BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
HUỲNH VƯƠNG HIẾU
NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ ĐỊNH DƯỚI GIÁ CÁC CỔ PHIẾU PHÁT HÀNH LẦN ĐẦU RA CÔNG CHÚNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------
HUỲNH VƯƠNG HIẾU
NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ ĐỊNH DƯỚI GIÁ CÁC CỔ PHIẾU PHÁT HÀNH LẦN ĐẦU RA CÔNG CHÚNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành:
60340201
PGS.TS. PHAN THỊ BÍCH NGUYỆT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn
và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao
nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi.
Ngày tháng năm 2014
Tác giả
Huỳnh Vương Hiếu
TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu mức độ định dưới giá các phát hành lần đầu ra công
chúng tại Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 01 năm 2005 đến tháng 06 năm
2013. Thông qua mô hình hồi quy tuyến tính với phương pháp ước lượng bình
phương bé nhất OLS, tác giả tiến hành thu thập số liệu để kiểm định về sự tồn
tại việc định dưới giá, các nhân tố ảnh hưởng như: Tỷ lệ mua vượt mức, Độ
trễ niêm yết, Tuổi của công ty, Quy mô công ty, Tỷ lệ sở hữu nhà nước, Rủi
ro công ty, Điều kiện thị trường, Giá khởi điểm và Loại hình doanh nghiệp
với tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên.
Kết quả nghiên cứu chứng minh có hiện tượng định dưới giá IPO là
55,6% và 42,6%. Kết quả dài hạn của các cổ phiếu IPO là tốt với các khung
thời gian 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng kể từ ngày giao dịch đầu tiên. Thông
qua kiểm định, đề tài tìm thấy nhân tố Tỷ lệ mua vượt mức và Giá khởi điểm
có tương quan âm với mức độ định dưới giá. Nhân tố điều kiện thị trường có
tác động nhẹ với mức độ định dưới giá. Các nhân tố: Độ trễ niêm yết, Tuổi
của công ty, Quy mô công ty, Tỷ lệ sở hữu nhà nước, Rủi ro công ty và Loại
hình doanh nghiệp không có tương quan với mức độ định dưới giá IPO tại
Việt Nam.
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
TÓM TẮT
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu nghiên của đề tài .................................................................. 2
1.3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................. 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 2
1.5. Kết cấu của đề tài ................................................................................. 3
CHƯƠNG 2: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TRÊN THẾ GIỚI
VỀ ĐỊNH DƯỚI GIÁ IPO, KẾT QUẢ DÀI HẠN VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG
2.1 Bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về định dưới giá và các lập
luận giải thích .............................................................................................. 5
2.2 Bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về kết quả dài hạn ............. 18
2.3 Bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến việc IPO
dưới giá ...................................................................................................... 20
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình kinh tế lượng ........................................................................ 23
3.2 Mô tả biến ............................................................................................ 26
3.2.1 Biến phụ thuộc ............................................................................... 27
3.2.2 Biến độc lập .................................................................................... 28
3.2.2.1 Tỷ lệ mua vượt mức .................................................................... 28
3.2.2.2 Độ trễ niêm yết ............................................................................ 29
3.2.2.3 Tuổi của công ty .......................................................................... 29
3.2.2.4 Quy mô công ty ........................................................................... 30
3.2.2.5 Tỷ lệ Sở hữu nhà nước ................................................................ 31
3.2.2.6 Rủi ro công ty .............................................................................. 32
3.2.2.7 Điều kiện thị trường .................................................................... 33
3.2.2.8 Mức giá khởi điểm ...................................................................... 33
3.2.2.9 Loại hình doanh nghiệp ............................................................... 34
3.3 Dữ liệu nghiên cứu .............................................................................. 35
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Bằng chứng về định dưới giá IPO tại Việt Nam .............................. 37
4.2 Bằng chứng về kết quả dài hạn kém ................................................. 40
4.3 Kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới giá ............. 41
4.3.1 Thống kê miêu tả ............................................................................ 41
4.3.2 Kết quả hồi quy chéo các nhân tố .................................................. 44
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận ................................................................................................ 54
5.2 Những đóng góp và hạn chế của đề tài ............................................. 54
5.2.1 Những đóng góp ............................................................................. 55
5.2.2 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo......................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt, Tên Tiếng Việt ký hiệu
IPO Phát hành lần đầu ra công chúng
AR Tỷ suất sinh lợi điều chỉnh theo thị
trường ngày giao dịch đầu tiên.
MAAR Tỷ suất sinh lợi điều chỉnh theo thị
trường ngày giao dịch đầu tiên.
Tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường CAR
tích lũy
Tỷ suất sinh lợi của chiến lược mua và BHAR
nắm giữ
Tỷ số giá trị sổ sách và giá trị thị BE/ME
trường của vốn chủ sở hữu
Tỷ số giá trên thu nhập của mỗi cổ P/E phiếu
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BẢNG
Danh mục hình
Hình 2.1: Tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường của 1.526 vụ IPO ở Mỹ giai
đoạn 1975-1984 ........................................................................................... 18
Hình 4.1: Mức độ định dưới giá của các công ty ........................................ 37
Danh mục bảng
Bảng 2.1: Tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên của 38 quốc gia ............ 6
Bảng 2.2: Tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên tại Mỹ gđ 1980-2012 .... 9
Bảng 3.1: Các biến giải thích cho mức độ định dưới giá ........................... 34
Bảng 4.1: Tỷ suất sinh lợi thị trường tích lũy dài hạn ................................ 39
Bảng 4.2: Kiểm định trung bình mức độ định dưới giá .............................. 40
Bảng 4.3: Thống kê miêu tả các biến .......................................................... 42
Bảng 4.4: Ma trận Tương quan giữa các biến ............................................. 43
Bảng 4.5: Kiểm định hệ số hồi quy – thước đo MAAR ............................. 44
Bảng 4.6: Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình – thước đo MAAR .... 45
Bảng 4.7: Kiểm định hệ số hồi quy – thước đo AR .................................... 46
Bảng 4.8: Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình – thước đo AR .......... 46
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi – MAAR ..................... 52
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định phương sai thay đổi – AR .......................... 53
1
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI
1.1 Lý do chọn đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những kênh huy động
vốn quan trọng cho doanh nghiệp và là phương thức đầu tư được ưa chuộng.
Bên cạnh việc đầu tư trên thị trường thứ cấp, thì đầu tư trên thị trường sơ cấp
vào các đợt IPO cũng là một hình thức đầu tư được lựa chọn. Thực trạng IPO
những năm gần đây cho thấy nhiều doanh nghiệp tiến hành IPO nhưng thất
bại, cùng sự trồi sụt của thị trường chứng khoán, nhiều doanh nghiệp phải
giãn tiến độ IPO hoặc kết quả IPO không khả quan, thậm chí nhiều phiên IPO
còn phải huỷ bỏ do không có người đăng ký mua.
Thương vụ IPO của Facebook là một trong những sự kiện IPO được chờ
đợi nhất trong năm 2012 và là sự kiện tài chính lớn nhất trong năm của ngành
công nghệ thông tin toàn cầu. Đợt IPO này giúp Facebook thu về 16 tỷ đô la
Mỹ và đưa giá trị vốn hóa thị trường của công ty ở mức đáng kinh ngạc là
104.2 tỷ đô la Mỹ. Và khi công ty này lên sàn, ngay lập tức 1.000 nhân viên
của họ trở thành những triệu phú. Rõ ràng thương vụ IPO của Facebook có
sức hút và khả năng sinh lời vượt trội.
Giá cổ phiếu trong ngày giao dịch đầu tiên tăng mạnh sẽ gây ấn tượng
mạnh trong đại đa số công chúng cũng như các nhà đầu tư. Việc định dưới giá
IPO sẽ đem lại một khoản lợi nhuận cho nhà đầu tư tham gia mua chứng
khoán IPO. Như vậy, tại Việt Nam, có bằng chứng nào cho thấy sự tồn tại của
hiện tượng định dưới giá IPO trong ngắn hạn hay không? Và nếu có thì kết
quả dài hạn của các cổ phiếu IPO ấy như thế nào? Những nhân tố nào có ảnh
hưởng đến việc định dưới giá IPO tại Việt Nam?
2
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Nghiên
cứu mức độ định dưới giá các cổ phiếu phát hành lần đầu ra công chúng
tại Việt Nam ” làm đề tài thạc sĩ kinh tế của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu này thực hiện kiểm định giả thuyết về sự tồn tại việc định
dưới giá IPO và kết quả dài hạn của các cổ phiếu phát hành lần đầu ra công
chúng tại Việt Nam. Đồng thời khảo sát các nhân tố tác động đến việc định
dưới giá này. Để thực hiện được mục tiêu trên, nghiên cứu tập trung giải
quyết những vấn đề sau:
- Nghiên cứu tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu phát hành lần đầu ra
công chúng trong ngắn hạn và dài hạn.
- Kiểm định mối quan hệ giữa các nhân tố được đưa vào mô hình xem
nhân tố nào tác động đến việc định dưới giá IPO.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Từ mục tiêu nghiên cứu trên, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ trả lời các
câu hỏi nghiên cứu sau:
- Có tồn tại việc định dưới giá các phát hành lần đầu ra công chúng ở
thị trường Việt Nam không ?
- Có bằng chứng về kết quả dài hạn kém của các phát hành lần đầu ra
công chúng không ?
- Những nhân tố Tỷ lệ mua vượt mức, Độ trễ niêm yết, Tuổi công ty,
Quy mô công ty, Tỷ lệ sở hữu nhà nước, Rủi ro công ty, Điều kiện thị trường,
Giá khởi điểm và Loại hình doanh nghiệp có tác động đến việc định dưới giá
ở Việt Nam không ?
3
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các nghiên cứu trước đây để làm cơ sở cho việc xác định
các nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới giá IPO. Dữ liệu để chạy mô hình
được thu thập từ kết quả đấu giá và kết quả giao dịch công bố trên website
của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán TPHCM, Sở
Giao dịch chứng khoán Hà Nội giai đoạn từ năm 2005 đến tháng 6 năm 2013.
Thông qua mô hình hồi quy tuyến tính với phương pháp ước lượng bình
phương bé nhất OLS, tác giả tiến hành kiểm định mức độ định dưới giá, kết
quả dài hạn và các nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới giá các phát hành
lần đầu ra công chúng tại Việt Nam.
Tác giả sử dụng phần mềm SPSS 20 để phân tích dữ liệu và chạy mô
hình hồi quy.
1.5 Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm 5 chương:
Chương 1: Giới thiệu về đề tài. Trong chương này, tác giả giới thiệu về
đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi của đề tài.
Chương 2: Một số bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về định dưới
giá IPO, về kết quả dài hạn và các nhân tố ảnh hưởng. Trong chương này,
tác giả trình bày các nghiên cứu trên thế giới về vấn đề định dưới giá IPO, kết
quả dài hạn của các cổ phiếu phát hành lần đầu ra công chúng cũng như các
nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới giá IPO.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu của đề tài. Trong chương này, tác
giả trình bày phương pháp và nguồn dữ liệu để thực hiện nghiên cứu cũng
như mô tả các biến sử dụng trong đề tài.
4
Chương 4: Kết quả nghiên cứu của đề tài. Trong chương này, tác giả
thực hiện kiểm định để xác định mức độ định dưới giá, các nhân tố ảnh hưởng
đến việc định dưới giá IPO, đồng thời kiểm định kết quả dài hạn của các cổ
phiếu IPO trong mẫu.
Chương 5: Kết luận. Trong chương này, tác giả tổng kết lại các vấn đề
nghiên cứu, những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài.
5
CHƯƠNG 2:
MỘT SỐ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TRÊN THẾ GIỚI
VỀ ĐỊNH DƯỚI GIÁ IPO, KẾT QUẢ DÀI HẠN VÀ CÁC
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
2.1 Bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về định dưới giá IPO và các lập
luận giải thích
2.1.1 Bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về định dưới giá IPO:
Một cổ phần được định giá thấp được hiểu là giá của nó thấp hơn giá trị
nội tại của cổ phiếu (giá trị dựa trên các yếu tố cơ bản), có nghĩa là phần trăm
chênh lệch giữa giá trị nội tại với giá phát hành. Tuy nhiên, việc xác định giá
trị nội tại rất khó khăn nên thực tế thì việc xác định một chứng khoán bị định
dưới giá được tính toán dựa vào phần trăm chênh lệch giữa giá IPO được bán
cho các nhà đầu tư và giá mà các cổ phiếu này đang được giao dịch ngày đầu
tiên trên thị trường. Sau đó, có thể điều chỉnh cho tỷ suất sinh lợi của thị
trường.
Bằng chứng từ nhiều thị trường trên thế giới cho thấy tồn tại việc định
dưới giá trong các đợt IPO và mức độ định dưới giá thay đổi theo từng quốc
gia.
Ritter (2002), trong một mẫu nghiên cứu 334 mã chứng khoán IPO trên
thị trường Hồng Kông cho biết tỷ suất sinh lợi ban đầu đã được đo lường
bằng 15.9%, so sánh với 15.8% tại Mỹ, 35.3% tại Ấn Độ và 164.9% tại Trung
Quốc.
Ritter (2003) đưa ra bằng chứng về hiện tượng định dưới giá ở 38 quốc
gia, trong đó Trung Quốc có tỷ suất sinh lợi trung bình trong ngày giao dịch
đầu tiên là 256,9%, Malaysia là 104,1%, Mỹ là 18,4% và Anh là 17,4%. Bảng
2.1 cho thấy mức độ định dưới giá ở các quốc gia Châu Á cao hơn nhiều so
với Mỹ.
6
Bảng 2.1 Tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên của 38 quốc gia
Nguồn Jay R. Ritter (http:// http://bear.warrington.ufl.edu/ritter/publ_papers)
Theo nghiên cứu của Loughran và Ritter (2004) về hiện tượng định dưới
giá ở Vương Quốc Anh trong giai đoạn 1980 - 2009, kết quả cho thấy, trong
7
những năm 1980, tỷ suất sinh lợi bình quân trong ngày đầu tiên phát hành ra
công chúng là 7%. Tăng gấp đôi lên gần 15% trong giai đoạn 1990-1998,
trước khi nhảy lên 65% trong những năm bong bóng Internet 1999-2000 và
sau đó quay trở lại 12% trong giai đoạn 2001-2003.
Nhiều nghiên cứu về mức độ định dưới giá được thực hiện ở một số thị
trường mới nổi trên thế giới cũng tìm thấy bằng chứng về định dưới giá.
Dawson (1987) tìm thấy rằng tỷ suất sinh lợi ngày đầu trung bình của 21 vụ
IPO tại Hồng Kông là 13,8%, tỷ suất sinh lợi ngày đầu trung bình của 39 vụ
IPO ở Singapore là 39,4%, tỷ suất sinh lợi ngày đầu trung bình của 21 vụ IPO
ở Malaysia là 166,6% trong giai đoạn từ 1978-1983.
Loughran và cộng sự (1994) đưa ra bằng chứng về hiện tượng định dưới
giá ở 25 quốc gia với tỷ suất sinh lợi trung bình trong ngày giao dịch đầu tiên
của Hồng Kông là 17,6%, tỷ suất sinh lợi trung bình trong ngày giao dịch đầu
tiên của Nhật là 32,5%, tỷ suất sinh lợi trung bình trong ngày giao dịch đầu
tiên của Hàn Quốc là 78,1% và của Đài Loan là 45%.
Yong (1997) tìm ra rằng tỷ suất sinh lợi ngày đầu trung bình của 224 vụ
IPO ở Malaysia giai đoạn 1990-1994 là 75%. Sullivan và Unite (2001) nghiên
cứu 104 vụ IPO của Philipine giai đoạn 1987-1997 cũng tìm thấy tỷ suất sinh
lợi trung bình trong ngày giao dịch đầu tiên là 22,7%.
Frank và cộng sự (2007) xem xét mẫu 321 vụ IPO ở Anh giai đoạn
1995-1997 với tỷ suất sinh lợi trung bình trong ngày giao dịch đầu tiên là 11,5
% và mức độ định dưới giá là 8,59%.
David Chambers và Elroy Dimson (2009) nghiên cứu 4.540 vụ IPO của
Anh giai đoạn 1917-2007 có tỷ suất sinh lợi trung bình trong ngày giao dịch
đầu tiên là 14,57%. Boudriga và cộng sự (2009) nghiên cứu một mẫu 34 vụ
8
IPO ở Tunisia giai đoạn 1992 đến 2008 và tìm thấy tỷ suất sinh lợi trung bình
trong ba ngày giao dịch đầu tiên lần lượt là 16,07 %, 16.83%, 17,8%.
Lalith P. Samarakoon (2010) cung cấp bằng chứng cho thấy mức độ định
dưới giá trung bình của 105 vụ IPO ở Sri Lankan là 34%.
Tian (2011) tìm thấy mức độ định dưới giá trung bình của Trung Quốc là
247% giai đoạn 1992-2004. Charles K.D. Adjasi và cộng sự (2011) nghiên
cứu mức độ định dưới giá trung bình của 55 vụ IPO ở thị trường mới nổi
Nigeria có tỷ suất sinh lợi vượt trội trong ngày giao dịch đầu tiên là 43,28%.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường năng động nhất trên thế
giới về số lượng công ty lên sàn và lượng vốn IPO huy động được. Jay R.
Ritter (2013) ) nghiên cứu 7.704 vụ IPO của Mỹ giai đoạn 1980-2012 có tỷ
suất sinh lợi trong ngày giao dịch đầu tiên là 17,9%. Mức độ định dưới giá
trung bình trong khoảng thời gian này vào khoảng 10% đến 20% và biến động
mạnh theo thời gian.
Bảng 2.2 cho thấy có sự biến động mạnh tỷ suất sinh lợi theo thời gian.
Mức độ định dưới giá ở Mỹ năm 1999 là cao nhất với tỷ suất sinh lợi trong
ngày giao dịch đầu tiên của 71% và thấp nhất vào năm 1984 với tỷ suất sinh
lợi ngày giao dịch đầu tiên là 3,2%.
Có thể thấy việc định dưới giá các phát hành lần đầu ra công chúng là
phổ biến ở các thị trường, tuy nhiên mức độ định dưới giá là dao động đáng
kể giữa các thị trường. Như vậy, có thể do các yếu tố mang tính đặc thù của
từng thị trường (điều kiện thị trường, cơ chế định giá, mức độ bất cân xứng
thông tin, độ trễ của thời gian niêm yết, đặt trưng về sở hữu, , ....) chi phối
mức độ định dưới giá của các cổ phiếu IPO.
9
Bảng 2.2 Tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên các vụ IPO tại Mỹ
giai đoạn 1980-2012.
Nguồn Jay R. Ritter (http://bear.warrington.ufl.edu/ritter/IPOs2012Statistics.pdf)
10
2.1.2 Các lập luận cho việc định dưới giá IPO
Kể từ khi Ibbotson (1975) ghi nhận phần lớn các sự kiện phát hành cổ
phiếu lần đầu ra công chúng bị định dưới giá, việc giải thích hiện tượng trên
trở nên hấp dẫn các nhà nghiên cứu.
Cái giá phải trả của người chiến thắng
Rock (1986) đã đưa ra mô hình được biết đến nhiều nhất đó là mô hình
thông tin bất cân xứng “Winner’s curse” (Cái giá phải trả của người chiến
thắng). Rock cho rằng nhà đầu tư được chia thành hai loại đó là nhà đầu tư có
thông tin và nhà đầu tư không có thông tin. Những nhà đầu tư có thông tin sẽ
không tham gia vào những cuộc IPO bị định giá cao làm cho nhà đầu tư thiếu
thông tin sẽ dễ dàng mua được những cổ phiếu bị định giá cao. Với mức giá
không hấp dẫn, những nhà đầu tư không có thông tin nhận được tất cả cổ
phần mà họ mua. Trong khi, với một mức giá hấp dẫn thì họ chỉ sẽ nhận được
một tỷ lệ nào đó. Vì vậy, lợi nhuận của những nhà đầu tư không có thông tin
phụ thuộc vào số cổ phần mà họ nhận được và sẽ thấp hơn tỷ suất sinh lợi
trung bình. Trong trường hợp xấu nhất, những nhà đầu tư không có thông tin
hoàn toàn không nhận được cổ phiếu nào khi IPO dưới giá và nhận được
100% khi IPO trên giá.
Những nhà đầu tư không có thông tin sẽ không sẵn lòng mua cổ phiếu
IPO khi tỷ suất sinh lợi mong đợi bị âm, vì vậy thị trường IPO chỉ phổ biến
với những nhà đầu tư có thông tin. Rock cho rằng thị trường sơ cấp phụ thuộc
vào sự tiếp tục tham gia của những nhà đầu tư không có thông tin. Điều này
có thể dẫn đến sự lựa chọn bất lợi. Nói cách khác, tất cả các cuộc IPO phải
được định dưới giá để giảm cái giá phải trả của người chiến thắng hoặc để thu
hút những nhà đầu tư thiếu thông tin.
11
Beatty và Richer (1986) cho rằng, khi các nhà đầu tư mua cổ phiếu IPO,
điều họ quan tâm nhất đó là hiệu quả đầu tư trong tương lai của cổ phiếu đó.
Tuy nhiên hiệu quả đầu tư trong tương lai là điều không chắc chắn. Họ tin
rằng sự không chắc chắn trong tương lai của cổ phiếu càng cao thì chi phí để
có thông tin càng lớn. Vì vậy việc định dưới giá khi IPO như là một khoản
tiền bù thêm về thông tin hiệu quả đầu tư trong tương lai cho nhà đầu tư.
Quan điểm này được các quốc gia trên thế giới đồng tình và vì thế quan điểm
này trở thành một trong những lý giải rõ ràng nhất về nguyên nhân định dưới
giá IPO.
Vấn đề đại diện
Baron (1982) đưa ra lý thuyết về vấn đề đại diện giữa công ty phát hành
và nhà bảo lãnh phát hành. Vấn đề đại diện xảy ra khi nhà bảo lãnh của ngân
hàng đầu tư biết nhiều thông tin hơn về thị trường vốn và giá phân phối so với
công ty phát hành. Công ty phát hành và ngân hàng đầu tư đồng ý rằng hợp
đồng phát hành IPO sẽ được dựa trên báo cáo của ngân hàng đầu tư về giá trị
của công ty. Hợp đồng này phải đáp ứng điều kiện mỗi bên đặt ra. Thứ nhất,
giá hợp đồng phải đáp ứng mức tối thiểu về lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng
đầu tư. Thứ hai, giá IPO phải đủ thấp để đem lại lợi ích tốt nhất cho công ty
phát hành. Nói một cách khác, công ty phát hành sẽ phải bỏ ra một số tiền cho
ngân hàng đầu tư để họ cung cấp thông tin về công ty cũng như những hành
động nào sẽ đem lại lợi ích tốt nhất cho công ty phát hành. Công ty phát hành
phải đối mặt với sự không chắc chắn được báo cáo bởi ngân hàng đầu tư về
lợi ích đem lại từ việc định dưới giá. Do đó, việc định dưới giá có thể làm
giảm chi phí để có được những tư vấn trung thực từ phía ngân hàng đầu tư.
Mối quan hệ này tương tự như phát hiện của Rock đối với các doanh nghiệp
nhỏ và chưa được thành lập chính thức. Nếu một công ty phải đối mặt với tình
huống không chắc chắn, rất có thể công ty sẽ không đủ nguồn lực để xây
12
dựng bộ phận kiểm toán nội bộ như những công ty lớn có giá trị cao. Tóm lại,
mục tiêu của công ty phát hành IPO là tối đa hóa doanh thu phát hành, trong
khi nhà bảo lãnh cần phải tối đa hóa các khoản phí bảo lãnh phát hành và làm
giảm giá phát hành. Sẽ rất khó khăn cho công ty phát hành để theo dõi mức
độ nỗ lực cũng như kiểm soát nhà bảo lãnh mà không tốn chi phí. Vì vậy, để
nâng cao tỷ lệ thành công của hoạt động bảo lãnh cũng như để nhà bảo lãnh
tập trung vào nỗ lực phát hành, công ty phát hành cho phép định việc dưới giá
IPO.
Loughran và Ritter (2002) sau khi tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ đại
diện giữa các công ty niêm yết và các ngân hàng đầu tư cho biết nhà bảo lãnh
phát hành có thể cố ý định dưới giá và kết quả là việc thu được nhiều tiền hơn
được đặt sang một bên.
Lý thuyết phát tín hiệu
Lý thuyết tín hiệu dựa trên giả định rằng công ty biết về triển vọng của
mình tốt hơn so với các nhà đầu tư. Alien (1989), Grinblatt (1989) và Welch
(1989) đã nghiên cứu về mô hình tín hiệu trong những năm 1980. Mô hình
này cho rằng: Nếu nhà phát hành có nhiều thông tin hơn các nhà đầu tư, các
nhà đầu tư mưu trí sẽ ngại về mô hình “Cái giá phải trả của người chiến
thắng”. Chỉ những nhà phát hành với chất lượng dưới mức trung bình mới sẳn
sàng bán cổ phần của họ với mức giá trung bình. Để phân biệt mình với
những nhà phát hành chất lượng thấp, những nhà phát hành chất lượng cao sẽ
nổ lực phát ra tín hiệu của họ.
Trong mô hình này, các công ty tốt sẽ cố ý bán cổ phần của mình tại
mức giá thấp hơn mức giá mà thị trường sẵn lòng trả, điều này sẽ khiến các
công ty chất lượng thấp không thể bắt chước. Với sự kiên nhẫn, những nhà
13
phát hành này có thể bù đắp sự thua lỗ này sau khi đã IPO cũng như trong
hoạt động phát hành thêm sau này.
Và để tự chứng minh bản thân trong mắt các nhà đầu tư, các công ty tốt
sẽ chọn giải pháp phát hành dưới giá khi IPO. Họ lập luận rằng, sau IPO thị
trường dần dần sẽ phân biệt được hai loại công ty. Vì thế lần phát hành sau đó
sẽ có thể bù đắp được phần lỗ do phát hành dưới giá trong lần IPO và thậm
chí có thể mang lại một khoản lời. Trong khi đó, các công ty kém giả dạng họ
sẽ bị thị trường phát hiện không lâu sau khi IPO và lần phát hành sau sẽ
không thể giống được các công ty tốt, sẽ không thu được lợi ích gì từ IPO
dưới giá.
Ibbotson (1975) cũng cho rằng việc IPO dưới giá nhằm để lại ấn tượng
tốt cho nhà đầu tư để những đợt phát hành tiếp theo có thể được định giá cao
hơn. Hơn nữa, theo Grinblat và Hwang (1989) những nhà phát hành định giá
IPO thấp để mua lại cổ phần của họ trong công ty thì điều này cũng phát tín
hiệu rằng những cổ phiếu này là cổ phiếu có tiềm năng. Lý thuyết “Giả thuyết
tín hiệu” được cho là giải thích tốt hiện tượng định dưới giá IPO giữa nhiều lý
thuyết khác.
Lý thuyết triển vọng
Lý thuyết triển vọng dựa trên giả định rằng nhà phát hành chỉ quan tâm
đến sự thay đổi trong giá trị tài sản hơn là giá trị tuyệt đối của tài sản. Khi đó
lý thuyết cho rằng, đa số các vụ IPO nhà phát hành sẽ cộng gộp thiệt hại do
phát hành dưới giá và giá trị tăng thêm do giá cổ phiếu sẽ tăng lên sau đó ở thị
trường thứ cấp.
Tính toán bất hợp lý là một dạng sai lệch trong nhận thức của nhà đầu tư
khi tham gia vào thị trường chứng khoán. Khi đó, các nhà đầu tư sẽ có những
hành vi không hợp lý khi phân tích và xử lý số liệu từ những thông tin mà họ
14
có được, dẫn đến những quyết định nhìn tưởng hợp lý nhưng thực ra là sai
lầm. Ví dụ như: một nhà đầu tư chứng khoán sẳn sàng thực hiện ngay những
lệnh chốt lời nhỏ nhưng lại trì hoãn không cắt lỗ vì họ kỳ vọng việc giá tăng
trong tương lai, bên cạnh đó họ nghĩ rằng nếu bán cổ phiếu cắt lỗ trong lúc
này thì việc đầu tư đó là không hiệu quả.
Loughran và Ritter (2003) tìm được rằng: các công ty phát hành IPO
chấp nhận định dưới giá vì họ nhìn thấy một triển vọng giá giao dịch cao hơn
trong những ngày đầu tiên niêm yết, và khoảng chênh lệch này lớn hơn rất
nhiều so với khoản lỗ do định dưới giá. Trong giai đoạn 1990-1998, các công
ty phát hành IPO đã phải trả chi phí lên đến 13 tỷ đô la Mỹ để bán cổ phiếu
IPO với khoản thu về là 8 tỷ đô la Mỹ, nhưng họ đã thu được 27 tỷ đô la Mỹ
do giá tăng chỉ sau vài ngày niêm yết. Điều này đã gợi ý cho Loughran và
Ritter đưa ra lý thuyết triển vọng định dưới giá. Theo lý thuyết này, công ty
phát hành IPO chấp nhận định dưới giá vì họ nhìn thấy một triển vọng giá
giao dịch cao hơn trong vài ngày đầu tiên niêm yết, do đó bù đắp mất mát của
họ do IPO dưới giá và trong thực tế kết quả ròng thu về nhiều của cải hơn cho
họ. Điều quan trọng hơn, họ tìm thấy rằng hầu hết các công ty IPO đều định
giá sát với giá trị thực. Một số ít các công ty IPO định giá thấp và kết quả là
làm tăng thêm sự giàu có của tổ chức phát hành do giá tăng sau này.
Với việc định dưới giá này, công ty sẽ đem lại một khoản lợi nhuận lớn
trong tương lai khi mà giá giao dịch tăng cao trong vài ngày đầu tiên niêm
yết. Điều này cũng sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho các nhà đầu tư. Doanh
nghiệp chấp nhận bị định giá thấp để có được một triển vọng giá cao hơn
trong tương lai.
15
Nếu giá cổ phiếu sau ngày phát hành đầu tiên tăng cao và doanh nghiệp
(trong đó cả các nhà điều hành) có giữ lại một lượng cổ phiếu quỹ, tài sản của
doanh nghiệp sẽ tăng lên tương ứng với mức tăng giá trị của những cổ phiếu
quỹ đó. Nếu mức gia tăng trong tài sản của doanh nghiệp do giá tăng sau vài
ngày niêm yết cao hơn mức thiệt hại do cổ phiếu IPO bị định giá thấp trong
ngày đầu tiên, việc này đem lại một khoản lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp
IPO và cả nhà đầu tư. Doanh nghiệp chấp nhận định dưới giá để có một triển
vọng giá cao hơn trong tương lai.
Tránh khả năng kiện tụng
Tinic (1988) cho rằng các công ty phát hành định dưới giá cổ phiếu IPO
như là một hình thức mua bảo hiểm về trách nhiệm pháp lý. Nếu có tranh
chấp phát sinh khi IPO thì sẽ ảnh hưởng đến danh tiếng của công ty phát hành
và ngân hàng bảo lãnh, để tránh xảy ra vấn đề này các công ty sẽ phải định
dưới giá.
Hughes và Thakor (1992) cũng cho rằng các nhà phát hành định dưới giá
để giảm thiểu rủi ro kiện tụng. Tuy nhiên, Drake và Vetsuypens (1993) lại tìm
thấy rằng các đợt IPO bị kiện phần lớn là các vụ IPO dưới giá.
Một quan điểm nữa đó là lợi ích về thuế là nguyên nhân giải thích cho
việc định dưới giá. Rydqvist (1997) nghiên cứu trong phạm vi các IPO ở
Thụy Điển. Trước 1990, Thụy Điển đánh thuế thu nhập việc làm cao hơn
nhiều so với lãi vốn. Điều này tạo động cơ để công ty tăng lương bằng cách
phân bổ tài sản tăng giá, một trong những tài sản tăng giá là cổ phiếu định
dưới giá. Sau năm 1990, Thụy Điển thay đổi đạo luật thuế, đánh trên lãi vốn
của các cổ phiếu định dưới giá, và mức độ định dưới giá giảm tử 41% trong
1980-1989 còn 8% trong 1990-1994.
16
Quyền sở hữu và điều hành
Từ quan điểm sở hữu công ty, cổ phiếu lần đầu tiên được phát hành ra
công chúng tồn tại hiện tượng định dưới giá. Khi phát hành ra công chúng,
nhà quản lý hạn chế việc phân bổ một tỷ lệ lớn cổ phiếu cho nhà đầu tư do e
ngại sự giám sát chặt chẽ khi nhà quản lý không tối đa hóa giá trị cổ đông. Vì
vậy, khi phát hành IPO, nhà quản lý sẽ có một chiến lược phân phối sao cho
các nhà đầu tư chỉ nắm giữ một tỷ lệ nhỏ cổ phiếu. Chiến lược đó chính là
định dưới giá IPO
Brennan và Franks (1997) lập luận rằng việc định dưới giá cho phép các
nhà quản lý có cơ hội bảo vệ được lợi ích riêng bằng cách phân phối cổ phần
một cách chiến lược khi bán ra công chúng. Các nhà quản lý sẽ tránh không
phân bổ một lượng lớn cổ phần cho nhà đầu tư do e ngại họ sẽ giám sát kỹ
những hoạt động không tối đa hóa giá trị của các nhà quản lý. Quan điểm của
các nhà quản lý về việc không phân bổ một lượng lớn cổ phần vì hai lý do:
một là do nắm giữ một lượng nhỏ cổ phiếu nên cổ đông sẽ không ra sức giám
sát chặt chẽ công ty đó, hai là với việc chia nhỏ lượng cổ phiếu một cổ đông
nắm giữ sẽ giảm thiểu nguy cơ bị sa thải khi bị thâu tóm bởi tổ chức khác.
Tuy nhiên, khi nhà điều hành nắm giữ một lượng cổ phiếu đủ lớn thì chi phí
đại diện do họ gây ra lớn hơn lợi ích cá nhân, họ sẽ tự nguyện giảm bớt những
hành vi làm tổn hại đến giá trị doanh nghiệp.
Stoughton và Zechner (1998) cho rằng việc ưu tiên phân phối cổ phiếu
cho một vài nhà đầu tư lớn bên ngoài có thể giúp giám sát hoạt động của các
nhà điều hành làm giảm chi phí đại diện. Tuy nhiên, có một bất lợi đó là với
số vốn đầu tư có hạn, nhà đầu tư phải đa dạng hóa danh mục đầu tư nhưng với
việc nắm giữ một tỷ lệ lớn cổ phần sẽ dẫn đến khó khăn trong việc đa dạng
hóa đầu tư. Do đó để khuyến khích và bù đắp cho các cổ đông, thì công ty sẽ
thực hiện việc định dưới giá.
17
Tâm lý nhà đầu tư
Tài chính hành vi còn đưa ra một lập luận khác liên quan đến nhà đầu tư
lạc quan.Trong bối cảnh những doanh nghiệp IPO còn non trẻ, không có
nhiều thông tin về hoạt động và khó định giá, trong mô hình của Ljungqvist,
Nanda và Singh (2004) cho rằng sẽ tồn tại những nhà đầu tư lạc quan về triển
vọng tương lai của doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp sẽ ra sức đáp ứng nhu
cầu của những nhà đầu tư này càng nhiều càng tốt để tối đa phần chênh lệch
giữa giá mà nhà đầu tư chấp nhận với giá trị thực của công ty.
Tuy nhiên, cũng không phải cứ phát hành càng nhiều càng tốt vì sự tăng
cung quá mức sẽ làm giá cổ phiếu giảm. Bên cạnh đó, thị trường sẽ dần dần
điều chỉnh giá cổ phiếu về giá trị thực của nó trong dài hạn với điều kiện có
các quy định về hạn chế bán khống, kinh doanh chênh lệch giá để giá không
bị điều chỉnh nhanh chóng trong ngắn hạn. Như vậy, doanh nghiệp sẽ giữ lại
một lượng cổ phiếu tối ưu để vừa đáp ứng nhu cầu của những nhà đầu tư lạc
quan vừa ngăn giá rớt.
Do có những quy định về việc không cho phép phân biệt giá hay giữ lại
cổ phiếu quỹ đã gây khó khăn cho nhà phát hành trong việc sử dụng chiến
lược điều tiết nguồn cung cổ phiếu như trên. Vì thế doanh nghiệp phát hành sẽ
bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư tổ chức là khách hàng thân thiết để họ bán lại
cho những nhà đầu tư lạc quan. Việc bán lại này được thực hiện nhỏ giọt để
khống chế giá luôn ở mức cao. Tuy nhiên, thị trường là rất khó dự đoán nên
việc giữ nhiều cổ phiếu trong tay là nguy hiểm đối với nhà đầu tư tổ chức. Vì
vậy, nhà phát hành phải bán cổ phiếu cho nhà đầu tư tổ chức trung gian kia ở
một mức giá bị định thấp để san sẻ bớt rủi ro, ngay cả trong trường hợp thông
tin hoàn hảo. Tuy nhiên giá bán lại sau đó sẽ vẫn cao hơn giá trị thực của cổ
phiếu vì đã bao gồm lợi nhuận cho nhà đầu tư tổ chức trong việc bán lại.
18
2.2 Bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về kết quả dài hạn
Theo Lý thuyết thị trường hiệu quả, khi một cổ phiếu IPO đã được giao
dịch đại chúng thì cũng giống như những cổ phiếu khác trên thị trường thứ
cấp, sẽ phản ánh đúng giá trị nội tại. Vì vậy, tỷ suất sinh lợi của các cổ phiếu
IPO sau khi đã điều chỉnh có rủi ro không dự báo được.
Tuy nhiên, khi đo lường kết quả dài hạn, nhiều bằng chứng cho thấy các
cổ phiếu IPO có kết quả kém hơn hẳn so với cổ phiếu tương đương khác.
Jay R.Ritter (1991) nghiên cứu 1526 vụ IPO ở Mỹ giai đoạn 1975 đến
1984 tìm thấy rằng các công ty phát hành lần đầu ra công chúng có kết quả
dài hạn kém hơn các danh mục chuẩn 45% trong vòng 3 năm tiếp theo.
Hình 2.1 Tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường tích lũy của 1.526 vụ
IPO ở Mỹ giai đoạn 1975-1984
Nguồn Jay R. Ritter
(http://www.kellogg.northwestern.edu/researchcomputing/workshops/papers/
ritter_jf1991.pdf)
19
Loughran và Ritter (1995) tìm thấy tỷ suất sinh lợi trung bình của chiến
lược mua và nắm giữ cổ phiếu trong 3 và 5 năm của các vụ IPO ở Mỹ lần lượt
là 8,4% và 15,7% so với 35,3% và 66,4% của một mẫu gồm các doanh nghiệp
không phát hành tương đồng về quy mô và ngành.
Kalok Chan, Junbo Wang và K.C. John Wei (2004) nghiên cứu mẫu gồm
319 vụ IPO cổ phiếu loại A của Trung Quốc, tìm thấy tỷ suất sinh lợi trung
bình của mẫu so với danh mục các cổ phiếu có quy mô tương đồng trong thời
gian là 1 năm, 2 năm và 3 năm là -3,75%, -4,3%, -14,4%; so với danh mục cổ
phiếu có BE/ME tương đồng là -2,97%, -2,04%, -3,56%; so với danh mục cổ
phiếu có - BE/ME tương đồng là -1,92%, -3,03%, -19,77%. Nghiên cứu này
còn cho rằng mức độ kết quả dài hạn kém của các cổ phiếu loại A không lớn
như ở thị trường Mỹ, Nhật. Tuy nhiên các cổ phiếu IPO loại B lại có kết quả
dài hạn tốt hơn thị trường, cụ thể: tỷ suất sinh lợi trung bình 3 năm sau ngày
giao dịch đầu tiên của danh mục 22 cổ phiếu loại B vượt trội so với danh mục
tương đồng về quy mô, BE/ME, - BE/ME lần lượt là 30,4%, 26,58% và
25,06%.
Nurwati A. Ahmad – Zaluki và Lim Boon Kect (2012) tìm thấy kết quả
kém dài hạn của 93 cổ phiếu trên sàn Mesdaq của Malaysia đều có kết quả dài
hạn kém, với tỷ suất sinh lợi vượt trội tích lũy của 36 tháng sau IPO là -
41,74%.
Tuy nhiên khác với kết quả của các nghiên cứu trên thế giới, TS Hải Lý
và ThS Dương Kha (2012) thực hiện nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu mức độ
định giá thấp các phát hành lần đầu ra công chúng và chiến lược đầu tư các cổ
phiếu IPO tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến tháng 7 năm 2012.
Kết quả tìm thấy không có bằng chứng thành quả dài hạn kém của các cổ
phiếu IPO tại Việt Nam ở cả ba khoảng thời gian 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng
kể từ tháng cổ phiếu được giao dịch lần đầu tiên.
20
2.3. Bằng chứng thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến IPO
dưới giá
Xisheng Wang (2012) nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc định
dưới giá IPO tại sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông GEM, đã tìm thấy tỷ
suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên trung bình là 29,89% với các nhân tố ảnh
hưởng đến việc định dưới giá IPO: Quy mô phát hành, giá IPO, tuổi công ty,
tỷ lệ doanh thu trong ngày giao dịch đầu tiên, loại hình doanh nghiệp. Hai
nhân tố Quy mô phát hành, giá IPO có tương quan âm đến mức độ định dưới
giá IPO tại Hồng Kông; các biến còn lại không có tương quan đến mức độ
định dưới giá. Nghiên cứu đã chứng minh: Quy mô phát hành càng lớn thì
mức độ định dưới giá IPO càng thấp, vì những đợt phát hành IPO có quy mô
lớn thường được phát hành bởi những công ty lớn với hiệu quả và thành tích
hoạt động trong nhiều năm, được nhiều nhà đầu tư biết đến.
Nurwati A. Ahmad – Zaluki và Lim Boon Kect (2012) nghiên cứu về
việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng trên Sàn chứng khoán Mesdaq
của Malaysia, đã tìm thấy tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên trung bình là
37,18% với các nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới giá IPO như: Tổng số
tiền thu được từ IPO, danh tiếng của nhà bảo lãnh, tuổi công ty, hệ số nóng
lạnh của thị trường, loại hình doanh nghiệp, giá trị thị trường. Nghiên cứu đã
tìm thấy: Tổng số tiền thu được từ IPO, hệ số nóng lạnh của thị trường, loại
hình doanh nghiệp, giá trị thị trường có tác động đến mức độ định dưới giá
IPO tại Malaysia. Hai biến còn lại là danh tiếng của nhà bảo lãnh, tuổi công ty
không có tác động đến mức độ định dưới giá.
Clark (2002) kiểm định mối quan hệ giữa thâm niên hoạt động và loại
hình doanh nghiệp với việc định dưới giá IPO. Ông đã tiến hành nghiên cứu
một mẫu gồm 1.234 công ty trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1997.
Nghiên cứu đã tìm thấy: có mối tương quan giữa độ tuổi của công ty IPO với
21
tỷ suất sinh lợi vượt trội của chứng khoán. Ritter (1991), Clarkson và Merkley
(1994) cũng tìm thấy rằng độ tuổi của công ty IPO có tương quan âm với
mức độ định dưới giá IPO. Điều này ủng hộ lý thuyết cho rằng những công ty
thành lập lâu đời sẽ tiềm ẩn ít rủi ro hơn các công ty có tuổi đời ngắn vì hiện
tượng bất cân xứng thông tin ở các công ty có tuổi đời càng lớn là rất ít xảy
ra, do đó tuổi của công ty càng cao thì mức độ định dưới giá càng thấp.
Md.Aminul Islam (2010) đã nghiên cứu về mức độ định dưới giá IPO và
các nhân tố tác động lên việc định dưới giá IPO của Sở Giao dịch chứng
khoán Chittagong (Bangladesh) như: tuổi công ty, quy mô công ty, loại hình
doanh nghiệp, quy mô phát hành và thời điểm phát hành. Kết quả tìm thấy
mức độ định dưới giá IPO là 480,72%; hai nhân tố tuổi công ty và quy mô
công ty có tương quan dương với mức độ định dưới giá; hai nhân tố loại hình
doanh nghiệp và quy mô phát hành có tương quan âm với mức độ định dưới
giá; nhân tố thời điểm phát hành không có ảnh hưởng đến mức độ định dưới
giá IPO của các chứng khoán niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán
Chittagong.
Robit Bansa (2012) đã nghiên cứu và đưa ra bằng chứng hỗ trợ cho việc
định dưới giá IPO tại thị trường chứng khoán Bombay. Kết quả nghiên cứu
cho thấy các nhân tố số lượng cổ phần chào bán, quy mô phát hành IPO, thể
chế, giá trị vốn hóa thị trường có tác động đến mức độ định dưới giá IPO sau
khủng hoảng tài chính tại thị trường Ấn Độ, trong khi các nhân tố khác như:
tuổi công ty, thời điểm IPO, nhà sáng lập là người nước ngoài hay người Ấn
Độ không có tác động lên mức độ định dưới giá.
Yuan Tian (2012) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới
giá IPO của 117 mã cổ phiếu tại Sàn giao dịch chứng khoán Luân Đôn, đã tìm
thấy tỷ suất sinh lợi trung bình ngày giao dịch đầu tiên là 6,89%. Các nhân tố
ảnh hưởng đến việc định dưới giá IPO đó là: Quy mô phát hành, rủi ro công
22
ty, tỷ lệ nợ; trong khi đó các nhân tố: danh tiếng nhà bảo lãnh phát hành, tỷ lệ
P/E, tỷ số ROA thì không ảnh hưởng đến việc định dưới giá IPO.
TS Hải Lý và ThS Dương Kha (2012) thực hiện nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu mức độ định giá thấp các phát hành lần đầu ra công chúng và
chiến lược đầu tư các cổ phiếu IPO tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005
đến tháng 7 năm 2012. Nghiên cứu đã tìm ra bằng chứng về hiện tượng định
dưới giá IPO tại Việt Nam với mức độ định dưới giá theo hai thước đo
MAAR và AR lần lượt là 49,09% và 38%. Nghiên cứu cũng tìm được hai
nhân tố: Tỷ lệ mua vượt mức và mức giá khởi điểm của các cuộc đấu giá có
tương quan âm với mức độ định dưới giá; nhân tố Điều kiện thị trường có tác
động yếu và các nhân tố khác như: Quy mô công ty, độ trễ niêm yết, tuổi
công ty, sở hữu nhà nước sau IPO, rủi ro công ty không có tác động lên mức
độ định dưới giá.
Mai, Truong Loc (2011) cũng nghiên cứu về vấn đề định dưới giá IPO
tại Sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu
đã tìm thấy rằng các nhân tố: Tuổi công ty, Quy mô công ty, Quy mô phát
hành IPO, Độ trễ niêm yết có tác động lên hiện tượng định dưới giá IPO.
23
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mô hình kinh tế lượng:
Thông thường, định dưới giá được đo lường bằng phần trăm chênh lệch
giữa giá đóng cửa ngày giao dịch đầu tiên và giá IPO, hay còn gọi là tỷ suất
sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên.
Tuy nhiên, với những thị trường có khoảng thời gian kể từ thời điểm IPO
đến thời điểm niêm yết ngắn. Một số nhà nghiên cứu như Adjasi, Osei,
Fiawoyife (2011), Ahmad – Zaluki và Lim Boon Kect (2012) xác định mức
độ định dưới giá của cổ phiếu i, được tính bằng tỷ suất sinh lợi bất thường
ngày giao dịch đầu tiên (điều chỉnh thị trường).
Theo sau các tác giả trên, trong bài nghiên cứu này, tác giả đo lường
mức độ định dưới giá bằng tỷ suất sinh lợi điều chỉnh theo thị trường:
ARi = Ri - Rm
Trong đó: Ri : tỷ suất sinh lợi chưa điều chỉnh ngày giao dịch đầu tiên.
Rm : tỷ suất sinh lợi của chỉ số thị trường Vn-Index.
Bên cạnh đó, đối với những thị trường có khoảng thời gian kể từ thời
điểm IPO đến thời điểm niêm yết kéo dài, Aggarwal, Leal và Hernandez
(1993), Sohai và Raheman (2009) đã tiến hành nghiên cứu và xác định mức
độ định dưới giá của cổ phiếu i bằng tỷ suất sinh lợi điều chỉnh theo thị
trường có xét đến khoảng thời gian từ khi IPO đến khi niêm yết.
Trong nghiên cứu này tại thị trường Việt Nam với đặc thù có khoảng
thời gian từ thời điểm IPO đến thời điểm niêm yết kéo dài, tác giả tiếp bước
24
những nhà nghiên cứu trên tiến hành đo lường mức độ định dưới giá theo
1 + Ri
- 1
công thức sau:
1 + Rm
MAAR =
Đo lường kết quả IPO trong dài hạn
Trong phần lớn các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới, khung thời
gian dài hạn được nghiên cứu là 12 tháng, 24 tháng 36 tháng và 60 tháng. Về
mặt lý thuyết, không có một đề xuất nào về khung thời gian dài hạn sau IPO
là bao nhiêu. Vì vậy, trong nghiên cứu này tác giả đánh giá kết quả dài hạn
bằng cách xem xét tỷ suất sinh lợi bất thường sau 12 tháng, 24 tháng, 36
tháng kể từ ngày giao dịch đầu tiên.
Theo sau các tác giả như Ritter (1991), Gomber và Lerner (2003),
Ahmad – Zaluki và Lim Boon Kect (2012), trong bài nghiên cứu này, tác giả
xác định tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường tích lũy của cổ phiếu i đến thời
T2 CARit = ∑ ARit t=T1
điểm T2 được tính:
Tuy nhiên, theo Derrien (2005), Ahmad Zaluki và Lim Boon Kect
(2012) một cách thức khác để đánh giá kết quả dài hạn của các cổ phiếu phát
hành lần đầu ra công chúng đó là sử dụng tỷ suất sinh lợi của chiến lược mua
và nắm giữ, tỷ suất sinh lợi này được dùng để xác định xem nhà đầu tư có
kiếm được tỷ suất sinh lợi bất thường từ việc nắm giữ cổ phiếu phát hành lần
đầu ra công chúng trên một khoảng thời gian nào đó.
25
Trong nghiên cứu này, tác giả cũng sử dụng tỷ suất sinh lợi của chiến
lược mua và nắm giữ để đánh giá kết quả dài hạn của các cổ phiếu phát hành
lần đầu ra công chúng:
it) – 1 ) - (
mt) – 1)
BHAR (T1, T2) = (
Trong đó: BHAR(T1,T2): tỷ suất sinh lợi sau khi điều chỉnh thị
trường của cổ phiếu i trong khoảng thời gian từ T1 đến
T2.
T1 là ngày đầu tiên của tháng kế tiếp ngày giao dịch đầu
tiên.
T2 là khoảng thời gian 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng tiếp
theo T1 (T2 -T1 = 12, 24, 36 tháng).
Rit là tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu i ở tháng thứ t (tháng
tiếp theo sau ngày giao dịch đầu tiên.
Rmt là tỷ suất sinh lợi của chỉ số đại diện thị trường VN-
Index tại tháng tương ứng.
Phương trình hồi quy:
Đề tài sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính biến Tỷ suất sinh lợi điều
chỉnh theo thị trường ngày giao dịch đầu tiên AR với các biến độc lập theo
phương trình sau:
AR = β1 + β2 Demand + β3 LnDel + β4 LnAge + β5 LnFsize + β6
Stateown + β7 RiskCo + β8 MarReturn + β9 LnResprice + β10
Kind + εi
26
Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính biến Tỷ
suất sinh lợi điều chỉnh theo thị trường ngày giao dịch đầu tiên MAAR với
các biến độc lập theo phương trình sau:
MAAR = β1 + β2 Demand + β3 LnDel + β4 LnAge + β5 LnFsize + β6
Stateown + β7 RiskCo + β8 MarReturn + β9 LnResprice + β10
Kind + εi
Với:
AR là Tỷ suất sinh lợi điều chỉnh theo thị trường ngày giao dịch đầu
tiên.
MAAR là Tỷ suất sinh lợi điều chỉnh theo thị trường ngày giao dịch
đầu tiên (có xét đến khoảng thời gian từ khi IPO đến khi niêm yết)
Demand là Tỷ lệ mua vượt mức.
LnDel là Ln của thời gian kể từ khi IPO đến khi niêm yết.
LnAge là Ln của thâm niên hoạt động của công ty (tuổi của công ty).
LnFsize là Ln của Quy mô công ty.
Stateown là tỷ lệ sở hữu nhà nước sau IPO.
Riskco là Rủi ro của công ty
MarReturn là Điều kiện thị trường.
LnResprice là Ln của giá khởi điểm.
βi là các hệ số hồi quy
Kind là biến giả, Kind bằng 1 nếu loại hình công ty là kinh doanh dịch
vụ, bằng 0 nếu loại hình công ty là doanh nghiệp sản xuất.
β1 là hằng số, εi là sai số.
27
3.2 Mô tả biến
3.2.1 Biến phụ thuộc
Trong bài nghiên cứu này, tác giả đo lường mức độ định dưới giá bằng
tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường theo công thức sau:
ARi = Ri - Rm
Trong đó: Ri : tỷ suất sinh lợi chưa điều chỉnh ngày giao dịch đầu tiên,
P first - Poffer
bằng:
Poffer
Ri =
Với: Pfirst : giá đóng cửa ngày giao dịch đầu tiên sau IPO.
Poffer : giá đấu thành công bình quân tại ngày đấu giá.
Rm : tỷ suất sinh lợi của chỉ số thị trường Vn-Index tương ứng
VNfirst - VNoffer
Ri của cổ phiếu i, được tính:
VNoffer
Rm =
Với: VNfirst : chỉ số Vn-Index vào ngày giao dịch đầu tiên.
VNoffer : chỉ số Vn-Index vào ngày IPO.
Tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên càng cao thì mức mức độ định
dưới giá càng cao.
Nếu AR > 0 thì chứng khoán được định dưới giá
Nếu AR < 0 thì chứng khoán được định trên giá
28
Nếu AR = 0 thì chứng khoán được định đúng giá
Bên cạnh đó, tác giả cũng tiến hành đo lường mức độ định dưới giá bằng
1 + Ri
- 1
tỷ suất sinh lợi điều chỉnh theo thị trường với công thức sau:
1 + Rm
MAAR =
Tỷ suất sinh lợi ngày giao dịch đầu tiên càng cao thì mức mức độ định
dưới giá càng cao.
Nếu MAAR > 0 thì chứng khoán được định dưới giá
Nếu MAAR < 0 thì chứng khoán được định trên giá
Nếu MAAR = 0 thì chứng khoán được định đúng giá
3.2.2 Biến độc lập
Trong đề tài nghiên cứu này, tác giả đưa vào mô hình các biến độc lập
được kỳ vọng là có tác động lên mức độ định dưới giá dựa trên một số nghiên
cứu trên thế giới bao gồm:
3.2.2.1 Tỷ lệ mua vượt mức
Tỷ lệ mua vượt mức được tính bằng số lượng cổ phiếu đặt mua chia cho
số lượng cổ phiếu chào bán. Nếu tỷ lệ này lớn nghĩa là số lượng đặt mua lớn
hơn số lượng cổ phiếu chào bán, và như vậy sẽ có hiện tượng tranh nhau mua
giữa các nhà đầu tư. Trong trường hợp áp lực cầu lớn thì mức độ định dưới
giá giảm và ngược lại.
Biais và Faugeron – Crouzet (2000) cũng cho rằng mức độ định dưới giá
sẽ giảm khi số lượng đặt mua tăng, nghĩa là tính cạnh tranh giữa các nhà đầu
tư sẽ khiến cho việc định giá IPO chính xác hơn, vì thế sẽ làm giảm mức độ
định dưới giá. Nghiên cứu này tìm thấy: tỷ số giữa tổng cầu và tổng cung có
29
mối quan hệ ngược chiều với tỷ suất sinh lợi ngày đầu tiên trên mẫu 68 vụ
IPO thông qua đấu giá ở Pháp trong giai đoạn từ 1983 đến 1994.
Tương tự những nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới, đề tài này sử
dụng tỷ lệ mua vượt mức, được tính bằng lượng cổ phiếu đặt mua chia cho
lượng cổ phiếu chào bán và đặt giả thuyết như sau:
Giả thuyết 1: Tỷ lệ mua vượt mức có tương quan âm với mức độ định
dưới giá
3.2.2.2 Độ trễ niêm yết
Độ trễ niêm yết của thị trường được tính là số ngày kể từ khi IPO đến
khi niêm yết. Nếu khoảng thời gian này càng lớn thì rủi ro thanh khoản và
mức độ không chắc chắn càng cao.
Uddin (2008) nghiên cứu cho hai thị trường Singapore và Malaysia đã
tìm thấy thời gian từ khi IPO đến khi niêm yết càng dài thì mức độ định dưới
giá càng lớn. Tian (2011) cũng tìm thấy kết quả tương tự trong một nghiên
cứu các cuộc IPO ở Trung Quốc
Theo sau những nghiên cứu đi trước về độ trễ niêm yết với mức độ định
dưới giá trong ngắn hạn, tác giả đặt giả thuyết sau:
Giả thuyết 2: Độ trễ niêm yết có tương quan dương với mức độ định
dưới giá.
3.2.2.3 Tuổi của công ty
Tuổi của công ty là số năm kể từ khi thành lập cho đến năm IPO. Một
công ty có tuổi đời càng lớn thì càng được nắm rõ về công ty hơn các công ty
có tuổi đời non trẻ. Nhiều nhà nghiên cứu đi trước đã đưa ra bằng chứng cho
thấy tuổi của công ty càng cao thì càng có ít rủi ro liên quan đến phát hành vì
30
các công ty hoạt động càng lâu năm thì càng được nhiều người biết đến và
càng có nhiều thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư.
Kirkulak và Davis (2005) tìm thấy mối tương quan âm giữa tuổi công ty
và mức độ định dưới giá ở Nhật giai đoạn 1998 đến 2002. Lowry (2008) tìm
thấy rằng công ty càng hoạt động lâu năm thì mức độ định dưới giá càng thấp.
Tian (2011) cũng tìm thấy kết quả tương tự trong một nghiên cứu các cuộc
IPO ở Trung Quốc.
Theo sau những nghiên cứu đi trước, trong nghiên cứu này tác giả cũng
đặt giả thuyết như sau:
Giả thuyết 3: Tuổi công ty có tương quan âm với mức độ định dưới
giá.
Để giảm bớt độ biến động của thâm niên hoạt động của các công ty trong
mẫu, nghiên cứu này sử dụng LnAge làm biến đại diện cho thâm niên hoạt
động của công ty trước khi phát hành lần đầu.
3.2.2.4 Quy mô công ty
Quy mô công ty được đo lường bằng tổng tài sản của công ty. Theo lập
luận chung: công ty có quy mô càng lớn càng được nhiều người biết đến và
mức độ không chắc chắn sẽ thấp hơn các công ty mới thành lập. Quy mô công
ty được xem là thước đo mức độ bất cân xứng thông tin. Điều này hàm ý rằng
các công ty có quy mô lớn có mức độ bất cân xứng thông tin thấp hơn các
công ty nhỏ. Những công ty có quy mô lớn thường được các nhà đầu tư quan
tâm nhiều hơn, mức độ hiểu rõ về công ty cao so với công ty có quy mô nhỏ
(thông tin hoàn hảo hơn).
31
Adjasi cùng các cộng sự (2011) đã tìm thấy bằng chứng về mối tương
quan nghịch giữa quy mô công ty và mức độ định dưới giá, trong đó quy mô
công ty được xác định là tổng tài sản. Điều này có nghĩa là những công ty có
quy mô lớn thì mức độ định dưới giá thấp.
Đề tài này cũng sử dụng thước đo tương tự là logarit của tổng tài sản
làm biến đại diện quy mô công ty. Tác giả cũng đặt giả thuyết như sau:
Giả thuyết 4: Quy mô công ty có tương quan âm với mức độ định dưới
giá.
3.2.2.5 Sở hữu nhà nước
Thị trường IPO Trung Quốc có những đặc điểm sở hữu nhà nước tương
tự như thị trường Việt Nam. Các nghiên cứu thực nghiệm trên dữ liệu của các
đợt IPO ở Trung Quốc tìm thấy sở hữu nhà nước là một nhân tố giải thích cho
mức độ định dưới giá IPO. Tác động của nhân tố này dựa trên cơ sở bất cân
xứng thông tin. Theo đó, trong một vụ IPO, có hai bên liên quan đến sự kiện
này. Một là nhà nước, thực sự là chủ sở hữu toàn bộ công ty trước IPO và sẽ
sở hữu một phần công ty sau IPO. Hai là các nhà đầu tư bên ngoài, những
người được xem là thiếu thông tin về chất lượng của các doanh nghiệp nhà
nước. Vì thế, để IPO thành công, nhà nước phải định dưới giá nhằm thu hút
nhà đầu tư tham gia.
Chen và cộng sự tìm thấy sở hữu nhà nước cao thì mức độ định dưới giá
cao. Padgett (2005) đã tìm thấy ở Trung Quốc, tỷ lệ sở hữu nhà nước sau IPO
có tương quan nghịch với mức độ định dưới giá.
Tỷ lệ sở hữu nhà nước cao sau IPO là một đặc trưng của các vụ IPO ở
Việt Nam, bởi vì các doanh nghiệp Việt Nam trước khi IPO đều xuất thân từ
các doanh nghiệp thuộc sở hữu 100% vốn nhà nước. Theo chủ trương nhà
nước, các doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện cổ phần hóa và thoái vốn
32
dần dần nhằm duy trì vị thế chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. Sau khi IPO,
nhà nước nắm giữ tỷ lệ sở hữu khá cao ở nhiều công ty, tỷ lệ phổ biến là 51%.
Điểm khác biệt giữa thị trường Trung Quốc và Việt Nam đó là: ở Việt Nam,
nhà đầu tư là người quyết định giá đấu đối với IPO, còn ở Trung Quốc thì
Chính phủ độc quyền định giá, dựa trên việc ấn định tỷ lệ P/E, có sự điều
chỉnh qua các giai đoạn.
Để nghiên cứu tác động của sở hữu nhà nước lên mức độ định dưới giá,
đề tài này sẽ đo lường sở hữu nhà nước bằng tỷ lệ vốn cổ phần thuộc sở hữu
nhà nước hoặc tập đoàn nhà nước sau IPO.
Giả thuyết 5: Tỷ lệ sở hữu nhà nước sau IPO có tương quan âm với
mức độ định dưới giá.
3.2.2.6 Rủi ro công ty
Các công ty có rủi ro càng lớn thì tính không chắc chắn trong mức giá
càng lớn, dẫn đến mức độ định dưới giá càng cao.
Ritter (1984) và tiếp đến là Beatty và Ritter (1986) đã tìm ra rằng mức
độ định dưới giá sẽ tăng cùng với mức độ không chắc chắn sau khi phát hành.
Bradley và các cộng sự (2009) cũng tìm thấy rằng công ty có rủi ro càng lớn
thì tính không chắc chắn trong mức giá càng lớn dẫn đến mức độ định dưới
giá càng cao.
Theo nghiên cứu này, tác giả sử dụng Độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi của
cổ phiếu trong 6 tháng kể từ ngày giao dịch đầu tiên làm biến đại diện cho
mức độ không chắc chắn của doanh nghiệp. Trong nghiên cứu này tác giả đặt
giả thuyết như sau:
Giả thuyết 6: Rủi ro công ty có tương quan dương với mức độ định
dưới giá.
33
3.2.2.7 Điều kiện thị trường
Điều kiện thị trường có ảnh hưởng nhất định đến vấn đề định dưới giá
khi phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu thị trường đang giao dịch sôi động,
chỉ số Vn Index tăng sẽ tác động tốt đến việc đầu tư cổ phiếu IPO vì nhà đầu
tư kỳ vọng các cổ phiếu này cũng sẽ tăng theo xu hướng chung của thị trường.
Vì vậy, điều kiện thị trường có mối quan hệ cùng chiều với tỷ suất sinh
lợi ngày giao dịch đầu tiên. Trong nghiên cứu này tác giả đặt giả thuyết như
sau:
Giả thuyết 7: Điều kiện thị trường có tương quan dương với mức độ
định dưới giá.
3.2.2.8 Mức giá khởi điểm
Đối với thị trường Việt Nam, giá phát hành ban đầu là mức giá khởi
điểm mà các tổ chức phát hành đưa ra cho nhà đầu tư tham chiếu trước cuộc
đấu giá, khác biệt với mức giá phát hành đưa ra lần đầu ở các thị trường trên
thế giới.
Theo Fernando (1999), giá phát hành lần đầu của các cuộc IPO có thể
cho biết có tồn tại việc định dưới giá. Mức giá phát hành có thể được thiết lập
thấp (tức là mức độ định dưới giá cao) để thu hút các nhà đầu tư tiềm năng.
Ibbotson (1998) cũng tìm thấy rằng các công ty đưa ra mức giá phát hành thấp
thì mức độ định dưới giá cao.
Với những bằng chứng thực nghiệm này, tác giả kỳ vọng giá phát hành
và mức độ định dưới giá có tương quan nghịch chiều. Đề tài này sử dụng
logarit của giá khởi điểm làm biến nghiên cứu.
Giả thuyết 8: Giá phát hành có tương quan âm với mức độ định dưới
giá.
34
3.2.2.9 Loại hình doanh nghiệp
Đề tài chia doanh nghiệp thành hai loại hình cơ bản: Dịch vụ và sản xuất
kinh doanh để làm biến giả xem xét ảnh hưởng của nó đến vấn đề định dưới
giá. Nếu loại hình doanh nghiệp là dịch vụ thì có giá trị bằng 1 và ngược lại
có giá trị bằng 0.
Theo Ritter (1991) và Xisheng Wang (2012), mức độ định dưới giá IPO
không có mối quan hệ với loại hình công ty. Từ đó, nghiên cứu này cũng dự
kiến loại hình của công ty không liên quan đến mức độ định dưới giá IPO và
đưa ra giả thuyết sau đây:
Giả thuyết 9: Loại hình doanh nghiệp không có tương quan với mức
độ định dưới giá.
Bảng 3.1: Các biến giải thích cho mức độ định dưới giá
Tác động
lên mức độ Biến giải thích Ký hiệu Giải thích
định dưới
giá
Tỷ lệ mua vượt Demand Số lượng đặt mua / số -
mức lượng chào bán.
Độ trễ niêm yết LnDel Logarit của số ngày từ khi +
IPO đến khi niêm yết.
Tuổi công ty LnAge Logarit số năm tính từ khi -
thành lập đến năm IPO.
Quy mô công ty LnFsize Logarit của tổng tài sản -
năm trước năm IPO.
35
Sở hữu nhà nước Stateown Tỷ lệ sở hữu nhà nước. -
Rủi ro công ty RiskCo Độ lệch chuẩn tỷ suất sinh +
lợi của cổ phiếu trong 6
tháng kể từ ngày giao dịch
đầu tiên.
Điều kiện thị MarReturn Tỷ suất sinh lợi tích lũy của +
chỉ số VN-Index 3 tháng trường
trước ngày giao dịch đầu
tiên.
Giá khởi điểm LnResprice Logarit của giá khởi điểm. -
Loại hình doanh Kind Có giá trị bằng 1 nếu là
doanh nghiệp dịch vụ và nghiệp
bằng 0 nếu là doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh.
3.3 Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu sử dụng trong đề tài nghiên cứu được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau. Dữ liệu về kết quả đấu giá và kết quả ngày giao dịch đầu tiên như:
khối lượng phát hành lần đầu, khối lượng đặt mua, giá đấu thành công bình
quân, giá đóng cửa ngày giao dịch đầu tiên, số lượng cổ phiếu giao dịch ngày
đầu tiên được thu thập từ website của Sở giao dịch chứng khoán TPHCM, Sở
giao dịch chứng khoán Hà Nội, Trung tâm lưu ký chứng khoán, Cafe f,
FPTS, website của các doanh nghiệp.
Cụ thể, tác giả đã thực hiện thu thập dữ liệu theo quy trình như sau:
36
Bước 1: Thu thập danh sách niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán
thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội tính đến thời
điểm tháng 6 năm 2013.
Bước 2: Thu thập danh sách kết quả đấu giá được công bố trên website
của hai sở giao dịch.
Bước 3: Loại bỏ khỏi danh sách những công ty không có kết quả đấu giá
được công bố.
Bước 4: Tiếp tục loại bỏ những cổ phiếu có ngày giao dịch đầu tiên sau
ngày đấu giá. Vì thực chất, đó là những cuộc phát hành thêm, không phải phát
hành lần đầu ra công chúng.
Kết quả, mẫu nghiên cứu còn lại 64 mã cổ phiếu có đầy đủ thông tin
được sử dụng để đưa vào mô hình hồi quy.
37
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Bằng chứng về định dưới giá IPO tại Việt Nam.
Hình 4.1 cho thấy mức độ định dưới giá của các công ty trong mẫu là
phân tán rộng. MAAR của Công ty cổ phần Vận tải và Thuê tàu biển Việt
Nam lên đến 456%, trong khi MAAR của Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo
Việt là – 89%. Thước đo AR cũng có có độ biến thiên lớn, AR của Công ty
Cổ phần Vincom là 780%, AR của Công ty CP Cơ Điện Thủ Đức là – 210%.
38
a. Các công ty có tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường dương
39
b. Các công ty có tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường âm
Hình 4.1: Mức độ định dưới giá của các công ty
Mức độ định dưới giá trung bình mẫu tính theo MAAR là 55,6%. Tính
theo AR, mức độ định dưới giá trung bình là 42,6%. Chúng ta có thể kết luận
có bằng chứng về việc định dưới giá đối với các cuộc IPO tại Việt Nam.
Test Value = 0
t
df
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
95% Confidence Interval of the Difference
Lower
Upper
MAAR
3.883
63
.000
.5565828
.270132
.843033
Bảng 4.1: Kiểm định trung bình mức độ định dưới giá
(a) MAAR
40
Test Value = 0
t
df
Sig. (2- tailed)
Mean Difference
95% Confidence Interval of the Difference
Lower
Upper
AR
2.596
63
.012
.4264920
.098201
.754783
(b) AR
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây về thị
trường chứng khoán Việt Nam:
Mai, Truong Loc (2011) nghiên cứu về “ Vấn đề định dưới giá các phát
hành lần đầu ra công chúng tại Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh” giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2009 cũng đã tìm thấy mức độ định
dưới giá tại Việt Nam là 70%.
Tiến sĩ Trần Thị Hải Lý với nghiên cứu “Mức độ định giá thấp các phát
hành lần đầu ra công chúng và chiến lược đầu tư các cổ phiếu IPO tại Việt
Nam” cũng đã tìm thấy mức độ định dưới giá trung bình tại Việt Nam là
49,09% (theo MAAR) và 38,01% (theo AR).
4.2 Bằng chứng về kết quả dài hạn kém
Để thực hiện việc kiểm định kết quả dài hạn của các cổ phiếu phát hành
lần đầu ra công chúng, đề tài này dựa trên tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị
trường tích lũy bằng hai thước đo CAR và BHAR trong khoảng thời gian 12
tháng, 24 tháng và 36 tháng kể từ tháng kế tiếp của ngày giao dịch đầu tiên.
Đối với tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường tích lũy 12 tháng có 59
cuộc, tích lũy 24 tháng có 56 cuộc, tích lũy 36 tháng chỉ còn 52 cuộc IPO.
41
Sig. (2-
Std.
N
Minimum Maximum
Mean
t
tailed)
Deviation
Statistic Statistic
Statistic
Statistic
Std.
Statistic
Error
-.7340
24.5402
.219
.546673 .4396058
3.3766764
1.244
59
CAR 12
-2.2322
24.5960
.410
.391891 .4722361
3.5338913
.830
56
CAR 24
-7.1472
24.1504
.258
.645602 .5644707
4.0704560
1.144
52
CAR 36
-.7193
1.2146
.258 -.056572 .0495502
.3806021
-1.142
59
BHAR 12
-2.4452
7.4000
.360
.034137 .1706348
1.2769137
.923
56
BHAR 24
-.8307
.9718
.000 -.065452 .0557362
.4019194
-3.738
52
BHAR 36
52
Valid N (listwise)
Bảng 4.2: Tỷ suất sinh lợi thị trường tích lũy dài hạn
Bảng 4.2 trình bày các kiểm định giả thuyết kết quả dài hạn của các IPO.
Giá trị trung bình dài hạn CAR tích lũy 36 tháng là 64.5% lớn nhất trong các
mức tích lũy, CAR tích lũy 24 tháng là 39,18% và CAR của 12 tháng là
54,66% ( ngược dấu kỳ vọng) và không có ý nghĩa thống kê.
Giá trị trung bình của BHAR 12 tháng là -5.6%, BHAR 36 tháng là -
6.5% đúng dấu kỳ vọng nhưng không có ý nghĩa thống kê. BHAR 24 tháng là
17% nhưng cũng không có ý nghĩa thống kê. Nhìn chung, không có bằng
chứng về kết quả dài hạn kém các IPO trong mẫu nghiên cứu này.
Kết quả này khác với kết quả nghiên cứu của Ritter (1991) nghiên cứu
về thị trường Mỹ giai đoạn 1974 đến 1985, Nurwati A. Ahmad – Zaluki và
Lim Boon Kect (2012) nghiên cứu về việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công
chúng trên Sàn chứng khoán Mesdaq của Malaysia.
42
4.3 Kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến việc định dưới giá
4.3.1 Thống kê miêu tả
N
Minimum Maximum
Mean
Std. Deviation
MAAR
-.8926
4.5610
.556583
1.1467537
64
AR
-2.1013
7.7955
.426492
1.3142530
64
Demand
.0174
15.2981
4.014037
3.6712656
64
Del
51
2046
642.06
424.318
64
Age
1
47
15.83
11.832
64
Fsize
10368 197408036 8198286.98 34229174.769
64
Stateown
.0000
98.5000 45.521406
29.9559821
64
RiskCo
3
.09
.526
0
64
Marreturn
-.5249
1.5641
.143536
.4028437
64
Resprice
10000
1400000
57403.91
180581.445
64
Kind
1
.53
.503
0
64
64
Valid N (listwise)
Bảng 4.3: Thống kê miêu tả các biến
Bảng 4.3 thể hiện kết quả thống kê mô tả các yếu tố được xem xét trong
phân tích hồi quy. Tỷ lệ mua vượt mức trung bình của mẫu là 4 lần với tỷ lệ
mua vược mức cao nhất là 7,8 lần.
Độ trễ niêm yết trung bình của mẫu là 642 ngày, đây là con số tương đối
lớn so với các thị trường khác.
Tuổi trung bình của các doanh nghiệp trong mẫu là 15,8 năm, biến thiên
từ 1 năm đến 47 năm.
Quy mô trung bình của doanh nghiệp trong mẫu là 8.198,3 tỷ đồng.
Tỷ lệ sở hữu nhà nước trung bình của các cuộc IPO là khoảng 45,5%, tỷ
lệ sở hữu nhà nước trong doanh nghiệp cao nhất lên đến 98,5%.
43
Độ lệch chuẩn tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu trong 6 tháng kể từ ngày giao
dịch đầu tiên trung bình của mẫu là 9%.
Tỷ suất sinh lợi của thị trường 3 tháng trước ngày giao dịch đầu tiên
trung bình là 14%.
Giá khởi điểm trung bình của mẫu là 57.404 đồng, khoảng cách chênh
lệch giữa giá khởi điểm thấp nhất và giá cao nhất là khá lớn với giá khởi điểm
thấp nhất là 10.000 đồng, giá khởi điểm cao nhất là 1.400.000 đồng.
Dema
State
LnAg
LnFsi
LnRespri
Marretu
RiskC
MAAR
AR
nd
own
Kind
lnDel
e
ze
ce
rn
o
MAAR
1
.710**
1
AR
Demand
-.256*
-.173
1
Stateown
-.025
.109
-.012
1
Kind
-.009
.067
.051
.132
1
LnDel
.113
-.004
.119
-.003
-.095
1
LnAge
.182
-.071
-.036
-.076
.105
.062
1
LnFsize
-.015
.089
-.284*
.301*
.133
-.270*
.085
1
LnResprice
-.475**
-.431**
.023
-.278*
-.180
-.246
-.091
.132
1
Marreturn
-.057
.121
.176
.218
.003
-.088
-.085
.190
.090
1
RiskCo
.023
-.016
-.004
-.040
-.011
.025
-.109
.010
-.028
.253*
1
Bảng 4.4: Ma trận Tương quan giữa các biến
Ma trận hệ số tương quan cho ta thấy một cái nhìn tổng quát ban đầu về
mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi trong ngày giao dịch đầu tiên với các biến
44
độc lập, cũng như mức độ tương quan giữa các biến độc lập với nhau. Dấu
“+” cho biết tương quan là cùng chiều, dấu “-” cho biết tương quan là ngược
chiều, giá trị càng lớn thì mức độ tương quan càng chặt, giá trị nhỏ hơn 0,3
tương quan là rất yếu.
Nhìn chung các biến phụ thuộc có tương quan yếu với các biến phụ
thuộc. Tuy nhiên, để kết luận được về mối tương quan này, tác giả tiếp tục
tiến hành chạy mô hình hồi quy trên SPSS để xem xét có xảy ra hiện tượng đa
công tuyến trong mô hình hay không?
4.3.2 Kết quả hồi quy
Bảng 4.5 trình bày kết quả hồi quy mức độ định dưới giá tính bằng
MAAR với các nhân tố giải thích.
Unstandardized
Collinearity
Coefficients
Statistics
Model
t
Sig.
B
Std. Error
Tolerance
VIF
2.319
2.880
.006
(Constant)
6.678
Demand
-.077
.038
-2.029
.047
.840
1.191
Stateown
-.007
.005
-1.419
.162
.740
1.351
Kind
-.192
.265
-.725
.472
.909
1.100
LnDel
.015
.175
.086
.932
.857
1.166
1
LnAge
.141
.131
1.073
.288
.931
1.074
LnFsize
.019
.088
.213
.832
.695
1.439
LnResprice
-.609
.144
-4.219
.000
.768
1.302
Marreturn
.236
.352
.669
.507
.798
1.253
RiskCo
-.020
.254
-.078
.938
.904
1.107
Bảng 4.5: Kiểm định hệ số hồi quy – thước đo MAAR
Với kết quả trên cho thấy mô hình các nhân tố tác động lên MAAR có các nhân tố Tỷ lệ mua vượt mức, giá khởi điểm có tác động lên MAAR với
45
mức ý nghĩa 5%, với hệ số VIF nhỏ hơn 2 nên không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình
Change Statistics
Std. Error
R
Adjusted
Durbin-
Model
R
of the
R Square
F
Sig. F
Square
R Square
Watson
df1
df2
Estimate
Change
Change
Change
.582a
.339
.229 1.0069907
.339
3.078
9
54
.005
2.075
1
Bảng 4.6: Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình – thước đo MAAR
Model
df
Mean Square
F
Sig.
Sum of Squares
Regression
28.090
9
3.121
3.078
.005b
1
Residual
54.758
1.014
54
63
Total
82.848
(a) Tóm tắt của mô hình
(b) Phân tích phương sai Bảng 4.6 (a) cho thấy 22,9 % của mức độ định dưới giá được giải thích
bởi các biến độc lập của mô hình.
Bảng 4.6 (b) cho thấy Giá trị Sig ≤ 0,05 % có thể nói rằng mô hình đưa
ra phù hợp với dữ liệu.
Bảng 4.7 trình bày kết quả hồi quy mức độ định dưới giá tính bằng AR
với các biến giải thích.
Bảng 4.8 trình bày kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình –thước
đo AR:
46
Model
Unstandardized
t
Sig.
Collinearity
Coefficients
Statistics
B
Std. Error
Tolerance VIF
(Constant)
7.705
2.756
2.795
.007
Demand
-.060
.045
-1.337
.187
.840
1.191
Stateown
-.006
.006
-1.002
.321
.740
1.351
Kind
-.026
.315
-.083
.934
.909
1.100
LnDel
-.095
.208
-.455
.651
.857
1.166
1
LnAge
-.174
.156
-1.112
.271
.931
1.074
LnFsize
.083
.104
.790
.433
.695
1.439
LnResprice
-.693
.172
-4.038
.000
.768
1.302
Marreturn
.709
.419
1.693
.096
.798
1.253
RiskCo
-.264
.302
-.877
.384
.904
1.107
Bảng 4.7: Kiểm định hệ số hồi quy – thước đo AR
Với kết quả trên cho thấy mô hình các yếu tố tác động lên AR chỉ có các
nhân tố Giá khởi điểm có tác động lên AR với mức ý nghĩa 5%, nhân tố Điều
kiện thị trường có tác động lên AR với mức ý nghĩa 10%, với hệ số VIF nhỏ
hơn 2 nên không có hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình.
Change Statistics
Durbin
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
-
R Square
F
df1
df2
Sig. F
Square
Estimate
Watson
Change
Change
Change
1
.538a
.289
.170
1.1970101
.289
2.438
9
54
.021
2.068
Bảng 4.8: Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình – thước đo AR
(a) Mức độ giải thích của mô hình
47
Model
df
F
Sig.
Sum of Squares
Mean Square
Regression
31.444
9
3.494
2.438
.021b
Residual
77.373
54
1
1.433
Total
108.817
63
(b) Mức độ giải thích của mô hình
Bảng 4.8 (a) cho thấy giá trị Adjusted R Square bằng 17 %. Điều này có
nghĩa là có khoảng 17% của mức độ định dưới giá được giải thích bởi các
biến độc lập của mô hình hay có thể nói rằng có khoảng 17% sự thay đổi của
tỷ suất sinh lợi điều chỉnh thị trường có thể được giải thích bởi các biến độc
lập trong mô hình.
Bảng 4.8 (b) cho thấy Giá trị Sig ≤ 0,05 % có thể nói rằng mô hình đưa
ra phù hợp với dữ liệu.
4.3.2.1 Nhân tố Tỷ lệ mua vượt mức
Theo thước đo MAAR: Nhân tố Tỷ lệ mua vượt mức có quan hệ ngược
chiều với mức độ định dưới giá với mức ý nghĩa là 5%.
Kết quả này phù hợp với giả thuyết kỳ vọng, phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Biais và Faugeron – Crouzet (2000) về 68 vụ IPO thông qua đấu giá
ở Pháp trong giai đoạn từ năm 1983 đến năm 1994: Khi số lượng đặt mua
càng cao thì mức độ định dưới giá càng thấp. Kết quả này cũng phù hợp với
kết quả nghiên cứu của TS. Trần Thị Hải Lý nghiên cứu tại thị trường Việt
Nam.
Tuy nhiên theo thước đo AR thì nhân tố Tỷ lệ mua vượt mức không có
tương quan với mức độ định dưới giá.
48
4.3.2.2 Nhân tố Độ trễ niêm yết
Theo cả hai thước đo MAAR và AR: Nhân tố Độ trễ niêm yết không có
tác động đến mức độ định dưới giá. Kết quả này khác với giả thuyết kỳ vọng
và khác với các kết quả nghiên cứu trên thế giới.
Đây có thể là một đặc trưng của thị trường Việt Nam: phần lớn các cuộc
đấu giá phát hành lần đầu ra công chúng nhưng không dự kiến thời gian niêm
yết cổ phiếu, và thực tế là độ trễ niêm yết trung bình tại Việt Nam là 642
ngày. Đây là con số khá cao so với các nghiên cứu khác trên thế giới.
Uddin (2008) nghiên cứu tại thị trường Singapore và Malaysia đã tìm
thấy thời gian từ khi IPO đến khi niêm yết càng dài thì mức độ định dưới giá
càng cao. Khoảng thời gian từ khi IPO đến khi niêm yết càng dài thì nhà đầu
tư có thể gặp nhiều rủi ro và mức độ không chắc chắn càng cao, do đó để thu
hút được nhà đầu tư nhà phát hành sẽ phải định dưới giá IPO.
4.3.2.3 Nhân tố Tuổi của công ty
Theo cả hai thước đo MAAR và AR: Nhân tố Tuổi của công ty không có
tác động đến mức độ định dưới giá. Kết quả này khác với giả thuyết kỳ vọng.
Kirkulak và Davis (2005) đã tìm thấy mối tương quan ngược chiều giữa
tuổi của công ty và mức độ định dưới giá ở Nhật Bản giai đoạn từ năm 1998
đến năm 2002. Lowry (2008) cũng tìm thấy rằng công ty có tuổi đời càng cao
thì mức độ định dưới giá càng thấp. Kết quả này cũng giống với kết quả
nghiên cứu của Tian (2011) về thị trường Trung Quốc
Theo suy luận chung, tuổi của công ty có mối quan hệ ngược chiều với
mức độ định dưới giá. Tuổi của công ty càng lớn thì vấn đề về bất cân xứng
thông tin càng ít xảy ra. Các công ty mới thành lập thường có rất ít hồ sơ và
thông tin tài chính để cung cấp cho các nhà đầu tư, các chuyên gia phân tích
49
tài chính có thể tham khảo, nghiên cứu. Sự thiếu thông tin này làm tăng mức
độ bất cân xứng thông tin giữa các công ty phát hành lần đầu ra công chúng
và các nhà đầu tư. Khi hiện tượng bất cân xứng thông tin xảy ra thì mức độ
định dưới giá càng cao, khi thông tin càng hoàn hảo thì hiện tượng định dưới
giá càng ít xảy ra.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu thực nghiệm khác lại có kết quả ngược lại,
như nghiên cứu của Xisheng Wang (2012) và Yuan Tian (2012) cho rằng tuổi
của công ty không có tác động đến mức độ định dưới giá.
Tại thị trường Việt Nam, TS. Trần Thị Hải Lý cũng đã tìm thấy kết luận
mối quan hệ giữa tuổi công ty và mức độ định dưới giá không có ý nghĩa
thống kê. Thật ra, các doanh nghiệp IPO của Việt Nam có tuổi đời tương đối
lớn, tuổi trung bình của các doanh nghiệp trong mẫu là 15,8 năm, nhưng các
doanh nghiệp IPO ở Việt Nam hầu hết là doanh nghiệp nhà nước, hoạt động
trong thời gian dài ở môi trường thiếu tính cạnh tranh nên không phản ánh sự
trưởng thành thực sự của doanh nghiệp và cũng rất khó để có được đầy đủ
thông tin tài chính của các doanh nghiệp này.
4.3.2.4 Nhân tố Quy mô công ty
Theo cả hai thước đo MAAR và AR: Nhân tố Quy mô của công ty
không có tác động đến mức độ định dưới giá. Kết quả này khác với giả thuyết
kỳ vọng.
Kết quả này cũng khác với kết quả nghiên cứu của Adjasi cùng các cộng
sự (2011), Adjasi đã tìm thấy bằng chứng về mối tương quan nghịch giữa quy
mô công ty và mức độ định dưới giá, trong đó quy mô công ty được xác định
là tổng tài sản. Điều này có nghĩa là những công ty có quy mô lớn thì mức độ
định dưới giá thấp.
50
Thông thường, những công ty có quy mô lớn thường được các nhà đầu
tư quan tâm nhiều hơn, mức độ hiểu rõ về công ty cao so với công ty có quy
mô nhỏ (thông tin hoàn hảo hơn). Do đó các công ty lớn có mức độ bất cân
xứng thông tin thấp hơn các công ty nhỏ và mức độ định dưới giá cũng sẽ
thấp hơn các công ty có quy mô nhỏ.
Một điểm đặc biệt do hầu hết các doanh nghiệp IPO ở Việt Nam tiền
thân là doanh nghiệp nhà nước nên sổ sách kế toán của các doanh nghiệp có
thể không phản ánh được giá trị của công ty, nhiều công ty có lượng tài sản
lớn nhưng phần lớn những tài sản đó là không hoạt động được.
4.3.2.5 Nhân tố Sở hữu nhà nước
Theo cả hai thước đo MAAR và AR: Nhân tố Sở hữu nhà nước không có
tác động đến mức độ định dưới giá với hệ số hồi quy âm đúng dấu kỳ vọng.
Kết quả này khác với giả thuyết kỳ vọng và khác với kết quả nghiên cứu của
Padgett (2005). Padgett (2005) đã tìm thấy ở Trung Quốc, tỷ lệ sở hữu nhà
nước sau IPO có tương quan nghịch với mức độ định dưới giá.
Một đặc trưng của thị trường Việt Nam đó là tỷ lệ sở hữu nhà nước là
khá cao sau khi doanh nghiệp IPO. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung cổ
phiếu IPO của nhà đầu tư và như vậy sẽ ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá.
4.3.2.6 Nhân tố Rủi ro công ty
Theo cả hai thước đo MAAR và AR: Nhân tố Rủi ro công ty không có
tác động đến mức độ định dưới giá với hệ số hồi quy âm, ngược dấu kỳ vọng.
Kết quả này khác với giả thuyết kỳ vọng nhưng phù hợp với kết quả nghiên
cứu của TS. Trần Thị Hải Lý nghiên cứu tại thị trường Việt Nam.
51
4.3.2.7 Nhân tố Điều kiện thị trường
Theo cả thước đo MAAR: Nhân tố Điều kiện thị trường không có tác
động đến mức độ định dưới giá với hệ số hồi quy dương, đúng dấu kỳ vọng
nhưng không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này khác với giả thuyết kỳ vọng.
Tuy nhiên theo thước đo A R thì Nhân tố Điều kiện thị trường có tác động
nhẹ đến mức độ định dưới giá với mức ý nghĩa 10%.
TS. Trần Thị Hải Lý nghiên cứu tại thị trường Việt Nam đã tìm thấy
nhân tố Điều kiện thị trường có tương quan dương nhưng yếu với mức độ
định dưới giá với mức ý nghĩa thống kê 10% theo thước đo AR nhưng không
có ý nghĩa thống kê khi mức độ định dưới giá tính theo MAAR.
4.3.2.8 Nhân tố Mức giá khởi điểm
Theo cả hai thước đo MAAR và AR: Nhân tố Mức giá khởi điểm có tác
động đến mức độ định dưới giá với hệ số hồi quy âm, đúng dấu kỳ vọng với
mức ý nghĩa thống kê 1%. Mức giá khởi điểm càng cao thì mức độ định dưới
giá càng thấp và ngược lại. Kết quả này phù hợp với giả thuyết kỳ vọng.
Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Xisheng Wang
(2012) và Ibbotson (1998). Xisheng Wang (2012) và Ibbotson (1998) đều sử
dụng giá IPO để làm biến đại diện: tìm thấy mối tương quan âm giữa Mức giá
phát hành và mức độ định dưới giá.
TS. Trần Thị Hải Lý nghiên cứu tại thị trường Việt Nam đã tìm thấy
nhân tố Mức giá khởi điểm có tương quan âm với mức mức ý nghĩa thống kê
1%. Đối với thị trường Việt Nam, giá phát hành ban đầu là mức giá khởi điểm
mà các tổ chức phát hành đưa ra cho nhà đầu tư tham chiếu trước cuộc đấu
giá, khác biệt với mức giá phát hành đưa ra lần đầu ở các thị trường trên thế
giới.
52
4.3.2.9 Nhân tố Loại hình doanh nghiệp
Theo cả hai thước đo MAAR và AR: Nhân tố Loại hình doanh nghiệp
không có tác động đến mức độ định dưới giá phù hợp với giả thuyết kỳ vọng
và cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của Xisheng Wang (2012). Tuy
nhiên, kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của md. Aminui islam
(2010) và Peter L. Karliskhi cho rằng loại hình doanh nghiệp có ảnh hưởng
đến mức độ định dưới giá.
Đối với thị trường Việt Nam, ngành dịch vụ đang trong giai đoạn phát
triển cả về số lượng và chất lượng, tuy nhiên những doanh nghiệp dịch vụ vẫn
chưa giành được ưu thế so với các doanh nghiệp sản xuất. Kết quả hồi quy
cho thấy: cho dù doanh nghiệp thuộc loại hình dịch vụ hay sản xuất cũng
không ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá. Điều này cũng phù hợp với một
số nghiên cứu thực nghiệm trước đây.
MAAR ABS_RESID
_MAAR
Correlation Coefficient
1.000
.210
MAAR
Sig. (2-tailed)
.
.096
N
64
64
Spearman's rho
Correlation Coefficient
.210
1.000
ABS_RESID_M
Sig. (2-tailed)
.096
.
AAR
N
64
64
Bảng 4.9: Kết quả kiểm định phương sai phần dư không đổi – MAAR
Kết quả kiểm tra giả thuyết về phương sai phần dư không đổi với mức ý nghĩa bằng 0,096 >0,05 cho thấy mô hình không có hiện tượng phương sai phần dư thay đổi
53
AR
ABS_RESID_AR
1.000
-.056
Correlation Coefficient
AR
Sig. (2-tailed)
.
.660
N
64
64
Spearman's rho
-.056
1.000
Correlation Coefficient
Sig. (2-tailed)
.660
.
ABS_RESID_AR
N
64
64
Bảng 4.10: Kết quả kiểm định phương sai phần dư không đổi – AR
Kết quả kiểm tra giả thuyết về phương sai phần dư không đổi với mức ý nghĩa là 0.66>0,05 cho thấy mô hình không có hiện tượng phương sai phần dư thay đổi
54
CHƯƠNG 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1. Kết luận
Nghiên cứu này tìm thấy bằng chứng về mức độ định dưới dưới giá
trung bình của các phát hành lần đầu ra công chúng là 55,6% (MAAR) và
42,6%(AR).
Nghiên cứu cũng tìm thấy rằng hai nhân tố có tác động lên mức độ định
dưới giá tại Việt Nam đó là giá khởi điểm, tỷ lệ cầu vượt mức. Nhân tố Điều
kiện thị trường có tác động nhẹ lên mức độ định dưới giá. Các nhân tố khác
như Tuổi công ty, Độ trễ niêm yết, Sở hữu nhà nước, Quy mô công ty, Rủi ro
của công ty, Loại hình doanh nghiệp không có mối quan hệ tương quan với
mức độ định dưới giá.
Giá khởi điểm có tương quan âm với mức độ định dưới giá IPO: giá khởi
điểm càng thấp thì mức độ định dưới giá càng cao. Kết quả này hàm ý rằng
nhà đầu tư nên lựa chọn những cổ phiếu có giá khởi điểm thấp nhằm đem lại
khả năng sinh lợi cao.
Tỷ lệ mua vượt mức có tương quan âm với mức độ định dưới giá IPO:
Tỷ số của khối lượng đặt mua và khối lượng chào bán cổ phiếu càng cao thì
mức độ định dưới giá càng thấp. Kết quả này còn có nghĩa là khối lượng đặt
mua càng nhiều thì mức độ định dưới giá càng thấp. Nhà đầu tư nên lưu ý
nhân tố này khi quyết định lựa chọn cổ phiếu để đầu tư.
Nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng kết quả dài hạn kém của các cổ
phiếu IPO ở cả ba khoảng thời gian 12 tháng, 24 tháng, 36 tháng kể từ tháng
liền kề ngày giao dịch đầu tiên.
55
5.2. Những đóng góp và hạn chế của đề tài
5.2.1 Những đóng góp
Đề tài đã thực hiện kiểm định để tìm ra bằng chứng cho việc định dưới
giá và kết quả dài hạn của các phát hành lần đầu ra công chúng tại Việt Nam,
đồng thời kiểm định các nhân tố giải thích cho việc định dưới giá để tìm mối
tương quan giữa chúng với việc định dưới giá nhằm giúp cho các đơn vị, cơ
quan nhà nước có thể tham khảo làm cơ sở giúp cho việc quản lý thị trường
tài chính hiệu quả hơn.
5.2.2 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Việc nghiên cứu đề tài này gặp một số hạn chế, nhất là trong quá trình
thu thập dữ liệu và từ những đặc điểm riêng của thị trường:
- Quy mô nghiên cứu của đề tài nhỏ, chỉ có 64 cuộc IPO.
- Thời gian từ khi IPO đến khi niêm yết là khá dài, tại Việt Nam khoảng
thời gian thấp nhất được ghi nhận là 3 tháng, cao nhất là khoảng 60 tháng.
Khoảng cách lớn làm giảm độ chính xác trong việc ghi nhận mức độ định
dưới giá theo kết luận của Tian (2005, 2006). Hơn nữa trong khoảng thời gian
dài đó doanh nghiệp có thể có nhiều thay đổi như trả cổ tức, trả thưởng cổ
phiếu,...làm ảnh hưởng đến giá tại ngày giao dịch đầu tiên. Điều này làm ảnh
hưởng đến kết quả nghiên cứu của đề tài.
- Các thước đo mức độ định dưới giá có thể bị ảnh hưởng bởi những giao
dịch không chính thức của thị trường trong khoảng thời gian sau khi phát
hành lần đầu ra công chúng nhưng trước khi niêm yết chính thức trên thị
trường. Ở thị trường Việt Nam, trên thị trường phi chính thức có sự chuyển
nhượng qua lại giữa các nhà đầu tư, các chuyển nhượng này được thực hiện
theo hình thức thỏa thuận nên giá là chênh lệch rất lớn giữa các thỏa thuận
56
mua bán. Do không có quy định nào về việc công bố thông tin đối với các
giao dịch phi chính thức này nên việc thu thập giá của những giao dịch này là
không thể thực hiện được. Đề tài này giả định không có sự chuyển nhượng
phi chính thức nào trong khoảng thời gian từ khi IPO đến khi niêm yết.
Mặc dù đề tài này đã khảo sát nhiều nhân tố giải thích mức độ định dưới giá, tuy nhiên chỉ số R2 chưa cao nghĩa là các nhân tố trong mô hình chưa đầy
đủ, vẫn còn một số nhân tố khác ảnh hưởng đến mức độ định dưới giá chưa
khảo sát như: uy tín của nhà bảo lãnh phát hành, lợi nhuận của doanh nghiệp,
chi phí IPO,.. Những nghiên cứu trong tương lai có thể xem xét đến yếu tố
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
Đinh Phi Hổ (2012). Phương pháp nghiên cứu định lượng & những nghiên
cứu thực tiễn trong kinh tế phát triển nông nghiệp, Nhà xuất bản Phương
Đông.
Hoàng Trọng – Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008). Phân tích dữ liệu nghiên
cứu với SPSS, Nhà xuất bản Hồng Đức.
Trần Thị Hải Lý (2013). Nghiên cứu mức độ định giá thấp các phát hành lần
Tài liệu Tiếng Anh
đầu ra công chúng và chiến lược đầu tư các cổ phiếu IPO tại Việt Nam.
Ahmad-Zaluki, N. A., Kevin Campbell and Alan Goodacre (2007). The long
run share price performance of Malaysian Initial Puplic Offerings (IPOs).
Ahmad – Zaluki and Lim Boon Kect (2012). The investment performance of
Mesdaq market innitial public offerings.
Jingchi and Carol Padgett (2002). Short-run Underpricing and its
charateristics in Chinese IPO markets.
Maher Kooli, Jean-Marc Suret (2001), The Aftermarket performance of Initial
puplic offerings in Canada.
Mai, Truong Loc. (2011). Underpricing of Initial puplic offerings cases: Ho
Chi Minh stock Exchange.
Md. Aminul Islam, Ruhani Ali, Zamri Ahmad (2010). An Empirical
Investigation of the Underpricing of Initial Public Offerings in the Chittagong
Stock Exchange
Ritter, J. R. (1991). The long-run performance of Initial puplic offerings.
Journal of Finance, 46(1), 3-27.
Ritter, J. R. (2003). Differences between European and american IPO
markets.
Ritter, J. R. (2013). Initial Puplic Offerings: Updated Stastistics.
Tian, L. (2011). Regulatory underpricing: Determinants of Chinese extreme
IPO returns. Journal of Empricial Finance, 18(1), 78-90.
Tim Loughran, Jay R. Ritter, Kristian Rydqvist (2013). Initial Public
Offerings: International Insights.
Xisheng Wang (2012). IPO underpricing in Hong Kong GEM.
Yuan Tian (2012). An examination factors influencing under-pricing of IPOS
on the London stock exchange.
ZhouYunlan (2011). Research on Under-pricing of Initial Public Offerings in
Our Country’s Growth Enterprise Market.
PHỤ LỤC
DANH SÁCH CÁC CÔNG TY TRONG MẪU
Mã
Ngày
Ngày giao
Stt
niêm
Tên công ty
đấu
dịch đầu
yết
giá
tiên
1 ABT Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu thủy sản Bến Tre
04/10/2005 25/12/2006
Công ty cổ phần Chứng khoán NH Nông nghiệp và
2 AGR
01/06/2009 12/10/2009
Phát triển Nông thôn Việt Nam
Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Sao Mai tỉnh
13/11/2007 18/01/2010
3 ASM
An Giang
Tổng Công ty Cổ phần Bảo Hiểm Ngân hàng Đầu tư
4
BIC
08/05/2010 06/09/2011
và Phát triển Việt Nam
5 BMP Công ty cổ phần nhựa Bình Minh
21/10/2005 07/11/2006
Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư
6
BSI
17/11/2010 19/07/2011
và Phát triển Việt Nam
7 BTP Công ty cổ phần Nhiệt điện Bà Rịa
15/3/2007 25/11/2009
8 BVH Tập đoàn Bảo Việt
31/5/2007 25/06/2009
9 BVS Công ty Cổ phần CK Bảo Việt
11/06/2006 18/12/2006
10 CMV Công ty Cổ phần Thương Nghiệp Cà Mau
22/10/2007 21/06/2010
11 CTD Công ty cổ phần Xây dựng Cotec
14/5/2007 20/01/2010
Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt
12 CTG
25/12/2008 16/07/2009
Nam
13 CVT Công ty cổ phần CMC
19/3/2007 05/11/2009
14 D2D Công ty cổ phần Phát triển Đô thị Công nghiệp Số 2
14/3/2008 14/08/2009
15 DBT Công ty cổ phần Dược phẩm Bến Tre
15/10/2007 30/10/2009
16 DIG Tổng công ty cổ phần Đầu tư Phát triển Xây dựng
26/11/2007 19/08/2009
Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất Dầu Khí -
17 DPM
21/4/2007 05/11/2007
CTCP
18 GAS Tổng Công ty Khí Việt Nam - CTCP
17/11/2010 21/05/2012
19 HLC Công ty than Hà Lầm
11/12/2007 03/05/2009
20 HOM Công ty xi măng Hoàng Mai
30/11/2007 07/09/2009
21 HRC Công Ty Cổ Phần Cao su Hòa Bình
10/10/2005 26/12/2006
22 HVX CTCP xi măng Hải Vân
22/12/2007 28/09/2010
23 KBT Công ty cổ phần Kiên Giang
01/07/2008
29/7/2010
24 KDC Công ty cổ phần Kinh Đô
12/08/2005 12/12/2005
Công ty cổ phần Khoáng sản và Xây dựng Bình
25 KSB
16/2/2006 20/01/2010
Dương
26 LAS Công ty Cổ phần Lâm Thao
19/11/2009 03/01/2012
27 LCG Công ty cổ phần LICOGI 16
01/09/2008 18/11/2008
28 MDC Công ty than Mông Dương
11/08/2007
23/7/2009
29 NBB Công ty Cổ phần 577
29/10/2007
18/2/2009
30 NBP Công ty Nhiệt điện Ninh Bình
18/4/2007 08/06/2009
31 NDN Công ty cổ phần ĐT Phát triển nhà Đà Nẵng
02/08/2010
21/4/2011
32 PDC Công ty DL Dầu khí Phương Đông
31/10/2007
29/9/2009
33 PDN Công ty cổ phần Cảng Đồng Nai
01/08/2008 26/10/2011
34 PGS CT KD khí hóa lỏng Miền Nam
24/5/2007 15/11/2007
35 PHR Công ty cổ phần Cao su Phước Hòa
31/12/2007
18/8/2009
36
PIT Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Petrolimex
28/6/2006
24/1/2008
37
PPC Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại
11/02/2005
19/5/2006
Tổng công ty cổ phần Khoan và Dịch vụ khoan Dầu
38 PVD
27/12/2005 05/12/2006
Khí
39 PVF TCT tài chính CP Dầu Khí VN
19/10/2007 03/11/2008
40 PVG Cty KD khí hóa lỏng Miền Bắc
03/02/2007 01/07/2009
41
PVI TCT Bảo hiểm Dầu Khí VN
26/6/2007 08/10/2007
42 PVT Tổng Công ty cổ phần Vận tải Dầu Khí
17/11/2006 10/12/2007
43
SD4 Công ty TNHHMTV Sông Đà 4
26/9/2007
25/6/2008
44
SD6 Công ty TNHHMTV Sông Đà 6
27/11/2007
14/3/2008
45 SDG Công ty SXKD VLXD Cần Thơ
05/07/2007 22/12/2009
46 SDT Công ty TNHHMTV Sông Đà 10
10/07/2005 14/12/2006
47
SEL Công ty TNHHMTV Sông đà 11
21/9/2007
16/9/2010
48
SRF Công ty cổ phần Kỹ Nghệ Lạnh
25/10/2007 21/10/2009
49 TMP Công ty thủy điện thác mơ
29/3/2007
18/6/2009
50 TTF Công ty Cổ phần k ỹ nghệ gỗ Trường Thành
10/01/2007
18/2/2008
51 TTP Công ty cổ phần Bao bì Tân Tiến
22/10/2005 05/12/2006
52 TVD Công ty than Vàng Dành
03/05/2008 01/11/2011
53 TV1 Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng điện 1
04/06/2007 23/09/2010
54 TYA Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya Việt Nam
27/5/2005 15/02/2006
CTCP xây dựng và phát triển đô thị tỉnh Bà Rịa -
55 UDC
28/11/2008 05/07/2010
Vũng Tàu
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
56 VCB
26/12/2007 30/06/2009
Nam
57 VIC Công ty Cổ phần Vincom
07/03/2007
19/9/2007
58 VNM Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
29/11/2005 19/01/2006
59 VOS Công ty cổ phần Vận tải biển Việt Nam
09/12/2007 09/08/2010
60 VST Công ty cổ phần Vận tải và Thuê tàu biển Việt Nam
21/9/2007 26/02/2009
61 VTO Công ty cổ phần Vận tải xăng dầu VITACO
09/12/2005 09/10/2007
62 AGM Công ty CP Xuất nhập khẩu An Giang
10/09/2007 14/12/2012
63 C32 Công ty CP Đầu tư Xây Dựng 3-2
14/7/2008
30/11/2012
64 EMC Công ty CP Cơ Điện Thủ Đức
24/4/2007
29/11/2012