BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------
QUÁCH PHƯỚC HẢI
ĐÓNG GÓP CỦA PHÁT TRIỂN
TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
VÀO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Tp Hồ Chí Minh, tháng 05/2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-----------
QUÁCH PHƯỚC HẢI
ĐÓNG GÓP CỦA PHÁT TRIỂN
TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
VÀO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ PHÁT TRIỂN
MÃ SỐ: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀNG BẢO
Tp Hồ Chí Minh, tháng 06/2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn được sử dụng từ các nguồn xác thực.
Kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nghiên cứu nào khác.
Học viên cao học
Quách Phước Hải
.
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình vẽ và đồ thị
Danh mục chữ viết tắt
Tóm tắt
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU ...................................................... 1
1.1 Vấn đề nghiên cứu ........................................................................................ 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 2
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ...................................................................................... 2
1.4 Dữ liệu và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 3
1.5 Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 3
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ
QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ . 4
2.1 Cơ sở lý thuyết ............................................................................................. 4
2.1.1 Tổng hợp các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế .................................. 4
2.1.2 Trung gian tài chính – tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế ......... 5
2.1.3 Các chỉ số đo lường phát triển tài chính................................................ 7
2.1.4 Các thước đo phát triển kinh tế, nguồn lực phát triển kinh tế ............... 8
2.2 Các nghiên cứu trước đây về mối liên hệ giữa phát triển trung gian tài
chính và tăng trưởng kinh tế............................................................................... 9
2.2.1 Quan điểm phát triển trung gian tài chính không đóng vai trò quan
trọng trong tăng trưởng kinh tế .................................................................... 10
2.2.2 Quan điểm phát triển trung gian tài chính tác động tích cực đến sản
lượng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ............................................. 11
2.2.3 Quan điểm phát triển trung gian tài chính chỉ tác động đến sản lượng
trong dài hạn nhưng không đóng góp vào tăng trưởng trong ngắn hạn ....... 13
2.2.4 Quan điểm phát triển trung gian tài chính chỉ tác động đến sản lượng
khi phát triển tài chính đạt dến một mức độ phát triển nhất định ................ 17
2.2.5 Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả trên thế giới về mối
quan hệ phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. ..................................... 17
2.3 Thực trạng phát triển tài chính và các nghiên cứu về mối liên hệ giữa trung
gian tài chính và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam .......................................... 20
2.4 Khung phân tích ......................................................................................... 21
2.5 Tổng kết chương 2 ..................................................................................... 22
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............................................. 23
3.1. Mô hình nghiên cứu đề nghị ..................................................................... 23
3.2. Tóm tắt các biến trong mô hình ................................................................ 27
3.2. Giả thiết nghiên cứu .................................................................................. 29
3.3 Thu thập dữ liệu ......................................................................................... 30
3.4 Phương pháp phân tích dữ liệu ................................................................... 32
3.5 Tổng kết chương ........................................................................................ 32
CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU .............................................................. 33
4.1 Thống kê mô tả ........................................................................................... 33
4.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính .................... 36
4.3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận ................................................................ 38
4.3.1 Kết quả kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình ...................... 38
4.3.2 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi và đa cộng tuyến .......................... 40
4.3.3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận ............................................................ 45
4.4 Tổng kết chương ........................................................................................ 50
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ....................................... 51
5.1 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 51
5.2 Khám phá chính ......................................................................................... 51
5.3 Hạn chế của đề tài ...................................................................................... 53
5.4 Gợi ý chính sách ......................................................................................... 54
5.5 Hướng nghiên cứu mở rộng ....................................................................... 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Tên bảng trang
Bảng 3.1 So sánh các mô hình nghiên cứu 26
Bảng 3.2 Tóm tắt các biến trong mô hình 27
Bảng 3.3 Tổng hợp số liệu mô hình từ 1995 – 2012 31
Bảng 4.1 Thống kê mô tả 35
Bảng 4.2 Kết quả kiểm định tính dừng 38
Bảng 4.3 Kết quả kiểm định sai phân bậc 1 39
Bảng 4.4 Kết quả kiểm định sai phân bậc 2 40
Bảng 4.5 Hệ số tương quan cặp 42
Bảng 4.6 Kết quả kiểm định Durbin – Watson 44
Bảng 4.7 Kết quả kiểm định Breush – Godfrey 44
Bảng 4.8 Kết quả nghiên cứu: hệ số hồi quy của mô hình 4.1 và 4.2 46
Bảng 4.9 Kết quả nghiên cứu: hệ số hồi quy của mô hình 4.3 và 4.4 47
Bảng 4.10 Kết quả phân tích nhân tố phóng đại phương sai VIF
DANH MỤC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ
STT Tên hình vẽ trang
Hình 2.1 Vai trò của trung gian tài chính 5
Hình 2.2 Vai trò của hệ thống tài chính 6
Hình 2.3 Khung phân tích 22
Hình 4.1 Tương quan phát triển tài chính – tăng trưởng kinh tế 33
Hình 4.2 Các chỉ số tăng trưởng, tỷ lệ tín dụng và tỷ lệ tiền tệ mở 34
rộng trong GDP giai đoạn 1995 - 2012
Hình 4.3 Tương quan giữa thu nhập (GDP) và các chỉ số phát 37
triển tài chính
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
M2: tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn.. tại các tổ chức tín dụng.
GDP: Gross Domestic Product, tổng sản phẩm quốc nội
TÓM TẮT
Tính tới thời điểm hiện tại, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao
gồm 39 ngân hàng thương mại cổ phần trong nước và 10 ngân hàng nước ngoài
và liên doanh nước ngoài. Cùng với sự gia tăng về số lượng ngân hàng và vốn
điều lệ, hệ thống ngân hàng cũng bộc lộ những điểm yếu phát sinh trong quá
trình hoạt động. Báo cáo này nhằm đánh giá những đóng góp của hệ thống ngân
hàng tới tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Sử dụng thước đo là độ sâu tài chính
(financial deepening), thông qua hai biến số là tỷ lệ tín dụng cấp cho khu vực tư
nhân và tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng trên GDP, báo cáo đánh giá sự hiệu quả trong
hoạt động hệ thống ngân hàng và những đóng góp của hệ thống này đến tăng
trưởng GDP.
Trong bối cảnh các giới khoa học chưa đồng thuận về đóng góp của phát
triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế, nghiên cứu này trả lời câu hỏi rằng, trong
trường hợp của Việt Nam, phát triển tài chính có thực sự đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế hay không. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu về các chỉ số tăng
trưởng kinh tế và tài chính của Việt Nam trong giai đoạn 1995 – 2012 và mô
hình tăng trưởng với nhiều yếu tố khác nhau để phân tích tác động của phát triển
tài chính đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Kết quả của nghiên cứu cho thấy, đối với cả hai thước đo nói trên, với
mức ý nghĩa là 15% và 5%, phát triển tài chính ảnh hưởng tích cực đến tăng
trưởng kinh tế trong trường hợp của Việt Nam tuy tác động chưa đáng kể. Chính
sách được đề xuất, nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bởi luận văn này
là chính sách hỗ trợ phát triển hệ thống tài chính, chẳng hạn như hệ thống trung
gian tài chính, bao gồm các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính phi ngân
hàng.
1
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1.1 Vấn đề nghiên cứu
Các trung gian tài chính, hay đại diện là các ngân hàng đóng vai trò quan
trọng trong hoạt động của nền kinh tế và được xem như là kênh cung cấp vốn
cho nền kinh tế. Quy mô hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam bùng nổ
từ 4 ngân hàng năm 1990 tới gần 40 ngân hàng như hiện nay, dư nợ của hệ thống
các ngân hàng thương mại cổ phần so với GDP đạt 28.85% vào năm 2008 (Ngân
hàng nhà nước, 2010), chiếm gần bằng 1/3 GDP cả nước, điều này cho thấy vai
trò quan trọng của hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng như hoạt động cung
cấp vốn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng GDP tại Việt Nam đã giảm
xuống còn 5% từ năm 2010 so với mức tăng trưởng xấp xỉ 7% như giai đoạn
trước.
Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động, các ngân hàng cũng bộc lộ một số
điểm yếu như xuất hiện nợ xấu, khả năng thanh khoản kém dẫn đến chính phủ
phải đề ra phương án sáp nhập các ngân hàng để ổn định nền kinh tế. Cũng như
việc xuất hiện của công ty quản lý nợ Việt Nam (VAMC) để giải quyết các
khoản nợ phát sinh từ việc cấp tín dụng của ngân hàng. Chúng ta có thể thấy rằng
thông qua biểu hiện bên ngoài quá trình hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng
tại Việt Nam có những bất ổn từ đó ảnh hưởng đến chức năng chính là thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Các nghiên cứu khoa học chỉ ra những bằng chứng cho những quan điểm
trái ngược nhau về tác động của phát triển trung gian tài chính đối với tăng
trưởng kinh tế. Trong nhóm các nghiên cứu ủng hộ quan điểm phát triển trung
gian tài chính tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, rất nhiều các bài viết của
nhiều tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của phát triển trung gian tài chính đối
với tăng trưởng kinh tế. Các tác giả này tìm thấy ảnh hưởng tích cực của các tổ
chức tài chính đối với tăng trưởng tổng sản phẩm của các quốc gia. Một vài
nghiên cứu tiêu biểu trong nhóm này bao gồm Levine and Zervos (1996), Beck
and Levine (2004), King and Levine (1993). Ngược lại, một nhóm các nghiên
2
cứu khác bác bỏ vai trò của trung gian tài chính đối với tăng trưởng kinh tế. Các
nghiên cứu này tập trung nhấn mạnh vai trò của vốn vật chất (physical capital) và
vốn con người (human capital) và bỏ qua vai trò của trung gian tài chính trong
việc tích lũy vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế. Các nghiên cứu nổi bật trong
nhóm này có thể kể đến như Devereux and Smith (1994), Lucas Jr (1988),
Stiglitz (1985, 1993) và Stern (1989). Tại Việt Nam, các nghiên cứu của Nguyễn
Hải Phương Linh (2012) và Ngô Quang Mỹ Thiên (2012) kết luận rằng độ sâu
tài chính tăng trưởng cùng chiều với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Với tình hình thực tiễn nêu trên, cùng với những mâu thuẫn trong cách
xem xét đóng góp của hệ thống tài chính trong các nghiên cứu khoa học nói trên,
luận văn này nhằm mục đích tìm hiểu những vai trò của hệ thống các trung gian
tài chính đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này có mục tiêu tổng quát là xem xét ảnh hưởng của sự phát triển
trung gian tài chính đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Sự phát triển của
trung gian tài chính được biểu hiện bởi lượng tiền trong nền kinh tế và lượng tín
dụng tư nhân trong nền kinh tế, là hai vấn đề được xem xét trong luận văn này.
Do vậy, luận văn này có hai mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau:
(i) Phân tích tác động của sự thay đổi khối tiền tệ mở rộng (M2) đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam.
(ii) Phân tích tác động của sự thay đổi khối lượng tín dụng tư nhân đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm mục đích trả lời câu hỏi: Sự phát triển của trung
gian tài chính theo chiều sâu có giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam hay
không? Một cách tương ứng với các mục tiêu nghiên cứu trên, nghiên cứu này
được thực hiện nhằm để trả lời hai câu hỏi nghiên cứu cụ thể dưới đây.
3
Câu hỏi nghiên cứu 1: Tăng trưởng kinh tế sẽ thay đổi như thế nào khi
khối tiền tệ mở rộng (M2) trong nền kinh tế thay đổi?
Câu hỏi nghiên cứu 2: Tăng trưởng kinh tế sẽ thay đổi như thế nào khi
khối lượng tín dụng tư nhân trong nền kinh tế thay đổi?
1.4 Dữ liệu và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu của Việt Nam. Dữ liệu dạng chuỗi thời
gian với các biến được đo lường trong định kỳ hàng năm, trong khoảng thời gian
từ năm 1995 đến năm 2012.
Dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm cơ sở dữ liệu của
Worldbank và tổng cục thống kê Việt Nam.
1.5 Cấu trúc của luận văn
Luận văn này bao gồm phần mở đầu, các chương trong nội dung bao gồm
chương 1, chương 2 và chương 3 và phần kết luận và gợi ý chính sách. Phần mở
đầu trình bày những động cơ thúc đẩy người viết tiến hành nghiên cứu, mục tiêu
nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu cùng với dữ liệu và phạm vi nghiên cứu. Chương
1 sẽ tổng hợp các lý thuyết có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và trình bày
khung phân tích của luận văn. Chương 2 sẽ nối tiếp trình bày phương pháp
nghiên cứu và phân tích dữ liệu để kiểm định mối quan hệ giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng kinh tế. Chương tiếp theo trình bày kết quả nghiên cứu của
luận văn và các thảo luận về kết quả này. Cuối cùng sẽ là phần tổng kết nghiên
cứu và trình bày các gợi ý chính sách, dựa vào kết quả của nghiên cứu trong
chương trước.
4
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
VỀ QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
2.1 Cơ sở lý thuyết
2.1.1 Tổng hợp các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng hay mở rộng về mặt sản lượng của một
nền kinh tế (Soubbotina, 2004). Tăng trưởng kinh tế thông thường được đo
lường bằng phần trăm thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay tổng sản
phẩm quốc dân (GNP). Cũng theo Soubbotina (2004), tăng trưởng kinh tế có thể
đến từ hai nguồn gốc, bao gồm tăng trưởng theo chiều rộng và tăng trưởng theo
chiều sâu. Tăng trưởng theo chiều rộng (extensive growth) đạt được khi một nền
kinh tế sử dụng nhiều hơn các nguồn lực sản xuất (vốn vật chất, vốn con người,
lao động), trong khi đó, tăng trưởng theo chiều sâu đạt được khi một nền kinh tế
sử dụng cùng một số lượng các nguồn lực này một cách hiệu quả hơn (tiến bộ
công nghệ).
Đã có rất nhiều nghiên cứu, cả lý thuyết lẫn thực nghiệm bàn về các yếu
tố tác động đến tăng trưởng kinh tế. Đầu tiên, mô hình tăng trưởng Harrod –
Domar khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tiết kiệm và năng suất
của vốn. Sau đó, Solow (1956) xây dựng một mô hình tăng trưởng nổi tiếng đến
tận ngày hôm nay, được gọi là mô hình Solow hay mô hình tăng trưởng tân cổ
điển (neoclassical growth model). Trong mô hình Solow, bên cạnh các yếu tố
như tích lũy vốn và tăng trưởng dân số, tiến bộ công nghệ là yếu tố quyết định
đến tăng trưởng kinh tế. Mankiw và cộng sự (1992) cho rằng quá trình tích lũy
vốn con người, cũng như quá trình tích lũy vốn vật chất, có đóng góp tích cực
đến tăng trưởng kinh tế. Gần đây, Acemoglu và cộng sự (2003) khám phá ra rằng
thể chế kinh tế cũng có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của các quốc
gia. Barro (1996) bằng nghiên cứu thực nghiệm đã tìm ra bằng chứng cho ảnh
hưởng của các yếu tố như tuổi thọ và học vấn cao của người dân, tỷ lệ sinh sản
thấp, chi tiêu chính phủ, khả năng khuyến khích của luật pháp và sự cải thiện
5
trong tỷ giá thương mại. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn này tập
trung phân tích tác động của phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế với các
lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm được trình bày trong phần tiếp theo.
2.1.2 Trung gian tài chính – tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế
Trung gian tài chính (Financial intermediaries) hay còn gọi là các thể chế
tài chính (Financial instituition) cùng với thị trường tài chính, công cụ tài chính
và cơ sở hạ tầng tài chính tạo nên một hệ thống tài chính hoàn chỉnh. Trung gian
tài chính bao gồm ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Trung gian tài chính là tổ chức có chức năng chính là huy động vốn từ
người tiết kiệm và chuyển lượng vốn này đến các nhà đầu tư. Chức năng của
trung gian tài chính bao gồm: huy động tiết kiệm, đánh giá dự án, quản lý rủi ro,
giám sát và đánh giá các giao dịch tài chính (Schumpeter, 1911).
Thông qua cơ chế hoạt động của mình, các trung gian tài chính góp phần
đánh giá và phân bổ nguồn vốn xã hội cho các dự án mang lại hiệu quả kinh tế từ
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hình 2.1 Vai trò của trung gian tài chính
(Nguồn: Nguyễn Xuân Thành, chương trình Fullbright)
6
Quan điểm “phát triền về hệ thống tài chính (development hypothesis) mà
còn được gọi là quan điểm “tự do mới” coi hệ thống tài chính có một tầm quan
trọng đáng kể đối với phát triển kinh tế. Những người theo quan điểm này cho
rằng việc không có một hệ thống tài chính phát triển làm hạn chế tăng trưởng
kinh tế và do vậy, chính sách nhà nước phải hướng tới khuyến khích sự tăng
trưởng của hệ thống tài chính. Quan điểm ngược lại (và có lẽ là quan điểm tương
đối cực đoan) thì lại cho rằng hệ thống tài chính chỉ có một vai trò rất nhỏ trong
quá trình phát triển của các khu vực sản xuất và rằng hệ thống tài chính chẳng
qua là chỉ tạo ra các cơ hội cho khu vực tư nhân kiếm được lợi nhuận hay chịu
thua lỗ. quan điểm “sòng bạc” (casino hypothesis) này về hệ thống tài chính cho
rằng nhà nước hoàn toàn không cần chú ý tới hệ thống tài chính hay thậm chí còn
có thể coi đó là có hại cho tăng trưởng và phân phối thu nhập vì vậy cần kiềm
chế hay quốc hữu hóa. (Đinh Xuân Thành, bài đọc chương trình giảng dạy kinh
tế Fullbright).
Thông qua các dịch vụ của mình, trung gian tài chính đóng vai trò thiết
yếu cho sự đổi mới công nghệ và phát triển kinh tế (Schumpeter, 1911). Phát
triển trung gian tài chính có liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng GDP bình quân đầu
người, tỷ lệ tích lũy vốn vật chất, và tăng hiệu quả thu hút vốn vật chất của nền
kinh tế (King & Levine 1993). Trung gian tài chính có tác động tích cực đến
nhân tố năng suất tổng hợp (TFP), tăng trưởng vốn vật chất và tăng tỷ lệ tiết
kiệm tư nhân (Beck, Levine & Loayza 2000).
Hình 2.2 Vai trò của hệ thống tài chính
(Nguồn: Nguyễn Xuân Thành, chương trình Fullbright)
7
2.1.3 Các chỉ số đo lường phát triển tài chính
Một hệ thống tài chính phát triển được đo lường thông qua sự phát triển
của trung gian tài chính hay độ sâu của trung gian tài chính (financial
deepening). Theo King và Levine (1993), độ sâu tài chính được đo lường bằng
các chỉ số như:
tỷ số tiền thanh khoản của hệ thống tài chính cho nền kinh tế
(M3/GDP-LLY - Liquid Liabilities of the financial system to GDP),
chỉ số tiền gửi ngân hàng nội địa trên tổng tiền gửi ngân hàng nội địa
và ngân hàng trung ương,
chỉ số tín dụng phi tài chính khu vực tư nhân trên tổng tín dụng nội
địa, và
Tỷ lệ tín dụng được cấp cho khu vực tư nhân trên GDP.
Vai trò của các ngân hàng thương mại với các ngân hàng trung ương
Trong một nghiên cứu khác, Levine (1997) đã đo lường mức độ phát triển tài
chính bằng các chỉ số bao gồm:
tính thanh khoản của hệ thống tài chính (tiền và thanh khoản của các trung
gian tài chính ngân hàng và phi ngân hàng) trên GDP, DEPTH.
mức độ phân bổ tín dụng của ngân hàng trung ương và ngân hàng thương
mại (BANK): được đo bằng tỷ lệ của tín dụng ngân hàng trên tín dụng
ngân hàng và tài sản nội địa của ngân hàng trung ương,
tỷ lệ tín dụng được phân bổ cho các công ty tư nhân trên tổng tín dụng nội
địa (loại trừ tín dụng được cấp cho ngân hàng), PRIVATE.
tỷ lệ tín dụng cho các công ty tư nhân trên GDP, PRIVY.
8
Bên cạnh đó, X là ma trận của các biến kiểm soát bao gồm thu nhập bình
quân, học vấn, ổn định chính trị, tỷ giá hối đoái, cán cân thương mại, tài
chính và chính sách tiền tệ.
Khác với hai nghiên cứu đề cập ở trên, các tác giả Beck, Levine và Loayza
(2000) định nghĩa biến tín dụng tư nhân (Private Credit) bằng tín dụng được các
trung gian tài chính cấp cho khu vực tư nhân trên GDP, không bao gồm tín dụng
được cấp bởi ngân hàng trung ương và ngân hàng phát triển.
Khan và Senhadji (2003) đề xuất đo lường phát triển tài chính bằng bốn chỉ
số fd1 là tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP; fd2 bằng fd1 cộng với tỷ lệ vốn hóa thị
trường chứng khoán trên GDP; fd3 bằng fd2 cộng với tỷ lệ vốn hóa thị trường trái
phiếu trên GDP; và fd4 hay stockc chỉ số vốn hóa thị trường chứng khoán.
Levine (1998) chỉ ra rằng thông qua tác động gián tiếp của hệ thống luật
pháp, các quốc gia có hệ thống luật pháp nhấn mạnh quyền lợi của người cho vay
sẽ có hệ thống ngân hàng phát triển hơn các quốc gia khác, từ đó dẫn đến tỷ lệ tín
dụng tư nhân trên GDP cao hơn so với các quốc gia có hệ thống luật pháp kém
phát triển hơn. Trong mối quan hệ tương quan giữa phát triển tài chính theo
chiều sâu và tăng trưởng kinh tế, ông sử dụng biến BANK để đo lường tỷ lệ tín
dụng của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác cho khu vực tư
nhân trên GDP.
2.1.4 Các thước đo phát triển kinh tế, nguồn lực phát triển kinh tế
Để kiểm định mối quan hệ thực nghiệm của phát triển trung gian tài chính
theo chiều sâu và tăng trưởng kinh tế, Levine (1997) đã đo lường các chỉ số tăng
trưởng kinh tế như sau:
Tỷ lệ tăng trưởng trung bình GDP bình quân đầu người.
Tỷ lệ tăng trưởng trung bình vốn cổ phần bình quân đầu người.
9
Tăng trưởng tổng năng suất, là phần dư trong mô hình Solow được tính
bằng tăng trưởng GDP bình quân đầu người trừ 0.3 lần tỷ lệ tăng trưởng
trung bình vốn cổ phần bình quân đầu người.
Bên cạnh tăng trưởng GDP bình quân đầu người (GYP), King và Levine
(1993) phân tích tăng trưởng kinh tế thành tăng trưởng vốn vật chất và các yếu tố
khác bằng phương trình:
Y = kα x
Trong đó: Y là tăng trưởng GDP bình quân đầu người, k là tăng trưởng vốn vật
chất bình quân đầu người, x là biến chỉ các nguồn lực khác.
Lấy logarit từ mô hình trên ta được:
GYP = α.GK + EFF
Trong đó: GYP là tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong dài hạn, GK là tỷ
lệ tăng trưởng của vốn vật chất bình quân đầu người, EFF được xem như phần
dư – biến hiệu quả, là tỷ lệ tăng trưởng của các yếu tố còn lại bao gồm có tốc độ
tăng trưởng công nghệ, tích lũy vốn vật chất, sự gia tăng giờ làm việc của mỗi
công nhân, sự gia tăng các yếu tố đầu vào.
Bên cạnh đó, Levine (1997) và Levine & Zervos (1998) đã sử dụng các
chỉ số tăng trưởng như sau: tỷ lệ tăng trưởng trung bình của GDP bình quân đầu
người, tỷ lệ trung bình của tăng trưởng vốn chứng khoán bình quân đầu người,
nhân tố năng suất tổng hợp và tổng kiết kiệm tư nhân để do lường tăng trưởng.
2.2 Các nghiên cứu trước đây về mối liên hệ giữa phát triển trung gian tài
chính và tăng trưởng kinh tế
Trong suốt chiều dài tồn tại của trung gian tài chính, các nhà kinh tế đã có
những quan điểm không giống nhau về đóng góp của các trung gian tài chính đối
với tăng trưởng kinh tế. Trong phần này, bài viết tổng hợp các quan điểm của các
nhà nghiên cứu về ảnh hưởng của trung gian tài chính đến tăng trưởng kinh tế
10
của một quốc gia. Một cách tổng quát, các quan điểm trên có thể được phân loại
như sau.
2.2.1 Quan điểm phát triển trung gian tài chính không đóng vai trò quan trọng
trong tăng trưởng kinh tế
Với nhiều lập luận và dẫn chứng khác nhau, các nghiên cứu trong nhóm
quan điểm này xem nhẹ hoặc bỏ qua vai trò của thị trường tài chính đối với tăng
trưởng kinh tế. Đây là những nghiên cứu xuất hiện sớm hơn, so với các nhóm
quan điểm khác được xem xét trong phần này. Một số bài viết đáng chú ý ủng hộ
quan điểm này có thể kể đến như Stiglitz (1993), Stern (1989), Lucas Jr (1988)
và Devereux and Smith (1994).
Hệ thống tài chính, và sự phát triển của hệ thống tài chính đã bị bỏ qua
trong các mô hình phát triển của Lucas Jr (1988) và Stern (1989). Trong mô hình
phát triển kinh tế của mình, cả hai nhà kinh tế này đều đưa vào rất nhiều nguồn
lực sản xuất, bao gồm vốn vật chất, lao động, vốn con người, tiến bộ công nghệ.
Tuy nhiên, các mô hình này đã không đưa vào xem xét ảnh hưởng của hệ thống
tài chính vào sản lượng hay thu nhập của quốc gia. Do đó, có thể thấy rằng, vai
trò của thị trường tài chính trong tăng trưởng kinh tế đã không được đánh giá là
quan trọng.
Trong một nghiên cứu của mình, Stiglitz (1993) tập trung sự chú ý vào
những thất bại của thị trường (market failures) một cách cụ thể cho thị trường tài
chính. Theo đó, Stiglitz (1993) chỉ ra rằng thị trường tài chính mắc phải rất nhiều
dạng thất bại thị trường (chẳng hạn như độc quyền nhóm, thông tin bất cân xứng,
ngoại tác, v.v.). Một khi điều này xảy ra, hệ thống tài chính không thể phân bổ
nguồn lực sản xuất, cụ thể là vốn, một cách hiệu quả. Sản lượng của một nền
kinh tế vì thế bị ảnh hưởng tiêu cực. Có thể thấy rằng, trong trường hợp này,
đóng góp của thị trường tài chính vào tăng trưởng kinh tế là tương đối hạn chế.
Cũng cần nói thêm rằng, Stiglitz (1993) khẳng định rằng vai trò của chính phủ
trong điều tiết thị trường tài chính trong trường hợp này là rất quan trọng đối với
thúc đẩy sản lượng quốc gia.
11
Trong một nghiên cứu khác, Devereux and Smith (1994) tìm hiểu ảnh
hưởng của phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế thông qua tác động của
phát triển tài chính đến tiết kiệm. Hai tác giả này nhận định rằng, khi thị trường
tài chính phát triển, cùng với hội nhập tài chính, rủi ro trong đầu tư tài chính
giảm xuống do quá trình chia sẻ rủi ro quốc tế (international risk sharing). Ý
tưởng chính của bài viết này là tỷ lệ tiết kiệm phụ thuộc vào rủi ro thu nhập
(income risk) và rủi ro suất sinh lợi (rate-of-return risk). Đây là mối quan hệ
đồng biến, vì rủi ro càng cao đồng nghĩa với tỷ lệ tiết kiệm càng cao. Devereux
and Smith (1994) lập luận rằng, với một nền kinh tế có thị trường tài chính phát
triển, rủi ro thấp sẽ làm giảm tiết kiệm trong nền kinh tế. Do đó, tăng trưởng kinh
tế của quốc gia sẽ giảm xuống do tác động của việc giảm tiết kiệm.
Tóm lại, một nhóm các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế đã bác bỏ, hoặc
không công nhận tầm quan trọng những đóng góp của thị trường tài chính đối
với tăng trưởng GDP của các quốc gia. Thị trường tài chính, trong các nghiên
cứu này, bị bỏ qua trong các mô hình tăng trưởng. Hoặc, nếu được nhắc đến, thì
nó mắc phải các thất bại của thị trường, hoặc làm giảm tiết kiệm và qua đó ảnh
hưởng tiêu cực đến tăng trưởng sản phẩm quốc gia. Tuy nhiên, các nghiên cứu
được đề cập trong mục này đều là xuất hiện trong thời gian cách đây khá xa.
Trong những phần tiếp theo, bài viết này sẽ tổng hợp các công trình khoa học
theo xu hướng mới hơn, ủng hộ quan điểm rằng thị trường tài chính có đóng góp
tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
2.2.2 Quan điểm phát triển trung gian tài chính tác động tích cực đến sản
lượng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Trái ngược với quan điểm của nhóm các nghiên cứu nêu ra ở phần trên,
nhóm các nghiên cứu trong mục này mạnh dạn đưa các biến đo lường phát triển
tài chính vào mô hình tăng trưởng tân cổ điển để xem xét ảnh hưởng của phát
triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế. Các công trình nghiên cứu trong nhóm
này, tiêu biểu như Levine (1997), Beck và Levine (2004) và Khan và Senhadji
(2003), đều ủng hộ quan điểm cho rằng trung gian tài chính có ảnh hưởng đến
12
sản lượng của một quốc gia và hệ thống tài chính phát triển sẽ đóng góp tích cực
vào tăng trưởng sản lượng của quốc gia.
King và Levine (1993) phân tích tăng trưởng kinh tế thông qua mối quan hệ
với bốn chỉ số tài chính bằng phương trình:
Y = kα x
Trong đó: Y là tăng trưởng GDP bình quân đầu người, k là tăng trưởng
vốn vật chất bình quân đầu người, x là biến chỉ các nguồn lực khác.
Lấy logarit từ mô hình trên ta được:
GYP = α.GK + EFF
Nghiên cứu này cho thấy vai trò của ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ
với tăng trưởng GDP thông qua tỷ lệ tương quan tín dụng tư nhân trên GDP và tỷ
lệ tích lũy vốn
Tương tự, Khan và Senhadji (2003) đã nghiên cứu vai trò của phát triển
trung gian tài chính trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nghiên cứu
này, Khan và Senhadji (2003) đã cập nhật dữ liệu, với dữ liệu bảng từ 159 quốc
gia trong khoảng thời gian 1960-1999. Mô hình được sử dụng là mô hình tăng
trưởng tân cổ điển, được điều chỉnh bởi Mankiw, Romer, và Weil (1992). Trong
mô hình này, tăng trưởng GDP phụ thuộc vào các yếu tố bao gồm
phát triển tài chính,
tỷ lệ đầu tư trên GDP,
tỷ lệ tăng dân số, ngoại thương, và
thu nhập bình quân đầu người (Khan & Senhadji, 2003).
Một cách tổng quát, bằng những phương pháp mới trong kinh tế lượng và
dữ liệu được cập nhật, các nghiên cứu trong nhóm này ủng hộ nhận định rằng sự
phát triển của trung gian tài chính có tương quan dương một cách có ý nghĩa với
13
sản lượng quốc gia. Hay nói các khác, phát triển tài chính đóng góp tích cực vào
tăng trưởng kinh tế. Trong các nghiên cứu này, các lý thuyết về trung gian tài
chính đã được phát triển với bằng chứng là có nhiều chỉ số khác nhau để đo
lường sự phát triển của trung gian tài chính. Các phương pháp cũng đa dạng hơn
với việc sử dụng nhiều mô hình hồi quy khác nhau. Tuy nhiên, với bất kỳ mô
hình hay chỉ số đo lường nào, mối tương quan giữa phát triển tài chính và tăng
trưởng kinh tế vẫn giữ nguyên.
2.2.3 Quan điểm phát triển trung gian tài chính chỉ tác động đến sản lượng
trong dài hạn nhưng không đóng góp vào tăng trưởng trong ngắn hạn
Trong nhóm quan điểm này, các nhà kinh tế tập trung nhấn mạnh những
ảnh hưởng tích cực của phát triển hệ thống tài chính đối với tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn. Bằng nhiều mô hình và phương pháp khác nhau, các nhà nghiên
cứu có cùng một quan điểm rằng phát triển tài chính có vai trò quan trọng đối với
tăng trưởng sản lượng trong dài hạn và qua đó đóng góp vào phát triển kinh tế.
Các công trình nghiên cứu được đề cập trong mục này có thể kể đến như Levine
and Zervos (1996), Levine (1998), Christopoulos and Tsionas (2004) và Ang
(2007).
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính trong dài hạn
đã được Levine and Zervos (1996) phân tích thông qua thị trường chứng
khoán,một mảng cụ thể trong hệ thống tài chính. Sử dụng hồi quy dữ liệu chéo
của các quốc gia trên thế giới, Levine and Zervos (1996) đã chỉ ra rằng mối quan
hệ giữa phát triển tài chính, mà cụ thể là thị trường chứng khoán, với tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn là mối quan hệ đồng biến và hoàn toàn có ý nghĩa về mặt
thống kê. Do đó, một thị trường chứng khoán phát triển sẽ góp phần vào tăng
trưởng sản lượng trong dài hạn của một quốc gia (Beck & Levine, 2004). Tuy
nhiên, nghiên cứu này lại không chỉ ra được bản chất mối quan hệ giữa hai đại
lượng nói trên. Cụ thể, trong hai yếu tố là tăng trưởng kinh tế và phát triển tài
chính, nghiên cứu nói trên không chỉ ra yếu tố nào tác động lên yếu tố nào, hay
là chiều hướng của mối quan hệ.
14
Cũng nghiên cứu về ảnh hưởng của thị trường tài chính đến tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn, nhưng Levine (1998) lại xem xét mối quan hệ này trong
bối cảnh khác. Đó là mối quan hệ giữa môi trường pháp lý, hệ thống ngân hàng
và tăng trưởng kinh tế. Có hai mục tiêu quan trọng cần giải quyết, đó là:
mối quan hệ giữa môi trường pháp lý và phát triển hệ thống ngân hàng; và
mối quan hệ giữa hệ thống ngân hàng và tăng trưởng kinh tế (Levine,
1998).
Nghiên cứu này sử dụng ba thước đo của tăng trưởng kinh tế, bao gồm
tăng trưởng sản lượng (output growth), tăng trưởng vốn (capital stock growth)
và tăng trưởng năng suất (productivity growth). Một trong các kết luận quan
trọng được rút ra trong Levine (1998) là sự phát triển của hệ thống ngân hàng
tương quan dương với tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, kết quả này vẫn được giữ
nguyên khi các thước đo khác nhau của tăng trưởng kinh tế (ba thước đo nói
trên) được thay đổi trong mô hình.
Beck, Levine và Loaya (2000) đánh giá tác mối quan hệ thực nghiệm giữa
phát triển trung gian tài chính tới
(i) tăng trưởng kinh tế,
(ii) nhân tố năng suất tổng hợp,
(iii) tích lũy vốn vật chất và
(iv) tỷ lệ tiết kiệm tư nhân.
Bằng phương pháp sử dụng dữ liệu chéo và dữ liệu bảng, nghiên cứu đã
chỉ ra rằng:
(i) trung gian tài chính tác động tích cực đến nhân tố năng suất tổng hợp,
từ đó tác động tới tăng trưởng GDP;
15
(ii) mối quan hệ dài hạn của phát triển trung gian tài chính và tăng trưởng
vốn vật chất và tỷ lệ tiết kiệm có ý nghĩa rất nhỏ. Phương trình được sử dụng
trong nghiên cứu này:
Yi = α + β Finance + γ’Xi + εi
Trong đó biến Y gồm tăng trưởng, tăng trưởng vốn, tiết kiệm, Finance
gồm biến tín dụng tư nhân, thanh khoản của ngân hàng thương mại và ngân hàng
trung ương, X đại diện cho vector các biến kiểm soát tăng trưởng bao gồm thu
nhập bình quân, năm đi học trung bình, độ mở thương mại, lạm phát, quy mô
chính phủ.
Christopoulos và Tsionas (2004) nghiên cứu tác động của phát triển tài
chính theo chiều sâu (financial depth) đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
bằng mô hình:
Y = βo + β1F + β2S + β3p + u
Trong đó: Y là sản lượng đầu ra, F là biến đo lường độ sâu tài chính được đo
bằng tổng thanh khoản tiền gửi trên GDP, S là đầu ra cổ phiếu đầu tư, p là tỷ lệ
lạm phát và sai số u.
Mô hình tăng trưởng tân cổ điển (neoclassical growth model) đã được sử
dụng trong bài viết của Ang (2007) để phân tích mối quan hệ giữa phát triển tài
chính và tăng trưởng sản lượng trong dài hạn của nền kinh tế Malaysia.
Hai mô hình nghiên cứu được sử dụng như sau:
và
Trong đó: PRK là vốn tư nhân (private capital),
PUK là vốn công cộng (public capital)
M2Y là tỷ lệ tiền khối tiền mở rộng M2 trên GDP,
16
PCY là tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP,
LF là lực lượng lao động.
T là biến thời gian
Trong mô hình này, Ang (2007) đã sử dụng hai biến giả đại diện cho suy
thoái kinh tế toàn cầu và khủng hoảng tài chính Châu Á. Biến D85-86 = 1 nếu
t=1985 – 1986 và D85-86 = 0 nếu ngược lại. biến D97-98 = 1 nếu t = 1997 –
1998 và D97-98 = 0 nếu ngược lại. Kết quả phân tích dữ liệu chuỗi thời gian cho
thấy rằng những cải thiện trong trung gian tài chính đã góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế thông qua việc tạo điều kiện ứng dụng phát triển công nghệ (Ang,
2007). Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng những bằng chứng thực nghiệm trong
trường hợp của Malaysia cho thấy rằng, trong ngắn hạn, không có mối quan hệ
giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Một cách tổng quát, bằng nhiều công cụ và dữ liệu cũng như phương pháp
nghiên cứu khác nhau, các nghiên cứu trong nhóm này đều cung cấp bằng chứng
cho nhận định rằng không có mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng
trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Tuy nhiên, trong dài hạn, câu chuyện lại hoàn
toàn khác. Sự phát triển của hệ thống tài chính có ảnh hưởng một cách có ý nghĩa
và tích cực đối với tăng trưởng kinh tế. Đóng góp của hệ thống tài chính có thể
thông qua thị trường chứng khoán (Levine & Zervos, 1996), hệ thống ngân hàng
(Levine, 1998) hay hỗ trợ tiến bộ công nghệ Ang (2007), để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế của một quốc gia. Trong nhóm quan điểm này, các nhà kinh tế tập trung
nhấn mạnh những ảnh hưởng tích cực của phát triển hệ thống tài chính đối với
tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Bằng nhiều mô hình và phương pháp khác
nhau, các nhà nghiên cứu có cùng một quan điểm rằng phát triển tài chính có vai
trò quan trọng đối với tăng trưởng sản lượng trong dài hạn và qua đó đóng góp
vào phát triển kinh tế. Các công trình nghiên cứu được đề cập trong mục này có
thể kể đến như Levine (1998), Christopoulos và Tsionas (2004) và Ang (2007).
17
2.2.4 Quan điểm phát triển trung gian tài chính chỉ tác động đến sản lượng
khi phát triển tài chính đạt dến một mức độ phát triển nhất định
Trong mối quan hệ tương quan giữa phát triển tài chính và tăng trưởng
kinh tế, một số nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng khi tài chính đạt đến một mức độ
phát triển nhất định mới có tác động đến tăng trưởng kinh tế. Trong nghiên cứu
của mình, King và Levine (1993) đã chỉ ra tương quan mạnh giữa mức độ phát
triển tài chính, tốc độ tích lũy vốn vật chất và hiệu quả phát triển cao hơn với tốc
độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn.
Bằng nghiên cứu thực nghiệm, Demetriades và Hussein (1996) đã chứng
minh mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ
hai chiều.. Trong một số trường hợp quốc gia, mối quan hệ chỉ có tăng trưởng
kinh tế ảnh hưởng đến phát triển tài chính. Nghiên cứu này đã đưa ra bằng chứng
rằng phát triển tài chính không nhất thiết tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Theo nghiên cứu thực nghiệm từ 16 quốc gia đang phát triển, kết quả
kiểm tra mối quan hệ nhân quả giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế
biến động qua các quốc gia (Arestis & Demetriades, 1997). Kết quả nghiên cứu
dữ liệu thực tế của 12 quốc gia đưa ra bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa phát
triển tài chính và tăng trưởng bị ảnh hưởng lớn bởi tác động của tính chất và sự
vận hành của các trung gian tài chính và các chính sách mà các quốc gia này theo
đuổi.
2.2.5 Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của các tác giả trên thế giới về mối
quan hệ phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các trung gian tài chính làm giảm chi
phí thu thập thông tin và giảm chi phí giao dịch (Levine, 1997). Trong những
nghiên cứu lý thuyết, tác động của phát triển trung gian tài chính đến tăng trưởng
kinh tế được mô hình hóa một cách nghiêm ngặt, thông qua những kênh ảnh
hưởng khác nhau. Đồng thời, các nghiên cứu thực nghiệm đã nghiêm túc kiểm
tra tính đúng đắn của các mô hình lý thuyết này. Kết quả đã được Levine (1997)
tổng hợp lại rằng giữa phát triển trung gian tài chính và tăng trưởng kinh tế có
18
mối tương quan dương, tương quan này là ổn định và có ý nghĩa thống kê. Điều
này hàm ý rằng sự phát triển của hệ thống tài chính có đóng góp tích cực đến
tăng trưởng sản lượng quốc gia. Các nước với các trung gian tài chính hoạt động
hiệu quả trong việc hé lộ các rào cản thông tin sẽ có một tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh hơn thông qua nhiều đầu tư hơn các nước kém hiệu quả hơn trong việc
thu thập và xử lý thông tin (Levine, 1997). Bên cạnh đó, các nước khác nhau về
hệ thống luật pháp và tiêu chuẩn kế toán có các mức độ phát triển tài chính khác
nhau. Nghiên cứu cho thấy chế độ kế toán và luật pháp nhấn mạnh quyền của
người đi vay, thực thi hợp đồng và thực hành kế toán sẽ thúc đẩy phát triển tài
chính và gia tăng tốc độ phát triển kinh tế (Levine, Loayza & Beck, 2000).
Khan và Senhadji (2003) đã tìm ra mối tương quan dương có ý nghĩa giữa
phát triển các trung gian tài chính và tăng trưởng kinh tế. Mối tương quan này
xuất hiện ở cả ba chỉ số đo lường phát triển tài chính. Từ đó, nghiên cứu này kết
luận: “chiều sâu trung gian tài chính là một yếu tố quan trọng xác định sự khác
biệt về tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia” (Khan & Senhadji, 2003, p. ii105).
Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế được nêu ra
trong Levine (1997) bằng cách tổng quan các nghiên cứu của các tác giả khác
trong lĩnh vực này. Theo những nghiên cứu này, trung gian tài chính có các chức
năng quan trọng như tạo cơ chế chuyển đổi rủi ro, phân bổ nguồn vốn, giám sát
quản lý công ty, điều chuyển tiết kiệm và hỗ trợ trao đổi hàng hóa một cách dễ
dàng (Levine, 1997).
Trong một nghiên cứu khác, Beck và Levine (2004) đánh giá một cách cụ
thể tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán và sự phát triển của các
ngân hàng, hai thành phần chủ đạo của một hệ thống tài chính, đến sự tăng
trưởng của sản lượng quốc gia. Sự đánh giá riêng lẻ này bắt nguồn từ nhận định
rằng các ngân hàng và thị trường chứng khoán cung cấp các dịch vụ tài chính
khác nhau, và do đó sẽ ảnh hưởng khác nhau đến sản lượng quốc gia (Beck &
Levine, 2004). Khác với những nghiên cứu trước đó, Beck và Levine (2004) sử
dụng hai mô hình hồi quy cho dữ liệu bảng, được tổng hợp từ 40 quốc gia trong
19
thời gian 1976-1998. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, cả thị trường chứng
khoán và hệ thống ngân hàng đều ảnh hưởng một cách có ý nghĩa trong cả hai
mô hình hồi quy tăng trưởng kinh tế. Hay nói cách khác, sự phát triển của trung
gian tài chính đóng góp một cách tích cực vào tăng trưởng kinh tế.
Bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm dùng bảng động dữ liệu từ 74
quốc qua, Felix và Neven (2003) đã đưa ra nhận định mối liên hệ giữa tài chính
và tăng trưởng biến thiên tùy theo mức độ của phát triển tài chính của quốc gia
đó. Ở các quốc gia có mức độ phát triển tài chính thấp, tiến bộ tăng thêm trong
thị trường tài chính có tác dộng không rõ ràng đến tăng trưởng. Trong các quốc
gia có hệ thống tài chính phát triển ở mức trung bình, phát triển tài chính có tác
động mạnh và tích cực đến tăng trưởng. Cuối cùng, ở các quốc gia có hệ thống
tài chính phát triển ở mức cao, tác động này tích cực nhưng giảm đi (Felix &
Neven, 2003).
Khác với các nghiên cứu trước, vốn chỉ sử dụng dữ liệu chéo (cross-
sectional data) hoặc dữ liệu chuỗi thời gian (time-series data), Christopoulos và
Tsionas (2004) sử dụng dữ liệu bảng (panel data) từ 10 quốc gia đang phát triển
gồm Colombia, Paraguay, Peru, Mexico, Ecuador, Honduras, Kenya, Thailand,
Comincana và Jamaica từ năm 1970 tới năm 2000 để phân tích mối quan hệ
giữa độ sâu tài chính và tăng trưởng sản lượng. Christopoulos và Tsionas (2004)
kết luận rằng quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế, trong dài
hạn, là mối quan hệ đồng biến và là quan hệ một chiều theo hướng phát triển tài
chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, kết quả nghiên cứu thực nghiệm
của Christopoulos và Tsionas (2004) còn chỉ ra rằng mối quan hệ trên không
xuất hiện trong ngắn hạn, mà chỉ có ý nghĩa trong dài hạn.
20
2.3 Thực trạng phát triển tài chính và các nghiên cứu về mối liên hệ
giữa trung gian tài chính và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam
Theo các nghiên cứu được thực hiện trước đây, tồn tại mối quan hệ giữa
phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, mối quan hệ này là
tương quan dương và có ý nghĩa thống kê.
Theo Ngô Quang Mỹ Thiên (2012) phát triển tài chính có tác động đến
tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 1995 -2010. Mô hình được sử dụng
trong nghiên cứu này như sau:
Mô hình a: lnGDP =f(PRK, PUK, LF, M2Y)
Mô hình b: lnGDP =f(PRK, PUK, LF, PCY)
Trong đó các biến PRK, PUK, LF, M2Y, PCY lần lượt là vốn tư nhân,
vốn công cộng, lực lượng lao động, tỷ lệ khối tiền mở rộng trên GDP và tỷ lệ tín
dụng cấp cho khu vực tư nhân trên GDP.
Kết quả kiểm định nhân quả Granger và kiểm định mô hình Vector
Autoregression Model cho thấy tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa vốn khu vực tư,
vốn khu vực công, lực lượng lao động, tỷ lệ tín dụng tư nhân và tỷ lệ khối tiền tệ
mở rộng và tăng trưởng kinh tế. Bằng chứng thực nghiệm cho thấy phát triển tài
chính có mối quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn nhưng không
có tác động trong ngắn hạn (Ngô Quang Mỹ Thiên, 2012).
Cũng cùng mục tiêu nghiên cứu xác định mức độ đóng góp của phát triển
tài chính theo chiều sâu và tăng trưởng kinh tế, tác giả Nguyễn Hải Phương Linh
(2012) sử dụng dữ liệu bảng cho mười quốc gia ở Châu Á trong giai đoạn từ năm
1990 tới năm 2011 cũng đi tới kết luận phát triển tài chính theo chiều sâu có tác
động tích cực đến tăng trưởng. Mô hình được sử dụng trong nghiên cứu này:
lnGDP = b0 + b1M2OFGDP + b2PCOFGDP +b3LnL + b4LNK +
b5EXPENDITURE + b6TRADE + b7INF
21
Trong đó biến M2OFGDP là tỷ lệ tiền tệ mở rộng trên GDP, PCOFGDP
và tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP, LnL là logarithm của lao động, LnK là
logarithm của tổng vốn đầu tư, EXPENDITURE là tổng chi tiêu chính phủ của
quốc gia (tính bằng phần trăm trên GDP), TRADE là tỷ lệ thương mại của quốc
gia (thương mại = xuất khẩu + nhập khẩu), INF là tỷ lệ lạm phát.
Báo cáo kết luận, có những giai đoạn khủng hoảng tài chính diễn ra làm
cho tốc độ tăng trưởng âm, tuy nhiên tỷ số tiền tệ mở rộng và tín dụng tư nhân
trên GDP có xu hướng tăng trưởng cùng chiều với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2.4 Khung phân tích
Thông qua cơ chế vận hành của các trung gian tài chính là giảm chi phí
tiếp cận thông tin và giảm chi phí giao dịch, các trung gian tài chính đã tạo ra các
dịch vụ trung gian giữa người cho vay và người đi vay bao gồm.
Huy động tiết kiệm: các trung gian tài chính thu hút vốn nhàn rỗi từ hộ gia
đình, các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, doanh nghiệp và chính phủ.
Phân bổ nguồn lực: các trung gian tài chính sử dụng nguồn vốn huy động
được để phân bổ lại cho các công ty và hộ gia đình.
Quản lý rủi ro: thông qua việc giảm bớt chi phí thông tin và thông tin bất
cân xứng, các trung gian tài chính chuyển hóa rủi ro từ người gửi tiết kiệm và
người đầu tư qua nhiều dạng và nhiều công cụ tài chính khác nhau.
Giám sát giao dịch, tạo thuận lợi cho các bên: các trung gian tài chính
thông qua việc đánh giá tính hiệu quả và khả thi của các dự án của người đi vay
trước khi tiến hành cho vay để đảm bảo khoản vay mang lại hiệu quả sinh lời.
Mối quan hệ giữa phát triển trung gian tài chính và tăng trưởng kinh tế
được thể hiện trong khung phân tích dưới đây.
22
(Nguồn: Levine, 1997)
Hình 2.3 Khung phân tích
2.5 Tổng kết chương 2
Nội dung chủ yếu của chương này bao gồm hai vấn đề chính. Thứ nhất,
chương này giới thiệu lý thuyết về tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính, và
vị trí của phát triển tài chính trong các mô hình tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó,
nội dung chính thứ hai của Chương 2 là tổng hợp các nghiên cứu trước đây về
ảnh hưởng của phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế. Trong chương này,
các nghiên cứu thực nghiệm trước đây có những khám phá mâu thuẫn với nhau
về tác động của phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, trong
chương này còn trình bày khung phân tích, làm cơ sở cho phương pháp nghiên
cứu và phân tích số liệu. Chương tiếp theo sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu
của luận văn này.
23
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phần này sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu của luận văn. Với mục
đích đánh giá đóng góp của phát triển tài chính đối với tăng trưởng cho trường
hợp Việt Nam, phần này sẽ bao gồm mô hình nghiên cứu được đề xuất và các giả
thiết nghiên cứu.
3.1. Mô hình nghiên cứu đề nghị
Lý thuyết kinh tế chỉ ra một phương pháp đo lường đóng góp của các yếu
tố đến tăng trưởng sản lượng (growth accounting) bằng cách sử dụng mô hình
tăng trưởng tân cổ điển (neoclassical growth model). Do vậy, mô hình nghiên
cứu được rút ra từ mô hình tăng trưởng kinh tế tân cổ điển. Tương tự như các
nghiên cứu trước đây, nghiên cứu hiện tại xem xét đóng góp của các yếu tố đầu
vào, trong mô hình tân cổ điển, đối với tăng trưởng sản lượng của một quốc gia.
Trong nghiên cứu về đóng góp của trung gian tài chính trong tăng trưởng
sản lượng, Ang (2007) và Khan và Senhadji (2003) là hai trong số nhiều nhà
nghiên cứu đã vận dụng thành công mô hình tân cổ điển phục vụ mục đích
nghiên cứu của mình. Phần dưới đây sẽ xem xét cả hai mô hình này cùng với các
mô hình đã đề cập trong chương 1 để rút ra mô hình nghiên cứu đề nghị.
i. Mô hình của Khan và Senhadji (2003)
Khan và Senhadji (2003) đề xuất mô hình như sau:
Trong đó: GDP là tổng sản phẩm quốc nội,
fd là thước đo phát triển tài chính,
igdp là tỷ lệ tổng đầu tư trên GDP,
dln(POP) là tốc độ tăng dân số,
dln(TOT) là tốc độ tăng tỷ giá thương mại,
24
Y0 là thu nhập bình quân đầu người ban đầu.
Trong mô hình này, Khan và Senhadji (2003) đề xuất đo lường phát triển
trung gian tài chính bằng bốn chỉ số fd1 là tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP; fd2
bằng fd1 cộng với tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán trên GDP; fd3 bằng fd2
cộng với tỷ lệ vốn hóa thị trường trái phiếu trên GDP; và fd4 hay stockc chỉ số
vốn hóa thị trường chứng khoán.
Các thước đo phát triển trung gian tài chính trong mô hình của Khan và
Senhadji (2003) là những thước đo tốt, vì đo lường được một cách toàn diện độ
sâu tài chính. Tuy nhiên, đối với trường hợp các quốc gia có trung gian tài chính
chưa phát triển, các chỉ số fd2, fd3 và fd4 hoặc là không có dữ liệu, hoặc là không
có thị trường tương ứng. Do đó, chỉ có duy nhất việc áp dụng chỉ số fd1 là khả thi
trong trường hợp của luận văn này.
ii. Mô hình của Ang (2007)
Ang tổng hợp các lý thuyết và đề xuất hai mô hình hồi quy như sau:
và
Trong đó: PRK là vốn tư nhân (private capital),
PUK là vốn công cộng (public capital)
M2Y là tỷ lệ tiền khối tiền mở rộng M2 trên GDP,
PCY là tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP,
LF là lực lượng lao động.
Trong mô hình này, bên cạnh các biến kiểm soát là các nhân tố trong mô
hình tăng trưởng tân cổ điển, Ang (2007) đưa vào đồng thời hai thước đo phát
triển tài chính là tỷ lệ khối tiền mở rộng M2 trên GDP (M2/GDP) và tỷ lệ tín
dụng cá nhân trên GDP (PC/GDP). Trong trường hợp các quốc gia đang phát
25
triển, với việc các trung gian tài chính vẫn còn ở mức độ thấp, việc sử dụng các
chỉ số này để đo lường sự phát triển của hệ thống tài chính là hoàn toàn hợp lý.
iii. Mô hình của Christopoulos và Tsionas (2004)
Christopoulos và Tsionas (2004) nghiên cứu tác động của phát triển tài
chính theo chiều sâu (financial depth) đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn
bằng mô hình:
Y = βo + β1F + β2S + β3p + u
Trong đó: Y là sản lượng đầu ra,
F là biến đo lường độ sâu tài chính được đo bằng tổng thanh khoản
tiền gửi trên GDP,
S là đầu ra cổ phiếu đầu tư,
p là tỷ lệ lạm phát và sai số u.
iii. Mô hình của Beck, Levine và Loaya (2000)
Phương trình được sử dụng trong nghiên cứu này:
Yi = α + β Finance + γ’Xi + εi
Trong đó: biến Y gồm tăng trưởng, tăng trưởng vốn, tiết kiệm,
Finance gồm biến tín dụng tư nhân, thanh khoản của ngân hàng
thương mại và ngân hàng trung ương,
X đại diện cho vector các biến kiểm soát tăng trưởng bao gồm thu
nhập bình quân, năm đi học trung bình, độ mở thương mại, lạm phát, quy
mô chính phủ.
26
Bảng 3.1 So sánh các mô hình nghiên cứu:
Growth = fA(PRK, PUK, LF, PCY)
Mô hình Khan và Senhadji (2003) Ang (2007)
Growth = fB(PRK, PUK, LF, M2Y)
Phương trình lnGDP = b0 + b1fd + b2igdp + b3dlnPOP + b4dlnTOT + b5 lnY0
Hai thước đo phát triển tài chính Diễn giải Phát triển trung gian tài chính đo
là tỷ lệ khối tiền mở rộng M2 trên lường bằng bốn chỉ số: fd1 là tỷ lệ
GDP (M2/GDP) và tỷ lệ tín dụng tín dụng tư nhân trên GDP; fd2
cá nhân trên GDP (PC/GDP). bằng fd1 cộng với tỷ lệ vốn hóa thị
trường chứng khoán trên GDP; fd3
bằng fd2 cộng với tỷ lệ vốn hóa thị
trường trái phiếu trên GDP; và fd4
hay stockc chỉ số vốn hóa thị
trường chứng khoán.
Các chỉ số đo lường sự phát triển Nhận xét Các thước đo phát triển trung gian
tài chính đo lường được một cách của hệ thống tài chính là hoàn
toàn diện độ sâu tài chính. Tuy toàn hợp lý, phù hợp với các quốc
nhiên, không phù hợp với các gia đang phát triển (trung gian tài
quốc gia có trung gian tài chính chính phát triển ở mức độ thấp).
chưa phát triển.
Kết hợp các mô hình trên, tác giả nhận xét rằng một mô hình phù hợp đối
với việc đánh giá tác động của phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế
cho trường hợp Việt Nam sẽ có dạng:
Tăng trưởng GDP = F (chỉ số phát triển tài chính, các biến kiểm soát)
Hơn nữa, mô hình này phải thỏa mãn các tiêu chí dưới đây. Đầu tiên, nó
phải dựa trên cơ sở mô hình tăng trưởng tân cổ điển được đề xuất bởi Mankiw et
27
al. (1992) với dạng hàm logarit. Thứ hai, để đo lường sự phát triển của hệ thống
tài chính, hai chỉ số được sử dụng là tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP (PC/GDP)
và tỷ lệ khối tiền mở rộng M2 trên GDP (M2/GDP).
Mô hình nghiên cứu đề nghị cho luận văn được đưa ra dựa trên các mô
hình của các tác giả đã được trình bày trong phần nghiên cứu trước :
lnGDP = F(M2Y, PCY, PRK, PUK, IY, lnL, TOT, INF)
Mặt khác, theo tổng hợp các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế (Nguyễn
Hoàng Bảo, 2012), tăng trưởng sản lượng có thể chịu ảnh hưởng của các yếu tố
khác nhau, chẳng hạn như đầu tư trực tiếp nước ngoài (Nair‐Reichert &
Weinhold 2001), xuất khẩu (Chow, 1987). Do đó, các biến kiểm soát trong mô
hình đề nghị có thể bao gồm xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nên mô
hình nghiên cứu đề nghị được bổ sung như sau :
lnGDP = F(M2Y, PCY, PRK, PUK, IY, lnL, TOT, INF, INF2, EXPORT, FDI)
3.2. Tóm tắt các biến trong mô hình
Các số liệu cho mô hình trên được diễn giải trong bảng sau:
Bảng 3.2 Tóm tắt các biến trong mô hình hồi quy:
Kỳ STT Tên biến Diễn giải Cách đo lường biến
vọng
Tỷ lệ khối tiền tệ (tổng lượng tiền mặt do ngân 1 M2Y +
mở rộng trên tổng hàng trung ương phát hành đang
lưu thông + tiền các ngân hàng sản phẩm quốc nội
thương mại gửi tại ngân hàng
trung ương + tiền gửi tiết kiệm,
có kỳ hạn tại các tổ chức tín
dụng)/GDP
28
Tín dụng tư nhân (Tín dụng từ các ngân hàng PCY + 2
trên tổng sản phẩm thương mại và ngân hàng trung
ương cho khu vực tư quốc nội
nhân)/GDP
PRK Vốn tư nhân Tổng vốn tư nhân + 3
PUK Vốn nhà nước Tổng vốn nhà nước + 4
Tổng đầu tư trên IY Tổng đầu tư / GDP + 5
tổng sản phẩm
quốc nội
LNL Logarith lao động Logarith lao động + 6
TOT Tỷ giá thương mại Giá trị hàng xuất khẩu / giá trị + 7
hàng nhập khẩu
(chỉ số giá tiêu dùng năm t – chỉ 8 INF Lạm phát +
số giá tiêu dùng năm t-1)/(chỉ
số giá tiêu dùng năm t-1)
Lạm phát bình 9 INF2 Lạm phát bình phương -
phương
10 EXPORT Xuất khẩu Tổng xuất khẩu +
Vốn đầu tư trực 11 FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài +
tiếp nước ngoài
Trong các biến kể trên, do dữ liệu biến TOT trên trang của
databank.worldbank không có đủ dữ liệu và dữ liệu không chính xác để thực
29
hiện hồi quy nên tác giả không đưa biến TOT và mô hình nghiên cứu cho luận
văn này.
Từ mô hình tổng quát ở phần 2.2, với hai thước đo của phát triển tài chính
là PCY và M2Y, ta có hai mô hình hồi quy như sau:
Mô hình 1: (3.1)
lnGDP = b0 + b1PRK + b2PUK +b3IY + b4LNL + b5INF + b6INF2 + b7FDI+
b8EXPORT+ b9M2Y
Mô hình 2: (3.2)
lnGDP = b0 + b1PRK + b2PUK +b3IY + b4LNL + b5INF + b6INF2 + b7FDI+
b8EXPORT+ b9PCY
Đây là mô hình được dùng để đánh giá tác động của trung gian tài chính
tới tăng trưởng kinh tế được dùng ở các phần sau của báo cáo này.
3.2. Giả thiết nghiên cứu
Như đã trình bày trong phần tổng hợp các nghiên cứu trước đây, rất nhiều
tác giả ủng hộ cho quan điểm rằng trung gian tài chính có tác động tích cực đến
tăng trưởng sản lượng của một quốc gia. Các tác giả như Levine và Zervos
(1996), Levine (1997), Levine (1998), Khan và Senhadji (2003), Beck và Levine
(2004), Ang (2007) đã khẳng định cho quan điểm trên bằng nhiều mô hình, dữ
liệu và phương pháp khác nhau.
Dựa vào những công trình nói trên và mô hình nghiên cứu đề nghị trong
mục trước, có hai giả thiết nghiên cứu sẽ được kiểm định trong luận văn này như
sau:
Giả thiết 1: Tỷ lệ tín dụng trên GDP có tác động tích cực đến tăng trưởng sản
lượng quốc gia.
Giả thiết 2: Tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng M2 trên GDP có tác động tích cực đến
tăng trưởng sản lượng quốc gia.
30
3.3 Thu thập dữ liệu
Dữ liệu của các biến trong mô hình được là dữ liệu chuỗi thời gian (time
series data) và thu thập từ nhiều nguồn khác nhau. Dữ liệu thời gian được thu
thập trong khoảng thời gian 18 năm, từ năm 1995 tới năm 2012, theo lý thuyết,
khoảng thời gian này là chưa đủ để dùng cho mô hình dữ liệu chuỗi thời gian, tuy
nhiên, do dữ liệu nghiên cứu tại Việt Nam từ những năm trước 1995 không đủ dữ
liệu cho các biến quan sát nên tác giả bắt buộc phải dùng bộ dữ liệu nghiên cứu
này.
Đối với dữ liệu GDP, PRK, PUK, FDI, tác giả lấy từ trang mạng của tổng
cục thống kê Việt Nam, được truy cập vào ngày 26/04/2014 theo địa chỉ:
http://gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=706&ItemID=13412
31
Bảng 3.3: Bảng tổng hợp số liệu mô hình tại Việt Nam giai đoạn 1995-2012
Năm GDP lnl (tỷ đồng) M2Y (%) PCY (%) PUK (tỷ đồng) IY (%) INF (%) INF2 (%) EXPORT (triệu USD)
8,70 6,60 8,84 5,73
2,68 4,94 6,89 9,23 9,20 8,57 9,63
6,22
195567 213833 231264 244596 256272 273666 292535 313247 336242 362435 393031 425372 461344 490458 516566 551609 584073 616537 19,57 20,71 22,51 24,21 36,37 41,33 48,27 49,01 57,06 63,66 70,96 79,22 100,58 93,66 105,61 114,85 99,80 106,46 18,48 18,67 19,85 20,12 28,19 32,67 36,39 39,85 44,79 53,97 60,47 65,36 85,64 82,87 103,32 114,72 101,80 94,83 FDI (triệu USD) 2792,0 2938,2 3277,1 2372,4 2528,3 2398,7 2225,6 2884,7 2723,3 2708,4 3300,5 4100,4 8034,1 11500,2 10000,5 11000,3 11000,1 10046,6 6273,62 7779,29 9023,98 10738,53 13208,40 15995,51 18743,62 20686,94 24813,89 31171,13 36712,09 40823,84 45926,84 52218,80 49563,44 53751,55 59548,38 68902,88
WB WB 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 WB, giá so sánh 2005
17857 27,14 17,41 17,04 290,37 75,63 18537 28,10 17,43 43,53 20032 28,30 17,46 78,11 21586 29,05 17,48 24012 27,63 17,51 32,89 26335 27,44 17,54 11,59 134,43 7,17 29241 28,87 17,56 24,43 35134 30,70 17,58 47,45 42844 32,82 17,61 85,24 53535 32,60 17,63 84,71 62842 33,76 17,65 72903 34,54 17,67 73,43 92,74 92517 39,57 17,69 89324 36,49 17,71 22,67 514,08 38,63 92801 37,16 17,73 128575 35,69 17,75 12,07 145,79 122365 29,75 17,77 21,26 452,02 132276 27,24 17,78 10,93 119,38 Tác giả WB WB WB tính toán Tổng cục thống kê, giá so sánh 1994 Tổng cục thống kê, giá so sánh 1994 Tổng cục thống kê, giá hiện hành PRK (tỷ đồng) 27185 36475 43801 50498 58585 68089 77421 86677 95471 105082 115196 126601 131905 128598 173089 167813 145235 159177 Tổng cục thống kê, giá so sánh 1994
32
3.4 Phương pháp phân tích dữ liệu
Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp phân tích dữ liệu chuỗi thời
gian (time series data). Đầu tiên, nghiên cứu sẽ trình bày các thống kê mô tả để
thấy dược xu hướng cơ bản của các đại lượng trong mô hình. Tiếp theo, các biến
trong mô hình sẽ được kiểm định tính dừng trước khi thực hiện hồi quy. Sau đó,
nghiên cứu thực hiện hồi quy theo mô hình nghiên cứu đề nghị được trình bày
trên đây. Và cuối cùng, các kiểm định có liên quan, chẳng hạn kiểm định tự
tương quan và đa cộng tuyến, sẽ được thực hiện để kiểm tra độ tin cậy của các hệ
số hồi quy.
3.5 Tổng kết chương
Chương này trình bày đầy đủ về phương pháp nghiên cứu của luận văn.
Đầu tiên, chương này trình bày một mô hình nghiên cứu thực nghiệm, dựa trên
cơ sở lý thuyết được trình bày trong chương 1, được áp dụng cho phân tích dữ
liệu. Tiếp theo, chương 2 trình bày các giả thiết nghiên cứu sẽ được kiểm định
bằng phân tích dữ liệu. Cuối cùng, nguồn dữ liệu và phương pháp phân tích dữ
liệu phục vụ mục tiêu nghiên cứu đã được trình bày trong chương này.
33
CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
4.1 Thống kê mô tả
Trong thời gian dữ liệu quan sát từ năm 1995 tới năm 2012 tại Việt Nam,
phát triển tài chính có mối quan hệ rất chặt chẽ với GDP. Thông qua đồ thị phân
tán có đường xu thế, tỷ lệ tăng của khối tiền tệ trên GDP và tín dụng tư nhân trên
GDP dẫn đến tốc độ tăng tương ứng của GDP, độ sâu tài chính nhìn chung tăng
trưởng cùng chiều với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Hình 4.1 Tương quan phát triển tài chính và tăng trưởng
34
(Nguồn: tác giả tự tính toán)
Hình 4.2 cho ta thấy xu hướng thay đổi của các chỉ số phát triển của Việt Nam
trong vòng 17 năm từ 1995 đến 2012.
Hình 4.2 Các chỉ số tăng trưởng, tỷ lệ tín dụng và tỷ lệ tiền mở rộng trong
GDP trong giai đoạn 1995 – 2012.
Nguồn: Tính toán và vẽ đồ thị từ dữ liệu nghiên cứu.
Nhìn chung, tỷ lệ khối tiền mở rộng trên GDP (M2Y) và tỷ lệ tín dụng tư
nhân trên GDP (PCY) tăng lên đều đặn qua các năm trong giai đoạn nghiên cứu.
Bên cạnh đó, tỷ lệ tăng trưởng sản lượng dù có thay đổi không ổn định, đã qua
giai đoạn tăng trưởng nhanh, nhưng vẫn là số dương. Tăng trưởng tín dụng và
tiền tệ rất cao nhưng tăng trưởng sản lượng lại không như kỳ vọng. Dưới đây là
một vài thống kê mô tả về các chỉ tiêu này.
35
Bảng 4.1 Một số thống kê mô tả quan trọng
Tên biến LNGDP M2Y PCY PRK PUK IY LNL INF INF2 FDI EXPORT
Trung 12,8 64,10 56,77 99827,7 60150,9 31,5 17,61 10,15 130,0 5323,9 31437,9
bình
Độ lệch 0,36 33,29 32,97 46447,9 40497,2 3,94 0,12 5,33 143,5 3608,0 19990,0
chuẩn
Cực tiểu 12,18 19,56 18,48 27185 17857 27,14 17,41 2,67 7,17 2225,6 6273,6
Cực đại 13,33 114,85 114,72 173089 132276 39,57 17,78 22,67 514,8 11500,2 68902,9
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
36
Bảng 4.1 trình bày các thống kê mô tả của các biến trong mô hình. Trong
giai đoạn nghiên cứu, kinh tế Việt Nam tăng trưởng trung bình với tỷ lệ 12,8%,
với năm tăng trưởng mạnh nhất đạt tới gần 13,3%. Trung bình tỷ lệ tín dụng tư
nhân trên GDP là khoảng 56,77%, số liệu của tín dụng tư nhân giao động mạnh
với độ lệch chuẩn là 32,97% với số liệu cao nhất trong dữ liệu là 114,72%. Trung
bình tỷ lệ M2 trên GDP là gần 64% với giá trị cao nhất trong dữ liệu là gần
114,85%. Tỷ lệ (%) đầu tư so với GDP trong giai đoạn nghiên cứu trung bình
khoảng 31,5% và không chênh lệch quá nhiều giữa các năm, với độ lệch chuẩn
thấp khoảng 3,94%.
4.2 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển tài chính
Tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và các thước đo phát triển tài chính
được phác họa bởi các đồ thị phân tán dưới đây.
37
Hình 4.3 Tương quan giữa thu nhập (GDP) và các chỉ số phát triển tài chính
Nguồn: Tính toán và vẽ đồ thị từ dữ liệu nghiên cứu.
Hình 4.3 cho thấy rằng có thể có mối quan hệ đồng biến giữa thu nhập với
tỷ lệ khối tiền mở rộng trên GDP (M2/GDP) và giữa thu nhập với tỷ lệ tín dụng
38
tư nhân (private credit) trên GDP. Như vậy, có thể nhìn nhận trực quan rằng phát
triển tài chính có thể đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mối quan hệ
này cần phải được kiểm chứng thông qua các kỹ thuật phân tích hồi quy sẽ được
trình bày trong phần tiếp theo của chương này.
4.3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.3.1 Kết quả kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình
Để thực hiện hồi quy với các biến trong phương trình hồi quy là dữ liệu
chuỗi thời gian, ta cần kiểm tra xem các chuỗi thời gian này là dừng (stationary)
hay không dừng (nonstationary), được gọi là kiểm định tính dừng. Luận văn này
sử dụng kiểm định Dickey-Fuller mở rộng để kiểm định tính dừng của các chuỗi
thời gian trong mô hình. Kết quả kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình
được trình bày chi tiết trong phụ lục 1 và được tổng hợp trong Bảng 3.2 dưới
đây.
Bảng 4.2. Kết quả kiểm dịnh tính dừng các biến trong mô hình
Tên biến Giá trị thống kê P-value Kết luận
0,6482 Không dừng -1,258 LNGDP
0,8768 Không dừng -0,574 M2Y
0,8896 Không dừng -0,512 PCY
0,7667 Không dừng -0,962 PRK
0,9905 Không dừng 0,734 PUK
0,6389 Không dừng -1,279 IY
0,0000 Dừng -7,745 LNL
0,0017 Dừng -3,948 INF
0,0007 Dừng -4,179 INF2
0,9189 Không dừng -0,345 FDI
39
EXPORT 1,907 0,9985 Không dừng
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Theo Bảng 4.2, các giá trị p-value của các biến LNL, INF, INF2 trong mô
hình đều nhỏ hơn 5%. Như vậy, các biến LNL, INF và INF2 là các chuỗi thời
gian dừng (stationary), còn tất cả các biến còn lại đều là chuỗi không dừng. Để
khắc phục tình trạng này, nghiên cứu sẽ tạo các biến sai phân bậc nhất của các
chuỗi thời gian trong mô hình nhằm tạo được các chuỗi dừng. Bảng dưới đây sẽ
tóm tắt kết quả kiểm định Dickey-Fuller mở rộng cho các biến sai phân bậc một.
Bảng 4.3. Kết quả kiểm dịnh tính dừng các chuỗi sai phân bậc một
Tên biến Giá trị thống kê P-value Kết luận
dLNGDP 0,1371 Không dừng -2,417
dM2Y -5,226 0,0000 Dừng
dPCY -3,576 0,0062 Dừng
dPRK -4,770 0,0001 Dừng
dPUK -5,084 0,0000 Dừng
dIY -3,042 0,0311 Dừng
dLNL -0,527 0,8867 Không dừng
dINF -6,574 0,0000 Dừng
dINF2 -6,507 0,0000 Dừng
dFDI -2,902 0,0451 Dừng
-2,482 dEXPORT 0,1200 Không dừng
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
40
Sau khi lấy sai phân bậc 1, vẫn còn các chuỗi dLNGDP, dLNL,
dEXPORT là không dừng. Như vậy, nghiên cứu tiếp tục lấy sai phân bậc hai và
tiến hành kiểm định Dickey-Fuller mở rộng cho các biến sai phân bậc hai này.
Bảng 4.4. Kết quả kiểm dịnh tính dừng các chuỗi sai phân bậc hai
Tên biến Giá trị thống kê P-value Kết luận
ddLNGDP -3,316 0,0142 Dừng
ddLNL -4,264 0,0005 Dừng
ddEXPORT -5,175 0,0000 Dừng
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Theo kết quả kiểm định Dickey-Fuller mở rộng cho các biến sai phân bậc
hai, tất cả các chuỗi đều có p-value <0.05, như vậy kết luận các chuỗi đều dừng.
Sau khi lấy sai phân của các biến trong mô hình (3.1) và (3.2), ta có hai phương
trình hồi quy mới, với các biến sai phân bậc 2, như sau:
Phương trình (4.1): ddlnGDP = b0 + b1ddPRK + b2dPUK +b3dIY + b4ddLNL +
b5dINF + b6dINF2 + b7dFDI+ b8ddEXPORT+ b9dM2Y
Phương trình (4.2): ddlnGDP = b0 + b1ddPRK + b2dPUK +b3dIY + b4ddLNL +
b5dINF + b6dINF2 + b7dFDI+ b8ddEXPORT+ b9dPCY
Hai phương trình (4.1) và (4.2) sẽ là hai phương trình hồi quy, được sử
dụng để phân tích mối quan hệ giữa phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế,
như mục tiêu nghiên cứu của luận văn này.
4.3.2 Kết quả kiểm định tương quan chuỗi và đa cộng tuyến
Mục này trình bày kết quả của kiểm định tự tương quan (autocorrelation)
và kiểm định đa cộng tuyến (multicolinearity) cho mô hình nghiên cứu. Đầu tiên,
Bảng 3.3 trình bày kết quả kiểm định đa cộng tuyến, mà cụ thể là kết quả tính
toán các hệ số tương quan cặp tương ứng của các biến trong mô hình. Theo kết
41
quả tính toán, trong Bảng 3.3, các hệ số tương quan từng cặp của các biến trong
mô hình đều không cao, và đều có giá trị (tuyệt đối) thấp hơn 0,8. Chỉ có ba
trường hợp hệ số tương quan cặp của ddM2Y-ddIY, ddINF-ddM2Y, ddINF-
ddPRK, ddINF-ddINF2 có hệ số tương quan khá cao, lần lượt là 0,8223, 0,8343,
0,9232 và 0,8957
42
Bảng 4.5. Hệ số tương quan cặp (Pairwise correlation)
Phương trình 3.1
ddM2Y ddPRK ddPUK ddIY ddLNL ddINF ddINF2 ddFDI ddEXPORT
1 ddM2Y
0,5799 1 ddPRK
0,6907 0,0330 1 ddPUK
0,8223 0,5353 0,5555 ddIY 1
0,2068 0,0312 -0,0001 -0,1770 1 ddLNL
-0,8343 -0,7489 -0,4322 -0,7213 -0,1951 1 ddINF
-0,7231 -0,9232 -0,1683 -0,6498 -0,0964 0,8957 1 ddINF2
-0,1119 -0,7048 -0,2784 -0,1055 -0,1411 0,4434 0,6490 1 ddFDI
ddEXPORT -0,2362 -0,6816 0,1809 -0,3478 -0,0905 0,5375 0,6180 0,6632 1
43
Phương trình 3.2
ddPCY ddPRK ddPUK ddIY ddLNL ddINF ddINF2 ddFDI ddEXPORT
1 ddPCY
0,6215 1 ddPRK
0,5971 0,0330 1 ddPUK
0,7951 0,5353 0,5555 ddIY 1
0,1143 0,0312 -0,0001 -0,1770 1 ddLNL
-0,7856 -0,7489 -0,4322 -0,7213 -0,1951 1 ddINF
-0,6990 -0,9232 -0,1683 -0,6498 -0,0964 0,8957 1 ddINF2
-0,1669 -0,7048 0,2784 -0,1055 -0,1411 0,4434 0,6490 1 ddFDI
ddEXPORT -0,4798 -0,6816 0,1809 -0,3478 0,0905 0,5375 0,6180 0,6632 1
Nguồn: Tính toán của tác giả
44
Kết quả kiểm định tự tương quan được trình bày trong các bảng dưới đây.
Luận văn này sử dụng kiểm định Durbin-Watson và kiểm định Breush-Godfrey
để kiểm tra sự tồn tại của hiện tượng tự tương quan.
Bảng 4.6 Kết quả kiểm định Durbin-Watson
Giá trị tra bảng (5%) Giá trị thống kê Mô hình Kết luận Durbin-Watson (dw) dL dU
Mô hình (3.1) 1,1877 0,843 2,822 dL < dw < 4 - dU
Mô hình (3.2) 1,6087 0,843 2,822 dL < dw < 4 - dU
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Theo kết quả trình bày trong Bảng 4.6, cả hai mô hình hồi quy đều cho kết
quả giá trị thống kê Durbin – Watson nằm trong khoảng (dL, 4-dU), đây là
khoảng giá trị không thể cho ta thông tin để kết luận về sự tồn tại của hiện tượng
tự tương quan. Hay nói cách khác, kiểm định Durbin – Watson chưa cho biết
rằng liệu có tồn tại hiện tượng tự tương quan hay không. Trong bối cảnh này,
kiểm định Breush – Godfrey sẽ được áp dụng, như một cách bổ sung, để xem xét
sự tồn tại của hiện tượng tự tương quan. Trong trường hợp của luận văn này,
kiểm định Breush – Godfrey sẽ được tiến hành ở độ trễ bậc hai.
Bảng 4.7. Kết quả kiểm định Breush – Godfrey
Mô hình Giá trị thống kê F p-value
Mô hình (3.1) 3,579 0,1171
Mô hình (3.2) 0,747 0,4270
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Trong kiểm định Breush – Godfrey, giả thiết H0 là không có hiện tượng tự
tương quan. Với p-value của thống kê F, như trong Bảng 3.7, là 0,1171 và
0,4270, ta có thể chấp nhận giả thiết H0 ở mức ý nghĩa 5%. Như vậy, ta có thể
45
kết luận rằng không có hiện tượng tự tương quan trong các mô hình hồi quy (3.1)
và (3.2).
Tóm lại, kết quả kiểm định không cho thấy dấu hiệu của hiện tượng đa
cộng tuyến. Hơn nữa, phương pháp lấy sai phân bậc 2 cũng đã tạo được chuỗi dữ
liệu dừng đồng thời khắc phục được hiện tượng tự tương quan trong các mô hình
hồi quy. Kết quả hồi quy sẽ được trình bày trong mục tiếp theo của chương này.
4.3.3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Bảng 4.8 trình bày kết quả hồi quy các mô hình nghiên cứu của luận văn.
Kết quả hồi quy của hai mô hình (4.1) và (4.2) được trình bày tóm tắt
trong bảng dưới đây. (Kết quả hồi quy các mô hình này được trình bày chi tiết và
đầy đủ hơn trong phụ lục 2).
46
Bảng 4.8. Kết quả nghiên cứu: Các hệ số hồi quy ước lượng mô hình 4.1 và
4.2
Biến Mô hình 4.1 Mô hình 4.2
dM2Y 0,0007
dPCY 0,0007**
dPRK 2,11e-07 6,87e-08
dPUK 3,59e-07 3,65e-07
dIY -0,0003 -0,0009
ddLNL -5,73** -6,185*
dINF -0,002 -0,0018**
dINF2 0,000 -0,0000
dFDI -4,56e-06* -4,10e-06*
ddEXPORT 1,44e-06 2,77e-06*
Adj R-squared 0,8015 0,8602
Prob > F 0,0108 0,0040
Ghi chú: * : có ý nghĩa ở mức 5%,** : có ý nghĩa ở mức 10%,
***: có ý nghĩa mức 15%
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Kết quả hồi quy mô hình (4.1) cho thấy rằng hệ số hồi quy ước lượng của
biến dM2Y là 0,0007 và hệ số ước lượng này không có ý nghĩa thống kê.
Tương tự, theo kết quả hồi quy mô hình (4.2), hệ số hồi quy ước lượng
của biến dPCY là 0,0007, hệ số này có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Biến
ddLNL có ý nghĩa thống kê ở cả hai mô hình nhưng dấu không đạt như kỳ vọng.
47
Ngoài ra phương trình 4.2 còn cho thấy biến FDI và xuất khẩu có tác động đến
tăng trưởng kinh tế.
Trở lại bảng 4.5, do các biến ddIY, ddINF2 có tương quan với các biến
còn lại trong mô hình nên ta tiến hành hồi quy lại phương trình 4.1 và 4.2 không
bao gồm hai biến này.
Phương trình (4.3): ddlnGDP = b0 + b1ddPRK + b2dPUK + b3ddLNL + b4dINF
+ b5dFDI+ b6ddEXPORT+ b7dM2Y
Phương trình (4.4): ddlnGDP = b0 + b1ddPRK + b2dPUK + b3ddLNL + b4dINF
+ b5dFDI+ b6ddEXPORT+ b7dPCY
Kết quả hồi quy cho hai mô hình này được trình bày trong bảng sau
Bảng 4.9. Kết quả nghiên cứu phương trình 4.3 và 4.4
Biến Mô hình 4.3 Mô hình 4.4
dM2Y 0,0007**
dPCY 0,0009*
dPRK -1,77e-07 -1,75e-07
dPUK -1,44e-08 -2,24e-07
ddLNL -5,2212* -5,8140*
dINF 0,0001 -0,0004
dFDI -2,98e-06** -2,66e-06*
ddEXPORT 8,93e-07 2,72e-06*
Adj R-squared 0,7593 0,8188
Prob > F 0,0049* 0,0017*
Ghi chú: * : có ý nghĩa ở mức 5%,** : có ý nghĩa ở mức 10%,
***: có ý nghĩa mức 15%
48
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Theo bảng 4.9, sau khi loại bỏ biến dIY và dINF2, kết quả hồi quy đạt
được khả quan hơn với cả biến dM2Y và dPCY đều có ý nghĩa thống kê. Hệ số
R hiệu chỉnh của cả hai phương trình 4.3 và 4.4 cũng lớn hơn của phương trình
3.1 và 3.2. Kiểm định Prob > F của cả hai phương trình đều có ý nghĩa ở mức
5%. Bên cạnh đó, mô hình cũng lý giải được tác động của biến lao động, FDI và
xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế được giải thích thông qua tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng,
tỷ lệ tín dụng tư nhân, lực lượng lao động, FDI và xuất khẩu của quốc gia.
Tác giả sẽ dùng phương trình (4.3) và (4.4) để trả lời cho các câu hỏi
nghiên cứu của luận văn này, ta tập trung xem xét các hệ số hồi quy của các
thước đo phát triển tài chính, bao gồm PCY và M2Y.
Theo kết quả hồi quy mô hình (4.4), hệ số hồi quy ước lượng của biến
dPCY là 0,0009, và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Do đó, có thể thấy rằng có
mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ tín dụng tư nhân với tăng trưởng sản
lượng của nền kinh tế. Giả thiết nghiên cứu thứ nhất, phát biểu về mối quan hệ
đồng biến giữa tỷ lệ tín dụng tư nhân và tăng trưởng GDP, được chấp nhận một
cách có ý nghĩa.
Kết quả hồi quy mô hình (4.3) cho thấy hệ số hồi quy ước của biến dM2Y
là 0,0007 và có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Điều này hàm ý rằng có tương
quan có ý nghĩa giữa tăng trưởng sản lượng và tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng nhân
trên GDP. Ta có thể chấp nhận giả thiết nghiên cứu thứ hai, phát biểu rằng có
mối tương quan đồng biến giữa tăng trưởng GDP và tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng.
Tóm lại, kết quả phân tích dữ liệu đã chấp nhận những giả thiết nghiên
cứu được trình bày trong chương hai. Kết quả khẳng định trong tình huống
nghiên cứu tại Việt Nam từ năm 1995 tới 2012, mối quan hệ đồng biến giữa tỷ
49
lệ tín dụng tư nhân trên GDP và tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng trên GDP là có ý nghĩa
thống kê.
Bảng 4.10. Kết quả phân tích nhân tố phóng đại phương sai VIF
Biến Mô hình 4.3 Mô hình 4.4
dM2Y 4,59
dPCY 5,44
6,91 6,37 dPRK
3,15 5,45 dPUK
1,25 1,36 ddLNL
4,33 4,05 dINF
2,39 2,03 dFDI
4,69 6,27 ddEXPORT
Nguồn: Tổng hợp bởi tác giả
Tuy nhiên, theo như đã trình bày ở chương trước, do dữ liệu đề tài thu
thập được trong khoảng thời gian là 18 năm nên chưa đủ chiều sâu để phân tích
tác động của trung gian tài chính đến tăng trưởng kinh tế. Do hiện tượng không
đủ biến quan sát này mà mô hình đã gặp hiện tượng tự tương quan khá cao ở
biến dPCY, dPRK, dPUK và ddEXPORT là ảnh hưởng đến các kết quả hồi quy
của mô hình. Tuy nhiên do đề tài chỉ nghiên cứu đến hai biến chính là biến tiền
tệ mở rộng và tín dụng tư nhân nên chỉ xem xét ý nghĩa của hai biến này.
Thông qua cơ chế hoạt động của mình như huy động vốn, minh bạch hóa
thông tin, hệ thống trung gian tài chính tại Việt Nam trong giai đoạn 1995 -2012
đã góp phần trong tăng trưởng kinh tế thông qua kênh truyền dẫn là gia tăng vốn
vật chất và gia tăng yếu tố năng suất.
50
So sánh kết quả của báo cáo này với tác giả Ngô Quang Mỹ Thiên (2012),
báo cáo đã chỉ ra được các biến số trực tiếp tác động đến tăng trưởng kinh tế
thông qua mô hình gồm biến độ sâu tài chính và các biến kiểm soát bổ sung vào
mô hình như FDI và xuất khẩu.
Trong điều kiện các thị trường tài chính và định chế tài chính ở Việt Nam
còn chưa phát triển so với thế giới và vẫn còn ở mức độ sơ khai, kết quả của
nghiên cứu là hoàn toàn có căn cứ. Kết quả của nghiên cứu này được đặt trong
bối cảnh so sánh với các nghiên cứu khác để làm rõ hơn vấn đề đang nghi vấn.
Kết quả này ủng hộ lập luận của King & Levine (1993), Arestis và Demetriades
(1997) khi cho rằng phát triển tài chính đóng góp vào tăng trưởng kinh tế khi đạt
được một mức độ tăng trưởng nhất định. Trong khoảng thời gian mà các thị
trường tài chính và thể chế tài chính chưa phát triển, đóng góp của phát triển tài
chính vào tăng trưởng kinh tế là hạn chế.
4.4 Tổng kết chương
Chương 4 của luận văn trình bày kết quả của việc phân tích dữ liệu phục
vụ mục tiêu nghiên cứu. Đầu tiên, nội dung trình bày là thống kê mô tả nhằm
phác họa những nét đầu tiên về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát
triển tài chính. Tiếp theo, chương này trình bày kết quả phân tích hồi quy để thấy
rõ hơn mối tương quan giữa hai đại lượng nói trên. Một cách tổng quát, nghiên
cứu này tìm thấy mối quan hệ đồng biến giữa phát triển tài chính và tăng trưởng
kinh tế. Cuối cùng là những thảo luận của người viết về những kết quả nghiên
cứu. Phần tiếp theo, phần cuối cùng của luận văn sẽ mang đến kết luận và những
khuyến nghị chính sách từ kết quả nghiên cứu.
51
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
5.1 Phương pháp nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu bộ dữ liệu thời gian tại Việt Nam , báo cáo đã chỉ
ra được tác động của phát triển tài chính theo chiều sâu có tác động đến tăng
trưởng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ 1995 – 2012. Từ mô hình phân tích được
tổng hợp từ các nghiên cứu trước đây trên thế giới, tác giả đã đưa ra phương
trình nghiên cứu với tám biến số trong đó có hai biến quan tâm là tỷ lệ tín dụng
tư nhân trên GDP và tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng trên GDP và sáu biến kiểm soát
để đo lường tác động của phát triển tài chính tới tăng trưởng kinh tế.
Kết quả nghiên cứu với hai biến phát triển tài chính theo chiều sâu và ba
biến kiểm soát có ý nghĩa, báo cáo đã chỉ ra được tăng trưởng kinh tế được giải
thích thông qua tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng trên GDP, tỷ lệ tín dụng tư nhân trên
GDP, lực lượng lao động, FDI và xuất khẩu của quốc gia.
5.2 Khám phá chính
Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, luận văn
này chọn yếu tố phát triển tài chính để đánh giá đóng góp của yếu tố này đến
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hàng loạt yếu tố đã được các nhà kinh tế chỉ
ra rằng có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, chẳng hạn như tích lũy vốn vật
chất, lao động và vốn con người, đầu tư, chi tiêu chính phủ, lạm phát, xuất khẩu,
tiến bộ công nghệ. Trong luận văn này, vai trò của một hệ thống tài chính đối với
tăng trưởng kinh tế được nhấn mạnh. Một hệ thống tài chính phát triển tốt sẽ góp
phần huy động tiết kiệm từ trong dân chúng, giảm chi phí giao dịch tài chính và
giao dịch hàng hóa dịch vụ, quản lý rủi ro bằng cách “chuyển nhượng” hay mua
bán rủi ro. Qua đó, hệ thống tài chính này thúc đẩy quá trình phân bổ nguồn lực
sản xuất một cách hiệu quả. Do vậy, một hệ thống tài chính, khi thực hiện đúng
chức năng của mình, có thể tạo ra những kênh hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng
kinh tế như tích lũy vốn (capital accumulation) và thúc đẩy tiến bộ công nghệ
(technological innovation).
52
Với mục tiêu xác định phát triển tài chính theo chiều sâu có tác động đến
tăng trưởng kinh tế. Kết quả cho thấy hệ số của biến tỷ lệ tín dụng tư nhân trên
GDP và tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng trên GDP và dương và có ý nghĩa. Mối liên hệ
đồng biến thông qua việc tăng tỷ lệ tiền tệ trên GDP và tăng tỷ lệ tín dụng tư
nhân trên GDP dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Qua đó, tác giả trả lời được hai câu
hỏi nghiên cứu đã nêu ra ở phần mở đầu.
Xét trong tình hình tăng trưởng kinh tế hiện tại của Việt Nam, với hệ
thống tài chính vẫn còn nhiều hạn chế, nghiên cứu chỉ ra rằng khi phát triển tài
chính theo chiều sâu hiệu quả sẽ góp phần tích lũy vốn, phân bổ vốn hiệu quả từ
đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Kết quả này cũng ủng hộ quan điểm của các
nghiên cứu trước chứng minh tồn tại tương quan dương giữa phát triển tài chính
theo chiều sâu và tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh các biến nghiên cứu chính, các biến kiểm soát như lực lượng lao
động, FDI và xuất khẩu của quốc gia cũng đóng góp trong tăng trưởng GDP.
Quốc gia có giá trị xuất khẩu càng cao sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua
cán cân thương mại.
Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tác động của phát triển tài chính
đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nghiên cứu này trả lời câu hỏi rằng phát
triển tài chính có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế hay không. Nghiên
cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian về các chỉ số phát triển kinh tế và các chỉ số
đo lường phát triển tài chính. Phạm vi của nghiên cứu là Việt Nam, một thị
trường tài chính mới chỉ được thành lập và hoạt động trong thời gian ngắn, và
đang nỗ lực để phát triển. Mô hình nghiên cứu, là mô hình tăng trưởng kinh tế,
trong đó phát triển tài chính được đo lường bởi hai chỉ số là (i) tỷ lệ khối tiền tệ
mở rộng M2 trên GDP (M2Y), và (ii) tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP (PCY).
Các nhân tố khác có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế - chẳng hạn như đầu tư,
xuất khẩu, lạm phát, đầu tư trực tiếp nước ngoài - cũng được bao gồm trong mô
hình. Mô hình này phù hợp với điều kiện về dữ liệu của Việt Nam, do trình độ
phát triển tài chính còn thấp, trong giai đoạn 1995 – 2012. Để đánh giá vai trò
53
của phát triển tài chính đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn
1995 – 2012, nghiên cứu này tiến hành kiểm định các giả thiết về các mối quan
hệ đồng biến giữa tăng trưởng kinh tế và các chỉ số đo lường phát triển tài chính,
tức là M2Y và PCY.
Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng tăng trưởng tổng sản lượng
quốc nội -GDP- của Việt Nam có mối quan hệ đồng biến với các chỉ số phát triển
tài chính, tức M2Y và PCY, và những mối tương quan này có ý nghĩa về mặt
thống kê. Những mối quan hệ đồng biến này cho phép chấp nhận giả thiết nghiên
cứu, và nhận định rằng có mối quan hệ đồng biến giữa tăng trưởng kinh tế và
phát triển tài chính. Việc chấp nhận các giả thiết nghiên cứu hàm ý rằng phát
triển tài chính thực sự đóng góp một cách có ý nghĩa đến tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu.
5.3 Hạn chế của đề tài
Vì nhiều lý do khác nhau, luận văn này còn mắc phải một số nhược điểm
sau. Đầu tiên, luận văn chỉ sử dụng hai chỉ số đo lường độ sâu tài chính, là tỷ lệ
khối tiền rộng M2 và tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP, để đo lường sự phát triển
tài chính trong điều kiện Việt Nam. Lý do là hệ thống tài chính Việt Nam chưa
phát triển nên việc thu thập dữ liệu cho các chỉ số khác không khả thi. Để đo
lường chính xác mức độ phát triển tài chính, cần có những chỉ số khác, chẳng
hạn chỉ số vốn hóa thị trường chứng khoán, chỉ số thanh khoản của hệ thống
ngân hàng, tầm quan trọng của ngân hàng thương mại đối với ngân hàng trung
ương. Do vậy, sự hạn chế trong thước đo phát triển tài chính có thể đánh giá một
cách chưa đầy đủ tác động của phát triển tài chính đến tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế trong mô hình nghiên cứu chỉ được đo lường
bằng tổng sản phẩm quốc nội GDP. Do đó, đóng góp của phát triển tài chính chỉ
được xem xét trong khía cạnh tác động của nó đến tăng trưởng sản lượng của nền
kinh tế. Cuối cùng, do hệ thống tài chính của Việt Nam mới hình thành và phát
triển trong thời gian gần đây (từ cuối những năm 1980) và dữ liệu được tổng hợp
hằng năm nên dữ liệu chuỗi thời gian phục vụ nghiên cứu là còn ngắn, và một số
54
biến không có đủ quan sát trong giai đoạn 1995 – 2012. Vì vậy, việc phân tích dữ
liệu với chuỗi thời gian ngắn và thiếu quan sát gặp nhiều khó khăn hơn so với
việc phân tích chuỗi thời gian có nhiều quan sát như trường hợp thông thường.
Thứ ba, nghiên cứu chưa xét đến mối liên hệ nhân quả của từng đại lượng
trong mô hình và tăng trưởng kinh tế, cũng như tác động ngược lại từ tăng
trưởng kinh tế đến các biến kể trên.
Thứ tư, nghiên cứu chưa xét đến độ trễ trong tác động của các yếu tố đến
tăng trưởng kinh tế. Do đặc thù của các chính sách tài chính, tiền tệ và đầu tư
thường có độ trễ từ khi ban hành đến khi có hiệu lực nên tác động của mỗi biến
quan sát được tới tăng trưởng bao hàm trong đó tác động của độ trễ của các năm
trước đó.
Thứ năm, do dữ liệu nghiên cứu chuỗi thời gian của đề tài chỉ thu thập
được trong khoảng thời gian là 18 năm, chưa đủ cho phân tích mô hình dữ liệu
chuỗi do dữ liệu các biến quan sát trước năm 1995 tại Việt Nam không thu thập
được.
5.4 Gợi ý chính sách
Từ những kết quả nghiên cứu đã đạt được, chính sách để theo đuổi mục
tiêu tăng trưởng kinh tế được đề xuất là chính sách hỗ trợ phát triển tài chính.
Đầu tiên, ngân hàng trung ương nên có chính sách tiền tệ thích hợp sao
cho tăng tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng trong nền kinh tế. Chính sách tiền tệ mở rộng,
hay chính sách nới lỏng tiền tệ sẽ giúp tăng lượng tiền trong nền kinh tế, qua đó
làm tăng tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng M2/GDP. Tuy nhiên, chính sách này thường
dẫn đến lạm phát, một trở ngại cho việc hướng đến bình ổn kinh tế vĩ mô. Một
chính sách thiết thực hơn có thể là cải thiện hoạt động của hệ thống các ngân
hàng thương mại. Vì khối tiền mở rộng M2 có bao gồm tiền gửi ngân hàng (cả
tiền gửi thanh toán lẫn tiền gửi tiết kiệm), nên một hệ thống ngân hàng hoạt động
tốt sẽ có những khoản tiền lớn trong tài khoản và từ đó, tỷ lệ khối tiền tệ mở rộng
sẽ tăng cao, góp phần vào tăng trưởng kinh tế.
55
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ tăng trưởng tín dụng tư nhân cũng góp
phần vào tăng trưởng kinh tế, như kết quả nghiên cứu đã trình bày. Do vậy, một
hệ thống ngân hàng thương mại hoạt động tốt, như đã nói ở trên cũng sẽ góp
phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng tư nhân, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng thương mại không phải là kênh duy nhất để có
chức năng huy động vốn, cấp tín dụng cho đầu tư tư nhân. Các tổ chức tài chính
phi ngân hàng, các công ty tài chính và thị trường chứng khoán cũng có thể đảm
nhận chức năng huy động vốn và cấp tín dụng phục vụ cho sản xuất. Do đó, cần
có những chính sách hỗ trợ phát triển các tổ chức này, để tạo những nguồn huy
động vốn một cách đa dạng, phục vụ việc cấp tín dụng cho các đơn vị và cá nhân
phát triển sản xuất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng tổng sản lượng của nền kinh
tế Việt Nam.
Do rủi ro là bản chất của từng giao dịch tài chính (Levine, 1997) nên việc
công bố thông tin có ảnh hưởng lớn đến các quyết định của nhà đầu tư. Chính
phủ nên có các biện pháp cải thiện chế độ kế toán và quy định các công ty cũng
như các tổ chức tài chính bắt buộc phải cung cấp thông tin chính xác để tránh
cho nhà đầu tư có quyết định sai lầm dẫn đến thiệt hại cho nền kinh tế.
5.5 Hướng nghiên cứu mở rộng
Luận văn này gợi ý ra một số hướng nghiên cứu mở rộng cho các nghiên
cứu cùng lĩnh vực được thực hiện trong tương lai. Thứ nhất, trong điều kiện cho
phép, các nghiên cứu trong tương lai nên đa dạng hóa các chỉ số đo lường phát
triển tài chính và không bị bó hẹp trong phạm vi chỉ gồm các thước đo độ sâu tài
chính. Thứ hai, các nghiên cứu sau này nên xem xét ảnh hưởng của phát triển tài
chính đến GDP bình quân đầu người, một thước đo tốt hơn cho tăng trưởng kinh
tế. Thứ ba, với lập luận rằng GDP hay GDP bình quân đầu người không phản
ánh được một cách đầy đủ phúc lợi của người dân tại một quốc gia, các nghiên
cứu được đề xuất xem xét tác động của phát triển tài chính đến các biến số đo
lường thu nhập quốc dân (GNI) hay GNI bình quân đầu người. Hướng mở rộng
này đề xuất phân tích mối quan hệ giữa phát triển tài chính đến thu nhập hay
phúc lợi của một quốc gia. Thứ tư, do dữ liệu nghiên cứu của đề tài chỉ có 18
56
năm quan sát, chưa đủ dài để thấy được tác động của chiều sâu tài chính đến tăng
trưởng kinh tế, nên hướng nghiên cứu cho các bài viết tiếp theo dùng dữ liệu
chuỗi thời gian định kỳ hàng tháng sẽ đáp ứng được yêu cầu về dữ liệu chuỗi
thời gian. Cuối cùng, các nghiên cứu trong sau này nên sử dụng dữ liệu với
nhiều quan sát hơn để có thể đánh giá tốt hơn mối đóng góp của phát triển tài
chính đến tăng trưởng kinh tế hay phúc lợi xã hội cũng như phân tích độ trễ của
các chính sách này tới tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu một hệ
thống tài chính đầy đủ hơn khi bao hàm thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng tài
chính sẽ đánh giá đầy đủ hơn về thực trạng và đóng góp của hệ thống tài chính
vào tăng trưởng tại Việt Nam. Do trong khuôn khổ bài viết này, một số biến đo
lường hệ thống pháp luật và thị trường tài chính chưa thu thập được nên chưa thể
đưa ra nhận định tổng quát hơn về đóng góp của hai yếu tố này đến tăng trưởng
tại Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiếng Việt
Ngô Quang Mỹ Thiên. (2012). Nghiên cứu mối liên hệ giữa phát triển tài chính
theo chiều sâu và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Luận văn Thạc sĩ.
Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Hải Phương Linh. (2012). Mối quan hệ của phát triển tài chính theo
chiều sâu và tăng trưởng kinh tế. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Kinh
tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đức Mậu. (2012). Tác động của sở hữu chéo đến việc tuân thủ quy định
về đảm bảo an toàn hoạt động của ngân hàng thương mại. Luận văn thạc
sĩ. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.
Đinh Xuân Thành (2011). Tác động của hệ thống tài chính nội địa đối với phát
triển kinh tế. Bài đọc chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright.
2. Tiếng Anh
Acemoglu, D., Johnson, S., Robinson, J., & Thaicharoen, Y. (2003). Institutional
causes, macroeconomic symptoms: volatility, crises and growth.Journal
of monetary economics, 50(1), 49-123.
Ang, James B. (2007). Financial deepening and economic development in
Malaysia. Economic Papers: A journal of applied economics and policy,
26(3), 249-260.
Arestis, Philip & Demetriades, Panicos. (1997). Financial development an
economic growth: assessing the evidence. Economic Journal, 783-799.
Barro, R. J. (1996). Determinants of economic growth: a cross-country empirical
study (No. w5698). National Bureau of Economic Research.
Barro, R. J. (1996). Inflation and growth. Federal Reserve Bank of St. Louis
Review, 78(May/June 1996).
Beck, Thorsten, & Levine, Ross. (2004). Stock markets, banks, and growth:
Panel evidence. Journal of Banking & Finance, 28(3), 423-442.
Chow, P. C. (1987). Causality between export growth and industrial
development: empirial evidence from the NICs. Journal of development
Economics, 26(1), 55-63.
Christopoulos, Dimitris K, & Tsionas, Efthymios G. (2004). Financial
development and economic growth: evidence from panel unit root and
cointegration tests. Journal of development Economics, 73(1), 55-74.
Devereux, Michael B, & Smith, Gregor W. (1994). International risk sharing and
economic growth. International Economic Review, 535-550.
Dawson, J. W. (1998). Institutions, Investment, and Growth: New Cross‐country
and Panel Data Evidence. Economic Inquiry, 36(4), 603-619.
Demetriades, Panicos O & Hussein Khaled A. (1996). Does financial
development caus economic growth? Time-serie evidence from 16
countries. Journal of Development Economics, 387-411.
Fischer, S. (1983). Inflation and growth.
Khan, Mohsin S, & Senhadji, Abdelhak S. (2003). Financial development and
economic growth: A review and new evidence. Journal of African
Economies, 12(suppl 2), ii89-ii110.
King, Robert G., & Levine, Ross. (1993). Finance, entrepreneurship and growth.
Journal of Monetary Economics, 32(3), 513-542. doi:
http://dx.doi.org/10.1016/0304-3932(93)90028-E
Levine, Ross. (1997). Financial development and economic growth: views and
agenda. Journal of economic literature, 35(2), 688-726.
Levine, Ross. (1998). The legal environment, banks, and long-run economic
growth. Journal of Money, Credit and Banking, 596-613.
Levine, Ross, & Zervos, Sara. (1996). Stock market development and long-run
growth. The World Bank Economic Review, 10(2), 323-339.
Lucas Jr, Robert E. (1988). On the mechanics of economic development. Journal
of monetary economics, 22(1), 3-42.
Mankiw, N Gregory, Romer, David, & Weil, David N. (1992). A contribution to
the empirics of economic growth. The quarterly journal of economics,
107(2), 407-437.
Nair‐Reichert, U., & Weinhold, D. (2001). Causality Tests for Cross‐Country
Panels: a New Look at FDI and Economic Growth in Developing
Countries.Oxford bulletin of Economics and Statistics, 63(2), 153-171.
Rioja, Felix & Valel, Neven (2003). Does one size fit all?: a reexamination of the
finance and growth relationship. Journal of Development Economics 74
(2004), 429-447
Stern, Nicholas. (1989). The economics of development: a survey. The Economic
Journal, 99(397), 597-685.
Stiglitz, Joseph E. (1985). Credit markets and the control of capital. Journal of
Money, Credit and Banking, 17(2), 133-152.
Stiglitz, Joseph E. (1993). The role of the state in financial markets: Institute of
Economics, Academia Sinica.
Solow, R. M. (1956). A contribution to the theory of economic growth. The
quarterly journal of economics, 70(1), 65-94.
Soubbotina, T. P. (2004). Beyond economic growth: An introduction to
sustainable development. World Bank Publications.
PHỤ LỤC
KẾT QUẢ HỒI QUY
(Xử lý bằng phần mềm Stata)
Mô hình (4.1)
Mô hình (4.2)
Mô hình (4.3)
Mô hình (4.4)
Kết quả kiểm định đa cộng tuyến mô hình 3.1
Kết quả kiểm định đa cộng tuyến mô hình 3.2