C x D Trong đó: C là GTGT của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế D là thuế suất thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0