ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ GIANG THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Thái Nguyên - năm 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ GIANG THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI Ở HUYỆN PHÙ NINH, TỈNH PHÚ THỌ Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp Mã số: 8-62-01-15 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Văn Điền Thái Nguyên - năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung thực, xuất
phát từ tình hình thực tế của sản xuất kinh doanh theo mô hình trang trại ở
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Giang
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp phát
triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ”, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của nhiều cá nhân và tập thể. Tôi xin
được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Nhà trường, Các quý thầy cô
khoa Kinh tế và phát triển nông thôn của Trường Đại học Nông Lâm - Đại học
Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập và
hoàn thành luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn
PGS. TS Trần Văn Điền
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến quý báu của các
nhà khoa học, các thầy, cô giáo trong Trường Đại học Nông Lâm - Đại học
Thái Nguyên.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi còn được sự giúp đỡ và cộng tác của
các đồng chí tại địa điểm nghiên cứu, tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo
Huyện Ủy, UBND và các phòng ban huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đã tạo điều
kiện mọi mặt để tôi hoàn thành nghiên cứu này.
Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè và gia đình đã giúp
tôi thực hiện luận văn này.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đối với mọi sự giúp đỡ quý báu đó.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Giang
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
1.2 . Tổng quan các công trình khoa học đã công bố liên quan đến
nghiên cứu ........................................................................................................ 2
1.3.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................... 6
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn.................................................................... 6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................ 7
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài .......................................................................... 7
1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại ...................................................... 7
1.1.2. Khái niệm kinh tế trang trại .................................................................. 10
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại ...................................... 12
1.1.4. Phát triển kinh tế trang trại .................................................................... 16
1.2. Đặc trưng của kinh tế trang trại................................................................ 17
1.2.1. Đặc trưng của kinh tế trang trại............................................................. 17
1.2.2. Những tiêu chí xác định kinh tế trang trại ............................................ 24
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế trang trại .......... 25
1.3.1. Các yếu tố thuộc về Nhà nước ảnh hưởng đến chính sách phát
triển kinh tế trang trại ...................................................................................... 25
1.3.2. Các yếu tố thuộc về trang trại .............................................................. 26
1.3.3. Các yếu tố khác ..................................................................................... 27
1.4. Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn ........................................................................................ 28
1.4.1. Vai trò của kinh tế trang trại ................................................................. 28
1.4.2.Kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại trên thế giới ..................... 32
1.4.3. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới theo
nền kinh tế thị trường ...................................................................................... 33
1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn ........................ 36
iv
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU ............................................................................................... 37
2.1.Đối tượng nghiên cứu................................................................................ 37
2.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 37
2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 37
2.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 37
2.4.1. Chọn điểm nghiên cứu: ......................................................................... 37
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................ 38
2.4.3.Phương pháp xử lý số liệu ...................................................................... 38
2.4.4.Hệ thống các chỉ tiêu phân tích .............................................................. 39
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ................... 40
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ................................................................... 40
3.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên ................................................................. 40
3.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội huyện Phù Ninh ............................................ 42
3.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại huyện Phù Ninh giai đoạn
2014 -2016 ....................................................................................................... 45
3.2.1. Các loại hình trang trại ở huyện Phù Ninh ............................................ 45
3.2.2. Đặc điểm, tình hình cơ bản của chủ trang trại ..................................... 47
3.3. Khó khăn và hạn chế trong sản xuất kinh doanh trang trại ..................... 65
3.4. Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Phù Ninh ................ 68
3.4.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại của Đảng và nhà nước ............ 68
3.4.2. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại huyện Phù Ninh, tỉnh
Phú Thọ ........................................................................................................... 69
3.4.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ........................................ 72
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 82
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng đất của huyện Phù Ninh qua các năm 2014
- 2016 ............................................................................................ 41
Bảng 3.2. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa bàn huyện giai đoạn
2011-2016 ..................................................................................... 42
Bảng 3.3. Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng các ngành giai đoạn
2014 - 2016 ................................................................................... 43
Bảng 3.4. Thống kê gia súc, gia cầm địa bàn huyện giai đoạn 2014-2016 .... 44
Bảng 3.5. Số lượng và cơ cấu trang trại .......................................................... 45
Bảng 3.6. Đặc điểm, tình hình cơ bản về chủ trang trại ................................. 47
Bảng 3.7. Số lượng và cơ cấu trang trại .......................................................... 48
Bảng 3.8. Lao động tham gia sản xuất trong trang trại ................................... 49
Bảng 3.9. Đất đai của các trang trại điều tra phân theo loại hình và mục
đích sử dụng .................................................................................. 50
Bảng 3.10. Thực trạng và nguồn gốc đất đai của trang trại ............................ 51
Bảng 3.11. Tình hình vốn và nguồn vốn của các trang trại ............................ 52
Bảng 3.12. Tình hình sử dụng vốn của trang trại tính bình quân phân
theo lĩnh vực sản xuất ................................................................... 54
Bảng 3.13. Trang bị và sử dụng máy móc trong trang trại ............................. 55
Bảng 3.14. Các hình thức tiêu thụ sản phẩm của các trang trại trên địa
bàn huyện Phù Ninh ..................................................................... 55
Bảng 3.15. Giá trị sản xuất kinh doanh bình quân/ trang trại và tỷ suất
hàng hóa theo ngành năm 2016 .................................................... 56
Bảng 3.16. Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2016 Bình quân một trang trại ... 57
Bảng 3.17 Hiệu quả sử dụng vốn của các trang trại điều tra .......................... 58
Bảng 3.18. Hiệu quả sản xuất kinh doanh năm 2016 của các trang trại ........ 60
Bảng 3. 19 Tình hình sử dụng lao động của các trang trại ............................. 61
Bảng 3. 20. Tỷ lệ trang trại đã thực hiện tốt bảo vệ môi trường năm 2016 .... 62
Bảng 3. 21. Những khó khăn của chủ trang trại ............................................. 65
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nguyên nghĩa
Tư bản chủ nghĩa TBCN 1
Phó Giáo sư - Tiến sỹ PGS-TS 2
Trang trại TT 3
Kinh tế trang trại KTTT 4
Công nghiệp hoá CNH 5
Hiện đại hoá HĐH 6
Cơ sở dữ liệu CSDL 7
Thu nhập hỗn hợp TNHH 8
Giá trị sản xuất GTSX 9
Sản xuất kinh doanh SXKD 10
Uỷ ban nhân dân UBND 11
KH &CN Khoa học và công nghệ 12
Phát triển nông thôn PTNT 13
Hợp tác xã HTX 14
Dồn điền đổi thửa DĐĐT 15
1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp được hình thành tương
đối sớm trên thế giới, tuỳ từng thời kỳ mà có những hình thức, tên gọi khác
nhau nhưng đều có đặc điểm chung là sản xuất hàng hoá tự chủ với quy mô
lớn. Phát triển kinh tế trang trại là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông
nghiệp, nông thôn hiện nay. Ngày nay, trang trại là loại hình tổ chức sản xuất
phổ biến trong nền nông nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta, trang trại đã hình thành và trải qua các giai đoạn lịch sử
khác nhau của sự phát triển. Tuy nhiên, trang trại gia đình chỉ phát triển từ
đầu thập niên 1990 sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Luật đất
đai ra đời năm 1993, giao quyền sử dụng đất sản xuất ổn định và lâu dài
cho hộ gia đình nông dân.
Từ khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, kinh tế
hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp
phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của các hộ
nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ
chuyên môn cao đóng góp ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mới
hình thành và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã khơi dậy tiềm năng đất
đai, lao động, vốn trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện bộ mặt
nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đã nảy sinh
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời liên quan
đến nhận thức, cơ chế chính sách của Nhà nước: về đất đai, lao động, vốn
đầu tư, tư cách pháp nhân, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ trang trại trước
pháp luật.v.v... nhằm củng cố và phát triển loại hình này một cách tích cực,
ổn định và bền vững.
2
Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các cấp độ khác nhau về kinh
tế trang trại ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhìn chung, các công
trình nghiên cứu đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp
nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế
trang trại trong nền nông nghiệp của nước ta hiện nay.
Tuy vậy, vì sản xuất nông nghiệp được diễn ra trên không gian rộng
lớn, mỗi vùng, thậm chí mỗi tiểu vùng cũng có sự khác biệt về điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội, nên các trang trại ở mỗi vùng cũng có những đặc
điểm khác nhau. Phù Ninh là một huyện nằm ở tỉnh Phú Thọ, là một tỉnh
trung du miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ, có tiềm năng thế mạnh về
nông nghiệp, đất đai đồi rừng, chăn nuôi, nhưng kinh tế trang trại Phù Ninh
còn rất nhỏ bé cả về số lượng và chất lượng, chưa có đóng góp nhiều cho
kinh tế của tỉnh mà loại hình này có nhiều cơ hội phát triển.
Để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, phát triển kinh
tế trang trại là hướng đi đúng đắn, cần được quan tâm giúp đỡ bằng những
chính sách hợp lý, góp phần khai thác một cách có hiệu quả và bền vững
tiềm năng về đất đai ở Phú Thọ. Việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực
tiễn về kinh tế trang trại trong tỉnh, từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để
phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh có một ý nghĩa rất quan trọng.
Xuất phát từ thực tế địa phương, với kinh nghiệm công tác trong
ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tác giả thời gian qua, đề
tài: “Thực trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện
Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ” đã được chọn để nghiên cứu.
1.2 . Tổng quan các công trình khoa học đã công bố liên quan đến nghiên cứu
Kinh tế trang trại theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường
thực sự phát triển mạnh mẽ cùng với quá trình đổi mới quản lý sản xuất nông
nghiệp ở nước ta. Trong những năm gần đây, một số cơ quan nghiên cứu và
3
quản lý ở trung ương và địa phương đã bước đầu nghiên cứu, tổng kết về kinh
tế trang trại.
Từ cuối những năm 1990, Chính phủ, Bộ NN&PTNT cũng như một số
cơ quan nghiên cứu ở Trung ương và địa phương đã bắt đầu nghiên cứu, tổng
kết về kinh tế trang trại. Báo cáo tổng kết của Bộ NN&PTNT năm 1999 về
tình hình phát triển kinh tế trang trại ở một số tỉnh, thành phố đã đánh giá
tương đối toàn diện thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam giai
đoạn 1986 - 1999. Báo cáo cho rằng đây là một mô hình tổ chức sản xuất
nông nghiệp hiệu quả, phù hợp với xu hướng phát triển sản xuất hàng hoá
trong nông nghiệp ở nước ta thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trên cơ sở các báo cáo tổng kết của các tỉnh, thành phố, Bộ NN&PTNT đã đề
ra một số chính sách về phát triển kinh tế trang trại: tạo điều kiện về đất sản
xuất, vốn tín dụng ưu đãi và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ để thúc
đẩy phát triển kinh tế trang trại.
Sau khi có định hướng của các cơ quan quản lý nhà nước, mô hình kinh
tế trang trại đã phát triển ở nhiều nơi, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc
và các tỉnh khu vực Tây nguyên. Nhiều công trình nghiên cứu đã được thực
hiện, tập trung giải quyết những khó khăn vướng mắc, cản trở sự phát triển
của kinh tế trang trại.
GS.TS. Trần Đức, Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, trong công trình
nghiên cứu “Kinh tế trang trại vùng đồi núi”, NXB Thống kê (1998) đã nhấn
mạnh hiệu quả kinh tế và những tác động tích cực về môi trường và xã hội khi
phát triển kinh tế trang trại ở các tỉnh miền núi. Tuy nhiên, theo tác giả, khó
khăn lớn nhất cản trở sự phát triển của mô hình này chính là thói quen, tập
quán sản xuất manh mún, nhỏ lẻ của bà con nông dân. Hơn thế nữa, tác giả
Trần Đức cho rằng, trình độ dân trí chưa cao đã ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
chuyển giao công nghệ cho nông dân vùng nông thôn, miền núi.
4
Cũng cùng quan điểm đó, trong công trình nghiên cứu: “Phát triển kinh
tế hợp tác và kinh tế trang trại gia đình ở Việt Nam” (năm 2000), tập thể tác
giả thuộc Hội Khoa học kinh tế Việt Nam đã nhấn mạnh đến vai trò quan
trọng của Nhà nước trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế trang trại. Người
dân chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, tự cung - tự cấp lên sản xuất hàng hoá theo mô
hình kinh tế trang trại, không chỉ cần vốn, khoa học - công nghệ, thị trường
mà còn cần kỹ năng tổ chức sản xuất.
Đề tài cấp Nhà nước “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” do Thủ tướng Chính
phủ giao cho Trường Đại học Kinh tế Quốc dân chủ trì nghiên cứu từ năm 1999
đến năm 2000, (GS.TS. Nguyễn Đình Hương làm chủ nhiệm), là công trình
nghiên cứu công phu và đồ sộ nhất về kinh tế trang trại ở Việt Nam cho đến thời
điểm này. Đề tài đã đề xuất một số giải pháp cụ thể về đất đai, về vốn, về phát
triển nguồn nhân lực, về thị trường, về khoa học - công nghệ, về phát triển hạ
tầng nông thôn, về phát triển công nghiệp chế biến và tăng cường quản lý nhà
nước đối với kinh tế trang trại. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng đã được xuất
bản thành sách: “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” do GS.TS. Nguyễn Đình Hương
làm chủ biên (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000).
Từ năm 2000 đến nay, một số trường đại học, viện nghiên cứu và các địa
phương đã có một số công trình nghiên cứu, đánh giá về kinh tế trang trại. Từ
năm 2005 đến năm 2006, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã chủ trì đề tài
cấp Bộ (PGS.TS. Phạm Hồng Chương làm chủ nhiệm): “Nghiên cứu phát triển
mô hình kinh tế trang trại ở tỉnh Quảng Bình”, nghiệm thu năm 2007. Đề tài đã
đề xuất các giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Quảng Bình.
Tại Trường Đại học Ngoại thương, đề tài cấp Bộ về “Kinh tế trang trại
và những giải pháp thúc đẩy sự phát triển kinh tế trang trại theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam” đã được tổ
5
chức nghiên cứu và nghiệm thu năm 2004 (đề tài do ThS. Nguyễn Thị Ngọc
Lan làm chủ nhiệm).
Các công trình nghiên cứu kể trên, ngoài việc phân tích những thuận
lợi, khó khăn trong phát triển kinh tế trang trại, đã đề xuất một số kiến nghị
với các cơ quan quản lý nhà nước và các cấp có thẩm quyền ban hành một số
chủ trương, chính sách thúc đẩy mô hình kinh tế này phát triển.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu gần đây về kinh tế trang trại mới
tập trung chủ yếu vào đề xuất các giải pháp tổ chức, quản lý về phát triển kinh
tế trang trại ở một số địa phương cụ thể, gắn với điều kiện tự nhiên - kinh tế -
xã hội của địa phương đó, chưa có công trình nào chuyên sâu nghiên cứu
chính sách phát triển kinh tế trang trại theo hướng bền vững.
Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và
khoảng trống cho nghiên cứu của đề tài
Theo sự tiếp cận tài liệu và nhận thức của tác giả, cho đến nay, đã có
khá nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và các nhà khoa học ở nước ta
nghiên cứu về kinh tế trang trại trong thời kỳ đổi mới. Kinh tế trang trại cũng
đã trở thành chủ đề nghiên cứu của một số đề tài nghiên khoa học cấp Bộ, cấp
tỉnh và luận văn thạc sỹ. Một số công trình nghiên cứu đã phân tích, đánh giá
khá toàn diện về kinh tế trang trại, nhưng mới chủ yếu đề cập đến kinh tế
trang trại ở một địa phương, một vùng cụ thể. Mặt khác, các công trình này
cũng chủ yếu tập trung đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp phát triển
kinh tế trang trại nói chung, ít chú ý đến sự phát triển bền vững và chủ yếu
phân tích định tính. Một số đề tài, bài viết chưa dựa trên kết quả nghiên cứu,
khảo sát toàn diện về kinh tế trang trại trên địa bàn qua khảo sát thực tế của địa
bàn huyện trung du, miền núi. Vì vậy cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu có hệ thống, toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về chính sách phát
triển kinh tế trang trại theo hướng bền vững trên địa bàn huyện Phù Ninh.
6
1.3.Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh của một số trang
trại trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ trong thời gian từ năm 2014 - 2016.
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh cho
các trang trại trong nền kinh tế thị trường ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
trong thời gian tới.
1.4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: đề tài góp phần hoàn thiện lý luận về phát triển,
nâng cao hiệu quả sản xuất của kinh tế trang trại trong nền kinh tế thị trường;
định hướng đưa sản phẩm nông nghiệp trở thành hàng hóa có giá trị kinh tế
cao, mang lại thu nhập ổn định cho bà con nông dân trong thời kỳ hội nhập
kinh tế ngày một sâu rộng.
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần kiến nghị, đề xuất việc điều chỉnh bổ sung
các cơ chế chính sách, giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh
nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung;
Kết quả nghiên cứu giúp cho chủ trang trại có định hướng và giải pháp
đúng đắn trong việc đầu tư phát triển, mở rộng, sản phẩm nông nghiệp trở
thành hàng hóa có giá trị kinh tế cao, mang lại thu nhập ổn định cho bà con
nông dân trong thời kỳ hội nhập kinh tế ngày một sâu rộng.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại
1.1.1.1. Quan niệm về trang trại
Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình
thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán . Qua đó
“Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với hình thức sản xuất
nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy mô hộ gia đình là
chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh tế thị trường.
Khi chúng ta nói về “trang trại” tức là nói đến những cơ sở sản xuất
kinh doanh (SXKD) nông nghiệp của một loại hình tổ chức sản xuất nhất định
theo nghĩa rộng bao gồm cả hoạt động xã hội kinh doanh trong lĩnh vực trồng
trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS)... Bản thân cụm từ
“trang trại” là đề cập đến tổng thể những mối quan hệ KT- XH, môi trường
nảy sinh trong quá trình hoạt động SXKD của các trang trại, quan hệ giữa các
trang trại với nhau, giữa các trang trại với các tổ chức kinh tế khác, với Nhà
nước, với thị trường, với môi trường sinh thái tự nhiên (Lê Trọng, 2000)[11].
Ở Việt Nam, trước năm 2000 do có nhiều cách tiếp cận, phân tích đánh
giá khác nhau nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm trang trại
và kinh tế trang trại.
Có quan điểm cho rằng, "trang trại là một tổ chức sản xuất cơ sở trong
nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) có mục đích là sản xuất hàng
hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người
chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản
xuất tập trung đủ lớn với phương thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và
trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường" (Nguyễn
Đình Hà, Nguyễn Khánh Quắc, 1999) [6].
8
PGS.TS. Hoàng Việt đã đưa ra khái niệm "Trang trại là một hình thức
tổ chức sản xuất sản phẩm hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui
mô diện tích ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn, với cách
thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và
luôn gắn với thị trường"
Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-
TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thông có hai
nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo mô hình trang trại, đó là
hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực lượng vũ trang đó nghỉ
hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và cá nhân. Từ đó, hình
thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình và trang trại cá nhân
Theo thông tư 74/2003/TT-BNN ngày 4tháng 7 năm 2003 - Một hộ Sản Xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng
hoá; dịch vụ bình quân 1 năm, hoặc về quy mô sản xuất của trang trại được
quy định của Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK.
- Đối với hộ sản xuất, kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm
hàng hoá của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản thì tiêu chí để xác
định trang trại là giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân 1 năm
1.1.1.2. Phân loại trang trại
Theo thông tư Số: 27/2011/TT-BNNPTNT Quy định về tiêu chí và thủ
tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn thì việc phân loại trang trại được quy định tai điều 3 như sau:
Các trang trại được xác định theo lĩnh vực sản xuất như sau:
+ Trang trại trồng trọt;
+ Trang trại chăn nuôi;
+ Trang trại lâm nghiệp;
9
+ Trang trại nuôi trồng thuỷ sản;
+ Trang trại tổng hợp.
Trang trại chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng
thủy sản) là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa của
ngành chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại trong
năm. Trường hợp không có ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản
lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại tổng hợp.
+ Trang trại trồng trọt: là các trang trại trồng cây hàng năm, trồng cây
lâu năm,hoặc trồng cây lâm nghiệp
+ Trang trại chăn nuôi: là trang trại hoạt động chăn nuôi đại gia súc:
trâu, bò,v.v...; chăn nuôi gia súc: lợn, dê,v.v...; chăn nuôi gia cầm: gà, vịt,
ngan, ngỗng,v.v...
+ Trang trại nuôi trồng thuỷ sản.
+ Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: là trang trại có từ 2 hoạt
động sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản khác nhau trở lên và
mỗi hoạt động đều đạt về quy mô hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ như
quy địnhcho trang trại
Ngoài ra còn phân loại trang trại theo các hình thức sau:
Phân loại theo hình thức quản lý
+ Trang trại gia đình độc lập: Là trang trại mà độc lập một gia đình
thành lập, và điều hành quản lý.
+ Trang trại liên doanh: Là trang trại có từ hai hay nhiều gia đình cùng
nhau thành lập và điều hành quản lý.
+ Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Là trang trại kết hợp hai hay
nhiều loại hình sản xuất kinh doanh và cùng nhau góp vốn theo hình thức cổ
phần hóa.
+ Trang trại uỷ thác: Là loại hình trang trại mà người sáng lập, thành
lập nên ủy quyền cho một hay một nhóm người nào đó điều hành quản lý.
10
Theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
+ Chủ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất: Là loại hình trang trại
mà toàn bộ vốn tài sản của trang trại thuộc quyền sở hữu của chủ trang trại.
+ Chủ trang trại sở hữu một phần tư liệu sản xuất và phải đi thuê một
phần:Là loại hình trang trại mà trong đó toàn bộ vốn và tài sản của trang trại
không thuộc quyền sở hữu của riêng chủ trang trại mà còn có của một hay
nhiều sở hữu khác.
+ Chủ trang trại thuê hoàn toàn tư liệu sản xuất: Là loại hình trang trại
mà toàn bộ phần tư liệu sản xuất và tài sản cố định không thuộc quyền sở hữu
của chủ trang trại, mà đó là đi thuê còn chủ trang trại chỉ bỏ chi phí lưu động
để sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm kinh tế trang trại
Đến nay, đã có nhiều nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về
trang trại và kinh tế trang trại. Tuy nhiên, đều có quan điểm chung, phát triển
kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá, khác với nền kinh tế tiểu nông tự cấp, tự
túc. Marx đã phân biệt chủ trang trại với người tiểu nông ở hai khía cạnh đó là:
người chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra; còn người tiểu
nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt.
Theo những tư liệu nước ngoài có thể hiểu “kinh tế trang trại” hay
“trang trại” hoặc “kinh tế nông trại” hay “nông trại”, là một mô hình mà ở đó
sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự điều hành của một
người và ở đây phần đông là chủ hộ gia đình nông dân theo hướng sản xuất
hàng hoá gắn liền với thị trường.
Hai thuật ngữ “trang trại” hay “kinh tế trang trại”, trong nhiều trường
hợp được sử dụng như là những thuật ngữ đồng nghĩa. Về thực chất, trang trại
và kinh tế trang trại là những khái niệm không đồng nhất. Bởi vì, ”Kinh tế
trang trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế
nảy sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại, còn trang trại là
11
nơi kết hợp các yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của các quan hệ
kinh tế đó” [12]. Khi nói về ”kinh tế trang trại” tức là nói đến mặt ”kinh tế”
của trang trại. Ngoài mặt kinh tế còn có thể nhìn nhận trang trại từ phía xã hội
và môi trường. Tuy nhiên, trong nghiên cứu và quản lý người ta thường chú
trọng đến kinh tế của trang trại mà ít chú ý đến nội dung xã hội và môi trường
của trang trại. Cho nên, khi nói kinh tế trang trại người ta thường gọi tắt là
trang trại, vì mặt kinh tế là là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi.
Do vậy, trong văn phong khẩu ngữ tiếng Việt, ở một số trường hợp cụ thể,
cụm từ “trang trại” và “kinh tế trang trại” có thể được dùng thay thế cho nhau,
mà ý nghĩa của câu văn, câu nói không bị thay đổi và coi chúng như những
cụm từ đồng nghĩa .
Kinh tế trang trại có nhiều loại hình thức tổ chức, trong đó chủ yếu là
trang trại gia đình. Hầu hết chủ trang trại là những người có ý chí làm giầu, có
điều kiện làm giầu và biết làm giầu, có vốn, có trình độ kỹ thuật và khả năng
quản lý, có hiểu biết nhất định về thị trường, bản thân và gia đình trực tiếp lao
động và quản lý sản xuất trang trại, đồng thời có thuê mướn thêm lao động
để sản xuất kinh doanh. Kinh tế trang trại mang tính chất sản xuất hàng hoá,
gắn liền với thị trường, nên có nhu cầu cao hơn hẳn kinh tế hộ sản xuất tự
cung, tự cấp về công tác tiếp thị, ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
nông nghiệp. Sự phát triển của công nghiêp, mà trước hết là công nghiệp bảo
quản chế biến nông, lâm, hải sản, chế tạo nông cụ, nhằm tăng năng lực lao
động, hạ giá thành sản xuất, để đáp được đòi hỏi của khách hàng về quy cách,
chất lượng sản phẩm, đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở, là đơn vị
trong nông, lâm, ngư nghiệp. Ngoài trang trại còn có những hình thức sản
xuất khác như nông, lâm trường quốc doanh, kinh tế hợp tác và kinh tế hộ
nông dân. Kinh tế trang trại không phải là thành phần kinh tế mà chỉ là một
hình thức tổ chức sản xuất.
12
Từ những nhận thức trên cùng với việc tìm hiểu kinh nghiệm về trang
trại ở Việt Nam, khái niệm về kinh tế trang trại có thể hiểu như sau:
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất trong nông, lâm,
ngư nghiệp. Có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được
tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn
với các cách thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao,
hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường.((Nguyễn Đình Hà, Nguyễn
Khánh Quắc, 1999) [6].
Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang
trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá
trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm mở rộng
quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông,
lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát
triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo
mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực
lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và
cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình
và trang trại cá nhân.
1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại
Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia
đình nông dân và kinh tế trang trại.
* Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân
Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ nông
dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác, Ăng-
ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu
13
nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên
đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai
cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản
xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các “Đại
điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó sẽ tách
người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất. Sau này
kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã làm chuyển
biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên đoán khái quát
ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không thiết lập ngay
cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu theo kiểu “dọn
sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông trại gia đình trên
thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát triển và càng tỏ rõ
sức sống cũng như hiệu quả của nó. Chính vì thế khi viết quyển III của bộ Tư
bản chủ nghĩa, Mác đã kết luận: “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát
triển hình thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp
nông nghiệp quy mô lớn mà là các trang trại gia đình không có lao động làm
thuê”. Ở những nước còn giữ hình thức chia đất thành khoảnh nhỏ giá lúa mì rẻ
hơn ở những nước có phương thức sản xuất Tư bản” (Nguyễn Thành Nam,
2008) [13]. Mác đã khẳng định do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên “hệ
thống Tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn với nghề nông hợp lý hay là nghề nông hợp
lý không phù hợp (trái ngược) với hệ thống Tư bản chủ nghĩa (mặc dù hệ thống
này có hỗ trợ cho sự phát triển kỹ thuật của nông nghiệp) và đòi hỏi phải có
hoặc là bàn tay của người tiểu nông sống bằng lao động của mình, hoặc là sự
kiểm soát của những người sản xuất có liên kết với nhau” (Mác- Ăng ghen toàn
tập, 1961) [10]. Sau Mác, Ăng-ghen, C. Cauxlay là người kế tục và có những
cấu hiến lớn trong việc truyền bá và phát triển Chủ nghĩa Mác. Trong đó cống
hiến xuất sắc của C. Cauxlay là những công trình nghiên cứu của ông về vấn đề
nông nghiệp. Theo C. Cauxlay nông nghiệp phát triển không cùng một kiểu với
14
công nghiệp mà theo những đặc thù của nó. C. Cauxlay cho rằng sự khác nhau
quan trọng nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp là ở chỗ, trong nông nghiệp
sản xuất thường gắn liền với kinh tế gia đình, lao động trong nông nghiệp khác
với lao động trong công nghiệp. Sản xuất lớn trong nông nghiệp không phải
luôn luôn có ưu thế tuyệt đối so với sản xuất nhỏ trong mọi điều kiện. Ông đã
rất đúng khi cho rằng một doanh nghiệp lớn của nông dân nếu đem so sánh với
một doanh nghiệp nhỏ của nông dân khác trong cùng một khu vực, cùng một
loại cây trồng thì rõ ràng một doanh nghiệp lớn “ưu việt hơn, nếu không phải
về mặt kỹ thuật, thì ít ra cũng về mặt kinh tế”. Cauxlay đã đi sâu vào nghiên
cứu những nguyên nhân dẫn đến sức cạnh tranh đủ mạnh của sản xuất nhỏ để
chống lại ưu thế của sản xuất lớn trong nông nghiệp. Đó là “sự chuyên cần hơn
và sự chăm chỉ cần mẫn hơn của người lao động khi anh làm cho chính bản
thân anh ta (đây là điểm khác căn bản với lao động làm thuê) thấp hơn cả nhu
cầu của chính bản thân công nhân nông nghiệp nữa”. A.V. Trai-a-nốp nhà nông
học nổi tiếng của thế giới trong nhiều năm nghiên cứu phong trào hợp tác xã ở
nhiều nước: Italia, Bỉ, Anh, Đức và cả ở Mỹ la-tinh) để tìm cách vận dụng vào
nước Nga Xô-viết đã khẳng định “Hợp tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho
kinh tế nông dân, sau đó phục vụ cho nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông
dân thì hợp tác xã sẽ không có ý nghĩa gì cả? Ông còn cho rằng: HTX chỉ xã
hội hoá một phần sản xuất và quá trình này có thể thực hiện không phá vỡ kinh
tế hộ nông dân, nghĩa là các hộ nông dân chỉ hợp tác với nhau phần sản phẩm
sản xuất mà làm ăn tập thể có ưu thế hơn làm ăn của từng hộ riêng lẻ. V.I. Lê-
nin đã kế thừa và phát triển về kinh tế hộ nông dân của C. Mác, Ăng-ghen và
tiếp thu những hạt nhân hợp lý của C. Cauxlay và A.V. Trai-a-nốp. Lê-nin cho
rằng nhân vật chính trong sản xuất nông nghiệp phải là “một chủ trại tự do trên
mảnh đất tự do”, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ.
Đó là kiểu Mỹ” (Nguyễn Thành Nam, 2008) [13].
* Quá trình chuyển từ kinh tế hộ nông dân thành kinh tế trang trại
15
Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông,
sau khi phá vỡ cái vỏ bọc tự túc, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hoá. Về bản
chất kinh tế trang trại là kinh tế sản xuất hàng hoá khác với nền kinh tế tự cấp
tự túc, Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ
trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra, còn người tiểu nông thì
dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt”. Trong quá
trình phát triển kinh tế hộ sẽ vận động theo quy luật là mở rộng sản xuất hàng
hoá, tất yếu sẽ diễn ra quá trình phân hoá giữa các hộ gia đình. Các hộ sản
xuất thành công sẽ trở lên giàu có, những hộ sản xuất không thành công hoặc
rủi ro trong kinh doanh sẽ trở lên nghèo. Quá trình này thường xuyên lặp đi
lặp lại sẽ tạo nên sự ngăn cách ngày càng sâu về thu nhập giữa các tầng lớp
dân cư (Nguyễn Thành Nam, 2008) [13]. Trong nền kinh tế thị trường các hộ
nông dân chịu sự chi phối của các quy luật của nền kinh tế thị trường. Những
hộ nông dân làm ăn có lãi sẽ mở rộng quy mô sản xuất, mua thêm đất đai,
máy móc, tư liệu sản xuất nên quy mô càng lớn hơn và thành các hộ giàu
trong nông thôn (Nguyễn Văn Tuấn, 2000) [14]. Ngoài ra dưới sự tác động
của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên lao động thủ công dần dần được
thay thế bằng lao động cơ giới, hộ nông dân thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ
chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá. Sự điều tiết của nền kinh tế thị trường, sự
tác động của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm quá
trình phân hoá diễn ra ngày càng nhanh hơn, các hộ giàu sẽ phát triển thành
kinh tế trang trại. Quá trình biến đổi từ hộ nông dân thành kinh tế trang trại là
quá trình tự phát hợp quy luật phát triển của xã hội.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế hộ và kinh tế trang trại
Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay nhờ đường lối đổi mới của Đảng và
chính sách khuyến khích của Nhà nước, hộ nông dân được thừa nhận là đơn
vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lực mới khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động,
tiền vốn và kinh nghiệm sản xuất, quản lý của hàng chục triệu hộ nông dân.
16
Nhờ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta đã có một bước chuyển biến
tương đối toàn diện, mô hình trang trại ra đời và phát triển khá phổ biến ở tất
cả các vùng của đất nước.
Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế phát triển của mô hình trang
trại trong thời gian qua cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong tương lai loại
hình phổ biến và chủ yếu nhất vẫn là trang trại gia đình của hộ nông dân. Về
vấn đề này, Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ở nông thôn hiện nay đang phát
triển mô hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực
chất là kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động,
tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả...”. Đảng
và Nhà nước cũng đã có những chủ trương, chính sách và bước đầu cũng đã
tạo dựng được những cơ sở pháp lý cần thiết tạo điều kiện để các trang trại
gia đình hình thành và phát triển. Tuy nhiên, khung pháp luật về loại hình này
còn ở mức độ rất ban đầu, cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Bên
cạnh đó, dưới góc độ pháp lý, còn có nhiều vấn đề lý luận đặt ra, cần được
nghiên cứu, lý giải để tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các quyết tâm chính trị
và pháp lý.
1.1.4. Phát triển kinh tế trang trại
1.1.4.1. Quan điểm về phát triển:
Phát triển được coi như tiến trình biến chuyển của xã hội, là chuỗi
những biến chuyển có mối quan hệ qua lại với nhau. Phát triển theo khái niệm
chung nhất là việc nâng cao hạnh phúc của người dân, bao hàm nâng cao các
chuẩn mực sống, cải thiện các điều kiện giáo dục, sức khỏe, sự bình đẳng về
các cơ hội... Trong kinh tế, phát triển là quá trình chuyển biến về mọi mặt của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định, trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về
qui mô sản lượng sản phẩm, sự hoàn thiện về cơ cấu nền kinh tế và việc nâng
cao chất lượng mọi mặt của cuộc sống.
17
1.1.4.2. Phát triển kinh tế trang trại:
Chúng ta biết, phát triển kinh tế trang trại tức là phát triển sản xuất của
các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Đây là ngành kinh
tế đặc biệt, khác với công nghiệp và các ngành khác là vì, đối tượng sản xuất
là các sinh vật, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay
thế; được phân bố trên một không gian rộng lớn; sản phẩm làm ra vừa được
tiêu dùng tại chỗ lại vừa trao đổi trên thị trường; cung về nông sản hàng hoá
và cầu các yếu tố đầu vào mang tính thời vụ và nó có liên quan chặt chẽ đến
các ngành công nghiệp. Do vậy, để phát triển kinh tế trang trại cần phải
nghiên cứu các đặc tính trên từ đó để có hướng đầu tư sản xuất.
Phát triển trang trại thể hiện ở sự gia tăng về qui mô trang trại cả về bề
rộng và bề sâu.
Phát triển bề rộng, đó là sự gia tăng về số lượng trang trại ở một vùng,
một quốc gia hay một địa phương nào đó. Phát triển bề sâu, cùng với phát
triển bề rộng thì chúng ta phát triển theo chiều sâu thể hiện thông qua về qui
mô vốn đầu tư vốn, đào tạo lao đông, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất... phát triển trang trại phải gắn công nghiệp chế biến, cần có sự liên
kết, hợp tác giữa các cấp các, ngành, các doanh nghiệp với chủ trang trại
nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất, đem lại thu nhập ngày một tăng cho
người lao động. Phát triển nhưng không làm phá vỡ môi trường sinh thái...
1.2. Đặc trưng của kinh tế trang trại
1.2.1. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Một là: mục đích chủ yếu của kinh tế trang trại là sản xuất nông sản
phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường.
Sản xuất nông nghiệp theo kiểu truyền thống tự cung, tự cấp chỉ giải
quyết nhu cầu của chính người sản xuất, lượng sản phẩm dư thừa đem bán
trên thị trường chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so với khối lượng nông sản mà họ
sản xuất ra. Các hộ nông dân cũng cố gắng bán bất kỳ thứ nông sản nào do
chính bản thân họ sản xuất ra – giai đoạn này gọi là thương mại hoá sản phẩm.
18
Sau đó, hộ nông dân sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của thị trường - đó
là giai đoạn sản xuất hàng hoá của hộ đã đạt tới một trình độ cao để thích ứng
với nhu cầu của thị trường. Tới khi sản xuất hàng hoá khu vực nông thôn đã
đạt đến một cấp độ cao hơn, một bộ phận hộ nông dân đã phát triển đến hình
thức sản xuất theo mô hình trang trại trên ba khía cạnh:
a. Số lượng hàng hoá: được sản xuất nhiều hơn, tỷ trọng hàng hoá
trong tổng khối lượng nông sản chiếm tỷ trọng lớn, nghĩa là nông sản được
tiêu thụ với quy mô lớn hơn. Quá trình sản xuất này đã phân hoá một số hộ đã
tích tụ ruộng đất, đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất thay vì tự túc. Với những
nông hộ có chăn nuôi, quy mô đàn cũng lớn hơn nhiều.
b. Chất lượng hàng hoá: tốt hơn, đảm bảo cả về sự an toàn, vệ sinh
trong nông sản, chất lượng dịch vụ cung cấp nông sản cũng tốt hơn, đạt tới
quá trình marketing sản phẩm, chứ không còn là giai đoạn thương mại hoá
nông sản, là giai đoạn người sản xuất cố gắng bán bất cứ thứ gì mà họ sản
xuất được, chứ không bán loại nông sản do yêu cầu thị trường.
c. Cơ cấu sản phẩm: nông sản được cung cấp theo hướng chuyên môn
hoá theo vùng sản xuất, bởi vì ngoài tác động của thông tin thị trường, sản
phẩm nông nghiệp còn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi điều kiện tự nhiên, chính vì
thế, các trang trại sản xuất cũng phải tuân thủ điều kiện tự nhiên của vùng.
Tuy vậy, họ cố gắng lựa chọn những nông sản được coi là thế mạnh của vùng
mà họ đang tiến hành sản xuất. Sự lựa chọn này tạo cho các trang trại lợi thế,
được gọi là lợi thế so sánh. Vì vậy muốn sản xuất hàng hoá phải đi sâu vào
chuyên môn hoá, nhưng phải kết hợp với phát triển tổng hợp mới khai thác
được mọi nguồn lực của vùng, đồng thời còn hạn chế được các rủi ro như
thiên tai, dịch bệnh, sự biến động của thị trường.
Hai là: Tư liệu sản xuất trong trang trại thuộc quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng của một người chủ độc lập.
Lý thuyết kinh điển Mác-Lê Nin về điều kiện để sản xuất hàng hoá
đã nêu rõ: Có sự phân công lao động xã hội. Có những hình thức sở hữu khác
19
nhau về tư liệu sản xuất. Rõ ràng, về điều kiện sản xuất hàng hoá của trang
trại thoả mãn điều kiện để sản xuất hàng hoá. Người chủ trang trại là người
nắm giữ quyền sở hữu về tài sản, nếu như nắm quyền sử dụng tài sản, thì tài
sản này có thể được hình thành dưới hình thức vốn góp hoặc đi thuê tài sản tài
chính, như vậy xét dưới góc độ là tài sản của trang trại, thì những tài sản này
dù được hình thành bằng cách nào, nó vẫn thuộc quyền sử dụng của trang trại,
có thể tạo ra lợi ích về kinh tế trong tương lai. Đứng trên khía cạnh của quan
hệ sản xuất, người chủ trang trại là người có quyền định đoạt việc phân phối
sản phẩm do trang trại mình sản xuất ra.
Ba là: Trong các trang trại, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng đất
được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển của sản xuất
hàng hoá.
Sự phát triển kinh tế trang trại gắn liền với quá trình tích tụ vốn và tập
trung đất. Nông hộ phải tập trung đất đai với quy mô nhất định, mới có điều
kiện sản xuất hàng hoá và một lượng vốn nhất định. Việc phân phối, giao đất
cho người sử dụng sẽ khắc phục được tình trạng đất đai phân tán, manh mún.
Thông qua chuyển đổi ruộng đất, sẽ dẫn đến tích tụ tập trung để sản xuất ngày
càng nhiều sản phẩm và sản phẩm hàng hoá xuất khẩu, sẽ tích luỹ tái sản xuất
mở rộng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và khai thác tối đa lợi thế của vùng.
“Khái niệm dồn điền đổi thửa (Rergrouping of land, trong tiếng Anh, hay
Remenberment, trong tiếng Pháp) là việc tập hợp, dồn đổi các thửa ruộng nhỏ
thành thửa ruộng lớn, trái ngược với việc chia các mảnh ruộng to thành các
mảnh ruộng nhỏ” . Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế
trong sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn những năm 80 của thế kỷ trước,
ruộng đất được chia dựa trên lao động của hộ gia đình, tình trạng ruộng đất
được chia theo lối bình quân ở nhiều địa phương, hộ nào cũng có ruộng tốt,
ruộng xấu, chỗ gần, chỗ xa, cho nên có những hộ ruộng hàng chục mảnh, mà
tổng diện tích của nó chỉ vào khoảng một đến vài nghìn m2. Với cách làm
20
như thế, không thể tạo ra sự thay đổi trong phương thức sản xuất đáp ứng nhu
cầu thị trường. Thực trạng này hiện nay vẫn phổ biến ở nhiều nơi, nhưng với
nền nếp làm ăn nhỏ tiểu nông, vẫn chưa thể đưa việc dồn điền đổi thửa tiến
triển một cách nhanh chóng, nó đòi hỏi phải có sự can thiệp một cách mạnh
mẽ từ phía Nhà nước. “Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý. Nhà nước giao quyền sử dụng ổn định, lâu dài đồng thời
được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê” .
Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã vạch ra những hạn chế của pháp luật về đất đai trong thời gian qua, chỉ
rõ nguyên nhân và đề ra các biện pháp khắc phục. Một trong những biện pháp
cần phải thực hiện là đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai phù hợp với
đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.“Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” . Đồng thời thể
chế hóa các quan điểm đó được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ
VII Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX về “Tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”. Trên
cơ sở những điều, luật định Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình tích tụ, và tập trung ruộng đất một cách hợp lý để tạo ra những điều kiện
tiền đề, góp phần vào việc đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại.
Bốn là: kinh tế trang trại có cách thức tổ chức và quản lý sản xuất
tiến bộ dựa trên cơ sở chuyên môn hoá sản xuất, thâm canh, ứng dụng tiến
bộ kỹ thuật, thực hiện hạch toán, điều hành sản xuất hợp lý và thường
xuyên tiếp cận thị trường.
Dưới góc độ kỹ thuật canh tác: trang trại là đơn vị sản xuất hàng hoá áp
dụng một cách tích cực những tiến bộ của khoa học công nghệ để thâm canh,
tăng năng suất cây trồng, vật nuôi; nhờ đó, sản phẩm sản xuất ra mới đảm bảo
tiêu chuẩn mà khách hàng yêu cầu, thoả mãn nhu cầu thị trường, từ đó tăng
năng lực cạnh tranh sản phẩm, từ đó làm cho năng suất lao động của trang trại
21
cao hơn hẳn so với phương thức sản xuất của các hộ. Theo số liệu công bố
của Tổng cục Thống kê, kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở hầu
hết các vùng trong cả nước, đến ngày 1/7/2016, cả nước có 33.488 trang trại,
tăng 13.460 trang trại (tăng 67,2%) so với năm 2011. Các trang trại đã sử
dụng 134 700 lao động làm việc thường xuyên, tăng 40 000 lao động (tăng
42,4%) so với năm 2011. Số lượng trang trại tăng tập trung chủ yếu ở loại
hình trang trại chăn nuôi, tăng 14.521 trang trại (gấp 3,3 lần) so với cùng kỳ
năm 2011. Trong vòng 5 năm qua, bình quân mỗi năm trang trại chăn nuôi
tăng hơn 45%. Số lượng trang trại thủy sản giảm mạnh, giảm 2.172 trang trại
(giảm 48%) so với năm 2011, giảm trung bình gần 10% mỗi năm. Đến ngày
1/7/2016, cả nước có 9.216 trang trại trồng trọt, chiếm 27,5% trong tổng số
trang trại của cả nước; 20.869 trang trại chăn nuôi, chiếm 62,4%; 112 trang
trại lâm nghiệp, chiếm 0,3%; 2.350 trang trại nuôi trồng thủy sản, chiếm 7%
và 941 trang trại tổng hợp, chiếm 2,8%. Trang trại sử dụng nhiều đất đai, tạo
công ăn việc làm cho người lao động Đến thời điểm 1/7/2016, các trang trại
sử dụng 187 nghìn ha diện tích đất sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản,
tăng 35,9 nghìn ha so năm 2011. Trong đó, có 60 nghìn ha đất trồng cây hàng
năm; 79,5 nghìn ha đất trồng cây lâu năm; 17,6 nghìn ha đất lâm nghiệp và
29,8 nghìn ha đất nuôi trồng thủy sản. Bình quân 1 trang trại sử dụng 5,6 ha
đất sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Các trang trại đã sử dụng 134 700
lao động làm việc thường xuyên, tăng 40 nghìn lao động (tăng 42,4%) so với
năm 2011 (Viện kinh tế, 2012).
Trong đó, lao động của hộ chủ trang trại là 75 800 người, chiếm 56,3%
tổng số lao động, còn lại là lao động thuê mướn thường xuyên. Bình quân 1
trang trại sử dụng 4 lao động thường xuyên. Số lượng lao động bình quân 1
trang trại giảm so với năm 2011 (năm 2011 là 4,7 lao động) do các trang trại
đã áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa máy móc thiết bị vào phục vụ các khâu
trong sản xuất, bên cạnh đó việc gia tăng số lượng trang trại chăn nuôi, loại
22
hình trang trại sử dụng ít lao động hơn các loại hình trang trại khác (trồng
trọt, nuôi trồng thủy sản).
Trang trại tạo nhiều giá trị sản phẩm hàng hóa nông, lâm nghiệp và
thủy sản
Tổng thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản của các trang trại
năm 2016 đạt 93.098 tỷ đồng, tăng 54.007 tỷ đồng (tăng 138,2%) so với năm
2011(Viện kinh tế, 2012).
Bình quân 1 trang trại đạt 2.780 triệu đồng, tăng 828 triệu đồng (tăng
42,4%). Đây là con số tăng khá lớn, bởi vì theo các tiêu chí mới về kinh tế
trang trại thì một số trang trại cũ không được xếp hạng, nếu vẫn theo tiêu chí
cũ để đánh giá thì số lượng trang trại còn tăng cao hơn nhiều. Việc đẩy mạnh
quá trình tích tụ, tập trung sản xuất đòi hỏi các trang trại phải phát triển theo
hướng công nghiệp hoá, thâm canh hoá để tăng năng suất lao động và tăng
năng xuất cây trồng, vật nuôi. Việc thực hiện nội dung trên phải tuỳ điều kiện
của từng trang trại để lựa chọn thích hợp, đồng thời các trang trại phải kết hợp
với nhau để thực hiện nội dung này. Mỗi trang trại không thể tự mình công
nghiệp hoá, thâm canh hoá sản xuất mà phải có sự hỗ trợ của Nhà nước bằng
việc ban hành các chính sách như chính sách hỗ trợ về kỹ thuật, quản lý,
chính sách về vốn và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất…
Năm là: Chủ trang trại là người có ý chí, có năng lực tổ chức quản lý,
có kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, đồng thời có hiểu biết nhất định về kinh doanh.
Công tác điều hành, kế hoạch hoá, tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động
sản xuất được các chủ trang trại chú ý, hoạt động sản xuất hàng hoá của trang
trại không thể theo một tư duy sản xuất theo kiểu tự cung, tự cấp. Do đó,
trang trại phải đặt ra cho mình câu hỏi sản xuất nông sản gì để đáp ứng nhu
cầu thị trường; kỹ thuật canh tác nào sẽ được lựa chọn áp dụng cho công việc
sản xuất tại trang trại; việc phân bố nguồn lực lao động vào hoạt động sản
xuất ra sao, số lượng cần bao nhiêu? Hoặc là phân phối lượng vốn của trang
23
trại được đầu tư cho tài sản lưu động là bao nhiêu, trong đó dưới các dạng tiền
mặt là bao nhiêu, dưới dạng dự trữ vật tư là bao nhiêu?…là một công việc của
người chủ trang trại, nó đòi hỏi phải có hạch toán một cách đầy đủ, bởi mọi
chi phí phát sinh không ghi chép, theo dõi sẽ không thể kiểm soát, và như
vậy, công việc hạch toán không tốt có thể dẫn đến kết quả sản xuất kinh
doanh của trang trại được đánh giá một cách sai lệch, thiếu khách quan.
Sáu là: Các trang trại đều có thuê mướn lao động.
Sản xuất trong trang trại đã vượt quá quy mô sản xuất gia đình nông hộ,
như trên đã nói, quy mô sản xuất của trang trại đã lớn: đó là quy mô tư liệu
sản xuất tăng lên rất lớn: diện tích sản xuất, số lượng trang thiết bị sản xuất….
cũng như quy mô khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ cũng lớn hơn.
chính vì vậy, số lao động có tính chất gia đình của chủ trang trại là không thể
đảm đương được. Ngay cả trường hợp đổi công cũng không phải là giải pháp
khả thi. Như vậy, tất yếu trang trại buộc phải thuê mướn lao động. “Cụ thể cả
nước có 395 878 người tham gia vào hoạt động kinh tế trang trại, trong đó lao
động của hộ chủ trang trại là 291 611 người, bình quân mỗi trang trại là 2,6
người; lao động thuê mướn là 104 267 người, bình quân trên một trang trại là
0,9 người”. Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông
nghiệp. Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông phẩm
hàng hóa theo nhu cầu thị trường. Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản
xuất trước hết là ruộng đất và tiền vốn được tập trung theo quy mô nhất định.
Lao động trong trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các thành viên trong hộ,
ngoài ra có thuê mướn lao động theo Thông tư liên tịch số
69/2000/TTLT/BNN-TCTK ban hành ngày 23 tháng 6 năm 2000
1. Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng
hoá với quy mô lớn.
2. Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản
xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô
24
sản xuất như: đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản
hàng hoá.
3. Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản
xuất, biết áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ mới vào sản xuất; sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài
sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
1.2.2. Những tiêu chí xác định kinh tế trang trại
Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT hướng dẫn tiêu chí và thủ tục cấp
giấy chứng nhận kinh tế trang trại, Qua đó đưa ra tiêu chí để xác định kinh tế
trang trại như sau:
Các trang trại được xác định theo lĩnh vực sản xuất như sau: a) Trang
trại trồng trọt; b) Trang trại chăn nuôi; c) Trang trại lâm nghiệp; d) Trang trại
nuôi trồng thuỷ sản; đ) Trang trại tổng hợp.
2. Trang trại chuyên ngành (trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản) là trang trại có tỷ trọng giá trị sản lượng nông sản hàng hóa
của ngành chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản lượng hàng hóa của trang trại
trong năm. Trường hợp không có ngành nào chiếm trên 50% cơ cấu giá trị sản
lượng hàng hóa thì được gọi là trang trại tổng hợp.
- Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được
xác định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng
hoá; dịch vụ bình quân một năm, hoặc quy mô sản xuất phải tương đối lớn và
vượt trội so với kinh tế nông hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng
kinh tế.
- Đối với hộ sản xuất, kinh doanh tổng hợp có nhiều loại sản phẩm
hàng hoá của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản thì tiêu chí để xác
định trang trại là giá trị sản lượng hàng hoá, dịch vụ bình quân một năm.
Giá trị sản lượng hàng hóa dịch vụ bình quân 1 năm:
Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên Hải miền trung từ 40 triệu đồng trở lên.
25
Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải
đạt: a) Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu: - 3,1 ha đối với vùng Đông
Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long; - 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại. b)
Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm. 2. Đối với cơ sở chăn nuôi
phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu đồng/năm trở lên; 3. Đối với
cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị sản lượng
hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế trang trại
1.3.1. Các yếu tố thuộc về Nhà nước ảnh hưởng đến chính sách phát triển
kinh tế trang trại
1.3.1.1. Nhận thức của Nhà nước đối với vai trò của kinh tế trang trại.
Nhu cầu phát triển kinh tế trang trại theo hướng bền vững là tất yếu
khách quan của phát triển kinh tế xã hội, vừa đem lại lợi ích cho xã hội, vừa
mang lại lợi ích cho chủ trang trại trên cơ sở khai thác hiệu quả nhất nguồn
lực kinh tế của đất nước, của địa phương. Nhu cầu này có được thực hiện
nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào vai trò của Nhà nước. Nếu nhận thức
được vai trò của phát triển kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế xã hội
của đất nước, của địa phương thì Nhà nước sẽ có vai trò thúc đẩy, tạo điều
kiện cho loại hình kinh tế này phát triển và ngược lại sẽ hạn chế. Chính sách
là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện vai trò đối với quá trình phát
triển kinh tế xã hội nói chung và đối với phát triển kinh tế trang trại nói riêng.
1.3.1.2. Đội ngũ những nhà hoạch định và tổ chức thực thi chính sách của
Trung ương và địa phương.
Qúa trình hoạch định và tổ chức thực thi chính sách phát triển kinh tế
trang trại theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh phụ thuộc phần nhiều đội ngũ
26
những nhà họach định và tổ chức thực thi chính sách ở Trung ương và địa
phương. Đội ngũ này cần có năng lực chuyên môn, được đào tạo bài bản, có
đạo đức nghề nghiệp mới có thể thực hiện được vai trò trong quá trình hoạch
định và tổ chức thực thi chính sách, chính sách được đề xuất mới có chất
lượng, khả thi và tổ chức thực thi mới thành công.
1.3.1.3. Nguồn lực của Nhà nước huy động cho phát triển kinh tế trang trại.
Chính sách nông nghiệp, nông thôn nói chung, phát triển bền vững kinh
tế trang trại nói riêng hầu hết mang tính hỗ trợ. Hỗ trợ cho trang trại có thể
được hiểu trên 2 phương diện: hỗ trợ về cơ chế thông qua môi trường pháp lý
cho sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại; hỗ trợ về vật chất thông
qua các môi trường kinh tế và các hỗ trợ trực tiếp về kinh tế.
Sự phát triển của kinh tế trang trại được thể hiện thông qua các quan hệ
kinh tế, trong đó mối quan hệ tương quan giữa các nguồn lực có vai trò hết
sức quan trọng. Vì vậy, các hỗ trợ về mặt vật chất cho sự phát triển của kinh
tế trang trại phải đảm bảo đủ về mặt lượng cho từng yếu tố và mối tương quan
giữa chúng.
Trong bối cảnh trên, một mặt cần tăng cường nguồn lực cho các chính
sách thực thi các can thiệp hỗ trợ, mặt khác cần giới hạn phạm vi tác động của
chính sách về không gian, về đối tượng thụ hưởng để tập trung các nguồn lực,
đảm bảo sự tác động đủ độ để chính sách có thể phát huy tác dụng.
1.3.2. Các yếu tố thuộc về trang trại
Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại. Hiệu
quả sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại cao so với loại hình kinh tế
khác, Nhà nước không cần đưa ra và thay đổi chính sách. Ngược lại, cần có
chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế trang trại.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại là một trong các điều kiện
cơ bản để phát triển kinh tế trang trại theo hướng bền vững. Chính sách Nhà
nước cần hướng đến đảm bảo điều kiện này để trang trại có động lực phát triển.
27
Thực trạng các yếu tố đầu vào, đầu ra và quá trình sản xuất kinh doanh
của kinh tế trang trại. Mục tiêu của chính sách phát triển kinh tế trang trại là
giúp trang trại tháo gỡ khó khăn trong quá trình sản suất kinh doanh, phát huy
mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế trang trại. Khi các yếu tố đầu
vào như vốn, đất đai, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật… gặp khó khăn
Nhà nước có thể có chính sách hỗ trợ. Khi vấn đề thị trường tiêu thụ, chất
lượng hàng hóa của kinh tế trang trại có vấn đề Nhà nước cũng có thể đưa ra
chính sách hợp lý giúp trang trại giải quyết vấn đề này. Trang trại có hoạt
động ảnh hưởng đến môi trường sinh thái hay sản xuất các sản phẩm không
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm Nhà nước cần có biện pháp loại trừ, hạn
chế đến mức thấp nhất.
Kế hoạch phát triển của trang trại cũng ảnh hưởng đến chính sách Nhà
nước đối với phát triển kinh tế trang trại. Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế
trang trại thực hiện được các chiến lược, các chương trình, dự án… nếu các
kế họach đó đem đến sự phát triển cho trang trại.
1.3.3. Các yếu tố khác
Ngoài hai yếu tố cơ bản trên, chính sách phát triển kinh tế trang trại
theo hướng bền vững trên địa bàn tỉnh còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác:
-Lợi ích của phát triển kinh tế trang trại mang lại cho xã hội. Về
nguyên tắc, loại hình kinh tế nào đem đến lợi ích cho xã hội thì loại hình kinh
tế đó được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện và ngược lại. Kinh tế trang
trại cũng vậy, loại hình kinh tế này được Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện phát
triển hay không phụ thuộc vai trò của nó đối với phát triển kinh tế xã hội đất
nước, địa phương.- -Thị trường trong nước và quốc tế tiêu thụ sản phẩm của
kinh tế trang trại. Thị trường tiêu thụ luôn là yếu tố quyết định quy mô của
kinh tế trang trại. Không thể đầu tư quá mức nhu cầu của thị trường. Chính
sách của Nhà nước không chỉ giúp các trang trại mở rộng thị trường tiêu thụ
mà còn hỗ trợ trang trại sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở xác định
28
quy mô sản xuất phù hợp với thị trường, yêu cầu của thị trường về số lượng,
chất lượng và chủng loại hàng hóa.
-Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương. Phát trển kinh tế
trang trại phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như khí hậu, đất đai, rừng,
biển… Chính sách phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh cần tạo điều
kiện khai thác hiệu quả nhất điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng,
từng địa phương.
1.4. Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển kinh tế nông
nghiệp và nông thôn
1.4.1. Vai trò của kinh tế trang trại
Trang trại là hình thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu của nền sản xuất
hàng hoá, vì vậy trang trại có vai trò hết sức to lớn trong việc sản xuất lương
thực, thực phẩm cung cấp cho xã hội. Trang trại là tế bào kinh tế quan trọng
để phát triển nông nghiệp, nông thôn, thực hiện sự phân công lao động xã
hội. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc
sang sản xuất hàng hoá, sự hình thành và phát triển các trang trại có vai trò
cực kỳ quan trọng. Biểu hiện trên các mặt như sau:
* Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất lấy việc khai thác tiềm năng
và lợi thế so sáng phục vụ nhu cầu xã hội làm phương thức sản xuất chủ yếu,
vì vậy nó cho phép huy động, khai thác đất đai, sức lao động và nguồn lực
khác một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả. Nhờ vậy, nó góp phần tích cực
thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
* Trang trại với kết quả và hiệu quả sản xuất cao góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị hàng hoá cao,
khắc phục dần tình trạng manh mún, tạo vùng chuyên môn hoá cao, đẩy
nhanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, nhất là nông sản phục vụ nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến, vì vậy trang trại góp phần thúc đẩy công
nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, và dịch vụ sản xuất ở nông thông phát triển.
29
* Trang trại là đơn vị sản xuất có quy mô lớn hơn kinh tế hộ, vì vậy có
khả năng áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản
xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Với cách thức tổ chức sản
xuất và quản lý kinh doanh tiên tiến, trang trại là nơi tiếp nhận và truyền tải
các tiến bộ khoa học và công nghệ đến hộ thông qua chính hoạt động sản xuất
của mình.
* Về mặt xã hội: phát triển kinh tế trang trại làm tăng hộ giàu trong
nông thông, tạo thêm việc làm và tăng thu nhập, góp phần thúc đẩy phát triển
kết cấu hạ tầng nông thôn, là tấm gương cho các hộ nông dân về cách thức tổ
chức kinh doanh tiên tiến và có hiệu quả… Tất cả những điều đó góp phần
quan trọng giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội ở nông thôn.
* Về môi trường: do gắn liền với quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh muốn quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thuận lợi và bền vững các
chủ trang trại bắt buộc phải quan tâm tới việc bảo vệ môi trường sinh thái
trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái của từng trang trại sau đó đến
quy mô vùng.
Những năm gần đây, kinh tế trang trại đã đóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao
động của các hộ nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại
là động lực mới cho phát triển kinh tế hộ nông dân, bên cạnh đó đã tạo ra các
vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng hoá tập trung, làm tăng khối lượng
và giá trị hàng hoá, tạo tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
và thực phẩm phát triển, mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. Nói
cách khác: sự phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng CNH, HĐH. Phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế và quá trình hội
nhập. So với kinh tế nông hộ, kinh tế trang trại đẩy nhanh quá trình tích lũy
vốn đầu tư vào phát triển nông nghiệp. Chỉ tính riêng thành phố Hồ Chí Minh,
30
vốn đầu tư của 226 trang trại lên đến 180.816 triệu VNĐ (trung bình 800 triệu
/trang trại), giải quyết việc làm cho 1.709 người (trung bình 7.6 người/ trang
trại). Ước tính với 71,292 trang trại và bình quân vốn đầu tư 250 triệu/ trang
trại, khu vực Nam Bộ đã đóng góp vốn đầu tư khoảng 17.823 tỷ VNĐ. Trong
điều kiện hiện nay, sự gia tăng sản lượng nông nghiệp và GDP phụ thuộc chủ
yếu vào sự gia tăng vốn của nền kinh tế. Do đó phát triển kinh tế trang trại sẽ
góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Như vậy phát triển kinh tế trang trại phù hợp với tiến trình phát triển
kinh tế. Từ trước tới nay nền nông nghiệp Việt Nam phát triển trên nền tảng
kinh tế nông hộ. Trong thời gian qua kinh tế nông hộ đã đóng góp quan trọng
những nguồn lực vốn, đất, lao động và kinh nghiệm phục vụ cho việc mở
rộng sản lượng nông nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên khi nền kinh tế nước ta hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, cụ thể
với việc gia nhập WTO, nông dân không còn được bảo hộ bởi các biện pháp
hành chính như hạn ngạch nhập khẩu hay thuế bảo hộ và cung nông sản
hướng tới đáp ứng cầu của thị trường thế giới thì kinh tế trang trại có nhiều
lợi thế hơn:
- Lợi thế về quy mô sản xuất: diện tích đất, vốn sản xuất, lao động, máy
móc, thiết bị đều lớn hơn nông hộ. Lợi thế của quy mô lớn là khai thác được
hiệu quả sản xuất theo quy mô. Với quy mô các yếu tố đầu vào lớn, chi phí
sản xuất sẽ giảm nhanh bởi quy mô sản lượng tăng. Chi phí là yếu tố quyết
định cạnh tranh sản phẩm. Do đó phát triển kinh tế trang trại nông sản Việt
Nam mới có sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và các nước phát triển.
- Lợi thế về tỷ suất hàng hoá, đồng nhất chất lượng sản phẩm, và
thương hiệu của sản phẩm: Kinh tế trang trại với quy mô sản xuất lớn tập
trung sẽ dễ thực hiện quy hoạch phân vùng chuyên môn hóa sản xuất theo lợi
thế so sánh, tạo ra sự đồng nhất về chất lượng sản phẩm tạo thương hiệu riêng
cho sản phẩm của trang trại hay vùng. Yêu cầu của thị trường thế giới đòi hỏi
31
ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm và
nguồn gốc uy tín của nhà sản xuất, thậm chí cả việc áp dụng các hệ thống
kiểm soát an toàn thực phẩm như HACCP, điều này chỉ có sản xuất theo quy
mô lớn như trang trại thì mới có khả năng đáp ứng.
Lợi thế về ứng dụng các công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp:
Quy mô lớn của diện tích đất và vốn sản xuất sẽ tạo thuận lợi cho việc áp
dụng các công nghệ mới, cơ giới hoá, thâm canh tăng năng suất đất đồng thời
gắn với bảo vệ môi trường, không phá rừng. Do đó phát triển kinh tế trang trại
thì nông dân mới duy trì bền vững sức mạnh cạnh tranh của mình khi hội
nhập với nông dân thế giới
.Lợi thế về nâng cao năng suất lao động: Việt Nam hoàn toàn bất lợi do
năng suất lao động nông nghiệp còn quá thấp so với các nước trong khu vực.
Năm 2015, NSLĐ của Việt Nam ước tính đạt khoảng 79,3 triệu đồng/lao
động, tăng 6,45% so với năm 2014. Giai đoạn 2011-2015, NSLĐ của Việt
Nam tăng dần, đạt mức trung bình khoảng 4,33%/năm, cao hơn so với giai
đoạn 2006-2010. tuy nhiên, nghiên cứu của Viện nghiên cứu và quản lý kinh
tế Trung ương (CIEM) về năng suất lao động chỉ ra từ năm 2005, tốc độ tăng
năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng đi xuống đến mức thấp nhất là
2,57% vào năm 2009. Kể cả trong giai đoạn 1992 – 2014, tốc độ tăng năng
suất của Việt Nam ở mức khá cao là 4,64%/năm, thì tốc độ này ở Trung Quốc
là 9,07%/năm. Thu nhập bình quân người Việt năm 2015 ở mức 2.109 USD,
chỉ tương đương 1/6 thu nhập của người Malaysia và 1/16 Singapore
(http://enternews.vn/nang-suat-lao-dong-cua-viet-nam-dang-tut-hau-trong-
khu-vuc, 2016)
Nhiều công trình nghiên cứu ở Việt Nam trong những năm gần đây cho
thấy rằng trang trại có lợi thế vượt trội về cả 2 yếu tố trên so với nông hộ.
Trong khi các nước trong khu vực và thế giới đang phát triển nông nghiệp
trên nền tảng trang trại, Việt Nam không đẩy nhanh phát triển kinh tế trang
32
trại sẽ gặp khó khăn trong cạnh tranh và nâng cao thu nhập cho nông dân khi
hội nhập sâu vào kinh tế thế giới. Do đó phát triển kinh tế trang trại phù hợp
với quá trình hội nhập của đất nước. Vậy phát triển kinh tế trang trại là tất yếu
khách quan không thể đảo ngược.
Mô hình kinh tế trang trại với lợi thế về quy mô đất rộng lớn và vốn
lớn, sản xuất tập trung chuyên môn hoá sẽ đi đầu trong việc cơ giới hoá sản
xuất, nâng cao năng suất lao động, sẽ tạo ra khối lượng lớn sản phẩm nông
sản đầu ra là đầu vào cho công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp. Đồng
thời cơ giới hóa sẽ giải phóng nguồn lực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang
công nghiệp và dịch vụ.
Trang trại cũng sẽ đi đầu trong việc thâm canh tăng năng suất, ứng
dụng công nghệ mới, sử dụng giống mới, sử dụng nhiều phân bón thuốc hoá
học một cách hợp lý, yêu cầu nhiều hơn đối với dịch vụ và đầu vào. Từ đó
trang trại sẽ tạo cầu đối với công nghiệp hoá học, công nghiệp cung cấp đầu
vào cho nông nghiệp và các ngành dịch vụ cho nông nghiệp để các ngành này
phát triển.
Hiệu quả sản xuất của kinh tế trang trại sẽ giúp giữ giá đầu vào của
công nghiệp chế biến và các ngành công nghiệp khác ở mức cạnh tranh do đó
có thể xuất khẩu mở rộng thị trường để phát triển. Như vậy phát triển kinh tế
trang trại sẽ thúc đẩy quá trình cơ giới hóa nông nghiệp đồng thời kích thích
các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp cung cấp đầu vào cho nông
nghiệp và các ngành dịch vụ nông nghiệp phát triển do đó thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Việt Nam
1.4.2.Kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Từ cuối thế kỷ 17, nước Anh là quốc gia đi vào công nghiệp hóa sớm
nhất thế giới, họ chủ trương trong nền kinh tế hàng hoá nông nghiệp cũng phải
xây dựng các xí nghiệp tập trung quy mô lớn như các xí nghiệp công nghiệp.
Trên nền tảng đó, nền nông nghiệp được phát triển dựa trên sự hoạt động của
33
các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn nhằm tăng nhanh sản lượng với
giá rẻ hơn so với nền sản xuất gia đình phân tán. Tuy nhiên, đặc điểm của sản
xuất nông nghiệp khác công nghiệp ở chỗ phải tác động vào các sinh vật (cây
trồng và vật nuôi), nên không phù hợp với hình thức sản xuất tập trung quy mô
lớn. Hiệu quả cuối cùng các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn thấp hơn hiệu
quả của các trang trại gia đình quy mô nhỏ. Ngày nay loại hình trang trại gia
đình đã khẳng định là loại hình có quy mô hiệu quả nhất trong sản xuất nông
nghiệp và rất phổ biến trên thế giới, thay thế dạng nông hộ phân tán và xí
nghiệp tư bản quy mô quá lớn. Kinh tế trang trại đóng góp quan trọng trong
nền kinh tế của các quốc gia. Ở Mỹ, trang trại gia đình chiếm 65% diện tích đất
nông nghiệp và 70% giá trị sản lượng nông nghiệp. Có 2,2 triệu trang trại sản
xuất hơn 50% sản lượng bắp và đậu nành trên toàn thế giới.
Ở Pháp, với 98.000 trang trại đã sản xuất khối lượng nông sản gấp đôi
so với nhu cầu trong nước.
Ở Hà Lan, với 1.500 trang trại chuyên trồng hoa hàng năm sản xuất 7
tỷ bông hoa và 600 triệu chậu hoa, trong đó 70% dành cho xuất khẩu.
Ở Nhật, với 4 triệu lao động ở trang trại (3,7% dân số) đảm bảo lương thực
thực phẩm cho 125 triệu người.
Ở Malaysia, các trang trại sản xuất 4 triệu tấn cọ dầu (75% sản lượng
quốc gia) Năng suất lao động ở các nước phát triển rất cao. Sản lượng của
một lao động nông nghiệp Nhật nuôi được 20 người, ở Ý 25 người, Úc 35
người, Canada 35 người, Hà Lan 60 người, Mỹ 80 người, Anh 95 người, Bỉ
100 người.
1.4.3. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới theo
nền kinh tế thị trường
* Giai đoạn 1989-1999
Để “đổi mới” về kinh tế, ở Đại hội VI (12/1986) Đảng đã chỉ ra, trong
thời kỳ quá độ ở nước ta là “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” và tiếp
34
đến (4/1989) trong nông nghiệp có Nghị Quyết VI năm 1989, Đảng chỉ ra
rằng “gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh doanh tự chủ” đồng thời,
luật doanh nghiệp tư nhân cũng được công bố ngày 3/1/1991. Đó chính là
những cơ sở để hệ thống trang trại phát triển với tốc độ và quy mô càng cao
lớn hơn.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 1989 tổng số có
5.125 trang trại, đến năm 1992 đã tăng lên đến 13.246 trang trại, nhiều hơn
gấp 2,53 lần. Đến ngày 1/7/1999 cả nước có 90.167 trang trại, tăng gấp 6,8
lần so với năm 1989. Diện tích đất trong kinh doanh nông nghiệp trong cùng
thời gian từ năm 1989 đến năm 1992 đã tăng từ 22.946 ha lên 58.282 ha, gấp
2,54 lần, đến năm 1999 tăng lên 396.282 ha, gấp 6,81 lần so với năm 1992 và
gấp 17,29 lần so với năm 1989. Vốn đầu tư của các trang trại cả nước, nếu
tính từ khi mới thành lập ở năm 1989 của 5.125 trang trại có chừng 513.677
triệu đồng thì đến năm 1999 của 90.167 trang trại đã đầu từ đến 18.030.000
triệu đồng nhiều hơn gấp 35,1 lần. Điều đó phản ánh trình độ đầu tư thâm
canh, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá của các trang trại trong 10 năm qua đã dần dần tăng lên. Tổng giá trị sản
phẩm bình quân của các trang trại trong những năm 1997-1999 được chừng
9.575 tỷ đồng/năm chiếm 7,89% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt
là tỷ suất nông sản hàng hoá của các trang trại ở năm 1992 chiếm 78,6% thì
năm 1999 đã tăng lên đến 86,74%.
- Thực trạng phát triển kinh tế trang trại giai đoạn trước khi có NQ
03/2000/NQ-CP:
Trước khi có nghị quyết 03/2000/NQ-CP và thông tư 69 hướng dẫn
tiêu chí xác định kinh tế trang trại, tổng cục thống kê không đưa số liệu số
trang trại trên niên giám, số liệu do các tỉnh thống kê không theo 5 tiêu chí về
kinh tế trang trại của Tổng cục thống kê và Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn nên không thể so sánh trước sau.
35
* Giai đoạn 2000-2015
Sau khi có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang
trại, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản.
- Số lượng trang trại tăng nhanh, loại hình sản xuất đa dạng đã góp
phần tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Bảng 2. 1. Số lượng trang trại phân theo vùng ở Việt Nam 2011-2015
Tốc
độ Năm Năm Năm Năm Năm Vùng tăng 2011 2012 2013 2014 2015 BQ
(%)
61 017 61 787 86 141 110 832 113 730 13,26 Cả nước
Trung du MN phía Bắc 3 336 3 373 5 226 5 384 5 226 9,39
ĐB Sông Hồng 1 834 1 939 5 031 8 131 13 863 49,86
Bắc Trung Bộ 3 013 3 216 4 842 5 882 6 756 17,53
DH Nam Trung Bộ 2 904 2 943 6 509 6 936 7 808 21,87
Tây Nguyên 6 035 6 223 6 650 9 450 8 785 7,80
Đông Nam Bộ 12 705 12 126 14 938 18 921 16 867 5,83
ĐB sông Cửu Long 31 190 31 967 42 945 56 128 54 425 11,78
(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2016)
Qua bảng thông kê trên chúng ta thấy, trang trại của Việt Nam tiếp tục
phát triển nhanh qua các năm và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá
trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Vùng có số lượng
trang trại lớn của cả nước là ĐB Sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và ĐB Sông
Hồng; Vùng có số lượng trang trại ít nhất là Trung du MN phía Bắc và Bắc Trung
36
Bộ Trang trại sử dụng ngày càng nhiều ruộng đất, dấu hiệu tích tụ ruộng đất -
điều kiện tiên quyết cho nền sản xuất lớn nông nghiệp. Kinh tế trang trại phát
triển góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Quy mô
vốn sản xuất, kinh doanh của trang trại tăng nhanh do các chủ trang trại tăng
vốn đầu tư mở rộng sản xuất, thâm canh cây trồng vật nuôi. Kinh tế trang trại
phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng lớn, gắn với thị trường.
1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn
- Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước từ
thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát triển
trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất
là trang trại gia đình. Chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là
chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài.
- Điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự
hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá đất nước.
37
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Đối tượng nghiên cứu
Các trang trại trồng trọt, lâm nghiệp, chăn nuôi và trang trại tổng hợp
nông-lâm-ngư nghiệp trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu: đề tài được thực hiện tại huyện Phù Ninh,
tỉnh Phú Thọ.
- Thời gian nghiên cứu: đề tài điều tra số liệu sơ cấp thực hiện trong
năm 2016, các số liệu thứ cấp là kết quả giai đoạn 2014-2016
2.3. Nội dung nghiên cứu
1. Thực trạng sản xuất trang trại và phát triển trang trại huyện Phù
Ninh, tỉnh Phú Thọ
+ Đặc điểm trang trại huyện Phù Ninh qua các năm
+ Tình hình sản xuất kinh doanh các trang trại huyện Phù Ninh các năm
2. Những khó khăn, hạn chế trong sản xuất kinh doanh theo mô hình
trang trại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
3. Định hướng và một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh cho các trang trại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Chọn điểm nghiên cứu:
Trên địa bàn huyện Phù Ninh, trong tổng số các trang trại của huyện,
tác giả lựa chọn trang trại nghiên cứu theo các tiêu chí sau:
+ Trang trại chăn nuôi: lợn quy mô từ 500 con trở lên; gà, vịt từ 1000
con trở lên.
+ Trang trại tổng hợp quy mô từ 6 ha mặt trở lên.
+ Trang trại trồng cây hàng năm: bưởi, vải, nhãn có diện tích từ 02ha
trở lên.
38
+ Trang trại lâm nghiệp: Có diện tích từ 10 ha trở lên
Từ danh sách các trang trại của phòng thòng thống kê huyện Phù
Ninh, căn cứ các tiêu chí nêu trên, tác giả đã xác định số lượng mẫu bao gồm
110 trang trại:
+ Trang trại chăn nuôi: 25 trang trại
+ Trang trại trồng cây hàng năm: 25 trang trại
+ Trang trại lâm nghiệp: 30 trang trại
+ Trang trại tổng hợp nông-lâm-ngư nghiệp: 30 trang trại
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp: Những số liệu, thông tin liên quan trực tiếp và gián
tiếp đến quá trình nghiên cứu đã được công bố chính thức của cơ quan thống
kê các cấp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các trường đại học, các cơ
quan nghiên cứu; thông tin trên internet, các báo cáo chuyên đề, các tài liệu,
xuất bản phẩm của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Số liệu sơ cấp:
bằng cách điều tra trực tiếp theo phiếu điều tra thông tin các trang trại các
trang trại trên địa bàn. Chọn mẫu theo thứ tự từ cao đến thấp theo tiêu chí:
diện tích, quy mô các trang trại (số liệu lấy tại chi cục thống kê và phòng
Nông nghiệp huyện Phù Ninh).
Số liệu sơ cấp: Thu thập các dữ liệu trực tiếp thông qua điều tra,
khảo sát: Điều tra trực tiếp qua phỏng vấn các chủ trang trại để lấy thông tin
theo nội dung phiếu điều tra đã được chuẩn bị (Phụ lục 1). Thông tin về trang
trại còn được thu thập thông qua quan sát trực tiệp tại hiện trường và phỏng
vấn sâu chủ trang trại.
2.4.3.Phương pháp xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệu: thông tin và số liệu sau khi thu thập được
tính toán theo mục đích nghiên cứu của đề tài trên phần mềm Excel, Word.
- Tính toán các chỉ số trung bình theo bình quân gia quyền, trung bình
cộng trên Excel
39
- Sử dụng biểu đồ trên ứng dụng Word
2.4.4.Hệ thống các chỉ tiêu phân tích
- Giá trị sản xuất: GO (Gross output) là giá trị bằng tiền của các sản
phẩm được bán ra ở trang trại, bao gồm phần giá trị để lại để tiêu dùng và giá
trị bán ra thị trường sau một chu kỳ sản xuất, thường là một năm. Được tính
bằng sản lượng của từng loại sản phẩm nhân với đơn giá một đơn vị sản phẩm.
Cách tính: GO = ∑PiQi Trong đó: GO: Giá trị sản xuất
Pi: Giá của sản phẩm hàng hoá thứ i Qi: Lượng sản phẩm hàng hoá i - Chi phí trung gian: (IC: Intermediate cost) là toàn bộ các khoản chi
phí vật chất bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu, giống, phân bón, chi
phí dịch vụ và lao động thuê.
Cách tính: IC = ∑Cij Trong đó: IC: là chi phí trung gian
Cij: là chi phí nguyên vật liệu thứ i cho sản phẩm j - Giá trị gia tăng: VA (Value Added) là giá trị sản phẩm vật chất và
dịch vụ cho các ngành sản xuất sáng tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản
xuất kinh doanh (ở đây tính là năm).
Cách tính: VA = GO - IC
40
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên
3.1.1.1.Vị trí địa lý
Huyện Phù Ninh có 15.648,01 hecta diện tích tự nhiên. Huyện Phù Ninh
nằm ở phía đông bắc tỉnh Phú Thọ, phía Bắc giáp huyện Đoan Hùng, phía nam
giáp thành phố Việt Trì và huyện Lâm Thao, phía Tây giáp thị xã Phú Thọ và
huyện Thanh Ba, phía đông có tuyến sông Lô bao bọc là ranh giới với huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Phù Ninh có 19 đơn vị hành chính trực thuộc huyện, bao
gồm thị trấn Phong Châu và 18 xã: An Đạo, Bảo Thanh, Bình Bộ, Gia Thanh, Hạ
Giáp, Lệ Mỹ, Liên Hoa, Phú Lộc, Phú Mỹ, Phú Nham, Phù Ninh, Tiên Du, Trạm
Thản, Tiên Phú, Trị Quận, Trung Giáp, Tử Đà và Vĩnh Phú.
Giao thông: có 4 km Quốc lộ 2 đi qua huyện Phù Ninh, ngoài ra có rất
nhiều đường giao thông liên tỉnh, liên huyện. Là huyện nằm giữa 3 trung tâm
kinh tế của tỉnh Phú Thọ là thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và huyện Lâm
Thao, hầu như mọi hàng hóa đi từ 3 trung tâm này ra các huyện khác của tỉnh
Phú Thọ đều đi qua huyện Phù Ninh.
Đặc điểm địa hình: có hướng dốc chính từ tây bắc xuống đông nam, độ dốc từ 3 – 25⁰, chủ yếu là đồi núi thấp. Tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 18.337 ha, trong đó có 63,32% là đất đồi núi, đất nông
nghiệp là 8.981 ha, đất lâm nghiệp là 4.149 ha, đất chuyên dùng là 2.402 ha,
đất ở 675 ha, đất chưa sử dụng là 2.431 ha.
Nguồn nước: địa bàn huyện có sông Lô chạy dọc bao bọc phía Đông
dài 36 km; có 4 trục ngòi tiêu chính phân bổ tương đối đồng đều dọc theo
chiều dài của huyện (ngòi Đầu, ngòi Tiên Du, ngòi Mên và ngòi Chanh), có
120 hồ đập vừa và nhỏ. Tài nguyên khoáng sản: trên địa bàn huyện có mỏ đá
Trị Quận, cát sỏi sông Lô trữ lượng tương đối lớn. Khí hậu: huyện có nhiệt độ
trung bình năm là 23,50 C, số giờ nắng trung bình cả năm là 1.353 giờ, lượng
mưa trung bình năm là 1.674 mm, độ ẩm trung bình 86%.
41
Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 15.648,01 ha, trong đó có
63,32% là đất đồi núi, đất nông nghiệp là 7.795,53 ha, đất lâm nghiệp là
3.270,84 ha, đất chưa sử dụng là 552,17 ha. Tiềm năng đất đai của Phù Ninh
là rất lớn, với diện tích đất chủ yếu phù hợp cho phát triển nông lâm nghiệp,
đất có tầng canh tác trung bình, chất lượng đất khá tốt. Quỹ đất hiện có của
Phù Ninh cũng khá thuận lợi cho việc quy hoạch các khu, cụm công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, trước hết là chế biến nông, lâm và phát triển khu đô thị
trung tâm huyện, các trung tâm cụm xã, trung tâm xã. Tuy nhiên, do địa hình
không bằng phẳng, nằm xen lẫn với đồi núi thấp nên Phù Ninh không có mặt
bằng rộng thuận tiện để xây dựng các khu công nghiệp lớn, tập trung.
Bảng 3. 1. Tình hình sử dụng đất của huyện Phù Ninh
qua các năm 2014 - 2016
2014 2015 ĐVT: Ha 2016 TT Loại đất
15.637,32 15.651,36 15.648,01 Tổng diện tích tự nhiên
I 11.401,39 11.264,13 11.356,91 Đất nông, lâm nghiệp, thủy sản
8.093,82 7.974,65 7.795,53 1 Đất sản xuất nông nghiệp
5.032,78 4.944,50 4.755,80 A Đất trồng cây hàng năm
- Đất trồng lúa 3.475,00 3.166,00 3.028,00
- Đất cây hàng năm khác 1.557,78 1.778,50 1.727,80
3.061,04 3.030,15 3.039,73 B Đất trồng cây lâu năm
218,34 286,94 2 Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 195,44
3.175,06 3.159,46 3.270,84 3 Đất sản xuất lâm nghiệp
25,90 25,90 A Đất rừng tự nhiên (P.hộ và D dụng) 26,03
3.149,03 3.133,56 3.244,94 B Đất rừng trồng
4 Đất nông nghiệp khác 0,76 2,86 3,60
3.503,77 3.650,14 3.738,93 II Đất phi nông nghiệp
732,16 737,09 552,17 III Đất chưa sử dụng
(Nguồn:Chi cục thống kê huyện Phù Ninh,2017)
42
3.1.2. Điều kiện kinh tế, xã hội huyện Phù Ninh
Kết quả thực hiện các chỉ tiêu về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân ước đạt 7% năm. Thu nhập đầu người bình quân đạt 32,56 triệu
đồng/người/năm. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp, xây dựng 51,54%; dịch vụ
24,29%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 24,71%. Thu ngân sách trên địa bàn tăng
bình quân 13,2% năm. Tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đạt 6.700 tỷ đồng.
Tỷ lệ đô thị hóa 22%. Tỷ lệ đường giao thông nông thôn được kiên cố hóa
57%. Tỷ lệ hộ nghèo 3,9%. Giải quyết việc làm trên 8.000 lao động; số lao
động có việc làm mới đạt trên 6.000 lao động, trong đó xuất khẩu lao động
1.302 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 50%. Cơ cấu lao động: Nông,
lâm nghiệp 40%; công nghiệp – xây dựng 35%; dịch vụ 25%.
Huyện Phù Ninh có 5 xã cơ bản đạt tiêu chí nông thôn mới. Tỷ lệ hộ
được dùng nước hợp vệ sinh đạt trên 90%. 100% cơ sở sản xuất mới xây
dựng ứng dụng công nghệ sạch hoặc có trang bị thiết bị xử lý chất thải, giảm
thiểu ô nhiễm môi trường.
Thực trạng phát triển các ngành, lĩnh vực
Bảng 3.2. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp địa bàn huyện giai đoạn
2011-2016
ĐVT: tỷ đồng
2011-2013 2013-2015 2015-2016
7,52 8,92 18,80 Chỉ tiêu 1. Tốc độ tăng giá trị sản xuất CN, XD
8,64 0,30 2009 10,92 -3,40 2010 19,00 17,50 2015
843,47 944,69 2.241,082 + CN, TTCN + Xây dựng Chỉ tiêu 2. Quy mô giá trị sản xuất CN, XD
771,66 71,81 854,13 90,56 2.038,256 202,826 + CN, TTCN + Xây dựng
(Nguồn:Chi cục thống kê huyện Phù Ninh, 2017)
43
Công nghiệp và xây dựng là nhóm ngành có tốc độ tăng trưởng cao thứ 2 trong các ngành kinh tế của Huyện. Tính chung cả nhóm ngành giai đoạn 2011-2013, tốc độ tăng trưởng bình quân là 7,52% tính trên địa bàn và 10,73%/năm tính theo huyện quản lý.
Ngành xây dựng có tốc độ tăng trưởng chậm 0,30%/năm giai đoạn
2011-2013 và - 3,4% giai đoạn 2013-2015
Hoạt động khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng tập trung vào khai thác cát, sỏi xây dựng và sản xuất gạch ở ven sông Lô và các xã vùng thấp. Sản lượng cát sỏi năm 2013 đạt mức 141.535 ngàn m3, gạch nung đạt 52,246 triệu viên.
+ Đối với ngành xây dựng: Đây là ngành có quy mô lớn trong nhóm ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng. Các hoạt động của ngành xây dựng thể hiện ở 2 nhóm hoạt động chủ yếu: Các hoạt động xây dựng dân dụng, xây dựng hạ tầng phục vụ sản xuất. Các hoạt động xây dựng chủ yếu tập trung vào xây dựng dân dụng và xây dựng các cơ sở hạ tầng có quy mô nhỏ thuộc các chương trình xây dựng hạ tầng nông thôn. Mặc dù tốc độ tăng giá trị sản xuất ở mức 7,92%, nhưng với quy mô hoạt động lớn ngành xây dựng không chỉ đóng góp vào tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng mà còn đóng góp chung vào tốc độ tăng trưởng của các ngành kinh tế.
*)Ngành nông – lâm – thủy sản
Bảng 3. 3. Giá trị sản xuất và tốc độ tăng trưởng các ngành giai đoạn 2014 - 2016
Đơn vị: Tỷ đồng giá 1994 Tốc độ tăng trưởng BQ (%/năm) Phân theo ngành
15/14 16/15 BQ Năm 2016 Năm 2015
4,33 4,60 -2,13 -1,64 14,81 13,97 10,70 9,80 4,15 4,54 6,50 7,47 4,39 4,69 Giá trị sản xuất (tỷ đồng) Năm 2014 1. Nông nghiệp 229,46 238,77 249,76 4,06 Trồng trọt 143,54 141,89 138,87 -1,15 Chăn nuôi 78,28 101,68 13,13 88,56 Dịch vụ nông nghiệp 7,64 9,21 8,32 8,90 2. Lâm nghiệp 9,22 8,82 8,50 3,76 3. Thủy sản 5,53 8,2 7,63 7,23 Tổng giá trị sản xuất 245,19 255,22 267,18 4,09
(Nguồn:Chi cục thống kê huyện Phù Ninh, 2017)
44
Những năm qua, nhất là từ khi tái lập Huyện, nông, lâm nghiệp và thủy
sản đã được chú trọng đầu tư và chỉ đạo nên trình độ thâm canh được cải
thiện, năng suất cây trồng có xu hướng tăng, chăn nuôi gia súc, gia cầm và
nuôi trồng thuỷ sản có bước phát triển.
Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật được tăng cường, nên đã từng bước thay
đổi tập quán sản xuất cũ, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm góp phần đảm
bảo lương thực tại chỗ và chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành theo hướng
tích cực. Ngành nông nghiệp đóng góp chủ yếu vào sự phát triển kinh tế của
Huyện quản lý, chiếm trên 37,78% tổng giá trị sản xuất của tất cả các ngành.
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của Phù Ninh vẫn còn rất nhiều khó khăn và
hạn chế như: trình độ thâm canh của nông dân chưa cao; cơ sở hạ tầng ở một
số xã còn chưa phát triển để tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và thu hút lao
động; giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đất canh tác đạt thấp; tốc độ
chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất trong nội bộ ngành nông nghiệp còn chậm.
Bảng 3. 4. Thống kê gia súc, gia cầm địa bàn huyện
giai đoạn 2014-2016
ĐVT: con
Vật nuôi
Trâu Bò Lợn Gia cầm
Tốc độ phát triển (%) Năm Năm Năm 2016 2015 2014 BQ 16/15 15/14 7,42 8,00 6,84 6.224 7.182 6.650 5,85 5,20 6,50 15.384 16.384 17.236 7,57 8,20 6,95 64.081 68.535 74.154 7,40 8,30 877.014 934.020 1.011.544 6,50 (Nguồn:Chi cục thống kê huyện Phù Ninh, 2017)
Chăn nuôi trâu, bò thịt chất lượng cao cần được xác định là 1 trong các
chương trình trọng điểm của ngành nông, lâm nghiệp Phù Ninh. Đến năm
2015 quy mô đàn trâu đạt 6.650 con, tăng 426 con, tương ứng tăng 6,84% so
với năm 2014; đàn bò 16.384 con, tăng 1000 con tương ứng tăng 6,50%. Tỷ lệ
tăng bình quân đàn đại gia súc (trâu, bò) hàng năm đạt 7,06%/năm, trong đó
tăng đàn trâu tăng bình quân 7,42%, đàn bò tăng bình quân 5,85%.
45
Lợn là một trong các vật nuôi chủ lực trong các loại vật nuôi của Phù
Ninh. Phát triển đàn lợn cần chú trọng cả về số đầu con, trọng lượng xuất
chuồng và tỷ lệ nạc cao. Đàn lợn của Huyện năm 2015 đạt 68.535 con tăng
4.454 con, tương ứng tăng 6,95% so với năm 2014 và tăng lên đến 1011.544
con năm 2016, tăn 8,3% so với năm 2015. Quy mô đàn lợn tăng khoảng bình
quân 7,4 %/năm giai đoạn 2014-2016.
Phát triển chăn nuôi gia cầm: Đây cũng là vật nuôi có tỷ trọng lớn trong
giá trị sản xuất ngành chăn nuôi của huyện Phù Ninh. Việc phát triển chăn nuôi
gia cầm cũng chú trọng cả về quy mô đàn và chất lượng đàn. Phù Ninh là một
trong các huyện ít chịu ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm, vì vậy phát triển gia
cầm có nhiều thuận lợi và khả năng tăng đàn gia cầm lên đến 934.020 con vào
năm 2015 (tăng 6,5% về số lượng) và 1.011.544 con vào 2016 (tăng bình quân
7,4% về số lượng)
3.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại huyện Phù Ninh giai đoạn
2014 -2016
3.2.1. Các loại hình trang trại ở huyện Phù Ninh
Bảng 3.5. Số lượng và cơ cấu trang trại
ĐVT: trang trại
Năm 2011 Số lượng 28 21 36 48 133 Cơ cấu (%) 21,05 15,79 27,07 36,09 100,00 Năm 2016 Số lượng 31 28 31 62 152 Cơ cấu (%) 20,39 18,42 20,39 40,79 100,00 Tăng (+) giảm (-) 3 7 -5 14 19 Các loại hình trang trại TT trồng cây hàng năm Trang trại chăn nuôi Trang trại lâm nghiệp Trang trại tổng hợp Tổng cộng
(Nguồn:Chi cục thống kê huyện Phù Ninh, 2017)
Kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh trong những năm đổi mới cùng với
nhiều địa phương trong tỉnh đã phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng,
qui mô và hiệu quả kinh tế - xã hội. Đến năm 2011 mô hình kinh tế trang trại
của huyện có 133 trang trại và đến năm 2016 có 152 trang trại. Trên cơ sở các
Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về khuyến khích phát triển kinh tế
46
trang trại; tiếp đến là các Nghị quyết của Trung ương về phát triển kinh tế
trang trại. Các Nghị quyết, chủ trương liên quan đến phát triển nông nghiệp,
nông thôn tạo điều kiện khuyến khích phát triển kinh tế trang trại như Nghị
quyết 06-NQ/TU của Ban chấp hành Tỉnh uỷ (khoá XV) về phát triển chăn
nuôi gia súc, gia cầm giai đoạn 2011-2015. UBND tỉnh đã có Quyết định số
2481/2010/QĐ-UB về chính sách phát triển nông nghiệp, thuỷ sản; Quyết
định 4100/2011/QĐ-UBND về cơ chế chính sách hỗ trợ đầu tư đối với các
công trình cấp huyện quản lý, theo đó là chính sách hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ
tầng các cơ sở sản xuất giống thuỷ sản; về ban hành cơ chế chính sách khuyến
khích phát triển chăn nuôi tập trung giai đoạn 2011-2015… Trên tinh thần đó,
huyện đã chỉ đạo các cấp các ngành quy hoạch các vùng sản xuất tập trung
phát triển cây ăn quả, dứa, mía và chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản... Là đơn vị
có nhiều tiềm năng về đất đai, lao động... là điều kiện để không ngừng phát
triển kinh tế trang trại. Hiện nay, trên địa bàn huyện gồm các loại hình trang
trại: trang trại trồng cây hàng năm; trang trại trồng cây lâu năm; trang trại
chăn nuôi; trang trại nuôi trồng thủy sản và trang trại SXKD tổng hợp.
Tính đến cuối năm 2016, huyện có 152 trang trại (chiếm 32% số trang
trại trong tỉnh. Trang trại đã giải quyết công ăn việc làm cho 1084 lao động
và đã khai thác, huy động được 69.710 triệu đồng vốn đầu tư SXKD của trang
trại. Qua nghiên cứu chúng tôi thấy, xu hướng phát triển đa dạng các loại
hình và nhanh về số lượng trong những năm qua là loại hình trang trại chăn
nuôi, mô hình này đang phát triển tốt ở các xã, phường, điển hình là chăn nuôi
lợn, chăn nuôi bò sinh sản và trồng cây ăn quả....
Huyện Phù Ninh cần phải có chính sách hỗ trợ đầu tư cụ thể, trên cơ sở
quy hoạch tổng thể đã được tỉnh phê duyệt, từ đó quy hoạch chi tiết về phát
triển nông nghiệp dựa trên thế mạnh của từng xã, phường nhằm khai thác triệt
để nguồn tài nguyên như đất đai, lao động... nhằm tạo ra các vùng sản xuất
chuyên môn hóa và giá trị sản phẩm hàng hóa lớn, không những đáp ứng tiêu
dùng trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu. Bên cạnh đó cần khai thác triệt
để diện tích đất có khả năng thâm canh nhằm phủ xanh đất chống đồi núi trọc,
tạo cân bằng hệ sinh thái.
47
3.2.2. Đặc điểm, tình hình cơ bản của chủ trang trại
3.2.2.1 Thông tin cơ bản về chủ trang trại
Bảng 3.6. Đặc điểm, tình hình cơ bản về chủ trang trại
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Chỉ tiêu
148 4
97,4 2,6
146 6
96,1 3,9
114 38
75,0 25,0
151 1
99,3 0,7
12 140
7,9 92,1
1. Giới tính Nam Nữ 2. Dân tộc Kinh Mường 3. Thành phần Nông dân Khác 4. Tổ chức đoàn thể Đảng viên Hội viên đoàn viên 5. Trình độ Văn hoá THCS THPT 6. Trình độ chuyên môn Sơ cấp Trung cấp Cao đẳng - Đại học Khác
40,1 36,2 20,4 3,3
61 55 31 5 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả,2017)
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào trình độ của chủ
trang trại bởi chủ trang trại là người quyết định việc có làm trang trại hay không,
chọn hướng sản xuất kinh doanh như thế nào, lựa chọn đầu vào và quyết định
đầu ra làm sao cho hợp lý là cả một vấn đề khó khăn. Bởi vậy, trình độ của chủ
trang trại, chất lượng lao động, thành phần cũng như giới tính của chủ trang trại,
là một trong những nhân tố quyết định đến sự phát triển của trang trại. Qua
nghiên cứu chúng tôi thấy, số chủ trang trại là nam giới chiếm tỷ lệ cao (97,4%)
hơn so với nữ giới (2,6%). Điều này cho thấy, vai trò của người nam giới trong
trang trại là rất quan trọng, họ vừa là chủ gia đình và cũng là người dám nghĩ
dám làm để tạo ra kinh tế cho gia đình cũng như cho xã hội.
48
Về thành phần, chủ trang trại là nông dân hiện nay vẫn chiếm tỷ lệ cao
(chiếm 75%) hơn so với số chủ trang trại là cán bộ, công chức và các thành
phần khác (chiếm 25%)
Trình độ chuyên môn, năng lực quản lý của chủ trang trại có ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại. Những chủ trang trại
có trình độ chuyên môn, học vấn cao, có trình độ quản lý tốt thì sẽ dễ dàng áp
dụng các công nghệ tiến bộ vào sản xuất, dám đầu tư và áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, quản lý và sử dụng các nguồn lực vào sản xuất một cách hợp
lý và có hiệu quả hơn. Phần lớn chủ trang trại có trình độ sơ cấp với 40,1%, tiếp
đến là chủ trang trại có trình độ trung cấp chiếm 36,2% và chủ trang trại có trình
độ cao đẳng – đại học là 20,4% tỷ lệ các chủ trang trại có trình độ chuyên môn
cao là rất thấp. Chình vì vậy, việc áp dụng các quy trình sản xuất, quản lý và sử
dụng các nguồn lực của trang trại chưa hiệu quả, làm cho kết quả và hiệu quả
sản xuất kinh doanh của trang trại chưa cao. Kết quả điều tra, khảo sát kinh tế
trang trại của tác giả năm 2016 cho thấy, đa số các chủ trang trại đều chưa qua
một lớp đào tạo, tập huấn nào về quản lý, đàm phán, nắm bắt thông tin thị
trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và tham gia hội nhập kinh tế
quốc tế vớ cách mạng 4.0 đòi hỏi chủ trang trại phải là người không những có
trình độ chuyên môn kỹ thuật mà còn phải giỏi về công nghệ thông tin, am hiểu
thị trường mới có thể cạnh tranh được trong thương trường.
3.2.2.2. Cơ cấu trang trại khảo sát
Bảng 3.7. Số lượng và cơ cấu trang trại
TT khảo sát Loại hình Tổng số
Trang trại trồng cây hàng năm Trang trại chăn nuôi Trang trại lâm nghiệp Trang trại tổng hợp
Số lượng 25 25 30 30 110 31 28 31 62 152 Tổng số
% 22.7 22.7 27.3 27.3 100.0 Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả,2017)
49
Từ số liệu tổng hợp ở bảng trên, có 110 trang trại sẽ được nghiên cứu,
trong đó có 30 trang trại tổng hợp, 30 trang trại lâm nghiệp chiếm 27,3% mỗi
loại, trang trại trồng cây hàng năm là 25 trang trại và 25 trang trại chăn nuôi
chiếm 22,7% mỗi loại.
3.2.2.3. Lao động của trang trại
Bảng 3.8. Lao động tham gia sản xuất trong trang trại
Đvt: người
Chỉ tiêu
Tỷ lệ %
Số lượng
Khác
Không có trình độ 1 1
1 1 1
6 4 2 2
Trình độ lao động Trung cấp, sơ cấp nghề 4 2 1 1
1
66.67 33.33 33.33
2
33.33
2
1
1 1 1
4 3 2 1
75.00 50.00 25.00
2 2 1 1
1
25.00
1
1
3 1
1 1 1
5 2 1 1
40.00 20.00 20.00
1
3
60.00
2
1
3 2
1 1 1
1 1 1
5 4 2 2
80.00 40.00 40.00
2
1
20.00
1
A. Trang trại trồng cây hàng năm 1. Tổng số lao động thường xuyên 1.1. Lao động trong gia đình 1.2. Lao động thuê mướn 2. Lao động thuê mướn thời điểm cao nhất 3 năm qua B. Trang trại Lâm nghiệp 1. Tổng số lao động thường xuyên 1.1. Lao động trong gia đình 1.2. Lao động thuê mướn 2. Lao động thuê mướn thời điểm cao nhất 3 năm qua C. Trang trại Chăn nuôi 1. Tổng số lao động thường xuyên 1.1. Lao động trong gia đình 1.2. Lao động thuê mướn 2. Lao động thuê mướn thời điểm cao nhất 3 năm qua D. Trang trại tổng hợp 1. Tổng số lao động thường xuyên 1.1. Lao động trong gia đình 1.2. Lao động thuê mướn 2. Lao động thuê mướn thời điểm cao nhất 3 năm qua
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
50
Lao động làm việc trong các trang trại chủ yếu là lao động phổ thông nên việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, hay việc thực hiện các quy trình sản xuất mới, tính kỷ luật trong khi làm việc còn kém do đó hiệu quả làm việc của lao động không cao. Lao động trong các trang trại chủ yếu làm những công việc giản đơn như: bốc vác thức ăn, cho vật nuôi ăn hay gieo trồng, thu hoạch cây trồng .v.v., thiếu lao động thực hiện các công việc kỹ thuật như: kiểm tra và kiểm soát dịch bệnh, chữa bệnh cho vật nuôi, đánh giá tỷ lệ tăng trọng,...
Nhìn chung, ở các trang trại, lực lượng cán bộ kỹ thuật có chuyên môn sâu hầu như không có, lao động không qua đào tạo hoặc trình độ nghề sơ cấp là phổ biến. Chất lượng lao động trong các trang trại không khác bao nhiêu so với lao động của các hộ nông dân. Kết quả điều tra của tác giả năm 2016 cho thấy, bình quân mỗi trang trại có 5 lao động, trong đó lao động thường xuyên là 4 người và lao động thời vụ là 2 người. Các trang trại phần lớn sử dụng lao động thời vụ tại địa phương 3.2.2.4. Tình hình sử dụng đất đai của trang trại khảo sát
Bảng 3. 9. Đất đai của các trang trại điều tra phân theo loại hình và mục đích sử dụng
Đơn vị tính : ha
T.T Chăn nuôi T.T cây lâu năm T.T SXKD tổng hợp Chỉ tiêu T.T Trồng cây hàng năm
DT % DT % DT % DT %
4,3 100,0 3,2 100,0 42 100,0 16.6 100,0 DT đất đang sử dụng BQ 1 trang trại
2,4 55,8 0,7 21,9 0.8 1.9 2.5 15.1 1. Đất trồng cây hàng năm
0,8 18,6 0,3 9,4 1.8 4.3 2.3 13.9 2. Đất trồng cây lâu năm
3. Đất lâm nghiệp 0,6 14,0 0,4 12,5 37.8 90.0 9.3 56.0
0,1 2,3 0,2 6,3 0.8 1.9 1.7 10.2 4. Đất nuôi trồng thủy sản
5. Đất chăn nuôi 0,4 9,3 1,6 50,0 0.8 1.9 0.8 4.8
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
51
Tuỳ thuộc vào từng loại hình sản xuất của trang trại mà quy mô và cơ cấu sử dụng đất đai của các trang trại có sự khác nhau. Do vậy, quy mô diện tích đất đai của từng loại hình trang trại cũng có sự khác nhau. Qua nghiên cứu ở 96 trang trại, chúng tôi thấy, tình hình sử dụng đất đai của các loại hình trang trại năm 2016 được thể hiện qua số liệu bảng 3.10.
Bình quân cho mỗi loại hình trang trại, thì trang trại có diện tích bình quân cao nhất là trang trại lâm nghiệp 40 ha, SXKD tổng hợp 16,6 ha/trang trại, thấp hơn của tỉnh (BQ loại hình này của tỉnh 17,1 ha); trang trại chăn nuôi có diện tích bình quân thấp nhất 3,2 ha và với mỗi loại hình thì có sự khác nhau về diện tích. Sự chênh lệch về diện tích đất bình quân giữa từng loại hình là tương đối lớn, đây cũng là đặc trưng của mỗi loại hình.
Bảng 3.10. Thực trạng và nguồn gốc đất đai của trang trại
Đất cấp
Loại hình trang trại Tổng (ha)
(ha) (ha) (ha) Đất thuê, mượn, thầu DT Cơ cấu (%) Đất nguồn khác DT Cơ cấu (%) DT Cơ cấu (%)
3,5 81,40 0,8 18,60 - - 4,3
2,3 71,88 0,5 15,63 0,4 12,50 3,2
38,5 91,67 2,8 6,67 0,7 1,67 42
14,8 89,16 1,8 10,84 - - 16,6
59,1 89,41 5,9 8,93 1,1 1,66 66,1 Trang trại trồng cây hàng năm Trang trại chăn nuôi Trang trại lâm nghiệp Trang trại tổng hợp Tổng
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Như vậy, phần lớn diện tích đất của các trang trại là đất được cấp, tỉ
trọng đất thuê mướn, đất đấu thầu rất ít. Khi được hỏi các chủ trang trại cho
biết, do thời gian thuê đất ngắn nên các chủ trang trại không dám đầu tư vốn
xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật cho sản xuất. Về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận trang trại. Theo số liệu
điều tra khảo sát của tác giả năm 2016, số lượng các trang trại được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mới chỉ đạt 54% tổng số trang trại điều tra. Ở
52
nhiều trang trại, diện tích đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mới chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số diện tích đất của các trang trại.
Tuy nhiên, giấy chứng nhận trang trại chưa có giá trị để các chủ trang trại có
thể thế chấp để vay vốn.
3.2.2.3. Tình hình vốn và nguồn vốn của các trang trại khảo sát
Bảng 3.11. Tình hình vốn và nguồn vốn của các trang trại
( Tính bình quân 1 trang trại )
Bình quân của loại hình trang trại
Đvt: triệu đồng
Chỉ tiêu
Cây hàng năm
Lâm nghiệp
Chăn nuôi
Bình quân chung
Vốn
%
Vốn
%
Vốn
%
Vốn
SXKD tổng hợp %
100,0
100,0
100,0
100,0
538,1 92,8
334
542
687,2
1050
384,1 66,2 247,6 133,4 23,0
76
74,1 22,8
374 142,8
69,0 26,3
490,8 170,8
71,4 24,9
787,2 232
75,0 22,1
91,9
15,8
57,6
17,2
110
20,3
110,4
16,1
172,4
16,4
20,5
3,5
10,4
3,1
25,2
4,6
25,6
3,7
30,8
2,9
100,0
100,0
100,0
100,0
140,6 87,6
87,6
98
220,8
319,6
98,7 36,3
70,2 25,8
63,2 21,6
72,1 24,7
70,4 24,4
71,8 24,9
152 58,4
68,8 26,4
236,8 71,6
74,1 22,4
25,5
18,1
16,4
18,7
21,2
21,6
37,6
17,0
50
15,6
5,6
4,0
2,8
3,2
3,2
3,3
10,4
4,7
11,2
3,5
115,2 81,9 18,0 25,4
51,6 36
58,9 41,1
71,2 26,8
72,7 27,3
169,2 51,6
76,6 23,4
238,4 81,2
74,6 25,4
107,8 76,6 5,6 13,0
7,9 18,3
69,6 7,2 6
79,5 8,2 6,8
6,9 81,6 6,1
190 3,2 18,4
86,1 1,4 8,3
206,4 30,8 64,4
64,6 9,6 20,2
6,8 80 6
6,6
4,7
4,8
5,5
5,3
9,2
4,2
18
5,6
5,2
1. Tổng vốn ĐT đến năm 2016 - Vốn tự có - Vốn vay + Tr.đó Vốn vay ngân hàng - Vốn khác 2. Vốn ĐT thực hiện năm 2016 A. Phân theo nguồn vốn - Vốn tự có - Vốn vay + Tr.đó Vốn vay ngân hàng - Vốn khác B. Phân theo khoản mục đầu tư - Vốn cố định - Vốn lưu động C. Phân theo ngành kinh tế - Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản - Đầu tư các ngành khác
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Tính đến hết năm 2016, bình quân 1 trang trại đầu tư 538,1 triệu đồng,
trong đó bình quân chung vốn tự có chiếm 66,2%. Trong các loại hình trang
53
trại thì trang trại SXKD tổng hợp có vốn đầu tư bình quân cao nhất 1.050
triệu đồng; tiếp đến trang trại chăn nuôi đầu tư 687.2 triệu đồng, tiếp đến là
trang trại lâm nghiệp và thấp nhất là trang trại hàng năm chỉ 334 triệu đồng.
Mô hình trang trại tổng hợp
Trang trại của gia đình anh Nguyễn Văn Tiến ở khu 8, thị trấn Phong
Châu (huyện Phù Ninh) với 19 ha đồi xây dựng mô hình trang trại tổng hợp.
Ban đầu anh mày mò, học hỏi trồng vải, nhãn, măng bát độ, xoài. Được địa
phương hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ vay vốn và học tập kỹ thuật, anh mạnh
dạn đầu tư đào ao thả cá. Đến nay, với hơn 3ha mặt nước, chuyên nuôi các
loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao như: Cá trắm đen, cá nheo, cá chẽm Úc,
ba ba... Hiện giờ có gần 4.000 con ba ba, 2 ao nuôi cá nheo và cá trắm đen
và đang nuôi thử nghiệm cá chẽm Úc. Bình quân mỗi năm anh thu được trên
400 triệu đồng. Để đảm bảo nguồn thức ăn cho chăn nuôi, anh đã đầu tư
trồng cỏ, nuôi các loại cá tạp, đầu tư mua máy chế biến thức ăn, máy thái cỏ
trị giá hàng chục triệu đồng để đáp ứng việc chăm sóc cá và ba ba.
Bên cạnh nguồn lợi từ thuỷ sản, vườn đồi của anh cũng cho thu nhập
thêm hàng trăm triệu nữa từ các loại cây giống và cây ăn quả như tre bát độ,
mít, vải, nhãn... Thị trường tiêu thụ cây giống của anh hiện không chỉ bó hẹp
trong phạm vi tỉnh nhà mà đã vươn ra các tỉnh lân cận như: Yên Bái, Lào
Cai, Tuyên Quang và các tỉnh miền Trung, miền Nam.
Không chỉ lo làm giàu cho riêng mình, trang trại của anh cũng góp
phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động nhàn rỗi tại địa phương. Hiện
trang trại của anh Tiến đang tạo việc làm ổn định cho 6 lao động với mức thu
nhập bình quân từ 4 đến5,5 triệu đồng/người/tháng cùng hàng chục lao động
thời vụ khác
54
Bảng 3. 12. Tình hình sử dụng vốn của trang trại tính bình quân
phân theo lĩnh vực sản xuất
Đvt: Triệu đồng
TT lâm
Bình quân
TT trồngcây
TT tổng hợp
TT chăn nuôi
chung
nghiệp
hàng năm
Số
Số vốn % Số vốn % Số vốn %
% Số vốn %
vốn
Tổng số vốn của
334
100,0 687,2 100,0 542 100,0 1050 100,0 538,1 100,0
trang trại BQ
Trong đó:
1, Tổng giá trị các
công trình xây dựng
33,3
9,98 313,7 45,65 379,4
70 586,6 55,87 259,3 48,18
phục vụ SX kinh
doanh BQ
2. Tổng giá trị máy
móc, thiết bị,
21,7
6,49 100,5 14,63 162,6
30 297,6 28,34 121,0 22,48
công cụ sản xuất BQ
3. Giá trị nguyên vật
liệu, sản
249,2 74,61 270,6 39,37
0
0
168,3 16,03 149,8 27,84
phẩm, sản phẩm dở
dang BQ
4. Tổng số vốn tiền
mặt hiện có
40,6 12,17
2,3
0,34
0
0
0,0
0
12,4 2,31
BQ
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Vốn đầu tư của các trang trại chủ yếu là vốn đầu tư xây dựng các công
trình sản xuất kinh doanh (chiếm 48,18% tổng vốn đầu tư của trang trại), tổng
giá trị máy móc thiết bị, công cụ sản xuất chiếm khoảng 22.48%. Tổng vốn tiền
mặt hiện có của các trang trại chiếm tỉ lệ rất thấp 2,31% tổng số vốn. Như vậy,
phần lớn vốn của trang trại đầu tư vào tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh.
55
3.2.2.4. Tình hình trang bị và sử dụng máy móc thiết bị của các trang trại
Bảng 3.13. Trang bị và sử dụng máy móc trong trang trại
Đơn vị tính: chiếc
Tổng số TT Chăn nuôi Chỉ tiêu TT cây hàng năm TT Cây lâu năm TT Tổng hợp
2 1 0 0 1
Máy cày, máy kéo (Từ 12CV trở xuống) Ô tô vận tải Máy động cơ Máy phát điện Máy tuất lúa có động cơ 3 6 17 8 1 1 2 3 0 3 11 0 1 1 2 0 1 1 2 5
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Kết quả điều tra cho thấy, trong tổng số 96 trang trại thì có 2 máy cày,
máy kéo l oại 12CV trở xuống; có 17 máy phát điện ( trong đó trang trại chăn
nuôi có 11 máy, hầu hết các trang trại sắm để phòng trừ khi mất điện lưới dùng
thay thế) 8 máy tuốt lúa có động cơ. Hầu hết các máy động cơ khác và máy cày
máy kéo các trang trại có thể sử dụng dịch vụ cho thuê khá phổ biến.
3.2.2.5. Thông tin thị trường đầu ra
Bảng 3. 14. Các hình thức tiêu thụ sản phẩm của các trang trại
trên địa bàn huyện Phù Ninh
Đơn vị tính: %
Hình thức bán
Bình quân chung
Trang trại lâm nghiệp
Trang trại tổng hợp
Bán cho tư thương Bán cho hợp tác xã Bán cho doanh nghiệp Bán tại các chợ
Trang trại trồng cây hàng năm 60,1 8,5 16,3 15,1
Trang trại chăn nuôi 71,4 0 13,8 14,8
14,8 0 65,2 20
31,2 19,6 31,7 17,5
42,43 7,28 33,27 17,02
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Kết quả trên cho thấy các sản phẩm của trang trại trồng cây, huyện Phù Ninh chủ yếu là tiêu thụ tại địa bàn thông qua tư thương thu mua tại nhà, tại các chợ địa phương. Chỉ có trang trại lâm nghiệp bán 65.2% sản phẩm cho doanh nghiệp, đó là do trên địa bàn huyện Phù Ninh hầu hết
56
trang trại lâm nghiệp trồng cây nguyên liệu phục vụ cho Tổng công ty Giấy Việt Nam, chỉ có một ít sản phẩm khác như hoa màu, chăn nuôi của trang trại bán cho tư thương và bán tại chợ. Trang trại chăn nuôi hầu như bán sản phẩm cho tư thương, rất ít sản phẩm bán tại chợ, mà khi bán tại chợ các chủ trang trại cho biết đó là các sản phẩm từ gà, vịt. ngan ngỗng.
Ở đây, ta nhận thấy vai trò của HTX trong tiêu thụ sản phẩm cho bà con là rất yếu. Các Doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi không có, trong trồng trọt có một số các doanh nghiệp chè. Chính vì thế, thị trường tiêu thụ là vấn đề mà các chủ trang trại gặp khó khăn, thường xuyên bị ép giá. Điều nay, ảnh hưởng đến tâm lý an tâm sản suất của các trang trại và tác động không nhỏ tới thu nhập của bà con. 3.2.2.6. Kết quả sản xuất kinh doanh của các trang trại
Bảng 3. 15. Giá trị sản xuất kinh doanh bình quân/ trang trại và tỷ
suất hàng hóa theo ngành năm 2016
đvt: triệu đồng
BQ từng loại hình trang trại
BQ chung
Chỉ tiêu
TT lâm nghiệp
TT Chăn nuôi
TT Tổng hợp
TT cây hàng năm
I.Giá trị SPHH BQ 1TT
( Triệu đồng)
668,08 626,24 53,28 573,00 3,08 24,04 14,72 100,00 93,74
744,16 588,52 335,48 253,04 32,92 94,16 28,52 100,00 79,09
358,40 329,24 286,60 42,60 6,28 9,56 13,32 100,00 91,86
239,24 212,72 8,08 40,36 172,36 9,96 8,48 100,0 88,9 3,4 16,9 72,0 4,2 3,5
7,98 85,77 0,46 3,60 2,20
45,08 34,00 4,42 12,65 3,83
501,5 435,7 170,9 219,9 58,1 36,0 16,5 501,5 435,7 170,9 219,9 58,1 36,0 16,5
79,97 11,89 1,75 2,67 3,72
1. GTSX từ nông nghiệp - GTSX từ trồng trọt - GTSX từ chăn nuôi 2. GTSX từ lâm nghiệp 3. GTSX từ thủy sản 4. GTSX ngành khác II. Tỷ suất GT SPHH (%) 1. GTSX từ nông nghiệp - GTSX từ trồng trọt - GTSX từ chăn nuôi 2. GTSX từ lâm nghiệp 3. GTSX từ thủy sản 4. GTSX ngành khác
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
57
Giá trị sản xuất bình quân một trang trại năm 2016 đạt 501,5 triệu đồng,
cao nhất là mô hình trang trại SXKD tổng hợp đạt 744,16 triệu đồng; trang trại
chăn nuôi đạt 668 triệu đồng. Trên thực tế năm 2016 là một năm thất bại với
chăn nuôi lợn, doanh thu của trang trại là do từ các nguồn chăn nuôi khác bù
cho chăn nuôi lợn bị thua lỗ. Trong tổng giá trị sản xuất tạo ra thì thu từ ngành
nông nghiệp chiếm 87,4%, tiếp đến là ngành lâm nghiệp chiếm 10,7%, ngành
thủy sản chiếm 6,9% và các ngành khác chỉ chiếm 3,2%.
Bảng 3.16. Kết quả sản xuất kinh doanh năm 2016
Bình quân một trang trại
Đvt: triệu đồng
TT cây TT TT TT lâm BQ hàng Chỉ tiêu Chăn Tổng nghiệp chung nuôi năm hợp
283,64 201,6 292,68 491,56 481,28 I. Tổng chi phí
1. Chí phí trung gian (IC) 177,92 108,96 185,72 352,32 299,96
2. Chi phí khác 104,92 92,64 106,96 139,2 181,32
II. GTGT (VA) 263,64 249,44 251,04 315,76 444,2
III. TNHH (MI) 170,84 156,8 144,04 176,52 262,88
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Trong các loại hình trang trại thì chi phí, giá trị tăng thêm và thu nhập
hỗn hợp bình quân một trang trại cao nhất là trang trại chăn nuôi và trang trại
sản xuất kinh doanh tổng hợp; thấp nhất là mô hình trang trại trồng cây hàng
năm và trang trại trồng cây lâu năm (xem bảng 3.16).
Chi phí sản xuất kinh doanh trong năm bình quân của một trang trại là
283,64 triệu đồng/năm; trong đó trang trại có chi phí cao nhất là trang trại
chăn nuôi và trang trại tổng hợp bình quân từ 481 - 491 triệu đồng và chi phí
thấp nhất là trang trại trồng trọt bình quân chỉ có 201,6 triệu đồng/năm. Trong
tổng chi phí thì chí phí trung gian chiếm 62,9%; bình quân một trang trại là
58
177,92 triệu đồng. Giá trị gia tăng bình quân một trang trại đạ 263,64 triệu
đồng/năm. Thu nhập hỗn hợp bình quân đạt 170,84 triệu đồng/năm.
Bảng 3. 17 Hiệu quả sử dụng vốn của các trang trại điều tra
(Tính bình quân cho 1 trang trại điều tra)
Chỉ tiêu Đơn vị tính Bình quân chung Chăn nuôi Tổng hợp
trồng cây hàng năm
- GO /IC lần 2,55 Loại trang trại trồng cây lâm nghiệp 1,29 1,90 3,29 2,48
- VA /IC lần 1,48 1,35 0,90 2,29 1,48
- MI /IC lần 0,96 0,78 0,50 1,44 0,88
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Xét về hiệu quả sử dụng chi phí trung gian (IC) bình quân của các trang
trại chúng tôi thấy, đầu tư một đồng chi phí trung gian sẽ tạo ra được 2,55
đồng giá trị sản xuất (GO); 1,48 đồng giá trị gia tăng (VA); 0,96 đồng thu
nhập hỗn hợp (MI). So sánh giữa các loại hình trang trại với nhau thì trang
trại sử dụng hiệu quả đồng vốn cao nhất là trang trại trồng trọt (một đồng IC
tạo ra 3,29 đồng GO; 2,29 đồng VA và 1,44 đồng MI). Ngược lại trang trại có
hiệu quả sử dụng đồng vốn của trang trại chăn nuôi (một đồng IC sẽ tạo ra
1,90 đồng GO; 0,90 đồng VA và 0,5 đồng MI). Đối với trang trại trồng cây
lâu năm; hầu như các chủ trang trại đầu tư rất ít mà chủ yếu là đầu tư ban đầu,
loại hình này tuy hiệu quả trên đồng vốn đầu tư cao nhưng thời gian quay
vòng vốn chậm bởi chu kỳ cho sản phẩm dài thường từ 3 - 5 năm. Đối với
trang trại trồng cây hàng năm như mía, dứa ... nhiều chủ trang trại trồng và
kết hợp lưu gốc từ 3 - 4 năm, giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm tạo ra là cao
hơn các loại hình khác. Đối với trang trại chăn nuôi, do ảnh hưởng của dịch
bệnh như lở mồm long móng ở trâu, bò, tai xanh ở lợn... H5N1 ở gà, vịt; giá
cả các yếu tố đầu vào tăng, bên cạnh đó, ở thị xã cũng như trong tỉnh có rất
nhiều trang trại chăn nuôi lợn với qui mô từ 50 nái sinh sản trở lên, cùng với
59
chăn nuôi lợn thì trang trại chăn nuôi gà theo kiểu bán công nghiệp do các yếu
tố chi phí đầu vào cao, nên hiệu quả mang lại chưa cao, tuy nhiên thời gian
quay vòng vốn nhanh hơn các mô hình khác.
Qua phân tích cho thấy, đồng vốn đầu tư vào trang trại SXKD hỗn hợp
do đầu tư vào nhiều lĩnh vực như mô hình lúa - cá - thủy cầm, vườn - ao -
chuồng kết hợp nên sẽ giảm được rủi ro khi có biến động giá, hay dịch bệnh.
Tuy nhiên, mô hình này cũng tạo ra nhiều bất cập là sản xuất thường nhỏ lẻ,
khối lượng hàng hóa tạo ra trong từng loại sản phẩm là chưa nhiều.
Hiệu quả của trang trại
Ông Nguyễn Văn Luận ( Liên Hoa – Phù Ninh – Phú Thọ) cho biết,
năm 2002, nhờ chính sách phát triển nông nghiệp của tỉnh Phú Thọ khuyến
khích và hỗ trợ nông dân phát triển chăn nuôi lợn siêu nạc theo mô hình khép
kín với số vốn vay 100 triệu lãi suất ưu đãi. Từ đó, gia đình ông Luận đã đầu
tư mua 15 nái lợn và từ đó nhân rộng lên. Ngoài ra, gia đình ông cũng mạnh
dạn vay mượn đầu tư thêm, phát triển dần lên 30 nái rồi 100 nái và đến thời
điểm này(2016) gia đình ông có 300 nái cho sinh sản luân phiên. Mỗi tháng
ông cho số lợn sinh sản này theo từng đợt để gối các lứa, tức là lứa lợn nọ
gối lứa lợn kia để cho cho số lượng lợn thịt bán được thường xuyên, quanh
năm mà không phải lo về con giống, chất lượng lại đảm bảo. Hiện trang trại
của ông Luận có tới 300 lợn nái, hơn 3.000 con lợn thịt và lợn nhỡ. Theo tính
toán của ông Luận, mỗi năm xuất bán khoảng 300 - 350 tấn lợn thương
phẩm, doanh thu đạt khoảng 20 tỷ đồng, lợi nhuận bình quân đạt 3 đến 4 tỷ
đồng mỗi năm.
Không dừng lại ở đó, từ năm 2012 đến năm 2015 ông Luận đã mua
thêm được 2ha diện tích đất lúa kém hiệu quả của người dân xung quanh. Sau
đó ông xin phép chính quyền địa phương được chuyển đổi từ cơ cấu đất kém
hiệu quả sang chăn nuôi trồng trọt với hiệu quả cao hơn.
60
Nhờ đó, ngoài 2ha nuôi lợn, 4ha ao nuôi cá, ông Luận còn có 0,5 ha
đất trồng bưởi diễn với 200 gốc. Toàn bộ số bưởi này đã bước sang năm thứ
7 và đã cho thu hoạch, dự kiến năm nay được khoảng 5.000- 6.000 quả, thu
về cả trăm triệu đồng.
Còn mô hình nuôi gà sạch của gia đình chị Nguyễn Thị Hòa, thị trấn
Phong Châu, huyện Phù Ninh cũng thu tiền tỷ nhờ 4ha nuôi gà sạch và trồng
cây ăn quả. Năm 2014, chị Hòa thuê 40.000m2 đất đồi để chăn nuôi gà thịt
kết hợp với trồng cây ăn quả. Trong trai trại của chị chủ yếu nuôi gà Minh
Dư, gà ta là những giống gà thịt thơm ngon lại cho năng suất cao. Theo đó,
bình quân mỗi năm ông nuôi 4 lứa, mỗi lứa khoảng 30.000 con, mỗi năm
cung ứng cho thị trường trong và ngoài tỉnh khoảng 240 tấn gà thương phẩm,
cho doanh thu khoảng 14 tỷ đồng, trừ chi chí cũng thu lãi gần 2 tỷ đồng mỗi
năm, giải quyết việc làm ổn định cho từ 7 đến hơn 10 lao động với thu nhập
bình quân từ 5 đến 6 triệu đồng/người/tháng...
Bảng 3. 18. Hiệu quả sản xuất kinh doanh năm 2016
của các trang trại
Loại trang trại
Bình
Đơn vị
trồng
trồng
quân
Chỉ tiêu
Chăn
Tổng
tính
cây hàng
cây lâu
chung
nuôi
hợp
năm
năm
1. Theo Diện tích
GTSX(GO)/Ha
Tr. Đ
29,15
17,92
9,72
20,95
13,87
TNHH(MI)/Ha
Tr. Đ
9,39
7,84
4,46
6,91
4,90
2. Theo Lao động
MI/1 LĐ TX
Tr. Đ
151,56
72,75
68,32
50,79
151,02
MI/ 1 LĐGĐ
Tr. Đ
77,64
48,78
43,2
33,9
58,35
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
61
Tính hiệu quả xã hội của các trang trại
Bảng 3.19 Tình hình sử dụng lao động của các trang trại
(Tính bình quân 1 trang trại )
ĐVT : Lao động
BQ Các loại hình trang trại trồng Chăn Tổng trồng cây Chỉ tiêu cây lâu nuôi hợp hàng năm chung năm
3 I. Lao động TX 4 2 4 3,2
Trong đó:
1 - LĐ nam 2 2 2 1,9
2 2 0 2 - LĐ nữ 1,3
0 II. LĐ thuê thời vụ 2 3 1 1,8
Trong đó:
- LĐ nam 2 2 1 1,5
0 1 0 - LD nữ 0,4
III. Giá trị 01 ngày 180 160 220 180 192,0 công LĐ (1000đ)
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Tác động từ việc phát triển kinh tế trang trại đã tạo thêm nhiều công
ăn việc làm cho người lao động tại các vùng nông thôn, trong đó có nhiều
lao động nữ giới, góp phần giải phóng sức lao động của người phụ nữ, nhất
là phụ nữ nông thôn. Việc tăng thêm thu nhập cho bà con ngày càng thúc
đẩy sự phát triển công bằng xã hội trong hưởng thụ, ổn định tình hình xã
hội tại địa phương…
62
3.2.2.6. Tác động môi trường của các trang trại
Bảng 3. 20. Tỷ lệ trang trại đã thực hiện tốt bảo vệ môi trường
năm 2016
Tổng số Mức thực hiện bảo vệ môi trường trang trại
Dưới 10% 6
Từ 10% đến 50% 14
Từ 50% đến 80% 18
Từ trên 80% 58
96 Tổng số
(Nguồn: Phòng NN&PTNT huyện Phù Ninh, 2016)
Bên cạnh một số mô hình trang trại bảo vệ tốt môi trường, một số trang
trại sử dụng đất chưa hợp lí, làm cho diện tích đất xấu do bị rửa trôi, bạc màu,
đe dọa đến sự phát triển bền vững. Hiện nay chưa có số liệu đầy đủ về tình
trạng ô nhiễm môi trường của kinh tế trang trại ở Phù Ninh.
Theo số liệu của phòng NN&PTNT, Phòng Tài nguyên môi trường
huyện Phù Ninh thì các trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh năm 2016,
phần lớn các chủ trang trại chưa quan tâm đến bảo vệ môi trường trong quá
trình sản xuất, kinh doanh. Có 58/96 trang trại có mức bảo vệ tốt môi trường
từ trên 80% đây hầu hết là các trang trại lâm nghiệp và trồng cây hàng năm ,
mức bảo vệ tốt môi trường từ 50%-80% có 18/96 trang trại là các trang trại
trồng cây hàng năm và một vài trang trại tổng hợp, trang trại có mức bảo vệ
tốt môi trường từ 10% 50% có 14/96 trang trại, Đặc biệt có 6 trang trại trang
trại có mức bảo vệ tốt môi trường dưới 10% là các trang trại chăn nuôi.
Một số chủ trang trại cũng nhận thức được vấn đề bảo vệ môi trường,
nhưng do vốn không nhiều, không có kinh phí đầu tư cho việc bảo vệ môi
trường nên các chủ trang trại mới chỉ đầu tư cho sản xuất. Hầu hết các trang
trại chưa có hệ thống xử lý rác thải, không có chỗ đổ rác thải, các chất thải
63
sinh hoạt, chất thải chăn nuôi hầu như được thải trực tiếp ra hệ thống kênh
mương và môi trường hoặc thải trực tiếp ra hệ thống ao hồ của gia đình, gây
ảnh hưởng đến môi trường sống và môi trường sản xuất.Trong số các loại
hình trang trại ở Phù Ninh, trang trại gây ô nhiễm nhiều nhất là trang trại
chăn nuôi. Các trang trại chăn nuôi tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng ven
sông Hồng, nơi tập trung dân cư đông đúc, gây ô nhiễm môi trường nước, đất,
không khí và ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Nhiều trang trại vẫn
chăn nuôi theo kinh nghiệm truyền thống, chuồng trại thiếu quy hoạch, các
biện pháp xử lý phân thải hầu như không có. Nguồn thải này có chứa nhiều
hợp chất hữu cơ, virus, vi trùng, trứng giun sán, gây ảnh hưởng đến môi
trường đất, nước và không khí, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng. Các
nguồn này có nguy cơ trở thành nguyên nhân trực tiếp phát sinh dịch bệnh
cho đàn gia súc như: lở mồm long móng, dịch cúm gia cầm, đồng thời lây lan
một số bệnh cho người vì nước thải chăn nuôi có chứa nhiều mầm bệnh.Theo
ý kiến của cán bộ quản lí các cấp ở Phù Ninh, có 16,7% số người phỏng vấn
cho rằng chỉ có dưới 10% số trang trại đã thực hiện tốt việc bảo vệ môi
trường; 29,6% cho rằng có từ 10-50% số trang trại bảo vệ tốt môi trường; chỉ
có 9,2% cho rằng tỷ lệ trang trại bảo vệ tốt môi trường là trên 80%.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
trên là do chủ trang trại chưa có ý thức bảo vệ môi trường, một phần nữa là do
một số chủ trang trại chưa hiểu về việc cần bảo vệ môi trường. Mặt khác,
nhiều ý kiến cho rằng do chính quyền địa phương chưa có biện pháp cụ thể.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường ở một số trang
trại là do chi phí đầu tư bảo vệ môi trường khá cao. Chẳng hạn, một bể biogas
đầu tư trung bình khoảng 13 triệu đồng, xử lí chất thải cho khoảng 50 con lợn.
Vì vậy, nhiều trang trại chăn nuôi lớn không thể giải quyết vấn đề môi trường
bằng các bể biogas, mà cần phải xây dựng hệ thống xử lí chất thải hiện đại
mới đảm bảo được vấn đề môi trường.
64
Vì vậy tình trạng ô nhiễm môi trường trong nông nghiệp nói chung, trang
trại nói riêng đang có nguy cơ tăng cao. Sự phát triển của các trang trại trồng trọt
ở Phù Ninh cũng đang gây tác động tiêu cực đến sự suy thoái đất nông nghiệp,
nhất là các trang trại trồng cây ngắn ngày ở vùng đồng bằng của huyện.
Do đặc điểm của nền sản xuất du canh nên khu vực đất trống, núi trọc
lớn do đó quá trình rửa trôi, xói mòn và thoái hóa đất diễn ra nhanh, đất có
phản ứng chua hơn (HKCL: 4,25 - 4,70); Cation kiềm trao đổi và dung tính
hấp thụ thấp (tương ứng là <5meq/100g đất và 16meq/100g đất, hàm lượng
hữu cơ tầng mặt đạt từ 1,89 - 3,2%; đạm tổng số trong đất tầng mặt đạt từ
trung bình đến khá (0,134 - 0,205%), xuống tầng dưới giảm nhanh; lân tổng
số dễ tiêu nghèo; kali tổng số dễ tiêu nghèo. đất nghèo Photpho, nghèo kali,
có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp.
- Do sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong canh tác nông
nghiệp nên hiệu quả phân bón thấp, có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali
và 80% lượng lân thừa trực tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm môi trường đất.
Các loại phân vô cơ thuộc nhóm chua sinh lí (NH4)2SO4, K2SO4, KCL,
super photphat còn tồn dư axit đã làm chua đất, nghèo kiệt cation kiềm và
xuất hiện nhiều độc tố trong môi trường đất như Al3+, Fe3+, Mn2+, giảm
hoạt tính sinh học của đất và năng suất cây trồng.
- Vấn đề ô nhiễm đất do thuốc bảo vệ thực vật ở Phù Ninhđang được
báo động. Năm 2014 khoảng 200 tấn, năm 2015 khoảng 250 tấn và năm 2016
khoảng 300 tấn. Hàng năm, lượng thuốc bảo vệ thực vật càng tăng và dư
lượng của nó ngày một lớn sẽ gây ô nhiễm nguồn đất ảnh hưởng xấu đến môi
trường và con người. Hiện tượng bao bì đựng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ
sâu, thuốc diệt cỏ không được thu gom và xử lí, vứt bừa bãi trên bờ ruộng gây
ô nhiễm đến môi trường đất, nước vùng sản xuất nông nghiệp. Theo dự báo
thì sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở Phù Ninh còn gia tăng theo tốc độ phát
triển nông nghiệp.
65
Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm của sản phẩm ở nhiều trang trại cũng
chưa được chú trọng. Hiện nay, nhiều nguyên liệu đầu vào của các trang trại
đã được kiểm tra về vệ sinh an toàn thực phẩm, còn các sản phẩm đầu ra chưa
được kiểm định chất lượng.
3.3. Khó khăn và hạn chế trong sản xuất kinh doanh trang trại
Bảng 3. 21. Những khó khăn của chủ trang trại
Loại hình trang trại
SXKD
Đơn vị
Chăn
Lâm
Trồng Tổng cây
Những khó khăn
tính
tổng
số
nuôi
nghiệp
hàng
hợp
năm
9
0
+ Do thiếu đất
ý kiến
26
8
9
35,9
Tỷ lệ trang trại thiếu đất
18,31 30,77 33,33
%
10
0
+ Thiếu vốn
ý kiến
28
10
7
37,41
Tỷ lệ trang trại thiếu vốn
19,72 35,92 26,67
%
21
0
+ Khó tiêu thụ sản phẩm
ý kiến
58
18
19
Tỷ lệ trang trại khó tiêu thụ sản
35,9
40,85 30,77 33,33
%
phẩm
4
0
+ Thiếu hiểu biết KHKT
ý kiến
18
6
8
Tỷ lệ trang trại thiếu hiểu biết
12,68 33,85 46,67
19,48
%
KHKT
3
0
+ Thiếu thông tin thị trường
ý kiến
12
5
4
Tỷ lệ trang trại thiếu thông tin thị
8,45 38,46 33,33
28,21
%
trường
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra của tác giả, 2017)
Theo kết quả phỏng vấn của tác giả năm 2017, các trang trại gặp một
số khó khăn như: (Bảng 3.22), cụ thể như sau:
-Về đất đai, do đất đai của các trang trại trồng trọt hàng năm diện tích
ít, khó thực hiện dồn điền đổi thửa để cơ khí hóa. Có những diện tích chưa
66
được cấp sổ đỏ. Có cả những hiện tượng chuyển đổi mục đích sang đất trang
trại nhưng chỉ là để đầu cơ đất.
-Về vốn, nhiều chủ trang trại đã tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng,
góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn. Tuy nhiên, cho đến nay, số lượng trang
trại ở huyện Phù Ninh được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi không nhiều;
mức vay ít, thời hạn vay vốn ngắn (6 tháng - 1 năm đáo hạn 1 lần). Theo
Nghị định số 41/2010/NĐ-CP, các chủ trang trại được vay tối đa 500 triệu
đồng để tiến hành sản xuất kinh doanh, nhưng hầu như không có trang trại nào
tiếp cận được với số lượng vốn như trên, chỉ có một số ít trang trại được hỗ
trợ vốn từ các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Theo kết quả phỏng vấn của tác giả năm 2017, hầu hết các chủ trang
trại đều có nhu cầu tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh, nhưng gặp khó
khăn khi đi vay vốn. Nguyên nhân chủ yếu là do thời gian vay vốn ngắn
(thường khoảng 1 năm) và khó tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi. Mặt khác,
số tiền vay được không nhiều (khoảng 50 triệu đồng) nên mở rộng sản xuất
gặp khó khăn.
- Về thị trường tiêu thụ: Phù Ninh nằm ở vùng trung du, miền núi.
Hàng năm huyện tham gia rất nhiều chương trình hội chợ, quảng bá sản phẩm
để quảng bá các sản phẩm nông nghiệp, nhờ đó một số sản phẩm nông nghiệp
sản xuất tại các trang trại đã có mặt trên thị trường trong và ngoài nước. Tỉnh
Phú Thọ và trung tâm khuyến công cũng đã khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến và tiêu
thụ hàng hóa cho các trang trại. Tuy nhiên, thị trường hàng hóa nông sản ở
Phù Ninh phát triển còn chậm, thị trường dịch vụ đầu vào phục vụ cho kinh tế
trang trại phát triển kém, mới bắt đầu được hình thành và chủ yếu là mang
tính tự phát. Sản phẩm đầu ra của các trang trại chủ yếu bán cho thương lái và
bán tại chợ địa phương. Trừ sản phẩm trồng cây hàng năm và cây nguyên liệu
giấy là các chủ trang trại hợp đồng với doanh nghiệp chế biến và tổng công ty
67
Giấy Việt Nam. Sản phẩm hoa quả, gia súc, thủy sản chủ yếu tiêu thụ qua
thương lái và tại chợ địa phương. Trong các loại sản phẩm của trang trại, sản
phẩm cây ăn quả và sản phẩm nuôi trồng thủy sản dễ tiêu thụ nhất. Các sản
phẩm cây lâu năm, cây hàng năm giá mua không ổn định và khó tiêu thụ nhất.
Nguyên nhân gây khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm của các trang trại chủ yếu
do giá tiêu dùng ở địa phương thấp, nhất là các chủ trang trại thiếu thông tin
về thị trường, nhiều trang trại chưa liên kết với doanh nghiệp nên chủ yếu tiêu
thụ qua thương lái, khối lượng sản phẩm ít. Thị trường ngoại tỉnh của sản
phẩm nông nghiệp các trang trại huyện Phù Ninh chưa được khai thác nhiều.
Trong những năm gần đây, hàng hóa nông sản thực phẩm xuất khẩu với số
lượng ít, hàng thô và chủ yếu là qua đường tiểu ngạch với các sản phẩm như
lạc, cao su, chè, cà phê, mía đường. Một số sản phẩm do chưa có cơ sở chế
biến hiện đại nên chưa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Hội nhập quốc tế cũng đặt các
hàng hóa nông sản của Phù ninh trước sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt
đối với hàng hóa nhập khẩu.
- Về trình độ chuyên môn, KHKT, năng lực quản lý của chủ trang trại
có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại.
Những chủ trang trại có trình độ chuyên môn, học vấn cao, có trình độ quản lý
tốt thì sẽ dễ dàng áp dụng các công nghệ tiến bộ vào sản xuất, dám đầu tư và
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, quản lý và sử dụng các nguồn lực vào
sản xuất một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.
Mối liên kết giữa các trang trại với nhau trên địa bàn hầu như không
đáng kể. Các trang trại chủ yếu trao đổi kinh nghiệm sản xuất, giống vật nuôi,
cây trồng còn liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm rất ít. Qua thực tiễn
phỏng vấn, điều tra, nhiều chủ trang trại muốn hợp tác sản xuất nhưng thiếu
kinh nghiệm quản lí nên việc hợp tác không thành công, thậm chí còn nảy
sinh mâu thuẫn trong chia sẻ quyền lợi và định hướng kinh doanh.
68
Mối liên kết giữa chủ trang trại - nhà quản lí - nhà doanh nghiệp - ngân
hàng - nhà khoa học không nhiều, chủ yếu có ở các trang trại nằm trong vùng
nguyên liệu giấy. Mối liên kết này có thể thấy rõ ở vùng nguyên giấy. Tổng
công ty Giấy Việt Nam tổ chức vùng nguyên liệu thành các hợp đồng theo
xóm hoặc theo đơn vị địa lí. Mỗi xóm có từ 1 - 2 hợp đồng và có 1 nhóm
trưởng đại diện kí hợp đồng. Năm 2016, số lượng hợp đồng của nhà máy là
508 hợp đồng với 17.500 hộ nông dân. Toàn bộ vùng nguyên liệu của doanh
nghiệp được chia thành 5 vùng, tại mỗi vùng có 1 văn phòng để quản lí điều
hành. Có 5 cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp (gồm 1 cán bộ bảo vệ thực vật
và 4 cán bộ khuyến nông) hỗ trợ kỹ thuật trồngcây nguyên liệu cho các hộ
dân. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có 36 giám sát viên phân đều tại các xã để
hướng dẫn nông dân và quản lí vùng nguyên liệu.
3.4. Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Phù Ninh
3.4.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại của Đảng và nhà nước
Nghị quyết 03 của đã khẳng định quyết tâm khuyến khích phát triển và
bảo hộ phát triển kinh tế trang trại. Nghị quyết đã đưa ra các định hướng về
các chính sách: chính sách đất đai; chính sách thuế; chính sách đầu tư tín
dụng; chính sách lao động; chính sách khoa học, công nghệ, môi trường;
chính sách thị trường, chính sách bảo hộ các tài sản đã đầu tư của chủ trang
trại. Để nghị quyết này đi vào thực tiễn cần có các thông tư cụ thể của các bộ
hướng dẫn việc thực hiện.
Thông tư 82 ngày 18.02.2000 của bộ tài chính: hướng dẫn chính sách
tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại bao gồm: hướng dẫn ưu đãi về đất;
hướng dẫn ưu đãi về vốn đầu tư; hướng dẫn chính sách huy động vốn để phát
triển kinh tế trang trại.
Các cam kết WTO phải thực hiện đối với nông nghiệp: trích trên
VietNamNet “ Tóm tắt cam kết gia nhập WTO của Việt Nam”
69
Đối với đa số các mặt hàng nông nghiệp và phi nông nghiệp, Việt Nam
cam kết mức thuế "trần" dao động từ 0 - 35%. Quá trình cắt giảm một số loại
thuế sẽ diễn ra từ khi gia nhập đến năm 2014, ngày kết thúc chính xác thay
đổi tùy theo từng loại sản phẩm. Nhiều sản phẩm sẽ được bảo hộ nhờ chế độ
hạn ngạch thuế quan: đó là trứng, thuốc lá, đường và muối. Nhưng sau một
thời gian đã thỏa thuận, những hạn ngạch này sẽ phải được mở rộng.
Trong nông nghiệp, Việt Nam cam kết không trợ giá xuất khẩu, nhưng
được phép hỗ trợ nông dân đối với các mặt hàng nông sản cho tiêu dùng trong
nước. Theo ông Samuels, cựu đại sứ Mỹ tại WTO, Việt Nam vẫn có thể áp
dụng những biện pháp hỗ trợ khác mà luật của WTO không cấm để hỗ trợ
nông dân, trong đó đặc biệt các chính sách về khuyến nông, đầu tư khoa học
kỹ thuật để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp
Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất
khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền
được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển
trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn
chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức
này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng
mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ
phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế
3.4.2. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVIII ngày 29
tháng 9 năm 2015 đã định hướng phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
đến năm 2020: “Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá, đảm bảo lương thực, tăng nông sản hàng hoá. Khai thác có hiệu quả các
tiềm năng, thế mạnh về đất đai, nguồn lực. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp
với vùng, miền. Tăng cường các biện pháp ứng dụng hoa học, công nghệ mới
70
để nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị diện tích. Mở rộng phát triển mô hình
kinh tế trang trại và trồng rừng kinh tế…”.
Phát triển và mở rộng mô hình kinh tế trang trại, kinh tế đồi rừng nhằm
khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh về đất đai, nguồn lực, góp phần
giải quyết việc làm, tăng thu nhập, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp
với từng vùng; lấy trang trại cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, lâm nghiệp
làm đột phá về hiệu quả kinh tế. Tích cực ứng dụng khoa học, công nghệ mới
để nâng cao giá trị kinh tế trên đơn vị diện tích.
Định hướng đến 2020: xác định kinh tế trang trại và kinh tế đồi rừng là
hình thức kinh tế chủ yếu để khai thác tốt nhất những lợi thế trong nông
nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế; nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các loại hình trang trại với
phương châm: chất lượng, hiệu quả và phát triển bền vững; coi trọng bảo vệ
môi sinh, môi trường.
Định hướng cơ bản phát triển kinh tế trang trại
* Đối với nông nghiệp, vừa chú trọng đầu tư thâm canh, chuyên môn
hoá vừa kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm đảm bảo tính bền vững trong sản
xuất kinh doanh.
Về sản xuất lương thực, trọng tâm là lúa nước và ngô lai trên cơ sở
thâm canh giống mới có năng suất cao.
Về cây công nghiệp ngắn ngày phát triển mạnh sắn, đậu tương, đỗ xanh
và đỗ đen, lạc và mía v.v. trên cơ sở sử dụng giống mới vầ sản xuất theo dây
chuyền công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao năng suất, chất lượng.
Trồng thâm canh, tạo vành đai thực phẩm đối với các loại rau đậu theo
hướng sạch; trồng hoa thương phẩm các loại phục vụ cho nhu cầu thị trường.
Cây công nghiệp: Tập trung phát triển cây chè là cây trọng điểm. Về
cây ăn quả, tập trung phát triển tính tới nhu cầu thị trường các loại cây như
71
nhãn, vải thiều, mận, cam quýt, hồng không hạt v.v... trên cơ sở chất lượng
giống tốt và gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm.
* Đối với chăn nuôi: Tập trung phát triển nuôi trâu bò thịt, dê, lợn nạc,
rắn, ba ba, gia cầm theo hướng bán công nghiệp, công nghiệp. Trước mắt áp
dụng mô hình chăn nuôi bán công nghiệp để phát triển đàn gia súc và gia cầm
ở vùng bằng và trên vùng đồi.
Tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch và đặc biệt chú trọng
chất lượng con giống. Phát triển mạnh chăn nuôi trên cơ sở thúc đẩy việc chế
biến thức ăn gia súc và nhu cầu thị trường.
* Vừa chú trọng trồng rừng sản xuất vừa kết hợp với trồng rừng
phòng hộ để bảo vệ môi trường sinh thái, Tăng cường trồng rừng nguyên liệu
để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy Tổng công ty Giấy và các nhà máy
khác, chú trọng các loài cây mọc nhanh, loại gỗ sản phẩm đáp ứng thị hiếu
của người tiêu dùng.
Chú trọng phát triển trang trại theo hướng SXKD tổng hợp gắn với đồi
rừng là thế mạnh của địa phương. Gắn phát triển trang trại với kinh doanh
dịch vụ như du lịch sinh thái, tham quan học tập... gắn sản xuất với tiêu dùng
trong địa phương, gắn sản xuất với môi trường nhằm gia tăng tổng năng suất
đầu ra (TFP).
* Đẩy mạnh ứng dụng khoa công nghệ ở các trang trại làm tác nhân
quan trọng để phát triển công nghệ sau thu hoạch: Thu hoạch, sơ chế, bảo
quản, chế biến và thị trường (marketting) - Nâng cao giá trị kinh tế của nông
sản phẩm hàng hoá.
* Bảo vệ môi trường sinh thái kết hợp với du lịch và dịch vụ. Phát
triển ngành nghề dịch vụ, gắn với du lịch sinh thái ở những trang trại gắn với
làng nghề truyền thống, gắn với địa danh về tài nguyên du lịch tự nhiên; các
khu vực du lịch lịch sử - văn hoá, lễ hội sẽ tạo ra sức hút du khách và mang
lại nguồn thu nhập ổn định.
72
3.4.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại
Số liệu thống kê cho thấy trong các nguyên nhân gây khó khăn khi đầu
tư máy móc thiết bị là khó áp dụng với tình trạng đất manh mún, giá đầu tư
theo công nghệ mới như Nhà xưởng tiêu chuẩn là giá thành cao. Khó khăn
thứ 2 là vốn đầu tư. Về mở rộng đất thống kê cho thấy nguyên nhân chính là
do thiếu vốn, đất giá cao đất không liền thửa, và thứ 3 là lo sợ không quản lý
nổi khi quy mô lớn lên và chính sách hạn điền.Về việc áp dụng kỹ thuật mới
và giống mới thống kê cho thấy nguyên nhân chính là nông dân không nắm
chắc kỹ thuật, sau mới đến vốn và các yếu tố khác.
Số liệu thống kê cũng cho thấy khi được hỏi về đề nghị hỗ trợ thì đề
nghị hỗ trợ đào tạo về khoa học kỹ thuật là cao nhất kế đến là đề nghị hỗ trợ
về vay vốn.
Như vậy vấn đề là làm sao để khắc phục các nguyên nhân gây cản trở
trên để thúc đẩy 3 yếu tố diện tích đất, giá trị tài sản cố định và sinh học từ đó
thúc đẩy năng suất lao động và hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Giải pháp về đất đai
Qua khảo sát thì một trong những nguyên nhân chính cản trở mở rộng
đất là chính sách hạn điền, chính phủ cần bãi bỏ hạn điền hoặc ít nhất là
không thu thuế phần đất vượt hạn điền để khuyến khích đầu tư mở rộng đất.
- Đánh thuế cao đất đai chuyển nhượng mục đích phi nông nghiệp để
chống đầu cơ tăng giá đất. Tích cực kiểm tra, thu hồi những diện tích đất
không được canh tác thời gian dài. Có chính sách khuyến khích khai hoang
như cấp sổ đỏ cho cả diện tích khai hoang phục hoá nếu doanh thu nông
nghiệp trên đất khai hoang đạt một mức nào đó trở lên.
- Đẩy mạnh việc cấp sổ đỏ trên địa bàn tỉnh, vừa để nông dân có thể thế
chấp vay tiền ngân hàng vừa giải quyết được chuyện vay vốn để mở rộng quy
mô đất, vừa để người muốn đầu tư mở rộng đất yên tâm không lo sợ rủi ro.
- Tài trợ đào tạo kiến thức quản lý nông nghiệp cho các chủ trang trại.
Để chủ trang trại có thể yên tâm khi mở rộng quy mô đất không sợ quản lý
không nổi.
73
- Nâng mức tiêu chuẩn diện tích đất để được công nhận trang trại cao
hơn nữa cho phù hợp điều kiện tỉnh và thực thi những chính sách ưu đãi thực
sự cho những trang trại được cấp giấy, như vậy sẽ khuyến khích nông dân
nghĩ đến việc mở rộng đất.
Giải pháp về khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Việc đầu tiên là cần chú trọng công tác thông tin KH&CN cho các
chủ trang trại. Hiện nay ngành nông nghiệp chỉ hoạt động khuyến nông chung
cho nông dân cả nghèo lẫn giàu. Đã đến lúc cần tập trung công tác khuyến
nông riêng đối với các hộ nông dân - trang trại sản xuất hàng hóa là lực lượng
xung kích, đi đầu trong ứng dụng tiến bộ KH&CN, tổ chức các câu lạc bộ
khuyến nông cho các chủ trang trại theo ngành sản xuất, như các trang trại
sản xuất lúa hàng hóa, sản xuất chè, cây ăn quả, nuôi gà, vịt, nuôi lợn, nuôi
trâu bò, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng với qui mô vừa và lớn, khối lượng
hàng hóa nhiều ở từng địa phương, đi vào từng chuyên đề thiết thực. Cần chú
trọng và tiếp tục đầu tư thoả đáng cho công tác khuyến nông, khuyến ngư,
khuyến lâm, khuyến công để chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ cho
trang trại, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có phẩm chất tốt, sản phẩm chất
lượng cao vào sản xuất; áp dụng công nghệ mới trong công nghiệp chế biến,
bảo quản sản phẩm nông nghiệp; rút kinh nghiệm và nhân rộng các điển hình
thành công ra nhiều trang trại khác. Phổ biến cho các trang trại biết có thể bố
trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái từng vùng
và phù hợp với quy hoạch các vùng chuyên canh ở địa phương, đặc biệt đối
với các loại cây trồng dài ngày để giúp các trang trại lựa chọn phương hướng
sản xuất phù hợp. Khuyến khích lập hợp tác xã liên kết tự nguyện giữa các
trang trại cùng loại hình cây trồng, như vậy có thể tập hợp nguồn lực vốn, dễ
đầu tư máy móc tốt và tận dụng hết công suất hiệu quả của máy.
Giải pháp về đầu tư và vốn
- Các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc vay vốn đối với
phát triển kinh tế trang trại. Các tổ chức chính trị xã hội (Hội Nông dân, Hội
74
Phụ nữ…) bố trí một phần kinh phí từ các nguồn vốn cho vay để phát triển
theo mô hình trang trại. Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, điện, thuỷ lợi… ở
các vùng quy hoạch kinh tế trang trại, chế biến sản phẩm nông nghiệp, để
khuyến khích các hộ gia đình, cá nhân phát triển trang trại sản xuất nông -
lâm - ngư nghiệp.
Các trang trại được miễn, giảm tiền thuê đất theo quy định của pháp
luật về đất đai khi thuê đất trống đồi núi trọc, đất hoang hoá để trồng rừng,
trồng cây lâu năm và khi thuê diện tích các vùng nước tự nhiên chưa có đầu
tư cải tạo vào mục đích nuôi trồng thuỷ sản.
Giải pháp về lao động và nguồn nhân lực
Nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh và trình độ khoa học kỹ
thuật của chủ trang trại, hộ gia đình, cá nhân cụ thể: Huyện Phù Ninh thường
xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về quản lý, quy trình và cách thức làm giàu
từ kinh tế trang trại không chỉ cho các chủ trại mà còn cho cả những người có
nguyện vọng và có khả năng trở thành chủ trại vơi các nội dung: những vấn
đề của kinh tế trang trại, xu hướng phát triển trang trại; các chủ trương, đường
lối, chính sách về phát triển kinh tế trang trại; đặc biệt là các kiến thức về tổ
chức và quản trị kinh doanh trong các trang trại như xác định phương hướng
kinh doanh, tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
- Tổ chức các lớp chuyển giao kỹ thuật và công nghệ mới cho các chủ
trại, hỗ trợ các chủ trang trại và lao động trang trại trong việc triển khai ứng
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Dùng ngân sách nhà nước tài trợ nghiên cứu giống mới và không chỉ
tài trợ cho các viện trường của nhà nước mà cả các cơ sở tư nhân đã có thành
tích tốt. Các giống đã nghiên cứu thành công và đã trải nghiệm trên thực tế
phải được chuyển giao đến người nông dân thông qua hệ thống khuyến nông,
được quảng cáo không tốn phí trên truyền hình vào những giờ nhiều người
xem để quảng bá đến nông dân.
75
-Trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ nông nghiệp tỉnh phải được
tài trợ để nghiên cứu lượng phân bón và thuốc tối ưu cho từng loại giống cây
trồng, tương ứng với từng loại đất. In tài liệu hướng dẫn sử dụng phân bón
thuốc trừ sâu cụ thể, rõ ràng chi tiết cho từng loại cây trồng, từng loại giống
chủ lực trên địa bàn tỉnh, huyện, kinh phí in ấn do kinh phí nhà nước cấp.
- Tổ chức đánh giá giống tốt như bình chọn hàng Việt Nam chất lượng
cao rồi phổ biến thông tin cho nhân dân.
- Cụ thể hoá việc hướng dẫn đào tạo kỹ thuật, việc đào tạo phải cầm tay
chỉ việc, phải tiến hành thực nghiệm ngay trên đất trồng, máy móc thực hành.
Giải pháp về thị trường tiêu thụ
Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng trong phát triển kinh tế trang trại,
với các hộ trang trại thì đây là vấn đề họ gặp khó khăn.
Chính vì thế, giải pháp cho công tác này là: Tổ chức dự báo thị trường,
mở rộng hình thức thông tin kinh tế. Khuyến khích thành lập hợp tác xã, tổ
hợp dịch vụ chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm. Mở rộng và phát triển hệ thống
tiêu thụ sản phẩm, trong đó chú trọng khâu bảo quản nhằm hạn chế tổn thất
sau thu hoạch. Thiết lập hệ thống thông tin thị trường thông qua hệ thống
phòng văn hoá từ tỉnh, huyện xuống xã để kịp thời phát thanh về thông tin thị
trường Việt Nam cũng như thế giới cho bà con nông dân nắm, không bị ép giá
và định hướng sản xuất tốt.
Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài huyện đầu tư để phát triển dịch vụ đầu vào, đầu ra cho nông
sản. Nhà nước cùng các tổ chức kinh tế có các biện pháp thu mua, chế biến,
dự trữ, điều hoà cung cầu để giữ giá ổn định một số mặt hàng thiết yếu nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà kinh doanh và người tiêu dùng.
Thực hiện quản lý nhà nước đối với đầu ra, chất lượng sản phẩm nhằm
đảm bảo lợi ích chung của Nhà nước, quyền lợi của người tiêu dùng và môi
trường sinh thái. - Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế
76
trang trại, đảm bảo các chủ trang trại thực hiện đầy đủ qui trình kỹ thuật canh
tác bảo vệ và làm giàu đất, bảo vệ môi trường; thực hiện các nghĩa vụ đối với
Nhà nước theo pháp luật. Đồng thời, bảo vệ quyền lợi chính đáng của chủ
trang trại về tài sản và các lợi ích khác.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm dịch giống, thực hiện quy trình sản
xuất, du nhập giống chất lượng cao và sạch bệnh. Đa dạng hoá các loại giống
cây trồng, vật nuôi. Đưa các đối tượng nuôi, trồng đã thử nghiệm có hiệu quả
vào sản xuất để đa dạng hoá các đối tượng nuôi, trồng.
Hình thành, phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại
Hình thành và phát triển quan hệ hợp tác giữa các trang trại nhằm trao
đổi kinh nghiệm, trình độ quản lý, trao đổi sản phẩm, dịch vụ để nâng cao
hiệu quả kinh tế. Khuyến khích thành lập các câu lạc bộ, tổ hợp tác theo từng
loại hình trang trại để liên doanh, liên kết trong sản xuất kinh doanh, tạo sức
cạnh tranh và sự ổn định trong tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, hạn chế tình
trạng ép giá của các tư thương và rủi ro trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng
mối quan hệ giữa các tổ hợp tác, chủ trang trại với các hộ dân để các chủ
trang trại, tổ hợp tác là đầu mối thu mua, tiêu thụ sản phẩm nông sản.
Tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp với trang trại theo từng lĩnh vực.
77
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh trong những năm đổi mới đã phát
triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, qui mô và hiệu quả kinh tế - xã hội,
đến năm 2016 có 152 trang trại. Bình quân cho mỗi loại hình trang trại, thì
trang trại có diện tích bình quân cao nhất là trang trại lâm nghiệp 40 ha, SXKD
tổng hợp 16,6 ha/trang trại, thấp hơn của tỉnh (BQ loại hình này của tỉnh 17,1
ha); trang trại chăn nuôi có diện tích bình quân thấp nhất 3,2 ha và với mỗi loại
hình thì có sự khác nhau về diện tích. Tính đến hết năm 2016, bình quân 1
trang trại đầu tư 538,1 triệu đồng, phần lớn vốn của trang trại đầu tư vào tài
sản phục vụ sản xuất kinh doanh. Các sản phẩm của trang trại trồng cây,
huyện Phù Ninh chủ yếu là tiêu thụ tại địa bàn thông qua tư thương thu
mua tại nhà, tại các chợ địa phương. Chỉ có trang trại lâm nghiệp bán
65.2% sản phẩm cho Tổng công ty Giấy Việt Nam. Giá trị sản xuất bình
quân một trang trại năm 2016 đạt 501,5 triệu đồng, cao nhất là mô hình trang trại
SXKD tổng hợp đạt 744,16 triệu đồng; trang trại chăn nuôi đạt 668 triệu đồng.
Những khó khăn chính là vốn, về đất đai, về trình độ chuyên môn, năng
lực quản lý của chủ trang và về thị truòng tiêu thụ
Với mục tiêu của huyện Phù Ninh là phát triển và mở rộng mô hình
kinh tế trang trại, kinh tế đồi rừng nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm năng,
thế mạnh về đất đai, nguồn lực, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập,
thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp;
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng; lấy trang trại
cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc, lâm nghiệp làm đột phá về hiệu quả kinh
tế đến năm 2020.
Các giải pháp chính để thúc đẩy năng suất lao động và hiệu quả sản
xuất tại các trang trại là Tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện
tiếp cận các loại vốn ưu đãi cho phát triển trang trại, tăng cường công tác tâp
78
huấn nâng cao trình độ và khả năng tiếp nhận khoa học kỹ thuật cũng như
quản trị cho chủ trang trại, nâng mức tiêu chuẩn diện tích đất để được công
nhận trang trại cao hơn nữa cho phù hợp điều kiện thực thi những chính sách
ưu đãi thực sự cho phát triển trang trại.
2. KIẾN NGHỊ
Cần có các nghiên cứu dự báo thị trường cho một số sản phẩm chính
được sản xuất ra từ các trang trại tại huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Chính quyền địa phương nên có các hoạt động nâng cao nhận thức cho
các chủ trang trại về phát triển kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá với qui
mô lớn, để từ đó có những kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp với khả
năng của trang trại mình xem có phù hợp với nhu cầu của thị trường cũng như
đúng với quy hoạch của địa phương..
Chủ trang trại phải mạnh dạn, năng động, sáng tạo, không ngừng đổi
mới, vượt qua những khó khăn, chịu khó học hỏi kinh nghiệm và các kiến
thức khoa học kỹ thuật để ứng dụng vào sản xuất kinh doanh, đặc biệt là phải
có khả năng và ý chí làm giàu hơn những người khác trong những điều kiện
cho phép. Để làm được điều này các chủ trang trại, người lao động cần tự
phổ cập trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật thông qua việc chủ động
tham gia các khóa đào tạo do huyện tổ chức, tự học lẫn nhau, tăng cường học
hỏi kinh nghiệm sản xuất qua bạn bè, hàng xóm, chủ động tìm hiểu tham quan
các mô hình trang trại tiên tiến điển hình trong và ngoài huyện... Bên cạnh đó,
cần phải ý thức gìn giữ môi trường sinh thái trong sạch để hướng tới một nền
nông nghiệp sản xuất nông sản sạch, an toàn.
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Lao động thương binh và xã hội (2000), Thông tư hướng dẫn áp dụng
một số chế độ làm việc trong các trang trại, Hà Nội.
2. Các Mác - Tư bản, Quyển 3 tập 1, NXB Sự thật Hà nội 1960. 3. Chi cục Thống kê huyện Phù Ninh (2016), Niên giám thống kê huyện Phù Ninh. 4. Nguyễn Điền, Trần Đức, Trần Huy Năng (20133), Kinh tế Trang trại gia
đình trên thế giới và châu Á, NXB Thống kê.
5. Trần Đức, Kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2008. 6. Nguyễn Đình Hà, Nguyễn Khánh Quắc (1999), Kinh tế nông nghiệp gia
đình nông trại, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
7. Hoàng Văn Hoa, Hoàng Thị Quý, Phạm Huy Vinh (1999), Quá trình phát
triển kinh nghiệm trang trại ở Việt nam và một số nước trên thế giới - Bài
học kinh nghiệm; Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam, Trường đại học
KTQD, Hà Nội.
8. Kinh tế trang trại gia đình trên thế giới và châu Á, NXB thống kê 1993 9. Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT - Tổng cục Thống kê (2003), Thông tư liên
tịch hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại, Hà Nội.
10. Mác - Ăng ghen toàn tập, bản tiếng Nga - tập 25 phần II, Matxcơva 1961. 11. Lê Trọng (2000), Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị trường,
NXB Nông nghiệp Hà Nội.
12. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang tại trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2000 13. Nguyễn Thành Nam (2008), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
triển hệ thống trang trại ở huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc
sĩ kinh tế, Thái Nguyên.
14. Nguyễn Văn Tuấn (2000), Quản lý trang trại trong nền kinh tế thị trường,
NXB Nông nghiệp, Hà nội.
80
15. Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ (2010), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội
tỉnh Phú Thọ đến năm 2020, Phú Thọ.
16. Viện Kinh tế (2012), Kinh tế hộ trong nông thôn Việt nam, NXB khoa học
xã hội, Hà Nội.
17. Ngô Bằng Việt (2001), Đánh gía hiệu quả kinh tế của một số mô hình
trang trại điển hình ở huyện miền núi Đoan Hùng, Phú Thọ, Luận văn cử
nhân kinh tế, Thái Nguyên.
18. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 28.8.2016. Chính sách khuyến
khích phát triển kinh tế trang trại.
19. http://enternews.vn/nang-suat-lao-dong-cua-viet-nam-dang-tut-hau-trong-
khu-vuc-98079.html
PHỤ LỤC 1
PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ NÔNG DÂN
- Tỉnh, thành phố: ...........................................................................................
- Huyện, quận, thị xã: .....................................................................................
- Xã, phường, thị trấn: ....................................................................................
- Thôn, ấp bản:................................................................................................
- Họ tên chủ hộ: ..............................................................................................
- Năm sinh: .....................................................................................................
- Giới tính chủ hộ: Nam = 1 Nữ = 2
- Dân tộc chủ hộ:..............................Trình độ văn hoá chủ hộ:......................
A. PHẦN THÔNG TIN CHUNG 1. Lao động tham gia sản xuất trong trang trại
Trình độ lao động
Thu nhập Không Năm Giới Trung bình có sinh tính Chỉ tiêu Khác cấp, sơ quân/người trình cấp nghề độ
1. Tổng số lđ
thường xuyên 1.1. LĐ trong gia
đình 1.2. Lao động thuê
mướn 2. LĐ thuê mướn
thời điểm cao nhất 3
năm qua
2. Diện tích đất trang trại đang sử dụng của hộ năm 2016
Trong đó Tổng Chỉ tiêu Đất của trang Đất thuê, mướn, số trại mượn, thầu
1. Đất trồng cây lâu năm 2. Đất lâm nghiệp 3. Đất nuôi trồng thủy sản 4. Đất nông nghiệp khác
3. Máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh của trang trại
STT Tên loại Công suất
1
2
3
4
5
4. Chi phí sản xuất bình quân năm 2016 của trang trại
Trang trại
Trang trại
Trang trại
Trang trại
Chi phí
trồng cây lâu
nuôi trồng
lâm nghiệp
tổng hợp
năm
thủy sản
Chi phí con giống,
cây giống
Chi phí nhân công
Chi phí thuốc trừ sâu
Chi phí phân bón
Chi phí xử lý chất thải
Chi phí thu hoạch,
tiêu thụ
5. Kết quả sản xuất của trang trại a. Trồng trọt
Diện tích Sản lượng (kg) Giá trị
thu Loại cây Tr đó: Tr đó: Tổng số Tổng số
hoạch bán ra bán ra
1. Vải 2. Nhãn 3. Bưởi 4. Chuối 5. Chè búp 6. Cây lâu năm khác
b. Chăn nuôi - Số lượng vật nuôi:
Loại vật nuôi Tổng số
Lợn Gà Ngan Vịt Chim cút Vật nuôi khác
- Thu từ chăn nuôi:
Loại cây Tổng số Tổng số Giá trị (triệu đồng) Tr đó: bán ra Sản lượng (kg) Tr đó: bán ra Số con xuất chuồng
1. Sản phẩm bán trực tiếp 2. Bán con giống 3. Dịch vụ chăn nuôi
c. Lâm nghiệp:
Sản lượng/diện tích Giá trị (triệu đồng)
Loại cây Tr đó: bán Tr đó: Tổng Tổng số
ra bán ra số
1. Trồng rừng - Ươm giống cây lâm nghiệp - Trồng rừng - Chăm sóc rừng trồng 2. Khai thác gỗ, lâm sản - Gỗ (m3) - Củi (tấn) 3. Dịch vụ lâm nghiệp
d. Thủy sản - Diện tích nuôi trồng:
Tên loại Hình thức nuôi Tổng diện tích Tr đó: nuôi
nuôi thâm canh, bán (hồ, đồng, lồng
bè,…) thâm canh
1. Cá 2. Tôm 3. Thủy sản khác 4. Giống thủy sản
- Thu từ thủy sản:
Sản lượng (kg) Giá trị (triệu đồng)
Tr đó: bán Tr đó: Tổng Tổng số
ra bán ra số
Tổng thu từ thủy sản 1. Nuôi trồng thủy sản - Cá - Tôm - Thủy sản khác 2. Giống thủy sản
Tình hình sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, chất hóa học khác
Trang Trang Trang Tran Tên loại
thuốc sử dụng trại trồng trại lâm trại nuôi g trại tổng
cây lâu năm nghiệp trồng thủy hợp
sản
B. MỘT SỐ THÔNG TIN KHÁC 1. Những khó khăn chủ yếu của ông (bà) hiện nay là gì 1.1. Thiếu đất 1.2. Thiếu vốn 1.3. Khó tiêu thụ sản phẩm 1.4. Thiếu hiểu biết khoa học kỹ thuật 1.5. Thiếu thông tin về thị trường 2. Nguyện vọng của ông (bà) về các chính sách của nhà nước 2.1. Được hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm 2.2. Được vay vốn của ngân hàng
Lượng vốn cần vay: ……………………..
2.3. Được hỗ trợ con giống, cây giống 2.4. Được hỗ trợ đào tạo kiến thức quản lý, khoa học kỹ thuật 3. Các kiến nghị khác:
............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
Ngày….. tháng….. năm 2016 ĐIỀU TRA VIÊN
(Ký, ghi rõ họ tên) CHỦ HỘ
(Ký, ghi rõ họ tên)