intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tự do hóa lãi suất và những biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Chia sẻ: Anh Ngoc | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:64

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế "Tự do hóa lãi suất và những biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại" có nội dung gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề chung về ngân hàng thương mại, lãi suất, tự do hoá lãi suất và rủi ro lãi suất trong nền kinh tế. Chương 2: Cơ chế quản lý lãi suất trong thời gian qua của ngân hàng thương mại Việt Nam. Chương 3: Tự do hoá lãi suất và những biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tự do hóa lãi suất và những biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

  1. MỤC LỤC 53
  2. 3.2.Một số biện pháp nghiệp vụ nhằm hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM 58 3.2.1. ảo hiểm rủi ro bằng hợp đồng kỳ hạn 58 3.2.2.ảo hiểm rủi ro bằng hợp đồng tương lai 61 3.2.3.ảo hiểm rủi ro bằng hợp đồng quyền chọn 65 3.2.4.ảo hiểm rủi ro bằng hợp đồng hoán đổi 69 PHẦN KẾT LUẬN 73 Tài liệu tham  khảo  Phần phụ  lục 2.4.1. CHƯƠNG 01: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, LÃI   SUẤT,  T, TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT VÀ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG NỀN   KINH TẾ 1.1. Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Bản chất của NHTM: ­Thực chất, NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh  tiền tệ. NHTM thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội rồi cho vay đối với  các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đang cần vốn. Đó là hoạt động  kinh doanh đặc biệt­ kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Xét về bản chất của  doanh  nghiệp đặc thù này, thì phải xét trên hai khía cạnh: 1.Khía cạnh kinh tế : thông qua nghiệp vụ nợ, NHTM “vay” “quyền sử dụng  tiền  tệ” từ công chúng và các thành phần kinh tế trong một thời gian nhất  định; rồi  thông qua nghiệp có, NHTM lại đi “cho vay” lại chính “quyền sử  dụng tiền tệ”  này trong một thời gian nhất định đối với các khu vực cần vốn.  Quan hệ kinh  doanh giữa NHTM và các đối tác của nó dựa trên lòng tin;  NHTM vay vốn trong  xã hội và luôn mong muốn người đi vay sử dụng vốn  đúng mục đích, trả vốn  đúng thời hạn cam kết để NHTM hoàn trả vốn cho  người ký thác; ngược lại  khách hàng vay vốn cũng luôn mong làm ăn có hiệu  quả để có tiền trả nợ ngân  hàng, vừa có tích lũy để tồn tại và phát triển. 2.Khía cạnh xã hội: qua hoạt động kinh của mình, NHTM thiết lập nên mối  quan  hệ giữa NHTM và các đối tượng khác trong xã hội. Những quan hệ này  gắn chặt  với từng phương thức sản xuất xã hội. Do vậy về mặt xã hội, hoạt  động NHTM  phục vụ cho mục đích của Nhà nước và Đảng cầm quyền. 1.1.2. Các nghiệp vụ của  NHTM :  1.1.2.1.Nghiệp vụ nợ : Nghiệp vụ nợ của NHTM góp phần hình thành tài sản nợ. Tài sản nợ của  các  NHTM trên thế giới thường tập trung vào các nhóm sau : 1.2.1. Nguồn vốn pháp định : 1.2.2. Nguồn vốn ký thác :
  3. 1.2.3. Nguồn vốn vay : 1.1.2.1.a. Nguồn vốn pháp định : Vốn điều lệ, hay vốn pháp định hoặc vốn tự có của NHTM phải lớn hơn mức  tối  thiểu quy định cho hoạt động kinh doanh ngân hàng bởi chính phủ nước  sở tại.  Qua thời gian hoạt động, vốn điều lệ được bổ sung và tăng dần dưới  nhiều hình  thức khác nhau. Vốn  pháp định của NHTM hình thành do tính chất  sở hữu của  NHTM quy định: NHTM quốc doanh,100% vốn điều lệ do Nhà  Nước cấp;  NHTM cổ phần, vốn pháp định hình thành từ sự đóng góp của cổ  đông; NHTM  liên doanh, là vốn đóng góp cổ phần của các bên tham gia liên  doanh. 1.1.2.1.b. Nguồn vốn ký thác : Bao gồm các loại ký thác không kỳ hạn, ký thác có kỳ hạn và tiết kiệm, ký  thác  và tiền gửi khác . Nguồn vốn ký thác là nguồn vốn mà xã hội, công chúng,  các  tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp gửi vào NHTM. Thực chất đây là  nguồn vốn  NHTM đi vay từ xã hội. Dựa vào thời gian hoàn trả và một số yếu  tố khác mà  chia thành các loại ký thác có kỳ hạn và không kỳ hạn, tiết kiệm.  Đặc biệt ký thác  không kỳ hạn không có ngày đáo hạn, chủ thể ký thác có thể  đòi hoàn lại bất     cứ lúc nào, đảm bảo nguyên tắc khả dụng, nó có ý nghĩa  như một khoản NHTM  giử hộ mà thôi. 1.1.2.1.c. Nguồn vốn vay : ­Các khoản vay trên thị trường tiền tệ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong  tổng  nguồn vốn hoạt động của NHTM. Nghiệp vụ vay mượn của NHTM trên  thị  trường tiền tệ thường được thực hiện dưới dạng phát hành các phiếu nợ  như  chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, mại lai thục...Đặc điểm các khoản vay này  là ngắn  hạn. ­Các khoản vay từ NHTW: trong quá trình hoạt động của mình, những lúc  quá  kẹt vốn hoặc thiếu hụt dự trữ tiền mặt, NHTM có thể vay ở  NHTW  dưới các  hình thức tái chiết khấu hay chiết khấu hay còn gọi là tái cấp vốn,  vay thế chấp  hay ứng trước có bảo đảm hay không bảo đảm. ­Các khoản vay từ các NHTM khác và thị trường vốn :vay trên thị trường  vốn  bằng cách phát hành các phiếu nợ dài hạn bao gồm các chứng chỉ tiền  gửi dài  hạn, các kỳ phiếu ngân hàng, các loại trái phiếu. Vay từ các NHTM  khác nhằm  bổ sung nguồn dự trữ bắt buộc tại NHTW hay cho hoạt động kinh  doanh  trên  TTTT LNH. 1.1.2.2. Nghiệp vụ có ­Nghiệp vụ có của NHTM cung cấp vốn vay cho các khu vực trong nền kinh  tế  và góp phần hình thành tài sản có trong bảng cân đối kế toán. Ngân hàng  thương  mại ở các quốc gia phát triển thường có một nhóm các tài sản có như  sau: 1.Dự trữ tiền mặt:  2.Đầu tư chứng khoán  3.Cho vay 4.Đầu tư vào các loại tài sản
  4. 1.1.2.2.a. Dự trữ tiền mặt Nghiệp vụ dự trữ tiền mặt nhằm duy trì khả năng đáp ứng cao nhất việc rút  vốn  của người gửi tiền vào bất cứ lúc nào. Mức dự trữ này tùy thuộc vào quy  mô hoạt  động, mối quan hệ thanh toán bằng tiền mặt và chuyển khoản, tính  thời vụ của  các khoản chi tiền mặt. Dự trữ tiền mặt bao gồm: dự trữ tiền  mặt tại kho ngân  hàng vào mỗi ngày để đề phòng những chi trả bất ngờ vào  ngày hôm sau và dự  trữ tiền mặt tại kho NHTW theo quy định của NHTW và  nhằm phục vụ việc  thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng thương mại, hoặc  chuyển nhượng liên hàng,  vay mượn lẫn nhau để dự trữ bắc buộc…. Tiền mặt trên đường thu hồi, có ý nghĩa tương tự như một khoản tiền đang  chuyển trong kế toán doanh nghiệp, cũng được xem như một lượng tiền mặt  dự  trữ 1.1.2.2.b.Đầu tư chứng khoán Chứng khoán cũng là  một bộ phận cấu thành quan trọng  trong danh mục tài  sản  có của ngân hàng thương mại, danh mục đầu tư chứng khoán của các  ngân hàng  thường tìm thấy các loại chứng khoán sau : các trái phiếu Kho bạc,  trái phiếu  chính quyền địa phương và trung ương, các cổ phiếu, trái phiếu  doanh nghiệp,  các thương phiếu... 1.1.2.2.c. iệp vụ cho vay ­Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại để  tạo ra  lợi nhuận. Cho vay của ngân hàng thương mại hay nói rộng ra là tín  dụng ngân  hàng thương mại bao gồm các hình thức sau: 1.2.2.c.1. Tín dụng ngân quỹ hay cho vay vốn  lưu động.  3.Tín dụng trung dài hạn 1.2.2.c.2. Tín dụng tiêu dùng 4.Tài trợ cho hoạt động ngoại thương 1.Tín dụng ngân quỹ: đây là các loại tín dụng ngắn hạn NHTM tài trợ cho  các  hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hoặc bổ sung vốn lưu  động,  chúng có thời hạn đáo hạn không quá 1 năm. Tín dụng ngân quỹ bao  gồm nhiều  hình thức như tín dụng ứng trước, tín dụng chuyển nhượng trái  quyền, tín dụng  bảo lãnh....cung cấp cho các doanh nghiệp, tín dụng cho vay  lẫn nhau giữa các NHTM. 2.Tín dụng trung dài hạn: Đây là các nghiệp vụ cung cấp tín dụng mà thời gian đáo hạn của nó trên  một  năm và còn gọi là tín dụng đầu tư. NHTM tài trợ cho các dự án đầu tư  trang thiết  bị, máy móc, dây chuyền công nghệ, xây dựng nhà xưởng, mua  sắm tài sản cố  định....Bao gồm: tín dụng thuê mua, tín dụng tài trợ trang bị tài  sản cố định, cho  vay kinh doanh bất động sản. 3.Tín dụng tiêu dùng: hình thức NHTM tài trợ  cho nhu cầu mua sắm của các  hộ  gia đình hay cá nhân. Ở các nước phát triển, tín dụng tiêu dùng chiếm từ  12­15% tổng tài sản có của NHTM.
  5. 4.Tín dụng tài trợ hoạt động ngoại thương: Nghiệp vụ tài trợ cho ngoại  thương  của NHTM bao gồm tài trợ xuất khẩu và tài trợ nhập khẩu.Tài trợ  xuất khẩu như:  cho vay làm hàng xuất khẩu, chiết khấu bộ chứng từ; Tài trợ  cho hoạt động nhập  khẩu : tài trợ thanh toán bộ chứng từ giao hàng, cho vay  bắt buộc thanh toán bộ  chứng từ, cho vay ký quỹ mở L/C 1.1.2.2.4.Nghiệp vụ trung gian của NHTM: Nghiệp vụ trung gian của NHTM gồm rất nhiều loại, đa dạng phóng phú, đây  là  các nghiệp vụ mà NHTM thực hiện để hưởng hoa hồng theo sự ủy nhiệm  của  khách hàng. Bao gồm: dịch vụ chuyển khoản, chi hộ, thu hộ, dịch vụ chi  trả  lương cho các doanh nghiệp, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ khấu trừ tự  động, dịch  vụ nhận giữ hộ tài sản hay cho thuê két sắt, dịch vụ tư vấn về tài  chính cho doanh  nghiệp, đảm nhận về đầu tư tài chính (thường do các công ty  đầu tư tài chính của  NHTM đãm trách ).. 1.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHTM : ­Đứng trên gốc độ bản thân NHTM, thì kết quả hoạt động kinh doanh của  NHTM chính là lợi nhuận của nó.Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp  biểu  hiện kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh; nó phản ánh đầy đủ  các mặt số  lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, của ngân  hàng; phản ánh kết  quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản đầu vào và trình độ  quản lý điều hành của  ban quản trị. Như bao doanh nghiệp khác, lợi nhuận  hoạt động của NHTM là  phần chênh lệch giữa thu nhập và chi phí hoạt  động. ­Thu nhập hoạt động hoạt động của NHTM bao gồm: thu nhập từ hoạt động  tín  dụng, thu từ dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, thu từ hoạt động khác ­Chi phí hoạt động của NHTM bao gồm: chi phí hoạt động huy động vốn, chi  phí  về dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, chi phí về các hoạt động khác, chi nộp  thuế,  các khoản phí, lệ phí, chi cho nhân viên… ­Lợi nhuận NHTM: Lợi nhuận trước thuế = Tổng thu nhập ­ Tổng chi phí Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế ­ Thuế thu nhập 1.2.Lãi suất trong nền kinh tế thị trường: 1.2.1. suất được biểu hiện dưới dạng số tuyệt đối­ đó chính là lợi  tức tín  dụng : Lợi tức tín dụng là khoản tiền phải trả cho việc vay mượn quyền sở hữu và  sử  dụng vốn trong một thời gian nhất định. Về bản chất, nó là “giá trị “  quyền sở  hữu và sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà chủ thể vay  mượn phải trả cho chủ thể cho vay. Tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức tín dụng với toàn bộ vốn  gốc đã  vay mượn hay khoản tín dụng trong một thời gian nhất định chính là lãi  suất. Lãi suất là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp và đa dạng. Lãi  suất  chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố tác động đến sự phát triển của nền  kinh tế nên  nó mang tính chất tổng hợp. Mặc khác, lãi suất mang tính đa  dạng do xuất phát  từ sự đa dạng của các loại tín dụng khác nhau trong nền  kinh tế thị trường với  những cách đo lường khác nhau. Cuối cùng, do lãi suất  là giá cả của tín dụng,
  6. nên nó là một phạm trù giá cả; sự biến động của nó chịu tác động của các  quy  luật khách quan của thị trường, lãi suất mang tính phức hợp. 1.2.3.Sự biến động lãi suất trong nền kinh tế: Lãi suất như đã nói là giá cả của tín dụng, mà đã là giá cả thì phải chịu tác  động  của quy luật giá cả, quy luật cung cầu. Sự biến động của giá cả trong  nền kinh tế  là một hiện tượng tất yếu. Sự biến động của lãi suất được giải  thích bằng lý  thuyết quỹ cho vay. Lý thuyết này dựa trên nền tảng lưu lượng  tài chính của các  khu vực khác nhau trong nền kinh tế bao gồm cung cầu quỹ  cho vay của các  doanh nghiệp, hộ gia đình và chính quyền. Nó tìm cách giải  thích những thay đổi  của lãi suất bằng cách xem xét sự tổng hợp cung cầu  của các khu vực nói trên. Tại một thời điểm nào đó trên thị trường vốn, cung và cầu quỹ cho vay cùng  thiết  lập trạng thái cân bằng, điểm cân bằng này xác lập lãi suất cân bằng của  thị  trường vốn. Sau đó vì một lý do nào đó khiến cung hoặc cầu quỹ cho vay  thay  đổi; Nếu tăng, đường cung hoặc cầu dịch chuyển về bên phải; hay giảm  ­đường  cung hoặc cầu dịch chuyển về bên trái; thị trường mất trạng thái cân  bằng. Bây  giờ do áp lực của giá –lãi suất, đường cầu hoặc đường cung sẽ  thay đổi để xác   lập trạng thái cân bằng mới; Nếu cung tăng, lãi suất giảm,  nhu cầu vay nhiều hơn,  áp lực này là đường cầu dịch sang phải thiết lập trạng  thái cân bằng mới ; nếu  cung giảm, lãi suất tăng, nhu cầu vay giảm bớt,  đường cầu dịch sang trái tạo       ra trạng thái cân bằng mới. Thành phần của  cung và cầu quỹ cho vay bao gồm: 1.2.4.Những nhân tố tác động đến lãi suất trong nền kinh tế: Cấp độ vi mô: a.Kỳ hạn của lãi suất: trong nền kinh tế, người ta chia thành 3 loại tín dụng,  ngắn  hạn, trung và dài hạn; do đó lãi suất cũng khác nhau tùy thuộc vào kỳ  hạn tín  dụng, kỳ hạn tín dụng càng dài, lãi suất càng lớn; như vậy lãi suất  ngắn hạn nhỏ  hơn lãi suất trung hạn, nhỏ hơn lãi suất dài hạn. b.Tính thanh khoản: khả năng thanh tiêu của một tài sản tài chính tức khả năng  chuyển đổi tài sản đó thành tiền mặt; khả năng này càng thấp thì lãi suất càng  cao  vì rủi ro thanh khoản của tài sản này càng cao. c.Rủi ro: có nhiều rủi ro, rủi ro không thu hồi được vốn đầu tư, vốn đầu tư  mất  giá, lợi tức bị âm do lạm phát ...Lãi suất phải bù đắp phần nào mức độ  rủi ro này  cho nên rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
  7. Cấp độ vĩ mô: a.Cung cầu quỹ cho vay: cung cầu quỹ cho vay tác động trực tiếp làm thay đổi  lãi  suất như  đã trình bày phần trên, cung quỹ  cho vay tăng thì lãi suất giảm và  ngược  lại .Cầu quỹ cho vay tăng thì lãi suất tăng và ngược lại. b.Lạm phát : lạm phát ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất, thực nghiệm lịch sủ  đã  minh chứng hùng hồn rằng khi lạm phát tăng bao nhiêu thì lãi suất tăng  lên bấy  nhiêu. S S2 S0 D1 r2 I2 r1 I1 I0 D2 D0 Q Q 1 0 Biểu 1.2: trạng thái cân bằng lãi suất và sự biến động để thiết lập cân bằng  mới.  Từ biểu đồ 1.2, giả sử nền kinh tế cân bằng tại một mức nhất định i0  và  lạm phát  cũng được dự đoán không đáng kể. Nhưng nếu lạm phát xảy ra kéo  theo giá cả  tăng lên, lúc đó đường cung quỹ cho vay dịch chuyển về bên trái­  cung quỹ cho  vay giảm, các NHTM, TCTD không muốn cho cho vay do lạm  phát làm triệt tiêu thu nhập lãi suất của họ, giá trị đồng tiền sụt giảm , giá thị  trường của các món   nợ cũng biến đổi theo, một khoảng vay ngày hôm nay sẽ  bị triệt tiêu hoàn toàn  giá trị thực tế của các khoản vốn gốc và lãi ngày đáo  hạn, tâm lý lo ngại về tổn  thất khi phải đưa ra vốn cho vay khiến các những  người muốn cho vay trước đây  chuyển sang đầu tư vào các tài sản, hàng hóa  để hưởng chênh lệch giá....điều này  xảy ra không phải với một mức lãi suất  mà tất cả mọi lãi suất khiến cho cung quỹ  cho vay sụt giảm; Ngược lại với  cầu quỹ cho vay, trong bất kỳ hoàn cảnh nào,  lạm phát bao giờ cũng có tác  dụng kích thích cầu quỹ cho vay vì lý do giá trị hàng hóa được tài trợ từ các  khoản vay mượn mua về vẫn giử nguyên giá trị của  nó trong khi lạm phát đã  làm giảm rất nhẹ gánh nặng nợ nần, cầu quỹ cho vay từ  đó tăng lên ồ ạt. Tác  động ngược chiều nhau của cung và cầu quỹ cho vay khiến lãi suất tăng. Mặt khác, lãi suất trong nền kinh tế bao gồm lãi suất thực và lãi  suất  danh nghĩa, lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực cộng tỷ lệ lạm phát; do  đó một  khi lạm phát tăng cao, lãi suất danh nghĩa cũng tăng theo. Mọi diễn  biến theo  chiều ngược lại sẽ có tác động làm lãi suất giảm thấp; điều này  xảy ra trong thời  kỳ suy thoái, tình trạng thiểu phát trong nền kinh tế.
  8. c.Các chính sách kinh tế của Nhà nước: bao gồm các chính sách tài khóa, chính  sách tiền tệ, chính sách thu nhập và chính sách quản lý ngoại hối. Trong đó các  chính sách tiền tệ, tài chính và thu nhập nếu điều chỉnh theo hướng mở rộng,  có  nghĩa là bơm tiền vào lưu thông được nhiều hơn, làm cho lãi suất giảm và  ngược  lại. Chính sách quản lý ngoại hối và tỷ giá hối đoái xác lập quan hệ  giữa sức mua  đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.Theo hiệu ứng Fisher quốc tế,  một khi tỷ giá tăng  thì để đảm bảo ngang giá sức mua do lạm phát, lãi suất sẽ  tăng. 1.2.5.Vai trò đòn bẩy của lãi suất trong nền kinh tế: ­Trước hết lãi suất góp phần giử vững cân đối giữa cung cầu hàng hóa: tổng  lượng hàng hóa sản xuất ra phải cân bằng với tổng lượng hàng hóa yêu cầu.  Một  khi lãi suất thay đổi làm thay đổi làm thay đổi nhu cầu đầu tư, xuất khẩu  ròng...ảnh hưởng đến tổng sản phẩm quốc dân theo chiều hướng tổng sản  phẩm  quốc dân tăng khi lãi suất giảm và ngược lại. Mặt khác, lãi suất thay  đổi làm thay  đổi cầu tiền tệ theo hướng lãi suất tăng, công chúng sẽ tập trung  đầu tư vào  chứng khoán, tiền gửi ngân hàng mà giảm bớt chi tiêu làm tổng  cầu hàng hoá  giảm, tổng cung tiền tệ sẳn sàng cho vay tăng. ­Lãi suất là đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện mục  tiêu  của chính sách tiền tệ quốc gia. Một khi ngân hàng trung thay đổi chính  sách tiền  tệ sẽ dẩn đến lãi suất thay đổi làm thay đổi tổng cầu xã hội về đầu  tư và phát triển  kinh tế ; một khi tổng cầu này thay đổi sẽ tác động làm tổng  cung của nền kinh tế  bao gồm lao động, tài nguyên, tư liệu tiêu dùng, tư liệu  sản xuất thay đổi tạo nên  các hiện tượng kinh tế như thay đổi sản lượng  quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp, thu  nhập quốc dân.... Chính sách lãi suất tạo ra lãi  suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi  nhuận bình quân có tác dụng kích thích các  doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư,  mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, trang  bị công nghệ hiện đại hơn...một sự giảm  nhẹ của lãi suất sẽ tạo ra một nhu  cầu to lớn về đầu tư mở rộng cho cả một hệ  thống doanh nghiệp trong nền  kinh tế, với một lượng nhu cầu đầu vào này của hệ  thống doanh nghiệp, sẽ  tạo ra một lượng vô cùng lớn đầu ra của cải cho xã hội,  tổng mức thu nhập  quốc dân tăng lên rất rất nhiều; vậy cho nên lãi suất có vai trò  đòn bẩy. Tất  nhiên là hiệu ứng cũng sẽ ngược lại, nếu không kiểm soát và duy trì  lãi suất  hợp lý thì nền tổng sản lượng kinh tế sẽ sụt giảm đi rất nhiều. ­Lãi suất là công cụ đo lường sức khỏe của nền kinh tế :đối với các quốc gia  phát  triển, lãi suất và các chỉ số TTCK là hàn thử biểu đo lường sức khỏe nền  kinh tế  quốc gia. Một sự sụt giảm của lãi suất hay chỉ số của TTCK chứng tỏ  nền kinh tế  rơi vào tình trạng suy thóai; và ngược lại, một khi lãi suất tăng  hay chỉ số TTCK  chứng tỏ nền kinh tế trong trạng thái tăng trưởng rất tốt. ­Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các NHTM, lãi suất là giá cả  của  vốn. Sự cạnh tranh giữa các NHTM ngoài các yếu tố khác còn bằng giá;  kết quả  của sự cạnh tranh này là nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp  dân cư được  lợi hơn vì được hưởng giá rẽ và chất lượng dịch vụ cao. Lãi  suất còn là công cụ  kiềm chế lạm phát rất hữu hiệu thông qua chính sách tiền  tệ của NHTW. Nền  kinh tế có lạm phát cao, NHHTW lập tức sử dụng chính  sách tiền tệ thắt chặt, tức
  9. tăng lãi suất để hút tiền từ lưu thông về dự trữ để điều hòa lượng tiền trong  lưu  thông cân xứng với khối lượng hàng hóa nhằm kiềm chế và kiểm soát  lạm phát.  1.3.Rủi ro lãi suất: 1.3.1. hái niệm: Rủi ro lãi suất là sự biến động về lãi suất mà các chủ thể kinh tế có thể gặp  phải.  Rủi ro này xuất hiện khi có sự  thay đổi về lãi suất thị trường hoặc có  những yếu  tố  liên quan tới lãi suất dẩn tới những tổn thất về tài sản hoặc  làm giảm thu nhập  ngân hàng. 1.3.2.ương pháp xác định rủi ro lãi suất: ­ Để đo lường rủi ro lãi suất, các NHTM  sử dụng các mô hình sau  :  1.Mô hình kỳ hạn đến hạn 2.Mô hình thời lượng 3. Mô hình định giá lại a.Mô hình kỳ hạn đến hạn: Khái niệm: Mô hình kỳ hạn đến hạn dựa vào thời hạn của tài sản và thời điểm đáo hạn  của  tài sản để đo lường sự biến động của giá trị tài sản trước sự biến động  của lãi  suất. Mô hình kỳ hạn đến hạn đối với một danh mục tài sản hay bảng cân  đối: Để áp dụng mô hình kỳ hạn đến hạn đối với một danh mục tài sản, trước hết  ta  phải xác định được kỳ hạn bình quân của danh mục tài sản, mỗi tài sản có  hay tài  sản nợ trong danh mục đều có kỳ hạn đến hạn riêng biệt, và mỗi  chúng chiếm  một tỷ trọng nhất định. Giả sử ta gọi MAi  là kỳ hạn đến hạn của tài sản có thứ i, tài sản này chiếm tỷ  trọng WAi  trong nhóm tài sản có; tương tự là MLi  là kỳ hạn đến hạn của tài  sản nợ  thứ i có tỷ trọng WLi  trong danh mục tài sản nợ. Kỳ hạn đến hạn  trung bình của  tất cả các tài sản có và tất cả các tài sản nợ trong bảng cân đối  tài sản ngân hàng  là MA  và ML  Thì : Với ΣWAi  = Σ WLi  = 1  (1.3.1) ­ Đặc điểm của sự biến động giá trị (danh mục) tài sản trong mô hình: a. Mỗi sự tăng hoặc giảm của lãi suất thị trường đều dẫn tới một sự giảm  hoặc  tăng giá trị danh mục tài sản có và giá trị danh mục tài sản nợ của  ngân hàng. b. Kỳ hạn đến hạn (trung bình) của danh mục tài sản có và danh mục tài sản  nợ  có thu nhập cố định càng dài thì khi lãi suất thị trường thay đổi (tăng  hoặc  giảm), giá trị của chúng biến động càng lớn. c. Lãi suất thị trường thay đổi, kỳ hạn của danh mục tài sản có hoặc tài  sản nợ  càng dài thì mức độ biến động giá trị của chúng càng giảm. ­ Như vậy ảnh hưởng của lãi suất lên bảng cân đối tài sản phụ thuộc vào mức  độ và tính chất của sự không cân xứng kỳ hạn giữa danh mục tài sản có và danh  mục
  10. tài sản nợ. Có nghĩa là nhân tố quyết định cho sự ảnh hưởng là chênh lệch  giữa  kỳ hạn đến hạn bình quân của tài sản có và kỳ hạn đến hạn bình quân  của tài sản  nợ. ­Mặt khác, trong bảng cân đối tài sản ngân hàng, chênh lệch giữa giá trị tài  sản  có và giá trị tài sản nợ (A­L) chính là giá trị vốn tự có hay vốn cổ phần  của ngân  hàng (E). Điều cần lưu ý là tất cả các giá trị này được đo lường  bằng giá trị thị  trường. Ta có : Ý nghĩa: mức thay đổi vốn tự có hay vốn cổ phần bằng chênh lệch mức thay  đổi  giá trị tài sản có và mức chênh lệch giá trị tài sản nợ Ví dụ: Ta xem xét một bảng cân đối ngân hàng như sau : ĐVT: trăm triệu đồng TÀI SẢN CÓ TÀI SẢN NỢ Tài sản nợ có  hạn ngắn Tài sản có có  hạn 80.000,00 100.000,00 Vốn tự có E 20.000,00 kỳ dài A Cộng 100.000,00 Cộng 100.000,00 ­Đây là trạng thái ban đầu của bảng cân đối khi lãi suất thị trường chưa thay   đổi (giá trị tài sản trong bảng cân đối được tính theo giá trị thị trường ). Giả sử  tài  sản có 100.000,00 được đầu tư vào trái phiếu có kỳ hạn 3 năm, mức trái  tức cố  định 10%/năm. Tài sản nợ 80.000,00 là vốn huy động kỳ hạn một năm,  mức lãi  suất huy động cố định 10%/năm (giả sử để đơn giản, ta giả định lãi  suất huy động  và lãi suất cho vay bằng nhau). Khi lãi suất thị trường tăng 1%,  trạng thái bảng  cân đối thay đổi : +Sự thay đổi của tài sản có : P = 10.000/(1+0.11)1 +10.000/(1+0.11)2 + 10.000/(1+0.11)3 + 100.000/(1+0.11)3 = 97.556,29 ΔP = 97.556,29 –100.000,00 = 2.443,71 tức –2.44% +Sự thay đổi của tài sản nợ : P = 8.000/(1+0.11)1  + 80.000/(1+0.11)1 = 79.279,28 ΔP = 79.279,28 –80.000,00 = 720,72 tức –0.90% +Sự thay đổi của vốn tự có: P = 97.556,29 – 79.279,28 = 18.277,01 ΔP = 18.277,01 –20.000,00 = 1.722,99 tức –8.61% Bảng cân đối tài sản sau khi lãi suất thị trường thay đổi: ĐVT: trăm triệu đồng TÀI SẢN CÓ TÀI SẢN NỢ Tài sản nợ có  hạn ngắn 79.279,28 Tài sản có có  hạn 97.556,29 Vốn tự có E 18.277,01 kỳ dài A Cộng 97.556,91 Cộng 97.556,91
  11. Nhận xét: ­Sau khi lãi suất thị trường thay đổi 1%. Giá trị bảng cân đối cũng thay đổi.  Cụ  thể: tài sản có giảm 2,44% , từ 100.000,00 xuống còn 97.556,29; Tài sản  nợ có  thời hạn ngắn hơn, nên mức nhạy cảm với lãi suất cũng nhẹ hơn, tài  sản nợ chỉ  giảm 0.90% từ 80.000 xuồng còn 79.279,28; và do đó vốn tự có  cũng giảm  8,61% từ 20.000 xuống còn 18.277,01; tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên  tổng tài sản có  giảm từ 20% xuống còn 18.73%. * Đặc điểm mô hình ­Một hình kỳ hạn đến hạn là một mô hình đơn giản. Về bản chất, phương  pháp  tính toán của mô hình là định giá lại tài sản tài chính khi lãi suất thị  trường thay  đổi, phương pháp tính dựa vào nguyên tắc chiết khấu dòng lưu  kim (DCF). Khi  lãi suất thị trường thay đổi, hệ số chiết khấu các dòng tiền  cũng thay đổi và do đó  làm thay đổi thị giá tài sản, hay danh mục tài sản. ­Tài sản tài chính có lãi suất cố định với kỳ hạn càng dài thì càng biến động  mạnh trước sự biến động một đơn vị lãi suất thị trường ­Khoảng cách chênh lệch về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ càng cao thì  mức biến động đối vốn tự có càng cao ­Phương pháp tốt nhất để phòng ngừa rủi ro lãi suất là cân xứng kỳ hạn giữa  tài  sản có và tài sản nợ ­Mô hình kỳ hạn đến hạn cho phép đánh giá tài sản của ngân hàng nhạy cảm  với  lãi suất thế nào, và đề nghị giải pháp phòng ngừa rủi ro bằng cách cân  xứng kỳ  hạn giữa tài sản có và tài sản nợ. Tuy nhiên mô hình này vẫn chưa  đề cập đến  một số yếu tố cực kỳ quan trọng đối với hoạt động của ngân  hàng như : + Thời lượng của luồng tiền thuộc tài sản có và tài sản nợ + Tỷ lệ vốn huy động trên tài sản nợ ra sao ? b.Mô hình thời lượng: Khái niệm thời lượng(Duration): ­Một tài sản tài chính luôn có một luồng ngân lưu trong suốt thời gian tồn tại  của  nó. Nếu mang chiết khấu luồng ngân lưu này về giá trị hiện tại ta xác  định được  thời gian tồn tại của nó­ đó chính là thời lượng của tài sản tài  chính ấy. Công  thức xác định thời lượng như sau: (1.3.3) _PVt  :giá trị hiện tại của luồng ngân lưu thời điểm t, t=1,N _N :tổng số luồng tiền xảy ra trong suốt kỳ hạn của tài sản _n :số lần luồng tiền xảy ra trong một năm _M :kỳ hạn của tài sản tính theo năm; M=N/n _t :thời điểm xảy ra luồng tiền * Định nghĩa: thời lượng tồn tại của tài sản là thước đo thời gian tồn  tại  luồng tiền của tài sản này, được tính trên cơ sở các giá trị hiện tại của  nó.
  12. ­Thời lượng một tài sản được đ   o    l   ng bằng sự nhạy cảm lãi suất của tài sản đó:   ườ (1.3.4) *Ý nghĩa kinh tế của thời lượng : Khi lãi suất thị trường biến động thì thời  lượng (D) là phép đo độ nhạy cảm của thị giá tài sản (P) ­Bây giờ ta nghiên cứu mối liên hệ giữa thời lượng và giá trị danh mục tài sản  có  và tài sản nợ khi lãi suất thị trường thay đổi thế nào? Thời lượng đối với bảng cân đối tài sản ngân hàng hay một danh mục  tài  sản: ­Nếu ta gọi D  và X là thời lượng và tỷ trọng của tài sản có thứ i; thì thời A iA  lượng của toàn bộ tài sản có là : A A A A DA = A + X2A.D2 +X .D +…X .D 3A 3 NA N X1A.D1 DA = (1.3.5) L ΣX .D 1A 1 ­Tương tự, nếu ta gọi  và XiL  là thời lượng và tỷ trọng của tài sản nợ thứ i; thì Di thời lượng của toàn bộ tài sản nợ là : L L L L DL = + X L .D 2L 2 +X .D +…X .D 3L 3 NL N X1L.D1 DL = (1.3.6) ΣX1L.D1 ­Ta có : ΔE = ΔA – ΔL; từ công thức 1.3.2, ta có : ΔE = ΔA – ΔL =[­ DA ΔR/(1+R) ]­[­ DL ΔR/(1+R) ] = ΔR/(1+R) [ DLL – DA A ] = ­ΔR/(1+R).A [ DAA/A – DL L/A] Trong đó k là tỷ lệ huy động vốn trên tổng tài sản gọi là hệ số đòn bảy k k = L/A (1.3.5) Ví dụ minh họa: ĐVT: trăm triệu đồng TÀI SẢN CÓ TÀI SẢN NỢ Tài sản nợ có  hạn ngắn Tài sản có có  hạn 80.000,00 100.000,00 Vốn tự có E 20.000,00 kỳ dài A Cộng 100.000,00 Cộng 100.000,00 ­ Nhà quản trị  ngân hàng tính được rằng DA  = 5 năm và DL = 3 năm và cũng  dự  đoán được lãi suất sẽ  tăng 1%, từ  10% lên 11%. Như vậy, giá trị vốn tự  có của  ngân hàng thay đổi như sau : ΔE    =         ­( DA­ DL.k).A. ΔR/(1+R) = ­(5 – 3.0,8). 100.000,00. (0.01/1.10) = ­2.364,00 %ΔE =         (2.364,00/20.000,00).100% =         11.82%
  13. ­Như vậy nếu lãi suất thị trường tăng lên 1% thì giá trị vốn tự có của ngân  hàng  giảm sút 11,82%, ngân hàng bị thiệt 2.364,00. Trạng thái bảng cân đối  sau khi lãi  suất biến động tăng . Tổng tài sản có cũng biến động : ΔA/A = ­DA(ΔR/1+R) = ­5.(0.01/1.10) = ­  4,54%  ΔA = 4.545,00 ΔL/L   = ­DL(ΔR/1+R) = ­3.(0.01/1.10) = ­  2,72%  ΔL = 2.181,00 ­Trạng thái bảng cân đối ngân hàng sau khi biến động lãi suất : ĐVT: trăm triệu đồng TÀI SẢN CÓ TÀI SẢN NỢ Tài sản nợ có  hạn ngắn Tài sản có có  hạn 77.819,00 95.455,00 kỳ  VốnL tự có E 17.636,00 kỳ dài A Cộng 95.455,00 Cộng 95.455,00 Kết luận: 1. Chênh lệch giữa thời lượng tài sản có và tài sản nợ được điều chỉnh bởi  tỷ lệ  đòn bẩy ( DA­ DL.k) phản ánh sự không cân xứng về thời lượng của hai   vế trong  bảng cân đối tài sản ngân hàng­ chênh lệch càng lớn thì tiềm ẩn  rủi ro về lãi  suất càng cao 2. Quy mô ngân hàng thể hiện bằng tổng tài sản có A; quy mô càng lớn thì tiềm ẩn rủi ro đối với lãi suất càng cao. 3. Mức độ thay đổi lãi suất ΔR/(1+R) càng nhiều thì tiềm ẩn rủi ro đối với  lãi  suất càng cao. Mức độ thay đổi vốn tự có hay vốn điều lệ cũng được đo  lường: Mức dộ thay đổi vốn tự có hay vốn điều lệ= (chênh lệch thời lượng đã điều chỉnh) x(Quy mô tài sản )x( Mức độ thay đổi lãi suất) 4.Để  chống rủi ro, chống  tổn  thất,  các  nhà  quản trị  ngân hàng  phải  điều   chỉnh  sao cho chênh lệch thời lượng điều chỉnh bằng không vì đó là nhân tố  duy nhất  được đặt dưới sự kiểm soát của ngân hàng. Vấn đề khó khăn là ở  chổ  hệ  số  đòn  bẩy  k  luôn khác  1  vì  đặc trưng  của hoạt động ngân hàng   thương mại là tổng tài  sản có A luôn lớn hơn tổng vốn huy động L. Do đó   các nhà quản trị ngân hàng  thường sử dụng một trong ba cách sau: a .Điều chỉnh  DA  để bằng giá trị  DL.k đã được xác định trước b .Điều chỉnh cả DA  và DL  để có  DA  =DL.k (k đã được xác định  trước)  c.Cố định DA  , đồng thời điều chỉnh cả DL  lẫn k Đặc điểm của mô hình thời lượng: 1.Mối quan hệ giữa thời lượng và kỳ hạn tài sản: thời lượng tăng lên cùng  với kỳ  hạn tài sản có hoặc nợ có thu nhập lãi cố định nhưng với một tỷ lệ  tăng giảm dần  2.Mối quan hệ giữa thời lượng và mức lãi suất thị trường  hiện hành :khi lãi suất  thị trường tăng, thì thời lượng giảm 3.Mối quan hệ giữa thời lượng và lãi suất coupon: lãi suất coupon càng cao  thì  thời lượng càng giảm.
  14. c.Mô hình định giá lại: Khái niệm mô hình định giá lại: ­Mô hình định giá lại đo lường sự thay đổi giá trị tài sản khi lãi suất biến động  dựa vào sự phân nhóm tài sản mà tiêu thức phân nhóm là các kỳ hạn định giá  lại  của tài sản. Nội dung của mô hình là phân tích các luồng tiền dựa trên  nguyên tắc  giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa thu nhập lãi suất từ  tài sản có và chi  phí lãi suất phải trả cho tài sản nợ sau một thời gian nhất  định. Phân loại các  nhóm tài sản trên theo tiêu thức kỳ hạn định giá nhằm đưa  các tài sản có và tài  sản nợ về cùng một nhóm, có cùng kỳ hạn từ đó đo lường  sự thay đổi của thu  nhập ròng từ lãi suất của các nhóm với sự thay đổi lãi  suất của thị trường. Giá trị  tài sản trong các nhóm dùng để tính chênh lệch là  giá trị lịch sử của tài sản. Ta có  công thức đo lường sự nhạy cảm lãi suất này: (1.3.6 ­Trong đó : ­ΔNIIi  : sự thay đổi thu nhập ròng từ lãi suất nhóm tài sản  thứ  i­nhóm có cùng kỳ hạn định giá lại ­ GAPi : chênh lệch giá trị lịch sử giữa nhóm tài sản có  và  nhóm  tài sản nợ thứ i­chính bằng chênh lệch số dư  trên sổ sách của nhóm tài sản có thứ i và số dư trên sổ sách của nhóm  tài  sản nợ thứ i:   (RSAi–RSLi) ­ ΔRi : mức thay đổi lãi suất của nhóm thứ i ­Người ta cũng có thể tính gộp các tài sản nhạy lãi có cùng kỳ hạn định giá lại  và  tính tổng chênh lệch của nhóm. Tổng chênh lệch của nhóm: ΣGAPi  = CGAP = RSA­RSL (1.3.7) Ví dụ minh hoạ: ­Giả sử có một bảng cân đối tài sản đơn giản như  sau: ĐVT  :trăm triệu đồng
  15. TÀI SẢN CÓ TÀI SẢN NỢ Tiêu dùng ngắn hạn 50,00 Vốn tự có E 30,00 Tiêu dùng dài hạn(2 năm) 25,00 Tài khoản phát hành chèque 40,00 Tín phiếu kho bạc 3 tháng 30,00 Tài khoản tiết kiệm 40,00 Tín phiếu kho bạc 6 tháng 35,00 Tiền gửi kỳ hạn 3 tháng 40,00 Trái phiếu kho bạc 3 năm 70,00 Tài khoản phát hành  30,00 Tín dụng có thế chấp 10 năm (ls  20,00 Tiền gửi khả nhượng 6 tháng 30,00 Tín dụng có thế chấp 30 năm ls  40,00 Tiền gửi kỳ hạn 1 năm 20,00 (lãi suất điều chỉnh 9  Tiền gửi kỳ hạn 2  40,00 tháng/ l C ần)ản có ộng tài s năm 270,00 Cộng tài sản nợ 270,00
  16. ­Giả sử các nhà quản trị ngân hàng dự đoán lãi suất thị trường trong năm tới  sẽ  thay đổi 1%. Họ tiến hành tính mức chênh lệch giá trị (lịch sử) giữa tài sản  có  nhạy lãi và tài sản nợ nhạy lãi. ­ Các tài sản có nhạy lãi: tín dụng tiêu dùng ngắn hạn + tín phiếu kho bạc kỳ  hạn 3 tháng  + tín phiếu kho bạc kỳ hạn 6 tháng  + tín dụng có thế chấp 30  năm 50 + 30 + 35 + 40 = 155 ­Các tài sản nợ nhạy lãi : tiền gửi kỳ hạn 3 tháng + tiền gửi phát hành hối  phiếu  ngân hàng  + chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn 6 tháng + tiền gửi kỳ hạn 1  năm 40 +30 + 30 + 20  = 120 ­Các tài sản trên là các tích sản và tiêu sản nhạy lãi có kỳ hạn được định giá  là  một năm. CGAP là chênh lệch giữa các tài sản có nhạy lãi và các tài sản nợ  nhạy  lãi trong nhóm này. Giả sử lãi suất thị trường thay đổi +/1% CGAP = RSA – RSL = 155 –120 = 35 ­Tỷ lệ % CGAP/A : (35/270)100 = 12,96% ­Thay đổi thu nhập ròng từ lãi suất : ΔNII = CGAP.ΔR = 12,96%(+/­0,01)= +/­129.600,00. ­Như vậy, nếu lãi suất tăng thị trường1% thì thu nhập ròng từ lãi suất cũng  tăng  lên 129.600,00, trường hợp này có lợi cho ngân hàng. Nhưng ngược lại,  nếu lãi  suất biến động theo chiều ngược lại,giảm 1% thì ngân hàng sẽ bị  thiệt mất thu  nhập từ lãi suất ròng 129.600,00 Đặc điểm của mô hình định giá lại: Nguyên tắc của mô hình là dựa vào thời hạn đến hạn của tài sản hay thời hạn  đến  hạn của các dòng ngân lưu của tài sản với nguyên tắc tái đầu tư trong  suốt kỳ hạn  định giá lại, đó cũng là kỳ hạn dự kiến có sự biến động lãi suất  thị trường; các   nhà quản trị ngân hàng tính toán mức chênh lệch tích lũy giữa  giá trị (lịch sử) của  tài sản có nhạy lãi và tài sản nợ nhạy lãi, từ đó tính toán  được mức thay đổi của  thu nhập ròng. ­Trong mô hình, giá trị tài sản có và giá trị tài sản nợ được xác định dựa trên  giá  trị sổ sách tại thời điểm tính toán, do đó hiệu ứng lãi suất thay đổi trên  vốn tự có  là không xuất hiện. Như vậy, khi lãi suất thay đổi, thì chỉ có thay  đổi thu nhập  ròng từ lãi suất mà thôi. ­Mô hình định giá lại tương đối đơn giản, dễ dàng , trực quan song lại bộc lộ  một  số hạn chế : a.Về hiệu ứng giá trị thị trường :mô hình định giá lại không sử dụng giá  trị  thị  trường,  do  đó  nó  chỉ  phản  ánh  một  phần  rủi  ro của  lãi suất  đối  với  ngân hàng  mà thôi, vì sự biến động của lãi suất còn ảnh hưởng đến giá trị thị  trường của tài  sản và danh mục tài sản. b.Về kỳ định giá tích lũy: việc phân nhóm tài sản có và tài sản nợ theo  một  khung kỳ hạn nhất định đã phản ánh sự sai lệch thông tin về cơ cấu tài  sản có và  tài sản nợ trong cùng một nhóm. Ví dụ tích sản và tiêu sản có thể  cùng kỳ hạn  nhưng nhưng được định giá vào hai thời điểm khác nhau trong  cùng kỳ hạn ­giả  sử vào đầu kỳ hạn và cuối kỳ hạn thì trở nên không cân  xứng với nhau nhưng mô  hình định giá lại lại bỏ qua vấn đề này. Nếu kỳ định  giá càng ngắn, thì những hạn
  17. chế này càng nhỏ. Nếu định giá hàng ngày thì mô hình phản ánh trung thực  hơn  nhưng nếu định giá với thời kỳ càng xa chẳng hạn 3 tháng, 6 tháng, 1  năm...thì  những hạn chế càng bộc lộ rõ ràng. 1.4.Vấn dề tự do hóa lãi  suất:  1.4.1.Khái niệm : Tự do hóa lãi suất là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, tự do hóa  lãi  suất là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị  trường  xác định lãi suất cân bằng, NHTW chỉ can thiệp gián tiếpbằng các  công cụ để  điều chỉnh xu hướng mà thôi. 1.4.2.Bản chất và điều kiện tự do hóa lãi suất : Bản chất của tự do hoá lãi suất là việc trao cho thị trường vốn  toàn bộ  việc  xác  định  lãi suất cân  bằng. NHTW  chỉ  sử  dụng các công  cụ  can  thiệp một  cách gián  tiếp để điều chỉnh cho phù hợp chiến lược và mục tiêu đặt ra trong  từng thời kỳ.  Điều kiện để  tự do hóa lãi suất: qua các bài học kinh nghiệm  của các quốc gia đi  trước, các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách rút  ra được các điều kiện  sau : +Hệ thống và môi trường luật pháp phải ổn định, đồng bộ , đầy đủ, minh  bạch,  phù hợp thông lệ quốc tế, hệ thống luật pháp phải tạo ra được cơ chế  giám sát tài  chính đối với nền kinh tế, đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa  các NHTM quốc  doanh và các NHTMCP cũng như các chi nhánh NHTM nước  ngoài hay liên  doanh. + Hệ thống ngân hàng phải được cũng cố, nâng cao khả năng cạnh tranh,  đảm  bảo an toàn trước sự hội nhập và tự do hóa. +Quan trọng nhất là môi trường vĩ mô phải được ổn định, phải kiểm soát  được  lạm phát, cải thiện được tình trạng thâm hụt ngân sách, cơ cấu lại và  lành mạnh  hóa các doanh nghiệp. + Phát triển đúng mức khu vực tư nhân vì đây là khu vực hình thành các quyết định đầu tư có hiệu quả , đóng góp một phần chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế  ... + Xây dựng và phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khóan thông  suốt  trong nước và hòa nhập với thị trường tài chính quốc tế, nó trở  thành  một kênh  huy động và điều tiết vốn trung dài hạn hữu hiệu. +Phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống kiểm toán các doanh nghiệp tốt để  đảm  bảo tính toàn diện, sâu rộng, độ tin cậy của các báo cáo tài chính phải  mang tính  pháp lệnh và hiệu lực. 1.4.3.dụng của tự do hóa lãi suất : Tự do hóa lãi suất có ý nghĩa vô cùng quan trọng: thứ nhất trả về cho lãi suất  đúng vai trò đòn bẩy kích thích nền kinh tế của nó; Thứ hai thông qua tự do  hóa  lãi suất khơi thông dòng vốn và huy động tối đa nguồn vốn xã hội; Thứ  ba, tự do  hóa lãi suất tạo điều kiện cho các NHTM chủ động hơn trong kinh  doanh và bình  đẳng hơn trong cạnh tranh, trong hoạt động, phù hợp với thông  lệ quốc tế ... Tự do hóa lãi suất nói riêng và tự do hóa tài chính nói chung hết sức có ý  nghĩa đối với các quốc gia trong giai đoạn phát triển và chuẩn bị hội nhập vào
  18. nền kinh tế thế giới vì những tác dụng to lớn của nó đối với nền kinh tế trên  phương diện vĩ mô lẫn vi mô. a.Trên phương diện vĩ mô của nền kinh tế: ­Việt Nam chúng ta vừa qua đã hết sức thành công trong việc hội nhập trở lại  với  nền kinh tế thế giới và khu vực sau rất nhiều năm gián đoạn. Bằng chứng  là  chuang ta nối lại mối quan hệ với IMF, WB, ADB, chung ta là thành viên  của  ASEAN từ 1997, gia nhập AFTA, chuẩn bị gia nhập WTO, ký kết  BTA....rõ ràng  là bước đầu hòa nhập chúng ta đã thành công to lớn, kế tiếp  chúng ta chuyển đổi  một số hoạt động cho phù hợp thông lệ quốc tế, trong đó  có tài chính ngân hàng.  Chính vì lẽ đó, tự do hóa lãi suất cũng như tự do hóa tài  chính có tác dụng to lớn  trong việc chuyển đổi cơ chế điều hàngchính sách lãi  suất, hệ thống kiểm toán, kế  toán, hành lang pháp lý....cho phù hợp thông lệ  quốc tế. ­NHNN thông qua tự do hóa lãi suất chuyển dần sang thực hiện các công cụ  gián  tiếp điều hành chính sách lãi suất, giảm sự can thiệp và điều hành bằng  các công  cụ hành chánh trực tiếp, từ đó trả lãi suất về đúng vai trò đòn bẩy  kích thích nền  kinh tế của nó, tác dụng kích thích sự tăng trưởng kinh tế ­Thông qua tự do hóa lãi suất, khơi thông dòng vốn và huy động tối đa nguồn  vốn  xã hội, thúc đẩy chu chuyển vốn trong nền kinh tế, giữa các khu vực, các  vùng,  miền và các đối tượng. Vốn được luân chuyển từ nơi thừa sang nơi  thiếu,            từ nơi có lãi suất thấp sang nơi có lãi suất cao, từ đó hình thành  lãi suất bình quân  hợp lý trong nền kinh tế theo tín hiệu thị trường. b.Trên phương diện vi mô: ­Tự do hoá lãi suất cũng như tự do hoá tài chính thúc đẩy cạnh tranh giữa các  NHTM, các TCTD trên mọi phương diện mà kết quả của sự cạnh tranh lành  mạnh này là các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư, xã hội được hưởng sản  phẩm  dịch vụ tài chính, ngân hàng chất lượng hơn, giá cả hợp lý hơn... ­ Tự do hóa tài chính đi kèm tự do hóa lãi suất tạo ra sự bình đẳng giữa các  NHTM, các TCTD trong nước với các NHTM nước ngoài, tạo ra sự cạnh  tranh  bình đẳng giữa các tổ chức này, giúp cho các NHTM, các TCTD trong  nước có  điều kiện phát triển, đa dạng hóa nghiệp vụ, tăng tính chuyên  nghiệp, tiếp cận  công nghệ tiên tiến hơn.... ­Tự do hóa lãi suất giúp cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế  dễ dàng tiếp cận nguồn vốn phù hợp với tình hình kinh doanh và tài chính  của mình  hơn, có điều kiện phát triển, mở rộng sản xuất hơn. ­ Các tầng lớp dân cư cũng chủ động hơn trong việc lựa chọn cho mình một  NHTM tốt nhất để phục vụ mình trong việc gửi tiền hau xin vay: chất  lượng tốt  hơn, dịch vụ đa dạng và tốt hơn, giá cả cạnh tranh hơn...
  19. 2.CHƯƠNG 02: CƠ CHẾ QUẢN LÝ LÃI SUẤT CỦA   NHNN  NHNN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA VÀ QUÁ  TRÌNH TỰ   TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM. Quá  trình quản  trị  và điều  hành  lãi  suất  của NHNN  Việt Nam có  thể  chia  thành  nhiều  giai đoạn  ứng với  đặc  điểm của nền  kinh tế  Việt  Nam trong  từng thời kỳ.  2.1.Cơ chế quản lý lãi suất trước thời kỳ đổi mới (từ năm   1988 trở về trước)­  thời kỳ lãi suất ấn định: ­Bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế xã hội: miền Bắc nước ta từ sau khi độc  lập  đã phát triển theo con đường XHCN, thực hiện  nền kinh tế kế hoạch hóa  cao độ.  Cơ chế kinh tế kế hoạch này thành công trong giai đoạn đầu ở miền  Bắc và được  tiếp tục duy trì đến sau năm 1975, khi mà cả nước thống nhất,  thì áp dụng trong  cả nước. Cơ chế kinh tế kế hoạch hóa cao độ kéo dài đến những năm 90 của thế kỷ  20 thì  bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh  tế nước ta  giai đoạn 1988 trở về trước đề hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh;  hệ thống ngân  hàng là hệ thống ngân hàng một cấp kéo dài từ khi miền Bắc  độc lập đến nay;  NHNN điều hành CSLS cố định, ấn định tất cả các loại lãi  suất một cách chi tiết  như lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay, lãi suất tiết  kiệm, cụ thể cho từng đối  tượng, từng thành phần kinh tế....Các TCTD đều  phải thực hiện một cách tuyệt  đối lãi suất quy định của NHNN. Ngày 14.09.1985, cuộc cải cách giá­lương­tiền đã làm giảm giá trị đồng nội tệ  xuống 10 lần, giá cả hàng hóa tăng lên từ 3 đến 4 lần; mục đích của CSLS  trong  lúc này là làm giảm bội chi ngân sách. Song tình trạng lạm phát không  kiểm soát được đã làm méo mó kết quả ngõ hầu đạt được của NHNN. Năm  1985, lạm phát  là 190%, sang năm 1986, tỷ lệ lạm phát tăng lên 715%, tiền  lương thực tế chỉ còn  18%­20% so với năm 1985. Nền kinh tế lâm vào tình  trạng khó khăn lớn, mất cân  đối nghiêm trọng, bội chi ngân sách lớn. Nhiệm  vụ cấp bách của NHNN lúc    này là khẩn trương phối hợp với các tổ chức  kinh tế khác tìm mọi cách ngăn chặn  lạm phát .Tuy nhiên vai trò của NHNN  lúc ấy còn mờ nhạt, tư tưởng bao cấp vẫn  còn đè nặng lên CSLS. Bảng 2.1a. Lãi suất năm 1985­1988 (Nguồn: NHNN )
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2