ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ NHUNG

KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÙI THỊ NHUNG

KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Chuyên ngành: Kinh tế chính trị

Mã số: 60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Khắc Thanh

HÀ NỘI - 2012

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung

thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được

công bố trong bất cứ công trình nào.

Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2012 TÁC GIẢ

Bùi Thị Nhung

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN

TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

7

1.1. Lý luận chung về kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội 7

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân

trong nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội 7

1.1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về thành phần kinh

tế tư nhân 10

1.2. Các hình thức tổ chức sản xuất và vai trò của kinh tế tư nhân

ở Việt Nam 16

1.2.1. Các hình thức tổ chức sản xuất của kinh tế tư nhân ở Việt Nam 16

1.2.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa 19

1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở một số địa phương 28

1.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Vĩnh Phúc 28

1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Bình Dương 32

1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển kinh tế

tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh 35

Chương 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

BẮC NINH

37

2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc

Ninh ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế tư nhân 37

2.2. Chính sách của địa phương về phát triển kinh tế tư nhân 41

2.2.1. Nhóm các chính sách khuyến khích đầu tư cho kinh tế tư nhân 42

2.2.2. Nhóm các chính sách trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực để

phát triển kinh tế tư nhân 48

2.2.3. Nhóm các chính sách về đất đai 48

2.2.4. Nhóm các chính sách hỗ trợ tín dụng cho thành phần kinh

tế tư nhân 49

2.2.5. Nhóm các chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 50

2.2.6. Các chính sách liên quan đến cải cách hành chính 51

2.2.7. Các chính sách khác 51

2.3. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh 52

2.3.1. Về số lượng và quy mô các doanh nghiệp tư nhân 52

2.3.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trong các ngành ở

Bắc Ninh 58

2.4. Đánh giá chung về tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh

Bắc Ninh 64

2.4.1. Những kết quả đạt được 64

2.4.2. Những hạn chế của kinh tế tư nhân Bắc Ninh 68

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển KTTN ở

Bắc Ninh 73

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ

TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH TRONG THỜI GIAN TỚI

80

3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội liên quan đến phát triển kinh tế tư

nhân ở Bắc Ninh 80

3.1.1. Cơ hội, thách thức đối với kinh tế tư nhân tỉnh Bắc Ninh

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 80

3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh 83

3.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh

trong thời gian tới 85

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với chính quyền và các cơ quan ban

ngành của tỉnh Bắc Ninh 85

3.2.2. Nhóm các giải pháp trực tiếp đối với khu vực kinh tế tư

nhân của tỉnh Bắc Ninh 91

KẾT LUẬN

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CN - TTCN : Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

: Chủ nghĩa tư bản CNTB

: Công ty cổ phần CTCP

: Doanh nghiệp DN

: Doanh nghiệp nhà nước DNNN

: Doanh nghiệp tư nhân DNTN

DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ

ĐTNN : Đầu tư nước ngoài

GDP : Tổng sản phẩm trong nước

KCN, CCN : Khu công nghiệp, cụm công nghiệp

KCX : Khu chế xuất

KH & ĐT : Kế hoạch và đầu tư

KTQT : Kinh tế quốc tế

KTTN : Kinh tế tư nhân

KTTT : Kinh tế trang trại

MMTB : Máy móc thiết bị

NQD : Ngoài quốc doanh

SXKDCT : Sản xuất kinh doanh cá thể

TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

UBND : Ủy ban nhân dân

XHCN : Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Trang

Bảng 1.1: Số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất

kinh doanh trên cả nước tính đến 31/12 hàng năm 20

Bảng 1.2: Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước phân theo quy mô

nguồn vốn 21

Bảng 1.3: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo thành phần kinh tế 23

Bảng 1.4: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo khu vực kinh tế 25

Bảng 2.1: Tổng sản phẩm nội địa tỉnh Bắc Ninh theo giá thực tế 39

Bảng 2.2: Tổng sản phẩm GDP bình quân đầu người 39

Bảng 2.3: Số lượng di tích lịch sử văn hoá tỉnh Bắc Ninh 40

Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới của Bắc Ninh

và toàn quốc 53

Bảng 2.5: Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân 54

Bảng 2.6: Số lao động sử dụng trong các doanh nghiệp phân theo

thành phần kinh tế tại Bắc Ninh 56

Bảng 2.7: Số lượng các DNTN ở Bắc Ninh theo quy mô lao động 56

Bảng 2.8: Số lao động bình quân của doanh nghiệp các thành phần

kinh tế ở Bắc Ninh năm 2000 và 2010 57

Bảng 2.9: Số cơ sở sản xuất kinh tế cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp

tỉnh Bắc Ninh 58

Bảng 2.10: Phân bố số hộ SXKDCT phi nông nghiệp theo huyện thị 59

Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu về hộ SXKDCT phi nông nghiệp trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010 60

Bảng 2.12: Tăng trưởng số lượng trang trại giai đoạn 2005-2010 61

Bảng 2.13: Cơ cấu trang trại theo loại hình năm 2006 và 2010 63

Bảng 2.14: Vốn đầu tư toàn xã hội theo khu vực tại tỉnh Bắc Ninh 65

Bảng 2.15: Tỷ trọng đóng góp GDP của tỉnh Bắc Ninh theo thành

phần kinh tế 66

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở nước ta kinh tế tư nhân đã có một lịch sử phát triển thăng trầm. Trước

đổi mới, do quan niệm sai lầm đồng nhất kinh tế quốc doanh với CNXH, nên

chúng ta đã nóng vội xoá bỏ kinh tế tư nhân. Sai lầm cực đoan đó đã dẫn tới

lãng phí các nguồn lực, làm chậm tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.

Kể từ Đại hội VI của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 16 NQ/TW của

Bộ Chính trị BCH-TW khoá VI về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh

tế ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân ở nước ta mới được phục hồi phát triển.

Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, trong những năm đổi mới vừa

qua kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh đã có những bước phát triển đáng kể. Khu vực

kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc huy động các nguồn lực giải

quyết việc làm tăng thu nhập và làm năng động nền kinh tế của địa phương, tạo

áp lực cạnh tranh thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế trên địa bàn.

Bên cạnh những thành quả trên cũng như tình trạng chung của cả nước,

khu vực kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh vẫn bộc lộ không ít hạn chế tiêu cực. Tuy

số lượng cơ sở và doanh nghiệp tư nhân tăng lên rất nhanh, nhất là từ khi có

luật doanh nghiệp (năm 2000), nhưng chất lượng hoạt động chưa tương xứng

với sự gia tăng đó. Hầu hết cơ sở doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, công

nghệ lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, còn mang nặng tính tự phát,

chủ thể sản xuất - kinh doanh chưa yên tâm về lâu dài… Tình trạng này gây tác

động hạn chế không nhỏ đến yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và quá trình chủ

động hội nhập kinh tế quốc tế của Tỉnh. Bắc Ninh đang thiếu các giải pháp và

cơ chế để phát huy những yếu tố tích cực của thành phần kinh tế này và hạn

chế những tiêu cực của nó trong quá trình phát triển.

Trước những vấn đề cấp bách nêu trên tôi chọn đề tài “Kinh tế tư nhân

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề kinh tế tư nhân ở nước ta nói chung và ở các tỉnh nói riêng đã

được quan tâm nghiên cứu, phân tích và đã trở thành chủ trương của Đảng trong

đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới.

- Nhóm tác giả cuốn sách: “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản

tư nhân - Lý luận và chính sách” (2002, NXB CTQG) do PGS, TS Hà Huy

Thành chủ biên đã đi sâu phân tích thực trạng phát triển khu vực KTTN ở nước

ta trong thời kỳ đổi mới (theo ngành nghề và theo vùng lãnh thổ) nêu lên những

kết quả đạt được, những tồn tại, yếu kém, nguyên nhân chủ yếu và khuyến nghị

những chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển khu vực KTTN.

- Trong cuốn: “KTTN và quản lý nhà nước đối với KTTN ở nước ta

hiện nay” (2003, NXB CTQG) do GS,TS Hồ Văn Vĩnh chủ biên, không chỉ

phân tích thực trạng hoạt hoạt động của khu vực KTTN, mà còn phân tích

thực trạng quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN. Trên cơ sở đó, nhóm

tác giả đưa ra khuyến nghị phương hướng và tiếp tục đổi mới quản lý nhà

nước đối với KTTN ở nước ta.

- Cuốn sách: “KTTN Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới thực trạng và

những vấn đề đặt ra” (2005, NXB Khoa học xã hội) của tác giả Đinh Thị Thơm.

Đây là tác phẩm thu thập và hệ thống các bài viết phân tích, đánh giá, kiến giải

và những giải pháp đúc kết trong những công trình, bài viết của 9 nhà nghiên

cứu về những vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển và hạn chế cũng như triển vọng

phát triển của khu vực KTTN.

- Trong cuốn: “Phát triển KTTN ở Việt Nam hiện nay” (2006, NXB

CTQG) của tác giả Vũ Quốc Tuấn đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn

trình bày quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đột phá, đấu tranh tư tưởng và tổng kết

sự phát triển của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, trong đó

KTTN là bộ phận quan trọng. Đồng thời phân tích, nhận dạng và dự báo xu

2

hướng phát triển KTTN, đề xuất một số chính sách, giải pháp phát triển KTTN

trong giai đoạn tới.

- Đến nay đã có các công trình được công bố như: Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề cơ bản về phát triển khu vực tư nhân với tư

cách là động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011-

2020” của TS. Vũ Hùng Cường, Viện kinh tế Việt Nam, được thực hiện năm

2009-2010. Nội dung nghiên cứu của đề tài nhấn mạnh vị trí vai trò của khu

vực kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam

giai đoạn 2001-2010; thực trạng phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam giai

đoạn 2001-2010 và quan điểm, định hướng, đề xuất giải pháp phát triển khu

vực KTTN trở thành động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế mới

giai đoạn 2011-2020.

- Đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề đảng viên làm kinh tế tư

nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS

Vũ Văn Gàu, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, được thực hiện năm

2010. Nội dung đề tài phân tích quá trình hình thành và phát triển quan điểm

của Đảng ta về phát triển KTTN và vấn đề đảng viên làm KTTN theo tiến

trình của công cuộc đổi mới đất nước.

- Tài liệu “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa ở Việt Nam”, được Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010. Cuốn

sách được hình thành trên cơ sở đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước mã

số KX.04.09/06-10 trong chương trình khoa học cấp nhà nước KX.04 “Nghiên

cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2006-2010”. Nội dung cuốn sách nêu

những vấn đề cơ bản về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, trong đó có vấn đề sở hữu tư nhân; thực trạng vấn đề sở hữu, các

thành phần kinh tế, nhấn mạnh đến thành phần KTTN trong quá trình đổi mới

kinh tế ở Việt Nam; và quan điểm, xu hướng, giải pháp đối với vấn đề sở hữu,

các thành phần kinh tế trong thời gian tới.

3

Riêng đối với tỉnh Bắc Ninh, liên quan đến khu vực KTTN cũng có

một số công trình:

- Luận án tiến sĩ: “Quá trình phát triển DN vừa và nhỏ ngoài quốc

doanh ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997-2003 - Thực trạng, kinh nghiệm và

giải pháp” năm 2008 của tác giả Mẫn Bá Đạt - Đại học KTQD. Tác giả đã

nghiên cứu sự phát triển của các DNVVN ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh

để thấy được thực trạng của khu vực này và những chính sách của nhà nước

và địa phương tác động đến sự phát triển của DNVVN ngoài quốc doanh,

hoạt động của DNVVN ngoài quốc doanh và những đóng góp của nó đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

- Luận án Tiến sĩ: “Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát

triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003 - Thực trạng,

kinh nghiệm và giải pháp”, năm 2008 của tác giả Nguyễn Như Chung -

ĐHKTQD. Luận án này làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của các

chính sách đối với sự phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, HĐH

nông nghiệp nông thôn và phát triển kinh tế thị trường; đồng thời phân tích

tác động của chính sách (của Nhà nước và địa phương) đến sự phát triển các

làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các

quan điểm, các giải pháp chủ yếu và các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính

sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh.

Như vậy, nghiên cứu KTTN ở Bắc Ninh đã được một số tác giả chú ý

nhưng chỉ đề cập ở một vài khía cạnh. Việc nghiên cứu KTTN với tư cách là

một khu vực kinh tế năng động với những đóng góp quan trọng trong sự phát

triển kinh tế của Bắc Ninh với những thành tựu đạt được và những khó khăn

gây cản trở sự phát triển của nó để đưa ra các giải pháp phát triển KTTN ở

tỉnh Bắc Ninh trong điều kiện hội nhập KTQT thì chưa có một công trình nào

nghiên cứu một cách thấu đáo.

4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích

Làm rõ vị trí, vai trò của KTTN nói chung và đối với sự phát triển của

Tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, rút ra những

nhận định tổng quan về tình hình phát triển KTTN, đề xuất phương hướng và

các giải pháp chủ yếu phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho những

năm sau.

3.2. Nhiệm vụ

Hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến KTTN, làm

cơ sở cho việc phân tích thực trạng, đánh giá quá trình phát triển kinh tế tư

nhân tại Bắc Ninh trong thời gian qua.

Đưa ra dự báo để định hướng phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Bắc

Ninh trong thời gian tới. Đề xuất và kiến nghị các giải pháp để phát triển kinh

tế tư nhân trên địa bàn Tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung chủ yếu liên

quan tới quá trình phát triển KTTN ở Bắc Ninh, bao gồm: quy mô, chất lượng

phát triển của khu vực KTTN; mối tương quan giữa khu vực KTTN với các

khu vực kinh tế khác đặc biệt giữa KTTN với chính quyền địa phương...

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Vấn đề phát triển KTTN rất rộng lớn, trong phạm vi

luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vào quá trình phát triển của các cơ sở và

doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong các ngành công nghiệp,

nông nghiệp, xây dựng, dịch vụ thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Về thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình

phát triển KTTN ở Bắc Ninh từ năm 2000 trở lại đây, bởi vì đây cũng là thời

5

điểm Luât Doanh nghiệp có hiệu lực và Bắc Ninh cũng mới được tái lập từ

năm 1997 nên số liệu thống kê thời điểm này mới đầy đủ và đồng bộ.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước Việt Nam để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể tại tỉnh Bắc Ninh.

Các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị được coi trọng sử dụng

trong luận văn là phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích và tổng hợp, phương

pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp thống kê, phân tích kinh tế…

6. Đóng góp chủ yếu về khoa học của luận văn

Trên cơ sở phân tích đúng tình hình kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh, luận văn làm rõ những thành công, hạn chế trong lĩnh vực này, đề

xuất những giải pháp khả thi cho việc phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn

Tỉnh, phát huy động lực mạnh mẽ của khu vực kinh tế năng động này.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương, 9 tiết.

6

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN

TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ

ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân

trong nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội

Xuất phát từ thế giới quan duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen

cho rằng, sự biến đổi của các chế độ xã hội là quá trình phát triển lịch sử tự

nhiên. Đó là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình

độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản

xuất và người sử dụng tư liệu sản xuất đó với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng

và thói quen lao động của họ. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với

người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Lực lượng

sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn tác động lẫn nhau. Sự thống nhất và

tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tạo thành

phương thức sản xuất.

Từ phân tích đó, C.Mác đã rút ra các quy luật phát triển của chủ nghĩa

tư bản và kết luận phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ thay thế

phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan. Phương thức

mới sẽ trải qua hai giai đoạn: Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản

Mở đầu giai đoạn chủ nghĩa xã hội là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư

bản có những đặc trưng chủ yếu: một là, kế thừa và phát triển lực lượng sản

xuất mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trên cơ sở nâng cao trình độ xã hội hóa sản

xuất và lao động; hai là, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại dưới nhiều

hình thức sở hữu; ba là, còn sản xuất hàng hóa; bốn là, lao động vừa là quyền

7

lợi, vừa là nghĩa vụ và còn có sự khác nhau về lao động, do đó kết quả lao

động cũng khác nhau; năm là, thực hiện phân phối theo lao động.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển

học thuyết của Mác để xác định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước

Nga sau năm 1917. Theo ông, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế

độ tư hữu về tư liệu sản xuất; còn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên

chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên chủ nghĩa xã hội không thể ra đời

trong lòng xã hội tư bản. Hơn nữa, để xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ

nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng xã hội mới, cần phải có thời gian, nghĩa là

tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Từ sự phân tích như vậy, Lê nin cho rằng cách mạng vô sản giành được

chính quyền mới chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Trong thời kỳ quá độ như vậy, nền kinh tế có tính chất quá độ: nó không còn

là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã

hội chủ nghĩa.

Phân tích thực trạng nền kinh tế của nước Nga lúc đó, ông cho rằng ở

nước Nga có 5 thành phần kinh tế: Một là, kinh tế nông dân gia trưởng;

Hai là, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và

tiểu thương; Ba là, kinh tế tư bản tư nhân; Bốn là, kinh tế tư bản nhà nước;

Năm là, kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, không bao lâu sau cách mạng tháng Mười năm 1917, nước

Nga lâm vào nội chiến 1918-1920. Trong thời kỳ này, Lênin đã áp dụng chính

sách Cộng sản Thời chiến. Đó là chính sách trưng thu lương thực thừa của

nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu, đồng thời xóa bỏ quan hệ

hàng hóa - tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy

nhà nước. Chính sách cộng sản thời chiến đã chiến thắng được kẻ thù, bảo vệ

nhà nước Xô Viết non trẻ.

8

Nhưng khi hòa bình lập lại, chính sách này lại không còn thích hợp, nó

kìm hãm sự phát triển sản xuất.

Trong bối cảnh đó, chính sách Kinh tế mới ra đời (NEP). Nội dung và

biện pháp chủ yếu của NEP là thay thế chính sách trưng thu lương thực, theo

chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực cho nhà nước, số

lương thực còn lại, người nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị

trường; tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hóa - tiền tệ

giữa nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và

nông nghiệp; sử dụng sức mạnh của nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến

khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công; khuyến

khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, củng cố lại

các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và quan hệ

hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây.

Nội dung và giải pháp của NEP đã đánh dấu một bước phát triển mới

về lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo NEP, kinh tế nhiều thành phần, các

hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ,

sự quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân, là những

vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội

chủ nghĩa.

Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước

phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Những

quan điểm kinh tế của Đảng ta, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VI đến nay, đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong

chính sách kinh tế mới của Lênin. Tất nhiên do thời gian và không gian xa

cách nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng

có thể có sự khác nhau, kể cả bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể trong

khi tiến hành ở nước ta.

9

1.1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về thành phần kinh tế

tư nhân

* Trước năm 1986

Cuối những năm 1970, trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội của

đất nước, hội nghị lần thứ 6 của BCH Trung ương Khóa IV (tháng 9/1979) chủ

trương “làm cho sản xuất bung ra” và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,

Hội nghị khẳng định sự cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp thị

trường có kế hoạch với thị trường tự do...Tiếp đến Ban Bí thư ra chỉ thị 100 về

khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp,

Chính phủ ra Nghị định 25/CP, 26/CP xác định việc sử dụng các quan hệ thị

trường,...Chính trên cơ sở những quyết sách đúng đắn đó, mà nhiều địa phương

đã có những tìm tòi sáng tạo về phát triển kinh tế hộ tiểu chủ công nghiệp, sửa

đổi giá, lương, tiền. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng

(1982) khẳng định chủ trương đó và thừa nhận ở miền nam vẫn còn năm thành

phần kinh tế. Tuy vậy đến năm 1986, KTTN vẫn được coi là tồn tại tạm thời và

giữ vai trò thứ yếu, bổ trợ cho kinh tế quốc doanh.

* Từ năm 1986 đến nay.

Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt

Nam (12/1986) - thời điểm được đánh dấu là cột mốc quan trọng trong công

cuộc đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách

kinh tế mới của Đảng và nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân được hồi sinh và

phát triển trong một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Các Đại hội của Đảng sau đó đã

khẳng định lại đường lối khởi xướng tại Đại hội VI và đưa ra các định hướng

lớn trong chính sách phát triển kinh tế Việt Nam.

Theo đó sự phát triển kinh tế tư nhân được khẳng định như sau: Kinh tế

cá thể tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà

nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ

10

chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn

hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những

ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường

kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát

triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài.

Đảng ta đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân trong các ngành

nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng mà pháp luật không cấm, đã có

tác dụng khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa việc phát triển kinh tế tư nhân, tạo

điều kiện cho kinh tế tư nhân được phát huy đầy đủ tiềm năng thế mạnh, tạo

sức bật lớn cho nền kinh tế. Đây được coi là bước đột phá mới về nhận thức

phát triển kinh tế tư nhân.

Đường lối đổi mới cơ bản đó của Đảng đã được thể chế hóa trong các

văn bản pháp lý. Trước hết là Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa Xã hội

chủ nghĩa Việt Nam có 15 điều quy định về chế độ kinh tế, theo đó nền kinh

tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế

thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến

pháp năm 1992 còn quy định kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn

hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập không bị hạn chế về

quy mô, hoạt động trong nhiều ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.

Tháng 1/1991, chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký sắc lệnh ban hành

luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty, tiếp theo là các nghị định của hội

đồng bộ trưởng ban hành cụ thể hóa các điều luật của luật doanh nghiệp tư

nhân và luật công ty cho phép công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành

lập doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty. Ngoài ra đối với các cá nhân, nhóm

kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định theo quy định đối với các doanh

nghiệp, công ty tư nhân thì được thành lập hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu

chủ hoặc nhóm hộ kinh doanh được đăng ký theo nghị định số 66/HĐBT ban

hành tháng 2 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).

11

Trở lại giai đoạn lịch sử về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta để thấy

rằng quan điểm của Đảng ta đối với thành phần kinh tế này đã dần có sự thay

đổi theo chiều hướng tích cực, nghĩa là, có tư duy đúng, có quan điểm đổi mới

đối với thành phần kinh tế tư nhân, tạo nhiều thuận lợi để khuyến khích thành

phần kinh tế này phát triển đúng định hướng.

Mặt mạnh của khu vực kinh tế tư nhân là có động lực cá nhân mạnh

mẽ, nó sẽ giúp hoạt động kinh doanh diễn ra năng động, nhanh chóng đổi

mới, hệ thống điều hành và quan lý gọn nhẹ, có hiệu quả và chi phí thấp. Lợi

ích cá nhân là một động lực mạnh mẽ của con người, tồn tại lâu dài. Việc sử

dụng động lực đó phục vụ cho lợi ích chung của xã hội là rất cần thiết trong

giai đoạn hiện nay ở nước ta.

Do vậy, trong nội dung này, có 02 vấn đề cần thiết phải làm rõ:

Thứ nhất, kinh tế tư nhân và vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.

Xuất phát từ quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột,

quy mô kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, quy mô kinh tế lớn thì bóc lột nhiều nên

một thời kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển, là đối tượng

cải tạo xã hội chủ nghĩa để từng bước thu hẹp và xóa bỏ khu vực kinh tế

này. Cùng với quá trình đổi mới các chính sách đối với kinh tế tư nhân đã

thay đổi khá căn bản: Kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể được khuyến

khích phát triển; kinh tế tư bản tư nhân mặc dù đã tuyên bố được phát triển

bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, song trong nhận thức lý luận

của các cấp hoạch định chính sách trên thực tế còn nhiều quan điểm chưa

nhất quán.

Ít nhất có 4 quan điểm khác nhau về vị trí của kinh tế tư nhân trong

nền kinh tế và thái độ ứng xử với kinh tế tư nhân như sau: Một là, coi

kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng

bước xóa bỏ. Đây là quan điểm đã từng chiếm địa vị thống trị trong nhiều

năm trước đây. Hai là, coi kinh tế cá thể và tiểu chủ là không có bóc lột

12

nên có thể khuyến khích phát triển, còn kinh tế tư bản tư nhân là có bóc

lột nên có thể tạm thời chấp nhận trong một giai đoạn nào đó, song về lâu

dài phải giới hạn sự phát triển. Ba là, coi kinh tế tư nhân là bộ phận cần

thiết có vai trò và vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế và có mối liên kết

bổ sung hài hòa với kinh tế nhà nước trong quá trình phát triển lâu dài của

nền kinh tế. Bốn là, coi kinh tế tư nhân là bộ phận chính, là động lực chủ

yếu của nền kinh tế quốc dân, quyết định rất lớn đến hiệu quả cũng như sự

phát triển chung của nền kinh tế, trong khi đó kinh tế nhà nước đóng vai

trò hỗ trợ, chỉ làm những gì mà kinh tế tư nhân không muốn làm hoặc làm

không hiệu quả.

Điểm mấu chốt quyết định thái độ ứng xử với khu vực kinh tế tư nhân,

đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân là quan điểm về bóc lột và bản chất của hiện

tượng này trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cách thức của nhà

nước xã hội chủ nghĩa xử lý hiện tượng bóc lột này.

Bản chất của tình trạng bóc lột trong phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác phân tích trên cơ sở vận dụng

tư tưởng cơ bản về học thuyết giá trị thặng dư. Sự bóc lột diễn ra khi giá trị

của lao động mới sáng tạo ra vượt quá giá cả sức lao động và người chủ thuê

mướn lao động chiếm đoạt phần thặng dư đó làm sở hữu của mình.

Với sự lý giải này về sự bóc lột thì không phải cứ có thuê mướn lao

động là có bóc lột và cũng không phải cứ thuê nhiều nhân công là có mức bóc

lột cao. Bởi vì với một năng suất lao động trong một nền kinh tế kém phát

triển thì phần giá trị thặng dư mà người lao động mới sáng tạo ra rất thấp và

do đó phần giá trị thặng dư mà người chủ thuê mướn lao động thu được cũng

rất thấp mặc dù số người làm công có thể rất đông.

Đó là chưa kể đến các yếu tố khách quan khác ảnh hưởng đến sự lỗ, lãi

trong kinh doanh như ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên (đối với sản xuất

nông, ngư nghiệp), của cung cầu và giá cả trong từng thời điểm cụ thể, của

13

tài năng trong quản lý,... Do vậy, vấn đề là ở chỗ phải xem người chủ thuê

mướn lao động có chiếm đoạt được giá trị thặng dư hay không và chiếm

đoạt được nhiều hay ít. Về vấn đề này, Các Mác đã lý giải rất kỹ cách thức

phân phối và phân phối lại giá trị thặng dư sau khi nó được sản xuất ra và

cho thấy, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có rất nhiều nhân vật tham gia việc

phân chia giá trị thặng dư, đó là nhà tư bản ngân hàng và những người cho

vay vốn hưởng lãi suất, là chủ đất hưởng địa tô chênh lệch II, nhà nước

hưởng phần thu thuế.

Trong khi phải chấp nhận sự tồn tại của các hình thức kinh tế khác

nhau đại diện cho những phương thức sản xuất khác nhau và vì vậy có những

quan hệ sản xuất khác nhau, trong đó có quan hệ thuê mướn lao động và

chiếm đoạt giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì

nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là điều tiết quá trình phân phối và

phân phối lại sao cho mức độ chiếm đoạt giá trị thăng dư của những người

thuê mướn lao động sống có thể chấp nhận được, không gây nên những mâu

thuẫn xã hội gay gắt và cản trở quá trình phát triển kinh tế, thực hiện từng

bước sự công bằng xã hội.

Thứ hai, kinh tế tư nhân và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, các chính sách và biện pháp kinh tế

- xã hội của Đảng và nhà nước phải nhằm tạo lập môi trường kinh tế mới,

thích hợp trong đó mọi cá nhân có thể phát huy tài năng của mình làm giàu

cho bản thân và cho đất nước.

Việc chấp nhận quan hệ trao đổi hàng hóa sức lao động và chấp nhận

sự phân phối chưa công bằng là phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị

trường - dù điều này xét về mặt luân lý và đạo đức là điều mà chúng ta không

mong muốn. Tuy nhiên nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền

14

kinh tế của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch

về thu nhập và về bóc lột sức lao động.

Trong quan hệ mua bán sức lao động, nhà nước ta thông qua Bộ luật

Lao động vàcác quy chế khác có thể bắt buộc những người thuê mướn lao

động đảm bảo những quyền lợi cơ bản cho người lao động như tiền lương, giờ

làm việc, điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động, v.v.. Tương tự như

vậy, trong quan hệ phân phối và phân phối lại thu nhập, nhà nước hoàn toàn

có thể thông qua việc xác định thể chế thuê mướn lao động, hợp đồng lao

động, trả công lao động, chính sách thuế để điều tiết và phân phối lại thu

nhập, hoặc thông qua chính sách đầu tư, chính sách xã hội, phát triển phúc lợi

xã hội công cộng,... để trả lại một phần giá trị thặng dư cho người lao động đã

tạo ra nó.

Như thế, có thể nói, khi nhà nước ta điều hành đất nước, trong đó có

điều hành nền kinh tế ở mức phù hợp, thì “Nhà tư bản” và “Người lao động

làm thuê” không phải là nhà tư bản và người làm thuê thuần túy như trong xã

hội tư bản chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa chủ và người làm thuê đã được nhà

nước quy định và giám sát. Đó là chưa kể vai trò kiểm tra giám sát của các tổ

chức như Đảng, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn,... đối với các hoạt động của

giới chủ và người lao động.

Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy giữa các doanh

nghiệp, cơ sở thuộc thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các doanh nghiệp, cơ sở trong nền

kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có sự khác biệt căn bản. Vì thế sẽ là

không thỏa đáng nếu cứ xem thành phần kinh tế tư nhân hàng ngày, hàng

giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và do đó là đối tượng cải tạo của chủ nghĩa xã

hội. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư bản tư nhân sẽ có đóng góp quan

trọng, lâu dài vào sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa.

15

Từ những vấn đề lý luận chung về các thành phần kinh tế, có thể hiểu:

Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu

tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản

tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình

doanh nghiệp khác.

Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư

nhân đều thuộc loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân, sở hữu tập

thể. Nhưng nếu xét về phương diện thành phần kinh tế thì kinh tế cá thể, tiểu

chủ và kinh tế tư bản tư nhân có thời kỳ chúng ta quan niệm là hai thành phần

kinh tế khác nhau, khác về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và về bản

chất quan hệ sản xuất. Mặc dù vậy, do điều kiện của thời kỳ quá độ lên

CNXH ở Việt Nam, tại Đại hội X, Đảng ta đã ghép hai bộ phận này thành một

thành phần là thành phần kinh tế tư nhân.

Hiện nay, kinh tế tư nhân ở nước ta được khuyến khích phát triển dưới

sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước nên đã có thể kinh doanh

trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, ngoại trừ một số ít lĩnh vực mà

Nhà nước giữ độc quyền nhằm đảm bảo an ninh và quốc phòng.

1.2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ

TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM

1.2.1. Các hình thức tổ chức sản xuất của kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Ở nước ta, khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN với

kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư nhân được phát triển theo hướng tự do

kinh doanh những ngành, nghề công việc mà luật pháp không cấm. Kinh tế tư

nhân được hình thành trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sở hữu tư

nhân gồm sở hữu tư nhân nhỏ (sở hữu của những người lao động làm ra sản

phẩm bằng chính lao động của họ và các thành viên trong gia đình như hộ

nông dân cá thể…) và sở hữu tư nhân lớn - sở hữu vốn, tài sản của các nhà

sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

16

Kinh tế tư nhân bao gồm các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh sau:

- Loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ: là hình thức kinh tế của một hộ gia

đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư

liệu sản xuất và hoạt động chủ yếu vào sức lao động của chính họ. Hình thức

kinh doanh này chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, việc sử dụng lao

động làm thuê không thường xuyên. Hộ kinh doanh cá thể là đơn vị kinh tế

độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản

xuất và tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình.

Loại hình kinh tế cá thể gồm có: Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ

chức sản xuất chủ yếu trong loại hình kinh tế cá thể và trong khu vực sản xuất

nông, lâm nghiệp, đây là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế tư nhân.

Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư

liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu

dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình (đó là những hộ làm

kinh tế trang trại, kinh tế trang trại chính là một hình thức của kinh tế tiểu chủ

trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp).

Mục tiêu kinh doanh chủ yếu của kinh tế cá thể, tiểu chủ xuất phát từ

nhu cầu giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho các thành viên trong gia đình,

họ hàng, vì vậy mục tiêu lợi nhuận chỉ là thứ yếu. Thực tế cho thấy, nhiều hộ

kinh doanh vẫn hoạt động kể cả trong những trường hợp sau khi hạch toán

kinh doanh không có lãi hoặc lãi ít để đảm bảo việc làm cho các thành viên

trong gia đình. Khi mới chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống kinh doanh

của các hộ cá thể phát triển một cách nhanh chóng, len lỏi vào mọi ngõ ngách,

phục vụ mọi nhu cầu đời sống của người dân, đặc biệt đối với các tầng lớp

dân cư có thu nhập thấp.

Tuy nhiên, tính tự phát trong kinh doanh có thể tác động xấu tới thị

trường, đồng thời, những hạn chế về quy mô, vốn, chất lượng nguồn nhân lực,

phương thức tổ chức kinh doanh, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận thị

17

trường sẽ gây cản trở cho sự phát triển của hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ, đặc

biệt trong tiến trình hội nhập sâu về kinh tế quốc tế. Vì vậy, sự phát triển của

các hộ cá thể tiểu chủ, rất cần tới sự giúp đỡ và định hướng của Nhà nước.

- Các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân: dựa trên sở hữu tư nhân lớn

về vốn và các điều kiện kinh doanh. Hình thức kinh doanh là doanh nghiệp tư

nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh với

quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ, thích hợp với khả năng tài chính, năng

lực quản lý của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời cũng có thể thành lập những

tập đoàn kinh tế lớn hoạt động xuyên quốc gia.

Các loại hình kinh tế tư bản tư nhân được thành lập theo Luật Doanh

nghiệp, Luật Công ty tập trung vào các hoạt động dễ sinh lợi và thường tập

trung kinh doanh trên các địa bàn, các trung tâm kinh tế lớn, nơi tập trung khu

công nghiệp, đầu mối giao thông và khu đông dân cư nên có tác động tích cực

đến sự phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm. Loại hình doanh nghiệp

này thích ứng với mọi ngành nghề, mọi trình độ từ thủ công đến tự động hóa,

tin học hóa, với quy mô từ nhỏ đến lớn, phù hợp với mọi địa bàn từ thành thị

đến nông thôn; hình thức sản xuất và phương pháp huy động vốn rất đa dạng,

cho phép huy động nguồn lực nội sinh; tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có tính năng

động, nhạy bén; hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, thu hồi vốn nhanh, có khả

năng đổi mới công nghệ cao; họ có mối quan hệ kinh tế trong và ngoài nước,

vì thế rất năng động.

Tuy nhiên, lợi ích tư nhân có thể đi ngược lại lợi ích xã hội. Ý thức

chấp hành luật kém, tự phát, quá coi trọng lợi ích cá nhân dẫn đến những việc

làm phi pháp như trốn lậu thuế, làm hàng giả, hàng cấm, chụp giật; không

thích công khai thông tin các hoạt động của mình; khó tìm kiếm sự hợp tác

trong mọi hoạt động, từ chối những lĩnh vực kinh doanh không đẹm lại lợi

nhuận cao như trong lĩnh vực công ích; gây ô nhiễm môi trường; tạo nên sự

phân hóa thu nhập trong xã hội, khoảng cách giàu nghèo tăng lên.

18

Sự đa đạng về số lượng, quy mô, phạm vi hoạt động của các doanh

nghiệp tư nhân cũng làm nảy sinh những khó khăn, phức tạp trong việc giám

sát, quản lý hoạt động của họ. Sự phá sản của một số doanh nghiệp tư nhân có

thể kéo theo những hậu quả tiêu cực đối với bộ phận người lao động. Hạn chế

về vốn và khả năng tích lũy đang cản trở đổi mới công nghệ, làm giảm đáng

kể sức cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân nước ta, đặc biệt trong bối cảnh

hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, do đó sự phát triển của

các loại hình doanh nghiệp này rất cần sự quan tâm của Nhà nước.

1.2.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa

1.2.2.1. Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư

tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Kinh tế tư nhân phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, cơ

cấu về ngành nghề, sản phẩm và quy mô vốn đầu tư của kinh tế tư nhân

cũng có nhiều thay đổi. Một số doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển

thành tập đoàn kinh tế, tạo dựng được thương hiệu cả trong nước và quốc

tế, vị trí và vai trò ngày càng tăng, góp phần quan trọng vào việc phát triển

kinh tế - xã hội.

Cụ thể năm 2008, qua kết quả điều tra thực trạng doanh nghiệp các năm

2006, 2007,2008 của Tổng cục Thống Kê đã cho thấy tính đến thời điểm

31/12/2008, số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động là 205.732 doanh

nghiệp, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2007 (tăng 49.961 doanh nghiệp), là

mức tăng cao nhất trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2008, gấp 4,9 lần số

lượng doanh nghiệp năm 2000, tốc độ tăng bình quân hàng năm 2000-2008 là

21,9%. Tỷ trọng thu ngân sách từ khu vực KTTN tăng từ 6% (năm 2002) lên

trên 11% (năm 2008).

19

Bảng 1.1: Số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất

kinh doanh trên cả nước tính đến 31/12 hàng năm

Đơn vị tính: doanh nghiệp

2000

2005

2006

2007

2008

2009

5.759

4.086

3.706

3.494

3.286

3.369

35.004 105.167 123.392 147.316 196.776 238.932

1.525

3697

4.220

4.961

5.626

6.546

Số lượng doanh nghiệp chia theo khu vực và thành phần kinh tế Khu vực doanh nghiệp nhà nước Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

42.288 112.950 131.318 155.771 205.688 248.847

Tổng số

Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt năm 2010, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2010

Nhìn vào bảng trên cho thấy, khu vực Nhà nước tiếp tục giảm số lượng

do chủ trương cổ phần hóa của chính phủ từ nhiều năm nay. Các doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài có sự tăng trưởng ổn định. Tăng trưởng mạnh mẽ

và nổi bật nhất, liên tục nhiều năm qua về số lượng doanh nghiệp là khu

vực ngoài nhà nước.

Xét về cơ cấu ngành thì tốc độ tăng trưởng cao ở các ngành: xây

dựng, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động liên quan đến kinh doanh

tài sản và dịch vụ tư vấn, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, hoạt

động làm thuê công việc gia đình trong hộ tư nhân.

Xét về quy mô số lượng doanh nghiệp, tăng trưởng mạnh mẽ nhất là

các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, các doanh nghiệp có dưới 50 lao động

năm 2008 đạt gần 185 nghìn doanh nghiệp, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm

trước. Đây cũng sẽ là khu vực có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ và sôi

động nhất trong những năm tới.

20

Xét về quy mô nguồn vốn thì tăng trưởng nhanh nhất là các doanh

nghiệp thuộc loại hình công ty cổ phần không có vốn nhà nước có quy mô

vốn từ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ với tốc độ 69,6% so với cùng kỳ năm trước và

các doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đến dưới 50 tỷ đồng với tốc độ 78,7%.

Theo số liệu từ Niên giám thống kê 2009 của Tổng cục Thống kê về vốn

đầu tư phân theo thành phần kinh tế thì khu vực kinh tế tư nhân luôn tăng

theo hàng năm, cụ thể năm 2005 là 130.390 tỷ đồng, năm 2006 là 154.006

tỷ đồng, năm 2007 là 204.705 tỷ đồng, năm 2008 là 217.034 tỷ đồng, năm

2009 là 240.109 tỷ đồng [25].

Bảng 1.2: Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước phân theo

quy mô nguồn vốn

Đơn vị tính: doanh nghiệp

Dưới 0,5 tỷ đồng

Từ 500 tỷ trở lên

Tổng số doanh nghiệp

Từ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ

Từ 10 tỷ đến dưới 50 tỷ

Từ 50 tỷ đến dưới 200 tỷ

Từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng

Từ 1 tỷ đồng đến dưới 5 tỷ

Từ 200 tỷ đến dưới 500 tỷ

8.368 7.308 1.388

214

80

2005 105.167 26.556 20.317 40.936

299

119

2006 123.392 15.773 21.693 63.226 11.630 8.804 1.848

566

294

2007 147.316 18.489 23.495 71.404 16.386 13.536 3.146

866

422

2008 196.776 21.803 27.097 94.935 25.257 21.811 4.585

Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu của thế kỷ 21, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2010.

Riêng đối với TPHCM, đầu tàu kinh tế của cả nước, hiện có trên

128.000 doanh nghiệp tư nhân, chiếm tới 80% số lượng doanh nghiệp trên địa

bàn, về vốn chiếm khoảng 53%. Kinh tế tư nhân được Đại hội Đảng bộ thành

phố lần thứ X (2010) khẳng định là lực lượng là có vai trò hết sức quan trọng

trong phát triển kinh tế TPHCM những năm qua.

21

1.2.2.2. Giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động

Nhu cầu hàng năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một

áp lực lớn đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương, bởi lẽ:

không có việc làm sẽ dẫn tới tình trạng “thất nghiệp”, một trong những

nguyên nhân cơ bản gây suy thoái kinh tế và làm nảy sinh những hiện tượng

tiêu cực trong xã hội như: trộm cắp, ma túy, buôn lậu, nghèo đói... Do đó, giải

quyết việc làm, nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư không chỉ là những

vấn đề kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc.

Xét ở góc độ giải quyết việc làm thì kinh tế tư nhân là khu vực thu hút

lao động có tỷ lệ cao nhất. Theo số liệu từ niên giám thống kê 2011 của Tổng

cục Thống kê về tình hình lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc cho thấy:

số lao động đang làm việc tại thời điểm 01/07/2010 trong khu vực kinh tế

ngoài nhà nước (tập trung chủ yếu ở kinh tế tư nhân) là 42,3 triệu người,

chiếm 86,1% số lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước; trong đó

hơn 40,96 triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân.

Trong cả giai đoạn 2005-2010, cứ trung bình hàng năm, khu vực

kinh tế tư nhân cũng tạo ra bình quân 800.000 lao động/năm, chiếm khoảng

50,2% số lao động tăng thêm của cả nước. Chính sự đóng góp này của khu

vực kinh tế tư nhân đã góp phần “giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu

lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm

còn 9,5%” [11]. Như vậy, có thể nói, trong điều kiện lực lượng lao động ở

nước ta ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, trong khi khu vực kinh tế

nhà nước, kinh tế tập thể rất hạn chế khả năng thu hút lao động thì kinh tế

tư nhân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc giải

quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần xóa đói

giảm nghèo.

22

1.2.2.3. Đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của cả nước và

tăng ngân sách nhà nước

Tính cả giai đoạn 2005-2010, theo đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu tư

về tình hình triển khai kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, GDP của

khu vực kinh tế tư nhân (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa) từ

chiếm 45,6% tổng GDP năm 2005 đã tăng lên khoảng 48% trong năm 2010.

Tốc độ tăng trưởng bình quân khu vực này đạt trên 10%, cao hơn mức 8% của

cả nền kinh tế giai đoạn 2005-2010 [33].

Bảng 1.3: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo thành phần kinh tế

Đơn vị: tỷ đồng

THÀNH PHẦN KINH TẾ

Năm 2006

Năm 2008

Năm 2007

Năm 2009

Năm 2010

Tổng số

Năm 2005 393.031 425.373 461.344 490.458 516.568 551.609

Kinh tế nhà nước

159.836 169.696 179.718 187.561 195.046 204.057

Kinh tế ngoài nhà nước

185.744 201.427 220.301 236.759 252.205 272.606

Kinh tế tập thể

28.240 29.230 30.201 31.110 31.997 32.950

Kinh tế tư nhân

38.165 43.832 50.727 56.293 61.601 68.348

Kinh tế cá thể

119.339 128.365 139.373 149.356 158.607 171.308

KT có vốn đầu tư nước ngoài 47.451 54.250 61.325 66.138 69.317 74.946

Nguồn: Trang web của Tổng cục Thống kê.

Bảng trên cho thấy, đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP của nền

kinh tế có xu hướng ngày càng tăng qua từng năm, chiếm tỷ trọng khá cao so

với các thành phần kinh tế khác, chỉ xếp sau kinh tế nhà nước. Như vậy, trong

thời gian vừa qua, kinh tế tư nhân đã góp phần cùng các thành phần kinh tế

khác thúc đẩy nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục

Không chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, kinh tế tư nhân còn góp phần làm tăng ngân sách nhà nước.

23

Theo Phụ lục số 3 /CKTC-NSNN được ban hành kèm theo Quyết định số

1674/QĐ-BTC ngày 14/07/2010 của Bộ Tài chính về việc công bố công khai

số liệu quyết toán ngân sách nhà nước năm 2008: số thu từ khu vực công

thương nghiệp, dịch vụ ngoài nhà nước đạt khoảng 43.527 tỷ đồng, chiếm

18,13% số thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) và chiếm khoảng 7,9% tổng

thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2008 [34, tr.10].

Những số liệu minh họa trên cho thấy, nguồn thu ngân sách Nhà

nước có sự đóng góp đáng kể của khu vực kinh tế tư nhân để từ đó có

nguồn vốn cho đầu tư, phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội đất nước phục vụ nhân dân. Do vậy việc cần phải làm trong giai đoạn

hiện nay là cần phải tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa, tốt hơn nữa về

chính sách, pháp lý… để kinh tế tư nhân phát triển trên những định hướng

ưu tiên của Nhà nước.

1.2.2.4. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Theo Niên giám thống kê 2011 của Tổng cục Thống kê: Việt Nam có

70,4% dân số sống ở khu vực nông thôn và 73,56% lao động từ 15 tuổi trở lên

đang làm việc ở khu vực nông thôn trong tổng số lực lượng lao động. Do đó,

có thể nói Việt Nam là một nước nông nghiệp và đang thực hiện mục tiêu

chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Căn cứ nội dung GDP theo giá so sánh 1994 chia theo khu vực kinh tế,

cơ cấu kinh tế đang có bước chuyển dịch tích cực trong thời gian vừa qua, tỷ

trọng khu vực kinh tế nông, lâm, thủy sản từ 19,56% (năm 2005) giảm xuống

còn 16,42% (năm 2010); tỷ trọng khu vực kinh tế công nghiệp và xây dựng từ

40,17% (năm 2005) tăng lên 41,93% (năm 2010); tỷ trọng khu vực kinh tế

dịch vụ từ 40,27% (năm 2005) tăng lên 41,63% (năm 2010).

24

Bảng 1.4: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo khu vực kinh tế

Đơn vị: tỷ đồng

KHU VỰC KINH TẾ

Năm 2005

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

TỔNG GIÁ TRỊ

393.031 425.373 461.344 490.458 516.568 551.609

- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

76.888

79.723

82.717

86.587

88.168

90.613

Chiếm tỷ trọng

19,56% 18,74% 17,93% 17,07% 17,65% 16,42%

- Công nghiệp và xây dựng

157.867 174.259 192.065 203.554 214.799 231.336

Chiếm tỷ trọng

40,17% 40,97% 41,63% 41,58% 41,50% 41,93%

- Dịch vụ

158.276 171.391 186.562 200.317 213.601 229.660

Chiếm tỷ trọng

40,27% 40,29% 40,44% 41,35% 40,84% 41,63%

Nguồn: Trang web của Tổng cục Thống kê.

Thực tế cũng đã cho thấy, kinh tế tư nhân có vai trò to lớn trong thúc

đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Theo số liệu của Tổng cục thông kê năm 2011 về kết quả tổng

điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2011 cho thấy có sự chuyển dịch lao

động rõ nét giữa các ngành kinh tế trong 10 năm qua:

Khu vực kinh tế nông, lâm, thủy sản từ chiếm tỷ trọng 69,4% lao động

có việc làm cả nước năm 1999 giảm còn 48,7% trong năm 2010; khu vực kinh

tế công nghiệp và xây dựng từ chiếm tỷ trọng 14,9% (năm 1999) tăng lên

21,1% (năm 2010); khu vực kinh tế dịch vụ từ chiếm tỷ trọng 15,7% (năm

1999) tăng lên 29,6% (năm 2010) và khu vực này cũng tạo thêm nhiều việc

làm nhất trong giai đoạn 1999 - 2010 với hơn 6,8 triệu việc làm [25, tr.108].

Như vậy, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã thu hút ngày càng nhiều lao

động, nhất là lực lượng lao động nông nghiệp vào các ngành, lĩnh vực thực

hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Cùng với sự gia tăng số đơn vị, lao động trong nhiều ngành nghề, nhiều

lĩnh vực khác, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì ngay trong lĩnh vực

nông nghiệp, các hộ sản xuất nông nghiệp cũng đang phát triển theo hướng

25

như: phân vùng chuyên canh, ứng dụng công nghệ sinh học (nuôi trồng những

giống cây, con có hiệu quả kinh tế cao, phương pháp canh tác tiên tiến); cơ

giới hóa sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến nông sản, mở rộng các

ngành, nghề.

Đồng thời, với sự phát triển của mình, kinh tế tư nhân thúc đẩy sản xuất

nông phẩm hàng hóa, mở rộng thị trường nội địa, thực hiện thủy lợi hóa và

xây dựng đường giao thông nông thôn, phát triển thông tin liên lạc, các khu

thương mại dịch vụ, vui chơi giải trí,v..v.., từ đó làm thay đổi bộ mặt văn hóa

nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, đó cũng là yếu tố góp phần vào

việc thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.

1.2.2.5. Góp phần xây dựng đội ngũ các doanh nhân Việt Nam tham

gia sản xuất ngày càng nhiều hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng

trong nước và xuất khẩu

Trong thời gian qua, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân, mặc dù

được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế thị

trường, đã tỏ ra bản lĩnh, tài năng, thích ứng khá kịp thời với sự chuyển đổi

của nền kinh tế. Họ đã vươn lên tham gia vào hầu hết các lĩnh vực, ngành

nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm - trong đó bao gồm cả

những ngành kỹ thuật cao (điện tử, phần mềm) và đã làm chủ nhiều lĩnh vực

(nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản, công nghiệp chế biến…), nhiều ngành

hàng (thương mại, dịch vụ, bán lẻ hàng hóa, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, ăn

uống…). Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, hàng trăm ngàn trang trại cung

cấp nông sản, hàng hóa cho xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu gạo của Việt

Nam. Vai trò của các trang trại ngày càng được khẳng định như đầu tàu, động

lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế hàng hóa và tăng trưởng trong sản

xuất nông nghiệp nước ta.

26

Với đặc điểm là sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, hoạt động trên

khắp các địa bàn cả nước, cùng với tiềm năng sẵn có, kinh tế tư nhân đã và

đang tỏ rõ là một bộ phận kinh tế quan trọng, cung cấp đầy đủ, kịp thời các

sản phẩm và dịch vụ thiết yếu cho toàn xã hội.

Tuy số lượng sản phẩm mỗi đơn vị sản xuất ra không nhiều do quy mô

nhỏ, nhưng với số lượng nhiều, nên đã tạo ra được một khối lượng lớn các sản

phẩm hàng hóa đa dạng, phong phú về chủng loại và mẫu mã, từ các mặt hàng

giản đơn đến những mặt hàng cao cấp, từ đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng

nhỏ nhất như cái kim, sợi chỉ, hộp tăm, đôi đũa... đến đáp ứng những nhu cầu

lớn, xuất khẩu những mặt hàng cao cấp ra nước ngoài. Trong những năm qua,

các sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu như: hàng dệt may, giày dép, thủ công

mỹ nghệ, rau quả, thực phẩm, gỗ và sản phẩm từ gỗ phần lớn được cung cấp

từ các bộ phận kinh tế này.

Có thể nói kinh tế tư nhân là những đơn vị nắm bắt rất nhanh các yêu

cầu của thị trường để từ đó tìm cách đáp ứng nó. Chính vì vậy, bộ phận kinh

tế này không những góp phần tạo ra khối lượng lớn hàng hóa phục vụ nhu cầu

thị trường và xuất khẩu mà còn góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô

quan trọng như: tạo sự cân đối quỹ hàng hóa, tiền tệ, bình ổn giá cả, cân đối

phát triển kinh tế giữa các vùng, ổn định đời sống nhân dân, thực hiện xóa đói

giảm nghèo.

Tóm lại, kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế năng động, đầy tiềm

năng, đang không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định vai trò quan

trọng của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta. Với những vai trò của kinh tế tư nhân nêu trên đã chứng tỏ chủ

trương, đường lối chính sách của Đảng ta về phát triển thành phần kinh tế này

là hoàn toàn đúng đắn.

Tuy nhiên, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân vẫn còn thiếu

nhất quán; việc đổi mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư

27

nhân vẫn còn nhiều hạn chế; nhiều vướng mắc về cơ chế, chính sách trong

quá trình tổ chức thực hiện chưa được tháo gỡ kịp thời; thủ tục hành chính

trong một số lĩnh vực vẫn còn phức tạp. Định hướng phát triển kinh tế tư nhân

theo quy hoạch ngành và lãnh thổ chưa được quan tâm đúng mức. Kinh tế tư

nhân phát triển còn tự phát, nhỏ lẻ, manh mún, tình trạng vi phạm pháp luật

diễn ra còn khá phổ biến, nhất là ở những lĩnh vực nhạy cảm. Công tác xây

dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp của tư nhân vẫn còn nhiều

khó khăn, tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp của tư nhân chưa đều khắp

chất lượng hoạt động còn nhiều hạn chế, chưa đủ năng lực bảo vệ quyền lợi

cho người lao động.

Nguyên nhân chủ yếu là do sự quan tâm chưa đầy đủ của các cấp ủy, tổ

chức đảng và mức độ đầu tư của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân còn thấp;

doanh nghiệp của tư nhân hầu hết mới được hình thành và phát triển nên tài

sản, vốn liếng còn ít, khả năng cạnh tranh hạn chế. Đồng thời, trong bối cảnh

hội nhập quốc tế với nhiều thử thách mới, đặc biệt tình hình kinh tế thế giới

còn nhiều biến động khó lường đã tác động mạnh đến sự phát triển của kinh tế

tư nhân.

1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

1.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có diện

tích tự nhiên là 1.231km2, dân số gần 10,02 triệu người. Thực hiện chủ

trương của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong những năm

qua, nhất là từ khi có Luật Doanh nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều giải

pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, thu hút mạnh các nguồn lực

cho đầu tư phát triển ở cả các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.

Theo báo cáo của sở Kế hoạch & Đầu tư, đến hết tháng 8 năm 2009,

tỉnh Vĩnh Phúc co 2.850 Doanh nghiệp dân doanh, vốn đăng kí đạt 12.610 tỷ

đồng, so với năm 2002 gấp 6,4 lần về số lượng doanh nghiệp và gấp 17 lần về

28

số vốn đăng kí (bình quân mỗi năm gần đây tăng trên 600 doanh nghiệp với

số vốn đăng kí trên 3.700 tỷ đồng); số hộ kinh doanh cá thể là 31.100 hộ, so

với năm 2002 gấp 2 lần về số lượng (bình quân mỗi năm tăng 3000 hộ)

Đóng góp vào ngân sách địa phương của khu vực kinh tế tư nhân Vĩnh

phúc năm 2008 đạt 290 tỷ đồng gấp 7,89 lần so với 2002 (24,07 tỷ đồng) và

gấp 3,43 lần so với năm 2005 (84,5 tỷ đồng), chiếm 3,1% số thu ngân sách

trên địa bàn. Giá trị tăng thêm của khu vực Kinh tế tư nhân cũng tăng rất

mạnh (theo giá so sánh năm 1994): Năm 2002 đạt 1.689 tỷ đồng; năm 2005

đạt 2.478 tỷ đồng và năm 2008 đạt 3.577 tỷ đồng, chiếm 36,7% giá trị tăng

thêm trên địa bàn. Khu vực kinh tế tư nhân Vĩnh phúc đã giải quyết việc làm

cho 60.700 lao động, chiếm 10,16% số lao động đang làm việc trong các

thành phần kinh tế. Đạt được kết quả trên về phát triển Kinh tế tư nhân tỉnh

Vĩnh phúc đã có những biện pháp cụ thể sau:

Một là, đẩy mạnh cải cách hành chính

Thực hiện Quyết định số 181/QĐ-TTg ngày 4/9/2003 của Thủ tướng

Chính Phủ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng kế hoạch số 2120/KH-UBND

ngày 20/3/2003 triển khai thực hiện cơ chế một cửa cho các cơ quan hành

chính của Tỉnh. Đến nay đã có 20/20 sở, ban ngành trong toàn tỉnh thực hiện

cơ chế một cửa ở 81 lĩnh vực; 9/9 huyện, thị thành ở 6 lĩnh vực 137/137 xã,

phường, thị trấn thực hiện cơ chế một cửa ở 4 lĩnh vực. Quy trình giải quyết,

hồ sơ, thủ tục, lệ phí, thời gian gải quyết được công khai, rút ngắn thời gian so

với trước khi thực hiện như: lĩnh vực thu hút đầu tư, từ khi chủ đầu tư làm thủ

tục cấp phép đầu tư đến khi được giao đất để đầu tư sản xuất theo quy định là

160-200 ngày, nay chỉ thực hiện 130-140 ngày; cấp giấy quyền sử dụng đất

theo quy định 22 ngày, nay thực hiện 15-17 ngày; thủ tục cấp giấy chứng

nhận đăng kí kinh doanh được thực hiện đơn giản, gọn nhẹ theo đúng Luật

doanh nghiệp 2005: thời gian đăng kí kinh doanh bình quân đã giảm từ 12,25

ngày xuống còn 10 ngày, tổng thời gian để thực hiện các thủ thục hành chính

29

của các nhà quản lý doanh nghiệp giảm từ 22% xuống còn 15%, thời gian

trung bình của mỗi đợt thanh tra thuế cũng giảm từ 8 giờ xuống còn 5 giờ…

Việc thực hiện cơ chế một cửa đã giảm phiền hà cho tổ chức, công dân đến cơ

quan Nhà nước giao dịch, tiết kiệm được thời gian chi phí đi lại, tạo điều kiện

thuận lợi cho Kinh tế tư nhân Vĩnh Phúc phát triển, đồng thời hạn chế các

biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, công chức.

Hai là, giải quyết tốt việc tiếp cận đất đai

Tỉnh Vĩnh Phúc đã tập trung đẩy mạnh công tác quy hoạch, nhất là quy

hoạch các khu, cụm công, quy hoạch các làng nghề, thực hiện quyết liệt công

tác đền bù, giải phóng mặt bằng, chủ động quỹ đất để cho các doanh nghiệp

có mặt bằng thuê đất để triển khai các dự án đầu tư. Đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc

đã có quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp với tổng diện tich 2.686 ha;

trong đó đã có 9 khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

với tổng diện tích 2.234 ha; quy hoạch 4 cụm công nghiệp với diện tích 351

ha, quy hoạch các cụm kinh tế xã hội 490 ha; 8 cụm tiểu thủ công nghiệp -

làng nghề 115 ha. Giá thuê đất được áp dụng ở mức thấp nhất trong khung

quy định của Nhà nước, giảm giá thuê đất tối đa là 20% so với mức giá thuê

đất do UBND tỉnh ban hành hàng năm.

Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không phải chuyển sang thuê

đất đối với các khu đất của tư nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, hoặc mua lại một cách hợp pháp mà tư nhân dùng làm mặt bằng sản

xuất, kinh doanh.

Khuyến khích các hộ tập trung đất đai, xây dựng các khu chăn nuôi tập

trung. Tỉnh Vĩnh Phúc hỗ trợ điều kiện xây dựng đường, điện đến khu chăn

nuôi tập trung, bình quân mỗi khu từ 1,5 - 1,8 tỷ đồng.

Ba là, cơ chế về tài chính, tín dụng đối với Kinh tế tư nhân

Thực hiện nhất quán cơ chế tài chính, tín dụng đối với Kinh tế tư nhân

bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các

30

doanh nghiệp dân doanh tiếp cận nguồn vốn, đất đai và khoa học công nghệ;

thực hiện chính sách doanh nghiệp được dùng giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất thế chấp vay vốn theo tinh thần Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày

29/3/1999 của Chính phủ, Nghị định 79/2001/NĐ-CP, cho phép KTTT được

dùng tài sản hình thành vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Kết quả từ

2003 đến nay, sở Tài nguyên Môi trường Vĩnh Phúc đã giúp 770 DN dân

doanh thế chấp vay vốn sản xuất, kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho các

doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn khi cho Doanh nghiệp vay vốn. Đơn

giản hóa các thủ tục cho vay, gắn liền với dịch vụ, thanh toán, bảo lãnh, tư

vấn. Khuyến khích và tạo điều kiện cho KTTN sử dụng các dịch vụ kiểm

toán, công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm.

Bốn là, thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ,

chương trình khuyến công, chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến

ngư đối với đối tượng hộ kinh doanh cá thể.

- Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo chương trình của chính phủ: từ

2006-2008, Vĩnh phúc tổ chức 71 lớp đào tạo 2.768 người. Vĩnh phúc đã triển

khai thực hiện các dự án: đầu tư xây dựng chương trình năng suất chất lượng

cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn

2007-2010; đào tạo, khuyến khích doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản

phẩm phục vụ quá trình hội nhập; hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức thực hiện tiết

kiệm năng lượng (2 năm 2007-2008, có khoảng 100-120 doanh nghiệp tham

gia dự án, tiết kiệm được kinh phí khoảng 4,2 tỷ đồng)

- Chương trình khuyến công: tỉnh Vĩnh Phúc giao cho Sở công thương

tổ chức phối hợp với các trường Đại học, cao đẳng, Tỉnh đoàn Thanh niên,

Trung tâm giới thiệu việc làm, Hội liên hiệp phụ nữ, các tổ chức chính trị - xã

hội tổ chức khóa học bồi dưỡng kiến thức quản trị kinh doanh cho trên 600

cán bộ quản lý doanh nghiệp, tổ chức nhiều đoàn thăm quan đi học tập kinh

31

nghiệm ở những tỉnh co ngành nghề nông thôn phát triển tốt, các mô hình tiên

tiến, các hình thức đầu tư phù hợp với điều kiện của địa phương mình.

- Chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đối với các hộ

kinh doanh cá thể: Ngành nông nghiệp Vĩnh Phúc đã tổ chức được nhiều lớp

tập huấn cho nông dân, hộ kinh doanh, hợp tác xã ở các địa phương. Tỉnh

Vĩnh phúc cũng đã dành nguồn ngân sách để đầu tư, hỗ trợ các chương trình

khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, trong đó chủ yếu là hỗ trợ nông dân

các giống cây, giống con; bồi dưỡng đào tạo nghề cho nông dân. Kết quả đến

nay đã có 651 trang trại đủ điều kiện cấp giáy chứng nhận kinh tế trang trại,

370 trang trại đang thẩm đinh.

1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Bình Dương

Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng

kinh tế trọng điểm phía Nam được tái lập từ ngày 01/01/1997. Sau khi Tỉnh

được tái lập, kế thừa và phát huy những thành tựu của tỉnh Sông Bé trước

kia, Bình Dương có nhiều chủ trương và chính sách động viên phát triển

khu vực KTTN. Nhờ vậy, KTTN Bình Dương tăng nhanh về số lượng, vốn

kinh doanh, thu hút lao động, nhất là loại hình xí nghiệp và công ty. Số lượng

Doanh nghiệp tư nhân ở Bình Dương có tỷ lệ tăng nhanh hàng đầu của cả

nước, nhất là sau khi luật Doanh nghiệp ra đời năm 2000. Nếu năm 1996 toàn

tỉnh Bình Dương có 648 DNTN với số vốn đăng ký khiêm tốn 748,3 tỷ đồng

thì đến nay số lượng DNTN tăng lên nhanh chóng đạt gần 6.700 DN với vốn

đầu tư khoảng 40.000 tỷ đồng.

Nét nổi bật của DNTN Dương trong thời gian gần đây là phát triển số

lượng và chất lượng, tập trung vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm có hàm lượng

công nghệ cao, khả năng cạnh tranh tốt và sử dụng ít lao động. Nếu trước đây

các DNTN tập trung chủ yếu ở một số nghề truyền thống như: gốm sứ, sơn

mài, điêu khắc gỗ, gạch ngói nung…, thì hiện nay lĩnh vực hoạt động của

DNTN rất đa dạng như chế biến thực phẩm, sản xuất hàng điện tử, sắt thép,

32

sản xuất thuốc…Đáng nói hơn là năng lực cạnh tranh của sản phẩm từ các

DNTN Bình Dương ngày càng có nhiều thương hiệu có tiếng trên thị trường

thế giới như: sứ Minh Long, tôn Hoa Sen, thép Pomina, Vinamit, gỗ Trường

Thành… Những thành công của khu vực KTTN Bình Dương trên là nhờ các

biện pháp:

Thứ nhất, cải cách hành chính nhằm giảm chi phí thời gian, chi phí gia

nhập thị trường của doanh nghiệp.

Tỉnh Bình Dương nghiêm túc thực hiện việc giảm tối đa thời gian cấp

giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, giảm số lượng các hồ sơ luật không cần

thiết để doanh nghiệp nhanh chóng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

Hiện nay, thời gian làm thủ tục thành lập doanh nghiệp tại phòng đăng kí

kinh doanh của sở KH&ĐT chỉ còn tối đa 5 ngày DN nhận được Giấy chứng

nhận đăng kí kinh doanh và mã số thuế. Sau đó DN thực hiện thủ tục khắc

dấu trực tiếp với các cơ sở khắc dấu theo quy định. Trong quá trình thực hiện,

DN được hướng dẫn và nhận hồ sơ trực tiếp tại 1 đầu mối duy nhất là phòng

Đăng kí kinh doanh của sở KH&ĐT.

Thứ hai, đảm bảo khả năng tiếp cận đất đai và ổn định trong sử dụng

đất của doanh nghiệp

Thời gian trung bình Ban Quản Lý các KCN Bình Dương xác nhận hợp

đồng cho thuê đất của DN trong các KCN là 03 ngày làm việc. Còn đối với

các dự án đầu tư bên ngoài KCN, tỉnh Bình Dương đang thực hiện chủ trương

có mặt bằng mới cấp giấy phép; sau khi xem xét kiến nghị của nhà đầu tư,

nếu thấy hợp lý, tỉnh sẽ có văn bản chấp thuận chủ trương để đền bù. Khi

đảm bảo các vấn đề liên quan đến công tác giải tỏa, đền bù xong mới cấp giấy

chứng nhận đầu tư. Cách làm này đã giúp hầu hết các dự án được cấp phép

đều triển khai nhanh do không vướng khâu đền bù giải tỏa, nhà đầu tư sẽ

giảm được nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng đất.

33

Thứ ba, đảm bảo tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin cho

doanh nghiệp.

Tất cả các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch

phát triển ngành và các cuộc họp bàn về tình hình kinh tế - xã hội, nhiệm

vụ, phương hướng của tỉnh Bình Dương luôn được công bố công khai,

tường thuật trên báo, đài của Tỉnh. Các thông tin, quy trình, hồ sơ cấp phép

của các ngành các cấp đều được công bố và niêm yết cụ thể tại trụ sở cơ

quan, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân đến liên hệ

công tác.

Thứ tư, tỉnh thực thi chính sách phát triển KTTN hợp lý thông qua việc

xã hội hóa xúc tiến đầu tư và chiến lược phát triển các KCN phù hợp.

So với các tỉnh thành khác, tỉnh Bình Dương không thành lập trung tâm

xúc tiến đầu tư của tỉnh mà xem việc xúc tiến đầu tư là một hoạt động mà cả

doanh nghiệp và bộ máy hành chính cùng thực hiện. Chủ đầu tư các KCN

đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nhà đầu tư thứ cấp, trong khi bộ

máy hành chính tập trung thực hiện tốt, nhanh chóng các thủ tục hành chính

liên quan đến doanh nghiệp. Nhiều trường hợp đại diện lãnh đạo tỉnh cùng

với doanh nghiệp đi xúc tiến đầu tư, làm việc trực tiếp với đối tác để tạo niềm

tin cho họ, đồng thời nắm được tâm tư nguyện vọng của đối tác để kịp thời xử

lý các vướng mắc, lo ngại khi đầu tư vào địa bàn tỉnh.

Thứ năm, chính sách đào tạo nghề, phát triển kỹ năng cho người lao

động là vấn đề được tỉnh chú trọng, quan tâm.

Công tác sắp xếp, đổi mới và phát triển mạng lưới dạy nghề, hỗ trợ đào

tạo nghề cho người dân nằm trong các khu vực phải chuyển đổi mục đích sử

dụng phục vụ cho công nghiệp hóa. Phát triển hệ thống các trung tâm giới

thiệu việc làm và hệ thống thông tin thị trường lao động để thanh niên nông

thôn dễ tiếp cận hơn với các cơ hội việc làm uy tín…

34

1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển kinh tế tư

nhân ở tỉnh Bắc Ninh

Từ những kinh nghiệp trong giải quyết vấn đề phát triển KTTN ở Vĩnh

Phúc và ở Bình Dương cho thấy rằng KTTN có phát triển mạnh mẽ và đúng

hướng hay không, điều đó phụ thuộc một phần rất quan trọng vào cơ chế,

chính sách và biện pháp tổ chức, quản lý của chính quyền địa phương.

Một là, sự phát triển mạnh mẽ của khu vực KTTN ở tỉnh Vĩnh Phúc và

Bình Dương là kết quả của việc thực hiện nhất quán các chủ trương, chính

sách của Đảng và Nhà nước đối với KTTN. Đề ra những phương hướng quyết

sách phù hợp với điều kiện thực tế địa phương, sự nhận thức tích cực hơn của

đội ngũ cán bộ chính quyền tỉnh và của xã hội đối với KTTN với quan điểm

coi KTTN là khu vực năng động, phát huy hiệu quả nhất mọi nguồn lục trong

nhân dân.

Hai là, thành công thu hút đầu tư và phát triển KTTN của Bình Dương

và Vĩnh Phúc bắt nguồn từ suy nghĩ và quyết tâm tạo môi trường kinh doanh

minh bạch và thuận lợi cho nhà đầu tư. Do vậy, cải cách hành chính được

xem như một khâu then chốt để phát triển kinh tế. Chính quyền địa phương

của Vĩnh Phúc và Bình Dương đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm giảm

thiểu thời gian và chi phí gia nhập thị trường và vận dụng cơ chế chính sách

của Trung ương một cách linh hoạt tạo cư chế mở, thông thoáng cho KTTN

đầu tư vào địa phương mình.

Ba là, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ chức năng của các địa phương đã đổi

mới tư duy nâng cao năng lực chỉ đạo thực tiễn, tính minh bạch và trách

nhiệm: coi việc tạo cơ hội và thuận lợi trong kinh doanh của khu vực KTTN

là trách nhiệm của mỗi cán bộ và chính quyền.

Bốn là, chính quyền địa phương đã tích cực trong việc hỗ trợ khu vực

KTTN về vốn, khoa học công nghệ thông qua các quỹ vốn dành riêng cho

KTTN, đào tạo nghề, tạo cơ hội cho KTTN tiếp cận được các thông tin, đất

35

đai, giải quyết các vấn đề khó khăn cho khu vực KTTN. Mặt khác, chính

quyền địa phương cũng tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại hỗ trợ cho

KTTN mở rộng tiếp cận các thị trường mới thông qua hoạt động xúc tiến

thương mại.

Năm là, bên cạnh những thành công nêu trên, hai tỉnh Bình Dương và

Vĩnh Phúc còn có những hạn chế trong phát triển KTTN, thể hiện qua chỉ số

CPI trong các năm 2007 - 2010. Các tỉnh này không còn duy trì được vị trí

trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hàng năm: Bình Dương từ

vị trí thứ 1 các năm 2005-2007 đã tụt xuống vị trí thứ 5 năm 2010. Nguyên

nhân do sự giảm sút ở các chỉ số như: chi phí gia nhập thị trường, tiếp cận đất

đai và ổn định trong sử dụng đất, tính minh bạch và tiếp cận thông tin, tính

năng động và tiên phong lãnh đạo tỉnh Bình Dương… Có thể nói đây là

những bất cập tồn tại trong hành chính nhà nước tại hầu hết các địa phương

trong cả nước lâu nay: vẫn còn nhiều thủ tục, hồ sơ không đáng có, tinh thần

làm việc của các cán bộ tiếp xúc với doanh nghiệp tư nhân chưa thật công tâm

làm phát sinh các chi phí không chính thức.

Trên đây là những bài học kinh nghiệm thực tiễn mà tỉnh Bắc Ninh có

thể tham khảo học tập, phát huy tốt cơ chế chính sách, biện pháp tổ chức quản

lý, trong đó đặc biệt chú ý tạo điều kiện tốt để KTTN yên tâm kinh doanh

như: đẩy mạnh cải cách hành chính, chú ý tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và

hoàn thiện cơ chế chính sách tương ứng từng thời kì trong từng giai đoạn cho

khu vực KTTN, và tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nhằm xóa bỏ

tâm lý kỳ thị, phân biệt đối xử với KTTN.

36

Chương 2

THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH BẮC NINH

2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA

TỈNH BẮC NINH ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN

Bắc Ninh là một tỉnh cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, trung tâm

xứ Kinh Bắc cổ xưa. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây và Tây Nam

giáp thủ đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp tỉnh Hải

Dương. Bắc Ninh có các hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với các tỉnh

trong vùng như Quốc lộ 1A và đường sắt nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn,

đường cao tốc 18 nối Sân bay quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long, Quốc lộ

38 nối Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng. Mạng đường thuỷ có sông Cầu,

sông Đuống, sông Thái Bình rất thuận lợi nối Bắc Ninh với hệ thống cảng

sông và cảng biển của vùng tạo cho Bắc Ninh là địa bàn mở gắn với phát triển

của thủ đô Hà Nội theo định hướng xây dựng các thành phố vệ tinh và sự

phân bố công nghiệp của Hà Nội. Thành phố Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh

chỉ cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 30 km, cách sân bay quốc tế Nội Bài 45

km, cách thành phố Hải Phòng 110 km và thành phố Hạ Long 125 km. Vị trí

địa lý kinh tế liền kề với Thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế lớn, một thị

trường hàng hoá rộng lớn đứng thứ hai trong cả nước, có sức cuốn hút toàn

diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị lịch sử, văn hoá đồng thời là

nơi cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với

mọi miền tổ quốc. Hà Nội sẽ là thị trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của

Bắc Ninh về nông - lâm - thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng

thủ công mỹ nghệ. Bắc Ninh cũng là một địa bàn mở rộng của Hà Nội qua

xây dựng thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí nghiệp của thủ

37

đô trong quá trình CNH, HĐH. Đây là yếu tố rất thuận lợi phát triển kinh tế

tư nhân, từ đó tạo cho Bắc Ninh nhiều lợi thế về phát triển và chuyển dịch cơ

cấu kinh tế.

Sau khi tái lập tỉnh năm 1997, tỉnh Bắc Ninh đã tập trung chỉ đạo các

nhiệm vụ trọng tâm nhằm sớm ổn định các hoạt động của một tỉnh mới

được chia tách, đồng thời chuẩn bị những tiền đề cần thiết để bước vào

thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và định

hướng đến năm 2020. Quá trình phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn

1997-2007 được thể hiện rõ nét trong sự chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban

nhân dân (UBND) tỉnh nhằm khai thác có hiệu quả các thế mạnh của tỉnh.

Nhờ vậy sau hơn 10 năm tái lập, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có

chuyển biển rõ nét và đạt được những thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng

trưởng với tốc độ cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, năng lực kết cấu

hạ tầng và đô thị được tăng cường đáng kể, các lĩnh vực văn hoá - xã hội có

nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, an ninh, quốc phòng

được củng cố và giữ vững. Đó là kết quả trên các mặt khác nhau của quá

trình phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn này, bước đầu hướng tới

các mục tiêu của sự phát triển bền vững.

Tăng trưởng kinh tế của tỉnh liên tục duy trì ở mức cao so với cả nước:

Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) Bắc Ninh bình quân hàng năm giai

đoạn 2006 - 2010 đạt 15,27%. GDP bình quân đầu người (giá thực tế) năm 2005

đạt 530 USD, cả nước 642 USD và năm 2010 GDP bình quân đầu người của

Bắc Ninh đạt 1.780 USD, tăng 3,38 lần so với năm 2005 và cao hơn so với GDP

bình quân đầu người cả nước.

38

Bảng 2.1: Tổng sản phẩm nội địa tỉnh Bắc Ninh theo giá thực tế

Đơn vị: Tỷ đồng

Trong đó

Năm

Tổng số

Nông - lâm nghiệp Công nghiệp - xây dựng

Dịch vụ

2005

8.331,1

2.187,6

3.825,6

2.317,9

2006

10.504,2

2.238,0

5.201,5

3.064,7

2007

15.506,5

2.275,6

8.875,6

4.055,3

2008

22.080,8

3.077,9

13.632,4

5.370,5

2009

27.924,1

3.473,8

17.812,0

6.638,3

2010

35.963,4

3.759,4

23.775,2

8.428,8

Nguồn: Niên giám thống kê Bắc Ninh 2010

Năm 2005, GDP cả nước (theo giá cố định 94) đạt 393.031 tỷ đồng.

Trong đó Bắc Ninh là 4.766,1 tỷ đồng, chỉ bằng 1,2% so với tổng GDP cả nước,

tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 2001-2005 là13,8%.

Năm 2010, GDP cả nước đạt 549.425 tỷ đồng, của Bắc Ninh là 9.697,3 tỷ

đồng bằng 1,76% tổng GDP cả nước 0,56% so với năm trưởng đó. Tăng trưởng

giai đoạn 2006-2010, của Bắc Ninh là 15,27%.

Bảng 2.2: Tổng sản phẩm GDP bình quân đầu người

Chỉ tiêu

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Đơn vị

GDP/người (giá CĐ 1994) Tr. đ

4,77

5,42

6.26

7,21

8,02

9,37

Qui ra USD

USD

526,4 650,7 946,6 1.305,6 1.495,0 1.780

GDP/người (giá thực tế)

Tr.đ

8,34

10,39 15,29

21,67

27,21

39,30

Nguồn: Báo cáo KQTH phát triển KTXH 5 năm 2006-2010 và

Số liệu Thống kê tỉnh Bắc Ninh năm 2010

Năm 2005, GDP bình quân đầu người (giá thực tế) của Bắc Ninh đạt 8,34

triệu đồng đều thấp hơn so với GDP bình quân đầu người của cả nước đạt 10,1

triệu đồng; của Vùng KTTĐBB là 9,5 triệu đồng.

39

Đến năm 2007, GDP bình quân đầu người của Bắc Ninh đạt 15,29 triệu

đồng, xấp xỉ đạt mức GDP bình quân đầu người cả nước là 15,3 triệu đồng. Năm

2010 GDP bình quân đầu người của Bắc Ninh đạt 39,30 triệu đồng, tương đương

1.780 USD lần đầu tiên GDP bình quân trên đầu người của Bắc Ninh cao hơn so

với GDP bình quân cả nước, gấp 3,7 lần so với năm 2005.

Bắc Ninh xưa nay vốn là vùng có nhiều làng nghề (LN) thủ công nổi

tiếng như: Làng tranh dân gian Đông Hồ, Làng gốm Phù Lãng, Làng đúc

đồng Đại Bái, Làng rèn luyện sắt Đa Hội, Làng dệt Lũng Giang, Làng trạm

khắc đồ gỗ Đồng Kỵ, Phù Khê, Hương Mạc, Làng sơn mài Đình Bảng…

Bắc Ninh cũng là tỉnh có nền văn hiến lâu đời. Mật độ phân bố các di

tích lịch sử, văn hoá khá dày đặc, chỉ đứng sau thủ đô Hà Nội. Đến nay có tới

233 di tích lịch sử văn hoá được cấp bằng công nhận di tích cấp quốc gia và

cấp địa phương. Trong đó có những di tích, có những giá trị lịch sử, văn hoá

có ý nghĩa quốc gia và quốc tế như các di tích đền Đô, chùa Dâu, Bút Tháp,

Phật Tích, Văn Miếu...

Bảng 2.3: Số lượng di tích lịch sử văn hoá tỉnh Bắc Ninh

Địa điểm

Tổng số

Xếp hạng quốc gia

Xếp hạng địa phương

Toàn tỉnh

233

162

71

1. TP Bắc Ninh

27

20

7

2. Huyện Từ Sơn

51

37

14

3. Huyện Tiên Du

34

23

11

4. Huyện Quế Võ

22

16

6

5.Huyện Thuận Thành

20

16

4

6. Huyện Lương Tài

18

8

10

7. Huyện Gia Bình

18

8

10

8. Huyện Yên Phong

46

37

9

Nguồn: Sở Văn hoá - Thông tin Bắc Ninh

40

Bắc Ninh cũng là tỉnh có nhiều lễ hội truyền thống có những nét văn hoá

đặc sắc. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có khoảng 41 lễ hội đáng chú ý trong năm

được duy trì. Trong đó có những lễ hội có ý nghĩa đặc biệt và có tầm ảnh hưởng

lớn như: Hội Lim, hội chùa Dâu, hội đền Đô, hội đền Bà Chúa Kho v.v...

Với vị trí địa lý kinh tế thuận lợi, tốc độ tăng trưởng khá, nguồn nhân

lực dồi dào, với 62 làng nghề (LN) truyền thống với nhiều di tích lịch sử, và

những lễ hội truyền thống, tỉnh Bắc Ninh có những tiềm năng to lớn cần được

phát huy một cách có hiệu quả trong việc phát triển kinh tế tư nhân trong các

lĩnh vực: công, nông, nghiệp và dịch vụ, du lịch, đặc biệt là các doanh nghiệp

tư nhân có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thế mạnh của các làng nghề

truyền thống, phát triển du lịch làng nghề. Tiềm năng, lợi thế đó có được các

doanh nghiệp khai thác, phát triển hay không để đóng góp cho phát triển kinh

tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh phụ thuộc vào chính bản thân các doanh nghiệp và

các chính sách của Nhà nước cũng như của tỉnh Bắc Ninh. Vấn đề đặt ra là

cần có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh

chóng, bền vững theo mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước

trong tiến trình CNH, HĐH đang diễn ra sâu rộng ở nước ta.

2.2. CHÍNH SÁCH CỦA ĐỊA PHƯƠNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN

Từ khi tái lập tỉnh, Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh đã có

những chủ trương và biện pháp, nhằm khôi phục và khuyến khích các DNVVN.

Nghị quyết 04/NQ-TU năm 1998 của tỉnh ủy Bắc Ninh về khôi phục,

phát triển LN tiểu thủ công nghiệp, Nghị quyết 12/NQ-TU năm 2000 của Ban

thường vụ tỉnh ủy về phát triển KCN, CCN-Tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là

Nghị quyết 02/NQ-TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI về xây dựng

và phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ngày 4/5/2001. Đây là

Nghị quyết chuyên đề cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16,

quán triệt và vận dụng chủ trương của Đảng về CNH, HĐH vào điều kiện cụ

41

thể của địa phương, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh phát huy các

nguồn lực, tăng năng lực sản xuất tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy

mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở các Nghị quyết đó đã tạo ra

những bước chuyển biến mới về nhận thức và hành động nhằm tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của các

DNVVN NQD trong quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp nông thôn

tỉnh Bắc Ninh.

Từ những đường lối đó, UBND tỉnh đã ban hành một số quyết định về

chính sách khuyến khích phát triển các DNVVN.

2.2.1. Nhóm các chính sách khuyến khích đầu tư cho kinh tế tư nhân

- Các DN đầu tư và phát triển hạ tầng KCN được tạo mọi điều kiện

thuận lợi để hoạt động và được ưu đãi, khuyến khích đầu tư theo Quyết định

60/2001/QĐ-UB ngày 26/6/2001 của UBND tỉnh về việc ban hành qui định

ưu đãi khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ở các lĩnh vực:

+ Ưu đãi về giá thuê đất: Giá đất cho thuê được xác định với mức thấp

nhất theo khung giá đất khu công nghiệp do UBND tỉnh quy định.

+ Ưu đãi miễn giảm, chậm nộp tiền thuê đất: Tiền thuê đất được miễn

10 năm đầu và giảm 50% cho những năm hoạt động còn lại của dự án, ngoài

ra được xem xét quyết định cho phép được chậm nộp tiền thuê đất trong

khoảng thời gian nhất định theo hình thức nhận nợ với ngân sách nhà nước.

Khi đầu tư vào các địa bàn khác trong tỉnh được hưởng giá đất cho thuê ở

mức thấp nhất theo khung giá đất KCN do UBND tỉnh quy định. Được miễn tiền

thuê đất trong 8 năm đầu và giảm 40% cho những năm tiếp theo.

Các DN có vốn đầu tư trong nước trên địa bàn tỉnh tuỳ theo quy mô

ngành nghề, số lượng lao động, trình độ khoa học công nghệ, địa điểm đầu tư

được xem xét hỗ trợ từ 10% đến 30% giá trị đền bù thiệt hại về đất từ Ngân sách

tỉnh. Các DN này nếu đầu tư vào các KCN được hỗ trợ vốn bằng 30%, đầu tư

42

vào các địa bàn khác được hỗ trợ vốn bằng 20% số thuế giá trị gia tăng thực nộp

ngân sách tỉnh trong 2 năm đầu, kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh.

Các DN trong nước đầu tư vào các KCN Bắc Ninh xây dựng nhà cho

công nhân được thuê đất với mức thấp nhất theo khung giá đất KCN do

UBND tỉnh quy định và cho miễn, giảm tối đa các loại thuế theo quy định.

Các DN có nhu cầu đào tạo nghề cho lao động địa phương được Ngân

sách tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo nghề trong nước cho người lao động địa

phương được tuyển dụng, mức tối đa không quá 1 triệu đồng cho 1 lao động.

UBND tỉnh tạo điều kiện cho các DN vay vốn từ các nguồn vốn tín

dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, các Ngân hàng thương mại quốc doanh

trên cơ sở cấp bù lãi suất sau đầu tư, thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ

của dự án.

DN trong các KCN Bắc Ninh có vốn đầu tư trong nước chuyên sản xuất

hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và

hoạt động xuất khẩu, nếu có nhu cầu và đáp ứng các điều kiện quy định hiện

hành sẽ được xem xét cho thành lập DN chế xuất trong KCN.

Các DN có nhu cầu tiếp cận, tìm kiếm, khai thác mở rộng thị trường

trong và ngoài nước, được tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu thương mại,

thăm quan nước ngoài, tham dự các cuộc hội thảo quốc tế để giúp các DN

nắm bắt thông tin, xúc tiến thương mại và đầu tư

- Các cơ sở sản xuất công nghiệp đầu tư mới, đầu tư mở rộng, đầu tư

chiều sâu, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất công

nghiệp được Quỹ khuyến công hỗ trợ, khuyến khích theo quyết định số

105/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh. Quỹ khuyến công được sử

dụng để:

+ Hỗ trợ một phần chi phí cho đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất,

đầu tư chiều sâu, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới của các cơ sở sản xuất

công nghiệp.

43

+ Hỗ trợ lãi suất tiền vay thu mua nguyên liệu của các cơ sở sản xuất công

nghiệp trong tỉnh sử dụng nguyên liệu là nông sản, thực phẩm tại địa phương.

+ Hỗ trợ một phần chi phí cho các cơ sở sản xuất công nghiệp đa sản

phẩm đi dự hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế.

+ Hỗ trợ một phần kinh phí cho các DNNN hoạt động sản xuất công

nghiệp chuyển đổi hình thức sở hữu.

+ Hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất công nghiệp thu hút thêm từ 100

lao động làm việc dài hạn trở lên so với năm liền kề.

+ Hỗ trợ cho các chương trình dự án của các cơ sở sản xuất công

nghiệp có tác động mạnh đến sản xuất toàn vùng.

+ Thưởng cho các tổ chức, cá nhân có công trong việc thu hút các dự

án đầu tư phát triển có trình độ cao, nộp ngân sách nhiều.

+ Cho vay không lấy lãi có hoàn trả cho các dự án đầu tư cần được

khuyến khích của các cơ sở sản xuất công nghiệp khi Quỹ nhàn rỗi.

- UBND tỉnh Bắc Ninh thay thế quyết định số 105/2002/QĐ-UB bằng

Quyết định 87/2004/QĐ-UB ngày 10/6/2004 về việc ban hành qui chế hình

thành, sử dụng và quản lý quỹ khuyến công tỉnh Bắc Ninh.

Các đơn vị sản xuất công nghiệp trong tỉnh bao gồm các DNNN do

UBND tỉnh quyết định thành lập, CTCP, Công ty TNHH, Công ty hợp

danh, các Hợp tác xã, DNTN, các tổ, hộ sản xuất có dự án đầu tư mới, mở

rộng sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ mới trong công nghiệp - tiểu

thủ công nghiệp, sử dụng nguyên liệu là nông sản thực phẩm tại địa

phương cao nhất, đa sản phẩm đi dự Hội chợ triển lãm trong nước và quốc

tế… được hỗ trợ kinh phí theo mức cụ thể từng trường hợp từ 50 triệu đồng

đến 200 triệu đồng.

- Để khuyến khích các cơ sở kinh doanh sản xuất, khai thác thị trường,

đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản,

thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh đạt kết quả cao, UBND tỉnh Bắc

44

Ninh đã ra Quyết định 106/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 về việc thành lập và

quản lý quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ về lãi suất vay vốn

Ngân hàng thời gian tối đa không quá 6 tháng cho các cơ sở kinh doanh có

hợp đồng mua hàng nông sản, thực phẩm của nông dân trong tỉnh để xuất

khẩu. Hỗ trợ một phần tài chính cho các cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hoá

theo chủ trương của tỉnh do các cơ sở trong tỉnh sản xuất ra mà bị lỗ vốn. Hỗ

trợ vốn cho các cơ sở kinh doanh xuất khẩu có các dự án đầu tư chiều sâu,

đầu tư mở rộng để sản xuất nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của tỉnh. Hỗ

trợ và tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới lần đầu tiên hàng xuất khẩu của tỉnh

có mặt ở thị trường đó. Hỗ trợ một phần chi phí quảng cáo, giới thiệu sản

phẩm xuất khẩu. Thưởng cho các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh đạt chất lượng

cao được tặng huy chương triển lãm hội trợ trong nước và quốc tế. Thưởng

thêm cho các cơ sở kinh doanh hoạt động xuất khẩu có thành tích đủ tiêu

chuẩn khen của Bộ Thương mại.

- Các DNNN do UBND tỉnh thành lập, CTCP, Công ty TNHH, Công ty

hợp danh, DNTN, Hợp tác xã, các tổ chức kinh doanh có cơ sở kinh doanh và

làm nghĩa vụ nộp ngân sách tại tỉnh được ưu tiên từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo

Quyết định 88/2004/QĐ-UB ngày 10/6/2004 của UBND tỉnh về việc ban

hành Quy chế hình thành, sử dụng và quản lý quỹ hỗ trợ xuất khẩu Bắc Ninh.

Phạm vi hỗ trợ: Các dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đào tạo lao động để

tiếp thị, khai thác thị trường phục vụ xuất khẩu, vay vốn thời hạn từ 3 tháng

trở lên để mua hàng trong tỉnh để xuất khẩu, hỗ trợ kinh phí các hoạt động

xúc tiến thương mại tùy theo từng trường hợp cụ thể có mức hỗ trợ.

(Do việc thành lập, sử dụng và quản lý Quỹ khuyến khích phát triển

công nghiệp và Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có một số điểm chưa đúng quy định

hiện hành của Trung ương nên Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ra Nghị

quyết số 40/NQ-HĐND16 ngày 26/7/2005 bãi bỏ các quy định thành lập, sử

dụng và quản lý Quỹ khuyến khích phát triển công nghiệp và Quỹ hỗ trợ xuất

45

khẩu. Việc quản lý và sử dụng các quỹ trên theo quy định hiện hành của

Trung ương).

- Tỉnh Bắc Ninh cũng khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư khai

thác, phát triển du lịch vào các khu du lịch theo Quyết định 107/2002/QĐ-UB

ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định về ưu đãi khuyến

khích đầu tư vào các khu du lịch trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

+ Ưu đãi về giá thuê đất: Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật

Đầu tư trong nước được thuê đất, diện tích ao, hồ với mức giá thấp nhất trong

khung giá đất, mặt nước ao, hồ do UBND tỉnh quy định.

Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài được thuê

đất, diện tích ao, hồ với mức giá thấp nhất trong khung giá đất, mặt nước ao,

hồ do nhà nước quy định.

+ Ưu đãi về tiền thuê đất: Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo luật đầu

tư trong nước sau khi hết thời hạn được hưởng ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê

đất, được ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuê đất trong 15 năm tiếp theo và

50% tiền thuê đất trong những năm còn lại.

Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài sau khi

hết thời hạn được hưởng ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, được ngân sách

tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuê đất trong 10 năm tiếp theo và 50% tiền thuê đất

trong những năm còn lại.

Đối với diện tích đất được dùng làm cảnh quan, khoảng thông thoáng

không bố trí thiết bị kinh doanh, vật kiến trúc, cơ sở kinh doanh được Ngân

sách tỉnh hỗ trợ thêm 30% tiền thuê đất kể từ khi phải nộp tiền thuê đất.

+ Hỗ trợ tiền bồi thường thiệt hại về đất: Ngân sách tỉnh xem xét hỗ trợ

từ 10% đến 30% tiền bồi thường thiệt hại về đất. Riêng các dự án đầu tư vào

khu du lịch nằm trong vùng khó khăn được Ngân sách tỉnh hỗ trợ từ 30% đến

50% tiền bồi thường thiệt hại về đất.

46

+ Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong, ngoài hàng rào

khu du lịch: Ngân sách tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí cho việc trùng tu tôn tạo

các địa điểm di tích xung quanh khu du lịch, cho việc xây dựng kết cấu hạ

tầng kỹ thuật.

+ Hỗ trợ về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng: Các cơ sở

kinh doanh hoạt động theo luật đầu tư trong nước sau khi hết hạn hưởng ưu

đãi về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước

được Ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuế thu nhập doanh nghiệp trong

5 năm tiếp theo và 50% cho 5 năm sau đó trên cơ sở số thuế thu nhập doanh

nghiệp thực nộp.

Đối với các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài

sau khi hết hạn hưởng ưu đãi về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo

quy định của nhà nước được ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuế thu nhập

doanh nghiệp trong 3 năm tiếp theo và 50% cho 5 năm sau đó trên cơ sở số

thuế thu nhập doanh nghiệp thực nộp.

+ Hỗ trợ về đào tạo phát triển nguồn nhân lực: Ngân sách tỉnh hỗ trợ

100% kinh phí đào tạo nghề trong nước cho lao động tuyển dụng tại địa

phương, tối đa không quá 2 triệu đồng cho một lao động.

+ Hỗ trợ quảng cáo, khai thác thị trường: Ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ

lệ phí quảng cáo trong 1 năm, tạo điều kiện để các cơ sở kinh doanh tổ chức

tham dự các buổi hội thảo, tham quan để nắm bắt thông tin thị trường.

+ Hỗ trợ về lãi suất vốn vay tín dụng: Các cơ sở kinh doanh vay vốn để

đầu tư xây dựng khu du lịch trên địa bàn tỉnh trong 3 năm đầu được ngân sách

tỉnh hỗ trợ 100% phần chênh lệch giữa lãi suất vay vốn ưu đãi của nhà nước

và lãi suất vay vốn các ngân hàng.

Ngoài ra, UBND tỉnh Bắc Ninh còn có Quyết định 104/2002/QĐ-UB

ngày 30/8/2002 về việc bổ sung quy định về ưu đãi khuyến khích đầu tư: đã

bổ sung các chính sách ưu đãi khuyến khích hơn đối với các dự án chế biến

47

nông sản thực phẩm, các dự án thu hút nhiều lao động, có hiệu quả kinh tế xã

hội và tác động lớn đến phát triển kinh tế nông thôn, các dự án đầu tư vào các

vùng khó khăn là các huyện phía nam sông Đuống (Gia Bình, Lương Tài,

Thuận Thành), Quyết định số 23/2002/QĐ-UB ngày 22/2/2002 quy định về

thưởng cho các đơn vị sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm và hỗ trợ đối

với các sản phẩm mới.

Các chính sách khuyến khích đầu tư của tỉnh Bắc Ninh trên đã tạo điều

kiện cho các DNVVN NQD được hỗ trợ và được hưởng các ưu đãi để góp

phần phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.

2.2.2. Nhóm các chính sách trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực để

phát triển kinh tế tư nhân

Để nâng cao nguồn nhân lực, UBND tỉnh Bắc Ninh đã có Quyết định số

84/2003/QĐ-UB ngày 17/9/2003 về việc phê duyệt đề án quy hoạch phát triển

mạng lưới cơ sở dạy nghề tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2003-2010. Sau đó, một số

Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh thành lập hoặc cho phép thành lập các

trung tâm, các trường dạy nghề cả công lập và ngoài công lập trên địa bàn tỉnh,

Quyết định số 60/2005/QĐ-UB ngày 6/6/2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về

chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng nhân tài tỉnh Bắc Ninh.

Từ đó, nhiều cơ sở đào tạo đã được hình thành và phát triển, góp phần đảm

bảo nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cho các DN.

2.2.3. Nhóm các chính sách về đất đai

Các Quyết định của UBND tỉnh về quy định khung giá mức bồi thường

các loại đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh như: Quyết định 84/CT ngày 3/6/1997;

Quyết định 36/1998/QĐ-UB ngày 13/6/1998, Quyết định 74/1998/QĐ-UB

ngày 11/9/1998; Quyết định 69/2004/QĐ-UB ngày 28/12/2004; Quyết định số

225/QĐ-UB ngày 31/12/2004; Quyết định 123/2006/QĐ-UBND ngày 8/12/2006

v.v… Trong đó mức giá quy định vừa đảm bảo phù hợp đặc điểm từng vùng,

vừa đảm bảo đền bù đất thoả đáng cho người bị thu hồi đất nhưng cũng đảm

48

bảo sức hút cho các nhà đầu tư. Các Chỉ thị, Quyết định của UBND tỉnh về cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính… như:

Chỉ thị 12/UB-CT ngày 24/12/1997, Quyết định 945/1998/QĐ-UB ngày

01/10/1998; v.v… nhằm tạo điều kiện cho việc quản lý đất đai trên địa bàn hiệu

quả minh bạch.

- Quyết định số 38/QĐ-UB ngày 11/4/2006 của UBND tỉnh về việc ban

hành quy định phân công, phân cấp quản lý quy hoạch xây dựng trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh cho các cơ quan và các cấp ở địa phương về nhiệm vụ, thẩm

quyền trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch

xây dựng, về quản lý thực hiện quy hoạch xây dựng.

- Ngoài ra, UBND tỉnh có Quyết định số 128/2005/QĐ-UB ngày

10/10/2005 về việc ban hành quy chế quản lý các khu công nghiệp nhỏ và vừa,

các cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Liên Sở Công

nghiệp - Sở Tài nguyên Môi trường cũng có hướng dẫn liên ngành số 142/HD-

LN ngày 12/6/2001 về việc xét duyệt các đối tượng thuê đất và lập hồ sơ xin

thuê đất của các tổ chức kinh tế và các hộ gia đình trong các khu, cụm công

nghiệp làng nghề theo hướng đơn giản, thuận tiện cho các nhà đầu tư.

Các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ trong các KCN nhỏ và vừa, Cụm

công nghiệp làng nghề có các quyền: Được thuê đất, được sử dụng các công trình

kết cấu hạ tầng, tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch vụ, xuất nhập khẩu trực tiếp,

được hưởng các chế độ ưu đãi khuyến khích đầu tư của Nhà nước và của tỉnh.

2.2.4. Nhóm các chính sách hỗ trợ tín dụng cho thành phần kinh tế

tư nhân

Quyết định số 267/QĐ-UBND ngày 25/2/2008 của UBND tỉnh Bắc

Ninh về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và

vửa tỉnh Bắc Ninh. Đây là một tổ chức tài chính thực hiện chính sách giúp

phát triển DNVVN của Bắc Ninh thông qua việc bảo lãnh cho các DNVVN

vay vốn tại các tổ chức tín dụng khi không đủ tµi sản bảo lãnh.

49

Quỹ hoạt động không với mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo hoàn vốn và bù

đắp chi phí, DN muốn được bảo lãnh phải theo các quy định và phải có tài sản

thế chấp trị giá 30% số tiền vay. Quỹ sẽ bảo lãnh 80% phần chênh lệch giữa

số tiền DN vay và tài sản thế chấp. Mức bảo lãnh cho một DN tối đa là 4.500

triệu đồng.

Đối tượng được bảo lãnh: Các DNVVN, Các hợp tác xã, liên hiệp hợp

tác xã, Các hộ gia đình cá thể theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP

về đăng ký kinh doanh, Các chủ trang trại, các hộ nông dân thực hiện dự án

trồng cây công nghiệp, chăn nuôi.

2.2.5. Nhóm các chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

- Hỗ trợ xây dựng đường giao thông nông thôn theo Quyết định số

39/QĐ-UB ngày 21/4/2000; Quyết định số 66/QĐ-UB ngày 18/7/2001; Quyết

định 170/QĐ-UB ngày 22/12/2005. Theo đó Nhà nước hỗ trợ 20% giá trị khối

lượng hoàn thành, xã khó khăn là 40%; từ năm 2006 tỷ lệ hỗ trợ 40% giá trị

hoàn thành các dự án xây dựng đường giao thông nông thôn.

- Hỗ trợ đầu tư xây dựng kiên cố hoá kênh mương cấp 3 của các xã

theo Quyết định số 902/QĐ-CT ngày 13/10/1999, Nghị định số 11/2000/NQ-

HĐND, ngày 26/4/2000. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ 50% giá trị tổng mức đầu

tư, riêng đối với các xã khó khăn là 70% giá trị tổng mức đầu tư.

- Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường mầm non dân lập,

các trường tiểu học, trung học cơ sở công lập theo Quyết định số

110/2002/QĐ-UB ngày 6/9/2002.

- Hỗ trợ đầu tư xây dựng trụ sở xã, nhà sinh hoạt nông thôn theo Quyết

định số 140/2003/QĐ-UB ngày 31/12/2003: Nhà nước hỗ trợ 30% giá trị

quyết toán đối với trụ sở xã, các xã khó khăn là 45%, hỗ trợ 20% giá trị hoàn

thành quyết toán đối với nhà sinh hoạt thôn.

- Ngoài ra, tỉnh cũng đã có các Quyết định hỗ trợ từng năm cho xây

dựng hạ tầng chợ nông thôn, các cơ sở khác như trạm y tế, hạ tầng thể thao,

50

văn hoá ở cơ sở từ nguồn ngân sách tỉnh. Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng đã có

Quyết định số 134/2002/QĐ-UB ngày 30/7/2004 về quy trình thực hiện các

dự án sử dụng quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng tỉnh Bắc Ninh nhằm

tạo điều kiện cho các cấp khai thác quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.

2.2.6. Các chính sách liên quan đến cải cách hành chính nhằm thuận tiện

cho các DNVVN NQD đầu tư phát triển như: Quyết định số 117/2000/QĐ-UB

ngày 20/11/2000 quy định thủ tục hồ sơ, quy chế phối hợp cấp giấy phép đầu

tư, giấy chứng nhận đầu tư, Quyết định 13/2004/QĐ-UB ngày 16/2/2004 phê

duyệt chương trình cải cách hành chính tỉnh Bắc Ninh và một loạt các Quyết

định của UBND về ban hành quy trình, thủ tục, trình tự, thời gian giải quyết

các lĩnh vực công việc áp dụng thực hiện cơ chế một cửa tại các cơ quan như

Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Tài nguyên môi trường, Sở Xây dựng, Ban Quản lý

các KCN…

2.2.7. Các chính sách khác về phân cấp quản lý ngân sách, định

mức phân bổ ngân sách năm đầu thời kỳ ổn định đều xác định hệ số phân

bổ riêng cho các làng nghề đối với một số định chi về sự nghiệp kinh tế,

bảo vệ môi trường…

Ngoài các chính sách trên, UBND tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng các qui

hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, định hướng đến năm

2020 về: Giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn,

thương mại và du lịch, qui hoạch tổng thể phát triển đô thị, qui hoạch không

gian, hành lang các tuyến quốc lộ, các khu và cụm công nghiệp để tạo mặt

bằng cho các DN.

UBND tỉnh Bắc Ninh cũng đã thành lập các Trung tâm nhằm trợ giúp

các DNVVN ngoài quốc doanh: Trung tâm tư vấn đầu tư (Sở Kế hoạch đầu

tư), Trung tâm xúc tiến thương mại và du lịch (Sở Công Thương), Trung tâm

xúc tiến việc làm (Sở Lao động - Thương binh và Xã hội), Trung tâm phát

triển quĩ đất (Sở Tài nguyên - môi trường), Trung tâm tư vấn và chuyển giao

51

công nghệ (Sở Khoa học - Công nghệ), Trung tâm khuyến công và tư vấn

phát triển công nghiệp (Sở Công Thương), Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN

(UBND tỉnh). Các Trung tâm này đã hỗ trợ cho các DNVVN ngoài quốc

doanh về các ưu đãi đầu tư, về tư vấn đầu tư, các thông tin thị trường, về

khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực, đất đai, nguồn vốn và các điều kiện

khác để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.

2.3. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH

Thực hiện các chức năng được phân cấp, tỉnh Bắc Ninh đã hoàn chỉnh

đề án phát triển các cụm kinh tế của Tỉnh đến năm 2020, trong đó tập trung

triển khai thực hiện các tuyến đường chuyên doanh, đẩy nhanh tiến độ thực

hiện các dự án chợ - siêu thị - trung tâm thương mại tổ chức “đối thoại cùng

doanh nghiệp” nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình

hoạt động của các đơn vị, thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ

thông tin, áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001 vào giải quyết

các thủ tục hành chính và quản lý sau đăng ký kinh doanh, v.v… Do vậy, các

thành phần kinh tế, có kinh tế tư nhân đã có điều kiện phát huy nội lực để

không ngừng phát triển.

2.3.1. Về số lượng và quy mô các doanh nghiệp tư nhân

* Số doanh nghiệp đăng kí mới hàng năm

Với sự ra đời của Luật DNTN (1990) và Nghị định số 221/NĐBT ngày

32/7/1991 về cá nhân và nhóm kinh doanh, cùng nhiều chỉ thị, nghị quyết,

chính sách của Đảng, Nhà Nước, đã tạo ra bước ngoặt cho sự hồi sinh và phát

triển của KTTN trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên sự phát triển KTTN ở Bắc

Ninh chỉ thực sự bắt đầu từ sau năm 2000 khi Luật Doanh nghiệp 2000 ra đời

(vì năm 1997 Bắc Ninh mới được tái lập tỉnh).

52

Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới của Bắc Ninh

và toàn quốc

Đơn vị: Doanh nghiệp

Năm

2000 2001

2002 2003

2004

2005

2006

2007

2008 2009

2010

Toàn quốc 14457 19800 21535 27771 37230 39950 46606 58196 65318 84531 89180

Bắc Ninh

68

120

232

365

364

318

409

572

556

776

782

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ trung tâm thông tin, Cục Phát triển doanh nghiệp - Bộ KH&ĐT

Số lượng DN đăng ký mới của Bắc Ninh giai đoạn 2000-2004 là 1149

DN (toàn quốc có 120.793 DN đăng ký mới), bình quân 229,8DN/năm (toàn

quốc 24.158,6 DN/năm), giai đoạn 2005-2010 số DN đăng ký mới của Bắc

Ninh là 3413 (bình quân 526,2DN/năm) bằng 1,04% so với số DN đăng ký

mới hằng năm trên toàn quốc. Đặc biệt số lượng DN đăng lý mới hằng năm

của Bắc Ninh luôn có xu hướng tăng năm sau cao hơn năm trước và ngay cả

trong hai năm khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì số lượng doanh

nghiệp đăng ký kinh doanh mới cũng không hề suy giảm.

 Số doanh nghiệp đang hoạt động

Theo số liệu của Sở KH&ĐT tỉnh Bắc Ninh thì số doanh nghiệp đăng

ký hằng năm tính đến 31/12/2010 của Bắc Ninh là 4562 doanh nghiệp. Tuy

nhiên số liệu điều tra hằng năm của Cục Thống kê Bắc Ninh thì số doanh

nghiệp thuộc khu vực KTTN của tỉnh Bắc Ninh đến hết năm 2010 là 2007

DN bằng 43,9% số DN đăng ký.

Doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh nhưng không hoạt động do nhiều

nguyên nhân: ý tưởng kinh doanh chưa chín muồi, những thay đổi nội tại và

ngoại cảnh ảnh hưởng tới kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, môi trường

kinh doanh quá phức tạp và khó khăn so với dự tính ban đầu của chủ doanh

nghiệp, trình độ quản trị và điều hành còn hạn chế của chủ doanh nghiệp, thủ

tục sau đăng ký kinh doanh quá phức tạp,...do vậy doanh nghiệp không thể đi

53

vào hoạt động hoặc ban đầu hoạt động rồi phải dừng hoạt động sản xuất kinh

doanh. Tại Bắc Ninh một số trường hợp DNTN được thành lập với mục đích

không lành mạnh như chỉ đơn thuần là mua bán hóa đơn và gian lận thuế,

hoặc có trường hợp doanh nghiệp được thành lập do chủ đầu tư nước ngoài

(người Trung Quốc) thuê người Việt Nam không có trình độ làm giám đốc

doanh nghiệp nhưng mọi giấy tờ như: hóa đơn, sổ sách, con dấu do chủ nước

ngoài nắm giữ.

 Cơ cấu doanh nghiệp theo loại hình

Số lượng DNTN của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-1010 theo từng loại

hình doanh nghiệp biến động như sau:

Bảng 2.5: Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân

Năm Tổng số Doanh nghiệp TN Công ty TNHH Công ty cổ phần 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

132 227 314 465 648 873 1050 1304 1443 1701 2007

81 144 196 313 412 543 667 886 973 1177 1403

49 73 108 137 202 270 289 299 293 285 316

2 10 10 15 34 60 94 119 177 239 288

Nguồn: Cục Thống kê Tỉnh Bắc Ninh cung cấp.

- Đối với loại hình DNTN, năm 2000 Bắc Ninh mới chỉ có 49 DN

(chiếm 37,12% tổng số DNTN) thì đến năm 2010 đã có 316 DN (chiếm

15,7%) gấp 6,4 lần so với năm 2000.

- Loại hình công ty TNHH năm 2000 có 81 DN (chiếm 61,36%), đến

năm 2010 là 1403 DN (chiếm 69,90%) gấp 17,3% so với năm 2000.

54

- Loại hình Công ty cổ phần (CTCP), nếu so với các tỉnh thành khác

thì ở Bắc Ninh hoạt động của loại hình này xuất hiện muộn hơn. Năm 2000

khi Luật Doanh nghiệp chính thức thi hành, thì số CTCP hoạt động mới có 2

DN (chiếm 1,52%) đăng kí kinh doanh với số vốn là 3 tỷ đồng. Đến năm

2001 và 2002 số lượng CTCP ở Bắc Ninh cũng chỉ có thêm 8 DN, phải đến

năm 2005 khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời thì số lượng CTCP ở Bắc Ninh

mới có sự bứt phá với 60 DN và đến năm 2010 là 288 DN (chiếm 14,3% tổng

số DNTN của Tỉnh)

Như vậy, có thể thấy rằng Công ty TNHH và DNTN là loại hình doanh

nghiệp mà KTTN Bắc Ninh phát triển mạnh mẽ nhất, chiếm gần 90% DNTN.

Tuy nhiên tỷ trọng loại DNTN có xu hướng giảm dần và tỷ trọng loại hình

Công ty TNHH và CTCP đang có xu hướng tăng lên (tăng mạnh nhất là Công

ty TNHH).

* Quy mô lao động trong các DNTN ở Bắc Ninh

Theo số liệu của Cục thống kê Bắc Ninh, trong giai đoạn 2006 - 2010

, trung bình hàng năm có 10.000 người được bổ sung vào lực lượng lao

động (người từ 15 tuổi trở lên) có việc làm.

Khu vực kinh tế nhà nước tại Tỉnh có số lao động tăng thêm hàng

năm không đáng kể; khu vực kinh tế tập thể đang trong giai đoạn phát triển

hết sức khó khăn nên cũng không thu hút được nhiều lao động và có xu thế

giảm dần qua các năm; số lao động mới của Tỉnh (trên 90%) thuộc về kinh

tế tư nhân, cụ thể các tỷ lệ như sau: năm 2005 chiếm 93,42%, năm 2006:

92,37%, năm 2007: 91,60%, năm 2008: 90,81%, năm 2009: 89,95%, năm

2010: 88,09%.

55

Bảng 2.6: Số lao động sử dụng trong các doanh nghiệp

phân theo thành phần kinh tế tại Bắc Ninh

Đơn vị tính: Lao động

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

9.198

7.500

7.353

7.388

7.408

7.699

15.537

19.865

25.606

Số lao động chia theo thành phần kinh tế Khu vực doanh nghiệp nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

36.800

Khu vực tư nhân

36.198

44.121

47.547

56.463

66.503

Nguồn:Niên giám Thống kê Tỉnh Bắc Ninh năm 2010.

Như vậy trong các doanh nghiệp có đăng ký chính thức, thì khối DNTN

có sự tăng nhanh về số lượng, cũng là khu vực có tốc độ tạo ra việc làm lớn

nhất so với các khu vực kinh tế khác. Điểm đáng chú ý là sau gần 10 năm

thực hiện Luật Doanh nghiệp, “kích cỡ” của các DNTN ở Bắc Ninh chiếm đa

số vẫn là Doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:

Bảng 2.7: Số lượng các DNTN ở Bắc Ninh theo quy mô lao động

Năm 2000

Năm 2005

Năm 2009

Tổng số DN

132

873

1670

<10 lao động

23

242

490

10-49 lao động

71

480

937

50-99 lao động

20

92

128

100-199 lao động

12

38

77

200-299 lao động

4

9

19

300-499 lao động

9

14

500-999 lao động

3

3

> 1000 lao động

2

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê Bắc Ninh

56

Như vậy, đại đa số DNTN ở Bắc Ninh sử dụng từ 50 lao động trở

xuống, có đến 1427 DN (năm 2009: dưới 10 lao động là 490 DN và từ 10-49

lao động là 937 DN) chiếm 85,45%. Tại Bắc Ninh hiện chỉ có 2 DN sử dụng

trên 1000 lao động đó là Công ty may Đáp Cầu và công ty Kính Đáp Cầu, đây

là các DNNN thực hiện cổ phần hóa (hiện nhà nước chiếm giữ 20% vốn chủ

sở hữu tại 2 công ty này.

Trong giai đoạn vừa qua, số lượng lao động trong khu vực DNTN của

Bắc Ninh tăng, chủ yếu là do tăng nhanh số lượng doanh nghiệp, còn bình

quân lao động trong một doanh nghiệp lại có xu hướng giảm: nếu năm 2000

bình quân số lao động trên 1 DN là 49 lao động, thì đến năm 2009 chỉ còn 33

lao đông/1DN.

Nếu so sánh với khu vực DNNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN thì rõ

ràng có sự tách biệt lớn. Năm 2000, quy mô bình quân của DNNN là 270 lao

đông/1DN gấp 5,5 lần DNTN, doanh nghiệp có vốn ĐTNN là 213 lao

động/1DN gấp 4,3 lần DNTN. Tuy nhiên năm 2010, tỷ lệ này còn tăng lên,

quy mô bình quân của DNNN là 463 lao động/DN lần lượt gấp 12,60 lần so

với DNTN (bình quân 33 lao động/DN) và số lao động bình quân của doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 287 lao động/DN gấp 8,69 lần DNTN.

Bảng 2.8: Số lao động bình quân của doanh nghiệp

các thành phần kinh tế ở Bắc Ninh năm 2000 và 2010

Năm 2000

Năm 2010

DNTN

DNNN

DNTN

DNNN

DN có vốn FDI

DN có vốn FDI

132

44

2

2007

16

128

Số DN đang hoạt động

6.470

11.932

427

66.530

7408

36.800

Tổng số lao động

49

270

213

33

463

287

Lao động trung bình/DN(người)

Nguồn: Cục thống kê Bắc Ninh

57

Như vậy, do có sự khác nhau về tiềm lực tài chính, mặt bằng SXKD và

trình độ quản lý nên quy mô lao động bình quân một DNTN có chênh lệch

khá lớn và biến động đáng kể trong 10 năm qua so với loại hình DNNN và

DN có vốn ĐTNN tại Bắc Ninh. Rõ ràng, so sánh với các DNNN và doanh

nghiệp có vốn ĐTNN thì các DNTN ở Bắc Ninh vẫn là những “chàng tí hon”

tính theo bình quân lao động/DN.

2.3.2. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân trong các ngành ở Bắc Ninh

2.3.2.1. Kinh tế tư nhân trong các ngành phi nông nghiệp

Với chính sách khôi phục và phát triển của các làng nghề truyền thống,

các hộ sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp của Bắc Ninh cũng phát

triển mạnh mẽ và đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của

tỉnh. Tính đến thời điểm cuối năm 2010 tổng số hộ sản xuất kinh doanh cá thể

ở Bắc Ninh là 77.057 hộ tăng hơn năm 2000 là 52.678 hộ và gấp 3,16 lần,

tính bình quân trong giai đoạn 2000-2010 tốc độ tăng 23,8%/năm.

Bảng 2.9: Số cơ sở sản xuất kinh tế cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp

tỉnh Bắc Ninh

Năm 2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Số hộ 24.370 32.332 42.595 44.654 47.529 50.590 55.159 74.374 75.543 76.467 77.057

Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh.

Tuy nhiên các hộ sản xuất kinh doanh cá thể ở Bắc Ninh tập trung chủ

yếu trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến với 28.351 hộ năm 2010, chiếm

38,02% tổng số hộ (năm 2000 là 10.240 hộ tương ứng 42%); thương nghiệp

và sửa chữa xe máy có động cơ, đồ dùng cá nhân với 29.966 tăng 24.178 hộ

so với năm 2000 (gấp 5,17 lần) và chiếm 38,88% tổng số hộ.; lĩnh vực nhà

hàng, khách sạn và vận tải kho bãi, thông tin liên lạc có số lượng trên 5000

hộ. Như vậy có thể thấy số hộ SXKDCT trong ngành thương nghiệp và sửa

chữa xe có động cơ, đồ dùng cá nhân ỏ Bắc Ninh trong giai đoạn 2000-2010

58

có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất cả về tuyệt đối và cơ cấu, điều này minh

chứng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu sang lĩnh vực dịch vụ.

Về phân bố số cơ sở SXKDCT và lao động các đơn vị này giữa các

huyện cũng có sự tương đồng: thị xã Từ Sơn có số hộ SXKDCT lớn nhất là

17.641 hộ (năm 2010) chiếm 22,85% tổng số hộ SXKDCT phi nông nghiệp

toàn tỉnh, tiếp đến là Tp. Bắc Ninh với 13.296 hộ (chiếm 17,38%), còn lại các

huyện khác số hộ SXKDCT trong khoảng từ 5000-9000 hộ.

Bảng 2.10: Phân bố số hộ SXKDCT phi nông nghiệp theo huyện thị

2006

2008

2010

Tp.Bắc Ninh

10.989

12.938

13.296

Từ Sơn

14.196

18.303

17.641

Yên Phong

4.165

7.389

8.024

Quế Võ

3.683

7.555

7.596

Tiên Du

5.296

7.241

7.940

Thuận Thành

6.838

9.318

9.918

Gia Bình

5.360

7.279

6.991

Lương Tài

4.632 5.520

5.651

Nguồn: Cục Thống kê Bắc Ninh

 Về lao động

Chính vì các hộ SXKDCT phi nông, lâm nghiệp phân bố rộng khắp các

huyện thị và tham gia vào 13 nhóm ngành, nên đã thu hút khá lớn lực lượng

lao động vào làm việc: Năm 2000 lao động của các cơ sở này là 58.599 lao

động và năm 2010 là 156.227 lao động, gấp 2,66 lần so với năm 2000. Số lao

động bình quân trong các hộ SXKDCT năm 2000 là 2,39 lao động/hộ, nhưng

đến năm 2008 thì con số này còn 2,03 lao động/hộ, năm 2010 là 2,02 lao

động/hộ. Như vậy, cùng với các thành phần kinh tế khác, các hộ SXKDCT đã

59

tham gia tích cực vào vấn đề giải quyết việc làm và thu nhập ổn định cho

người lao động, nhất là khu vực nông thôn. Số lao động trong các hộ

SXKDCT ở các huyện thuần nông vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu và tốc độ gia

tăng lao động ở các huyện này cao hơn các huyện có ngành nghề truyền thống

và Tp. Bắc Ninh: Năm 2010 số lao động tại các hộ SXKDCT của huyện Quế

Võ tăng 24,02%, Tiên Du tăng 24,44%; Gia Bình tăng 32,18% so với 2005 và

Thuận Thành tăng 18,9%....

Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu về hộ SXKDCT phi nông nghiệp

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010

Lao động

Năm

Tổng số hộ

Số lượng (người)

Bình quân lao động/cơ sở

2000

24.370

58.299

2,39

2002

42.631

90.235

2,12

2004

47.529

110.502

2,32

2006

55.159

134.427

2,48

2007

74.374

156.326

2,11

2008

75.543

149.444

2.07

2009

76.467

154.871

2.03

2010

77.057

156227

2.02

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh

2.3.2.2. Kinh tế tư nhân trong nông nghiệp

Là tỉnh có diện tích hẹp, đông dân, Bắc Ninh chủ trương phát triển kinh

tế trang trại (KTTT) theo hướng đẩy mạnh chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và

trồng các loại cây rau màu có giá trị hàng hóa. Ngay từ năm 2000, sau khi có

Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ về phát triển

KTTT, tỉnh Bắc Ninh đã nắm bắt thời cơ đẩy mạnh phát triển loại hình kinh tế

này tại các vùng nông thôn, đặc biệt là những vùng có nhiều diện tích đồng

60

chiêm trũng, gieo cấy lúa đạt hiệu quả thấp. Ngày 26/7/2001 tỉnh ủy Bắc Ninh

có nghị quyết 06-NQ/TU về định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong

nông nghiệp, mở đường cho sự hình thành và phát triển mô hình kinh tế trang

trại trong tỉnh. Cụ thể hóa nghị quyết 06 này, ngày 30/8/2002 UBND tỉnh Bắc

Ninh ra quyết định số 108/2002/QĐ-UB về hỗ trợ các loại cây, con, giống

mới, chuyển giao kỹ thuật, giúp đỡ xây dựng cơ sở hạ tầng… Đặc biệt chính

sách giao đất ổn định, lâu dài tới hộ gia đình, khuyến khích dồn điền đổi thửa,

cho thuê đất tạo vùng sản xuất quy mô lớn, chính sách tín dụng, thị trường

tiêu thụ… góp phần kích thích mô hình trang trại phát triển ngày càng rộng

khắp trên các huyện, thị xã trong tỉnh.

Bảng 2.12: Tăng trưởng số lượng trang trại giai đoạn 2005-2010

Số lượng trang trại

Năm

2005

1.757

2006

1.788

2007

1.859

2008

1.926

2009

2.477

2010

2.679

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh

Kinh tế trang trại đang có xu hướng phát triển mạnh là mô hình sản

xuất hàng hóa mang lại hiệu quả cao. Số trang trại ở Bắc Ninh đã tăng từ

1.757 trang trại năm 2005 lên 2.679 trang trại năm 2010, tăng 922 trang trại

so với năm 2005 và năm 2009 đã tăng 515 trang trại so với năm 2008, con số

này nhiều hơn số trang trại tăng thêm từ 2005-2008 là 169 trang trại. Các

trang trại được phân bố rộng khắp ở các địa phương trong tỉnh Bắc Ninh,

nhưng nhiều nhất là ở các huyện Thuận Thành (578 trang trại), Gia Bình (546

61

trang trại), Lương Tài (441 trang trại), Yên Phong (430 trang trại); các huyện

thị còn lại số trang trại dao động từ 150-200 trang trại.

Hiện tại quy mô trang trại còn nhỏ với tổng số đất sử dụng năm 2010 là

1.582 ha, bình quân mỗ trang trại sử dụng 0.59 ha. Trong đó trang trại trồng

cây hàng năm là 1,7 ha, trang trại thủy sản 0,9 ha và trang trại kinh doanh

tổng hợp là 1,1 ha. Điều này cho thấy, quy mô diện tích trang trại của Bắc

Ninh là rất nhỏ, số trang trại từ 5-10ha chỉ chiếm tỷ lệ 14%.

Kinh tế trang trại ở Bắc Ninh năm 2010, đã thu hút được 8.419 lao

động (bình quân 3 lao động/trang trại), trong đó có 2.526 lao động thuê theo

thời vụ.

Về vốn đầu tư của các trang trại năm 2010, đã huy động được 448.124

tỷ đồng dùng cho sản xuất, kinh doanh, bình quân 182,2 triệu/ trang trại cao

hơn 39,6 triệu so với năm 2006. Tại các địa phương có không ít các chủ trang

trại đã mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất có quy mô lớn mang lại hiệu

quả kinh tế khá cao, các chủ trang trại chủ động dùng vốn tự có đầu tư hơn

370 tỷ đồng vào quy hoạch, cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống chuồng

trại, đào ao hồ thả cá, từng bước vươn lên thực hiện phương án sản xuất kinh

doanh có giá trị hàng hóa cao.

Như vậy, trong 6 năm qua, tôc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế

trang trại ở Bắc Ninh là 13%. Nguồn gốc hình thành các loại đất KTTT phần

lớn đều tập trung từ các vùng hoang hóa, hoặc khó canh tác, gặp khó khăn về

cơ sở hạ tầng. Trên diện tích như vậy, bằng nhiều cách làm khác nhau đã đem

lại một khối lượng sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều cho xã hội. Chỉ tính

riêng năm 2010, giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của KTTT đã đạt

687.075 tỷ đồng, bình quân một trang trại tạo ra giá trị sản lượng hàng hóa

256.5 triệu đồng. Xét về thu nhập, các mô hình KTTT trong năm qua cho thu

nhập134.305 tỷ đồng, bình quân một trang trại cho thu nhập 50,1 triệu đồng.

62

 Về cơ cấu trang trại theo loại hình

Bảng 2.13: Cơ cấu trang trại theo loại hình năm 2006 và 2010

Năm

Trang trại chăn nuôi

Trang trại khác

Trang trại nuôi trồng thủy sản

Trang trại SXKD tổng hợp

2006

76,28%

8,89%

13,75%

1,08%

2010

49.98%

18,81%

31,05%

0,16%

Nguồn: Cục Thống kê Bắc Ninh

Các trang trại theo loại hình ở Bắc Ninh chủ yếu là chăn nuôi, thủy

sản và SXKD tổng hợp, trong đó loại hình chuyên về trang trại chăn nuôi tập

trung chiếm tỷ trọng cao nhất: Năm 2010 loại hình trang trại này chiếm

49,98 % tổng số trang trại với 1.339 trang trại (năm 2006 là 76,28% với

1.364 trang trại).

Số trang trại SXKD tổng hợp chiếm 31,05% năm 2010 với 832 trang

trại (năm 2006 là 13,75% với 246 trang trại).

Số trang trại thủy sản năm 2010 chiếm 18,81% với 504 trang trại (năm

2006 là 8,89% với 159 trang trại). Phát triển kinh tế trang trại đã tận dụng

được diện tích đất đai, mặt nước để phát triển chăn nuôi, trồng trọt và thủy

sản. Toàn Tỉnh đã chuyển được nhiều ha ruộng trũng cấy lúa năng suất thấp

sang nuôi trồng thủy sản, đưa diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng từ

4.848 ha năm 2006 lên 5.419 ha năm 2010. Các trang trại thủy sản đã ứng

dụng các tiến bộ kỹ thuật như: giống mới, kỹ thuật nuôi thả…đưa sản lượng

nuôi trồng thủy sản tăng từ 19 nghìn tấn năm 2006 lên 30 nghìn tấn năm

2010. Tổng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ bán ra của trang đại đạt trên

310 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt khoảng 160 triệu đồng.

Tuy nhiên, mô hình KTTT ở Bắc Ninh chưa phát triển đồng đều mà tập

trung ở một số huyện, còn mang tính tự phát, quy mô trang trại nhỏ (bình

quân diện tích đất sử dụng năm 2010 chỉ còn 0,6ha), số lao động hạn chế, chủ

63

yếu là lao động trong gia đình, mức đầu tư thấp (trên dưới 100 triệu đồng) nên

giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ chưa cao, mức lợi nhuận thấp (gần 24

triệu đồng/trang trại/năm).

2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ

NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH

2.4.1. Những kết quả đạt được

Một là, từ sau khi tái lập tỉnh Bắc Ninh khu vực KTTN tăng nhanh cả

về số lượng và vốn đăng ký, sự phát triển của khối DNTN là nhân tố chính

thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp nói chung ở Bắc Ninh. Cơ cấu các DNTN

theo ngành kinh tế của Bắc Ninh so với cả nước có tiến bộ hơn (doanh nghiệp

ngành công nghiệp chiếm trên 50%), mặt khác các loại hình DNTN có mặt

trong tất cả các nhóm ngành nghề, các huyện trong tỉnh.

Hai là, các đơn vị KTTN Bắc Ninh được phân bổ phù hợp với lợi thế

và điều kiện tự nhiên ở các địa phương trong Tỉnh. Một số huyện, thị như: Từ

Sơn, Tiên Du, Yên Phong, Bắc Ninh có truyền thống các làng nghề cũng như

tập quán kinh doanh từ xưa kia đã phát triển mạnh các loại hình DNTN cũng

như các hộ cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp, cung cấp hàng hóa, sản phẩm

cho thị trường Hà Nội và các tỉnh lân cận. Còn tại các huyện như Lương Tài,

Gia Bình, Thuận Thành có thế mạnh riêng để hình thành các mô hình trang

trại phù hợp với tập quán canh tác và vị trí địa lý của mình; các xã có diện

tích lớn nhưng dân cư thưa thớt thì phát triển mô hình chăn nuôi gia súc, gia

cầm; các xã vùng trũng thì xây dựng mô hình chan nuôi kết hợp phát triển

thủy sản… Mô hình trang trại đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều trên khắp

các xã, phường, thị trấn đã góp phần quan trọng xóa đói, giảm nghèo, huy

động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn, làm

thay đổi diện mạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn của Bắc Ninh.

Ba là, KTTN Bắc Ninh đã khẳng định được vị trí và vai trò to lớn trong

quá trình phát triển kinh tế của tỉnh, thong qua sự đóng góp vào tăng trưởng

64

kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết lao động việc làm, đặc biệt là

khơi dậy tiềm năng của các làng nghề, phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế

nhờ quy mô ở từng vùng, từng địa phương.

 Thu hút vốn đầu tư xã hội đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế

Sự lớn mạnh của các DNTN của Bắc Ninh không chỉ góp phần đến

quyết định tăng trưởng kinh tế chung, mà còn tác động nhiều đến cơ cấu kinh

tế và các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong 10 năm qua DNTN trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh đã góp phần rất lớn, có tính quyết định giữ vững nhịp đọ tăng

trưởng kinh tế ổn định ở mức cao và tác động tích cực vào chuyển dịch cơ cấu

kinh tế cũng như các vấn đề xã hội.

Liên tục trong 10 năm qua, KTTN Bắc Ninh phát triển nhanh đã tạo ra

một khối lượng hàng hóa dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất lượng hơn sau

mỗi năm. Tuy đóng góp của từng đơn vị cá thể độc lập là không lớn nhưng

với số lượng lớn các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể nên hàng năm

đã huy động được nguồn lực khá lớn vào sản xuất kinh doanh. Cụ thể năm

2000 mới chỉ huy động từ khu vực KTTN được 732 tỷ đồng chiếm 51,32%

tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì năm 2010 đã thu hút được 11.412,7 tỷ đồng

chiếm 57,01%.

Bảng 2.14: Vốn đầu tư toàn xã hội theo khu vực tại tỉnh Bắc Ninh

Đơn vị: tỷ đồng

2000

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Vốn nhà nước

675,7

968,7 1025,8 1.135,7 1.213,3

2.273,3

2.667,3

Vốn tư nhân

732 3.358,2 4.278,6 5.949,3 7.478,6 10.296,0 11.412,7

18,6

443,4

680,6 2.293,3 4.002,1

4.126,6

5.938,3

Vốn đầu tư nước ngoài

Nguồn: Số liệu tác giả tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh

Việc huy động được ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư của khu vực

này càng thể hiện tầm quan trọng trong phát triển KTTN của tỉnh cũng như

65

phản ánh sức mạnh của nền kinh tế. Đó cũng là yếu tố góp phần quyết định

làm cho tỷ trọng đóng góp giá trị tăng thêm của khu vực KTTN vào GDP

chung của tỉnh tăng nhanh.

Bảng 2.15: Tỷ trọng đóng góp GDP của tỉnh Bắc Ninh

theo thành phần kinh tế

Đơn vị: %

2000

2005

2010

Kinh tế nhà nước

23,28

17,49

15,86

Kinh tế tập thể

30,51

3.80

2,32

Kinh tế tư nhân

40,10

72,82

53,82

Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài

6,12

5.90

28

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh

Năm 2000, GDP của KTTN Bắc Ninh chỉ chiếm 40% (1.350,3 tỷ

đồng), thì đến năm 2005 KTTN đóng góp 72,82% GDP của cả tỉnh với

6.066,9 tỷ đồng, đây là năm KTTN đóng góp tỷ trọng GDP toàn tỉnh cao nhất

trong giai đoạn 2000 - 2010. Năm 2010 khu vực KTTN của tỉnh Bắc Ninh

đóng góp 19.356,7 tỷ đồng (chiếm 53,82% GDP cả tỉnh) gấp 3,19 lần so với

năm 2005 và gấp 14,3 lần so với năm 2000. Mặc dù khu vực KTTN đóng góp

vào GDP có sự tăng trưởng mạnh về giá trị tuyệt đối nhưng lại có xu hướng

giảm về tỷ trọng (từ 72,82% năm 2005 xuống 53,82% năm 2010) đó là do sự

đóng góp mạnh mẽ của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

 Tạo nguồn vốn bổ sung cho ngân sách nhà nước

Cùng với sự tăng lên của số lượng các loại hình DNTN thì nguồn thu từ

khu vực này cũng tăng lên rất nhiều: Năm 2000 DNTN của Bắc Ninh đóng

góp 35 tỷ đồng chiếm 15.62% tổng thu ngân sách toàn khối doanh nghiệp trên

địa bàn tỉnh, năm 2010 là 700,5 tỷ đồng gấp 20 lần so với năm 2000, chiếm

34,34%. Như vậy ở Bắc Ninh khu vực KTTN cùng với khu vực có vốn đầu tư

66

nước ngoài (năm 2010 đóng 521,4 tỷ đồng chiếm 25,12% tổng thu ngân sách

khối doanh nghiệp) là bộ phận đóng góp ngân sách chủ yếu.

 Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của các

tầng lớp dân cư

Quá trình cải cách DNNN làm giảm dần số lao động trong các cơ sở

khối kinh tế Nhà nước, trong khi đó kinh tế tập thể chưa phát huy hết được

vai trò cho nên vấn đề giải quyết việc làm phụ thuộc vào khu vực KTTN và

kinh tế có vốn ĐTNN. Trong khi trình độ nguồn nhân lực của Việt Nam nói

chung và của Bắc Ninh nói riêng còn thấp, thì khu vực KTTN sẽ là khu vực

thu hút lao động và giải quyết việc làm hiệu quả hơn cả. Thực tế, trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh năm 2010, khu vực KTTN đã thu hút 522.490 lao động; tính ra

mỗi năm KTTN Bắc Ninh giải quyết thêm khoảng trên 15.000 việc làm, góp

phần đáng kể vào giảm tỷ lệ thất nghiệp.

Việc phát triển các ngành nghề truyền thống đóng góp đáng kể trong

việc giải quyết việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn và nâng cao thu

nhập cho bộ phận này. KTTN của tỉnh phát triển đã khuyến khích năng khiếu

quản lý kinh doanh của đội ngũ doanh nhân và giúp cho họ ngày càng hoàn

thiện hơn kỹ năng quản lý của mình. Mặc dù đội ngũ doanh nhân trên địa bàn

hình thành tự phát và có quá trình chưa lâu, nhưng đã tỏ ra thích ứng khá

nhanh với cơ chế thị trường cũng như yêu cầu mới của thời kỳ mới.

 Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH -HĐH

Việc khu vực KTTN tham gia nhiều vào lĩnh vực công nghiêp - xây

dựng, thương mại - dịch vụ đã làm cho cơ cấu kinh tế tỉnh chuyển dịch theo

hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng của

ngành nông nghiệp. Đồng thời do hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực

KTTN ngày càng tăng buộc các DNNN do TW và Địa phương quản lý cũng

phải khẩn trương tổ chức, sắp xếp hoạt động để có thể cạnh tranh đứng vững

trong cơ chế thị trường.

67

Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh không những trong ngành công

nghiệp, xây dựng, dịch vụ… mà còn có mặt ở nhiều địa phương, đặc biệt ở

vùng trước đây là thuần nông. Huyện Lương Tài, Gia Bình, Quế Võ trước đây

hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là nông nghiệp, số lượng các doanh

nghiệp phi nông, lâm, thủy sản tương đối ít, từ năm 2000 và những năm gần

đây số DNTN đã tăng lên đáng kể, tập trung ở các KCN làng nghề như:

Quảng Bố (Lương tài), Đại Bái (Gia Bình), KCN tập trung Quế Võ (Quế Võ).

Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế năm 2000: Nông lâm nghiệp thủy sản - Công

nghiệp - Dịch vụ là: 37,96% - 35,57% - 26,37%; năm 2005 là: 26,26% -

45,92% - 27,82% và năm 2010 là: 10,45% - 66,11% - 23,44%.

Bốn là, một số dơn vị KTTN đã chú ý tới xây dựng thương hiệu. Trong

số các làng nghề, các doanh nhân làng nghề đồ gỗ Đồng Kỵ (thị xã Từ sơn) là

những người “nhanh chân” trong việc xây dựng thương hiệu. Từ những năm

đầu thập kỷ này, nhiều doanh nghiệp Đồng Kỵ đã chú ý xây dựng các gian

hàng giới thiệu sản phẩm ở khắp các đô thị lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí

Minh, Hải Phòng…Những doanh nhân này cũng là những người đầu tiên xây

dựng các trang web cá nhân của Doanh nghiệp mình để quảng bá thương

hiệu, sản phẩm ra thế giới. Chính vì vậy khi nói đến sản phẩm gỗ mỹ nghệ

người ta nhớ ngay đến đồ gỗ Đồng Kỵ, trong khi Phù Khê, Hương Mạc mới

là quê hương của mặt hàng này. Ba trong những làng nghề cũng đã bước đầu

thành công với việc quảng bá thương hiệu, là làng tranh dân gian Đông Hồ

(Thuận Thành), tre trúc Xuân Lai (Gia Bình) và gốm Phù Lãng (Quế võ).

Tiêu biểu hơn cả là làng tranh Đông Hồ được nhiều du khách trong nước,

quốc tế biết đến nhờ phương tiện truyền thông đại chúng.

2.4.2. Những hạn chế của kinh tế tư nhân Bắc Ninh

Thứ nhất, năng lực cạnh tranh còn thấp, mang nặng tính tự phát, manh

mún, chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn, dễ tổn thương trước các biến

động kinh tế.

68

Tuy phát triển nhanh với số lượng lớn, nhưng phần lớn các DNTN

được thành lập có quy mô nhỏ, số vốn không quá 5 tỷ đồng, bộ máy quản ly,

điều hành gồm giám đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ… vẫn theo lối “gia

đình trị”. Không ít chủ Doanh nghiệp chưa qua đào tạo cơ bản, trình độ và

năng lực quản lý kinh tế còn hạn chế, thiếu hiểu biết pháp luật… nên không

xây dựng được các kế hoạch kinh doanh lâu dài và bền vững với những mục

tiêu, sứ mệnh, định hướng sản xuất kinh doanh được xác định rõ ràng. Nhiều

DNTN Bắc Ninh được thành lập theo phong trào dẫn đến việc sản xuất kinh

doanh tùy tiện, nhiều doanh nghiệp ưa chuộng các cơ hội đầu tư ngắn hạn,

nhất thời …là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm Luật Doanh nghiệp hoặc

phá sản. Có nhiều trường hợp thành lập công ty nhằm che đậy những hoạt

động trái luật pháp, như chiếm đất, buôn bán hóa đơn giá trị gia tăng, chiếm

dụng vốn tín dụng, hoặc trốn thuế bằng nhiều hình thức…sản xuất hàng giả bị

các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý.

Vì các đơn vị KTTN Bắc Ninh chưa có kế hoạch kin doanh cụ thể về

các nguồn lực đầu vào cũng như nhu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ, nên

hầu hết các doanh nghiệp này rất dễ tổn thương trước các biến động của thị

trường. Các DNTN đôi khi chỉ chú trọng một thị trường hoặc trong nước hoặc

nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài hoặc cưa có hoặc

chưa tạo được chỗ đứng trên thị trường. Chính điều này đã làm cho khu vực

KTTN ở Bắc Ninh chịu tác động mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế toàn cầu

2008, đặc biệt là trong các làng nghề - nơi có các gia đình, tổ sản xuất, hợp

tác xã, các DNNVV: sản xuất, kinh doanh đình đốn, lao động thiếu việc làm,

không ít DNTN đang phải thu hẹp sản xuất, hoặc buộc phải cho thôi việc một

số lao động.

Sự thiếu thích nghi với thị trường của các đơn vị KTTN đặc biệt tại

một số làng nghề đã làm cho các nghề truyền thống mai một, một số làng

nghề nổi tiếng như Làng nghề dệt vải Đại Mão chỉ còn máy dệt vải vuông,

69

làng nghề tranh Đông Hồ chỉ còn hai hộ làm, làng nghề tre đan Đông Côi,

làng gốm Phù Lãng…nhưng các làng nghề này đang bị mai một dần do thị

hiếu của người tiêu dung thay đổi hay do phương thức sản xuất của ngành này

không có nững cải tiến thích hợp hơn, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ buộc các

cơ sở sản xuất phải thu hẹp hoặc chuyển sang nghề khác. Điều này đặt ra cần

tái cơ cấu các ngành nghề tại khu vực KTTN ở Bắc Ninh: Cần giữ lại hệ

thống các nghề có khả năng cạnh tranh, thích nghi với thị trường.

Thứ hai, trình độ quản lý yếu kém và trang thiết bị công nghệ lạc hậu,

sử dụng mặt bằng sản xuất lớn.

Lao động trong các DNTN Bắc Ninh có tỷ lệ đào tạo thấp, thiếu trầm

trọng công nhân có kỹ năng, tay nghề cao, còn lao động trong các hộ

SXKDCT thì chủ yếu tận dụng lao động trong gia đình, hay lao động nhàn rỗi

ở nông thôn. Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của các DNTN ở Bắc Ninh

còn nhiều hạn chế, không chuyên nghiệp, phần lớn dựa vào kinh nghiệm cá

nhân của các chủ doanh nghiệp, chưa có điều kiện đầu tư đào tạo nhân lực và

ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý.

Trình độ quản lý tài chính, sổ sách kế toán, thống kê của KTTN Bắc

Ninh còn rất yếu, không thực sự quan tâm đến việc thực hiện các báo cáo định

kỳ với cơ quan quản lý Nhà nước. Hiện tại mới chỉ có 40% số doanh nghiệp

trên địa bàn nộp báo cáo tài chính hằng năm.

Trong loại hình kinh tế trang trại thì trình độ chuyên môn, kinh nghiệm

sản xuất cũng như quản lý của chủ trang trại còn yếu và thiếu. Thực tế chỉ có

63% chủ trang trại là nông dân, số còn lại là bộ đội phục viên, cán bộ đã nghỉ

hưu. Hầu hết họ đều chưa qua đào tạo nghiệp vụ quản lý (chiếm 95%) thường

lung túng trước những biến động của thị trường.

Trình độ trang thiết bị công nghệ của khu vực KTTN Bắc Ninh nhìn

chung còn lạc hậu gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Do tiềm lực về vốn

hạn chế vì vậy ít có khả năng đổi mới công nghệ. Phần lớn máy móc, thiết bị

70

đều rất cũ, lạc hậu nhiều doanh nghiệp còn tiết kiệm chi phí bằng cách mua

dây truyền sản xuất cũ của các DNNN tiến hành cổ phần hóa.

Tại Bắc Ninh rất nhiều cơ sở KTTN tại các làng nghề: đúc đồng Đại

Bái, sắt thép Đa Hội; đúc nhôm chì Văn Môn, giấy Phong Khê hoạt động

trong lĩnh vực cơ khí, luyện kim hoặc sản xuất giấy tái sinh, sử dụng các

nguyên liệu là các phế liệu đưa vào lò nung tự tạo không có hệ thống xử lý

nước thải, khí thải… đã dẫn tới hậu quả là ô nhiễm môi trường nghiêm trọng

cho tỉnh Bắc Ninh.

Thứ ba, thiếu vắng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò đầu tàu, lĩnh

vực quan trọng.

Số lượng những DNTN lớn và vừa của Bắc Ninh có rất ít: trong báo

cáo tóp 500 doanh nghiệp lớn nhất của Vietnam Report và Vietnamnet công

bố năm 2009, Bắc Ninh chỉ đóng góp có 3 doanh nghiệp (trong số 145 DN

trên toàn quốc) của khu vực tư nhân đó là: Công ty CP DABACO Việt Nam

(chế biến thức ăn gia súc, đây là DNNN cổ phần hóa), Công ty CP Tập đoàn

Hanaka (sản xuất thiết bị điện, dây dẫn), Tổng công ty CP Phát triển đô thị

Kinh Bắc (bất động sản). Trong ba doanh nghiệp trên chỉ có công ty Hanaka

hình thành từ hộ SXKDCT lên, trải qua các giai đoạn từ công ty gia đình,

doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừ và doanh nghiệp lớn (hiện nay Hanaka

cũng đã hình thành Đảng bộ).

Rõ ràng là khu vực KTTN Bắc Ninh cũng đang thiếu vắng những

doanh nghiệp cỡ vừa để có thể sớm trở thành những doanh nghiệp lớn.

Điều này cũng có nghĩa với việc trong thời gian trung hạn sẽ khó có một

vài DNTN Bắc Ninh đủ tầm cỡ có thể vươn xa nhằm xây dựng một thương

hiệu doanh nghiệp Việt Nam ở quy mô đa quốc gia.

Các ngành có hàm lượng công nghệ cao (sản xuất máy móc thiết bị, kỹ

thuật điện, điện tử, thiết bị chính xác…) rất cần để tăng thêm năng lực sản

xuất nhưng lại chưa được chú ý đầu tư đúng mức, DNTN ở các ngành này đã

71

ít lại có quy mô quá nhỏ, kỹ thuật công nghệ chưa cao. Các ngành dịch vụ

chất lượng cao: tư vấn quản lý kinh doanh, kiểm định chất lượng… hiện nay

trên địa bàn chưa có doanh nghiệp nào. Trong ngành dịch vụ, KTTN chưa

gánh vác được các dịch vụ công trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng vốn ngân

sách. Các DNTN không hoạt động trong lĩnh vực công ích do ngành này

không mang lại lợi nhuận, lợi nhuận không cao, thời gian thu hồi vốn lâu như:

khu vui chơi công cộng…, chủ yếu dựa vào nguồn vốn từ TW hoặc ngân sách

địa phương, trong lĩnh vực dịch vụ y tế thì đa phần là các cơ sở y tế tư nhân

nhỏ, mới chỉ có một bệnh viện tư nhân đa khoa Kinh Bắc.

Thứ tư, sự liên kết giữa khu vực KTTN với các khu vực kinh tế khác

còn lỏng lẻo.

Hầu hết các DNTN Bắc Ninh đều mới chỉ bắt đầu triển khai đầu tư nhà

xưởng, máy móc thiết bị một cách quy mô để tham gia vào hoạt động sản xuất

từ sau năm 2000, với tuổi đời chưa đầy mười năm và bắt đầu gần như từ con

số không (về công nghệ cũng như kỹ năng quản lý kinh doanh), vì thế đã cản

trở các doanh nghiệp này tham gia vào hoạt động cung cấp sản phẩm phụ trợ

cho các doanh nghiệp FDI. Đó là sự chênh lệch về trình độ công nghệ và chất

lượng sản phẩm, sự thiếu hụt thông tin của cả hai phía. Các doanh nghiệp FDI

tham gia đầu tư vào lĩnh vực: sản xuất thép, công nghiệp điện tử tin học, sản

xuất máy văn phòng của công ty Canon Việt nam, nhà máy sản xuất điện

thoại SamSung; còn các DNTN Bắc Ninh sản xuất thép công nghệ thủ công,

thương mại dịch vụ, xây dựng…) dẫn tới sự không tương thích trong việc

cung cấp sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp FDI.

Ngoài ra sự liên kết giữa các bộ phận của khu vực KTTN cũng hạn

chế, chẳng hạn việc liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, chủ yếu

theo phương thức tự sản, tự tiêu hoặc cung cấp cho tư tưởng kinh doanh.

Những trang trại liên kết đầu tư sản xuất, cung ứng sản phẩm cho các cơ sở

chế biến để tăng giá trị sản phẩm hàng hóa chiếm con số rất ít. Chất lượng

72

hàng hóa của trang trại chủ yếu dưới dạng thô, do đó năng suất, chất lượng

chưa cao. Báo cáo của các địa phương cho thấy, 90% sản phẩm của trang trại

bán ở dạng thô hoặc tươi sống chưa qua chế biến, 60% sản phẩm của trang

trại bán với giá thấp, chưa hợp lý… Sản phẩm của trang trại chủ yếu tiêu thụ

thông qua thương lái nên thường bị ép cấp, ép giá làm thiệt hại cho sản xuất.

Các hộ chăn nuôi thiếu thông tin thị trường, thiếu kiến thức về kỹ thuật chăn

nuôi, thiếu sự chỉ đạo quy hoạch phát triển, nên chưa mạnh dạn đầu tư vào

các khâu chuồng trại, giống, thức ăn…Tỉnh cũng chưa có định hướng tổng thể

phát triển chăn nuôi lợn nạc, nên các địa phương thiếu các giải pháp đồng bộ

và cụ thể để tạo thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.

2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế tư

nhân ở Bắc Ninh

2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan

Một là, những cải tiến về thể chế và cơ chế quản lý của môi trường

kinh doanh đã thay đổi nhiều, nhưng chưa nhanh, chưa thực sự mang tính

cách mạng, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO, do đó chưa tác động mạnh

nhằm mang lại những thay đổi lớn cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung

và cho khu vực KTTN nói riêng. Mặc dù đã có nhiều cải tiến về phương diện

pháp lý và cải cách thủ tục hành chính, những cải tiến đó chưa đủ để tạo nên

một môi trường thể chế và pháp lý thuận lợi cho công việc kinh doanh của

khu vực KTTN. Năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đáp ứng

yêu cầu của phương thức quản lý mới, còn thấp so với yêu cầu tạo điều kiện

và hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển.

Các quy định luật pháp chưa theo kịp sự phát triển của hoạt động kinh

doanh, các văn bản được ban hành quá nhiều và nhanh, đôi khi lại thiếu nhất

quán, đã gây lung túng cho các doanh nghiệp trong việc nhận thức và ững xử

với những thay đổi của luật pháp. Chẳng hạn, ở các địa phương việc vận dụng

luật thuế thu nhập công ty để khuyến khích đầu tư là rất khác nhau, hay trách

73

nhiệm về chi phí và chế độ cho việc giải tỏa đền bù không thống nhất cũng

gây khó khăn đối với việc tiếp cận nguồn lực đất đai của doanh nghiệp.

Hai là, sự bất bình đẳng giữa kinh tế nhà nước và KTTN làm cho các

DNTN gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Trong các quy định luật

pháp về đầu tư, khi quá nhấn mạnh ưu tiên cho thu hút đầu tư nước ngoài và

các dự án đầu tư lớn của Nhà Nước. ít nhiều có ảnh hưởng đến sự phát triển

của khu vực KTTN, hay nhấn mạnh ưu tiên với một số đối tượng, ngành hàng

trong chừng mực nhất định có thể gây thiệt hại cho các đối tượng khác.

Ba là, theo cam kết WTO, Việt Nam bỏ tài trợ trực tiếp đối với hoạt

động xuất khẩu. Điều này sẽ ảnh hưởng nhất định đôi với các DNTN đặc biệt

là với các DNNVV khi tham gia xuất khẩu hàng hóa ra thị trường khu vực và

thế giới. Việc Việt Nam chưa được thừa nhận có nền kinh tế thị trường. Theo

cam kết khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam là nền kin tế phi thị trường

cho đến năm 2018. Điều này đã tác động đến khả năng tự vệ, chống bị kện

bán phá giá của các DNTN ở Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế.

Bên cạnh đó nền công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa phát triển, vì vậy đa

số các DNTN vừa và nhỏ bị lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu; nhập

siêu của Viêt Nam gia tăng. Nhập khẩu nhiều dẫn tới chi phí kinh doanh tăng,

tác động hạn chế đến khả năng cạnh tranh của các DNTN vừa và nhỏ ở trong

nước cũng như thị trường quốc tế.

2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, môi trường kinh doanh cấp tỉnh của Bắc Ninh vẫn còn

những bất cập nhất định.

Mặc dù chủ trương của Chính phủ và những động thái của chính quyền

tỉnh Bắc Ninh đã rất quan tâm tạo điều kiện thông thoáng tối đa cho khu vực

KTTN, nhưng vẫn còn những rào cản lớn về mặt pháp lý và hành chính trong

quá trình hoạt động của khu vực này. Tuy thủ tục hành chính tại Bắc Ninh đã

được cải cách, bộ phận một cửa của Bắc Ninh đã hoạt động góp phần rút ngắn

74

thời gian, chi phí của người dân trong quá trình đăng kí thành lập doanh

nghiệp. Nhưng sự cải cách này chưa toàn diện, sự phối hợp giữa các cơ quan,

ban ngành trong thủ tục đăng kí kinh doanh còn hạn chế nên chưa đem lại

hiệu quả thiết thực cho chủ doanh nghiệp. Sự yếu kém, nhũng nhiễu của

không ít cán bộ công chức đã làm vô hiệu hóa những chính sách tốt và cam

kết cải cách của Nhà nước, nhiều vướng mắc của Doanh nghiệp trong lĩnh

vực thanh tra, kiểm tra, thuế, phí, hải quan, đất đai… kéo dài đã lâu, nhưng rất

chậm được giải quyết.

Sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các sở, ban ngành liên quan, giữa

các ban ngành với cơ quan Nhà nước, cũng như giữa các phòng ban trong một

cơ quan còn hạn chế. Đôi khi các cơ quan chức năng thực hiện lại công việc

của nhau khi thẩm định và đánh giá những hồ sơ, quy trình thủ tục đã được

một cơ quan khác thẩm định và đánh giá. Nhiều doanh nghiệp còn phàn nàn

về các thủ tục hành chính phức tạp gây tốn kém thời gian và tiền bạc. Ví dụ

như việc kiểm tra, thanh tra của các cán bộ công quyền địa phương, hay việc

xin cấp phép, vay vốn… đã làm tăng chi phí giao dịch của doanh nghiệp đã

ảnh hưởng không tốt tới tâm lý của DNTN, dường như sự phân biệt đối xử

giữa các khu vực kinh tế trong một địa phương cấp tỉnh vẫn còn tồn tại trên

thực tế.

Thứ hai, việc tiếp cận một số nguồn lực đầu vào của KTTN Bắc Ninh

rất hạn chế

 Tiếp cận đất đai

Với trình độ khoa học công nghệ và lao động còn thấp thì việc sử dụng

đất đai làm mặt bằng sản xuất vẫn là yếu tố quan trọng của khu vực KTTN.

Tại Bắc Ninh, các DNTN có thể có mặt bằng đất đai trực tiếp bằng hai cách:

Một là, từ các chủ sở hữu đất tư nhân, việc tiếp cận đất đai trong trường hợp

này giống như việc thuê hoặc chuyển nhượng đất đai thông thường giữa chủ

75

đầu tư và chủ sở hữu đất. Hai Là, từ các cơ quan của chính quyền Tỉnh và địa

phương hoặc trong các khu đã quy hoạch như khu, cụm công nghiệp. Tuy

nhiên việc tiếp cận đất đai của các DNTN vừa và nhỏ ở Bắc Ninh tại các khu

công nghiệp không dễ dàng, vì các KCN chủ yếu phục vụ cho các doanh

nghiệp lớn và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy các

DNNVV thường thuê đất từ chính quyền cấp tỉnh và địa phương.

Tuy nhiên, việc xin đất từ chính quyền địa phương hoặc trong các cụm

công nghiệp cũng là việc không dễ dàng đối với các DNTN. Họ phải trải qua

nhiều bước với nhiều thủ tục phức tạp khác nhau do một số cơ quan nhà nước

thụ lý. Do trải qua nhiều bước tuần tự và phức tạp, nên hầu hết các doanh

nghiệp tư nhân ở Bắc Ninh phải tiêu tốn quá nhiều thời và gian và chi phí

không cần thiết, do không hiểu biết hết về các quy trình này.

 Tiếp cận nguồn vốn tín dụng chủ yếu từ hệ thống ngân hàng thương mại

Các quỹ hỗ trợ tín dụng cho các đơn vị KTTN ở Bắc Ninh cũng chưa

phát huy hiệu quả cao, quy mô vốn cho hoạt động hỗ trợ nhỏ, do chưa huy

động được nhiều nguồn vốn. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động, quỹ

khuyến công, quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã bộc lộ những hạn chế: nguồn thu quỹ

chủ yếu từ ngân sách của tỉnh, đối tượng đóng góp, thụ hưởng ít, không hiệu

quả... Hơn nữa hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN là công

việc hoàn toàn mới, Bộ tài chính chưa có quy trình tự tham khảo nghiệp vụ

của các ngân hàng, của các tỉnh nên việc tiếp cận công việc không khỏi những

bỡ ngỡ, khó khăn. Bản thân doanh nghiệp cũng gặp lung túng, khó khăn trong

việc tiếp cận với việc vay vốn về hồ sơ, hóa đơn, kế toán và lập phương án

sản xuất kinh doanh, phương án vay vốn phù hợp với các quy định của ngân

hàng cũng như của quỹ. Chính vì vậy các đơn vị KTTN vẫn chủ yếu tiếp cận

nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, tư nhân, bạn bè và người

quen là chủ yếu.

76

 Chất lượng đào tạo nguồn lao động cung cấp cho khu vực KTTN còn thấp

Mặc dù các cơ sở đào tạo ngày càng được đầu tư cả về số lượng và chất

lượng, các hình thức đầu tư ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, quy mô

đào tạo còn nhỏ, chủ yếu đào tạo theo chỉ tiêu được giao, không căn cứ vào nhu

cầu thực tế, chưa đa dạng hóa về nội dung và chương trình đào tạo để thức ứng

với nhu cầu và cấp độ khác nhau của người lao động. Công nhân được đào tạo

qua các trường nghề không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, bởi các

trang thiết bị của trường nghề đã quá lạc hậu không theo kịp quá trình phát

triển. Hiện nay vẫn còn những Trung tâm, Trường tiến hành đào tạo các

chuyên ngành không phù hợp với các yêu cầu của doanh nghiệp như trường

Công nhân xây dựng, Trường công nhân hóa chất mỏ, dẫn đến các doanh

nghiệp phải tìm lao động ở các trường đào tạo nghề ở các tỉnh khác, hoặc phải

tự đào tạo dẫn tới chi phí kinh doanh ở các DNTN Bắc Ninh cao hơn các tỉnh

thành khác: Các DNTN ở Bắc Ninh phải mất 2% tổng chi phí kinh doanh để

đào tạo lao động, cao gấp đôi so với Vĩnh Phúc và Bình Dương (1%).

Thứ ba, chất lượng thông tin thị trường đầu ra chưa cao.

Thông tin thị trường đối với các doanh nhiệp rất quan trọng, nó cung

cấp cho người sản xuất biết được các đối thủ cạnh tranh, thị hiếu, nhu cầu của

người tiêu dung để có thể điều chỉnh sản xuất. Tuy nhiên thông tin thị trường

tại các cơ quan chức năng ở Bắc Ninh dường như quá ít ỏi và không mới đối

với các doanh nghiệp, nội dung thông tin còn thiếu chuyên sâu, trọng tâm cho

các doanh nghiệp của tỉnh Bắc Ninh, thiếu phân tích đánh giá cụ thể về thị

trường, công tác dự báo thị trường gần như chưa thực hiện được. Các doanh

nghiệp và các hộ kinh doanh xưa nay vẫn kinh doanh theo kiểu tự phát, không

có chiến lược rõ ràng, thiếu thông tin - là một trong những yếu tố khiến nhiều

doanh nghiệp Bắc Nin không phát huy được hiệu quả của mình.

Các DNTN thường có quy mô nhỏ, không có khả năng thu thập thông

tin đầy đủ về thị trường trong nước cũng như xuất khẩu, trong khi đó các cơ

77

quan xúc tiến thương mại thường chỉ nắm được thông tin ở tầm vĩ mô về kim

ngạch xuất khẩu. Nhưng nhu cầu về nhóm hàng, loại hàng và đối thủ cạnh

tranh thì không có số liệu chính xác và cập nhật. Thực tế là các doanh nghiệp

sẵn sang mua thông tin, nhưng những thông tin theo kiểu chung chung sẽ

không giúp ích gì cho doanh nghiệp và họ sẽ không có nhu cầu mua.

Việc thông tin chỉ thu thập được qua một vài triển lãm hội chợ, qua các

chuyến tham quan, hợp tác song phương, thì thị trường thế giới còn rất xa các

DNTN của Bắc Ninh cũng như của Việt Nam. Chính vì thiếu thông tin và dự

báo, nên KTTN Bắc Ninh khó khăn về thị trường đầu ra cho sản phẩm. Chỉ có

ít cơ sở trong tỉnh liên kết với các doanh nghiệp bên ngoài tỉnh, 80% sản

phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề ở Bắc Ninh không thể trực tiếp

xuất khẩu, mà vẫn phải xuất khẩu ủy thác qua các đơn vị khác.

Thứ tư, hệ thống dịch vụ và tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp chưa đầy đủ.

Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra bài toàn nâng cao năng lực cạnh

tranh với các doanh nghiệp của Bắc Ninh. Tính chuyên nghiệp trong hoạt

động kinh doanh ngày càng trở nên cấp thiết. Chính vì vậy hệ thống dịch vụ

phát triển kinh doanh, hệ thống ttor chức hỗ trợ doanh nghiệp rất cần thiết đối

với khu vực KTTN, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó sẽ giúp các

doanh nghiệp kinh doanh một cách bài bản. Tuy nhiên thị trường dịch vụ hỗ

trợ kinh doanh trên địa bàn Bắc Ninh đều chưa được phát triển, vừa thiếu, vừa

yếu, vừa kém về chất lượng. Đặc biệt đối với các dich vụ như tư vấn, bao gồm

tư vấn quản lý, tư vấn phát triển thương hiệu, tư vấn pháp luật, sở hữu trí tuệ,

phát triển thị trường, thương mại điện tử…

Tại nước ta bắt đầu hình thành được dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh

doanh và thị trường này đang và sẽ giữ vai trò quan trọng trong quá trình

phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, tại Bắc Ninh mặc dù số lượng DNTN

phát triển khá nhanh nhưng chủ yếu tập trung vào những ngành công nghiệp

chế biến, cơ khí... còn dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển rất hạn chế, thị

78

trường các nguồn lực khác như khoa học công nghệ trên địa bàn Bắc Ninh

chưa phát triển. Bên cạnh đó tỉnh Bắc Ninh cũng chưa có trương trình và

chính sách cụ thể nào nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch vụ hỗ

trợ kinh doanh, sự phát triển của thị trường trên địa bàn Bắc Ninh còn mang

tính tự phát cao.

Thứ năm, khu vực KTTN Bắc Ninh chưa có tư duy về sản xuất lớn.

Các đơn vị KTTN ở Bắc Ninh chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, chưa có tư

duy sản xuất lớn. Điều này thể hiện ở sự liên kết giữa các cơ sở KTTN rất hạn

chế. Có thể nhận thấy thực trạng là các DNTN cùng tham gia sản xuất một

nghề, nhưng thường không có mối liên hệ với nhau, hoặc nếu có thì rất mờ

nhạt, lỏng lẻo. Các doanh nghiệp này tồn tại một cách song song và cạnh

tranh theo kiểu “phận của ai người nấy lo”. Do vậy ở Bắc Ninh đã xuất hiện

“làng nhiều giám đốc nhất nước” đó là làng Đồng Kỵ.

Mặc dù “làng nhiều giám đốc nhất nước” này có đóng góp nhất định

vào giá trị sản xuất của cả tỉnh, nhưng nó thể hiện tâm lý tiểu nông khá rõ,

mạnh ai nấy làm…Nhưng các DNTN này vừa ngỏ vừa yếu lại thiếu tổ chức

hoặc lạc hậu về tổ chức, thường mang tính chất gia đình nên càng yếu về tiềm

lực về tài chính. Sức cạnh tranh của khu vực KTTN Bắc Ninh sẽ cao hơn nếu

từng doanh nghiệp nhỏ này hợp thành những CTCP.

Một số mô hình kinh tế trang trại phát triển chưa thực sự hiệu quả, rõ

nét và không bền vững gắn kiền với nếp suy nghĩ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún

của người nông dân. Người nông dân từ xưa tới nay ít dám chấp nhận rủi ro, tư

tưởng “ăn chắc” đã hạn chế rất nhiều tới việc bỏ vốn đầu tư. Mặt khác do thời

gian giao đất ngắn từ 5 - 10 năm, chưa tạo sự yên tâm cho người nông dân phát

triển các mô hình trang trại vườn đồi trồng cây lâu năm, mô hình VAC. Ngoài

ra tại các địa phương cũng chưa có quy hoạch cụ thể, chi tiết xem vùng nào nên

nuôi trồng thủy sản, vùng nào phát triển trang trại kinh doanh tổng hợp… để

người nông dân có sự liên kết trong tiêu thụ sản phẩm.

79

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH

TẾ TƯ NHÂN Ở BẮC NINH

3.1.1. Cơ hội, thách thức đối với kinh tế tư nhân tỉnh Bắc Ninh

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Tỉnh Bắc Ninh phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công

nghiệp theo hướng hiện đại, tạo tiền đề để đến năm 2020 là một trong những

tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Khai thác và phát huy

hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của địa phương, huy động và sử dụng có hiệu

quả nguồn lực, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tăng cường kinh tế với tốc độ cao và bền

vững hơn.

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 của Việt Nam xác định

hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “vừa hợp tác, vừa đấu tranh; đa phương

hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại... chú trọng phát huy lợi thế,

nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm

dần hàng rào bảo vệ”.

Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Bắc Ninh được đề ra

trong văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 17: “hoàn thiện kết cấu hạ

tầng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình hội nhập kinh tế

quốc tế khu vực”. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan trong thế

giới ngày nay. Hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa là mở cửa nền kinh tế thực

hiện tự do hoá thương mại đưa các DN tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế.

Các doanh nghiệp tư nhân ở Bắc Ninh chủ yếu tập trung vào các làng

nghề, công nghiệp và thương mại dịch vụ, là những lĩnh vực chịu nhiều tác

80

động nhất khi gia nhập WTO. Vì vậy các DN này cần phải nắm bắt, nhận thức

đầy đủ những cơ hội cũng như thách thức trong tiến trình hội nhập kinh tế

quốc tế, để từ đó có các giải pháp thích ứng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của mình.

3.1.1.1. Cơ hội

Gia nhập WTO, các doanh nghiệp Bắc Ninh có điều kiện mở rộng thị

trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trên qui mô toàn cầu. Tiếp cận với các

thị trường tiềm năng lớn như: Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản với chính sách thuế

và hàng rào phi thuế giảm. Từ đó mở rộng thị trường cho việc xuất khẩu những

mặt hàng thế mạnh: sản phẩm của các làng nghề truyền thống (đồng Đại Bái,

giấy Phong Khê, đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, gốm Phù Lãng, đồ tre Xuân Lai...),

sản phẩm nông sản, giày dép và dệt may. Các DNVVN có điều kiện tiếp cận

được nguồn vốn quốc tế với nhiều hình thức đa dạng, cả đầu tư trực tiếp và qua

thị trường chứng khoán, tận dụng được các nguồn vốn vay ưu đãi chính thức,

vay thương mại, các nguồn viện trợ của nước ngoài, hoặc qua con đường hợp

tác liên doanh, liên kết, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các DNVVN có điều kiện

nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu và dịch vụ cần thiết với chất lượng tốt

và giá cả thuận lợi. Từ đó tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật hiện đại,

nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm, học tập được những

kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên tiến của thế giới. Được hưởng các ưu đãi

trong thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà các nước thành viên giành cho

nhau và có điều kiện tốt hơn để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương

mại quốc tế một cách xây dựng và công bằng.

3.1.1.2. Thách thức

Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội, kinh tế tư nhân Bắc Ninh phải đương

đầu với những thách thức do quá trình hội nhập WTO.

Thứ nhất, gia nhập WTO, thị trường của nước ta sẽ phải mở cửa, Việt

Nam phải hạ thấp hoặc cắt giảm hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan

81

cho 149 nước thành viên của WTO. Điều đó sẽ dẫn đến việc hàng loạt dịch vụ

từ nước ngoài được đầu tư và hoạt động ở những lĩnh vực: viễn thông, ngân

hàng, bảo hiểm, văn hóa giải trí, vận tải, giáo dục. Vì vậy các doanh nghiệp

trong lĩnh vực này sẽ phải cải thiện chất lượng, giá cả buộc phải cạnh tranh

gay gắt không những ở thị trường nước ngoài mà còn ngay tại thị trường

trong nước.

Thứ hai, các đối thủ chính của DN Việt Nam nói chung và các doanh

nghiệp dân doanh Bắc Ninh nói riêng là các nước ASEAN và Trung Quốc.

Trung Quốc có thể mạnh hơn Việt Nam về giá nhân công rẻ và lực lượng lao

động dồi dào. Việc xuất khẩu của các doanh nghiệp về hàng dệt may, giày

dép, sản phẩm điện tử bán dẫn, đồ dùng nội địa... sẽ gặp nhiều khó khăn do

khó cạnh tranh được với các DN của Trung Quốc.

Thứ ba, bên cạnh việc các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế quan

từ các quốc gia thành viên, Việt Nam cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ

cắt giảm mức thuế quan của mình theo một lộ trình vạch sẵn, việc này sẽ làm

cho lượng hàng hóa nhập khẩu tràn vào Việt Nam. Các DNTN, DNVVN

không nâng cao được sức cạnh tranh thì sẽ thất bại.

Thứ tư, các nước thành viên WTO đềuss áp dụng những quy định

chặt chẽ hơn về trợ cấp xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu với hàng nông sản.

Điều này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp sản xuất và chế

biến 4 mặt hàng đang được trợ cấp xuất khẩu: gạo, cà phê, thịt lợn, rau quả

đóng hộp.

Thứ năm, các doanh nghiệp chủ yếu là nhập khẩu nguyên vật liệu để

sản xuất hàng hóa trong nước và xuất khẩu. Chi phí nguyên liệu, nhiên liệu

đầu vào liên tục tăng: xăng dầu, cước vận chuyển, tiền công. Trong khi đó xu

thế giá hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu của thế giới giảm. Vì vậy việc

mở rộng ra thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN

sản xuất hàng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.

82

3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh

Nhận thức được vấn đề phát triển KTTN là nhiệm vụ quan trọng trong

chiến lược xây dựng quan hệ sản xuất mới, dựa trên đặc điểm, tính chất và xu

hướng phát triển của khu vực này, Bắc Ninh đã đề ra phương hướng phát triển

KTTN phù hợp với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phát triển

theo định hướng chung của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Cụ thể là:

Thứ nhất, xây dựng Quy hoạch tổng thể khu vực KTTN trên nguyên tắc

phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tốt các tiềm năng,

lợi thế của tỉnh. Trong từng ngành, hướng các DN hoạt động vào những

ngành có thế mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia Hội nhập kinh

tế quốc tế, theo đó cần nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong ngành công nghiệp,

nâng cao trình độ CNH, HĐH, chất lượng sản phẩm, phù hợp với yêu cầu

chuyển dịch cơ cấu kinh tế; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ

tiên tiến trong sản xuất, chủ động mở rộng, đẩy mạnh công tác tiếp thị, xúc

tiến thị trường, đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu, giữ gìn tín nhiệm với

khách hàng, phát triển xuất khẩu với tốc độ cao, liên tục, nhanh hơn các địa

phương miền Bắc; phấn đấu đưa xuất khẩu trở thành lĩnh vực mũi nhọn và

xuất khẩu ròng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của tỉnh.

Thứ hai, phải tạo được môi trường bình đẳng cho sự phát triển của tất

cả các thành phần kinh tế. Có chính sách hỗ trợ thành phần KTTN, được ưu

tiên phát triển một số ngành có lựa chọn, trong một số ngành mà DN lớn

không có lợi thế, ưu tiên phát triển DNVVN ở nông thôn. Phát triển DN theo

hướng nâng cao năng lực cạnh tranh, đạt tốc độ tăng trưởng cao và bền vững.

Theo đó, xây dựng các DN mạnh có khả năng cạnh tranh quốc tế, đưa các DN

địa phương gia nhập các tổng công ty mạnh, tạo điều kiện để các tổng công ty

đầu tư nhiều hơn vào Bắc Ninh; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và hội

nhập thành công, nhạy bén nắm bắt thời cơ chuyển đổi nhanh cơ cấu sản

phẩm, dịch vụ xuất khẩu phù hợp với thay đổi cung cầu trên thị trường; đầu tư

83

công nghệ thiết bị mới nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường và

có khả năng cạnh tranh quốc tế lâu dài.

Thứ ba, thành lập một số KCN, CCN dành riêng cho các doanh nghiệp

tư nhân. Phát triển DN trên các địa bàn trọng điểm vừa đảm bảo chuyển dịch

cơ cấu kinh tế hợp lý vừa có sức lan toả phát triển ra những vùng khó khăn,

góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội; đẩy nhanh xây dựng phát

triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh và thu hút nhiều nhà đầu tư vào các

KCN, CCN; chú trọng phát triển các DNVVN nằm ngoài các KCN, CCN phù

hợp quy hoạch, các DN có khả năng thu hút nhiều lao động, áp dụng công

nghệ tiên tiến và nộp ngân sách lớn cho Nhà nước.

Căn cứ vào mục tiêu, phương hướng phát triển KTTN phù hợp với quy

hoạch tổng thể của tỉnh, các doanh nghiệp cần được định hướng phát triển vào

những địa bàn kinh tế trọng điểm, các KCN, CCN để tạo sức hút - đẩy đối với

các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, thu hút nhiều lao động và tạo ra các

sản phẩm có giá trị gia tăng cao.

Mỗi khu vực cần được bố trí ngành nghề phù hợp với các đặc điểm của

địa phương và tận dụng được lợi thế so sánh, trong đó cần lưu ý: phát triển

ngành nghề trong khu đô thị là những ngành dịch vụ phục vụ đô thị, công

nghiệp sạch, công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao và công nghiệp ít ô

nhiễm môi trường. Vùng nông thôn tập trung phát triển các làng nghề truyền

thống kết hợp với sản xuất công nghiệp hiện đại, các ngành nghề mà địa

phương có thế mạnh và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn.

Song song với công tác quy hoạch quỹ đất, quy hoạch theo vùng kinh

tế trọng điểm, Bắc Ninh cũng cần chú trọng tới đầu tư kết cấu hạ tầng cho

phát triển kinh tế theo địa bàn trên nguyên tắc chính quyền hỗ trợ DN, tạo các

cơ chế thông thoáng trong thực hiện, giảm thiểu các rào cản và chi phí, tạo

sức hấp dẫn DN vào đầu tư.

84

3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC

NINH TRONG THỜI GIAN TỚI

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với chính quyền và các cơ quan ban

ngành của tỉnh Bắc Ninh

3.2.1.1. Xây dựng lộ trình phát triển kinh tế tư nhân Bắc Ninh

Để KTTN Bắc Ninh phát triển có hiệu quả, phát huy sức mạnh thực sự

thì phải xây dựng chiến lược phát triển KTTN một cách rõ ràng, phát huy thế

mạnh của địa phương phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế chung của

tỉnh Bắc Ninh, nếu không KTTN sẽ phát triển tự phát làm cho nguồn lực bị

phân tán, không phát huy được sức mạnh của khu vực này. Vì vậy tỉnh Bắc

Ninh cần xác định một lộ trình dài hạn để triển khai một cách đồng bộ các

giải pháp khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này. Về mặt cơ chế, nên

phân biệt một số giai đoạn với các ưu tiên chính sách khác nhau:

 Trong giai đoạn đầu (tức giai đoạn hiện nay), điều cần nhất là công

nhận vai trò ngày càng trở nên quan trọng của KTTN đối với sự phát triển bền

vững của tỉnh Bắc Ninh, trong đó khai thông các rào cản và giảm thiểu chi phí

gia nhập thị trường để dễ dàng cho việc “ khai sinh” ra các doanh nghiệp mới.

Sauk hi đã được “khai sinh”, các doanh nghiệp này cần được “ nuôi dưỡng”

trong một môi trường cạnh tranh công bằng và lành mạnh. Cần lưu ý răng

việc xây dựng Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư thống nhất không nhất thiết

dẫn đến sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vì trên thực tế sự công

bằng không chỉ phụ thuộc vào hiệu lực thực sự của những đạo luật này mà

còn phụ thuộc vào nhiều thể chế khác và hoạt động thực thi của các cơ quan

công quyền.

 Giai đoạn 2010 - 2015: tập trung hoàn thiện môi trường đầu tư theo

hướng ngày càng thông thoáng; xây dựng một nền tảng pháp lý đồng bộ và ổn

định, cải tiến các thủ tục hành chính; công bố quy hoạch phát triển kinh tế của

tỉnh Bắc Ninh một cách rõ ràng và cụ thể.

85

 Giai đoạn 2015-2020: Hướng các hoạt động đầu tư theo chiến lược

phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh; thông qua các giải pháp: xây dựng và

hoàn thiện các khu kinh tế (KCN, KCX, khu du lịch) để thu hút đầu tư,

khuyến khích đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh (dịch vụ,

thương mại, công nghiệp phụ trợ…)

- Ưu tiên phát triển các DNTN hoạt động có tính chuyên môn hóa và

công nghệ cao có hiệu quả, mang tính ổn định và bền vững. Đặc biệt khuyến

khích các DNTN đầu tư vào các ngành sản xuất phụ trợ phục vụ các doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các KCN của Bắc Ninh.

- Tăng số lượng DNTN hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch

vụ, nhất là phát triển trong các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch nhằm khai

thác các thế mạnh của tỉnh về điều kiện tự nhiên, sinh thái và môi trường xã

hội nhân văn gắn với lợi thế của một tỉnh cửa ngõ phía Bắc thủ đô theo các

hướng tương tác: quan hệ về sản xuất. cung ứng hàng hóa; quan hệ về cung

ứng dịch vụ; quan hệ về du lịch - nghỉ dưỡng; quan hệ về kết cấu hạ tầng và

cung ứng các dịch vụ công cộng. Một mặt vừa tăng hiệu quả kinh tế, vừa gắn

chặt được giữa phát triển kinh tế và xây dựng nền văn hóa, bảo tồn, phát triển

các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.

- Rà soát, đánh giá lại các quy hoạch phát triển ngành nghề trên địa

bàn tỉnh, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quy hoạch phát triển các ngành

nghề cho phù hợp với thực tế và phù hợp với điều kiện phát triển của khu vực

KTTN và định hướng của tỉnh trong tương lai.

Thời gian vừa qua việc khôi phục và phát triển làng nghề tại Bắc Ninh

đã có những tác động tích cực tới phát triển KTTN ở Bắc Ninh. Tuy nhiên,

thời gian tới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì việc phát triển các

làng nghề với mục đích phát triển KTTN cần phải có chọn lọc. Hiện tại ở Bắc

Ninh với 62 làng nghề, trong đó chỉ có 74% là những làng nghề phát triển tốt

và khá như: làng nghề Đa hội, Đồng kỵ, Phù khê, Phong khê, Đại bái…, còn

86

lại 16% là những làng nghề phát triển cầm chừng, có nguy cơ mai một và mất

nghề, như các làng nghề chế biến nông sản, ươm tơ dệt lụa, tranh dân gian…

Do vậy mọi cơ chế chính sách của tỉnh Bắc Ninh cần chú trọng tập trung vào

các làng nghề đang hoạt động có hiệu quả và các làng nghề có hướng phát

triển bền vững trong tương lai.

Đối với các làng nghề kém phát triển hoặc hoạt động cầm chừng, cần

chọn lọc những làng nghề mà sản phẩm vẫn được người tiêu dùng chấp nhận

và có cơ hội tồn tại, nhất là những làng nghề mang giá trị văn hóa dân tộc cao

để có chính sách ưu tiên hỗ trợ về thị trường, vốn, công nghệ… nhằm bảo tồn

và phát huy có hiệu quả các làng nghề này.

- Phát triển các hộ SXKDCT ở những lĩnh vực mà địa phương có lợi

thế, tạo điều kiện thuận lợi để các hộ SXKDCT tiếp cận được với các nguồn

vốn vay, tiếp cận được các nguồn thông tin, giúp đỡ các hộ SXKDCT về kinh

nghiệm sản xuất, nâng cao trình độ cho người lao động. Khuyến khích các hộ

SXKDCT liên kết, hợp tác, không phân biệt quy mô, địa giới hành chính

nhằm mục đích đưa các hộ kinh doanh này làm vệ tinh gia công, chế biến,

tiêu thụ sản phẩm cho các hệ thống doanh nghiệp trên địa bàn. Đồng thời

hướng các hộ SXKDCT phát triển thành DNTN.

Khuyến khích các DNTN đổi mới, ứng dụng những tiến bộ khoa học và

công nghệ vào sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Đối với

những doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tỉnh tạo điều kiện hỗ trợ từ nguồn

vốn khuyến công hằng năm do ngân sách tỉnh cấp để giúp đỡ lập dự án, hỗ trợ

chi phí cho việc áp dụng tiến bộ khoa học-kĩ thuật vào sản xuất. Có chính

sách khen thưởng đối với những DNTN du nhập ngành nghề mới có công

nghệ sản xuất phù hợp phù hợp và khai thác được những thế mạnh của tỉnh.

- Xây dựng và công bố quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội,

quy hoạch phát triển ngành nghề, quy hoạch chi tiết về sử dụng đất, quy

hoạch phát triển đô thị, quy hoạch phát triển khu công nghiệp, làng nghề, quy

87

hoạch phát triển nguyên liệu để người dân và doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư

đều được thông tin đầy đủ, chính xác nhất. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho các

doanh nghiệp có lựa chọn cơ hội đầu tư theo khả năng và sở trường của mình.

- Các ngành, các cấp căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ phải tăng cường

trách nhiệm của mình trong việc chủ động triển khai thực hiện các cơ chế,

chính sách liên quan đến tổ chức và hoạt động của khu vực KTTN. Các cơ

quan quản lý Nhà nước về kinh doanh cần tăng cường đối thoại với doanh

nghiệp để giải quyết vướng mắc và bàn định thực hiện các dự án chung phát

triển kinh tế địa phương. Đồng thời kiên quyết xử lý những đơn vị làm ăn vi

phạm pháp luật, vi phạm lợi ích kinh tế của các đơn vị khác và vi phạm lợi ích

của người tiêu dùng, có chế tài nghiêm khắc và chặt chẽ nhằm tạo một sân

chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.

3.2.1.2. Nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước ở

Bắc Ninh

Một hệ quả về chính sách là để duy trì mức tăng trưởng cao, Bắc Ninh

phải có những giải pháp phát triển KTTN một cách bền vững, trong đó quan

trọng nhất là phải tạo lập được một môi trường kinh doanh lành mạnh để

KTTN phát triển, trong đó không thể chú ý đến vai trò của các biện pháp cải

cách hành chính liên quan tới hoạt động của khu vực KTTN. Các cơ quan

chính quyền tỉnh Bắc Ninh cần đổi mới hoạt động theo hướng bám sát và tuân

thủ các văn bản pháp luật hiện hành; đồng thời vận dụng một cách linh hoạt

sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật có lợi cho sự phát triển của KTTN Bắc

Ninh. Trước mắt, cần tập trung xử lý kịp thời, hiệu quả các vấn đề bức xúc,

khó khăn đang tồn tại trong phát triển KTTN. Mặt khác, cần lắng nghe, tiếp

thu những đề xuất, kiến nghị từ chính khu vực KTTN để chủ động, kịp thời,

bổ sung, hoàn thiện các quy phạm và hệ thống luật định của Trung ương và

địa phương. Cụ thể:

88

Một là, cải tiến mạnh thủ tục hành chính kiên quan đến các hoạt động

đầu tư theo hướng tiếp tục đơn giản hóa việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm

vi các dự án thuộc diện đăng ky cấp phép đầu tư. Quy định rõ ràng, công khai

các thủ tục hành chính, đơn giản hóa và giảm bớt các thủ tục không cần thiết;

kiên quyết xử lý các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách

nhiệm của cán bộ công quyền.

Hai là, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà

nước của tỉnh trong hoạt động quản lý đầu tư; phân định rõ quyền hạn, trách

nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì

thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với

các doanh nghiệp.

Ba là, các cơ quan KH & ĐT chủ trì phối hợp cới các cơ quan công an,

thuế, rà soát lại quy trình, thủ tục tại các khâu của quá trình đăng kí thành lập

doanh nghiệp, bao gồm: cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, khắc dấu,

đăng kí mã số thuế và mua hóa đơn. Trên cơ sở đó xây dựng một quy trình,

thủ tục hợp lý, đúng luật để đăng ký thành lập doanh nghiệp theo hướng đơn

giản thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian xử lý công việc.

Bốn là, các cơ quan chuyên ngành rà soát lại các giấy phép con, loại

bỏ những giấp phép không còn hiệu lực thuộc ngành quản lý và triển khai

áp dụng cải cách hành chính theo mô hình “một cửa” trong việc cấp các

loại giấy phép và chứng chỉ hành nghề một cách nhanh chóng cho các

doanh nghiệp.

Năm là, nâng cao năng lực làm việc cho các cán bộ làm việc trực tiếp

với các đơn vị KTTN. Cần có những biện pháp nâng cao trình độ của cán

bộ các cơ quan hành chính để vận dụng luật pháp của các cấp chính quyền,

thể chế hóa các quy định pháp lý và đầu tư sang hình thức các văn bản quy

định có giá trị pháp lý và văn bản hướng dẫn thực hiện, tạo niềm tin cho

các DNTN

89

3.2.1.3. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực

Lao động là một nguồn lực đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất

kinh doanh, vì vậy để khu vực KTTN phát triển thì cần phải có đội ngũ lao

động có trình độ cao. Do vậy công tác đào tạo nghề và đào tạo người lao động

tại chỗ có tay nghề cao đang là yêu cầu cấp bách, qian trọng tạo nguồn nhân

lực đủ mạnh cho khu vực KTTN. Nguồn nhân lực tại chỗ có chất lượng luôn

có ưu thế hơn nguồn nhân lực từ các khu vực khác đối với khu vực KTTN bởi

vì: các doanh nghiệp không phải đối mặt với tình trạng các lao động không

quay lại làm việc sau mỗi đợt nghỉ tết; các doanh nghiệp không phải lo chỗ ở

cho người lao động… Vì vậy, cần phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện

đào tạo nghề tại chỗ cho nguồn nhân lực phục vụ cac DNTN trên địa bàn Bắc

Ninh, trong đó chú trọng một số giải pháp cơ bản sau:

- Xác định cụ thể nguồn lực hiện có của địa phương và nhu cầu sử

dụng nguồn nhân lực theo cơ cấu nghề cụ thể của các doanh nghiệp, các cơ sở

sản xuất trên địa bàn.

- Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện quy hoạch dạy nghề đồng bộ, gắn dạy

nghề với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.

Phát huy tính tích cực, chủ động của các trung tâm, cơ sở dạy nghề trong việc

mở rộng, tăng cường hợp tác, liên kết để có những hợp đồng đào tạo nghề,

cung ứng lao động, tạo quy trình khép kính giữa đào tạo và sử dụng.

- Phát triển nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề, đặc biệt là các

trung tâm dạy nghề thuộc các huyện, thành phố. Cần coi trọng việc sử dụng,

đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên, bảo đảm đáp ứng nhu cầu hiện nay và

những năm tiếp theo. Xây dựng mới và tăng cường cơ sở vật chất cho các

trường dạy nghề, các trung tâm hướng nghiệp, trung tâm kỹ thuật tổng hợp…

- Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ chi các

địa phương. Việc làm này góp phần gắn đào tạo với sử dụng, khắc phục tình

90

trạng mất cân đối trong phân bố sử dụng nhân lực và tình trạng dư thừa giả

tạo lao động qua đào tạo trong tỉnh.

Bên cạnh hoạt động đào tạo nghề thì tỉnh Bắc Ninh cũng cần phải nâng

cao hiệu quả của sàn giao dịch việc làm Bắc Ninh để làm cầu nối giữa người

lao động và các DNTN: cung cấp thông tin về cung - cầu lao động và các

thông tin liên quan đến lao động - việc làm, đào tạo nghề…; tổ chức tiếp nhận

đăng ký tìm việc, đăng ký học nghề, đăng ký tuyển dụng qua hệ thống mạng

máy tính, hoặc trực tiếp giữa ngưới lao động với người sử dụng lao động; tổ

chức tư vấn về tác phong, kỹ năng, nghiệp vụ đối với những lao động đến sàn

lao động để tìm việc làm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển

dụng; đẩy mạnh hoạt động của các điển giao dịch việc làm tại vệ tinh của các

quận, huyện, KCN, KCX ở xa sàn giao dịch chính thức…

3.2.2. Nhóm các giải pháp trực tiếp đối với khu vực kinh tế tư nhân

của tỉnh Bắc Ninh

3.2.2.1. Phát triến dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trên địa bàn Bắc Ninh

Để KTTN phát triển thì bên cạnh sự cải thiện về kết cấu hạ tầng giao

thông năng lượng, viễn thông và hạ tầng thông tin thì các dịch vụ hỗ trợ kinh

doanh cũng có vai trò không kém. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh tham gia vào

mọi công đoạn kinh doanh của doanh nghiệp. Chính các dịch vụ hỗ trợ kinh

doanh đóng vai trò quan trọng giúp cho KTTN tăng được sự chuyên môn hóa

giảm bớt các chi phí. Cung cấp các kỹ năng chuyên môn cần thiết để nâng cao

năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Trong các nền kinh tế đang phát

triển, trung bình có ít nhất một phần ba của giá trị đầu vào mà các doanh

nghiệp mua là những dịch vụ như hạch toán kế toán, luật pháp, bảo hiểm,

nghiên cứu, thiết kế, marketing, vận tải, bưu điện, điện nước… Sự trợ giúp từ

phía Nhà nước và trợ giúp thông qua các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh là đặc biệt

cần thiết đối với DNVVN khu vực KTTN.

91

Xuất phát từ những thách thức mà quá trình hội nhập KTQT mang lại,

tỉnh Bắc Ninh cần nghiên cứu và đưa ra danh mục những dịch vụ cần cung

cấp cho khu vực KTTN: Xây dựng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, bao

gồm chương trình khởi sự kinh doanh, đào tạo quản lý, xúc tiến xuất khẩu, hỗ

trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo và phát triển đội ngũ tư vấn về xây dựng

dự án, kế hoạch kinh doanh. Các cơ quan Nhà nước cần từng bước rút khỏi

chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ, chuyển sang vai trò thúc đẩy, xúc tiến,

giám sát và quản ký chất lượng dịch vụ.

Thực tế cho thấy, mỗi loại giải pháp chỉ phù hợp với một hoặc một số

dịch vụ, do vậy tỉnh Bắc Ninh cần tiến hành nghiên cứu sâu đặc thù của từng

loại dịch vụ, từ đó quyết định áp dụng giải pháp nào cho phù hợp. Quan điểm

xuyên suốt cần quán triệt là: bên cạnh các giải pháp phát triển cho toàn bộ thị

trường dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, Bắc Ninh cần xây dựng các giải pháp cá

biệt cho từng dịch vụ theo sự ưu tiên của tỉnh.

- Trước mắt xây dựng các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp để thực hiện

các dịch vụ tư vấn về quản lý và kinh doanh đáp ứng các nhu cầu của các

DNTN như: 1) tư vấn về hoạch định chiến lược kinh doanh, bồi dưỡng kiên

thức quản lý về tài chính, sản xuất, marketing, nhân sự, WTO, thương mại

quốc tế…; 2) cung cấp thông tin về thị trường, khách hang, hỗ trợ xúc tiến

thương mại; 3) giới thiệu và tư vấn về các nguồn vốn đầu tư để doanh nghiệp

lựa chọn.

- Thông tin cho khách hàng nhằm giải quyết sự thiếu thông tin về dịch

vụ và nhà cung cấp. Giải pháp này nhằm tạo thuận lợi cho các giao dịch thành

công của thị trường giúp cung và cầu về dịch vụ gặp nhau.

- Liên kết cầu về dịch vụ nhằm tạo ra các nhóm doanh nghiệp có nhu

cầu sử dụng dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Tạo ra các nhu cầu đủ lớn để giúp các

doanh nghiệp giảm phí và có thể sử dụng được các dich vụ mà nếu một mình

92

họ sẽ không đủ sức để sử dụng. Thực chất là giúp các doanh nghiệp nhỏ có

thể mua được dịch vụ theo nhóm làm tăng lợi thế quy mô trong giao dịch.

- Phát triển và thương mại hóa sản phẩm nhằm giải quyết việc thiếu

vắng trên thị trường những sản phẩm dịch vụ phù hợp. Mục tiêu là quảng cáo

sản phẩm, hỗ trợ phát triển sản phẩm, nhượng quyền dịch vụ…

3.2.2.2. Tăng cường khả năng tiếp cận đất đai

Để KTTN có thể tiếp cận được đất đai dễ dàng có mặt bằng phục vụ

sản xuất kinh doanh, thì trước hết cần phải có nhiều quỹ đất sạch và các thông

tin lien quan tới đất đai rõ rang, minh bạch.

Để tạo diều kiện thuận lợi cho KTTN tiếp cận đất đai thì tỉnh Bắc Ninh

nên tiếp tục quy hoạch các KCN, Đặc biệt là các CCN phù hợp nhu cầu của

các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Quy hoạch các CCN nhằm mở rộng quy mô sản

xuất của các hộ trong làng nghề, tạo điều kiện cho các hộ có mặt bằng sản

xuất rộng rãi và nhằm làm giảm tình trạng lấn chiếm đất công một cách phổ

biến và khó giải quyết (như tại làng nghề Đồng Kỵ - Bắc Ninh hiện nay) vì ý

thức của người dân và sự yếu kém của chính quyền địa phương nơi đay. Cần

xây dựng các KCN và CCN đưa vào hoạt động đúng như mục đích của quy

hoạch, tránh tình trạng để các doanh nghiệp, các hộ đăng ký thuê đất tại đây

nhưng đã không di dời cơ sở sản xuất Cụm mà thay vào đó là xây dựng cửa

hang giới thiệu sản phẩm hay xây nhà ở, một số hộ còn cho thuê lại với mục

đích kinh doanh. Kết quả là vấn đề mặt bằng không những không được giải

quyết mà còn nảy sinh các vấn đề phức tạp như: ô nhiễm môi trường, tranh

chấp đất đai… Công tác quy hoạch cũng cần tính đến việc giải quyết ô nhiễm

môi trường của Cụm và đầu tư hạ tầng kỹ thuật thỏa đáng.

Với việc xây dựng các KCN và CCN, các nhà đầu tư không phải tìm

kiếm các mảnh đất nhỏ lẻ và trải qua những quy trình tìm kiếm đất phức tạp,

các nhà đầu tư có thể dễ dàng thuê được mặt bằng trong các KCN, CCN và

93

tận dụng được những cơ sở hạ tầng có sẵn với những quy chế tiếp cận thuận

tiện cho chính nhà đầu tư.

3.2.2.3. Tăng cường hỗ trợ đầu tư - tín dụng cho kinh tế tư nhân

KTTN có thể tiếp cận được nguồn vốn đầu tư qua hai kenh cơ bản:

kênh chính thức và kênh phi chính thức. Kênh tài chính chính thức có các nhà

cung cấp vốn vay là các ngân hang thương mại, các quỹ tài chính. Tuy nhiên

việc tiếp cận các nguồn vốn từ ngân hang thương mại của khu vực KTTN Bắc

Ninh bị chi phối bởi các quy định của Luật các tổ chức tín dụng, điều chỉnh

chính sách của Ngân hang Nhà nước và chiến lược kinh doanh của các ngân

hang thương mại trên toàn hệ thống. Do vậy, để khu vực KTTN Bắc Ninh tiếp

cận được với các nguồn vốn, thì giải pháp từ chính quyền địa phương là gai

tăng nguồn vốn cho các quỹ hỗ trợ khu vực KTTN mà cụ thể là tập trung vào

các vấn đề sau:

Thứ nhất, giải quyết nhanh chóng các vấn đề liên quan tới tài sản thế

chấp của khu vực KTTN - như đẩy nhanh tiến độ cung cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp, trang trại… Xóa bỏ các hạn

chế đối với DNTN trong việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất để liên

doanh với nước ngoài.

Thứ hai, thường xuyên tổ chức hội thảo, hội nghị gặp gỡ giữa các đơn

vị thuộc KTTN với các ngân hang thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, để

nắm được các bất cập nảy sinh, từ đó có những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề

vay vốn của khu vực KTTN với ngân hàng thương mại.

Thứ ba, tỉnh Bắc Ninh cần có chương trình quảng bá hình ảnh địa

phương cũng như khu vực KTTN của tỉnh trên phạm vi toàn quốc và thế giới

thông qua các chương trình xúc tiến thương mại của Tỉnh, qua đó kêu gọi các

nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư mạo hiểm tài trợ vốn cho khu vực

KTTN của Tỉnh.

94

Thứ tư, hỗ trợ phát triển dịch vụ cho thuê tài chính. Đây là giải pháp đi

kèm với hỗ trợ công nghệ và vốn cho các DNTN nhỏ và vừa. việc cho thuê tài

chính sẽ trở tahnhf công cụ khá quan trọng trong việc phát triển các DNTN ở

Bắc Ninh. Đặc biệt trong điều kiện các DNTN Bắc Ninh còn yếu về vốn và

công nghệ, việc hình thành dịch vụ cho thuê tài chính sẽ giúp các dpanh

nghiệp này giảm bớt rủi ro khi đầu tư cho công chệ, giảm chi phí đầu tư ban

đầu, tiếp cận được các thông tin hiện đại hơn và rút ngắn thời gian hấp thu

công nghệ.

Tỉnh Bắc Ninh cần có các cơ chế cụ thể cho việc thúc đẩy các doanh

nghiệp cho thuê tài chính: xây dựng đề án đánh giá về nhu cầu và năng lực

của các dịch vụ cho thuê tài chính; thực hiện các hội thảo về cho thuê tài

chính; giới thiệu và kêu gọi các công ty cho thuê tài chính trong nước và quốc

tế đến đặt văn phòng hoặc hoạt động tại địa phương; thiết lập văn phòng hỗ

trợ pháp lý và thông tin cho các DNVVN trong lĩnh vực cho thuê tài chính.

3.2.2.4. Hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ cho khu vực kinh tế

tư nhân

Việc tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ cho khu vực KTTN sẽ

giúp gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm, nâng cao sức

canh tranh của khu vực này, đồng thời cũng nâng cao giá trị hàng hóa. Tuy

nhiên đại đa số các doanh nghiệp trong khu vực KTTN không đủ khả năng

giải quyết các vấn đề về đổi mới công nghệ, cải tiến máy móc, thiết bị; mặt

khác họ lại thiếu thông tin về các vấn đề đó, như: không biết rõ hiện có những

laoij công nghệ, máy móc nào, chất lượng ra sao, mua ở đâu? Để giải quyết

vấn đề này, tỉnh Bắc Ninh cần thực hiện những giải pháp sau:

* Đẩy mạnh các chương trình khuyến công, tư vấn khoa học công nghệ

cho khu vực KTTN

Để giúp các đơn vị sản xuất trong khu vực KTTN giảm bớt khó khăn

trong lĩnh vực khoa học công nghệ, UBND tỉnh Bắc Ninh, sở Công thương

95

cần tăng cường chỉ đạo Trung tâm khuyến công tư vấn cho các doanh nghiệp,

hộ cá thể, tiểu chủ - đặc biệt là trong các làng nghề đổi mới máy móc thiết bị,

công nghệ, ứng dụng kho học, kỹ thuật vào sản xuất.

- Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị và

công nghệ, hiện đại hóa công nghệ theo phương châm kết hợp giữa công nghệ

tiên tiến và công nghệ cổ truyền nâng cao chất lượng sản phẩm

- Các dự án làng nghề có ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật được

sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học và kinh phí khuyến công của tỉnh, huyện

và các nguồn vốn khác. Các đề tài khoa học phục vụ cho chương trình phát

triển nghề và làng nghề được tỉnh ưu tiên xem xét và tạo điều kiện cấp kinh

phí để thực hiện đề tài.

- Đối với các sử dụng công nghệ tiên tiến, được hưởng chính sách ưu

đãi của tỉnh về kinh phí hỗ trợ vốn sự nghiệp khoa học công nghệ. Khuyến

khích sử dụng công nghệ sạch, ngăn ngừa và xử lý nghiêm khắc các trường

hợp gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Tăng cường

giám sát, kiểm tra tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm để ngăn chặn và xử lý

nghiêm khắc hàng giả trên thị trường. Thực hiện chính sách ưu đãi về mặt

bằng, về thuế, về tín dụng đối với cơ sở sản xuất đầu tư đổi mới trang thiệt bị

như chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, nên miễn thuế từ 1 - 2 năm

đầu và có thể điều tiết hỗ trợ 100% trong 2 - 3 năm tiếp theo đối với các cơ sở

đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ mới.

- Đối với các cán bộ khoa học kỹ thuật: Các chi phí cho việc học tập

nâng cao trình độ, tham quan khảo sát máy móc thiết bị ở các khu vực tỉnh

thành khác và nước ngoài được hỗ trợ 50 - 100% chi phí.

* Hình thành các trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ hoặc thí

nghiệm mô hình “ Vườn ươm doanh nghiệp” tại Bắc Ninh

Các DNTN khi mới thành lập đa phần là các DNVVN. Chính vì quy

mô nhỏ đó mà doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn mặc dù

96

nhiều doanh nghiệp có ý tưởng kinh doanh độc đáo, tính khả thi cao. Trừ lợi

thế linh hoạt, thì khi mới thành lập các DNTN vẵn gặp nhiều khó khăn - từ

nhân sự, vốn, mặt bằng kinh doanh. Đó là chưa kể, DNVVN hầu hết khởi

nghiệp ở bước thử nghiệm công nghệ mới mà chưa biết có vượt qua được hay

không. Nhưng khi họ đã thành công thì giá trị gia tăng sẽ không phải là 1 hay

2 lần chi phí mà có khi lên cả trăm lần.

Để giải quyết vấn đề này cần phải hình thành các trung tâm đào tạo

và chuyển giao công nghệ hoặc vườn ươm doanh nghiệp trong một số

ngành then chốt như Chế tạo thiết bị cơ khí, thiết bị điện, nhựa, cao

su…Mô hình này sẽ giúp các DNTN giải quyết được một số vấn đề như:

mặt bằng, văn phòng, hỗ trợ lập kế hoạch kinh doanh, tư vấn đầu tư, hỗ

trọe đào tạo nhân lực, cán bộ quanrv lý và giúp tìm nguồn vôn đầu tư,

chuyển giao công nghệ sản xuất và quản lý, giữa các DN lớn và các

DNVVN, doanh nghiệp FDI và DNTN.

Việc hành thành các trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ hoặc

“vườn ươm doanh nghiệp” cần có sự tham gia của bốn bên:

- Chính quyền tỉnh chịu trách nhiệm về chi phí đầu tư ban đầu, thành

lập trung tâm, “vườn ươm”

- Các trường đại học và viện nghiên cứu hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ.

- Các doanh nghiệp lớn sẽ là người xây dựng chương trình và các hoạt

động chuyển giao công nghệ mà họ cần.

- Các DNVVN sẽ trở thành các đối tượng hấp thụ sự chuyển giao công

nghệ này.

Bắc Ninh là tỉnh có nhiều thuận lợi cho việc xây dựng trung tâm đào

tạo và chuyển giao công nghệ hoặc mô hình vườn ươm doanh nghiệp, vì Bắc

Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có nhiều khu cụm

công nghiệp, đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn

97

xuyên quốc gia sản xuất công nghệ cao. Việc nâng cao năng lực khoa học

công nghệ mới cho các DNTN sẽ giúp cho các doanh nghiệp này tham gia

vào mạng lưới cung cấp linh kiện, bán thành phẩm và dịch vụ của họ cho các

tập đoàn đa quốc gia ngay tại các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Điều này

có tác dụng rất tích cực, để giúp thành lập các cụm công nghiệp.

3.2.2.5. Một số giải pháp khác đối với các hộ sản xuất kinh doanh cá

thể và trang trại

* Đối với kinh tế trang trại

Để trang trại phát triển ổn định, đúng hướng trở thành mục tiêu phấn

đấu của mỗi nông hộ, ngành nông nghiệp và chính quyền tỉnh Bắc Ninh

cần xây dựng quy hoạch phù hợp với từng loại hình trang trại, khuyến

khích và tạo điều kiện thuận lợi để dồn điền đổi thửa mở rộng quy mô sản

xuất cây hằng năm, thủy sản, bố trí quỹ đất phát triển trang trại chăn nuôi

tập trung xa khu dân cư, định hướng cho chủ trang trại phát triển loại cây

trồng, vật nuôi hướng vào thị trường xuất khẩu. Thời giam qua, trang trại

chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản phát triển nhanh, cần có chính sách

hỗ trợ bằng nguồn vốn vay ưu đãi; dự báo kịp thời và hướng dẫn phòng

dịch, bệnh nhằm hạn chế rủi ro trong sản xuất; phát triển các doanh nghiệp

chế biến và tiêu thụ nông sản cho trang trại; cung cấp thông tin thị trường

tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước để trang trại chuyển dịch cơ cấu cây

trồng, vật nuôi phù hợp. Điều quan trọng là nâng cao trình độ chuyên môn

và quản lý cho các chủ trang trại, làm tốt như vậy KTTN Bắc Ninh mới

phát triển bền vững.

Tại Bắc Ninh, các trang trại chăn nuôi có hướng phát triển, vì vậy để

các trang trại chăn nuôi chuyển biến căn bản về chất lượng sản phẩm và hiệu

quả, tỉnh đã chủ trương từng bước chuyển chăn nuôi thủ công sang chăn nuôi

công nghiệp với chuồng trại và trang thiết bị tiên tiến; áp dụng đồng bộ các kỹ

98

thuật mới nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, bảo vệ môi

trường; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô

vừa và lớn gắn với công nghiệp chế biến thực phẩm đáp ứng nhu cầu thị

trường trong nước và xuất khẩu, muốn vậy cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, về thị trường, để nắm bắt và đưa sản phẩm chiếm lĩnh được thị

trường, tỉnh cần tiếp tục tổ chức các đoàn đi khảo sát, tìm hiểu kinh nghiệm

sản xuất, phát hiện và tìm kiếm thị trường tiêu thị sản phẩm cây trồng, vật

nuôi ở trong và ngoài nước. Đồng thời thường xuyên nghiên cứu nắm bắt

thông tin thị trường, tìm kiếm đối tác làm ăn lâu dài, thậm chí phải mua các

thông tin rất chi tiết về sản xuất, các quy định của nước nhập khẩu; quy định

về vệ sinh an toàn thực phẩm, thủ tục kiểm dịch, chế độ thuế các kênh lưu

thông, tiêu thụ…

Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế

tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu thịt lợn, tổ chức các hoạt động xúc

tiến thương mại, các đơn vị tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi thương phẩm, ngoài

mức hỗ trợ của Nhà nước, còn được hỗ trợ theo điều 8 của Quyết định

108/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh.

Hai là, quy hoạch vùng chăn nuôi và chế biến

Quy hoạch vùng chăn nuôi

Để tạo được vùng chăn nuôi hàng hóa tập trung, đảm bảo sự phát triển

liên tục, ốn định trong thời gian dài, tránh lãng phí, nhất thiết phải quy hoạch

vùng sản xuất. Quy hoạch vùng chăn nuôi phải nằm ngoài các khu vực quy

hoạch để phát triển đô thị, KCN, dịch vụ trong 10 - 15 năm tới.

Quy hoạch hệ thống chế biến

Hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có nhà máy giết mổ, chế biến, dự báo

nhu cầu thịt. Để tránh ô nhiễm môi trường và thực hiện tốt công tác vệ sinh

thú y, cần quy hoạch các lò mổ tập trung. Các cơ sở giết mổ, chế biến thịt lợn

phải được trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật đúng theo yêu cầu của quy trình sản

99

xuất, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và phải tuân thủ các quy định

hiện hành về bảo vệ môi trường. Trước mắt xây dựng lò giết, mổ tập trung ở

Tp.Bắc Ninh, sau sẽ nhân rộng ra các địa phương.

Ba là, về cơ chế chính sách. Trên cơ sở định hướng chung vùng chăn

nuôi, UBND các huyện, thị xã rà soát lại các quy hoạch sử dụng đất đai để

dành một số diện tích đất phù hợp, xa khu dân cư cho các tổ chức, cá nhân, hộ

gia đình thuê làm chuồng trại, xây dựng các cơ sở chế biến, giết mổ. Các địa

phương cần căn cứ vào quy hoạch vùng sản xuất, tiến hành vận động nông

dân dồn điền dổi thửa, chuyển đổi ruộng đất hay dung hình thức góp vốn bằng

đất để tạo thành các xí nghiệp hay trang trại chăn nuôi với quy mô lớn. Bên

cạnh đó khuyến khích và tạo điều kiện phát triển chăn nuôi trong các hộ có

quy mô sản xuất khá, khuyến khích các hộ sử dụng đất trong vùng quy hoạch

phát triển chăn nuôi góp vốn bằng đất để tạo thành các xí nghiệp hay trang

trại chăn nuôi với quy mô lớn và các xí nghiệp giết mổ tập trung.

Về hỗ trợ vốn: để các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư chuồng trại và

trang thiết bị hiện đại, tỉnh cần hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng trong 3 năm

cho các nghiệp nghiệp đầu tư xây dựng và hỗ trợ kinh phí mua con giống.

Giải pháp về chuyển giao công nghệ: tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,

cán bộ cho Trung tâm khuyến nông, để trung tâm kết hợp với các trạm

khuyến nông huyện, các hợp tác xã, hiệp hội chăn nuôi đảm đương nhiệm vụ:

xây dựng mô hình, cung cấp cây giống, tập huấn và chuyển giao kỹ thuật tiến

bộ về chăm sóc, vệ sinh thú y cho các hộ nông dân. Hình thành quỹ bảo hiểm

chăn nuôi: để hỗ trợ về giá hoặc dịch bệnh cho người sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm chăn nuôi.

* Đối với các hộ sản xuất kinh doanh cá thể

Một là, tỉnh Bắc Ninh cần cơ chế hỗ trợ đối với các hộ kinh doanh cá thể.

Thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với kinh tế hộ SXKDCT, tháo gỡ

khó khăn cho các hộ sản xuất kinh doanh về những vấn đề liên quan tới đất

100

đai, tài chính - tín dụng, đào tạo, khoa học-công nghệ, thông tin thị trường…

Đẩy mạnh các chính sách dồn điền đổi thửa, phát triển các cụm công nghiệp

làng nghề; khuyến khích các hộ liên doanh, liên kết với nhau, với các doanh

nghiệp, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện phát triển lên quy mô

lớn hơn.

Tăng cường quản lý nhà nước của chính quyền địa phương đối với kinh

tế hộ gia đình để bộ phận kinh tế này hoạt động có nề nếp, theo pháp luật,

không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh. Theo đó, ngoài việc

hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế, chính sách, cần xác định rõ chức năng,

nhiệm vụ và nâng cao chất lượng bộ máy quản lý nhà nước đối với hộ

SXKDCT của chính quyền các cấp. Các cơ quan chức năng một mặt phải

hướng dẫn, giúp đỡ tháo gỡ những khó khăn cho các hộ sản xuất kinh doanh;

mặt khác phải phát hiện, uốn nắn những sai phạm của các bộ, đồng thời xử lý

nghiêm minh những hộ vi phạm pháp luật.

Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ SXKDCT trong việc phát triển thị

trường. Chính quyền địa phương cần hỗ trợ để các hộ SXKDCT có được

thông tin về thị trường trong và ngoài nước, đổi mới công nghệ, giảm chi phí

một cách thấp nhất khi gia nhập thị trường; phát triển nguồn nhân lực có khả

năng quản trị doanh nghiệp và đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề cao,

đáp ứng yêu cầu phát triển.

Hai là, tăng cường hoạt động thông tin tuyên truyền tới các hộ

SXKDCT có khả năng chuyển thành doanh nghiệp.

Tại Bắc Ninh, nhiều hộ SXKDCT có năng lực sản xuất lớn thậm chí

lớn hơn rất nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên nhiều hộ chưa muốn chuyển thành

doanh nghiệp. Vì vậy để giúp các hộ kinh tế SXKDCT thấy được lợi ích và có

động lực tự giác chuyển đổi mô hình kinh doanh, tham gia vào cộng đồng

doanh nghiệp, cần thực hiện một số giải pháp sau:

101

- Tiếp tục tổ chức quán triệt, phổ biến sâu rộng nâng cao hơn nữa nhận

thức trong toàn xã hội về đường lối và chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước đối với phát triển KTTN. Phổ biến, tuyên truyền những ưu thế khi

chuyển từ hộ SXKDCT sang các loại hình doanh nghiệp như: có cơ sở pháp

lý để mở rộng sản xuất kinh doanh, nhất là môi trường kinh doanh thuận lợi,

khung khổ pháp lý rõ rang, minh bạch, ổn định hơn, đặc biệt là chính sách

thuế, dễ dàng tiếp cận với cơ sở hạ tầng như: thuê đất để mở rộng mặt bằng

sản xuất cũng như các nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực trong việc quản trị đối

với cơ sở sản xuất…

- Tháo gỡ vướng mắc trong kê khai tài sản của các hộ SXKDCT, trước

mắt cần phải tháo gỡ vướng mắc trong kê khai tài sản để tính thuế. Khi lập

doanh nghiệp, các hộ SXKDCT phải đưa tài sản của mình vào tài sản doanh

nghiệp nhưng không có hóa đơn chứng từ về nguồn gốc, giá mua đầu vào nên

không xác định được mức khấu hao tài sản cố định.

102

KẾT LUẬN

Trong năm đổi mới kinh tế, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã

khởi động được mọi tiềm năng kinh tế, góp phần thúc đẩy tiến trình CNH,

HĐH ở nước ta. Trong bối cảnh ấy, những năm qua, thành phần kinh tế tư

nhân có sự tăng tiến về số lượng, sự mở rộng về quy mô hoạt động và đã

khẳng định rõ vai trò tích cực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên trong phát triển, kinh tế tư nhân cũng gặp không ít khó khăn về

môi trường cơ chế chính sách, về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật…

Đề tài “Kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” nhằm giải quyết

những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh hiện

nay. Trong nghiên cứu, luận văn đã hoàn thành những mục tiêu đặt ra và có

một số đóng góp sau:

- Luận văn đã hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về

Kinh tế tư nhân. Từ đó, luận án đã làm rõ vai trò của kinh tế tư nhân đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội. Để làm rõ hơn những vấn đề lý luận, nhận thức

về kinh tế tư nhân, luận văn cũng nghiên cứu khả năng thực tiễn về tình hình

phát triển kinh tế tư nhân của một số tỉnh để rút ra một số bài học kinh

nghiệm với sự phát triển kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh trong quá trình đổi mới

kinh tế.

- Luận văn đã khái quát một số vấn đề chủ yếu về điều kiện tự nhiên và

kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh để thấy những thuận lợi, khó khăn đối với sự

phát triển kinh tế tư nhân. Luận văn đã đi sâu phân tích các chính sách và giải

pháp của nhà nước và địa phương đối với kinh tế tư nhân. Đặc biệt từ nghiên

cứu và khảo sát động thái phát trển kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh từ năm 2000

đến nay để làm rõ những thành tựu và những đóng góp của nó đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đồng thời luận văn đã chỉ ra những hạn

chế và những nguyên nhân của hạn chế đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế

103

tư nhân trong thời gian qua. Xuất phát từ thực trạng kinh tế - hội và những

mục tiêu phát triển của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn mới, trong đó có những

yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển kinh tế tư nhân, luận văn đã chỉ ra những

cơ hội và thách thức với nó trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

kinh tế quốc tế hiện nay. Từ thực tế ấy, luận văn đã chỉ ra mục tiêu và những

giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh hiện

nay. Các giải pháp tập trung vào: xây dựng lộ trình phát triển KTTN; đẩy

mạnh cải cách hành chính; tạo điều kiện về vốn, khoa học-công nghệ, thong

tin nhằm hỗ trợ phát triển KTTN, tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với

KTTN, giữa các cơ sở KTTN, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối

với toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, KTTN nói riêng, để các lực

lượng trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và đúng hướng.

Thực tế phát triển kinh tế tư nhân là sự nghiệp lâu dài đòi hỏi sự nỗ lực

của chính khu vực kinh tế tư nhân và sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiều mặt của nhà

nước. Những giải pháp nêu trên là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, để hoàn thiện

hệ thống các chính sách góp phần làm cho kinh tế tư nhân ngày càng phát

triển trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu

vực và thế giới.

104

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Vũ Hùng Cường (2009), Một số vấn đề cơ bản về phát triển khu vực tư

nhân với tư cách là động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh

tế mới giai đoạn 2011-2020, Viện Kinh tế Việt Nam.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban

Chấp hành Trung ương khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.

11. Vũ Văn Gàu (2010), Phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề đảng viên làm

kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

105

12. Đặng Hiển (2006), Kinh tế tư nhân - Một trong những động lực của nền

kinh tế nước ta hiện nay, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.

V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

13. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. C.Mác và Ph.Ănghen (1996), Toàn tập, tập 23 Nxb CTQG, Hà Nội

15. Nguyễn Như Chung (2008), Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc

đẩy phát triển làng nghề ở Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến 2003 -

Thực trạng, kinh nghiệm và gải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường

ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

16. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống kê Bắc Ninh 2005, 2008,

2010, NXB Thống kê, Hà Nội.

17. Mẫn Bá Đạt (2008), Quá trình phát triển DNVVN ngoài quốc doanh ở

tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 - 2003 - Thực trạng, kinh nghiệm

và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, ĐH KTQD Hà Nội.

18. Sở Kế hoạch và Đầu Tư tỉnh Bình Dương (2009), Cải cách hành chính

nhà nước và phát triển kinh tế tỉnh Bình Dương, Hội thảo các tỉnh

phía Nam, chương trình cải cách hành chính cấp tỉnh, hiện trạng và

kiến nghị (TP.HCM 28-29/4/2009)

19. Sở Công nghiệp Bắc Ninh (2005), Báo cáo kết quả hoạt động thực hiện

nghị quyết 02-NQ/TU về phát triển làng nghề, khu, cụm công

nghiệp làng nghề.

20. Tỉnh Ủy Bắc Ninh (2005), Các văn bản chỉ đạo của tỉnh ủy Bắc Ninh từ

2001-2005, Bắc Ninh, tháng 5/2005

21. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc 92009), Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết 14-

NQ/TW (khóa 9) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến

khích và tạo điều kiện phát triển KTTN, Vĩnh Yên

22. Viện Thông tin khoa học xã hội (2003), KTTN trong giai đoạn toàn cầu

hóa hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

106

23. UBND tỉnh Bắc Ninh (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã

hội tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010 và một số định hướng chiến lược

đến năm 2020, Bắc Ninh

24. UBND tỉnh Bắc Ninh (2010), Báo cáo kết quả thực hiện phát triển kinh

tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5

năm 2011 - 2015 (Tài liệu báo cáo HĐND tỉnh khóa XVI kỳ họp thứ

22), Bắc Ninh.

25. Tổng cục Thống kê (2010), Niên giám thống kê (tóm tắt) năm 2010, Nxb

Thống kê, Hà Nội.

26. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê năm 2009, Nxb Thống

kê, Hà Nội.

27. Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư

nhân, lý luận và chính sách, Nxb CTQG, Hà Nội

28. Nguyễn Thanh Tuyền (2002), Thành phần kinh tế Tư bản tư nhân trong

quá trình CNH,HĐH, Nxb CTQG

29. Nguyễn Thanh Tuyền (2006), Sở hữu tư nhân và KTTN trong nền Kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb

CTQG, Hà Nội.

30. Website: Tổng cục Thống kê.

107