BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHẠM THÚY HÒA
NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
PHẠM THÚY HÒA
NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số: 60 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU
Hµ NéI -2013
MỤC LỤC
Trang 3
MỞ ĐẦU Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN
LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 10
Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho phát triển 1.1
10
làng nghề Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai 1.2
cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội 29
Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ
DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ
48
NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực 2.1
48
đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho 2.2
phát triển làng nghề ở Thủ đô Hà Nội
KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 59 76 78 82
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
VIẾT TẮT
1. Cụm Công nghiệp làng nghề CCNLN
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
3. Cụm công nghiệp CCN
4. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp CN-TTCN
5. Chủ nghĩa xã hội CNXH
6. Giải phóng mặt bằng GPMB
7. Hội đồng nhân dân HĐND
8. Kinh tế - xã hội KT-XH
9. Làng nghề truyền thống LNTT
10. Trọng điểm Bắc Bộ TĐBB
11. Ủy ban nhân dân UBND
12. Xóa đói giảm nghèo XĐGN
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư
liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn lực quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất
cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói chung và mỗi ngành kinh tế
nói riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản
lý, khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả.
Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có diện tích
3.344,6 km2, với điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng, có nền văn hoá lâu
đời, đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền thống nhất cả nước
với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị
kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Với 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm khoảng 67% số làng nghề hiện
có của cả nước, Hà Nội tự hào là Thành phố có nhiều nghề thủ công nhất thế
giới. Trong những năm qua, ngành CN - TTCN của Thành phố Hà Nội ngày
càng đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Các cấp, các ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội, các hội, hiệp hội ngành nghề đã quan tâm đến sự
phát triển của nghề, làng nghề với sự năng động sáng tạo của nhân dân, nên
nhiều nghề, làng nghề được khôi phục, củng cố và phát triển. Quá trình hình
thành và phát triển của nghề, làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình
phát triển CN - TTCN ở nông thôn đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Thành phố; đời
sống của người lao động được nâng cao, giảm sự khác biệt giữa thành thị và
nông thôn, giữ vững trật tự an ninh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hạn chế di dân tự do và bảo tồn các giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc.
4
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng sự phát triển làng
nghề Thành phố Hà Nội vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế,
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Phát triển nghề, làng nghề vẫn mang
tính tự phát và gặp phải không ít những khó khăn như: thiếu mặt bằng để sản
xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi
mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản
phẩm, khả năng cạnh tranh thấp, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa tạo
nhiều thương hiệu hàng hoá, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, một số sản
phẩm truyền thống bị mai một, suy giảm. Cơ sở hạ tầng nhất là đường giao
thông, thông tin liên lạc chưa đồng bộ, môi trường làng nghề bị ô nhiễm
nghiêm trọng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Nói cách khác, sự phát
triển các làng nghề của thành phố Hà Nội chưa thực sự bền vững.
Nguyên nhân của tình trạng đó một phần do các nguồn lực, trong đó
có nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề chưa được khai thác và sử
dụng có hiệu quả. Thực tế tại các làng nghề cho thấy, công tác quản lý nhà
nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất,
định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính; sử dụng
đất còn lãng phí, hiệu quả thấp,... nên nguồn lực đất đai chưa được phát
huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển làng nghề.
Trong khi đó, Thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính
năm 2008 có quỹ đất tự nhiên tăng lên rất lớn, đây là nguồn lực hết sức to
lớn và quan trọng mà Thành phố Hà Nội phải tận dụng khai thác cho phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển các làng nghề của Thành phố nói
riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề ở Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế - chuyên
ngành kinh tế chính trị và sự nghiên cứu này có tính cấp thiết cả về lý luận
lẫn thực tiễn.
5
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và cho phát triển làng nghề nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta, vì vậy đã có rất nhiều cơ quan nhà nước, các chuyên gia quan
tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức.
Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo
chuyên đề có các công trình:
Công trình "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" của Giáo sư,
Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Minh Đạo, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, đã phân tích làm rõ thực trạng quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất hệ thống cơ chế chính sách về chuyển đổi
mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất nông nghiệp sang phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có Thủ đô
Hà Nội.
Công trình "Phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong
quá trình phát triển các khu công nghiệp: Thực trang và giải pháp" của Tiến
sỹ Đỗ Đức Quân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2008, đã làm rõ những vấn
đề cơ bản về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đề xuất giải pháp phát triển
các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề bên cạnh việc phát
triển các khu công nghiệp tập trung.
Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2012 chuyên đề về khai thác, quản lý và
sử dụng nguồn lực đất đai đã tập hợp hơn 10 bài viết nghiên cứu chuyên đề
của nhiều tác giả nổi tiếng như Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Hùng Võ, Giáo sư,
Tiến sỹ Vương Đình Huệ,... tập trung phân tích, đánh giá hiện trạng và đề
6
xuất những giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm khai thác, sử dụng, quản lý
có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội chung của đất
nước và một số địa phương điển hình, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình:
Luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Minh Yến, năm 2003 "Phát triển làng
nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa". Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Bạch Thị Lan Anh, năm 2011
"Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ".
Các đề tài luận án này đã tập trung nghiên cứu đánh giá hiện trạng phát triển
làng nghề, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển bền vững làng nghề, làng
nghề truyền thống ở phạm vi cả nước và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
trong đó nguồn lực đất đai được xem xét như một yếu tố nguồn lực để phát
triển bền vững các làng nghề.
Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Tùng, năm 2010,
“Khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai để phát triển kinh tế - xã
hội ở Hà Nội” tập trung đánh giá kết quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài
chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đối tượng
nghiên cứu là quan hệ tài chính về đất đai giữa một bên là chính quyền Thành
phố - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một bên là các đối tượng sử dụng
đất bao gồm: Các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài được Thành phố
giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất; các loại thuế liên quan đến đất; biểu hiện ra bên ngoài của mối
quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng tiền, bằng sự ổn định,
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và Thủ đô.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về làng nghề về nguồn lực đất
đai đều đã tiếp cận về cơ sở lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phạm vi tương đối rộng ở cấp độ
7
vùng hoặc liên vùng, một số nghiên cứu phạm vi hẹp hơn, giới hạn trên địa
bàn Thành phố Hà Nội nhưng thời gian nghiên cứu trước khi Thành phố điều
chỉnh địa giới hành chính năm 2008 nên không còn nhiều tính cập nhật, thời
sự. Những công trình này đối tượng nghiên cứu là phát triển làng nghề, nguồn
lực đất đai chỉ được xem xét như một giải pháp để phát triển làng nghề. Một
số công trình nghiên cứu về nguồn lực đất đai hầu hết chỉ tập trung nghiên
cứu về nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội hoặc quản lý
nhà nước về đất đai.
Tóm lại, sau khi tìm kiếm và nghiên cứu các công trình của nhiều tác
giả liên quan đến phát triển làng nghề trên địa bàn từ sau khi có Nghị quyết
số 15NQ-QH/2008 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành
chính hành phố Hà Nội chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Do vậy, học viên lựa
chọn đề tài: "Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà
Nội" để nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị là hoàn toàn mới, không
trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn lực
đất đai để phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó đề
xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai
cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực đất đai cho phát triển
làng nghề.
Phân tích, thực trạng về huy động, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề Thành phố Hà Nội.
8
Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất
đai cho phát triển làng Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành
phố Hà Nội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn Thủ đô và được tiếp cận dưới hai góc độ:
- Đất đai là tư liệu sản xuất, là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho sản xuất
tại các làng nghề;
- Đất đai là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo
nguồn vốn cho phát triển làng nghề.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về không gian nghiên cứu chủ yếu là các làng nghề tại huyện ngoại
thành của Thành phố Hà Nội.
Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước có liên quan; đồng thời sử dụng những lý thuyết kinh tế chính trị
học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; kế thừa có chọn lọc
những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp logíc lịch
sử, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
9
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu để các
cơ quan quản lý nhà nước, các làng nghề tham khảo phục vụ cho công tác quy
hoạch, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển nghề và làng nghề Thành
phố Hà Nội.
- Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị ở các trường
cao đẳng, đại học.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài mở đầu, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2
chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho
phát triển làng nghề
1.1.1. Làng nghề và vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế -
xã hội ở Thủ đô Hà Nội
* Làng nghề:
Theo quan điểm của Chính phủ và một số bộ, ngành liên quan khái
niệm về nghề và các loại hình làng nghề như sau:
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, thôn, bản làng, buôn,
phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các
hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
khác nhau.
Để được công nhận làng nghề phải đạt được các tiêu chí: Có tối thiểu
30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn;
hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước.
* Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống. Làng
nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất 1 nghề truyền thống
theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN. Đối với những làng chưa đạt
tối thiểu 30% tổng số hộ và 2 năm sản xuất kinh doanh làng nghề ổn định
nhưng có ít nhất 1 nghề truyền thống được công nhận theo quy định của Thông
tư số 116/2006/TT-BNN thì cũng được công nhận làng nghề truyền thống.
Để được công nhận làng nghề truyền thống, các làng nghề phải đạt
được những tiêu chuẩn: (1) Về thời gian: Là làng có nghề được hình thành
trên 50 năm tính đến ngày làng được đề nghị xét danh hiệu làng nghề truyền
11
thống; (2) Về kinh tế: Có giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng
chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng; (3) Về sử
dụng lao động: Có tối thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động ngành
nghề nông thôn; (4) Bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các
quy định hiện hành; (5) Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Thành phố và địa phương; (6)
Sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, phải gắn với tên tuổi của
làng; (7) Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn của môi trường
theo quy định tại điểm 4 vẫn được xem xét công nhận danh hiệu làng nghề
truyền thống khi đã có các đề án, dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi
trường và đề ra các biện pháp xử lý khắc phục ô nhiễm môi trường.
* Làng nghề mới: Là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những
điều kiện nhất định để hình thành và phát triển.
* Nghề truyền thống: Là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra sản
phẩm độc đáo có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay
hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí: (1)
Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ 50 năm tính đến thời điểm công
nhận; (2) Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; (3)
Nghề gắn với tên tuổi của 1 hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi làng nghề.
* Làng có nghề: Là làng được hình thành cùng với sự phát triển của
nền kinh tế chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều
kiện thuận lợi để phát triển. Trong đó làng có số hộ, số lao động sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ít nhất từ 10% trở lên.
Với tiêu chí như trên, đến nay Thành phố Hà Nội đã công nhận 277
làng đạt tiêu chuẩn làng nghề chiếm 20,52% tổng số làng có nghề của Thành
12
phố, trong đó có 244 làng nghề truyền thống. Huyện Thanh Oai có 51 làng,
Thường Tín có 44 làng, Phú Xuyên 39 làng, Chương Mỹ 33 làng, Ứng Hoà 20
làng, Ba Vì 14 làng, Quốc Oai 15 làng, Hoài Đức 12 làng, quận Hà Đông 6
làng, Phúc Thọ 5 làng, Gia Lâm 5 làng, thị xã Sơn Tây 2 làng, Sóc Sơn 2 làng,
Từ Liêm 2 làng, Thanh Trì 2 làng, quận Long Biên 1 làng và Mê Linh 1 làng.
Phân theo ngành nghề gồm: Ngành mây tre đan có 83 làng, chiếm tới
30% số làng nghề; ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm 44 làng, chiếm
15,88%; nghề thêu ren 28 làng; nghề dệt may 25 làng; nghề chế biến lâm sản
23 làng; nghề nón mũ lá 20 làng; nghề cơ kim khí 13 làng; nghề sơn mài -
khảm trai 11 làng; nghề da giầy, khâu bóng 8 làng; nghề chạm điêu khắc 6
làng; nghề gốm sứ 3 làng; nghề đan tơ lưới 4 làng; nghề sinh vật cảnh 2 làng;
nghề dát vàng bạc quý 1 làng và nghề khác 6 làng.
Nghề có nhiều làng nghề nhất là: ngành nghề mây tre giang đan có 83
làng, trong đó huyện Chương Mỹ 29 làng, Phú Xuyên 11 làng, Quốc Oai 11
làng, Ứng Hoà 11 làng, Thanh Oai 8 làng... Ít nhất là ngành dát vàng, bạc quý
(Gia Lâm) với 01 làng, rắn Lệ Mật (Long Biên) 01 làng... [29, tr.2].
Quy mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Cơ cấu
lao động ở nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và
dịch vụ. Các huyện có nhiều hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là:
Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ.
Một số huyện có số hộ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp thấp hơn như Từ
Liêm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Đông Anh, Mê Linh, thị xã Sơn Tây từ 500 - 700 hộ.
* Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội
Thứ nhất, tạo việc làm cho người lao động.
Các cơ sở sản xuất làng nghề từ các hộ gia đình đến các thành phần
kinh tế trong làng nghề đã thu hút một số lượng lớn lao động trong sản xuất
13
phi nông nghiệp, hạn chế số lao động di dời nông thôn ra thành thị tìm việc
làm. Ngành nghề đã thu hút từ 30 đến 70% số hộ và từ 50 đến 90% số lao
động tham gia sản xuất nghề với trên 300.000 lao động thường xuyên. Ngoài
ra còn thu hút hàng nghìn lao động nơi khác đến làm thuê như nghề gốm sứ
Bát Tràng (Gia Lâm), làng dệt kim La Phù (Hoài Đức), đan cỏ tế xã Phú Túc,
khảm trai xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), Vân Hà, Liên Hà (Đông Anh), Liên
Trung (Đan Phượng)...
Sự phát triển làng nghề kéo theo dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu,
chuyên chở, kinh doanh hàng hoá, phục vụ ăn uống cho các làng nghề tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động. Cơ cấu lao động trong công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm từ 75 đến 85% trong tổng số lao động,
lao động thuần nông chỉ còn từ 15 đến 25%. Ngoài ra các làng nghề góp phần
giải quyết việc làm cho các lao động dôi dư trong quá trình đô thị hoá, từ đó
đã góp phần phân công lại lực lượng lao động ở nông thôn.
Thứ hai, góp phần tăng thu nhập, hạn chế tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh
trật tự ở nông thôn.
Nghề, làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và
khả năng tích luỹ của các hộ khu vực ngoại thành Thành phố. Qua khảo sát ở
các làng nghề cho thấy, thu nhập bình quân của các hộ sản xuất nghề là 24
triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần so với thu nhập bình quân của cả làng và
gấp 4 lần so với thu nhập của các hộ thuần nông. Đời sống nhân dân được cải
thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở các làng nghề thấp hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo của
các hộ thuần nông. Số hộ nghèo có mức thu nhập dưới 320.000
đồng/người/tháng đã giảm từ 46.272 hộ, năm 2006 xuống 42.164 hộ năm
2010 [37, tr. 42].
Thứ ba, hạn chế di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố.
14
Quá trình phát triển kinh tế ở Thủ đô nhất là việc đô thị hoá gây sức ép
về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân ngoại thành đi tìm việc
làm ở trung tâm Thành phố. Quá trình đó đã gây áp lực đối với các điều kiện
dịch vụ, cơ sở hạ tầng xã hội ở Thành phố, gây khó khăn quản lý trật tự xã hội.
Vì vậy, sự phát triển nghề, làng nghề hạn chế đáng kể hiện tượng di dân tự do
từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Với 1.350 làng có nghề ở ngoại
thành, người nông dân có thu nhập ổn định gắn bó với làng quê, đồng thời thu
hút lao động các địa phương khác đến làm việc, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Thứ ba, phát huy nội lực địa phương, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
Nghề, làng nghề phát triển tạo điều kiện khai thác thế mạnh của địa
phương về nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, tiền vốn) để tập trung cho
sản xuất kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã, công ty
TNHH... Trong quá trình phát triển sẽ tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề cao,
lớp nghệ nhân mới có trình độ để tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ về công
nghệ tiên tiến sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, giá thành hạ, khả năng
cạnh tranh thị trường lớn, đáp ứng dần với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghề, làng nghề phát triển kéo theo sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở
làng nghề như: đường giao thông được cải tạo, nâng cấp; thiết chế văn hoá ở
cơ sở được quan tâm xây dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt về vật chất, tinh
thần của nhân dân, đồng thời bảo tồn phát huy giá trị văn hoá ở các làng nghề
của địa phương.
Lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống của Thành phố gắn với
lịch sử phát triển văn hoá của dân tộc. Mỗi làng nghề sản xuất ra những sản
phẩm chứa đựng nét độc đáo của văn hoá dân tộc, là di sản quý giá của cha
ông tạo ra, truyền lại cho con cháu, làm vẻ vang cho Thủ đô và đất nước như:
Lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, sơn mài Duyên Thái, thêu Quất Động, đan
15
cỏ tế Phú Túc, mây tre đan Phú Vinh, đúc đồng Ngũ Xã... Vì vậy, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội
ngũ nghệ nhân và những bí quyết quý giá của nghề đã góp phần không nhỏ
vào việc duy trì bảo tồn di sản văn hoá. Bảo tồn và phát triển ngành nghề thủ
công là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, tăng giá trị văn hoá truyền thống của
Việt Nam đối với bạn bè thế giới.
Thứ tư, góp phần tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu và phát triển dịch
vụ du lịch.
Nhu cầu tiêu dùng trong nước hàng thủ công mỹ nghệ ngày một tăng về khối
lượng và chủng loại các sản phẩm hàng hoá để trang trí nội thất và nơi làm việc.
Hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề được người nước ngoài ưa thích
đã góp phần làm phong phú thị trường xuất khẩu của Hà Nội. Giá trị xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên
104 triệu USD năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng bình
quân hàng năm từ 1,6% đến 2,8%/năm [29, tr.5].
Hà Nội có tiềm năng về phát triển du lịch lớn lại có nhiều làng nghề
truyền thống. Vì vậy, việc gắn kết các tour du lịch đến với các làng nghề để
khách du lịch tham quan, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ tăng
thêm chất lượng của tour du lịch, qua đó quảng bá các sản phẩm làng nghề,
đồng thời góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ, du lịch phát triển.
Thứ năm, thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nghề, làng nghề đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế của Thành phố phát
triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đến năm 2010 tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP của Thành phố đã chiếm tới 93,8%; nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản là 6,2%. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công
16
nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Sự phát triển các
làng nghề đã mở rộng quy mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đã làm
chuyển dịch cơ cấu lao động sang làm công nghiệp và dịch vụ và giảm dần
lao động nông nghiệp. Chính làng nghề phát triển đã hình thành các trung tâm
buôn bán, trao đổi hàng hoá, dần dần trở thành các trung tâm dân cư, các thị
trấn, thị tứ và từng bước đô thị hoá.
Với vai trò như trên nên việc khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển
các làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã
hội và quốc phòng, an ninh.
1.1.2. Vai trò của nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề trên địa
bàn Thành phố Hà Nội
* Lý luận chung về địa tô.
Địa tô là phần sản phẩm thặng dư do những người sản xuất trong nông
nghiệp tạo ra và nộp cho người chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô gắn liền với sự ra
đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Đã từng tồn tại trong các chế độ
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ
nghĩa xã hội. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, địa tô là do lao động của nô lệ và
những người chiếm hữu ruộng đất nhỏ tự do tạo ra. Trong chế độ phong kiến,
địa tô là phần sản phẩm thặng dư do nông nô tạo ra và bị chúa phong kiến
chiếm đoạt, có khi còn bao gồm cả một phần sản phẩm tất yếu. Trong chủ
nghĩa tư bản, do còn chế độ tư hữu về ruộng đất trong nông nghiệp nên vẫn
tồn tại địa tô. Về thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là phần giá trị thặng
dư thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân và do nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp trả cho địa chủ. Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa vẫn là do lao
động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa tô tư bản chủ
nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông
nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê. Trong chủ nghĩa tư bản, có các
loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền.
17
Địa tô chênh lệch là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung nông
phẩm đươc quyết định bởi điều kiện không thuận lợi nhất với giá cả sản xuất
cá biệt ở những nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi, do đó năng suất lao động
được nâng cao. Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân, nhà tư bản thu được trên những thửa ruộng đất có điều kiện
thuận lợi và trả cho địa chủ. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng
dư trong nông nghiệp không phải do ruộng đất đẻ ra. Ruộng đất tốt hay xấu
chỉ là điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân
nông nghiệp, là cơ sở tự nhiên không thể thiếu do địa tô chênh lệch hình
thành. Nguồn gốc của địa tô chênh lệch và địa tô nói chung là do lao động của
công nhân nông nghiệp tạo gia
Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hoá lợi
nhuận siêu ngạch thành địa tô, địa tô chênh lệch được chia làm hai loại: địa tô
chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Đây là cách Mác chia và ông coi địa tô
chênh lệch I gắn liền với độ mầu mỡ tự nhiên và vị trí địa lí thận lợi, còn địa
tô chênh lệch II gắn liền với thâm canh, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên
cùng một đơn vị diện tích.
Địa tô tuyệt đối là toàn bộ số chênh lệch giữa giá trị và giá cả sản xuất
hay chỉ bằng một phần (lớn hoặc nhỏ) của số chênh lệch. Như vậy giá cả
nông sản có thể cao hơn giá cả sản xuất của chúng. Nhưng vẫn thấp hơn giá
trị của chúng và không phải giá cả đắt lên là nguyên nhân sinh ra địa tô, mà
chính địa tô là nguyên nhân làm cho giá cả nông sản tăng lên. sự thiệt hại đối
với xã hội là nguồn gốc làm giàu cho giai cấp địa chủ. Khi độc quyền tư hữu
ruộng đất bị thủ tiêu thì địa tô tuyệt đối bị xoá bỏ. Giá cả nông sản sẽ hạ
xuống có lợi cho xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào sản suất
nông nghiệp với phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất xây dựng, đất hầm mỏ
18
còn phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng. Bất kì ở đâu có sức tự nhiên
bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu ngạch cho nhà tư bản sử dụng
những sức tự nhiên. Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô
đất nông nghiệp nhưng nó cũng có đặc trưng riêng. Đó là, trong việc hình
thành địa tô đất xây dựng, vị trí của đất đai là yếu tố quyết định, còn độ màu
mỡ và hình thái của đất đai không ảnh hưởng lớn; địa tô đất xây dựng tăng lên
nhanh chóng do sự gia tăng dân số, do nhu cầu nhà ở tăng lên và do những tư
bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên.
Địa tô luôn ngắn với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều
kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả độc
quyền của nông sản. tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những loại cây
cho sản phẩm quý hiếm có giá trị cao hay có những khoáng sản đặc biệt có
giá trị, thì địa tô ở những đất đó rất cao, có thể xem đó là địa tô độc quyền.
Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả
độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai.
Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô hầm mỏ và địa tô bãi cá,
đất rừng thiên nhiên,... tuy là địa tô thu được trên những diện tích đất phi
nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở địa tô đất nông nghiệp theo đúng nghĩa
của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh
lệch. Mác nói "Bất kỳ ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng
những sức tự nhiên ấy, chẳng kể là thác nước, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là
những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu
ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về
quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô".
Trong chủ nghĩa xã hội, khi ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không
còn là tư hữu của địa chủ hay nhà tư bản, thì những cơ sở kinh tế để hình
thành địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền cũng bị xoá bỏ, nhưng vẫn tồn lại
19
địa tô chênh lệch, song nó thuộc sở hữu của nhà nước và khác về bản chất với
địa tô chênh lệch dưới chủ nghĩa tư bản.
Ở Việt Nam, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc
biệt của nông nghiệp, lâm nghiệp, không gì thay thế được, và là tài nguyên
quý giá của quốc gia. Nhà nước chuyển quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho
nông dân, và người sử dụng đất phải nộp thuế sử dụng đất; cho người nước
ngoài thuê đất để lập doanh nghiệp hay để xây dựng trụ sở cơ quan ngoại
giao; cho phép các tổ chức, cá nhân người Việt Nam tham gia xí nghiệp liên
doanh với người nước ngoài được góp vốn pháp định bằng giá trị đất sử dụng.
Tuy hình thức địa tô tuyệt đối không còn, nhưng ruộng đất vẫn là một tư liệu
sản xuất có giá trị và người sử dụng vẫn phải trả giá như là một loại địa tô.
* Khái niệm về nguồn lực đất đai.
Nguồn lực là hệ thống những yếu tố tự nhiên, xã hội có ích đối với sự
phát triển của xã hội loài người, thông qua việc khai thác, sử dụng chúng mà
con người có thể tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình. Tùy
theo trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã
hội, các nguồn lực được khai thác nhằm phục vụ cho nhu cầu rất khác nhau
của con người. Do đó, vị trí, vai trò của các nguồn lực là rất khác nhau. Thậm
chí, đối với các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, các nguồn lực cũng
phát huy tác dụng không giống nhau.
Nguồn lực phát triển kinh tế có thể phân loại theo ngành, theo lĩnh vực.
Theo nhận thức phổ biến hiện nay, các nguồn lực bao gồm: nguồn lực con
người, nguồn lực đất đai, nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học - công
nghệ, hay cách hiểu tương tự là vốn, lao động, đất đai, tri thức.
Trong hệ thống các nguồn lực cho sự phát triển của xã hội loài người
kể trên, nguồn lực đất đai luôn có vị trí rất quan trọng. Vai trò đó còn ngày
càng quan trọng hơn đối với một quốc gia có trình độ phát triển thấp, đặc biệt
20
đối với nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng nông nghiệp. Đất đai là một tư
liệu sản xuất đặc biệt không chỉ đơn thuần là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho
hoạt động sản xuất mà trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai còn được coi
là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo nguồn vốn cho
sản xuất.
Theo đó, có thể hiểu: Nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề là
yếu tố tự nhiên có ích với vai trò là tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính - vốn
không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ được huy
động, sử dụng cho phát triển các làng nghề phù hợp với quy định của pháp
luật và giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan.
Như vậy, nội dung nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề được
hiểu với tư cách là tư liệu sản xuất như dùng để xây dựng nhà xưởng, tạo mặt
bằng cho sản xuất, nhà kho, sân phơi...; đồng thời, đó còn là nguồn lực tài
chính, nguồn vốn nếu đất đai được chuyển đổi theo cơ chế thị trường và phù
hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
* Vai trò của nguồn lực đất đai trong phát triển làng nghề
Thứ nhất, nguồn lực đất đai với vai trò là tư liệu sản xuất.
Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện
tồn tại và phát triển của con người và các loài sinh vật khác trên trái đất. Các
Mác đã viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để
sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ
bản của sản xuất vật chất” [20, tr.7].
Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai
ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận
của con người, con người dựa vào đó để tạo nên của cải vật chất nuôi sống
mình. Đất đai luôn là thành phần quan trọng của môi trường sống. Không có
21
đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao
động nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người.
Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và
đời sống con người, đất đai chiếm vị trí đặc biệt, là điều kiện đầu tiên và nền
tảng tự nhiên của bất kỳ quá trình sản xuất nào.
Các Mác cho rằng, đất đai là phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung
cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể.
Khi nói về vai trò và ý nghĩa của đất đai đối với nền sản xuất xã hội, Mác đã
khẳng định "Lao động không phải nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và
giá trị tiêu thụ - như William Petty đã nói - Lao động chỉ là cha của của cải
vật chất, còn đất là mẹ". Chúng ta đều biết rằng không có đất đai thì không
thể có sản xuất, cũng như không tồn tại con người. Đất đai là sản phẩm tự
nhiên, xuất hiện trước con người. Đất đai tồn tại như một vật thể lịch sử - tự
nhiên không phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội [22, tr.164].
Đất đai là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và
hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động vừa là phương tiện lao
động, tuy nhiên đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, nó khác với các tư liệu
sản xuất khác ở những đặc điểm sau:
- Đặc điểm tạo thành: Đất đai xuất hiện ngoài ý chí và nhận thức của
con người; là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, là điều kiện tự nhiên
của lao động. Chỉ khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội, dưới tác
động của lao động đất đai mới trở thành tư liệu sản xuất. Trong khi đó các tư
liệu sản xuất khác là kết quả của lao động có trước của con người.
- Tính hạn chế về số lượng: Đất đai là tài nguyên hạn chế, diện tích đất
bị giới hạn bởi ranh giới đất liền. Các tư liệu sản xuất khác có thể tăng về số
lượng, chế tạo lại tùy theo nhu cầu của xã hội.
22
- Tính không đồng nhất: Đất đai không đồng nhất về chất lượng, giá trị
và mục đích sử dụng. Các tư liệu sản xuất khác có thể đồng nhất về chất
lượng, quy cách, tiêu chuẩn.
- Tính không thay thế: Thay thế đất đai bằng từ liệu sản xuất khác là
không thể thực hiện được. Các tư liệu sản xuất tùy thuộc vào mức độ phát
triển của lực lượng sản xuất có thể được thay thế bằng tư liệu sản xuất khác
hoàn thiện hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Tính cố định vị trí: Đất đai hoàn toàn cố định vị trí trong quá trình sử
dụng, không thể di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Các tư liệu sản xuất
khác được sử dụng ở mọi chỗ, mọi nơi, có thể di chuyển trên các khoảng cách
khác nhau tùy theo sự cần thiết.
- Tính vĩnh cửu: Đất đai là tư liệu sản xuất vĩnh cửu, nếu biết sử dụng
hợp lý thì có thể làm tăng tính chất sản xuất cũng như hiệu quả sử dụng đất.
Khả năng tăng tính sản xuất của đất tùy thuộc vào phương thức sử dụng là
tính chất có giá trị đặc biệt, không tư liệu sản xuất nào có được. Các tư liệu
sản xuất khác đều bị hư hỏng dần, hiệu ích sử dụng giảm và cuối cùng là bị
loại khỏi quá trình sản xuất.
Như vậy có thể nói "đất đai là một tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng.
Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một
tư liệu sản xuất đặc biệt" [20, tr.12].
Muốn xây dựng nhà máy, trước hết phải có địa điểm, một diện tích đất
đai nhất định, trên đó sẽ là nơi xây dựng nhà xưởng để máy móc, thiết bị, kho
tàng, bến bãi, nhà làm việc, đường sá đi lại trong nội bộ,... tất cả những cái đó
là điều cần thiết trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quỹ đất là toàn bộ diện tích đất đai các loại của một quốc gia, một vùng
hay địa phương của một loại đất theo mục đích sử dụng. Quỹ đất có thể được
tính cho toàn bộ hay cho một đầu người. Có thể xem xét cơ cấu quỹ đất các
23
loại đang sử dụng theo mục đích. Quỹ đất của một quốc gia hay địa phương
thường là cố định và việc tăng thêm thường rất hạn chế. Quỹ đất theo đầu
người thường có xu hướng giảm bớt, vì đất đai không được sản sinh ra thêm
trong khi dân số lại tăng lên. Quỹ đất đai của quốc gia là một nguồn lực tự
nhiên cần được bảo vệ, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Quỹ đất
đai được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với quá trình hình thành đất
với một lịch sử lâu đời trong quá trình sử dụng đất của con người. Quỹ đất
cũng được phân bố một cách tự nhiên gắn liền với phân bố các vùng lãnh
thổ. Mặt khác, trong quá trình sử dụng đất do những nhu cầu sử dụng đất
khác nhau, quỹ đất cũng được hình thành bởi con người nhằm điều hòa và
bố trí lại đất đai theo mục đích sử dụng. Khi những nhu cầu về xây dựng cơ
sở hạ tầng, về phát triển các khu công nghiệp, đô thị tăng lên, con người có
thể điều chỉnh, giảm bớt diện tích của các quỹ đất khác như quỹ đất nông
nghiệp để tăng quỹ đất cho các loại nhu cầu trên. Sự thay đổi cơ cấu quỹ
đất trong tổng thể quỹ đất tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng, nói lên xu thế
phát triển của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời
cũng thể hiện trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và ứng dụng chúng
vào sản xuất.
Thứ hai, nguồn lực đất đai với vai trò là nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính là khối lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ trong
quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, phản ánh các mối quan hệ kinh tế
xã hội trong quan hệ phân phối nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng
của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, nguồn lực tài chính là phạm trù của
quan hệ phân phối, đó là sự phân phối bằng giá trị chứ không phải bằng hiện
vật và thông qua hiện vật [33, tr.21].
Nguồn lực tài chính được biểu hiện rất khác nhau, tùy theo nguồn gốc
hình thành mà chủ thể có thể thực hiện để có được các quỹ tiền tệ tập trung.
24
Thông qua các nguồn lực tài chính mà những chủ thể trong xã hội có được hệ
thống các quỹ tiền tệ tập trung vận động độc lập với các chức năng cất trữ hay
phương tiện thanh toán. Nguồn lực tài chính là sự vận động của tiền tệ.
Với cách hiểu như vậy, để hình thành nguồn lực tài chính hay các quỹ
tiền tệ vận động tập trung, các chủ thể trong xã hội có thể khai thác từ nhiều
nguồn lực khác nhau trong đó có nguồn lực từ đất đai.
Nguồn lực tài chính từ đất đai là nguồn lực tài chính được hình thành từ
nguồn lực đất đai thông qua quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong một xã hội
nhất định và chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu của xã hội đó.
Tài chính và nguồn lực tài chính phản ánh mặt quan hệ giữa các chủ thể
trong xã hội cụ thể là biểu hiện của quan hệ phân phối, song vì đó là sự phân
phối giá trị cho nên quan hệ đó chỉ được thực hiện trong nền kinh tế hàng hóa.
Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất của mặt phân phối và thực hiện giá trị từ các
nguồn lực là trong nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao hay kinh tế
thị trường. Vì kinh tế thị trường mới có khả năng biến mọi nguồn lực trở
thành hàng hóa và biến các hàng hóa đó trở thành những biểu hiện của giá trị,
mặc dù có thể chúng không phải do lao động làm ra.
Với ý nghĩa như vậy, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ có thể được
hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ đất
đai được thị trường hóa. Tức là chúng có thể được mua bán và trao đổi trên
thị trường.
Về mặt nguyên lý, những gì không phải là sản phẩm của sự hao phí lao
động trừu tượng của con người tạo ra thì chúng không có giá trị. Tuy nhiên,
chúng lại có thể là phương tiện để thực hiện lợi ích của các chủ thể sở hữu
chúng. Với tư cách là phương tiện để thực hiện lợi ích thì chúng có vai trò
trong việc hình thành các quỹ tiền tệ tập trung và vì thế chúng góp phần hình
25
thành các nguồn lực tài chính. Đất đai là một trong những yếu tố có đặc trưng
như vậy.
Bản thân đất đai không là sản phẩm của lao động, vì thế theo cách hiểu
thông thường chúng không có giá trị. Tuy nhiên, đất đai lại là nguồn lực mang
tư cách là điều kiện quan trọng tham gia vào các quá trình tạo ra của cải cho
xã hội. Đất đai không phải là nguồn gốc tạo ra giá trị nhưng đất đai là điều
kiện tạo ra của cải. Khi khoác áo là điều kiện cho quá trình tạo ra của cải thì
người ta có thể thực hiện được lợi ích từ chúng. Miễn là phải làm thế nào để
sở hữu chúng mà thôi. Từ việc sở hữu đất đai, các chủ thể có thể đem đất đai
ra để trao đổi như những yếu tố sản xuất khác. Thông qua sự trao đổi đó, chủ
thể thực hiện được lợi ích của họ. Hay nói một cách khác, đất đai là điều kiện
để các chủ thể sở hữu thực hiện được nguồn thu nhập dưới dạng hình thái
tiền, các nguồn tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đó là những
nguồn lực tài chính từ đất đai.
Về bản chất, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh quan hệ phân phối
giá trị để hình thành các quỹ tiền tệ thông qua đất đai.
Với tư cách là một loại nguồn lực tài chính, nguồn lực tài chính từ đất
đai có tính chất đặc thù. Tính đặc thù đó thể hiện ở chỗ, nó phản ánh quan hệ
phân phối và sử dụng nguồn tài chính song quá trình phân phối và sử dụng
nguồn tài chính đó lại gắn liền với quyền sở hữu đất.
Đó là quan hệ phát sinh được hình thành trên cơ sở thực hiện lợi ích từ
quyền sở hữu đất. Mà việc thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất như C.Mác
đã phân tích là thông qua các hình thức địa tô. Nhưng với tư cách là hình thái
biểu hiện của quan hệ tài chính thì địa tô đó phải là địa tô dưới hình thái tiền,
không phải là tô hiện vật hay tô lao dịch.
Vì phản ánh quan hệ phân phối nên nguồn lực tài chính mang tính lịch
sử. Nghĩa là xét về mặt hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế từ quan hệ
đất đai sẽ do quan hệ sở hữu của chế độ xã hội đó quyết định. Trong mỗi chế
26
độ xã hội với kiến trúc thượng tầng khác nhau sẽ quy định chế độ sở hữu đặc
trưng của xã hội đó.
Nếu đất đai thuộc quyền sở hữu của nhân dân và nhà nước của dân, do
dân đứng ra làm đại diện chủ sở hữu thì nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ hình
thành và thực hiện trên cơ sở chế độ sở hữu tương ứng. Từ đó, quy định cách
thức sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ nguồn lực đất đai. Trái
lại, nếu đất đai thuộc về sở hữu tư nhân thì mục đích sử dụng nguồn lực tài
chính từ đất đai chắc chắn không phải phục vụ cho số đông mà là chỉ là một
bộ phận trong xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nguồn lực tài
chính từ đất đai phản ánh tính chất quá độ của quan hệ sản xuất của nước ta.
Quan hệ đất đai tập trung nhất trong quan hệ sở hữu và các quyền năng phát
sinh từ quyền sở hữu đó.
Tuỳ thuộc vào từng nước, đất đai có thể thuộc sở hữu riêng của từng
thành viên hoặc từng nhóm thành viên và có thể là sở hữu chung của tất cả
các thành viên trong cộng đồng quốc gia hoặc hỗn hợp cả hai hình thức sở
hữu trên. Ở hầu hết các nước tư bản, đất đai thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu
Nhà nước. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Về mặt hình thức biểu hiện trên thực tế, nguồn lực tài chính từ đất đai
được hình thành thông qua các khoản thu tài chính liên quan đến đất của chủ
sở hữu đất đai với các chủ thể sử dụng đất. Có nhiều hình thức thu và huy
động nguồn lực tài chính từ đất đai, về cơ bản gồm các nguồn thu như: Thu
từ giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thu
từ các khoản thuế liên quan đến đất, có thể có hình thức đổi quyền sử dụng đất
lấy cơ sở hạ tầng.
Không giống với các nguồn lực tài chính khác, nguồn lực tài chính từ
đất đai có những đặc điểm riêng.
27
Một là, nguồn lực tài chính từ đất đai luôn gắn với quan hệ sở hữu đất đai.
Như trên đã chỉ ra, muốn đất đai đem lại lợi ích dưới hình thái tiền tệ
thì trước hết các chủ thể phải nắm quyền sở hữu đất đai. Việc sở hữu đó sẽ là
tiền đề phái sinh ra các quyền năng khác, giúp cho chủ thể sở hữu thực hiện
được lợi ích của mình. Quyền sở hữu là điều kiện cần để thực hiện được lợi
ích hay khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.
Khi quan hệ sở hữu được xác lập đối với đối tượng là đất đai, các chủ
thể sở hữu mới có cơ sở để thực hiện lợi ích của mình. Tất nhiên, quan hệ sở
hữu đó phải được thể chế hóa thành chế độ sở hữu về đất đai.
Phương tiện thực hiện các nguồn lực tài chính từ đất đai là các hình thái
địa tô. Trong chủ nghĩa tư bản, địa tô phản ánh chế độ sở hữu tư nhân về đất
đai của phương thức sản xuất đó.
Hai là, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ hình thành và được thực hiện
trong cơ chế kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế tự cung, tự cấp, ở đó trình độ lực lượng sản xuất còn
thấp, nên phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa chưa sâu sắc, do đó
các quan hệ giá trị chưa trở thành phổ biến. Việc trao đổi giữa các thành viên
trong xã hội chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu giá trị sử dụng. Hình thức thực hiện
lợi ích từ quyền sở hữu đất đai của các chủ thể thường gắn với hiện vật hơn là
giá trị. Trong khi nguồn lực tài chính từ đất đai lại biểu hiện dưới hình thái
của giá trị, hay dưới dạng tiền tệ. Hơn thế, nguồn lực đó phải không ngừng
vận động độc lập tương đối với các chức năng cất trữ và phương tiện thanh
toán của tiền tệ. Để có thể thực hiện được điều đó, cần một cơ chế kinh tế mà
trong đó mọi yếu tố đều có thể chuyển hóa thành hàng hóa bất luận chúng có
phải do hao phí lao động làm ra hay không. Cơ chế kinh tế thị trường đáp ứng
được yêu cầu đó.
Để có thể khai thác tốt nguồn lực tài chính từ đất đai, ngoài những nỗ lực
28
chủ quan của Thành phố còn có ảnh hưởng rất quan trọng của các nhân tố
khách quan. Những nhân tố khách quan đó là:
- Quy mô đất đai;
- Đặc điểm và cấu tạo tự nhiên, thổ nhưỡng, môi trường đất đai;
- Vị trí không gian địa lý của từng khu vực trên địa bàn Thành phố;
- Trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung.
Ngoài những nhân tố khách quan nói trên, việc khai thác và sử dụng
nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Nội còn chịu tác
động của nhân tố chính trị, xã hội. Trước hết, phải kể tới chủ trương, chính
sách của Thành phố về vấn đề này. Thứ nữa là nhân tố con người tham gia bộ
máy thực hiện huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát
triển kinh tế - xã hội.
Về mặt chủ trương, chính sách, tác động của nhân tố này đến việc
khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thể hiện ở khả năng tạo
điều kiện hay kìm chế tính hiệu quả của việc khai thác cũng như sử dụng
nguồn lực tài chính từ đất đai để phục vụ sự phát triển của Thủ đô. Khi chính
sách phù hợp với tình hình thực tế, tức là các chính sách thể hiện được sự vận
động của cuộc sống, thuận theo quy luật vận động của nền kinh tế thì đó
chính là cơ chế tốt cho việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai. Hơn nữa,
các chính sách thể hiện sự vận dụng một cách sáng tạo chính sách về đất đai
của Nhà nước nói chung thì cũng là nhân tố tích cực giúp cho khả năng khai
thác nguồn lực tài chính từ đất đai hiệu quả hơn.
Chủ trương, chính sách sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cũng có
tác động quan trọng đến việc sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho sự
phát triển của Hà Nội. Các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính đảm bảo
tính chặt chẽ và minh bạch là nền tảng cho việc thực hiện chính sách trong
29
thực tế được hiệu quả. Khi các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính thu
được thông qua đất đai không linh hoạt, kém chặt chẽ, thiếu minh bạch tất sẽ
tạo ra nhiều kẽ hở để gây ra tình trạng thất thoát lãng phí. Nghĩa là, việc sử
dụng nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ không hiệu quả.
Nếu như chính sách là cơ sở pháp lý để thực hiện việc khai thác và sử
dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thì tính hiệu quả của chính sách lại đòi hỏi
phải được thực hiện thông qua bộ máy hoạt động của các cơ quan chức năng
liên quan. Nghĩa là liên quan đến đội ngũ nhân sự thực hiện huy động và sử
dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố. Với ý nghĩa đó,
con người tham gia vào quá trình này có ý nghĩa quyết định đến việc huy
động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Hà Nội có đạt
hiệu quả cao hay không. Chính vì vậy, nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến việc
khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thủ đô phải
tính tới không chỉ chủ trương, chính sách của Thành phố mà còn phải quan
tâm đến nhân tố con người.
1.2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề Thành phố Hà Nội
1.2.1. Một số đặc điểm tác động đến khả năng khai thác, sử dụng
nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội
* Đặc điểm tự nhiên
Thứ nhất, vị trí địa lý và tự nhiên đẹp là điều kiện thuận lợi để Hà Nội
huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề.
Thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giới hạn trong
khoảng từ 20o34' đến 21o23' vĩ độ Bắc; 105o17' đến 106o02' kinh độ Đông.
Diện tích tự nhiên 3.300 km2. Tiếp giáp với 8 tỉnh: Phía Bắc giáp tỉnh Thái
Nguyên; phía Đông Bắc giáp tỉnh Bắc Giang; phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh
30
và Hưng Yên; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam; phía Tây Nam giáp tỉnh Hòa
Bình; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc.
Hiện nay Hà Nội được tổ chức thành 10 quận, 18 huyện và 1 thị xã:
- 10 quận gồm: Hoàn Kiếm, Ba Ðình, Ðống Ða, Hai Bà Trưng, Tây Hồ,
Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai và Hà Đông.
- 1 thị xã: Sơn Tây.
- 18 huyện gồm: Ðông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm,
Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ,
Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa và Mê Linh.
Dân tộc: (Kinh) chiếm 99,1%; các dân tộc khác: Chiếm 0,9%.
Thành phố Hà Nội là Thủ đô của nước ta có vị trí địa lý, kinh tế, chính
trị quan trọng và có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác. Hà Nội nằm ở
phía hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ
trù phú và nổi tiếng từ lâu đời. Vị trí địa lý quan trọng và địa thế tự nhiên đẹp
đã tạo thuận lợi cho Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học và là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Thứ hai, các làng nghề về cơ bản gắn liền với nông thôn, nông nghiệp,
quỹ đất sau khi Hà Tây được sát nhập vào Thành phố có sự cải thiện đáng kể
là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn lực này cho phát triển làng nghề.
Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tổng diện tích đất tự nhiên của
Hà Nội là 334.852,5 ha, trong đó: Đất nông, lâm nghiệp, thủy sản là
192.720,7 ha, chiếm 57,6%; đất phi nông nghiệp là 131.300,5 ha, chiếm
39,2%; đất chưa sử dụng là 10.831,3 ha, chiếm 3,2%.
Thứ ba, quỹ đất tuy có được cải thiện nhưng Hà Nội vẫn là địa phương
đất chật, người đông cùng với quá trình đô thị hóa với tốc độ nhanh đang gây
khó khăn lớn cho khai thác, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề.
31
Với dân số đến hết năm 2012 là gần 7 triệu người, Thành phố Hà Nội là
địa phương có mật độ dân số cao, bình quân 2.013 người/km 2, cao gấp 1,7 lần
bình quân khu vực đồng bằng sông Hồng (1.300 người/km2) và gấp 8 lần bình
quân chung của cả nước (259 người/km2). Với tình trạng đất chật, người đông
như vậy cùng với xu hướng đô thị hóa và tình trạng di dân tự do từ các vùng
nông thôn ra đô thị vẫn đang tiếp diễn mạnh mẽ sẽ là khó khăn rất lớn cho
việc khai thác, sử dụng quĩ đất cho phát triển làng nghề của Thành phố Hà
Nội hiện nay và những năm tiếp theo.
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh tạo
điều kiện thuận lợi cho đầu tư, nâng cao giá trị sử dụng đất cho phát triển kinh
tế - xã hội nói chung và các làng nghề nói riêng.
Năm 2010, GDP Hà Nội là 73.478 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
giai đoạn 2006 - 2010 của Hà Nội là 10,73%/năm. Nếu xét theo thứ tự về quy
mô GDP theo tỉnh, thành cả nước, Thủ đô Hà Nội đứng vị trí thứ hai sau
Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu
người của Hà Nội đạt 15,6 triệu đồng; đến năm 2010, GDP bình quân đầu
người của Hà Nội đạt khoảng 37,3 triệu đồng [37, tr.52].
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố khá nhanh theo hướng dịch vụ -
công nghiệp, xây dựng - nông, lâm, thủy sản. Năm 2005, tỷ trọng cơ cấu kinh tế
của Thành phố đạt tương ứng như sau: 51,5% - 39,4% và 9,1%. Năm 2010, sự
chuyển dịch tương ứng như sau: 50,6% - 43,1% và 6,2% [37, tr.54]. Hà Nội là
một trong số ít địa phương có tỷ trọng dịch vụ cao hơn ngành công nghiệp.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Hà Nội có tiềm năng lớn trong việc
đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao giá trị sử dụng đất, khả năng khai thác quỹ đất
cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển làng nghề nói riêng.
32
Thành phố Hà Nội có kết cấu hạ tầng kỹ thuật được quy hoạch, đầu tư
xây dựng khá đồng bộ bao gồm hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy và
đường không,... thuận lợi cho phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp, giá trị sử dụng đất được nâng cao.
Tốc độ đô thị hoá của thành phố Hà Nội đạt khá cao trong giai đoạn
2001 - 2005 là 5,6%/năm và giảm xuống còn 2,96%/năm giai đoạn 2006-2009,
đưa tỷ lệ đô thị hóa của Hà Nội từ 33,2% năm 2000 lên 39,6% năm 2005 và
đạt 40,8% năm 2009 [37, tr.55]. Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng
khai thác quỹ đất cho phát triển làng nghề, đòi hỏi việc sử dụng quỹ đất phải
hết sức tiết kiệm và hiệu quả.
Thứ hai, Hà Nội có địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng vừa là thuận lợi
vừa là khó khăn cho việc huy động, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề.
Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước nên có sức hút di dân
cơ học đến rất cao, do vậy giá đất của thành phố Hà Nội rất cao so với các địa
phương lân cận. Đây là nhân tố có tác động hai mặt đến khả năng khai thác,
quản lý và sử dụng đất đai. Mặt tích cực là làm tăng nguồn tài chính trên một
đơn vị diện tích đất đai đưa vào khai thác; mặt khác gây khó khăn cho công
tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, khó khăn trong công tác quản lý nhà
nước về đất đai, tình trạng mất ổn định xã hội do tranh chấp, khiếu nại tố cáo
liên quan đến đất đai.
Thứ ba, Hà Nội là đất trăm nghề với tốc độ phát triển nhanh vừa là điều
kiện thuận lợi vừa là áp lực lớn đáp ứng nhu cầu đất cho phát triển làng nghề.
Với 1.350 làng có nghề ở ngoại thành, các ngành nghề đã thu hút từ
30% đến 70% số hộ và từ 50 % đến 90% số lao động tham gia sản xuất nghề
với trên 300.000 lao động thường xuyên, chưa kể số lao động thu hút từ các
địa phương khác. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Theo đó, cơ cấu lao động ở
33
nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và dịch vụ. Quy
mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Các huyện có nhiều hộ
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài
Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ của các làng nghề ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên
104 triệu USD năm 2010; tốc độ tăng bình quân hàng năm từ 1,6% đến 2,8%/
năm. Tình hình trên vừa là điều kiện thuận lợi vừa gây áp lực lớn về bảo đảm
quỹ đất cho phát triển các làng nghề.
1.2.2. Ưu điểm huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển
các làng nghề
* Ưu điểm trong khai thác quỹ đất với vai trò là tư liệu sản xuất để tạo
dựng mặt bằng sản xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề
Thứ nhất, diện tích đất ở được khai thác và sử dụng khá triệt để cho xây
dựng mặt bằng sản xuất, nhà kho… phục vụ phát triển làng nghề.
Do đặc trưng sản xuất tại các làng nghề theo hộ gia đình và quỹ đất ở
các làng nghề còn hạn chế nên diện tích đất ở của gia đình kết hợp sử dụng
làm nơi sản xuất đã được khai thác sử dụng tối đa. Nhu cầu mặt bằng cho sản
xuất ngày càng lớn, nên các hộ đã thu hẹp không gian sống để dành mặt bằng
cho sản xuất như: tại các làng nghề dệt may Tân Triều (Thanh Trì), Cổ Nhuế
(Từ Liêm), dệt kim La Phù (Hoài Đức), dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông)... nhiều
nhà ống cao tầng vừa là cơ sở sản xuất, vừa là nhà kho, hầu như không có
khoảng trống nào trong gia đình mà không được tận dụng để sản xuất. Với
cách khai thác, sử dụng triệt để diện tích đất ở làm mặt bằng sản xuất đã góp
phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh
của sản phẩm do các làng nghề Hà Nội sản xuất. Đó vừa là ưu điểm vừa là
đặc điểm nổi bật tạo nên nét văn hóa riêng và cũng là cơ sở để phát triển loại
hình du lịch làng nghề Hà Nội.
34
Thứ hai, Hà Nội đã tích cực, chủ động xây dựng quy hoạch dành quỹ
đất cho xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề.
Với mục tiêu nhằm tạo dựng quỹ đất có đủ điều kiện cơ bản về hạ tầng
kỹ thuật, mở rộng mặt bằng sản xuất ở các làng nghề góp phần phát triển
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ năm 2001, Thành
phố Hà Nội đã tiến hành quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề trên địa
bàn và triển khai thực hiện.
Theo quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn
Thành phố Hà Nội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, Thành phố quy
hoạch phát triển 176 cụm công nghiệp làng nghề với tổng diện tích 1.295 ha,
bình quân 7,4 ha/cụm công nghiệp [37, tr.91].
Các cụm công nghiệp làng nghề phân bố tại hầu hết các làng nghề, làng có
nghề trên địa bàn Thành phố. Số lượng, diện tích quy hoạch các cụm công nghiệp
làng nghề cơ bản đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các làng nghề.
Như vậy Hà Nội đã chủ động, tích cực quy hoạch trước cả khi Chính phủ
ban hành Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 về Quy chế quản lý
cụm công nghiệp, loại hình cụm công nghiệp làng nghề là giải pháp vận dụng mô
hình các khu công nghiệp nhỏ trong việc tạo dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, quỹ
đất để phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề, làng
có nghề phù hợp với tình hình phát triển thực tiễn tại từng địa phương.
Sau khi Chính phủ ban hành Quy chế quản lý cụm công nghiệp, Thành phố
Hà Nội đã ban hành Quyết định số 44/2010/QĐ-UBND ngày 10/9/2010 để thống
nhất quy chế quản lý cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố thay thế các quy
định trước đây. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đầu tư phát triển các
cụm công nghiệp làng nghề, tạo dựng quỹ đất để mở rộng sản xuất cho các hộ sản
xuất tại làng nghề; di dời các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gây
35
ô nhiễm môi trường ra khỏi các khu dân cư; từng bước xây dựng, phát triển làng
nghề theo hướng công nghiệp, hiện đại.
Thứ ba, tích cực, chủ động ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư vào
phát triển các cụm công nghiệp làng nghề là điều kiện để sử dụng có hiệu đất đai.
Bên cạnh các chính sách về xây dựng, quản lý hoạt động các cụm công
nghiệp làng nghề, Thành phố đã ban hành một số chính sách khuyến khích đầu tư
phát triển các cụm công nghiệp làng nghề như chính sách đấu thầu thực hiện dự
án, chính sách hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, kinh phí giải phóng
mặt bằng các cụm công nghiệp; chính sách giao đất dịch vụ cho các hộ dân bị thu
hồi đất, ưu tiên sử dụng lao động địa phương,... Các chính sách trên có tác động
thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển các cụm công nghiệp làng nghề cũng như
phát triển kinh tế - xã hội chung của các làng nghề.
Đến nay đã có 41 cụm công nghiệp làng nghề đã và đang xây dựng với
tổng diện tích 443 ha. Trong đó, huyện Thạch Thất 6 cụm với diện tích 66 ha;
Hoài Đức 7 cụm, diện tích 74 ha; Chương Mỹ 3 cụm, diện tích 21 ha.... Số dự
án của các doanh nghiệp, hộ sản xuất được cấp giấy phép tại các cụm công
nghiệp làng nghề là 5.870 dự án, bình quân 800m2/dự án. Số dự án của các
doanh nghiệp đã đi vào hoạt động 2000 dự án [29, tr.10].
Thứ tư, sử dụng quỹ đất cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật làng nghề có sự
chuyển biến tích cực.
Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân và giải phóng mặt
bằng nên hệ thống quỹ đất dành cho giao thông nông thôn nói chung và giao
thông để phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội làng nghề
phát triển nhanh. Đường giao thông nông thôn từ Thành phố đến trung tâm
các xã và các làng nghề truyền thống đã được nâng cấp cải tạo. Theo số liệu
của Sở Giao thông vận tải Hà Nội, tổng chiều dài đường giao thông nông thôn
ngoại thành là 9.845,16 km, trong đó có 6.101,71 km đường liên thôn, liên xã
được rải nhựa, bê tông hoá chiếm 62%; một số huyện đường giao thông nông
36
thôn được bê tông hoá cao chiếm 90% là Đan Phượng, Sóc Sơn, Thường Tín,
Từ Liêm... Giao thông nông thôn phát triển đã tạo thuận lợi cho việc vận
chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cho
sản xuất kinh doanh và khách du lịch đến tham quan các làng nghề.
100% các thôn và 100% số hộ đã có điện từ điện lưới quốc gia. 70% -
75% dân số đã được dùng nước sạch trong sinh hoạt với 18 nhà máy nước và
hàng chục nghìn giếng khoan, đó cũng là kết quả của việc tích cực trong khai
thác, sử dụng quỹ đất cho phát triển làng nghề.
* Ưu điểm trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai
cho phát triển làng nghề Hà Nội
Xuất phát từ thực tế của Hà Nội và những hình thức khai thác nguồn
lực tài chính từ đất đai có thể vận dụng trên địa bàn Thủ đô, những năm gần
đây, đặc biệt là kể từ khi có Luật sửa đổi Luật Đất đai được ban hành, Thành
phố Hà Nội đã huy động những nguồn lực tài chính đáng kể từ đất đai nhằm
góp phần vào nguồn ngân sách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội các làng
nghề của Thành phố.
Thứ nhất, khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai thông
qua hình thức thu tiền sử dụng đất.
Từ những quy định hiện hành của Nhà nước cũng như của Thành phố
Hà Nội về khai thác nguồn tài chính từ đất đai thông qua thu tiền sử dụng đất,
thực tiễn vận hành những quy định đó tại các làng nghề đã đem lại nguồn thu
đáng kể cho ngân sách. Tạo lập cơ sở cho cân đối ngân sách phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của các làng nghề.
Kết quả tiền sử dụng đất thu được tăng dần qua các năm. Nếu như năm
2005 mới chỉ đạt 762 tỷ, năm 2008 tăng lên 2.236 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt
5.243 tỷ đồng; năm 2013 kế hoạch thu 10.670 tỷ đồng, kết quả thu 8 tháng
đầu năm đạt 5.553 tỷ, bằng 53% kế hoạch năm.
37
Mức tăng trên có nguyên nhân phần lớn là do sự điều chỉnh địa giới
hành chính Thành phố Hà Nội năm 2008 làm cho quỹ đất khai thác, sử dụng
với tư cách là nguồn lực tài chính được dồi dào hơn nhưng cũng thể hiện sự
khai thác hiệu quả nguồn lực này cho phát triển của các làng nghề. Kết quả
nguồn thu tăng là do Thành phố đã vận dụng một cách sáng tạo những quy
định chung của Nhà nước về thu tiền sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội. Các
chính sách đã được tổ chức thực hiện hiệu quả với sự tham gia phối hợp của
các cơ quan chức năng theo ngành dọc và liên ngành. Từ đó, làm cho hiệu quả
thu tiền sử dụng đất tốt hơn, tăng lượng tiền đóng góp vào ngân sách; là cơ sở có
vai trò rất quan trọng cho việc huy động nguồn lực tài chính này cho phát triển các làng
nghề của Thành phố.
Như trên đã phân tích, số thu tiền sử dụng đất tăng nhanh trong các năm từ 2005
đến 2010 còn do từ sự gia tăng nguồn thu từ bán đấu giá quyền sử dụng đất và do sự điều
chỉnh địa giới hành chính làm tăng diện tích đất tư nhiên của Thành phố lên nhiều lần.
Mục đích đấu giá quyền sử dụng đất là nhằm sử dụng hợp lý hơn nguồn tài nguyên đất
đai tại các làng nghề của Thành phố. Hiện nay, quỹ đất chưa sử dụng hoặc không sử
dụng đúng mục đích còn nhiều song vẫn chưa khai thác triệt để nguồn thu, vì vậy việc
đấu giá quyền sử dụng đất là nhằm giúp cho các làng nghề khai thác được nguồn thu hiệu
quả hơn. Với quy định này, trải qua quá trình thực hiện trong thực tiễn đấu giá quyền sử
dụng đất đã mang lại nguồn thu không nhỏ cho các làng nghề, là một kênh quan trọng
và hữu hiệu để tăng thu tiền sử dụng đất.
Thứ hai, Hà Nội đã đạt được kết quả tích cực trong khai thác nguồn lực tài
chính từ đất đai thông qua hình thức thuế.
Dưới hình thức thuế, những năm gần đây, Thành phố Hà Nội đã đạt
được những kết quả tích cực trong việc khai thác nguồn thu từ đất đai. Quy
mô con số tuyệt đối nguồn thu thuế từ đất đai (trừ thuế sử dụng đất nông
nghiệp được miễn từ năm 2004) gia tăng hàng năm, bình quân giai đoạn
38
2000-2010 tăng bình quân hơn 16%/năm [38, tr.44]. Các hình thức thuế như:
thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất được khai thác tốt, từ đó làm
tăng quy mô cho ngân sách Thành phố nói chung và các làng nghề nói riêng.
Từ năm 2012, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực sẽ tạo điều
kiện cho Thành phố tăng thêm đáng kể nguồn thu từ thuế sử dụng đất. Việc
tăng quy mô ngân sách thông qua gia tăng lượng thuế thu được một mặt, làm
cho khả năng chi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thành phố cải thiện; mặt
khác cũng làm chuyển động trong ý thức của các chủ thể sử dụng đất một
cách hiệu quả hơn.
Thứ ba, đã phát huy tác động tích cực trong sử dụng nguồn lực tài
chính từ đất đai phục vụ phát triển hạ tầng làng nghề.
Cùng với các nguồn thu ngân sách khác, nguồn tài chính thu được từ
đất đai đã cho phép các làng nghề của Thành phố Hà Nội gia tăng quy mô đầu
tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề nói riêng. Việc sử dụng
nguồn lực tài chính từ đất đai trong những năm qua đang phát huy tác dụng
rất tốt vai trò đối với tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển kết cấu hạ tầng
các làng nghề.
Thông qua những nguồn đầu tư cho các mục đích và chương trình cụ
thể, nguồn lực tài chính từ đất đai phát huy tác dụng tích cực, trực tiếp trong
nâng cao hiệu quả của chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cho phát triển hạ tầng
làng nghề và những mục tiêu đầu tư khác như đã được chứng minh ở vai trò
của các làng nghề với sự phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội.
1.2.3. Hạn chế trong huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho
phát triển các làng nghề Hà Nội
* Khai thác quỹ đất với vai trò là tư liệu sản xuất để tạo dựng mặt bằng
sản xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề còn nhiều hạn chế
39
Thứ nhất, tận dụng quỹ đất sinh hoạt, mặt bằng sản xuất chật hẹp nên ảnh
hưởng đến đời sống và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tình trạng phổ biến nhất hiện nay là việc sử dụng luôn nhà ở làm nơi sản
xuất. Các cơ sở sản xuất lớn thường chỉ có lán làm bằng tre, lợp fibrô xi măng,
rơm rạ, lá mía, căng bạt… mang tính chất tạm bợ. Các bãi tập kết nguyên liệu,
kể cả các bãi, kho chứa hàng gần khu dân cư, tạm bợ, không đúng tiêu chuẩn
môi trường. Về nhà xưởng, ở các làng nghề chỉ có số ít, chiếm tỷ lệ từ 10% -
30% là nhà xưởng kiên cố, còn lại là bán kiên cố và tạm bợ. Hiện nay, diện tích
đất bình quân dành cho sản xuất của các làng nghề mới đáp ứng được 25% -
30% nhu cầu. Theo điều tra khảo sát ở một số làng nghề như La Phù (Hoài
Đức), Hữu Bằng (Thạch Thất)... có đến 70% số nhà xưởng không đáp ứng
yêu cầu sản xuất của các hộ. Vì vậy, nhu cầu về mặt bằng để phát triển mở
rộng sản xuất tại làng nghề là rất lớn như: làng nghề gốm sứ Bát Tràng, nhu
cầu về mặt bằng sản xuất của mỗi hộ là 500 m2 và các doanh nghiệp thuộc
làng nghề là 2000 m2, nhưng hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 200 m2/hộ và 500
m2 - 700 m2/doanh nghiệp. Các làng nghề gỗ Liên Hà, Vân Hà nhu cầu diện
tích mặt bằng cũng rất lớn đòi hỏi diện tích gấp 3 lần. Các làng nghề La Phù
(Hoài Đức), dệt may Cổ Nhuế (Từ Liêm), Tân Triều (Thanh Trì) cần diện tích
gấp 4 lần phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy nhu cầu đất để
làm mặt bằng sản xuất tại các làng nhề rất lớn nhưng khả năng đáp ứng của
Thành phố lại rất có hạn.
Thứ hai, quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề còn dàn trải, nhỏ lẻ,
thiếu đồng bộ.
Trên thực tế, việc quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề có nhiều cụm
diện tích chỉ khoảng 1 ha/cụm. Với diện tích quá nhỏ như vậy nên chưa đáp ứng
nhu cầu phát triển của các làng nghề.
40
Tiến độ triển khai xây dựng cụm công nghiệp làng nghề chậm. Nhiều làng
nghề do nhu cầu bức xúc, các hộ dân đã tự phát lấn chiếm đất nông nghiệp, đất
chuyên dùng, đất hành lang đê điều để lấy mặt bằng sản xuất như làng nghề Hữu
Bằng (Thạch Thất), Liên Hà, Liên Trung, Tân Hội, Tân Lập (Đan Phượng), La
Phù (Hoài Đức) gây khó khăn trong quản lý trật tự an ninh xã hội.
Hầu hết các cụm công nghiệp làng nghề đều chưa xây dựng đồng bộ hạ
tầng kỹ thuật theo quy định, đặc biệt là hạng mục xử lý ô nhiễm môi trường,
đường giao thông nội bộ...
Thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp làng nghề còn gặp nhiều khó
khăn. Do suất đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp cao nên đấu giá quyền
thuê đất tại các cụm công nghiệp có giá từ 1 - 1,5 triệu đồng/m2 gây khó khăn,
trở ngại cho việc thu hút đầu tư.
Nhiều cụm công nghiệp do quỹ đất hạn chế, trong khi nhu cầu hộ sản
xuất làm nghề lớn nên diện tích đất bị chia nhỏ để cho thuê từ 150 m2 - 200
m2/hộ. Cùng với sự quản lý yếu kém của chính quyền, một số hộ dân được
thuê đất đã sử dụng đất sai mục đích nên chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu
cầu xây dựng cụm công nghiệp làng nghề.
Mô hình, cơ chế đầu tư, xây dựng và quản lý hoạt động cụm công
nghiệp làng nghề chưa hiệu quả. Trên địa bàn Thành phố, việc triển khai xây
dựng cụm công nghiệp làng nghề do UBND huyện, xã làm chủ đầu tư nên khó
khăn huy động vốn, công tác quản lý cụm công nghiệp còn nhiều bất cập, hạn
chế.
Thứ ba, đa số các làng nghề, đất dành xây dựng xây dựng hạ tầng kỹ thuật
làng nghề chưa nhiều.
Quỹ đất dành cho giao thông còn ít, các đường giao thông còn nhỏ,
chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hoá và đi lại của nhân
dân làng nghề. Tỷ lệ đường giao thông tốt trong đa số các làng nghề chỉ
chiếm trên dưới 20%. Mạng lưới điện ở làng nghề không đồng bộ, chất lượng
41
thấp, thiếu công suất phục vụ cho sản xuất nên thường xảy ra cháy, chập ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Hệ thống cấp
nước sạch chưa đáp ứng được cả cho sinh hoạt và cho sản xuất. Chỉ có 60%
số hộ nông dân dùng nước sạch theo các hình thức nước giếng khoan, nước
mưa, nước giếng khơi, còn lại là dùng nước mặt ao hồ, sông, suối.
Do diện tích mặt bằng sản xuất chật hẹp nên các nhà xưởng tại làng
nghề không đảm bảo yêu cầu về an toàn trong sản xuất và phòng chống cháy
nổ. Đa số các cơ sở sản xuất tại làng nghề không có đất để xây dựng hệ thống
thoát và xử lý chất thải phù hợp gây ảnh hưởng đến môi trường...
Thứ tư, sử dụng đất không hợp lý cho sản xuất và sinh hoạt nên môi
trường làng nghề ô nhiêm nghiêm trọng.
Hầu hết các cơ sở sản xuất theo hộ đặt tại nhà và nằm trong khu dân cư
nên việc thu gom và xử lý chất thải rất khó khăn. Hệ thống cấp thoát nước
chưa đồng bộ, 80% số cơ sở sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải làm
gia tăng ô nhiễm môi trường. Khai thác bừa bãi nên nguồn nước bị cạn kiệt.
Nước thải hầu như ít được xử lý gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm ngày
càng nghiêm trọng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, quy mô sản xuất của
nhiều làng nghề tăng lên, áp dụng nhiều biện pháp công nghệ có sử dụng hóa
chất, thiết bị và nhiêu liệu… đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sống.
Hầu hết các làng nghề chưa đầu tư bất kỳ giải pháp nào để giảm thiểu ô
nhiễm không khí, tiếng ồn, nước thải, bụi, chất thải rắn, nước thải sản xuất
được thải chung với nước thải sinh hoạt của làng. Trong tổng số 41 cụm công
nghiệp làng nghề đang hoạt động mới chỉ có 02 cụm công nghiệp có xây dựng
hệ thống xử lý nước thải; 39 cụm công nghiệp làng nghề còn lại hoặc không
quy hoạch quỹ đất để xây dựng công trình xử lý nước thải, chất thải, hoặc có
quy hoạch nhưng chưa đầu tư xây dựng.
* Việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai tại các làng
nghề trên địa bàn Hà Nội còn tồn tại nhiều yếu kém
42
Thứ nhất, vấn đề quy hoạch treo, dự án treo, giao đất không đúng mục
đích sử dụng vẫn còn tồn tại trong các làng nghề.
Đất đai nói chung là nguồn lực vô cùng quý giá, đối với Hà Nội nó còn
quý giá hơn nhiều lần so với các địa phương khác, vì vậy nó cần phải được sử
dụng hợp lý và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua, do công tác
tổ chức quy hoạch, xây dựng quy hoạch sử dụng và khai thác nguồn lực đất đai
chưa tốt đã dẫn đến tồn tại hàng loạt các khu quy hoạch treo, đất đai không được
sử dụng đúng mục đích, giao đất cho những chủ thể sử dụng đất không đúng mục
đích, tình trạng đất công còn bị để hoang hoá rất nhiều.
Thứ hai, hoạt động quản lý sau đấu giá còn nhiều yếu kém dẫn đến
không thu được toàn bộ số tiền mà các đơn vị trúng đấu giá phải nộp. Đến
nay, địa phương có số tiền thu được từ hoạt động bán đấu giá quyền sử dụng
đất mới chỉ đạt nhiều nhất là 70%, thậm chí có những quận, huyện đạt rất thấp
chỉ khoảng 20% - 30%. Đấu giá quyền sử dụng đất tại các làng nghề của
Thành phố cũng nằm trong tình trạng chung như trên.
Thứ ba, khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai thông qua hình thức
thu tiền cho thuê đất.
Trong số các nguồn tài chính có thể huy động được từ đất đai tại các
làng nghề trên địa bàn Hà Nội, thì hình thức thu từ tiền cho thuê đất có số thu
thấp hơn cả; giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010, nguồn thu này chiếm chưa
đến 1% tổng nguồn thu từ đất đai [38, tr.24]. Một mặt, các hộ sản xuất tại
làng nghề đang sử dụng nơi ở làm mặt bằng sản xuất nên không thu được tiền
thuê đất mặt bằng sản xuất. Mặt khác, tiến độ xây dựng các cụm công nghiệp
làng nghề để cho các hộ sản xuất thuê đất, mở rộng mặt bằng sản xuất còn
chậm, quỹ đất còn hạn chế; các hộ thuê đất tại các cụm công nghiệp đã đi vào
hoạt động hầu hết đang trong giai đoạn được hưởng chính sách ưu đãi tiền
thuê đất nên nguồn thu này trong những năm qua còn rất hạn chế. Tuy nhiên,
43
về mặt con số tuyệt đối và xu hướng vận động của nguồn thu thì vẫn cho thấy
số thu tuyệt đối gia tăng hàng năm.
Thứ ba, việc sử dụng tiền thu được từ bán đấu giá quyền sử dụng đất
cũng chưa thật sự minh bạch. Hiện nay, theo quy định của Thủ tướng Chính
phủ và của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, số tiền thu được từ bán đấu
giá quyền sử dụng đất được nộp vào ngân sách và sử dụng phục vụ đầu tư cơ
sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác. Thực tế sử dụng nguồn tài chính từ đất
đai tại các làng nghề thời gian qua cho thấy tỷ trọng đầu tư phát triển các công
trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho phát triển sản xuất tại các làng
nghề còn thấp, giai đoạn 2005 - 2010 chỉ chiếm bình quân 15% - 20%. Đặc
biệt là đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề chưa được
quan tâm thỏa đáng. Hầu hết các làng nghề chưa được đầu tư hoặc đầu tư
chưa đồng bộ các công trình xử lý ô nhiễm môi trường đảm bảo tiêu chuẩn
theo qui định.
1.2.4. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt ra
* Nguyên nhân khách quan
Một là, quỹ đất của Hà Nội hiện nay không thật dồi dào.
Theo số liệu thống kê của Thành phố, như trên đã nói, điện tích đất
chưa sử dụng của Hà Nội chỉ còn 3,2%; diện tích đất nông nghiệp, lâm
nghiệp, thủy sản là 57,6%. Nhưng đó là diện tích đất rất hạn chế chuyển đổi
mục đích sử dụng vì liên quan đến vấn đề an ninh lương thực và bảo đảm mở
rộng không gian đô thị và các yêu cầu khác trong phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh của Thủ đô. Hơn nữa các làng nghề ở Thủ đô thường gắn
liền với nông thôn, nông nghiệp, nơi đất chật, người đông đã làm hạn chế việc
huy động nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề.
Thứ hai, giá đất Hà Nội cao hơn so với các địa phương khác trong nước.
44
Giá đất cao vừa là điều kiện thuận lợi thông qua đấu giá quyền sử
dụng đất huy động nguồn lực tài chính đáng kể cho đầu tư phát triển các làng
nghề. Đồng thời, đất đai với tư cách là tư liệu sản xuất, một yếu tố trong tính
toán chi phí giá thành sản phẩm của các làng nghề nên giá đất cao sẽ làm cho
giá thành sản phẩn làng nghề cao, giảm lợi nhuận của người sản xuất, khả
năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, đến lượt nó làm cảm trở việc huy động,
sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề.
Thứ ba, do tác động của khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế thế
giới từ năm 2008 và khủng hoảng bất động sản trong nước từ năm 2011.
Cuộc khùng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế thế giới đã tác động đến
nền sản suất trong nước nói chung và các làng nghề Hà Nội nói riêng làm cho
sản phẩm đầu ra của các làng nghề khó tiêu thụ, sản xuất đình đốn. Đồng thời,
cuộc khủng hoảng bất động sản làm cho nguồn thu từ đấu giá quyền sử dụng
đất đang bị sụt giảm và chưa thấy có dấu hiệu phục hồi rõ rệt. Đây là một
nguyên nhân làm cho nguồn lực đất đai được huy động cho phát triển các làng
nghề trững lại.
* Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, công tác quy hoạch phát triển các làng nghề và theo đó là
nguồn lực đất đai cho nó phát triển còn nhiều bất cập.
Về cơ bản, các làng nghề đều tập trung tại các huyện ngoại thành
của Thành phố, trước tháng 8/2008 là các địa phương thuộc tỉnh Hà Tây
cũ. Và như trên đã phân tích hầu hết các cụm công nghiệp làng nghề đều
được tỉnh Hà Tây quy hoạch từ năm 2001 nên khi trở thành Thủ đô, việc
quy hoạch này đã không còn nhiều phù hợp với quy hoạch phát triển Kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh chung của Hà Nội, đòi hỏi phải điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch. Hơn nữa, bản thân cán bộ, cơ quan
làm công tác quy hoạch cũng chưa dự báo được tương lai phát triển chung
45
cho sự phát triển của các làng nghề là gì nên làm cho nhiều quy hoạch
tính khả thi không cao.
Thứ hai, luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước nói chung và Hà
Nội nói riêng, trong đó có những nội dung liên quan đến huy động và sử dụng
nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề còn nhiều bất cập, đang trong
quá trình xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện.
Đất đai là vấn đề nhạy cảm liên quan đến tất cả mọi người, mọi thành
phần kinh tế, với nhiều quyền năng khác nhau như quyền sở hữu, quyền sử
dụng, quyền thừa kế, thế chấp, cho thuê… vốn đã phức tạp, trong khi đó Luật
đất đai lại đang trong quá trình sửa đổi… đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc
huy động và sử dụng đất đai cho phát triển các làng nghề còn gặp trở ngại.
Thứ ba, do các quận, huyện được Thành phố giao cho tổ chức đấu giá
nhưng chậm hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật khu đất để bàn giao cho các tổ chức,
cá nhân trúng giá nên chưa thu đủ tiền thu đấu giá quyền sử dụng đất.
Thứ tư, nguyên nhân chính do hầu hết các hộ sản xuất tại làng nghề
đang sử dụng nơi ở làm mặt bằng sản xuất nên không thu được tiền thuê đất
mặt bằng sản xuất và thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh.
Thứ năm, tiến độ xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề để cho các hộ
sản xuất thuê đất, mở rộng mặt bằng sản xuất còn chậm, quỹ đất còn hạn chế.
Thứ sáu, công tác quản lý và những giải pháp bảo đảm quỹ đất cho bảo
vệ môi trường làng nghề chưa được quan tâm đúng mức.
Chính quyền địa phương chưa có ý thức về tuyên truyền và chỉ đạo
nhân dân thực hiện về bảo vệ môi trường. Chưa có cán bộ chuyên môn về môi
trường tại cơ sở nên việc quản lý bảo vệ môi trường hạn chế.
Ý thức bảo vệ môi trường của người dân và các đơn vị sản xuất tại làng
nghề còn kém. Người lao động chưa tự bảo vệ mình trong quá trình sản xuất
như chưa có trang bị bảo hộ lao động… Do ô nhiễm môi trường ở các làng
46
nghề đã xuất hiện nhiều loại bệnh như các bệnh tiêu hóa và mắt chiếm 37%,
bệnh hô hấp 20%, bệnh ngoài da 31% và các bệnh khác như các bệnh tai, mũi
họng, thần kinh...
* Những vấn đề đặt ra hiện nay với việc huy động và sử dụng nguồn
lực đất đai cho phát triển các làng nghề ở Hà Nội
Từ thực trạng huy động, sử dụng đất đai cũng như nguyên nhân hạn chế
của việc này cho phát triển các làng nghề ở Hà Nội, chúng tôi thấy có một số
mâu thuẫn sau:
Một là, mâu thuẫn giữa nhu cầu sử sụng đất lớn với quỹ đất không
nhiều tại các làng nghề. Mâu thuẫn này đặt ra yêu cầu phải khai thác hiệu quả
nguồn lực tài chính từ đất đai để đầu tư lại cho phát triển làng nghề, nâng cao
chất lượng sản phẩm, tính cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
làng nghề.
Hai là, mâu thuẫn giữa giá đất cao với lợi nhuận sản xuất kinh doanh
của các làng nghề có xu hướng giảm. Mâu thuẫn này đă ̣t ra yêu cầu phải khai
thác hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai để đầu tư lại cho phát triển làng
nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm, tính cạnh tranh và hiệu quả sản xuất
kinh doanh của các làng nghề.
Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu huy động, sử dụng đất cho phát triển các
làng nghề với cơ chế, chính sách hiện hành lạc hậu chưa theo kịp thực tiễn
đang trói buộc nó. Mâu thuẫn này đă ̣t ra yêu cầu phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Bốn là, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển làng nghề theo hướng văn
minh, hiện đại với truyền thống sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, văn hóa truyền
thống của các làng nghề đặt ra yêu cầu phải phát triển các cụm công nghiệp
làng nghề tập trung để tăng quĩ đất về mặt bằng, qui mô sản xuất, giải quyết
tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề.
47
*
* *
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn lực quan trọng
để sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển làng nghề nói
riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản lý,
khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả. Vai trò của các
làng nghề rất to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh, xây dựng nông thôn mới Hà Nội văn minh, hiện đại. Vì vậy, để phát
triển các làng nghề Thành phố Hà Nội cần phải huy động và sử dụng có hiệu
quả nhiều nguồn lực, trong đó đất đai là nguồn lực có vai trò, ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Đó là tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính, vốn để các làng nghề
phát triển.
Thực trạng khai thác, quản lý và sử dụng đất đai cho phát triển làng nghề
thời gian qua cho thấy, Hà Nội chưa thực sự khai thác hết tiềm năng; công tác
quản lý, sử dụng đất chưa thực sự hiệu quả gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng phát triển bền vững các làng nghề của Thành phố trong tương lai.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng khai thác, quản lý và sử
dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề của Thành phố cả thành
tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có quan
điểm và giải pháp phù hợp để khai thác, quản lý và sử dụng hiệu quả
nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề của Thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
48
Chương 2
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ
NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai
cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
2.1.1. Quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề phải phù hợp
với qui hoạch phát triển nghề, làng nghề và quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội của Thủ đô
Quan điểm sử dụng đất phải phù hợp với quy hoạch được xác định là
quan điểm cơ bản, có tính nguyên tắc trong việc khai thác, sử dụng đất đai
cho phát triển làng nghề. Nước ta hiện nay đang xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý nền kinh tế tuân thủ
các quy luật của thị trường, đồng thời quản lý bằng pháp luật, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và bằng lực lượng vật chất. Điều 11, Luật Đất đai năm 2003
đã qui định rõ: "Việc sử dụng đất phải đảm bảo nguyên tắc đúng quy hoạch
hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất".
Sử dụng đất đai, đúng quy hoạch, kế hoạch sẽ khắc phục được sự quy
hoạch treo khá phổ biến ở nước ta và Hà Nội hiện nay. Mặt khác, trong khi
quỹ đất của Hà Nội không nhiều, không chỉ sử dụng nó đáp ứng yêu cầu phát
triển hiện tại mà còn phải bảo đảm cho Thủ đô phát triển trong tương lai. Vì
vậy, việc sử dụng đất đúng pháp luật, đúng quy hoạch sẽ khắc phục được sự
lãng phí, tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng tư liệu sản xuất đặc biệt quan
trọng này.
Sử dụng đất đúng quy hoạch sẽ góp phần khắc phục sản xuất manh
mún, nhỏ lẻ, giúp cho sản xuất kinh doanh của các làng nghề Thủ đô phát
triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời bảo đảm sự phát
49
triển bền vững các làng nghề, khắc phục ô nhiễm môi trường, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân các làng nghề.
Quán triệt quan điểm phát triển trên, quy hoạch sử dụng đất cho phát
triển làng nghề Thành phố Hà Nội phải đáp ứng các yêu cầu:
Thứ nhất, đổi mới, nâng cao tính liên kết, đồng bộ giữa quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất với quy hoạch, kế hoạch phát triển nghề, làng nghề theo
hướng quy hoạch sử dụng đất phải tổng hợp, cân đối, phân bổ hợp lý; sử dụng
hiệu quả đất đai. Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề phải thực hiện đúng
các chỉ tiêu, tiến độ sử dụng đất được phân bổ trong quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất.
Thứ hai, quy hoạch sử dụng đất phải đáp ứng được và phù hợp với
quan điểm, định hướng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển
nghề, làng nghề Thành phố nói riêng như sau:
Về mục tiêu phát triển:
Nghị quyết Đại hội Đảng Bộ thành phố Hà Nội lần thứ XV khẳng định:
“Phấn đấu hoàn thành trước từ 1 - 2 năm những mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô, góp phần cùng cả nước để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và
“Củng cố phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, bảo tồn, phát triển các làng
nghề truyền thống gắn với phát triển du lịch, xuất khẩu”.
Về định hướng phát triển:
Phát triển nghề, làng nghề theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với
nhu cầu và các nguyên tắc thị trường, trên cơ sở phát huy thế mạnh của mỗi
vùng, mỗi địa phương là một vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định
tới tính hiệu quả, khả năng cạnh tranh và tính bền vững của sản xuất trong
làng nghề. Với tinh thần đó, mỗi làng nghề, mỗi địa phương cần tập trung
phát triển những ngành nghề, những sản phẩm mà mình có thế mạnh.
50
Hiện đại hoá làng nghề truyền thống là từng bước đổi mới trang thiết
bị, lựa chọn, ứng dụng rộng rãi những công nghệ kĩ thuật tiến bộ, phù hợp vào
quy trình sản xuất, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc kết hợp chặt chẽ với công
nghệ truyền thống, để vừa đảm bảo nâng cao năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm, vừa đảm bảo tính chất truyền thống và giá trị của các loại
sản phẩm đặc thù.
Cùng với những mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội, việc đảm bảo môi
trường phải được coi là mục tiêu quan trọng của phát triển làng nghề. Nói
cách khác, quá trình phát triển nghề, làng nghề ở Hà Nội không thể tách rời
vấn đề môi trường, mà phải đặt nó trong sự phát triển tổng thể, coi đó là một
yếu tố quan trọng của sự phát triển bền vững đối với nông thôn nói chung và
làng nghề nói riêng.
Phát triển nghề, làng nghề phải gắn với chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Đồng thời, việc kết hợp giữa Nhà nước và nhân
dân là phương thức tốt nhất để phát huy tốt các nguồn lực, tạo những động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển hiệu quả và bền vững của làng nghề trên địa bàn
Thủ đô.
Phát triển nghề, làng nghề Hà Nội gắn liền với quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của Thủ đô với quy hoạch phát triển nông nghiệp và nông
thôn, quy hoạch phát triển nghề, làng nghề trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, cả nước và các quy hoạch có liên quan nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông thôn theo hướng CNH, HĐH; đồng thời gắn với sự phát triển làng nghề
chung cả nước. Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm tại
chỗ, nâng cao thu nhập cho người dân, xoá đói giảm nghèo ở khu vực nông
thôn theo phương châm “ly nông bất ly hương”, phù hợp với chủ trương
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoại thành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Phát triển làng nghề Hà Nội cần gắn liền với khôi phục, bảo tồn và phát
51
triển ngành nghề truyền thống, trong đó ưu tiên tập trung phát triển các nghề,
làng nghề truyền thống, có giá trị văn hóa, lịch sử, thu hút du lịch và đạt giá
trị kinh tế cao, ổn định thị trường tiêu thụ và đảm bảo an toàn về môi trường
sinh thái. Hạn chế và không khuyến khích phát triển các nghề, làng nghề gây
ô nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế - xã hội đạt thấp.
2.1.2. Khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề
trên địa bàn Hà Nội phải đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và phát triển bền
vững của làng nghề.
Đất đai là nguồn tài nguyên quý và có hạn, nhưng nhu cầu sử dụng của
con người là vô hạn. Vì vậy, đất đai cần phải được sử dụng tiết kiệm và có
hiệu quả. Điều 11, Luật Đất đai năm 2003 đã qui định rõ: "Việc sử dụng đất
đai phải đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và
không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh".
Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đất đai cho phát triển các làng nghề thể
hiện quan điểm ứng xử với loại tài nguyên, tư liệu sản xuất, nguồn lực đặc
biệt quan trọng này. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng tiết kiệm và hiệu quả đất đai
cho phát triển các làng nghề còn phải bảo đảm sự phát triển bền vững của các
làng nghề về kinh tế, xã hội và môi trường. Vì phát triển bền vững với thế
giới nói chung và Việt Nam cũng như các làng nghề Hà Nội vừa là yêu cầu
khách quan vừa là đòi hỏi cấp bách hiện nay. Thực tế vừa qua, việc huy động
và sử dụng đất đai cho phát triển các làng nghề ở Hà Nội chưa thực sự hiệu
quả, thất thoát, lãng phí, ô nhiễm môi trường. Mặt khác, đất đai là nguồn lực
tài nguyên có hạn, không thể sử dụng một cách bừa bãi, lãng phí. Vì vậy, sử
dụng tiết kiệm đất đai là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô và phải được thể chế hoá thành các quy
định cụ thể của Thành phố về khai thác, quản lý và sử dụng nguồn lực đất đai
bằng các biện pháp quản lý hành chính và kinh tế; trong đó phải coi trọng và
ngày càng phải tăng cường các biện pháp quản lý kinh tế.
52
Khai thác sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả cho các mục đích
sử dụng; lấy việc bảo vệ, sử dụng đất tiết kiệm, chuyển đổi hợp lý đất đai đem
lại hiệu quả kinh tế cao là nhiệm vụ quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội.
Sử dụng quỹ đất hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững, khai thác triệt
để tiềm năng đất đai, tiềm năng con người và lợi thế tự nhiên. Khai thác sử
dụng đất đi đôi với cải tạo, bồi bổ, làm giàu quỹ đất, gắn lợi ích kinh tế với
bảo vệ môi trường đất, cảnh quan thiên nhiên.
Quan điểm khai thác, sử dụng đất cho phát triển làng nghề phải đảm
bảo tiết kiệm, hiệu quả và phát triển bền vững được xác định là quan điểm
trung tâm, là cơ sở, điều kiện để hoạch định các chính sách về đất đai cho
phát triển làng nghề của Thành phố Hà Nội. Để thực hiện quan điểm này cần
thực hiện tốt một số yêu cầu:
Thứ nhất, về qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Việc bố trí kế hoạch sử dụng đất để phát triển nghề, làng nghề một
cách bền vững, bảo đảm môi trường sinh thái, xây dựng hạ tầng kỹ thuật...
là hết sức cần thiết. Vì vậy công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển các
cụm công nghiệp làng nghề cần được coi trọng và ưu tiên thực hiện nhằm:
Đáp ứng mặt bằng phục vụ cho mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ mới,
di dời các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường; xử
lý ô nhiễm môi trường do trong quá trình sản xuất có rất nhiều công đoạn
có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu không được xử lý đúng kỹ thuật;
bảo đảm dành quỹ đất cho phát triển TTCN và làng nghề theo đúng quy
hoạch đảm bảo cho công nghiệp nông thôn phát triển bền vững; phát triển
các ngành nghề sẵn có của địa phương và mở rộng nhân cấy nghề mới, ít
gây ô nhiễm môi trường.
53
Xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề đảm bảo
đúng mục đích có hiệu quả, ưu tiên mặt bằng cho các ngành nghề có hướng
phát triển, hiệu quả cao, thu hút nhiều lao động.
Xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề gắn với xây
dựng quy hoạch nông thôn mới theo Đề án Xây dựng Nông thôn mới Thành
phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020, định hướng đến năm 2030.
Thứ hai, sử dụng nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển làng nghề
phải theo hướng ưu tiên đầu tư cho các công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ
trực tiếp cho phát triển làng nghề, đặc biệt là công trình xử lý ô nhiễm môi
trường để phát triển làng nghề theo hướng bền vững, tạo tiền đề tăng thu ngân
sách tái đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội của địa phương.
Thứ ba, Thành phố cần có hệ thống đồng bộ các giải pháp nhằm giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã
hội, môi trường trong quá trình huy động, sử dụng đất đai cho phát triển nghề,
làng nghề của Hà Nội.
2.1.3. Khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai phải đảm bảo hài hòa
mối quan hệ lợi ích của chủ thể sở hữu đất đai với những người sử dụng
đất đai và phải đảm bảo thực hiện theo cơ chế thị trường
Theo qui định của pháp luật, đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân và
là nguồn tài nguyên có hạn do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Nhà nước
thực hiện quyền chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Nhà nước giao quyền sử dụng ổn định lâu dài cho các tổ chức kinh
tế, đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, hộ
gia đình, cá nhân nhằm tăng cường quyền và trách nhiệm của các tổ chức, cá
nhân được giao đất; đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước
(người đại diện chủ sở hữu và thực hiện chức năng quản lý xã hội) với người
sử dụng đất (các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân).
54
Ở khía cạnh khác, đất đai là vấn đề nhạy cảm liên quan đến lợi ích của
Nhà nước, của mọi tổ chức và cá nhân được giao quyền sử dụng. Vì vậy, nếu
giải quyết hài hòa các lợi ích của các chủ thể liên quan sẽ trở thành động lực
cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này để phát triển các
làng nghề. Ngược lại, nếu giải quyết không tốt vấn đề lợi ích liên quan tới đất
không những triệt tiêu hoặc làm giảm động lực phát triển mà còn để lại hậu
quả nặng nề về mặt xã hội, gây mất an ninh trật tự tại các làng nghề. Trên
thực tế, những năm gần đây, ở nước ta nói chung và các làng nghề Thủ đô Hà
Nội nói riêng, những cuộc khiếu kiện đông người hầu hết đều liên quan đến
vấn đề đất đai. Những cuộc khiếu kiện này có nguyên nhân cơ bản là từ giải
quyết không tốt mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể liên quan tới đất đai. Để
thực hiện được quan điểm này cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Thứ nhất, phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước người đại diện chủ sở
hữu đất đai.
Nhà nước thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất và quy định thời hạn
sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định điều tiết phần giá trị tăng thêm từ
đất không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền thu hồi đất và giao đất
để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của
pháp luật.
Thứ hai, phải đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất.
Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn và có các
quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,
thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất, tùy theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của
55
pháp luật. Giá đất phải phù hợp với giá thị trường, phải được thỏa thuận một
cách khách quan, công bằng, không áp đặt chủ quan làm thiệt hại đến lợi ích
của các chủ thể sử dụng đất.
Việc bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm
bảo dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Người sử
dụng đất phải được bồi thường theo mục đích đất đang sử dụng, phải được
đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống nhân dân
ở khu vực có đất bị thu hồi.
Thứ ba, đất đai phải được coi là một loại hàng hoá đặc biệt, giá cả đất
đai phải được vận động theo cơ chế thị trường.
Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu về đất đai, là chủ thể quyết
định giá đất. Tuy nhiên đất đai cũng là một loại hàng hóa và lại là hàng hóa
đặc biệt, do đó trong cơ chế chung của kinh tế thị trường, việc định giá đất
của Nhà nước phải đảm bảo theo nguyên tắc của thị trường, tức là phải thực
hiện theo quy luật cung - cầu, đảm bảo sự chuyển nhượng bình thường, công
khai, minh bạch, đồng thời đảm bảo sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trong quá trình triển khai Luật Đất đai hiện hành, việc thực hiện
nguyên tắc quy định tại Điều 56 là: "Sát với giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường; khi có chênh
lệch lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường
thì phải điều chỉnh cho phù hợp" gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Trong
nhiều trường hợp "thị trường" chỉ xuất hiện sau khi có sự xuất hiện, can thiệp
của Nhà nước như công bố quy hoạch, dự án, thu hồi đất,... do đó giá đất
trước và sau khi công bố dự án có sự chênh lệch rất lớn và rất khó xác định
chính xác, khó áp dụng trong thực tế.
Vì vậy, về nguyên tắc, giá đất phải do Nhà nước xác định và theo
nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo vai trò chủ
56
động của Nhà nước trong việc hình thành và điều tiết thị trường. Tuy nhiên,
sự tác động của thị trường cũng như sự quản lý của Nhà nước đối với từng
loại đất khác nhau để đảm bảo tính khả thi cần thể hiện cụ thể nguyên tắc trên
đối với từng loại đất, từng mục đích dự án khác nhau.
2.1.4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác sử dụng đất
đai cho phát triển làng nghề trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
Sự lãnh đạo của Đảng với đường lối phát triển kinh tế - xã hội cùng
những chủ trương đúng đắn, là cơ sở để Nhà nước, Ủy ban nhân dân Thành
phố Hà Nội ban hành cơ chế, chính sách phù hợp trong việc huy động và sử
dụng có hiệu quả đất đai cho phát triển các làng nghề. Mọi sự xa rời sự
lãnh đạo của Đảng, không trên cơ sở chính sách, pháp luật của Nhà nước
về đất đai đều dẫn đến sự thất thoát, lãng phí nguồn lực đặc biệt quan trọng
này; đất đai không được giao đúng đối tượng, sử dụng không đúng mục
đích, tham ô, tham nhũng là nguyên nhân của những khiếu kiện đông người
ở nhiều địa phương trong nước cũng như Hà Nội.
Trong những năm qua, mặc dù được Thành ủy, HĐND, UBND
Thành phố đã quan tâm chỉ đạo trong viê ̣c tăng cường công tác quản lý
Nhà nước về đất đai. Viê ̣c khai thác, sử dụng đất hợp lý, hiê ̣u quả góp
phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hô ̣i của Thành phố.
Tuy nhiên, đất đai là tài sản đă ̣c biê ̣t, các quan hê ̣ đất đai hết sức nhạy cảm
và phức tạp. Vì vậy, chính sách đất đai ngày càng cần được hoàn thiê ̣n để
phù hợp với tình hình mới. Mặt khác, nhâ ̣n thức trong nhân dân về quyền
sở hữu đất đai không giống nhau đã dẫn đến khó khăn trong công tác quản
lý, sử dụng đất.
Việc chuyển đổi đất sản xuất nông nghiệp để phục vụ cho mục đích
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng làng
nghề cần được quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, giải quyết hài hòa giữa yêu cầu
57
CNH, HĐH từ nay đến năm 2020 với việc giữ diện tích đất lúa đảm bảo an
ninh lương thực lâu dài.
Thời gian các tổ chức kinh tế lập dự án đầu tư và lập hồ sơ đất đai thực
hiện chậm đã làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sử
dụng đất hàng năm. Một số hạng mục công trình đã có trong chỉ tiêu kế hoạch
sử dụng đất hàng năm nhưng cơ quan chủ đầu tư chưa lập xong dự án và hồ
sơ đất đai, vì vậy trong năm đó không thực hiện được chỉ tiêu kế hoạch sử
dụng đất đã được phê duyệt và phải chuyển sang năm sau.
Mô ̣t số tổ chức, cá nhân chưa thực sự coi trọng hiê ̣u quả sử dụng đất đã
dẫn đến sử dụng đất sai mục đích, gây lãng phí đất, vi phạm quy hoạch được
phê duyê ̣t. Trong quá trình sử dụng đất mô ̣t số tổ chức, doanh nghiê ̣p còn coi
nhẹ viê ̣c bảo vê ̣ cảnh quan môi trường dẫn đến ô nhiễm đất, hủy hoại đất.
Nguyên nhân của những vấn đề tồn tại nêu trên là ở mô ̣t số địa
phương công tác quản lý đất đai vẫn còn buông lỏng và chính sách quản lý
còn nhiều bất cập; nhâ ̣n thức về chính sách đất đai trong nhân dân không
đồng đều, ý thức của người sử dụng đất chưa cao, chưa chấp hành nghiêm
pháp luâ ̣t đất đai.
Do vậy, cần tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ
chương đường lối của Đảng, Nhà nước, của Thành phố về vai trò, ý nghĩa
của sự phát triển nghề, làng nghề, về việc sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả,
đúng quy định của pháp luật để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu, tạo sự
đồng thuận của toàn xã hội, thống nhất về nhận thức và hành động.
Để thực hiện được quan điểm này đảng bộ, chính quyền địa phương, và
các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, làng nghề từ cấp cơ sở đến Thành
phố cần tập trung giải quyết một số nội dung yêu cầu cụ thể như sau:
- Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cần đặc biệt quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo việc huy động và sử dụng có hiệu quả đất đai cho phát triển
58
kinh tế - xã hội địa phương nói chung và làng nghề nói riêng. Cần có các nghị
quyết chuyên đề, chương trình, kế hoạch cụ thể để lãnh đạo, chỉ đạo cho sát,
cho phù hợp với pháp luật, chính sách cũng như thực tiễn của địa phương;
điều căn bản là chủ trương, chính sách phải làm cơ sở cho việc giải quyết hài
hòa các lợi ích của các chủ thể liên quan tới đất đai.
- Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cả về nội dung,
hình thức, phương pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ,
đảng viên làm công tác quản lý nhà nước đối với việc sử dụng đất đai, phát
triển nghề, làng nghề của Thành phố. Xây dựng các quy chế, quy định về xử
lý, kiểm điểm trách nhiệm những trường hợp vi phạm chủ trương, nghị quyết
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, suy thoái về đạo đức, lối sống
và các biểu hiện tiêu cực khác liên quan tới đất đai.
- Tăng cường công tác quản lý cán bộ, hoàn thiện các quy chế quản lý
cán bộ, phân công, phân cấp quản lý cán bộ, giao trách nhiệm rõ ràng, đề cao
trách nhiệm quản lý cán bộ từ chi bộ, tổ chức cơ sở Đảng trong từng cơ quan
nhất là những cán bộ trực tiếp hoặc liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai.
- Đẩy mạnh việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh" tạo chuyển biến mạnh về nhận thức trách
nhiệm và hành động của mỗi cán bộ, đảng viên làm công tác quản lý nhà
nước đối với quản lý, sử dụng đất đai tại các làng nghề.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; tích cực đấu tranh phòng
chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng
trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, kết hợp chặt chẽ giữa xây và
chống, mục đích để chủ động phòng ngừa vi phạm, khuyết điểm ngay từ
lúc mới manh nha, khi phát hiện vi phạm phải xử lý nghiêm minh để ngăn
ngừa, giáo dục.
59
2.2. Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển
làng nghề ở Thủ đô Hà Nội
2.2.1. Hoàn thiện quy hoạch tổng thể đất đai, quy hoạch phát triển
làng nghề gắn với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và đầu tư
cơ sở hạ tầng trong các làng nghề
Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng nhằm định hướng cho các cấp, các ngành lập quy hoạch sử dụng
đất chi tiết; là cơ sở pháp lý cho công tác quản lý nhà nước về đất đai, làm căn
cứ cho việc giao đất, cho thuê đất... và đáp ứng các nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, an ninh, quốc phòng. Đồng thời, việc lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất là một biện pháp hữu hiệu của Nhà nước nhằm sử dụng đất hợp lý,
hiệu quả, từng bước ngăn chặn huỷ hoại đất, hạn chế lãng phí đất đai, phá vỡ
cân bằng môi trường sinh thái.
Để khai thác tốt nguồn lực đất đai nhất thiết Thành phố phải nắm chắc
được thông tin tổng thể về nguồn lực đất đai của mình. Từ đó có cơ sở để
hoạch định các chính sách khai thác nguồn lực đất đai một cách hợp lý và
hiệu quả nhất. Đặc biệt, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa Thủ đô Hà Nội, kéo theo đó là quá trình đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ
nên có sự thay đổi lớn về cơ cấu đất đai. Đất nông nghiệp tiếp tục thu hẹp
diện tích để chuyển đổi thành đất chuyên dùng (cho phát triển công nghiệp,
giao thông, dịch vụ, du lịch,…) và đất ở đô thị. Muốn khai thác được nguồn
lực đất đai hiệu quả nhất thì thông tin về sự biến động đất đai theo tiến trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế Thủ đô cần phải được cập nhật và cụ thể hóa.
Để làm được điều đó nhất thiết công tác quy hoạch phải đi trước một bước và
phải tiến hành thật hiệu quả.
Quy hoạch phát triển nghề, làng nghề Thành phố Hà Nội đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030 là cần thiết, cấp bách, phân tích đánh giá đúng tiềm
60
năng, nguồn lực của Thành phố để xây dựng các quan điểm, định hướng mục
tiêu phát triển cho từng giai đoạn, là căn cứ khoa học và thực tiễn để có chiến
lược và quy hoạch cụ thể nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống, đồng thời phát triển nghề, làng nghề theo hướng hiện đại. Trên cơ sở đó
xây dựng kế hoạch hàng năm, 5 năm về phát triển nghề, làng nghề, đồng thời là
cơ sở giúp cho các cấp, các ngành, các địa phương có kế hoạch, giải pháp, hành
động cụ thể, ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích nghề, làng
nghề phát triển sâu rộng, bền vững, tạo việc làm, nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân khu vực nông thôn, bảo tồn phát huy giá trị văn hoá của
các làng nghề truyền thống.
Quy hoạch đất đai trong làng nghề truyền thống phải đồng bộ với quy
hoạch kết cấu hạ tầng của địa phương. Xây dựng quy hoạch sử dụng đất cho
phát triển làng nghề gắn với xây dựng quy hoạch nông thôn mới theo Đề án
Xây dựng Nông thôn mới Thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2020, định
hướng đến năm 2030. Quy hoạch, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bố trí
quỹ đất đấu giá tạo nguồn thu cho ngân sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kỹ thuật của làng nghề.
Quy hoạch sử dụng đất cho phát triển làng nghề cần ưu tiên bố trí quỹ
đất đáp ứng đủ nhu cầu phát triển cho nhóm các ngành nghề, làng nghề được
ưu tiên, khuyến khích phát triển hoặc các ngành nghề cần di dời khỏi các khu
dân cư để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường như:
- Nhóm các làng nghề, ngành nghề có giá trị truyền thống, văn hóa, có
khả năng mở rộng thị trường gắn liền với truyền thống văn hóa của từng vùng
miền, từng địa phương và của cả Thành phố, gồm: Thủ công mỹ nghề truyền
thống như nghề sơn mài, khảm trai; chạm, điêu khắc đá, kim loại, gỗ, xương,
sừng; dát vàng, bạc quý; làm giấy, in tranh dân gian; nghề mây tre giang đan,
tăm hương, làm lồng chim; đồ gỗ cao cấp; làm nón, mũ; nghề dệt lụa, the,
đũi; nghề thêu ren; ngành nghề gốm sứ.
61
- Nhóm các làng nghề, ngành nghề khuyến khích, hỗ trợ phát triển theo
hướng tham gia sản xuất ra các sản phẩm phụ trợ phục vụ cho sản xuất công
nghiệp, bao gồm các ngành nghề: Dệt may, sản xuất các sản phẩm phụ trợ
phục vụ cho may xuất khẩu như khuy, mex, vải lót và các sản phẩm phụ khác;
cơ kim khí, điện.
Quy hoạch quỹ đất xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề phù hợp
với quy mô phát triển hiện tại của các làng nghề gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, không được khuyến khích mở rộng và phát triển nhưng trong
giai đoạn trước mắt vẫn cho phép tồn tại để đảm bảo đời sống, an sinh xã hội
cho nhân dân làng nghề nhưng phải di dời sản xuất ra khỏi khu dân cư đến
nơi sản xuất tập trung đủ điều kiện xử lý ô nhiễm môi trường đảm bảo đạt tiêu
chuẩn theo quy định, gồm:
- Các nghề, làng nghề tập trung sản xuất, chế biến nông sản thực phẩm
và tái chế cơ kim khí đó là những làng nghề gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, đến nay chưa có biện pháp xử lý đã ảnh hưởng đến đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm đặc biệt là
sản xuất tinh bột sắn, dong riềng đã ô nhiễm không khí bởi các chất SO2, NO2,
H2S, NH3, NH4… gây mùi tanh, hôi, khó chịu. Gây ô nhiễm nước thải nhất là
các làng nghề Cát Quế, Dương Liễu, Minh Khai ở Hoài Đức, nước thải lên tới
5.500 - 7.000 m3/ngày, hàm lượng các chất ô nhiễm trong nước thải cao là
COD, BOD5, SS, tổng NP vượt TCVN đến 100 lần.
- Làng nghề tái chế kim loại ở xã Thanh Thùy (Thanh Oai) đã làm
nhiễm không khí bao gồm các chất SO2, CO, NO, phát sinh khí độc như axit,
kiềm, oxit kim loại (PbO, ZnO, Al2O3). Nước thải sản xuất chứa nhiều hóa
chất độc hại như kim loại nặng (Zn, Fe, Cr, dầu mỡ công nghiệp…) lớn hơn
1,5 - 10 lần TCVN.
- Những làng nghề nằm trong vành đai xanh và các khu đô thị vệ tinh
của Thành phố Hà Nội (khu đô thị Sơn Tây, Hoà Lạc, Xuân Mai, Phú Xuyên,
62
Sóc Sơn) trước mắt tiếp tục cho tồn tại nhưng hạn chế phát triển; cần lập dự
án quy hoạch làng nghề để làng nghề phát triển phù hợp với phát triển đô thị
chung của Thành phố hoặc chuyển đổi nghề để hạn chế sự ảnh hưởng đến quá
trình phát triển đô thị.
Các biện pháp trên đây đòi hỏi không thể thiếu sự quy hoạch quỹ đất
gắn với quy hoạch phát triển nghề, làng nghề. Phát triển không tuân thủ
nghiêm ngặt quy hoạch, hoặc quy hoạch không bám sát thực tiễn cũng như
hướng phát triển chung của nghề, làng nghề đều dẫn tới quy hoạch treo, gây
lãng phí, thất thoát đất đai.
2.3.2. Đầu tư xây dựng, phát triển mô hình cụm sản xuất tập trung
tại các làng nghề
Trong xu hướng mở cửa và hội nhập, mục tiêu của làng nghề truyền
thống là dần dần CNH, HĐH, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất và thích
ứng với những thay đổi của nền kinh tế hiện đại. Vì vậy, quy mô sản xuất của
làng nghề sẽ ngày càng lớn, đòi hỏi phải có quy hoạch tổng thể và đồng bộ
mà nòng cốt là xây dựng, phát triển các cụm xuất công nghiệp tập trung.
Việc hình thành các cụm sản xuất tập trung tại các vùng, làng nghề là
một giải pháp quan trọng để tổ chức lại các nghề theo hướng từng bước hiện
đại hoá, khai thác triệt để tiềm năng và thế mạnh của nghề truyền thống, tạo
điều kiện thực hiện chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ ngành nghề, nhằm thực hiện yêu cầu và mục tiêu của công nghiệp hoá
hiện đại hoá nông thôn.
Phát triển các cụm công nghiệp làng nghề sẽ góp phần tạo mặt bằng cho
các cơ sở và các tổ chức dịch vụ, cho phép tạo khả năng phát triển sản xuất và
dịch vụ với quy mô lớn hơn, tốc độ cao hơn; mặt khác, đảm bảo sự phát triển
này không gây những ảnh hưởng bất lợi đối với đời sống và môi trường sống
của dân cư làng nghề và các vùng lân cận. Tập trung hoá nhằm tạo cơ sở nâng
63
cao sự phân công và hợp tác sản xuất giữa các cơ sở sản xuất với nhau, giữa
các cơ sở sản xuất với các cơ sở dịch vụ. Tạo điều kiện đầu tư đổi mới công
nghệ và tiếp cận trình độ tiên tiến về kỹ thuật, công nghệ và quản lý; tăng
cường cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại ở trong và ngoài cụm,
khu sản xuất như hệ thống đường giao thông, điện, cấp thoát nước và các hoạt
động dịch vụ khác; đồng thời cho phép xây dựng, trang bị cơ sở và phương
tiện xử lý chất thải tập trung và các biện pháp bảo vệ môi trường; thúc đẩy
quá trình đô thị hoá nông thôn. Phát triển khu sản xuất tập trung của làng
nghề là hình thức làm đổi mới bộ mặt nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa
nông thôn và thành thị.
Các cụm sản xuất tập trung không phải sẽ được thành lập ở tất cả các
làng nghề. Nó phụ thuộc vào điều kiện hình thành, các yếu tố phát triển và
các mục tiêu mà nó đáp ứng. Trước mắt những vùng, làng nghề có khả năng
thành lập khu sản xuất tập trung là những làng nghề có sức sản xuất lớn, tốc
độ tăng trưởng nhanh, sản phẩm thích ứng với nhu cầu thị trường, có nhu cầu
và điều kiện đổi mới công nghệ, có thị trường ổn định, đặc biệt là nơi gây ảnh
hưởng tới môi trường sinh thái và đời sống sức khoẻ của người dân v.v…Việc
thành lập khu sản xuất tập trung trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc và những căn
cứ khoa học xác đáng sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo điều
kiện tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng, từng bước hiện đại hoá trong
ngành CN-TTCN, đảm bảo sự thích ứng với điều kiện hiện đại của nền kinh
tế thị trường.
Thực hiện khảo sát quy hoạch, thiết kế xây dựng dựa trên quy hoạch
tổng thể cũng như các điều kiện và khả năng phát triển của từng làng nghề,
từng địa phương, đảm bảo tính hợp lý về quy mô, tốc độ phát triển và mô
hình hoạt động. Tính hợp lý ở đây được đảm bảo không chỉ cho những năm
trước mắt mà phải cho khoảng thời gian tương đối dài. Nghĩa là việc quy
64
hoạch, thiết kế có tính chất mở, để có thể cải biến cho thích hợp, phù hợp với
sự thay đổi của thị trường.
Xây dựng tốt và đồng bộ kết cấu hạ tầng, đây là một trong những điều
kiện quan trọng nhất để các khu sản xuất tập trung phát triển có hiệu quả.
Trước hết, cần phải giải quyết khâu quan trọng đầu tiên là nhựa hoá đường
giao thông, nối liền từ khu sản xuất tập trung của làng nghề tới thị trấn,
huyện, Thành phố và các trung tâm thương mại, tạo sự giao lưu thông suốt
trong việc vận chuyển và trao đổi hàng hoá. Xây dựng hệ thống điện, cấp
thoát nước, các hệ thống dich vụ như tài chính, ngân hàng tín dụng, bưu chính
viễn thông v.v… tạo cho các khu này gần với sơ sở dịch vụ và không cách xa
khu dân cư.
Về nguồn vốn: trước mắt cần phát huy nguồn vốn nội lực của các cơ sở,
các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong khu sản xuất tập trung, cùng với
sự hỗ trợ của Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương. Huy động các
thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân trong việc góp vốn,
tạo cơ sở vật chất ban đầu. Có thể góp vốn theo từng giai đoạn khác nhau.
Điều kiện của đầu tư có thể được tính theo hai cách: (1) Những người góp
vốn đầu tư sẽ được tham gia sản xuất kinh doanh trong khu sản xuất tập trung
đó, và (2) Những người góp vốn nếu không tham gia sản xuất kinh doanh ở
đó sẽ được hoàn trả có hưởng lãi khi các khu sản xuất đó đi vào hoạt động.
Về tổ chức quản lý: Thành lập ban quản lý khu sản xuất với chức năng
nhiệm vụ giải quyết các vấn đề chung của toàn khu vực như bảo vệ môi
trường, quản lý các công trình công cộng, đảm bảo an ninh v.v…Ban hành
quy chế quản lý khu, cụm, điểm công nghiệp làng nghề.
Quy hoạch tổng thể phát triển nghề, làng nghề; quy hoạch tổng thể
phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố Hà Nội đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã xác định: Xây dựng các cụm công nghiệp
65
làng nghề trên cơ sở quy hoạch phát triển cụm công nghiệp của Thành phố,
tạo mặt bằng cho các cơ sở và các tổ chức dịch vụ làng nghề, nâng cao sự
phân công và hợp tác sản xuất giữa các cơ sở sản xuất với nhau, giữa các cơ
sở sản xuất với các cơ sở dịch vụ, đồng thời có điều kiện xử lý chất thải theo
hướng tập trung, đồng bộ. Kiểm tra các cơ sở sản xuất và các làng nghề hiện
đang nằm đan xen trong các làng xóm và điểm dân cư nông thôn để có biện pháp
quản lý chặt chẽ về môi trường và hạ tầng. Giữ gìn và phát triển các nghề thủ
công truyền thống, những làng nghề có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường phải
được đưa vào khu, cụm công nghiệp tập trung. Phát triển giao thông kết nối giữa
điểm sản xuất với các tuyến đường chính, xây dựng trung tâm dịch vụ hỗ trợ tại
chỗ để phục vụ cho khách tham quan làng nghề và giới thiệu mua bán sản phẩm.
Đến năm 2020 Thành phố Hà Nội quy hoạch xây dựng 149 cụm công
nghiệp làng nghề, tổng diện tích quy hoạch là 1.404 ha. Thực hiện đầu tư xây
dựng các cụm công nghiệp sẽ giúp các làng nghề của Thành phố có điều kiện
bố trí quỹ đất đáp ứng mặt bằng phục vụ cho mở rộng sản xuất, đầu tư công
nghệ mới, di dời các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi
trường; xử lý ô nhiễm môi trường do trong quá trình sản xuất có rất nhiều công
đoạn có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường nếu không được xử lý đúng kỹ thuật.
Không gian quỹ đất phát triển các cụm công nghiệp làng nghề được bố
trí xen lẫn trong các loại hình khác do đặc thù phát triển sản xuất công nghiệp
- tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề có quan hệ hữu cơ với sản xuất nông
nghiệp do vậy không thể bố trí không gian quy hoạch phát triển các cụm công
nghiệp làng nghề với quy mô lớn như loại hình khu, cụm công nghiệp tập
trung; thu hút các ngành công nghiệp không gây ô nhiễm môi trường. Nâng
cấp mở rộng một số cụm công nghiệp thành khu công nghiệp tập trung. Tiếp
tục triển khai và phát triển theo hướng ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao và có
xử lý chất thải ở các làng nghề truyền thống: gốm sứ Bát Tràng, sản xuất đồ
66
gỗ mỹ nghệ Vân Hà - Liên Hà, dệt Triều Khúc, dệt lụa Vạn Phúc,… Phát
triển các làng nghề này theo hướng kết hợp với du lịch, đưa các làng nghề này
thành một trong nhiều tuyến điểm du lịch của Thủ đô.
Để thực hiện thành công việc xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp
làng nghề, Thành phố Hà Nội cần ban hành và thực hiện một số cơ chế chính
sách, biện pháp sau:
Thứ nhất, bên cạnh những cơ chế, chính sách chung của Nhà nước thì
Hà Nội cần có những cơ chế chính sách liên quan đến đất và cơ sở hạ tầng
cụm công nghiệp một cách đồng bộ. Các cơ chế, chính sách cần đổi mới là
giá cho thuê lại đất, phí dịch vụ và vốn đầu tư xây dựn. Điều chỉnh khung giá
chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng cho phù hợp với thực tế, đặc biệt là dự
toán về giải phóng mặt bằng liên quan đến một số đối tượng đặc thù (hoa
màu, cây lâu năm, mồ mả, di tích lịch sử và nhà ở tại các khu trung tâm, nhạy
cảm).
Thứ hai, xây dựng và thực hiện chính sách ưu tiên về mặt bằng đáp ứng
yêu cầu phát triển hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tại
các cụm công nghiệp làng nghề kinh doanh có hiệu quả, bố trí mặt bằng để
xây dựng các công trình xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề.
Thứ ba, ban hành chính sách bắt buộc các cơ sở sản xuất tại làng nghề,
trong các khu dân cư gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải di chuyển
sản xuất ra các khu sản xuất tập trung, có đủ điều kiện về hạ tầng kỹ thuật,
đặc biệt là công trình xử lý môi trường đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác xã hội hoá, thu hút nguồn lực đầu tư từ các
thành phần kinh kế, các tổ chức, cá nhân trong vào ngoài nước vào phát triển
hạ tầng các cụm công nghiệp làng nghề.
Thứ năm, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho xây
dựng hạ tầng và thu hút đầu tư vào các cụm công nghiệp làng nghề như: chính
67
sách hỗ trợ vốn lập quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, giải phóng mặt bằng, hạng
mục xử lý môi trường trong các cụm công nghiệp làng nghề,... từ nguồn vốn
ngân sách; các chính sách miễn giảm tiền thuê đất cho các đối tượng là các hộ
sản xuất tại làng nghề di chuyển ra nơi sản xuất tập trung.
Thứ sáu, quan tâm đầu tư đồng bộ và kịp thời hạ tầng kỹ thuật ngoài
hàng rào các cụm công nghiệp làng nghề để tạo dựng, kết nối đồng bộ hệ
thống hạ tầng kỹ thuật bên trong và bên ngoài, đáp ứng yêu cầu hoạt động sản
xuất kinh doanh của các cụm công nghiệp làng nghề.
2.3.3. Khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn tài chính từ đất đai cho
phát triển làng nghề thành phố Hà Nội
* Biện pháp tăng cường khả năng khai thác nguồn lực tài chính từ đất
đai cho phát triển làng nghề.
Thành phố Hà Nội với đặc thù đất chật, người đông, khả năng bố trí
quỹ đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung, để tạo nguồn
tài chính cho phát triển làng nghề nói riêng có hạn, do vậy việc tăng cường
hiệu quả, nâng cao khả năng khai thác quỹ đất có vai trò hết sức quan trọng.
Để làm được điều này, Thành phố cần thực hiện đồng bộ và có hiệu quả hệ
thống các biện pháp sau:
Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức khai thác quỹ đất.
Bên cạnh các chính sách tài chính về đất đai đang thực hiện theo quy
định của pháp luật hiện hành, Thành phố cần mở rộng, thực hiện đa dạng hóa
các hình thức khai thác nguồn lực đất đai khác như: đấu giá quyền sử dụng
đất; đấu thầu thực hiện dự án có sử dụng đất; đầu tư xây dựng hạ tầng làng
nghề theo hình thức BT, BOT, BTO, hình thức hợp tác đối tác công tư PPP và
các hình thức xã hội hóa đầu tư khác.
Thực hiện thí điểm một số chính sách nhằm tăng nguồn thu từ đất đai,
nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai như: Chính sách ưu tiên bố trí quỹ đất cho
68
các hộ sản xuất trong làng nghề di dời sản xuất ra các cụm sản xuất công
nghiệp làng nghề tập trung, cần thực hiện chính sách đấu giá quyền thuê đất
đối với các cụm công nghiệp làng nghề tại những vị trí có lợi thế địa tô chênh
lệch lớn. Nhân rộng hình thức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án
đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng các cụm công nghiệp làng nghề; lựa
chọn các doanh nghiệp có năng lực để thay thế Nhà nước tổ chức quản lý hoạt
động các dự án cụm công nghiệp làng nghề do Nhà nước làm chủ đầu tư xây
dựng hạ tầng đã thực hiện trước đây.
Thứ hai, nâng cao giá trị, hiệu quả sử dụng đất thông qua hình thức
đấu giá quyền sử dụng đất, đưa giá đất về sát giá thị trường.
Việc thực hiện chính sách đấu giá quyền sử dụng đất sẽ hạn chế được
tình trạng xin - cho trong giao đất, cho thuê đất. Sẽ tạo được mặt bằng giá
công khai, minh bạch để xác lập giá thị trường của quỹ đất đem vào khai thác,
sử dụng. Ràng buộc chặt chẽ về kinh tế của người dân làng nghề khi sử dụng
đất nhằm hạn chế tình trạng dự án treo hoặc bỏ hoang không đưa vào sử dụng.
Việc đấu giá phải được thực hiện công khai minh bạch, bình đẳng, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia đấu giá; đấu giá phải đúng trình
tự theo quy định của pháp luật, giá trúng đấu giá phải không thấp hơn giá đất
do Thành phố quy định.
Thực hiện chính sách đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định hiện
hành còn phức tạp về thủ tục, thời gian kéo dài và đòi hỏi cần có nguồn vốn
để giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dựng hạ tầng của quỹ đất dự kiến khai
thác. Thành phố cần nghiên cứu phương án cho phép đấu giá đất chưa giải
phóng mặt bằng dưới hình thức Nhà nước thực hiện thu hồi đất của người
đang sử dụng, lập và phê duyệt phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng,
hỗ trợ tái định cư theo quy định, sau đó tổ chức đấu giá; Nhà nước sử dụng
69
nguồn kinh phí thu được từ tiền đấu giá để giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ
tầng và bàn giao đất cho nhà đầu tư theo quy hoạch.
* Biện pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát
triển làng nghề.
Để nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng nguồn lực tài chính do khai
thác từ đất đai cho phát triển làng nghề cần thực hiện những biện pháp cụ thể
sau đây:
Thứ nhất, công khai hoá các thông tin, các chính sách về nguồn thu và
việc sử dụng nguồn lực tài chính thu được từ đất đai.
Việc công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại địa bàn
nơi thực hiện những hình thức khai thác nguồn lực tài chính cụ thể. Các địa
điểm nơi Thành phố thực hiện thu hồi đất hoặc thực hiện khai thác thông qua
các hình thức như bán đấu giá quyền sử dụng đất cần được niêm yết con số cụ
thể để công khai và minh bạch hoá về cách thức sử dụng nguồn lực.
Việc sử dụng nguồn tài chính thu được từ đất đai cho phát triển các
làng nghề đòi hỏi phải thật hiệu quả, đảm bảo tính minh bạch và tăng cường
được sức mạnh kinh tế của Thủ đô, tuyệt đối tránh hiện tượng thất thoát và
lãng phí trong sử dụng đất đai cũng như nguồn tài chính thu được thông qua
khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.
Thứ hai, đổi mới công tác phân bổ kế hoạch vốn đầu tư xây dựng theo
hướng đầu tư tập trung, có trọng điểm; hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng
phân bổ vốn dàn trải.
Việc áp dụng những quy định về phân bổ ngân sách và sử dụng ngân
sách của Nhà nước và của Thành phố đối với những nguồn tài chính huy động
được từ đất đai cần được tuân thủ đúng, tránh thất thoát, lãng phí. Nguồn thu
tiền sử dụng đất của Thành phố và các địa phương phải được dành toàn bộ
70
cho đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật của làng nghề; trước mắt
tập trung cho các công trình giao thông, xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề.
Thứ ba, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý vốn đầu tư.
Tăng cường quản lý xây dựng theo quy hoạch, các dự án đầu tư được
duyệt phải phù hợp với quy hoạch. Tăng cường phối kết hợp giữa Thành phố
với các bộ, ngành Trung ương trong công tác quy hoạch. Nâng cao chất lượng
các dự án đầu tư và công tác thẩm định dự án.
Nghiên cứu, xây dựng và ban hành quy định phối hợp quản lý đầu tư
xây dựng chung trên địa bàn. Thành phố có văn bản đề nghị Chính phủ ban
hành quy định về quản lý đầu tư và xây dựng trên địa bàn, trong đó làm rõ các
chế tài xử lý vi phạm với các nguồn vốn đầu tư làm căn cứ cho Thành phố
triển khai thực hiện.
Đổi mới công tác chỉ đạo, điều hành của các cấp, các ngành trong công
tác quản lý đầu tư và xây dựng theo hướng nghiên cứu rút gọn quy trình giải
quyết, tăng trách nhiệm các cơ quan chủ trì thẩm định. Đổi mới cách làm, tạo
điều kiện thuận lợi tối đa cho các nhà đầu tư; các ngành các cấp có kế hoạch
triển khai thực hiện các Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp có liên quan đến đầu
tư xây dựng. Nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách cho
phù hợp với Luật, văn bản mới ban hành của Nhà nước.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư và
xây dựng.
Tăng cường giám sát và quản lý những dự án được đầu tư nguồn ngân
sách có được thông qua khai thác nguồn lực từ đất đai. Việc giám sát và quản
lý phải đảm bảo đúng pháp luật của Nhà nước, nhất là về chất lượng công
trình. Những công trình phục vụ cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ
thuật và hạ tầng xã hội làng nghề cần phải đảm bảo đúng tiến độ và yêu cầu
71
kỹ thuật nhằm đưa vào phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của làng
nghề nói riêng và Thủ đô nói chung.
Cần thực hiện nghiêm túc và triệt để việc chống tiêu cực, tham nhũng
trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai. Đồng thời, xử lý
nghiêm minh và công khai kết quả xử lý đối với các tổ chức, cá nhân trong
việc sử dụng lãng phí nguồn lực tài chính từ đất đai.
2.3.4. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để huy động và sử dụng
hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội
Cơ chế, chính sách có vai trò rất quan trọng trong giải phóng các nguồn
lực cho sản xuất kinh doanh nói chung và huy động, sử dụng có hiệu quả đất
đai cho phát triển các làng nghề nói riêng. Thực tế đã khẳng định, trong khi sở
hữu tư liệu sản xuất chưa có sự thay đổi, nhưng chỉ cần có cơ chế, chính sách
phù hợp đã trở thành sức mạnh, động lực to lớn trong giải phóng sức sản xuất
như thực hiện khoán 100, tiếp đó khoán 10 trong nông nghiệp trước đây. Đại
hội XI của Đảng cũng xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá quan trọng trong thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.
Ở khía cạnh khác, đất đai là lĩnh vực hết sức quan trọng và nhạy cảm
trong phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh, trật tự an toàn xã hội và an ninh,
quốc phòng. Những hạn chế, tồn tại trong khai thác, sử dụng đất cho phát
triển làng nghề thời gian qua có nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách
quan trong đó có nguyên nhân do hạn chế của cơ chế, chính sách, đòi hỏi phải
tháo gỡ kịp thời.
Để thật sự phát huy hiệu quả chính sách khai thác, sử dụng đất đai, các
chính sách, pháp luật về đất đai cần được xây dựng đồng bộ, cụ thể, góp phần
nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
72
bồi thường, hỗ trợ tái định cư; đăng ký đất đai; thanh tra giải quyết các khiếu
nại tố cáo về đất đai thúc đẩy nâng cao năng lực quản lý đất đai.
Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đất đai là một đòi hỏi
quan trọng trong khai thác mọi nguồn lực đầu tư, sản xuất kinh doanh do đất
đai mang lại. Cần có sự phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
bộ, ngành, địa phương, Thành phố trong quản lý nhà nước về đất đai; đảm
bảo quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả và không chồng chéo. Phân cấp
việc quy định trình tự, thủ tục hành chính về đất đai gắn với trách nhiệm giải
quyết của từng cấp chính quyền địa phương cho phù hợp với chủ trương, yêu
cầu cải cách thủ tục hành chính.
Hiện nay, các quy định của pháp luật về đất đai nói chung, liên quan
đến phát triển nghề, làng nghề nói riêng đã được thay đổi rất nhiều... Tuy
nhiên, thủ tục hành chính liên quan đến việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất
tại các làng nghề của Hà Nội vẫn còn rườm rà. Do vậy, Thành phố Hà Nội
cần tiếp tục nghiên cứu cải cách thủ tục này trong thời gian tới.
2.3.5.Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, sử
dụng đất đai cho phát triển làng nghề
Quản lý nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quản lý
nhà nước về đất đai cho phát triển các làng nghề là chức năng, nhiệm vụ quan
trọng của Nhà nước nói chung và Chính quyền Thành phố Hà Nội nói riêng.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về huy động và sử dụng đất đai có
vai trò quan trọng trong sử dụng nguồn lực này cho phát triển các làng nghề.
Những hạn chế yếu kém trong lĩnh vực quản lý đất đai nói chung và đất đai cho
phát triển các làng nghề nói riêng thời gian qua có nguyên nhân từ sự yếu kém,
buông lỏng trong quản lý của chính quyền các cấp. Theo đó, hiệu quả sử dụng
nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề ở Thủ đô chưa đạt được yêu cầu
như mong muốn của nhân dân các làng nghề cũng như các cấp chính quyền
Thành phố. Vì vậy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai
73
cho phát triển các làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng và phải kết hợp thật tốt
giữa quản lý nhà nước về đất đai với quản lý nhà nước về các làng nghề.
* Quản lý nhà nước về đất đai
Thành phố Hà Nội cần tiếp tục cụ thể hóa chính sách, pháp luật về đất
đai, nghiên cứu xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện
thực tế của Thủ đô như: Chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; chính sách tài chính về đất đai; chính sách đất đai đối với
nông nghiệp, thị trường bất động sản. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, quy hoạch kiến trúc và quản lý đất đai nhằm
tạo môi trường đầu tư thông thoáng, thuận lợi cho các chủ đầu tư, chủ sử
dụng đất đai tại các làng nghề, cụm công nghiệp làng nghề đi đôi với việc hậu
kiểm, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm Luật Đất đai. Rà soát và kiên quyết
thu hồi những dự án chưa đưa đất vào sử dụng, sử dụng đất kém hiệu quả để
tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư thực hiện dự
án có sử dụng đất. Thực hiện nghiêm túc và triệt để việc chống tiêu cực, tham
nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai, đồng thời xử lý nghiêm
minh và công khai kết quả xử lý đối với các tổ chức, cá nhân trong việc sử
dụng lãng phí nguồn đất đai.
* Quản lý nhà nước về làng nghề
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách của Nhà nước, của Thành phố về vai trò, ý nghĩa của sự
phát triển nghề, làng nghề để cán bộ, đảng viên, nhân dân hiểu, tạo sự đồng
thuận của toàn xã hội, thống nhất về nhận thức và hành động.
Thường xuyên rà soát các văn bản về cơ chế, chính sách liên quan đến
làng nghề để điều chỉnh, bổ sung và thống nhất về triển khai trên địa bàn
Thành phố nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đầu tư, hỗ trợ phát triển các
nghề, làng nghề Hà Nội trong thời gian tới. Chú trọng các thông tin hai chiều
giữa Sở, Ban, Ngành và giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp, cơ
74
sở sản xuất làng nghề để phát hiện những tồn tại nhằm đề xuất các giải pháp,
cơ chế, chính sách hỗ trợ phù hợp, có hiệu quả.
Các địa phương tập trung tổ chức triển khai công tác quy hoạch, kế
hoạch phát triển các làng nghề của Thành phố, phân công các ngành, đoàn thể
phụ trách theo dõi hỗ trợ về tổ chức cho từng làng cụ thể.
* Quản lý nhà nước về cụm công nghiệp làng nghề
Thành lập các tổ chức và tăng nhân sự quản lý nhà nước đối với các
cụm công nghiệp do Thành phố quyết định thành lập. Xác định rõ thêm chức
năng làm đầu mối quản lý quy hoạch phát triển và theo dõi tổng hợp hoạt
động các cụm công nghiệp do Thành phố thành lập; cho phép Sở Công
Thương, cần có tổ chức và tăng cường biên chế cho tổ chức đó để làm tốt việc
này. Các địa phương có nhiều cụm công nghiệp có thể được Thành phố thành
lập Ban Quản lý cụm công nghiệp (hoặc Trung tâm phát triển cụm công nghiệp)
trực thuộc UBND cấp huyện để thực hiện chức năng quản lý toàn diện đối với
cụm công nghiệp; tổ chức này nên có từ 3 - 5 người, tùy theo mức độ phát triển
về quy mô và số cụm công nghiệp, có thể bổ sung nhân sự kiêm nghiệm. Trang
bị cho các tổ chức và biên chế trên văn phòng, phương tiện đủ để làm việc
theo chế độ, qui định hiện hành đối với viên chức nhà nước.
Về cơ chế hoạt động của các Ban quản lý và Tổ chức chuyên trách liên
quan đến cụm công nghiệp: Các tổ chức này hoạt động theo Quy chế riêng do
UBND các cấp và cơ quan có thẩm quyền phê duyệt với thỏa thuận phối hợp
của các sở, ngành liên quan, trên cơ sở quy chế khung mẫu của Thành phố
ban hành. Các Tổ chức này chịu sự lãnh đạo trực tiếp của đảng bộ và sự quản
lý của UBND địa phương và chịu sự chi phối về chuyên môn, nghiệp vụ từ Sở
Công Thương và các sở, ban ngành liên quan của Thành phố.
Thành phố cần phân cấp hoặc ủy quyền cho các sở, ngành liên quan,
UBND cấp huyện giải quyết và tự chịu trách nhiệm trong một số lĩnh vực đối
75
với một số dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án tiểu thủ công nghiệp, di chuyển
sản xuất tại các làng nghề, khu vực dân cư vào cụm công nghiệp làng nghề.
*
* *
Trên cơ sở lý luận, thực tiễn huy động và sử dụng nguồn lực đất đai
cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội được hệ thống hóa, đánh giá và
phân tích tại chương 1, chương 2 của đề tài đã đề xuất hệ thống các quan
điểm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng
nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới. Trong đó quan điểm quy hoạch sử
dụng đất cho phát triển làng nghề phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, quy hoạch phát triển nghề, làng nghề của thành phố được xác định
là quan điểm mang tính nguyên tắc, định hướng cho mọi chủ trương, cơ chế
chính sách liên quan. Quan điểm khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho
phát triển làng nghề phải đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và phát triển bền vững
làng nghề là quan điểm chủ đạo, là yêu cầu bắt buộc đối với các chính sách,
giải pháp sử dụng đất đai cho phát triển làng nghề.
Các giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng
cao hiệu quả khai thác và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề
tương xứng với tiềm năng, lợi thế của Thành phố được đề xuất và phải được
thực hiện một cách đồng bộ, từ quy hoạch, cơ chế, chính sách đến giải pháp
kết hợp lợi ích kinh tế và đảm bảo an ninh, quốc phòng,... trong đó đề tài tập
trung nhấn mạnh giải pháp về quy hoạch sử dụng đất và giải pháp huy động
nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát triển bền vững làng nghề của Thành
phố là những giải pháp có tính chất đột phá.
76
KẾT LUẬN
Thủ đô Hà Nội là địa phương có điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng,
có nền văn hoá lâu đời; đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền
thống nhất của cả nước với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra
nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu. Với vị trí đặc biệt quan trọng của Hà Nội trong quan
hệ với cả nước, làng nghề của Thủ đô đã và đang phát huy thế mạnh, mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội và phát triển bền vững, thân thiện với môi trường,
tạo ra những sản phẩm có nét văn hoá độc đáo riêng của từng địa phương, sử
dụng nguồn lao động tại chỗ, phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du
lịch, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá
nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển mọi mặt
để xứng tầm với điều kiện mới của đất nước. Để phát triển được như vậy, việc
huy động mọi nguồn lực trong đó có nguồn lực đất đai là hết sức quan trọng.
Nguồn lực đất đai được xem như là một nguồn nội lực cần được khai
thác và sử dụng hiệu quả để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và
phát triển làng nghề của Thành phố nói riêng. Việc khai thác và sử dụng hiệu
quả nguồn lực đất đai, một mặt giúp tạo dựng mặt bằng sản xuất đáp ứng nhu
cầu cho sản xuất tại các làng nghề. Mặt khác, nguồn lực tài chính thu được từ
đất đai thông qua nhiều hình thức khai thác khác nhau sẽ giúp Thành phố
nâng cao được năng lực đầu tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng làng nghề, một lĩnh vực đòi hỏi phải có nguồn
vốn đầu tư khá lớn.
Trong những năm qua trong việc khai thác và sử dụng nguồn lực đất
đai trên địa bàn Thủ đô cho phát triển các làng nghề đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Nhiều làng nghề đã xây dựng được khu sản xuất tập trung
để mở rộng mặt bằng sản xuất, di dời sản xuất tách biệt ra khỏi nơi sinh sống;
77
hạ tầng làng nghề được từng bước đầu tư, đáp ứng cơ bản nhu cầu sản xuất
của làng nghề; môi trường làng nghề được khắc phục và cải thiện một bước
trở thành những nhân tố, điều kiện, tiền đề, nguồn lực quan trọng để phát triển
bền vững làng nghề của Thành phố trong thời gian tới. Bên cạnh đó việc khai
thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề của Thành phố cũng
còn có những hạn chế cần được khắc phục với hệ thống các giải pháp cả về
chính sách lẫn tổ chức thực hiện. Những giải pháp đó cần được thực hiện một
cách đồng bộ và có sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan trên
địa bàn Thủ đô.
Kết quả nghiên cứu cùng những đề xuất của tác giả đã nêu trong luận
văn này mới chỉ là phác họa, chấm phá ban đầu. Mặc dù tác giả đã có nhiều
cố gắng nghiên cứu, nhưng do thời gian và năng lực có hạn, nên không thể
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Học viên xin cảm ơn sự góp ý của các
nhà khoa học để có điều kiện hoàn thiện và nghiên cứu sâu hơn đề tài này
trong quá trình công tác./.
78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bạch Thị Lan Anh, 2010, Phát triển bền vững làng nghề truyền thống Vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Luận án Tiến sĩ kinh tế chính trị - Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
2. Trần Thanh Bân, Khai thác và phát huy hiệu quả nguồn lực đất đai, Báo
Nhân dân điện tử số ra ngày 09/5/2013.
3. Trần Hữu Bình và nhóm phóng viên, Môi trường làng nghề Hà Nội bị ô
nhiễm nghiêm trọng: Làm gì? Báo Hà Nô ̣i Mới số ra ngày 8-4-2009.
4. Bộ Công thương, 2005, Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành tiểu thủ
công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2015, tầm nhìn đến năm 2020,
Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2010, Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
(JICA), 2003, Nghiên cứu quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công
theo hướng công nghiệp hoá nông thôn Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (2012), Đề án khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai và tài
sản Nhà nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020,
Hà Nội.
8. Bộ Tài chính, 2001, Thông tư số 79/2001/TT-BTC hướng dẫn cơ chế tài
chính để thực hiện các dự án đường giao thông nông thôn; cơ sở hạ
tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề ở nông thôn, Hà Nội.
9. Chính phủ, 2009, Quyết định số 1956/QĐ - TTg ngày 27/11/2009 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn
đến năm 2020”, Hà Nội.
79
10. Chính phủ, 2011, Quyết định số 1259/QĐ - TTg ngày 26 tháng 7 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch chung xây dựng
quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm
2050, Hà Nội.
11. Chính phủ (2010), Tờ trình về quy hoạch sử dụng đất đai đến năm 2020,
(Báo cáo Quốc hội phiên họp ngày 20/10/2013).
12. Đặng Kim Chi, 2005, Làng nghề Việt Nam và môi trường, NXB Khoa học
kỹ thuật.
13. Nguyễn Xuân Chính, 2007, Làng nghề Hà Tây, thưc trạng và giải pháp
phát triển bền vững, Tạp chí Công nghiệp số 6 năm 2007.
14. Phạm Văn Dũng, 2002, Làng nghề Hà Nội với giải quyết việc làm, Tạp
chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn - số 4 năm 2002.
15. Ngô Thái Hà, 2009, Phát triển làng nghề và vấn đề bảo vệ môi trường,
trước hết là nước sạch, Tạp chí Cộng sản số 32 năm 2009.
16. Đinh Văn Hải (2012), Chính sách tài chính về đất đai: kết quả đạt được và
một số kiến nghị, Tạp chí Tài chính số 10 năm 2012.
17. Mai Thế Hởn, 2000, "Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình
CNH, HĐH ở vùng ven Thủ đô Hà Nội", Luận án tiến sỹ kinh tế -
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
18. Phương Hiếu (2012), Thực trạng quản lý và sử dụng đất đai hiện nay, Tạp
chí Tài chính số 10 năm 2012.
19. Vương Đình Huệ (2012), Đổi mới chính sách pháp luật tài chính đất đai
phục vụ phát triển kinh tế, Tạp chí Tài chính số 10 năm 2012.
20. Đỗ Thị Lan, 2007, Giáo trình kinh tế tài nguyên đất, Nxb Nông nghiệp,
Hà Nội.
21. Nguyễn Thăng Long, 2008, Vấn đề phát triển cụm - điểm công nghiệp và
cụm công nghiệp làng nghề, Báo cáo tại Hội thảo phát triển làng nghề
Miền Trung và Tây Nguyên - Bình Định 2008.
80
22. Các Mác, Bộ Tư bản - Quyển 1, Nxb Sự thật, 1998, Hà Nội.
23. Hoàng Ngân, 2006, Phát triển bền vững làng nghề đồng bằng sông Hồng:
Thực trạng và giải pháp, http://www.saga.vn
24. Khắc Nguyên, 2007, Qui hoạch sử dụng đất vùng kinh tế trọng điểm Bắc
Bộ, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 2 năm 1007.
25. Dương Bá Phượng, 2001, Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá
trình công nghiệp hóa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Quốc hội, 2003, Luật Đất đai năm 2003, Hà Nội.
27. Trần Công Sách, 2003, Tiếp tục đổi mới chính sách và giải pháp đẩy
mạnh tiêu thụ sản phẩm của làng nghề truyền thống ở Bắc Bộ đến năm
2010, Đề tài khoa học cấp Bộ do Tiến sỹ Trần Công Sách làm chủ nhiệm
đề tài.
28. Nguyễn Văn Song, 2006, Giáo trình kinh tế tài nguyên và môi trường,
Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
29. Sở Công thương thành phố Hà Nội, 2012, Báo cáo đánh giá thực trạng
làng nghề và định hướng, giải pháp phát triển làng nghề Hà Nội.
30. Sở Công thương Thành phố Hà Nội, 2009, Làng nghề Hà Nội tiềm năng
và triển vọng phát triển - NXB Khoa học xã hội.
31. Sở Công thương thành phố Hà Nội, 2009, Báo cáo tổng hợp đề án Đánh
giá thực trạng môi trường làng nghề lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy
thuộc Thành phố Hà Nội.
32. Nguyễn Thái Sơn (2007), Giáo trình quản lý nhà nước về đất đai, Nhà
xuất bản Nông nghiệp Hà Nội.
33. Ngô Tân Thanh, 2012, Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đất đai
trên địa bàn tỉnh Bình Định, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị - Đại
học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
81
34. Nguyễn Văn Thanh (2013), Vai trò của Hội đồng nhân dân trong quản lý
nguồn lực đất đai, Tài liệu bồi dưỡng cán bộ dân cử tỉnh Bắc Giang.
35. Nguyễn Tân Thịnh (2012), Đấu giá quyền sử dụng đất: công cụ giải quyết
bức xúc về đất đai, Tạp chí Tài chính số 10 năm 2012.
36. Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây, 2007, Quy hoạch phát triển làng nghề,
ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2007 - 2010, định hướng
đến năm 2015, Hà Nội.
37. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, 2012, Qui hoạch tổng thể phát triển
nghề, làng nghề thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030, Hà Nội.
38. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, 2012, Qui hoạch tổng thể sử dụng
đất thành phố Hà Nội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội.
39. Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, 2010, Đề án bảo tồn và phát triển
nghề, làng nghề Hà Nội giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2020, Hà Nội.
40. Trần Minh Yến, 2003, Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sỹ
kinh tế - Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
82
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:
QUI HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020
Đơn vị: ha
Hiện trạng 2010
Quy hoạch 2020
Tổng số
Diê ̣n tích
Diê ̣n tích do
do cấp
Diện tích
Cơ cấu
Thành phố
Thứ tự
Loại đất
Cơ cấu
Diê ̣n tích
Quốc gia
M·
(ha)
(%)
xác định
(ha)
(%)
phân bổ
(ha)
(ha) (6)
(7)
(1)
(3)
(4)
(5)
(8)
(9)
(2) TỔNG DIỆN TÍCH TỰ
332.889
100,0
332.889
332.889 100,0
NHIÊN
ĐẤT NÔNG NGHIỆP
NNP
188.365
56,6
151.780
462
152.242
45,7
1
LUA
114.780
34,5
92.120
0
92.120
27,7
1.1
Trong đó: Đất trồng lúa Trong đó: đất chuyên
LUN
103.378
31,1
92.000
92.000
27,6
trồng lúa nước
Đất trồng cây lâu năm Đất rừng sản xuất Đất rừng phòng hộ Đất rừng đặc dụng Đất nuôi trồng thuỷ sản
1.2 1.3 1.4 1.5 1.6 2
CLN RSX RPH RDD NTS ĐẤT PHI NÔNG NGHIỆP PNN
15.892 8.550 5.413 10.295 10.710 135.193
4.161 9.000 13.546 10.261 178.830
4,8 2,6 1,6 3,1 3,2 40,6
11.460 0 0 0 60 6
11.460 4.161 9.000 13.546 10.318 178.836
3,4 1,2 2,7 4,1 3,1 53,7
14.477 787 4.255
2.1 2.2 2.3 2.4 2.5
1.908 8.453 372 2.065 2.253
0,6 2,5 0,1 0,6 0,7
2.194 0 0 0 4.628
2.194 14.477 787 4.255 4.628
0,7 4,3 0,2 1,3 1,4
Trong đó: Đất trụ sở cơ quan, CTSN CTS CQP Đất quốc phòng CAN Đất an ninh SKK Đất khu công nghiệp Đất cụm công nghiệp SKK Đất cho hoạt động khoáng
2.6
SKS
400
0,1
841
841
0,3
sản
2.7
Đất phát triển hạ tầng
DHT
45.493
13,7
66.597
0
66.597
20,0
DVH DYT
1.425 379
2.628 994
0,4 0,1
0 51
2.628 1.045
0,8 0,3
Trong đó: Đất cơ sở văn hoá Đất cơ sở y tế Đất cơ sở giáo dục - đào
DGD
2.970
8.896
0,9
4
8.900
2,7
1.834
2.8
tạo Đất cơ sở thể dục - thể thao DTT DGT Đất giao thông DDT
1.086 22.895 528
1.626
0,3 6,9 0,2
0 30.537 0
1.834 30.537 1.626
0,6 9,2 0,5
Đất di tích, danh thắng Đất xử lý, chôn lấp chất
2.9
DRA
312
3.713
0,1
7
3.721
1,1
thải
2.10 2.11
TTN Đất tôn giáo, tín ngưỡng Đất nghĩa trang, nghĩa địa NTD
836 2.848
0,3 0,9
847 3.833
847 3.833
0,3 1,2
83
Hiện trạng 2010
Quy hoạch 2020
Tổng số
Diê ̣n tích
Diê ̣n tích do
Diện tích
Cơ cấu
Thứ tự
Loại đất
Cơ cấu
Diê ̣n tích
do cấp
Thành phố
M·
(%)
(ha)
(1)
(2)
(5)
xác định (7)
(%) (9)
Đất ở đô thị
2.12 3
ĐẤT CHƯA SỬ DỤNG
0 -468
(3) ODT CSD CSD
(4) 7.840 9.331 9.331
Quốc gia (6) 9.522 2.279 2.279
2,4 2,8 2,8
(ha) (8) 9.522 1.811 1.811
2,9 0,5 0,5
Đất chưa sử dụng còn lại Đất chưa sử dụng đưa vào
7.052
7.520
2,3
sử dụng
DTD
32.116
9,65
66.873
66.875 20,09
CÁC CHỈ TIÊU QUAN SÁT: Đất đô thị Đất khu bảo tồn
DBT
10.295
3,09
13.546
13.546
4,07
DDL
thiên nhiên Đất khu du lịch
12.802
3,85
12.802
12.802
3,85
Nguồn số liê ̣u: Quy hoạch phố sử dụng đất Thành Hà Nô ̣i đến năm 2020, kế hoạch
sử dụng đất 5 năm 2011-2015- Báo cáo trình thông qua HĐND thành phố kỳ họp
tháng 7/2012.
84
Phụ lục 2:
HIỆN TRẠNG CÁC CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ ĐANG
TRIỂN KHAI XÂY DỰNG (đến tháng 12/2012)
Qui mô
TT
Tên cụm công nghiệp
Xã Đắc Sở - Hoài Đức 1 CNLN Đắc Sở Xã Vân Canh - Hoài Đức 2 CNLN Cầu Nổi – Vân Canh Xã La Phù – Hoài Đức 3 CNLN La Phù Xã Kim Chung – Hoài Đức 4 CNLN Đại Tự - Kim Chung Xã Dương Liễu - Hoài Đức 5 CNLN Dương Liễu Xã Di Trạch - Hoài Đức 6 CNLN Di Trạch 7 CNLN cơ kim khí Phùng Xá Xã Phùng Xá - Thạch Thất 8 CNLN mộc dân dụng Phùng Xá Xã Phùng Xá - Thạch Thất Xã Bình Phú - Thạch Thất 9 CNLN Bình Phú I Xã Chàng Sơn - Thạch Thất 10 CNLN Chàng Sơn Xã Kim Quan - Thạch Thất 11 CNLN Kim Quan Xã Canh Nậu - Thạch Thất 12 CNLN Đám Sào - Canh Nậu TT Quốc Oai - Quốc Oai 13 CNLN Thị trấn Quốc Oai Xã Vạn Điểm - Thường Tín 14 CNLN Vạn Điểm Xã Duyên Thái - Thường Tín 15 CNLN Duyên Thái Xã Ninh Sở - Thường Tín 16 CNLN Ninh Sở Xã Tiền Phong - Thường Tín 17 CNLN Tiền Phong Xã Kiêu Kỵ - Gia Lâm 18 CNLN Kiêu Kỵ Xã Bát Tràng -Gia Lâm 19 CNLN Bát Tràng Xã Đình Xuyên -Gia Lâm 20 CNLN Đình Xuyên Xã Thanh Thùy - Thanh Oai 21 CNLN Thanh Thuỳ Xã Liên Hà - Đan Phượng 22 CNLN Liên Hà Xã Tân Hội - Đan Phượng 23 CNLN Tân Hội Xã Đan Phượng - Đan Phượng 24 CNLN Đan Phượng Xã Đồng Tháp - Đan Phượng 25 CNLN Sông Cùng Phường Kiến Hưng - Hà Đông 26 CNLN Đa Sỹ Phường Vạn Phúc - Hà Đông 27 CNLN Vạn Phúc Xã Tiên Phương -Chương Mỹ 28 CNLN Tiên Phương Xã Tân Tiến -Chương Mỹ 29 CNLN Tân Tiến Xã Ngọc Hòa -Chương Mỹ 30 CNLN Ngọc Hoà Xã Đông Sơn -Chương Mỹ 31 CNLN Đông Sơn Xã Trường Yên -Chương Mỹ 32 CNLN Trường Yên
Địa điểm
(ha) 579,96 6,3 9,4 50 8 12 8,4 11,2 4,2 12,3 10,7 11,0 10,7 10,55 7,2 12,6 10 8,2 12,9 16,9 20 5,5 9,6 9,6 28,9 6,3 13 13 10,8 9,8 10,4 5 9,9
85
Qui mô
TT
Tên cụm công nghiệp
Xã Phú Nghĩa -Chương Mỹ Xã Đông Phương Yên -Chương Mỹ Xã Phụng Châu -Chương Mỹ Xã Đại Yên -Chương Mỹ Thị trấn Chúc Sơn -Chương Mỹ Xã Tân Triều - Thanh Trì Xã Cam Thượng - Ba Vì xã Quảng Phú Cầu - Ứng Hòa Xã Tích Giang - Phúc Thọ Xã Thọ Lộc - Phúc Thọ Xã Võng Xuyên - Phúc Thọ Xã Phúc Hòa - Phúc Thọ Xã Vân Phúc - Phúc Thọ Xã Hiệp Thuận - Phúc Thọ Xã Liên Hiệp - Phúc Thọ Thị Trấn Phúc Thọ - Phúc Thọ Phường Phú Thịnh – Sơn Tây Phường Sơn Đông – Sơn Tây Xã Phú Túc - Phú Xuyên Xã Phùng Xá -Mỹ Đức Xã Liên Hà- Đông Anh Xã Vân Hà -Đông Anh
Địa điểm
(ha) 579,96 10 1,2 10 1,3 9,9 10 2,2 2,4 1,8 1 0,6 5 2,6 1,8 8,1 1,6 8,5 12,5 0,5 3,3 3 9,0
33 CNLN Phú Nghĩa 34 CNLN Đông Phương Yên 35 CNLN Phụng Châu 36 CNLN Đại Yên - Hợp Đồng 37 CNLN Ngọc Sơn 38 CNLN Tân Triều 39 CNLN Đồng Sét 40 CNLN Xà Cầu 41 CNLN Tích Giang 42 CNLN Thọ Lộc 43 CNLN Võng Xuyên 44 CNLN Phúc Hoà 45 CNLN Vân Phúc 46 CNLN Hiệp Thuận 47 CNLN Liên Hiệp 48 CNLN TT Phúc Thọ 49 CNLN Phú Thịnh 50 CNLN Sơn Đông 51 CNLN Phú Túc 52 CNLN Phùng Xá 53 CNLN Liên Hà 54 CNLN Vân Hà
Nguồn:
Báo cáo rà soát Qui hoạch tổng thể phát triển khu, cụm công nghiệp
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - Sở Công Thương Hà Nội năm 2012
86
Phụ lục 3:
DANH MỤC QUY HOẠCH CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2020
1.404
D
CỤM CÔNG NGHIỆP LÀNG NGHỀ
HUYỆN PHÚC THỌ
4 cụm
90
I
Cụm CN làng nghề Liên Hiệp
H. Phúc Thọ
20
Đang hoạt động
1
Cụm CN làng nghề Tam Hiệp
H. Phúc Thọ
20
Qui hoạch mới
2
Cụm CN làng nghề Sen Chiểu
H. Phúc Thọ
20
Qui hoạch mới
3
Cụm CN làng nghề Phụng Thượng
H. Phúc Thọ
30
Qui hoạch mới
4
II
HUYỆN HOÀI ĐỨC
12 cụm
119
Cụm CN làng nghề Đắc Sở
H. Hoài Đức
6
Đang hoạt động
5
Cụm CN làng nghề Cầu Nổi-Vân Canh
H. Hoài Đức
5
Đang hoạt động
6
Cụm CN làng nghề La Phù
H. Hoài Đức
8
Đang hoạt động
7
Cụm CN làng nghề Di Trạch
H. Hoài Đức
10
Đang hoạt động
8
Cụm CN làng nghề Sơn Đồng
H. Hoài Đức
25
Đang hoạt động
9
Cụm CN làng nghề Dương Liễu
H. Hoài Đức
12
Đang hoạt động
10
Cụm CN làng nghề Đại Tự
H. Hoài Đức
8
Đang hoạt động
11
Cụm CN làng nghề An Thượng
H. Hoài Đức
10
QH cũ, chưa XD
12
Cụm CN làng nghề Cát Quế
H. Hoài Đức
10
QH cũ, chưa XD
13
Cụm CN làng nghề Đức Giang
H. Hoài Đức
10
QH cũ, chưa XD
14
Cụm CN làng nghề Đông La
H. Hoài Đức
5
QH cũ, chưa XD
15
Cụm CN làng nghề Song Phương
H. Hoài Đức
10
QH cũ, chưa XD
16
III
HUYỆN THẠCH THẤT
11 cụm
161
Cụm CN làng nghề Phùng Xá 1
H. Thạch Thất
10
Đang hoạt động
17
Cụm CN làng nghề Phùng Xá 2
H. Thạch Thất
4
Đang hoạt động
18
Cụm CN làng nghề Bình Phú
H. Thạch Thất
16
Đang hoạt động
19
Cụm CN làng nghề Kim Quan
H. Thạch Thất
11
20
Đang hoạt động Đang hoạt động;
Cụm CN làng nghề Canh Nậu
H. Thạch Thất
20
21
Mở rộng qui mô
Đang hoạt động;
87
Cụm CN làng nghề Chàng Sơn
H. Thạch Thất
22
15
23
Cụm CN làng nghề Thạch Xá
15
Mở rộng qui mô QH cũ, chưa XD
H. Thạch Thất
24
Cụm CN làng nghề Hương Ngải
15
QH cũ, chưa XD
H. Thạch Thất
25
Cụm CN làng nghề Hữu Bằng
30
QH cũ, chưa XD
H. Thạch Thất
26
Cụm CN làng nghề Bình Phú 2
10
QH cũ, chưa XD
H. Thạch Thất
27
Cụm CN làng nghề Dị Nậu
15
Qui hoạch mới
H. Thạch Thất
IV
HUYỆN ĐAN PHƯỢNG
11 cụm
161
Cụm CN làng nghề Đan Phượng
H. Đan Phượng
28
28
Đang hoạt động
29
Cụm CN làng nghề Sông Cùng
6
Đang hoạt động
H. Đan Phượng
30
Cụm CN làng nghề Liên Hà
30
Đang hoạt động
H. Đan Phượng
31
Cụm CN làng nghề Tân Hội
20
Đang hoạt động
H. Đan Phượng
32
Cụm CN làng nghề Hạ Mỗ
6
QH cũ, chưa XD
H. Đan Phượng
33
5
Cụm CN làng nghề Song Phượng
H. Đan Phượng
QH cũ, chưa XD
34
10
Cụm CN làng nghề Tân Lập
H. Đan Phượng
QH cũ, chưa XD
35
10
Cụm CN làng nghề Phương Đình
H. Đan Phượng
QH cũ, chưa XD
36
Cụm CN làng nghề Hồng Hà
6
QH cũ, chưa XD
H. Đan Phượng
37
Cụm CN làng nghề Thượng Mỗ
10
QH cũ, chưa XD
H. Đan Phượng
38
Cụm CN làng nghề Liên Trung
30
Qui hoạch mới
H. Đan Phượng
V
HUYỆN QUỐC OAI
89
9 cụm
39
Cụm CN làng nghề TT Quốc Oai
10
Đang hoạt động
H. Quốc Oai
40
Cụm CN làng nghề Tân Hòa
13
QH cũ, chưa XD
H. Quốc Oai
41
Cụm CN làng nghề Tuyết Nghĩa
10
QH cũ, chưa XD
H. Quốc Oai
42
Cụm CN làng nghề Nghĩa Hương
6
QH cũ, chưa XD
H. Quốc Oai
43
Cụm CN làng nghề Đồng Quang
5
QH cũ, chưa XD
H. Quốc Oai
44
Cụm CN làng nghề Thạch Thán
5
QH cũ, chưa XD
H. Quốc Oai
45
Cụm CN làng nghề Cộng Hòa
10
QH cũ, chưa XD
H. Quốc Oai
46
Cụm CN làng nghề Liệp Tuyết
10
QH cũ, chưa XD
H. Quốc Oai
47
Cụm CN làng nghề Sài Sơn
20
Qui hoạch mới
H. Quốc Oai
VI
THỊ XÃ SƠN TÂY
1 cụm
9
48
88
Cụm CN làng nghề Phú Thịnh
TX. Sơn Tây
Đang hoạt động
9
VII HUYỆN BA VÌ
11 cụm
55
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Tản Lĩnh
QH cũ, chưa XD
5
49
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Minh Quang
QH cũ, chưa XD
5
50
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Tản Hồng
QH cũ, chưa XD
5
51
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Đông Quang
QH cũ, chưa XD
5
52
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Khánh Thượng
QH cũ, chưa XD
5
53
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Đồng Thái
QH cũ, chưa XD
5
54
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Sơn Đà
QH cũ, chưa XD
5
55
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Phong Vân
QH cũ, chưa XD
5
56
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Chu Minh
QH cũ, chưa XD
5
57
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Vạn Thắng
QH cũ, chưa XD
5
58
H. Ba Vì
Cụm CN làng nghề Thụy An
QH cũ, chưa XD
5
59
5 cụm
VIII HUYỆN CHƯƠNG MỸ
41
Cụm CN làng nghề Phụng Châu
H. Chương Mỹ
Đang hoạt động
10
60
Cụm CN làng nghề Đông Sơn
H. Chương Mỹ
Đang hoạt động
5
61
Cụm CN làng nghề Đại Yên
H. Chương Mỹ
Đang hoạt động
6
62
Cụm CN làng nghề Hòa Chính
H. Chương Mỹ
QH cũ, chưa XD
10
63
Cụm CN làng nghề Thụy Hương
H. Chương Mỹ
10
64
IX
HUYỆN THANH OAI
7 cụm
61
Cụm CN làng nghề Thanh Thùy
H. Thanh Oai
Đang hoạt động
6
65
Cụm CN làng nghề Dân Hòa
H. Thanh Oai
QH cũ, chưa XD
5
66
Cụm CN làng nghề Tam Hưng
H. Thanh Oai
QH cũ, chưa XD
10
67
Cụm CN làng nghề Kim Thư
H. Thanh Oai
QH cũ, chưa XD
10
68
Cụm CN làng nghề Hồng Dương
H. Thanh Oai
QH cũ, chưa XD
10
69
Cụm CN làng nghề Phương Trung
H. Thanh Oai
QH cũ, chưa XD
10
70
Cụm CN làng nghề Thanh Lương
H. Thanh Oai
Qui hoạch mới
10
71
89
X
QUẬN HÀ ĐÔNG
4 cụm
58
72
Cụm CN làng nghề Đa Sỹ
Q. Hà Đông
Đang hoạt động
13
73
Cụm CN làng nghề Vạn Phúc
Q. Hà Đông
Đang hoạt động
15
74
Q. Hà Đông
QH cũ, chưa XD
20
Cụm CN làng nghề Dương Nội Cụm CN làng nghề Thượng Mạo -
75
Q. Hà Đông
Qui hoạch mới
10
XI
Phú Lương HUYỆN THƯỜNG TÍN
26 cụm
147
76
Cụm CN làng nghề Duyên Thái
H. Thường Tín
Đang hoạt động
13
77
Cụm CN làng nghề Vạn Điểm
H. Thường Tín
Đang hoạt động
7
78
Cụm CN làng nghề Ninh Sở
H. Thường Tín
Đang hoạt động
5
79
Cụm CN làng nghề Tiền Phong
H. Thường Tín
Đang hoạt động
8
80
Cụm CN làng nghề Hòa Bình
H. Thường Tín
Đang hoạt động
7
81
Cụm CN làng nghề Chương Dương
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
82
Cụm CN làng nghề Hồng Vân
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
83
Cụm CN làng nghề Hiền Giang 1
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
84
Cụm CN làng nghề Văn Tự
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
85
Cụm CN làng nghề Dũng Tiến
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
86
Cụm CN làng nghề Khánh Hà
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
87
Cụm CN làng nghề Lê Lợi
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
88
Cụm CN làng nghề Nguyễn Trãi
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
89
Cụm CN làng nghề Nghiêm Xuyên
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
90
Cụm CN làng nghề Nhị Khê
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
6
91
Cụm CN làng nghề Thắng Lợi
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
6
92
Cụm CN làng nghề Văn Bình
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
93
Cụm CN làng nghề Tự Nhiên
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
94
Cụm CN làng nghề Vân Tảo
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
95
Cụm CN làng nghề Tô Hiệu
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
96
Cụm CN làng nghề Văn Phú
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
97
Cụm CN làng nghề Minh Cường
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
5
90
Cụm CN làng nghề TT Thường Tín
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
98
5
Cụm CN làng nghề Hà Hồi
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
99
5
Cụm CN làng nghề Hiền Giang 2
H. Thường Tín
100
5
Cụm CN làng nghề Liên Phương
H. Thường Tín
QH cũ, chưa XD
101
5
XII HUYỆN PHÚ XUYÊN
12 cụm
64
102
Cụm CN làng nghề Chuyên Mỹ
7
H. Phú Xuyên
Đang hoạt động
103
Cụm CN làng nghề Phú Túc
7
H. Phú Xuyên
Đang hoạt động
104
Cụm CN làng nghề Phú Yên
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
105
Cụm CN làng nghề Vân Từ
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
106
Cụm CN làng nghề Hồng Minh
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
107
Cụm CN làng nghề Sơn Hà
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
108
Cụm CN làng nghề Phượng Dực
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
109
Cụm CN làng nghề Đại Thắng
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
110
Cụm CN làng nghề Tri Trung
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
111
Cụm CN làng nghề thôn Ngọ
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
112
Cụm CN làng nghề thôn Trung
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
113
Cụm CN làng nghề Bạch Hạ
5
H. Phú Xuyên
QH cũ, chưa XD
XIII HUYỆN MỸ ĐỨC
39
5 cụm
114
Cụm CN làng nghề Phùng Xá
10
H. Mỹ Đức
Đang hoạt động
115
Cụm CN làng nghề Thượng Lâm
8
H. Mỹ Đức
QH cũ, chưa XD
116
Cụm CN làng nghề Phù Lưu Tế
6
H. Mỹ Đức
QH cũ, chưa XD
117
Cụm CN làng nghề An Phú
10
H. Mỹ Đức
QH cũ, chưa XD
118
Cụm CN làng nghề Phúc Lâm
5
H. Mỹ Đức
QH cũ, chưa XD
XIV HUYỆN ỨNG HÒA
14 cụm
130
119
Cụm CN làng nghề Xà Cầu
8
H. Ứng Hòa
Đang hoạt động
120
Cụm CN làng nghề Cầu Bầu
5
H. Ứng Hòa
Đang hoạt động
121
Cụm CN làng nghề Sơn Công
10
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
122
Cụm CN làng nghề Cao Thành
10
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
123
Cụm CN làng nghề Trường Thịnh
H. Ứng Hòa
10
QH cũ, chưa XD
91
Cụm CN làng nghề Đồng Tân
124
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
Cụm CN làng nghề Trầm Lộng
125
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
Cụm CN làng nghề Hòa Lâm
126
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
Cụm CN làng nghề Minh Đức
127
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
Cụm CN làng nghề Kim Đường
128
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
Cụm CN làng nghề Hòa Xá
129
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
7
Cụm CN làng nghề Hoa Sơn
130
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
Cụm CN làng nghề Hòa Phú
131
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
Cụm CN làng nghề Lưu Hoàng
132
H. Ứng Hòa
QH cũ, chưa XD
10
XV HUYỆN THANH TRÌ
5 cụm
35
Cụm CN làng nghề Tân Triều
H. Thanh Trì
Đang hoạt động
133
15
Cụm CN làng nghề Hữu Hoà
134
Thanh Trì
QH mới
5
Cụm CN làng nghề Vạn Phúc
135
Thanh Trì
QH mới
5
Cụm CN làng nghề Duyên Hà
136
Thanh Trì
QH mới
5
Cụm CN làng nghề Tam Hiệp
137
Thanh Trì
QH mới
5
XVI HUYỆN ĐÔNG ANH
2 cụm
13
Cụm CN làng nghề Vân Hà
138
H. Đông Anh
Đang hoạt động
3
Cụm CN làng nghề Liên Hà
139
H. Đông Anh
Đang hoạt động
10
XVII HUYỆN SÓC SƠN
2 cụm
40
Cụm CN làng nghề Xuân Thu
140
H. Sóc Sơn
Qui hoạch mới
20
Cụm CN làng nghề Xuân Giang
141
H. Sóc Sơn
Qui hoạch mới
20
XVIII HUYỆN GIA LÂM
5 cụm
80
Cụm CN làng nghề Bát Tràng
142
H. Gia Lâm
Đang hoạt động
17
Cụm CN làng nghề Kiêu Kỵ
143
H. Gia Lâm
Đang hoạt động
13
Cụm CN làng nghề Kim Lan
144
H. Gia Lâm
Qui hoạch mới
10
Cụm CN làng nghề Đình Xuyên
145
Gia Lâm
QH mới
20
20
146
Cụm CN làng nghề Dương Hà
Gia Lâm
QH mới
12
XIX HUYỆN TỪ LIÊM
3 cụm
147
92
Cụm CN làng nghề Cổ Nhuế
Từ Liêm
8
QH mới
148
Cụm CN làng nghề Mễ Trì
Từ Liêm
2
QH mới
149
Cụm CN làng nghề Xuân Đỉnh
Từ Liêm
2
QH mới
Nguồn:
Báo cáo rà soát Qui hoạch tổng thể phát triển khu, cụm công nghiệp
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 - Sở Công Thương Hà Nội năm 2012
93
Phụ lục 4:
DANH SÁCH CÁC LÀNG NGHỀ KHÔNG KHUYẾN KHÍCH PHÁT
TRIỂN
Thời Làng nghề Nội dung gian
Chuyển đổi từ chế biến tinh bột
sang chế biến thực phẩm (bánh Làng nghề Minh Khai - Hoài Đức
2011 kẹo) và đưa các doanh nghiệp
- và hộ sản xuất lớn gây ô nhiễm
2015 môi trường chuyển vào Cụm Làng nghề Dương Liễu - Hoài Đức công nghiệp làng nghề Dương
Liễu
Đưa 50% các doanh nghiệp, 2016 các hộ sản xuất lớn vào các - cụm công nghiệp làng nghề 2020 Cát Quế, Thanh Thùy…
hộ sản xuất cơ kim khí vào 2121 CCN làng nghề Thanh Thùy và - Làng nghề Dụ Tiền - Thanh Oai Làng nghề Từ Am - Thanh Oai Làng nghề Rùa Hạ - Thanh Oai Làng nghề Cát Quế - Hoài Đức Làng nghề Ngự Câu - Hoài Đức Làng nghề Yên Sở - Hoài Đức Làng nghề Thượng Thôn - Đan Phượng Đưa 50% các doanh nghiệp, các Làng nghề Trúng Đích - Đan Phượng Làng nghề Bá Nội - Đan Phượng Làng nghề Gia Vĩnh - Thanh Oai Làng nghề Rùa Thượng - Thanh Oai CCN Liên Hà, Hạ Mỗ, Hồng Hà 2030 (Đan Phượng), Hòa Bình Làng nghề Thụy Ứng - Thường Tín
(Thường Tín)
Nguồn: Qui hoạch tổng thể phát triển nghề, làng nghề Hà Nội đến
năm 2020, tầm nhìn đến 2030 - UBND thành phố Hà Nội