intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở Việt Nam giai đoạn 2011-2012

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:76

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài phân tích thực trạng bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 2001-2012. Về việc nghiên cứu thực tiễn Bộ ba bất khả thi ở Việt Nam, đa số các bài nghiên cứu đều chủ yếu sử dụng phương pháp của Aizenman, Chinn và Ito (2008) để tính toán, đo lường các chỉ số trong bộ ba bất khả thi và đưa ra sự lựa chọn chính sách.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở Việt Nam giai đoạn 2011-2012

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---------------------------- VŨ MINH HÀ NGHIÊN CỨU BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 - 2012 Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60.31.12 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
  2. MỤC LỤC Danh mục các chữ viết tắt ------------------------------------------------------------------------------- ii Danh mục các bảng --------------------------------------------------------------------------------------- iii Danh mục các hình vẽ ------------------------------------------------------------------------------------iv Tóm tắt ----------------------------------------------------------------------------------------------------- 01 1. Giới thiệu ----------------------------------------------------------------------------------------------- 02 2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây --------------------------------------------------------------- 05 2.1 Lý thuyết bộ ba bất khả thi --------------------------------------------------------------------- 05 2.2 Những lựa chọn chính sách của bộ ba bất khả thi ------------------------------------------- 08 2.3 Thước đo bộ ba bất khả thi --------------------------------------------------------------------- 11 2.4 Dự trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi --------------------------------------------------------- 18 2.5 Tương quan tuyến tính giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi ----------------------------------22 2.6 Tác động của bộ ba bất khả thi và dự trữ ngoại hối đến lạm phát của nền kinh tế ----23 3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu ----------------------------------------------------------------26 4. Nội dung và kết quả nghiên cứu --------------------------------------------------------------------- 28 4.1 Kết quả tính toán các chỉ số trong bộ ba bất khả thi tại Việt Nam ------------------------28 4.2 Tam giác bộ ba bất khả thi của Việt Nam ----------------------------------------------------34 4.3 Đồ thị kim cương của Việt Nam --------------------------------------------------------------- 35 4.4 Kiểm định tương quan tuyến tính các chỉ số bộ ba bất khả thi tại Việt Nam ----------- 37 4.5 Kiểm định mối quan hệ giữa bộ ba bất khả thi, dự trữ ngoại hối và lạm phát tại Việt Nam ------------------------------------------------------------------------------------------------38 5. Kết luận --------------------------------------------------------------------------------------------------41 Tài liệu tham khảo ----------------------------------------------------------------------------------------- 45 Phụ lục ------------------------------------------------------------------------------------------------------47
  3. ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng phát triển châu Á (The Asian Development Bank) DTNH Dự trữ ngoại hối trừ vàng ES Chỉ số ổn định tỷ giá FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) FED Cục dự trữ liên bang Mỹ (Federal Reserve System) FII Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Indirect Investment) FO Chỉ số hội nhập tài chính GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) IMF Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) MI Chỉ số độc lập tiền tệ NHNN Ngân hàng nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại NHTW Ngân hàng trung ương OER Tỷ giá hối đoái chính thức (Official Exchange Rate) SBV Ngân hàng nhà nước Việt Nam (State Bank of Vietnam) UNCTAD Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (United Nations Conference on Trade and Development) WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization)
  4. iii DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 4.1: Chỉ số ổn định tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Bảng 4.2: Chỉ số độc lập tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Bảng 4.3: Chỉ số hội nhập tài chính của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Bảng 4.4: Kết quả kiểm định mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số bộ ba bất khả thi tại Việt Nam Bảng 4.5: Kết quả kiểm định tác động của bộ ba bất khả thi, dự trữ ngoại hối lên lạm phát tại Việt Nam
  5. iv DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Hình 2.1: Tam giác bộ ba bất khả thi Hình 2.2: Dự trữ ngoại hối/GDP giai đoạn 1980-2010 Hình 2.3: Tam giác bộ ba bất khả thi ở các nước Mexico, Hàn Quốc, Argentina và các nước khác những năm 1990 Hình 4.1: Diễn biến chỉ số ổn định tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Hình 4.2: Biên độ dao động (%) tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Hình 4.3: Diễn biến chỉ số độc lập tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Hình 4.4: Diễn biến lãi suất năm 2011 Hình 4.5: Diễn chỉ số hội nhập tài chính của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Hình 4.6: Các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Hình 4.7: Tam giác bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Hình 4.8: Đồ thị kim cương của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 Hình 4.9: Sự kết hợp giữa các cặp chính sách giai đoạn 2001-2012
  6. 1 Tóm tắt Trong bài nghiên cứu này, tác giả xem xét thực trạng bộ ba bất khả thi ở Việt Nam. Bài nghiên cứu sử dụng thước đo 3 chỉ số bộ ba bất khả thi theo phương pháp của Ito và Kawai (2012) để xây dựng các chỉ số bộ ba bất khả thi ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2012. Tác giả cũng dựa trên mô hình về tương quan tuyến tính của Aizenman, Chinn và Ito (2008) và mô hình về tác động của bộ ba bất khả thi, dự trữ ngoại hối lên lạm phát của Cortuk và Singh (2011) để thực hiện một số kiểm định tương tự cho Việt Nam. Kết quả cho thấy xu hướng chính sách của Việt Nam là ngày càng hướng tới tỷ giá hối đoái linh hoạt, hội nhập tài chính sâu hơn và cố gắng duy trì độc lập tiền tệ ở mức cao. Kết quả cũng khẳng định Việt Nam có những bằng chứng thực nghiệm chứng minh sự đánh đổi giữa các chỉ số trong bộ ba bất khả thi như lý thuyết. Cuối cùng, bài nghiên cứu phát hiện tác động của các chỉ số bộ ba bất khả thi và dự trữ đối với lạm phát của Việt Nam: ổn định tỷ giá, hội nhập tài chính và dự trữ ngoại hối kết hợp với hội nhập tài chính có tác động làm giảm lạm phát. Từ khóa: bộ ba bất khả thi, dự trữ ngoại hối, lạm phát.
  7. 2 1. Giới thiệu 1.1. Lý do chọn đề tài Kể từ khi thực hiện chính sách mở cửa hội nhập quốc tế, và gần đây là sự kiện chính thức gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm 2007, Việt Nam đã từng bước hội nhập sâu rộng vào cộng đồng kinh tế khu vực và quốc tế, từng bước thay đổi trong cấu trúc tài chính, các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô của mình. Bên cạnh những kết quả đạt được thị trường thương mại toàn cầu thì Việt Nam cũng đã và đang phải đối mặt với không ít thách thức do quá trình hội nhập quốc tế mang lại. Sau những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng nhất của thế kỷ 21 trên toàn cầu thì việc điều hành các chính sách vĩ mô theo Lý thuyết bộ ba bất khả thi – giả thuyết rằng một quốc gia duy nhất chỉ có thể đạt được 2 trong số 3 mục tiêu: độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá hối đoái, dòng vốn tự do luân chuyển – lại được đặt ra. Việc điều hành bộ ba bất khả thi ngày càng trở nên quan trọng ở mỗi quốc gia và là vấn đề cần được quan tâm nghiêm túc. Để theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát, tăng trưởng ổn định và bền vững phù hợp với kế hoạch 5 năm 2011-2015 mà chính phủ đã đề ra thì Việt Nam cũng cần lựa chọn một kết hợp các chính sách vĩ mô phù hợp dựa trên khung lý thuyết bộ ba bất khả thi. Chính vì vậy, với đề tài “Nghiên cứu bộ ba bất khả thi ở Việt Nam giai đoạn 2001-2012” sẽ phản ánh rõ hơn thực trạng bộ ba bất khả thi trong các giai đoạn phát triển tại Việt Nam. Từ đó, đưa ra khuyến nghị Việt Nam nên lựa chọn kết hợp nào để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định, bền vững và một số giải pháp thực hiện sự kết hợp đó một cách hiệu quả trong thời gian tới. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu - Đo lường các chỉ số bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 2001-2012 để phản ánh về định lượng các chính sách tiền tệ, tỷ giá và tự do hóa tài chính ở Việt Nam. - Sự phát triển của mẫu hình bộ ba bất khả thi theo thời gian để thấy được sự lựa chọn chính sách bộ ba bất khả thi ở Việt Nam - Bộ ba bất khả thi có tồn tại ở Việt Nam, hay nói cách khác, có hay không sự đánh đổi trong việc lựa chọn chính sách vĩ mô ở Việt Nam?
  8. 3 - Xem xét mối quan hệ giữa dự trữ ngoại hối và bộ ba bất khả thi cũng như tác động của chúng lên lạm phát ở Việt Nam 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về lý thuyết bộ ba bất khả thi và thực tiễn ở Việt Nam giai đoạn 2001-2012, cụ thể là các đối tượng nghiên cứu như sau: - Các chỉ số của bộ ba bất khả thi và DTNH - Tác động của bộ ba bất khả thi, DTNH đến lạm phát. Từ đó có thể chỉ ra đâu là kết hợp tối ưu mà Việt Nam nên hướng đến, cũng như đề ra một số giải pháp giúp cho kinh tế Việt Nam tăng trưởng vững mạnh, ổn định giá trị VND trong thời gian tới. 1.4. Kết cấu của đề tài Chương 1: Giới thiệu Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu truớc đây Chuơng 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu Chuơng 4: Nội dung và kết quả nghiên cứu Chuơng 5: Kết luận 1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Về mặt khoa học: đề tài đã hệ thống lý thuyết bộ ba bất khả thi từ lý thuyết nền tảng đến phiên bản mới của bộ ba bất khả thi, từ đó thấy được tầm quan trọng của mức độ DTNH để ổn định kinh tế vĩ mô. Ngoài ra, cung cấp cho người đọc phương pháp mới trong việc tính các chỉ số của bộ ba bất khả thi được đề xuất bởi Ito và Kawai (2012) nhằm khắc phục những hạn chế của các phương pháp trước đây. Về mặt thực tiễn: đề tài phân tích thực trạng bộ ba bất khả thi của Việt Nam giai đoạn 2001-2012. Về việc nghiên cứu thực tiễn Bộ ba bất khả thi ở Việt Nam, đa số các bài nghiên cứu đều chủ yếu sử dụng phương pháp của Aizenman, Chinn và Ito (2008) để tính toán, đo lường các chỉ số trong bộ ba bất khả thi và đưa ra sự lựa chọn chính sách. Trong khi đó, phương pháp này không phải là không có những hạn chế nhất định về mặt chỉ số cũng như chưa chỉ ra được mối tương quan giữa bộ đôi chính sách được lựa chọn. Chính vì vậy, bài nghiên cứu này đã sử dụng phương pháp mới Ito và Kawai
  9. 4 (2012) nhằm khắc phục được những thiếu sót trong các tính toán của Aizenman, Chinn và Ito (2008) và từ đó có thể đưa ra được cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn cho thực tiễn bộ ba bất khả thi ở Việt Nam, tạo nền tảng cho việc lựa chọn chính sách để thực hiện các mục tiêu tại Việt Nam.
  10. 5 2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây 2.1. Lý thuyết bộ ba bất khả thi Robert Mundell và Marcus Fleming đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc tế vào đầu thập niên 1960, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ cũng như đặt nền móng cho lý thuyết bộ ba bất khả thi. Hai ông đã chỉ ra rằng ở những quốc gia sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để đạt được sự cân bằng bên trong (cân bằng tổng cung – tổng cầu) và cân bằng bên ngoài (cân bằng trong cán cân thanh toán) thì chính sách tiền tệ nên được sử dụng để đạt được sự cân bằng trong cán cân thanh toán và chính sách tài khóa nên được sử dụng để đạt được sự cân bằng trong tổng cung và tổng cầu. Bằng cách giả định chu chuyển vốn là hoàn hảo, Mundell- Fleming (1963) đã chỉ ra rằng chính sách tài khóa phát huy hiệu quả cao trong cơ chế tỷ giá cố định và chính sách tiền tệ có tác dụng mạnh dưới chế độ tỷ giá thả nổi. Điều này có nghĩa, nếu chu chuyển vốn là hoàn hảo thì chính sách tiền tệ hoàn toàn không có hiệu lực nếu chính phủ theo đuổi mục tiêu ổn định tỷ giá nhưng sẽ có hiệu lực cao nếu chính phủ thả nổi tỷ giá. Dựa vào lý thuyết này, các nhà kinh tế học như Krugman (1979) và Frankel (1999) đã phát triển lên thành lý thuyết bộ ba bất khả thi. Lý thuyết bộ ba bất khả thi được phát biểu như một định đề: một quốc gia không thể đồng thời đạt được cùng lúc tỷ giá cố định, hội nhập tài chính và độc lập tiền tệ. Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện chính sách phản chu kì kinh tế. Ví dụ, nếu nền kinh tế có dấu hiệu phát triển nóng, lạm phát tăng cao, chính phủ sẽ tăng lãi suất hoặc (và) thắt chặt cung tiền, tương tự cho trường hợp ngược lại. Nhiều nhà kinh tế tin rằng sự độc lập tiền tệ sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững hơn. Tuy nhiên, vấn đề là trong một thế giới mà giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc, độc lập tiền tệ quá mức có thể là một cái cớ để chính phủ lạm dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong ngắn hạn. Đó là chưa kể, độc lập tiền tệ quá mức có khả năng khiến cho chính phủ phát hành tiền trang trải cho thâm hụt ngân sách. Ổn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của nền kinh
  11. 6 tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ, nhất là đối với những quốc gia có đồng nội tệ yếu. Tất cả cũng đều vì mục tiêu làm cho môi trường đầu tư tốt lên. Tuy nhiên, tỷ giá cố định quá mức cũng có mặt trái của nó. Tỷ giá quá ổn định làm cho chính phủ mất đi một công cụ để hấp thụ các cú sốc bên trong và bên ngoài truyền dẫn vào nền kinh tế. Hội nhập tài chính nghĩa là dòng vốn được tự do ra vào nền kinh tế. Việc này cho phép công dân của nước đó đa dạng hóa tài sản bằng cách đầu tư ra nước ngoài. Nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đem theo các nguồn lực, kinh nghiệm, chuyên môn để đầu tư vào nước đó. Lợi ích của hội nhập tài chính đến từ hai mặt: hữu hình và vô hình. Về mặt hữu hình, lợi ích của hội nhập tài chính giúp quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn. Chúng cũng giúp nhà đầu tư đa dạng hóa đầu tư, nhờ vậy mà họ mới mạnh dạn bỏ vốn vào nền kinh tế, thị trường tài chính nội địa nhờ đó mà cũng phát triển theo. Lợi ích lớn nhất – lợi ích vô hình – mang lại từ hội nhập tài chính là tạo ra động lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và đưa ra chính sách tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập. Mặc dù vậy, hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế những năm gần đây. Hình 2.1: Tam giác bộ ba bất khả thi Nguồn: http://web.pdx.edu/~ito/trilemma_indexes.htm
  12. 7 Hình trên minh họa nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi. Mỗi cạnh tượng trưng cho các mục tiêu tốt nhất, lần lượt là: chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính. Đối nghịch với mỗi cạnh (hay mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách tại các đỉnh. Mục tiêu hội nhập tài chính đối ngược với đỉnh kiểm soát vốn, mục tiêu ổn định tỷ giá đối ngược với đỉnh thả nổi hoàn toàn, mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh liên minh tiền tệ. Mỗi cạnh mô tả một mục tiêu kì vọng của nền kinh tế, tuy nhiên không nền kinh tế nào có thể thực hiện được đồng thời cả ba cạnh của tam giác trên. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bằng một chế độ tỷ giá tương ứng nhưng phải từ bỏ mục tiêu chính sách còn lại: - Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài. - Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, NHTW được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị trường. - Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn đóng hay chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn hoàn toàn. Khi có kiểm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ, và quốc gia có thể thực hiện đồng thời hai mục tiêu này. Đã có không ít các nghiên cứu của các nhà kinh tế học trên thế giới nghiên cứu về bộ ba bất khả thi, trong đó phải kể đến những đóng góp quan trọng của các tác giả Aizenman, Chinn và Ito (2008). Bài nghiên cứu tổng hợp về mối liên hệ giữa độc lập tiền tệ và các biến liên quan bao gồm hơn 100 quốc gia suốt thời kỳ 1970-2006. Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã phát triển một công cụ định lượng mới để xem xét các thành phần của bộ ba bất khả thi, và xác định mức độ tuyến tính của những thành phần này theo cách cho tổng của 3 biến bộ ba bất khả thi là một hằng số, nhằm chứng minh quy luật rằng việc tăng lên của một yếu tố bộ ba bất khả thi sẽ dẫn đến việc giảm đi của hai biến còn lại.
  13. 8 Patnaik và Ajay (2010) đã đánh giá về mức độ hội nhập tài chính và sự linh hoạt của tỷ giá ở 11 nước Châu Á: Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ, Philipines, Taipei, Indonesia (Châu Á - 11). Tác giả cho rằng trên thực tế hầu hết các quốc gia thuộc Châu Á - 11 đều tăng mức độ hội nhập tài chính (trên lý thuyết là kiểm soát vốn) trong khi tỷ giá hối đoái vẫn duy trì tương đối ổn định. Việc mở cửa tài khoản vốn quá nhanh trong khi mức độ linh hoạt của tỷ giá chưa cao có thể dẫn đến những rủi ro cho các quốc gia này. Đó là khi cần phải theo đuổi mục tiêu tỷ giá, các NHTW đôi khi phải thực hiện chính sách tiền tệ đồng chu kỳ (mà lẽ ra vai trò của chính sách tiền tệ phải là phản chu kỳ kinh tế) – hay nói một cách khác không thể thực thi một chính sách tiền tệ độc lập. Ngoài ra, tính ổn định của tỷ giá sẽ triệt tiêu động cơ quản trị rủi ro tài chính cũng như sự phát triển của thị trường các công cụ phái sinh. Nói một cách khác, Patnaik và Ajay cho rằng Châu Á - 11 cần để cho tỷ giá linh hoạt hơn đồng thời với cải cách và nâng cao hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ trong lộ trình hội nhập tài chính. Taguchi và cộng sự (2011) đã tiếp cận bộ ba bất khả thi ở một góc nhìn khác: độc lập tiền tệ được xem là biến trung tâm trong mối quan hệ với các biến còn lại của bộ ba bất khả thi và DTNH. Nghiên cứu của ông đặc biệt quan trọng trong bối cảnh độc lập tiền tệ đang ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với các quốc gia mới nổi ở Châu Á và Mỹ Latinh hiện nay. Mục tiêu căn bản của chính sách tiền tệ đó là thúc đẩy tăng trưởng, việc làm bằng cách ổn định giá cả, tuy nhiên, với xu hướng gia tăng hội nhập tài chính mạnh mẽ, độc lập tiền tệ còn đóng vai trò đảm bảo cho sự ổn định của hệ thống tài chính các quốc gia này. Taguchi và cộng sự (2011) đã xây dựng mô hình kiểm định độc lập tiền tệ trong mối tương quan với các biến số bất khả thi khác đối với các nước mới nổi ở Châu Á và Mỹ Latinh trong 2 thập kỷ gần đây cũng như kiểm định vai trò của DTNH trong việc góp phần gia tăng độc lập tiền tệ hay không. 2.2. Những lựa chọn chính sách của bộ ba bất khả thi Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay khi mà hội nhập tài chính là điều tất yếu, có 3 sự lựa chọn cơ bản của bộ ba bất khả thi mà các nước hướng đến đó là: (1) tỷ giá cố định và hội nhập tài chính; (2) tỷ giá thả nổi và hội nhập tài chính và (3) chế độ trung gian.
  14. 9 (1) Tỷ giá cố định và hội nhập tài chính Với mục đích tạo ra cái neo danh nghĩa để củng cố niềm tin của thị trường vào giá trị đồng nội tệ và kiềm chế lạm phát, tỷ giá cố định kết hợp với hội nhập tài chính có lẽ là một sự lựa chọn tối ưu cho các quốc gia đang phải đối mặt với một tỷ lệ lạm phát cao, đặc biệt là đối với những quốc gia mà niềm tin của thị trường vào những cái neo danh nghĩa khác đã bị mất tín nhiệm; ví dụ như cái neo kỉ luật tài khóa không được chính phủ xem trọng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi mà tình trạng vô kỷ luật tài khóa quá nghiêm trọng, nguyên nhân của lạm phát xuất phát từ những cú sốc trong nguồn cung (giá nguyên liệu, lương thực tăng lên), hoặc cung tiền gia tăng quá mức, nhất là để tài trợ cho những chương trình chi tiêu của chính phủ thì cái neo danh nghĩa của tỷ giá cũng khó lòng giúp quốc gia đó có thể kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô. Với sự lựa chọn chính sách này, rõ ràng chính phủ đã mất đi tính độc lập trong việc thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ nên chỉ còn trông chờ vài tác dụng của chính sách tài khóa để thực hiện chính sách phản chu kì trong điều kiện thâm hụt ngân sách không phải là vấn đề làm đau đầu các nhà làm chính sách của quốc gia. Tuy nhiên, đối với những quốc gia mà thâm hụt ngân sách trở nên dai dẳng thì chính sách tài khóa phản chu kỳ cũng bị giới hạn rất nhiều. Điển hình là khu vực đồng tiền chung EU. EU đã chọn mục tiêu ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính: mỗi quốc gia từ bỏ khả năng sử dụng chính sách tiền tệ của mình, NHTW châu Âu (ECB) đã thiết lập lãi suất cho toàn bộ khu vực sử dụng đồng Euro. Cuộc khủng hoảng nợ ở Hy Lạp năm 2010 là một minh họa cho thấy cái giá phải trả cho sự lựa chọn này. Khi tình hình quốc gia này quá xấu, chính phủ đã không thể sử dụng chính sách tiền tệ để giải quyết những vấn đề riêng cho quốc gia của mình. Trong trường hợp này, chính phủ Hy Lạp chỉ còn cách thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng bằng chính sách tài khóa khắc nghiệt để giải quyết cuộc khủng hoảng nợ công. (2) Tỷ giá thả nổi và hội nhập tài chính Với sự lựa chọn này, tỷ giá thả nổi sẽ giúp chính phủ có thể chủ động sử dụng những công cụ chính sách tiền tệ phản chu kì, và tất nhiên tỷ giá lúc này không còn là cái neo danh nghĩa và vì vậy, nền kinh tế có thể rơi vào cái bẫy lạm phát nếu bản thân chính
  15. 10 sách tiền tệ không đủ mạnh để tạo ra cái neo danh nghĩa. Giải pháp cho vấn đề này là tùy thuộc vào chính sách lạm phát mục tiêu và tính độc lập của NHTW. Ví dụ Mỹ là quốc gia điển hình. Bất kỳ công dân Mỹ nào cũng dễ dàng gửi tiền ra nước ngoài, chẳng hạn gửi cho một quỹ đầu tư tương hỗ quốc tế hoặc mua chứng khoán tại Mỹ. FED hầu như sử dụng tối đa công cụ chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu kép là góp phần tạo việc làm và ổn định giá cả, để thoát ra khủng hoảng kinh tế toàn cầu bằng các chương trình bơm ngàn tỷ USD vào nền kinh tế. Tuy nhiên kết quả của quyết định này là sự bất ổn của giá trị USD trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, nếu dòng vốn đổ vào quá mức, nhất là chảy vào thị trường chứng khoán và bất động sản sẽ dẫn đến tỷ giá thực được định giá quá cao (đồng nội tệ lên giá) sẽ dẫn đến thâm hụt tài khoản vãng lai và dẫn đến nguy cơ khủng hoảng một khi dòng vốn đảo chiều. Chính sách tỷ giá ít linh hoạt cùng với việc định giá thấp đồng nội tệ có thể gia tăng xuất khẩu tiến đến sự gia tăng trong tiết kiệm và đầu tư nhằm tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, sự sụp đổ của chế độ tỷ giá thả nổi khó tránh khỏi khi gặp phải một cú sốc từ cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực tác động xấu đến hệ thống tài chính, tăng tỷ lệ lạm phát và méo mó nguồn lực của quốc gia, chính vì vậy mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, nhiều khi việc đánh đổi của chính sách tỷ giá thả nổi để có được độc lập tiền tệ không mang lại kết quả mà quốc gia mong muốn. (3) Chế độ trung gian Chế độ trung gian có thể hiểu là: một cơ chế tỷ giá linh hoạt tức tỷ giá thả nổi có quản lý, kết hợp với mức tự chủ tương đối về tiền tệ, và tự do hóa tài chính nhưng không quên kiểm soát vốn. Nghĩa là chính phủ sẽ thực hiện một số biện pháp kiểm soát dòng vốn nhằm tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ cũng như triển khai chính sách tỷ giá một cách chủ động. Chẳng hạn với mục tiêu kiềm chế lạm phát, NHTW sẽ giảm cung tiền hoặc tăng lãi suất, nhưng với động thái gia tăng lãi suất sẽ làm dòng vốn nước ngoài đổ vào nhiều hơn, điều đó sẽ làm cho đồng nội tệ tăng giá. Khi đó chính phủ sẽ áp đặt những biện pháp kiểm soát dòng vốn vào, để giữ cho tỷ giá ổn định hoặc thông qua việc kiểm soát vốn chính phủ vẫn có thể chủ động để cho tỷ giá dao động trong một biên độ nhất định. Để đạt được những mục tiêu đó, bên cạnh việc chính phủ
  16. 11 cần có những công cụ kiểm soát dòng vốn một cách hiệu quả và tự chủ, thì đòi hỏi phải có một kho DTNH đủ lớn để chống lại những cú sốc khi dòng vốn đảo chiều đột ngột gây ra những thay đổi bất lợi về tỷ giá. Tất nhiên, kiểm soát vốn cũng có cái giá phải trả do dòng vốn có thể chuyển hướng sang các quốc gia khác có cơ chế thu hút vốn thông thoáng hơn. Một ví dụ điển hình và thành công trong việc sử dụng chế độ trung gian trong điều hành kinh tế là nước láng giềng Trung Quốc. NHTW Trung Quốc có nhiều điều kiện để thực hiện chính sách tiền tệ khá độc lập và duy trì kiểm soát chặt chẽ đối với tỷ giá đồng nhân dân tệ. Để đạt được điều này, Trung Quốc phải hạn chế dòng vốn quốc tế, bao gồm cả việc hạn chế công dân Trung Quốc chuyển tài sản ra nước ngoài. Trước sức ép của cộng đồng quốc tế về việc định giá thấp đồng nhân dân tệ để tăng cạnh tranh, Trung Quốc cũng đã nhượng bộ một phần bằng cách để cho đồng nhân dân tệ lên giá, nhưng kèm theo đó là tăng lãi suất để kìm hãm nền kinh tế đang có dấu hiệu phát triển nóng lên vào cuối năm 2010. Như vậy, việc kiểm soát vốn trong một chừng mực nào đó đã cho phép chính phủ vừa tiến hành triển khai chính sách tỷ giá, vừa điều hành chính sách tiền tệ với tư cách là những công cụ riêng biệt. 2.3. Thước đo bộ ba bất khả thi Tỷ giá, yếu tố đầu tiên của bộ ba, dễ đo lường nhất. Độ ổn định tỷ giá được đo lường dựa vào chế độ tỷ giá trên thực tế thay vì chế độ tỷ giá như cam kết của một quốc gia với IMF. Để đánh giá mức độ ổn định thực tế của tỷ giá, một số tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính dựa theo tỷ giá trao đổi tiền tệ chéo, được sử dụng đầu tiên bởi Haldane và Hall (1991), sau đó được phổ biến bởi Frankel và Wei (1994)1. Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã tính toán độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá, được tính theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Độ ổn định tỷ giá giữa giá trị 1 và 0, càng tiến về 1 tỷ giá càng ổn định. 1 Trích Đinh Thị Thu Hồng (2012)
  17. 12 0.01 ERS = 0.01 + stdev (∆(log(exch _ rate)) Cách thức đo lường độ ổn định tỷ giá như trên có ưu điểm là giúp chúng ta xác định được mức độ ổn định tỷ giá trên thực tế mà một quốc gia đang áp dụng chứ không phải dựa trên chính sách tỷ giá mà quốc gia đó tuyên bố. Tuy nhiên, mức độ ổn định của tỷ giá hối đoái như tính toán bằng độ lệch chuẩn không phải luôn luôn có liên quan đến chế độ tỷ giá bởi vì ngay cả trong chế độ tỷ giá thả nổi linh hoạt cũng có thể đưa ra các số liệu về độ lệch chuẩn thấp nếu các điều kiện kinh tế đang ổn định, và một chế độ tỷ giá neo cố định cũng có thể tạo ra các số liệu về độ lệch chuẩn lớn trong trường hợp phá giá hay nâng giá. Yếu tố thứ hai của bộ ba là độc lập tiền tệ. Rose (1996)2 có đề xuất đo lường độc lập tiền tệ bằng cách xem xét phản ứng của tỷ giá đối với những thay đổi trong sản lượng, lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này có nhược điểm là khó thể nào phân biệt được trong thực tế đâu là một cú sốc cung và cú sốc cầu tiền tệ, đó là chưa kể phải giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi. Obstfeld, Shambaugh và Taylor (2005) đề xuất cách tiếp cận khác để đo lường độc lập tiền tệ, dựa vào mức độ thay đổi của lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào trực giác khi cho rằng điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ. Aizenman, Chinn và Ito (2008) đo lường mức độ độc lập tiền tệ bằng hàm nghịch đảo của mức tương quan hằng năm của lãi suất hằng tháng giữa quốc gia sở tại j và quốc gia cơ sở i. Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng: corr(ii, ij) - (-1) MI =1- 1 - (- 1) 2 Trích Đinh Thị Thu Hồng (2012)
  18. 13 Với công thức như trên, giá trị tối đa, tối thiểu tương ứng là 1 và 0. Giá trị càng tiến về 1 có nghĩa là chính sách tiền tệ càng độc lập hơn. Tuy nhiên, các thống kê này không thể loại bỏ tương quan giả mạo mà không kiểm tra tính dừng của từng lãi suất hay tính đồng liên kết giữa lãi suất quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Trong trường hợp này, phương pháp tính này không phải luôn luôn phát hiện ra được độ nhạy cảm thực sự của lãi suất quốc gia nghiên cứu so với sự thay đổi trong lãi suất nước ngoài. Yếu tố khó đo lường nhất của bộ ba là hội nhập tài chính, tức là đo lường mức độ mà một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Tuy nhiên, việc đo lường mức độ kiểm soát vốn rất phức tạp vì rất khó để có thể nhận diện và lượng hóa tất cả những hình thức kiểm soát vốn trong thực tế. Thường thì các nhà kinh tế dựa vào phương thức kiểm soát vốn của mỗi quốc gia theo phân loại của IMF để xem xét chỉ số độ mở của tài khoản vốn. Tuy nhiên, điều mà các nhà kinh tế thực sự quan tâm là mức độ hội nhập tài chính trên thực tế. Có thể một quốc gia tuy tuyên bố kiểm soát chặt các giao dịch vốn nhưng trên thực tế các chính sách lại khá thông thoáng. Lane và Milesi-Ferretti (2001, 2007) có đề xuất sử dụng chỉ số độ mở tài khoản vốn trên thực tế, đo lường hội nhập tài chính trên thực tế bằng tỷ lệ tổng nợ và tài sản nước ngoài trong cán cân thanh toán. Khi đo lường tổng lượng nợ và tài sản nước ngoài trong cán cân thanh toán, ta sẽ thấy được mức độ kiểm soát vốn trên thực tế mà một quốc gia đang theo đuổi. Ngoài ra còn một phương pháp thứ hai để đo lường độ mở của tài khoản vốn trên thực tế, đó là tính toán tỷ số dòng tài chính xuyên biên giới trong cán cân thanh toán quốc tế so với GDP. Chinn và Ito (2008)3 đưa đề xuất sử dụng độ mở tài khoản vốn KAOPEN để đo lường mức độ hội nhập tài chính. KAOPEN dựa trên thông tin trong báo cáo hằng năm về cơ chế tỷ giá và những hạn chế ngoại hối do IMF phát hành (Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions AREAER). Nhìn vào KAOPEN ta sẽ thấy một quốc gia trên thực tế có tiến hành chính sách đa tỷ giá hay không. Đây là dạng cơ chế mà một loại tỷ giá áp dụng cho giao dịch trên tài khoản vãng lai và một loại tỷ giá 3 Trích Aizenman, Chinn và Ito (2008)
  19. 14 áp dụng cho tài khoản vốn. Cơ chế đa tỷ giá chính là một dấu hiệu nhận biết một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. KAOPEN cũng biến thiên trong khoảng 0 và 1. Giá trị càng cao của chỉ số này cho thấy quốc gia mở cửa hơn với những giao dịch vốn xuyên quốc gia. Mặc dù vậy KAOPEN có nhược điểm là không phản ánh đúng mức những gì diễn ra trên thực tế, nhất là việc khu vực tư nhân tìm mọi cách tránh né các biện pháp kiểm soát vốn của chính phủ. Hơn nữa, những biến số của IMF mang tính tổng hợp, không thể phản ánh được hết từng chi tiết của những biện pháp kiểm soát vốn trên thực tế như là hướng của dòng vốn (dòng vào hay dòng ra) cũng như các loại giao dịch tài chính mục tiêu. Hutchison, Sengupta và Singh (2010) xây dựng chỉ số KAOPEN bằng tỷ lệ của tổng vốn đầu tư nước ngoài vào và vốn đầu tư ra nước ngoài trên GDP. Theo phương pháp này chỉ số KAOPEN không nằm giữa giá trị 0 và 1. Taguchi (2011) cũng sử dụng phương pháp của Lane và Milesi Ferreti trong việc đo lường mức độ hội nhập tài chính, tập trung vào vốn đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài: PEQA  FDIA  OTHA  PEQL  FDIL  OTHL FNI  GDP Trong đó: A biểu thị cột tài sản (assets), L biểu thị cột nợ (liabilities). PEQA (PEQL) biểu thị vốn đầu tư gián tiếp tương ứng ở cột tài sản (nợ), FDIA (FDIL) biểu hiện cho vốn đầu tư trực tiếp tương ứng với cột tài sản (nợ) và OTHA (OTHL) biểu hiện cho đầu tư khác tương ứng với cột tài sản (nợ). Để khắc phục những hạn chế trong cách đo lường của các chỉ số bộ ba bất khả thi đã được Aizenman, Chinn và Ito (2008) nghiên cứu, trong “New Measures of the Trilemma Hypothesis: Implications for Asia” của Hiro Ito và Masahiro Kawai (2012) đã giới thiệu bộ chỉ số mới của bộ ba bất khả thi. Trong khi không có thước đo hoàn hảo cho cả ba mục tiêu chính sách, Ito và Kawai (2012) cố gắng để khắc phục nhược điểm của các chỉ số trước đây bằng cách đưa ra phương thức đo lường mới cho các chỉ số của bộ ba bất khả thi. Với cách tiếp cận dựa trên các phương pháp được giới thiệu
  20. 15 trong các tài liệu trước đây và sử dụng các lý thuyết phù hợp, hai ông đã cố gắng tạo ra một tập hợp các chỉ số để có thể hiểu rõ hơn trong những khía cạnh của ba chính sách trong bộ ba bất khả thi. Độ ổn định tỷ giá Để tạo một chỉ số đo lường mức độ ổn định tỷ giá, Ito và Kawai (2012) sử dụng phương pháp được giới thiệu đầu tiên bởi Frankel và Wei (1994). (1) trong đó ekt là tỷ giá hối đoái của đồng tiền k (= i, US, JP,…,K) so với một số đơn vị tiền tệ như là đồng france Thuỵ sĩ và Quyền rút vốn đặc biệt (SDR). Những đồng tiền được tính đến bên tay phải của phương trình ước lượng, như là đồng Đô la Mỹ, đồng Yên, đồng Mark Đức, đồng Euro hoặc bảng Anh, có thể xem như bao gồm một rổ các đồng tiền chính ngầm định trong chính sách của các nhà quản lý tiền tệ. Do đó, , hệ số được ước lượng từ tỷ lệ thay đổi trong tỷ giá của k đồng tiền chính so với đơn vị tính toán, biểu thị trọng số của k đồng tiền trong rổ ngầm định. Ito và Kawai (2012) thực hiện nhiều điều chỉnh so với mô hình ước lượng của Frankel và Wei. Thứ nhất, áp dụng mô hình ước lượng cho mỗi đồng tiền trong mẫu nghiên cứu trải qua giai đoạn 36 tháng. Nói cách khác, các , trọng số của các đồng tiền chính trong rổ ngầm định, thay đổi theo thời gian là hợp lý hơn để giả định rằng các nhà quản lý tiền tệ luôn cập nhật tập hợp thông tin. Hơn nữa, sau khi thực hiện ước lượng ban đầu, những ước lượng mà giá trị p lớn hơn 20% bị loại bỏ khỏi phương trình ước lượng, mà chỉ để lại những đồng tiền có kết quả ước lượng có ý nghĩa thống kê trong phương trình. Những kết quả bây giờ thay đổi theo thời gian, vì vậy có sự phù hợp với điều chỉnh. Ito và Kawai sử dụng trung bình hằng năm của điều chỉnh thay đổi theo thời gian như thang đo độ ổn định tỷ giá (ES), vì trong phân tích đã tập trung vào quan sát dữ liệu hằng năm. Mức độ độc lập trong chính sách tiền tệ Đối với chỉ số độc lập chính sách tiền tệ, Ito và Kawai xem xét mô hình ước lượng đơn giản sau đây: (2)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2