intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kinh doanh theo cảm tính và hành vi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Bình | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

12
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm kiếm bằng chứng về giao dịch theo cảm tính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời, bài viết vừa nghiên cứu hành vi nhà đầu tư, nhà đầu tư Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kinh doanh theo cảm tính và hành vi nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN NGỌC THỦY TIÊN KINH DOANH THEO CẢM TÍNH VÀ HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ------- TRẦN NGỌC THỦY TIÊN KINH DOANH THEO CẢM TÍNH VÀ HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS Phan Thị Bích Nguyệt TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
  3. KINH DOANH THEO CẢM TÍNH & HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TÓM TẮT ............................................................................................................................. 1 PHẦN 1: GIỚI THIỆU........................................................................................................ 2 1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu .......................................................................... 2 1.2 Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................. 3 1.3 Tổng quan nội dung ................................................................................................... 4 PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH THEO CẢM TÍNH VÀ HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ ................................................................................................................................ 7 2.1 Lý thuyết về kinh doanh theo cảm tính ...................................................................... 7 2.1.1 Nhà đầu tư theo cảm tính ........................................................................................... 7 2.1.2 Rủi ro kinh doanh theo yếu tố cảm tính ..................................................................... 9 2.1.3 Các nghiên cứu liên quan từ trước về giao dịch theo cảm tính: nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm....................................................................................................................... 9 2.1.4 Mô hình giao dịch dựa vào thông tin có điều chỉnh yếu tố cảm tính: Bằng chứng thiếu hiệu quả của TTCK Úc ............................................................................................... 12 2.2 Ứng dụng tâm lý học, yếu tố cảm tính vào tài chính ............................................... 19 2.2.1 Lý thuyết tài chính hành vi ...................................................................................... 19 2.2.2 Nguyên lý cơ bản hành vi nhà đầu tư ...................................................................... 20 2.2.3 Nghiên cứu thị trường về hành vi của nhà đầu tư Ấn Độ ........................................ 24 PHẦN 3: MÔ HÌNH, DỮ LIỆU PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 29 3.1 Mô hình .................................................................................................................... 29 3.2 Dữ liệu...................................................................................................................... 31 3.3 Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 32 PHẦN 4: NGHIÊN CỨU VỀ KINH DOANH THEO CẢM TÍNH VÀ HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ................................. 33 4.1 Nhìn lại diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam qua các giai đoạn ................. 33 4.2 Các biểu hiện giao dịch theo cảm tính ở Việt Nam ................................................. 34 4.2.1 Phản ứng thái quá ..................................................................................................... 36
  4. 2 4.2.2 Phản ứng chậm ......................................................................................................... 38 4.2.3 Kết luận chung ......................................................................................................... 39 4.3 Nghiên cứu thị trường về Hành vi của các nhà đầu tư Việt Nam ............................ 39 4.3.1 Phân tích mô tả......................................................................................................... 39 4.3.2 Phân tích nhân tố - Kết luận ..................................................................................... 43 4.3.3 Phân tích cụm - Kết luận .......................................................................................... 47 PHẦN 5: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................................... 52 5.1 Ưu và nhược điểm của các nhóm đầu tư.................................................................. 53 5.2 Các nền tảng, giải pháp thuộc về các cơ quan có thẩm quyền ................................. 56 5.3 Nguyên nhân, nguồn gốc của hành động kinh doanh không hợp lý ở thị trường chứng khoán Việt Nam ........................................................................................................ 60 5.4 Giải pháp, nhận diện đầu tư theo cảm tính .............................................................. 61 PHẦN 6: KẾT LUẬN ....................................................................................................... 66 6.1 Kết luận .................................................................................................................... 66 6.2 Hướng phát triển của đề tài ...................................................................................... 66 PHỤ LỤC 1: BẢNG CÂU HỎI ĐIỀU TRA TÂM LÝ NHÀ ĐẦU TƯ
  5. 3 DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH VẼ DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1: Bảng tóm tắt ảnh hưởng thị trường 18 Bảng 2: Bảng KMO và Bartlett's Test 25 Bảng 3: Tổng phương sai được giải thích 26 Bảng 4: Các yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi nhà đầu tư Ấn Độ 26 Bảng 5: Tuổi mã hóa của mẫu nghiên cứu 39 Bảng 6: Bảng hệ số tương quan của mẫu nghiên cứu 42 Bảng 7: Bảng KMO và Bartlett's Test của mẫu nghiên cứu 43 Bảng 8: Tổng phương sai được giải thích (Total Variance Explained) 43 Bảng 9: Ma trận nhân tố (Component Matrix)a 45 Bảng 10: Chỉ số trung bình theo từng phần 49 Bảng 11: Tỷ lệ giới tính của mỗi nhóm 50 Bảng 12: Tỷ lệ kinh nghiệm của mỗi nhóm 50 Bảng 13: Tỷ lệ độ tuổi của mỗi nhóm 50 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 1: Tỷ lệ giới tính của mẫu nghiên cứu 40 Hình 2: Tỷ lệ kinh nghiệm của mẫu nghiên cứu 40 Hình 3: Điểm trung bình 4 nhóm nghiên cứu của mẫu nghiên cứu 41 Hình 4: Biểu đồ Scree Plot 44 Hình 5: Kết quả phân tích cụm của mẫu nghiên cứu 48
  6. 1 KINH DOANH THEO CẢM TÍNH & HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TÓM TẮT Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm kiếm bằng chứng về giao dịch theo cảm tính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời, bài viết vừa nghiên cứu hành vi nhà đầu tư, nhà đầu tư Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào. Theo kết quả nghiên cứu, tác giả tìm thấy những giao dịch theo cảm tính của nhà đầu tư Việt Nam, có những biểu hiện giao dịch theo bầy đàn, quá tự tin, quá lạc quan, hay phản ứng thái quá, phản ứng chậm với nguồn thông tin. Dựa vào kết quả khảo sát hành vi nhà đầu tư, tác giả cũng tìm thấy nhà đầu tư Việt Nam ngoài việc ảnh hưởng bởi yếu tố cơ bản, họ còn bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tâm lý: tác động của người thân quen (Chồng/vợ, bố mẹ, bạn bè), ảnh hưởng bởi cộng đồng (Tâm lý phổ biến trên thị trường, cổ phiếu nổi bật trên báo chí, bình luận chuyên môn) và yếu tố cá nhân. Những nhà đầu tư nữ thường bị ảnh hưởng bởi yếu tố cá nhân hơn những nhà đầu tư nam. Và những nhà đầu tư nam thường bị ảnh hưởng bởi quy tắc cơ bản hơn.
  7. 2 PHẦN 1: GIỚI THIỆU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thị trường chứng khoán phát triển mạnh, bền vững luôn là sự mong mỏi của cả nước, nhờ đó có thể tăng trưởng nền kinh tế; phát huy, huy động được nguồn vốn đầu tư của trong và ngoài nước; các doanh nghiệp phát triển mạnh; các nhà đầu tư có lợi nhuận cao, nền kinh tế ngày càng phát triển. Để chỉ báo thị trường phản ánh đúng động thái của nền kinh tế. Do vậy, các cấp quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư,…đều mong muốn thị trường chứng khoán phát triển mạnh, bền vững, hoạt động thị trường ngày càng sôi động, quy mô thị trường ngày càng tăng tạo niềm tin và sự hứng khởi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thị trường chứng khoán đã sôi động trong một thời gian, khoảng thời năm 2007, đánh dấu bước phát triển mạnh. Tuy nhiên, từ năm 2008 đến nay, sự phát triển dường như chững lại, thị trường chứng khoán không có bước bứt phá, hồi sinh. Điều này có nhiều nguyên nhân. Nhiều nhà đầu tư thấy rằng thị trường dịch chuyển không theo quy tắc nào, không có cơ sở nào, và cho rằng đầu tư chứng khoán như một canh bạc lớn, như trò chơi mạo hiểm, họ e dè với thị trường, mất dần niềm tin vào thị trường, và rút khỏi thị trường. Nhiều nhà đầu tư còn thấy rằng thật không công bằng và minh bạch cho bản thân họ. Chính sách phát triển, công tác quản lý của nhà nước còn lơi lỏng. Môi trường thông tin chưa nghiêm. Trong khi đó, kiến thức của nhà đầu tư còn non kém. Do đó, họ không tự chủ được bản thân, đầu tư chứng khoán dựa theo cảm tính, bầy đàn, bị chi phối và những tin đồn thổi bất chấp những kiến thức và những dự báo cần thiết của các nhà chuyên môn và nhà quản lý. Khi thị trường chứng khoán đang lên, có rất nhiều nhà tham gia mua chứng khoán, và khi thị trường sụt giảm thì các nhà đầu tư cứ tranh nhau
  8. 3 bán tháo cổ phiếu. Vì thế, trong một số thời điểm, giá của chứng khoán gấp hàng chục lần so với giá trị thực, hoặc thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thị trường không phản ánh đúng nền kinh tế. Nhà đầu tư nói rằng do thông tin không minh bạch, quản lý nhà nước không rõ ràng. Ngược lại, các cấp quản lý lại cho rằng nhà đầu tư không chịu nghiên cứu, đầu tư theo lối cảm tính. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu Giả thuyết thị trường hiệu quả tin rằng các nhà đầu tư đưa ra quyết định hợp lý, hoàn toàn dựa trên yếu tố cơ bản, yếu tố kinh tế của cổ phiếu. Những yếu tố cơ bản bao gồm như: chỉ số EPS, giá trị sổ sách Book value, chỉ số PE, dòng tiền tương lai, dự án của công ty và mục tiêu chung, sự phát triển của ngành. Với lý thuyết này, không có sự khác biệt giữa cổ phần của hai công ty có các yếu tố cơ bản giống nhau. Tuy nhiên, lý thuyết cổ điển này không giải thích đủ hoặc không giải trình được sự kinh doanh thực tế và sự thay đổi của chỉ số chứng khoán. Do đó, đối với khái niệm Tài chính hành vi, họ tin rằng những nhà đầu tư kinh doanh không hợp lý, họ bị ảnh hưởng bởi yếu tố cảm xúc và tâm lý. Họ cho rằng trong khi mua và bán cổ phiếu, nhà đầu tư đưa ra quyết định dựa trên quan điểm và niềm tin của họ hơn yếu tố cơ bản. Do đó, họ đã phạm một sai lầm bởi vì nhận thức giới hạn, tự tin thái quá, ảnh hưởng bởi những áp lực từ những người xung quanh. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm tìm kiếm bằng chứng về giao dịch theo cảm tính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời, bài viết vừa nghiên cứu hành vi nhà đầu tư, nhà đầu tư Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào. Quan hệ giữa kinh doanh theo cảm tính và hành vi nhà đầu tư. Từ đó thấy được điều gì tác động giao dịch theo cảm tính của những nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán có ảnh hưởng hay không, mức độ ảnh hưởng như thế nào bởi những rủi ro do các giao dịch theo cảm tính. Chính những nhà đầu tư theo cảm tính và những nhà đầu tư lý trí, nhà đầu tư dựa trên thông tin bị ảnh hưởng như thế nào.
  9. 4 Mô hình cũng làm rõ thêm những bất thường của thị trường chứng khoán Việt Nam, đầu cơ bong bóng, giá cả cao thái quá, hay thấp bất thường. Thực trạng những nhà giao dịch theo cảm tính và lý trí, dựa trên thông tin hiện tại và hành vi của họ. Thông qua bài nghiên cứu, tác giả cũng mong muốn phần nào nhà đầu tư hiểu rõ hơn, làm chủ hơn trên thị trường chứng khoán và nhận diện được phần nào liệu kinh doanh theo cách thức nào có hiệu quả hơn do sự ảnh hưởng của giao dịch theo cảm tính. Tác giả cũng mong muốn những nhà đầu tư, những nhà quản lý có thể khắc phục được phần nào những nguyên nhân gây nên thị trường không phản ánh đúng giá trị. Để giá chứng khoán dịch chuyển dựa vào nguyên tắc đúng đắn, thị trường chứng khoán phát triển bền vững, lâu dài, để thị trường luôn sôi động và là một kênh đầu tư hấp dẫn, công bằng cho các nhà đầu tư. 1.3 Tổng quan nội dung Dưới đây, trong Phần 2: tác giả đã thu thập và nêu lên các trường phái nghiên cứu, các thuyết nghiên cứu, sự tranh cãi lẫn nhau giữa các trường phái, các thuyết. Để từ đó chúng ta có thể thấy được ưu và nhược điểm giữa các thuyết. Tác giả cũng chọn lọc được công trình nghiên cứu: Công trình nghiên cứu lý thuyết tại Úc, và công trình nghiên cứu thực nghiệm ở thị trường Ấn Độ. Phần 2.1.4 Mô hình lý thuyết: Mô hình giao dịch dựa vào thông tin có điều chỉnh yếu tố cảm tính: Bằng chứng thiếu hiệu quả của TTCK Úc Phần 2.2.3 Công trình nghiên cứu thị trường về hành vi của nhà đầu tư Ấn Độ Cho tới nay, sự tranh cãi giữa các thuyết này vẫn chưa chấm dứt, mỗi cá nhân có một quan điểm riêng, tác giả cũng đồng quan điểm với trường phái tài chính hành vi để từ đó chúng ta có thể nghiên cứu sâu hơn về khía cạnh đầu tư theo cảm tính, và nghiên cứu thực nghiệm đầu tư theo cảm tính ở thị trường chứng khoán Việt Nam.
  10. 5 Phần 3: Tác giả trình bày lý do chọn lựa mô hình của Vikash Ramiah and Sinclair Davidson và Akash Jauhari, nguồn dữ liệu và phương pháp nghiên cứu. Trong Phần 4: Tác giả nêu khái quát về quá trình phát triển, về tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam, những trường phái đầu tư tại Việt Nam và những biểu hiện của sự đầu tư theo cảm tính của nhà đầu tư. Tác giả thu thập dữ liệu tại TP.HCM, trong quá trình khảo sát, tác giả vừa định tính được phần nào yếu tố cảm tính của nhà đầu tư rất tự tin vào bản thân. Và kết quả khảo sát, tác giả đã lượng hóa được những ý kiến của các đối tượng nghiên cứu để rút ra các cách đầu tư, các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Bảng câu hỏi khảo sát có 4 phần, mỗi phần có 5 câu hỏi nhỏ. Tác giả đã sử dụng phần mềm SPSS để phân tích kết quả có được, cụ thể sử dụng Phân tích mô tả, phân tích nhân tố và phân tích cụm. Phân tích mô tả về những dữ liệu có được như phân tích các biến định danh: giới tính, độ tuổi, kinh nghiệm. Phân tích độ tương quan giữa các phần. Tác giả đã sử dụng phân tích nhân tố để rút gọn lại các yếu tố (20 câu hỏi biểu thị cho 20 yếu tố) để có được số lượng các nhân tố nhỏ hơn, đặc trưng, biểu thị cho số còn lại. Trong số mẫu có những nhóm người đầu tư có đặc điểm giống nhau hợp thành một nhóm. Nên tác giả đã chọn phân tích cụm để phân mẫu thành các cụm. Từ đó, tác giả so sánh, đánh giá các cụm, phân tích đặc điểm của các cụm. Phần 5: Dựa trên lý thuyết, biểu hiện của giao dịch theo cảm tính, tâm lý của nhà đầu tư, kết quả phân tích được, tác giả rút ra các giải pháp giúp các nhà đầu tư phần nào hiểu rõ được diễn biến chung của thị trường. Hiểu được các nhà đầu tư khác, và chính bản thân nhà đầu tư; thấy được ưu và nhược điểm của từng phương thức đầu tư, những nhân tố bị ảnh hưởng quá nhiều. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân, kiểm soát cảm xúc của chính mình.
  11. 6 Ngoài ra, tác giả cũng mong muốn các nhà quản lý có thể quản lý chặt hơn, khung pháp lý siết chặt hơn để các nguồn thông tin có chất lượng, giúp các nhà đầu tư không bị nhiễu loạn thông tin, minh bạch, kịp thời. Để nhà đầu tư tin tưởng vào kênh đầu tư chứng khoán. Thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển hơn, hiệu quả hơn, vững bền hơn. Và phần 6: Kết luận và hạn chế của nghiên cứu
  12. 7 PHẦN 2: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH THEO CẢM TÍNH VÀ HÀNH VI NHÀ ĐẦU TƯ 2.1 Lý thuyết về kinh doanh theo cảm tính 2.1.1 Nhà đầu tư theo cảm tính Sự phát triển của thị trường chứng khoán kéo theo phát triển những lý thuyết nêu ra rằng giá chứng khoán được thiết lập dựa trên sự tương tác năng động giữa những nhà giao dịch theo cảm tính và nhà đầu tư hợp lý. Nhiều nghiên cứu lý thuyết đã mô hình hóa vai trò của yếu tố cảm tính của nhà đầu tư trong giá cả chứng khoán (Black, 1986; De Long et al., 1990; Barberis et al., 1998). Trong những mô hình trên, có hai loại nhà đầu tư tác động: nhà đầu tư hợp lý và nhà đầu tư theo cảm tính (ví dụ: những cá nhân). Nhà đầu tư hợp lý có những mong đợi hợp lý về lợi nhuận tài sản. Ngược lại, điều mong đợi của nhà đầu tư theo cảm tính về lợi nhuận tài sản là chủ quan và bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm lý, cảm tính; họ ước tính lợi nhuận tài sản thấp hơn, hoặc cao hơn so với giá trị cơ bản. Giao dịch theo cảm tính (Noise trading) là thuật ngữ dùng cho những giao dịch trên thị trường, chủ yếu là thị trường chứng khoán, khi người giao dịch không quan tâm đến các thông tin cơ bản và nền tảng (fundamentals), mà chủ yếu dựa trên cảm tính hoặc xu hướng chung của thị trường. Cũng theo Investopedia: Hiện nay, vấn đề tranh luận sôi nổi về tài chính hành vi diễn ra, nhiều nhà đầu tư cảm thấy rằng họ không phải là nhà giao dịch theo cảm tính và họ chỉ đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Trong thực tế, hầu hết mọi người được coi như nhà giao dịch theo cảm tính, cũng như rất ít người thực sự đưa ra quyết định đầu tư chỉ dựa trên sử dụng phân tích cơ bản. Hơn nữa, phân tích kỹ thuật được coi là một phần của giao dịch theo cảm tính vì dữ liệu không liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của một công ty nào cả. Theo John T. Scruggs 2006: “Những giao dịch không tương quan với những thay đổi trong giá trị cơ bản hay nội tại được gọi là giao dịch theo cảm tính. Giao dịch
  13. 8 Có bằng chứng đáng kể cho thấy nhiều nhà đầu tư không làm theo lời khuyên của các nhà kinh tế để mua và nắm giữ danh mục đầu tư thị trường. Các nhà đầu tư cá nhân thường không đa dạng hóa, thay vào đó họ nắm giữ một cổ phiếu duy nhất hoặc một số cổ phiếu nhỏ (theo Lewellen, Lease, và Schlarbaum 1974). Họ chọn cổ phiếu thông qua nghiên cứu riêng của họ, hoặc dựa trên những lời khuyên của tạp chí Joe Granville hoặc Wall Street Week. Khi nhà đầu tư đa dạng hóa, họ giao phó tiền của mình vào các quỹ tương hỗ định giá chứng khoán mà các quỹ này thì tính lệ phí cao trong khi đó lại thất bại khi tấn công thị trường (Jensen 1968). Black (1986) tin rằng các nhà đầu tư như vậy, do không có khả năng nắm bắt thông tin nội bộ, nên họ hành động một cách vô lý theo phong trào như thể đây là thông tin mà có thể cung cấp cho họ một cơ sở. Black (1986), sau đó là Kyle (1985), gọi các nhà đầu tư này là "nhà giao dịch theo cảm tính ". Người ta có thể giao dịch dựa vào tín hiệu nhiễu vì họ nghĩ rằng họ có thông tin hữu ích hoặc đơn giản vì họ thích giao dịch, hay bị ảnh hưởng bởi những tin đồn của cộng đồng, thông tin sai lệch của người thân,…Nếu hành vi của những người giao dịch đó là ngẫu nhiên, sẽ không có nguyên nhân để lo ngại tính hiệu quả của thị trường, vì các giao dịch đối ứng sẽ trung hòa lẫn nhau, hoặc chúng quá nhỏ để ảnh hưởng tới giá. Tuy nhiên khi một số người đầu tư cùng định giá sai lầm một số hoặc tất cả các chứng khoán theo một cách. Chúng ta nói rằng chính cảm tính (sentiment) đang chi phối giá trên thị trường. Do đó, có thể nói rằng cảm tính chính là tín hiệu nhiễu – là mối tương quan giữa nhiều nhà đầu tư Một thuật ngữ thường được sử dụng để mô tả các cá nhân này là những nhà giao dịch nhiễu (noise trader) (Theo Tài chính hành vi của Lucy F. Ackert và Rechard Deaves, do nhóm Thạc sỹ Lê Đạt Chí biên dịch)
  14. 9 2.1.2 Rủi ro kinh doanh theo yếu tố cảm tính Mỗi giai đoạn, nhà đầu tư hợp lý và nhà đầu tư theo cảm tính kinh doanh tài sản dựa vào sự mong đợi cá nhân họ. Lý thuyết cho rằng yếu tố cảm tính của những nhà giao dịch theo cảm tính là ngẫu nhiên và không thể tiên đoán được bởi những nhà đầu tư hợp lý. Bởi vì tài sản là rủi ro và tất cả nhà đầu tư đều không ưa thích rủi ro, giá ở trạng thái cân bằng phản ánh các yếu tố của cả nhà đầu tư hợp lý và nhà đầu tư theo cảm tính. Điều này có nghĩa tâm lý nhà đầu tư theo cảm tính có ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán. Các nghiên cứu lý thuyết cũng chỉ rằng giá cả chứng khoán có sự phân kỳ rất lớn với giá trị cơ bản. Hơn nữa, kinh doanh chênh lệch giá có sự giới hạn, những nhà đầu tư hợp lý thất bại do ảnh hưởng bới tâm lý của các nhà đầu tư theo cảm tính. Do đó, “rủi ro do nhà đầu tư theo cảm tính” cũng được biết đến như là “rủi ro tâm lý”, trở thành một yếu tố ảnh hưởng đến giá thị trường chứng khoán. 2.1.3 Các nghiên cứu liên quan từ trước về giao dịch theo cảm tính: nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm Mặc dù sự tồn tại của các nhà giao dịch theo cảm tính trong lý thuyết cũng như thực tế là điều không thể phủ nhận, nhưng nhiều nhà kinh tế, nhiều công trình nghiên cứu lại thấy không quan trọng và đã bỏ qua điều này trong các cuộc thảo luận về sự hình thành giá tài sản. Giả thuyết thị trường hiệu quả lập luận rằng các nhà giao dịch theo cảm tính là nhà đầu tư không quan trọng và họ sẽ biến mất như một kết quả của hoạt động kinh doanh chênh lệch giá. Theo Friedman (1953) và Fama (1965) cho rằng, đối nghịch với các nhà giao dịch theo cảm tính là nhà giao dịch có lý trí, nhà đầu tư có lý trí sẽ khai thác, tận dụng những điều vô lý từ nhà giao dịch theo cảm tính và do vậy hai bên có sự đầu tư trái ngược nhau, và điều này làm cho giá trở về lại giá trị cơ bản. Friedman cũng lập luận các nhà giao dịch theo cảm tính sẽ bị mất tiền do đầu cơ không hợp lý, sẽ bị thua lỗ, bán với giá thấp hoặc mức trung bình, và điều này làm họ không tồn tại lâu dài. Do vậy, họ sẽ không làm ảnh hưởng đến giá quá nhiều.
  15. 10 Black (1986) đặt vấn đề với mô hình này và nhận ra tầm quan trọng của nhà giao dịch theo cảm tính vì nó góp phần vào tính thanh khoản của thị trường. Ông cũng kết luận rằng "Thông tin theo cảm tính làm cho thị trường tài chính tồn tại, nhưng cũng làm cho nó không hoàn hảo." Hiện nay, giao dịch theo cảm tính chiếm một vị trí quan trọng trong lý thuyết tài chính. Nó đã trở thành nền tảng của lý thuyết cấu trúc vi mô thị trường kể từ khi Kyle (1985). Nó đã được đề xuất như một lời giải thích cho các tài sản có giá "bất thường" cũng như "những biến động quá mức khó giải thích" đầu tiên được ghi bởi Shiller (1981) và LeRoy và Porter (1981). Và giao dịch theo cảm tính đóng một vai trò trung tâm trong các tài liệu đang phát triển về tài chính hành vi. Ví dụ, De Long, Shleifer, Summers, và Waldman (1990) cho thấy rủi ro giao dịch theo cảm tính là một giới hạn chênh lệch giá đáng kể mà nó có thể gây trở ngại cho thị trường về mặt thông tin hiệu quả. Sự quan tâm nghiên cứu về việc này tiếp tục tăng khi các vấn đề về nhận dạng của giao dịch theo cảm tính đã được đơn giản hóa bởi Shefrin và Statman (1994), người đã phân loại rằng bất kỳ giao dịch nào giao dịch không dựa trên thông tin là giao dịch theo cảm tính. Điều này dẫn đến sự phát triển của một số mô hình như SIA, Starks và Tinic (2001), Osler (1998) và Ramiah và Davidson (2007), họ nỗ lực để tính toán được giao dịch theo cảm tính. Trong khi các nghiên cứu trước đây tập trung vào sự phát triển của các mô hình để nắm bắt các giao dịch theo cảm tính, thì nhiều nghiên cứu hiện nay được thực hiện để kiểm tra tính phù hợp của các mô hình hiện có. Về nghiên cứu thực nghiệm, các nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này cũng cho các kết quả khác nhau. French và Roll (1986) kết luận rằng giao dịch theo cảm tính gây ra chỉ một phần nhỏ vào sự biến động lợi nhuận hàng ngày. Sử dụng tỷ lệ phương sai và tương quan lợi nhuận hằng ngày, French và Roll (1986) ước tính rằng chỉ có 4% đến 12% của biến động lợi nhuận hàng ngày là do giao dịch theo cảm tính. Theo Fama (1991, p. 1580), 4% là "con số khó để kết luận rằng giao dịch theo cảm tính dẫn đến thị trường kém hiệu quả một cách đáng kể."
  16. 11 Bên ngược lại cho thấy rằng tin tức từ nguyên tắc cơ bản giải thích tương đối nhỏ trên biến động trong tổng lợi nhuận. Ví dụ, Roll (1988) báo cáo rằng chỉ có 20% của biến động lợi nhuận hàng ngày các cổ phiếu trung bình lớn là do nguyên tắc cơ bản. Nghiên cứu tiếp theo như De Long, Shleifer, Summers, và Waldman (1990) (DSSW (1990)) đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm trực tiếp chống lại vấn đề này của giả thuyết thị trường hiệu quả bằng cách đưa ra những loại kinh doanh có ảnh hưởng đến thị trường thông qua các rủi ro do các giao dịch theo cảm tính. Trong vài năm trở lại đây, ở Việt Nam một số nhà nghiên cứu cũng đã bắt đầu dành mối quan tâm đối với tài chính hành vi, nhiều luận văn, đề tài về tài chính hành vi, hành vi nhà đầu tư nở rộ. Nhưng dường như các nghiên cứu này tập trung vào lý giải hành vi thị trường, hành vi nhà đầu tư, chưa thật sự đi sâu vào các giao dịch theo cảm tính; cơ sở lý thuyết của giao dịch theo cảm tính; thực trạng ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của giao dịch theo cảm tính này đến giá cả thị trường chứng khoán Việt Nam thế nào. Nghiên cứu này sẽ làm rõ hơn về vấn đề này. Cơ sở lý thuyết về giao dịch theo cảm tính trên thế giới rất phong phú: điển hình cho các trường phái như: Friedman (1953) và Fama (1965); Shiller (1981); De Long, Shleifer, Summers, và Waldman (1990); Shefrin và Statman (1994). Nhưng những nghiên cứu này nặng về phần lý thuyết, chỉ dừng lại ở mức khẳng định có giao dịch theo cảm tính và mức độ ảnh hưởng của giao dịch theo cảm tính, những trường phái càng sau này càng cho rằng mức độ ảnh hưởng của giao dịch theo cảm tính, rủi ro của các giao dịch theo cảm tính cao hơn so với các nghiên cứu trước, mô hình phức tạp và chưa thấy có chiều hướng ứng dụng vào thực tế. Tuy nhiên, tác giả dựa vào những nghiên cứu này để kết luận rằng có giao dịch theo cảm tính, rủi ro giao dịch theo cảm tính và mức độ ảnh hưởng của nó cần phải được đi sâu xem xét, để tác giả có thể nghiên cứu tiếp liệu thị trường chứng khoán Việt Nam có bị ảnh hưởng bởi yếu tố cảm tính hay không, ảnh hưởng với mức độ nào và nhà đầu tư Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những yếu tố nào khi đưa ra quyết định đầu tư. Để từ đó chúng ta có thể thấy được liệu thị trường chứng khoán Việt Nam có phải là thị
  17. 12 trường hiệu quả hoàn toàn, hay không hiệu quả hoàn toàn, hay khá hiệu quả nhưng có ảnh hưởng bởi yếu tố cảm tính. 2.1.4. Mô hình giao dịch dựa vào thông tin có điều chỉnh yếu tố cảm tính: Bằng chứng thiếu hiệu quả của TTCK Úc Tóm tắt và giới thiệu mô hình Vikash Ramiah and Sinclair Davidson (VS) đã mô tả sự tương tác giữa các giao dịch dựa vào cảm tính, giao dịch dựa vào thông tin. VS không cho rằng giao dịch thông tin là không có lỗi. Thay vào đó các nhà giao dịch dựa vào thông tin có thể sai sót dẫn đến phản ứng chậm và phản ứng thái quá. Nhà giao dịch thông tin thậm chí có thể thêm vào các lỗi giá trên thị trường. Những tương tác này được thể hiện trong mô hình giao dịch thông tin có điều chỉnh yếu tố cảm tính của VS. VS thử nghiệm mô hình bằng cách sử dụng dữ liệu từ thị trường chứng khoán Úc. Thị trường này có chế độ công bố thông tin liên tục cho phép chúng ta xác định khi thông tin được đưa ra thị trường. VS trình bày bằng chứng phù hợp với quan điểm cho rằng thị trường thường là nguồn thông tin không hiệu quả. Nghiên cứu này của VS mô tả sự tương tác giữa các giao dịch thông tin và giao dịch theo cảm tính. Không giống như phần lớn các nghiên cứu tài chính hành vi, VS không cho rằng nhà đầu tư thông tin nhất thiết phải lảm cho thị trường trở lại giá trị cơ bản. Nhà giao dịch thông tin kinh doanh trên cơ sở thông tin nhưng cũng có thể gặp lỗi trong quá trình giải thích thông tin đó. Nhà giao dịch cảm tính kinh doanh trong trường hợp không có thông tin. Nhà kinh doanh thông tin cũng có thể sửa chữa được lỗi định giá được gây ra bởi các nhà giao dịch cảm tính-điều này chỉ là một trong những kết quả mà VS mô tả. Mặt khác, nhà kinh doanh thông tin có thể chỉnh sửa thái quá hoặc chỉnh sửa chưa tới mức lỗi cảm tính. Điều này đưa đến một trong hai phản ứng: phản ứng chậm hoặc phản ứng thái quá. Hơn nữa, nhà giao dịch dựa trên thông tin có thể làm cho các lỗi tương tự cho các nhà kinh doanh theo cảm tính và thêm vào hoặc giảm bớt các lỗi giá cả trên thị trường. Sự tương tác giữa các nhà đầu tư thông tin và nhà giao dịch cảm tính không giống nhau để trở thành một nhà
  18. 13 giao dịch thông tin có thể sửa được lỗi giá; Mô hình điều chỉnh thông tin có yếu tố cảm tính (IANM) đã thể hiện, nắm bắt được vấn đề này. Sở Giao dịch chứng khoán Úc (ASX) là một nơi thử nghiệm lý tưởng cho mô hình của VS. ASX có một chế độ tiết lộ liên tục nơi các công ty được yêu cầu phải ngay lập tức tiết lộ bất cứ thông tin về giá phù hợp với thị trường. Mô hình của VS yêu cầu phải "dự đoán" lúc các nhà giao dịch theo thông tin hoạt động trên thị trường. VS cũng đưa ra giả định rằng các nhà giao dịch theo cảm tính hoạt động liên tục trên thị trường, nhưng các nhà giao dịch theo thông tin chỉ giao dịch khi có thông tin đến thị trường. Bằng cách quan sát các công ty công bố thông tin, VS có thể xác định lúc các nhà giao dịch theo thông tin có thể sẽ giao dịch. VS trình bày bằng chứng cho thấy ASX thường không hiệu quả về khía cạnh thông tin. Trong giai đoạn mẫu của VS, Ông cũng phát hiện giả thuyết thị trường hiệu quả (EMH) bị vi phạm trên 62.98% trên tổng số ngày. Các hành vi vi phạm phổ biến nhất xảy ra khi nhà giao dịch theo thông tin làm tăng thêm lỗi giá. Các hành vi vi phạm phổ biến thứ hai về thông tin hiệu quả là phản ứng dưới mức. Trong phần thứ hai, VS mô tả mô hình của ông, phần thứ ba gồm các ước tính thực nghiệm và phần thứ tư đưa ra những kết luận. Mô hình thông tin có điều chỉnh yếu tố cảm tính Phần này đưa ra sự hiểu biết về mô hình thông tin có điều chỉnh yếu tố cảm tính và tính thực nghiệm của mô hình. Nó cũng sẽ cung cấp một sự khác biệt ngắn gọn giữa lý thuyết thị trường hiệu quả của lý thuyết tài chính hiện đại và lý thuyết thị trường hiệu quả của lý thuyết tài chính hành vi. VS cũng định nghĩa các nhà giao dịch dựa trên thông tin là những người hình thành những mong đợi dựa trên thông tin và kinh doanh dựa vào các mong đợi đó. VS không giả định rằng các nhà kinh doanh dựa trên thông tin là hoàn toàn sáng suốt hoặc họ luôn luôn hình thành các mong đợi đúng. Mà định nghĩa của VS về người giao dịch dựa trên thông tin là rộng hơn so với định nghĩa của Shefrin và Statman [1994]. Họ định nghĩa rằng người giao dịch dựa trên thông tin là người có ý kiến
  19. 14 chủ quan đồng nhất với những điều khách quan có thể xảy ra. Theo ý kiến của VS, đây là định nghĩa quá vội vàng và giống như nó xuất hiện một cách tình cờ. Mà định nghĩa của VS, những nhà giao dịch theo thông tin dựa trên những mong đợi của họ về thông tin nhưng không phải lúc nào thông tin này cũng thể hiện đúng. Nói theo cách khác, nhà giao dịch dựa vào thông tin có thể gặp sai lầm. Và nhà giao dịch theo cảm tính không thể sử dụng thông tin để hình thành mong đợi của họ và họ có thể kinh doanh dựa vào bất cứ lý do gì. Nhà giao dịch theo thông tin chỉ kinh doanh các cổ phiếu cụ thể khi nguồn thông tin có giá trị tương ứng được thông báo ra thị trường. Tuy nhiên, các nhà giao dịch cảm tính có thể và sẽ kinh doanh bất cứ cổ phiếu nào vào bất cứ ngày nào. Hình dung rằng trong ngày được cho, t, thông tin có thể được tiết lộ ra thị trường hoặc không. Trong những ngày này, khi không có thông tin mới nào xảy ra trong thị trường, những nhà giao dịch cảm tính sẽ kinh doanh với nhau. Còn trong ngày thông tin được tiết lộ ra thị trường gọi là ngày thông tin (IE) xảy ra, thì cả nhà giao dịch cảm tính và nhà giao dịch theo thông tin đều giao dịch. Trong những ngày thông tin không tiết lộ ra thị trường, chỉ có nhà giao dịch cảm tính mới giao dịch-nhà giao dịch theo thông tin không gia nhập vào thị trường. Lý thuyết tài chính hiện đại EMH nêu ra rằng không có sai lầm nào thuộc về hành vi trên thị trường. Nói cách khác, giá trị mong đợi của bất cứ rủi ro hành vi nào được tạo ra bởi thông tin, đều bằng 0, E(BEt |Ω t ) = 0. Các thay đổi mong đợi trong rủi ro hành vi, được cho là sự thay đổi bởi thông tin đưa ra, là các lỗi dự đoán ngẫu nhiên E(∆BEt|∆Ωt) = ε. Trong thuật ngữ tài chính hành vi, thị trường hành vi hiệu quả khi E(BEt |Ω t ) ≠ 0, nhưng ∑ i∞=1 BEit = 0. Mô hình IANM thể hiện lỗi dự đoán ngẫu nhiên này như sau: BEit = α + β IEit + εit (1) Trong đó, BEit = là sự thay đổi lỗi hành vi của cổ phiếu i trong ngày t.
  20. 15 IE = là sự kiện thông tin, ví dụ: thông tin được đưa ra. VS xem xét sự biến số này bằng 1 trong ngày thông tin được tung ra thị trường, và bằng 0 khi không có thông tin nào tung ra thị trường cả. VS không phân biệt giữa thông tin “tốt” hay “xấu”. α = biến động trung bình về lỗi hành vi đối với giao dịch cảm tính. β = là tỷ lệ của biến động trung bình được cho là của lỗi hành vi trên các giao dịch của nhà giao dịch theo thông tin. VS giả định β ≠ 0 Mô hình IANM có thuận lợi hơn các mô hình giao dịch theo cảm tính khác bằng việc có thể tách ly các tác động của giao dịch theo cảm tính và giao dịch dựa vào thông tin. Cụ thể, biến μ = α + β phản ánh những thay đổi trung bình các lỗi hành vi do nhà giao dịch theo cảm tính và nhà giao dịch theo thông tin. Nếu Lý thuyết tài chính hiện đại EMH là đúng, thì α + β = μ = 0 và ∆BEit = ε. Nếu chúng ta nới lỏng giả định Lý thuyết Tài chính hiện đại là đúng, thì α + β = μ ≠ 0. Chúng ta khai thác mối quan hệ này để phân biệt các loại thị trường tiềm năng không hiệu quả. Trong một thị trường hiệu quả, các nhà giao dịch dựa vào thông tin sẽ nhanh chóng sửa các lỗi sai giá của các nhà giao dịch theo cảm tính. Chiến lược đầu tư trái ngược này hàm ý rằng α = - β. Rủi ro giao dịch theo cảm tính trong ngày không có thông tin Trong ngày không có thông tin phát hành, IEit = 0, mô hình IANM sẽ có công thức sau: ∆BEit = α + εit (1.2) Nếu alpha bằng không, thì thị trường hiệu quả không thay đổi. Nếu alpha khác không, thị trường trở thành hành vi không hiệu quả. VS định nghĩa alpha + là các giao dịch theo cảm tính một cách thuần túy. Trong trường hợp này, các nhà giao dịch theo cảm tính đã làm thị trường tăng tính không hiệu quả và bóp méo giá cả. Lập luận này là phù hợp với các lý thuyết lớn đang hỗ trợ những quan điểm cho rằng các nhà giao dịch này đẩy giá xa rời giá trị cơ bản. Alpha - có thể được hiểu như một "hiệu ứng Friedman. Các nhà đầu tư theo cảm tính trong tình huống này
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2