ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

---------------------

PHẠM THỊ THỦY

MÔ HÌNH "CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN"

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số : 60 31 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. ĐỖ THẾ TÙNG

Hà Nội – 2014

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự

hướng dẫn của GS, TS. Đỗ Thế Tùng. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung

thực. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nghiên cứu nào

khác.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thủy

2

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

Công ty cổ phần Bảo vệ thực vật An Giang

1

AGPPS

2

BVTV

Bảo vệ thực vật

3

CĐML

Cánh đồng mẫu lớn

4

CP

Cổ phần

ĐBSCL

Đồng bằng sông Cửu Long

5

6

ĐX

Đông Xuân

7

FF

Famers Friend

8

GAP

Vietnamese Good Agricultural Practices (Quy

trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt)

9

HT

Hè Thu

10

KHCN

Khoa học công nghệ

11

NN&PTNT

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

12

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

13

UBND

Ủy ban nhân dân

3

DANH MỤC CÁC BẢNG

STT

Số hiệu

Tên bảng

Trang

2.1

1

29

Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Đông Xuân 2010 – 2011 ở An Giang

2.2

2

32

Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Hè Thu 2011 ở An Giang

2.3

3

75

Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Thu Đông 2011 ở An Giang

2.4

4

Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Đông Xuân 2011 -2012 ở An Giang

2.5

5

76

Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Hè Thu 2012 ở An Giang

2.6

6

76

Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Đông Xuân 2012 – 2013 ở An Giang

2.7

7

76

Số hộ và diện tích tham gia CĐML do AGPPS tổ chức

2.8

8

77

Hiệu quả kinh tế của nông dân trong mô hình cánh đồng mẫu lớn ở An Giang

2.9

9

78

Kết quả đạt được trên cánh đồng mẫu lớn ở Vũ Hòa

10

2.10

79

Kết quả đầu tư kinh tế cho dự án “Cánh đồng mẫu lớn” ở Vũ Hòa – Kiến Xương – Thái Bình

4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: KINH TẾ NÔNG HỘ VÀ “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” – MỘT MÔ HÌNH THÍCH HỢP ĐỂ CHUYỂN KINH TẾ NÔNG HỘ LÊN SẢN XUẤT HÀNG HÓA LỚN ....................................................................... 8 1.1. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA KINH TẾ NÔNG HỘ8 1.1.1. Định nghĩa kinh tế hộ ........................................................................ 8 1.1.2. Những ưu điểm của kinh tế hộ ....................................................... 10 1.1.3.Những nhược điểm của kinh tế hộ trong kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta ....... 14 1.2 YÊU CẦU TẤT YẾU CHUYỂN KINH TẾ NÔNG HỘ LÊN SẢN XUẤT LỚN.................................................................................................. 15 1.2.1 Hình thức hợp tác xã ....................................................................... 16 1.2.2. Mô hình kinh tế trang trại .............................................................. 18 1.2.3 Tính ưu việt của mô hình cánh đồng mẫu lớn ................................ 20

Chương 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN Ở VIỆT NAM ........................................................................................ 25 2.1 CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO VỆ THỰC VẬT AN GIANG VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN ................................... 25 2.2 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” Ở AN GIANG .................................................................................................. 29 2.3 MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” ĐƯỢC THÍ ĐIỂM TẠI THÁI BÌNH ............................................................................................................ 35 2.3.1 Một số nét khái quát về chủ trương thí điểm cánh đồng mẫu lớn tại Thái Bình .................................................................................................. 35 2.3.2 Những thành tựu và hạn chế của cánh đồng mẫu lớn thí điểm ở Nguyên Xá và Vũ Hòa ............................................................................. 38

5

Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” ........................................................................................ 47 3.1 NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI NHÂN RỘNG MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” ............................................................ 47 3.1.1 Những thuận lợi .............................................................................. 47 3.1.2 Những khó khăn khi nhân rộng cánh đồng mẫu lớn ....................... 48 3.2 NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”.................................................................................................. 50 3.2.1 Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi các công ty chế biến và tiêu thụ nông sản để họ tích cực và trực tiếp chủ trì việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn ............................................................................................ 50 3.2.2 Có chính sách phù hợp giải quyết việc làm cho lao động dôi dư của các hộ ........................................................................................................ 55 3.2.3 Có chính sách thu hút nguồn nhân lực phục vụ sản xuất nông nghiệp, đào tạo cán bộ kỹ thuật từ nhân lực của hộ ................................. 58 3.2.4 Các cánh đồng mẫu lớn cần tăng cường mối liên kết với các nhà khoa học để có những loại giống lúa tốt cho sản xuất ............................. 60 3.2.5 Tổ chức cánh đồng mẫu phù hợp với khả năng tiêu thụ, lựa chọn hợp tác xã liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo khi chưa có sự liên kết với công ty lớn ......................................................................................... 64 3.2.6 Có cơ chế phân phối lợi ích hài hòa, tăng thu nhập cho người nông dân và công nhân ...................................................................................... 65 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 71 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 75

6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế nông hộ ở nước ta từ khi thực hiện khoán 10 có nhiều ưu điểm,

nhưng những năm qua đã bộc lộ nhiều nhược điểm của sản xuất nhỏ, manh mún,

đòi hỏi phải chuyển lên những hình thức sản xuất hàng hóa lớn. Xu hướng chung

là kinh tế nông hộ sẽ liên kết với các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ sản

phẩm, hoặc gia nhập hợp tác xã, hay chuyển thành trang trại… Nhưng trong

điều kiện nước ta hiện nay các hình thức liên kết (3 nhà, 4 nhà) trong đó có hình

thức xây dựng cánh đồng mẫu lớn là thích hợp hơn cả.

“Cánh đồng mẫu lớn” là một trong những hướng đi phù hợp với quá trính

chuyển kinh tế nông hộ lên sản xuất hàng hóa lớn nhằm giải quyết tình trạng

manh mún, phân tán ruộng đất, xây dựng thành những vùng sản xuất chuyên

canh đáp ứng nhu cầu thị trường gắn với điều kiện sinh thái, tập quán canh tác

của từng vùng. Mô hình “cánh đồng mẫu lớn” tỏ rõ tính ưu việt của nông nghiệp

hàng hóa lớn, một mặt tạo cơ hội khai thác thế mạnh của từng vùng, tạo quy mô

sản xuất lớn, nâng cao năng suất và ý thức kỷ luật của nông dân, mặt khác giúp

họ tăng thu nhập, cải thiện đời sống ngay trên mảnh ruộng của chính mình. Việc

tập trung ruộng đất thành cánh đồng mẫu lớn tạo điều kiện cơ giới hóa sản xuất

nông nghiệp, hình thành vùng hàng hóa xuất khẩu lớn, đảm bảo chất lượng và

nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế. Song có nơi xây dựng thành công,

có nơi chưa. Vì vậy, cần tìm hiểu thực tiễn để làm rõ mô hình “cánh đồng mẫu

lớn” như thế nào mới có hiệu quả. Do đó, “ Mô hình cánh đồng mẫu lớn ở nước

ta hiện nay” được chọn làm đề tài luận văn này.

2. Tình hình nghiên cứu

“Cánh đồng mẫu lớn” là hình thức tổ chức sản xuất trên cơ sở liên kết bốn

nhà, là hướng đi phù hợp với quá trình chuyển nông nghiệp từ sản xuất nhỏ lên

sản xuất hàng hóa lớn. Từ khi có chủ trương đến nay, Bộ Nông nghiệp và Phát

1

triển nông thôn đã tiến hành xây dựng và phát triển mô hình này không chỉ ở các

tỉnh Nam Bộ mà còn làm thí điểm ở một số tỉnh Bắc Bộ.

Cho đến nay, có rất ít công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận cho phát

triển “cánh đồng mẫu lớn” ở Việt Nam.

Quyết định số 80/2002/QsĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002 và Chỉ thị số

24/2003/CT-TTg về xây dựng vùng nguyên liệu gắn với chế biến, tiêu thụ. Coi

việc xây dựng “Cánh đồng mẫu lớn” là một giải pháp quan trọng lâu dài góp

phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền

vững được nêu trong Nghị quyết số 21/2011/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2011

của Quốc hội. Vì vậy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trương mở

rộng phong trào xây dựng “Cánh đồng mẫu lớn” trên cả nước, không chỉ trên cây

lúa mà cả các cây trồng khác, từ đó hình thành một số chính sách nhằm khuyến

khích sự phát triển của mô hình này.

Tác giả Tăng Minh Lộc – Cục trưởng cục kinh tế hợp tác và phát triển

nông nghiệp (2012) với đề tài: “Phát triển cánh đồng mẫu lớn trong xây dựng

nông thôn mới” đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về đặc điểm của

sản xuất nông nghiệp và sự ra đời cánh đồng mẫu lớn trong quá trình xây dựng

nông thôn mới. Quan điểm và giải pháp bước đầu để phát triển cánh đồng mẫu

lớn. Bài báo nêu rõ, “Cánh đồng mẫu lớn” là hình thức tổ chức lại sản xuất trên

cơ sở liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, tập hợp những nông dân nhỏ lẻ

tạo điều kiện áp dụng những kỹ thuật mới và giải quyết đầu ra ổn định và có lợi

cho nông dân. Mô hình cánh đồng mẫu lớn giải đáp được bài toán về mô hình

liên kết “4 nhà” là: Nhà nước - nhà doanh nghiệp - nhà khoa học - nhà nông, các

bên tham gia mô hình có vị trí, vai trò khác nhau nhưng đều được hưởng lợi ích

cao. Về vai trò của doanh nghiệp: doanh nghiệp ứng trước giống, thuốc bảo vệ

thực vật và hướng dẫn kỹ thuật canh tác. Khi thu hoạch lúa, doanh nghiệp cho

phương tiện vận chuyển thóc đến nhà máy, đưa vào sấy đạt tiêu chuẩn, không

2

tính chi phí. Nếu thời điểm thu hoạch giá lúa chưa tốt, doanh nghiệp cho nông

dân đưa lúa vào kho tạm trữ trong một tháng, không tính phí, chỉ thu tiền vận

chuyển ban đầu. Như vậy, doanh nghiệp là người đứng ra cung cấp đầu vào và

tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Đối với nông dân, tham gia mô hình tạo môi trường

nâng cao nhanh trình độ sản xuất, người nông dân hợp lực với nhau cùng học tập

để áp dụng một quy trình sản xuất. Nhà nước hỗ trợ các bên tham gia với một số

chính sách khuyến khích các doanh nghiệp dầu tư vào sản xuất nông nghiệp;

khuyến khích nhà khoa học nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật

vào sản xuất và chế biến nông sản; đào tạo và nâng cao trình độ sản xuất, ý thức

kỷ luật, kiến thức thị trường cùng với chính sách hỗ trợ phát triển các hợp tác xã…

Trên “Tạp chí cộng sản” số 73 (1-2013) đã đăng bài của Lê Văn Tam

“Cánh đồng mẫu lớn – hướng đi bền vững cho phát triển nông nghiệp, nông

thôn, nông dân trên vùng mía đường Lam Sơn”, tác giả đã khái quát quá trình

hình thành và phát triển, nhiệm vụ và tầm quan trọng của công ty cổ phần Lam

Sơn (LASUCO) - doanh nghiệp sản xuất mía đường hàng đầu trong ngành mía

đường Việt Nam. Doanh nghiệp là cầu nối đưa sản phẩm của nông dân ra thị

trường, tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, nâng cao giá trị gia

tăng và chất lượng của nông sản. Công ty đã học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu để tổ

chức lại sản xuất cho nông dân theo hướng bền vững trên cơ sở liên kết giữa

nông dân và doanh nghiệp theo chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị, tập hợp nông

dân nhỏ lẻ tạo điều kiện áp dụng kỹ thuật mới, áp dụng cơ giới hóa đồng bộ, giải

quyết đầu ra ổn định có lợi cho sản xuất nông nghiệp và nâng cao lợi ích của

nông dân, thành lập các xí nghiệp công - nông nghiệp - dịch vụ thương mại để

cùng với người nông dân tổ chức sản xuất hàng hóa quy mô lớn tập trung. Từ những mảnh ruộng manh mún đã phá bờ san thửa để tạo thành “cánh đồng mẫu

lớ n”, làm thay đổi cách làm ăn của nông dân theo hướng công nghiệp , nông dân đươ ̣c hướ ng dẫn áp du ̣ng khoa ho ̣c – kỹ thuật và được đào tạo bà i bản. Bài viết

3

tuy chưa đưa ra nhiều giải pháp nhằm nhân rộng “cánh đồng mẫu lớ n” trồng cây mía, nhưng từ thực tiễn sản xuất và triển khai mô hình trên vù ng mía đườ ng Lam Sơn, mô ̣t trong những giải pháp quan trọng nhất là các chính sách của Nhà nước về xây dựng thương hiê ̣u cho sản phẩm , chính sách cho thuê quyền sử dụng đất ,

chính sách về thị trường nông nghiệp , thu hú t các doanh nghiê ̣p tham gia đầu tư vào nông sản. Qua bài viết tác giả đã khái quát những thành công nhất đi ̣nh khi tham gia mô hình “cánh đồng mẫu lớ n” củ a nông dân mô ̣t số xã trồng mía trên đi ̣a bàn tỉnh Thanh Hóa..

Bài “ Cánh đồng mẫu lớn – bước ngoặt mới” của tác giả Nguyễn Đình

Bách – Thời báo kinh tế Sài Gòn 15/3/2012, đã phản ánh những tính chất ưu

việt của mô hình này như một bước ngoặt mới cho nền nông nghiệp hàng hóa

nước ta trong những năm tới.

Báo Đồng Tháp số ra ngày 25/9/2013 đã đăng bài: “ Mô hình Cánh đồng

mẫu lúa chất lượng cao góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp” đánh giá hiệu quả

kinh tế của mô hình cánh đồng mẫu lớn ở một số địa phương, cho thấy lợi nhuận

thu được từ mô hình này cao hơn so với sản xuất thông thường, góp phần phát triển

kinh tế xã hội bằng chính nội lực của địa phương trong sản xuất nông nghiệp.

VOV Báo điện tử ngày 24/2/2013 - Đài Tiếng nói Việt Nam có bài “ Hiệu

quả từ cánh đồng mẫu lớn”. Khảo sát tại Long An, nông dân khẳng định mô hình

này cho năng suất, chất lượng lúa cao hơn hẳn so với cánh đồng khác trong khi

chi phí sản xuất lại thấp hơn.

Báo Tiền phong ngày 6/11/2013 có bài “Nỗi lo tư duy tiểu nông sau cánh

đồng mẫu lớn: Có bị bệnh thành tích?” Bài viết nêu lên thực trạng của một số mô

hình cánh đồng mẫu lớn khi được Công ty bảo vệ thực vật An Giang triển khai

tại miền Bắc, nguyên nhân gây ra thất bại của mô hình là do tính chất manh mún

của ruộng đất, nông dân mang nặng tính bao cấp, nhiều tỉnh đang chạy theo

phong trào, lấy thành tích mà chưa thực sự quan tâm lãnh đạo để tạo mối liên kết

4

vững chắc trong mô hình. Bài viết còn nêu lên nỗi lo đầu ra cho nông sản, chưa

có cơ chế để doanh nghiệp đầu vào và đầu ra gặp nhau. Mối liên kết 4 nhà chưa

được phát huy hiệu quả.

Về cơ sở thực tiễn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện

một số đề án trên một số địa bàn.

Tại Kiên Giang, đề án “ Ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật xây dựng

cánh đồng mẫu lớn gắn với tiêu thụ sản phẩm” do ông Trần Đức Thiện – Giám

đốc công ty TNHH MTV làm chủ nhiệm.

Tháng 3/2011, tại thành phố Cần Thơ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn tổ chức lễ phát động xây dựng cánh đồng mẫu lớn.

Tại An Giang, Bộ cũng đã tổ chức Hội nghị sơ kết xây dựng, phát triển

mô hình cánh đồng mẫu lớn trong sản xuất lúa ở Nam Bộ (2012).

Đề án “xây dựng thí điểm mô hình cánh đồng mẫu lớn” ở Thái Bình từ vụ

xuân 2012.

Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Bạc Liêu trong tháng 8/2012 tổ chức khai

giảng 4 lớn tập huấn xây dựng cánh đồng mẫu lớn.

Các công trình, đề án trên tiếp cận mô hình “cánh đồng mẫu lớn” dưới

những góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn song chưa thấy công trình nào

nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị về xây dựng mô hình cánh đồng mẫu

lớn với tư cách là mô hình ưu việt để đưa kinh tế nông hộ nước ta lên sản xuất

lớn. Chính vì vậy nghiên cứu đề tài này sẽ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Phân tích, đánh giá về mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” từ đó đề xuất giải pháp

để xây dựng, nhân rộng mô hình này.

5

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là: làm rõ yêu cầu chuyển kinh tế nông hộ lên sản xuất hàng hóa lớn

trong đó có mô hình liên kết 3 nhà, 4 nhà mà mô hình cánh đồng mẫu lớn vừa hình

thành ở một số nơi, rất thích hợp với điều kiện nông nghiệp Việt Nam hiện nay.

Hai là: phân tích mô hình cánh đồng mẫu lớn, những điều kiện, đặc điểm,

vai trò của mỗi chủ thể liên kết như: doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ nông sản;

hộ nông dân; nhà khoa học; nhà nước.

Ba là: đề xuất giải pháp để nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Lựa chọn mô hình cánh đồng mẫu lớn đã được xây dựng thành công ở An

Giang và mô hình đang được thì nghiệm ở tỉnh Thái Bình để nghiên cứu và khái

quát những đặc điểm chính của mô hình.

5. Đóng góp mới của luận văn

Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình triển khai mô hình cánh đồng mẫu

lớn ở An Giang và Thái Bình, khái quát những đặc điểm chủ yếu của mô hình

trong đó coi mối liên kết bốn nhà (nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà nông, nhà

khoa học) bền vững là chìa khóa thành công, khái quát những khó khăn và điều

kiện thuận lợi trong quá trình triển khai.

Đề xuất những giải pháp khả thi để nhân rộng mô hình.

6. Phương pháp nghiên cứu

Vận dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế, đặc biệt coi

trọng phương pháp khái quát lý luận từ tư liệu thực tiễn, phân tích tổng hợp và

sử dụng số liệu thống kê.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

kết cấu thành ba chương, 7 tiết.

6

Chương 1: Kinh tế nông hộ và “cánh đồng mẫu lớn” – một mô hình thích

hợp để chuyển kinh tế nông hộ lên sản xuất hàng hóa lớn.

Chương 2: Những đặc điểm chủ yếu của mô hình “CĐML” qua khảo sát

một số mô hình “cánh đồng mẫu lớn” ở Việt Nam.

Chương 3:Những giải pháp nhằm xây dựng và nhân rộng mô hình “cánh

đồng mẫu lớn”.

7

Chương 1

KINH TẾ NÔNG HỘ VÀ “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” – MỘT MÔ HÌNH

THÍCH HỢP ĐỂ CHUYỂN KINH TẾ NÔNG HỘ LÊN SẢN XUẤT

HÀNG HÓA LỚN

1.1 . NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA KINH TẾ NÔNG HỘ

1.1.1 Định nghĩa kinh tế hộ

Có nhiều quan niệm về hộ. Raul Iturna, giáo sư trường đại học Tổng hợp

Lisbon cho rằng: “ Hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc có

quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính

bản thân họ và cộng đồng”[37, tr114]. Về phương diện thống kê, Liên hợp quốc

cho rằng: “ Hộ là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn

chung và có chung ngân quỹ”[36, tr38]. Khi khảo sát “kinh tế hộ trong quá trình

phát triển” Giáo sư T.G.Mc Gee, Giám đốc viện nghiên cứu Châu Á nhận xét: “

Ở các nước Châu Á hầu hết người ta quan niệm hộ là một nhóm người cùng

chung huyết tộc hay không cùng chung huyết tộc ở chung trong một mái nhà, ăn

chung một mâm cơm và có chung ngân quỹ”[38]. Trên quan điểm kinh tế thị

trường có thể định nghĩa khái quát về kinh tế nông hộ như sau: Kinh tế nông hộ

là loại hình kinh tế trong đó các hoạt động sản xuất chủ yếu dựa vào lao động

trong gia đình kết hợp với tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu (hay quyền chiếm

hữu) của hộ trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân hộ, chỉ có sản phẩm

thừa ra mới đem bán. Đó là bản chất của kinh tế hộ, trong thực tiễn có những

biểu hiện cụ thể khác biệt nên hiện nay ở nước ta có những loại hộ sau đây:

Một là, những hộ nông dân không có vốn, không có nông cụ cần thiết và

thường thiếu tri thức về nông học, quy mô kinh doanh quá nhỏ, sản lượng thu

được không đủ nuôi sống gia đình, nên cho thuê hoặc chuyển nhượng quyền sử

dụng đất được chia của mình rồi đi làm thuê, chỉ trồng ít rau trong vườn và nuôi

8

gia cầm để tự tiêu dùng cải thiện đời sống của hộ. Chính điều này tạo điều kiện

hình thành và phát triển thị trường lao động.

Hai là, những hộ nông dân có gieo trồng một ít, thường phải canh tác

ruộng đất của mình bằng cách thuê sức kéo. Những hộ này rất khó vay vốn, lao

động chính của hộ thường đi làm thuê ngay tại chỗ hoặc đi tìm việc ở nơi khác,

việc canh tác giao cho phụ nữ, người già và trẻ em, do đó thu nhập của hộ là rất

ít, dễ bị suy sụp, chỉ cần bị thiên tai, mất mùa là rơi vào tình trạng phá sản. Đây

là những hộ nửa nông dân, nửa công nhân, nhưng có thể gộp loại nông hộ này

với loại nông hộ hoàn toàn không gieo trồng gì vào tầng lớp vô sản ở nông thôn.

Ba là, các hộ nông dân bậc trung. Những hộ này có diện tích gieo trồng

phù hợp với số lao động trong hộ. Ngoài canh tác trên phần diện tích được chia,

hộ loại này thường thuê thêm hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thêm

một diện tích nữa, do đó khi thời vụ khẩn cấp họ thường thuê thêm lao động.

Một bộ phận hộ loại này còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp, diện tích

thương phẩm rất hẹp. Mục đích chính của hộ là tự lo đủ số lương thực, thực

phẩm cần thiết cho gia đình mình, chỉ có sản phẩm dư thừa mới được đưa ra thị

trường nên việc canh tác của họ rất bấp bênh. Sản xuất với mục đích tự cấp, tự

túc nên sức mua của hộ thấp, chính điều này đã gây trở ngại cho sự phát triển

của nông nghiệp và kinh tế thị trường. Một bộ phận khác của số hộ thuộc loại

này đã chuyên môn hóa sản xuất, cả đầu vào và đầu ra đều thông qua thị trường,

hoàn toàn là sản xuất hàng hóa. Cạnh tranh gay gắt thúc đẩy sự phân hóa các hộ

nông dân bậc trung thành những người bị phá sản phải đi làm thuê và một số ít

trở thành chủ trang trại kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, mua sức lạo động

trên thị trường.

Bốn là, những hộ chủ trang trại thuê được diện tích canh tác quy mô lớn,

mục đích kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, chủ yếu dựa vào việc sử dụng công

nhân làm thuê. Trong nông nghiệp cũng có những lĩnh vực sản xuất nhỏ chiếm

9

ưu thế, nhưng với những điều kiện như nhau thì doanh nghiệp lớn vẫn ưu việt

hơn doanh nghiệp nhỏ. Chủ trang trại là lực lượng tiêu biểu cho kinh tế thì

trường. Nhưng hiện nay ở nước ta phần lớn trang trại vẫn là gia trại quy mô nhỏ,

số trang trại thực sự sản xuất hàng hóa lớn chưa nhiều.

1.1.2. Những ưu điểm của kinh tế hộ

Kinh tế hô ̣ phù hơ ̣p vớ i nền nông nghiê ̣p la ̣c hâ ̣u , mang nă ̣ng tính chất tự cung, tự cấp chủ yếu dự a vào lao đô ̣ng thủ công , phân tán , manh mú n . Nghị quyết 10 về Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, trong đó xác định rõ

vai trò của kinh tế hộ, coi hộ gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị

kinh tế tự chủ được giao quyền sử dụng đất. Thực hiện tư tưởng đổi mới của Đại

hội Đảng toàn quốc lần VI, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 10

về “ Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” (thường gọi là khoán 10). Nghị quyết

10 chỉ rõ: “Giao khoán ruộng đất ổn định dài hạn cho nông dân từ 10 đến 15

năm; Hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ xã viên; Xoá bỏ chế

độ phân phối công điểm, xã viên chỉ có một nghĩa vụ nộp thuế; Hộ xã viên được quyền tự chủ về ruộng đất, hưởng trên 40% sản lượng khoán”. Như vậy với Nghị

quyết này, lực lượng sản xuất được giải phóng mạnh hơn khỏi sự trói buộc của

cơ chế cũ. Hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. So với giai đoạn thực

hiện khoán 100, thì ở giai đoạn này vai trò tự chủ của hộ nông dân được khẳng

định và xác lập trên thực tế. Hộ nông dân tự chủ không phải chỉ trong 3 khâu

như giai đoạn trước mà trong toàn bộ quá trình sản xuất. Mức độ tự chủ cũng cao

hơn, trên cả 3 phương diện: sở hữu, quản lý và phân phối. Do đó, động lực mới

được phát huy trong thời gian dài. Ở nhiều địa phương, hộ nông dân đã bỏ công

sức để khai phá diện tích đất hoang hoá đưa vào sản xuất, chủ động mua sắm

máy móc, công cụ để sản xuất. Về số lượng, cho tới năm 1993, nông thôn nước

ta có khoảng 11 triệu hộ nông dân được phân bố trong 7 vùng nông nghiệp. Bình

quân mỗi xã có 1000 hộ và mỗi thôn ấp có khoảng 200 hộ [13]. Khác với các

10

nông hộ thời kỳ tiền hợp tác, các hộ nông dân thời kỳ này có sự phong phú về

loại hình, về cơ cấu ngành nghề. Sự phân hóa về sản xuất và mức thu nhập cũng

bộc lộ rõ. Việc xác định vai trò kinh tế tự chủ của hộ nông dân và thực hiện vai

trò đó trong thực tế đã dẫn đến kết quả: hộ nông dân là đợn vị kinh tế chủ yếu ở

nông thôn thay thế cho vai trò độc tôn của các hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ

trước đây. Vai trò, địa vị kinh tế chủ yếu thể hiện ở chỗ hộ nông dân là hình thức

tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp, cung cấp đại bộ phận nông phẩm

cho xã hội. Về nông sản thực phẩm, kinh tế hộ đã cung cấp 95%-98% sản phẩm

chăn nuôi và gần 100% rau quả. Về sản phẩm lương thực, kinh tế hộ đã tạo ra

một khối lượng hàng hoá chiếm tỷ trọng khoảng trên dưới 90%, trong đó xuất

khẩu là 1,5-2 triệu tấn/ năm [13]. Sau một thời gian “khoán 10” đi vào thực tiễn,

có thể dễ dàng thấy rằng kinh tế nông nghiệp ở nước ta phát triển mạnh phần lớn

là nhờ vào sự năng động của kinh tế hộ.

Tác dụng của cơ chế Khoán 10 cùng với những thành tựu về thủy lợi, cải

tạo giống, thâm canh tăng năng suất ở đồng bằng Bắc Bộ và mở rộng diện tích

đất canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long đã đưa nền nông nghiệp Việt Nam

sang trang sử mới. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, đến năm 1988 vẫn còn phải nhập

khẩu hơn 450.000 tấn gạo, nhưng từ năm 1989, Việt Nam vừa bảo đảm nhu cầu

lương thực trong nước, có dự trữ, vừa xuất khẩu gạo mỗi năm từ 1 đến 1,5 triệu

tấn, tiến dần lên 4 đến 4,5 triệu tấn rồi trên 6 triệu tấn như hiện nay.

Kinh tế nông hộ có những ưu điểm sau:

Một là, toàn bộ kết quả sản xuất sau khi trừ khoản nộp thuế và những

nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thuộc quyền định đoạt của hộ, được tự do

mua bán trên thị trường nên thu nhập và mức sống của hộ tăng lên. Kể từ năm

1988, việc chuyển sang phát triển kinh tế hộ, lấy hộ làm đơn vị kinh tế cơ bản

trong nông thôn thì thu nhập và mức sống của nông dân càng được nâng lên. Hạt

lúa đã gắn với công sức và quyền lợi của người nông dân, đây là động lực quan

11

trọng để người nông dân chăm lo đến nông nghiệp. Những hộ nông dân có nhiều

đất đai, nhiều vốn đã mạnh dạn chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, hoặc

chuyển sang ngành nghề khác, tiến hành sản xuất hàng hoá. Những mặt tích cực

và hiệu quả kinh tế của mô hình này đã được chứng minh trong thực tế. Sự xác

lập và phát triển vai trò tự chủ của nông hộ đã có tác động to lớn tới sự phát triển

của kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta trong những năm đổi mới.

Hai là, lợi ích kinh tế nói trên đã kích thích tinh thần tự giác, tự nguyện

lao động tích cực của những người trong hộ và khơi dậy các tiềm năng của hộ.

Hộ nông dân trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, những thay đổi lớn về vị trí, vai trò

của kinh tế hộ đã khơi dậy tiềm năng to lớn ẩn dấu trong từng hộ gia đình, từ chỗ

không thiết tha đến ruộng đất, nông dân đã có ý thức chăm sóc, cải tạo và sử

dụng đất đai có hiệu quả hơn, kích thích những người trong hộ tự nguyện lao

động. Khác với trong công nghiệp, đơn vị sản xuất cơ bản có tính phổ biến trong

nông nghiệp là từng hộ nông dân chứ không phải là xí nghiệp quy mô lớn với

đông đảo công nhân. Lao động cụ thể của từng hộ gia đình có điều kiện gắn bó

mật thiết với đất đai, cây trồng và vật nuôi để kịp thời ứng phó với những thay

đổi bất ngờ của ngoại cảnh và đòi hỏi của đối tượng lao động. Điều đó càng trở

nên thuận lợi và có hiệu quả hơn nếu người lao động đồng thời cũng là người

chủ đất đai, cây trồng, vật nuôi, người chủ trong tổ chức sản xuất và kinh doanh.

Ở nước ta, kinh tế nông hộ đã trải qua nhiều bước thăng trầm mới được xác lập

là một đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp và nông thôn. Những chủ trương

và quyết sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới đã giải phóng hộ

nông dân khỏi sự trói buộc của cơ chế cũ, để họ làm chủ quá trình sản xuất kinh

doanh của mình, trực tiếp đối mặt với cơ chế thị trường… Điều này đã trở thành

động lực để khơi dậy những tiềm năng trong mỗi hộ nông dân, góp phần thúc

đẩy sự phát triển kinh tế nông nghiệp làm cho bộ mặt nông thôn Việt Nam trong

những năm đổi mới có nhiều khởi sắc. Kinh tế hộ là đơn vị kinh tế thích ứng với

12

những biến động của nền kinh tế đang phát triển, tự khai thác nguồn lao động gia

đình, linh hoạt trước sự thay đổi môi trường sản xuất, là hình thức tổ chức đem

lại hiệu quả kinh tế cao trong điều kiện sản xuất nông nghiệp thủ công. Là đơn vị

kinh tế cơ bản của xã hội, hộ là chủ sở hữu hoặc chủ thể sử dụng đất đai và

những tư liệu sản xuất chủ yếu khác; là đơn vị độc lập tham gia vào phân công

lao động chung của toàn xã hội; hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất thích

nghi với các ngành sản xuất nông nghiệp. Hộ với tư cách là tế bào của xã hội, là

cơ sở để hình thành những mối quan hệ xã hội trong cộng đồng, nơi giáo dục,

gìn giữ, bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa truyền thống.

Lao động gia đình của nông hộ được xác định là tất cả những người trong

gia đình có khả năng lao động và sẵn sàng tham gia lao động sản xuất sản phẩm

hàng hoá hay dịch vụ để cung cấp cho gia đình và xã hội. Lao động gia đình của

nông hộ gồm những người trong độ tuổi lao động và cả những người ngoài độ

tuổi lao động có thể tham gia lao động khi cần thiết. Lao động của gia đình

không loại trừ lao động đổi công, lao động thuê mướn hoặc đi làm thuê vào thời

vụ lao động như thời điểm làm đất, thu hoạch... Xác định lao động gia đình của

hộ nông dân cần chú ý đến trình độ lao động, tay nghề lao động, đặc biệt là lao

động tiềm năng, tức những người đang học nghề, hoặc chưa đến tuổi lao động

còn đi học...

Ba là, kinh tế hộ có thể kết hợp với nghề thủ công gia đình để tận dụng

thời gian nông nhàn, tăng thu nhập và phát triển hàng hóa. Trong điều kiện quy

mô đất đai quá nhỏ, nhân khẩu tiếp tục tăng, khả năng tìm kiếm việc làm mới

trong và ngoài nông nghiệp khó khăn, lại hoạt động theo mùa vụ nên có khoảng

thời gian nông nhàn. Ban đầu người nông dân sử dụng thời gian nông nhàn của

mình để làm ra các sản phẩm thủ công nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của

chính bản thân họ. Sau đó, chúng được đem đi bán để kiếm thêm thu nhập.

13

Chính những nghề phụ ấy đã phá vỡ các quan hệ kinh tế khép kín, thúc đấy phân

công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa phát triển.

1.1.3.Những nhược điểm của kinh tế hộ trong kinh tế thị trường có

sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Khi phát triển tới một trình độ nhất định, kinh tế nông hộ phát huy hết

tiềm năng và ưu điểm của nó, bắt đầu bộc lộ những nhược điểm của sản xuất

nhỏ, manh mún, lạc hậu. Nổi bật là:

Thứ nhất, kinh tế hộ khó tiếp cận với các dịch vụ đầu vào của sản xuất. Là

nước có diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người thuộc tốp thấp

nhất thế giới, trung bình 0,3ha/người trong bối cảnh 70% dân số sống ở nông

thôn, đa số làm nghề nông, nền nông nghiệp của nước ta nhỏ lẻ, manh mún. Việc

đưa máy móc vào đồng ruộng rất khó khăn, việc tiếp cận các nguồn lực cần thiết

cho trồng trọt và chăn nuôi như giống cây trồng vật nuôi, bảo hiểm nông nghiệp,

vốn và kỹ thuật sản xuất của các nông hộ còn hạn chế. Trong kinh tế thị trường,

việc tìm ra cây gì, con gì để sản xuất hàng hóa lớn đã khó, việc tiếp cận đầu vào

cho sản xuất nông nghiệp càng khó khăn không kém, giá cả thị trường biến động

thường bất lợi cho các hộ nông dân, giao thông khó khăn, vốn ít nên không thể

mua giá thấp với khối lượng lớn (mua buôn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu

những nhà cung cấp tin cậy và ổn định, và còn thiếu cả thông tin để có cơ hội lựa

chọn phương án tối ưu.

Thứ hai, kinh tế hộ thiếu thông tin về thị trường, thiếu phương tiện vận

chuyển nông sản, khó tiêu thụ sản phẩm đầu ra, thường bị ép cấp, ép giá, được

mùa mất giá được giá mất mùa. Phẩm chất nông sản của các hộ khác nhau, khó

tập trung khối lượng lớn để xuất khẩu.

Thứ ba, trình độ lành nghề của lao động nói chung là thấp, quy mô diện tích

nhỏ, khó ứng dụng kỹ thuật tiên tiến nên năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh

kém nên chịu nhiều rủi ro. Các Mác từng nhận xét: được mùa lại là sự rủi ro với

14

tiểu nông vì khi được mùa, giá nông sản hạ, những đơn vị ứng dụng kỹ thuật tiên

tiến sẽ có giá thành cá biệt của nông sản thấp nên bán theo giá thị trường hạ vẫn

có lãi, còn tiểu nông, chi phí cao, giá thành cá biệt cao nên bán theo giá thị trường

hạ không bù lại được đủ chi phí, có khi phá sản, vỡ nợ. Trình độ học vấn, trình độ

tay nghề của người lao động thấp, việc tổ chức sản xuất, kinh doanh của các hộ gia

đình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên chất lượng sản phẩm hàng hoá của các hộ

gia đình chưa cao, chủ yếu dưới dạng thô, tiêu thụ khó khăn. Một hạn chế nữa trong

lao động nông thôn đó là việc sử dụng quỹ thời gian còn thấp, do tính thời vụ, khó

kiếm việc làm trong lúc nông nhàn nên đời sống nông dân còn nhiều khó khăn, thu

nhập thấp.

Thứ tư, nông hộ không có điều kiện để bảo quản và chế biến nông sản (như

sấy, kho dự trữ…) nên thường bị thất thoát nhiều trong khâu sau thu hoạch và

khó đảm bảo chất lượng nông sản cao cũng dẫn đến giảm thu nhập

Thứ năm, do thu nhập thấp nên phần lớn nông hộ chưa tiếp cận các dịch vụ

bảo hiểm như bảo hiểm cây trồng, vật nuôi, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội vì

vậy cả sản xuất và đời sống của người nông dân đều bấp bênh, không ổn định.

Các hộ nghèo, hộ thuần nông gặp rủi ro nhiều hơn và gặp thiệt hại nặng nề hơn

so với các hộ khác. Những rủi ro do thiên tai, dịch bệnh là phổ biến nhất.

1.2 YÊU CẦU TẤT YẾU CHUYỂN KINH TẾ NÔNG HỘ LÊN SẢN

XUẤT LỚN

Muốn nâng cao đời sống của nông dân phải khắc phục các nhược điểm

của kinh tế hộ, bắt buộc phải chuyển kinh tế hộ lên sản xuất hàng hóa lớn bằng

cách là liên kết kinh tế nông hộ với các doanh nghiệp lớn chế biến và tiêu thụ

nông sản hoặc là thành lập các hợp tác xã nông nghiệp hoặc là hình thành các

trang trại.

15

1.2.1 Hình thức hợp tác xã

Trong những lúc thời vụ khẩn trương, nhu cầu lao động của các hộ vượt

quá khả năng của gia đình đã xuất hiện việc đổi công, hiệp tác trong cộng đồng

nông thôn. Cùng với quá trình chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung

sang nền kinh tế thị trường, khu vực hợp tác xã Việt Nam đã trải qua nhiều thăng

trầm. Các hợp tác xã kiểu mới dần dần hình thành và phát triển, dựa trên sự gắn

kết chặt chẽ các xã viên, đáp ứng tốt nhu cầu dịch vụ của họ cũng như nắm bắt

tốt những cơ hội do thị trường mang lại.

Tham gia hợp tác xã, nông dân được hỗ trợ những việc mà họ không thể

tự làm hoặc làm một mình không có hiệu quả, khắc phúc được những nhược

điểm và hạn chế khi sản xuất kinh doanh đơn lẻ. Hợp tác xã nông nghiệp góp

phần thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, giúp nhau tăng sức cạnh tranh, khai thác các

nguồn tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật để phát triển, góp phần thúc đẩy quá

trình xã hội hoá sản xuất, thực hiện tốt vai trò là cầu nối giữa các hộ sản xuất, xã

viên với nhà nước và các tổ chức kinh tế nhà nước. Hợp tác xã nông nghiệp góp

phần đưa tiến bộ khoa học, công nghệ, thiết bị kỹ thuật hiện đại tới người nông

dân trong các khâu sản xuất nông nghiệp và nông thôn; phát triển và mở rộng

các hoạt động dịch vụ và hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,

khuyến công và khuyến thương; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và thực hành nông

nghiệp cho lao động nông nghiệp, nông thôn; tổ chức thực hiện việc phổ cập

thông tin khoa học - kỹ thuật và thông tin thị trường đến các xã, thôn. Hợp tác xã

phát triển sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc, góp phần giải quyết công ăn, việc làm,

tăng thu nhập và bảo đảm đời sống ổn định cho xã viên và người lao động, giải

quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội ở địa phương, là tiền đề quan trọng để thực

hiện dân chủ hoá và nâng cao văn minh ở nông thôn; các hợp tác xã phát huy

tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau để vượt nghèo,

góp phần làm giảm bớt những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường và ổn định xã

16

hội ở nông thôn. Hợp tác xã nông nghiệp góp phần quan trọng vào việc nâng cấp

và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn: hệ thống điện, thuỷ lợi, giao thông nông

thôn, các công trình phúc lợi xã hội, như nhà mẫu giáo, nhà trẻ, nhà văn hoá,

trường học để phục vụ cho xã viên và cộng đồng dân cư.

Tuy nhiên để xây dựng được hợp tác xã đòi hỏi những điều kiện mà phần

lớn số hộ chưa đáp ứng được, cần phải có thời gian chuẩn bị như:

a. Điều kiện để hiệp tác lao động phát huy ưu thế so với lao động cá thể là

tập trung tư liệu sản xuất, quy mô tập trung tư liệu sản xuất quyết định quy mô

tập trung sức lao động. Điều kiện này đòi hỏi có vốn, nhưng các hộ hầu hết là

nghèo, ít vồn riêng lại khó tiếp cận tín dụng nên quy mô vốn nhỏ, thêm vào đó là

tâm lý ngại tập trung ruộng đất, chưa khuyến khích được người nhiều vốn, nhiều

kinh nghiệm quản lý, kinh doanh tham gia hợp tác xã. Thực trạng chung của các

hợp tác xã là, mức vốn hoạt động còn nhỏ, đặc biệt là các hợp tác xã trong nông

nghiệp, công nghiệp, xây dựng, thương mại. Tỷ lệ vốn cố định ở các hợp tác xã

chiếm tỷ lệ cao, từ trên 70% đến 95%, nhưng lại thường thiếu vốn lưu động, do

đó cũng không phát huy được công suất và hiệu quả vốn cố định, trong khi vay

ngân hàng gặp nhiều khó khăn về tài sản thế chấp.

b. Hợp tác xã phải có chỉ huy và kế toán, đòi hỏi phải đào tạo cán bộ quản lý

có trình độ. Việc quản lý hợp tác xã phức tạp do số lượng xã viên đông; sở hữu

manh mún của các xã viên đối với tài sản của mình làm hạn chế các quết định

của hợp tác xã. Nhiều hộ nông dân đang rất cần đến những sự trợ giúp có tính

chất cộng đồng, hiệp hội ngành hàng hay hợp tác trong các khâu, nhất là cung

ứng đầu vào và tiêu thụ đầu ra của sản xuất, nhưng các hợp tác xã hiện nay

trong nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng được các yêu cầu trên do năng

lực hoạt động kém, hiệu quả thấp. Hợp tác xã chỉ mới đảm nhiệm được một

phần nhỏ các dịch vụ cung ứng phân bón và giống, còn phần lớn phải dựa vào

các đại lý tư nhân.

17

c. Khi hợp tác xã hoạt động tốt, năng suất lao động tăng, số lao động của hộ

dôi dư, đòi hỏi phải giải quyết việc làm nhưng chưa tìm được biện pháp hữu

hiệu.

d. Sản phẩm hàng hóa tuy còn ít nhưng cũng gặp khó khăn về tiêu thụ, bị

thương lái ép cấp, ép giá.

1.2.2. Mô hình kinh tế trang trại

Nông hộ cũng có thể lên sản xuất lớn bằng cách chuyển thành trang trại.

Kinh tế trang trại là bước phát triển cao hơn của kinh tế hộ, tuy nhiên, để phát

triển loại hình kinh tế này cũng gặp nhiều thách thức lớn, nhất là ở vùng đồng

bằng, đất chật người đông, bình quân diện tích nhân khẩu thấp, gây khó khăn

trong việc tập trung ruộng đất quy mô lớn để làm trang trại. Ngoài ra, kinh tế

trang trại còn nhiều hạn chế như:

- Hầu hết các trang trại gia đình, trình độ quản lý của chủ trang trại còn

nhiều hạn chế, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, chưa chú trọng vào việc

áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất.

- Hầu hết lao động làm thuê cho các trang trại thiếu kiến thức về khoa học

kỹ thuật, chưa được đào tạo qua các trường lớp. Nhiều trang trại còn lúng túng

về phương hướng sản xuất, thu nhập thấp. Phần lớn các trang trại chưa được

thừa nhận về mặt pháp lý nên chưa có tư cách pháp nhân trong quan hệ giao dịch

với cơ quan Nhà nước và các tổ chức kinh tế, nhất là đối với ngân hàng.

- Thực tế, chủ trang trại chỉ được xem như là một chủ hộ nông dân bình

thường, trong khi đó qui mô sản xuất của chủ trang trang trại lớn, nhất là vốn.

Thiếu tư cách pháp nhân chủ trang trại chịu thiệt thòi về nhiều mặt, do đó họ

chưa yên tâm và không có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh. Các trang

trại đều có qui mô ruộng đất vượt quá hạn điền theo quy định của Luật đất đai

hiện hành. Hầu hết quỹ đất của trang trại là do khai hoang, phục hóa và nhận

chuyển nhượng từ người khác. Nguồn vốn và lao động của gia đình, nhưng lại

18

chưa được pháp luật công nhận. Đến nay, Nhà nước vẫn chưa có chính sách về

đất đai vượt quá hạn điền của các trạng trại nên họ còn rất băn khoăn. Hiện

tượng phân tán ruộng đất của các trạng trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng

ngầm còn diễn ra phổ biến. Quan hệ giữa trang trại với chính quyền địa phương,

các chủ thể kinh tế (nông trường, lâm trường, hợp tác xã nông nghiệp) và các hội

nông dân trên địa bàn còn chưa rõ ràng, cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Ranh giới

giữa trang trại và nông hộ sản xuất giỏi chưa được phân định đúng với thực tế và

nói chung là chưa rõ rang.

- Thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhà nước chưa có chính sách tín dụng để

hỗ trợ các trang trại nhất là trong nhưng năm đầu thành lập, thiếu máy móc, nông

cụ và thiếu lao động lành nghề, nhưng bản thân các trang trại không có điều kiện

đào tạo, bồi dưỡng, trong khi Nhà nước chưa quan tâm. Kết cấu hạ tầng yếu

kém, gây khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất. Hầu hết các trạng trại

hiện nay được hình thành ở vùng trung du, miền núi đất xấu, địa hình phức tạp,

giao thông thủy lợi, điện đều khó khăn. Do đó sản phẩm làm ra nhiều đang mâu

thuẫn với khả năng vận chuyển, chế biến và tiêu thụ. Thị trường và giá cả nông

sản chưa ổn định nên nhiều chủ trang trại không muốn mở rộng qui mô sản xuất

mặc dù khả năng đất đai, lao động vẫn còn.

Trong tình hình nói trên việc liên kết kinh tế hộ với các doanh nghiệp chế

biến và tiêu thụ nông sản là phù hợp hơn cả. Trong xu hướng hội nhập kinh tế

quốc tế hiện nay phải thực hiện liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh để có

sức mạnh cạnh tranh trên thị trường, nhất là những sản phẩm cùng loại của khu

vực và thế giới. Sự liên kết đó được gọi tắt là mô hình liên kết bốn nhà (nhà

nước, nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học), bước khởi đầu đưa kinh tế

nông hộ lên sản xuất lớn, trong đó mô cánh đồng mẫu lớn ở An Giang là một mô

hình liên kết hữu hiệu.

19

1.2.3 Tính ưu việt của mô hình cánh đồng mẫu lớn

Mô hình cánh đồng mẫu lớn với bước khởi đầu còn nhiều khó khăn nhưng

có sự đồng thuận cao của nhiều cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân và nông dân nên

đã là một giải pháp thiết thực nhất cho trồng trọt nói chung và cho sản xuất lúa

nói riêng hiện nay và tương lai. “Cánh đồng mẫu lớn” đã thể hiện mối liên kết

giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông nhờ đó đã nâng

cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong chuỗi liên kết này, vai trò và

nhiệm vụ của các tác nhân là khác nhau tuy nhiên lại có mối quan hệ chặt chẽ

với nhau, là yếu tố quyết định sự thành bại của việc triển khai mô hình.

Mỗi chủ thể tham gia mô hình có trách nhiệm và quyền lợi riêng:

Doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với sự thành công của mô hình, doanh

nghiệp là người đề xướng và thiết kế đầu vào, đầu ra, xây dựng giá thành sản

phẩm, xác định giá bán cho mỗi loại sản phẩm. Nói cách khác, doanh nghiệp

phải tham gia ngay từ đầu. Họ phải là đầu tàu quan trọng nhất. Doanh nghiệp

hiểu biết thị trường, họ cần vùng nguyên liệu ổn định và có thể liên kết với các

nhà khoa học đưa giống phù hợp vào canh tác. Doanh nghiệp còn có chính sách

hỗ trợ, hướng dẫn và tổ chức cho nông dân sản xuất lúa theo chất lượng đáp ứng

như cầu trên thị trường. Như vậy nhà doanh nghiệp là người xây dựng chuỗi

cung ứng và chuỗi giá trị trong liên kết, có vai trò rất quan trọng như một nhạc

trưởng chỉ huy việc tổ chức cánh đồng mẫu lớn. Đã có nhiều loại hình doanh

nghiệp cùng tham gia thực hiện vào mô hình "Cánh đồng mẫu lớn", như công ty

cung ứng giống, công ty cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, công ty cơ

điện nông nghiệp cung cấp thiết bị, máy móc thực hiện cơ giới hóa, công ty

lương thực xây dựng nhãn hiệu hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm. Thông qua liên

kết, sản xuất mang tính quy mô lớn, hiện đại, hạn chế rủi ro và hiệu quả cao do

có kế hoạch từ đầu về phương hướng sản xuất, giống, kỹ thuật, quy định rõ trách

nhiệm từng khâu từ đầu vào tới đầu ra

20

Nhà nước có cơ chế và chính sách hợp lý về quyền sử dụng đất, chính

sách về dồn điền dổi thửa tạo điều kiện cho sản xuất lúa trên diện tích đủ lớn,

phù hợp với việc triển khai mô hình “ cánh đồng mẫu lớn”, có chính sách ưu đãi

các bên tham gia về vốn, thuế. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc hoàn

thiện thể chế hợp đồng kinh tế ký kết giữa nông dân với doanh nghiệp, nhà khoa

học nhằm giảm đến mức thấp nhất việc phá vỡ hợp đồng trong mô hình “cánh

đồng mẫu lớn”. Vai trò của nhà nước là thúc đẩy, khuyến khích mối liên kết ấy

phát triển. Nhà nước xử lý khi các chủ thể tham gia có tranh chấp. Nhà nước tạo

hành lang pháp lý hỗ trợ kinh phí xây dựng kết cấu hạ tầng về thủy lợi, đường

giao thông, hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng thương hiệu lúa gạo Việt Nam

nói chung và thương hiệu lúa gạo của các tỉnh nói riêng.

Nông dân tham gia mô hình này từng bước xóa bỏ sự canh tác manh

mún, cùng hợp tác với nhau và các doanh nghiệp để tạo ra vùng nguyên liệu phù

hợp với khả năng, điều kiện của địa phương. Người nông dân làm quen và tuân

thủ việc sản xuất theo hợp đồng, tôn trọng hợp đồng cả về số lượng, chất lượng

và thời gian cung ứng hàng hóa.

Các nhà khoa học nghiên cứu giống cây trồng có năng suất cao, có khả

năng chống chịu sâu bệnh, hướng dẫn nông dân các kỹ thuật gieo cấy và chăm

sóc. Liên kết là yếu tố quan trọng thúc đẩy sự sáng tạo, tìm tòi của các nhà khoa

học. Thành tựu nghiên cứu được ứng dụng một mặt tạo điều kiện cho phát triển

nông nghiệp, mặt khác cải thiện đời sống của các nhà khoa học.

Thực tế chứng minh những nơi có sự liên kết tốt, cả doanh nghiệp và nông

dân đều phấn khởi vụ mùa nào cũng có lợi nhuận cao và ổn định so với những

hộ nông dân sản xuất tự phát, nhỏ lẻ, manh mún. Công ty Bảo vệ thực vật An

Giang là một ví dụ tiêu biểu cho mô hình liên kết có hiệu quả, liên kết với nông

dân, đảm bảo cung cấp nguồn nguyên liệu ổn định cho sản xuất, tận dụng được

công suất nhà máy, thực hiện tốt hợp đồng tiêu thụ nông sản với nông dân. Cùng

21

với nhà khoa học, đưa các giống lúa tốt, thích hợp với thổ nhưỡng áp dụng vào

mô hình, tận dụng sự hỗ trợ của nhà nước và địa phương. Nhờ thực hiện tốt mối

liên kết này, công ty đã đạt được nhiều thuận lợi trong quá trình triển khai mô

hình giúp nông dân thoát được cảnh được mùa mất giá, được giá mất mùa, giá cả

bấp bênh, thu nhập thấp, đời sống khó khăn.

Một ví dụ khác ở An Giang, theo website www.angiang.gov.vn ngày

6/4/2010 có Công ty TNHH ADC (Cần Thơ) chấp nhận đầu tư giống Jasmine 85

(loại giống xác nhận), phân bón, thuốc trừ sâu… cho nông dân An Giang sản

xuất lúa theo tiêu chuẩn GlobalGAP. Đối với những hộ dân được cấp giấy chứng

nhận đạt chuẩn, Công ty TNHH ADC sẽ thu mua toàn bộ sản phẩm với giá cao

hơn giá lúa thị trường 20% (tăng khoảng 1.000 đồng/kg); còn chi phí mua giống,

vật tư nông nghiệp của nông dân sẽ được trừ vào tiền mua lúa

Ở Sóc Trăng: Theo báo Hậu Giang ngày 30/07/2010, nhờ sự liên kết trong

sản xuất lúa đã giúp cho nông dân HTX Hòa Lời (huyện Mỹ Xuyên, Sóc Trăng)

có được kết quả trong sản xuất lúa cho lợi nhuận cao. HTX Hòa Lời đã tạo ra sản

phẩm gạo sạch, chất lượng cao và an toàn có thương hiệu mang tên Ngọc Đồng.

Có được kết quả này là nhờ sự liên kết “4 nhà” giữa Công ty Gentraco; các nhà

khoa học tạo giống lúa thơm ST của Sóc Trăng; nông dân HTX Hòa Lời, huyện

Mỹ Xuyên, lãnh đạo Sở NN&PTNT Sóc Trăng. Kế hoạch của tỉnh trong vụ kế

tiếp của năm 2010, diện tích tham gia HTX lúa - tôm sản xuất lúa theo tiêu

chuẩn GlobalGAP là 50 ha, tăng 100% so với vụ mùa năm 2009. Gentraco và

Hòa Lời sẽ cùng hợp tác thành lập liên minh sản xuất gạo chất lượng cao, liên

minh này được sự hỗ trợ tích cực của Sở NN&PTNT Sóc Trăng.

Liên kết trong sản xuất giúp nền nông nghiệp vững mạnh hơn, tuy nhiên

những thành công của mô hình còn hạn chế ở một số địa phương do sự liên kết

còn lỏng lẻo. Liên kết “4 nhà” hầu như mới chỉ là khẩu hiệu chung chung, trong

quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn từ một trong bốn chủ thể liên kêt, điều

22

này gây thất bại cho mô hình. Vấn đề chính sách và cơ chế tạo mối liên kết, theo

Tạp Chí Cộng Sản ngày 2/5/2010, viết với các nhà khoa học, tham gia liên kết “4

nhà” chưa có chính sách nào khuyến khích để họ có thể gắn kết với người sản

xuất, nhằm tạo ra sản phẩm đủ chất lượng cho thị trường đang đòi hỏi. Những

điều trên đã dẫn đến người sản xuất cũng như nhà doanh nghiệp phải tự “bơi”

trong thị trường. Không liên kết hoặc liên kết thiếu chặt chẽ là do không tin

nhau, sợ mất quyền lợi, doanh nghiệp chưa tin nông dân, nông dân không tin

doanh nghiệp và mất lòng tin làm tan vỡ mối liên kết.

Theo Tạp chí Cộng Sản ngày 2/5/2010, ở tỉnh Trà Vinh có hiện tượng

“doanh nghiệp bội tín, nông dân lỗ nặng”, 153 nông dân ở xã Thạnh Phú, huyện

Cầu Kè hợp tác sản xuất với Công ty Lúa giống 9 Táo đóng tại xã Sông Lộc,

huyện Châu Thành, theo hợp đồng, Công ty bán giống cho nông dân với giá

11.000đ/kg nếu trả tiền trước và 13.000 đ/kg nếu phải trả sau. Đồng thời, Công

ty hứa mua lại lúa của dân giá 5.200 đ/kg. Nhưng do giống của công ty bị lẫn tạp

nhiều nên tốn công khử và không bảo đảm chất lượng, công ty chỉ mua lại theo

giá lúa thịt 2.800 - 2.900 đ/kg. Đây là một ví dụ làm mất lòng tin khi doanh

nghiệp chạy theo lợi nhuận, cung cấp giống, phân bón, vật tư khác kém chất

lượng để cho sản xuất của nông dân bị thất thoát, làm ảnh hưởng không chỉ uy

tín của doanh nghiệp mà cả uy tín cho những “nhà khác” trong mối liên kết. Hậu

quả là việc thu hồi vốn đầu tư gặp khó khăn do nông dân chưa chịu thanh toán,

là một hình ảnh không lành mạnh cho những liên kết khác.

Cánh đồng mẫu sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao với quy mô 100ha

trên địa bàn xã Khánh Cư, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình cũng là một trong

những bài học thất bại trong mô hình liên kết. Tham gia mô hình, nông dân được

cung cấp dịch vụ đầu vào, tạo điều kiện cho sản xuất, nhưng thiếu doanh nghiệp

tiêu thụ nông sản, chủ yếu hàng xáo mua đi bán lại, giá lúa bấp bênh gây thiệt

hại cho nông dân.

23

Như vậy có thể thấy, cánh đồng mẫu lớn là mô hình liên kết phù hợp với

quy mô sản xuất hàng hóa lớn, khắc phục được hạn chế của kinh tế hộ, thuận lợi

đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giảm giá thành... Đây là mấu chốt để

tạo vùng nguyên liệu ổn định và đầu ra ổn định cho cả nông dân và doanh

nghiệp. Mối liên kết 4 nhà chính là yếu tố quyết định sự thành bại của mô hình.

Giải quyết tốt bài toán này là thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội để nền nông

nghiệp Việt Nam phát triển vững mạnh.

24

Chương 2

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU

LỚN” QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN Ở VIỆT NAM

2.1 CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO VỆ THỰC VẬT AN GIANG VÀ QUÁ

TRÌNH HÌNH THÀNH CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN

Trong quá trình 20 năm phát triển, Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An

Giang, viết tắt là AGPPS, hoạt động chủ yếu trong các ngành kinh doanh hạt

giống (lúa, bắp, rau..), chế phẩm sinh học và hóa học bảo vệ thực vật và một vài

ngành nghề khác (bao bì, du lịch...). Một mốc chuyển biến mang tính chất đột

phá là từ quý III/2010, AGPPS đã đầu tư, thu mua và chế biến lúa gạo, cung cấp

dịch vụ trọn gói cho bà con nông dân trong vùng nguyên liệu theo mô hình cánh

đông mẫu lớn và thu mua toàn bộ sản phẩm của bà con làm ra. Công ty xác định

các tiểu vùng sản xuất lúa gạo trên 15.000 ha canh tác, xác định bộ giống lúa có

chất lượng cao và phù hợp với mỗi tiểu vùng; công ty ký hợp đồng hợp tác sản

xuất lúa hàng hóa với các hộ nông dân trong vùng. Theo đó, công ty đầu tư cho

nông dân giống xác nhận, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón các loại vào từng thời

điểm sử dụng, không tính lãi trong 120 ngày, kể từ đầu vụ đến sau thu hoạch 30

ngày. Khởi phát ở An Giang trong vụ đông xuân 2010 -2011, đến nay “cánh

đồng mẫu lớn” đã lan ra một số tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ và đang được thử

nghiệm ở một số tỉnh phía Bắc.

Mô hình “ CĐML” bước đầu đã mang lại kết quả tích cực trong sản xuất

nông nghiệp. Ngoài việc nông dân nâng cao được thu nhập trên một đơn vị diện

tích, các công ty cung ứng các yếu tố đầu vào cho ngành nông nghiệp như phân

bón, giống thông qua việc ký kết các hợp đồng với người nông dân với khối

lượng lớn, cũng ổn định được sản xuất. Mặt khác, sản phẩm của mô hình khá

đồng đều, chất lượng ngày càng cao, đã tạo nguồn cung ổn định cho các doanh

25

nghiệp chế biến và xuất khẩu, do đó xuất khẩu gạo của Việt Nam có bước phát

triển vượt bậc. Mô hình cánh đồng mẫu lớn đang triển khai là một trong những

lời giải cho câu hỏi làm thế nào để tăng hiệu quả của việc liên kết “4 nhà”, giúp

người nông dân tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, các loại vật tư nông nghiệp

phục vụ sản xuất lúa với giá cả ổn định,đảm bảo chất lượng và giá cả đầu ra của

lúa gạo có lãi. Những cánh đồng lớn góp phần giải quyết được tình trạng manh

mún về đất đai trong sản xuất nông nghiệp, vấn đề quy hoạch… vốn là những

rào cản ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình cơ giới hóa nông nghiệp lâu nay. Mô

hình cánh đồng mẫu lớn dưới sự triển khai của công ty cổ phần Bảo vệ thực vật

An Giang đã phát huy tác dụng của mối liên kết giữa Doanh nghiệp- nông dân:

Chia sẻ lợi ích và hợp tác cùng có lợi. Mô hình được đánh giá thành công do kết

quả đạt được là tăng thu nhập của người nông dân; là nguồn nguyên liệu dồi dào

với những sản phẩm gạo giá trị cao từng bước khẳng định thương hiệu trên thị

trường quốc tế. Mô hình cánh đồng mẫu lớn đầu tiên ở An Giang với diện tích

gần 1.200 ha trong vụ đông xuân 2010-2011 đã cho năng suất từ 7,5 – 8 tấn/ha,

đặc biệt có hộ đạt tới 9 tấn/ha. Thu nhập của nông dân hơn 150% so với phương

thức canh tác trên cánh đồng nhỏ. Nếu như cuối năm 2011, mô hình cánh đồng

mẫu lớn chỉ thực hiện được 7.800 ha thì bước vào vụ đông 2012-2013, diện tích

sản xuất theo mô hình này đã tăng lên hơn 76 nghìn ha [6]. Không chỉ thực hiện

ở ÐBSCL, mô hình này còn lan tỏa ra một số tỉnh phía bắc và được nông dân,

chính quyền địa phương nhiệt liệt hưởng ứng vì đem lại hiệu quả. Tổng diện tích

gieo trồng trong sáu vụ lúa gần đây mà doanh nghiệp liên kết với nông dân là

23.247 ha, trong đó nhiều nhất là vụ hè thu 2012 là 9.470 ha với 3.299 hộ nông

dân tham gia [6]. Chi phí bình quân là 19 triệu đồng/ha; tổng thu đạt 43,56 triệu

đồng/ha, với năng suất 6,72 tấn/ha, giá bán 6.462 đồng/kg; thu nhập đạt 24,9

triệu đồng ha, chiếm 56%. Tính riêng trên địa bàn tỉnh An Giang nông dân trong

mô hình thu nhập cao hơn 1-2 triệu đồng/ha so với nông dân ngoài mô hình[6]

26

Có thể thấy, mô hình “CĐML” bước đầu đã mang lại kết quả tích cực

trong sản xuất nông nghiệp, được nông dân đánh giá rất cao đã góp phần thúc

đẩy nông dân tự nguyện dồn điền đổi thửa, quy hoạch thiết kế lại đồng ruộng, cải

tạo nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi, giao thông nội đồng,… Qua đó,

nhà nông từng bước tiến tới sản xuất hàng hóa nông sản theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện cho việc phân công lại lao động trong sản xuất

nông nghiệp. Mô hình được xây dựng nhằm thực hiện tốt việc áp dụng các tiến

bộ kỹ thuật tiên tiến một cách đồng bộ, hiệu quả trên diện tích lớn, rút ngắn

khoảng chênh lệch về năng suất giữa các hộ nông dân, các thửa ruộng, các vùng

sản xuất, nâng cao năng suất bình quân trong toàn vùng.

An Giang là tỉnh nông nghiệp có sản lượng lúa dẫn đầu cả nước ở mức

trên 3,2 triệu tấn/năm. Hàng năm, tỉnh có trên 2 triệu tấn lúa hàng hóa, xuất khẩu

khoảng 750 ngàn tấn[6]. Trong những năm qua, An Giang chú trọng áp dụng các

tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất và chất lượng lúa gạo, cũng là tỉnh đầu tiên ở

vùng Đồng bằng Sông Cửu Long vận động nông dân thực hiện “cánh đồng mẫu”

để tạo nguồn cung ứng gạo xuất khẩu cho các doanh nghiệp và đạt được nhiều

thành tựu to lớn từ mô hình này.

Số lượng cánh đồng mẫu lớn được triển khai trên địa bàn tỉnh An Giang

cũng như diện tích và số hộ nông dân tham gia mô hình này tăng lên nhanh

chóng từ vụ Đông Xuân 2010 – 2011 đến vụ Đông Xuân 2012- 2013. Vụ Đông

Xuân 2010 – 2011 đã có 7 cánh đồng mẫu lớn trên địa bàn các huyện: Châu

Thành, Tri Tôn, Châu Phú, Tịnh Biên với tổng diện tích 1.073,25 ha bao gồm

443 hộ nông dân tham gia [6]. Vụ Hè Thu 2011, số cánh đồng mẫu lớn là 9 trên

địa bàn các huyện: Châu Thành, Châu Phú, Tịnh Biên, Tà Đảnh, Thoại Sơn với

diện tích 1.616,94 ha và 684 hộ [6]. Vụ Thu Đông 2011, mô hình triển khai trên

địa bàn các huyện Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn, Tịnh Biên, Tri Tôn với

diện tích 748,82ha và 305 hộ tham gia [6].Vụ Đông Xuân 2011 -2012, thu hút

27

1.463 hộ nông dân với diện tích 3.480 ha trên các huyện Chau Thành, Châu Phú,

Tri Tôn, Tịnh Biên [6] . Vụ Hè Thu 2012, tổng số hộ tham gia mô hình là 1.435

hộ với tổng diện tích lên đến 3.600ha trên địa bàn các huyện Châu Thành, Châu

Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên. Đến vụ Đông Xuân 2012- 2013 số hộ nông dân tham

gia mô hình lên tới 1.783 hộ với tổng diện tích 4.850 ha. Như vậy sau sáu vụ số

hộ nông dân tham gia mô hình tăng 4 lần (từ 443 hộ lên 1.783 hộ), diện tích tăng

4,5 lần (từ 1.073,25 ha lên đến 4.850 ha) (xem bảng 2.1).

Năng suất lúa trung bình trong mùa mưa (Hè Thu và Thu Đông) chỉ bằng

75,2% đến 79% năng suất lúa trong mùa nắng (Đông Xuân). Tổng chi phí bình

quân cho mỗi vụ là 19.218.896 đồng/ha, trong đó hạt giống chiếm 9,7%; phân

bón và thuốc bảo vệ thực vật chiếm 50,7% ; tổng các chi phí dịch vụ (làm đất,

bơm nước, chăm sóc, thu hoạch) chiếm 39,6%. Tổng thu đạt 42,06 triệu đồng/ha

với năng suất lúa bình quân 6,58 tấn/ha và giá bán bình quân 6.370 đồng/kg. Giá

thành 1 kg lúa là 2.863 đồng, thu nhập bình quân đạt 22,82 triệu đồng /ha; tỷ lệ

thu nhập trên tổng thu trung bình đạt 54,3% [6]. Do kiểm soát được nguồn vật tư

đầu vào cũng như xây dựng được vùng nguyên liệu ổn định nên giá lúa của nông

dân trong mô hình được thu mua với giá cao hơn thị trường từ 100 – 200

đồng/kg, thu nhập tăng lên so với nông dân bên ngoài từ 1,5 – 2 triệu

đồng/ha. Theo số liệu của Cục Trồng trọt, mô hình cánh đồng mẫu lớn đem lại

những lợi ích rõ rệt: tăng thu nhập cho nông dân nhờ tăng năng suất, giảm chi

phí, hạ giá thành, lợi nhuận thu được cao hơn so với trước đây từ 2,2 - 7,5 triệu

đồng/ha, tăng tính cộng đồng, hạn chế chênh lệch giữa các hộ nông dân trong

canh tác.

28

Bảng 2.1: Số hộ và diện tích tham gia CĐML do AGPPS tổ chức

Vụ lúa Số hộ Diện tích (ha)

Vụ Đông Xuân 2010 -2011 443 1.073,25

Vụ Hè Thu 2011 684 1.616,94

Vụ Thu Đông 2011 305 748,82

Vụ Đông Xuân 2011 -2012 1.463 3.480,0

Vụ Hè Thu 2012 1.435 3.600,0

Vụ Thu Đông 2012 -2013 1.783 4.850,0

Nguồn: Công ty Bảo vệ Thực vật An Giang 2.2 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”

Ở AN GIANG

Một là: Mô hình có sự tham gia chủ động, tích cực của Công ty AGPPS

trong toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất và lưu thông.

a. Công ty chủ động cung ứng các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Toàn bộ

diện tích được Công ty ứng trước giống, thuốc bảo vệ thực vật và hướng dẫn kỹ

thuật canh tác. Cách làm này đã giúp nông dân trong vùng nguyên liệu giảm chi

phí và thu nhập cao từ 30 đến 40 triệu đồng 1 ha. “Cánh đồng mẫu lớn” được áp

dụng quy trình sản xuất tiên tiến như cày ải phơi đất, vê ̣ sinh đồng ruô ̣ng trướ c khi gieo sa ̣; sử du ̣ng cù ng một loa ̣i giống lú a được xác nhâ ̣n chất lươ ̣ng cao , xuống giống từng loa ̣t vớ i mâ ̣t đô ̣ gieo sa ̣ từ 80 - 100 kg/ha…, từng bước được dịch vụ hóa tất cả các khâu trong sản xuất từ giống, làm đất, chăm sóc, tưới nước đến thu hoạch,

bảo quản, chế biến, tồn trữ, …các hoạt động dịch vụ này sẽ góp phần gia tăng năng

suất, chất lượng hạt gạo. Mô hình “cánh đồng mẫu lớn” được nhà máy đầu tư về kết

cấu hạ tầng như: Thủy lợi, trạm bơm, mặt ruộng được san bằng tia Lazer, cơ giới

hóa trong khâu thu hoạch…, có khu nhân giống riêng cung cấp cho cánh đồng, toàn

bộ cánh đồng chỉ sử dụng từ 2 – 3 loại giống và phải là giống xác nhận nhằm tạo độ

đồng đều về hàng hóa xuất khẩu có giá trị cao.

29

b. Có cán bộ kỹ thuật hướng dẫn tư vấn, cùng canh tác với nông dân trong

suốt vụ, hướng dẫn nông dân ghi chép lại chi phí sản xuất qua sổ “nhật ký đồng

ruộng, xử lý dịch hại và các vấn đề nảy sinh trong quá trình sản xuất, lên lịch thu

hoạch. Công ty đã có hơn 1.000 kỹ sư. Hoạt động đào tạo nhân lực này gắn liền

với mô hình cánh đồng mẫu lớn của công ty. Công ty thực hiện Chương trình

"Hướng về nông dân". Cán bộ kỹ thuật nông nghiệp được bà con nông dân thân

mật đặt tên là "Bạn của nhà nông- hay còn gọi là FF: Farmers Friend (hiện đổi

tên là Lực lượng 3 cùng "cùng ăn, cùng ở, cùng làm") có nhiệm vụ quan trọng là

chuyển giao kỹ thuật trồng lúa hiện đại và tư vấn kỹ thuật trực tiếp miễn phí trên

đồng ruộng cho bà con nông dân. Lực lượng 3 cùng đã đảm trách vùng nguyên

liệu rộng 27.747ha với 2.601 điểm, 60 mô hình, có mặt tại 76/129 huyện, thị xã

của 13 tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu Long [8]. Đây là đội ngũ tiên phong

cùng sát cánh với bà con nông dân ngày đêm bám đồng ruộng để có những vụ

mùa bội thu.

c. Riêng ở xã Vĩnh Bình, huyện Châu Thành, công ty đã xây dựng nhà

máy có năng lực chế biến 100.000 tấn lúa/năm (giai đoạn 1)tổng diện tích của

nhà máy 8ha trong đó diện tích kho chứa gần 2ha; hệ thống băng tải chuyển

1.000 tấn/ngày; hệ thống sấy 1.000 tấn/ ngày; hệ thống bóc vỏ 20 tấn/ giờ; xát,

lau bóng 16 – 32 tấn/giờ; kho chứa lúa 21.200 tấn; kho chứa gạo thành phẩm

7000 tấn [6]. Nhờ đó công ty có thể hỗ trợ vận chuyển lúa về nhà máy, cho nông

dân gửi kho chờ giá miễn phí trong 1 tháng, cung cấp bao chứa lúa cho nông

dân. Khi thu hoạch lúa, Công ty hỗ trợ vận chuyển và bốc xếp lúa đến nhà máy,

đưa lúa vào sấy đạt tiêu chuẩn không tính chi phí.

d. Công ty thu mua nông sản với giá bằng hoặc cao hơn giá thị trường.

Công ty tiến hành thu mua lúa theo một số tiêu chuẩn đã đề ra. 1, tại thời điểm

ngoài đồng, lúa không lẫn tạp chất, không có bông cỏ, không bị sâu bệnh, hạt

không bị nảy mầm. 2, khi đóng bao, hạt lúa phải đạt được các chỉ tiêu sau: Độ

30

ẩm tối đa là 15,50%; tạp chất tối đa là 2,50%; rạn gãy tối đa là 8,00%; hạt lẫn

loại tối đa là 5,00%; hạt xanh non tối đa là 5,00%.Nếu tại thời điểm thu hoạch

giá lúa chưa tốt, Công ty cho nông dân đưa lúa vào kho tạm trữ trong một tháng

không tính phí, chỉ thu tiền vận chuyển ban đầu. Tại nhà máy tiến hành cân lúa,

giúp nông dân biết được lượng lúa tươi, được hướng dẫn cách quy đổi về lúa

khô, về độ ẩm chuẩn 15,5%, với tỷ lệ quy cứ giảm một độ ẩm thì 100kg lúa tươi

sẽ hụt 1,2 kg[6]. Như vậy, sau khi tiến hành cân lúa xong, nông dân có thể dễ

dàng tính được phần thu nhập của mình dựa vào khối lượng lúa và bảng giá mà

công ty đã niêm yết. Nông dân sẽ đăng ký giá bán, khi giá niêm yết của nhà máy

bằng giá đăng ký bán của nông dân, công ty sẽ thanh toán tiền cho nông dân.

Dưới hình thức liên kết này, công ty đã đồng thời giải quyết được cả ba vấn đề

về : công nghệ, vốn sản xuất và thị trường. Và nhờ đó, thương hiệu gạo của công

ty cổ phần BVTV An Giang dần được xác lập một cách vững chắc trên thương

trường trong và ngoài nước.

Hai là: Sự đồng thuận cao từ các hộ tham gia mô hình , triển khai xây

dựng mô hình cánh đồng mẫu lớ n gắn vớ i sản xuất lú a theo tiêu chuẩn VietGap tạo điều kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i cho ngành nông nghiệp quy hoạch vùng sản xuất lúa chất

lươ ̣ng cao theo hư ớng bền vững; đồng thời giúp nông dân ứ ng du ̣ng các tiến bô ̣ khoa ho ̣c kỹ thuâ ̣t vào sản xuất hàng nông sản theo hướ ng tâ ̣p trung vớ i khối lươ ̣ng lớ n, chất lượng cao, trên cơ sở đó, mở rô ̣ng liên kết “ 4 nhà”. Nông dân tham gia trên tinh thần tự nguyê ̣n , đươ ̣c cán bô ̣ kỹ thuâ ̣t nông nghiê ̣p hướ ng dẫn kỹ thuật canh tác , các hộ tự chăm sóc cây trồng trên diện tích của hộ. Mô hình

cánh đồng mẫu lớn chưa tập trung đất đai, vẫn giữ nguyên bờ thửa của từng hộ,

không ép người nông dân phải rời khỏi mảnh ruộng nhà mình để trở thành người

làm thuê, cấy mướn. Nhưng vì ở An Giang bình quân diện tích của mỗi hộ đạt

tối thiểu từ 0,5 ha đến 5 ha nên vẫn thuận tiện cho việc cơ giới hóa [8].

31

Tham gia mô hình “cánh đồng mẫu”, nông dân cùng xuống giống và

chăm sóc lúa theo quy trình “sạch” do Công ty đưa ra. Nông dân bắt buộc phải

ghi chép sổ tay trong suốt quá trình sản xuất theo tiêu chuẩn Viet GAP (tiêu

chuẩn Việt Nam về an toàn, chất lượng và truy nguyên được nguồn gốc). Nông

dân dùng giống xác nhận, biết cách quản lý dịch hại hiệu quả, không sử dụng

thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi, bón phân đúng nhu cầu của cây lúa, không bón

thừa đạm, chất lượng gạo tăng lên qua việc áp dụng thuốc bảo vệ thực vật theo

phương pháp mà lực lượng cán bộ kỹ thuật của công ty hướng dẫn, giảm thiểu

lượng thuốc lưu tồn trong hạt gạo. Nông dân làm đúng giống lúa đã đăng ký với

công ty . Làm đúng theo “Qui trình quản lý dịch hại theo hướng hiệu quả và bền

vững” của Chương trình cùng nông dân ra đồng.

Đến khi thu hoạch Công ty đưa bao đến tận ruộng cho nông dân đựng lúa,

đưa ghe đến chở lúa về nhà máy sấy khô miễn phí. Nông dân chỉ việc kiểm tra

quá trình cân lúa rồi chờ lấy tiền ngay tại nhà máy, nếu nông dân chưa muốn bán

lúa còn được Công ty cho gửi vào kho một tháng không tính chi phí nhằm giúp

nông dân có thể đạt thu nhập tốt nhất. Trong vụ Đông Xuân 2010 -2011, nông

dân xã Vĩnh Bình tính tất cả chi phí sản xuất là 2.200 đồng/kg, bán ra được

7.000 đồng/kg, thu nhập ròng 5.800 đồng/kg. Với năng suất bình quân 8 tấn/ha,

thu nhập bình quân đạt hơn 30 triệu đồng/ha. 119 hộ nông dân xã An Bình

(huyện Thoại Sơn) sản xuất theo mô hình “cánh đồng mẫu” cũng đạt năng suất

lúa 8 tấn/ha nên Công ty bán gạo với giá cao hơn thị trường cùng thời điểm

20USD/tấn [8].

Ba là: Mô hình nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước và chính quyền địa

phương. Trên cơ sở các mô hình liên kết, tỉnh An Giang đã phát triển mô hình

Cánh đồng mẫu lớn với sự đồng thuận của các doanh nghiệp và nông dân, dưới

sự hỗ trợ của Nhà nước. Nhằm triển khai Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của

Thủ tướng Chính phủ ngày 24-6-2002 về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông

32

sản hàng hóa thông qua hợp đồng, tỉnh An Giang đã có nhiều văn bản chỉ đạo và

tổ chức thực hiện nhằm kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thông qua mô hình

“Liên kết 4 nhà”. Nhu cầu liên kết ngày càng trở nên bức thiết do yêu cầu nâng

cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế. Chính quyền tỉnh An Giang đã kiến

nghị Trung ương sửa đổi, bổ sung những văn bản liên quan đến chính sách đối

với “Cánh đồng mẫu lớn”, đại diện các sở, ngành, doanh nghiệp trong tỉnh đề

nghị Trung ương xem xét, miễn 100% tiền sử dụng đất khi chuyển đổi mục đích

sử dụng từ đất lúa sang đất phi nông nghiệp phục vụ xây dựng cụm dịch vụ lúa

gạo đồng bộ; hỗ trợ 100% chi phí lưu kho tại doanh nghiệp cho người nông dân

(ít nhất 3 tháng) để chờ thời điểm giá tốt của thị trường; xây dựng Quỹ bình ổn

giá lúa hoặc nông sản, thủy sản để điều phối hàng hóa. Bộ trưởng Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn Cao Đức Phát cho biết, Chính phủ đã nghiên cứu, tổng

kết và chuẩn bị ban hành chính sách khuyến khích đặc biệt để xây dựng mô hình

này với nhiều loại hình cây trồng, vật nuôi, áp dụng trên toàn quốc. Hiệp hội

Lương thực Việt Nam (VFA) cũng đã thực sự quan tâm tới việc xây dựng vùng

nguyên liệu, hội đã thống nhất với các doanh nghiệp thành viên thực hiện mô

hình xây dựng vùng nguyên liệu theo hướng ký hợp đồng tiêu thụ hàng hóa với

nông dân.

Bốn là: Có sự tham gia của các nhà khoa học trong việc nghiên cứu và

đưa ra các bộ giống có phẩm chất cao, hướng dẫn nông dân cách gieo trồng và

chăm sóc. Các giống lúa chất lượng cao được gieo trồng trong vùng nguyên liệu

là: giống Jasmine 85 với năng suất trung bình từ 6 đến 8 tấn/ha vào vụ Đông

Xuân, 4 đến 5 tấn/ha vào vụ Hè Thu, cơm mềm, dẻo, phù hợp sản xuất gạo đặc

sản cho tiêu dùng trong nước hoặc xuất khẩu; Giống lúa OM 4218; Giống lúa

OM 5451 có thời gian sinh trưởng từ 90 đến 95 ngày, đẻ nhánh nhanh, kháng sâu

bệnh và rầy nâu, chiều cao cây lúa từ 90 đến 95 cm, thích hợp cho tất cả các vụ

trong năm, năng suất ước đạt trên 06 tấn/ha, tỷ lệ hạt chắc cao, cứng cây, hạt gạo

33

dài, dẻo cơm; Giống lúa OM 6976 có hàm lượng vi chất dinh dưỡng sắt trong

gạo khá cao, có nhiều ưu thế nổi trội, phù hợp cho nhiều vùng sinh thái. Vụ ĐX

8 - 9 tấn/ha, HT 7 - 8 tấn/ha, ổn định trong cả 2 vụ ĐX và HT. Trọng lượng

1.000 hạt 25 - 26gr. Là giống lúa ngắn ngày. Chiều cao cây 95 – 100 cm, dạng

hình đẹp, rất cứng cây, đẻ nhánh khá, bông to chùm, đóng hạt dầy. Chống chịu

rầy nâu và bệnh đạo ôn tốt, chống chịu bệnh vàng lá. Hạt gạo dài, trong, ít bạc

bụng, cơm vẫn mềm khi nguội. Giống thuộc nhóm lúa bông to, thích nghi rộng

trên nhiều loại đất, từ phù sa ngọt đến phèn nặng; Giống lúa OM 7347 có khả

năng chống chịu sâu bệnh tốt, các loại bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, chịu khô hạn

và năng suất cao, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tạo thương hiệu gạo

sạch xuất khẩu, là giống lúa được lai tạo từ giống KhaoDawMali có nguồn gốc

từ Thái lan. 250 tấn gạo đầu tiên được sản xuất, chế biến từ giống lúa mới

AGPPS103 xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc với giá 530 USD/tấn, xấp xỉ

mức giá gạo thơm xuất khẩu 540 – 550 USD/tấn. Đây là giống lúa thuần, từ năm

2004 được lai tạo từ tổ hợp lai IR64/Basmati370, sau đó chọn lọc và tiến hành

khảo nghiệm nhiều vụ ở các vùng sinh thái cho năng suất cao, ổn định, gạo đẹp,

dẻo, thơm nhẹ. Trong vụ ĐX 2010 – 2011, giống AGPPS103 đạt năng suất

trung bình 6,95 tấn/ha tại 5 điểm, đứng thứ 3 trong tổng số 29 giống tham gia

khảo nghiệm ở ĐBSCL và miền Đông Nam bộ[6]. Công ty liên kết với các nhà

khoa học nhằm đưa những loại giống lúa có phẩm chất, năng suất cao vào mô

hình, cung cấp bộ giống phong phú, giống ưu thế lai ngắn ngày, có năng suất

cao, chất lượng tốt, chống chịu sâu bệnh, có khả năng thích ứng rộng, và nhiều

loại giống được cải tiến, chọn lọc đưa vào sản xuất. Những kết quả này đã tạo

điều kiện để cánh đồng mẫu lớn cải thiện chất lượng và nâng cao sản lượng

34

2.3 MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN” ĐƯỢC THÍ ĐIỂM TẠI

THÁI BÌNH

2.3.1 Một số nét khái quát về chủ trương thí điểm cánh đồng mẫu lớn

tại Thái Bình

Thái Bình là một trong những tỉnh được Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn lựa chọn thí điểm xây dựng "Cánh đồng mẫu lớn" ở miền Bắc. Thái

Bình cũng đã có những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ này, được đánh

giá là địa phương có trình độ thâm canh vào bậc cao nhất cả nước, thời gian qua,

cũng đã thực hiện dự án quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) do các tổ chức quốc tế

và một số nước tài trợ, đã có một số cán bộ cơ sở và nông dân tham gia các lớp

tập huấn kỹ thuật, bước đầu đã làm quen với việc ghi chép nhật ký trong quá

trình sản xuất nông nghiệp. Một số hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp và nông dân

đã từng bước hình thành tư duy sản xuất nông nghiệp hàng hóa, sản xuất lúa chất

lượng cao, lúa Nhật Bản, lúa giống và trồng các loại cây màu cung cấp cho các

doanh nghiệp xuất khẩu và thị trường trong và ngoài địa phương. Thái Bình

cũng đã quy hoạch vùng sản xuất, quy hoạch thủy lợi, giao thông nội đồng, tiến

hành dồn điền đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng và đưa cơ giới vào các khâu

trong quá trình sản xuất nông nghiệp, bước đầu đã đạt kết quả tích cực. Ngay sau

khi được Bộ lựa chọn, Thái Bình đã lập Đề án “Xây dựng mô hình thí điểm cánh

đồng mẫu”. Đề án này đã được UBND tỉnh Thái Bình phê duyệt. Theo Đề án

này, năm 2012-2013, Thái Bình xây dựng 9 cánh đồng mẫu cấp tỉnh, trong đó có

4 cánh đồng mẫu về sản xuất lúa và 5 cánh đồng về sản xuất cây rau màu. Để

thực hiện hiệu quả các mô hình trên, Thái Bình chủ trương xây dựng thí điểm ít

nhất một mô hình theo phương thức doanh nghiệp thuê đất hoặc nông dân góp

đất với doanh nghiệp để sản xuất một loại sản phẩm. Mô hình "Cánh đồng mẫu

lớn" ở Thái Bình sẽ được triển khai theo nhiều phương thức khác nhau để phù

hợp với từng vùng. Thực hiện chương trình thí điểm, Thái Bình đã có 13 xã tham

35

gia mô hình với tổng diện tích 1.267 ha [20]. Mô hình “Cánh đồng mẫu lớn”

được áp dụng không chỉ với lúa mà còn với nhiều loại hoa màu đã cho năng suất

và chất lượng cao hơn trước.

Dưới đây chỉ xét mô hình thí điểm trồng lúa ở 2 cánh đồng mẫu lớn với

diện tích hơn 100 ha tại 2 xã Nguyên Xá - Vũ Thư và Vũ Hòa - Kiến xương

Ngày 20/9/2012, Ban chỉ đạo xây dựng cánh đồng mẫu và Sở NN&PTNT

Thái Bình đã tổ chức hội nghị đầu bờ tham quan và đánh giá kết quả bước đầu

triển khai mô hình cánh đồng mẫu tại thôn Ngô Xá, xã Nguyên Xá, huyện Vũ

Thư vụ mùa 2012, với diện tích trên 50 ha và 396 hộ nông dân tham gia. Trên

địa bàn xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, từ kinh nghiệm tổ chức sản xuất ở vụ

xuân, vụ mùa này các cán bộ kỹ thuật của Công ty cổ phần bảo vệ thực vật An

Giang và Trung tâm Khuyến nông Thái Bình đã xây dựng kế hoạch sản xuất chi

tiết và rất sớm từ đầu vụ. Giống được lựa chọn là lúa thơm chất lượng cao RVT;

đây là giống lúa đã được Công ty CP Giống cây trồng Trung ương đăng ký độc

quyền và tổ chức sản xuất trên cánh đồng này. Toàn bộ quá trình sản xuất được

chỉ đạo thống nhất về lịch thời vụ, gieo, cấy, bón thúc, phun phòng trừ sâu bệnh

theo hướng dẫn với nguyên tắc 4 đúng và hiệu quả, vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật

được hướng dẫn thu gom vào các bể, các lò đốt để tiêu hủy với sự tài trợ của

Công ty Cổ phần BVTV An Giang, như vậy môi trường sản xuất đã trong sạch

hơn. Sản xuất hạt giống muốn đảm bảo độ đúng giống cần phải được khử lẫn 2

đợt trước thu hoạch, quá trình khử lẫn được chỉ đạo tập thể và làm triệt để, kỹ

càng, đảm bảo giống được thu hoạch đạt yêu cầu các chỉ tiêu về kiểm định đồng

ruộng trước thu hoạch, hạt giống cũng được chỉ đạo thu hoạch tập trung bằng

máy gặt đập liên hợp.

Trên địa bàn xã Vũ Hòa, việc triển khai dự án cũng được tỉnh và huyện

đặc biệt quan tâm. Dự án cánh đồng mẫu lớn năm 2013 với tên gọi “Cánh đồng

trạm bơm Lò Ngói” được quy hoạch thuộc thôn 1 và thôn 2 xã Vũ Hoà với diện

36

tích trên 54,7ha nằm ở phía đông bắc xã trên trục đường đi từ xã Vũ Hoà sang

Vũ Trung. Địa hình tương đối bằng phẳng, thành phần cơ gới đất thịt nhẹ. Tổng số hộ của vùng là 603 hộ. Diện tích mỗi hộ là 880 m2 [33]. Dự án đề ra những

mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể bao gồm:

- Tạo vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn liền với tiêu thụ sản phẩm

nhằm nâng cao giá trị sản lượng trên đơn vị diện tích canh tác, kết hợp xây dựng

mô hình sản xuất hàng hoá với xây dựng nông thôn mới nhằm khai thác cơ sở

vật chất, tiềm năng của đất đai, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

người dân.

- Đưa cơ khí hoá vào từng công đoạn trong sản xuất như: Làm đất, Gieo

mạ khay, cấy máy, gặt máy... từ đó thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện

đại hoá sản xuất nông nghiệp.

- Quy hoạch hệ thống mương máng , hệ thống giao thông vùng sản xuất

- Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp làm các khâu dịch vụ cung cấp các vật tư

đầu vào cho sản xuất như: Giống , phân bón, thuốc bảo vệ thực vật... Kết hợp với

các doanh nghiệp để thu mua các sản phẩm đầu ra cho sản phẩm.

- Tổ chức cho các hộ nông dân sản xuất trên cánh đồng mẫu, tập huấn kỹ

thuật và chuyển giao công nghệ về cách sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực

vật ... ghi nhật ký sổ, từ đó tính hiệu quả kinh tế so với các mô hình thông

thường.

- Tạo ra mô hình sản xuất hàng hoá tập trung gắn với tiêu thụ sản phẩm để

nhân ra diện rộng.

- Quy hoạch vùng sản xuất lúa xuân, lúa mùa và cây vụ đông nhằm tạo ra

năng suất, cao trên đơn vị diện tích, làm tiền đề mở rộng vùng sản xuất hàng hóa

cho những năm tiếp theo trong toàn xã, tạo ra công thức luân canh ổn định, bền

vững góp phần xây dựng nông thôn mới

37

2.3.2 Những thành tựu và hạn chế của cánh đồng mẫu lớn thí điểm ở

Nguyên Xá và Vũ Hòa

Bước đầu được đưa vào thí điểm, mô hình “cánh đồng mẫu lớn” ở Thái

Bình nói chung và 2 xã Nguyên Xá – Vũ Thư và Vũ Hòa – Kiến Xương nói

riêng đã đạt được một số thành tựu sau:

Một là: Sản xuất của cánh đồng mẫu lớn đạt năng suất, sản lượng, chất

lượng lúa cao hơn, chi phí thấp hơn so với sản xuất ngoài mô hình. Việc triển

khai thí điểm mô hình cánh đồng mẫu lớn cho thấy, trong cùng một điều kiện

gieo cấy, chi phí sản xuất giảm, năng suất tăng hơn so với mô hình trồng lúa đại

trà. Cụ thể, tại xã Nguyên Xá, huyện Vũ Thư, chi phí sản xuất giảm so với sản

xuất đại trà 3,25 triệu đồng/hecta, năng suất tăng hơn 500 kg/hecta [23]. Năm

2012, xã đã cho gieo cấy 298ha lúa xuân, đạt năng suất 70tạ/ha, sản lượng đạt

2.068tấn, với phương thức gieo sạ là chủ yếu [23]. Toàn xã đã gieo sạ được 247

ha chiếm 83%, những diện tích lúa còn lại xã cho gieo cấy bằng mạ non trên nền

đất cứng [23]. Đến vụ mùa năm 2012, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp điều 2-3

máy gặt đập liên hợp để thu dứt điểm trên 50 ha lúa giống RVT, với mức năng

suất thống kê theo mẫu, RVT đạt 63,2 tạ/ha. Công ty thu mua với mức 1kg giống

RVT tương đương 1,3 kg thóc thịt ngoài thị trường, như vậy nông dân sẽ có mức

năng suất bình quân 82,16 tạ/ha (quy ra lúa thường bên ngoài). So với cánh đồng

bên ngoài, chi phí thuốc BVTV giảm chỉ còn bình quân 2,05 lần phun, so với

2,64 lần phải phun ở bên ngoài, chi phí phân bón cũng giảm do sử dụng phân

phức hợp và bón đúng cách, đúng lúc hơn… mức giảm tương đương 71 ngàn

đồng tiền phân bón và 135 ngàn đồng tiền thuốc BVTV cho 1 ha. Thu nhập của

nông dân tham gia mô hình tăng trên 9 triệu đồng/ha. Mô hình này giúp nông

dân tăng thu nhập 1,2-1,4 triệu đồng/sào/vụ, giảm được 25% chi phí, ngày công

lao động, trong khi làm lúa thường chỉ được 650-700 nghìn đồng/sào/vụ [23].

Làm CĐML sẽ giúp điều tiết được nước, phòng trừ sâu bệnh và lúa chín đều cả

38

cánh đồng. Có máy móc cơ giới vào, sẽ làm được đồng loạt, tránh mỗi ruộng

một màu trên cánh đồng.Hơn nữa, khi có máy gặt đập liên hợp, người trung niên,

người già vẫn làm tốt, khắc phục cảnh thiếu hụt lao động trẻ ở nông thôn hiện

nay.

Trên địa bàn xã Vũ hòa, “Cánh đồng trạm bơm Lò Ngói” đã mang lại

nhiều hiệu quả đáng khích lệ cả về mặt kinh tế và xã hội. Sau ba vụ lúa xuân, lúa

mùa và vụ hoa màu năm 2012, hạch toán tổng thu 1ha là 187.515.000 đ. Trong

đó, tổng chi là 61.083.000đ. Thu nhập trên 1ha là 126.432.000đ (bao gồm cả

công lao động mà người dân bỏ ra như: làm mạ, cấy, chăm sóc và phòng trừ sâu

bệnh), thu nhập tăng gần 4 triệu đồng/ha, nông dân không phải mất công phơi,

bảo quản sản phẩm do doanh nghiệp mua thóc tươi[33]. (Xem bảng 2.2).

Bảng 2.2: Kết quả đạt được trên cánh đồng mẫu lớn Vũ Hòa

Lúa xuân Lúa mùa Vụ đông Tổng Chỉ Tiêu TT (Giống ĐS1) (Giống ĐS1 ) (KT Hà lan)

1 Phần thu 60.300.000 58.170.000 84.000.000 202.470.000

- Năng suất (Kg/ha) 9.000 8.310 14.000

- Giá (đ) 5.500 6.500 6.000

- Thành tiền (đ) 49.500.000 54.015.000 84.000.000 187.515.000

2 Phần chi 19.583.000 18.333.000 23.167.000 61.083.000

3 Thu- Chi 29.917.000 35.682.000 60.833.000 126.432.000

Hai là: Dịch vụ cung ứng đầu vào tuy có khó khăn nhưng hợp tác xã dịch vụ

cũng đã góp phần giải quyết tốt hơn khi làm riêng lẻ.

Vai trò của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Vũ Hòa:

- Về giống, hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp ký hợp đồng với Công ty TNHH

An Đình cung cấp giống lúa ĐS1 cho các hộ xã viên. Về phân bón, phân NPK hợp tác

xã ký hợp đồng mua phân bón chậm trả với các công ty như: Văn Điển, Ninh Bình

39

- Thuốc BVTV, hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp cùng với các công ty

Thuốc Bảo vệ thực vật Trung ương I, bán sản phẩn cho nông dân.

- Các dịch vụ khác: Dịch vụ làm đất HTX DVNN đã chỉ đạo các chủ

phương tiện có máy đẩy nhanh quá trình làm đất.

- Dịch vụ thuỷ lợi, dịch vụ diệt chuột và dịch vụ chuyển giao khoa học kỹ

thuật đều được cán bộ địa phương quan tâm chỉ đạo.

- Hình thức tiêu thụ sản phẩm, hợp tác xã đứng ra ký hợp đồng bao tiêu với

Công ty TNHH An Bình, thu mua toàn bộ lúa ĐS1 mà công ty đã cung cấp

giống cho nông dân.

Ba là: Sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong quá trình triển khai mô

hình thí điểm. Bà Đoàn Thị Kim Tứ, Phó giám đốc Trung tâm Khảo nghiệm,

khuyến nông, khuyến ngư Thái Bình, cho biết, tỉnh đang làm cơ chế, chính sách

cho phát triển mô hình CĐML. Bà Tứ cho biết: "Do vụ này triển khai hơi cập

rập, chưa hỗ trợ được đầu vào cho nông dân, còn đầu ra, tỉnh sẽ kêu gọi doanh

nghiệp mua cho nông dân khi thu hoạch. Vụ mùa tới, tỉnh sẽ hỗ trợ 100% giống,

30% phân bón, liên kết với doanh nghiệp bao tiêu cho nông dân làm CĐML".

Cùng đó, kêu gọi doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu, khuyến nông tham gia cung

ứng vật tư đầu vào, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, đặt hàng và bao tiêu sản phẩm theo hợp

đồng khi nông dân có yêu cầu. Để các mô hình chọn làm thí điểm của tỉnh đạt

các tiêu chí về cánh đồng mẫu, tỉnh Thái Bình đã ban hành một số quyết định về

cơ chế hỗ trợ tổ chức sản xuất xây dựng thí điểm cánh đồng mẫu như: hỗ trợ giá

giống gần 450 triệu đồng (tương ứng với 50% giá giống); hỗ trợ kinh phí để các

mô hình điểm xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng theo cơ chế xây

dựng nông thôn mới của tỉnh với giá trị 25,02 tỷ đồng, nguồn vốn xây dựng gồm

hỗ trợ từ kinh phí của tỉnh và kinh phí đối ứng của địa phương; hỗ trợ kinh phí

tập huấn và in sổ ghi chép đồng ruộng cho nông dân trên 674 triệu đồng, phụ cấp

cho cán bộ chỉ đạo với mức 8181 triệu đồng; tạo điều kiện để các doanh nghiệp,

40

hộ sản xuất được thụ hưởng chính sách ưu đãi về đầu tư, về vay vốn trong lĩnh

vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi để

các doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp cung ứng vật tư, chế biến và tiêu

thụ sản phẩm hợp tác xây dựng cánh đồng mẫu lớn. Đồng thời phân công một số

đơn vị như Chi cục Bảo vệ thực vật, Trung tâm Khuyến nông... và cán bộ trực

tiếp về chỉ đạo các xã xây dựng thí điểm mô hình cánh đồng mẫu[24].

Ngoài ra, tỉnh cũng xây dựng cơ chế chính sách cho các doanh nghiệp

tham gia thực hiện, hỗ trợ tiền giống, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông

dân; đồng thời mời các doanh nghiệp cung ứng vật tư đầu vào, đầu ra để làm

việc và ký ghi nhớ với UBND các xã, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tham gia

thực hiện xây dựng cánh đồng mẫu về việc ứng trước vật tư, phân bón và tiêu

thụ sản phẩm với các hộ nông dân nhằm nâng cao chất lượng nông sản, tăng giá

trị trong chuỗi sản xuất các sản phẩm nông nghiệp...Với 265 xã, thị trấn trong

diện dồn điền đổi thửa và đến nay gần 150 xã đã hoàn thành xong việc dồn điền

đổi thửa, thì đây là điều kiện thuận lợi để Thái Bình triển khai nhân rộng mô

hình cánh đồng mẫu lớn ra các địa phương khác trong tỉnh, góp phần nâng cao

giá trị sản xuất nông nghiệp trong chương trình xây dựng nông thôn mới của tỉnh

những năm tiếp theo[24].

Ở xã Nguyên Xá huyện Vũ Thư: Cán bộ địa phương chỉ đạo nhân dân

thực hiện Việc quy hoạch các vùng sản xuất tập trung đem lại rất nhiều lợi ích

cho nông dân cũng như chính quyền vì đưa cơ giới hóa vào sản xuất, áp dụng

tiến bộ kỹ thuật một cách đồng bộ, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.

hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng, cánh đồng rộng với những thửa ruộng

lớn và hình thức tổ chức sản xuất của nhân dân Nguyên Xá được đổi thay cơ bản

so với trước. Sau dồn điền đổi thửa, hiện nay mỗi hộ nông dân trung bình chỉ

còn 1,6 thửa, không còn tình trạng ruộng đất manh mún. Bờ vùng bờ thửa thẳng

tắp và đủ rộng để máy móc và nông dân thuận lợi đi lại và vận chuyển. Đã có

41

7,4km trong tổng số 10,4km đường trục chính nội đồng được bê tông bề mặt và

14 tuyến kênh mương cấp 1 có chiều dài gần 7km được cứng hóa với tổng kinh

phí 17,5 tỷ đồng. Từ vụ mùa năm 2009, để đảm bảo đưa máy móc vào sản xuất,

xã yêu cầu tất cả các hộ trong vùng thực hiện gieo cấy 1 giống lúa, sản xuất đại

trà một giống cây vụ đông. Về việc cơ giới hóa, Nguyên Xá được Nhà nước hỗ

trợ mua 1 máy cày 35,4 mã lực; 1 máy gặt; 1 máy gieo sạ với tổng số tiền 410

triệu đồng, trong đó Nhà nước đầu tư 300 triệu đồng, hợp tác xã và nhân dân

đóng góp 110 triệu đồng. Ngoài ra, hợp tác xã còn đầu tư 311 triệu đồng mua 1

máy gặt, 1 máy cày, bà con cũng chủ động mua 8 máy gặt đập liên hợp và 8 máy

cày lớn để phục vụ sản xuất[32].

Trong quá trình thực hiện, dự án “Cánh đồng trạm bơm Lò Ngói” ở xã Vũ

Hòa cũng nhận được sự hỗ trợ từ các cấp chính quyền, sự quan tâm chỉ đạo và đầu tư

của Tỉnh, huyện, xã. Một số cán bộ kỹ thuật và cán bộ các cấp được cử làm công tác:

- Điều tra, nắm rõ đặc điểm về đất đai, tập quán canh tác của vùng

- Tìm hiểu những thông tin mới nhất về KHCN để áp dụng vào sản xuất

- Xây dựng quy trình sản xuất phù hợp với từng giống cây trồng và thời

vụ sản xuất.

- Tập huấn kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ KHCN về giống, phân bón, công thức luân

canh cây trồng phù hợp với đất đai vùng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

- Tổ chức sản xuất, điều tra, theo dõi, chỉ đạo mô hình.

- Đưa ra một số giải pháp nhằm huy động nguồn vốn thực hiện mô hình :

Vốn của các hộ gia đình, cá nhân kết hợp với huy động vốn của các tổ chức tập

thể, các doanh nghiệp và vốn nhà nước…để hỗ trợ giống lúa, giống khoai tây,

phân bón, thuốc BVTV, chế phẩm sinh học, KHCN và tiêu thụ sản phẩm…

Bên cạnh đó, vấn đề quy hoạch giao thông thuỷ lợi nội đồng cũng được

hỗ trợ từ ngân sách của tỉnh. Quy hoạch hệ thống thuỷ lợi và giao thông nội đồng

42

cánh đồng mẫu tuân thủ quy hoạch hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng mà Uỷ

ban nhân dân huyện Kiến Xương phê duyệt tháng 6/2012.

Uỷ ban nhân dân xã Vũ Hoà đã tổ chức dồn điền đổi thửa năm 2011. Tỉnh

đã huy động và hỗ trợ nguồn vốn nhằm quy hoạch nội đồng, mương máng phục

vụ tưới tiêu. Nhằm quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, thuận lợi

cho áp dụng cơ giới hoá vào sản xuất (đưa máy gặt, mạ khay, máy cấy, máy cày,

bừa, gieo xạ…). Giảm được chi phí sản xuất, giảm sức lao động, tăng năng suất,

hạ giá thành; hệ thống tưới tiêu đảm bảo cho cây trồng; tăng vụ sản xuất trong

năm, từ đó tăng thu nhập trên 1 đơn vị diện tích; hình thành vùng sản xuất chuyên

canh, tạo ra lượng sản phẩm hàng hóa tập trung, tăng giá trị của sản phẩm nông

nghiệp, đáp ứng nhu cầu thị trường.

Bên cạnh những kết quả đạt được, mô hình còn một số khó khăn, hạn chế, cụ thể:

Một là: Diện tích ruộng bình quân của hộ thấp. Thái Bình, với 1,8 triệu

dân, diện tích nhỏ hẹp bình quân đầu người khoảng 500 m2, những cánh đồng

diện tích hàng trăm ha không phải là không có nhưng số hộ quá đông khó tạo sự

đồng thuận cao trong quá trình triển khai mô hình. Công tác quy hoạch vùng sản

xuất lúa tập trung của Thái Bình vẫn còn manh mún, cho nên vừa khó thực hiện

đồng bộ cơ giới hóa và phòng trừ dịch bệnh cây trồng, vừa giảm hiệu quả khi áp

dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật. Hạ tầng sản xuất như hệ thống tưới tiêu còn

nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất; hệ thống bảo quản, chế biến,

sấy sau thu hoạch gần như chưa có, giao thông nội đồng chưa hoàn thiện, tỷ

trọng cơ giới hóa các khâu sản xuất chưa cao. Hầu hết các hộ nông dân ở Thái

Bình nói chung và 2 xã Nguyên Xá, Vũ Hòa nói riêng có diện tích trồng lúa nhỏ,

manh mún. Đối với xã Nguyên Xá, mô hình chỉ trên dưới 50 ha nhưng có tới 400

hộ nông dân hay xã Vũ Hòa diện tích mô hình là 54,7 ha với 603 hộ. Ông Trần

Văn Tuấn, Chủ nhiệm HTX DVNN Vũ Hòa (Kiến Xương) cho biết: 54,7 ha đất

canh tác trong mô hình cánh đồng mẫu của xã có tới 603 hộ tham gia, có hộ chưa

43

đến 1 sào, nên rất khó khăn trong việc thực hiện những hình thức sản xuất mới

và sản phẩm làm ra chưa đồng đều để đáp ứng doanh nghiệp thu mua Tính chất

manh mún của ruộng đất gây trở ngại cho cơ giới hóa, áp dụng máy móc, công

nghệ vào đồng ruộng, khó hình thành nền sản xuất hàng hóa lớn và khó giải

quyết lao động dôi dư.

Hai là: Không có công ty lớn chế biến, tiêu thụ sản phẩm, gặp khó khăn

trong thu hoạch, bảo quản, chế biến và tiêu thụ. Nguyên nhân do tổng sản lượng

nông sản chưa đủ lớn để doanh nghiệp có tiềm lực vào liên kết thu mua, chế

biến; doanh nghiệp nhỏ lại không đủ khả năng tài chính để đầu tư sản xuất, thu

mua. Không phải vụ thu hoạch nào nông sản cũng được công ty tham gia ký kết

tiêu thụ toàn bộ. Tính riêng trên địa bàn xã Nguyên Xá, một số điểm hạn chế của

mô hình khi triển khai là hiện nay, toàn xã có 8.000 sào, chia bình quân 1.1

sào/khẩu, năng suất đạt bình quân hơn 2 tạ/sào, 1 vụ thu hoạch 1600 tấn, người

dân chỉ sử dụng hết 800-900 tấn, số còn lại được nông dân tiêu thụ nhỏ lẻ như

bán lại cho các tư thương với mức giá thấp, như vậy không đảm bảo thu nhập

phù hợp với sức lao động của người dân. Mối liên kết 4 nhà, nhất là sự liên kết

giữa doanh nghiệp cung ứng vật tư, thu mua nông sản với nông dân chưa được

chặt chẽ; nông dân luôn ở thế bị động, bởi không có quyền định giá lúa và hình

thức thu mua. Trong toàn tỉnh Thái Bình, những HTX quy vùng sản xuất cung

cấp thóc ổn định cho doanh nghiệp từ 100 đến 150 ha chỉ đếm trên đầu ngón tay,

còn lại phổ biến đạt từ 30 đến 50 ha một con số quá nhỏ so với hơn 1 triệu tấn

thóc nông dân Thái Bình sản xuất mỗi năm[19]. Có thể thấy rõ hơn tình hình tiêu

thụ nông sản còn nhiều hạn chế trên địa bàn tỉnh Thái Bình thông qua một số tư

liệu cụ thể sau: Toàn xã Thái Thành (Thái Thụy) có 437 ha đất canh tác, sản

lượng thóc trung bình mỗi vụ đạt từ 2.700 đến 3.000 tấn, trong đó khoảng 30%

phục vụ nhu cầu lương thực của người dân[19]. Nhằm giúp nông dân tiêu thụ

sản phẩm, HTX đã ký hợp đồng cấy 30 ha lúa giống cho Công ty CP Giống cây

44

trồng Thái Bình nhưng tối đa mỗi vụ công ty chỉ tiêu thụ khoảng 200 tấn, lượng

còn lại bán ra thị trường, thời gian qua giá lương thực xuống thấp, việc tiêu thụ

rất khó khăn nên bà con chưa thực sự yên tâm sản xuất. Bên cạnh đó, người

nông dân Thái Bìnhhiện vẫn nặng tư tưởng sản xuất tự cung, tự cấp, chưa có thói

quen tìm hiểu và đón đầu thị trường nên đành chấp nhận thực trạng sản phẩm

làm ra tiêu thụ bấp bênh, may rủi. Khả năng tiếp cận nguồn vốn, tổ chức sản xuất

theo hướng liên kết và những kiến thức cơ bản về pháp luật trong hoạt động kinh

tế của người nông dân còn hạn chế. Vì vậy có tình trạng không ít nông dân đã ký

hợp đồng rồi nhưng khi thu hoạch giá sản phẩm trên thị trường cao hơn nên tự

bán lúa ra ngoài thị trường, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Ngược lại, cũng có

doanh nghiệp dù đã ký hợp đồng với nông dân rồi nhưng vì một số lý do đến

mùa vụ cũng không mua sản phẩm của nông dân khiến nhiều hộ thất vọng. Cả

doanh nghiệp thu mua nông sản và các HTX ở Thái Bình còn gặp khó khăn khi

vay vốn đầu tư phát triển sản xuất bởi thiếu các điều kiện: có dự án kinh doanh

khả thi, có tài sản thế chấp. Dù được chính quyền địa phương hỗ trợ triển khai

mô hình, sản lượng lúa tăng so với sản xuất đại trà nhưng đầu ra cho sản phẩm

nông nghiệp còn bế tắc, không ký kết được hợp đồng với công ty thu mua sản

phẩm, nông dân vẫn canh cánh nỗi lo được mùa mất giá. Nông sản bị ép giá vì

thương lái mua đi bán lại. Nếu không giải quyết được những vướng mắc này thì

sẽ không thể khuyến khích nông dân yên tâm xây dựng cánh đồng mẫu lớn.

Ba là: Cán bộ kỹ thuật hỗ trợ cho nông dân tại địa phương còn thiếu về số

lượng, yếu về chuyên môn; tập quán canh tác của nông dân còn lạc hậu. Là đơn

vị làm thành công CĐML ở miền Nam, nhưng khi đưa mô hình này ra Bắc, Cty

CP Bảo vệ thực vật An Giang gặp không ít khó khăn. Ông Nguyễn Viết Sáu, Phó

Ban điều hành chương trình "Cùng nông dân ra đồng” của công ty cho biết, công

ty không đặt nhiều tham vọng làm mô hình khép kín ở Thái Bình, là cung cấp

giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, kỹ thuật và bao tiêu đầu ra mà bước đầu,

45

chỉ mong chuyển giao được quy trình kỹ thuật canh tác, giúp nông dân ghi chép

nhật ký đồng ruộng, tạo thói quen sử dụng một loại giống, nâng cao năng suất,

giảm các chi phí, công lao động. Nông dân chưa tiếp cận nhiều với quy trình sản

xuất lúa theo VietGAP, trình độ nông dân không đồng đều nên việc tiếp thu tiến

bộ kỹ thuật bị hạn chế, nhận thức về sản xuất cây trồng an toàn chưa được nâng

cao; việc ghi chép nhật ký sản xuất là một yêu cầu quan trọng nhưng chưa được

nông dân quan tâm đúng mức. Trong quá trình triển khai, mô hình nhận được sự

hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật của công ty Bảo vệ thực vật An Giang gửi ra và

trung tâm khuyến nông Thái Bình, còn cán bộ xã chưa được đào tạo bài bản,

chưa đủ trình độ chuyên môn để đảm nhiệm vai trò hướng dẫn nông dân thực

hiện dự án. Những hạn chế nói trên đang gây trở ngại cho việc hoàn thiện và

nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn ở tỉnh Thái Bình.

46

Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH

“CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”

3.1 NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI NHÂN RỘNG MÔ

HÌNH “CÁNH ĐỒNG MẪU LỚN”

3.1.1 Những thuận lợi

Phải xuất phát từ tình hình cụ thể của từng vùng để chọn mô hình thích

hợp, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình triển khai, nhất là từ khả năng tiêu

thụ nông sản. Ở đồng bằng Nam bộ việc thực hiện mô hình có nhiều thuận lợi

hơn so với miền Bắc.

Từ thực tiễn của những cánh đồng mẫu lớn ở An Giang cho thấy những

thuận lợi sau:

Một là, có những công ty chế biến, xuất khẩu gạo và các nông sản. Một

trong những nguyên nhân quyết định sự thành công của việc triển khai mô hình

“cánh đồng mẫu lớn” tại An Giang là có sự tham gia nhiệt tình của Công ty cổ

phần Bảo vệ thực vật An Giang. Công ty đã xây dựng một số nhà máy xay sát

lúa gạo, có hệ thống sấy, hệ thống băng chuyền, kho chứa đảm bảo các dịch vụ

khép kín từ cung cấp các yếu tố đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật canh tác đến hỗ trợ

vận chuyển, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm cho các nông hộ.

Hai là, bình quân diện tích đất của mỗi hộ lớn, ở đồng bằng Nam bộ bình

quân đạt từ 0,5 đến 2,4ha/ hộ, cánh đồng bằng phẳng, nên mỗi cánh đồng mẫu lớn

có diện tích từ 300-500 ha thuận tiện cho việc cơ giới hóa, làm đất, gieo sạ, thu

hoạch [9].

Ba là, giao thông vận tải thuận tiện. Ở miền Nam có nhiều kênh rạch,

sông ngòi, vận chuyển thóc gạo theo đương thủy thuận lợi, khí hậu có độ ẩm

thấp, dễ bảo quản, dễ đưa nông sản đến các cảng để xuất khẩu

47

Bốn là, có đội ngũ cán bộ kỹ thuật chất lượng cao để hướng dẫn nông dân

đưa công nghệ mới vào sản xuất, thực hiện các biện pháp thâm canh tổng hợp “3

giảm, 3 tăng” để nâng cao hiệu quả kinh tế, tạo ra vùng nguyên liệu chất lượng

cao phục vụ xuất khẩu.

Năm là, được sự quan tâm và ủng hộ của chính quyền các cấp từ tỉnh đến

xã, tạo điều kiện thuận lợi để công ty hoàn thành dự án của mình cùng với sự tin

yêu, quí mến và hợp tác của bà con nông dân.

3.1.2 Những khó khăn khi nhân rộng cánh đồng mẫu lớn

Từ thực tế khảo sát kết quả triển khai mô hình “Cánh đồng mẫu lớn” tại

Thái Bình, có thể rút ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến kết quả của việc

thực hiện mô hình còn nhiều hạn chế

Một là: Thiếu những công ty chế biến và tiêu thụ nông sản đóng vai trò

chủ động xây dựng cánh đồng mẫu lớn để liên kết 4 nhà (Nhà nước, nhà nông,

nhà khoa học và nhà doanh nghiệp) được coi là chìa khóa thành công. Giữa

doanh nghiệp và nông dân gặp nhiều khó khăn do hai bên chưa có sự hài hòa,

chia sẻ lợi ích và rủi ro nên không xây dựng được mối liên kết chặt chẽ. Nhiều

doanh nghiệp vẫn muốn duy trì cách thức mua lúa qua thương lái, các nhà máy

chế biến cũng ít ký hợp đồng ràng buộc trách nhiệm với nông dân. Người nông

dân luôn ở thế yếu vì không có quyền quyết định giá. Nông dân vẫn loay hoay

với việc trồng cây gì, nuôi con gì để đảm bảo đầu ra ổn định. Hiện tại, có một số

doanh nghiệp thu mua lúa nhưng quy mô nhỏ không có năng lực tăng lượng thu

mua do thiếu nguồn nhân lực, phương tiện (máy sấy, kho chứa, xay xát..), nguồn

vốn và hệ thống thu mua. Một số doanh nghiệp cũng tích cực tham gia, đang đầu

tư xây dựng hệ thống kho chứa, sấy, chế biến, nhưng vẫn phải bán sản phẩm

thông qua một doanh nghiệp xuất khẩu khác. Phương thức phổ biến hiện nay của

các doanh nghiệp là mua sản phẩm thông qua thương lái từ nhiều nguồn khác

nhau, dẫn đến sản phẩm không cùng một giống, không cùng thời điểm thu hoạch,

48

cách phơi sấy, chế biến… chưa đảm bảo chất lượng gạo. Hiện nay, cánh đồng mẫu

lớn chỉ mới dừng ở việc tổ chức sản xuất, còn việc giải quyết đầu ra vẫn bế tắc. Hợp

đồng kinh tế về thu mua sản phẩm của doanh nghiệp với đại diện hộ nông dân còn

mang tính nguyên tắc, chưa có tính pháp lý cao.

Hai là: Bình quân diện tích/hộ thấp, gây trở ngại cho cơ giới hóa

Cả nước hiện có tới 70 triệu mảnh ruộng, bình quân mỗi mảnh từ 300- 400m2, trong đó mỗi hộ có tới 7-10 mảnh ruộng[4]. Sự manh mún này đang cản

trở cơ giới hóa nông nghiệp và áp dụng khoa học kỹ thuật, nên không tận dụng

được tính kinh tế theo quy mô lớn và giảm hiệu quả sản xuất. So với miền Nam,

bình quân diện tích đất thấp, manh mún, nhỏ lẻ. Thực tế cho thấy, mặc dù việc dồn

điền đổi thửa đã được tiến hành từ nhiều năm nay nhưng kết quả đạt được rất thấp,

do đó chưa áp dụng được quy trình sản xuất hàng hóa theo tiêu chuẩn GAP. Thị

trường lúa gạo phía Bắc chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước hoặc xuất khẩu tiểu

ngạch. Phần lớn các hộ nông dân có diện tích trồng lúa nhỏ, ruộng đất manh mún,

sản xuất lúa theo hướng tự cung tự cấp, chưa có hướng sản xuất hàng hóa theo quy

mô lớn. Bên cạnh đó, do lo ngại mất quyền sử dụng đất nên nông dân chưa tự

nguyện góp đất, phá bờ thửa để tham gia mô hình, điều này gây khó khăn trong việc

đưa máy móc vào đồng ruộng.

Ba là: Trình độ nông dân không đồng đều nên việc tiếp thu tiến bộ kỹ

thuật bị hạn chế, nhận thức về sản xuất cây trồng an toàn chưa cao, việc ghi chép

nhật ký sản xuất là yêu cầu quan trọng nhưng chưa được nông dân quan tâm

đúng mức. Nhìn chung, mô hình "Cánh đồng mẫu lớn" đã góp phần thúc đẩy

nông dân tự nguyện dồn điền đổi thửa, quy hoạch thiết kế lại đồng ruộng, cải tạo

nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng thủy lợi, giao thông nội đồng. Qua đó, nhà

nông từng bước tiến tới sản xuất hàng hóa nông sản theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện cho việc phân công lại lao động trong sản xuất

nông nghiệp. Tuy nhiên, mô hình "Cánh đồng mẫu lớn ở các tỉnh phía Bắc còn

gặp nhiều trở ngại. Đa số nông dân chưa có kinh nghiệm sản xuất tập trung. Số

49

hộ nông dân tham gia trong mỗi mô hình còn quá nhiều so với diện tích canh tác.

Nông dân còn thụ động trong việc xử lý các giải pháp kỹ thuật mặc dù đã được

tập huấn, còn lệ thuộc vào tập thể và trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Tập

quán làm ăn tư hữu, nhỏ lẻ vẫn ăn sâu trong nếp nghĩ và cách làm của người

nông dân, cho nên việc gieo cấy một giống lúa, chăm sóc, bảo vệ thực vật...

trong cùng một thời điểm gặp nhiều khó khăn. Không ít hộ còn băn khoăn, nếu

khi trồng cùng một giống lúa mà được mùa thì bán cho ai? Việc ghi chép sổ tay

nhật ký đồng ruộng cũng chưa nghiêm túc. Phần lớn nông dân đều ít vốn, sản

xuất phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng. Do đó, ngay sau khi thu hoạch người

nông dân phải bán lúa tại ruộng để trả nợ, tái sản xuất mặc dù giá lúa bán rẻ.

Ngay cả những hộ gia đình không bị áp lực nợ nần nhưng do gặp khó khăn trong

việc phơi, sấy cũng buộc phải bán lúa tươi.

Bốn là: Nguồn kinh phí đào tạo còn ít ỏi, đội ngũ cán bộ kỹ thuật từ huyện

đến cơ sở còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng nên khó khăn cho việc

đào tạo, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân.

Năm là: Hệ thống cơ sở hạ tầng còn kém, giao thông và thủy lợi chưa

thuận tiện. Ví dụ ở Thái Bình, muốn xuất khẩu gạo phải chuyên chở bằng đường

bộ duy nhất là đường số 10 ra cảng Hải Phòng, không những chi phí vận chuyển

cao mà còn vấp phải tình trạng lượng nông sản chưa đủ giao thì số gạo tạm lưu

kho đã bị mốc vì không có kho chuyên dụng, độ ẩm ở miền Bắc lại cao.

3.2 NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NHÂN RỘNG MÔ HÌNH “CÁNH ĐỒNG

MẪU LỚN”

3.2.1 Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi các công ty chế biến

và tiêu thụ nông sản để họ tích cực và trực tiếp chủ trì việc xây dựng cánh

đồng mẫu lớn

Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo trong việc hoàn thiện thể chế hợp

đồng kinh tế ký kết giữa nông dân với doanh nghiệp, nhà khoa học nhằm giảm

đến mức thấp nhất việc phá vỡ hợp đồng trong mô hình “cánh đồng mẫu lớn.

50

Nhà nước cần có chính sách ưu đãi cụ thể về đất đai, về thuế, về tín dụng, tạo

điều kiện để doanh nghiệp đủ nguồn lực để tham gia liên kết.

Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về tín dụng cho các doanh nghiệp

tham gia xây dựng cánh đồng mẫu lớn. Cần khuyến khích các ngân hàng thương

mại, các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn

để triển khai dự án nông nghiệp với lãi suất ưu đãi, thời gian dài, thủ tục nhanh

gọn, chính sách cho vay tín dụng ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất trong một thời gian

nhất định để doanh nghiệp cũng như các tổ chức của nông dân có đủ vốn mua

máy móc, thiết bị, vật tư, phương tiện đồng bộ phục vụ sản xuất, chế biến nông

sản theo quy trình công nghệ tiên tiến, tránh cắt xén quy trình công nghệ vì thiếu

vốn đầu tư dẫn đến không phát huy tốt hiệu quả của công nghệ, thiết bị mới.

Chính sách cho vay vốn thông qua phương án sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp bằng tín chấp, đặc biệt cho vay mua sắm các phương tiện làm dịch vụ sản

xuất. Biện pháp để giải quyết vấn đề vốn cho nông nghiệp, nông thôn và nông

dân chính là tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho khu vực này thông qua xác

lập cơ chế thực thi đơn giản và rõ ràng để rút ngắn khoảng cách giữa chính sách

với thực tế. Đồng thời xây dựng cơ chế bảo lãnh tín dụng cho tam nông thay vì

phải cầm cố hay nộp giấy sử dụng đất. Nhà nước chỉ đạo hình thành mạng lưới

tín dụng cho nông dân rộng khắp cả nước nhằm cung cấp vốn kịp thời cho nông

dân. Hiện nay, một cơ sở kinh doanh được vay tối đa 500 triệu đồng, hộ gia đình

được vay 20 triệu đồng với lãi suất ưu đãi. Đây là điều kiện thuận lợi cho phát

triển sản xuất kinh doanh và tạo việc làm trong nông thôn.

Tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, hoạt

động, mở tài khoản giao dịch và các thủ tục hành chính khác, quy định, thông tư

hướng dẫn tạo sân chơi lành mạnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển

bằng cách bỏ hạn điền và thời hạn sản xuất, nông dân nếu có khả năng thì cho họ

mở rộng diện tích sản xuất, nếu làm không hiệu quả Nhà nước có thể thu hồi

51

đồng thời có cơ chế quản lý chặt chẽ để tránh các hành vi lợi dụng vào mục đích

khác; có những biện pháp hỗ trợ kịp thời, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

tiếp cận được các gói hỗ trợ của Nhà nước như hỗ trợ vốn, hỗ trợ lãi suất.

Ban hành các chỉ thị, văn bản và kế hoạch quốc gia nhằm hỗ trợ địa phương,

doanh nghiệp xây dựng và quản lý hệ thống thương lái thu mua lúa, hình thành hiệp

hội hoặc tổ chức tương đương các nhà thu mua lúa, hoạt động và vận hành hài hòa

với nông dân sản xuất và doanh nghiệp tiêu thụ. Sản xuất và hỗ trợ vốn cho các

Trung tâm, tổ hợp tác, tổ nhân giống sản xuất giống lúa cấp xác nhận cung cấp

cho vùng cánh đồng mẫu lớn. Doanh nghiệp cần được hỗ trợ kinh phí đối với

dịch vụ bảo vệ thực vật cho người sản xuất. Còn điều khoản doanh nghiệp khi

tham gia cánh đồng mẫu lớn sẽ được hỗ trợ kinh phí tập huấn khuyến nông dạy

nghề cho hộ nông.

Cần có chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một số

năm đầu (kể từ khi doanh nghiệp phải chịu loại thuế này). Rà soát và quy định

thống nhất về ưu đãi thuế, chuyển ưu đãi thuế theo hướng ưu đãi sau đầu tư (ưu

đãi về thuế suất, miễn, giảm thuế) sang hướng ưu đãi trực tiếp cho các doanh

nghiệp đầu tư. Bổ sung nông nghiệp nông thôn vào lĩnh vực nhận ưu đãi về thuế,

áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% từ 15 đến 30 năm đối với các doanh nghiệp

thay vì thuế suất 20% đến 25% đối với doanh nghiệp, kể cả Hợp tác xã có tổng

doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng. Đề nghị miễn giảm thuế đối với doanh

nghiệp mới được cấp giấy phép kinh doanh từ 1 đến 3 năm. Việc giảm thuế suất

đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ là một bước thực hiện chiến lược cải cách

thuế đến năm 2020, bởi đây là nhóm đối tượng chiếm số lượng lớn, cũng là loại

hình doanh nghiệp thu hút phần lớn lực lượng lao động, tạo việc làm cho xã hội

cũng là nhằm tạo điều kiện hình thành, phát triển thành doanh nghiệp lớn trong

tương lai. Áp dụng hình thức bán hàng miễn thuế cho nông dân, khi họ sử dụng

các dịch vụ phục vụ cho sản xuất đầu vào. Có cơ chế miễn thuế giá trị gia tăng,

52

tạo động lực cho nhà doanh nghiệp và nông dân tham gia mô hình hoặc cơ chế

khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với những hàng hóa, dịch vụ mà các

nhà doanh nghiệp đã sử dụng để cung cấp cho nông dân. Đối với các thiết bị

máy móc chế biến nông sản công nghệ cao mà trong nước chưa sản xuất được,

phải nhập khẩu thì cần coi đó là các phương tiện chuyên dùng (chứ không phải là

hàng hóa tiêu dùng) để được miễn thuế nhập khẩu, tạo tài sản cố định của doanh

nghiệp ( như tại khoản 5 Điều 6 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 đã

quy định).

Tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp tục thực hiện Nghị định số

108/2006/NĐ – CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ về quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư được miễn, giảm thuế sử dụng đất, tiền

thuê đất và tiền thuê mặt nước. Áp dụng chính sách một giá thuế hoặc chính sách

miễn thuế đối với các nhà doanh nghiệp thuê đất xây dựng nhà máy sấy, kho chế

biến nông sản. Trong thời hạn thuê đất, nhà doanh nghiệp được thế chấp giá trị

quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thời hạn thuê tại các tổ chức

tín dụng hoạt động tại Việt Nam để vay vốn thực hiện dự án theo quy định của

pháp luật. Sớm xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách chủ động, kịp thời và

đồng bộ trong việc triển khai thực hiện "Cánh đồng mẫu lớn" từ Trung ương đến

tỉnh, huyện, xã và phù hợp với điều kiện của từng vùng sinh thái, từng địa

phương. Sớm đưa những điều bổ sung vào Nghị định 210 đi vào thực tiễn. Ví dụ

như, hỗ trợ của nhà nước về đất đai, nhà đầu tư có dự án nông nghiệp đặc biệt ưu

đãi đầu tư nếu được Nhà nước giao đất thì được miễn tiền sử dụng đất đối với dự

án đầu tư đó; nếu thuê đất, thuê mặt nước của Nhà nước thì được miễn tiền thuê

đất, thuê mặt nước kể từ ngày dự án hoàn thành đi vào hoạt động; nếu thuê đất,

thuê mặt nước của hộ gia đình, cá nhân để thực hiện dự án đầu tư đó thì được

Nhà nước hỗ trợ 20% tiền thuê đất, thuê mặt nước cho 5 năm đầu tiên kể từ khi

hoàn thành xây dựng cơ bản; nằm trong quy hoạch của cơ quan nhà nước có

53

thẩm quyền phê duyệt được miễn nộp tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử

dụng đất để thực hiện dự án như nhà đầu tư được miễn tiền sử dụng đất nếu có

dự án nông nghiệp đặc biệt ưu đãi đầu tư.

Khuyến khích các hộ góp quyền sử dụng ruộng đất vào sử dụng tập thể để

giảm chi phí dịch vụ làm đất, gieo xạ, tưới tiêu và thu hoạch bằng các chính

sách bảo hộ, quy hoạch quỹ đất nông nghiệp ổn định, bỏ quy định về thời hạn,

thay vào đó thực hiện giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng

ổn định lâu dài giúp người nông dân yên tâm đầu tư vốn, khoa học - kỹ thuật

trong quá trình tích tụ, tập trung đất nông nghiệp. Có chính sách bảo vệ đất nông

nghiệp bằng cách thực hiện chính sách quy hoạch và chuyển dịch đất đai hợp lý.

Diện tích đất trồng lúa được tính toán trong phạm vi bảo đảm an ninh lương

thực. Muốn làm được mô hình này thì chính ngành nông nghiệp các địa phương

phải đi đầu, đứng ra quy hoạch, vận động nhân dân và hình thành bộ máy quản

lý phù hợp. Mặt khác cần thực hiện chính sách dồn điền, dồn thửa trên cơ sở xây

dựng tiêu chí phân loại đất đai, hệ số quy đổi, tiến hành giao quyền sử dụng đất

nông, nghiệp để các hộ gia đình chủ động đầu tư sản xuất, thực hiện chính sách

sang, nhượng, cho thuê quyền sử dụng đất để có cơ hội tập trung ruộng đất. Thời

gian giao đất ổn định sản xuất lâu dài nên thống nhất cả đất cây lâu năm và nuôi

trồng thủy sản là 50 năm. Có chính sách khuyến khích hộ gia đình có vốn, có

điều kiện sản xuất không nhất thiết phải là người địa phương nhận thuê, sang

nhượng quyền sử dụng đất để phát trển sản xuất nông sản.

Hoàn thiện chính sách và mở rộng bảo hiểm cho nông nghiệp để giảm thiểu

rủi ro cho người dân và doanh nghiệp đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn.

Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 1/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ, Nhà nước

sẽ hỗ trợ 100% phí bảo hiểm cho hộ nông dân, cá nhân nghèo sản xuất nông

nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp; hỗ trợ 80% cho hộ nông dân, cá

nhân cận nghèo sản xuất nông nghiệp tham gia thí điểm bảo hiểm nông nghiệp

54

và 60% cho hộ nông dân, cá nhân không thuộc diện nghèo, cận nghèo sản xuất

nông nghiệp tham gia thí điểm. Đưa quyết định đi vào thực tế một cách có hiệu

quả, bằng cách tuyên truyền cho người dân nắm rõ chính sách và lợi ích của việc

tham gia bảo hiểm nông nghiệp.

3.2.2 Có chính sách phù hợp giải quyết việc làm cho lao động dôi dư

của các hộ

Một là: Do tham gia cánh đồng mẫu lớn, nhờ việc áp dụng nhiều tiến bộ

khoa học công nghệ vào đồng ruộng nên chi phí nhân công giảm, số lao động

trong hộ dư thừa. Mặt khác, trong nông thôn lao động trồng trọt có tính chất thời

vụ nên hiện tượng thiếu việc làm thể hiện rất rõ. Để hạn chế vấn đề này cần đẩy

mạnh thâm canh tăng vụ, lựa chọn công thức luân canh hợp lý và đa dạng hóa

các sản phẩm nông nghiệp, phát triển các ngành phi nông nghiệp ở nông thôn.

Thực hiện tốt các chủ chương chính sách của Nhà nước trong chương trình quốc

gia giải quyết việc làm trong đó có Quyết định số 1956/QĐ- TTg của Thủ tướng

chính phủ ngày 27/11/2009 về đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến

năm 2020. Theo chuơng trình này, đến năm 2020 sẽ đào tạo nghề cho 1 triệu lao

động nông thôn mỗi năm. Đây là chương trình lớn tạo cơ hội thuận lợi cho lao

động nông thôn trong những năm tới.

Hai là: Phát triển kinh tế khu vực ở cấp huyện nhằm thúc đẩy sự chuyển

dịch lao động dư ngay tại chỗ. Có chính sách, kế hoạch đào tạo người nông dân

có kiến thức, có văn hóa, tác phong công nghiệp và có kỹ năng lao động tốt, có

khả năng thích ứng và đáp ứng yêu cầu lao động trong các ngành phi nông

nghiệp, họ có thể tham gia vào lao động trong nhiều lĩnh vực phi nông nghiệp,

cũng có thể vừa tham gia lao động nông nghiệp kết hợp với phi nông nghiệp, mở

ra nhiều cơ hội việc làm cho nông dân, tạo điều kiện tăng thu nhập, giảm thất

nghiệp, ít lao động dư. Hỗ trợ và khuyến khích người lao động học nghề, tự tạo

việc làm, xuất khẩu lao động như: Trích lập Quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm địa

55

phương từ ngân sách tỉnh; thành lập mới và đầu tư nâng cấp hệ thống trường dạy

nghề, các trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp tại các vùng và các huyện, thành

thị, nâng cao năng lực các cơ sở giới thiệu việc làm.

Ba là: Chú trọng đến các biện pháp, chính sách nhằm duy trì và mở rộng

các làng nghề tiểu thủ công nghiệp, các tổng đội thanh niên xung phong xây

dựng kinh tế và các trang trại nông- lâm- ngư trên địa bàn để tạo nhiều việc làm

tại chỗ cho người lao động. Cụ thể là, Hội Nông dân các huyện, cơ sở phối hợp

với nhiều ngành và có nhiều hình thức hỗ trợ nông dân như: chủ động liên kết

với các cơ quan, đơn vị, cơ sở sản xuất để tổ chức dạy nghề và cung ứng lao

động; tư vấn việc làm, đồng thời tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của

hội viên nông dân về các chính sách hỗ trợ học nghề, lợi ích của việc học nghề,

tạo niềm tin cho hội viên nông dân mạnh dạn đầu tư, áp dụng kiến thức để mở

rộng sản xuất nâng cao thu nhập. Bám sát mục tiêu, định hướng phát triển kinh

tế xã hội và phát triển nguồn nhân lực của địa phương để có kế hoạch đào tạo

ngắn hạn với giải quyết việc làm, đẩy mạnh công tác thông tin, tư vấn, hướng

nghiệp công tác xã hội hoá dạy nghề, đa dạng các hình thức dạy nghề. Định

hướng cho người lao động tự chọn ngành nghề phù hợp. Tổ chức cho nông dân

tham quan học tập các mô hình hay, có kế hoạch hỗ trợ vốn, vật tư, cây con

giống cho học viên sau khi học nghề. Phát huy vai trò sức mạnh của tổ chức hội

nông dân trong công tác dạy nghề, góp phần tăng nhanh số lượng và chất lượng

đào tạo nghề cho lao động nông thôn cung cấp nguồn nhân lực có tay nghề cao

phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Bốn là: Thúc đẩy sự lưu động của nông dân hướng tới các thành thị một

cách hợp pháp, thúc đẩy việc cải cách đồng bộ thành thị và nông thôn, loại bỏ

các rào cản của thể chế về việc làm, cư trú và bảo hiểm khi người nông thôn đến

thành thị làm việc. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nông dân, giải quyết các nội

dung liên quan của vấn đề nông dân làm công gồm một số chính sách như:

56

- Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, nới lỏng chính sách, cải cách chế

độ hộ khẩu, cư trú cho nông dân vào thành phố làm việc.

- Kiện toàn mạng lưới dịch vụ công ở thành thị và nông thôn, cung cấp miễn phí

tư vấn chính sách pháp luật, chế độ làm việc, giới thiệu nghề nghiệp cho nông dân.

- Xây dựng chế độ đảm bảo tiền lương và tiền lương tối thiểu đối với nông

dân làm công cũng như chế độ an sinh xã hội cho họ, tăng cường bảo hiểm y tế cho

nông dân, giải quyết tốt các vấn đề học hành, đào tạo nghề cho con em nông dân.

- Ban hành các chính sách bảo hộ nông dân, coi giải quyết vấn đề nông

dân lên thành phố làm công là giải pháp quan trọng để thay đổi kết cấu nhị

nguyên giữa thành thị và nông thôn.

- Xây dựng các nguyên tắc đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho nông dân làm

công như đối xử công bằng, tăng cường dịch vụ, hoàn thiện quản lý, quy hoạch

tổng thể giải quyết theo tình hình cụ thể của từng địa phương.

Năm là: Hỗ trợ người lao động đi làm việc nước ngoài và các khu công

nghiệp trong nước. Điều tra và giám sát tình hình thị trường lao động trong và

ngoài nước nhằm giúp đỡ lao động nông thôn trong tỉnh tìm được việc làm ổn

định và hiệu quả. Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá, thông tin sâu rộng làm ổn

định, tạo lòng tin cho người lao động về tình hình thị trường, về chính sách,

quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong xuất khẩu lao động;

tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có uy tín, có tư cách pháp nhân về tỉnh tuyển

lao động, giáo dục định hướng tạo nguồn cho xuất khẩu lao động theo yêu cầu

của thị trường. Các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển mô hình liên kết

xã, phường, thị trấn với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Tổ chức các Phiên

giao dịch việc làm vừa và nhỏ. Quan tâm tuyển chọn, cung ứng nguồn lao động

có chất lượng...Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động được giới thiệu tập trung

làm tốt công tác giáo dục định hướng, dạy nghề, ngoại ngữ và giải quyết kịp thời

các vướng mắc, rủi ro (nếu có) trong quá trình thực hiện hợp đồng đưa lao động

57

đi làm việc ngoài nước. Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng nông nghiệp và

phát triển nông thôn, các cơ sở tín dụng chuẩn bị đủ vốn vay cho số lao động khi có

hợp đồng đi làm việc nước ngoài, đồng thời thông báo rộng rãi, phổ biến rõ các thủ

tục cho người lao động được vay vốn xuất khẩu lao động được thuận tiện.

3.2.3 Có chính sách thu hút nguồn nhân lực phục vụ sản xuất nông

nghiệp, đào tạo cán bộ kỹ thuật từ nhân lực của hộ

Sự phân bổ nguồn lực không hợp lý sẽ gây khó khăn cho sự phát triển của

ngành vì vậy các công ty chủ trì việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn thu hút lao

động trẻ từ các hộ vào đào tạo thành công nhân sử dụng các máy móc trong nhà

máy, máy nông nghiệp và thành cán bộ kỹ thuật hướng dẫn nông dân làm theo

đúng quy trình canh tác, thành lập một số trung tâm dịch vụ cơ giới hóa nông

nghiệp ở các vùng sản xuất trọng điểm để hỗ trợ nông dân. Cần có chính sách đào

tạo lại lao động cho những vùng đưa công nghệ cao vào nông nghiệp. Nếu doanh

nghiệp đứng ra đào tạo trực tiếp thì phải có chính sách hỗ trợ kinh phí nhất định

cho doanh nghiệp.

Đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực nông

nghiệp có chất lượng tốt để đảm bảo các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu

quả, đầu tư xây dựng chương trình đào tạo toàn diện và đồng bộ từ cán bộ quản lý

đến đội ngũ lao động trong ngành. Giải pháp đầu tư về đào tạo có thể được thực

hiện đồng bộ giữa Nhà nước- doanh nghiệp – và cá nhân người lao động (có thể

tranh thủ nguồn tài trợ quốc tế trong các chương trình hợp tác về đào tạo). Thực

hiện đầy đủ và nghiêm túc chính sách cán bộ từ quy hoạch, tuyển dụng, sắp xếp, sử

dụng và quản lý đến đãi ngộ, tiêu chuẩn hóa cán bộ… chú trọng từng bước trẻ hóa

đội ngũ cán bộ, ưu tiên sử dụng cán bộ là con em trong tỉnh.

Để đáp ứng các mục tiêu đào tạo nhân lực, phát triển nông nghiệp và nông

thôn thì cần phải quy hoạch hợp lý hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các

viện nghiên cứu đủ mạnh, đủ khả năng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển

58

giao công nghệ, cung ứng nhân lực trình độ cao, có khả năng dẫn dắt nông

nghiệp theo hướng hàng hóa, công nghệ cao. Một số biện có thể được áp dụng

như: Các chương trình đào tạo khối ngành nông nghiệp cần phải đánh giá, tham

khảo các chương trình đào tạo của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến, phát

triển chương trình theo hướng hiện đại nhưng phù hợp với điều kiện thực tiễn ở

Việt Nam; thiết kế lại chương trình đào tạo với hình thức đào tạo theo tín chỉ,

tăng số lượng các môn tự chọn; tăng cường thu hút sinh viên theo học ngành

nông nghiệp, bằng cách có các hình thức hỗ trợ học phí cho sinh viên, , tuyển

dụng hoặc giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra trường và chính sách phụ cấp

lương cho đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật làm việc trực tiếp tại nông thôn. Bộ

Giáo dục đào tạo yêu cầu các trường đại học, cao đẳng, trong đó có các trường

khối nông - lâm - ngư nghiệp công bố chuẩn nghề nghiệp sinh viên cần phải đạt

được sau khi tốt nghiệp ra trường ở mỗi trình độ, ngành đào tạo. Đồng thời xây

dựng một website cho các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp chia sẻ, trao đổi thông

tin về năng lực đào tạo của các trường, nhu cầu nhân lực, việc làm của doanh

nghiệp. Ngoài hệ thống đào tạo công lập, cần khuyến khích phát triển hệ thống

ngoài công lập theo hướng xã hội hoá đào tạo nghề. Phải xây dựng được mối liên

kết giữa doanh nghiệp và cơ sở dạy nghề. Điều quan trọng là phần lớn người lao

động nông thôn còn nghèo, không có điều kiện kinh phí để theo học các lớp đào

tạo. Nên hỗ trợ cho người học nghề bằng cách hoặc là đóng tiền trước cho người

lao động họ sẽ trả dần sau khi ra trường và có công ăn việc làm, hoặc Nhà nước

cho họ vay vốn để học nghề và họ sẽ trả dần theo từng giai đoạn.

Mở lớp đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý, rà soát, đánh giá thực trạng

hoạt động của các cơ sở đào tạo nghề để chỉ đạo khắc phục những yếu kém, hạn

chế. Các cơ sở không thể đào tạo theo những gì mình có mà phải theo nhu cầu

thị trường lao động và của doanh nghiệp. Các cơ sở đào tạo nghề phải thay đổi

cách thức giảng dạy là dạy nghề để làm thợ, làm được việc chứ không phải tiếp

59

tục đào tạo một lớp “thầy” chỉ biết đến lý thuyết theo cách này, nhà trường cần

cử giáo viên theo học các lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn tại các cơ sở đào tạo

nghề có uy tín trong nước theo hướng “cầm tay chỉ việc”, bảo đảm mở các lớp

nghề để học viên ra trường có thể làm được việc ngay, đáp ứng yêu cầu của nhà

tuyển dụng.

Tổ chức trao đổi kinh nghiệm về chỉ đạo tổ chức giữa các vùng, các tỉnh

cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ. Tập trung hỗ trợ các HTX nâng cao năng

lực điều hành sản xuất kinh doanh, thực hiện các khâu dịch vụ;tạo điều kiện thúc

đẩy thành lập các hiệp hội, tổ hợp tácđể tập hợp nhiều thành viên cùng liên kết

sản xuất và tiêu thụ nông sản cho nông dân. Đẩy mạnh tuyên truyền, tập huấn

KHKT, tổ chức hội nghị đầu bờ nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy, cách nghĩ

và cách làm, tính kỷ luật của nông dân đối khi tham gia mô hình sản xuất hàng

hóa. Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, lớp tập huấn cho nông dân về

những kỹ thuật canh tác, áp dụng khoa học kỹ thuật vào quá trình trồng lúa cũng

như kiểm soát quy trình sản xuất. Tạo điều kiện cho các cán bộ kỹ thuật được

tiếp cận những tiến bộ khoa học kỹ thuật của các nước tiên tiến. Lập hàng rào kỹ

thuật cho những nông sản nhập khẩu vào Việt Nam, giúp ổn định giá cả của lúa

gạo trong nước, giúp bà con nông dân yên tâm về đầu ra cho nông sản của mình,

từ đó ngày càng chú trọng đến chất lượng sản phẩm mình tạo ra.

3.2.4 Các cánh đồng mẫu lớn cần tăng cường mối liên kết với các nhà

khoa học để có những loại giống lúa tốt cho sản xuất

Giải pháp về nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật là giải pháp quan

trọng có ý nghĩa chiến lược đối với mỗi ngành kinh tế, trong đó có nông nghiệp,

đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi hàm lượng khoa học và công nghệ trong

mỗi sản phẩm ngày càng cao. Các cánh đồng mẫu lớn chủ động đặt hàng với các

nhà khoa học, các viện nghiên cứu để có giống mới phù hợp thổ nhưỡng, khí

hậu, cho năng suất cao, chất lượng tốt, phương pháp bảo vệ thực vật hiệu quả,

60

những công nghệ bảo quản mới… để có thể đưa hàng hóa đi xa. Công nghệ sinh

học quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm, nhà khoa học phải thực hiện

nghiên cứu kỹ thuật sản xuất, lai tạo giống mới chất lượng, chuyển giao khoa

học cho nông dân. Chính phủ khuyến khích, hỗ trợ thành lập các trung tâm

nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ về khoa học-kỹ thuật trong nông nghiệp, đặc

biệt chú trọng đến việc chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi có ưu thế, phù hợp

với từng vùng thổ nhưỡng. Kiên trì tuyên truyền, vận động người dân học hỏi,

nâng cao kiến thức, kỹ năng trong sản xuất nông nghiệp; tăng cường công tác

bảo hiểm xã hội, giải quyết tốt vấn đề về vốn và nợ, thiết lập các hệ thống đảm

bảo rủi ro cho nông dân.

Mô hình này cũng cần có sự tham gia trực tiếp hướng dẫn và chỉ đạo kịp

thời, thường xuyên của các nhà khoa học và cán bộ quản lý. Cần nghiên cứu, đưa

ra giải pháp tăng sản lượng, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm nông

nghiệp. Cần nghiên cứu và chuyển giao quy trình kỹ thuật canh tác công nghệ

cao và hiệu quả cho nông dân; đưa máy móc, công cụ phù hợp với từng đối

tượng cây trồng và điều kiện canh tác của nông thôn miền núi vào sản xuất để

nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm; chuyển giao công nghệ chế

biến và bảo quản nông sản sau thu hoạch cho nông dân để nâng cao giá trị hàng

hoá của sản phẩm. Đằng sau các chủ thể là doanh nghiệp và hộ nông dân, việc

triển khai thành công mô hình “cánh đồng mẫu lớn” còn có sự đóng góp to lớn

của các nhà khoa học nông nghiệp và chế biến, bảo quản nông sản. Họ tạo ra

công nghệ mới, những tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp và chế biến,

bảo quản nông sản để nhà nông và nhà doanh nghiệp nông dụng, nhằm mang lại

hiệu quả kinh tế – xã hội ngày càng cao cho cả nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà

khoa học, nhà nước và toàn xã hội. Các nhà khoa học giữ vai trò quan trọng

trong việc tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất trong quá trình triển

khai mô hình “cánh đồng mẫu lớn”. Để làm được điều này, việc áp dụng khoa

61

học kỹ thuật vào sản xuất là vấn đề cấp thiết cần được chú trọng đầu tư. Các nhà

quản lý, nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn, để khoa

học và công nghệ thực sự trở thành “động lực”, “nền tảng”, “quốc sách hàng

đầu” cho sự phát triển”. Các cấp, các ngành, các địa phương cần quan tâm nhiều

hơn để đẩy mạnh hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ, tăng cường đầu

tư tiềm lực mọi mặtvà có sự phối hợp tốt với Bộ Khoa học và Công nghệ trong

chỉ đạo, để hoạt độngkhoa học và công nghệ đạt hiệu quả cao. Để nâng cao hiệu

quả sản xuất nông nghiệp, đời sống cho nông dân và thay đổi bộ mặt nông thôn

hiện nay, cần có chính sách gắn kết công nghiệp với nông nghiệp, công nghiệp

phải phục vụ nông nghiệp, đưa dịch vụ về nông thôn, đa dạng hóa ngành nghề ở

nông thôn để một mặt, công nghiệp hóa nông nghiệp, cung cấp máy móc cho

nông nghiệp, chế biến sản phẩm của nông nghiệp, giải quyết vấn đề thừa lao

động trong nông nghiệp, mặt khác, tăng thêm cơ hội cho người dân nâng cao đời

sống của mình. Áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đã được khẳng định trong mô hình

cánh đồng mẫu lớn như các giống có năng suất cao, chất lượng tốt; áp dung biện

pháp phòng trừ sau bệnh tổng hợp IMP, biện pháp ba giảm, ba tăng; một phải

năm giảm trong nông nghiệp; áp dụng cơ giới hóa trong thu hoạch… nhằm nâng

cao hiệu quả sản xuất. Khuyến khích, giám sát chặt chẽ việc giao các đề tài nghiên

cứu khoa học về máy nông nghiệp, hỗ trợ một phần kinh phí cho các doanh

nghiệp phối hợp với các nhà khoa học, người nông dân tìm tiếng nói chung giữa

nhà khoa học, nhà sản xuất và nông dân. Ứng dụng các giải pháp khoa học - công

nghệ trong chọn tạo giống cây trồng thích ứng với điều kiện đất đai, khí hậu của

các vùng, giống cây trồng chống chịu sâu bệnh, cho năng suất cao và chất lượng

tốt theo từng tiểu vùng sản xuất của vùng. Bên cạnh đó là các giải pháp hỗ trợ kỹ

thuật, bao gồm các kỹ thuật chăm sóc cây trồng như bón phân, phun thuốc…với

mục đích giảm giá thành sản xuất, ứng dụng cơ giới hóa, công nghệ sau thu

hoạch cho các cây trồng cạn đã chọn theo từng tiểu vùng sản xuất.

62

Lấy hiệu quả, sản phẩm, sức cạnh tranh, thương hiệu của sản phẩm nông

nghiệp làm tiêu chí đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học công nghệ. Khoa

học công nghệ đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò then chốt,

trách nhiệm của các nhà khoa học là tích cực nghiên cứu, tổng kết, khắc phục và

cải thiện chất lượng của hoạt động sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn và

nâng cao đời sống người nông dân. Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện

cho các ban ngành tổ chức hội nghị. Như các cuộc hội nghị do Ủy ban Khoa học,

Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức, với sự tham gia của các đại biểu là

chuyên gia, nhà khoa học có uy tín, các doanh nghiệp tiêu biểu, hộ nông dân sản

xuất giỏi và đại diện một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là “đầu tàu”

trong nghiên cứu khoa học ứng dụng tạo cơ hội tốt để tập hợp một cách khoa học

trí tuệ, kinh nghiệm của các đại biểu thuộc các lĩnh vực, ngành nghề, các nhà

nghiên cứu, đóng góp các ý kiến có chất lượng phát triển khoa học công nghệ

phục vụ công tác xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn của Đảng, Nhà

nước đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới. Các nhà khoa học, cơ quan quản lý

cần tiếp tục đánh giá đúng thực trạng, nhiều chiều, cả về chất và lượng vai trò,

tác động của khoa học công nghệ, của đội ngũ nhà khoa học đối với nông

nghiệp, nông dân và nông thôn, hình thành đội ngũ các nhà khoa học chuyên

sâu, cần tạo điều kiện cho các nhà khoa học được nghiên cứu suốt đời về một đối

tượng cụ thể, bên cạnh đó, đề ra các giải pháp và hướng đi cụ thể, phù hợp với

tình hình mới của đât nước trong thời gian tiếp theo. Ngoài ra, các cánh đồng

mẫu lớn mua các loại bảo hiểm cho cây trồng vật nuôi và cho người lao động

như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội…

63

3.2.5 Tổ chức cánh đồng mẫu phù hợp với khả năng tiêu thụ, lựa chọn

hợp tác xã liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo khi chưa có sự liên kết với

công ty lớn

Việc đầu tư vào nông nghiệp có xác suất rủi ro khá cao bởi phụ thuộc quá

nhiều vào thiên nhiên là trở ngại khiến các nhà đầu tư vào lĩnh vực này còn hạn

chế, vì vậy số lượng các công ty có quy mô như công ty Bảo vệ thực vật An

Giang là không nhiều. Để nông nghiệp đi lên sản xuất lớn đòi hỏi phải có sự

tham gia tích cực của các doanh nghiệp, trên thực tế khi chưa nhận được các gói

dịch vụ từ doanh nghiệp thì nên tổ chức cánh đồng mẫu quy mô vừa sao cho phù

hợp với khả năng tiêu thụ đồng thời lập các tổ chức của nông dân như hợp tác

xã, tổ hợp tác xã làm cầu nối giữa nông hộ và doanh nghiệp và nhà khoa học để

nhân dân đồng thuận thực hiện đề án sản xuất trên cánh đồng mẫu lớn. Theo đó,

hợp tác xã phải có kế hoạch cụ thể và phát huy vai trò của mình trong mọi công

việc đặc biệt là công tác tuyên truyền, thuyết phục nhân dân. Muốn vậy, hợp tác

xã phải ký kết được hợp đồng với doanh nghiệp bao tiêu để nhận loại giống có

sức chống chịu môi trường và sâu bệnh tốt, cho sản lượng cao, đảm bảo tiêu

chuẩn để cung cấp cho nhân dân đưa vào gieo cấy, phối hợp với các doanh

nghiệp lớn, đủ năng lực để tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch cho nông dân. Cánh

đồng mẫu lớn là một phương thức sản xuất kiểu mới thay thế kiểu sản xuất

truyền thống dựa vào nông hộ cá thể bao đời nay. Các hợp tác xã là lựa chọn tốt

nhất giữ vai trò cầu nối thực hiện các dịch vụ từ khâu sản xuất đến khi chuyển

lúa về kho là mô hình ưu việt mà Hiệp hội Lương thực Việt Nam lựa chọn và

khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện khi liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa

gạo. Phương thức thực hiện là ký hợp đồng thông qua các tổ hợp tác và HTX .

Công ty cũng không cung cấp giống và vật tư nông nghiệp mà chỉ ứng vốn bằng

tiền và đưa ra yêu cầu về giống, chất lượng, số lượng và cam kết bao tiêu sản

phẩm nếu các chỉ tiêu đúng như hợp đồng, việc "giao" cho HTX sẽ giảm bớt

64

gánh nặng cho doanh nghiệp vì doanh nghiệp không đủ nhân lực và kỹ thuật để

thực hiện. Khó khăn chung của các doanh nghiệp thực hiện liên kết là thiếu nhân

sự để thu mua, tiếp nhận, vận chuyển lúa. Xác định giá thu mua với nông dân

vào thời điểm thu hoạch là khó khăn lớn mà doanh nghiệp nào cũng gặp phải.

Hợp tác xã là đại diện của các hộ nông dân, có nhiệm vụ cung ứng đầu vào cho

sản xuất và ký kết hợp đồng tiêu thụ với các doanh nghiệp. HTX sẽ hạn chế

nhược điểm là mỗi nông dân có diện tích nhỏ, khó tập hợp, bên cạnh đó HTX sẽ

thực hiện tất cả những dịch vụ giữa nông dân và doanh nghiệp từ đầu vào sản

xuất, thu hoạch cho đến khi lúa vào kho và cả thu tiền về cho xã viên.

3.2.6 Có cơ chế phân phối lợi ích hài hòa, tăng thu nhập cho người

nông dân và công nhân

Sự phân phối lợi ích giữa 4 nhà là điều kiện để “Cánh đồng mẫu lớn” bền vững

và có thể nhân rộng vì đây là chất kết dính trong mô hình, do đó phải công khai

minh bạch lợi ích giữa các nhà, xây dựng được hệ thống thông tin rõ ràng, nhanh

nhạy sao cho các chủ thể trong khối liên kết này luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.

Phân phối lợi ích hài hòa là động lực để các chủ thể tham gia mô hình “Cánh

đồng mẫu lớn” một cách tích cực và có hiệu quả. Tổ chức kênh phân phối bảo

đảm lợi ích hài hòa, hợp lý của tất cả các chủ thể tham gia vào chuỗi giá trị

ngành hàng, từ người cung ứng đầu vào – sản xuất – chế biến – bảo quản, phân

phối, đến người tiêu dùng cuối cùng. Giúp nông dân biết cách tính toán để giảm

giá thành, giảm các chi phí trung gian và được bao tiêu sản phẩm, tiết kiệm chi

phí sản xuất, hiệu quả sản xuất sẽ ngày càng được nâng cao và đời sống vật chất,

tinh thần không ngừng được cải thiện. Các hoạt động dịch vụ kỹ thuật đi vào bài

bản, được kiểm soát tốt và hỗ trợ kịp thời cho nông dân yên tâm sản xuất. Mặt

khác, doanh nghiệp sẽ nắm được sản lượng lúa hàng hóa lớn, chất lượng cao,

đồng đều, thuận lợi trong việc chủ động nguồn hàng xuất khẩu để xây dựng

thương hiệu uy tín, tạo sức cạnh tranh và bán được giá cao đồng nghĩa với việc,

65

doanh nghiệp phải biết maketing cho nông sản, dù sản xuất hàng hóa với quy mô

lớn hay nhỏ, sản phẩm có chất lượng tốt, phù hợp yêu cầu thị trường... Nhưng

nếu không biết cách bán hàng, giá trị thực tế thu lợi vẫn chỉ ở tiềm năng. Vì vậy

muốn thực sự phát triển chuỗi giá trị nông sản, cần xây dựng và phát huy mối

quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ, trong đó khâu làm thương mại,

maketing trong nông nghiệp đặc biệt quan trọng góp phần làm tăng giá và lượng

hàng nông sản tiêu thụ từ đó làm tăng nguồn thu nhập của doanh nghiệp. Khi lợi

nhuận của công ty tăng cần có chính sách hỗ trợ cho nông dân như tăng giá mua

nông sản, giảm chi phí thuê kho, sấy cho nông dân…

Phân phối lợi ích hài hòa tương ứng với những đóng góp của các chủ thế

trong quá trình triển khai và thực hiện mô hình, đặc biệt là sản phẩm và doanh

thu cho nông dân và doanh nghiệp đứng ra tổ chức. Nông dân là người góp

quyền sử dụng đất, bỏ công chăm sóc trên diện tích lúa đã ký kết, doanh nghiệp

là người đứng ra tổ chức cung ứng toàn bộ đầu vào với giá bằng hoặc thấp hơn

thị trường, chấp nhận cho nông dân thanh toán sau khi bán sản phẩm, doanh

nghiệp đứng ra tiêu thụ toàn bộ số nông sản mà các hộ nông dân sản xuất ra trên

diện tích thực hiện từ mô hình. Trong quá trình thực hiện xây dựng mô hình

“Cánh đồng mẫu lớn” các bên tham gia đều thụ hưởng lợi ích một cách thỏa

đáng, trong đó nông dân được hưởng lợi từ các dịch vụ phục vụ sản xuất, chất

lượng vật tư nông nghiệp và các giá trị tăng thêm cho lúa từ các hoạt động dịch

vụ. Khi lợi ích được đảm bảo một cách hòa hòa sẽ tăng tính gắn kết giữa các bên

tham gia.

Tỉnh và các địa phương cần có chế tài thống nhất xử phạt nghiêm những

đơn vị, cá nhân phá vỡ các hợp đồng tiêu thụ nông sản, kiểm soát doanh nghiệp

khi mua sản phẩm của nông dân, tạo niềm tin cho các đối tượng tham gia liên

kết, góp phần tạo sự bền chặt trong mối "liên kết 4 nhà", thúc đẩy sản xuất phát

triển. Các nhà hoạch định chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học và thực tế, tạo

66

cơ hội cho nông dân tham gia xây dựng chính sách hoặc đề đạt nguyện vọng với

cấp trên, tham khảo ý kiến của nông dân và các tổ chức đại diện của họ. Các nhà

hoạch định chính sách cần phải trực tiếp tiếp xúc với nông dân, gặp gỡ, trao đổi,

tìm hiểu cái họ cần và cái họ thiếu để hoạch định chính sách cho phù hợp với

thực tế. Cách làm này đòi hỏi các cơ quan ban hành chính sách và cơ quan giám

sát việc thực thi chính sách quan tâm đúng mức. Ví dụ, một số chính sách ưu

đãi liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nông dân, như chính sách về đất đai,

vốn vay, hỗ trợ lãi suất, trợ cước, trợ giá vật tư nông nghiệp, thu mua, tạm trữ

nông sản hàng hóa… thay vì doanh nghiệp là đối tượng hưởng lợi chủ yếu thì

nay cần mở rộng và quan tâm hơn nữa đến nhu cầu của nông dân. Nông dân

thật sự là đối tượng để chính sách phục vụ, điều tiết thu nhập cho họ là mục

tiêu quan trọng nhất, chứ không phải các tổng công ty kinh doanh lương thực

nhà nước chiếm vị trí chủ đạo trong tham mưu, hoạch định chính sách lẫn

doanh thu và lợi nhuận.

67

KẾT LUẬN

1. Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,

việc chuyển đổi kinh tế hộ lên sản xuât hàng hoa lớn là một tất yếu, trong đó mô

hình cánh đồng mẫu lớn là hướng đi mang lại hiệu quả kinh tế cao. Việc thực

hiện CĐML đã mở ra hướng phát triển nông nghiệp bền vững theo quy trình sản

xuất lúa hiện đại. Trong quá trình tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh

tế nói chung và nông nghiệp nói riêng cần xây dựng, củng cố phát huy tiềm lực

của mô hình CĐML. Mô hình CĐML xây dựng được vùng nguyên liệu thông

qua việc tăng cường liên kết 4 nhà, sản xuất và tiêu thụ nông sản theo hợp đồng,

chủ động trong sản xuất, từng bước điều tiết và đảm bảo tiêu thụ lúa gạo cho

người dân. CĐML đang giải quyết phần nào bài toán cơ giới hóa sản xuất nông

nghiệp, hình thành vùng hàng hóa xuất khẩu lớn, đảm bảo chất lượng và sự cạnh

tranh trên trường quốc tế.

2. Kinh tế nông hộ có những ưu điểm như, toàn bộ kết quả sản xuất sau khi

trừ khoản nộp thuế và những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, thuộc quyền

định đoạt của hộ, được tự do mua bán trên thị trường nên thu nhập và mức sống

của hộ tăng lên; lợi ích kinh tế nói trên đã kích thích tinh thần tự giác, tự nguyện

lao động và khơi dậy tiềm năng của hộ; kinh tế hộ có thể kết hợp với nghề thủ

công gia đình để tận dụng thời gian nông nhàn, tăng thu nhập. Nhưng đến một

trình độ phát triển nhất định kinh tế nông hộ cũng bộc lộ những nhược điểm như

khó tiếp cận dịch vụ đầu vào của sản xuất; thiếu thông tin về thị trường; trình độ

lành nghề của lao động thấp; thiếu điều kiện bảo quản và chế biến nông sản;

Phần lớn nông hộ chưa được tiếp cận với các dịch vụ bảo hiểm.

Từ thực trạng trên đặt ra yêu cầu tất yếu là phải đưa kinh tế nông hộ lên

sản xuất hàng hóa lớn dưới các hình thức như hợp tác xã, trang trại hoặc liên kết

kinh tế hộ với các doanh nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản hay còn gọi là liên

68

kết bốn nhà bao gồm nhà doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học và nhà nước,

trong đó “cánh đồng mẫu lớn” là mô hình tiêu biểu cho sự liên kết hữu hiệu.

3. Những đặc điểm chủ yếu của mô hình “cánh đồng mẫu lớn” là: Có sự

tham gia tích cực của công ty cung ứng dịch vụ đầu vào cho sản xuất lúa và tiêu

thụ sản phẩm đầu ra; sự đồng thuận cao của các hộ tham gia mô hình, mô hình

nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước và chính quyền địa phương; có sự tham gia

của các nhà khoa học trong việc nghiên cứu và đưa ra những bộ giống có phẩm

chất cao, hướng dẫn nông dân cách gieo trồng và chăm sóc.

4. Việc thí điểm ở Thái Bình tuy đã đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng

vẫn còn nhiều hạn chế do: Diện tích ruộng bình quân của hộ thấp; không có công

ty lớn chế biến, tiêu thụ sản phẩm, gặp khó khăn trong thu hoạch, bảo quản và

tiêu thụ; đội ngũ cán bộ kỹ thuật hỗ trợ cho nông dân tại địa phương còn thiếu về

số lượng, yếu về chuyên môn; tập quán canh tác của nông dân còn lạc hậu.

5. Để nhân rộng cánh đồng mẫu lớn cần thực hiện những giải pháp sau: Một

là, Nhà nước ưu đãi các công ty chế biến và tiêu thụ nông sản để họ tích cực và

trực tiếp chủ trì việc xây dựng cánh đồng mẫu lớn, bằng cách đưa ra các chính

sách ưu đãi cụ thể về đất đai, thuế, tín dụng. Hai là, có chính sách phù hợp giải

quyết việc làm cho lao động dôi dư của các hộ như phát triển ngành phi nông

nghiệp, thúc đẩy sự lưu động của lao động nông thôn hướng tới thành thị, đưa

người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Ba là, có chính sách thu hút nguồn

nhân lực phục vụ sản xuất nông nghiệp, đào tạo cán bộ kỹ thuật từ nhân lực của

hộ bằng những hỗ trợ về học phí, kinh phí đào tạo cho con em trong tỉnh theo

học ngành nông nghiệp, tổ chức tập huấn và trao đổi kinh nghiệm của cán bộ địa

phương với các cùng khác. Bốn là, các cánh đồng mẫu lớn cần tăng cường mối

liên kết với các nhà khoa học để có những loại giống lúa tốt cho sản xuất, chủ

động đặt hàng với các nhà khoa học, viện nghiên cứu để có giống tốt, phù hợp

thổ nhưỡng. Năm là, tổ chức cánh đồng mẫu phù hợp với khả năng tiêu thụ, lựa

69

chọn hợp tác xã liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa gạo khi chưa có sự liên kết với

công ty lớn, thành lập tổ chức của nông dân như hợp tác xã để ký kết bao tiêu

sản phẩm với doanh nghiệp khi doanh nghiệp chưa đủ lớn để thực hiện khâu

khép kín. Sáu là, có cơ chế phân phối lợi ích hài hòa, tăng thu nhập cho người

nông dân và công nhân, khi lợi nhuận doanh nghiệp tăng cần hỗ trợ cho nông

dân về giá đầu vào hoặc đầu ra.

70

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Phạm Anh (2013), Nỗi lo tư duy tiểu nông sau cánh đồng mẫu lớn: Có bị

bệnh thành tích, Báo tiền phong, trang 5

2. Nguyễn Đình Bách (2013), Cánh đồng mẫu lớn – bước ngoặt mới, Thời

báo kinh tế Sài Gòn

3. Báo cáo của Hiệp hội lương thực Việt Nam (24/09/2013), Thị trường lúa

gạo của Đồng bằng sông Cửu Long qua trung tuần tháng 09/2013

4. Bộ NN & PTNT, Đề án (2013), Phát triển mô hình liên kết sản xuất giữa

hộ nông dân với các thành phần kinh tế ở nông thôn giai đoạn 2013 -

2020

5. Chu Văn Cấp, Lê Xuân Tạo (2013), Cánh đồng mẫu lớn ở đồng bằng sông

Cửu Long – mô hình sản xuất hiệu quả, Tạp chí Cộng sản, số 73, trang 41 -43

6. Công ty Bảo vệ thực vật An Giang (2013), Kết quả sản xuất lúa của nông

dân trong vùng nguyên liệu giai đoạn 2010 - 2012

7. Nguyễn Sinh Cúc, Thực trạng nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt

Nam (1976 – 1990), Nxb Thống kê, Hà Nội, 1991

8. Chi cục thống kê tỉnh An Giang (2012), Niên giám thống kê tỉnh An

Giang (2011)

9. Chi cục thống kê tỉnh An Giang (2013), Niên giám thống kê tỉnh An

Giang (2013)

10. Đào Ngọc Dũng, Đỗ Thu Hiên (2013), Cánh đồng mẫu lớn và câu chuyện

liên kết 4 nhà, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội

71

12. Nguyễn Điền (1993), Kinh tế nông hộ nông dân nước ta hiện nay và xu

thế phát triển trang trại gia đình, Tạp chí thông tin lý luận, tháng 5 năm

1993

13. Trần Thanh Giang, Quá trình xác lập và phát triển kinh tế hộ nông dân ở

nước ta trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí nghiên cứu văn hóa

14. Lâm Quang Huyên, Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp,

Nxb Khoa học xã hội, T.p Hồ Chí Minh, 1995

15. Tăng Minh Lộc (2013), Phát triển cánh đồng mẫu lớn trong xây dựng

nông thôn mới, Tạp chí Cộng sản, số 73, tr.42

16. Nguyễn Trí Ngọc (2013), Báo cáo: Kết quả triển khai mô hình “Cánh

đồng mẫu lớn” trong sản xuất lúa của cả nước trong vụ Hè Thu 2011 –

Đông Xuân 2011 – 2012 và định hướng phát triển trong thời gian tiếp

theo, Cục trồng trọt

17. Tân Nguyên (2013), Bảo hiểm nông nghiệp, trợ lực quan trọng cho nông

dân, Liên minh Hợp tác xã Quảng Trị

18. Nghị định 210/2013/NĐ-CP, Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông

nghiệp nông thôn

19. Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình 2011, Cục Thống kê tỉnh Thái Bình

20. Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình 2012, Cục Thống kê tỉnh Thái Bình

21. Phùng Hữu Phú, Hợp tác hóa nông nghiệp ở Việt Nam. Lịch sử, vấn đề và

triển vọng. Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1992

22. Phùng Hữu Phú (1989), Một vài ý kiến về tình hình nông thôn nông

nghiệp nước ta, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 10

23. Sở NN & PTNT Thái Bình (2012), Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện

mô hình cánh đồng mẫu Nguyên Xá – Vũ Thư và Vũ Hòa – Kiến Xương

24. Sở NN & PTNT Thái Bình (2013), Tình hình kinh tế - xã hội giai đoạn

2011 – 2013, mục tiêu và giải pháp chủ yếu giai đoạn 2014 – 2015

72

25. Sở NN & PTNT Thái Bình (2013), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm

2013

26. Lê Văn Tam (2013), Cánh đồng mẫu lớn – hướng đi bền vững cho phát

triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân trên vùng mía đường Lam Sơn,

Tạp chí Cộng sản, số 73, tr.58

27. Nguyễn Công Thành, Một vài suy nghĩ về liên kết 4 nhà trong sản xuất

nông nghiệp, Viện nghiên cứu lúa đồng bằng sông Cửu Long

28. Lê Trọng, Kinh tế hợp tác của nông dân trong kinh tế thị trường, Nxb

Nông nghiệp, Hà Nội, 1994

29. Hoàng Vũ, Đức Trọng (2013), Chuỗi giá trị sản xuất lúa gạo ở An Giang,

Cổng thông tin điện tử An Giang

30. Tổng cục Thống kê (1987), Niên giám thống kê (1988), Nxb Thống kê

31. Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình, Đề án (2012), Xây dựng thí điểm mô

hình cánh đồng mẫu

32. Ủy ban nhân dân xã Nguyên Xá (2009), Chương trình xây dựng nông thôn mới

33. Ủy ban nhân dân xã Vũ Hòa, Đề án(2012), Xây dựng cánh đồng mẫu năm

2012

34. UBND tỉnh Thái Bình, Hội nghị (13/4/2012), Tổng kết mô hình thí điểm

tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp

35. Viện Kinh tế học (1995), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội

Tài liệu tiếng Anh

36. IDS Bullentin January (1991), Vol 22(1), pp.38 (Tập san của trường Đại

học Tổng hợp Su-sec Anh, tr.38, tập 22, số 1 – 1991)

37. Raul Iturna (1990), International Social Science Journal, pp. 114

38. Mc. Gee (1989), Development theory and the elusive Household, Vol 3

73

Tài liệu trên mạng Internet

39. http://daibieunhandan.vn

40. http://www.dangcongsan.vn/cpv/nodules/new

41. http://lienminhquangtri.vn/default.aspx

42. http://www.tapchitaichinh.vn/

74

PHỤ LỤC

Bảng 2.3 Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Đông Xuân 2010 – 2011 ở An Giang

STT Địa bàn Số mô hình Số hộ nông dân Diện tích (ha)

318 723,76 Châu Thành 1 3

31 145,5 Tri Tôn 2 1

76 151,89 Châu Phú 3 2

18 52,1 Tịnh Biên 4 1

443 1.073,25 Tổng khu vực vùng 7

nguyên liệu

Bảng 2.4 Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Hè Thu 2011 ở An Giang

STT Địa bàn Số mô hình Số hộ nông dân Diện tích (ha)

Châu Thành 524 1.129,32 1 4

53 108,27 Châu Phú 2 2

16 42,85 Tịnh Biên 3 1

51 200,10 Tà Đảnh 4 1

40 136,40 Thoại Sơn 5 1

Tổng khu vực vùng 684 1.616,94 9

nguyên liệu

75

Bảng 2.5 Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Thu Đông 2011

STT Địa bàn Số hộ nông dân Diện tích

136,77 62 Châu Phú 1

380,45 152 Châu Thành 2

127,2 52 Thoại Sơn 3

62,8 20 Tịnh Biên 4

41,8 13 Tri Tôn 5

748,82 305 Tổng cộng

Bảng 2.6 Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Đông Xuân 2011 – 2012

STT Địa bàn Số hộ nông dân Diện tích (ha)

1.753 835 Châu Thành 1

768 391 Châu Phú 2

751 146 Tri Tôn 3

244 91 Tịnh Biên 4

3.480 1.463 Tổng cộng

Bảng 2.7 Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Hè Thu 2012

STT Địa bàn Số hộ nông dân Diện tích

1.939 850 Châu Thành 1

664 297 Châu Phú 2

667 160 Tri Tôn 3

329 118 Tịnh Biên 4

3.600 1.435 Tổng cộng

76

Bảng 2.8 Diện tích cánh đồng mẫu lớn vụ Đông Xuân 2012 -2013

STT Địa bàn Số hộ nông dân Diện tích (ha)

1 Châu Thành 1.053 2.358

2 Châu Phú 401 1.131

3 Tri Tôn 178 859

4 Tịnh Biên 105 377

5 An Phú 21 32

6 Thoại Sơn 25 93

4.850 Tổng cộng 1.783

Nguồn: Công ty Bảo vệ Thực vật An Giang 2010-2012

Bảng 2.3 – 2.8: Bổ sung cho phần 2.1Công ty Bảo vệ thực vật An Giang và quá

trình hình thành cánh đồng mẫu lớn

Bảng 2.9 Hiệu quả kinh tế của nông dân khi tham gia mô hình cánh đồng mẫu

lớn ở An Giang

Hạng mục chi phí – Vụ Đông Xuân Vụ Hè Thu 2011 Vụ Thu Đông 2011

thu nhập 2010 -2011

Tổng chi/ha 18.135.406 17.423.962 19.139.851

1.579.118 1.568.406 1.869.006 Giống

965.785 1.547.021 1.714.810 Làm đất

1.328.795 1.319.594 1.588.787 Bơm nước

2.194.443 2.028.493 2.243.610 Chăm sóc

2.585.394 2.345.306 2.505.472 Thu hoạch

4.906.893 5.088.824 5.328.212 Phân bón

Thuốc BVTV 4.354.977 3.546.069 3.889.955

77

Tổng thu/ha 51.397.362 38.101.845 44.701.650

Năng suất (tấn/ha) 8.02 6.02 6.0

Giá bán(đồng/kg) 6.336 6.330 7.468

Lợi nhuận/ha 33.178.622 20.678.125 25.561.799

Giá thành 1 kg 2.263 2.901 3.197

Hè Thu 2012 Thu Đông 2012

Hạng mục chi phí – thu nhập Tổng chi/ha Đông Xuân 2011 – 2012 21.516.638 18.725.136 20.372.383

Giống 2.298.287 1.873.621 2.007.498

Làm đất 1.336.406 1.475.397 1.899.461

Bơm nước 1.288.666 1.458.697 1.656.234

Chăm sóc 2.098.792 2.017.468 2.031.637

Thu hoạch 3.208.410 2.288.546 2.234.190

Phân bón 6.344.961 5.666.551 5.913.893

Thuốc BVTV 4.941.117 3.944.855 4.629.470

Tổng thu/ ha 50.921.464 31.715.086 35.465.948

Năng suất (tấn/ha) 7.56 5.99 5.89

Giá bán (đồng/kg) 6.733 5.306 6.024

Lợi nhuận 29.404.826 12.989.950 15.093.565

(đồng)

Giá thành 1 kg 2.845 3.133 3.460

Nguồn: Công ty Bảo vệ Thực vật An Giang 2010-2012

Bảng 2.9: Bổ sung cho phần 2.2 Những đặc điểm của mô hình “cánh đồng mẫu

lớn” ở An Giang

78

Bảng 2.10 Kết quả đầu tư kinh tế cho dự án (sào360m2) cánh đồng mẫu lớn ở

Vũ Hòa – Kiến Xương – Thái Bình

Đơn giỏ Thành ĐVT Số lượng Chỉ tiêu (đ) tiền(đ)

Lúa xuân: 705.000 Đ

Mạ khay Khay 7 10.000 70.000

130.000 Cấy bằng máy

90.000 Làm đất

Phân bón Kg

4.200 105.000 Bón lót: NPK 25 Kg

11.500 115.000 Bón thúc 10 Kg

10.000 30.000 Thuốc BVTV (lần) 3

120.000 Thu hoạch bằng máy

Dịch vụ phải trả Kg 10 4.500 45.000

Lúa mùa: 660.000 Đ

Mạ khay Khay 7 10.000 70.000

130.000 Cấy bằng máy

90.000 Làm đất

Phân bón Kg

4.200 105.000 Bón lớt: NPK 25 Kg

11.500 115.000 Bón thúc 10 Kg

10.000 30.000 Thuốc BVTV (lần) 3

120.000 Thu hoạch bằng máy

Vụ Đôngg: 834.000 đ

Giống Kg 40 15.000 600.000

Làm đất 40.000

Phân bón Kg

79

Bón lót Kg 20 4.200 82.000

Bón thúc Kg 8 11.500 92.000

Thuốc BVTV (lần) 2 10.000 20.000

Nguồn: UBND xã Vũ Hòa, Kiến Xương, Thái Bình 2011-2012

2.199.000 Tổng

Đầu tư kinh phí 1 sào: 2.199.000đ

Bảng 2.10: Bổ sung cho phần 2.3.2 Những thành tựu và hạn chế của cánh đồng

mẫu lớn thí điểm ở Nguyên Xá và Vũ Hòa

80