ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HÀ THỊ CẨM VÂN

PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Hà Nội - 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM. CHUYÊN NGÀNH: Kinh tế chính trị MÃ SỐ: 603101 Học viên: Hà Thị Cẩm Vân

Giáo viên hƣớng dẫn: TS. Vũ Thị Dậu

Hà Nội 12 - 2010

MỤC LỤC

Danh mục chữ cái viết tắt..................................................................................................i

Danh mục các bảng biểu...................................................................................................ii

Mở đầu................................................................................................................................1 Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THƢ̣C TIỄN SƢ̣ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC ............................................................................................... 9

1.1. Doanh nghiệp nhà nƣớc ..................................................................................... 9

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nƣớc. .............................................................. 9

1.1.2.Vai trò của các DNNN .................................................................................... 9

1.1.3. Phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc ................................................................ 13

1.2.Tiêu chí đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp nhà nƣớc ........................ 14

1.2.1. Năng lực cạnh tranh của các DNNN ............................................................ 14

1.2.2. Khả năng thích ứng của các DNNN. ............................................................ 15

1.2.3. Tính minh bạch của DNNN. ........................................................................ 16

1.2.4. Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của DNNN .............................................. 17

1.3.Phát triển DNNN ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. .... 19

1.3.1. Phát triển DNNN ở Trung Quốc .................................................................. 19

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. ............................................................ 22

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ

NƢỚC VIỆT NAM .............................................................................. 27

2.1. Thực trạng DNNN Việt Nam sau 20 năm đổ i mớ i kinh tế ............................ 27 2.1.1. Quan điểm phát triển DNNN ....................................................................... 27

2.1.2 Những biện pháp phát triển DNNN .............................................................. 29

2.1.3. Kết quả phát triển DNNN sau 20 năm đổi mới ............................................ 32

2.2. Thực trạng phát triển DNNN Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 ................... 36

2.2.1.Những nhân tố chủ yếu giai đoạn 2006 – 2010 tác động tới sự phát triển DNNN

Việt Nam ................................................................................................................ 36

2.1.2. Tình hình phát triển DNNN ......................................................................... 40

2.3. Đánh giá sự phát triển DNNN ở Việt Nam ..................................................... 57

2.3.1. Năng lực cạnh tranh của khu vực DNNN đƣợc cải thiện ............................ 57

2.3.3 DNNN trở nên thích ứng với sự thay đổi của môi trƣờng kinh tế hơn ......... 65

2.3.4.DNNN góp phần ổn định kinh tế vĩ mô ........................................................ 69

2.3.5. DNNN tham gia các hoạt động an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo ........... 71

2.4. Hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển của DNNN ................. 74

2.4.1. Hạn chế ......................................................................................................... 74

2.4.2. Nguyên nhân ................................................................................................ 93 Chƣơng 3.ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾ P TỤC PHÁT TRIỂN

DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 ............. 101

3.1. Bối cảnh mới .................................................................................................... 101

3.1.1. Bối cảnh quốc tế ........................................................................................ 101

3.1.2. Bối cảnh trong nƣớc ................................................................................... 104

3.2. Định hƣớng phát triển DNNN ....................................................................... 109

3.2.1.Phát triển DNNN phải gắn với việc tái cơ cấu khu vực DNNN, tách hoạt động

của nhà nƣớc ra khỏi hoạt động kinh doanh của DNNN ..................................... 109

3.2.2. Phát triển DNNN phải gắn với việc phát huy lợi thế của DNNN Việt Nam111

3.2.3. Phát triển DNNN phải gắn với phát triển bền vững................................... 111

3.3. Giải pháp và kiến nghi ̣ nhằm tiếp tu ̣c phá t triển DNNN Viê ̣t Nam .......... 112 3.3.1. Giải pháp đối với DNNN ........................................................................... 112

3.3.2. Kiến nghi ̣ đối với nhà nƣớc ........................................................................ 116 KẾ T LUẬN ........................................................................................ 128

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 129

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Các từ viết tắt Tiếng Việt

TT

VIẾT TẮT

NGHĨA ĐẦY ĐỦ

CNH, HĐH

CN-XD

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1

2 Công nghiệp – Xây dựng

3 CPH Cổ phần hoá

DN

4 CTM-CTC Công ty mẹ - công ty con

DNNN

5 Doanh nghiệp

6 Doanh nghiệp nhà nƣớc

7 HĐQT Hội đồng quản trị

8 HTKTĐN Hợp tác kinh tế đối ngoại

9 KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư

10 NNL Nguồn nhân lực

11 NQ Nghị quyết

12 QĐ Quyết định

13 TĐKT Tập đoàn kinh tế

14 TCT Tổng công ty

15 TGĐ Tổng giám đốc

16 Tp Thành phố

17 TW Trung ư ơ ng

18 UBND Uỷ ban nhân dân

19 VNĐ Việt Nam đồng

Các từ viết tắt Tiếng Anh

TT

VIẾT TẮT

NGHĨA ĐẦY ĐỦ

ASEAN

GATT

1 Hội hiệp các quốc gia Đông Nam Á

EVN

2 Hiệp định chung về thuế quan và thư ơ ng mại

FDI

3 Tập đoàn Điện lực Việt Nam

GDP

4 Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

GSO

5 Tổng sản phẩm trong nƣớc

1

6 Tổng cục Thống kê Việt Nam

IMF

ISO

7 Quỹ tiền tệ quốc tế

SCIC

8 Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế

9 Tổng công ty đầu tư kinh doanh vốn nhà nư ớc

UNESCO

10 VCB Ngân hàng ngoại thư ơ ng mại

11 Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc

12 USD Đô la Mỹ

13 VNCI Dự án sáng kiến cạnh tranh Việt Nam

14 WB Ngân hàng thế giới

15 WEF Diễn đàn Kinh tế thế giới

2

15 WTO Tổ chức Thƣơng mại thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

TRANG

TT

NỘI DUNG

DANH MỤC CÁC BẢNG

24 2.1 Tình hình sắp xếp DNNN ở Việt Nam

2.2 25 Số lư ợng DNNN đư ợc cổ phần hoá giai đoạn 2000 - 2005

28 2.3 Tổng số lao động theo khu vực kinh tế giai đoạn 2000 - 2005

29 2.4 Tốc độ tăng trư ởng GDP theo khu vực kinh tế

30 2.5 Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của DNNN

2.6. 36 Số lư ợng DN hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm 30/12 hàng năm

2.7 37 Số lư ợng lao động tại các DN tại thời điểm 30/12 hàng năm

38 2.8 Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế

50 2.9 Vốn đầu tư theo giá so sánh phân theo ngành kinh tế

50 2.10 Tỷ lệ đóng góp vào GDP phân theo ngành kinh tế

54 2.11 Phân bổ tín dụng cho nền kinh tế

69 2.12 Doanh thu thuần của các DNNN

70 2.13. Một đồng vốn tạo ra mấy đồng doanh thu thuần.

74 2.14 Cơ cấu lao động của các doanh nghiêp

74 2.15 Vốn bình quân cho mỗi chỗ việc làm

DANH MỤC CÁC HÌNH

26 2.1 Thời gian trung bình để cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam

2.2 28 Số lư ợng DNNN giai đoạn 2000 – 2005

2.3 41 Số lư ợng DNNN đư ợc cổ phần hoá hàng năm

2.4 55 Số lư ợng lao động trong khu vực DNNN

100 3.1 CPI giai đoạn 2007 – 2010

DANH MỤC CÁC HỘP

64 2.1 Tập đoàn dầu khí Việt nam chung tay kiềm chế lạm phát

3

71 2.2 Nợ xấu của các DNNN

76 2.3 Đầu tư dàn trải ở Vinashin

4

87 2.4 Khoảng trống trong giám sát các tập đoàn kinh tế

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Kinh tế nhà nƣớc là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Trong bất kỳ

thời điểm nào, đối với bất kỳ quốc gia nào, kinh tế nhà nƣớc mà trong đó các doanh

nghiệp nhà nƣớc là một bộ phận quan trọng, vẫn luôn đƣợc coi nhƣ một thành phần kinh

tế quan trọng của đất nƣớc.

Trong nền kinh tế thi ̣ trƣờ ng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, doanh ,

nghiê ̣p nhà nƣớc có vai trò đ ặc biệt quan trọng. Hơn 20 năm tiến hành đổi mớ i kinh tế cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc đã tƣ̀ ng bƣớ c đƣa khu vƣ̣c doanh nghiê ̣p này hô ̣i nhâ ̣p và

phát triển . Tuy nhiên, thực tế cho thấy khối doanh nghiệp nhà nƣớc vẫn chƣa có đƣợc

hiệu quả hoạt động cao, năng lƣ̣c ca ̣nh tranh còn thấp , chƣa minh ba ̣ch trong tổ chƣ́ c và hoạt động, khả năng thích ứng với nhƣ̃ng thay đổi củ a môi trƣờ ng kinh doanh còn ha ̣n chế. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rô ̣ng nhƣ hiện nay thì vấn đề này càng

trở nên khó khăn cho sự tồn tại và phát triển củ a các doanh nghiệp nhà nƣớc .

Trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp nhà nƣớc Việt Nam, đặc biệt là các tập

đoàn kinh tế nhà nƣớc gặp phải không ít những sóng gió trên con đƣờng phát triển của

mình, điển hình là vụ “chìm tàu” Vinashin đang gây ra không ít những bức xúc trong dƣ

luận những tháng giữa năm 2010. Yêu cầu đặt ra cho khu vực này là phải xem xét lại một

cách toàn diện cách thức tổ chức và hoạt động của mình để có thể đứng vững và hƣớng

tới phát triển bền vững trong điều kiện nền kinh tế trong nƣớc và thế giới luôn tiềm ẩn

những biến động khôn lƣờng nhƣ hiện nay.

Với những lý do nhƣ trên, câu hỏi nghiên cứu mà đề tài đặt ra là: Thực trạng phát

triển doanh nghiệp nhà nƣớc trong những năm qua ở Việt Nam nhƣ thế nào? Và

giải pháp nào để tiếp tục phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam trong

những năm tới?

Việc nhận diện những thành công và những vấn đề đặt ra trong sự phát triển doanh

5

nghiê ̣p nhà nƣớ c , hƣớng tới viê ̣c đề xuất những giải pháp để phát triển khu vực này là vấn đề có ý nghĩa quan tro ̣ng không chỉ đối vớ i sƣ̣ phát triển của khu vực doanh nghiê ̣p nhà nƣớc, mà còn đối với sự phát triển của nền kinh tế đất nƣớc.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc là một trong những vấn đề trọng tâm của quá

trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam , đặc biệt là trong những năm gần đây, do vâ ̣y, đã có nhiều công trình khác nhau nghiên cƣ́ u. Điển hình nhƣ: - Tác giả Ngô Quang Minh:“Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới DNNN”, 2005

- GS.TS Vũ Đình Bách: “Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế nhà nước- Lý

luận và giải pháp”, 2003.

- PSG.TS Nguyễn Kim Cúc và PGS.TS Kim Văn Chính:“ Sở hữu nhà nước và

DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, 2003

- Lee Kang Woo: “Quá trình đổi mới DNNN Việt Nam giai đoạn 1986 – 2000”,

2002

- Nguyễn Quang A, 2009, “ Địa vị và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước”,

báo cáo tại hội thảo “ Tập đoàn kinh tế nhà nƣớc – Lý luận và thực tiễn”, 2009

- Bộ Tài chính, “Cải cách, đổi mới doanh nghiệp nhà nước”, 2005

- Nguyễn Quang A, “Vì sao Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả”, 2010

- Vũ Thành Tự Anh, “Doanh nghiệp nhà nước không đủ năng lực đóng vai trò chủ

đạo”, 2010.

…..

Các tác giả đã phân tích sâu sắc quá trình phát triển DNNN ở Việt Nam và những vấn đề liên quan. Tuy nhiên, việc cập nhật những vấn đề đă ̣t ra đối vớ i sƣ̣ phát triển các

DNNN trong giai đoạn hiện này và những thách thức phát triển của khu vực này trong

tình hình mới thì chƣa có một đề tài nào đề cập và khai thác nó một cách đầy đủ và toàn

cảnh.

Vấn đề nghiên cứu đề tìm ra các thách thức của việc phát triển của khu vực DNNN

trong bối cảnh và tình hình mới từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giúp khu vực này phát

triển là một cách tiếp cận mới, đang là vấn đề mang tính thời sự cao khi các doanh nghiệp

Việt Nam, trong đó có DNNN đang cố gắng thay đổi mình để đứng vững và phát triển

6

sau thời kỳ khủng hoảng.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

*Mục đích nghiên cứu của đề tài:

Đề tài “Phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam” nghiên cứu nhằm mục

đích nhận diện thực trạng và nguyên nhân trong sự triển DNNN ở Việt Nam, từ đó đề

xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của khu vực này trong những

năm tới.

*Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:

- Làm rõ hơn cơ sở khoa học của sƣ̣ phát triể n củ a doanh nghiê ̣p nhà nƣớ c trên

phƣơng diện lý luận và kinh nghiệm thực tiễn.

- Nhận diện những thành công , nhƣ̃ng h ạn chế trong quá trình phát triển doanh

nghiê ̣p nhà nƣớ c Viê ̣t Nam..

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tu ̣c phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc

Việt Nam trong tƣơng lai.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

*Đối tượng nghiên cứ u: Đề tài “ Phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc Việt Nam ” có đối tƣợng nghiên cứu là

khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc Việt Nam

*Phạm vi nghiên cứu của đề tài

- Phạm vi không gian: doanh nghiê ̣p nhà nƣớ c ở Viê ̣t Nam

- Phạm vi thờ i gian: Trọng tâm vào giai đoạn từ 2006 - 2010

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài.

- Đề tài kế thừa những nghiên cứu về lý luận phát triển của các tác giả trong nƣớc

và trên thế giới để làm rõ lý thuyết phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc (khái niệm, tiêu chí

đánh giá, các nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển)

- Từ việc nghiên cứu các số liệu và tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp

nhà nƣớc của Tổng cục thống kê, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà

nƣớc, đề tài phân tích, đánh giá quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam

7

gắn với quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Trên cơ sở phân tích những hạn chế và nguyên nhân trong sự phát triển doanh

nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam (2006-2010), đề tài đƣa ra định hƣớng và giải pháp tiếp tục

phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc trong thời gian tới (giai đoạn 2011-2015)

Đề tài sử dụng các phƣơng pháp cụ thể trong nghiên cứu kinh tế chính trị : phƣơng

pháp phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp logic kết hợp với lịch sử, phƣơng pháp so sánh,

phƣơng pháp thống kê kinh tế để thƣ̣c hiê ̣n nhiê ̣m vu ̣ củ a đề tài.

Luận văn sử dụng các công cụ phân tích kinh tế nhƣ: số liệu và chỉ số, biểu đồ, đồ

thị,… trong việc phân tích và thể hiện nội dung đề tài.

6. Những đóng góp mới của Luận văn

Luận văn có một số đóng góp sau:

- Đƣa ra cách tiếp cận mới để đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp nhà nƣớc Việt

Nam, đó là gắn sƣ̣ phân tích vớ i lý thuyết phát triển doanh nghiê ̣p hiê ̣n đa ̣i và gắn sƣ̣ phân tích với bối cảnh đổi mớ i kinh tế và hô ̣i nhâ ̣p kinh tế quốc tế ở Viê ̣t Nam.

- Nhận diện nhƣ̃ng thách thức mà doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam phải vƣơ ̣t qua

trong quá trình phát triển của mình.

- Đề xuất một số giải pháp để tiếp tục phát triển các doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt

Nam trong giai đoạn 2011 - 2015

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và các phụ lục, đề tài

đƣợc thiết kế làm 3 chƣơng

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc

Chƣơng 2. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc ở Việt Nam

Chƣơng 3. Định hƣớng và giải pháp tiếp tục phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc ở

8

Viê ̣t Nam giai đoạn 2011 - 2015

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SƢ̣ PHÁT

TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC

1.1. Doanh nghiệp nhà nƣớc

1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước.

+ Kinh tế nhà nước

Kinh tế nhà nƣớc là khu vực kinh tế do nhà nƣớc nắm giữ, dựa trên sở hữu nhà

nƣớc, bao gồm: các DNNN; Tài nguyên, khoáng sản, và phần đất đai thuộc sở hữu của

nhà nƣớc; Ngân hàng Nhà nƣớc, Kho bạc nhà nƣớc, Ngân sách nhà nƣớc, Tài chính nhà

nƣớc, Hệ thống dự trữ quốc gia và bảo hiểm quốc gia, các dịch vụ công cộng do nhà nƣớc

đảm nhiệm. Trong các bộ phận của kinh tế nhà nƣớc, các DNNN là cấu thành quan trọng

nhất vì đây là lực lƣợng tạo ra sức mạnh vật chất cho nhà nƣớc thực hiện vai trò của

mình, đồng thời là công cụ để nhà nƣớc điều tiết nền kinh tế.

+ Doanh nghiệp nhà nước

DNNN là doanh nghiệp đƣợc thành lập bằng 100% vốn nhà nƣớc, hoặc doanh

nghiệp trong đó nhà nƣớc giữ cổ phần chi phối.

Theo Luật doanh nghiệp 2005 của Việt Nam, DNNN là doanh nghiệp trong đó nhà

nƣớc sở hữu trên 50% vốn điều lệ [11,1]. Quan niệm này cũng phù hợp với quan điểm

của WTO về DNNN.

Nhƣ vậy, doanh nghiệp nhà nƣớc hiểu một cách đơn giản nhất thì đó là một doanh

nghiệp mà nhà nƣớc nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, bất kể nó thuộc loại hình kinh doanh

nào, nguồn gốc hình thành nhƣ thế nào… Khái niệm này cho ta thấy một cách rõ ràng hơn

cách hiểu về DNNN ở Việt Nam.

1.1.2.Vai trò của các DNNN

*DNNN là kinh tế của nhà nước

Khu vực kinh tế nhà nƣớc là nơi tạo ra tiềm lực về kinh tế cho nhà nƣớc. Trong

thành phần kinh tế nhà nƣớc thì DNNN là một cấu thành quan trọng, đây là bộ phận chủ

yếu tạo ra sức mạnh vật chất cho nhà nƣớc thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh

của mình.

Trong nền kinh tế của các nƣớc tƣ bản giai đoạn độc quyền, DNNN cũng đƣợc xây

9

dựng và hoạt động nhƣ các khu vực kinh tế khác trong nền kinh tế. Ở giai đoạn độc

quyền, chủ nghĩa tƣ bản cần phải xây dựng kinh tế nhà nƣớc và liên doanh với các tổ chức

độc quyền, vừa là để giúp các tổ chức này có thể tồn tại đƣợc, vừa có lợi cho nhà nƣớc tƣ

bản vì khu vực kinh tế nhà nƣớc có vai trò là lực lƣợng kinh tế của nhà nƣớc. Bản chất

của quan hệ sản xuất TBCN là dựa trên sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất. Do sự phát

triển của lực lƣợng sản xuất, đến giai đoạn độc quyền, quan hệ sở hữu tƣ bản chủ nghĩa về

tƣ liệu sản xuất đã có sự biến dạng nhất định: sở hữu tƣ bản tập thể xuất hiện, nhƣng sự

biến dạng đó cũng không đáp ứng đƣợc sự phát triển của lực lƣợng sản xuất. Chính điều

này làm cho sở hữu nhà nƣớc phát triển mạnh mẽ. Để can thiệp vào nền kinh tế, nhà nƣớc

tƣ bản phải có sức mạnh về kinh tế. Nhà nƣớc sử dụng sức mạnh kinh tế của mình để can

thiệp vào nền kinh tế bằng cách sử dụng ngân sách nhà nƣớc để đầu tƣ xây dựng cơ sở

kinh tế cho riêng mình, thông qua các hình thức: Nhà nƣớc bỏ tiền ra mua lại các xí

nghiệp tƣ nhân có nguy cơ bị phá sản, nhờ đó mà giúp cho nền kinh tế không lâm vào tình

trạng bất ổn do hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản; nhà nƣớc bỏ tiền ra mua hàng hóa

khó tiêu thụ của các công ty tƣ nhân, nhờ đó mà các công ty này thu hồi đƣợc vốn, đổi

mới đƣợc khoa học công nghệ hoặc chuyển hƣớng kinh doanh tránh đƣợc nguy cơ phá

sản… Để thực hiện đƣợc những điều đó, Nhà nƣớc phải có sức mạnh về kinh tế. Từ sau

chiến tranh thế giới thứ 2 cho đến giữa thập niên 70 của thế kỷ XX, sở hữu nhà nƣớc ở

các nƣớc TBCN phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nƣớc

trong nền kinh tế quốc dân có xu hƣớng tăng lên, kinh tế nhà nƣớc không chỉ bao hàm các

lĩnh vực công cộng mà còn cả những doanh nghiệp tham gia vào các lĩnh vực sản xuất vật

chất. Điều đó chứng tỏ ngay cả trong chủ nghĩa tƣ bản thì thành phần kinh tế nhà nƣớc,

trong đó có các DNNN, không những tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế nhƣ các thành

phần kinh tế khác mà nó còn có vai trò kinh tế quan trọng, là khu vực chủ yếu tao ra sức

mạnh vật chất cho nhà nƣớc thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế của mình.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,

DNNN đƣợc xác định là có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và dẫn dắt các doanh

nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Khu vực DNNN luôn đóng góp

một phần không nhỏ vào GDP của nền kinh tế (khoảng gần 40% GDP), góp một bộ phận

quan trọng trong ngân sách nhà nƣớc (trung bình khoảng trên 40%). Những con số này

10

cho thấy DNNN là bộ phận chủ yếu cung cấp cho nhà nƣớc nguồn lực về vật chất. Nguồn

thu thuế của nhà nƣớc từ khu vực DNNN cũng chiếm một tỷ trọng không nhỏ. Nhƣ vậy

hiệu quả hoạt động của DNNN cũng phần nào cho ta thấy sức mạnh kinh tế của nhà nƣớc.

Hệ thống DNNN hoạt động có hiệu quả sẽ giúp cho nhà nƣớc có một tiềm lực kinh tế

mạnh, để có sức mạnh vật chất đủ lớn đê nhà nƣớc thực hiện các vai trò kinh tế xã hội của

mình.

DNNN (trừ các DNNN hoạt động trong lĩnh vực công ích) trong cơ chế thị trƣờng

hoạt động nhƣ một đơn vị sản xuất kinh doanh, tồn tại trong điều kiện cạnh tranh với các

thành phần kinh tế khác. Cũng giống nhƣ các thành phần kinh tế ngoài nhà nƣớc, các

DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra của cải vật chất cho xã hội và mang

lại lợi ích tối đa cho chủ sở hữu đó là nhà nƣớc, các DNNN cũng lấy việc tối đa hoá lợi

nhuận làm mục tiêu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Khi các DNNN coi việc

tối đa hoá lợi nhuận làm mục tiêu hàng đầu thì các DNNN sẽ có động lực để hoạt động có

hiệu quả hơn. Lợi nhuận mà các DNNN thu đƣợc sẽ thuộc về Nhà nƣớc vì Nhà nƣớc là

chủ sở hữu. Do đó khi các DNNN hoạt động có hiệu quả, nguồn thu của Nhà nƣớc từ các

DNNN sẽ tăng lên, bố sung cho sức mạnh kinh tế của Nhà nƣớc. Nhƣ vậy với vị trí là một

doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trƣờng nhằm mục tiêu lợi

nhuận thì các DNNN là một nguồn quan trọng tạo ra tiềm lực vật chất cho nhà nƣớc. Với

vai trò là chủ sở hữu các DNNN, Nhà nƣớc muốn tăng tiềm lực về kinh tế của mình thì

phải có những chính sách, chiến lƣợc phát triển các DNNN một cách phù hợp và có hiệu

quả thực thi cao.

Nhƣ vậy, một hệ thống DNNN đủ mạnh sẽ tạo ra sức mạnh vật chất cho nhà nƣớc

thực hiện vai trò của mình. Với chức năng là kinh tế cho nhà nƣớc các DNNN phải hoạt

động có hiệu quả thì mới có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu về kinh tế của nhà nƣớc.

*DNNN là công cụ điều tiết nền kinh tế

DNNN bên cạnh vai trò là kinh tế của nhà nƣớc, nó còn có vai trò là công cụ điều

tiết nền kinh tế. Trong cơ chế thị trƣờng thì DNNN phải là công cụ quan trọng để nhà

nƣớc thực hiện các vai trò kinh tế xã hội của mình, vì sự can thiệp của nhà nƣớc vào nền

kinh tế là rất cần thiết và quan trọng trong cơ chế thị trƣờng định hƣớng xã hội nhƣ mô

hình mà nƣớc ta đang áp dụng. Do vậy, nếu không có một lực lƣợng kinh tế mạnh làm

11

hậu thuẫn thì trong nhiều trƣờng hợp sự can thiệp của nhà nƣớc vào nền kinh tế bị vô hiệu

hoá. Khi DNNN có sức mạnh về kinh tế thì nó có thể định hƣớng, dẫn dắt, điều tiết các

thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế hoạt động theo một hệ thống, trong đó DNNN

có vai trò đầu tàu. DNNN thể hiện vai trò điều tiết của mình ở chỗ DNNN hỗ trợ các

thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Trong cơ chế thị trƣờng, các thành phần kinh tế

tồn tại đan xen lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau, trong đó DNNN với vai trò chủ đạo sẽ là

lực lƣợng đi đầu, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác. Với sức mạnh kinh tế của mình,

DNNN có tầm ảnh hƣởng lớn, buộc các khu vực này phải theo sự điều tiết của Nhà nƣớc

thông qua các DNNN. Vai trò điều tiết của các DNNN thể hiện ở việc DNNN điều tiết cơ

cấu ngành, vùng và DNNN điều tiết giá cả ở một số lĩnh vực trong nền kinh tế

Thứ nhất DNNN điều tiết cơ cấu ngành, vùng của nền kinh tế. Trong nền kinh tế có

nhiều ngành, vùng kinh tế với những ƣu điểm và nhƣợc điểm riêng và không phải tất cả

các ngành, vùng đó đều đƣợc lấp đầy bởi những thành phần kinh tế hoạt động vì mục tiêu

lợi nhuận mà cụ thể là các khu vực kinh tế ngoài nhà nƣớc. Những ngành mang tính mới,

thí điểm, rủi ro cao, khả năng thu hồi vốn chậm nhƣ những ngành đầu tƣ cho nghiêm cứu

và phát triển, những ngành phục vụ lợi ích công cộng, những ngành đòi hỏi vốn lớn mà

khu vực ngoài nhà nƣớc không thể tham gia đƣợc…nhƣng lại rất quan trọng cho sự phát

triển chung của nền kinh tế mà không đƣợc khu vực ngoài nhà nƣớc đầu tƣ thì buộc các

DNNN phải tham gia để đảm bảo cân đối cơ cấu ngành cho nền kinh tế.

Bên cạnh đó các DNNN còn điều tiết ngành kinh tế thông qua việc nhà nƣớc phát

triển một số ngành, lĩnh vực mới, nhƣng không hoạt động vĩnh viễn mà sẽ nhƣợng lại cho

tƣ nhân khi mà Nhà nƣớc không cần can thiệp nữa. DNNN chỉ hoạt động thời gian đầu,

mang tính mở đƣờng cho các DNNN khác khai thác lĩnh vực mới đó.

Ngoài ra các DNNN còn mua lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn thua lỗ,

nhằm cứu vãn tình trạng phá sản cho các doanh nghiệp này. Sau khi mua lại, DNNN sẽ

hoạt động một thời gian, nhằm khôi phục lại vị trí của doanh nghiệp đó, sau đó lại bán

cho các doanh nghiệp khác tiếp tục kinh doanh. Bằng cách đó, Nhà nƣớc giúp cho các

doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản, đồng thời giúp cho cơ cầu ngành kinh tế đƣợc

giữ vững.

DNNN cũng phải đƣợc thành lập ở những vùng xa xôi hẻo lánh, biên giới, hải đảo…

12

với điều kiện sản xuất kinh doanh khó khăn, không có khả năng mang lại lợi nhuận, mà

các khu vực khác không chịu đầu tƣ, để đảm bảo các vùng kinh tế của đất nƣớc đều đƣợc

đầu tƣ, không có sự chênh lệch quá lớn gây mất cân đối cơ cầu kinh tế vùng, và nhằm

đảm bảo các mục tiêu xã hội của Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, DNNN đã lấp đầy những chỗ trống

trong nền kinh tế, những vị trí rất quan trọng về mặt kinh tế hay xã hội mà các khu vực

khác không hoạt động. Bằng cách đó, cơ cấu ngành, vùng của nền kinh tế đƣợc cân bằng.

Thứ hai, DNNN điều tiết giá cả một số mặt hàng quan trọng, có ảnh hƣởng quyết

định đến hoạt động của nền kinh tế. Bằng việc các DNNN nắm giữ các ngành, các lĩnh

vực then chốt trong nền kinh tế nên các DNNN có thể thực hiện việc điều tiết giá cả của

một số mặt hàng nhƣ giá xăng dầu, giá điện, giá dịch vụ bƣu chính viễn thông …và các

mặt hàng thay thế và bổ sung khác. Nhà nƣớc mà đại diện là các DNNN là ngƣời cung

cấp. Nếu giả định cầu trên thị trƣờng là không thay đổi thì các DNNN chính là ngƣời

quyết định giá cả của các mặt hàng này. Nếu Nhà nƣớc vì một lý do nào đó muốn giá các

hàng hoá này giảm xuống thì các DNNN có thể giảm nguồn cung để thực hiện mục tiêu

đó của Nhà nƣớc. Thông qua đó giá cả một số mặt hàng khác cũng chịu sự điều tiết đó.

Nhƣ vậy, các DNNN có khả năng điều tiết giá cả của nền kinh tế nhằm thực hiện các mục

tiêu kinh tế xã hội của nhà nƣớc.

Đó là những chức năng chủ yếu mà DNNN ở bất kỳ quốc gia nào cũng có, trong đó

có Việt Nam. Những chức năng này gắn vào điều kiện và mục tiêu của Việt Nam thì nó

thể hiện là DNNN giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế thể hiện trên các mặt: Nắm giữ

các vị trí, các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế để có thể chi phối các hoạt động kinh

tế; đồng thời có năng suất và hiệu quả cao, tạo sức mạnh trong cạnh tranh cho khu vực

này.

1.1.3. Phát triển doanh nghiệp nhà nước

Phát triển là một khái niệm dùng để chỉ sự vận động đi lên trong quá trình thay đổi

số lƣợng và chất lƣợng của quá trình đó theo chiều hƣớng tiến bộ. Đó là dòng tiến hoá có

sự thay đổi mạnh về chất trong nội sinh của một quá trình nhất định.

Về lĩnh vực kinh tế, một nền kinh tế đƣợc gọi là phát triển bao giờ cũng phát triển

hài hoà cả hai nội dung chủ yếu sau: đó là sự gia tăng của cải vật chất và dịch vụ, cùng

với sự chuyển biến theo hƣớng tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Về cơ cấu

13

kinh tế đƣợc thể hiện ở mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành theo chiều hƣớng tiến bộ: Công

nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp hay Dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp. Ngày nay,

ngƣời ta nhận thấy rằng một nền kinh tế phát triển phải đảm bảo cân đối, hài hoà và toàn

diện các mục tiêu kinh tế, xã hội, bền vững và bảo vệ tốt môi trƣờng môi sinh.

Những yếu tố tác động quyết định đên sự phát triển nền kinh tế là sự phát triển

không ngừng của lực lƣợng sản xuất, trƣớc hết là việc sử dụng các công cụ sản xuất tiên

tiến, áp dụng thành công các kết quả của cách mạng về khoa học kỹ thuật, công nghệ và

thông tin.

Một ngành hay một vùng kinh tế đựơc gọi là phát triển thƣờng phải hội tụ đầy đủ

mọi sức mạnh của nhiều yếu tố thuận lợi và giữ vai trò mũi nhọn hay trọng điểm trong

nền kinh tế quốc gia đó với tỷ trọng lớn về tổng giá trị sản xuất và giá trị sản phẩm hàng

hoá xuất khẩu.

Đối với các đơn vị sản xuất kinh doạnh đƣợc gọi là phát triển, là phải đạt đƣợc

những mục tiêu về lợi nhuận, lợi thế cạnh tranh, sản xuất bền vững và đảm bảo an toàn

trong cơ chế thị trƣờng.

Doanh nghiệp nhà nƣớc là một trong số những đơn vị sản xuất kinh doanh, vì vậy,

sự phát triển của doanh nghiệp nhà nƣớc cũng đƣợc hiểu là doanh nghiệp luôn đạt đƣợc

mục tiêu về tăng trƣởng doanh nghiệp qua các năm, có đƣợc lợi thế cạnh tranh và sản

xuất bền vững.

Phát triển doanh nghiệp nhà nƣớc còn đƣợc hiểu với nội hàm là sự lớn mạnh thêm về

quy mô của doanh nghiệp cũng nhƣ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên theo

thời gian và đảm bảo sự tăng trƣởng đó một cách bền vững. Ở rất nhiều quốc gia, số

lƣợng doanh nghiệp nhà nƣớc giảm đi qua các năm và chỉ trong tâm vào một số lĩnh vực

quan trọng trong nền kinh tế, giúp làm đầu tàu phát triển kinh tế đất nƣớc. Nhƣ vậy, phát

triển doanh nghiệp nhà nƣớc không hoàn toàn có nghĩa là lớn mạnh về mặt số lƣợng mà

chủ yếu là cải thiện về mặt quy mô và hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp.

1.2.Tiêu chí đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp nhà nƣớc

Có nhiều tiêu chí và nhiều cách phân loại tiêu chí phát triển DNNN, bài viết xin đƣa

ra bốn tiêu chí sau:

14

1.2.1. Năng lực cạnh tranh của các DNNN

Khái niệm năng lực cạnh tranh đƣợc nhắc đến rất nhiều nhƣng đến nay khái niệm

này vẫn chƣa đƣợc hiểu một cách thống nhất. Bởi lẽ năng lực cạnh tranh cần phải đặt vào

điều kiện, bối cảnh phát triển của đất nƣớc trong từng thời kỳ. Đồng thời năng lực cạnh

tranh cũng cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành giữa các doanh nghiệp và cần

đƣợc thể hiện ra bằng phƣơng thức cạnh tranh phù hợp. Trên cơ sở đó tác giả đã đƣa ra

định nghĩa cụ thể về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản

phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất

nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững.

Về các nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiêp. Cũng nhƣ

bản thân doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng chịu tác động của

nhiều nhân tố khác nhau, bao gồm cả những yếu tố bên ngoài doanh nghiệp nhƣ thị

trƣờng, thể chế chính sách, kết cấu hạ tầng và bên trong doanh nghiệp nhƣ tổ chức quản

lý, trình độ công nghệ, lao động…

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu gay gắt phải nâng cao năng lực

cạnh tranh của các DNNN. Các DNNN cần nhanh chóng, khẩn trƣơng phát huy nội lực,

nắm bắt cơ hội để nâng cao năng lực cạnh tranh. Hơn nữa, việc nâng cao năng lực cạnh

tranh của các doanh nghiệp là quá trình thƣờng xuyên, liên tục, đòi hỏi các doanh nghiệp

liên tục khai thác các tiềm năng, lợi thế, tận dụng cơ hội để kinh doanh, không ngừng tăng

năng suât, chất lƣợng sản phẩm…

Có nhiều tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhƣ: quy mô của

doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ

quản lý và năng lực sản xuất của ngƣời lao động, giá thành và chất lƣợng sản phẩm, thị

phần của doanh nghiệp, thƣơng hiệu của sản phẩm…

1.2.2. Khả năng thích ứng của các DNNN.

Các doanh nghiệp tồn tại trong một môi trƣờng luôn luôn biến động, đặc biệt là

trong thời kỳ mà cuộc cách mạng công nghệ thông tin đang diễn ra nhƣ vũ bão hiện nay

thì tốc độ thay đổi của môi trƣờng kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các doanh

nghiệp muốn tồn tại và phát triển đƣợc phải có những chiến lƣợc phù hợp với một môi

15

trƣờng biến động không ngừng. Khả năng thích ứng của các doanh nghiệp chính là điều

kiện để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện luôn có sự thay đổi của

môi trƣờng. Trong thời kỳ suy thoái và khủng hoảng của nền kinh tế là sự khó khăn của

các doanh nghiệp trong các vấn đề nhƣ nguồn nhân lực, chi phí đầu vào, thị trƣờng đầu

ra… khi khủng hoảng hoặc suy thoái làm cho chí phí đầu vào tăng, thị trƣờng đầu ra hạn

chế bởi tổng cầu của nền kinh tế giảm xuống… và còn rất nhiều những khó khăn khác

nữa. Doanh nghiệp muốn tồn tại vƣợt qua thời kỳ đó và phát triển hơn nữa thì cần phải có

một chiến lƣợc kinh doanh hợp lý và dài hạn, trong đó có tính đến sự thay đổi đáng kể của

môi trƣờng. Tuy nhiên, đôi khi có những thay đổi đột ngột, không dự báo trƣớc đƣợc, và

nó nằm ngoài tính toán của doanh nghiệp thì việc thích nghi sẽ khó khăn hơn. Do vậy, để

phát triển bền vững, doanh nghiệp phải tạo dựng khả năng và thói quen tƣ duy chiến lƣợc.

Tƣ duy chiến lƣợc của doanh nghiệp thể hiện ở tầm nhìn dài hạn của ngƣời lãnh đạo và sự

cam kết với tầm nhìn đó. Tầm nhìn đóng vai trò định hƣớng cho việc lựa chọn các chiến

lƣợc và các mục tiêu của doanh nghiệp. Nó do lãnh đạo cấp cao xác định nhƣng nó không

chỉ nằm trong ban lãnh đạo mà phải đƣợc chia sẻ rộng rãi đến từng thành viên cho doanh

nghiệp. Nhờ đó, nó tạo ra động lực lan toả xuống từng thành viên và tạo ra sự gắn bó lâu

dài với tổ chức. Để hiện thực hoá tầm nhìn, doanh nghiệp cần phải xác định những mục

tiêu dài hạn rõ ràng và các chiến lƣợc để thực hiện các mục tiêu đó. Chiến lƣợc của doanh

nghiệp cần phải xác định đƣợc những ƣu tiên về hoạt động của doanh nghiệp, năng lực và

nguồn lực cần phát triển, khách hàng mục tiêu và sản phẩm dịch vụ doanh nghiệp sẽ cung

cấp cho khách hàng đó, trên cơ sở đó tạo dựng vị thế cạnh tranh thành công trong ngành

và thực hiện mục tiêu đã xác định. Tƣ duy chiến lƣợc còn thể hiện ở việc doanh nghiệp

phải có một sự cam kết lâu dài với các chiến lƣợc và không để các quyết định ngắn hạn

ảnh hƣởng đến các chiến lƣợc dài hạn. Để đảm bảo khả năng thực hiện thành công các

chiến lƣợc, từng đơn vị, bộ phận trực thuộc cũng nhƣ từng thành viên trong doanh nghiệp

phải hiểu rõ đƣợc họ cần phải làm gì để đóng góp vào việc thực hiện chiến lƣợc đó.

1.2.3. Tính minh bạch của DNNN.

Minh bạch đƣợc hiểu là sự công khai các thông tin về doanh nghiệp trên các phƣơng

tiện thông tin đại chúng. Minh bạch hóa thông tin là điều quan trọng để các doanh nghiệp

16

hội nhập và phát triển.

Vậy, với DNNN thì cần minh bạch những vấn đề gì? Theo đánh giá của tác giả,

những vấn đề nhƣ: báo cáo tài chính, mục tiêu hoạt động, trách nhiệm cá nhân, cơ chế sử

dụng nhân sự... là những vấn đề đầu tiên mà các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNN cần

công khai minh bạch. Trên thực tế, đó cũng là những khoảng tối, những thứ hay bị giữ kín

hoặc còn mơ hồ nhất. Các DNNN thƣờng hoạt động rất kín kẽ, hiếm khi tiết lộ ra bên

ngoài những thông tin nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của mình. Nguyên nhân có thể là

do bản thân các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp nhà nƣớc không rõ ràng hoặc mâu

thuẫn nhau. Ngoài ra, sự thiếu minh bạch cũng có thể xuất phát từ những tính toán chính

trị, do DNNN không muốn bị so sánh với khu vực tƣ nhân, hoặc do họ thiếu kinh nghiệm

về truyền thông doanh nghiệp.

Nhìn chung, những nội dung nhƣ mục tiêu hoạt động, tình hình tài chính, cơ chế

tuyển dụng và sử dụng nhân sự… cần đƣợc công khai càng rộng rãi càng tốt.

Bên cạnh việc "minh bạch cái gì" thì "minh bạch với ai" cũng là vấn đề cần giải

quyết.

Hãng hàng không Malaysia Airlines, đã công bố rộng rãi kế hoạch cải tổ chi tiết

thông qua báo chí, website và nhiều kênh truyền thông khác. Nhờ đó, các cổ đông của

công ty đạt đƣợc sự đồng thuận về mục tiêu, chính sách và biện pháp cải tổ. Ngoài ra,

những gì thuộc về chuyên môn thì có thể minh bạch trên diện hẹp hơn, bởi lẽ có những

vấn đề khi công khai thì đôi khi dƣ luận không hiểu hoặc không quan tâm tới. Ví dụ nhƣ

các báo cáo tài chính hàng quý, năm của các doanh nghiệp cần minh bạch với cơ quan

thuế, kiểm toán nhà nƣớc…

Việc các doanh nghiệp minh bạch mang lại nhiều cái lợi cho bản thân các doanh

nghiệp. Sự minh bạch thu hút sự ủng hộ của công chúng, góp phần tạo niềm tin, đặc biệt

khi có vấn đề nảy sinh. Nó buộc quan chức chính phủ, lãnh đạo công ty... phải giữ cam

kết của mình, đồng thời cũng tạo sức ép với các lực lƣợng cạnh tranh.

Cuối cùng, ngoài chuyện minh bạch nhƣ một nghĩa vụ bắt buộc để nâng cao hiệu

quả hoạt động của doanh nghiệp, thì cũng phải nói rằng, minh bạch là một phần của

truyền thông doanh nghiệp và ở khía cạnh đó, rõ ràng nó có lợi cho doanh nghiệp

17

1.2.4. Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của DNNN

Hội nhập kinh tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nƣớc với nền kinh tế khu vực và

nền kinh tế quốc tế theo một luật chơi chung. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hƣớng

tất yếu ngày nay của hầu hết các nền kinh tế mong muốn phát triển và thịnh vƣợng. Hội

nhập kinh tế mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp.

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế giúp các nƣớc có cơ hội mở rộng thị trƣờng tiêu thụ

sản phẩm do tiếp cận thị trƣờng quốc tế rộng lớn. Thứ hai, các nƣớc sẽ tiếp cận và tiếp

nhận đƣợc nguồn nhân lực, vật lực lớn từ những nƣớc phát triển, nhất là những thành viên

của WTO. Thứ ba, giúp nâng cao vị thế trong các mối quan hệ quốc tế. Trong việc biểu

hiện những vấn đề liên quan đến WTO, đặc biệt trong việc giải quyết những tranh chấp

trong kinh doanh thƣơng mại quốc tế. Thứ tƣ, hàng hóa các nƣớc sẽ thâm nhập thị trƣờng

trong nƣớc, các doanh nghiệp nội địa sẽ không ngừng nâng cao chất lƣợng sản phẩm,

giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển. Điều này, ngƣời tiêu

dùng trong nƣớc đƣợc hƣởng lợi nhiều hơn.

Ngoài ra, hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là việc gia nhập WTO, các nƣớc có cơ

hội hoàn thiện các chính sách kinh tế, các cơ quan quản lý Nhà nƣớc hoàn thiện hoạt

động, tuân thủ quy chế WTO với tiêu chí tự do hóa thƣơng mại, kiên quyết xóa bỏ những

rào cản bất hợp lý trong thƣơng mại quốc tế, góp phần làm trong sạch bộ máy Nhà nƣớc,

nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, tạo đƣợc hệ thống

chính sách minh bạch làm cơ sở thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.

Bên cạnh những cơ hội thuận lợi chủ yếu nêu trên, doanh nghiệp trong nƣớc sẽ phải

đối mặt với những thách thức rất lớn là cạnh tranh với các doanh nghiệp nƣớc ngoài nên

những doanh nghiệp yếu về tiềm lực kinh tế cũng nhƣ thƣơng hiệu không có khả năng

cạnh tranh sẽ bị đào thải khỏi thị trƣờng.

Những cơ hội trên đây cho thấy các DNNN càng có mức độ hội nhập sâu và rộng

bao nhiêu thì sẽ càng tận dụng đƣợc cơ hội bấy nhiêu và hạn chế đƣợc đến mức thấp nhất

những thách thức.

Đối với các DNNN, việc hội nhập sẽ mở ra nhiều cơ hội và buộc các doanh nghiệp

này phải hoạt động có hiệu quả hơn để có thể tồn tại chung cùng với các doanh nghiệp

18

khác trong nƣớc, các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới.

Ngoài ra, bên cạnh vấn đề về phát triển, nền kinh tế cũng nhƣ các doanh nghiệp phải

quan tâm tới một khía cạnh quan trọng hơn nữa, đó là phát triển bền vững. Bài viết xin

tham khảo một bộ tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững của một doanh nghiệp, mà tác

giả cho là khá phổ biến- Bộ tiêu chí DOW JONES, để từ đó chúng ta có căn cứ đánh giá

sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các DNNN, có đạt đƣợc các tiêu

chí này hay không và cần phải trọng tâm vào những vấn đề gì để có đƣợc sự phát triển

bền vững. Đây là bộ tiêu chí đầu tiên trên thế giới đƣợc thiết lập nhằm đánh giá thành tích

trên ba chiều kích của phát triển bền vững là kinh tế, môi trƣờng và xã hội của các doanh

nghiệp lớn: nhƣ tiêu chí về kinh tế bao gồm có các chỉ tiêu nhƣ quy tắc ứng xử, quản trị

doanh nghiệp, quản trị rủi ro và khủng hoảng,..; các chỉ tiêu về môi trƣờng nhƣ thành tích

về môi trƣờng, có bản báo cáo về môi trƣờng; chỉ tiêu xã hội nhƣ hoạt động từ thiện, ứng

dụng các quy tắc sử dụng lao động của quốc gia cà quốc tế, việc phát triển vốn con

ngƣời…

Các chỉ tiêu trên đƣợc thể hiện bằng các câu hỏi cụ thể để đo lƣờng và ngƣời đứng

đầu doanh nghiệp sẽ phải cung cấp câu trả lời.

Chẳng hạn đối với thành tích về môi trƣờng, doanh nghiệp sẽ cho biết trong năm qua

hoạt động sản xuất và kinh doanh của họ đã thải bao nhiêu lƣợng khí CO2, lƣợng nƣớc

sạch đã sử dụng, tổng lƣợng các loại năng lƣợng (điện, xăng dầu…) đã sử dụng, lƣợng rác

thải. Doanh nghiệp cũng phải giải trình về chiến lƣợc của mình trong tƣơng lai xem có

giảm thiểu các chỉ số trên dần dần hay không.

Về khía cạnh xã hội, doanh nghiệp sẽ phải cho biết có sự phân biệt đối xử về giới

tính trong vấn đề lƣơng bổng hay không (lƣơng trung bình của lao động nam và lao động

nữ), tỷ lệ nữ đảm trách các trách nhiệm lãnh đạo, khả năng tự do lập hội của ngƣời lao

động, vấn đề đảm bảo sức khỏe và an toàn cho ngƣời lao động, tổng kinh phí mà doanh

nghiệp đã dùng cho các hoạt động từ thiện.

1.3.Phát triển DNNN ở Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

1.3.1. Phát triển DNNN ở Trung Quốc

Trƣớc cải cách kinh tế năm 1978, nền kinh tế Trung Quốc vận hành theo cơ chế kế

hoạch hoá tập trung. Nền kinh tế trì trệ, hoạt động kém hiệu quả, sở hữu toàn dân chiếm

19

tỷ trọng lớn, nhƣng hoạt động không hiệu quả, trở thành gánh nặng cho nền kinh tế.

Trƣớc tình trạng đó, Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế theo hƣớng xây dựng và phát

triển kinh tế thị trƣờng. Cuộc cải cách của Trung Quốc diễn ra một cách thận trọng, theo

phƣơng châm hƣớng vào giải quyết những vấn đề do thực tế đặt ra. Với mục tiêu là xây

dựng nền kinh tế thị trƣờng xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đã thực hiện từng bƣớc chế độ

sở hữu về tƣ liệu sản xuất theo hai hƣớng là phát triển kinh tế tƣ nhân và cải cách chế độ

công hữu cùng với thực hiện tự do hoá nền kinh tế. Thực hiện cải cách chế độ công hữu,

Trung Quốc luôn coi việc giữ vững địa vị chủ thể của kinh tế nhà nƣớc, coi kinh tế nhà

nƣớc giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.

DNNN Trung Quốc trƣớc cải cách hoạt động kém hiệu quả, chịu sự chi phối trực

tiếp từ Nhà nƣớc, các doanh nghiệp bi o ép trong một kế hoạch từ Trung ƣơng giao

xuống mà không phát huy đƣợc tính chủ động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh

của mình. Trƣớc thực tế đó, Trung Quốc đã tiến hành cải cách DNNN theo hƣớng dần

dần cởi trói cho doanh nghiệp, trao quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh

cho các DNNN. Trong quá trình cải cách DNNN Trung Quốc kể từ năm 1978 đến nay,

Trung Quốc đã thực hiện nhiều biện pháp vi mô và vĩ mô đối với DNNN. Các biện pháp

cải cách vi mô nhƣ: Mở rộng quyền nhượng lợi- tăng cường quyền tự chủ cho doanh

nghiệp đƣợc bắt đầu từ năm 1978 bằng cách thực hiện hàng loạt các biện pháp cải cách

về kế hoạch sản xuất, về tiêu thụ sản phẩm, về giá thành sản phẩm, về mua vật tƣ, về sử

dụng vốn, về cơ cấu doanh nghiệp, quản lý dân sự… giúp làm cho hoạt động của các

DNNN hiệu quả hơn rõ rệt. Biện pháp chuyển lợi nhuận thành thuế nhằm từng bƣớc

chuyển đổi hình thức nộp lợi nhuận lên trên của doanh nghiệp; Thực hiện chế độ trách

nhiệm khoán kinh doanh với mong muốn làm minh bạch hơn nữa quan hệ giữa nhà nƣớc

với doanh nghiệp, tạo cơ sở để các doanh nghiệp tự chủ trong việc lựa chọn hình thức

kinh doanh; Cổ phần hoá các DNNN, biện pháp này đƣợc thực hiện từ năm 1984 với

mục đích là thay đổi chế độ tài sản mà ở đó nhà nƣớc luôn giữ vai trò độc quyền, hình

thành nên kết cấu đa dạng về quyền tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ƣu hoá kết cấu

quản trị doanh nghiệp; Xây dựng tập đoàn doanh nghiệp nhằm nâng cao sức cạnh tranh

trên trƣờng quốc tế của các DNNN. Một biện pháp cải cách vi mô đƣợc xem là đột phát

và cũng mang lại những kết quả nhất định là Xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại

20

đƣợc thực hiện từ năm 1992 đến 1995. Trong giai đoạn này, các DNNN đƣợc phát triển

theo hƣớng trở thành đơn vị kinh doanh và sản xuất hang hoá, tự chủ kinh doanh theo

pháp luật, tự chịu lãi lỗ, tự mình phát triển, tự mình giới hạn, trở thành thực thể pháp

nhân độc lập. Chế độ doanh nghiệp hiện đại là chế độ doanh nghiệp có quyền sở hữu tài

sản minh bạch, trách nhiệm rõ rang, chính quyền – doanh nghiệp lớn tách rời nhau và

quản lý khoa học thích ứng với yêu cầu của sản xuất lớn xã hội và của kinh tế thị trƣờng.

Bắt dầu từ năm 1995, Quốc vụ viện Trung Quốc đã lựa chọn 100 doanh nghiệp lớn và

vừa ở 50 tỉnh thành để thí nghiệm mô hình doanh nghiệp hiện đại, thí điểm tối ƣu hoá kết

cấu nguồn vốn, thí điểm thực hiện công ty nhà nƣớc khống chế cổ phần ở 3 tổng công ty

mang tính quốc gia. Đến năm 1998, 100 doanh nghiệp đã hoàn thành thí điểm. Trừ 3

doanh nghiệp bị sát nhập hoặc phá sản, một đƣợc bảo lƣu chế độ cũ, 96 doanh nghiệp còn

lại đã căn cứ theo “Luật công ty”, xây dựng chế độ công ty hiện đại. Trong số các doanh

nghiệp này, có 76 doanh nghiệp đổi thành chủ thể sản xuất công ty 100% vốn nhà nƣớc,

thực hiện đa dạng hoá chủ thể đầu tƣ, 45 doanh nghiệp thí điểm thành công ty niêm yết

chứng khoán. Thông qua nhiều con đƣờng nhằm tăng nguồn vốn và luân chuyển vốn,

trong số 100 doanh nghiệp thí điểm thì bình quân vốn vay trƣớc thí điểm là 67,59% sau

giảm xuống còn 65%, tổng ngạch tài sản tăng trƣởng trên 40%. Nhƣ vậy, quá trình thí

điểm xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại đã có những kết quả đáng khích lệ cho thấy

đây là một lựa chọn đúng đắn để tiếp tục phát triển khu vực DNNN trong những năm tiếp

theo.

Ngoài những biện pháp cải cách vi mô của các DNNN, Trung Quốc còn thực hiện

các biện pháp cải cách vĩ mô nhƣ xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật kinh tế, Điều

chỉnh bộ cục và kết cấu của thành phần kinh tế nhà nƣớc, phát triển khu vực kinh tế phi

quốc hữu , cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nƣớc

Kết quả của cải cách DNNN ở Trung Quốc: Quá trình cải cách khu vực kinh tế nhà

nƣớc Trung Quốc đã mang lại những kết quả rất tích cực. Tỷ trọng của khu vực sở hữu

nhà nƣớc Trung Quốc giảm đáng kể: GDP của DNNN thuần tuý giảm từ 77,6% năm

1978 xuống còn 26,5% năm 1997, khu vực DNNN giảm mạnh trong những lĩnh vực

thƣơng mại và dịch vụ nhỏ, lẻ, song vẫn giữ vai trò chi phối trong những ngành then chốt

của nền kinh tế nhƣ các ngành dầu mỏ, sản xuất điện, luyện kim, hoá chất, tài chính, bảo

21

hiểm, đƣờng sắt, hàng không, y tế… Quá trình cải cách DNNN Trung Quốc đã tách riêng

đƣợc chính quyền và doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tự chủ

trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; chế độ Doanh nghiệp hiện đại hoạt

động có hiệu quả, giải pháp cổ phần hoá DNNN mang lại kết quả khả quan, mô hình tập

đoàn kinh tế đƣợc áp dụng có kết quả khả quan; nguồn vốn của doanh nghiệp tăng lên,

tổng tài sản của DNNN tăng trƣởng trên 40%, lợi nhuận của DNNN tăng 1,4 lần năm

2000 so với năm 1999, tăng khả năng cạnh tranh của DNNN. Tính đến 2002, 86% trong

số 87.000 DNNN đƣợc tái cơ cấu, 70% trong số đó đã đƣợc tƣ nhân hóa một phần hoặc

toàn bộ, 10% đóng cửa và 20% sát nhập với các doanh nghiệp khác. Quá trình này cho

phép các doanh nghiệp nhà nƣớc thoát khỏi tình trạng dƣ thừa lao động. Từ năm 1998

đến 2005, 35 triệu công nhân của các DNNN bị mất việc làm, tuy nhiên nhìn ở khía cạnh

tích cực hơn, việc tái cơ cấu DNNN đã dẫn đến việc cải thiện tình trạng lợi nhuận ở các

DNNN: năm 2005, lợi nhuận ròng của các DNNN trên toàn quốc chiếm trên 7% doanh

thu, đóng góp của khu vực DNNN vào nhà nƣớc cũng tăng lên, DNNN vẫn là một trong

những nguồn cung cấp tài chính chủ yếu của Nhà nƣớc. Điều đó cho thấy công cuộc cải

cách DNNN Trung Quốc đã thu đƣợc những kết quả quan trọng, nâng cao hiệu quả hoạt

động của DNNN, đặc biệt là sau khi Trung Quốc tham ra rộng hơn vào thị trƣờng chung

của thế giới, bằng việc gia nhập WTO năm 2001 đã tạo them động lực để tiếp tục cải

cách khu vực này.

Trải qua hơn 30 năm, công cuộc cải cách đã mang lại cho Trung Quốc những thành

tựu to lớn: nền kinh tế tăng trƣởng nhanh đời sống nhân dân đƣợc từng bƣớc ổn định và

nâng cao, kinh tế thị trƣờng phát triển mạnh mẽ. Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế

giới trong thời gian này luôn giữ vững đƣợc tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế là 9,5%

trong vòng 25 năm liên tiếp. Có rất nhiều yếu tố tạo nên thành công đó, song cốt lõi vẫn là

việc Trung Quốc đã giải quyết tốt vấn đề sở hữu nhà nƣớc và cải cách thành công các

DNNN

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia láng giềng có nhiều điểm tƣơng đồng về văn hoá, lịch sử, kinh

tế với Trung Quốc. Đặc biệt, trong thời hiện đại, Việt Nam cũng đã đi con đƣờng phát

triển kinh tế xã hội mà Trung Quốc đã đi qua. Vì thế có thể nhận thấy mô hình phát triển,

22

cách thức đi lên của Việt Nam cũng đều ít nhiều mang dáng dấp của Trung Quốc. Cải

cách là sáng tạo, xuất phát điểm của hai quốc gia là khác nhau nên các biện pháp cải cách

không thể dập khuôn máy móc nhƣng thực tiễn cải cách của Trung Quốc thực sự là một

điển hình tham chiếu bổ ích cho Việt Nam

* Bài học về khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế phi quốc hữu

nhằm giảm nhẹ gánh nặng cho kinh tế nhà nước. Trƣớc kia, do chủ quan nóng vội và

nhận thức một cách máy móc về chủ nghĩa Mác, cả Việt Nam và Trung Quốc đều có quan

niệm sai lầm cho rằng, thể chế kinh tế của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể phát triển dựa trên

chế độ công hữu đơn nhất, phủ nhận hoàn toàn vị trí của các thành phần kinh tế khác.

Nhận thức này khiến cho trƣớc cải cách, các DNNN mang đặc điểm phân bố dàn trải dẫn

đến hoạt động không hiệu quả. Công cuộc cải cách đã thừa nhận và cho phép kinh tế tƣ

nhân phát triển đã tháo gỡ cho DNNN rất nhiều khó khăn. Nhận thức đƣợc tầm quan

trọng của việc phát triển kinh tế tƣ nhân, san xẻ gánh nặng cho DNNN, Việt Nam đã quan

tâm và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế một môi trƣờng phát triển ngày càng

bình đẳng hơn.

* Về vấn đề quản lý tài sản nhà nước

Cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nƣớc ở Trung Quốc đã đi qua chặng đƣờng hơn

30 năm. Trong quá trình đó, với cách làm “dò đá qua sông”, cải cách những khâu dễ

trƣớc, giải quyết những khâu khó sau, Trung Quốc đã thu đƣợc nhiều thành tự đáng kể và

tích luỹ đƣợc nhiều kinh nghiệm quý báu. Có thể nói, thành quả dễ nhận thấy nhất sau

hàng loạt những cải cách này là tình trạng chính phủ can thiệp trực tiếp vào hoạt động của

doanh nghiệp, quản lý doanh nghiệp quá chặt đƣợc cải thiện rõ rệt. Một trong những mục

tiêu quan trọng mà cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nƣớc cần đặt ra là vấn đề xây dựng

một cơ chế sử dụng tài sản nhà nƣớc thích hợp nhằm phát huy tối đa ƣu thế của nguồn tài

sản này. Bên cạnh đó, cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nƣớc phải gắn với công tác

giám sát và quản lý. Việc cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nƣớc phải là sự kết hợp

đồng bộ giữa việc quản lý những tài sản mang tính kinh doanh với tài sản không mang

tính kinh doanh. Ngoài ra, để tìm ra một cơ chế sử dụng và quản lý tài sản nhà nƣớc có

hiệu quả thì điều quan trọng là phải phát huy đƣợc trí tuệ, tính sáng tạo, tính chủ động của

23

các cá nhân, tập thể và các địa phƣơng. Việc phát huy trí tuệ của cá nhân, huy động tính

sáng tạo của mỗi địa phƣơng do đó đã trở thành chìa khoá để tạo nên thành công chung

cho toàn bộ công cuộc cải cách thể chế quản lý tài sản nhà nƣớc.

* Bài học về đa dạng hoá hình thức thực hiện của chế độ công hữu, đẩy mạnh cải

cách quyền tài sản và cổ phần hoá các DNNN. Xuất phát từ thựu tế các DNNN hoạt động

mang tính cầm chừng, chủ yếu chạy theo thành tích, Trung Quốc đã quyết định thực hiện

đa dạng hoá các hình thức thực hiện của chế độ công hữu đồng thời thực hiện đa nguyên

hoá kết cấu chế độ sở hữu theo tinh thần “ kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ thể, các thành

phần kinh tế cùng phát triển”. Trong đó, cổ phần hoá vẫn đƣợc xem là biện pháp quan

trọng để đa dạng hoá hình thức thực hiện của chế độ công hữu

* Bài học về kết hợp chặt chẽ giữa cải cách với quản lý nhà nước, giữa cải cách

DNNN với điều chỉnh kết cấu và bố cục kinh tế của nhà nước. Cải cách DNNN nhằm làm

tăng sức sống cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế đòi hỏi quá trình cải cách ấy phải

kết hợp chặt chẽ giữa cải cách với nâng cao trình độ quản lý. Giữa cải cách và quản lý có

mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, quản lý khoa học là điều kiện để tạo nên thành

công cho cải cách. Bản thân yếu tố „quản lý khoa học” cũng trở thành một đặc trung, một

tiêu chí quan trọng của chế độ doanh nghiệp hiện đại ở Trung Quốc. Từ kinh nghiệm cải

cách DNNN ở Trung Quốc, chúng ta nhận thấy, một trong những kinh nghiệm cơ bản để

thực hiện thành công cải cách là gắn cải cách DNNN với nhiệm vụ không ngừng điều

chỉnh kết cấu và diện phân bố của thành phần kinh tế nhà nƣớc nhằm tối ƣu hoá cơ cấu

ngành nghề, thúc đẩy sự phát triển hài hoà của các thành phần kinh tế, nâng cao chất

lƣợng của kinh tế nhà nƣớc.

* Bài học về việc hội nhập kinh tế quốc tế

Tháng 10-2001, Trung Quốc chính thức gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới

(WTO), đánh dấu tiến trình mở cửa của Trung Quốc đã bƣớc vào một giai đoạn mới.

Đứng trƣớc tình hình mới, bằng thái độ tích cực, Trung Quốc sẽ nắm bắt cơ hội, đón nhận

thách thức, tham gia vào hợp tác và cạnh tranh với kinh tế quốc tế trong phạm vi rộng hơn

và ở mức độ sâu hơn, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp,

đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nƣớc, từng bƣớc thúc đẩy mở cửa đối ngoại, đa phƣơng,

nhiều tầng, nhiều tầng, nhiều lĩnh vực. Theo đó, Trung Quốc từng bƣớc đãi ngộ những

24

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh

nghiệp trong nƣớc để thu hút vốn đầu tƣ, phát triển các doanh nghiệp nhà nƣớc trong các

lĩnh vực huyết mạch của nền kinh tế, những ngành nghề quan trọng liên quan đến an ninh

quốc gia. Các DNNN đƣợc phát triển theo hƣớng mở rộng về quy mô, nâng cao trình độ

quản lý, trình độ khoa học công nghệ, xây dựng một số DNNN thành những tập đoàn lớn

mạnh, không chỉ có sức cạnh tranh lớn trên thị trƣờng trong nƣớc mà còn có khả năng

vƣơn ra khu vực và trên thế giới, có mạng lƣới hoạt động rộng khắp, sáp nhập và mua lại

những doanh nghiệp tầm cỡ trên thế giới để tăng sức mạnh vƣơn ra thị trƣờng quốc tế.

Trong những năm trở lại đây, đặc biệt là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO, Trung Quốc

cần đầu tƣ nƣớc ngoài nhiều hơn, và các nghĩa vụ pháp lý Trung Quốc sẽ thực hiện tại gia

nhập WTO, sẽ tiếp tục thúc đẩy Trung Quốc theo hƣớng này. Một trong những tác động

quan trọng nhất của gia nhập WTO của Trung Quốc có thể là của cả nƣớc thực hiện các

cam kết của mình để mở cửa, nâng cao giới hạn về đầu tƣ nƣớc ngoài tối đa cho phép

trong các ngành quan trọng, đặc biệt là viễn thông, bảo hiểm và ngân hàng. Trung Quốc

cũng đã đồng ý loại bỏ cấm đối với hoạt động phân phối nƣớc ngoài tại Trung Quốc, mà

hiệu quả sẽ mở rộng phạm vi thẩm quyền kinh doanh của các doanh nghiệp đầu tƣ nƣớc

ngoài và cho phép đầu tƣ trong một phạm vi rộng hơn nhiều và các hoạt động phân phối

bán lẻ.

Nhƣ vậy, việc phát triển DNNN ở Trung Quốc đã trải qua hơn 30 năm và đã mang

lại những kết quả to lớn, bằng chứng là sự lớn mạnh của các DNNN trong các lĩnh vực

then chốt của nền kinh tế, các DNNN đã và đang thực sự, cùng với khu vực kinh tế nhà

nƣớc thực hiện đƣợc vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế. Đặc biệt là sau khi gia

nhập WTO, các DNNN Trung Quốc lại càng có nhiều động lực cũng nhƣ cơ hội hơn nữa

để mở rộng và phát triển hơn nữa. Công cuộc cải cách và mở cửa của TrungQuốc để lại cho Việt Nam nhiều bài học quý báu, trong đó có việc phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nƣớc. Tuy nhiên, việc phát triển khu vực này đạt đƣợc thành quả đến đâu, còn tuỳ

thuộc vào điều kiện khách quan và chủ quan của chúng ta. Kinh nghiệm của Trung Quốc nhƣ những bài học của Nguời khổng lồ đi trƣớc chứ không phải là một con đƣờng vạch sẵn cho chúng ta bƣớc chân lên.

Tóm lại, kinh tế nhà nƣớc mà chủ yếu là các DNNN có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nƣớc là đơn vị tạo ra sức mạnh vật chất cho nhà nƣớc đồng thời là công cụ để Nhà nƣớc điều tiết nền kinh tế và thực hiện những mục tiêu chính trị xã hội.

25

Ở Việt Nam, kinh tế nhà nƣớc đƣợc xác định là có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Để

thực hiện đƣợc vai trò đó, kinh tế nhà nƣớc mà trọng tâm là các DNNN phải hoạt động

có hiệu quả. Cải cách DNNN là một vấn đề trung tâm trong công cuộc cải cách của các nền kinh tế chuyển đổi, từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trƣờng, trong đó

có Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Trung Quốc là nƣớc

thực hiện khá thành công việc chuyển đổi kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang

cơ chế thị trƣờng, trong đó, kết quả của cải cách DNNN góp một phần không nhỏ vào thành công của cải cách kinh tế. Quá trình này đã để lai những bài học kinh nghiệm quý

26

báu mà Việt Nam có thể học tập.

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ

NƢỚC VIỆT NAM

2.1. Thực trạng DNNN Việt Nam sau 20 năm đổ i mớ i kinh tế 2.1.1. Quan điểm phát triển DNNN

Bƣớc vào công cuộc đổi mới kinh tế, DNNN Việt Nam đang trong tình trạng hết

sức khó khăn, phần lớn các DNNN không thích nghi đƣợc với môi trƣờng kinh tế mới.

Đứng trƣớc tình hình đó, việc đƣa ra những chƣơng trình, mục tiêu cải cách DNNN đúng

đắn và phù hợp, tạo cho DNNN hội nhập dần vào nền kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng. Theo đó vai trò của DNNN cũng đƣợc nhận thức lại, khu vực DNNN từ chỗ bao

trùm toàn bộ nền kinh tế, đã chuyển sang chỉ nắm giữ những ngành, những lĩnh vực then

chốt trong nền kinh tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đánh dấu bƣớc ngoặt

cơ bản trong quá trình đổi mới kinh tế Việt Nam, trong đó có đổi mới DNNN. Đại hội chỉ

rõ “ Phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự

chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, lập lại trật tự, kỷ cương trong

hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại, sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, đẩy mạnh

việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả.

Trên cơ sở đó, ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên

chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho Nhà nước”

Đại hội VII năm 1991 cho rằng “mặt yếu kém nhất của toàn bộ khu vực quốc doanh

là vẫn duy trì tính không hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Một số doanh nghiệp công

nghiệp quốc doanh, đặc biệt là các DN do cấp địa phương quản lý ngập trong khó khăn.

Nhiều doanh nghiệp thương mại quốc doanh chịu thua lỗ …”[10,77]. Tuy vậy, sau 5 năm

thực hiện cải cách, đến năm 1990 có hơn 4000 DNNN đƣợc sáp nhập và giải thể, làm cho

số lƣợng DNNN trong nền kinh tế giảm đi, các khu vực kinh tế khác, trong đó có khu vực

kinh tế tƣ nhân đã tham gia vào nền kinh tế để khai thác tiềm lực của đất nƣớc một cách

có hiệu quả hơn. Trong thời gian này, tốc độ tăng trƣởng của khu vực DNNN đạt 5,7%

năm 1987 và tăng lên 7,6% năm 1988; tỷ trọng giá trị sản lƣợng của khu vực kinh tế quốc

doanh trên tổng sản phẩm xã hội tăng từ 33,6 % năm 1987 lên tới 36,3% năm 1990 [32].

27

Giai đoạn từ năm 1991 – 1996, tiếp tục đƣờng lối đổi mới kinh tế, Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VII đã chủ trƣơng “Khẩn trương sắp xếp và đổi mới quản lý kinh tế quốc

doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những ngành, lĩnh

vực then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố

và phát triển những cơ sở có trọng điểm và những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa

lớn trong nền kinh tế quốc dân. Nếu như ở giai đoạn trước các giải pháp cải cách DNNN

chủ yếu tập trung vào việc thương mại hoá các DNNN thì ở giai đoạn này, cải cách

DNNN là các giải pháp cho thuê, sáp nhập, giải thể các DNNN làm ăn thua lỗ kéo dài

không có khả năng vươn lên. Sắp xếp lại các tổng công ty, các liên hiệp xí nghiệp cho phù

hợp với yêu cầu sản xuất và kinh doanh trong cơ chế thị trường” và “ khu vực quốc

doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu

quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức

năng của một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước” [10, 45]. Đến năm 1996, Đại hội Đảng

VIII đã chỉ ra tốc độ cải cách DNNN quá chậm chạp, đặc biệt là các cải cách nhằm cải

thiện tính hiệu quả và trách nhiệm giải trình của DN và chƣơng trình cổ phần hoá doanh

nghiệp thí điểm ít tiến triển. Đại hội cho rằng yêu cầu của cải thiện tính hiệu quả và minh

bạch của các DNNN đang là một vấn đề rất cấp thiết. Trong khi đó quá trình cải cách

doanh nghiệp và hành chính diễn ra chậm, mối lo lắng về hiệu quả và sức cạnh tranh thấp

của sản xuất trong nƣớc và tác động của khủng hoảng kinh tế châu Á, năm 1997 đã khiến

Việt Nam phải đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cải cách DNNN. Nghị quyết Trung ƣơng lần

thứ tƣ năm 1997, nêu bật yêu cầu thúc đẩy cải cách DNNN là quan trọng thứ 3 trong 6

chƣơng trình ƣu tiên: thúc đẩy chƣơng trình cổ phần hoá; phát triển cơ sở hạ tầng pháp lý

để sắp xếp lại (sáp nhập, giải thể, cho thuê hoặc mƣợn theo hợp đồng) các DNNN nhỏ có

vốn ít hơn 1 tỷ đồng; hợp nhất các DNNN kinh doanh thành các công ty TNHH hoặc cổ

phần theo luật công ty; ban hành các quy định giám sát các doanh nghiệp độc quyền và

đƣa ra các quy định bắt buộc kiểm toán và công khai hoá các báo cáo hàng năm. Sang đến

những năm đầu thế kỷ 21, nền kinh tế châu Á vừa trải qua cuộc khủng hoảng tài chính

tiền tệ và xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế ngày một hiện hữu . Trƣớc tình trạng đó,

DNNN đang đứng trƣớc thách thức gay gắt của yêu của đổi mới, phát triển và chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị Trung ƣơng ba và Nghị quyết Trung ƣơng chín khoá

28

IX năm 2002 đã đặt vấn đề cần phải tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu

quả của DNNN. Quan điểm chỉ đạo trong giai đoạn này là kinh tế nhà nƣớc có vai trò

quyết định trong việc giữ vững định hƣớng XHCN, ổn định và phát triển kinh tế, chính

trị, xã hội của đất nƣớc; điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào

những ngành, lĩnh vực then chốt; đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự

chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành

phần kinh tế khác.

Nhìn chung, trong mỗi giai đoạn của công cuộc đổi mới kinh tế, vấn đề cải cách

DNNN đƣợc coi là một trong những vấn đề cơ bản nhất. Cải cách DNNN là con đƣờng

phát triển khu vực doanh nghiệp này một cách tích cực và hiệu quả nhất.

2.1.2 Những biện pháp phát triển DNNN

Trong quá trình đổi mới kinh tế, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách

DNNN nhƣ cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, chuyển đổi hình thức sở hữu, thí

điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nƣớc.

* Sắp xếp lại DNNN

Đây là một trong số các biện pháp đƣợc áp dụng trong quá trình cải cách DNNN

nhằm thu hẹp và trọng tâm phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp này. Số liệu bảng

2.1 chi thấy: Tính đến năm 2005 cả nƣớc đã giao, bán đƣợc 244 doanh nghiệp, sáp nhập,

giải thể, hợp nhất đƣợc 676 doanh nghiệp, phá sản 27 doanh nghiệp, chuyển đổi hình

thức sở hữu sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là 110 doanh nghiệp, thành

lập mới 19 doanh nghiệp.

Bảng 2.1: Tình hình sắp xếp DNNN Việt Nam

Đơn vị: doanh nghiệp

Nguồn: Kế hoạch phát triển kinh tế 2006-2010, NXBLĐXH, 2006 và Kinh tế 2006-2007. Đặc biệt, đối với các DNNN lớn trong những năm 2000, Việt Nam đã giải thể đƣợc

Chỉ tiêu Giao DN Bán DN Sáp nhập Hợp nhất Giải thể Phá sản CĐHTSH TL mới 2001 18 16 85 34 22 - - - 2002 34 17 83 44 27 2 - 37 2004 24 19 60 7 25 9 41 12 2005 20 22 15 5 20 12 55 12 Trongtổng 146 98 395 167 144 27 110 79 2003 50 24 152 47 50 4 14 18

29

6 TCT nhà nƣớc, thực hiện sáp nhập hợp nhất 8 TCT thành 4 TCT mới

* Cổ phần hóa DNNN

Cổ phần hóa DNNN là việc chuyển DNNN sang tổ chức và hoạt động theo hình

thức công ty cổ phần. Biện pháp này đƣợc kỳ vọng mang lại diện mạo mới cho các

DNNN. Cổ phần hóa DNNN đƣợc bắt đầu thí điểm từ năm 1992 - 1996, sau đó mở rộng

thí điểm và đẩy mạnh việc thực hiện. Tuy nhiên, việc cổ phần hoá các DNNN cũng góp

phần quan trọng vào việc giảm đáng kể số lƣợng các DNNN 100% vốn nhà nƣớc và việc

làm đa dạng hoá chủ sở hữu doanh nghiệp làm cho các doanh nghiệp phần nào hoạt động

có hiệu quả hơn. Quá trình cổ phần hoá DNNN đƣợc đẩy mạnh trong giai đoạn 2000 –

2005 (xem bảng 2.2)

Bảng 2.2. Số DNNN đƣợc cổ phần hoá giai đoạn 2000-2005.

Đơn vị: doanh nghiệp

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005

DNNN 5.759 5.355 5.364 4.845 4.596 4.506

DNNNđƣợcCPH 212 204 164 532 753 754

Nguồn: Kinh tế 2006- 2007, trang 28, Thời báo kinh tế Việt Nam. Từ 2000 - 2005, Việt Nam đã cổ phần hoá đƣợc 2.619 DNNN - đây là giai đoạn

CPH đƣợc đẩy mạnh. Trong đó doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng,

giao thông chiếm 66,0%, ngành thƣơng mại dịch vụ chiếm 27,%, ngành nông lâm, ngƣ

nghiệp chiếm 6,4% [27] . Việc đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN đã tạo ra những chuyển

biến lớn: cổ phần hoá đã mở rộng sang hầu hết các ngành, lĩnh vực trong cả nền kinh tế,

trong đó có cả các lĩnh vực nhƣ y tế, giáo dục; chuyển biến từ việc cổ phần hoá những

DNNN nhỏ và vừa, làm ăn thua lỗ sang cổ phần hoá cả những DNNN lớn, làm ăn có lãi;

chuyển hƣớng từ cổ phần hoá khép kín, nội bộ sang đấu giá công khai, bán cổ phần ra

ngoài để thu hút nhà đầu tƣ trong và ngoài nƣớc. Trƣớc những chuyển biến đó, cổ phần

hoá DNNN giai đoạn này đã đƣợc đẩy mạnh, số lƣợng các DNNN đƣợc cổ phần hoá tăng

lên rõ rệt so với giai đoạn trƣớc: năm 1995, cả nƣớc chỉ có 3 DNNN đƣợc cổ phần hoá,

đến năm 2000 là 212 doanh nghiệp, năm 2005 tăng lên đến 754 doanh nghiệp. Thời gian

30

trung bình để tiến hành cổ phần hoá DNNN cũng giảm xuống (xem hình 2.1)

Hình 2.1. Thời gian trung bình để CPH một DNNN ở Việt Nam

Nguồn: Tổng cục thống kê 2005 và mô tả của tác giả

Thời gian cổ phần hoá một DNNN ở Việt Nam đã giảm đi so với giai đoạn trƣớc:

năm 1998, để cổ phần hoá một DNNN phải mất gần 3 năm, đến năm 2001 giảm xuống

còn khoảng gần 2 năm, năm 2004 chỉ còn hơn 1 năm.

Tuy đã đạt đƣợc một số thành công ban đầu trong việc đẩy mạnh cổ phần hoá

DNNN, nhƣng trong giai đoạn này vẫn chƣa thực hiện đƣợc kế hoạch cổ phần hóa mà

Nhà nƣớc đề ra. Các đánh giá về hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần

cho thấy sau cổ phần hoá các DNNN đều có kết quả hoạt động cao hơn trƣớc: Vào năm

2004, chƣa đến 4% các DNNN làm ăn thua lỗ, đối với các DN còn lại thì tỷ lệ lợi nhuận

trên vốn trung bình là 17%, gấp ba lần so với trƣớc cổ phần hoá.

* Chuyển đổi tổng công ty sang mô hình công ty mẹ - công ty con

Năm 2005, Thủ tƣớng chính phủ cho phép 47 tổng công ty chuyển sang hoạt động

theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Việc triển khai chuyển đổi sang mô hình công ty

mẹ, công ty con đƣợc thực hiện theo Nghị định số 153/2004/NĐ- CP của Chính phủ (ban

hành ngày 9/8/2004) về tổ chức, quản lý và chuyển đổi công ty nhà nƣớc, công ty nhà

nƣớc sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Trên thực tế, có khá nhiều

tổng công ty nhà nƣớc hoạt động theo mô hình công ty mẹ, công ty con có hiệu quả.

Không ít các tổng công ty nhà nƣớc hoạt động theo mô hình này một cách thực chất,

không chuyển đổi bằng giải pháp hành chính mà thông qua các biện pháp kinh tế nhƣ đầu

tƣ vào doanh nghiệp, cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu…Tuy nhiên trong việc triển

31

khai cũng phát sinh khá nhiều vấn đề nhƣ các công ty chƣa quen với cách điều hành mới,

một số công ty chƣa tuân thủ các điều kiện khách quan, đặc biệt là các điều kiện về liên

kết và đầu tƣ chi phối lẫn nhau khi chuyển sang mô hình công ty mẹ con.

* Hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế

Tập đoàn kinh tế là một tổ hợp các doanh nghiệp bao gồm các công ty mẹ các công

ty con và các doanh nghiệp liên kết khác với nhiều tầng nấc. Một số tổng công ty lớn ở

Việt Nam đã đƣợc thành lập theo mô hình tập đoàn kinh tế nhƣ Tập đoàn bƣu chính viễn

thông tin Việt Nam, tập đoàn điện lực Việt Nam, tập đoàn xi măng Việt Nam, tập đoàn

dệt may Việt Nam…Tuy nhiên đây là một mô hình mới đang ở trong quá trình thí điểm

ở Việt Nam. Hiện nay, các điều kiện để áp dụng mô hình này ở Việt Nam chƣa đƣợc

thuận lợi do đây là một mô hình mới, bên cạnh đó cơ chế chính sách còn nhiều hạn chế

chƣa mang tính hỗ trợ cho việc hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế. Mặc dù vậy,

đây là một hƣớng đổi mới nhằm xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh tầm cỡ khu vực

để giúp Việt Nam tăng sức cạnh tranh trên trƣờng quốc tế khi quá trình hội nhập kinh tế

quốc tế đang đến gần. Đến hết tháng 9/2006, cả nƣớc có 105 tập đoàn và tổng công ty

Nhà nƣớc. Mô hình này nhằm xây dựng các DNNN có quy mô và hiệu quả hoạt động

cao, có thể cạnh tranh đƣợc với các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc, tiến tới đầu tƣ ra

nƣớc ngoài

2.1.3. Kết quả phát triển DNNN sau 20 năm đổi mới

Nhìn một cách tổng quát nhất, quá trình cải cách DNNN giai đoạn này đã mang lại

những kết quả khả quan, cho thấy hƣớng đi đúng đắn của Việt Nam. Kết quả sau 20 năm

đổi mới kinh tế đã cho thấy sự đúng đắn của chủ trƣơng này: Số lƣợng DNNN đã giảm đi

đáng kể, từ 12 300 doanh nghiệp năm 1989, đã giảm xuống còn 4 056 doanh nghiệp năm

2005 [21,320]. Các DNNN đã thực sự thay đổi rất nhiều so với trƣớc theo hƣớng hiệu

quả hơn và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong tình hình mới. Đặc biệt, số lƣợng

32

các DNNN 100% vốn nhà nƣớc giảm mạnh.

Hình 2.2 Số DNNN giai đoạn 2000-2005

Nguồn: Kinh tế 2006- 2007, trang 28, Thời báo kinh tế Việt Nam và mô tả của tác giả.

Bảng số liệu trên cho thấy số lƣợng DNNN giảm dần qua các năm, trong đó năm

2005 giảm mạnh nhất (540 DN) chứng tỏ các nỗ lực cải cách DNNN giai đoạn này đã

đƣợc đẩy mạnh. Sự giảm số lƣợng các DNNN giai đoạn này bởi các biện pháp cải cách

DNNN đã đƣợc thực hiện khá đa dạng và hiệu quả.

Kết quả cải cách DNNN Việt Nam đã làm giảm số lƣợng doanh nghiệp, điều đó đã

cho phép quy mô của DNNN ngày càng tăng về số lƣợng lao động cũng nhƣ quy mô của

vốn trong doanh nghiệp. Xét về quy mô các DNNN theo số lao động trong các DNNN

giai đoạn này có tăng lên nhiều so với trƣớc.

Bảng 2.3: Tổng số lao động theo khu vực kinh tế giai đoạn 2000-2005

Đơn vị: Nghìn người

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005

KVNN 3.150 3.604 3.751 4.035 4.142 4.127

NgoàiQD 34.109 34.959 35.757 36.583 37.445 38.582

TổngLĐ 37.610 38.563 39.508 40.574 41.568 42.709

Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 “ Hướng đến tầm cao mới” 12/2006.

Bảng số liệu 2.3 cho thấy: tổng số lao động trong khu vực DNNN tăng lên qua các

33

năm, đặc biệt là từ năm 2002 từ 3.751 lao động lên 4.035 lao động trong năm 2003 và

đến năm 2004 tăng lên 4.142 lao động; năm 2005, tổng số lao động trong một DNNN là

4.127 nghìn ngƣời, tăng 977 nghìn ngƣời so với năm 2000. Theo số liệu của thời báo

kinh tế Việt Nam, thì số lao động bình quân 1 doanh nghiệp tăng lên, năm 2000 là 363

ngƣời, năm 2005 là 499 ngƣời [28,28]

Về số vốn của DNNN cũng tăng lên thể hiện quy mô của DNNN ngày càng lớn. Các

DNNN có số vốn nhỏ dƣới 10 tỷ giảm đi rõ rệt qua các năm, đồng thời các DNNN có

vốn lớn tăng lên. Năm 2000 các DNNN có số vốn trên 50 tỷ là 1.367 DN, năm 2002 tăng

lên đến 1.684 doanh nghiệp. Về số vốn bình quân một doanh nghiệp năm 2000 là 130 tỷ

đồng, năm 2005 là 355 tỷ đồng. Vốn bình quân trên một doanh nghiệp năm 2000 là 130

tỷ đồng, năm 2001 là 153 tỷ đồng, năm 2002 tăng lên 167 tỷ đồng. [35]

Tốc độ tăng trƣởng GDP của khu vực DNNN tăng. Trong 20 năm đổi mới tốc độ

tăng trƣởng GDP của DNNN cũng có tăng, đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ 21,

tuy nhiên không nhanh, mạnh và không mang tính đột phá nhƣ các thành phần kinh tế

ngoài quốc doanh.

Bảng 2.4: Tốc độ tăng trƣởng GDP theo khu vực kinh tế:

Đơn vị: %

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005

Nền KT 6,8 6,9 7,1 7,3 7,8 8,4

DNNN 7,7 7,4 7,1 7,6 7,7 7,4

NgoàiQD 6,2 6,5 7,1 7,1 7,8 9,2

Nguồn: Báo cáo phát triển Việt Nam 2007, “Hướng đến tầm cao mới”

Qua bảng 2.4 ta thấy, nhìn chung tốc độ tăng trƣởng của khu vực DNNN trong giai

đoạn này giữ ở một mức khá ổn định, dao động trong khoảng từ 7,1 đến 7,7. So với các

thành phần kinh tế ngoài nhà nƣớc thì đây là một mức tăng trƣởng khá cao và ổn định.

Trong những năm sau này, vấn đề đổi mới kinh tế đất nƣớc nói chung và vấn đề cả cách

DNNN nói riêng đã thực sự đƣợc gắn với xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế, chứ không

chỉ đơn thuần là yêu cầu cuả cơ chế thị trƣờng, do đó, một yêu cầu đặt ra cho DNNN là

phải hoạt động thực sự có hiệu quả hơn nữa.

Doanh thu thuần của DNNN trong những năm cuối của giai đoạn 20 năm cải cách

34

tăng lên: năm 2000, doanh thu thuần của khu vực DNNN là 444.673 tỷ đồng, chiếm

54,91% tổng doanh thu của các doanh nghiệp trong nền kinh tê đến năm 2003 con số này

tăng lên tƣơng ứng là 666.022 tỷ đồng và 46,38%, năm 2005 là 708.045 tỷ đồng và

chiếm 41,18% doanh thu các doanh nghiệp trong nền kinh tế [27,16] . Lợi nhuận của các

DNNN trƣớc thuế cũng tăng lên: năm 2001 khu vực DNNN có tổng lợi nhuận trƣớc thuế

là 20.146 tỷ đồng, năm 2003 là 28.192 tỷ đồng [22]. Bên cạnh đó một số chỉ têu nhƣ tỷ lệ

nộp ngân sách nhà nƣớc so với doanh thu, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn, tỷ lệ lợi nhuận trên

doanh thu của khu vực DNNN cũng đƣợc cải thiện.

Bảng 2.5 Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của DNNN.

Tỷ lệ nộp NS NN so với Tỷ lệ lợi nhuận / vốn Tỷ lệ lợi nhuận/ Năm doanh thu (%) doanh thu (%) (%)

6,92 2,351 3,950 2000

10,85 2,453 4,176 2001

9,27 2,900 4,197 2002

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm

2001, 2002, 2003, NXB Thống kê, 2004.

Bảng trên đã chỉ ra hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN trong giai đoạn này đã

đƣợc nâng cao hơn theo các năm. Năm 2002, tỷ lệ nộp ngân sách của DNNN là 9,27% so

với doanh thu, trong khi năm 2000 tỷ lệ này là 6,92%. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn cũng tăng:

năm 2000 là 2,351%, năm 2002 tăng lến 2,9%. Tỷ lệ lợ nhuận trên doanh thu tăng

0,247% so với năm 2000. Những chỉ tiêu này chứng tỏ hiệu quả hoạt động của DNNN

giai đoạn này đã đƣợc nâng cao hơn so với giai đoạn trƣớc.

Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc đó, cải cách DNNN giai đoạn này vẫn còn một số

vấn đề chƣa giải quyết đƣợc nhƣ về quy mô nhỏ bé của DNNN, khả năng cạnh tranh của

các DNNN chƣa đƣợc nâng cao tƣơng xứng, hiệu quả kinh doanh thấp, đóng góp vào

ngân sách nhà nƣớc giảm dần. Thực tế đó cho thấy trong bối cảnh hội nhập khi môi

trƣờng cạnh tranh trở nên gay gắt hơn thì các DNNN phải tiếp tục cải cách để có thể thực

hiện đƣợc vai trò của mình và đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài

35

nƣớc.

2.2. Thực trạng phát triển DNNN Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010

2.2.1.Những nhân tố chủ yếu giai đoạn 2006 – 2010 tác động tới sự phát triển

DNNN Việt Nam

* Gia nhập WTO của Việt Nam

Nền kinh tế Việt Nam nói chung, các DNNN Việt Nam nói riêng đã phải trải qua

giai đoạn đầy khó khăn từ năm 2006 – 2010. Điểm nổi bật đối với Việt Nam trong giai

đoạn này là “sự kiện” gia nhập WTO tháng 11/2006 và chính thức trở thành Thành viên

WTO từ tháng 1/2007. Đây là một sự kiện quan trọng có ảnh hƣởng sâu sắc đến hoạt

động của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có khu vực DNNN. Việt Nam nộp đơn

xin gia nhập WTO vào ngày 4/1/1995, ngay sau khi tổ chức này đƣợc thành lập trên nền

tảng của GATT (Hiệp định về thuế quan và thƣơng mại) vào ngày 1/1/1995. Điều đó cho

thấy vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là tham gia vào WTO là rất quan trọng

cho việc phát triển kinh tế đất nƣớc, giúp khai thác đƣợc một cách có hiệu quả hơn nguồn

lực trong nƣớc, đồng thời tận dụng đƣợc những tiến bộ công nghệ, trình độ quản lý…từ

các nƣớc tiên tiến.

Trong các cam kết với WTO của Việt Nam, có những cam kết riềng đối với

DNNN. Những cam kết WTO đối với DNNN Việt Nam gồm:

(i) Mọi hoạt động mua, bán của DNNN phải theo các tiêu chí thƣơng mại, trong đó

các quyết định về giá cả, số lƣợng , chất lƣợng, tiếp thị, vận chuyển và các điều kiện mua,

bán khác trong hoạt động kinh doanh đều phải tuân thủ theo các nguyên tắc thị trƣờng.

(ii) Không phân biệt đối xử, đảm bảo đầy đủ các cơ hội cạnh tranh của tất cả các

doanh nghiệp ở các nƣớc thành viên WTO.

(iii) Nhà nƣớc không can thiệp trực tiếp và gián tiếp tới hoạt động của các DNNN,

không coi mua sắm của DNNN là mua sắm của nhà nƣớc. Việc tham gia sâu rộng vào

WTO đã mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam những cơ hội và thách thức mới.

Việt Nam cam kết việc minh bạch hóa với WTO về chƣơng trình, việc thực hiện

chƣơng trình và kết quả của CPH DNNN. Trong các DNNN sau khi đã CPH, nhà nƣớc

đƣợc coi là một thành viên của doanh nghiệp và nhà nƣớc sẽ hoạt động giống nhƣ bất kì

36

một nhà đầu tƣ tƣ nhân nào khác có cổ phần trong doanh nghiệp đã đƣợc CPH.

Gia nhập WTO đem lại cho DNNN Việt Nam rất nhiều cơ hội cho sự phát triển, đó

là: (i) Việc hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và gia nhập WTO nói riêng là cơ hội rất

lớn, mang lại động lực và nguồn lực lớn về nhiều mặt thúc đẩy cải cách DNNN; (ii) Việt

Nam có thể mở rộng sự tiếp cận các thị trƣờng nƣớc ngoài, nhờ đó có thể tăng thêm cơ

hội xuất khẩu. Hàng hoá của Việt Nam khi gia nhập vào WTO sẽ đƣợc đối xử bình đẳng

nhƣ các hàng hoá của các thành viên WTO khác, nhƣ vậycác mặt hàng xuất khẩu của Việt

Nam trong đó phần nhiều là sản phẩm của khu vực DNNN sẽ đƣợc đối xử nhƣ hàng hóa

cùng loại của các nƣớc khác. Mặt khác, Việt Nam sẽ đƣợc tiếp cận với những công cụ

giải quyết tranh chấp thƣơng mại và đầu tƣ, tạo thuận lợi cho các DNNN khi thâm nhập

vào thị trƣờng quốc tế; (iii) Việc thuế quan đƣợc cắt giảm khi xuất khẩu hàng hoá vào các

nƣớc thành viên WTO sẽ tạo cho các DNNN điều kiện để giảm bớt một phần chi phí

không nhỏ, do đó có thể giảm giá thành xuống, nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho

các sản phẩm thuộc doanh nghiệp khi xuất khẩu; (iv) Các doanh nghiệp Việt Nam, bao

gồm cả khu vực DNNN sẽ có quyền thƣơng lƣợng một cách bình đẳng hơn và đƣợc các

quy định của WTO bảo vệ khi có xảy ra tranh chấp thƣơng mại, nhƣ vậy sẽ tránh đƣợc

tình trạng thua thiệt tƣơng tự nhƣ những vụ kiện bán phá giá các mặt hàng tôm, cá tra, cá

basa vào thị trƣờng châu Âu và thị trƣờng Mỹ trong những năm 2004, 2003 khi Việt Nam

chƣa là thành viên của WTO; (v) Thúc đẩy hoạt động thƣơng mại, chuyển giao công

nghệ, trình độ quản lý. Khi trở thành thành viên của WTO, vấn đề tự do hóa thƣơng mại

đƣợc đẩy mạnh, quá trình đầu tƣ trực tiếp vào nƣớc ta cũng có điều kiện tăng lên, do đó

mà việc tiếp thu công nghệ mới, nhập khẩu công nghệ hiện đại từ nƣớc ngoài và học hỏi

kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp… trở nên dễ dàng hơn; (vi) Thúc đẩy cạnh tranh: gia

nhập WTO sẽ tạo ra một động lực cho các DNNN phải cải cách để có thể cạnh tranh đƣợc

với các doanh nghiệp ngoài nhà nƣớc, đặc biệt là các doanh nghiệp nƣớc ngoài trên thị

trƣờng nội địa; đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh để có thể chiến thắng đối thủ trên

thị trƣờng thế giới; (vii) Gia nhập WTO, môi trƣờng pháp lý cũng nhƣ các môi trƣờng

kinh doanh khác của Việt Nam sẽ thông thoáng hơn, điều này tạo cho các DNNN có điều

kiện để phát triển trong một môi trƣờng bình đẳng và có động lực đổi mới để nâng cao

hiệu quả hoạt động của mình.

37

Tuy nhiên, việc gia nhập WTO cũng đặt DNNN Việt Nam trƣớc nhiều thách thức:

Một là, khi gia nhập WTO, việc bao cấp của nhà nƣớc đối với DNNN dần phải rỡ bỏ

thì các DNNN sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là trong môi trƣờng cạnh

tranh khốc liệt. Do vậy, nếu các DNNN không kịp thích ứng với điều kiện mới thì sẽ khó

có thể tồn tại đƣợc.

Hai là, DNNN chƣa thực sự hoạt động theo cơ chế thị trƣờng: mặc dù đã qua 20

năm cải cách, nhƣng khu vực DNNN vẫn mang nặng tính chất kế hoạch hoá tập trung

của nhà nƣớc, chƣa hoạt động thực sự bằng năng lực của mình, chƣa thực sự cạnh tranh

bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Khi gia nhập WTO,

DNNN phải thích nghi với việc tự hoạt động bằng chính khả năng của mình mà không

cần đến những hỗ trợ từ Nhà nƣớc.

Ba là, khả năng cạnh tranh của DNNN thấp: các sản phẩm của các doanh nghiệp

Việt Nam nói chung có chi phí cao do trình độ quản lý, công nghệ yếu kém, chất lƣợng

thấp, trong khi hàng nƣớc ngoài có chất lƣợng cao hơn, giá thành lại thấp hơn, đây thực

sự là thách thức đối với khu vực DNNN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Bốn là, gia nhập WTO, một yêu cầu bắt buộc đặt ra cho các doanh nghiệp nói chung

trong đó có DNNN là việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ. Đây là một lĩnh vực mới ở Việt

Nam, và quá trình thực hiện yêu cầu này đòi hỏi các DNNN phải mất thêm chi phí, khoản

chi phí tăng thêm này làm tăng giá thành sản phẩm, trong khi hiệu quả hoạt động của

DNNN chƣa cao làm cho DNNN càng khó có khả năng cạnh tranh đƣợc với các khu vực

khác.

Năm là, hệ thống luật pháp Việt Nam chƣa đáp ứng đƣợc những tiêu chuẩn quốc tế,

gây ra những thiệt hại lớn cho doanh nghiệp khi không đảm bảo đƣợc những tiêu chuẩn

của quốc tế. Đây cũng là một bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào

WTO.

Trên đây là những cơ hội và thách thức của khu vực DNNN nói riêng khi tham gia

vào WTO. Bắt đầu từ năm 2007, khi các cam kết gia nhập WTO dần đƣợc thực hiện, các

DNNN phải nỗ lực cải cách hết mình để có thể tận dụng đƣợc cơ hội, đồng thời hạn chế

và vƣợt qua đƣợc những thách thức mà WTO mang lại cho khu vực này để có thể tồn tại

38

và phát triển tốt hơn.

* Diễn biến kinh tế vĩ mô phức tạp và khó dự đoán

Năm 2006 và tiếp tục trong nửa đầu năm 2007, kinh tế thế giới đang có sự tăng

trƣởng mạnh mẽ (từ năm 2004 – 2007, GDP tăng bình quân 5%/năm), nhƣng từ nửa cuối

năm 2007 và năm 2008 kinh tế thế giới đã phải trải qua những biến động mạnh và đã để

lại những hậu quả nặng nề. Đó là tình trạng tăng giá dầu, giá các nguyên liệu đầu vào

cùng với tốc độ tăng trƣởng cao của nền kinh tế đã gây nên áp lực tăng giá và lạm phát

(năm 2008, lạm phát trong nền kinh tế thế giới tăng cao và đạt mức cao nhất kể từ cuối

thập niên 1990). Ngày 7/11/2007, giá vàng lên tới 848 USD/oz, và lập kỷ lục trên 1.000

đôla một ounce vào 17/3/08, đây là mức cao nhất kể từ năm 1980. Vào ngày 21/11/2007,

giá dầu đạt đỉnh 99,29 USD/thùng, sau đó leo lên trên 100 đôla vào 20/2/2008 và lập kỷ

lục trên 147 đôla một thùng vào 11/07/2008 [16]. Đứng trƣớc tình hình trên, trong những

tháng cuối 2007 và đầu năm 2008, hầu hết các nƣớc phải tập trung đƣa ra các giải pháp

mạnh mẽ để chống lạm phát do “cơn bão giá “ lan rộng trên toàn cầu.

Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7, giá dầu bất ngờ lao dốc giảm mạnh do nhu

cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia (đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ) sụt giảm. Cuối năm

2008 giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 đôla một thùng, mất hơn 100 đôla, tƣơng

ứng gần 70%, so với giá trị ban đầu, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lƣợng của

OPEC. Tỷ lệ lạm phát đã giảm nhanh kể từ tháng 9/2008 khi cuộc khủng hoảng tài chính

bùng nổ và nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái. Năm 2008, các thị trƣờng chứng khoán

trên thế giới suy giảm do các nhà đầu tƣ lo ngại về triển vọng nền kinh tế thế giới.

Khu vực châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng không thể không chịu ảnh hƣởng

từ cuộc khủng hoảng này. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hƣởng lớn làm sụt

giảm đáng kể GDP của Việt Nam. Tác động này khá nặng nề khi quý I năm 2009, GDP

chỉ tăng 3.1% so với cùng kỳ năm 2008 Năm 2010, tăng trƣởng GDP của Việt Nam dự

kiến đạt 6,7%, trong khi đó tốc độ lạm phát là 11,78%. Không chỉ có sự sụt giảm trong

tốc độ tăng trƣởng GDP mà cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu còn tác động làm tăng tỷ

lệ thất nghiệp của Việt Nam, ảnh hƣởng lớn đến hoạt động kinh doanh của hầu hết các

khu vực trong nền kinh tế: xuất khẩu giảm sút, cán cân thanh toán thâm hụt, lạm phát gia

tăng… Trƣớc tình hình đó, hoạt động của khu vực các doang nghiệp, trong đó có các

39

DNNN gặp nhiều khó khăn. Năm 2008, Chính phủ phải đƣa ra gói giải pháp nhằm kiềm

chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Bản thân các doanh nghiệp cũng tìm những con

đƣờng riêng cho mình để chống chọi với khủng hoảng - bằng cách khai thác thị trƣờng

nội địa vốn rất tiềm năng, đã giúp các doanh nghiệp đứng vững, và phát triển cùng với

nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng. Tuy vậy, nền kinh tế Việt Nam nói riêng và thế

giới nói chung vẫn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn khi chịu tác động tiêu cực của thiên tai,

bất ổn chính trị ở nhiều khu vực…đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chiến lƣợc dài hạn để

tiếp tục phát triển và bền vững.

2.1.2. Tình hình phát triển DNNN

* Tiến hành cơ cấu lại khu vực DNNN

Trƣớc tình hình kinh tế chính trị thế giới có nhiều bất ổn, cộng với việc các cam kết

WTO của DNNN Việt Nam sắp đƣợc thực hiện thì các DNNN Việt Nam một mặt phải

tiến hành “Cơ cấu lại DNNN, tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư

liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế, vào một số lĩnh vực công ích” [9,48],

mặt khác, phải đẩy mạnh cải cách theo hƣớng CPH DNNN lớn, chuyển TCT và DNNN

lớn khác sang mô hình CTM - CTC, thí điểm thành lập một số TĐKT nhà nƣớc nhằm tạo

ra những doanh nghiệp chủ lực của Việt Nam trong hội nhập vào “sân chơi” chung toàn

cầu.

Chủ trƣơng cơ cấu lại khu vực DNNN của Việt Nam sẽ theo hƣớng phù hợp với

chức năng, nhiệm vụ của DNNN: thu hẹp số lƣợng, cũng nhƣ các ngành, các lĩnh vực

hoạt động; chuyển giao nhanh những ngành, những lĩnh vực mà nhà nƣớc không cần nắm

giữ. Đối với những ngành, những lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh cao sẽ rà soát lại để cắt

giảm, DNNN chỉ nắm giữ 100% vốn điều lệ ở những ngành, những lĩnh vực then chốt

của nền kinh tế. Mục tiêu đến năm 2010, Việt Nam chỉ giữ lại 150 doanh nghiệp do nhà

nƣớc nắm giữ 100% vốn điều lệ. Thực hiện cơ cấu lại DNNN, Chính phủ đã ban hành,

sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp qui về tiêu chí xác định các loại doanh nghiệp do nhà

nƣớc nắm giữ 100% vốn điều lệ, loại doanh nghiệp do nhà nƣớc nắm giữ trên 50% vốn

điều lệ, loại doanh nghiệp do nhà nƣớc nắm dƣới 50% vốn điều lệ, loại doanh nghiệp bán

toàn bộ phần vốn của nhà nƣớc tại doanh nghiệp theo hƣớng giảm dần sự có mặt của

DNNN ở những ngành, lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác đảm nhận có hiệu quả

40

hơn. Theo đó, những ngành, lĩnh vực nhà nƣớc nắm giữ đã giảm từ 60 ngành, lĩnh vực,

sau năm 2007 chỉ còn 19 ngành, lĩnh vực. Tại thời điểm cuối năm 2009, số doanh nghiệp

do nhà nƣớc nắm giữ 100% vốn điều lệ còn 14% so với số doanh nghiệp khi tiến hành đổi

mới kinh tế. Số lƣợng DNNN trong các ngành giảm dần: nếu năm 2001 số DNNN trong

ngành thƣơng mại chiếm 30%, trong ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải

chiếm 52,6%, trong nông, lâm, ngƣ nghiệp là 14,2%, thì đến nay cơ cấu tƣơng ứng là

22,4%; 50,6% và 25%. Các DNNN do nhà nƣớc nắm giữ 100% vốn điều lệ còn lại hiện

nay chủ yếu thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nƣớc, quốc phòng, an ninh, rừng phòng hộ,

đảm bảo cân đối vĩ mô, cung ứng các sản phẩm dịch vụ công cộng.

Bảng 2.6 cho thấy số lƣợng DNNN đã giảm đáng kể: Năm 2005 vẫn còn trên 4 086

doanh nghiệp, năm 2008 số DNNN đã giảm xuống 3 287 doanh nghiệp. Tình hình trên

cho thấy cơ cấu doanh nghiệp đã có sự chuyển biến theo hƣớng tích cực theo loại hình

doanh nghiệp; Số lƣợng DNNN giảm cả về số lƣợng và tỷ trọng, trong khi số lƣợng

doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đã xuất hiện và tăng lên.

2005

2006

2007

2008

Bảng 2.6 Số DN đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại thời điểm 31/12 hàng năm

Năm

Doanh nghiệp

Tổng số

112950

131318

155771

205689

DNNN

4086

3706

3494

3287

DN ngoài Nhà nƣớc

105167

123392

147316

196776

DN FDI

3697

4220

4961

5626

Cơ cấu (%)

100

100

100

100

Tổng số

DNNN

3,62

2,82

2,24

1,60

DN ngoài Nhà nƣớc

93,11

93,97

94,57

95,66

DN FDI

3,27

3,21

3,19

2,30

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2009

Số lƣợng DNNN giảm cũng kéo theo tổng số lao động trong khu vực DNNN giảm

41

(xem bảng 2.3): năm 2006 là 2 037 660 ngƣời, năm 2008 còn 1 634 500 ngƣời. Nếu năm

2000 số lao động trong DNNN chiếm 59,1% tổng số lao động trong khu vực doanh

nghiệp, thì năm 2005 giảm xuống 32,7%, năm 2008 còn 20,7%.

Bảng 2.7 Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hàng năm

phân theo loại hình doanh nghiệp

Năm 2005 2007 2008 2006

Ngƣời

Tổng số 6.237.396 6.715.166 7.382.160 8.154.850

DNNN 2.037.660 1.899.937 1.763.17 1.634.500

DN ngoài NN DN FDI 2.979.120 1.220.616 3.933.182 1.685.861 4.690.857 1.829.493

DNNN DN ngoài NN DN FDI 32,67 47,76 19,57 3.369.855 1.445.374 Cơ cấu (%) 28,29 50,19 21,52 23,88 53,28 22,84 20,04 57,53 22,43

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2009 Vốn đầu tƣ trong khu vực kinh tế nhà nƣớc, trong đó chủ yếu là các DNNN tăng qua

các năm từ nhƣng tỷ trọng trong tổng vốn đầu tƣ thì giảm dần. Theo bảng 2.9, tổng số vốn

đầu tƣ của khu vực kinh tế nhà nƣớc tăng từ 185,1 tỷ đồng năm 2006 lên 209,0 tỷ đồng

năm 2008 và 287, 5 tỷ đồng năm 2009, trong khi tỷ trọng của khu vực này trong tƣơng

quan với các khu vực khác cũng tăng đáng kể: từ chỗ chiếm trên 37,2% tổng vốn đầu tƣ

năm 2006 xuống còn 33,9% năm 2009. Xu hƣớng giảm tỷ trọng vốn đầu tƣ của DNNN đã

bắt đầu từ năm 2001 (năm 2001 tỷ trọng này là 59,8%). Xu hƣớng này phù hợp với một

nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam.

Năm 2008 và 2009 vốn đầu tƣ của nhà nƣớc tăng là do gói kích thích kinh tế của Chính

42

phủ nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vƣợt qua khủng hoảng.

Bảng 2.8. Cơ cấu vốn đầu tƣ theo thành phần kinh tế (theo giá so sánh 1994)

Năm 2006 2007 2008 2009

Tổng (tỷ đồng) 404 712 532 093 616 735 708 826

Khu vực nhà nƣớc Khu vực ngoài NN FDI 185 102 154 006 65 604 197 989 204 705 129 399 209 031 217 034 190 670 287 534 240 109 181 183

Cơ cấu (%)

Khu vực nhà nƣớc Khu vực ngoài NN FDI 45,7 38,1 16,2 37,2 38,5 24,3 33,9 35,2 30,9 40,6 33,9 25,5

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2009

Nhƣ vậy, tốc độ thu hẹp của khu vực DNNN nhanh hơn khá nhiều so với mục tiêu mà

nhà nƣớc đặt ra. Số lƣợng DNNN giảm đã dẫn đến qui mô vốn của DNNN đã tăng gấp 5

lần so với năm 2002, phần lớn DNNN đƣợc giữ lại đều có qui mô vừa và lớn.

* Đẩy mạnh các giải pháp cải cách DNNN lớn

Trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn thì DNNN chỉ có thể phát triển đƣợc khi thực

hiện cải cách mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp này. Cùng với việc cơ cấu lại DNNN, nhằm

tạo ra các DNNN lớn hoạt động trong môi trƣờng cạnh tranh toàn cầu, Đại hội X chủ

trƣơng “Khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN theo

hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần.

Thúc đẩy việc hình thành một số TĐKT và TCT nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa

lĩnh vực, trong đó có ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi

phối” [9,46]

Trọng tâm của chƣơng trình sắp xếp, đổi mới DNNN giai đoạn 2006 – 2010 là nhằm

vào việc hình thành các DNNN lớn. Điều 166 Luật Doanh nghiệp 2005 cũng qui định:

“Các công ty nhà nước thành lập theo qui định của Luật Doanh nghiệp nhà nước năm

2003 phải chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc công ty cổ phần theo qui

định của luật này”. Quốc hội qui định trong thời gian 04 năm, các DNNN phải hoàn tất

việc chuyển đổi DNNN (đến trƣớc 1/7/2010). Nhƣ vậy, từ năm 2006 – 2010 Việt Nam

phải tiến hành chuyển đổi mạnh mẽ DNNN theo Luật Doanh nghiệp 2005 và theo yêu cầu

43

của WTO.

Thực hiện chủ trƣơng trên, Việt Nam đã tạo ra bƣớc phát triển trong cải cách DNNN

qui mô lớn: bên cạnh việc chuyển đổi TCT và DNNN quy mô lớn sang hoạt động theo mô

hình CTM – CTC, CPH các TCT và DNNN qui mô lớn, là việc xây dựng thí điểm các

TĐKT nhà nƣớc. Thực hiện chƣơng trình này cũng chính là việc thúc đẩy DNNN hội

nhập Luật Doanh nghiệp 2005 và chuẩn bị tốt nhất cho DNNN hội nhập kinh tế quốc tế

nói chung, hội nhập WTO nói riêng.

+ Đẩy mạnh CPH các DNNN lớn

Vấn đề CPH các TCT nhà nƣớc và các DNNN lớn đƣợc coi là có tính đột phá trong

tiến trình cải cách DNNN. Lộ trình CPH các TCT đƣợc xác định là đi từ CPH các doanh

nghiệp thành viên, các công ty con, rồi tiến tới CPH toàn bộ công ty mẹ. Để thực hiện chủ

trƣơng này một cách hiệu quả, Thủ tƣớng Chính phủ ra Quyết định 155/2004/QĐ-TTg về

ban hành tiêu chí, phân loại công ty nhà nƣớc, trong đó khẳng định đối với các DNNN

kinh doanh dịch vụ tài chính nhƣ bảo hiểm, ngân hàng, nhà nƣớc chỉ giữ cổ phần chi phối

51%.

CPH các TCT nhà nƣớc của Chính phủ sẽ vừa tạo động lực, vừa tạo điều kiện cho

doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua đa dạng hóa sở hữu, qua cơ chế

linh hoạt để thu hút vốn, công nghệ, năng lực quản lý từ thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế.

Để tạo một sự đột phá mới cho tiến trình CPH các TCT nhà nƣớc, Chính phủ chỉ đạo Bộ

Tài chính tập trung xây dựng Nghị định mới thay thế Nghị định 187 về CPH, Quyết định

mới thay thế Quyết định 36 về quy chế góp vốn mua cổ phần của các nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài, và Quyết định mới nhằm thay thế Quyết định 155 về phân loại DNNN để làm cơ

sở đƣa thêm doanh nghiệp vào diện CPH. Các Nghị định mới này phải đƣợc xây dựng

theo hƣớng mở rộng đối tƣợng CPH, mở rộng quyền góp vốn của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài,

xóa bỏ các ƣu đãi bất hợp lý, phân cấp mạnh hơn... Cụ thể: thứ nhất, các doanh nghiệp

trong diện CPH sẽ bao gồm cả Công ty TNHH một thành viên, các TCT, các công ty nhà

nƣớc độc lập là công ty mẹ (chủ trƣơng của Chính phủ là tiến hành CPH hầu hết các TCT,

chỉ trừ các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực quan trọng, liên quan đến an ninh-quốc

phòng đã đƣợc quy định); thứ hai, sự tham gia của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài sẽ đƣợc mở

rộng hơn, công nhận cả các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài là nhà đầu tƣ chiến lƣợc, và các doanh

44

nghiệp đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc thực hiện quyền góp vốn mua cổ phần tối đa theo các cam

kết quốc tế của Việt Nam theo lộ trình mở cửa thị trƣờng; và thứ ba, thu hẹp danh mục

các DNNN nắm giữ 100% vốn và danh mục DNNN cần giữ cổ phần chi phối. Có thể

thấy, đây là những thay đổi quan trọng để đi tới xóa bỏ sự cách biệt giữa các nhà đầu tƣ

trong và ngoài nƣớc, tạo điều kiện để các doanh nghiệp qui mô lớn thực hiện tốt các mục

tiêu CPH với sự góp vốn, công nghệ và quản lý của các nhà đầu tƣ.

TCT 90 và TCT 91 đƣợc xác định là những TCT có quy mô lớn và có vai trò quan

trọng trong nền kinh tế, do vậy, trƣớc hết sẽ tiến hành CPH hầu hết các doanh nghiệp

thành viên; đồng thời chuyển các TCT này sang hoạt động theo mô hình CTM-CTC; Các

TCT khác sẽ CPH toàn bộ TCT, bằng cách CPH tất cả các thành viên, chuyển sang mô

hình CTM-CTC, sau đó CPH công ty mẹ.

TCT Xuất nhập khẩu xây dựng (Vinaconex) là một trong ba TCT đƣợc chọn thí

điểm CPH. Đầu năm 2005, TCT này đã chính thức chuyển đổi thành TCT cổ phần

(Vinaconex JSC). Đây là TCT cổ phần đầu tiên của cả nƣớc. Vinaconex JSC có vốn điều

lệ 1.500 tỷ đồng, trong đó cổ phần nhà nƣớc chiếm 63,35%, cổ phần của các cổ đông khác

chiếm 36,65% vốn điều lệ. Trong quá trình thực hiện đổi mới, TCT Vinaconex đã CPH

29 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp thành 29 CTCP hoạt động theo Luật doanh

nghiệp; chuyển 1 công ty sang công ty TNHH một thành viên; bán 1 doanh nghiệp; thành

lập mới 15 công ty cổ phần do TCT giữ cổ phần chi phối; tham gia góp vốn thành lập 16

CTCP mới; và thành lập 1 công ty liên doanh.

Việc thí điểm CPH TCT nhà nƣớc tiếp tục đƣợc thực hiện với TCT Điện tử và Tin

học Việt Nam. Ngày 14/9/2006 Bộ Công nghiệp ban hành Quyết định số 2511/QĐ-BCN

chuyển TCT Điện tử và Tin học Việt Nam thành TCT cổ phần Điện tử và Tin học Việt

Nam, với số vốn điều lệ là 438 tỷ đồng. TCT cổ phần Điện tử và Tin học Việt Nam có 7

công ty con do công ty mẹ nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 6 công ty liên kết do công ty mẹ

nắm giữ dƣới 50% vốn điều lệ, 1 đơn vị hạch toán phụ thuộc và 2 đơn vị liên doanh.

Thực tế tiến hành thí điểm CPH Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam (VCB), sau đó

triển khai CPH các ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc khác nhƣ: Ngân hàng Công thƣơng

Việt Nam, Ngân hàng Phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Đầu tƣ

và Phát triển Việt Nam... đều thực hiện cơ cấu vốn nhƣ quyết định của Thủ tƣớng chính

45

phủ, nhà nƣớc chỉ giữ cổ phần chi phối 51%. VCB chính thức nhận lệnh CPH là vào ngày

21/9/2005 theo Quyết định số 230/2005/QĐ-TTg và đã thực hiện bán cổ phần lần đầu ra

công chúng (IPO) vào dịp cuối tháng 12/2007. Tiếp theo, Ngân hàng Công thƣơng

(VietinBank) cũng đã thực hiện IPO vào ngày 25/12/2008; Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn (AgriBank) đã bƣớc đầu thực hiện IPO hai công ty con là Công ty

Vàng bạc đá quý Thành phố Hồ chí Minh (21/08/2008) và Công ty Cho thuê tài chính II

(18/12/2008); Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển (BIDV) cũng đã lên kế hoạch IPO 30% vốn

điều lệ trong nửa đầu năm 2010.

Triển khai và thực hiện các quyết định trên, tính đến hết năm 2008, trong 554 doanh

nghiệp thành viên của TCT 91 đã sắp xếp đƣợc có 440 doanh nghiệp đã đƣợc CPH.

Tính đến đầu tháng 7 năm 2010 cả nƣớc đã CPH đƣợc 3.932 doanh nghiệp (chiếm

70,02% số DNNN đã đƣợc sắp xếp). Trong số các doanh nghiệp đã đƣợc CPH có 2.288

doanh nghiệp thuộc địa phƣơng (chiếm 58,19%); 1.192 doanh nghiệp thuộc khối bộ,

ngành (chiếm 30,31%) và 452 doanh nghiệp thuộc khối tập đoàn, TCT (chiếm 11,5%). Số

liệu DNNN đã cổ phần hóa qua các năm nhƣ sau:

Hình 2.3 Số lƣợng DNNN cổ phần hóa các năm

Nguồn: Báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới DNNN 2009 và 6 tháng đầu năm 2010

DNNN cần tiến hành CPH còn rất nhiều nhƣng hình 2.2 cho thấy số lƣợng DNNN

đƣợc CPH giảm dần. Theo Nghị định 25/2010/NĐ-CP của Chính phủ, từ 1/7/2010, những

DNNN đang tồn tại, nếu không CPH kịp sẽ phải chuyển sang công ty TNHH một thành

viên 100% vốn Nhà nƣớc, hoạt động theo Luật DN 2005. Tuy nhiên, đến thời điểm

46

1/7/2010, mục tiêu CPH 1.000 doanh nghiệp trong giai đoạn 2007 – 2010 vẫn chƣa hoàn

thành, trong 3 năm (2007 – 2009) việc CPH gần nhƣ dậm chân tại chỗ (số doanh nghiệp

đƣợc CPH trong năm 2007 chỉ là 150 doanh nghiệp, năm 2008 là 98 doanh nghiệp, năm

2009 khoảng 60 doanh nghiệp). Do đó, còn khoảng 1.500 DNNN chƣa kịp CPH sẽ phải

chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì thời gian thực hiện CPH một doanh

nghiệp còn dài (Kết quả khảo sát tại 934 doanh nghiệp cho thấy thời gian bình quân để

CPH một DNNN là 437 ngày và điển hình nhƣ thời gian CPH Ngân hàng Ngoại thƣơng

Việt Nam là 4 năm); Việc huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân bên ngoài còn ít, chủ yếu

vẫn là vốn nhà nƣớc (vốn nhà nƣớc vẫn chiếm trên 50% vốn điều lệ doanh nghiệp CPH);

Cơ chế quản lý, điều hành doanh nghiệp sau CPH ít thay đổi, không khuyến khích đƣợc

ngƣời lao động; Còn nhiều lúng túng trong việc tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp,

giá trị thƣơng hiệu, hay lựa chọn cổ đông chiến lƣợc, kể cả việc minh bạch hóa thông tin

về CPH.

+ Chuyển đổi DNNN quy mô lớn sang hoạt động theo mô hình CTM – CTC

Các phƣơng án chuyển đổi các TCT 90 và TCT 91 sang hoạt động theo hình thức

CTM-CTC cũng đã đƣợc triển khai. Ngày 27/4/2006, TCT Khoáng sản Việt Nam đã

chuyển sang hoạt động theo mô hình CTM-CTC theo Quyết định số 12/2006/QĐ-BCN

của Bộ Công nghiệp. Công ty mẹ đƣợc hình thành trên cơ sở tổ chức lại Văn phòng TCT,

các đơn vị hạch toán phụ thuộc TCT gồm Công ty Mỏ - Tuyển đồng Sin Quyền, Công ty

Luyện đồng Tà Loỏng và Ban Quản lý dự án tổ hợp Bauxit - Nhôm Lâm Đồng. Công ty

mẹ nằm trong cơ cấu tổ chức của Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam, với

vốn điều lệ hơn 728,714 tỷ đồng. Có 7 công ty con là những công ty TNHH một thành

viên, các CTCP do công ty mẹ nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; và 10 công ty có vốn góp

của công ty mẹ dƣới 50% vốn điều lệ. Tính chung, đến thời điểm giữa năm 2006, cả nƣớc

đã có 77 TCT nhà nƣớc và công ty nhà nƣớc độc lập qui mô lớn chuyển sang hoạt động

theo mô hình CTM-CTC. Tại một số TCT đã triển khai thí điểm Hội đồng quản trị lựa

chọn để ký hợp đồng với Giám đốc giỏi điều hành doanh nghiệp.

Vào tháng 6/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định 111/2007/NĐ-CP ngày

26/7/2006 về tổ chức, quản lý TCT nhà nƣớc và chuyển đổi TCT nhà nƣớc, công ty nhà

47

nƣớc độc lập, công ty mẹ là công ty nhà nƣớc hoạt động theo hình thức CTM-CTC hoạt

động theo Luật Doanh nghiệp, thay thế cho Nghị định 153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004

của Chính phủ về tổ chức, quản lý TCT nhà nƣớc và chuyển đổi TCT nhà nƣớc, công ty

nhà nƣớc độc lập theo mô hình CTM-CTC. Theo Nghị định này, các đơn vị thành viên do

TCT nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối chỉ bao gồm: CTCP, công ty TNHH có cổ phần,

vốn góp chi phối của TCT hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và các doanh nghiệp do

TCT giữ cổ phần, vốn góp chi phối đƣợc thành lập ở nƣớc ngoài, tổ chức và hoạt động

theo pháp luật của nƣớc sở tại; mà không quy định công ty liên doanh là đơn vị thành viên

do TCT nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối nhƣ trong Nghị định 153/NĐ-CP; Mặt khác,

Nghị định 111/NĐ-CP cũng quy định rõ hình thức CTM-CTC đối với công ty mẹ là công

ty nhà nƣớc (khác với trong Nghị định 153/NĐ-CP quy định là Công ty THHH 1 thành

viên do Nhà nƣớc làm chủ sở hữu). Nghị định 111/CP cũng quy định chủ thể phê duyệt

Đề án chuyển đổi, quyết định lộ trình, phê duyệt CTM chính là ngƣời quyết định thành

lập TCT, công ty nhà nƣớc độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc TCT,

không phải là Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt nhƣ trƣớc đây. Những đổi mới đó đã tạo cơ

sở pháp lý đầy đủ hơn, do đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình chuyển đổi mô

hình hoạt động của TCT đạt hiệu quả cao.

Tiếp tục quá trình chuyển đổi, 5 tháng đầu năm 2007 cả nƣớc chuyển 02 TCT sang

hoạt động theo mô hình CTM-CTC, đó là TCT Xây dựng công nghiệp Việt Nam (theo

Quyết định số 52/2007/QĐ-TTg ngày 5/1/2007 của Thủ tƣớng Chính phủ) và TCT Đƣờng

sông miền Bắc (theo Quyết định số 12/2007/QĐ-TTg ngày 24/1/2007 của Thủ tƣớng

Chính phủ). TCT Xây dựng công nghiệp Việt Nam có công ty mẹ là TCT Xây dựng công

nghiệp Việt Nam (là công ty nhà nƣớc, đƣợc hình thành trên cơ sở tổ chức lại Văn phòng,

các đơn vị hạch toán phụ thuộc của TCT Xây dựng công nghiệp Việt Nam và Công ty cơ

khí hóa chất Hà Bắc) và 10 CTC (gồm 3 Công ty TNHH một thành viên và 7 CTCP), 8

công ty liên kết. Còn TCT Đƣờng sông miền Bắc có công ty mẹ là TCT Vận tải thủy; và 6

công ty con là các CTCP. Ngày 10/7/2007, Chính phủ đã đồng ý hình thành TCT Khí

hoạt động theo mô hình CTM-CTC. TCT Khí đƣợc hình thành trên cơ sở tổ chức lại Công

ty TNHH một thành viên Chế biến, Kinh doanh sản phẩm khí và các đơn vị thuộc Tập

48

đoàn Dầu khí Việt Nam đang hoạt động chế biến và kinh doanh sản phẩm khí.

Việc chuyển đổi DNNN lớn sang mô hình CTM - CTC đƣợc đánh giá là mô hình

thực hiện đƣợc sự minh bạch về thông tin tốt góp phần đảm bảo cho sự phát triển lành

mạnh và hiệu quả của DNNN.

+ Xây dựng thí điểm tập đoàn kinh tế nhà nước

Dựa trên quan điểm kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo, DNNN có nhiệm vụ chủ

lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII,

Việt Nam đã chủ trƣơng xây dựng các TĐKT nhà nƣớc mạnh trong các ngành công

nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế, biến các tập đoàn này trở thành “xương sống của nền

kinh tế quốc dân”, “công cụ thực sự mạnh trong tay nhà nước”. Mục tiêu của việc hình

thành các TĐKT nhà nƣớc là: (i) Tập trung đầu tƣ và huy động nguồn lực hình thành nóm

các công ty lớn trong các ngành, các lĩnh vực then chốt, cần phát triển, nâng cao khả năng

cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế; (ii) Giữ vai trò đảm bảo an ninh kinh tế, các cân

đối lớn trong nền kinh tế, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành

và các lĩnh vực khác; (iii) Thúc đẩy liên kết kinh tế và phát triển các thành phần kinh tế

khác; (iv) Phát huy lợi thế kinh tế nhờ qui mô, giảm chi phí trong các doanh nghiệp thành

viên và tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Ý tƣởng về những TĐKT mạnh đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ đƣa ra ngay từ khi

quyết định thành lập TCT 91 về việc “thí điểm thành lập Tập đoàn kinh doanh”. Tuy

nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Quyết định này, việc “thí điểm thành lập Tập

đoàn kinh doanh” đã đƣợc chỉnh sửa thành “thí điểm thành lập một số TCT theo mô hình

Tập đoàn kinh doanh”. Các tập đoàn đƣợc thành lập trong thời gian này chƣa thật sự là

Tập đoàn theo đúng bản chất của nó, mà chỉ là bƣớc quá độ để tiến tới thành lập TĐKT.

Phải đến Hội nghị BCH Trung ƣơng Đảng lần thứ ba, Khóa IX (tháng 9/2002), thì TĐKT

mới đƣợc đề cập một cách cụ thể. Theo đó, trong thời gian trƣớc mắt sẽ hình thành một số

TĐKT mạnh trên cơ sở các TCT nhà nƣớc, có sự tham gia của các thành phần kinh tế,

kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ

vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có qui mô rất lớn về vốn, hoạt động cả

trong và ngoài nƣớc, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực

tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất - kinh

49

doanh. Thí điểm hình thành TĐKT trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có

khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả nhƣ dầu khí,

viễn thông, điện lực, xây dựng.

Theo đó, Chính phủ quyết định lựa chọn 3 TCT để thí điểm chuyển thành TĐKT là

TCT Than, TCT Dệt-May, và TCT Khoáng sản. Kết quả của đợt thí điểm này là cả 3 TCT

trên đều chuyển thành TĐKT trong năm 2005. Cụ thể:

Tháng 11/2005, Tập đoàn Than Việt Nam (TVN) là TĐKT nhà nƣớc đầu tiên của

Việt Nam ra đời và đi vào hoạt động, theo Quyết định số 198/2005/QĐ-TTg của Thủ

tƣớng Chính phủ. TVN hoạt động theo mô hình CTM-CTC, theo đó công ty mẹ - Tập

đoàn Than Việt Nam, là công ty nhà nƣớc, có chức năng đầu tƣ tài chính vào các doanh

nghiệp khác, giữ quyền chi phối các công ty con. Vì vậy, TVN có điều kiện để trở thành

một TĐKT mạnh, có trình độ công nghệ cao, quản lý hiện đại, kinh doanh đa ngành...

Nhƣ vậy, sự ra đời của TĐKT này không phải chỉ là một sự thay đổi về hình thức thuần

túy, mà đó là một sự thay đổi về chất, nên nó nhân sức mạnh của Tập đoàn lên rất nhiều;

còn việc đa dạng hóa sở hữu cũng giúp cho Tập đoàn có điều kiện tích tụ và trung vốn

nhanh chóng. Thực tế là, tỷ trọng doanh thu của các hoạt động ngoài than hiện đã lên tới

khoảng 33-34% tổng doanh thu của TVN; vốn điều lệ cuối 2005 là 4.300 tỷ đồng, tăng

1.500 tỷ đồng so với đầu năm; thu nhập của ngƣời lao động tăng từ 1 triệu đồng/ngƣời

/năm 1999 lên gần 3 triệu đồng/ngƣời/năm 2005; còn lợi nhuận thì chỉ một năm 2005 đã

bằng 10 năm trƣớc cộng lại... Điều đó cho thấy, rõ ràng chỉ có một mô hình tổ chức sản

xuất kinh doanh mới, phù hợp và tiến bộ nhƣ vậy mới có thể tạo ra một sức bật mạnh mẽ

đến thế.

Sau đó, tháng 12/2005 Tập đoàn Than Việt Nam và TCT Khoáng sản Việt Nam

đƣợc hợp nhất lại thành Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam hoạt động

theo mô hình CTM-CTC, theo Quyết định số 345/2005/QĐ-TTg ngày 26/12/2005 của

Thủ tƣớng Chính phủ. Theo Quyết định này, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản

Việt Nam là công ty mẹ, còn TCT Khoáng sản Việt Nam trở thành CTC của Tập đoàn.

Cơ cấu tổ chức CTM gồm 11 đơn vị (5 công ty, 3 trung tâm, 2 ban quản lý dự án và 1 tạp

chí); các CTC gồm: 6 công ty hoạt động theo mô hình CTM-CTC, trong đó công ty mẹ do

50

Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam nắm giữ 100% vốn điều lệ; 30 CTCP

do Tập đoàn nắm giữ trên 50% vốn điều lệ; 4 công ty do Tập đoàn nắm giữ dƣới 50% vốn

điều lệ; và 3 trƣờng Đào tạo nghề.

Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam là một trong những TĐKT

mạnh của nền kinh tế hiện nay. Trong năm 2006, Tập đoàn đã thực hiện thành công

nhiệm vụ đổi mới tổ chức, đổi mới quản lý theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần

thứ X, tạo sự phát triển vững chắc. Cụ thể, năm 2006, Tập đoàn đạt doanh thu 27.500 tỷ

đồng, tăng 18,9% so với năm 2005, trong đó riêng doanh thu tiêu thụ than (sản phẩm

chính) đạt 17.642 tỷ đồng, tăng 15% so với 2005 (chiếm 64% tổng doanh thu).

Cùng năm đó, TCT Dệt May Việt Nam cũng chuyển thành Tập đoàn Dệt May Việt

Nam theo Quyết định số 314/2005/QĐ-TTg ngày 21/12/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ.

Tập đoàn Dệt May Việt Nam đƣợc thành lập trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại TCT Dệt May

Việt Nam và các đơn vị thành viên, nhằm tạo ra một TĐKT mạnh, có trình độ công nghệ

cao, quản lý hiện đại, kinh doanh đa ngành trong đó ngành kinh doanh chính là công

nghiệp dệt may, đầu tƣ và kinh doanh tài chính. Tập đoàn Dệt May Việt Nam hoạt động

theo mô hình CTM - CTC, trong đó công ty mẹ là công ty nhà nƣớc, có chức năng trực

tiếp sản xuất kinh doanh và đầu tƣ tài chính vào các doanh nghiệp khác, giữ quyền chi

phối các CTC thông qua vốn, tài sản đƣợc Nhà nƣớc giao quản lý, công nghệ, thƣơng

hiệu và thị trƣờng. Cơ cấu tổ chức của CTM- Tập đoàn Dệt May Việt Nam tại thời điểm

thành lập bao gồm 10 đơn vị hạch toán phụ thuộc; 12 công ty con do Tập đoàn Dệt May

nắm giữ 100% vốn điều lệ; 27 công ty con do Tập đoàn Dệt May nắm giữ trên 50% vốn

điều lệ; 20 công ty liên kết do Tập đoàn Dệt May nắm giữ dƣới 50% vốn điều lệ; và 7 đơn

vị sự nghiệp.

Cuối năm 2005, TCT Bảo hiểm Việt Nam cũng đƣợc Thủ tƣớng Chính phủ phê

duyệt đề án CPH và thí điểm thành lập Tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt, theo

Quyết định 310/2005/QĐ-TTg, ngày 28/11/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ. Có thể nói,

đây là một quyết định có ý nghĩa đặc biệt, vì thứ nhất là, Chính phủ đã “mạnh tay”

chuyển một TCTNN đang kinh doanh rất hiệu quả trong lĩnh vực nhạy cảm sang hoạt

động theo mô hình CTM-CTC; và thứ hai là, tiến hành CPH toàn bộ TCT. Mô hình của

Bảo Việt cũng bao gồm CTM, các CTC, đơn vị sự nghiệp và các Công ty liên kết, nhƣng

51

CTM của Tập đoàn không phải là 100% vốn nhà nƣớc nhƣ các TĐKT khác, mà là đa sở

hữu. Đây là một trƣờng hợp chƣa có tiền lệ ở nƣớc ta hiện nay. Đến nay, Bảo Việt đã trở

thành một Tập đoàn kinh tế mạnh, kinh doanh đa ngành, trong đó ngành nghề kinh doanh

chủ yếu là kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, ngân hàng

và đầu tƣ tài chính, có trình độ kinh doanh và sức cạnh tranh quốc tế. Kết quả là, đầu năm

2006, Tập đoàn Bảo Việt ra đời.

Sau Tập đoàn Bảo Việt, TCT Bƣu chính viễn thông Việt Nam cũng chuyển thành

Tập đoàn Bƣu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), TCT Dầu khí Việt Nam chuyển thành

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), TCT Điện lực Việt Nam chuyển thành Tập đoàn

Điện lực Việt Nam (EVN), TCT công nghiệp tàu thủy Việt Nam chuyển thành Tập đoàn

Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin), TCT Cao su Việt Nam cũng đã chuyển thành

Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG).

Nhƣ vậy, thực hiện chủ trƣơng thành lập thí điểm một số TĐKT nhà nƣớc, từ năm

2005 –2006 đã có 8 TCT 90 và TCT 91 chuyển đổi thành TĐKT

Năm 2008, sau gần 3 năm hoạt động dƣới mô hình TĐKT, Hội nghị sơ kết thí

điểm mô hình TĐKT thuộc Bộ Công thƣơng đã diễn ra chiều ngày 20/11/2008. Đặc biệt,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, CIEM, Thời báo Kinh tế Việt Nam và Công ty

Thanh niên Việt Nam đã phối hợp tổ chức Hội thảo: “Tập đoàn kinh tế -Lý luận và thực

tiễn” ngày 25/5/2009 tại Hà Nội. Các bài tham luận của hội thảo đã khẳng định sự cần

thiết phải hình thành các TĐKTNN vì đây vừa là sự tất yếu trong quá trình phát triển kinh

tế thị trƣờng định hƣớng XHCN vừa là yêu cầu xuất phát từ thực tiễn trong bối cảnh hội

nhập, môi trƣờng cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn. Trong quá trình hoạt động, các

TĐKTNN cũng có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội. Các chuyên gia kinh

tế cũng chỉ ra rất nhiều vấn đề cần đƣợc rút kinh nghiệm từ mô hình cả về tổ chức, quản

lý và hoạt động do tình trạng: hiệu quả sản xuất kinh doanh kém, đầu tƣ dàn trải, công tác

giám sát, quản lý của Nhà nƣớc còn nhiều bất cập .

Ngày 05/11/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định 101/2009/NĐ- CP về thí điểm

thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý TĐKT nhà nƣớc. Sau gần 5 năm thí điểm xây

dựng mô hình TĐKT, Việt Nam đã có đƣợc văn bản pháp lý đặc biệt quan trọng của

Chính phủ quy định về lĩnh vực này. Lần đầu tiên, việc thí điểm các TĐKT nhà nƣớc có

52

một cơ sở pháp lý rõ ràng với mục tiêu thí điểm thành lập TĐKT nhà nƣớc là nhằm tập

trung đầu tƣ và huy động các nguồn lực hình thành nhóm công ty có quy mô lớn trong các

ngành, lĩnh vực then chốt, cần phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh

tế quốc tế, đồng thời bảo đảm sự cân đối trong nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy liên kết

trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác. Quan trọng hơn, việc

thí điểm thành lập các TĐKT nhà nƣớc còn nhằm tăng cƣờng quản lý, giám sát có hiệu

quả đối với vốn, tài sản nhà nƣớc đầu tƣ tại các doanh nghiệp trong tập đoàn. Phạm vi

điều chỉnh của Nghị định bao gồm cả việc thành lập, tổ chức hoạt động, quản lý điều hành

trong TĐKT nhà nƣớc và quản lý, giám sát thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở

hữu nhà nƣớc đối với TĐKT nhà nƣớc. Nghị định cũng nêu rõ thí điểm thành lập các

TĐKT nhà nƣớc là để tạo cơ sở để tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về

TĐKT. Điểm nổi bật của Nghị định 101/2009 NĐ - CP là Công ty mẹ đƣợc quyền tự chủ

quyết định hình thức trả lƣơng, mức lƣơng đối với ngƣời lao động và cán bộ quản lý sau

khi đã đăng ký với cơ quan quản lý nhà nƣớc về lao động- tiền lƣơng. Việc trả lƣơng căn

cứ trên cơ sở quy định về mức lƣơng tối thiểu của nhà nƣớc (trừ các chức danh là Chủ

tịch, thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, các Phó tổng giám đốc, Kế toán

trƣởng) và theo nguyên tắc tốc độ tăng tiền lƣơng bình quân thấp hơn tốc độ tăng năng

suất lao động và đăng ký với cơ quan nhà nƣớc. Với quy định này các TĐKT nhà nƣớc sẽ

có cơ hội thu hút nhân tài bằng cách trả lƣơng hợp lý, tránh đƣợc tình trạng chảy máu chất

xám trƣớc đây.

Trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm thực hiện thí điểm mô hình TĐKT nhà

nƣớc, Thủ tƣớng Chính phủ đã quyết định thành lập thêm 4 tập đoàn kinh tế gồm Tập

đoàn viễn thông quân đội, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Tập đoàn Phát triển nhà và đô

thị Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp và xây dựng Việt Nam trong năm 2009 và đầu năm

2010. Nhƣ vậy, đến năm 2010 Việt Nam đã có 12 TĐKT nhà nƣớc đang hoạt động trong

mô hình thí điểm.

Xem xét quá trình hình thành và phát triển của các TĐKTNN ở Việt Nam cho thấy

Thứ nhất, Các TĐKTNN Việt Nam đều là các tập doàn thí điểm thành lập bằng các

quyết định hành chính trên cơ sở tổ chức lại các tổng công ty nhà nƣớc lớn với phƣơng

châm vừa làm vừa rút kinh nghiệm và hoàn thiện dần khung pháp lý, hình thức tổ chức

53

quản lý.

Thứ hai, các TĐKT đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng yếu và đang đƣợc

xem là lực lƣợng chủ đạo của kinh tế nhà nƣớc và là “quả đấm thép” của nền kinh tế nói

chung trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Nhìn chung, các TĐKT nhà nƣớc đã đƣợc thành lập trong những ngành, những

lĩnh vực then chốt, cần phát triển và Việt Nam có lợi thế nhƣ ngành than, tàu biển, dầu

khí…Sự hình thành các TĐKT này không chỉ đảm bảo cho sự phát triển của DNNN, mà

còn tạo điều kiện phát huy đƣợc những lợi thế của Việt Nam trong môi trƣờng cạnh tranh

quốc tế.

2.2.3 Kết quả phát triển DNNN giai đoạn 2006 - 2010

* Tăng trưởng DNNN: Tuy số lƣợng DNNN giảm dần trong cả thời kỳ, nhƣng tổng

số doanh thu thuần của khu vực này có tăng. Con số thực tế có thể phản ánh một bức

tranh khác hơn một chút, bởi số liệu doanh thu thuần mà Tổng cục thống kê đƣa ra ở đây

là số liệu danh nghĩa, chƣa tính đến những biến động của giá cả. Theo Niên giám thống

kê tóm tắt 2009, doanh thu thuần của khu vực DNNN tăng từ 961,5 nghìn tỷ đồng năm

2006 lên 1388,8 nghìn tỷ đồng năm 2008. Tuy vậy, cơ cấu doanh thu của khu vực này

trong nền kinh tế thì lại giảm tƣơng ứng từ 35,8% xuống 25,1%. Khu vực doanh nghiệp

ngoài nhà nƣớc vẫn chiếm ƣu thế vựơt trội hơn cả trong cơ cấu này, chiếm 42% năm 2006

và 57,6% năm 2008 cho thấy đây vẫn là khu vực có đóng góp nhiều nhất cho xã hội,

không chỉ trong lĩnh vực tạo thêm nhiều việc làm mà còn đóng góp một phần lớn trong

GDP hàng năm của đất nƣớc.

Về vốn đầu tƣ của các DNNN Về mặt giá trị tuyệt đối, vốn đầu tƣ trong khu vực

kinh tế nhà nƣớc, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nƣớc giảm nhanh qua các

năm từ 2006- nay. Bên cạnh đó, xét về cơ cấu vốn trong tổng vốn đầu tƣ xã hội thì khu

54

vực này cũng giảm dần.

Bảng 2.9. Vốn đầu tƣ theo giá so sánh phân theo ngành kinh tế (tỷ đồng)

Năm 2006 2007 2008

Tổng 243,3 309,1 328,8

Khu vực NN 126,6 131,9 110,3

Ngoài NN 72,9 92,5 104,5

FDI 43,8 84,7 114,0

Cơ cấu (%)

Khu vực NN 52,04 42,67 33,55

Ngoài NN 29,96 29,93 31,78

FDI 18,00 27,40 34,67

Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt 2008, GSO.

Theo bảng trên ta thấy tổng số vốn đầu tƣ của khu vực kinh tế nhà nƣớc giảm từ

126,6 tỷ đồng năm 2006 xuống còn 110,3 tỷ đồng năm 2008. Trong khi đó, cơ cấu vốn

của khu vực này trong tƣơng quan với các khu vực khác cũng giảm đáng kể: từ chỗ chiếm

trên 50% tổng vốn đầu tƣ xã hội năm 2006 xuống còn 33,55% năm 2008. Nhƣ vậy, vẫn

tiếp tục đà cải cách và sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nƣớc, nguồn vốn và cơ cấu vốn

của khu vực này giảm dần qua các năm, dần tập trung vào một số ngành, lĩnh vực quan

trọng của ngành kinh tế.

* Đóng góp của các DNNN vào GDP

Với những nguồn lực mà khu vực kinh tế nhà nƣớc đƣợc sử dụng, chúng ta hãy xem

khu vực này đóng góp nhƣ thế nào vào GDP của đất nƣớc

Bảng 2.10. Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (%)

Năm 2006 2007 2008

Khu vực NN 37,39 35,93 34,35

Ngoài NN 45,63 46,11 46,97

FDI 16,98 17,96 18,68

Nguồn: Niên giám thống kê 2008, Niên giám thống kê tóm tắt 2009, GSO

Có thể thấy, so với các khu vực khác, đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà

nƣớc không tƣơng xứng với nguồn lực của nó. Năm 2006, vốn đầu tƣ của khu vực này

55

chiếm 52,04% tổng số vốn đầu tƣ của xã hội, nhƣng chỉ đóng góp có 37,39% vào GDP.

Trong khi đó, khu vực ngoài nhà nƣớc chỉ chiếm 29,93% tổng số vốn đầu tƣ nhƣng lại

đóng góp 45,63% vào GDP. Tƣơng tự nhƣ vậy, trong cả 4 năm gần đây, số vốn đầu tƣ tại

khu vực DNNN luôn chiếm tỷ trọng lớn hơn khu vực ngoài nhà nƣớc, nhƣng đóng góp

vào GDP lại nhỏ hơn khá nhiều.

* Đóng góp vào ngân sách nhà nước.

Đóng góp của các DNNN vào ngân sách nhà nƣớc giảm dần theo các năm: từ

16,58% trong tổng thu ngân sách nhà nƣớc năm 2006 xuống còn 15,94% năm 2007. So

với khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài thì đóng góp của các

DNNN vào ngân sách nhà nƣớc chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng thu ngân sách quốc

gia. Theo số liệu của Tổng cục thống kê thì khu vực ngoài quốc doanh năm 2006 đóng

góp 7,9% và tăng lên 9,87% năm 2007; còn khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đóng góp

tƣơng ứng là 9,25% và 9,94% vào tổng thu ngân sách của cả nƣớc [1]. Nhƣ vậy với

những nguồn lực đƣợc ƣu đãi hơn so với các khu vực khác thì các doanh nghịêp nhà nƣớc

cũng đóng góp phần lớn hơn cả vào tổng thu ngân sách của nhà nƣớc.

* Bảo vệ môi trường

Trong những năm gần đây, ngƣời ta nhắc nhiều đến phát triển doanh nghiệ bền

vững, trong đó có vấn đề bảo vệ môi trƣờng. Đối với vấn đề nà thì hầu hết các doanh

nghiệp của Việt Nam đều chƣa thực hiện tốt. Trong đó, khu vực làm ô nhiễm môi trƣờng

nặng nề nhất là khu vực ngoài nhà nƣớc, chiếm tới 80% tổng mức làm ô nhiễm môi

trƣờng, khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài góp 11% làm ô nhiễm môi trƣờng, còn khu vực

các DNNN chỉ 9%. Nhƣ vậy cũng có thể thấy, vấn đề bảo vệ môi trƣờng cũng đƣợc các

DNNN chú trọng. Trong tƣơng lai, khi các doanh nghiệp xây dựng đƣợc kế hoạch phát

triển bền vững, cộng với những nỗ lực của chính phủ nhằm bảo vệ môi trƣờng thì tình

hình ô nhiễm nghiêm trọng nhƣ hiện nay ở Việt Nam có thể đƣợc cải thiện hơn.

* Tham gia hoạt động an sinh xã hội.

Thực hiện an sinh xã hội không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi để đảm bảo cho

chính doanh nghiệp phát triển. Thực hiện an sinh xã hội là cách thức hiện thực hoá định

hƣớng phát triển kinh tế – xã hội của đất nƣớc: tăng trƣởng kinh tế gắn liền với công bằng

xã hội; Đối với doanh nghiệp nhà nƣớc thực hiện an sinh xã hội là một cách thức để giữ

56

vững vai trò của mình đối với các thành phần kinh tế. Nhƣ chúng ta đã biết, quan điểm

tổng quát về phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam là: tăng trƣởng

kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Đồng thời, xác định vai trò chủ đạo của thành phần

kinh tế nhà nƣớc trong quá trình thực hiện nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ

nghĩa. Để hiện thực hoá quan điểm này trong cuộc sống thì việc thực hiện an sinh xã hội

của các doanh nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng. Thực tế cho thấy, trong những năm

qua, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp lớn của Nhà nƣớc, nhƣ: Ngân hàng Đầu tƣ

và Phát triển Việt Nam (BIDV); Ngân Hàng Công Thƣơng Việt Nam (Viettinbank); Tập

đoàn Dầu khí quốc gia; Công ty Viễn thông quân đội (Vietel)… đã xác định, thực hiện an

sinh xã hội chính là sự nghiệp của chính bản thân doanh nghiệp. Bên cạnh nhiệm vụ kinh

doanh, các doanh nghiệp này đã luôn đề cao vai trò, trách nhiệm thực hiện an sinh xã hội

của mình đối với ngƣời lao động và cộng đồng…Tuy nhiên, đối với khối doanh nghiệp

vừa và nhỏ, nhất là ở khu vực tƣ nhân…việc chủ động quan tâm thực hiện tốt an sinh xã

hội vẫn là điều lạ lẫm đối với không ít doanh nghiệp. Điều này có thể xuất phát từ 2

nguyên nhân chính: nhận thức hoặc khó khăn về tài chính của bản thân các doanh nghiệp.

Vấn đề các doanh nghiệp nợ đọng lƣơng, đóng BHXH cho ngƣời lao động… đang rất báo

động. Theo báo cáo của BHXH Việt Nam, tính đến hết ngày 31/12/2008, tổng số tiền nợ

BHXH gần 1.900 tỷ đồng. Trên thực tế cho thấy, việc doanh nghiệp không quan tâm đến

quyền lợi của ngƣời lao động, “quỵt” tiền đóng BHXH cho ngƣời lao động; buộc ngƣời

lao động làm việc đến kiệt sức hoặc không có giải pháp giúp họ tái tạo sức lao động của

mình; …là điều hoàn toàn xa lạ với trách nhiệm của doanh nghiệp trong thực hiện an sinh

xã hội, đồng thời làm cản trở quá trình thực hiện các mục tiêu: tăng trƣởng kinh tế gắn

liền với công bằng xã hội và xác lập vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nƣớc ở

Việt Nam hiện nay.

2.3. Đánh giá sự phát triển DNNN ở Việt Nam

2.3.1. Năng lực cạnh tranh của khu vực DNNN được cải thiện

Khi nền kinh tế đã bắt đầu ra khỏi khủng hoảng và phục hồi trở lại, các doanh

nghiệp sở hữu thƣơng hiệu có giá trị dù là lớn hay nhỏ, sẽ có vị thế lớn hơn trong việc

giữ vững và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhận thức đƣợc vai trò quan trọng

của thƣơng hiệu, ngày càng nhiều DNNN đã đầu tƣ cho việc xây dựng chiến lƣợc thƣơng

57

hiệu. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp vƣợt qua khó khăn trong năm 2009 vẫn tiếp

tục các kế hoạch phát triển thƣơng hiệu của mình đã đƣợc xây dựng trƣớc đó. Các giá trị

đổi mới, sáng tạo, đƣợc các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm, nhằm “khắc sâu” vào cảm

nhận của ngƣời tiêu dùng nhƣ Vietinbank, doanh nghiệp 6 năm liền đạt giải Thƣơng hiệu

mạnh vẫn tiếp tục các chƣơng trình quảng bá thƣơng hiệu theo hệ thống nhận diện mới,

đƣợc thiết kế và khởi động từ tháng 4/2008; Vietcombank, Agribank, May 10, May Việt

Tiến, Bóng đèn, phích nƣớc Rạng Đông, Giầy Thƣợng Đình, …đều là những “hàng Việt

Nam chất lƣợng cao”, đƣợc ngƣời tiêu dùng trong nƣớc và quốc tế ƣa chuộng. Vinacafe

có thêm các hoạt động quảng bá sản phẩm tại thị trƣờng Mỹ, Anh, Nhật Bản, Thái

Lan…Giải pháp thƣơng hiệu có hiệu quả đang ít nhiều đã giúp các doanh nghiệp nắm bắt

đƣợc những cơ hội, đƣa hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào ổn định trong năm vừa qua,

thậm chí nhiều đơn vị còn tạo ra những bƣớc phát triển vƣợt bậc. Nổi bật trong 120 doanh

nghiệp đạt Thƣơng hiệu mạnh năm 2009, Cienco 5 (Tổng công ty Xây dựng công trình

giao thông 5) có tỷ suất lợi nhuận trên vốn tới 73%. Trong năm vừa qua, doanh nghiệp

này đảm nhận 850 công trình lớn nhỏ với tổng giá trị hơn 10 nghìn tỷ đồng. Tổng công ty

Thƣơng mại Hà Nội - Happro đạt mức tăng trƣởng doanh thu tới 218%...

Hầu hết các T ĐKT nhà nƣớc đều nắm giữ những vị trí trọng yếu trong mỗi ngành

và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đây là công cụ vật chất quan trọng để Nhà nƣớc

thực hiện các điều tiết và hƣớng dẫn nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng XHCN. Tập

đoàn Dầu khí Việt Nam là doanh nghiệp cung cấp phần lớn các mặt hàng thiết yếu nhƣ:

phân đạm, khí hóa lỏng, điện. Tập đoàn Than- Khoáng sản Việt Nam cung cấp trên 97%

tổng lƣợng than tiêu thụ trong nƣớc. Tập đoàn điện lực cung cấp cho nền kinh tế 94% sản

lƣợng với hệ thống phân phối tới 100% các huyện trên toàn quốc; Tập đoàn Dệt may là

đơn vị trọng yếu trong ngành dệt may, với 18% doanh thu xuất khẩu toàn ngành, trong đó

nhiều loại mặt hàng chiếm tỷ trọng cao nhƣ: sợi, vải chiếm trên 30%, bông chiếm trên

90%. Đặc biệt, tỷ trọng những mặt hàng cao cấp của dệt may Việt Nam chủ yếu do

Vinatex nắm giữ. Kim ngạch xuất khẩu của tập đoàn năm 2009 đạt 1,7 tỷ USD.[1,86]

*Hiệu quả hoạt động của DNNN được nâng cao hơn trước

Hiệu quả hoạt động của khu vực DNNN sau 20 năm đã đƣợc nâng cao hơn so với

58

trƣớc đó.

+ Các chỉ tiêu hiệu quả của DNNN được cải thiện. Năm 1998 số DNNN làm ăn có

lãi và hoà vốn trong tổng số chỉ là 40%, năm 2002 là 76,9%, năm 2004 là gần 90%. Năm

2000, tỷ lệ nộp ngân sách của DNNN là 6,92% so với doanh thu, đến năm 2002 tỷ lệ này

tăng lên 9,27%. Tỷ suất lợi nhuận ở các DNNN cũng đã tăng lên phản ánh hoạt động của

DNNN đã có hiệu quả hơn: tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN năm 2000 là 2,35%,

năm 2003 tăng lên 2,9%; tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu tƣơng ứng là 3,95% và 4,18%.

Những con số này cho thấy những biện pháp cải cách các DNNN đã mang lại kết quả khả

quan, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Nợ xấu của DNN đã đƣợc xử lý một

phần. Theo kết quả thống kê, đến hết quý I/2003, tổng số nợ tồn đọng của DNNN là 3.645

tỷ đồng, đã xử lý đƣợc 2.728 tỷ đồng. Tính đến 2008, hầu hết các DNNN đều làm ăn có

lãi, chỉ có 109 doanh nghiệp thua lỗ, chiếm 7,1% số doanh nghiệp có báo cáo.[1,90]

* Quy mô của DNNN tăng lên

Sự tăng lên của quy mô DNNN thể hiện ở nguồn vốn bình quân trong các DNNN

tăng lên, quy mô lao động của khu vực này cũng tăng so với trƣớc.

+ Nguồn vốn của các DNNN tăng lên. Số lƣợng DNNN có số vốn nhỏ hơn 5 tỷ

giảm, đặc biệt là các DN có số vốn nhỏ hơn 1 tỷ giảm mạnh, số doanh nghiệp có vốn trên

5 tỷ tăng, trong đó số DN có vốn trên 500 tỷ tăng từ 223 DN năm 2000 lên đến 260 DN

năm 2002, năm 2003 là 310 DN. Vốn bình quân của DNNN tăng lên, từ 145,9 tỷ

đồng/doanh nghiệp năm 2001 lên tới 265,1 tỷ đồng năm 2004 và 327,5 tỷ đồng năm

2005.

Bảng 2.11. Phân bổ tín dụng cho nền kinh tế

Đơn vị: %

Tín dụng cho các KV của 1991 1995 2000 2005 2007 2008 2009 nền KT

Tín dụng cho DNNN 90,0 57,0 44,9 51,2 47,1 41,8

Tín dụng cho DNNQD 10,0 43,0 45,1 48,8 52,9 58.2

Tổng số 100 100 100 100 100 100

59

Nguồn: Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam, Báo cáo thường niên, 1991, 1995, 2000, 2005

Bảng trên cho ta thấy nguồn vốn cho các DNNN đã giảm đi hơn một nửa trong thời

kỳ 1991- 2009, từ 90 % tổng vốn cho nền kinh tế xuống còn 41,8% năm 2008. Mặc dù

nguồn vốn rót xuống các DNNN của Nhà nƣớc giảm đi nhƣng quy mô nguồn vốn của

các DNNN không ngừng tăng lên trong thời gian này nhƣ đã chỉ ra ở trên cho thấy nguồn

vốn của DNNN đƣợc huy động từ các nguồn khác nhau chứ không chỉ trông chờ từ vốn

nhà nƣớc. Điều này chứng tỏ các DNNN đã tự chủ hơn về vốn, nguồn vốn đa dạng hơn

làm tăng hiệu quả sử dụng vốn.

+ Quy mô lao động trong khu vực DNNN tăng. Trong giai đoạn cải cách, số lƣợng

lao động trong các DNNN tăng lên. Giai đoạn từ 1986 đến 1994, nhìn chung xu hƣớng

của lao động trong các DNNN giảm, nhƣng từ những năm 1995 trở lại đây thì quy mô lao

động trong các DNNN có xu hƣớng tăng lên, mặc dù các DNNN đã giảm đáng kể về mặt

số lƣợng. Điều này chứng tỏ quy mô lao động của các DNNN đã tăng lên so với giai

đoạn trƣớc.

Hình 2.5. Số lƣợng lao động trong khu vực DNNN

Đơn vị: Nghìn người

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, Niên giám thống kê tóm tắt 2009, và Nghiên cứu

so sánh đổi mới kinh tế ở Việt Nam và cải cách kinh tế của Trung Quốc, GS.TS Lê Hữu

60

Tầng, GS Lƣu Hàm Nhạc và mô tả của tác giả.

Số lao động trong khu vực kinh tế nhà nƣớc giảm trên 50% trong quá trình đổi mới:

Từ 3 971 nghìn ngƣời năm 1986 xuống còn 1 710,7 nghìn ngƣời năm 2008. Điều này là

do trong quá trình cải cách DNNN, số lƣợng DNNN đã giảm đi hơn 1 nửa, kéo theo lao

động trong khu vực này cũng giảm. Mặc dù vậy, hiệu quả của lao động trong các DNNN

cũng đƣợc nâng cao, sản lƣợng do lực lƣợng lao động trong khu vực này vẫn chiếm

khoảng 40% trong tổng sản phẩm của cả xã hội. Tuy nhiên, đó chỉ mới là bề nổi của vấn

đề, quan trọng hơn là hiệu quả của lao động trong khu vực DNNN thì còn kém hiệu quả

hơn rất nhiều so với các khu vực còn lại của nền kinh tế, do đặc tính về sự tách rời giữa

quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn nhà nƣớc đã dẫn đến tình trạng này. Đặc biệt là

trong những năm gần đây, chất lƣợng nguồn lực trong khu vực các DNNN bộc lộ khá

nhiều hạn chế: năng lực quản lý yếu kém, tham nhũng…. là hiện tƣợng khá phổ biến gây

những bức xúc trong dƣ luận .

*Khả năng cạnh tranh của hàng hoá của DNNN được cải thiện

Trải qua 20 năm đổi mới, những nỗ lực cải cách DNNN nhằm tăng khả năng cạnh

tranh của doanh nghiệp đã mang lại kết quả khả quan.

Cơ chế quản lý của Nhà nƣớc với các DNNN đã có những thay đổi tích cực theo

hƣớng trao quyền tự chủ cho DN, nhà nƣớc không còn quản lý DNNN bằng các chỉ tiêu

kế hoạch… Điều này làm cho doanh nghiệp chủ động hơn trong các hoạt động sản xuất

kinh doanh của mình. Cơ chế bao cấp vốn cũng dần đƣợc xoá bỏ. Bƣớc đổi mới cơ chế

quản lý DNNN phù hợp với cơ chế thị trƣờng: xác lập tƣ cách pháp lý đối với DNNN là

một tổ chức độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh;

DNNN đƣợc thƣơng mại hoá, định hƣớng theo thị trƣờng: cơ chế tài chính của DNNN đã

chuyển sang tự chủ, tự chịu trách nhiệm, xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nƣớc. Những

thay đổi này làm cho DNNN có quyền tự chủ, hoạt động nhƣ một chủ thể kinh doanh độc

lập trong kinh tế thị trƣờng. Đây là tiền đề để các DNNN thích nghi đƣợc với cơ chế thị

trƣờng đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trong nền kinh tế.

Mô hình TCT Nhà nƣớc hoạt động với quy mô lớn, làm tăng khả năng cạnh tranh

cho khu vực DNNN; mô hình tập đoàn kinh tế phát triển tạo nên một tiềm lực mạnh mẽ

61

cho khu vực này có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Năng suất, chất lƣợng,

hiệu quả của khu vực DNNN đã đƣợc nâng cao hơn trƣớc giúp nó có thể cạnh tranh tốt

hơn với các khu vực khác.

Khả năng cạnh tranh của khu vực DNNN đã đƣợc nâng cao so với giai đoạn trƣớc.

Tuy nhiên, so với yêu cầu của phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế thì khu vực này vẫn

chƣa đáp ứng đƣợc. Trong những năm sắp tới, tính cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng

trở nên gay gắt hơn khi Việt Nam tham gia vào WTO, bắt buộc các DNNN phải nâng cao

hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình mới có thể tồn tại và phát triển đƣợc. Điều này

thể hiện ở chỗ chi phí sản xuất trong khu vực DNNN cao, giá thành cao. Trong bối cảnh

hội nhập, vai trò của DNNN đƣợc kỳ vọng là đầu tàu trong cạnh tranh và đƣợc ƣu đãi rất

nhiều vì mục tiêu này, nhƣng trên thực tế thì DNNN lại tỏ ra rất yếu kém về năng lực

cạnh tranh so với các khu vực khác trong nƣớc, các doanh nghiệp nƣớc ngoài. Khả năng

cạnh tranh yếu của DNNN đƣợc thể hiện ngay ở thị trƣờng trong nƣớc: ở những ngành có

khả năng sinh lợi, thị phần của DNNN có xu hƣớng giảm sút nhƣờng chỗ cho khu vực có

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và khu vực ngoài quốc doanh…Khả năng cạnh tranh yếu kém của

DNNN trong điều kiện Việt Nam đang và sẽ thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc

tế, sẽ là một thách thức lớn của khu vực này trong quá trình phát triển. Năng suất lao

động của DNNN Việt Nam còn tƣơng đối thấp, năm 2000 mới đạt khoảng 832 USD, thấp

hơn Indonexia (1.705 USD), Trung Quốc (1.517 USD), Thái Lan (3.701 USD),

Philippine (2.690 USD). Trong các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tƣ

nƣớc ngoài có năng suất lao động cao nhất, gấp 2 lần so với DNNN.

Giá bán một số sản phẩm trong nƣớc của DNNN sản xuất cao hơn giá nhập khẩu: xi

măng 115%, giấy in 127, phôi thép 125%, đƣờng mía 140%, giá điện bán cho công ty

nƣớc ngoài, cƣớc phí vận tải biển, cƣớc phí điện thoại quốc tế…của Việt Nam cao hơn

hầu hết các nƣớc trong khu vực, gấp 2-3 lần nƣớc có mức giá trung bình. Những con số

trên cho thấy sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của DNNN nói riêng còn rất

yếu. Báo cáo về “Sức cạnh tranh của nền kinh tế toàn cầu 2001-2002” tại Diễn đàn kinh

tế thế giới xếp hạng năng lực cạnh tranh của 75 nƣớc, trong đó kinh tế Việt Nam xếp thứ

60, doanh nghiệp Việt Nam xếp thứ 62. Thêm vào đó, vẫn còn nhiều DNNN có trình độ

công nghệ dƣới mức trung bình của thế giới và khu vực, máy móc thiết bị, dây chuyền

62

sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, 38% số tài sản cố định chờ thanh lý;

nhiều sản phẩm có chi phí tiêu hao nguyên liệu, vật liệu, khấu hao, tiền lƣơng,… cao, do

dó thiếu sức cạnh tranh.

Bên cạnh đó, cũng có không ít các sản phẩm có ƣu thế về giá so với các sản phẩm từ

nƣớc ngoài do có những điều kiện tự nhiên ƣu đãi nhƣng do không hiểu các luật lệ về giá

cả trên thị trƣờng thế giới cũng nhƣ thiếu kinh nghiệm trong giao dịch với nƣớc ngoài

nên không ít trƣờng hợp bị thua thiệt khi xuất khẩu hàng hoá ra nƣớc ngoài.

Nhìn chung, nhiều DNNN chƣa phát huy cao nhất nội lực và lợi thế so sánh của đất

nƣớc và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế để tạo ra những sản phẩm mũi nhọn có hàm

lƣợng chất xám và công nghệ cao đủ sức cạnh tranh trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc

tế; còn thiếu chủ động chuẩn bị để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế Tuy nhiên, tình

hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nƣớc và quốc tế luôn biến động không ngừng, đặc

biệt là việc Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2006 và việc thực hiện các cam kết WTO

đặt ra những thách thức vô cùng to lớn cho nền kinh tế, đặc biệt là khu vực các doanh

nghiệp nhà nƣớc, nơi mà đƣợc đánh giá là hoạt động kém hiệu quả.

2.3.2. Tính minh bạch thông tin của khu vực DNNN.

Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các

hoạt động của khu vực DNNN bƣớc đầu đƣợc minh bạch hoá. Chƣơng trình CPH là một

trong những giải pháp quan trọng nhằm cải cách, sắp xếp lại và nâng cao hiệu qủa hoạt

động của DNNN. Việt Nam đã khẳng định chủ trƣơng nhất quán về phát triển nền kinh tế

nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế tƣ nhân và đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc khuyến

khích phát triển lâu dài và cạnh tranh bình đẳng với các thành phần khác. Đồng thời, Việt

Nam đã công bố công khai kết qủa thực hiện chƣơng trình này trong từng giai đoạn cũng

nhƣ số lƣợng, cơ cấu các loại hình doanh nghiệp sau mỗi giai đoạn thực hiện chƣơng trình

CPH và tiến hành minh bạch hóa các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến khái

niệm, phạm vi, thủ tục cổ phần hóa; các lĩnh vực và tỷ lệ tham gia cổ phần của nhà đầu tƣ

nƣớc ngoài trong các doanh nghiệp cổ phần hóa; cơ chế định giá, bán cổ phần, bổ nhiệm

cán bộ quản lý của DNNN thực hiện CPH; vai trò của chủ sở hữu nhà nƣớc đối với

DNNN cũng nhƣ cơ chế tổ chức, hoạt động của loại hình doanh nghiệp này sau khi thực

63

hiện cổ phần hóa...

Đồng thời với việc mô tả hiện trạng chính sách và quy định cụ thể về CPH, Việt

Nam cam kết đảm bảo minh bạch hóa toàn bộ chƣơng trình cổ phần hóa đang thực hiện.

Theo đó, từ thời điểm gia nhập WTO và trong thời gian chƣơng trình này vẫn còn đƣợc

thực hiện. Bên cạnh đó, Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế -xã hội nói chung và về

tiến trình cải cách DNNN nói riêng luôn đƣợc các cơ quan chính phủ thực hiện hàng năm

và công bố công khai cho tổ chức, cá nhân trong cũng nhƣ ngoài nƣớc. Hầu hết các tổ

chức phát triển, định chế tài chính, ngân hàng quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam (nhƣ

UNDP, WB, IMF, ADB, IFC...) đều thực hiện các báo cáo độc lập của họ về vấn đề này.

Việc bán cổ phầnđều thực hiện công khai theo hình thức đấu giá tại các doanh nghiệp hay

đấu giá tại các công ty tài chính trung gian hoặc tại một trung tâm giao dịch chứng khoán.

Về cơ bản, các DNNN sau khi CPH đều hoạt động theo Luật Doanh nghiệp hiện

hành, DNNN tự chịu trách nhiệm về các hoạt động và sự sống còn của mình, có toàn

quyền tự chủ trong việc tiến hành các hoạt động kinh doanh và có thể ra quyết định về các

vấn đề có liên quan đến doanh nghiệp, kể cả vấn đề về chế độ lƣơng bổng cho ngƣời lao

động mà không phụ thuộc vào bất kỳ sự can thiệp nào của nhà nƣớc. Các DNNN tự chịu

trách nhiệm đóng thuế, tiến hành kinh doanh và sử dụng các nguồn vốn đầu tƣ có hiệu

quả. Việc sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nhà nƣớc đƣợc xác định căn cứ vào lợi

nhuận mà DNNN thu đƣợc qua quá trình sản xuất kinh doanh. Các DNNN tự tìm kiếm thị

trƣờng của mình, tự tìm khách hàng, tự định giá cho sản phẩm dịch vụ của mình mà

không chịu sự can thiệp trực tiếp từ nhà nƣớc.

Nhà nƣớc không tham gia vào việc định giá tài sản của DNNN. Việc định giá tài sản

do các tổ chức tƣ vấn, các trung tâm định giá theo cơ chế thị trƣờng và thông qua hình

thức đấu giá. Việc mua bán tài sản DNNN là do doanh nghiệp tự quyết định và thông tin

qua đấu thầu cạnh tranh. Việc định giá quyền sử dụng đất đƣợc áp dụng nhƣ việc định giá

tài sản của doanh nghiệp và đƣợc thực hiện thông qua luật đất đai và các quy định của

Chính phủ về biểu giá. Thủ tục định giá quyền sở hữu đất đƣợc áp dụng thống nhất cho

các DNNN và doanh nghiệp tƣ nhân.

Các DNNN đều tuân thủ các thủ tục nhiệm vụ kế toán, báo cáo tài chính và thống kê

theo Luật và theo yêu cầu của chủ sở hữu đại diện nhà nƣớc, phải tuân thủ các tiêu chuẩn

64

kế toán giống nhƣ các doanh nghiệp khác. Những tiêu chuẩn này đƣợc xây dựng phù hợp

với tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Các DNNN phải chịu trách nhiệm về độ tin cậy và tính

pháp lý của các hoạt động tài chính của mình. Các cơ quan nhà nƣớc phải công khai các

thông tin tài chính của mình cho các cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền nhận các

báo cáo tài chính và các bên có liên quan. Kết quả kiểm toán và kết quả giám sát của các

cơ quan chức năng tại các DNNN bƣớc đầu đã đƣợc công khai trên các phƣơng tiện

thông tin. Đặc biệt trong các kỳ họp Quốc hội, đã diễn ra đối thoại trực tiếp với Quốc hội,

với Chính phủ về DNNN nói chung, về các TĐKT nói riêng hƣớng tới sử dụng ngân sách

nhà nƣớc lành mạnh hơn.

2.3.3 DNNN trở nên thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh tế hơn

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu bùng nổ vào năm 2007 bằng sự đổ vỡ của

thị trƣờng tài chính Mỹ - Nó đã gây ra những ảnh hƣởng to lớn đối với hầu khắp các nƣớc

trên thế giới cho đến tận năm 2010 và nền kinh tế thế giới vẫn chƣa có dấu hiệu phục hồi

thực sự. Khủng hoảng tài chính 2007-2010 là một cuộc khủng hoảng bao gồm sự đổ vỡ

hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá chứng khoán và

mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nƣớc trên thế giới, có nguồn gốc từ khủng hoảng tài

chính ở Hoa Kỳ. Bong bóng nhà ở cùng với giám sát tài chính thiếu hoàn thiện ở Hoa Kỳ

đã dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính ở nƣớc này từ năm 2007, bùng phát mạnh từ

cuối năm 2008. Thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói chung mật thiết của

Hoa Kỳ với nhiều nƣớc. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã lan rộng ra nhiều nƣớc trên thế

giới, dẫn tới những đổ vỡ tài chính, suy thoái kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trƣởng kinh tế

ở nhiều nƣớc trên thế giới. Trƣớc tình trạng đó, rất nhiều nƣớc chịu tác động tiêu cực từ

cuộc khủng hoảng đã cắt giảm nhập khẩu, thu hẹp thị trƣờng và tìm cách tận dụng thị

trƣờng nội địa nhằm làm giảm tác động từ khủng hoảng. Điều này làm cho thị trƣờng xuất

khẩu của Việt Nam vào thị trƣờng thế giới giảm mạnh. Để đứng vững và vƣợt qua giai

đoạn khó khăn này, các doanh nghiệp, trong đó có các DNNN phải tìm các biện pháp hữu

hiệu đối phó với khủng hoảng. Khu vực DNNN cũng đã tìm ra cho mình những con

đƣờng hiệu quả để vẫn có thể đứng vững trong giai đoạn suy thoái kinh tế.

65

* Tận dụng thị trường nội địa

Đặt vấn đề doanh nghiệp doanh nghiệp nói chung và các DNNN quay lại thị trƣờng

nội địa lúc này là đúng, hƣớng đi này cũng không có gì phải bàn cãi. Trong 7 tháng đầu

năm 2009, xuất khẩu suy giảm mạnh và nhiều thị trƣờng xuất khẩu gặp khó khăn, chính

nhờ thị trƣờng nội địa mà chúng ta giữ đƣợc mức tăng trƣởng kinh tế tƣơng đối. Về lâu

dài, các daonh nghiệp phải suy nghĩ để quay về thị trƣờng nội địa một cách vững chắc.

Nói vậy không có nghĩa là chúng ta bỏ xuất khẩu, vì cả 2 hƣớng đi đều quan trọng. Trong

dài hạn, quy mô của thị trƣờng nội địa là vô cùng lớn, vậy nên tốt nhất, doanh nghiệp phải

tự định hƣớng cho mình, nguồn lực nào dành cho xuất khẩu, nguồn lực nào để dành phát

triển thị trƣờng nội địa. Dĩ nhiên, không phải cứ khó khăn hay khủng hoảng là Doanh

nghiệp có thể ngay lập tức quay về thị trƣờng nội địa mà thành công, quá trình xây dựng

này phải lâu dài và vững chắc, hãy cố gắng nỗ lực bằng chính nội lực của doanh nghiệp.

Vinatex cũng là một ví dụ điển hình thành công cho hƣớng đi này: xuất khẩu mạnh và

phát triển thị trƣờng nội địa một cách song song, hiện họ đã có chỗ đứng của mình ở cả

hai nơi.

*Đẩy mạnh tái cấu trúc DNNN.

Tái cấu trúc doanh nghiệp là quá trình khảo sát, đánh giá lại cấu trúc hiện tại và đề

xuất giải pháp cho mô hình cấu trúc mới nhằm tạo ra “trạng thái” tốt hơn cho doanh

nghiệp nhằm thực hiện những mục tiêu đề ra trong những điều kiện, hoàn cảnh luôn thay

đổi. Mục tiêu chung của tái cấu trúc là đạt đƣợc một “thể trạng tốt hơn” cho doanh nghiệp

để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả dựa trên những nền tảng vê sứ mệnh, tầm nhìn, định

hƣớng chiến lƣợc sẵn có của doanh nghiệp. Tái cấu trúc trong khủng hoảng là cần thiết và

hợp lý với nhiều góc độ: đổi mới trang thiết bị khi giá đang rẻ, sắp xếp lại tổ chức, đào tạo

nhân lực, tiếp tục đầu tƣ... Tái cấu trúc có những nguyên tắc chung và mỗi doanh nghiệp

phải có một cách làm riêng dựa trên những khó khăn và thế mạnh của chính mình.

Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua hơn hai mƣơi năm của quá trình đối mới. Ở cả

DNNN và doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nhu cầu tái cấu trúc doanh nghiệp đã trở thành

cấp bách.

Với các DNNN, tình trạng làm ăn kém hiệu quả đã xảy ra ngày càng nhiều. Cơ chế

66

chủ quan đã ngày càng bộc lộ những nhƣợc điểm lớn kìm hãm sự phát triển của nền kinh

tế quốc dân. Vì vậy, đa dạng hoá sở hữu của DNNN đã trớ thành một nhu cầu cấp bách.

Giao, bán, khoán, cho thuê và cổ phần hoá các DNNN là chú trƣơng đã đƣợc thực hiện

trong những năm vừa qua. Đó chính là biếu hiện sinh động của việc tái cấu trúc DNNN.

Sau hơn 20 năm kiên trì thực hiện, quá trình cải cách DNNN đã thu đƣợc kết quả cụ

thể nhƣ hình thành khá đồng bộ khung pháp luật, chính sách. Giảm số lƣợng doanh

nghiệp do nhà nƣớc cần nắm giữ 100% vốn điều lệ tại thời điểm cuối năm 2008 chỉ bằng

khoảng 14,3% so với đầu những năm 90 của thế kỷ 20. Cơ cấu đã đƣợc điều chỉnh phù

hợp trong đó DNNN trong lĩnh vực thƣơng mại chiếm 22,4%, tổng số DNNN, công

nghiệp- xây dựng-giao thông vận tải 50,6% và nông lâm ngƣ nghiệp là 25% []. Đặc biệt,

cổ phần hoá (CPH) đã trở thành giải pháp cơ bản và quan trọng trong tái cấu trúc doanh

nghiệp

Việc CPH DNNN đã xác định đƣợc mục tiêu mở rộng khắp các lĩnh vực, mở rộng

đối tƣợng, cho phép sử dụng phƣơng pháp khác nhau để xác định giá trị doanh nghiệp,

khuyến khích việc bán cổ phần ra bên ngoài… . Tính đến 31/12/2008, số doanh nghiệp

100% vốn nhà nƣớc thực hiện CPH chiếm 71% số DNNN đƣợc tái cấu trúc trong đó có

hơn 10 tổng công ty nhà nƣớc và 60 doanh nghiệp có quy mô trên 100 tỷ đồng. Việc cổ

phần hoá đã huy động đƣợc 100.000 tỉ đồng từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nƣớc

mua cổ phần của các DN. Theo số liệu Ban đổi mới và pháp triển DN, năm 2007 hai sở

Giao dịch chứng khoán đã tổ chức đấu giá 96 DNNN với tổng số vốn điều lệ gần 54

nghìn tỷ đồng, số cổ phần bán đƣợc đạt 92% số cổ phần chào bán. Nhà nƣớc thu về phần

chênh lệch 4,56%.

CPH đã chuyển DNNN với cơ cấu đơn sở hữu sang hình thức doanh nghiệp đa sở

hữu với mô hình, cơ cấu tổ chức quản lý điều hành năng động và hiệu quả hơn nhiều

trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, đồng thời tạo điều kiện pháp lý và vật chất cho ngƣời

lao động trong DN nâng cao vai trò làm chủ doanh nghiệp. Đến ngày 31/12/2007 nhà

nƣớc giữ 52% ngƣời lao động, DN 21%, và cổ đông bên ngoài chiếm 27%. Bên cạnh đó,

kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng đƣợc nâng lên cao. Kết quả tổng kết báo cáo

1616 DN có thời gian hoạt động sau CPH trên 1 năm (tính đến 2006), vốn điều lệ tăng

67

58,6% doanh thu tăng 48,2%, lợi nhuận tăng 331,8%, nộp ngân sách tăng 44,2%...

Mặc dù tiến trình CPH các DNNN còn nhiều bất cập. Cụ thể, cơ chế xác định giá

trị DN, đặc biệt giá trị quyền sử dụng đất còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ. Việc quy định bán cho

đối tác chiến lƣợc không thấp hơn giá đấu giá bình quân khi IPO cũng là một bất cập.

Hiện nay chƣa có khuôn khổ pháp lý nào cho các doanh nghiệp sau CPH mà nhà nƣớc

chiếm cổ phần chi phối. Điều này gây lúng túng cho không chỉ các doanh nghiệp đƣợc

CPH mà cả các cơ quan quản lý. Theo quy định Luật DN năm 2005, trong công ty cổ

phần. Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất, có toàn quyền quyết định các

vấn đề của DN từ điều lệ, cơ cấu tổ chức… tuy nhiên trên thực tế công ty cổ phần mà nhà

nƣớc chiếm cổ phần chi phối vẫn “ứng xử” giống nhƣ các DNNN, tình tự chủ trong hoạt

động và độ nhạy trong quyết định quản lý…bị hạn chế. Nhƣng các kết quả trên cũng rất

đáng ghi nhận khi hầu hết các DNNN sau khi CPH đã hoạt động hiệu quả hơn trƣớc

nhiều.

Việc chuyển giao quyền quản lý phần vốn nhà nƣớc tại các DNNN đƣợc CPH từ

các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho Tổng Công ty Đầu tƣ kinh doanh vốn nhà nƣớc

(SCIC) đã tạo điều kiện xoá bỏ cơ chế quan liêu chủ quan và sự phân biệt doanh nghiệp

trung ƣơng với địa phƣơng. Tính đến hết ngày 31/6/2008, SCIC đã nhận bàn giao vốn nhà

nƣớc trên 870 doanh nghiệp với tổng số vốn nhà nƣớc tại thời điểm bản giao trên 8.000 tỷ

đồng.

Ngoài ra hiện nay các DNNN đã bắt đầu thực hiện mua bán nợ xấu để tái cấu trúc

DNNN có hiệu quả. Nợ xấu tại Việt Nam hiện vào khoảng 60.000 - 70.000 tỷ đồng, đa số

nằm trong các ngân hàng nhà nƣớc, con nợ chủ yếu cũng là DNNN. Đây là nguy cơ tiềm

ẩn đe dọa nền kinh tế quốc gia. Mô hình mua bán nợ khả thi ở Việt Nam song hành lang

pháp lý quá thiếu và yếu. tuy vậy, xu hƣớng này của các DNNN cũng là một dấu hiệu tích

cực nhằm đối phó với khủng hoảng và suy thoái kinh tê

Các DNNN cũng đã bƣớc đầu đánh giá lại mô hình kinh doanh của mình, đặt ra

những thách thức với các mô hình kinh doanh hiện hữu của DN trong môi trƣờng kinh

doanh mới, từ đó tạo động lực cho đổi mới mô hình hoạt động. Lãnh đạo DN đã bắt đầu

chú ý tối ƣu hoá tính linh hoạt trong hoạt động của công ty, để giảm chi phí kinh doanh,

68

thích ứng nhanh hơn với những thay đổi trên thị trƣờng

Nhƣ vậy với các biện pháp ứng phó với khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu,

nâng cao hiệu qảu hoạt động của các mình, các DNNN đã đứng vững trƣớc khủng hoảng

và suy thoái kinh tế, không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, làm

tốt nhiệm vụ, vai trò chủ đạo cảu nền kinh tế quốc dân.

2.3.4.DNNN góp phần ổn định kinh tế vĩ mô

Đứng trƣớc “con bão lạm phát” đầu năm 2008, Thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng đã

kêu gọi các doanh nghiệp, đặc biệt là các TCT và các TĐKT lớn cùng chung tay chống

lạm phát. Theo thống kê của Văn phòng chính phủ, các DNNN đã có nhiều hoạt động

nhằm kiềm chế lam phát nhƣ: chƣơng trình bình ổn giá gạo của TCT Lƣơng thực miền

Bắc, TCT Lƣơng thực miền Nam; những nỗ lực giảm cƣớc viên thông 13-14% của TCT

Viễn thông Quân đội Viettel; Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã không tăng giá điện theo

đúng lộ trình khi sản lƣợng điện mua vào tăng, giá mua cao, giá nguyên vật liệu đầu vào

đều tăng đã phải lấy lợi nhuận của các đơn vị trong tập đoàn để bù lỗ với số tiền lên đến

6.300 tỷ đồng; Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam cũng không tăng giá bán than

cho 4 hộ tiêu thụ điện lớn là điện, đạm, giấy, xi măng theo đúng lộ trình để giảm bớt chi

phí đầu vào cho mặt hàng quan trọng này, góp phần bình ổn giá cả thị trƣờng và kiểm

soát lạm phát. Các DNNN khác đã thực hành tiết kiệm (tiết kiệm điện năng, các chi phí

không sản xuất, sử dụng hiệu quả vốn vật chất) để giảm chi phí trong hoàn cảnh lãi suất

vay vốn tăng cao.

Hộp 2.1 Tập đoàn dầu khí Việt Nam chung tay kiềm chế lạm phát

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã đưa ra các biện pháp cụ thể hạn chế sự tăng giá

như: Kiểm soát giá một số sản phẩm chính của tập đoàn thông qua việc chống đầu cơ bất

động sản, mua bán sang tay trên hóa đơn các loại hàng hóa nhạy cảm như phân đạm,

xăng dầu, khí hóa lỏng… Cân đối xác định nhu cầu thị trường đối với các mặt hàng

chiến lược như xăng dầu, khí đạm bảo đảm không tăng giá các mặt hàng Tập đoàn đã

chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch nhập khẩu với số lượng lớn dài hạn để đáp ứng

nhu cầu bình ổn giá cả thị trường; sắp xếp các đơn vị kinh doanh xăng dầu thành một đơ

69

vị thống nhất đủ sức cạnh tranh trên thị trường đối với sản phẩm phân đạm, hoàn thiện

việc triển khai phân phối đến tận tay người tiêu dung, thực hiện chính sách một giá trên

toàn quốc. Tăng cường nhập khẩu từ các đối tác thân thuộc với chi phí được chiết khấu,

sản xuất và phân phối đạm chiếm 70 % thị trường trong nước. Tập đoàn Dầu khí nắm

quyền quyết định giá, nhằm kiểm soát và bình ổn giá đạm trên cơ sở bảo đảm tỷ suất lợi

nhuận hợp lý trong sản xuất phân đạm giá bán ra phải thấp hơn 10-15% giá thi trường.

Đối với mặt hàng khí hóa lỏng, phấn đấu đạt sản lượng sản xuất và nhập khẩu đảm bảo

cung cấp cho 65-70% thị trường.

Không chỉ bình ổn giá cả, để đảm bảo sản xuất, Tập đoàn còn tiến hành hỗ trợ

vốn cho các đơn vị sản xuất thông qua các định chế tài chính ( Tập đoàn bảo lãnh bằng

nguồn tiền tiền ủy thác quản lý vốn cho các định chế tài chính cho vay vốn với lãi suất ưu

Nguồn: www: nguoidaibieu.com.vn ngày 05/04/2008

đãi),…

Tham gia bình ổn thị trƣờng, các tập đoàn sản xuất kinh doanh những sản phẩm,

dịch vụ thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân nhƣ trong 6 tháng đầu năm đã không

tăng giá bán hàng hóa, đồng thời đẩy mạnh sản xuất đảm bảo nguồn hàng. Những nỗ lực

của các doanh nghiệp cùng với những giải pháp chính sách của chính phủ đã “hạ nhiệt”

đƣợc nền kinh tế từ giữa năm 2008.

Những biến động bất thƣờng của tỷ giá VND/USD vào tháng 3 – 6/2008 Cùng với

những giải pháp đƣợc đánh giá là khá mạnh tay của Ngân hàng nhà nƣớc với việc tăng tỷ

giá công bố, giảm biên độ giao dịch kết hợp với tăng lãi suất cơ bản trong cuối năm 2008

nhằm để tỷ giá VND/USD đƣợc phản ánh chính xác hơn theo những tín hiệu cung cầu

của thị trƣờng,

Thực hiện chủ trƣơng đảm bảo đủ cung ứng Lƣơng thực miền Nam, Tổng công ty

lƣơng thực miền Bắc, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, Tổng công ty Cảng Hàng không

Miền Nam và Tổng công ty Hóa chất Việt Nam đã bán ngoại tệ dƣới dạng tiền gửi và các

nguồn thu vãng lai cho các tổ chức tín dụng đƣợc phép hoạt động ngoại hối. Theo số liệu

của Vụ quản lý ngoại hối - Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam, tính đến hết tháng 11/2009,

70

số dƣ tiền gửi của các TĐKT và các TCT nhà nƣớc vào khoảng 1,2 tỷ USD và số dƣ tiền

gửi không kỳ hạn là khoảng 700 triệu USD. Hiện tại, tổng lƣợng ngoại tệ trên tài khoản

của các tổ chức, doanh nghiệp gửi ngân hàng vào khoảng 10,3 tỷ USD.

Với sự can thiệp của các DNNN trên, thị trƣờng ngoại tệ trong thời gian ngắn đã có

những chuyển biến tích cực. Yếu tố phải nhắc đến là tỷ giá có thể thay đổi nhƣng mức

giao động là không đáng kể từ 18 469 đến 18 479 VNĐ/USD, tâm lý găm giữ ngoại tệ

của các hệ thống tổ chức kinh tế đã phần nào đƣợc giải tỏa, đáp ứng nhu cầu và ổn định

thị trƣờng, đặc biệt là trong những ngày cuối năm, thể hiện rõ trách nhiệm, vai trò quan

trọng của các tập đoàn, tổng công ty nhà nƣớc đối với quốc gia trong việc đảm bảo ngoại

hối, bình ổn thị trƣờng ngoại tệ.

2.3.5. DNNN tham gia các hoạt động an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo

Theo báo cáo của Chính phủ, tổng chi cho an sinh xã hội năm 2009 là 22.470 tỷ

đồng, tăng 62 % so với năm 2008. Thực hiện trách nhiệm xã hội là một trong những nội

dung cơ bản và tất yếu trong trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Trách nhiệm xã hội

của doanh nghiệp là một vấn đề khá cũ đối với các nƣớc phát triển nhƣng còn khá mới mẻ

và nó đang đƣợc quan tâm ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt các doanh nghiệp có đóng góp

quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo, góp phần thực hiện thành công các

chƣơng trình thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Những nỗ lực bền bỉ và thành tựu trong

xóa đói giảm nghèo đã đƣợc cộng đồng quốc tế ghi nhân và đánh giá rất cao. Tỷ lệ hộ

nghèo giảm nhanh trên địa bàn cả nƣớc. Nếu nhƣ năm 2005 Việt Nam vẫn còn 22% tỷ lệ

hộ nghèo thì đến năm 2009 đã giảm một nửa, chỉ còn 11% . Đây là một thành tựu hết sức

đáng ghi nhận của Việt Nam nhất là đặt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới và

tình hình lạm phát trong nƣớc.

Đạt đƣợc những thành tích về xóa đói giảm nghèo kể trên phải kể đến sự đóng góp

của các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNN. Khu vực DNNN luôn đi đầu trong công tác

xóa đói giảm nghèo. Nổi bật nhất là việc các DNNN tham gia thực hiện Nghị quyết

30a/2008/NQ-CP của chính phủ về chƣơng trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững

đối với 61 huyện nghèo( nay là 62 huyện). Đã có 41 TĐKT, TCT nhà nƣớc và doanh

nghiệp đã nhận giúp đỡ 62 huyện nghèo nói trên, trong đó, số huyện có một doanh nghiệp

71

giúp đỡ là 50, có 2 doanh nghiệp là 10, và có 3 doanh nghiệp giúp đỡ trở lên là 2 huyện.

Mặc dù đứng trƣớc những khó khăn trong sản xuất và kinh doanh nhƣng với tình

cảm và trách nhiệm đối với đồng bào, khu vực còn khó khăn, tính đến hết tháng 11 năm

2009 đã có 38 doanh nghiệp cam kết hỗ trợ với tổng số tiền hơn 2.100 tỷ đồng giai đonạ

2009-2020, riêng năm 2009 là 697 tỷ đồng . Trên địa bàn các huyện nghèo, theo thống kê

có 77.311 căn nhà tạm cần đƣợc xây dựng lại.Với kinh phí hỗ trợ từ ngân sách nhà nƣớc,

vốn tín dụng ƣu đãi, hỗ trợ của doanh nghiệp và từ quỹ Vì ngƣời nghèo địa phƣơng, cộng

với sự đóng góp của làng xóm, tính đến hết tháng 11 năm 2009, các huyện đã khởi công

xây dựng gần 60.000 căn (đạt 77,26%), trong đó đã hoàn thành bàn giao cho hộ nghèo

36.313 căn để các hộ nghèo. Những cố gắng của chính phủ, của công đồng doanh nghiệp,

trong đó tiên phong là các DNNN đã giảm tỷ lệ hộ nghèo trung bình tại 62 huyện tù 47%

năm 2008 xuống còn 43% năm 2009, phấn đấu năm 2010 giảm xuống còn dƣới 40%.

Tập đoàn Bƣu chính Viễn thông Việt Nam đã chi ra hơn 435 tỷ đồng cho các hoạt

động trợ cấp thƣờng xuyên, tăng số tiền tiết kiệm cho các đối tƣợng chính sách xã hội,

xây dựng nhà tình nghĩa, quỹ vì ngƣời nghèo,đặc biệt thực hiện Nghị quyết 30a của chính

phủ, VNPT đã xây dựng và triển khai đề án hỗ trợ 2 huyện nghèo là Sìn Hồ và Mƣờng

Tè của Lai Châu giảm nghèo với kinh phí gần 200 tỷ đồng.

Ngân hàng Đầu tƣ và Phát triển Việt Nam đã tài trợ trong 5 năm cho 20 tỉnh có

huyện nghèo 100.000 tỷ đồng vào các lĩnh vực thế mạnh của 20 tỉnh này nhƣ thủy điện,

chăn nuôi trồng trọt và chế biến nông sản thực phẩm, dịch vụ du lịch,…Không chỉ đóng

góp vào cho xã hội bằng nghề nghiệp tín dụng, hàng năm, BIDV đã dành những khoản

ngân sách lớn để thực hiện công tác an sinh xã hội trực tiếp nhƣ trong giai đoan 2004-

2008 BIDV đã dành 105 tỷ đồng từ nguồn vốn tự nguyện đóng góp một phần để thực hiện

công tác xã hội nhƣ xây dựng hơn 50 ngôi trƣờng, 200 ngôi nhà tìh nghĩa,..nhận hỗ trợ 4

trong số 62 huyện nghèo nhất toàn quốc. Ngoài ra BIDV còn vận động khách hàng của

mình tham gia đóng góp vào các hoạt động xã hội.

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Petrovietnam đã đóng góp cho các hoạt động an sinh xã

hội số tiền trị giá 941 tỷ đồng để xây dựng 18.630 ngôi nhà”Đại đoàn kết”, 25 trƣờng học

72

trong cả nƣớc 3 trung tâm y tế và bệnh viện, làm 204 cây cầu kiên cố để xóa cầu khỉ trên

địa bàn tỉnh Cà Mau. Công tác đền ơn đáp nghĩa ủng hộ bão lụt trong năm 2009 cũng

đƣợc tập đoàn thực hiện với gần 30 tỷ đồng.

Tập đoàn Công nghiệp Than- Khoáng sản Việt Nam (TKV): Đã nhận hỗ trợ xoá đói

giảm nghèo bền vững cho 3 huyện đặc biệt khó khăn : Mèo Vạc (Hà Giang), Ba Bể (Bắc

Cạn) và Đam Rông (Lâm Đồng). Bằng mọi nguồn lực, TKV đã đầu tƣ hỗ trợ cho việc xây

dựng trƣờng học, trạm xá, đƣờng giao thông và làm nhà cho các hộ dân nghèo. Đặc biệt,

tại nhà máy Bô xít ở Tân Rai (Lâm Đồng) bên cạnh đền bù tối đa việc giải toả cho đồng

bào, TKV còn huy động thêm vốn phúc lợi và tiền đóng góp của ngƣời lao động toàn Tập

đoàn để xây dựng một khu với hang chụ ngôi nhà tình nghĩa cho đồng bào nơi đây

Tập đoàn Điện lực Việt Nam: Cam kết đóng góp 280 tỉ đồng cho 3 huyện: phong Thổ,

Than Uyên và Tân Uyên ( tỉnh Lai Châu). Số tiền này sẽ đƣợc dùng để tập trung vào phát

triển lƣới điện, xoá nhà tạm, xây dựng nhà bán trú dân nuôi, hỗ trợ giáo dục đào tạo, chăm

sóc y tế và một số trợ giúp khác với quyết tâm góp phần giúp các địa phƣơng thực sự

thoát nghèo. EVN dự kiến sẽ xây tặng 21 “Nhà bán trú dân nuôi” cho một số trƣờng

THCS trên địa bàn 3 huyện (kinh phí mỗi nhà khoảng 250 triệu đồng). Bên cạnh đó, đã uỷ

quyền cho Điện lực Lai Châu mua bảo hiểm y tế cho 1.500 học sinh của 3 huyện với mức

bảo hiểm 153.000đồng/năm/học sinh. Ngoài ra, còn hỗ trợ huyện Tân Uyên xây dựng một

trƣờng dân tộc nội trú với kinh phí khoảng 15 tỷ đồng. Về phát triển lƣới điện, EVN dự

kiến đầu tƣ nguồn kinh phí khoảng 250 tỷ đồng, đảm bảo đến năm 2012, sẽ có 100% xã

và khoảng 90% hộ dân trong tỉnh sẽ đƣợc sử dụng điện.

Tập đoàn Dệt may Việt Nam: Cuối tháng 11/2009, đã đầu tƣ trên 13 tỷ đồng để xây

dựng nhà máy may Sơn Động tại huyện Sơn Động, một huyện nghèo của tỉnh Bắc Giang.

Khi dự án hoàn thành sẽ góp phần giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo bền

vững cho ngƣời dân trong huyện. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có nhiều hoạt động nhƣ

ủng hộ đồng bào miền Trung và Tây Nguyên bị thiên tai hoạn nạn trong cơn bão tàn khốc

số 9, ủng hộ quỹ từ thiện nhƣ : Chƣơng trình “Trái tim cho em”, bệnh nhân mắc bệnh

máu trắng không đông…Đặc biệt, Tập đoàn đã triển khai Chƣơng trình “Đồng hành cùng

doanh nghiệp dệt may Việt Nam vì đồng bào biển đảo của Tổ quốc”, vận động nhân dân

73

cả nƣớc dành ƣu tiên mua hang dệt, may đƣợc sản xuất trong nƣớc. Quỹ này sẽ góp phần

xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội tại vùng biển đảo; trợ giúp đồng bào và chiến sĩ

vùng biển đảo gặp nhiều khó khăn; góp phần đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm cho đồng

bào vùng biển đảo…bảo vệ vững chắc chủ quyền đất nƣớc.Dự kiến chƣơng trình sẽ huy

động đƣợc hơn 50 tỷ đồng trong giai đoạn đầu( 2009- 2011) để đƣa vào Quỹ Hỗ trợ đồng

bào vùng biển đảo.

2.4. Hạn chế và nguyên nhân trong quá trình phát triển của DNNN

2.4.1. Hạn chế

(i)Khả năng cạnh tranh của khu vực DNNN còn thấp

Hiệu quả hoạt động của DNNN còn thấp so với các khu vực khác trong nền kinh tế

và so với các doanh nghiệp trong khu vực và trên thế giới. Điều này thể hiện ở những nội

dung nhƣ sau:

Doanh thu

Chúng ta xem xét thành tích của khu vực DNNN dƣới chỉ tiêu doanh thu thuần mà

khu vực này thu đƣợc trong tƣơng quan so sánh với các khu vực khác

Bảng 2.12. Doanh thu thuần của các doanh nghiệp.

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Tổng

809,786 897,856 1,194,902 1,436,151

1,720,339

215,785

268,341

3,459,800

số

DNNN 444,673 460,029

611,167

666,022

708,898

838,380

961,461

1,089,100

Ngoài

203,156 260,565

362,657

482,181

637,371

851,002 1,126,356 1,635,300

NN

161,957 177,262

221,078

287,948

374,070

468,403

596,524

735,500

FDI

Cơ cấu (%)

Tổng

DNNN

54.91

51.24

51.15

46.38

41.21

38.85

35.82

31.50

Ngoài

25.09

29.02

30.35

33.57

37.05

39.44

41.96

47.30

NN

FDI

20.00

19.74

18.50

20.05

21.74

21.71

22.22

21.20

Nguồn: GSO- Điều tra doanh nghiệp và Niên giám thống kê 2008

Với tỷ trọng vốn kinh doanh và tài sản cố định cao nhất, các doanh nghiệp nhà nƣớc

74

đạt mức doanh thu không tƣơng xứng. Từ năm 2000 đến 2004, tỷ trọng doanh thu của khu

vực DNNN tuy có giảm nhƣng vẫn giữ ở vị trí cao nhất, từ năm 2005 trở đi thì khu vực

DNNN lại xếp sau khu vực ngoài nhà nƣớc

Chúng ta có thể xét một chỉ số, thể hiện rõ hơn hiệu quả của đồng vốn mà các khu

vực sử dụng. Lấy doanh thu thuần chia cho số vốn ta sẽ đƣợc con số cho biết một đồng

vốn tạo ra mấy đồng doanh thu nhƣ bảng dƣới đây

Bảng 2.13. Một đồng vốn tạo ra mấy đồng doanh thu thuần?

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Tổng 0,811 0,757 0,884 0,916 0,875 0,888 0,884 0,832

DNNN 0,663 0,588 0,712 0,714 0,628 0,629 0,610 0,557

DN TN 2,066 1,832 1,729 1,665 1,507 1,401 1,318 1,134

FDI 0,705 0,676 0,759 0,836 0,902 0,957 0,987 0,969

Nguồn: Nguyễn Quang A, Địa vị và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước, Báo

cáo tại Hội thảo Tập đoàn kinh tế - Lý luận và thực tiễn, CIEM, 2009.

Bảng 2.13 cho thấy rõ các doanh nghiệp tƣ nhân đứng đầu trong việc tạo ra doanh

thu thuần từ việc sử dụng các đồng vốn kinh doanh của mình. Khu vực doanh nghiệp nhà

nƣớc là khu vực tạo ra ít doanh thu thuần nhất trên mỗi đồng vốn mà nó sử dụng so với

các khu vực khác. So với khu vực tƣ nhân năm 2000, các doanh nghiệp tạo ra ít doanh thu

thuần hơn 3,1 lần trên mỗi đồng vốn sử dụng. Chỉ số này giảm dần xuống 2,5 lần năm

2002; xuống 2,2 lần năm 2006 và đến năm 2007 còn 2,0 lần. Sự giảm sút này gây ra

không phải do sự hoạt động có hiệu quả hơn của khu vực DNNN mà có lẽ gây ra bởi sự

suy giảm chung của nền kinh tế. So với các doanh nghiệp FDI, thì các con số này lần lựơt

là 1,06 lần năm 2000, 1,07 lần năm 2002, 1,6 lần năm 2006 và 1,74 lần năm 2007.

Mặc dù các DNNN đã đƣợc đầu tƣ và ƣu đãi nhiều, nhƣng khu vực này vẫn chƣa

chứng tỏ đƣợc tính hiệu quả của mình so với các khu vực khác, đặc biệt là khu vực có

vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.

Theo kết quả điều tra do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2006 thì DNNN chiếm

75

giữ 54% về nguồn vốn; 51,11% về tài sản cố định. Ngoài ra gần 50% vốn đầu tƣ của nhà

nƣớc, 60% tín dụng ngân hàng trong nƣớc, hơn 70% vốn vay nƣớc ngoài cũng thuộc về

các DNNN. Thế nhƣng DNNN chỉ làm ra 38,63% doanh thu thuần, 41,19% lợi nhuận và

40,76% nộp ngân sách nhà nƣớc, trong đó thuế thu nhập có 9%. Phải nói thêm rằng,trong

số 40,76% nộp ngân sách nhà nƣớc thì riêng tập đoàn Dầu khí và tập đoàn than, khoáng

sản đã nộp hơn 20%, chủ yếu là do khai thác tài nguyên chứ không phải là do kinh doanh

có hiệu quả.

Thu từ DNNN tiếp tục không đạt dự toán trong hai năm 2004 và 2005 mà hiệu quả

lớn nhất là hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN thấp, tình hình thua lỗ kéo dài. Các

DNNN có tỷ lệ khoanh nợ, nợ chờ xử lý và nợ quá hạn cao nhất so với các thành phần

kinh tế khác. Hệ thống ngân hàng ƣớc tính DNNN chiếm khoảng 80% tổng nợ xấu của

các tổ chức tín dụng. Lỗ luỹ kế tính đến cuối 2001 lên tới 7.150 tỷ đồng, 314 doanh

nghiệp thua lỗ toàn bộ vốn kinh doanh trên sổ sách trên sổ sách kế toán (1.231 tỷ đồng).

Năm 2003 có tới 20% DNNN lỗ, đến năm 2003 còn 13,5% doanh nghiệp lỗ. Nợ của

DNNN đến cuối 2000 lên đến 190.000 tỷ đồng, bằng 33% GDP. Tại thời điểm

31.12.2001, nợ phải trả là 193.176 tỷ đồng, bằng 140% số vốn nhà nƣớc ở doanh nghiệp.

Con số này tiếp tục tăng cao: năm 2002 là 286.785 tỷ đồng, đến năm 2003 là 304.563 tỷ

đồng. Nhiều DNNN có tình hình tài chính thiếu lành mạnh, độ tin cậy đối với các đối tác

và nhân dân thấp. Thực trạng trên làm cho không ít các DNNN đang là gánh nặng cho

ngân sách và là nguy cơ tiềm ẩn của các ngân hàng.

Hộp 2.2. Nợ xấu của các DNNN

Ngày 14.12, Văn phòng Chính phủ đã có công văn gửi Bộ Tài chính nêu rõ chỉ đạo

của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về công tác sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước

(DNNN). Một trong những nội dung quan trọng được Thủ tướng chỉ đạo là Bộ Tài chính

phối hợp với các bộ, địa phương và TCty, trong năm 2008-2009 xử lý dứt điểm các

DNNN cần phải xử lý, không nên kéo dài...

Thực trạng những "con nợ" khó đòi thuộc diện phải xử lý hiện ra sao? Những vướng

mắc, rào cản đang tồn tại đó sẽ được xử lý như thế nào? Với loạt bài này, Lao Động hy

vọng sẽ cung cấp thêm cho bạn đọc những thông tin cần thiết, góp thêm tiếng nói ủng hộ

Chính phủ và các bộ, ngành mạnh tay giải quyết tồn tại cũ, dọn đường cho tiến trình cổ

76

phần hoá và tạo đà cho nền kinh tế phát triển

DNNN nợ xấu bao nhiêu?

Đây là câu hỏi mà có lẽ chưa cơ quan quản lý nào trả lời chính xác được; bởi lẽ cho

đến nay, hệ thống các cơ quan quản lý chưa có thống kê đầy đủ nào về tình trạng nợ xấu

này. Tuy nhiên các cấp quản lý chỉ có thể đoán ước rằng: Đây là số tiền... khổng lồ lên

đến vài chục ngàn tỉ.

Ngay từ năm 2005, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thống kê dư nợ cho vay DNNN đã

chiếm đến 33,2% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Đặc biệt, NHNN đã có cảnh báo về

tình trạng nợ xấu đang có xu hướng tăng.

Theo một chuyên gia kinh tế thuộc Bộ Công thương thì đã từ quá lâu rồi, hệ thống

các NH, không ít các chuyên gia kinh tế và nhà quản lý đã cảnh báo về tình trạng nợ xấu,

tình trạng tiêu cực, làm ăn thua lỗ kéo dài dẫn đến nợ xấu của các DNNN.

Cụ thể theo tài liệu kiểm toán năm 2005, cơ quan này đã nêu hàng loạt các đơn vị

nợ xấu khó đòi và chưa có biện pháp khắc phục như TCty lương thực Miền Nam, TCty

Chăn nuôi, TCty Xây dựng công nghiệp, TCty Giấy...

Bản thân các TCty này cũng được cảnh báo về tình trạng làm ăn thua lỗ với số lỗ

luỹ kế từ gần 200 tỉ đồng đến dưới 500 tỉ đồng. Đặc biệt, chỉ 16 DNNN đã có số nợ trong

năm lên đến 21.000 tỉ đồng; tổng nợ phải trả lên đến 47.000 tỉ đồng và chiếm tới hơn

80% tổng nguồn vốn.

Gần đây nhất, theo thống kê sơ bộ của riêng hệ thống các NH, thì nhóm DNNN nợ

xấu kéo dài gồm các TCty xây dựng công trình giao thông thuộc Bộ Giao thông Vận tải.

Đây là nhóm có số nợ kéo dài nhất, khó xử lý nhất.

Theo ước tính thì số nợ của các TCty này lên tới trên 12.300 tỉ đồng. Khối DNNN nợ

xấu ít hơn bao gồm các TCty thuộc nhóm dịch vụ và chế biến... Tuy nhiên, gọi là ít song

số nợ của khối các DN này cũng lên tới trên dưới 5.000 tỉ đồng. Nếu tính cả số các DN

nợ đọng thuế thì con số này cũng thêm khoảng vài ngàn tỉ đồng nữa.

Nguồn: Báo Lao Động số 300 Ngày 25/12/2007

Hầu hết các DNNN có tổng tài sản gấp 10 lần đến 20 lần vốn tự có, tổng nợ ngân

hàng bình quân gấp 6 đến 8 lần trong lĩnh vực thƣơng mại, xây dựng gấp 10 đến 20 lần.

Trong khi hệ số an toàn của vốn vay/ vốn tự có ở Mỹ và EU từ 2,5 - 3 lần, ở Singapore và

77

Thái Lan từ 3 - 4 lần.

Hoạt động của DNNN thấp hơn nhiều so với các thành phần kinh tế khác. Theo báo

cáo của Bộ Lao động và thƣơng binh xã hội thì tỉ suất lợi nhuận trên tiền lƣơng năm 2005

của DNNN là 0,3%, trong khi của khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài là 1,1%, và của

doanh nghiệp tƣ nhân là 0,5%; một lao động tạo ra giá trị ở khu vực DNNN là 36 triệu,

của khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài là 110 triệu và khu vực tƣ nhân 40 triệu đồng.

Nhƣ vậy, mặc dù hoạt động của khu vực DNNN đã đƣợc nâng cao so với trƣớc cải

cách nhƣng nhìn chung vẫn chƣa đạt hiệu quả nhƣ mong muốn và chƣa tƣơng xứng với

nguồn lực hiện có.

Năng lực cạnh tranh của khu vực DNNN thấp.

Trong bối cảnh hội nhập, vai trò của DNNN đƣợc kỳ vọng là đầu tàu trong cạnh

tranh và đƣợc ƣu đãi rất nhiều vì mục tiêu này, nhƣng trên thực tế thì DNNN lại tỏ ra rất

yếu kém về năng lực cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh yếu của DNNN đƣợc thể hiện ngay

ở thị trƣờng trong nƣớc: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của DNNN có xu

hƣớng giảm sút nhƣờng chỗ cho khu vực có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và khu vực ngoài

quốc doanh…Khả năng cạnh tranh yếu kém của DNNN trong điều kiện Việt Nam đang

và sẽ thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, có nguy cơ dẫn đến tình trạng nhà

nƣớc sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tƣơng lai để trợ cấp duy trì các DNNN, trong khi

năng lực cạnh tranh quốc gia thì vẫn chƣa đƣợc nâng cao. Năng suất lao động của DNNN

Việt Nam còn tƣơng đối thấp, năm 2000 mới đạt khoảng 832 USD, thấp hơn Indonexia

(1.705 USD), Trung Quốc (1.517 USD), Thái Lan (3.701 USD), Philippine (2.690 USD).

Trong các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài có năng suất lao

động cao nhất, gấp 2 lần so với DNNN.

Giá bán một số sản phẩm trong nƣớc của DNNN sản xuất cao hơn giá nhập khẩu: xi

măng 115%, giấy in 127, phôi thép 125%, đƣờng mía 140%, giá điện bán cho công ty

nƣớc ngoài, cƣớc phí vận tải biển, cƣớc phí điện thoại quốc tế…của Việt Nam cao hơn

hầu hết các nƣớc trong khu vực, gấp 2-3 lần nƣớc có mức giá trung bình. Những con số

trên cho thấy sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của DNNN nói riêng còn rất

yếu. Báo cáo về “Sức cạnh tranh của nền kinh tế toàn cầu 2001-2002” tại Diễn đàn kinh

tế thế giới xếp hạng năng lực cạnh tranh của 75 nƣớc, trong đó kinh tế Việt Nam xếp thứ

78

60, doanh nghiệp Việt Nam xếp thứ 62. Thêm vào đó, vẫn còn nhiều DNNN có trình độ

công nghệ dƣới mức trung bình của thế giới và khu vực, máy móc thiết bị, dây chuyền

sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, 38% số tài sản cố định chờ thanh lý;

nhiều sản phẩm có chi phí tiêu hao nguyên liệu, vật liệu, khấu hao, tiền lƣơng,… cao, do

dó thiếu sức cạnh tranh.

Nhìn chung, nhiều DNNN chƣa phát huy cao nhất nội lực và lợi thế so sánh của đất

nƣớc và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế để tạo ra những sản phẩm mũi nhọn có hàm

lƣợng chất xám và công nghệ cao đủ sức cạnh tranh trên thị trƣờng trong nƣớc và quốc

tế; còn thiếu chủ động chuẩn bị để đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Đóng góp vào nền kinh tế chưa tương xứng với nguồn lực vốn có

Tạo công ăn việc làm

Với nguồn vốn sử dụng nhƣ đã xem xét ở trên, chúng ta hãy xem xét khả năng tạo

công ăn việc làm của các khu vực nhƣ thế nào. Căn cứ vào số lao động đang làm việc tại

thời điểm 31/12 hàng năm theo con số của Tổng cục Thống kê, chúng ta có cơ cấu lao

động trong các khu vực nhƣ sau:

Bảng 2.14. Cơ cấu lao động của các doanh nghiệp (%)

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

DNNN 59,05 53,76 48,52 43,77 39,00 32,67 28,29 23,90

DNTN 29,42 33,80 36,65 39,61 42,90 47,76 50,18 53,30

FDI 11,53 12,44 14,84 16,62 18,11 19,57 21,52 22,80

Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100

Nguồn: Điều tra doanh nghiệp và Niên giám thống kê 200, GSO..

Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy rằng số lao động làm việc trong khu vực

DNNN giảm dần qua các năm. Năm 2000, lao động trong khu vực này chiếm đến gần

60% trong tổng số rồi giảm dần đến 48,52% vào năm 2002, xuống 28,29% năm 2006 và

đến năm 2007 chỉ còn chiếm 23,90%. Trong khi đó, tỷ trọng lao động trong khu vực tƣ

nhân và FDI tăng lên, đặc biệt là khu vực tƣ nhân, tăng từ 29,42% năm 2000 lên 53,30%

năm 2007.

Số vốn bình quân cho mỗi chỗ làm việc. Lấy tổng số vốn của các khu vực chia cho

số lao động, ta có bảng sau

79

Bảng 2.15. Vốn kinh doanh bình quân cho mỗi chỗ làm việc (tỷ đồng)

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Tổng 0, 282 0,302 0,290 0,303 0,341 0,390 0,452 0,563

DNNN 0,321 0,370 0,380 0,412 0,502 0,655 0,829 1,110

Ngoài 0,094 0,107 0,119 0,141 0,171 0,204 0,254 0,367 NN

FDI 0,564 0,536 0,421 0,401 0,397 0,401 0,418 0,450

Nguồn: Nguyễn Quang A, Địa vị và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước, Báo

cáo tại Hội thảo Tập đoàn kinh tế - Lý luận và thực tiễn, CIEM, 2009.

Có thể thấy số vốn kinh doanh bình quân cho mỗi chỗ làm việc tăng liên tục. Về mặt

tích cực, điều đó có nghĩa là số vốn kinh doanh cho mỗi lao động ngày càng tăng. Song

nếu câu hỏi đặt ra là cần bao nhiêu vốn cho 1 chỗ làm việc thì là ngƣợc lại. Năm 2006,

mỗi chỗ làm việc tại doanh nghiệp cần một khoản vốn trung bình là 0,452 tỷ, trong đó tại

DNNN là 0,829tỷ, DN tƣ nhân là 0,254tỷ, DN FDI là 0,418tỷ. Nhƣ vậy, số vốn trung bình

cần thiết tại DNNN cao gấp 2 lần so với DN FDI và cao hơn 3 lần so với DN tƣ nhân

trong nƣớc.

Qua những số liệu và đánh giá trên chúng ta thấy thành tích về tạo công ăn việc làm

của khu vực DNNN hoàn toàn không xứng đáng với nguồn lực to lớn mà nó sử dụng. Nếu

so với tổng số lao động của cả nƣớc năm 2006 là 43,35 triệu lao động, thì số lao động

trong khu vực DNNN chỉ chiếm dƣới 4,4%. Tuyệt đại bộ phận ngƣời lao động chiếm trên

95,6% gồm nông dân, những ngƣời lao động tự do và những ngƣời lao động trong các

doanh nghiệp tƣ nhân và FDI, khu vực sử dụng ½ tổng đầu tƣ của xã hội, còn 4,4% lao

động trong khu vực DNNN lại sử dụng gần ½ tổng đầu tƣ còn lại của xã hội.

Hoạt động của mô hình tổng công ty Nhà nước chưa tương xứng với tiềm năng

hiện có. Mô hình tổng công ty nhà nƣớc đƣợc áp dụng từ năm 1991. Tuy vậy, cho đến

nay, các tổng công ty nhà nƣớc hoạt động chƣa đạt hiệu quả tƣơng xứng với tiềm năng:

kết quả đạt đƣợc còn khá khiêm tốn so với mục tiêu đề ra khi thành lập tổng công ty nhà

nƣớc: không thực hiện đƣợc mục tiêu từng bƣớc xóa bỏ chế độ bộ và cấp hành chính chủ

quản; năng suất, chất lƣợng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của các TCT đã đƣợc

cải thiện nhƣng vẫn còn thấp. Một số TCT hoạt động có hiệu quả là do dựa vào nguồn tài

80

nguyên (TCT Dầu khí), hoặc có sự độc quyền (TCT Bƣu chính - Viễn thông, TCT Điện

lực); hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên ở các TCT còn rời rạc,

chƣa tạo lập đƣợc thực thể kinh tế thống nhất bằng cơ chế, tổ chức và điều hành. Trong

những năm gần đây, các tập đoàn kinh tế mạnh với ƣu thế là con đẻ của Nhà nƣớc, đã

đầu tƣ tràn lan ra hầu khắp các ngành có khả năng sinh lời nhanh nhƣ ngân hàng, bất

động sản, bảo hiểm… dẫn tới ngành chính hoạt động kém hiệu quả, thậm chí là sụp đổ

nhƣ trƣờng hợp của Vinashin tháng 8 năm nay. Sự đổ vỡ của con tàu Vinashin nhƣ một

lời cảnh báo cho cách thức quản lý và sử dụng nhân lực cũng nhƣ vốn trong các tập đoàn

kinh tế nhà nƣớc nói riêng và khu vực DNNN nói chung.

Hộp 2.3. Đầu tư dàn trải ở Vinashin

Tương tự như cuộc họp báo thường kỳ tháng 6, chiếm phần lớn thời gian cuộc họp

báo thường kỳ Chính phủ tháng 7 tổ chức chiều 4/8 tại Hà Nội là các vấn đề liên quan

đến Vinashin, trong đó đáng chú ý là sự xuất hiện của Phó Thủ tướng Thường trực

Nguyễn Sinh Hùng tại cuộc họp báo và kết luận của Chính phủ về tình hình hoạt động,

chủ trương giải pháp phát triển Vinashin.

Theo đánh giá của Chính phủ, cùng với các nền kinh tế thế giới và trong nước, Tập

đoàn Vinashin chịu tác động hết sức nặng nề, đặc biệt về thị trường và nguồn vốn của

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Ngân hàng thắt chặt cho vay, các dự án

đầu tư đang triển khai thiếu vốn không hoàn thành được để đưa vào sản xuất. Ngành vận

tải viễn dương bị đình đốn, các chủ tàu đã hủy hợp đồng và các thỏa thuận đóng tàu trị

giá hơn 8 tỷ USD. Riêng trong năm 2010 số hợp đồng đóng tàu có nguy cơ bị hủy lên tới

trên 700 triệu USD.

Tuy nhiên, Chính phủ cho rằng, do công tác dự báo còn nhiều bất cập nên việc lập

kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh và kế hoạch đầu tư không chính xác. Các dự án

đầu tư quá nhiều, dàn trải, vượt khả năng cân đối tài chính, hầu hết các dự án đầu tư đều

triển khai dở dang…

Đặc biệt, để giải quyết khó khăn nêu trên, Tập đoàn Vinashin đã phải vay nợ mới để

trả nợ cũ, vay ngắn hạn trả dài hạn, thậm chí lấy vốn lưu động để chi đầu tư. Kết quả là

từ năm 2009 Tập đoàn Vinashin kinh doanh thua lỗ. Đến tháng 6/ 2010, tổng tài sản của

81

Tập đoàn Vinashin khoảng 104 nghìn tỷ đồng nhưng tổng số nợ là 86 nghìn tỷ đồng, vốn

điều lệ thấp lại sử dụng vốn dàn trải nên tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu gần 11 lần, rơi

vào tình trạng mất cân đối tài chính nghiêm trọng, đứng trước nguy cơ phá sản, sản xuất

đình đốn, công nhân chuyển việc, bỏ việc gần 17.000 người, mất việc gần 5.000 người.

Về nguyên nhân dẫn đến phá sản, chính phủ phủ nhận nguyên nhân khách quan là

thị trường đóng tàu và vận tải biển thế giới sụt giảm đột ngột. Tổng giá trị hợp đồng

đóng mới năm 2008 giảm 38% so với năm 2007. Giá đóng mới tàu giảm một nửa song

thị trường đóng tàu vẫn ngừng trệ, các đơn đặt hàng giảm mạnh từ 57%-80%, có loại

tàu không còn hợp đồng đóng mới. Một số công ty vận tải biển phải hủy hợp đồng đã

ký…

Tuy nhiên, Chính phủ cũng nhận định, yếu kém và sai phạm của lãnh đạo Vinashin

là nguyên nhân trực tiếp, chủ yếu dẫn tới tình trạng trên. Cụ thể, những yếu kém đó là

năng lực quản trị doanh nghiệp và dự báo yếu kém, trình độ cán bộ lãnh đạo quản lý

chưa đáp ứng yêu cầu; xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch

đầu tư của doanh nghiệp quá nhanh, quá nóng, không phù hợp với nguồn vốn, năng lực

quản lý và quy hoạch phát triển được cấp có thẩm quyền phê duyệt; quản lý đầu tư, quản

lý tài chính lỏng lẻo, kém hiệu quả, nhiều quyết định trái quy định của pháp luật; tổ chức

phát triển hệ thống doanh nghiệp quá dàn trải và quản lý nhân sự cán bộ không chặt chẽ.

Nghiêm trọng hơn, Vinashin đã báo cáo không đúng thực trạng về sử dụng vốn, về

đầu tư, về phát triển thêm doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh và tình hình hoạt động

sản xuất kinh doanh, mỗi lần báo cáo số liệu khác nhau. Năm 2009 và Quý I năm 2010

thua lỗ nhưng vẫn báo cáo có lãi. “Khuyết điểm này của lãnh đạo, trước hết của người

đứng đầu Tập đoàn làm cho cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chủ sở hữu cấp trên nắm

không đúng thực trạng nên chỉ đạo không kịp thời, đầy đủ”- Chính phủ khẳng định.

Ngoài ra, Vinashin đã quyết định thực hiện nhiều dự án đầu tư ngoài quy hoạch,

không đúng quy định của pháp luật hiện hành; quyết định sử dụng vốn kém hiệu quả, có

biểu hiện sai trái; sử dụng một số vốn lớn để mua tàu vận tải biển của nước ngoài, trong

đó có những con tàu mua quá cũ; không nghiêm túc thực hiện những ý kiến chỉ đạo của

cơ quan có thẩm quyền.

“Những yếu kém và sai phạm nghiêm trọng, nhất là về đầu tư, về sử dụng vốn của

82

lãnh đạo Tập đoàn cộng với những yếu tố khách quan tác động nặng nề, đã làm cho Tập

đoàn thua lỗ, không vay được vốn, mất khả năng chi trả, không còn vốn để hoạt động. Từ

năm 2008, nhiều dự án đầu tư phải dừng lại, một số đơn vị ngừng hoạt động sản xuất

kinh doanh, một bộ phận không nhỏ người lao động bỏ việc, mất việc” - Chính phủ kết

luận.

Cũng tại phiên họp thường kỳ, Chính phủ đã thừa nhận việc quản lý nhà nước và

thực hiện quyền chủ sở hữu của Chính phủ đối với DNNN, tập đoàn kinh tế nói chung và

Tập đoàn Vinashin nói riêng còn nhiều bất cập, kém hiệu quả .

Nguồn: http://www.tinmoi.vn/Sai-pham-nghiem-trong-cua-lanh-dao-day-Vinashin-

toi-bo-pha-san-08183810.html, download ngày 14.8.2010

Cơ cấu DNNN bất hợp lý. Nhìn chung cơ cấu của khu vực DNNN còn bất hợp lý về

ngành, vùng và quy mô, mặc dù đã trải qua nhiều sắp xếp lại. Trƣớc hết là tỷ trọng của

DNNN xét về số lƣợng không hợp lý, thể hiện ở việc DNNN chiếm tỷ trọng quá lớn ở

khu vực nông nghiệp là 25% và thƣơng mại dịch vụ là 40%, còn trong công nghiệp, đặc

biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ có 35%, trong khi ở lĩnh vực công nghiệp lẽ ra

DNNN phả giữ vai trò là đầu tàu, là ngƣời dẫn đƣờng. Nhƣ vậy ta có thể thấy cơ cấu của

khu vực DNNN trong nền kinh tế chƣa thực hợp lý và chƣa đảm bảo đƣợc vai trò chủ đạo

của DNNN; Cơ cấu phân cấp quản lý cũng còn bất cập thể hiện ở việc tỷ trọng DNNN do

các cấp địa phƣơng quản lý còn quá cao. Tình trạng manh mún, chồng chéo, trùng lặp

chức năng trong các DNNN trên cùng một địa bàn mang tính phổ biến dẫn đến tình trạng

đầu tƣ của nhà nƣớc bị dàn trải, không hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực.

Quy mô của DNNN còn nhỏ bé. Vốn của các DNNN tuy đã tăng lên so với trƣớc

kia nhƣng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu: bình quân vốn của DNNN là hơn 300 tỷ ,

trong đó chủ yếu tập trung vào các TCT, Tập đoàn kinh tế lớn nhƣ: dầu khí, xi măng,

xăng dầu, hàng không, hàng hải, điện lực, viễn thông…Các DNNN vòn lại chủ yếu là có

quy mô vốn nhỏ bé. Mặt khác, không ít các DNNN chỉ có vốn trên sổ sách, hoặc trong tài

sản không dùng đến, nên vốn thực tế sản xuất kinh doanh chỉ còn 50%. Nguồn vốn cho

kinh doanh của các DNNN thiếu, khả năng thanh toán thấp, (hệ số nợ trên vốn nhà nƣớc

tại các DNNN bình quân là 1,26 lần, nhiều doanh nghiệp có hệ số là trên 5), nguồn vốn

tự bổ sung từ lợi nhuận sau thuế hàng năm ít. Hạn chế này là do các DNNN vẫn có mặt ở

83

rất nhiều ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, chƣa tập trung ở một số ngành then chốt

mang tính định hƣớng, mở đƣờng; trong khi đó ngân sách nhà nƣớc lại hạn hẹp, đầu tƣ

dàn trải và không hiệu quả dẫn đến tình trạng không cấp đủ vốn cho các DNNN hoạt

động. Bên cạnh đó các DNNN hoạt động không hiệu quả nên không thể có nguồn vốn để

tái đầu tƣ.

Những hạn chế trong hoạt động của các DNNN cho thấy khu vực này đã không làm

tròn trách nhiệm đầu tàu mà Đảng và Nhà nƣớc giao cho. Tuy nhiên, có lẽ cũng đến lúc

chúng ta cần nhận thức lại về vai trò thực sự của khu vực này để tránh những lãng phí

không đáng có và vì một khu vực doanh nghiệp phát triển bền vững hơn.

ii) Minh bạch thông tin của các DNNN:

Minh bạch hoá thông tin là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ

phát triển của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ở Việt Nam nói chung và

các DNNN nói riêng thì việc minh bạch hoá thông tin vẫn còn là một điều chƣa đƣợc chú

trọng. Các doanh nghiệp phải minh bạch tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động của

một doanh nghiệp, nhƣ: mục tiêu hoạt động, trách nhiệm cá nhân, cơ chế sử dụng nhân

sự…. Trên thực tế, đó cũng là những khoảng tối, những thứ hay bị giữ kín hoặc còn mơ

hồ nhất, đặc biệt là đối với các DNNN. Điều này có thể đƣợc giải thích dựa trên một

nghiên cứu của hãng tƣ vấn quản lý nổi tiếng thế giới McKinsey. Nghiên cứu này chỉ ra

rằng: "Hiện tượng phổ biến là các DNNN thường hoạt động rất kín kẽ, hiếm khi tiết lộ ra

bên ngoài những thông tin nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của mình. Nguyên nhân có thể

là do bản thân các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp nhà nước không rõ ràng hoặc

mâu thuẫn nhau. Ngoài ra, sự thiếu minh bạch cũng có thể xuất phát từ những tính toán

chính trị, do DNNN không muốn bị so sánh với khu vực tư nhân, hoặc do họ thiếu kinh

nghiệm về truyền thông doanh nghiệp".

Minh bạch và công khai tài chính trong các doanh nghiệp là một trong những cơ sở

quan trọng để giữ vững, phát triển doanh nghiệp, đồng thời doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận

nguồn vốn trên thị trƣờng. Thế nhƣng, đối với doanh nghiệp Việt Nam, tính minh bạch lại

đang bị "bóp méo" vì nhiều nguyên nhân. Hiện chỉ có 32,38% doanh nghiệp có khả năng

tiếp cận vốn ngân hàng, 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận đƣợc. Thêm vào

đó, chƣa mấy doanh nghiệp có thể niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán nƣớc ngoài...

84

Điều này là do doanh nghiệp chƣa thực sự minh bạch về tài chính và khả năng quản trị

doanh nghiệp hạn chế. Hiện nay, hệ thống khai báo thuế và chính sách thuế của Việt Nam

còn nhiều bất cập. Việc các cơ quan thuế "bị" giao chỉ tiêu thu thuế cao là áp lực chính

đẩy nhiều cán bộ thuế ép doanh nghiệp, bóc tách các chi phí để tận thu. Ngƣợc lại, doanh

nghiệp luôn muốn khai thấp doanh thu, tăng chi phí... nhằm giảm lợi nhuận chịu thuế,

giảm khoản thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Từ đó, môi trƣờng kinh doanh trở nên

thiếu minh bạch. Tính minh bạch tài chính doanh nghiệp bị bóp méo, cổ đông không đƣợc

thông tin đầy đủ về giá trị, khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp

Mặt khác, sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp cũng khiến các

chủ doanh nghiệp phải dè chừng đối thủ, quyết không để lộ "nội tình" của doanh nghiệp

cho nhà đầu tƣ, nhằm tránh bất lợi về thông tin. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng chƣa sẵn

sàng trả chi phí cho việc kiểm toán độc lập. Tình hình tài chính thƣờng bị làm sai lệch khi

thể hiện trên các báo cáo tài chính khiến cho doanh nghiệp chƣa đáp ứng đủ điều kiện khi

vay vốn, thậm chí là bị từ chối tài trợ, đầu tƣ... Một ví dụ điển hình là nhà đầu tƣ tìm

thông tin về tình hình tài chính qua trang web của doanh nghiệp nhƣng khi truy cập vào

thì chỉ thấy thành tích, khen thƣởng và không thấy bất cứ số liệu và thuyết minh nào về

báo cáo tài chính. Thách thức lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là vấn đề kiểm toán. Cụ

thể nếu muốn lên sàn ở Mỹ, đầu tiên là các doanh nghiệp Việt Nam phải đảm bảo đƣợc

tính minh bạch tài chính thông qua một công ty kiểm toán có uy tín. Nhƣng số doanh

nghiệp Việt Nam đáp ứng đƣợc yêu cầu này chƣa nhiều. Để tìm hiểu thông tin, trƣớc lúc

quyết định đầu tƣ, bắt tay hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam, thông thƣờng các nhà

đầu tƣ nƣớc ngoài lấy báo cáo tài chính làm căn cứ. Thế nhƣng, sự thiếu minh bạch ở của

báo cáo tài tài chính đã khiến nhà đầu tƣ trở nên e ngại và nhiều cơ hội làm ăn lớn đã bị

bỏ lỡ.

Bện cạnh đó, vấn đề minh bạch trong chế độ lƣơng và thƣởng ở các doanh nghiệp

còn nhiều bất cập. Ngoài lƣơng cố định, một phần quan trọng trong thu nhập của các nhà

quản trị nói riêng và hệ thống cơ quan nhà nƣớc nói chung là tiền thƣởng. Tiêu chuẩn, cơ

chế, mức thƣởng đều không rõ ràng, minh bạch. Điều đó đã dẫn đến tình trạng năm 2009,

EVN có đơn trình Chính phủ xin chi 1.200 tỷ đồng lợi nhuận để thƣởng tết trong khi tình

85

trạng thiếu điện triền miên, 13 dự án thủy điện không đƣợc thực hiện do thiếu vốn (Thủ

tƣớng đồng ý cho EVN trích khoảng 334 tỷ đồng lập quỹ khen thƣởng) và EVN luôn hoạt

động trong tình trạng thua lỗ.

Một điểm đáng chú ý trong báo cáo kiểm toán năm 2008 là hầu hết các báo cáo tài

chính của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính, ngân hàng... bị sai lệch, không phản ánh

đúng thực tế tài sản, chi phí, doanh thu và kết quả kinh doanh của các đơn vị này.

Đối với các tổ chức tài chính, ngân hàng, trong năm 2008, Kiểm toán Nhà nƣớc đã

kiểm toán báo cáo tài chính tại 162 đơn vị thành viên, chi nhánh trực thuộc của 7 tổ chức

tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Kết quả cho thấy, hoạt động cho vay tại các ngân hàng

thƣơng mại nhà nƣớc vẫn còn vƣợt nhu cầu vốn của khách hàng, cho vay không đúng đối

tƣợng, trích lập dự phòng rủi ro không chính xác… Ngoài ra, việc quản lý và theo dõi

công nợ giữa hội sở chính và các chi nhánh còn chƣa kịp thời và nhầm lẫn… Nguyên

nhân là các ngân hàng phân loại nợ vẫn mang tính chủ quan, các chi nhánh chỉ căn cứ kế

hoạch tài chính, quỹ tiền lƣơng đƣợc duyệt để điều chỉnh nhóm nợ và trích lập dự phòng

rủi ro tín dụng.

Không minh bạch thông tin của các DNNN nói chung, các TĐKT nhà nƣớc nói

riêng luôn là “vấn đề nóng” không chỉ trong các kỳ họp Quốc hội gần đây, mà còn là vấn

đề gây bức xúc trong dƣ luận xã hội.

Sự sai lệch, không phản ánh đúng thực tế tài sản, doanh thu và kết quả kinh doanh

là hiện tƣợng khá phổ biến trong các báo cáo tài chính của nhiều đơn vị, tập trung vào

những đơn vị lớn nhƣ Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, TĐ Điện lực Việt Nam.

TCT hàng hải, TCT lắp máy Việt Nam…Vì những lý do này, kiểm toán nhà nƣớc đã phát

hiện và kiến nghị tăng thu ngân sách nhà nƣớc năm 2007 thêm 4.166 tỷ đồng (gồm chi

sai, quyết toán sai chế độ, không đúng nguồn kinh phí…); tiến hành điều chỉnh tăng hơn

137 tỷ đồng về tài sản, nguồn vốn; gần 564 tỷ đồng doanh thu; giảm gần 159 tỷ đồng chi

phí, tăng lợi nhuận trƣớc thuế trên 722 tỷ đồng, chủ yếu từ các đơn vị đã nêu trên…

Thực tế đang cho thấy những cảnh báo cấp thiết về việc ngăn chặn kịp thời sự liên

minh có thể có giữa một số TĐKT, TCT nhà nƣớc, với các NHTM nhà nƣớc và các quan

86

chức có liên quan trong việc vay và cho vay vốn, đầu tƣ chồng chéo, đầu tƣ đa ngành

hàng ngàn tỷ đồng mang nặng tính đầu cơ, trục lợi cá nhân hoặc phe nhóm, lũng đoạn thị

trƣờng và lãng phí các nguồn lực quốc gia.

Sự thiếu minh bạch còn ở chỗ chƣa rõ ràng trong định hƣớng tái cơ cấu khu vực

DNNN. Đến nay, về tổng thể khu vực DNNN vẫn chƣa thực sự đƣợc tinh lọc và gắn kết

nhƣ một quả đấm thép trong tạo cơ hội lan tỏa và định hƣớng, cũng nhƣ thúc đẩy mạnh

mẽ các hoạt động đầu tƣ xã hội nói chung. Mới đây, Uỷ ban thƣờng vụ quốc hội đã đề

xuất chỉ giữ lại vốn tại khoảng 100 doanh nghiệp lớn nhất và làm ăn hiệu quả nhất, và đẩy

nhanh thoái vốn tại 754 doanh nghiệp CPH mà SCIC đang nắm giữ. Các công ty đƣợc

bán đi sẽ chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó nhà nƣớc không cần nắm giữ cổ

phần chi phối. Tuy nhiên, đến nay, SCIC vẫn chƣa có phƣơng án tái cấu trúc cụ thể và các

hoạt động thông tin cần thiết theo định hƣớng này, gây tâm trạng chờ đợi căng thẳng và

giảm bớt cơ hội, cũng nhƣ động lực đầu tƣ của các doanh nghiệp và đối tác có liên quan,

tức giảm động lực phát triển chung của đất nƣớc, thậm chí làm gia tăng các hành vi tham

nhũng, lãng phí và thất thoát tài sản công gắn với hiện tƣợng vừa “rã đám”, vừa ráo riết

“vận động hành lang” và tâm lý “chợ chiều”, tranh thủ và “vô chủ”...

Những vƣớng mắc về cơ chế là: (i) DNNN thƣờng đƣợc bao bọc quá kỹ trƣớc các

lực lƣợng cạnh tranh bên ngoài; (ii) DNNN thƣờng xuyên phải loay hoay với những mục

tiêu hoạt động không rõ ràng hoặc đan xen chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau, giữa

mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội; và (iii) Vấn đề muôn thuở với DNNN là tuyển dụng

và giữ chân ngƣời tài, khi mà lƣơng thƣởng, đãi ngộ trong DNNN luôn chỉ đi đôi với

chức vụ.

Trong nền kinh tế hiện đại, đa dạng hóa đầu tƣ trở thành yêu cầu và xu hƣớng phát

triển ngày càng đậm nét của các doanh nghiệp và TĐKT trên thế giới. Tuy nhiên, xu

hƣớng này cũng có thể dẫn đến sự sụp đổ hay suy yếu của nhiều doanh nghiệp và tập

đoàn, đặc biệt khi các hoạt động đầu tƣ này đƣợc tiến hành bằng vốn đi vay, trong khi

thiếu cơ chế quy trách nhiệm và kiểm soát đầu tƣ hiệu quả...Thực tiễn cho thấy, việc hoạt

động đa ngành, lĩnh vực có tính hai mặt: Một mặt, nếu doanh nghiệp đi đúng hƣớng sẽ

giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế và đạt đƣợc những mục tiêu mới; mặt khác, nếu

“chệch hƣớng” hoặc đầu tƣ có tính đầu cơ, chụp giật, khai thác các cơ hội độc quyền ngắn

87

hạn thì có thể làm suy sụp hình ảnh, thậm chí đánh mất thƣơng hiệu và gây ra những thiệt

hại to lớn khó lƣờng cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Những tác

động mặt trái của việc doanh nghiệp đầu tƣ đa ngành, đa nghề là do khi đa dạng hóa đầu

tƣ ít nhiều bản thân doanh nghiệp đánh mất đi lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh vốn có

của mình, rất dễ mắc sai lầm, thậm chí phải trả giá đắt do sự phân tán nguồn lực, thiếu

kinh nghiệm quản lý và phản ứng thị trƣờng, cũng nhƣ các kỹ năng công nghệ và cả do

thiếu cập nhật thông tin. Bên cạnh đó, việc kiểm soát vốn vào hoạt động đa lĩnh vực là rất

phức tạp, nếu làm không tốt thì sự thất thoát, lãng phí và khả năng đổ vỡ tài chính là

những nguy cơ có thực. Đặc biệt, cần thấy rằng, với khả năng tài chính có hạn của mình,

việc đầu tƣ vốn dàn trải sẽ buộc doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vốn mới với những

điều khoản thƣơng mại ngặt nghèo, dễ đƣa họ sa vào chiếc bẫy nợ nần.

Tại Việt Nam, VNPT ngoài các sản phẩm, dịch vụ, liên quan tới viễn thông và

công nghệ thông tin còn mở rộng sang lĩnh vực gồm nhiều dịch vụ nhƣ quảng cáo, kinh

doanh bất động sản, cho thuê văn phòng. Tập đoàn điện lực Việt Nam ngoài lĩnh vực hoạt

động truyền thống là sản xuất kinh doanh điện năng, viễn thông công cộng và cơ khí điện

lực, còn đầu tƣ mở rộng sang lĩnh vực bất động sản, lĩnh vực tài chính ngân hàng…với

3.590 tỷ đồng (chiếm 4,82% vốn chủ sở hữu). Tập đoàn Cao su Việt Nam cũng không

chịu bó khuôn trong lĩnh vực cao su, mà còn mở rộng đầu tƣ sang ngành cơ khí, quản lý

khai thác biển, vận tải, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản,

kinh doanh dịch vụ khách sạn, du lịch nội địa quốc tê. Tập đoàn Vianashin, ngoài lĩnh vực

chuyên sâu của mình, họ cũng đã đầu tƣ dịch vụ vận tải biển, thủy điện, tài chính, chế tạo

cơ khí và dƣ nợ phải trả gấp hàng chục lần vốn chủ sở hữu; Vinalines đầu tƣ ra ngoài

837,78 tỷ đồng chiếm 11,8% vốn chủ sở hữu, TKV là 1.786 tỷ đồng chiếm 16,15% vốn

chủ sở hữu.

Theo kết luận của Kiểm toán nhà nƣớc công bố ngày 23/7/2009 (sau khi thực hiện

135 cuộc kiểm toán tại 35 tỉnh thành, 20 Bộ, 23 tập đoàn kinh tế và nhiều tổng công ty và

tổ chức tài chính thì kết quả kiểm tra của 224 đơn vị thành viên thuộc 16 tập đoàn, TCT

cho thấy: số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm gần 10%; chỉ riêng một vụ đầu tƣ sản

xuất điện thoại để bàn đã làm tổn thất khoảng 1.700 tỷ đồng cho một tập đoàn. Theo kết

quả kiểm toán năm 2008, tổng số nợ của các DNNN vẫn lên tới 181.000 tỷ đồng. Một số

88

đơn vị thua lỗ nhiều trong nhiều năm là TCT Sông Hồng, TCT Xây dựng Trƣờng Sơn với

số tiền 57,7 tỷ đồng. TCT Lắp máy Việt Nam lỗ lũy kế đến tháng 12/2007 là 23,4 tỷ

đồng. TCT Xây dựng Sài Gòn lỗ 90,4 tỷ đồng, TCT Xây dựng công trình giao thông 8 lỗ

93,4 tỷ đồng và TCT Xây dựng công trình giao thông 5 lỗ 102,7 tỷ đồng.. Các TCT khác

nhƣ Khánh Việt, Địa Ốc Sài Gòn, tuy số lãi theo báo cáo, trên 600 tỷ đồng, nhƣng số nợ

phải trả hơn 4.600 tỷ đồng, chiếm lần lƣợt là 40 và hơn 60% tổng nguồn vốn. Nhƣ vậy,

mặc dù lợi nhuận trƣớc thuế, theo báo cáo của kiểm toán, đạt gần 1800 tỷ đồng, nhƣng số

nợ phải trả quá lớn.

Năm 2008, nhiều DNNN có số nợ phải trả gấp nhiều lần số vốn chủ sở hữu. Trong

số 70 TĐ, TCT báo cáo thì có hơn 30 đơn vị có có hệ số nợ phải trả trên vốn vƣợt trên 3

lần, thậm chí nhiều doanh nghiệp vƣợt trên 20 lần, nhƣ TCT Xây dựng công trình giao

thông 5 gấp 42 lần, TCT Xây dựng công trình giao thông 1 gấp 22,5 lần. Ngoài ra, một số

doanh nghiệp huy động vốn từ các công ty tài chính, ngân hàng có vỗn góp của tập đoàn,

TCT nhà nƣớc cũng rất rủi ro đƣợc hƣởng nhiều ƣu đãi, nhƣ không bắt buộc phải có đủ

tài sản đảm bảo cho khoản vay, thủ tục vay vốn đơn giản. Đáng quan ngại hơn, một số tập

đoàn, TCT đã dành một lƣợng vốn khá lớn đầu tƣ vào ngân hàng, bảo hiểm hoặc mua cổ

phiếu, trên thị trƣờng... dễ dẫn đến đổ vỡ dây chuyền khi mất khả năng thanh toán. Theo

báo cáo của 70 TĐ, TCT nhà nƣớc thì có tới 28 đơn vị hoạt động đầu tƣ chứng khoán,

thành lập công ty chứng khoán, đầu tƣ vào các công ty quản lý quỹ, ngân hàng thƣơng

mại, công ty bảo hiểm, với giá trị đầu tƣ là 23.344 tỷ đồng, chiếm 8,7% vỗn chủ sở hữu,

và 20% tổng số vốn đầu tƣ ra ngoài. Cụ thể, TĐ dầu khí đầu tƣ 5.780 tỷ đồng, trong đó

ngân hàng 1.100 tỷ đồng, công ty chứng khoán 76,5 tỷ đồng, công ty bảo hiểm 570 tỷ

đồng, quỹ đầu tƣ 29 tỷ đồng; TĐ Công nghiệp tàu thủy Việt Nam đầu tƣ 1.894 tỷ đồng,

trong đó lĩnh vực ngân hàng 344 tỷ đồng, bảo hiểm 1.462 tỷ đồng, quỹ đầu tƣ 88 tỷ

đồng…Bên cạnh đó, tình trạng DNNN thành lập quá nhiều công ty con, công ty liên kết

hoạt động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác hẳn lĩnh vực sản xuất kinh doanh trƣớc

đây ngày càng phổ biến, nhƣ : TCT Thuốc lá, Giấy, Dệt may, Công nghiệp Tàu thủy đầu

tƣ vào rƣợu bia, công nghiệp thực phẩm…

Có thể nói, những hoạt động đầu tƣ kiểu năng động quá mức mang tính tranh thủ

khai thác các cơ hội độc quyền hoặc lợi ích ngắn hạn của các DNNN này, nếu không

89

đƣợc kiểm soát nghiêm ngặt hơn, rất dễ trở thành những “trái bom hẹn giờ” có sức công

phá mạnh, và gây tổn thất nặng nề, thậm chí là những đổ vỡ toàn diện khó lƣờng cho đời

sống kinh tế xã hội đất nƣớc, mà cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ thời gian qua vẫn còn

nguyên tính thời sự.

Đặc biệt nếu so sánh với chi phí tối đa cho đào tạo nghề gắn với di dời chỗ ở của

ngƣời nông dân phục vụ các dự án giải phóng mặt bằng chỉ vào khoảng dƣới 10 triệu

đồng, hoặc kinh phí xây dựng 1 ngôi nhà tình nghĩa chỉ khoảng 20-25 triệu đồng, thì có

thể thấy rõ hơn “sự vô cảm” của các con nợ này trƣớc bức xúc của xã hội…

Năng lực quản trị của các nhà quản trị DNNN còn yếu, thiếu tƣ duy chiến lƣợc và

tầm nhìn. Các kỹ năng quan trọng nhƣ: phát triển uy tín của doanh nghiệp, hoạch định

chiến lƣợc kinh doanh, sách lƣợc marketing quốc tế…chƣa đƣợc chú trọng bồi dƣỡng. Cơ

chế “xin – cho” vẫn còn nặng trong tƣ duy nhà quản trị DNNN, khiến cho quản trị doanh

nghiệp chƣa trở thành một nghề. Điều đó xuất phát từ cơ chế đào tạo, tuyển dụng, sử dụng

các nhà quản trị chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu thực tiễn môi trƣờng WTO.

Hầu hết các DNNN đều không có tuyên bố sứ mệnh, không có một chiến lƣợc

kinh doanh dài hạn chính thức nhƣ xuất phát điểm cho chiến lƣợc phát triển NNL, và do

vậy càng không thể nói tới sự phù hợp của chiến lƣợc quản lý NNL và chiến lƣợc đào tạo

và phát triển NNL với chiến lƣợc kinh doanh. Khi không có chiến lƣơc kinh doanh, thì

các mục tiêu chiến lƣợc cũng không có một cách chính thức. Có thể một số giám đốc có

hình dung về phƣơng hƣớng mục tiêu chiến lƣợc cho công ty trong đầu, nhƣng rõ ràng

các phƣơng hƣớng đó không đƣợc cụ thể hoá bằng văn bản, và quan trọng hơn là không

đƣợc truyền đạt một cách có chủ định cho toàn thể nhân viên của mình. Các công ty chỉ

có kế hoạch kinh doanh 5 năm và hàng năm, trong đó kế hoạch 5 năm không thể tính

đƣợc là kế hoạch chiến lƣợc dài hạn, vì đó chỉ là kế hoạch đặt ra theo yêu cầu của nhà

nƣớc, không có đƣợc sự phân tích môi trƣờng kinh doanh một cách cẩn thận, chƣa có

đƣợc định hƣớng bài bản cần có đối với doanh nghiệp trong kinh tế thị trƣờng.

Để việc quản lý con ngƣời có hiệu quả, các chính sách quản lý cần đồng bộ với nhau.

Trong công tác quản lý nguồn nhân lực, công tác đào tạo cần phải đƣợc thực hiện đồng bộ

với các công tác quản lý con ngƣời chủ yếu khác nhƣ thiết kế và phân tích công việc,

tuyển chọn, sử dụng và đánh giá kết quả công việc, trả lƣơng và phúc lợi. Với cách tiếp

90

cận trong quản lý kinh doanh hiệu quả, khâu đầu tiên là công tác thiết kế công việc. Cần

phải phân tích rõ công việc, đƣa ra một bản mô tả công việc cụ thể và rõ ràng, làm cơ sở

cho các công tác quản lý con ngƣời khác. Thế nhƣng các DNNN không có bản mô tả

công việc cho từng vị trí, do chịu sự quản lý của bộ Lao động – Thƣơng binh – Xã hội với

cách tiếp cận của kinh tế kế hoạch tập trung. Tuy đã phải chuyển sang hoạt động trong

nền kinh tế thị trƣờng, đa số các doanh nghiệp vẫn chƣa đƣợc đào tạo bài bản về phƣơng

pháp quản lý kinh doanh trong nền kinh tế thị trƣờng. Do không có mô tả công việc cho

các vị trí công việc trong công ty, hình dung của mọi ngƣời về công việc có phần mơ hồ,

thiếu phân định rõ ràng, và cũng không rõ ràng chi tiết trong yêu cầu về trình độ, kỹ năng

cụ thể cho mỗi vị trí công việc. Khi thiếu bản mô tả công việc với yêu cầu về trình độ, kỹ

năng và năng lực cụ thể cho mỗi vị trí công việc, thì việc xác định nhu cầu đạo tạo cũng

mơ hồ hơn. Thứ đến là việc đánh giá kết quả công việc trong các DNNN trên địa bàn Hà

nội cũng không kết hợp tốt để phối hợp với công tác đào tạo. Thông thƣờng thì khi đánh

giá kết quả công việc, ngƣời ta còn cần tìm ra nhu cầu đào tạo cho mỗi nhân viên. Công

việc này chƣa đƣợc làm tốt ở các doanh nghiệp trên. Các doanh nghiệp tốt nhất cũng chỉ

mới đánh giá kết quả công việc để trả lƣơng, mà chƣa giúp tìm ra những mặt yếu kém cần

đào tạo và phát triển của nhân viên. Hệ thống tiền lƣơng và phúc lợi cũng không đồng bộ

để thúc đẩy công tác đào tạo. Với hệ thống lƣơng theo quy định của nhà nƣớc đã quá lỗi

thời, không tạo động lực cho ngƣời lao động phấn đấu vƣơn lên bằng kết quả công việc

và bằng việc nỗ lực học tập. Cần phải nhấn mạnh rằng muốn doanh nghiệp làm tốt công

tác đào tạo và phát triển thì các nội dung chính sách về quản lý NNL phải đồng bộ với

nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Trong trƣờng hợp của các doanh nghiệp nhà nƣớc các

chính sách về thiết kế công việc, tuyển chọn nhân viên, đánh giá kết quả công việc và trả

lƣơng đã không phù hợp và bổ trợ đƣợc cho nhau, làm ảnh hƣởng tới công tác đào tạo và

phát triển NNL

Cách thức thực hiện công tác đào tạo của DNNN rất sơ khai, thiếu bài bản và chƣa

chuyên nghiệp. Có nhiều hoạt động, công đoạn quan trọng bị bỏ sót. Tất cả những điều

này làm giảm hiệu quả của công tác đào tạo và phát triển NNL một cách đáng kể. Cách

thức các DNNN tổ chức hoạt động đào tạo nhân viên, dựa trên quy trình đào tạo lý thuyết

gồm 4 giai đoạn: đánh giá nhu cầu đào tạo, thiết kế chƣơng trình đào tạo, thực hiện

91

chƣơng trình đào tạo và đánh giá hiệu quả của công tác đào tạo.

Thƣờng không tổ chức đánh giá nhu cầu đào tạo trong các DNNN một cách chính

thức, bài bản mà chỉ làm theo cách tƣơng đối sơ sài, thƣờng chỉ là những trao đổi không

chính thức với các cán bộ quản lý là chủ yếu, cộng với quan sát của giám đốc và cán bộ

phụ trách đào tạo. DNNN thƣờng bỏ qua các bƣớc cần thiết trong đánh giá nhu cầu đào

tạo nhƣ: phân tích công ty, phân tích công việc và phân tích cá nhân. Do mỗi giai đoạn,

mỗi khâu trong việc đánh giá nhu cầu đào tạo bị bỏ sót hoặc cắt ngắn lại mà các doanh

nghiệp thƣờng không đƣa ra đƣợc một danh sách nhu cầu cần đào tạo một cách cụ thể và

chi tiết. Thƣờng thì mỗi doanh nghiệp cũng biết những nét nhu cầu chính cho các nhóm

công việc tiêu biểu trong doanh nghiệp, mà không có đƣợc một danh sách nhu cầu cụ thể

cho những nhóm ngƣời hoặc từng ngƣời cụ thể. Điều này làm cho công tác đào tạo có thể

đi lệch hƣớng, không thực sự sát đúng với nhu cầu thực của các doanh nghiệp.

Hộp 2.4. Khoảng trống trong giám sát TĐKT

92

Hầu hết các TĐKT độc quyền đều không công bố thông tin với bất kỳ hình thức nào, dù pháp luật yêu cầu. Khoảng trống của sự minh bạch trong DNNN đã bộc lộ rõ khi CIEM công bố kết quả điều tra về quản trị doanh nghiệp trong DNNN. Ông Trần Tiến Cường, trưởng ban cải cách đổi mới DNNN tại CIEM cho biết: hầu hết các DNNN, kể cả TĐKT độc quyền đều chưa đáp ứng yêu cầu minh bạch thông tin. Với riêng các DNNN lớn, các T ĐKT độc quyền, nhóm nghiên cứu nhấn mạnh, nhiều đơn vị hoàn toàn không công bố thông tin với bất kỳ hình thức nào, đặc biệt thông tin mà pháp luật buộc phải công bố cho công tác giám sát. Ví dụ như chính sách quản lý rủi ro của doanh nghiệp, thưởng cho cán bộ chủ chốt, thông tin về giao dịch kinh doanh của thành viên Hội đồng quản trị, về mua bán cổ phần. .. Theo xu hướng này, các thông tin cần cho giám sát từ bên ngoài cũng không được các doanh nghiệp này công bố. Trong nhiều lĩnh vực “nhạy cảm” thông tin dường như bị đại đa số DNNN “giữ kín”. Có thể thấy điều này qua các “tỷ lệ” như: chỉ có 27% doanh nghiệp công bố thông tin về mua bán cổ phần trong công ty, 28% doanh nghiệp công bố thưởng cho thành viên Hội đồng quản trị và chính sách rủi ro cũng chỉ có 26% doanh nghiệp công bố. Công cụ giám sát của chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp này hầu hết là dựa vào “báo cáo”, trong khi các báo cáo đầy đủ đều rất hạn chế và thiếu trung thực. Do đó việc giám sát nội bộ gần như không hiệu quả mà chỉ trong chờ vào giám sát bên ngoài. Theo nhóm nghiên cứu, có tới 29% doanh nghiệp trả lời không bao giờ đánh giá kết quả hoạt động của các Giám đốc và các Phó Giám đốc. Với nhiều nội dung quan trọng, rất ít doanh nghiệp cho biết chủ sở hữu nhà nước có thực hiện giám sát. Ví dụ: 28,9% chủ sở hữu nhà nước giám sát thành lập các công ty con, cháu, 21,1% có giám sát đầu tư vào tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán, 28,9% có giám sát về cạnh tranh không lành mạnh, 31,6% có giám sát kinh doanh ngoài ngành và các rủi ro. Theo lý giải của nhóm nghiên cứu, có thể các T ĐKT, ban kiểm soạt của các doanh nghiệp này đa số là kiêm nhiệm vai trò quản lý.

Nguồn: Vietnamnet, cập nhật ngày 13/11/2010

iii) Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế.

DNNN đƣợc cho là khu vực có những đóng góp không đáng kể vào việc hội nhập

kinh tế quốc tế của Việt Nam so với các khu vực khác. Bằng chứng là các DNNN đóng

góp một cách khiêm tốn cho kim ngạch xuất khẩu nhƣng lại là nơi tạo ra một tỷ lệ lớn

kim ngạch nhập khẩu. Vì các nguồn số liệu chính thức hiện nay không tách bạch số liệu

xuất - nhập khẩu của khu vực DNNN và DNDD nên kết quả xuất - nhập khẩu của hai khu

vực này chỉ có thể đƣợc ƣớc tính một cách gần đúng. Cụ thể là sau khi trừ dầu thô, than

và khoáng sản thì DNNN chỉ tạo ra khoảng 15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Về phƣơng diện nhập khẩu, số liệu còn hạn chế hơn nữa. Tuy nhiên, nếu nhìn vào

các dự án lớn nhƣ Dung Quất, Vinashin, và những hoạt động thâm dụng vốn và công

nghệ (chủ yếu có đƣợc nhờ nhập khẩu) của DNNN thì tỷ trọng nhập khẩu của DNNN

chắc chắn rất cao.

Kết hợp hai thực tế, một là khu vực FDI xuất siêu (nên khu vực trong nƣớc nhập

siêu) và hai là kim ngạch xuất khẩu của khu vực DNNN chỉ chiếm dƣới 20%, trong khi

nhập khẩu rất nhiều, có thể thấy rằng DNNN là một nguyên nhân quan trọng của tình

trạng nhập siêu ngày một cao ở Việt Nam.

Những hạn chế trên đây cho ta nhìn nhận một cách đầy đủ hơn về bức tranh hoạt

động của khu vực DNNN. Cũng dễ dàng để chúng ta nhận ra rằng còn có quá nhiều vấn

đề mà khu vực này cần phải tiếp tục hoàn thiện để có thể phát triển hơn nữa. Nhìn một

cách toàn diện thì so với giai đoạn trƣớc, trong những năm gần đây khu vực DNNN đã

hoạt động hiệu quả hơn trƣớc, nhƣng chƣa đủ để khu vực này có thể cùng với kinh tế nhà

nƣớc đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.

2.4.2. Nguyên nhân

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của khu vực

DNNN. Có thể chia ra làm 2 nhóm nguyên nhân chính: Nhóm nguyên nhân từ phía nhà

nƣớc và nhóm nguyên nhân từ phía các DNNN.

93

* Từ phía nhà nước

+ Nhận thức về vai trò chủ đạo của DNNN: Những yếu kém trong hoạt động của

các DNNN đề cập ở trên đây có thể giải thích bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhƣng

trong những năm gần đây, việc nhận thức lại vai trò của các DNNN đã cho thấy một

nguyên nhân không thể phủ nhận đó là do khu vực kinh tế nhà nƣớc đƣợc xác định có vai

trò chủ đạo trong nền kinh tế nên khu vực này đƣợc hƣởng nhiều ƣu đãi. DNNN đƣợc độc

quyền kinh doanh trong nhiều lĩnh vực, đƣợc sử dụng những nguồn lực to lớn của đất

nƣớc nhƣ tài nguyên, đất đai và vốn đầu tƣ, đƣợc ƣu đãi tín dụng… Trong đó, các DNNN

đƣợc chính phủ vay hộ tiền để kinh doanh và đầu tƣ hay đƣợc nhà nƣớc bảo lãnh cho các

khoản vay của mình (ví dụ 750triệu USD chính phủ đi vay về cho Vinashin vay lại). Khi

các DNNN gặp khó khăn về vốn thì đƣợc nhà nƣớc cứu trợ, khoanh nợ, bơm thêm

vốn…Cách ứng xử nhƣ vậy đã kéo dài nhiều thế kỷ và vẫn chƣa thay đổi làm cho các

DNNN nhƣ những đứa con đƣợc nuông chiều. Nói cách khác, nguyên nhân chính của sự

yếu kém trong hoạt động của khu vực kinh tế nhà nƣớc trong đó có các DNNN chính là ở

tƣ duy bắt khu vực này phải giữ vai trò chủ đạo.

Cũng chính vì nhìn nhận khu vực nhà nƣớc với vai trò đầu tàu nhƣ vậy, nên nhà

nƣớc đã đặt trên vai các DNNN quá nhiều gánh nặng, có quá nhiều các mục tiêu không rõ

ràng mà khu vực DNNN phải thực hiện, và đôi khi các mục tiêu đó lại triệt tiêu lẫn nhau.

Mục tiêu lớn nhất của bất kỳ một doanh nghiệp nói chung nào đó là mục tiêu lợi nhuận:

sản xuất kinh doanh nhằm thu đƣợc lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, chúng ta đều thấy mục

tiêu hoạt động của các DNNN không chỉ là tối đa hoá lợi nhuận, và đôi khi mục tiêu này

lại còn đƣợc xếp sau các mục tiêu chính trị, xã hội khác. Chủ sở hữu là nhà nƣớc chƣa

tách bạch đƣợc giữa vai trò của một nhà đầu tƣ chuyên nghiệp với vai trò quản lý và điều

tiết thị trƣờng. Điều này dẫn tới việc khó định lƣợng đƣợc các mục tiêu kinh tế thuần tuý

và các mục tiêu chính trị xã hội khác.

+ Việc kiểm tra, giám sát các DNNN yếu kém, đặc biệt là đối với các tập đoàn kinh

tế. TCT Đầu tƣ và Kinh doanh vốn nhà nƣớc SCIC đƣợc thành lập theo quyết định 151 và

152 của Thủ tƣớng chính phủ, chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8/2006. Hoạt động

của SCIC tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu: (i) Đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp; (ii) Đầu tƣ trực tiếp và đầu tƣ gián tiếp; (iii) Cung cấp dịch vụ tƣ vấn tài

94

chính; (iv) Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ khác. Sự ra đời của SCIC là cần thiết nhằm quản

lý và sử dụng hiệu quả vốn nhà nƣớc, chuyển việc quản lý vốn từ phƣơng thức hành chính

sang phƣơng thức kinh doanh vốn nhà nƣớc. Tính đến ngày 30/6/2008, SCIC đã tiếp nhận

876 doanh nghiệp với lƣợng vốn nhà nƣớc 8 035 tỷ đồng. Tính toán sơ bộ cho thấy trong

số doanh nghiệp này có tới 40% doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp, 10% doanh

nghiệp làm ăn thua lỗ. SCIC đã cơ cấu lại một số ngành và doanh nghiệp lớn nhƣ Pacific

Airlines, Bảo Minh, Vinamilk…

Tuy nhiên, SCIC cũng hàm chứa những bất cập. Thứ nhất, chậm xây dựng và thúc

đẩy kế hoạch cơ cấu lại DNNN để khu vực doanh nghiệp này tập trung vào những lĩnh

vực then chốt của nền kinh tế và có qui mô tƣơng đối lớn. Đây là một trong những

nguyên nhân khiến cho khu vực DNNN chƣa đƣợc tinh lọc và gắn kết nhƣ một “quả đẩm

thép” trong tạo ra cơ hội lan tỏa và định hƣớng cũng nhƣ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động

đầu tƣ xã hội nói chung. Mục tiêu giữ lại 100 DNNN lớn, làm ăn hiệu quả nhất chƣa đạt

đƣợc. Đến nay, SCIC vẫn chƣa có đƣợc phƣơng án tái cấu trúc cụ thể và những thông tin

cần thiết theo định hƣớng này. Sự chậm trễ này không chỉ gây nên tâm lý chờ đợi, giảm

động lực phát triển, mà còn là cơ hội gia tăng hành vi tham những, thất thoát tài sản công.

Thứ hai, chƣa thực sự hoàn thiện cơ chế quản lý hiệu quả các phần vốn và tài sản nhà

nƣớc sau CPH, trong đó có 4 vấn đề gây bức xúc nhất là: thực hiện chế độ đại diện chủ sở

hữu phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp còn phân tán ở nhiều cơ quan; không bổ nhiệm

kịp thời thay thế những cán bộ đủ chất lƣợng làm đại diện chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tại

doanh nghiệp; qui định quyền và trách nhiệm các nhân và tổ chức quản lý vốn tại doanh

nghiệp; cơ chế thực hiện thoái vốn nhà nƣớc tại các doanh nghiệp hậu CPH còn chậm và

chƣa minh bạch. Thứ ba, Còn thiếu những quy định pháp luật cụ thể để SCIC hoạt động

đầy đủ, đồng bộ và hiệu quả, nhất là những qui định liên quan đến sự tham gia của TCT

này trên thị trƣờng tài chính khiến cho SCIC bị thu hẹp hoạt động, hoạt động đầu tƣ, kinh

doanh và tƣ vấn tài chính trở nên mờ nhạt. Thứ tư, Không kiểm soát đƣợc tình trạng đầu

tƣ ngoài ngành của các Tập đoàn và TCT nhà nƣớc. Đây đƣợc xem nhƣ thƣớc đo vai trò

và tín hiệu cảnh báo hiệu quả hoạt động của SCIC

+ Chương trình cải cách DNNN thực hiện chậm. Việc thể chế hoá các chủ trƣơng,

chính sách còn chậm, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp mà thiên

95

về có lợi cho quản lý; tổ chức thực hiện yếu, thủ tục hành chính rƣờm rà; chƣơng trình đổi

mới, sắp xếp lại và cổ phần hoá DNNN đã đƣợc Chính phủ phê duyệt, nhƣng triển khai

thực hiện chậm, thiếu thống nhất giữa các bộ, ngành và địa phƣơng làm kéo dài thời gian

chuyển đổi DNNN. Việc cổ phần hoá chậm còn có lý do từ phía DNNN còn tồn tại tâm lý

e ngại cổ phần hoá, do các cấp lãnh đạo thì lo lắng cổ phần hoá sẽ ảnh hƣởng đến vị trí

của họ trong công ty, còn ngƣời lao động thì lo ngại sẽ mất việc làm…Do đó từ phía các

DNNN vẫn còn ngần ngại dẫn đến trì hoãn việc cổ phần hoá. Mặt khác các nguyên nhân

làm cho DNNN sau khi cổ phần hoá vẫn hoạt động không hiệu quả nhƣ mong đợi là do

cơ chế chính sách chƣa tạo điều kiện cho doanh nghiệp có động lực nâng cao hiệu quả

hoạt động của mình, các DNNN chƣa thực sự đƣợc trao quyền tự chủ hoàn toàn trong các

quyết định sản xuất kinh doanh của mình, đầu tƣ dàn trải không trọng tâm dẫn đến khó có

thể hoạt động một cách có hiệu quả ở tất cả các ngành các doanh nghiệp; cơ chế quản lý

DNNN do nhà nƣớc bổ nhiệm còn chồng chéo, không hiệu quả, tạo ra một bộ máy quan

liêu đặt lên các DNNN…, trình độ quản lý của bộ máy lãnh đạo cũng nhƣ trình độ của

ngƣời lao động còn yếu, khoa học kỹ thuật công nghệ mới chậm đƣợc cải tiến, không theo

kịp với thế giới, vốn hoạt động trong các DNNN ít; tâm lý của lãnh đạo cũng nhƣ của

ngƣời lao động còn ỷ lại vào nhà nƣớc, không chủ động đổi mới để nâng cao hiệu quả

hoạt động kinh doanh của mình.

* Từ phía doanh nghiệp

+ Đầu tư dàn trải

Việc đầu tƣ đa ngành, đa lĩnh vực dƣờng nhƣ trở thành một xu hƣớng trong những

năm gần đây tại các tập đoàn kinh tế nhà nƣớc. Việc đầu tƣ sang nhiều ngành nhằm phân

tán rủi ro và mang lại nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp. Trong thực tế, trên thế giới,

rất nhiều các tập đoàn kinh tế lớn cũng đầu tƣ ngoài ngành và rất thành công. Tuy nhiên,

để có đƣợc những thành công nhƣ vậy thì các tập đoàn này đã có bề dày lịch sử phát triển

hàng trăm năm và đã rất có thế lực ở ngành kinh doanh chính. Có thể nói, việc đa dạng

hóa đầu tƣ của các tập đoàn và doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu thực tiễn phát triển

kinh doanh: từ sự xuất hiện cung - cầu mới, từ xu hƣớng phát triển ngành và sự phát triển

của khoa học công nghệ. Ngoài ra, sự gia tăng áp lực cạnh tranh giữa các đối thủ tiềm

năng đòi hỏi các doanh nghiệp phải bám sát thị trƣờng, nhạy bén và năng động nắm bắt

96

những thời cơ mới, không ngừng mở rộng quy mô, phát huy các nguồn lực bên trong, huy

động nguồn lực bên ngoài, giảm thiểu rủi ro theo kiểu “không bỏ hết trứng vào một giỏ”.

Đa dạng hóa cũng góp phần phát triển thị trƣờng, tạo đà phát triển tiếp theo cho doanh

nghiệp.

Theo thống kê của Bộ Tài chính, tính đến hết năm 2007, tổng giá trị tài sản của 70

tập đoàn, tổng công ty nhà nƣớc đạt hơn 803.000 tỉ đồng, vốn chủ sở hữu là 323.000 tỉ

đồng, số vốn đầu tƣ ra bên ngoài của các tập đoàn, tổng công ty có giá trị lên đến gần

117.000 tỉ đồng. Trong đó 28/70 tổng công ty có hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán,

ngân hàng, bảo hiểm... với giá trị hơn 23.300 tỉ đồng.

Tuy nhiên ở Việt Nam, các tập đoàn và công ty nhà nƣớc lớn đã và đang giữ vai trò

quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là công cụ để Nhà nƣớc điều hành và phát triển

nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần theo định hƣớng XHCN. Nhƣ vậy, về bản chất

kinh tế, các tập đoàn và công ty nhà nƣớc không phải và càng không thể là định chế hoạt

động thiên về đầu tƣ bề rộng thuần túy với kỳ vọng thu lợi nhuận thị trƣờng, mà chỉ nên

tham gia hoặc đảm trách các hoạt động kinh doanh công ích và những hoạt động nào mà

các doanh nghiệp tƣ nhân không muốn làm hoặc không đƣợc phép làm, để bảo đảm cân

đối và duy trì cạnh tranh lành mạnh, hoặc hỗ trợ và tạo động lực thúc đẩy đời sống kinh tế

- xã hội diễn ra trơn tru, bình thƣờng.

Đặc biệt, trong khuôn khổ cơ chế hiện hành, các tập đoàn và công ty nhà nƣớc

thƣờng rất dễ khai thác, lạm dụng ƣu đãi (nhất là về vốn, nghĩa vụ tài chính và điều kiện

đất đai) cùng các cơ hội kinh doanh độc quyền hơn những loại hình doanh nghiệp khác,

nên việc đầu tƣ đa ngành vì mục tiêu lợi nhuận thị trƣờng thuần túy, nhất là nếu có tính

chất cơ hội cục bộ, cá nhân sẽ gây ra những cạnh tranh không lành mạnh hoặc phải trả

những cái giá đắt đỏ cho rủi ro thị trƣờng, sự thiếu trách nhiệm và nạn tham nhũng...

Thực tế cho thấy, việc hoạt động đa ngành nghề, đa lĩnh vực cũng có tính hai mặt

của nó: Một mặt, nếu doanh nghiệp đi đúng hƣớng và đầu tƣ thành công sẽ giúp doanh

nghiệp đạt đƣợc những mục tiêu nhƣ đã nêu trên; mặt khác, nếu “chệch hƣớng” hoặc đầu

tƣ không hiệu quả có thể làm suy sụp hình ảnh của doanh nghiệp, thậm chí đánh mất

thƣơng hiệu và gây ra những thiệt hại to lớn khó lƣờng cho doanh nghiệp.

Những tác động mặt trái của đa dạng hóa đầu tƣ là do: khi doanh nghiệp đầu tƣ đa

97

ngành, đa nghề ít nhiều đánh mất đi lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh của mình, rất dễ

mắc sai lầm do phân tán các nguồn lực và thiếu kinh nghiệm của bộ máy quản lý. Bên

cạnh đó, việc kiểm soát vốn trong hoạt động đa lĩnh vực rất phức tạp, nếu làm không tốt

thì sự thất thoát, lãng phí và khả năng đổ vỡ tài chính là những nguy cơ có thực. Đặc biệt,

cần thấy rằng, với khả năng tài chính có hạn của mình, việc đầu tƣ vốn dàn trải sẽ buộc

doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vốn mới với những điều khoản thƣơng mại ngặt nghèo,

dễ sa vào chiếc bẫy nợ nần hoặc lãng phí khủng khiếp nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc và

tín dụng đầu tƣ các cấp, loại.

Việc đổ vỡ của tập đoàn Vinashin là một ví dụ điển hình cho việc đầu tƣ đa ngành

kém hiệu quả của các tập đoàn kinh tế nhà nƣớc Việt Nam. Đầu tƣ dàn trải thể hiện ngay

ở việc Vinashin tham gia vào quá nhiều dự án ở nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau từ đóng

tàu đến vận tải biển, cảng biển, sản xuất thép, xi măng, bia, dịch vụ hàng không, bảo

hiểm, ngân hàng, nhập khẩu ôtô xe máy và mới đây còn lấn sân sang lĩnh vực nông

nghiệp (một số thành viên của Vinashin còn đầu tƣ sang trồng thanh long, dứa và chăn

nuôi lợn để đa dạng hóa ngành nghề). Chính vì đầu tƣ dàn trải đã khiến cho hiệu quả đầu

tƣ không cao. Nhiều dự án đến nay thiếu vốn, bị dở dang, không cho ra sản phẩm trong

khi vốn đầu tƣ không thể thu hồi và các khoản nợ ngày càng lớn.

Bộ Tài chính cho biết, đến hết năm 2008, Vinashin đã giải ngân xong 750 triệu

USD huy động từ trái phiếu quốc tế do Chính phủ bảo lãnh. Tổng số dự án sử dụng nguồn

vốn này lên tới 219 nên số lƣợng dự án dở dang nhiều và phần lớn chƣa phát huy đƣợc

hiệu quả. Tính đến 31/12/2008, số lƣợng dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu quốc tế đã

hoàn thành và đƣa vào sử dụng đồng bộ là 56 dự án, số còn lại là 163 dự án. Nhƣ vậy, có

đến 75% số dự án chƣa phát huy tác dụng. Kết quả thanh tra giữa năm 2008 cho thấy, tại

10 DN thành viên lớn thuộc Vinashin đã có 122 dự án đƣợc duyệt với tổng mức đầu tƣ

54.179 tỷ đồng. Đặc biệt theo chủ trƣơng và phê duyệt dự án thì nhiều dự án cơ bản đƣợc

hoàn thành trong năm 2007, tuy nhiên việc triển khai dự án đều chậm. Một trong các

nguyên nhân quan trọng chính là do khả năng đáp ứng về vốn quá hạn chế.

Tại thời điểm thanh tra giữa năm 2008, hầu hết các doanh nghiệp đều báo cáo rất

“đói” về vốn, chƣa tìm đƣợc nguồn để cân đối vốn đầu tƣ nhƣ: Công ty Công nghiệp tàu

98

thuỷ Nha Trang 891 tỷ đồng; Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Cái Lân 495 tỷ đồng; Tổng

Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Bạch Đằng 2.400 tỷ đồng; Tổng công ty Công nghiệp tàu

thuỷ Nam Triệu 3.982 tỷ đồng, Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Phà Rừng 3.749 tỷ đồng.

Nhƣ vậy đầu tƣ dàn trải trong khi điều kiện không cho phép đã không mang lại

những kết quả nhƣ mong đợi. Bài học rút ra từ những thất bại của Vinashin trong việc đầu

tƣ đa ngành đã cho khu vực DNNN những kinh nghiệm quý báu.

+ Sự lạc hậu và trì trệ về quản trị kinh doanh. Bên cạnh sự lạc hậu về khoa học-

công nghệ của khu vực DNNN là sự lạc hậu và trì trệ về quản trị kinh doanh, một phần

do chƣa hoàn thiện về thể chế, nhƣng quan trọng hơn là lạc hậu về tổ chức cán bộ trong

các DNNN. Tổng số lao động trực tiếp trong khu vực DN DTNN hiện nay đạt trên 1,1

triệu ngƣời, tạo ra trên 50% giá trị xuất khẩu và trên 38% giá trị sản xuất công nghiệp của

cả nƣớc, trong khi lao động trong khu vực DNNN lớn hơn nhiều mà kết quả sản xuất

kinh doanh đạt thấp hơn.

+ Các DNNN chưa thực sự chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Cơ chế

quản lý kế hoạch hoá tập trung trực tiếp từ Nhà nƣớc đã dần đƣợc dỡ bỏ trong thời gian

qua. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại xu hƣớng bao cấp, độc quyền Nhà nƣớc chuyển thành

độc quyền kinh doanh của một số công ty lớn; các DNNN chƣa tự chủ hoàn toàn trong

các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, vẫn còn sự can thiệp của Nhà nƣớc dƣới

hình thức nào đó. Việc các DNNN chƣa đƣợc trao quyền tự quyết hoàn toàn làm cho khu

vực này không có động cơ để hoạt động có hiệu quả, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Mặt

khác, khi Nhà nƣớc can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, tạo cho bản thân

doanh nghiệp tâm lý ỷ nại, trông chờ từ phía Nhà nƣớc mà không chủ động nâng cao hiệu

quả hoạt động của mình, do đó dẫ đến tình trạng DNNN hoạt động chƣa thực sự hiệu

quả, khả năng cạnh tranh còn yếu so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

khác, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài.

+ Trình độ của người lao động trong các DNNN còn thấp. Lao động trong khu vực

DNNN nói riêng và trong nền kinh tế Việt Nam nói chung là chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu

của phát triển. Thêm vào đó, cơ chế tuyển ngƣời trong các DNNN có nhiều tiêu cực,

không đảm bảo tính công khai, minh bạch, ngƣời lao động trong khu vực DNNN không

99

có động lực làm vệc mạnh mẽ, làm cho hiệu quả lao động thấp.

Những hạn chế, yếu kém của khu vực DNNN trên đây cho thấy trong điều kiện hội

nhập kinh tế quốc tế thì khu vực này sẽ gặp nhiều khó khăn, cần đẩy mạnh cải cách để

tồn tại và phát triển đƣợc.

Tóm lại, quá trình phát triển DNNN Việt Nam sau hơn 20 năm đã trải qua 4 giai

đoạn lớn: từ 1986 đến 1991; từ 1991 đến 2001 và từ 2001 đến 2006; và từ 2006 đến nay.

Qua từng giai đoạn, cải cách DNNN đã có những thành công nhất định góp phần nâng cao năng suất, chất lƣợng và hiệu quả hoạt động của mình, các DNNN đã một phần thực

hiện đƣợc vai trò của mình trong nền kinh tế. Tuy vậy, quá trình này vẫn còn những hạn

chế chƣa khắc phục đƣợc nhƣ hiệu quả hoạt động của DNNN còn thấp, khả năng cạnh

tranh còn hạn chế, quy mô doanh nghiệp nhỏ, cơ cấu doanh nghiệp chƣa thực sự hợp lý,

việc tiến hành sắp xếp lại các DNNN còn chậm và chƣa đạt mục tiêu đề ra.

Trong những năm trƣớc mắt,, DNNN Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển nhƣng

cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh diễn biến kinh tế vĩ

mô phức tạp và khó lƣờng. Không thể phủ nhận đƣợc những nỗ lực của khu vực DNNN, của cả nền kinh tế, của các cấp, các ngành trong thời kỳ đầu hội nhập trên sân chơi chung

toàn cầu: DNNN đã tập trung nhiều hơn cho những ngành, những lĩnh vực kinh tế quan

trọng của đất nƣớc; cùng chung tay chống lạm phát, vƣợt qua khủng hoảng và suy thoái,

góp phần đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, hƣớng tới sự phát triển DNNN

bền vững. Tuy nhiên, khu vực DNNN Việt Nam, nhất là các TĐKT nhà nƣớc chƣa tận

dụng đƣợc những cơ hội do hội nhập quốc tế đem lại, năng lực cạnh tranh, hiệu quả sản

xuất kinh doanh thấp, thiếu minh bạch trong tổ chức và hoạt động. Đặc biệt những bất

cập từ những DNNN lớn nhƣ những TĐKT và TCT nhà nƣớc đã đòi hỏi cần phải nhìn

nhận lại khu vực doanh nghiệp này từ vị trí, vai trò, đến tổ chức hoạt động nhằm phát

triển khu vực doanh nghiệp này thành lực lƣợng chủ lực trong hội nhập quốc tế.

Nhƣ vậy, trong thời gian tới, DNNN muốn phát triển đƣợc trong môi trƣờng đầy

100

cạnh tranh và luôn biến động thì khu vực này cần phải có những thay đổi mạnh mẽ hơn nữa, quyết liệt hơn nữa để những giải pháp cải cách DNNN có thể phát huy đƣợc hiệu quả.

Chƣơng 3.ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TIẾ P TỤC PHÁT

TRIỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

3.1. Bối cảnh mới

3.1.1. Bối cảnh quốc tế

Sau hai năm tồi tệ nhất trong lịch sử, nền kinh tế thế giới đang bƣớc vào giai đoạn hồi

phục. Mặc dù tốc độ tăng trƣởng có thể không lạc quan nhƣ giới phân tích đã hy vọng vì

cuộc khủng hoảng nợ tại Châu Âu và nhiều vấn đề khác, song theo đánh giá của WB, tỷ lệ

tăng trƣởng của kinh tế thế giới sẽ đạt từ 2,9% đến 3,3% trong hai năm 2010 và 2011 và

sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn trong năm 2012; Kết thúc giai đoạn hồi phục, kinh tế thế giới

sẽ mở ra một chu kỳ tăng trƣởng mới. Đây là cơ hội lớn cho nhiều nƣớc đặc biệt là các

nƣớc đang phát triển trong đó có Việt Nam. Bởi trong cuộc đại suy thoái vừa qua, các

cƣờng quốc Châu Âu, Mỹ và Nhật Bản là những nƣớc bị ảnh hƣởng nhiều nhất và đang

phải vật lộn để giữ vững tiến trình hồi phục hình chữ V, trong khi các nƣớc đang phát

triển không bị ảnh hƣởng nhiều sẽ tìm cách tái cân bằng nền kinh tế thông qua các

chƣơng trình tái cơ cấu và đột phá để phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian tới, thƣơng

mại giữa các nƣớc sẽ chƣa đƣợc mở rộng thêm do trong thời gian khủng hoảng, nhiều

nƣớc đã và sẽ tiếp tục áp dụng các hình thức bảo hộ mậu dịch, tăng tiêu dùng sản phầm

trong nƣớc. Các nƣớc phát triển hƣớng về xuất khẩu trong thời gian tới có thể gặp khó

khăn, phải đối mặt với thâm cán cân hụt thƣơng mại và tranh chấp thƣơng mại. Khủng

hoảng cũng thay đổi tƣ duy nhiều nƣớc trong việc phải có sự kết hợp giữa kinh tế và

chính trị để giải quyết các vấn đề tồn tại của kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp thuộc sở hữu

Nhà nƣớc sẽ là công cụ đắc lực giúp Chính phủ giải quyết các vấn đề nảy sinh..

Vị thế của các nền kinh tế trên thế giới cũng đang có sự thay đổi. Châu Á sẽ là khu

vực kinh tế năng động dẫn dắt tăng trƣởng của kinh tế thế giới trong thời gian tới. Dẫn

đầu cuộc hồi phục vừa qua là các nền kinh tế mới nổi nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia

101

và Brazil. Đặc biệt Trung Quốc đƣợc xem là một hiện tƣợng của năm 2010 và thập kỷ tới.

Năm 2010, Trung Quốc lập hai kỳ tích: vƣợt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn

thứ hai thế giới và xuất khẩu của nƣớc này đạt 10% tổng lƣợng hàng hóa xuất khẩu toàn

thế giới. Dự báo Trung Quốc vẫn còn có khả năng tăng trƣởng kinh tế khoảng 7%/năm

trong suốt thập niên 2010 -2020 và vƣơn lên giữ vị trí số một thế giới. Trung Quốc phát

triển sẽ có tác dụng kích thích cả khu vực, dẫn tới tăng mạnh về mặt thƣơng mại và đóng

vai trò thúc đẩy cải tổ kinh tế trên bình diện rộng lớn hơn. Hoạt động kinh tế gia tăng sẽ

kích thích thƣơng mại và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào các nền kinh tế trên khắp khu

vực Đông Á. Theo dự báo của Ngân hàng thế giới, trong vòng 17 năm tới, Trung Quốc sẽ

chiếm tới 40% tăng trƣởng nhập khẩu của các nƣớc đang phát triển, trong đó các nƣớc

Đông Nam Á sẽ là những ngƣời đƣợc hƣởng nhiều nhất. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng sẽ

là đối thủ cạnh tranh quyết liệt với phần còn lại của khu vực. Vì sự phát triển của kinh tế

Trung Quốc sẽ thu hút thêm nhiều khoản đầu tƣ mà lẽ ra các nƣớc Đông Nam Á có thể

nhận đƣợc và lợi thế của các nƣớc ASEAN là chi phí sản xuất thấp nhất thế giới về các

mặt hàng sử dụng nhiều lao động sẽ không còn nữa khi cạnh tranh với Trung Quốc. Trong

bối cảnh nhƣ vậy, hợp tác với Trung Quốc là một phƣơng án xoa dịu áp lực mà các nƣớc

trong khu vực hy vọng thông qua đó để tận dụng cơ hội mà sự phát triển của kinh tế

Trung Quốc mang lại. Sự phát triển của kinh tế Trung Quốc cũng tạo ra sức ép buộc các

nƣớc trong khu vực nói chung, Việt Nam nói riêng phải đẩy nhanh hơn nữa cải cách trong

nƣớc do Trung Quốc là áp lực cạnh tranh rất lớn của Việt Nam, có ảnh hƣởng lớn tới Việt

Nam. Cơ hội lớn nhất của sự kiện Trung Quốc hoàn thành giai đoạn quá độ gia nhập

WTO là Việt Nam có thể học hỏi đƣợc kinh nghiệp của Trung Quốc về triển khai thực

hiện cam kết gia nhập WTO trong giai đoạn quá độ.

Quá trình toàn cầu hóa đang tiếp tục diễn ra rất mạnh mẽ dƣới tác động thúc đẩy

của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức. Đặc trƣng cơ bản của quá

trình này trong giai đoạn hiện nay là xu hƣớng nhất thể hóa thị trƣờng thế giới. Tổ chức

thƣơng mại thế giới WTO với 153 nƣớc thành viên đang là sân chơi toàn cầu khi ngày

càng có thêm nhiều nƣớc xúc tiến đàm phán gia nhập nhƣ Nga, Lào…Vòng đàm phán

Đôha về tự do thƣơng mại toàn cầu tiếp tục đƣợc thúc đẩy thể hiện rõ hơn xu hƣớng này.

Bên cạnh đó, liên kết thƣơng mại khu vực cũng đang là cơ chế hợp tác phổ biến giữa các

102

quốc gia. Gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã chuyển trọng tâm vào việc xây dựng

các liên kết tự do song phƣơng và khu vực (RTA/BFTA) trong đó có không ít quốc gia

trƣớc đây vốn chỉ dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho cơ chế đa phƣơng của WTO nhƣ Hoa Kỳ,

EU, Nhật Bản, Canada. Điển hình nhƣ Hoa Kỳ đã ký kết một loạt các hiệp định tự do hóa

thƣơng mại song phƣơng với Gioocđani (2001), Singapore (2004), Oxtraylia (2005)…và

một số thiết chế khu vực nhƣ Khu vực mậu dịch tự do Trung Mỹ (CAFTA), Liên minh

thuế quan Nam Phi (SACU), thành lập diễn đàn APEC và những thỏa thuận tƣơng tự. Hai

quá trình đó làm tăng sức ép cạnh tranh và tác động sâu sắc đến các nền kinh tế. Do đó,

mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế song phƣơng và đa phƣơng giữa các quốc gia đang diễn

ra ngày càng sâu rộng cả trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, phòng chống tội phạm,

phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trƣờng. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi Việt Nam phải

phát huy tính năng động, sáng tạo, tích cực chuẩn bị lực lƣợng về mọi mặt, vƣơn lên

mạnh mẽ để hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động bằng cách điều chỉnh chiến lƣợc,

chính sách theo hƣớng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thƣơng mại hàng hóa

và dịch vụ, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật giữa nƣớc ta và các nƣớc ngày càng tự

do hơn, phù hợp với xu thế khách quan và lợi ích của nƣớc ta. Thế giới ngày càng trở

thành một thị trƣờng thống nhất và sự tác động qua lại giữa các quốc gia tăng cao, làm

cho tất cả các nƣớc phải thƣờng xuyên có những cải cách kịp thời trong nƣớc để thích ứng

với sự phát triển của thế giới. Hội nhập quốc tế là một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh

phức tạp, đặc biệt là đấu tranh chống lại sự chi phối, áp đặt của các cƣờng quốc kinh tế và

các công ty xuyên quốc gia, không ngừng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần

phát triển kinh tế, củng cố an ninh chính trị, độc lập tự chủ về kinh tế và giữ gìn bản sắc

văn hóa dân tộc của mỗi quốc gia thông qua việc thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ với

nhau, đan xen ở nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác. Các nƣớc đang phát

triển nhƣ nƣớc ta cần chủ dộng lựa chọn, phát triển những ngành, lĩnh vực có lợi thế cạnh

tranh, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và tham gia có hiệu quả vào phân công lao

động quốc tế. Điều này cũng cho thấy, với thị trƣờng thế giới đang đƣợc nhất thể hóa, các

quốc gia muốn tận dụng đƣợc nhiều cơ hội phát triển, cần phải cải cách kinh tế theo các

chuẩn mực của thị trƣờng thế giới, phù hợp với điều kiện, đặc điểm của đất nƣớc mình.

Các định chế thƣơng mại khu vực và toàn cầu cũng đang có những thay đổi lớn ảnh

103

hƣởng đến lợi ích của các nƣớc đang phát triển và Việt Nam nói riêng. Vòng đàm phán

Đôha tháng 7/2010 đang lâm vào ngõ cụt cho thấy sức mạnh đấu tranh của các nƣớc đang

phát triển với các nƣớc phát triển. Việt Nam đang ở giai đoạn đầu quá độ thực hiện cam

kết gia nhập WTO, những thay đổi gần đây của tổ chức này cùng với những bất đồng

chƣa thế giải quyết của hai nhóm nƣớc cũng tạo cơ hội và đòi hỏi Việt Nam phải đẩy

nhanh cải cách để phù hợp với WTO. Vì nếu những nỗ lực làm lành mạnh hóa WTO

không tiến triển sẽ gia tăng mâu thuẫn giữa hai nhóm nƣớc, do đó quá trình tự do hóa sẽ

phức tạp hơn, cơ hội tự do hóa sẽ hạn chế hơn đối với các nƣớc phát triển.

Vấn đề môi trƣờng sẽ tiếp tục tồn tại và có khả năng sẽ gay gắt hơn trong những

năm tới, nhất là đối với những nƣớc nghèo đang phát triển, thiếu tiềm lực về tài chính và

khoa học – công nghệ để giải quyết các vấn đề môi trƣờng đang nảy sinh ngày càng nhiều

do tăng trƣởng nhanh dựa vào tài nguyên. Điều này đặt ra cho các nƣớc đang phát triển

phải đặt mục tiêu phát triển bền vững, có tính đến thay đổi của môi trƣờng.

Sự phát triển rất mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ và tri thức trong

những năm tới thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tri thức và làm biến đổi sâu sắc các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Sở hữu trí tuệ, trình độ làm chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa

quyết định tƣơng lai phát triển của các nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, các

lợi thế so sánh quốc tế của các quốc gia không ngừng biến đổi. Chu trình luân chuyển

vốn, vòng đời công nghệ và chu kỳ sản phẩm ngày càng đƣợc rút ngắn, đòi hỏi các quốc

gia cũng nhƣ các doanh nghiệp phải nắm bắt và có khả năng thích ứng nhanh. Xu thế này

cũng đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chiến lƣợc và chính sách phát triển.

Tóm lại, bối cảnh quốc tế đang đặt ra cho Việt Nam vấn đề phải gấp rút cải cách,

tái cấu trúc nền kinh tế theo hƣớng phải nâng cao sức cạnh tranh và tận dụng cơ hội trong

hội nhập WTO để phát triển và thích ứng với những biến động, đạt mục tiêu phát triển

bền vững.

3.1.2. Bối cảnh trong nước

Quá trình đổi mới hơn 20 năm qua nhất là từ năm 1991 – khi thực hiện Chiến lƣợc

phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010), thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập

kinh tế quốc tế, thế và lực phát triển của nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi lớn. Với

tƣ cách là một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận đƣợc sự nể trọng và có ảnh hƣởng

104

ngày càng lớn trong cộng đồng quốc tế.

Trong điều kiện nền kinh tế thế giới biến đổi nhanh, phức tạp và khó lƣờng; suy

thoái kinh tế toàn cầu đã đƣợc ngăn chặn nhƣng chƣa lấy đà tăng trƣởng của các năm

trƣớc sẽ tiếp tục ảnh hƣởng đến sự phát triển của nƣớc ta trong thời gian tới. Chính vì

vậy, năm 2011, Việt Nam phấn đấu lấy lại đà tăng trƣởng của nền kinh tế. Đó là một mục

tiêu cơ bản vì năm 2011 là năm đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo đà để

thực hiện tốt các mục tiêu của Chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội 10 năm năm 2011-

2020.

Theo số liệu mới công bố của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng

11/2010 của TPHCM tăng 1.73%, Hà Nội tăng hơn 2%. Nhƣ vậy, nhiều khả năng CPI

của cả nƣớc sẽ tăng xấp xỉ 2% trong tháng này. Tính trung bình lạm phát trong 3 tháng

qua (tháng 9,10,11) tăng mạnh nhất so với cùng kỳ trong 20 năm gần đây.

Hình 3.1. CPI theo các tháng từ 2007 đến tháng 11/2010

* CPI cả nƣớc tháng 11/2010 giả định bằng mức tăng của TP.HCM vừa đƣợc

công bố (1.73%).

Theo số liệu công bố chính thức, tăng trƣởng tín dụng 10 tháng đầu năm mới chỉ

105

đạt 22.5%, tăng trƣởng cung tiền M2 đạt 21.7%, là mức không cao so với những năm

trƣớc. Trên thực tế, tổng tăng trƣởng cung tiền trong nền kinh tế có thể cao hơn con số

này rất nhiều. Tổng giá trị trái phiếu của Chính phủ phát hành trong 10 tháng đầu năm

đã hơn 80 nghìn tỷ đồng, trong khi đó mục tiêu cả năm là 100 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra,

tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế tăng mạnh khiến ngƣời dân không nắm giữ tiền

đồng cũng làm cho cung tiền tăng cao.

Tỷ lệ đầu tƣ trong toàn bộ nền kinh tế trong 9 tháng vừa qua đạt 44.19% GDP.

Trong đó đầu tƣ khu vực nhà nƣớc tăng gần 40%, chiếm hơn 40% tổng giá trị đầu tƣ. Hệ

số ICOR của nền kinh tế trong 9 tháng đầu năm lên tới 7.19 lần, năm 2009 hơn 8 lần.

Những con số này cho thấy, hiệu quả đầu tƣ trong 2 năm trở lại đây là rất thấp. Tăng

trƣởng kinh tế vẫn phụ thuộc rất nhiều tăng trƣởng vốn đầu tƣ, trong đó chủ yếu là đầu

tƣ ở khu vực nhà nƣớc

Chính hiệu quả đầu tƣ chƣa cao nhƣ mong đợi và đầu tƣ của khu vực nhà nƣớc

tăng mạnh, cùng với một lƣợng lớn tiền phát hành thông qua trái phiếu đƣợc đƣa vào lƣu

thông đã gây sức ép mạnh lên lạm phát.

Mặt khác, lạm phát 3 tháng gần đây tăng cao còn do cộng hƣởng của hàng loạt các

yếu tố khác. Thiên tai ở nhiều tỉnh Miền Trung đã làm cho khu vực này bị thiệt hại khá

nặng nề, sản xuất nông nghiệp bị đình trệ. Hệ quả là lƣơng thực, thực phẩm, rau quả

khan hiếm dẫn đến giá những mặt hàng này bị đẩy lên cao. Ở Hà Nội, mặt bằng giá đã

đƣợc đẩy lên một mức mới sau Đại lễ 1,000 năm Thăng Long.

Ngoài ra, do độ mở của nền kinh tế hiện rất cao, với tổng giá trị xuất nhập khẩu

lớn hơn 150% GDP đã làm cho giá cả hàng hóa trong nƣớc nhạy cảm hơn với giá hàng

hóa thế giới và biến động của tỷ giá.

Việc VND giảm giá hơn 10% trong vòng gần 2 tháng qua đã làm giá cả nhiều mặt

hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam chịu sức ép tăng tƣơng ứng. Không những vậy, giá

hàng hóa, nguyên liệu, dầu thô của thế giới cũng tăng mạnh do lo ngại việc các đồng

tiền mất giá và tình trạng thiên tai ở nhiều quốc gia.

Lạm phát tăng cao hiện nay của Việt Nam có nguyên nhân khách quan lẫn chủ

quan, nhƣng chủ yếu vẫn là do thực tế nội tại của nền kinh tế. Đây là hệ quả của sự phát

106

triển kinh tế nghiêng nhiều hơn về chiều rộng, hiệu quả đầu tƣ chƣa cao và các chiến lƣợc

phát triển kinh tế chƣa đồng bộ. Lạm phát cao cũng là một thứ ”thuế” đánh vào ngƣời tiêu

dùng, ngƣời nắm giữ tiền mặt. Với phần lớn dân số sống ở khu vực nông thôn, chi tiêu

của ngƣời dân đối với những mặt hàng thiết yếu trở nên đắt đỏ hơn trƣớc. Về lâu dài, điều

này sẽ ảnh hƣởng đến thành tích xóa đói giảm nghèo của Việt Nam và việc duy trì bình

đẳng trong thu nhập. Lạm phát gia tăng cũng có thể ảnh hƣởng đến tâm lý ngƣời dân, thúc

đẩy gia tăng tích trữ vàng, ngoại tệ, và kể cả hàng hóa và có thể càng làm cho diễn biến

kinh tế vĩ mô khó lƣờng hơn

Trong hai thập kỷ qua, trên bình diện quốc tế, vấn đề phát triển bền vững ngày

càng đƣợc quan tâm và trở thành yêu cầu phát triển. Phát triển bền vững có nghĩa là phát

triển đáp ứng đƣợc những yêu cầu của hiện tại nhƣng không gây trở ngại cho việc đáp

ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. Ở Việt Nam, vấn đề phát triển nhanh và bền vững đã

sớm đƣợc đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và trở thành một chủ trƣơng nhất

quán trong lãnh đạo và trong quản lý điều hành tiến trình phát triển của đất nƣớc trong

nhiều thập kỷ qua. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, trong sự phát triển cũng

còn nhiều yếu kém, bất cập. Vì vậy Dự thảo Chiến lƣợc phát triển kinh tế xã - hội 2011-

2020 đã xác định “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững

là yêu cầu xuyên suốt trong chiến lược”.

Yêu cầu cấp bách trong Chiến lƣợc tới là thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế trên cả

3 nội dung chính: (1) tái cấu trúc các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với các vùng kinh tế,

phát triển công nghiệp hỗ trợ. Phải chuyển đổi mô hình tăng trƣởng từ chủ yếu theo chiều

rộng, dựa vào sự gia tăng vốn đầu tƣ và nguồn nhân lực chất lƣợng thấp hiện nay sang kết

hợp hợp lý giữa tăng trƣởng theo chiều rộng với tăng trƣởng theo chiều sâu trên cơ sở áp

dụng các tiến bộ về khoa học, công nghệ, chất lƣợng nguồn nhân lực và kỹ năng quản lý

hiện đại. Trong mƣời năm tới, nhất là trong những năm đầu của thời kỳ chiến lƣợc, Việt

Nam chƣa thể từ bỏ hoàn toàn mô hình tăng trƣởng theo chiều rộng. Vì, để tăng trƣởng

theo chiều sâu phải sử dụng công nghệ hiện đại và phải có nguồn nhân lực chất lƣợng cao.

Đây là quá trình tích luỹ vốn và phát triển nguồn nhân lực trong từng doanh nghiệp và cả

nền kinh tế. Hơn nữa, phát triển bền vững phải gắn với yêu cầu giải quyết việc làm và

toàn dụng lao động trong khi nguồn lao động thiếu việc làm còn nhiều, nhất là ở khu vực

107

nông thôn. Tuy nhiên, phải hành động khẩn trƣơng, kiên quyết tạo lập đồng bộ các tiền đề

để chuyển mạnh sang tăng trƣởng theo chiều sâu ngay trong những năm đầu của thời kỳ

chiến lƣợc, trƣớc hết là ở những lĩnh vực khoa học, công nghệ phát triển nhanh và nƣớc ta

có điều kiện. Đây là con đƣờng cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng tăng trƣởng; (2) tái cấu

trúc các doanh nghiệp, xây dựng lực lƣợng doanh nghiệp trong nƣớc với nhiều thƣơng

hiệu mạnh, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao; (3) điều chỉnh chiến lƣợc thị trƣờng, coi

trọng hơn thị trƣờng trong nƣớc đi đôi với việc tiếp tục đa dạng hoá, mở rộng thị trƣờng

nƣớc ngoài. Cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng, cải cách hành chính, cần

phát huy có hiệu quả chức năng kiến tạo phát triển của nhà nƣớc, nhất là trong thời kỳ đầu

đẩy mạnh công nghiệp hoá, thể hiện trong việc đề ra chính sách cơ cấu và định hƣớng

phát triển vùng đúng đắn.

Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tiếp tục đƣợc đổi

mới và hình thành đồng bộ do sự phát triển của kinh tế trong nƣớc, áp lực thực hiện cam

kết WTO và mong muốn thoát ra khỏi vị thế nền kinh tế phi thị trƣờng trƣớc 2018. Các

yếu tố ngoại lực (vốn, kỹ thuật – công nghệ, tri thức, thị trƣờng) đã trở thành lực lƣợng

quan trọng và đƣợc kết hợp với yếu tố nội lực đã tạo thành sức mạnh tổng hợp thúc đẩy

nền kinh tế phát triển. Những động lực phát triển mới đã xuất hiện: cạnh tranh theo

nguyên tắc thị trƣờng, các nhu cầu đƣợc mở rộng làm mở rộng cơ hội phát triển, do đó, đã

tạo nhiều khả năng lựa chọn các cơ hội phát triển cho xã hội. Năng lực của các chủ thể

phát triển (nhà nƣớc, thị trƣờng, doanh nghiệp, dân cƣ và các tổ chức kinh tế - xã hội

khác) cao hơn trƣớc.

Bối cảnh kinh tế mới đang đặt ra những cơ hội và thách thức cho các DNNN ở

Việt nam. Những yêu cầu về tái cấu trúc nền kinh tế, phát triển kinh tế nhanh, bền vững

đang và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cho thấy sự cần thiết tiếp tục phát triển khu

vực doanh nghiệp này nhằm có đƣợc sức cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, trong thời gian

tới, sự phát triển của DNNN Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều khó khăn do sức ép cạnh tranh

giữa các quốc gia tăng lên trong khi khu vực doanh nghiệp này vẫn còn nhiều bất cập

trong tổ chức, hoạt động cũng nhƣ quản lý nhà nƣớc.

Nhiều chuyên gia dự báo, nền kinh tế Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục tăng trƣởng GDP

trong những năm tới. Sự phục hồi của nền kinh tế thế giới sẽ là nền tảng cơ bản để kinh tế

108

Việt Nam có bƣớc phát triển và tăng tốc, đặc biệt khu vực xây dựng và dịch vụ sẽ có

những đóng góp tích cực hơn. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới tiếp tục phục hồi, nền

kinh tế Việt Nam có quyền hy vọng vào một bức tranh với nhiều gam màu sáng. Khi tình

hình xuất khẩu đƣợc cải thiện sẽ là “đòn bẩy” để Việt Nam đạt và vƣợt các chỉ tiêu. Tuy

nhiên, theo nhiều chuyên gia, vấn đề quan trọng nhất hiện nay không phải là tốc độ tăng

trƣởng bao nhiêu mà là chất lƣợng tăng trƣởng. Đây cũng là một thách thức lớn mà nhiều

năm nay Việt Nam chƣa thể khắc phục đƣợc. Tăng trƣởng kinh tế Việt Nam đang chủ yếu

dựa vào tăng vốn đầu tƣ, khai thác các ngành có lợi thế về tài nguyên và lao động có trình

độ thấp; vốn đầu tƣ còn phân tán, dàn trải, chƣa đầu tƣ vào các ngành công nghệ cao, các

ngành có khả năng dẫn dắt, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hƣớng hiện đại. Trong những

năm tới, vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế cũng đã đƣợc đặt ra nhằm nâng cao chất lƣợng,

hiệu quả, sức cạnh tranh và giá trị nội địa của từng sản phẩm và của toàn bộ nền kinh tế.

Theo định hƣớng của Chính phủ, sẽ tập trung thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp, xây

dựng lực lƣợng doanh nghiệp dân tộc. Coi việc tăng giá trị nội địa và xây dựng lực lƣợng

doanh nghiệp dân tộc là phƣơng hƣớng chủ yếu để nâng cao tiềm lực và khả năng độc lập

tự chủ của nền kinh tế.

Nhƣ vậy, sau năm 2010, kinh tế trong nƣớc và quốc tế dần đƣợc phục hồi, tạo môi

trƣờng tốt cho sự phát triển của DNNN; hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục tạo ra cơ hội

thuận lợi cho DNNN Việt Nam vƣơn ra thị trƣờng thế giới, tuy nhiên, sức ép cạnh tranh

sẽ khốc liệt hơn đối với khu vực doanh nghiệp còn non yếu trong môi trƣờng cạnh tranh

quốc tế. Các DNNN Việt Nam sẽ phải đối mặt với cả sự gia tăng của hàng hóa nhập khẩu

vào thị trƣờng Việt Nam, đối mặt với những qui định về quyền sở hữu trí tuệ, tuân thủ các

qui định về nhã mác và xuất sứ hàng hóa, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật

mới ngày càng tinh vi hơn đối với một số mặt hàng xuất khẩu.

3.2. Định hƣớng phát triển DNNN

3.2.1.Phát triển DNNN phải gắn với việc tái cơ cấu khu vực DNNN, tách hoạt

động của nhà nước ra khỏi hoạt động kinh doanh của DNNN

Hơn bao giờ hết, vấn đề tái cấu trúc khu vực DNNN phải đƣợc đặc biệt chú trọng.

Cũng nhƣ Trung Quốc, DNNN Việt Nam đƣợc xác định có vai trò nòng cốt trong một số

ngành và lĩnh vực then chốt (Điều này không đƣợc nhầm lẫn với nòng cốt trong nền kinh

109

tế). Những ngành, những lĩnh vực đó bao gồm: (i) những lĩnh vực mà tƣ nhân không

muốn làm; (ii) những ngành hay lĩnh vực đòi hỏi nhà nƣớc phải độc quyền, tƣ nhân không

đƣợc làm; (iii) ngành, hay lĩnh vực nhà nƣớc cần phải đầu tƣ mới, ban đầu (sau đó có thể

chuyển sang cho tƣ nhân); những ngành, lĩnh vực cần đối chọi với độc quyền tƣ nhân.

Dự thảo Báo cáo Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu cấp bách: Tái cấu

trúc nền kinh tế với ba nội dung: (i) Tái cấu trúc các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với các

vùng kinh tế; (ii) Tái cấu trúc doanh nghiệp, xây dựng các doanh nghiệp trong nƣớc có

những thƣơng hiệu mạnh, hiệu quả và có sức cạnh tranh cao; (iii) Điều chỉnh chiến lƣợc

thị trƣờng theo hƣớng chú trọng thị trƣờng trong nƣớc đi đôi với việc mở rộng thị trƣờng

nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, tái cấu trúc doanh nghiệp trong đó không chỉ là tái cấu trúc khu vực

DNNN mà còn bao hàm cả tái cấu trúc mỗi DNNN.

Chủ trƣơng của Chính phủ là phải tiếp tục đẩy nhanh CPH để chuyển đổi căn bản

về cơ cấu sở hữu trong hệ thống các DNNN, hƣớng tới việc xây dựng các doanh nghiệp

đa sở hữu. Theo kế hoạch, Chính phủ dự kiến, đến năm 2015 sẽ tiếp tục sắp xếp lại (chủ

yếu là CPH) khoảng 1.000 DNNN, kể cả các TCT và TĐKT, những DNNN quy mô lớn.

Mục tiêu là đến năm 2015 sẽ còn khoảng 500 DNNN 100% vốn nhà nƣớc, trong đó chủ

yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn, các tập đoàn, TCT Nhà nƣớc hoạt động trong lĩnh

vực an ninh, quốc phòng, ngành nghề trọng yếu của nền kinh tế [43].

Do nhiều năm trƣớc không có năm nào hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch (thƣờng chỉ

đạt 30-35%), nên số lƣợng các DNNN nói chung và các TCT, TÐKT nói riêng chƣa CPH

hiện vẫn còn rất lớn. Chẳng hạn, theo Quyết định số 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 của

Thủ tƣớng Chính phủ, trong giai đoạn 2007-2010 phải CPH xong 71 TĐKT và TCT nhà

nƣớc, nhƣng trên thực tế chỉ CPH đƣợc 12, đạt chƣa đầy 17% kế hoạch. Với hơn 1.500

DNNN chƣa CPH hiện nay, Chủ trƣơng của Chính phủ là phải tiếp tục đẩy nhanh CPH để

chuyển đổi căn bản về cơ cấu sở hữu trong hệ thống các DNNN. Có thể thấy, việc hoàn

thành mục tiêu về cải cách TCT và TÐKT theo đúng kế hoạch trong thời gian tới là điều

không dễ. Nó đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn, trong đó có việc phải cải cách chính bản thân

tiến trình cải cách.

Trong thực tế hoạt động điều tiết, quản lý của nhà nƣớc thƣờng đƣợc xem nhƣ

trách nhiệm của DNNN, Chƣơng trình “Bình ổn giá” hiện nay chẳng hạn. Trong những

110

trƣờng hợp cụ thể, với mục tiêu “bình ổn giá”, hay “kích cầu”, những chi phí cho các mục

tiêu này phải thuộc về chi phí của nhà nƣớc . Điều đó tránh cho DNNN những khoản chi

phí không phải trách nhiệm của mình.

3.2.2. Phát triển DNNN phải gắn với việc phát huy lợi thế của DNNN Việt Nam

Việc Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu đã tạo cho

các DNNN Việt nam có nhiều cơ hội, nhƣng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức.

Trong môi trƣờng cạnh tranh khốc liệt của hội nhập kinh tế quốc tế, muốn tận dụng đƣợc

những cơ hội và vƣợt qua đƣợc những thách thức, các DNNN Việt Nam cần phải lựa

chọn để đƣa ra môi trƣờng cạnh tranh những sản phẩm hàng hóa mà Việt Nam có lợi thế

nhƣ các sản phẩm nông nghiệp (gạo, cà phê, ), than đá, dầu khí, hải sản, dệt may…. Đối

với các quốc gia và các nền kinh tế đã phát triển, lực lƣợng tham gia cạnh tranh trên thị

trƣờng thƣờng là những tập đoàn kinh tế mạnh, với lợi thế qui mô, với những sản phẩm

cao cấp và hiện đại, có năng lực, trình độ quản lý và sản xuất cao. Đặc biệt trong lĩnh vực

dịch vụ nhƣ ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán…các đối thủ nƣớc ngoài đều đã có đƣợc

nhiều lợi thế. Đứng trức các đối thủ cạnh tranh này, Việt Nam không thể vƣợt qua đƣợc,

do vậy, để có đƣợc lợi thế cạnh tranh, DNNN Việt Nam chỉ nên tập trung vào những

ngành, những lĩnh vực có nhiều lợi thế, tránh mạo hiểm không cần thiết nhƣ tình trạng

đầu tƣ đa ngành nhƣ thời gian qua

3.2.3. Phát triển DNNN phải gắn với phát triển bền vững

Phát triển bền vững đã và đang trở thành một xu thế phổ biến trên thế giới, trong đó

có Việt Nam. Quan điểm phát triển của Việt Nam đƣợc trình bày trong Dự thảo Báo cáo

Đại hội XI là: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững và phát triển bền vững là

yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 – 2020”. Phát

triển bền vững đƣợc coi là cơ sở để phát triển nhanh và phát triển nhanh để tạo nguồn lực

cho phát triển bền vững. Phát triển DNNN cũng không nằm ngoài yêu cầu phát triển bền

vững trên. Phát triển DNNN phải đƣợc chú trọng và kết hợp hài hòa với vấn đề xã hội và

bảo vệ môi trƣờng, bao hàm các vấn đề nhƣ: qui tắc ứng xử của doanh nghiệp, quản trị rủi

ro, vấn đề phát triển con ngƣời, sản phẩm trách nhiệm, vấn đề bảo vệ sức khỏe ngƣời tiêu

dùng… Trong thời gian qua, khu vực DNNN Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong bảo vệ

môi trƣờng (theo khảo sát thì ô nhiễm môi trƣờng từ doanh nghiệp tƣ nhân chiếm tới

111

80%) và tham gia vào an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều

doanh nghiệp chƣa chú trọng tới khía cạnh phát triển bền vững, đâu đó vẫn có những

DNNN gây ô nhiễm môi trƣờng (Nhà máy Đƣờng Quảng Ngãi chẳng hạn), hoạt động của

doanh nghiệp chƣa mang tính chuyên nghiệp cao, còn có những sản phẩm của DNNN

chƣa bảo vệ đƣợc ngƣời tiêu dùng…cần phải đƣợc khắc phục.

3.3. Giải pháp và kiến nghị nhằm tiếp tục phát triển DNNN Việt Nam

3.3.1. Giải pháp đối với DNNN

* Đầu tư trọng điểm.

Trong nền kinh tế hiện đại, đa dạng hóa đầu tƣ trở thành yêu cầu và xu hƣớng phát

triển ngày càng đậm nét của các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế trên thế giới. Tuy

nhiên, xu hƣớng này cũng có thể dẫn đến sự sụp đổ hay suy yếu của nhiều doanh nghiệp

và tập đoàn, đặc biệt khi các hoạt động đầu tƣ này đƣợc tiến hành bằng vốn đi vay, trong

khi thiếu cơ chế quy trách nhiệm và kiểm soát đầu tƣ hiệu quả...Thực tiễn cho thấy, việc

hoạt động đa ngành, lĩnh vực cũng có tính hai mặt của nó: Một mặt, nếu doanh nghiệp đi

đúng hƣớng sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao vị thế và đạt đƣợc những mục tiêu mới; mặt

khác, nếu “chệch hƣớng” hoặc đầu tƣ có tính đầu cơ, chụp giật, khai thác các cơ hội độc

quyền ngắn hạn thì có thể làm suy sụp hình ảnh, thậm chí đánh mất thƣơng hiệu và gây ra

những thiệt hại to lớn khó lƣờng cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Một trong những bài học xƣơng máu từ việc đầu tƣ đa ngành đó là sự đổ vỡ của tập đoàn

công nghiệp tàu thuỷ Vinashin, tháng 8/2010. Những tác động mặt trái của việc doanh

nghiệp đầu tƣ đa ngành, đa nghề là do khi đa dạng hóa đầu tƣ ít nhiều bản thân doanh

nghiệp đánh mất đi lợi thế cạnh tranh, lợi thế so sánh vốn có của mình, rất dễ mắc sai lầm,

thậm chí phải trả giá đắt do sự phân tán nguồn lực, thiếu kinh nghiệm quản lý và phản

ứng thị trƣờng, cũng nhƣ các kỹ năng công nghệ và cả do thiếu cập nhật thông tin. Bên

cạnh đó, việc kiểm soát vốn vào hoạt động đa lĩnh vực là rất phức tạp, nếu làm không tốt

thì sự thất thoát, lãng phí và khả năng đổ vỡ tài chính là những nguy cơ có thực. Đặc biệt,

cần thấy rằng, với khả năng tài chính có hạn của mình, việc đầu tƣ vốn dàn trải sẽ buộc

doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vốn mới với những điều khoản thƣơng mại ngặt nghèo,

dễ đƣa họ sa vào chiếc bẫy nợ nần.

Ở Việt Nam năm 2008, nhiều doanh nghiệp nhà nƣớc có số nợ phải trả gấp nhiều

112

lần số vốn chủ sở hữu. Trong số 70 TĐ, TCT báo cái thì có hơn 30 đơn vị có có hệ số nợ

phải trả trên vốn vƣợt trên 3 lần, thậm chí nhiều doanh nghiệp vƣợt trên 20 lần, nhƣ TCT

Xây dựng công trình giao thông 5 gấp 42 lần, TCT Xây dựng công trình giao thông 1 gấp

22,5 lần. Ngoài ra, một số doanh nghiệp huy động vốn từ các công ty tài chính, ngân hàng

có vỗn góp của tập đoàn, TCT nhà nƣớc cũng rất rủi ro đƣợc hƣởng nhiều ƣu đãi, nhƣ

không bắt buộc phải có đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay, thủ tục vay vốn đơn giản.

Đáng quan ngại hơn, một số tập đoàn, TCT đã dành một lƣợng vốn khá lớn đầu tƣ vào

ngân hàng, bảo hiểm hoặc mua cổ phiếu, trên thị trƣờng... dễ dẫn đến đổ vỡ dây chuyền

khi mất khả năng thanh toán. Theo báo cáo của 70 TĐ, TCT nhà nƣớc thì có tới 28 đơn vị

hoạt động đầu tƣ chứng khoán, thành lập công ty chứng khoán, đầu tƣ vào các công ty

quản lý quỹ, ngân hàng thƣơng mại, công ty bảo hiểm, với giá trị đầu tƣ là 23.344 tỷ

đồng, chiếm 8,7% vỗn chủ sở hữu, và 20% tổng số vốn đầu tƣ ra ngoài.

Có thể nói, những hoạt động đầu tƣ kiểu năng động quá mức mang tính tranh thủ

khai thác các cơ hội độc quyền hoặc lợi ích ngắn hạn của các DNNN này, nếu không

đƣợc kiểm soát nghiêm ngặt hơn, rất dễ trở thành những nguy cơ tiềm ẩn, có thể gây ra

những tổn thất nặng nề, thậm chí là những đổ vỡ toàn diện khó lƣờng cho đời sống kinh tế

xã hội đất nƣớc. Đặc biệt nếu so sánh với chi phí tối đa cho đào tạo nghề gắn với di dời

chỗ ở của ngƣời nông dân phục vụ các dự án giải phóng mặt bằng chỉ vào khoảng dƣới 10

triệu đồng, hoặc kinh phí xây dựng 1 ngôi nhà tình nghĩa chỉ khoảng 20-25 triệu đồng, thì

có thể thấy rõ hơn “sự vô cảm” của các con nợ này trƣớc bức xúc của xã hội…

* Minh bạch và rõ ràng sổ sách kế toán và cơ chế trách nhiệm

Sự minh bạch nói chung trong hoạt động của các DNNN là một trong những yếu

điểm của khu vực này, nhất là minh bạch trong lĩnh vực tài chính. Đặc biệt, sự sai lệch,

không phản ánh đúng thực tế tài sản, doanh thu và kết quả kinh doanh là hiện tƣợng khá

phổ biến trong các báo cáo tài chính của nhiều đơn vị, tập trung vào những đơn vị lớn nhƣ

Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, TĐ Điện lực Việt Nam. TCT hàng hải, TCT lắp

máy Việt Nam…Vì những lý do này, kiểm toán nhà nƣớc đã phát hiện và kiến nghị tăng

thu ngân sách nhà nƣớc năm 2007 thêm 4.166 tỷ đồng (gồm chi sai, quyết toán sai chế độ,

không đúng nguồn kinh phí…); tiến hành điều chỉnh tăng hơn 137 tỷ đồng về tài sản,

nguồn vốn; gần 564 tỷ đồng doanh thu; giảm gần 159 tỷ đồng chi phí, tăng lợi nhuận

113

trƣớc thuế trên 722 tỷ đồng, chủ yếu từ các đơn vị đã nêu trên…

Các DNNN đang chiếm giữ tới hơn 50% tín dụng đầu tƣ nhà nƣớc, 70% tổng dƣ

nợ quốc gia và hơn 80% tổng dƣ nợ tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại nƣớc ta. Hiệu

quả đầu tƣ của các tập đoàn kinh tế, TCT nhà nƣớc và DNNN nói chung, cả ở trên thế

giới cũng nhƣ ở Việt Nam, đều không cao, và thƣờng là thấp nhất so với các đầu tƣ và

kinh doanh tƣơng tự, nhƣng do các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài hoặc tƣ nhân trong nƣớc thực

hiện (nếu có hoặc đƣợc phép). Điều này liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó phải kể đến:

đặc điểm của sở hữu; cơ chế cán bộ và tuyển dụng lao động, trách nhiệm cá nhân của nhà

quản lý đầu tƣ và cơ chế quản lý vốn đầu tƣ – bao gồm cả việc lựa chọn lĩnh vực kinh

doanh (thƣờng bị áp đặt hoặc dễ dãi, gắn với lợi ích cục bộ, thậm chí do lợi ích cá nhân và

phe nhóm, lợi dụng vốn nhà nƣớc để “đánh quả” hoặc trục lợi), cũng nhƣ cơ chế ra quyết

định đầu tƣ (vừa phƣc tạp, chậm trễ, vừa lỏng lẻo, hình thức và nhiều cơ hội cho tham

nhũng phát sinh, phát triển)…

Thực tế đang cho thấy những cảnh báo cấp thiết về việc ngăn chặn kịp thời sự liên

minh có thể có giữa một số tập đoàn, TCT nhà nƣớc, với các ngân hàng thƣơng mại nhà

nƣớc và các quan chức có liên quan trong việc vay và cho vay vốn, đầu tƣ chồng chéo,

đầu tƣ đa ngành hàng ngàn tỷ đồng mang nặng tính đầu cơ, trục lợi ca nhân hoặc phe

nhóm, lũng đoạn thị trƣờng và lãng phí các nguồn lực quốc gia.

* Đầu tư phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng những thành tựu khoa học công

nghệ tiên tiến, hiện đại.

Công nghệ là một trong số những yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất.

Trình độ khoa học công nghệ của khu vực DNNN Việt Nam hiện nay rất thấp, lạc hậu so

với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới, do vậy, việc phát triển, ứng dụng thành tựu

khoa học công nghệ là vô cùng quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN,

tăng khả năng cạnh tranh cho khu vực này. Đổi mới công nghệ nhằm thu hẹp khoảng

cách về trình độ công nghệ so với các nƣớc tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, sử

dụng kỹ thuật, máy móc, trang thiết bị hiện đại sẽ giúp quá trình sản xuất, kinh doanh của

doanh nghiệp có hiệu quả cao hơn. Việc phát triển khoa học khu vực DNNN hiện nay là

vô cùng cần thiết để tăng tính tự chủ cho khu vực này và giảm chi phí nhập khẩu công

nghệ. Tuy nhiên vấn đề này gặp nhiều khó khăn do giới hạn về vốn, các DNNN Việt

114

Nam hầu hết có quy mô vốn hoạt động kinh doanh nhỏ, không thể đầu tƣ lớn cho nghiên

cứu và phát triển công nghệ. Mặt khác, trình độ của nguồn nhân lực trong khu vực

DNNN nói riêng và trong nền kinh tế Việt Nam nói chung chƣa đủ để có thể nghiên cứu,

phát triển khoa học công nghệ trong những năm trƣớc mắt. Do vậy, trong giai đoạn tới,

việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại vào hoạt động sản

xuất kinh doanh của DNNN vẫn là một giải pháp trọng tâm để đổi mới công nghệ. Đi

thẳng vào những công nghệ hiện đại đối với các ngành mũi nhọn, đồng thời lựa chọn các

công nghệ thích hợp, không gây ô nhiễm và khai thác đƣợc lợi thế quốc gia. Chú trọng

việc nhập khẩu công nghệ mới, hiện đại, thích nghi với công nghệ nhập khẩu, cải tiến cho

phù hợp với điều kiện Việt Nam. Để có thể sử dụng một cách có hiệu quả công nghệ

nhập khẩu từ nƣớc ngoài và tiến hành nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ đòi hỏi

các DNNN phải có một nguồn nhân lực có trình độ, đƣợc đào tạo bài bản. Trong ngắn

hạn, việc ứng dụng thành công những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt

động sản xuất kinh doanh của DNNN là một giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả

hoạt động và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, về dài hạn thì các

DNNN Việt Nam vẫn cần phải có sự nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ để tạo ra

sức mạnh độc lập cho mình.

* Đào tạo và phát triển và sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả. Bộ máy quả lý lẫn

đội ngũ ngƣời lao động trong các DNNN Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm, yếu về trình

độ chuyên môn, làm việc không hiệu quả. Giải pháp để khắc phục là các DNNN phải có

chiến lƣợc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Các DNNN phải

chủ động đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của mình. Bằng cách

mở các lớp đào tạo chuyên môn ngắn hạn; gửi ngƣời ra nƣớc ngoài học tập, nghiên cứu,

tiếp xúc với khoa hợc công nghệ tiên tiến, hiện đại, trình độ quản lý của các doanh

nghiệp nƣớc ngoài, sẽ giúp các DNNN Việt Nam có đội ngũ lao động lành nghề, có thể

ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại một cách có hiệu quả. Đồng thời, phải có

chiến lƣợc thu hút và sử dụng nhân tài, bằng các chính sách lƣơng, chế độ cho ngƣời lao

động. Có chế độ tuyển chọn nhân sự công khai, nghiêm túc. Các chức danh có trách

nhiệm chủ yếu về quản trị, điều hành DNNN cần áp dụng những phƣơng pháp tuyển

chọn nghiêm túc, đúng ngành nghề đào tạo, tránh tình trạng móc ngoặc trên dƣới, trong

115

ngoài về cán bộ, phải có sự cam kết trƣớc pháp luật với cán bộ đƣợc bổ nhiệm vào các

chức danh này. Trách nhiệm quản lý, điều hành doanh nghiệp nhà nƣớc cần đƣợc xác

định rõ và giao cho một ngƣời là tổng giám đốc. Để làm đƣợc điều đó, Nhà nƣớc phải

chọn lựa, thi tuyển, đề cử ngƣời có năng lực trình độ, phẩm chất xứng đáng đại diện cho

chủ sở hữu vốn nhà nƣớc tạo doanh nghiệp. Đối với tổng giám đốc DNNN phải qua thi

tuyển nghiêm túc, đƣợc sát hạch qua một hội đồng giám khảo về các phƣơng án sản xuất

kinh doanh, có sự cam kết trách nhiệm trƣớc pháp luật về sự tồn tại và phát triển của

doanh nghiệp, và bồi thƣờng vật chất nếu nhƣ xảy ra tổn thất.

* Có chiến lược kinh doanh hợp lý. Trong cơ chế thị trƣờng và đặc biệt là trong bối

cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu thì việc xây dựng một chiến lƣợc kinh doanh hợp lý, từ

xác định thị trƣờng đầu ra, đầu vào, lựa chọn sản phẩm trọng tâm, chiến lƣợc tổ chức sản

xuất, phân phối…là rất cần thiết giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh

nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của khu vực DNNN. Để nâng cao năng lực cạnh tranh,

đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao năng

suất lao động và hạ giá thành sản phẩm; nắm chắc thông tin thị trƣờng, có giải pháp xử lý

và dự báo tốt, không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để

thoả mãn một cách tốt nhất các nhu cầu đó, đồng thời đƣa ra các ý tƣởng phát triển sản

phẩm mới để khai thác đƣợc các thị trƣờng tiềm năng. Hoạt động nghiên cứu thị trƣờng

trở nên rất quan trọng, đặc biệt là khi các DNNN muốn vƣơn ra thị trƣờng thế giới. Trên

cơ sở những nghiên cứu đó, các DNNN có thể xây dựng chiến lƣợc kinh doanh phù hợp

với nguồn lực của mình và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của thị trƣờng.

3.3.2. Kiến nghị đối với nhà nước

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trong hoạt động của khu vực

DNNN, có cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan, có những nguyên nhân xuất

phát từ phía nhà nƣớc, cũng có những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp. Do vậy để phát

triển hơn nữa, không chỉ bản thân các doanh nghiệp cần có những thay đổi mà rất cần đến

những sự thay đổi trong chính sách của nhà nƣớc khi nhìn nhận vai trò cũng nhƣ khi đầu

tƣ và đặt nhiều ƣu tiên cho khu vực này. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đề xuất một

số kiến nghị từ phía nhà nƣớc để khu vực DNNN hoạt động có hiệu quả hơn.

116

* Cần nhìn nhận lại vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước.

Trƣớc hết, chúng ta thừa nhận mô hình kinh tế trong các giai đoạn sắp tới là mô

hình kinh tế thị trƣờng hiện đại, theo xu hƣớng kinh tế tri thức, lấy tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

làm kim chỉ nam và là đặc trƣng của mô hình này. Nếu ai không thừa nhận thực chất mô

hình này là kinh tế thị trƣờng hiện đại mà chỉ nói là mô hình kinh tế tổng quát tức là lẩn

tránh thực tế và chân lý hiện nay. Nền kinh tế của tất cả các nƣớc trên thế giới ngày nay,

bất kể chế độ chính trị đều là kinh tế thị trƣờng, chỉ khác nhau ở mức độ phát triển và

trình độ quản lý, điều hành, năng lực cạnh tranh. DN nói chung là chủ thể của kinh tế thị

trƣờng, tạo nên hoạt động của thị trƣờng, lấy lợi nhuận làm động lực, chịu sự chi phối của

quy luật cạnh tranh và các quy luật kinh tế khác. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ trên thị trƣờng không có DN nào là DN chủ đạo, dẫn dắt thị trƣờng, dù đó là

DNNN hay tập đoàn siêu quốc gia nào. Thực tiễn quá trình đổi mới cũng đã chứng minh:

các DNNN chƣa làm đƣợc vai trò chủ đạo, dẫn dắt nhƣ mong muốn.

Chúng ta đã có chủ trƣơng sáng suốt và đúng đắn: cổ phần hóa 100% DNNN. Tuy

nhiên, việc triển khai chủ trƣơng này vẫn ì ạch, khó khăn nhƣ cỗ xe thủ công leo dốc, nhất

là khi đụng đến các tập đoàn và tổng công ty nhà nƣớc, đụng đến vai trò chủ đạo của

DNNN. Chính vì vậy, chủ tƣơng tái cấu trúc nền kinh tế là thời điểm để chúng ta xem xét

lại một cách nghiêm túc vai trò chủ đạo của một khu vực doanh nghiệp.

Giờ đây, nếu chúng ta thực sự cầu thị, nhìn thẳng vào sƣ thật là, cũng vì đƣợc áp

đặt vai trò chủ đạo nên nhiều doanh nghiệp đƣợc hƣởng lợi từ bao cấp vốn rẻ, không phải

chịu tác động của cạnh tranh, thiếu cán bộ quản lý giỏi, nên kinh doanh kém hiệu quả. Và

do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là nhờ cái ô bảo hộ của nhà nƣớc,

DNNN không phải chịu áp lực cạnh tranh và không thi thố tài năng trong vai trò chủ đạo,

dẫn dắt nền kinh tế, nhất là trong cơn bão táp lạm phát, khủng hoảng kinh tế, tài chính

trên thế giới, lạm phát và suy giảm trong nƣớc. Bằng cách hỗ trợ DN, trong đó có các

DNNN vƣợt qua khủng hoảng bằng các gói kích thích kinh tế, nhà nƣớc và nhân dân cũng

rất kỳ vọng vào trách nhiệm xã hội của DN trong khó khăn chung của đất nƣớc. Thế

nhƣng, chúng ta không thể hài lòng với kết quả hoạt động của DNNN trong thời gian qua.

DNNN đã chiếm 50% tổng vốn đầu tƣ từ ngân sách, nhƣng chỉ đóng góp 40%

GDP, 29% thu thuế nội địa, trong khi chiếm 60% dƣ nợ tín dụng và 70% tổng dƣ nợ quốc

117

gia. Nhƣ vậy, cũng có thể khái quát sơ bộ nhƣ sau: DNNN làm ra 40% tổng sản phẩm xã

hội, nhƣng cũng đồng thời cũng gây ra một khối nợ lớn (70%) cho nhà nƣớc phải trả

trong nhiều năm. Còn vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế thì hầu nhƣ vắng bóng, thậm

chí đôi khi còn yêu sách tăng giá, giảm thuế, cấm nhập khẩu những mặt hàng có tính cạnh

tranh có lợi cho xã hội và ngƣời tiêu dùng, yêu sách đòi đƣợc độc quyền, một mình một

chợ, bất chấp những cam kết của nhà nƣớc mở cửa thị trƣờng hàng hóa và dịch vụ với

nƣớc ngoài.

Đây là lúc chúng ta phải thực sự cầu thị và nghiêm túc xem xét lại vai trò chủ đạo

và sự tồn tại của DNNN, xem xét lại vai trò công cụ của DNNN trong việc điều hành,

quản lý vĩ mô, định hƣớng phát triển của nhà nƣớc. Chúng ta nên xác định lại vai trò thực

chất của các DNNN là gì. Phải chăng, các DNNN, các tập đoàn kinh tế mà nhà nƣớc đầu

tƣ và bổ nhiệm các vị trí lãnh đạo để làm công cụ cho nhà nƣớc điều khiển, để biến các

DNNN này thành những lực lƣợng vật chất quan trọng để nhà nƣớc định hƣớng và điều

tiết nền kinh tế. Trong giai đoạn khó khăn hiện nay, nên chăng cần xem xét lại tận gốc rễ

vai trò của kinnh tế nhà nƣớc và đẩy nhanh việc cải tổ khu vực này sao cho chúng thực sự

hoạt động có hiệu quả. Từ việc nhìn nhận lại vai trò của các DNNN, nhà nƣớc sẽ cần cân

nhắc lại những ƣu tiên cho khu vực này, giảm tình trạng hỗ trợ một cách trực tiếp của Nhà

nƣớc cho các DNNN hoạt động yếu kém hoặc trên bờ vực phá sản, cứu giúp các doanh

nghiệp này dƣới hình thức này hay hình thức khác. Điều này sẽ hạn chế tính ỷ lại của các

DNNN vào nhà nƣớc để thực sự hoạt động có hiệu quả hơn.

* Cần định hướng tái cơ cấu một cách rõ ràng.

Đến nay, về tổng thể khu vực DNNN vẫn chƣa thực sự đƣợc tinh lọc và gắn kết

nhƣ một quả đấm thép trong tạo cơ hội lan tỏa và định hƣớng, cũng nhƣ thúc đẩy mạnh

mẽ các hoạt động đầu tƣ xã hội nói chung. Mới đây, Uỷ ban thƣờng vụ quốc hội đã đề

xuất chỉ giữ lại vốn tại khoảng 100 doanh nghiệp lớn nhất và làm ăn hiệu quả nhất, và đẩy

nhanh thoái vốn tại 754 doanh nghiệp cổ phần hoá mà (Tổng công ty đầu tƣ và kinh

doanh vốn nhà nƣớc - SCIC) đang nắm giữ. Các công ty đƣợc bán đi sẽ chủ yếu là doanh

nghiệp vừa và nhỏ, trong đó Nhà nƣớc không cần nắm giữ cổ phần chi phối. Tuy nhhiên,

đến nay, SCIC vẫn chƣa có phƣơng án tái cấu trúc cụ thể và các hoạt động thông tin cần

thiết theo định hƣớng này, gây tâm trạng chờ đợi căng thẳng và giảm bớt cơ hội, cũng nhƣ

118

động lực đầu tƣ của các doanh nghiệp và đối tác có liên quan, tức giảm động lực phát

triển chung của đất nƣớc, thậm chí làm gia tăng các hành vi tham nhũng, lãng phí và thất

thoát tài sản công.

Thực tế cho thấy, cơ chế quản lý hiệu quả các phần vốn và tài sản Nhà nƣớc sau cổ

phần hoá đang có nhiều bức xúc, nhất là về 4 vấn đề: Một là, thực hiện chế độ đại diện

chủ sở hữu phần vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp còn phân tán ở nhiều cơ quan; Hai là, bổ

nhiệm hoặc không kịp thời thay thế cán bộ đủ chất lƣợng làm địa diện chủ sở hữu phần

vốn Nhà nƣớc tại doanh nghiệp; Ba là, quy định về quyền và trách nhiệm của tổ chức, cá

nhân quản lý vốn Nhà nƣớc tại các doanh nghiệp “hậu cổ phần hoá” còn chậm và chƣa

minh bạch, nhất là chƣa cân nhắc đầy đủ đến mục tiêu bảo đảm ổn định và hiệu quả hoạt

động bền vững của doanh nghiệp (theo SCIC, đến nay “siêu tổng” này mới thoái vốn tại

45 doanh nghiệp theo cơ chế đấu giá...)Vì vậy trong thời gian tới, cần sớm hoàn thiện và

công khai kế hoạch thoái vốn, thực hiện phân nhóm nhỏ các doanh nghiệp và tái cơ cấu

ngành để thoái vốn và mở rộng tỷ lệ sở hữu trong các doanh nghiệp cổ phần, để đẩy

nhanh quá trình sắp xếp lại các nguồn lực khu vực DNNN nói riêng, nền kinh tế nói

chung, tăng cƣờng sức mạnh tập trung của khu vực kinh tế Nhà nƣớc, đề cao hơn vai trò

khu vực kinh tế tƣ nhân, đồng thời còn giúp giảm thiểu những tổn thất và sự đồng thuận

xã hội...Bên cạnh đó, cần có cơ chế thích hợp (nhƣ thi tuyển, tiến cử và tăng cƣờng thông

tin giám sát, xử lý kịp thời theo các tiêu chí và chế tài công khai, đủ mạnh...) để những

ngƣời đại diện phần vốn Nhà nƣớc “ngồi đúng chỗ”, tránh ảnh hƣởng tới hoạt động của

doanh nghiệp, cũng nhƣ sự hào hứng của khu vực tƣ nhân đối với việc mua cổ phần. Để

tránh đƣợc nối lo ngại về việc nguồn vốn Nhà nƣớc và tài sản công bị hao hụt qua quá

trình thoái vốn, cần có các tiêu chí cụ thể và khoa học để đánh giá đúng giá trị (nhất là giá

trị quyền sử dụng đất, giá thuê đất) và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, cũng

nhƣ sử dụng kiểm toán độc lập (khi bắt đầu cổ phần hoá, Bến xe Miền đông – TP.Hồ Chí

Minh đƣợc xác định giá trị doanh nghiệp là 60 tỷ đồng, nhƣng khi có quy định mới Nghị

định 109 của Chính phủ năm 2007 về cổ phần hoá doanh nghiệp, giá trị có thể đội lên gấp

31 lần). Đặc biệt nên tách biệt quản lý sở hữu riêng, quản lý điều hành riêng và cần làm

sao để cổ phần hoá không là cơ hội để một số ngƣời làm giàu từ tài sản nhà nƣớc trong

khi đƣợc cử quản lý doanh nghiệp...Đối với doanh nghiệp sử dụng đất thuê, giá sẽ phải sát

119

thị trƣờng và không để tình trạng giá thuê đất của Nhà nƣớc quá thấp so với giá thị

trƣờng, làm lợi không chính đáng cho DNNN và gây cạnh tranh không bình đẳng giữa các

khu vực và doanh nghiệp.

Đặc biệt, cần tiếp tục hoàn thiện và thống nhất cơ sở nhận thức lý luận và cả các

quy định luật pháp (luật, nghị định) đồng bộ, cụ thể cho các hoạt động của SCIC, nhất là

các quy định liên quan đến sự tham gia của SCIC trên thị trƣờng tài chính, trong đó có thị

trƣờng chứng khoán. Nếu điều này chậm đƣợc giải quyết, dễ khiến SCIC nhƣ một ngƣời

khổng lồ bị “yểm bùa”, trói chân, quanh quẩn trong phạm vi hoạt động thu hẹp chỉ đơn

thuần thực thi công vụ, nhƣ là một “quản gia”, cơ quan kế toán thống kê và chứng nhận

tài chính khá đơn giản, bỏ nhiều “dƣ địa”, nhất là các chức năng đầu tƣ, kinh doanh và tƣ

vấn tài chính, cũng nhƣ áp dụng công nghệ quản lý hiện đại vào doanh nghiệp còn mờ

nhạt, nếu không muốn nói là khá xa xôi...Chính đây cũng là lý do giải thích vì sao chủ

trƣơng khá táo bạo dùng SCIC nhƣ một công cụ đột phá nhằm giải cứu và kích đẩy hoạt

động trầm lắng thị trƣờng chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua không triển khai

đƣợc cụ thể trên thực tế, gây thất vọng và nghi ngờ trong dƣ luận xã hội, thậm chí làm

giảm uy tín lãnh đạo một số cơ quan trung ƣơng. Đặc biệt, ngay trong cả 2 gói kích cầu trị

giá gần chục tỷ USD vốn tài chính hiện nay của Chính phủ cũng không hề có đồng nào

đƣợc sử dụng thông qua “kênh SCIC” nhằm đảm bảo nguyên tắc thị trƣờng trong quản lý

nguồn vốn Nhà nƣớc nhƣ sứ mệnh đã giao phó cho SCIC khi thành lập. Nói cách khác,

trong thời gian tới, SCIC cần năng động thực sự hơn và cần đƣợc giao sử dụng vốn nhà

nƣớc từ gói kích cầu, theo phƣơng thức SCIC tiếp nhận một phần nguồn vốn này để thực

hiện mua – bán các cổ phần và chứn khoán nợ khác theo định hƣớng mục tiêu, thậm chí

cả một doanh nghiệp quan trọng nhƣng gặp khó khăn, giúp vực dậy rồi bán lại trên thị

trƣờng tài chính, thu hồi vốn dùng tiếp cho các mục tiêu công ích tƣơng tự. làm nhƣ vậy,

tin rằng hiệu quả toàn diện và lành mạnh của gói kích cầu có thể sẽ cao hơn, đúng “luật

chơi” thị trƣờng hơn, nhƣ thực tiễn đã, đang và sẽ còn thể hiện ở các nền kinh tế thị

trƣờng nhƣ Mỹ, Tây âu...Hơn nữa, hoạt động này còn tạo động lực tích cực phát triển thị

trƣờng chứng khoán trong nƣớc, cũng nhƣ thị trƣờng mua, bán và sát nhập doanh nghiệp

của Việt Nam.

120

* Làm rõ quyền và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu.

Để lành mạnh hóa tài chính TĐKT, trƣớc hết cần có quy định pháp lý về nghĩa vụ

và quyền của đại diện chủ sở hữu trong việc huy động, tổ chức và sử dụng nguồn lực cho

hoạt động kinh doanh. Thực hiện triệt để hơn việc tách chức năng thực hiện các quyền

chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nƣớc; tách bạch rõ ràng quyền chủ sở

hữu với quyền chủ động kinh doanh của DN; tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm

trong kinh doanh của DN. Hoàn thiện cơ chế phân cấp việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của

chủ sở hữu nhà nƣớc theo nguyên tắc có một đầu mối chịu trách nhiệm chính, thực hiện

nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nƣớc và phân

tích, đánh giá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DN nhà nƣớc, kể cả các tập đoàn, TCT

đặc biệt.

Chấn chỉnh hoạt động đầu tƣ tràn lan ở một số đơn vị, nhất là sử dụng vốn nhà

nƣớc đầu tƣ vào những lĩnh vực rủi ro khi không có bộ máy, nhân lực thích hợp, gây thất

thoát vốn hoặc sử dụng vốn không hiệu quả của một số tập đoàn, TCT; vốn nhà nƣớc phải

đƣợc ƣu tiên tập trung đầu tƣ thực hiện nhiệm vụ chính đƣợc giao. Có giải pháp xử lý triệt

để tình trạng nợ dây dƣa, nợ chiếm dụng không lành mạnh trong nền kinh tế đang gây trở

ngại nghiêm trọng cho nhiều DN. Kiên quyết xử lý sớm, xử lý dứt điểm các DN hoạt

động không hiệu quả, thua lỗ kéo dài; cần thì cho phá sản để tổ chức lại. Làm rõ trách

nhiệm tập thể, cá nhân, không để tình trạng vốn đầu tƣ của Nhà nƣớc tiếp tục bị thất thoát.

Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa.

Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát đủ năng lực và điều kiện về quản lý vốn, tài

sản tại các tập đoàn, TCT song song với việc tăng tính trách nhiệm của cơ quan quản lý;

quy định rõ trách nhiệm của HĐQT, TGĐ về hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh

của DN; có các cơ chế thƣởng, phạt bảo đảm cho HĐQT, TGĐ thực hiện tốt nhiệm vụ

đƣợc giao. Hoàn thiện quy chế đánh giá, xếp hạng chất lƣợng hoạt động của DN cùng với

các biện pháp chế tài đủ mạnh và kiên quyết thực hiện để làm cơ sở đánh giá kết quả,

chấn chỉnh hoạt động, nhân sự HĐQT và TGĐ. Cần xây dựng các tiêu chí mang tính bắt

buộc đối với các TĐKT nhƣ tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn cần phải đạt, tốc độ tăng năng

suất lao động, tăng XK, tỉ lệ giảm tiêu hao năng lƣợng và nguyên vật liệu, các sáng chế,

phát minh, việc bảo vệ môi trƣờng, cần đƣợc giao và đánh giá hằng năm, rồi công bố

121

công khai cho nhân dân.

* Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả thực hiện chức năng

CSHNN trong kinh doanh và quyết định thƣơng mại của DNNN. Trong đó Quốc hội

giám sát Chính phủ thực hiện chức năng thống nhất tổ chức thực hiện các quyền, nghĩa vụ

của CSH vốn nhà nƣớc tại các DN; thể chế hoá bằng pháp luật việc giám sát trên và giám

sát đánh giá việc thực hiện chức năng sở hữu vốn nhà nƣớc trực tiếp tại DN; minh bạch

hoá thông tin về đầu tƣ vốn nhà nƣớc,…

* Bổ nhiệm và sử dụng nhân sự đủ năng lực, có phương án thu hút người tài.

Các DNNN, đặc biệt là “sự kiện Vinashin” đã là bài học thực tế đắt giá nhất đem

lại nhiều kinh nghiệm, trong đó bài học về cán bộ (bổ nhiệm và sử dụng nhân sự) có thể

coi bài học lớn nhất. Ở các TĐKT lớn trên thế giới luôn có những CEO hàng đầu. Thất

bại của Vinashin đặt ra câu hỏi phải chăng tầm quản trị doanh nghiệp đã vƣợt quá xa tầm

tay của ngƣời đứng đầu dẫn đến mất kiểm soát về thu chi và đầu tƣ không hiệu quả do tự

đầu tƣ quá lớn ? Hay trao quyền quá lớn dẫn đến sai phạm? Và tại sao Nhà nƣớc lại

không thể biết đƣợc những sai phạm nhƣ thế trong thời gian dài khi mà công luận đã cảnh

báo tử rất sớm?

Bài học của Vinashin đặt ra vấn đề phải nhìn lại từ góc độ của một Nhà quản trị

điều hành tập đoàn cho tƣơng lai khi các TĐKT Nhà nƣớc phát triển vững mạnh, độc lập

hơn trong nền kinh tế thị trƣờng. Lúc đó quản lý TĐKT không phải bằng mệnh lệnh hành

chính mà bằng chính khối óc quản trị giỏi. Vì vậy, trƣớc mắt Nhà nƣớc nên rà soát lại đội

ngũ cán bộ quản lý của DNNN, nhất là trong các DNNN lớn. Khi lãnh đạo doanh nghiệp

nào để tình trạng thua lỗ kéo dài trên hai năm cần phải đƣợc thay thế. Đây cũng là cách

tạo áp lực để đội ngũ cán bộ không ngừng nâng cao năng lực, trình độ quản lý.

Xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ quản lý DNNN mang tính cạnh tranh, sàng

lọc công khai. Cơ chế cạnh tranh bình đẳng trong tuyển dụng doanh nhân nhằm một mặt

tạo cơ hội cho những ngƣời có năng lực, có trình độ và mong muốn trở thành các nhà

quản lý chuyên nghiệp, mặt khác, tạo áp lực đối với các nhà quản lý hiện thời. Việc lựa

chọn cán bộ quản lý cần bắt đầu từ cách tiếp cận về mục tiêu hình thành các TĐKT. Nhà

nƣớc, với tƣ cách là chủ sở hữu, chủ đầu tƣ xác định mục tiêu của TĐKT là tìm kiếm lợi

122

nhuận. Với mục tiêu nêu trên, ngƣời quản lý vốn đầu tƣ của Nhà nƣớc không nhất thiết

phải là cán bộ Nhà nƣớc, có đủ tiêu chuẩn về bằng cấp hay về chính trị mà cần có năng

lực, phầm chất của một nhà quản trị doanh nghiệp. Trƣớc mắt, có thể mời những doanh

nhân thành đạt ở khu vực kinh tế ngoài nhà nƣớc tham gia bộ máy quản lý của các TĐKT.

Với các Tổng giám đốc của TĐKT, vẫn ƣu tiên cho các cán bộ trong nƣớc đủ trình độ, và

có kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp lớn, nhƣng trƣớc mắt cần thiết cũng có thể phải

thuê các Tổng giám đốc nổi tiếng nƣớc ngoài. Để cho cơ chế thuê giám đốc đƣợc diễn ra

thuận lợi thì cần khắc phục về tƣ duy và hoàn thiện Luật pháp xác định rõ tƣ cách pháp

nhân của Giám đốc thuê và trách nhiệm của giám đốc và Tổng giám đốc.

Chủ trƣơng thuê giám đốc điều hành (ngƣời Việt Nam ngoài DN và có thể là ngƣời

nƣớc ngoài) có từ năm 1997, nhƣng cho đến nay vẫn chỉ là thí điểm và mới có 3 trong 5

doanh nghiệp đƣợc chỉ định thuê giám đốc điều hành nhƣng không phải ngƣời ngoài mà

là giám đốc các công ty thành viên. Điều đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân: Luật Doanh

nghiệp còn nhiều vƣớng mắc và chƣa có đủ hành lang pháp lý cho việc thuê giám đốc,

vấn đề lƣơng bổng, những e ngại khi thuê giám đốc sẽ thất thoát tài sản Nhà nƣớc,…Với

các nƣớc phát triển, thuê và sa thải CEO của các doanh nghiệp nƣớc ngoài là việc bình

thƣờng vì họ cần ngƣời tài để mang lại lợi nhuận lớn nhất. Ở các nƣớc có nền kinh tế thị

trƣờng, hệ thống pháp luật cho chuyện này là đầy đủ. Bên cạnh đó, mô hình các doanh

nghiệp ổn định. Thuê giám đốc điều hành cho các DNNN sẽ có nhiều lợi ích, không chỉ

tìm đƣợc ngƣời tài mà còn có thể hạn chế đƣợc tham nhũng, hối lộ. Thực tế cho thấy, có

CEO trên thế giới làm việc không phải vì lƣơng bổng cao mà vì danh dự bản thân họ.

Xây dựng kế hoạch đào tạo lại đội ngũ lao động trong các tập đoàn với nhiều hình

thức đào tạo: tập trung, tại chức, tập huấn, ngắn hạn, tại chỗ… Có chính sách khuyến

khích vật chất đối với đội ngũ lao động có tay nghề cao, trình độ chuyên môn giỏi, đóng

góp nhiều cho hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN. Bên cạnh đó là việc tiến hành

rà soát lại lại định mức lao động dựa trên yêu cầu công việc, đảm bảo giờ công, ngày

công theo luật định. Tăng cƣờng giám sát việc thực hiện quỹ tiền lƣơng và tuyển dụng lao

động trong các doanh nghiệp thành viên.

Thay đổi cách thức trả lƣơng hiện nay, trƣớc hết đối với đội ngũ chuyên gia, cán

123

bộ quản lý có năng lực, sau đó là toàn thể ngƣời lao động. Đồng thời cần thực hiện những

biện pháp ƣu đãi vật chất, các chế độ an sinh xã hội để đội ngũ quản lý và ngƣời lao động

yên tâm làm việc. Khắc phục tình trạng chảy máu chất xám trong thời gian qua. Nhà nƣớc

đã thí điểm cho một số TĐKT chủ động việc trả lƣơng. Cần triển khai nhân rộng mô hình

này.

Riêng đối với ngƣời đại diện phần vốn Nhà nƣớc tại Tập đoàn (Hội đồng quản trị),

cần xây dựng cơ chế khuyến khích gắn với trách nhiệm nhằm đảm bảo đƣợc mục tiêu của

Nhà nƣớc. Cơ chế khuyến khích này không chỉ là lƣơng, thƣởng mà còn có các điều kiện

vật chất, tinh thần khác. Phải làm cho những ngƣời này thấy có lợi khi gắn bó với tập

đoàn. Nhiều biện pháp có thể sử dụng nhƣng trƣớc hết cần tập trung vào hai biện pháp đó

là quyền mua cổ phiếu quỹ khen thƣởng.

- Đối với độc quyền mua cổ phiếu: Nhà nƣớc quy định quyền mua cổ phiếu đối với

những ngƣời này ở một mức giá ƣu đãi và theo một tỷ lệ nhất định nhƣng đƣợc hƣởng ở

tƣơng lai. Nhƣ vậy, những ngƣời có trách nhiệm quản lý vốn Nhà nƣớc vừa quản lý phần

vốn Nhà nƣớc chi phối vừa quản lý một phần tài sản của mình (vừa chung, vừa riêng).

Nếu nhƣ tập đoàn làm ăn có lãi, cổ phiếu của họ cũng có giá trị và ngƣợc lại. Biện pháp

này sẽ kích thích các nhà đại diện chủ sở hữu cố gắng gia tăng lợi nhuận của tập đoàn.

- Quỹ khen thƣởng: Ngoài mức lƣơng đƣợc xác định, tập đoàn có thể lập quỹ khen

thƣởng đối với quản lý cấp cao ( có thể gộp với quỹ dự trữ rủi ro trong kinh doanh),

khoản tiền này đủ để thực sự trở thành động cơ khuyến khích. Khoản tiền này chỉ đƣợc

trao cho họ khi họ thôi giữ chức. Khoản tiền khen thƣởng này cũng là khoản để bù đắp

đối với các quyết định sai lầm dẫn đến tổn thất trong hoạt động

Nhƣ vậy, thực chất của biện pháp này là kết hợp hài hòa lợi ích chung và riêng của

ngƣời đại diện. Khi mục tiêu quản lý của những ngƣời quản lý cấp cao song hành với mục

tiêu của DNNN sẽ tạo động lực thực sự để thực thể này phát triển, đồng thời hạn chế

những tác động, chi phối của những đối tƣợng lợi dụng tham nhũng.

Đối với cán bộ quản lý Nhà nƣớc trong các Ủy Ban giám sát Nhà nƣớc (sau này có

thể thành lập tách riêng ra khỏi bộ máy Nhà nƣớc) và Quốc hội đối với phần vốn của Nhà

nƣớc. Đội ngũ này cũng cần có năng lực quản lý và cả khả năng kinh doanh của doanh

124

nhân, phải đƣợc tuyển chọn kỹ và đề cao phẩm chất đạo đức, minh bạch trong hoạt động.

* Xóa bỏ sự can thiệp sâu của Nhà nước vào các DNNN

Nhà nƣớc đã can thiệp vào hoạt động của DNNN nói chung, TĐKT quá sâu bằng

các quyết định hành chính và vẫn còn nhiều “ƣu ái”. Có thể cắt nghĩa sự can thiệp này là

do DNNN đƣợc xem nhƣ là một công cụ để điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc và cũng do

TĐKT Nhà nƣớc vừa mới thành lập, cần phải hỗ trợ và tình hình kinh tế bị ảnh hƣởng bởi

suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, trong thời gian tới, để TĐKT nhà nƣớc có thể tự

chủ hơn và cạnh tranh lành mạnh, Nhà nƣớc cần giảm thiểu những can thiệp này.

Cũng giống nhƣ Trung Quốc, các tập đoàn này đã không sử dụng nguồn vốn Nhà

nƣớc một cách hiệu quả. Gần đây các tập đoàn này có dấu hiệu thiếu tập trung vào các

hoạt động cốt lõi mà lại ra sức đầu cơ một cách tham vọng vào các ngành bất động sản,

tài chính, ngân hàng... để thu lợi nhuận tức thời. Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy năng

lực quản lý kinh tế yếu kém và thiếu chiến lƣợc: nhiều tập đoàn vay vốn nƣớc ngoài quá

nhiều mà không tận dụng hết đành phải đầu tƣ sang các lĩnh vực khác. Những tập đoàn

này không tập trung nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của mình mà lại cố gắng dùng sự hỗ

trợ của Chính phủ để tạo ra những công ty độc quyền trong nƣớc để ngăn cản cạnh tranh

từ doanh nghiệp nƣớc ngoài.

Việc xóa bỏ sự can thiệp của nƣớc đối với DNNN không chỉ đảm bảo cho sự phân

bổ nguồn lực kinh tế hiệu quả hơn, theo nguyên tắc thị trƣờng, mà còn là việc thực hiện

các cam kết WTO. Thực hiện đƣợc giải pháp này, theo các chuyên gia kinh tế đòi hỏi nhà

nƣớc (và cả DNNN) phải vƣợt qua chính mình, hƣớng tới quyết định chính sách một cách

khoa học và khách quan.

* Tăng cường quản lý và giám sát đối với các DNNN lớn một cách hiệu quả

+ Các TĐKT và TCT nhà nƣớc hiện đang hoạt động trong các lĩnh vực trọng yếu

của nền kinh tế, nắm giữ một khối lƣợng lớn tài sản quốc gia, chiếm tỷ trọng cao nợ nƣớc

ngoài và nợ các ngân hàng trong nƣớc; hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này có

ảnh hƣởng rất lớn, trực tiếp đến ổn định kinh tế vĩ mô, chất lƣợng và sức cạnh tranh của

nền kinh tế. Vì thế, hoạt động của khối doanh nghiệp này cần phải đƣợc giám sát chặt

chẽ, đánh giá một cách đầy đủ, minh bạch thông qua kiểm toán độc lập, tin cậy nhằm nắm

125

chắc thực trạng, có giải pháp kịp thời, phù hợp để khắc phục các yếu kém. Giải pháp đƣợc

đề ra ở đây là nên thuê các công ty kiểm toán quốc tế. Tuy chi phí cao nhƣng sẽ góp phần

làm minh bạch về tình hình tài chính của các tập đoàn.

+ Kiểm soát chặt chẽ việc các TĐKT và TCT nhà nƣớc đầu tƣ vào kinh doanh

chứng khoán, ngân hàng, bất động sản. Đồng thời đẩy mạnh việc sắp xếp đổi mới doanh

nghiệp nhà nƣớc theo kế hoạch đã đề ra, trong đó biện pháp cơ bản là thực hiện có hiệu

quả công tác cổ phần hoá, hình thành đa sở hữu trong doanh nghiệp nhà nƣớc, tạo động

lực và cơ chế quản lý năng động, tăng cƣờng sự giám sát của cổ đông và xã hội, làm cho

doanh nghiệp nhà nƣớc thực hiện tốt nhất vai trò, vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị

trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa của nƣớc ta. Bộ trƣởng, Chủ tịch ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố, với tƣ cách là đại diện chủ sở hữu nhà nƣớc phải tập trung chỉ đạo, kiểm

tra việc thực hiện nhiệm vụ này

+ Cần phải có một chế tài và một cơ quan chuyên trách mới có thể kiểm soát đƣợc

hoạt động của các tập đoàn ở tầm vĩ mô với sự giám sát của các cơ quan bảo vệ pháp luật,

ai vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Kiểm soát ở tầm vĩ mô chính là kiểm soát về chiến

lƣợc phát triển, về chiến lƣợc đầu tƣ, về huy động vốn của tập đoàn và chính sự kiểm soát

này sẽ buộc hoạt động của các tập đoàn phải đi đúng hƣớng. Để cho hoạt động kiểm soát

thực sự hiệu quả, theo tôi các cơ quan quản lý đó phải đủ năng lực, cơ cấu bao gồm đại

diện của Chính phủ, đại diện của các bộ ngành, một số chuyên gia cao cấp trong các lĩnh

vực khác.

+ Kiểm soát tình trạng vay nợ lớn nƣớc ngoài của các tập đoàn. Một mặt, chúng ta

cần lựa chọn các khoản vay có điều kiện vay ƣu đãi, dài hạn, mặt khác cần chú trọng tới

hiệu quả sử dụng và quản lý vốn vay để tránh tình trạng vay nợ mới trả nợ cũ, thất thoát

vốn vay. Muốn vậy, cần tăng cƣờng quản lý đối với những khoản vay , quy định rõ đối

tƣợng trả nợ, tiến hành thẩm định tính khả thi và khả năng trả nợ của các chƣơng trình và

dự án vay nợ nƣớc ngoài. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, để tránh rủi ro nợ phát sinh,

trong cơ cấu nợ nƣớc ngoài, nợ dài hạn nên chiếm tỷ trọng lớn hơn, đồng thời cần hạn chế

các khoản vay ngắn hạn vì phần lớn những khoản vay này Nhà nƣớc khó có thể kiểm soát

đƣợc. Bên cạnh đó, phải đa dạng hoá nguồn vốn vay. Hiện nay, phần lớn nợ nƣớc ngoài

của Việt Nam là dƣới hình thức ODA. Tuy rằng hình thức này thƣờng có lãi suất thấp,

126

nhƣng kèm theo đó là những điều kiện mang tính chính trị, phía nhận ODA thƣờng bị

ràng buộc về phƣơng thức mua sắm, đấu thầu, chọn tƣ vấn, do đó, nếu không có trình độ

thẩm định kỹ thuật cao, kinh nghiệm đàm phán tốt và kỹ thuật giải ngân thì hiệu quả dự

án sẽ không cao. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, bên cạnh các khoản vay chính thức,

cần chú trọng tới hình thức vậy qua phát hành trái phiếu trên thị trƣờng quốc tế. Những

khoản vay này thƣờng không mang tính chất chính trị và nƣớc vay nợ có thể toàn quyền

sử dụng các khoản vay này, do đó hiệu quả sử dụng sẽ cao hơn.

+ Nghiêm túc thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của TĐKT, xử phạt

nghiêm minh theo đúng pháp luật

Kinh nghiệm sụp đổ của các TĐKT trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997 ở

Đông Á và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, hay vụ Vinashin cho thấy, việc

thiếu kiểm soát của Nhà nƣớc hoặc kiểm soát không chặt chẽ đã dẫn đến hậu quả là các

TĐKT Nhà nƣớc hoạt động không minh bạch và tiềm ẩn nguy cơ làm ăn thua lỗ, dẫn đến

phá sản. Vì vậy, nhà nƣớc cần tăng cƣờng việc kiểm gia, giám sát, đánh giá các TĐKT

nhà nƣớc. Tuy nhiên, việc kiểm soát phải theo hƣớng áp dụng các biện pháp kiểm soát nội

bộ chặt chẽ dựa trên nền tảng quản trị khoa học, bao gồm cả kiểm soát bên ngoài và kiểm

soát nội bộ công ty. Với tƣ cách cơ quan quản lý, Nhà nƣớc kiểm soát bên ngoài bằng

cách thuê các cơ quan kiểm toán độc lập báo cáo kết quả định kỳ về tình hình hoạt động

của mỗi doanh nghiệp thành viên cũng nhƣ toàn bộ tập đoàn. Kiên quyết thực hiện thanh

tra, kiểm toán các hoạt động của tập đoàn theo đúng lộ trình, tránh trì hoãn. Thực tế cho

thấy, không phải là Chính phủ không có những quy trình kiểm tra này, nhƣng vấn đề nằm

ở chỗ việc thực thi không dứt điểm, thiếu kiên quyết. Các TĐKT đều thuộc Thủ tƣớng

Chính phủ quản lý, do đó, đã tạo một “vị thế pháp luật” để các cuộc thanh tra này không

đƣợc tiến hành.

Kiểm soát từ bên ngoài thông qua việc thu hút các nhà Đầu tƣ. Các nhà đầu tƣ sẽ

bầu đại diện của họ tham gia (hoặc không tham gia) vào Hội đồng quản trị nhƣng họ sẽ có

cách kiểm soát từ bên ngoài để không làm giảm giá trị của công ty, không làm mất giá trị

phần vốn mà họ đã đầu tƣ. Xây dựng quy định theo hƣớng khuyến khích các doanh

nghiệp thành viên niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán, đồng thời cắt bỏ “rót” vốn từ

Nhà nƣớc và các khoảng vay ƣu đãi của ngân hàng cũng là một trong những biện pháp

127

hữu hiệu để kiểm soát từ bên ngoài, thực hiện theo phƣơng án này, doanh nghiệp sẽ do

các nhà đầu tƣ chiến lƣợc, các ngân hàng thƣơng mại nhà nƣớc (cho vay, là nhà đầu tƣ

lớn) và các thành viên đại diện phần vốn nhà nƣớc tại doanh nghiệp cùng họp bàn và bầu

ra Hội đồng quản trị thay vì cách Nhà nƣớc chỉ định viên chức nhà nƣớc nhƣ hiện nay.

Trong những năm tới, Việt Nam nói chung, DNNN Việt Nam nói riêng sẽ gặp phải

không ít khó khăn trong quá trình phát triển do có những diễn biến kinh tế vĩ mô phức tạp

và khó lƣờng. DNNN cần phát triển theo các định hƣớng nhƣ: Phát triển DNNN phải gắn

với việc tái cơ cấu khu vực DNNN và tách hoạt động quản lý của nhà nƣớc ra khỏi hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp; Phát triển DNNN phải phù hợp với yêu cầu của

WTO; Phát triển DNNN phải theo hƣớng phát huy những lợi thế của Vệt Nam; Phát triển

DNNN phải theo hƣớng phát triển bền vững.

Để có thể hội nhập sâu hơn, bản thân DNNN và nhà nƣớc cần thực hiện đồng bộ

nhiều giải pháp. Đối với nhà nƣớc, cần xác định rõ vai trò, vị trí của KTNN và DNNN;

Tăng cƣờng quản lý giám sát hoạt động của các DNNN lớn; giải quyết tố vấn đề nhân sự,

tạo môi trƣờng hội nhập tốt nhất cho doanh nghiệp; Đối với DNNN, không còn con

đƣờng nào khác các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động nâng cao hiệu quả hoạt động để

có thể tồn tại và phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian sắp tới.

KẾ T LUẬN

Phát triển DNNN một cách bền vững, đặc biệt là giai đoạn đang dấy lên những câu

128

hỏi lớn về hiệu quả hoạt động của các DNNN Việt Nam nhƣ hiện nay là một vấn đề

mang tính thời sự và đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam

ngày càng hội nhập sâu và rộng hơn vào nền kinh tế thế giới mà điển hình là việc các

cam kết WTO của khu vực DNNN sắp có hiệu lực thì việc tiếp tục nâng cao hiệu quả

hoạt động của các DNNN càng trở nên quan trọng. Trong những năm tới, khi nền kinh tế

trong nƣớc và thế giới luôn tiềm ẩn những bất ổn vĩ mô khó lƣờng về kinh tế, chính trị,

xã hội, thì việc phát triển DNNN tiềm ẩn những thách thức lớn lao mà các DNNN phải

thực sự thay đổi mới có thể vƣợt qua và đứng vững.

Nghiên cứu quá trình phát triển DNNN Việt Nam, tác giả đã chỉ rõ những cơ sở lý

luận và thực tiễn của quá trình này, tác giả cũng khẳng định phát triển DNNN là một tất

yếu và là trụ cột trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Đồng thời tác giả cũng chỉ

ra những thành công, hạn chế của quá trình này và yêu cầu đặt ra cho khu vực DNNN

trong giai đoạn 2011 – 2015, sau khi Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế

giới.. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát triển DNNN

trong thời gian tới và cũng khẳng định việc thực hiện các giải pháp này phải đƣợc tiến

hành một cách động bộ để có thể phát huy tác dụng của nó.

Tiếp tục phát triển DNNN một cách bền vững ở Việt Nam sẽ vẫn là một vấn đề

mang tính thời sự và cần đƣợc quan tâm, đặc biệt là trong xu hƣớng hội nhập kinh tế

quốc tế của Việt Nam mà cụ thể là việc tham gia vào WTO. Do vậy, đây vẫn còn là một

vấn đề cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu. Trong giai đoạn tới, việc phát triển DNNN Việt

Nam sẽ phải thực hiện một cách mạnh mẽ và có hiệu quả thì mới đáp ứng đƣợc yêu cầu

đặt ra cho khu vực này trong bối cảnh mới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Quang A, 2009, “Địa vị và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước”,

129

báo cáo tại hội thảo “Tập đoàn kinh tế nhà nƣớc – Lý luận và thực tiễn”

2. Vũ Đình Bách, (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế nhà nước- Lý

luận và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia.

3. Bộ Thƣơng mại, (2006), Các văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam.

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006- 2010,

NXB Lao động xã hội.

5. Brian Van Arkadie và Raymond Mallon, (2004), Việt Nam con hổ đang chuyển

mình?, NXB Thống kê.

6. Nguyễn Kim Cúc, PGS, TS Kim Văn Chính, (2006), Sở hữu Nhà nước và DNNN

trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, NXB Lý luận chính trị Hà Nội.

7. Phạm Văn Dũng, (2001), Kinh tế chính trị Mác- Lênin, tập I, tập II, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội.

8. Đảng cộng sản Việt Nam, (2001), Văn Kiện đại hội Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia.

9. Đảng cộng sản Việt Nam, (2006), Văn Kiện đại hội Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia.

10. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, NXB Chính trị quốc gia

11. Luật Doanh nghiệp Việt Nam (2005), NXB Thống kê.

12 Ngô Quang Minh, (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới DNNN, NXB

Chính trị quốc gia.

13. Nguyễn Thuỷ Nguyên, (2006), WTO - thuận lợi và thách thức cho DNVN,

14. Nguyễn An Nguyên (2008), báo cáo “Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á

và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam”.

15. Ngân hàng Thế giới (2007), Báo cáo phát triển Việt Nam 2006, “Kinh doanh”

16. Ngân hàng thế giới, (2008), Báo cáo phát triển Việt Nam 2007 “Hướng đến tầm

cao mới”, Trung tâm Thông tin phát triển Việt Nam.

17. Ngân hàng thế giới, 2009, Báo cáo phát triển Việt Nam 2009, “ Huy động và sử

dụng vốn”.

18. Nhiều tác giả, (2006), Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định hướng

130

XHCN, NXB Lao động.

19. Nguyễn Văn Quảng, (1996), Một số vấn đề tiếp tục sắp xếp lại DNNN, Luận án

Tiến sĩ.

20. Nguyễn Văn Thƣờng, GS.TSKH. Lê Du Phong, (2006), Tổng kết kinh tế Việt

Nam 2001- 2005, Lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.

21. Lê Hữu Tầng, Lƣu Hàm Nhạc, 2002, Nghiên cứu so sánh đổi mới kinh tế ở Việt

Nam và cải cách kinh tế ở Trung Quốc, NXB Chính trị quốc gia.

22. Trần Nguyễn Tuyên, 2006, Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Lao động.

23. Mai Thị Thanh Xuân, Tập bài giảng Kinh tế nhà nước, Khoa Kinh tế, ĐHQG Hà

Nội.

24. Lee Kang Woo, Quá trình đổi mới DNNN Việt Nam giai đoạn 1986- 2000,

(2002), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

25. Tổng cục Thống kê, (2008), Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm

2001, 2002, 2003. NXB Thống kê.

26. Tổng cục Thống kê, (2006), Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê.

27. Thời báo Kinh tế Việt Nam, (2006), Kinh tế 2005- 2006 Việt Nam và thế giới.

28. Thời báo Kinh tế Việt Nam, (2007), Kinh tế 2006- 2007.

29. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 333, tháng 2/2006, trang 41.

30. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 337, tháng 6/2006, trang 42.

31. Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 35, tháng 8/2006, trang 32.

32. Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 12/ 2006, trang 4.

33. Tạp chí Quản lý kinh tế, số 7, tháng 4/2006, trang 20.

34. Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 3, tháng 3/2007, trang 31.

35. Tạp chí Lý luận chính trị, số 1, tháng 1/2006, trang 19, 48, 52.

36. Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 128, tháng 2/2007, trang 15, 19.

37. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 196, tháng 2/2007, trang 2, 12, 18.

38. Viện quản lý kinh tế Trung ƣơng, (2007), Báo cáo phát triển Việt Nam 2007,

Hướng đến tầm cao mới.

39. Viện quản lý kinh tế Trung ƣơng, (2006), Kinh tế Việt Nam 2005

131

40. Website của Thời báo kinh tế Việt Nam; www.economy.com.vn

41. Website của Viện CIEM: www.ciem.org.vn

43. Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ: www.mpi.org.vn

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1. Một số chỉ têu phản ánh quy mô và hiệu quả kinh doanh của DNNN.

132

Số lƣợng

Vốn

TSCĐ

DT

Tỷ lệ

Tỷ lệ

Tỷ lệ

lđ bình

bình

và đầu

bình

nộpNS

LNtrên

LN

Năm

quân/ 1

quân(tỷ

tƣ dài

quân/1

so với

vốn

trên

DN(ngƣời)

VNĐ)

hạn(trđ)

lđ (trđ)

DT(%)

(%)

DT(%)

363

130

110

213

6.92

2,351

3,950

2000

395

153

124

228

10,85

2,453

4,176

2001

421

167

137

275

9,27

2,900

4,197

2002

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm

2001, 2002, 2003, NXB Thống kê, 2004.

PHỤ LỤC 2. Số DNNN sản xuất kinh doanh lãi, lỗ.

DN có lãi

DN lỗ

Năm

Tổng lãi

Lãi bq

Tổng lỗ

Lỗ bq/

Số DN

Số DN

(tỷ đồng)

/1Dn(tỷđ)

(tỷ đồng)

1DN(tỷđ)

2000

4.359

20.865

4.597

1.005

-3.299

-3.283

2001

4.249

23.557

5.544

894

-3.411

-3.815

2002

4.450

29.131

6.546

787

-3.171

-4.030

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm

2001, 2002, 2003, NXB Thống kê, 2004

PHỤ LỤC 3. Số DN hoạt động phân theo loại hình kinh tế

Đơn vị: Doanh nghiệp

2000

2001

2002

2003

2004

Tổng

42.288

51.680

62.908

72.012

91.755

DNNN

5.759

5.355

5.363

4.845

4.596

DN ngoài NN

35.004

44.314

55.237

64.526

84.003

DN có vốn ĐTNN

1.525

2.011

2.308

2.641

3.156

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, 2006

133

PHỤ LỤC 4. Cơ cấu doanh nghiệp trong nền kinh tế .

Đơn vị: %

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Tổng

100

100

100

100

100

DNNN

13,62

10,36

8,53

6,37

5,01

DN ngoài QD

88,77

85,75

87,80

89,60

91,55

3,89

DN có vốn ĐTNN

3,61

3,67

3,67

3,44

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, 2006

PHỤ LỤC 5. Tổng số lao động trong các doanh nghiệp

Đơn vị: Ngƣời.

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Tổng

3.536.998 3.933.226 4.657.803 2.264.942 2.249.902

DNNN

2.088.531 2.114.324 2.259.858 2.264.942 2.249.902

DN ngoài NN

1.040.902 1.329.615 1.706.857 2.049.891 2.475.448

DN có vốnĐTNN

407.565

489.287

691.088

860.259 1.044.851

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, 2006

PHỤ LỤC 6. Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm.

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Tổng

998.423 1.186.014 1.352.076 1.567.179 1.966.165

DNNN

670.234

781.705

458.560

932.943 1.128.484

DN ngoài NN

98.348

142.202

202.396

289.625

422.892

DN cóvốnĐTNN 229.841

262.107

291.120

344.611

414.789

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, 2006.

PHỤ LỤC 7. Cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh.

Đơn vị: %

134

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Tổng

100

100

100

100

100

DNNN

67,13

65,91

63,50

59,53

57,39

DN ngoài NN

9,85

11,99

14,97

18,48

21,51

DN có vốn ĐTNN

23,02

22,10

21,53

21,99

21,10

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, 2006.

PHỤ LỤC 8. Doanh thu thuần của các DN

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Tổng

809.786 897.856 1.194.902 1.436.151 1.719.401

DNNN

444.673 460.029

611.167

666.022

708.045

DN ngoài NN

203.156 260.565

362.657

482.181

637.371

DN có vốnĐTNN 161.957 177.262

221.078

287.948

373.985

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, 2006

PHỤ LỤC 9. Cơ cấu doanh thu thuần của các DN

Đơn vị: %

Năm

2000

2001

2002

2003

2004

Tổng

100

100

100

100

100

DNNN

54,91

51,24

51,15

46,38

41,18

DN ngoài NN

25,09

29,02

30,35

33,57

37,07

DN có vốn ĐTNN

20

19,74

18,50

20,05

21,75

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2005, NXB Thống kê, 2006

PHỤ LỤC 10. Cơ cấu đóng góp vào GDP của các khu vực kinh tế giai đoạn 1995-

2005.

Đơn vị: %

135

Năm

KTNN

KT ngoài NN KT ĐTNN

Tổng

1995

40,2

53,5

6,3

100

1996

39,9

52,7

7,4

100

1997

40,5

50,4

9,1

100

1998

40,0

50,0

10,0

100

1999

38,7

49,0

12,2

100

2000

38,5

48,2

13,3

100

2001

38,4

47,8

13,8

100

2002

38,3

47,8

13,9

100

2003

38,3

47,7

14,0

100

2004

39,2

45,6

15,2

100

2005

38,0

47,0

15,0

100

Nguồn: Tạp chí Quản lý kinh tế, số 7, tháng 4/2006, trang 22.

PHỤ LỤC 11. GDP của khu vực DNNN

Đơn vị: tỷ đồng

2000

2001

2002

2003

2004

2005

Tổng

441.646 481.295 535.726 631.443 715.307 837.858

DNNN

170.141 184.836 205.652 239.736 279.704 321.942

Nguồn: Báo cáo phát triển Việt nam 2007, “ Hướng đến tầm cao mới”

136