ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÙI THỊ NHUNG
KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÙI THỊ NHUNG
KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Khắc Thanh
HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa được
công bố trong bất cứ công trình nào.
Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2012 TÁC GIẢ
Bùi Thị Nhung
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
7
1.1. Lý luận chung về kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội 7
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội 7
1.1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về thành phần kinh
tế tư nhân 10
1.2. Các hình thức tổ chức sản xuất và vai trò của kinh tế tư nhân
ở Việt Nam 16
1.2.1. Các hình thức tổ chức sản xuất của kinh tế tư nhân ở Việt Nam 16
1.2.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa 19
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở một số địa phương 28
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Vĩnh Phúc 28
1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Bình Dương 32
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển kinh tế
tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh 35
Chương 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
BẮC NINH
37
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc
Ninh ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế tư nhân 37
2.2. Chính sách của địa phương về phát triển kinh tế tư nhân 41
2.2.1. Nhóm các chính sách khuyến khích đầu tư cho kinh tế tư nhân 42
2.2.2. Nhóm các chính sách trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế tư nhân 48
2.2.3. Nhóm các chính sách về đất đai 48
2.2.4. Nhóm các chính sách hỗ trợ tín dụng cho thành phần kinh
tế tư nhân 49
2.2.5. Nhóm các chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 50
2.2.6. Các chính sách liên quan đến cải cách hành chính 51
2.2.7. Các chính sách khác 51
2.3. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh 52
2.3.1. Về số lượng và quy mô các doanh nghiệp tư nhân 52
2.3.2. Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trong các ngành ở
Bắc Ninh 58
2.4. Đánh giá chung về tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh
Bắc Ninh 64
2.4.1. Những kết quả đạt được 64
2.4.2. Những hạn chế của kinh tế tư nhân Bắc Ninh 68
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển KTTN ở
Bắc Ninh 73
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH TRONG THỜI GIAN TỚI
80
3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội liên quan đến phát triển kinh tế tư
nhân ở Bắc Ninh 80
3.1.1. Cơ hội, thách thức đối với kinh tế tư nhân tỉnh Bắc Ninh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 80
3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh 83
3.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh
trong thời gian tới 85
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với chính quyền và các cơ quan ban
ngành của tỉnh Bắc Ninh 85
3.2.2. Nhóm các giải pháp trực tiếp đối với khu vực kinh tế tư
nhân của tỉnh Bắc Ninh 91
KẾT LUẬN
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
105
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CN - TTCN : Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
: Chủ nghĩa tư bản CNTB
: Công ty cổ phần CTCP
: Doanh nghiệp DN
: Doanh nghiệp nhà nước DNNN
: Doanh nghiệp tư nhân DNTN
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ĐTNN : Đầu tư nước ngoài
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
KCN, CCN : Khu công nghiệp, cụm công nghiệp
KCX : Khu chế xuất
KH & ĐT : Kế hoạch và đầu tư
KTQT : Kinh tế quốc tế
KTTN : Kinh tế tư nhân
KTTT : Kinh tế trang trại
MMTB : Máy móc thiết bị
NQD : Ngoài quốc doanh
SXKDCT : Sản xuất kinh doanh cá thể
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Trang
Bảng 1.1: Số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất
kinh doanh trên cả nước tính đến 31/12 hàng năm 20
Bảng 1.2: Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước phân theo quy mô
nguồn vốn 21
Bảng 1.3: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo thành phần kinh tế 23
Bảng 1.4: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo khu vực kinh tế 25
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm nội địa tỉnh Bắc Ninh theo giá thực tế 39
Bảng 2.2: Tổng sản phẩm GDP bình quân đầu người 39
Bảng 2.3: Số lượng di tích lịch sử văn hoá tỉnh Bắc Ninh 40
Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới của Bắc Ninh
và toàn quốc 53
Bảng 2.5: Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân 54
Bảng 2.6: Số lao động sử dụng trong các doanh nghiệp phân theo
thành phần kinh tế tại Bắc Ninh 56
Bảng 2.7: Số lượng các DNTN ở Bắc Ninh theo quy mô lao động 56
Bảng 2.8: Số lao động bình quân của doanh nghiệp các thành phần
kinh tế ở Bắc Ninh năm 2000 và 2010 57
Bảng 2.9: Số cơ sở sản xuất kinh tế cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp
tỉnh Bắc Ninh 58
Bảng 2.10: Phân bố số hộ SXKDCT phi nông nghiệp theo huyện thị 59
Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu về hộ SXKDCT phi nông nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010 60
Bảng 2.12: Tăng trưởng số lượng trang trại giai đoạn 2005-2010 61
Bảng 2.13: Cơ cấu trang trại theo loại hình năm 2006 và 2010 63
Bảng 2.14: Vốn đầu tư toàn xã hội theo khu vực tại tỉnh Bắc Ninh 65
Bảng 2.15: Tỷ trọng đóng góp GDP của tỉnh Bắc Ninh theo thành
phần kinh tế 66
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta kinh tế tư nhân đã có một lịch sử phát triển thăng trầm. Trước
đổi mới, do quan niệm sai lầm đồng nhất kinh tế quốc doanh với CNXH, nên
chúng ta đã nóng vội xoá bỏ kinh tế tư nhân. Sai lầm cực đoan đó đã dẫn tới
lãng phí các nguồn lực, làm chậm tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
Kể từ Đại hội VI của Đảng, nhất là từ khi có Nghị quyết 16 NQ/TW của
Bộ Chính trị BCH-TW khoá VI về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh
tế ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân ở nước ta mới được phục hồi phát triển.
Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, trong những năm đổi mới vừa
qua kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh đã có những bước phát triển đáng kể. Khu vực
kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc huy động các nguồn lực giải
quyết việc làm tăng thu nhập và làm năng động nền kinh tế của địa phương, tạo
áp lực cạnh tranh thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế trên địa bàn.
Bên cạnh những thành quả trên cũng như tình trạng chung của cả nước,
khu vực kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh vẫn bộc lộ không ít hạn chế tiêu cực. Tuy
số lượng cơ sở và doanh nghiệp tư nhân tăng lên rất nhanh, nhất là từ khi có
luật doanh nghiệp (năm 2000), nhưng chất lượng hoạt động chưa tương xứng
với sự gia tăng đó. Hầu hết cơ sở doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ, công
nghệ lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, còn mang nặng tính tự phát,
chủ thể sản xuất - kinh doanh chưa yên tâm về lâu dài… Tình trạng này gây tác
động hạn chế không nhỏ đến yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH và quá trình chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế của Tỉnh. Bắc Ninh đang thiếu các giải pháp và
cơ chế để phát huy những yếu tố tích cực của thành phần kinh tế này và hạn
chế những tiêu cực của nó trong quá trình phát triển.
Trước những vấn đề cấp bách nêu trên tôi chọn đề tài “Kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kinh tế tư nhân ở nước ta nói chung và ở các tỉnh nói riêng đã
được quan tâm nghiên cứu, phân tích và đã trở thành chủ trương của Đảng trong
đường lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới.
- Nhóm tác giả cuốn sách: “Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản
tư nhân - Lý luận và chính sách” (2002, NXB CTQG) do PGS, TS Hà Huy
Thành chủ biên đã đi sâu phân tích thực trạng phát triển khu vực KTTN ở nước
ta trong thời kỳ đổi mới (theo ngành nghề và theo vùng lãnh thổ) nêu lên những
kết quả đạt được, những tồn tại, yếu kém, nguyên nhân chủ yếu và khuyến nghị
những chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển khu vực KTTN.
- Trong cuốn: “KTTN và quản lý nhà nước đối với KTTN ở nước ta
hiện nay” (2003, NXB CTQG) do GS,TS Hồ Văn Vĩnh chủ biên, không chỉ
phân tích thực trạng hoạt hoạt động của khu vực KTTN, mà còn phân tích
thực trạng quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN. Trên cơ sở đó, nhóm
tác giả đưa ra khuyến nghị phương hướng và tiếp tục đổi mới quản lý nhà
nước đối với KTTN ở nước ta.
- Cuốn sách: “KTTN Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới thực trạng và
những vấn đề đặt ra” (2005, NXB Khoa học xã hội) của tác giả Đinh Thị Thơm.
Đây là tác phẩm thu thập và hệ thống các bài viết phân tích, đánh giá, kiến giải
và những giải pháp đúc kết trong những công trình, bài viết của 9 nhà nghiên
cứu về những vấn đề lý luận, thực tiễn phát triển và hạn chế cũng như triển vọng
phát triển của khu vực KTTN.
- Trong cuốn: “Phát triển KTTN ở Việt Nam hiện nay” (2006, NXB
CTQG) của tác giả Vũ Quốc Tuấn đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn
trình bày quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đột phá, đấu tranh tư tưởng và tổng kết
sự phát triển của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, trong đó
KTTN là bộ phận quan trọng. Đồng thời phân tích, nhận dạng và dự báo xu
2
hướng phát triển KTTN, đề xuất một số chính sách, giải pháp phát triển KTTN
trong giai đoạn tới.
- Đến nay đã có các công trình được công bố như: Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề cơ bản về phát triển khu vực tư nhân với tư
cách là động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011-
2020” của TS. Vũ Hùng Cường, Viện kinh tế Việt Nam, được thực hiện năm
2009-2010. Nội dung nghiên cứu của đề tài nhấn mạnh vị trí vai trò của khu
vực kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 2001-2010; thực trạng phát triển khu vực KTTN ở Việt Nam giai
đoạn 2001-2010 và quan điểm, định hướng, đề xuất giải pháp phát triển khu
vực KTTN trở thành động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh tế mới
giai đoạn 2011-2020.
- Đề tài “Phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề đảng viên làm kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS
Vũ Văn Gàu, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, được thực hiện năm
2010. Nội dung đề tài phân tích quá trình hình thành và phát triển quan điểm
của Đảng ta về phát triển KTTN và vấn đề đảng viên làm KTTN theo tiến
trình của công cuộc đổi mới đất nước.
- Tài liệu “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam”, được Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010. Cuốn
sách được hình thành trên cơ sở đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước mã
số KX.04.09/06-10 trong chương trình khoa học cấp nhà nước KX.04 “Nghiên
cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2006-2010”. Nội dung cuốn sách nêu
những vấn đề cơ bản về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong đó có vấn đề sở hữu tư nhân; thực trạng vấn đề sở hữu, các
thành phần kinh tế, nhấn mạnh đến thành phần KTTN trong quá trình đổi mới
kinh tế ở Việt Nam; và quan điểm, xu hướng, giải pháp đối với vấn đề sở hữu,
các thành phần kinh tế trong thời gian tới.
3
Riêng đối với tỉnh Bắc Ninh, liên quan đến khu vực KTTN cũng có
một số công trình:
- Luận án tiến sĩ: “Quá trình phát triển DN vừa và nhỏ ngoài quốc
doanh ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997-2003 - Thực trạng, kinh nghiệm và
giải pháp” năm 2008 của tác giả Mẫn Bá Đạt - Đại học KTQD. Tác giả đã
nghiên cứu sự phát triển của các DNVVN ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh
để thấy được thực trạng của khu vực này và những chính sách của nhà nước
và địa phương tác động đến sự phát triển của DNVVN ngoài quốc doanh,
hoạt động của DNVVN ngoài quốc doanh và những đóng góp của nó đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
- Luận án Tiến sĩ: “Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc đẩy phát
triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 đến 2003 - Thực trạng,
kinh nghiệm và giải pháp”, năm 2008 của tác giả Nguyễn Như Chung -
ĐHKTQD. Luận án này làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của các
chính sách đối với sự phát triển các làng nghề trong quá trình CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn và phát triển kinh tế thị trường; đồng thời phân tích
tác động của chính sách (của Nhà nước và địa phương) đến sự phát triển các
làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh, rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các
quan điểm, các giải pháp chủ yếu và các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính
sách thúc đẩy phát triển làng nghề ở tỉnh Bắc Ninh.
Như vậy, nghiên cứu KTTN ở Bắc Ninh đã được một số tác giả chú ý
nhưng chỉ đề cập ở một vài khía cạnh. Việc nghiên cứu KTTN với tư cách là
một khu vực kinh tế năng động với những đóng góp quan trọng trong sự phát
triển kinh tế của Bắc Ninh với những thành tựu đạt được và những khó khăn
gây cản trở sự phát triển của nó để đưa ra các giải pháp phát triển KTTN ở
tỉnh Bắc Ninh trong điều kiện hội nhập KTQT thì chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách thấu đáo.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ vị trí, vai trò của KTTN nói chung và đối với sự phát triển của
Tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng, rút ra những
nhận định tổng quan về tình hình phát triển KTTN, đề xuất phương hướng và
các giải pháp chủ yếu phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho những
năm sau.
3.2. Nhiệm vụ
Hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến KTTN, làm
cơ sở cho việc phân tích thực trạng, đánh giá quá trình phát triển kinh tế tư
nhân tại Bắc Ninh trong thời gian qua.
Đưa ra dự báo để định hướng phát triển KTTN trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh trong thời gian tới. Đề xuất và kiến nghị các giải pháp để phát triển kinh
tế tư nhân trên địa bàn Tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những nội dung chủ yếu liên
quan tới quá trình phát triển KTTN ở Bắc Ninh, bao gồm: quy mô, chất lượng
phát triển của khu vực KTTN; mối tương quan giữa khu vực KTTN với các
khu vực kinh tế khác đặc biệt giữa KTTN với chính quyền địa phương...
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Vấn đề phát triển KTTN rất rộng lớn, trong phạm vi
luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vào quá trình phát triển của các cơ sở và
doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trong các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, xây dựng, dịch vụ thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình
phát triển KTTN ở Bắc Ninh từ năm 2000 trở lại đây, bởi vì đây cũng là thời
5
điểm Luât Doanh nghiệp có hiệu lực và Bắc Ninh cũng mới được tái lập từ
năm 1997 nên số liệu thống kê thời điểm này mới đầy đủ và đồng bộ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước Việt Nam để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể tại tỉnh Bắc Ninh.
Các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị được coi trọng sử dụng
trong luận văn là phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích và tổng hợp, phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp thống kê, phân tích kinh tế…
6. Đóng góp chủ yếu về khoa học của luận văn
Trên cơ sở phân tích đúng tình hình kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh, luận văn làm rõ những thành công, hạn chế trong lĩnh vực này, đề
xuất những giải pháp khả thi cho việc phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn
Tỉnh, phát huy động lực mạnh mẽ của khu vực kinh tế năng động này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
Xuất phát từ thế giới quan duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen
cho rằng, sự biến đổi của các chế độ xã hội là quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên. Đó là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản
xuất và người sử dụng tư liệu sản xuất đó với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng
và thói quen lao động của họ. Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn tác động lẫn nhau. Sự thống nhất và
tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tạo thành
phương thức sản xuất.
Từ phân tích đó, C.Mác đã rút ra các quy luật phát triển của chủ nghĩa
tư bản và kết luận phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ thay thế
phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan. Phương thức
mới sẽ trải qua hai giai đoạn: Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản
Mở đầu giai đoạn chủ nghĩa xã hội là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản có những đặc trưng chủ yếu: một là, kế thừa và phát triển lực lượng sản
xuất mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trên cơ sở nâng cao trình độ xã hội hóa sản
xuất và lao động; hai là, quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại dưới nhiều
hình thức sở hữu; ba là, còn sản xuất hàng hóa; bốn là, lao động vừa là quyền
7
lợi, vừa là nghĩa vụ và còn có sự khác nhau về lao động, do đó kết quả lao
động cũng khác nhau; năm là, thực hiện phân phối theo lao động.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đã vận dụng và phát triển
học thuyết của Mác để xác định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
Nga sau năm 1917. Theo ông, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất; còn quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nên chủ nghĩa xã hội không thể ra đời
trong lòng xã hội tư bản. Hơn nữa, để xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng xã hội mới, cần phải có thời gian, nghĩa là
tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ sự phân tích như vậy, Lê nin cho rằng cách mạng vô sản giành được
chính quyền mới chỉ là sự khởi đầu cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ quá độ như vậy, nền kinh tế có tính chất quá độ: nó không còn
là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa.
Phân tích thực trạng nền kinh tế của nước Nga lúc đó, ông cho rằng ở
nước Nga có 5 thành phần kinh tế: Một là, kinh tế nông dân gia trưởng;
Hai là, kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, tiểu thủ công cá thể và
tiểu thương; Ba là, kinh tế tư bản tư nhân; Bốn là, kinh tế tư bản nhà nước;
Năm là, kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, không bao lâu sau cách mạng tháng Mười năm 1917, nước
Nga lâm vào nội chiến 1918-1920. Trong thời kỳ này, Lênin đã áp dụng chính
sách Cộng sản Thời chiến. Đó là chính sách trưng thu lương thực thừa của
nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu, đồng thời xóa bỏ quan hệ
hàng hóa - tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy
nhà nước. Chính sách cộng sản thời chiến đã chiến thắng được kẻ thù, bảo vệ
nhà nước Xô Viết non trẻ.
8
Nhưng khi hòa bình lập lại, chính sách này lại không còn thích hợp, nó
kìm hãm sự phát triển sản xuất.
Trong bối cảnh đó, chính sách Kinh tế mới ra đời (NEP). Nội dung và
biện pháp chủ yếu của NEP là thay thế chính sách trưng thu lương thực, theo
chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực cho nhà nước, số
lương thực còn lại, người nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị
trường; tổ chức thị trường, thương nghiệp, thiết lập quan hệ hàng hóa - tiền tệ
giữa nhà nước và nông dân, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và
nông nghiệp; sử dụng sức mạnh của nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến
khích phát triển sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân, thợ thủ công; khuyến
khích kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, củng cố lại
các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế và quan hệ
hợp tác kinh tế với các nước tư bản phương Tây.
Nội dung và giải pháp của NEP đã đánh dấu một bước phát triển mới
về lý luận kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo NEP, kinh tế nhiều thành phần, các
hình thức kinh tế quá độ, việc duy trì và phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ,
sự quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân, là những
vấn đề có tính chất nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế xã hội
chủ nghĩa.
Chính sách kinh tế mới có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với các nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta. Những
quan điểm kinh tế của Đảng ta, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI đến nay, đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng quan điểm trong
chính sách kinh tế mới của Lênin. Tất nhiên do thời gian và không gian xa
cách nhau, trải qua những biến động khác nhau, nên nhận thức và vận dụng
có thể có sự khác nhau, kể cả bước đi, nội dung và biện pháp cụ thể trong
khi tiến hành ở nước ta.
9
1.1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về thành phần kinh tế
tư nhân
* Trước năm 1986
Cuối những năm 1970, trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội của
đất nước, hội nghị lần thứ 6 của BCH Trung ương Khóa IV (tháng 9/1979) chủ
trương “làm cho sản xuất bung ra” và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế,
Hội nghị khẳng định sự cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp thị
trường có kế hoạch với thị trường tự do...Tiếp đến Ban Bí thư ra chỉ thị 100 về
khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp,
Chính phủ ra Nghị định 25/CP, 26/CP xác định việc sử dụng các quan hệ thị
trường,...Chính trên cơ sở những quyết sách đúng đắn đó, mà nhiều địa phương
đã có những tìm tòi sáng tạo về phát triển kinh tế hộ tiểu chủ công nghiệp, sửa
đổi giá, lương, tiền. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
(1982) khẳng định chủ trương đó và thừa nhận ở miền nam vẫn còn năm thành
phần kinh tế. Tuy vậy đến năm 1986, KTTN vẫn được coi là tồn tại tạm thời và
giữ vai trò thứ yếu, bổ trợ cho kinh tế quốc doanh.
* Từ năm 1986 đến nay.
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam (12/1986) - thời điểm được đánh dấu là cột mốc quan trọng trong công
cuộc đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới kinh tế. Thông qua các chính sách
kinh tế mới của Đảng và nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân được hồi sinh và
phát triển trong một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Các Đại hội của Đảng sau đó đã
khẳng định lại đường lối khởi xướng tại Đại hội VI và đưa ra các định hướng
lớn trong chính sách phát triển kinh tế Việt Nam.
Theo đó sự phát triển kinh tế tư nhân được khẳng định như sau: Kinh tế
cá thể tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà
nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển; khuyến khích các hình thức tổ
10
chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn
hơn. Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những
ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát
triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài.
Đảng ta đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân trong các ngành
nghề lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng mà pháp luật không cấm, đã có
tác dụng khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa việc phát triển kinh tế tư nhân, tạo
điều kiện cho kinh tế tư nhân được phát huy đầy đủ tiềm năng thế mạnh, tạo
sức bật lớn cho nền kinh tế. Đây được coi là bước đột phá mới về nhận thức
phát triển kinh tế tư nhân.
Đường lối đổi mới cơ bản đó của Đảng đã được thể chế hóa trong các
văn bản pháp lý. Trước hết là Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có 15 điều quy định về chế độ kinh tế, theo đó nền kinh
tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến
pháp năm 1992 còn quy định kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, được thành lập không bị hạn chế về
quy mô, hoạt động trong nhiều ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.
Tháng 1/1991, chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký sắc lệnh ban hành
luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty, tiếp theo là các nghị định của hội
đồng bộ trưởng ban hành cụ thể hóa các điều luật của luật doanh nghiệp tư
nhân và luật công ty cho phép công dân Việt Nam đủ 18 tuổi có quyền thành
lập doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty. Ngoài ra đối với các cá nhân, nhóm
kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định theo quy định đối với các doanh
nghiệp, công ty tư nhân thì được thành lập hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu
chủ hoặc nhóm hộ kinh doanh được đăng ký theo nghị định số 66/HĐBT ban
hành tháng 2 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
11
Trở lại giai đoạn lịch sử về phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta để thấy
rằng quan điểm của Đảng ta đối với thành phần kinh tế này đã dần có sự thay
đổi theo chiều hướng tích cực, nghĩa là, có tư duy đúng, có quan điểm đổi mới
đối với thành phần kinh tế tư nhân, tạo nhiều thuận lợi để khuyến khích thành
phần kinh tế này phát triển đúng định hướng.
Mặt mạnh của khu vực kinh tế tư nhân là có động lực cá nhân mạnh
mẽ, nó sẽ giúp hoạt động kinh doanh diễn ra năng động, nhanh chóng đổi
mới, hệ thống điều hành và quan lý gọn nhẹ, có hiệu quả và chi phí thấp. Lợi
ích cá nhân là một động lực mạnh mẽ của con người, tồn tại lâu dài. Việc sử
dụng động lực đó phục vụ cho lợi ích chung của xã hội là rất cần thiết trong
giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Do vậy, trong nội dung này, có 02 vấn đề cần thiết phải làm rõ:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân và vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.
Xuất phát từ quan niệm cho rằng kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột,
quy mô kinh tế nhỏ thì bóc lột ít, quy mô kinh tế lớn thì bóc lột nhiều nên
một thời kinh tế tư nhân không được khuyến khích phát triển, là đối tượng
cải tạo xã hội chủ nghĩa để từng bước thu hẹp và xóa bỏ khu vực kinh tế
này. Cùng với quá trình đổi mới các chính sách đối với kinh tế tư nhân đã
thay đổi khá căn bản: Kinh tế hộ gia đình và kinh tế cá thể được khuyến
khích phát triển; kinh tế tư bản tư nhân mặc dù đã tuyên bố được phát triển
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, song trong nhận thức lý luận
của các cấp hoạch định chính sách trên thực tế còn nhiều quan điểm chưa
nhất quán.
Ít nhất có 4 quan điểm khác nhau về vị trí của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế và thái độ ứng xử với kinh tế tư nhân như sau: Một là, coi
kinh tế tư nhân gắn liền với bóc lột, vì vậy phải cải tạo, thu hẹp và từng
bước xóa bỏ. Đây là quan điểm đã từng chiếm địa vị thống trị trong nhiều
năm trước đây. Hai là, coi kinh tế cá thể và tiểu chủ là không có bóc lột
12
nên có thể khuyến khích phát triển, còn kinh tế tư bản tư nhân là có bóc
lột nên có thể tạm thời chấp nhận trong một giai đoạn nào đó, song về lâu
dài phải giới hạn sự phát triển. Ba là, coi kinh tế tư nhân là bộ phận cần
thiết có vai trò và vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế và có mối liên kết
bổ sung hài hòa với kinh tế nhà nước trong quá trình phát triển lâu dài của
nền kinh tế. Bốn là, coi kinh tế tư nhân là bộ phận chính, là động lực chủ
yếu của nền kinh tế quốc dân, quyết định rất lớn đến hiệu quả cũng như sự
phát triển chung của nền kinh tế, trong khi đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò hỗ trợ, chỉ làm những gì mà kinh tế tư nhân không muốn làm hoặc làm
không hiệu quả.
Điểm mấu chốt quyết định thái độ ứng xử với khu vực kinh tế tư nhân,
đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân là quan điểm về bóc lột và bản chất của hiện
tượng này trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội và cách thức của nhà
nước xã hội chủ nghĩa xử lý hiện tượng bóc lột này.
Bản chất của tình trạng bóc lột trong phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác phân tích trên cơ sở vận dụng
tư tưởng cơ bản về học thuyết giá trị thặng dư. Sự bóc lột diễn ra khi giá trị
của lao động mới sáng tạo ra vượt quá giá cả sức lao động và người chủ thuê
mướn lao động chiếm đoạt phần thặng dư đó làm sở hữu của mình.
Với sự lý giải này về sự bóc lột thì không phải cứ có thuê mướn lao
động là có bóc lột và cũng không phải cứ thuê nhiều nhân công là có mức bóc
lột cao. Bởi vì với một năng suất lao động trong một nền kinh tế kém phát
triển thì phần giá trị thặng dư mà người lao động mới sáng tạo ra rất thấp và
do đó phần giá trị thặng dư mà người chủ thuê mướn lao động thu được cũng
rất thấp mặc dù số người làm công có thể rất đông.
Đó là chưa kể đến các yếu tố khách quan khác ảnh hưởng đến sự lỗ, lãi
trong kinh doanh như ảnh hưởng của yếu tố tự nhiên (đối với sản xuất
nông, ngư nghiệp), của cung cầu và giá cả trong từng thời điểm cụ thể, của
13
tài năng trong quản lý,... Do vậy, vấn đề là ở chỗ phải xem người chủ thuê
mướn lao động có chiếm đoạt được giá trị thặng dư hay không và chiếm
đoạt được nhiều hay ít. Về vấn đề này, Các Mác đã lý giải rất kỹ cách thức
phân phối và phân phối lại giá trị thặng dư sau khi nó được sản xuất ra và
cho thấy, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có rất nhiều nhân vật tham gia việc
phân chia giá trị thặng dư, đó là nhà tư bản ngân hàng và những người cho
vay vốn hưởng lãi suất, là chủ đất hưởng địa tô chênh lệch II, nhà nước
hưởng phần thu thuế.
Trong khi phải chấp nhận sự tồn tại của các hình thức kinh tế khác
nhau đại diện cho những phương thức sản xuất khác nhau và vì vậy có những
quan hệ sản xuất khác nhau, trong đó có quan hệ thuê mướn lao động và
chiếm đoạt giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì
nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là điều tiết quá trình phân phối và
phân phối lại sao cho mức độ chiếm đoạt giá trị thăng dư của những người
thuê mướn lao động sống có thể chấp nhận được, không gây nên những mâu
thuẫn xã hội gay gắt và cản trở quá trình phát triển kinh tế, thực hiện từng
bước sự công bằng xã hội.
Thứ hai, kinh tế tư nhân và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, các chính sách và biện pháp kinh tế
- xã hội của Đảng và nhà nước phải nhằm tạo lập môi trường kinh tế mới,
thích hợp trong đó mọi cá nhân có thể phát huy tài năng của mình làm giàu
cho bản thân và cho đất nước.
Việc chấp nhận quan hệ trao đổi hàng hóa sức lao động và chấp nhận
sự phân phối chưa công bằng là phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị
trường - dù điều này xét về mặt luân lý và đạo đức là điều mà chúng ta không
mong muốn. Tuy nhiên nhà nước xã hội chủ nghĩa với quyền điều hành nền
14
kinh tế của mình có thể có những chính sách làm hạn chế mức độ chênh lệch
về thu nhập và về bóc lột sức lao động.
Trong quan hệ mua bán sức lao động, nhà nước ta thông qua Bộ luật
Lao động vàcác quy chế khác có thể bắt buộc những người thuê mướn lao
động đảm bảo những quyền lợi cơ bản cho người lao động như tiền lương, giờ
làm việc, điều kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động, v.v.. Tương tự như
vậy, trong quan hệ phân phối và phân phối lại thu nhập, nhà nước hoàn toàn
có thể thông qua việc xác định thể chế thuê mướn lao động, hợp đồng lao
động, trả công lao động, chính sách thuế để điều tiết và phân phối lại thu
nhập, hoặc thông qua chính sách đầu tư, chính sách xã hội, phát triển phúc lợi
xã hội công cộng,... để trả lại một phần giá trị thặng dư cho người lao động đã
tạo ra nó.
Như thế, có thể nói, khi nhà nước ta điều hành đất nước, trong đó có
điều hành nền kinh tế ở mức phù hợp, thì “Nhà tư bản” và “Người lao động
làm thuê” không phải là nhà tư bản và người làm thuê thuần túy như trong xã
hội tư bản chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa chủ và người làm thuê đã được nhà
nước quy định và giám sát. Đó là chưa kể vai trò kiểm tra giám sát của các tổ
chức như Đảng, Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn,... đối với các hoạt động của
giới chủ và người lao động.
Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy giữa các doanh
nghiệp, cơ sở thuộc thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các doanh nghiệp, cơ sở trong nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có sự khác biệt căn bản. Vì thế sẽ là
không thỏa đáng nếu cứ xem thành phần kinh tế tư nhân hàng ngày, hàng
giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và do đó là đối tượng cải tạo của chủ nghĩa xã
hội. Ngược lại, các hình thức kinh tế tư bản tư nhân sẽ có đóng góp quan
trọng, lâu dài vào sự nghiệp phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
15
Từ những vấn đề lý luận chung về các thành phần kinh tế, có thể hiểu:
Kinh tế tư nhân được dùng để chỉ thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản
tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình
doanh nghiệp khác.
Xét về mặt quan hệ sở hữu, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân đều thuộc loại hình sở hữu tư nhân, khác với sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể. Nhưng nếu xét về phương diện thành phần kinh tế thì kinh tế cá thể, tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân có thời kỳ chúng ta quan niệm là hai thành phần
kinh tế khác nhau, khác về trình độ phát triển lực lượng sản xuất và về bản
chất quan hệ sản xuất. Mặc dù vậy, do điều kiện của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam, tại Đại hội X, Đảng ta đã ghép hai bộ phận này thành một
thành phần là thành phần kinh tế tư nhân.
Hiện nay, kinh tế tư nhân ở nước ta được khuyến khích phát triển dưới
sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật của Nhà nước nên đã có thể kinh doanh
trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, ngoại trừ một số ít lĩnh vực mà
Nhà nước giữ độc quyền nhằm đảm bảo an ninh và quốc phòng.
1.2. CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ
TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
1.2.1. Các hình thức tổ chức sản xuất của kinh tế tư nhân ở Việt Nam
Ở nước ta, khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN với
kinh tế nhiều thành phần, kinh tế tư nhân được phát triển theo hướng tự do
kinh doanh những ngành, nghề công việc mà luật pháp không cấm. Kinh tế tư
nhân được hình thành trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, sở hữu tư
nhân gồm sở hữu tư nhân nhỏ (sở hữu của những người lao động làm ra sản
phẩm bằng chính lao động của họ và các thành viên trong gia đình như hộ
nông dân cá thể…) và sở hữu tư nhân lớn - sở hữu vốn, tài sản của các nhà
sản xuất kinh doanh trong nước và nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
16
Kinh tế tư nhân bao gồm các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh sau:
- Loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ: là hình thức kinh tế của một hộ gia
đình hay một cá nhân hoạt động dựa trên hình thức sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất và hoạt động chủ yếu vào sức lao động của chính họ. Hình thức
kinh doanh này chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình, việc sử dụng lao
động làm thuê không thường xuyên. Hộ kinh doanh cá thể là đơn vị kinh tế
độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản
xuất và tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính của mình.
Loại hình kinh tế cá thể gồm có: Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ
chức sản xuất chủ yếu trong loại hình kinh tế cá thể và trong khu vực sản xuất
nông, lâm nghiệp, đây là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế tư nhân.
Kinh tế tiểu chủ cũng là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư
liệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu
dựa vào sức lao động và vốn của bản thân và gia đình (đó là những hộ làm
kinh tế trang trại, kinh tế trang trại chính là một hình thức của kinh tế tiểu chủ
trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp).
Mục tiêu kinh doanh chủ yếu của kinh tế cá thể, tiểu chủ xuất phát từ
nhu cầu giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho các thành viên trong gia đình,
họ hàng, vì vậy mục tiêu lợi nhuận chỉ là thứ yếu. Thực tế cho thấy, nhiều hộ
kinh doanh vẫn hoạt động kể cả trong những trường hợp sau khi hạch toán
kinh doanh không có lãi hoặc lãi ít để đảm bảo việc làm cho các thành viên
trong gia đình. Khi mới chuyển sang cơ chế thị trường, hệ thống kinh doanh
của các hộ cá thể phát triển một cách nhanh chóng, len lỏi vào mọi ngõ ngách,
phục vụ mọi nhu cầu đời sống của người dân, đặc biệt đối với các tầng lớp
dân cư có thu nhập thấp.
Tuy nhiên, tính tự phát trong kinh doanh có thể tác động xấu tới thị
trường, đồng thời, những hạn chế về quy mô, vốn, chất lượng nguồn nhân lực,
phương thức tổ chức kinh doanh, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận thị
17
trường sẽ gây cản trở cho sự phát triển của hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ, đặc
biệt trong tiến trình hội nhập sâu về kinh tế quốc tế. Vì vậy, sự phát triển của
các hộ cá thể tiểu chủ, rất cần tới sự giúp đỡ và định hướng của Nhà nước.
- Các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân: dựa trên sở hữu tư nhân lớn
về vốn và các điều kiện kinh doanh. Hình thức kinh doanh là doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh với
quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ, thích hợp với khả năng tài chính, năng
lực quản lý của doanh nghiệp tư nhân, đồng thời cũng có thể thành lập những
tập đoàn kinh tế lớn hoạt động xuyên quốc gia.
Các loại hình kinh tế tư bản tư nhân được thành lập theo Luật Doanh
nghiệp, Luật Công ty tập trung vào các hoạt động dễ sinh lợi và thường tập
trung kinh doanh trên các địa bàn, các trung tâm kinh tế lớn, nơi tập trung khu
công nghiệp, đầu mối giao thông và khu đông dân cư nên có tác động tích cực
đến sự phát triển của các vùng kinh tế trọng điểm. Loại hình doanh nghiệp
này thích ứng với mọi ngành nghề, mọi trình độ từ thủ công đến tự động hóa,
tin học hóa, với quy mô từ nhỏ đến lớn, phù hợp với mọi địa bàn từ thành thị
đến nông thôn; hình thức sản xuất và phương pháp huy động vốn rất đa dạng,
cho phép huy động nguồn lực nội sinh; tổ chức bộ máy gọn nhẹ, có tính năng
động, nhạy bén; hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, thu hồi vốn nhanh, có khả
năng đổi mới công nghệ cao; họ có mối quan hệ kinh tế trong và ngoài nước,
vì thế rất năng động.
Tuy nhiên, lợi ích tư nhân có thể đi ngược lại lợi ích xã hội. Ý thức
chấp hành luật kém, tự phát, quá coi trọng lợi ích cá nhân dẫn đến những việc
làm phi pháp như trốn lậu thuế, làm hàng giả, hàng cấm, chụp giật; không
thích công khai thông tin các hoạt động của mình; khó tìm kiếm sự hợp tác
trong mọi hoạt động, từ chối những lĩnh vực kinh doanh không đẹm lại lợi
nhuận cao như trong lĩnh vực công ích; gây ô nhiễm môi trường; tạo nên sự
phân hóa thu nhập trong xã hội, khoảng cách giàu nghèo tăng lên.
18
Sự đa đạng về số lượng, quy mô, phạm vi hoạt động của các doanh
nghiệp tư nhân cũng làm nảy sinh những khó khăn, phức tạp trong việc giám
sát, quản lý hoạt động của họ. Sự phá sản của một số doanh nghiệp tư nhân có
thể kéo theo những hậu quả tiêu cực đối với bộ phận người lao động. Hạn chế
về vốn và khả năng tích lũy đang cản trở đổi mới công nghệ, làm giảm đáng
kể sức cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân nước ta, đặc biệt trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, do đó sự phát triển của
các loại hình doanh nghiệp này rất cần sự quan tâm của Nhà nước.
1.2.2. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.2.1. Khơi dậy và phát huy tiềm năng của một bộ phận lớn dân cư
tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Kinh tế tư nhân phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, cơ
cấu về ngành nghề, sản phẩm và quy mô vốn đầu tư của kinh tế tư nhân
cũng có nhiều thay đổi. Một số doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển
thành tập đoàn kinh tế, tạo dựng được thương hiệu cả trong nước và quốc
tế, vị trí và vai trò ngày càng tăng, góp phần quan trọng vào việc phát triển
kinh tế - xã hội.
Cụ thể năm 2008, qua kết quả điều tra thực trạng doanh nghiệp các năm
2006, 2007,2008 của Tổng cục Thống Kê đã cho thấy tính đến thời điểm
31/12/2008, số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động là 205.732 doanh
nghiệp, tăng 32,1% so với cùng kỳ năm 2007 (tăng 49.961 doanh nghiệp), là
mức tăng cao nhất trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2008, gấp 4,9 lần số
lượng doanh nghiệp năm 2000, tốc độ tăng bình quân hàng năm 2000-2008 là
21,9%. Tỷ trọng thu ngân sách từ khu vực KTTN tăng từ 6% (năm 2002) lên
trên 11% (năm 2008).
19
Bảng 1.1: Số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất
kinh doanh trên cả nước tính đến 31/12 hàng năm
Đơn vị tính: doanh nghiệp
2000
2005
2006
2007
2008
2009
5.759
4.086
3.706
3.494
3.286
3.369
35.004 105.167 123.392 147.316 196.776 238.932
1.525
3697
4.220
4.961
5.626
6.546
Số lượng doanh nghiệp chia theo khu vực và thành phần kinh tế Khu vực doanh nghiệp nhà nước Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
42.288 112.950 131.318 155.771 205.688 248.847
Tổng số
Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt năm 2010, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2010
Nhìn vào bảng trên cho thấy, khu vực Nhà nước tiếp tục giảm số lượng
do chủ trương cổ phần hóa của chính phủ từ nhiều năm nay. Các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài có sự tăng trưởng ổn định. Tăng trưởng mạnh mẽ
và nổi bật nhất, liên tục nhiều năm qua về số lượng doanh nghiệp là khu
vực ngoài nhà nước.
Xét về cơ cấu ngành thì tốc độ tăng trưởng cao ở các ngành: xây
dựng, hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động liên quan đến kinh doanh
tài sản và dịch vụ tư vấn, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, hoạt
động làm thuê công việc gia đình trong hộ tư nhân.
Xét về quy mô số lượng doanh nghiệp, tăng trưởng mạnh mẽ nhất là
các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, các doanh nghiệp có dưới 50 lao động
năm 2008 đạt gần 185 nghìn doanh nghiệp, tăng 32,5% so với cùng kỳ năm
trước. Đây cũng sẽ là khu vực có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ và sôi
động nhất trong những năm tới.
20
Xét về quy mô nguồn vốn thì tăng trưởng nhanh nhất là các doanh
nghiệp thuộc loại hình công ty cổ phần không có vốn nhà nước có quy mô
vốn từ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ với tốc độ 69,6% so với cùng kỳ năm trước và
các doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đến dưới 50 tỷ đồng với tốc độ 78,7%.
Theo số liệu từ Niên giám thống kê 2009 của Tổng cục Thống kê về vốn
đầu tư phân theo thành phần kinh tế thì khu vực kinh tế tư nhân luôn tăng
theo hàng năm, cụ thể năm 2005 là 130.390 tỷ đồng, năm 2006 là 154.006
tỷ đồng, năm 2007 là 204.705 tỷ đồng, năm 2008 là 217.034 tỷ đồng, năm
2009 là 240.109 tỷ đồng [25].
Bảng 1.2: Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước phân theo
quy mô nguồn vốn
Đơn vị tính: doanh nghiệp
Dưới 0,5 tỷ đồng
Từ 500 tỷ trở lên
Tổng số doanh nghiệp
Từ 5 tỷ đến dưới 10 tỷ
Từ 10 tỷ đến dưới 50 tỷ
Từ 50 tỷ đến dưới 200 tỷ
Từ 0,5 đến dưới 1 tỷ đồng
Từ 1 tỷ đồng đến dưới 5 tỷ
Từ 200 tỷ đến dưới 500 tỷ
8.368 7.308 1.388
214
80
2005 105.167 26.556 20.317 40.936
299
119
2006 123.392 15.773 21.693 63.226 11.630 8.804 1.848
566
294
2007 147.316 18.489 23.495 71.404 16.386 13.536 3.146
866
422
2008 196.776 21.803 27.097 94.935 25.257 21.811 4.585
Nguồn: Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu của thế kỷ 21, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2010.
Riêng đối với TPHCM, đầu tàu kinh tế của cả nước, hiện có trên
128.000 doanh nghiệp tư nhân, chiếm tới 80% số lượng doanh nghiệp trên địa
bàn, về vốn chiếm khoảng 53%. Kinh tế tư nhân được Đại hội Đảng bộ thành
phố lần thứ X (2010) khẳng định là lực lượng là có vai trò hết sức quan trọng
trong phát triển kinh tế TPHCM những năm qua.
21
1.2.2.2. Giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động
Nhu cầu hàng năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là một
áp lực lớn đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương, bởi lẽ:
không có việc làm sẽ dẫn tới tình trạng “thất nghiệp”, một trong những
nguyên nhân cơ bản gây suy thoái kinh tế và làm nảy sinh những hiện tượng
tiêu cực trong xã hội như: trộm cắp, ma túy, buôn lậu, nghèo đói... Do đó, giải
quyết việc làm, nâng cao thu nhập của các tầng lớp dân cư không chỉ là những
vấn đề kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc.
Xét ở góc độ giải quyết việc làm thì kinh tế tư nhân là khu vực thu hút
lao động có tỷ lệ cao nhất. Theo số liệu từ niên giám thống kê 2011 của Tổng
cục Thống kê về tình hình lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc cho thấy:
số lao động đang làm việc tại thời điểm 01/07/2010 trong khu vực kinh tế
ngoài nhà nước (tập trung chủ yếu ở kinh tế tư nhân) là 42,3 triệu người,
chiếm 86,1% số lao động có việc làm thường xuyên trong cả nước; trong đó
hơn 40,96 triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân.
Trong cả giai đoạn 2005-2010, cứ trung bình hàng năm, khu vực
kinh tế tư nhân cũng tạo ra bình quân 800.000 lao động/năm, chiếm khoảng
50,2% số lao động tăng thêm của cả nước. Chính sự đóng góp này của khu
vực kinh tế tư nhân đã góp phần “giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu
lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm
còn 9,5%” [11]. Như vậy, có thể nói, trong điều kiện lực lượng lao động ở
nước ta ngày càng tăng, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, trong khi khu vực kinh tế
nhà nước, kinh tế tập thể rất hạn chế khả năng thu hút lao động thì kinh tế
tư nhân ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và góp phần xóa đói
giảm nghèo.
22
1.2.2.3. Đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của cả nước và
tăng ngân sách nhà nước
Tính cả giai đoạn 2005-2010, theo đánh giá của Bộ kế hoạch và đầu tư
về tình hình triển khai kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, GDP của
khu vực kinh tế tư nhân (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa) từ
chiếm 45,6% tổng GDP năm 2005 đã tăng lên khoảng 48% trong năm 2010.
Tốc độ tăng trưởng bình quân khu vực này đạt trên 10%, cao hơn mức 8% của
cả nền kinh tế giai đoạn 2005-2010 [33].
Bảng 1.3: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo thành phần kinh tế
Đơn vị: tỷ đồng
THÀNH PHẦN KINH TẾ
Năm 2006
Năm 2008
Năm 2007
Năm 2009
Năm 2010
Tổng số
Năm 2005 393.031 425.373 461.344 490.458 516.568 551.609
Kinh tế nhà nước
159.836 169.696 179.718 187.561 195.046 204.057
Kinh tế ngoài nhà nước
185.744 201.427 220.301 236.759 252.205 272.606
Kinh tế tập thể
28.240 29.230 30.201 31.110 31.997 32.950
Kinh tế tư nhân
38.165 43.832 50.727 56.293 61.601 68.348
Kinh tế cá thể
119.339 128.365 139.373 149.356 158.607 171.308
KT có vốn đầu tư nước ngoài 47.451 54.250 61.325 66.138 69.317 74.946
Nguồn: Trang web của Tổng cục Thống kê.
Bảng trên cho thấy, đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP của nền
kinh tế có xu hướng ngày càng tăng qua từng năm, chiếm tỷ trọng khá cao so
với các thành phần kinh tế khác, chỉ xếp sau kinh tế nhà nước. Như vậy, trong
thời gian vừa qua, kinh tế tư nhân đã góp phần cùng các thành phần kinh tế
khác thúc đẩy nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục
Không chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, kinh tế tư nhân còn góp phần làm tăng ngân sách nhà nước.
23
Theo Phụ lục số 3 /CKTC-NSNN được ban hành kèm theo Quyết định số
1674/QĐ-BTC ngày 14/07/2010 của Bộ Tài chính về việc công bố công khai
số liệu quyết toán ngân sách nhà nước năm 2008: số thu từ khu vực công
thương nghiệp, dịch vụ ngoài nhà nước đạt khoảng 43.527 tỷ đồng, chiếm
18,13% số thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) và chiếm khoảng 7,9% tổng
thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2008 [34, tr.10].
Những số liệu minh họa trên cho thấy, nguồn thu ngân sách Nhà
nước có sự đóng góp đáng kể của khu vực kinh tế tư nhân để từ đó có
nguồn vốn cho đầu tư, phát triển và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội đất nước phục vụ nhân dân. Do vậy việc cần phải làm trong giai đoạn
hiện nay là cần phải tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn nữa, tốt hơn nữa về
chính sách, pháp lý… để kinh tế tư nhân phát triển trên những định hướng
ưu tiên của Nhà nước.
1.2.2.4. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Theo Niên giám thống kê 2011 của Tổng cục Thống kê: Việt Nam có
70,4% dân số sống ở khu vực nông thôn và 73,56% lao động từ 15 tuổi trở lên
đang làm việc ở khu vực nông thôn trong tổng số lực lượng lao động. Do đó,
có thể nói Việt Nam là một nước nông nghiệp và đang thực hiện mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Căn cứ nội dung GDP theo giá so sánh 1994 chia theo khu vực kinh tế,
cơ cấu kinh tế đang có bước chuyển dịch tích cực trong thời gian vừa qua, tỷ
trọng khu vực kinh tế nông, lâm, thủy sản từ 19,56% (năm 2005) giảm xuống
còn 16,42% (năm 2010); tỷ trọng khu vực kinh tế công nghiệp và xây dựng từ
40,17% (năm 2005) tăng lên 41,93% (năm 2010); tỷ trọng khu vực kinh tế
dịch vụ từ 40,27% (năm 2005) tăng lên 41,63% (năm 2010).
24
Bảng 1.4: GDP theo giá so sánh 1994 chia theo khu vực kinh tế
Đơn vị: tỷ đồng
KHU VỰC KINH TẾ
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
TỔNG GIÁ TRỊ
393.031 425.373 461.344 490.458 516.568 551.609
- Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
76.888
79.723
82.717
86.587
88.168
90.613
Chiếm tỷ trọng
19,56% 18,74% 17,93% 17,07% 17,65% 16,42%
- Công nghiệp và xây dựng
157.867 174.259 192.065 203.554 214.799 231.336
Chiếm tỷ trọng
40,17% 40,97% 41,63% 41,58% 41,50% 41,93%
- Dịch vụ
158.276 171.391 186.562 200.317 213.601 229.660
Chiếm tỷ trọng
40,27% 40,29% 40,44% 41,35% 40,84% 41,63%
Nguồn: Trang web của Tổng cục Thống kê.
Thực tế cũng đã cho thấy, kinh tế tư nhân có vai trò to lớn trong thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Theo số liệu của Tổng cục thông kê năm 2011 về kết quả tổng
điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2011 cho thấy có sự chuyển dịch lao
động rõ nét giữa các ngành kinh tế trong 10 năm qua:
Khu vực kinh tế nông, lâm, thủy sản từ chiếm tỷ trọng 69,4% lao động
có việc làm cả nước năm 1999 giảm còn 48,7% trong năm 2010; khu vực kinh
tế công nghiệp và xây dựng từ chiếm tỷ trọng 14,9% (năm 1999) tăng lên
21,1% (năm 2010); khu vực kinh tế dịch vụ từ chiếm tỷ trọng 15,7% (năm
1999) tăng lên 29,6% (năm 2010) và khu vực này cũng tạo thêm nhiều việc
làm nhất trong giai đoạn 1999 - 2010 với hơn 6,8 triệu việc làm [25, tr.108].
Như vậy, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã thu hút ngày càng nhiều lao
động, nhất là lực lượng lao động nông nghiệp vào các ngành, lĩnh vực thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cùng với sự gia tăng số đơn vị, lao động trong nhiều ngành nghề, nhiều
lĩnh vực khác, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì ngay trong lĩnh vực
nông nghiệp, các hộ sản xuất nông nghiệp cũng đang phát triển theo hướng
25
như: phân vùng chuyên canh, ứng dụng công nghệ sinh học (nuôi trồng những
giống cây, con có hiệu quả kinh tế cao, phương pháp canh tác tiên tiến); cơ
giới hóa sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến nông sản, mở rộng các
ngành, nghề.
Đồng thời, với sự phát triển của mình, kinh tế tư nhân thúc đẩy sản xuất
nông phẩm hàng hóa, mở rộng thị trường nội địa, thực hiện thủy lợi hóa và
xây dựng đường giao thông nông thôn, phát triển thông tin liên lạc, các khu
thương mại dịch vụ, vui chơi giải trí,v..v.., từ đó làm thay đổi bộ mặt văn hóa
nông thôn theo hướng văn minh, hiện đại, đó cũng là yếu tố góp phần vào
việc thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2.5. Góp phần xây dựng đội ngũ các doanh nhân Việt Nam tham
gia sản xuất ngày càng nhiều hàng hóa để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu
Trong thời gian qua, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân, mặc dù
được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế thị
trường, đã tỏ ra bản lĩnh, tài năng, thích ứng khá kịp thời với sự chuyển đổi
của nền kinh tế. Họ đã vươn lên tham gia vào hầu hết các lĩnh vực, ngành
nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm - trong đó bao gồm cả
những ngành kỹ thuật cao (điện tử, phần mềm) và đã làm chủ nhiều lĩnh vực
(nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản, công nghiệp chế biến…), nhiều ngành
hàng (thương mại, dịch vụ, bán lẻ hàng hóa, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, ăn
uống…). Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, hàng trăm ngàn trang trại cung
cấp nông sản, hàng hóa cho xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu gạo của Việt
Nam. Vai trò của các trang trại ngày càng được khẳng định như đầu tàu, động
lực, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế hàng hóa và tăng trưởng trong sản
xuất nông nghiệp nước ta.
26
Với đặc điểm là sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, hoạt động trên
khắp các địa bàn cả nước, cùng với tiềm năng sẵn có, kinh tế tư nhân đã và
đang tỏ rõ là một bộ phận kinh tế quan trọng, cung cấp đầy đủ, kịp thời các
sản phẩm và dịch vụ thiết yếu cho toàn xã hội.
Tuy số lượng sản phẩm mỗi đơn vị sản xuất ra không nhiều do quy mô
nhỏ, nhưng với số lượng nhiều, nên đã tạo ra được một khối lượng lớn các sản
phẩm hàng hóa đa dạng, phong phú về chủng loại và mẫu mã, từ các mặt hàng
giản đơn đến những mặt hàng cao cấp, từ đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng
nhỏ nhất như cái kim, sợi chỉ, hộp tăm, đôi đũa... đến đáp ứng những nhu cầu
lớn, xuất khẩu những mặt hàng cao cấp ra nước ngoài. Trong những năm qua,
các sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu như: hàng dệt may, giày dép, thủ công
mỹ nghệ, rau quả, thực phẩm, gỗ và sản phẩm từ gỗ phần lớn được cung cấp
từ các bộ phận kinh tế này.
Có thể nói kinh tế tư nhân là những đơn vị nắm bắt rất nhanh các yêu
cầu của thị trường để từ đó tìm cách đáp ứng nó. Chính vì vậy, bộ phận kinh
tế này không những góp phần tạo ra khối lượng lớn hàng hóa phục vụ nhu cầu
thị trường và xuất khẩu mà còn góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
quan trọng như: tạo sự cân đối quỹ hàng hóa, tiền tệ, bình ổn giá cả, cân đối
phát triển kinh tế giữa các vùng, ổn định đời sống nhân dân, thực hiện xóa đói
giảm nghèo.
Tóm lại, kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế năng động, đầy tiềm
năng, đang không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định vai trò quan
trọng của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Với những vai trò của kinh tế tư nhân nêu trên đã chứng tỏ chủ
trương, đường lối chính sách của Đảng ta về phát triển thành phần kinh tế này
là hoàn toàn đúng đắn.
Tuy nhiên, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân vẫn còn thiếu
nhất quán; việc đổi mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư
27
nhân vẫn còn nhiều hạn chế; nhiều vướng mắc về cơ chế, chính sách trong
quá trình tổ chức thực hiện chưa được tháo gỡ kịp thời; thủ tục hành chính
trong một số lĩnh vực vẫn còn phức tạp. Định hướng phát triển kinh tế tư nhân
theo quy hoạch ngành và lãnh thổ chưa được quan tâm đúng mức. Kinh tế tư
nhân phát triển còn tự phát, nhỏ lẻ, manh mún, tình trạng vi phạm pháp luật
diễn ra còn khá phổ biến, nhất là ở những lĩnh vực nhạy cảm. Công tác xây
dựng tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp của tư nhân vẫn còn nhiều
khó khăn, tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp của tư nhân chưa đều khắp
chất lượng hoạt động còn nhiều hạn chế, chưa đủ năng lực bảo vệ quyền lợi
cho người lao động.
Nguyên nhân chủ yếu là do sự quan tâm chưa đầy đủ của các cấp ủy, tổ
chức đảng và mức độ đầu tư của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân còn thấp;
doanh nghiệp của tư nhân hầu hết mới được hình thành và phát triển nên tài
sản, vốn liếng còn ít, khả năng cạnh tranh hạn chế. Đồng thời, trong bối cảnh
hội nhập quốc tế với nhiều thử thách mới, đặc biệt tình hình kinh tế thế giới
còn nhiều biến động khó lường đã tác động mạnh đến sự phát triển của kinh tế
tư nhân.
1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có diện
tích tự nhiên là 1.231km2, dân số gần 10,02 triệu người. Thực hiện chủ
trương của Đảng về phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong những năm
qua, nhất là từ khi có Luật Doanh nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc đã có nhiều giải
pháp đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, thu hút mạnh các nguồn lực
cho đầu tư phát triển ở cả các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.
Theo báo cáo của sở Kế hoạch & Đầu tư, đến hết tháng 8 năm 2009,
tỉnh Vĩnh Phúc co 2.850 Doanh nghiệp dân doanh, vốn đăng kí đạt 12.610 tỷ
đồng, so với năm 2002 gấp 6,4 lần về số lượng doanh nghiệp và gấp 17 lần về
28
số vốn đăng kí (bình quân mỗi năm gần đây tăng trên 600 doanh nghiệp với
số vốn đăng kí trên 3.700 tỷ đồng); số hộ kinh doanh cá thể là 31.100 hộ, so
với năm 2002 gấp 2 lần về số lượng (bình quân mỗi năm tăng 3000 hộ)
Đóng góp vào ngân sách địa phương của khu vực kinh tế tư nhân Vĩnh
phúc năm 2008 đạt 290 tỷ đồng gấp 7,89 lần so với 2002 (24,07 tỷ đồng) và
gấp 3,43 lần so với năm 2005 (84,5 tỷ đồng), chiếm 3,1% số thu ngân sách
trên địa bàn. Giá trị tăng thêm của khu vực Kinh tế tư nhân cũng tăng rất
mạnh (theo giá so sánh năm 1994): Năm 2002 đạt 1.689 tỷ đồng; năm 2005
đạt 2.478 tỷ đồng và năm 2008 đạt 3.577 tỷ đồng, chiếm 36,7% giá trị tăng
thêm trên địa bàn. Khu vực kinh tế tư nhân Vĩnh phúc đã giải quyết việc làm
cho 60.700 lao động, chiếm 10,16% số lao động đang làm việc trong các
thành phần kinh tế. Đạt được kết quả trên về phát triển Kinh tế tư nhân tỉnh
Vĩnh phúc đã có những biện pháp cụ thể sau:
Một là, đẩy mạnh cải cách hành chính
Thực hiện Quyết định số 181/QĐ-TTg ngày 4/9/2003 của Thủ tướng
Chính Phủ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng kế hoạch số 2120/KH-UBND
ngày 20/3/2003 triển khai thực hiện cơ chế một cửa cho các cơ quan hành
chính của Tỉnh. Đến nay đã có 20/20 sở, ban ngành trong toàn tỉnh thực hiện
cơ chế một cửa ở 81 lĩnh vực; 9/9 huyện, thị thành ở 6 lĩnh vực 137/137 xã,
phường, thị trấn thực hiện cơ chế một cửa ở 4 lĩnh vực. Quy trình giải quyết,
hồ sơ, thủ tục, lệ phí, thời gian gải quyết được công khai, rút ngắn thời gian so
với trước khi thực hiện như: lĩnh vực thu hút đầu tư, từ khi chủ đầu tư làm thủ
tục cấp phép đầu tư đến khi được giao đất để đầu tư sản xuất theo quy định là
160-200 ngày, nay chỉ thực hiện 130-140 ngày; cấp giấy quyền sử dụng đất
theo quy định 22 ngày, nay thực hiện 15-17 ngày; thủ tục cấp giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh được thực hiện đơn giản, gọn nhẹ theo đúng Luật
doanh nghiệp 2005: thời gian đăng kí kinh doanh bình quân đã giảm từ 12,25
ngày xuống còn 10 ngày, tổng thời gian để thực hiện các thủ thục hành chính
29
của các nhà quản lý doanh nghiệp giảm từ 22% xuống còn 15%, thời gian
trung bình của mỗi đợt thanh tra thuế cũng giảm từ 8 giờ xuống còn 5 giờ…
Việc thực hiện cơ chế một cửa đã giảm phiền hà cho tổ chức, công dân đến cơ
quan Nhà nước giao dịch, tiết kiệm được thời gian chi phí đi lại, tạo điều kiện
thuận lợi cho Kinh tế tư nhân Vĩnh Phúc phát triển, đồng thời hạn chế các
biểu hiện tiêu cực trong cán bộ, công chức.
Hai là, giải quyết tốt việc tiếp cận đất đai
Tỉnh Vĩnh Phúc đã tập trung đẩy mạnh công tác quy hoạch, nhất là quy
hoạch các khu, cụm công, quy hoạch các làng nghề, thực hiện quyết liệt công
tác đền bù, giải phóng mặt bằng, chủ động quỹ đất để cho các doanh nghiệp
có mặt bằng thuê đất để triển khai các dự án đầu tư. Đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc
đã có quy hoạch xây dựng các khu công nghiệp với tổng diện tich 2.686 ha;
trong đó đã có 9 khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
với tổng diện tích 2.234 ha; quy hoạch 4 cụm công nghiệp với diện tích 351
ha, quy hoạch các cụm kinh tế xã hội 490 ha; 8 cụm tiểu thủ công nghiệp -
làng nghề 115 ha. Giá thuê đất được áp dụng ở mức thấp nhất trong khung
quy định của Nhà nước, giảm giá thuê đất tối đa là 20% so với mức giá thuê
đất do UBND tỉnh ban hành hàng năm.
Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; không phải chuyển sang thuê
đất đối với các khu đất của tư nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, hoặc mua lại một cách hợp pháp mà tư nhân dùng làm mặt bằng sản
xuất, kinh doanh.
Khuyến khích các hộ tập trung đất đai, xây dựng các khu chăn nuôi tập
trung. Tỉnh Vĩnh Phúc hỗ trợ điều kiện xây dựng đường, điện đến khu chăn
nuôi tập trung, bình quân mỗi khu từ 1,5 - 1,8 tỷ đồng.
Ba là, cơ chế về tài chính, tín dụng đối với Kinh tế tư nhân
Thực hiện nhất quán cơ chế tài chính, tín dụng đối với Kinh tế tư nhân
bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các
30
doanh nghiệp dân doanh tiếp cận nguồn vốn, đất đai và khoa học công nghệ;
thực hiện chính sách doanh nghiệp được dùng giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thế chấp vay vốn theo tinh thần Nghị định 17/1999/NĐ-CP ngày
29/3/1999 của Chính phủ, Nghị định 79/2001/NĐ-CP, cho phép KTTT được
dùng tài sản hình thành vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Kết quả từ
2003 đến nay, sở Tài nguyên Môi trường Vĩnh Phúc đã giúp 770 DN dân
doanh thế chấp vay vốn sản xuất, kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn khi cho Doanh nghiệp vay vốn. Đơn
giản hóa các thủ tục cho vay, gắn liền với dịch vụ, thanh toán, bảo lãnh, tư
vấn. Khuyến khích và tạo điều kiện cho KTTN sử dụng các dịch vụ kiểm
toán, công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm.
Bốn là, thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chương trình khuyến công, chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
ngư đối với đối tượng hộ kinh doanh cá thể.
- Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo chương trình của chính phủ: từ
2006-2008, Vĩnh phúc tổ chức 71 lớp đào tạo 2.768 người. Vĩnh phúc đã triển
khai thực hiện các dự án: đầu tư xây dựng chương trình năng suất chất lượng
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn
2007-2010; đào tạo, khuyến khích doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản
phẩm phục vụ quá trình hội nhập; hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức thực hiện tiết
kiệm năng lượng (2 năm 2007-2008, có khoảng 100-120 doanh nghiệp tham
gia dự án, tiết kiệm được kinh phí khoảng 4,2 tỷ đồng)
- Chương trình khuyến công: tỉnh Vĩnh Phúc giao cho Sở công thương
tổ chức phối hợp với các trường Đại học, cao đẳng, Tỉnh đoàn Thanh niên,
Trung tâm giới thiệu việc làm, Hội liên hiệp phụ nữ, các tổ chức chính trị - xã
hội tổ chức khóa học bồi dưỡng kiến thức quản trị kinh doanh cho trên 600
cán bộ quản lý doanh nghiệp, tổ chức nhiều đoàn thăm quan đi học tập kinh
31
nghiệm ở những tỉnh co ngành nghề nông thôn phát triển tốt, các mô hình tiên
tiến, các hình thức đầu tư phù hợp với điều kiện của địa phương mình.
- Chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đối với các hộ
kinh doanh cá thể: Ngành nông nghiệp Vĩnh Phúc đã tổ chức được nhiều lớp
tập huấn cho nông dân, hộ kinh doanh, hợp tác xã ở các địa phương. Tỉnh
Vĩnh phúc cũng đã dành nguồn ngân sách để đầu tư, hỗ trợ các chương trình
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, trong đó chủ yếu là hỗ trợ nông dân
các giống cây, giống con; bồi dưỡng đào tạo nghề cho nông dân. Kết quả đến
nay đã có 651 trang trại đủ điều kiện cấp giáy chứng nhận kinh tế trang trại,
370 trang trại đang thẩm đinh.
1.3.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Bình Dương
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam được tái lập từ ngày 01/01/1997. Sau khi Tỉnh
được tái lập, kế thừa và phát huy những thành tựu của tỉnh Sông Bé trước
kia, Bình Dương có nhiều chủ trương và chính sách động viên phát triển
khu vực KTTN. Nhờ vậy, KTTN Bình Dương tăng nhanh về số lượng, vốn
kinh doanh, thu hút lao động, nhất là loại hình xí nghiệp và công ty. Số lượng
Doanh nghiệp tư nhân ở Bình Dương có tỷ lệ tăng nhanh hàng đầu của cả
nước, nhất là sau khi luật Doanh nghiệp ra đời năm 2000. Nếu năm 1996 toàn
tỉnh Bình Dương có 648 DNTN với số vốn đăng ký khiêm tốn 748,3 tỷ đồng
thì đến nay số lượng DNTN tăng lên nhanh chóng đạt gần 6.700 DN với vốn
đầu tư khoảng 40.000 tỷ đồng.
Nét nổi bật của DNTN Dương trong thời gian gần đây là phát triển số
lượng và chất lượng, tập trung vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm có hàm lượng
công nghệ cao, khả năng cạnh tranh tốt và sử dụng ít lao động. Nếu trước đây
các DNTN tập trung chủ yếu ở một số nghề truyền thống như: gốm sứ, sơn
mài, điêu khắc gỗ, gạch ngói nung…, thì hiện nay lĩnh vực hoạt động của
DNTN rất đa dạng như chế biến thực phẩm, sản xuất hàng điện tử, sắt thép,
32
sản xuất thuốc…Đáng nói hơn là năng lực cạnh tranh của sản phẩm từ các
DNTN Bình Dương ngày càng có nhiều thương hiệu có tiếng trên thị trường
thế giới như: sứ Minh Long, tôn Hoa Sen, thép Pomina, Vinamit, gỗ Trường
Thành… Những thành công của khu vực KTTN Bình Dương trên là nhờ các
biện pháp:
Thứ nhất, cải cách hành chính nhằm giảm chi phí thời gian, chi phí gia
nhập thị trường của doanh nghiệp.
Tỉnh Bình Dương nghiêm túc thực hiện việc giảm tối đa thời gian cấp
giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, giảm số lượng các hồ sơ luật không cần
thiết để doanh nghiệp nhanh chóng tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, thời gian làm thủ tục thành lập doanh nghiệp tại phòng đăng kí
kinh doanh của sở KH&ĐT chỉ còn tối đa 5 ngày DN nhận được Giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh và mã số thuế. Sau đó DN thực hiện thủ tục khắc
dấu trực tiếp với các cơ sở khắc dấu theo quy định. Trong quá trình thực hiện,
DN được hướng dẫn và nhận hồ sơ trực tiếp tại 1 đầu mối duy nhất là phòng
Đăng kí kinh doanh của sở KH&ĐT.
Thứ hai, đảm bảo khả năng tiếp cận đất đai và ổn định trong sử dụng
đất của doanh nghiệp
Thời gian trung bình Ban Quản Lý các KCN Bình Dương xác nhận hợp
đồng cho thuê đất của DN trong các KCN là 03 ngày làm việc. Còn đối với
các dự án đầu tư bên ngoài KCN, tỉnh Bình Dương đang thực hiện chủ trương
có mặt bằng mới cấp giấy phép; sau khi xem xét kiến nghị của nhà đầu tư,
nếu thấy hợp lý, tỉnh sẽ có văn bản chấp thuận chủ trương để đền bù. Khi
đảm bảo các vấn đề liên quan đến công tác giải tỏa, đền bù xong mới cấp giấy
chứng nhận đầu tư. Cách làm này đã giúp hầu hết các dự án được cấp phép
đều triển khai nhanh do không vướng khâu đền bù giải tỏa, nhà đầu tư sẽ
giảm được nhiều rủi ro trong quá trình sử dụng đất.
33
Thứ ba, đảm bảo tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin cho
doanh nghiệp.
Tất cả các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch
phát triển ngành và các cuộc họp bàn về tình hình kinh tế - xã hội, nhiệm
vụ, phương hướng của tỉnh Bình Dương luôn được công bố công khai,
tường thuật trên báo, đài của Tỉnh. Các thông tin, quy trình, hồ sơ cấp phép
của các ngành các cấp đều được công bố và niêm yết cụ thể tại trụ sở cơ
quan, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân đến liên hệ
công tác.
Thứ tư, tỉnh thực thi chính sách phát triển KTTN hợp lý thông qua việc
xã hội hóa xúc tiến đầu tư và chiến lược phát triển các KCN phù hợp.
So với các tỉnh thành khác, tỉnh Bình Dương không thành lập trung tâm
xúc tiến đầu tư của tỉnh mà xem việc xúc tiến đầu tư là một hoạt động mà cả
doanh nghiệp và bộ máy hành chính cùng thực hiện. Chủ đầu tư các KCN
đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nhà đầu tư thứ cấp, trong khi bộ
máy hành chính tập trung thực hiện tốt, nhanh chóng các thủ tục hành chính
liên quan đến doanh nghiệp. Nhiều trường hợp đại diện lãnh đạo tỉnh cùng
với doanh nghiệp đi xúc tiến đầu tư, làm việc trực tiếp với đối tác để tạo niềm
tin cho họ, đồng thời nắm được tâm tư nguyện vọng của đối tác để kịp thời xử
lý các vướng mắc, lo ngại khi đầu tư vào địa bàn tỉnh.
Thứ năm, chính sách đào tạo nghề, phát triển kỹ năng cho người lao
động là vấn đề được tỉnh chú trọng, quan tâm.
Công tác sắp xếp, đổi mới và phát triển mạng lưới dạy nghề, hỗ trợ đào
tạo nghề cho người dân nằm trong các khu vực phải chuyển đổi mục đích sử
dụng phục vụ cho công nghiệp hóa. Phát triển hệ thống các trung tâm giới
thiệu việc làm và hệ thống thông tin thị trường lao động để thanh niên nông
thôn dễ tiếp cận hơn với các cơ hội việc làm uy tín…
34
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho phát triển kinh tế tư
nhân ở tỉnh Bắc Ninh
Từ những kinh nghiệp trong giải quyết vấn đề phát triển KTTN ở Vĩnh
Phúc và ở Bình Dương cho thấy rằng KTTN có phát triển mạnh mẽ và đúng
hướng hay không, điều đó phụ thuộc một phần rất quan trọng vào cơ chế,
chính sách và biện pháp tổ chức, quản lý của chính quyền địa phương.
Một là, sự phát triển mạnh mẽ của khu vực KTTN ở tỉnh Vĩnh Phúc và
Bình Dương là kết quả của việc thực hiện nhất quán các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với KTTN. Đề ra những phương hướng quyết
sách phù hợp với điều kiện thực tế địa phương, sự nhận thức tích cực hơn của
đội ngũ cán bộ chính quyền tỉnh và của xã hội đối với KTTN với quan điểm
coi KTTN là khu vực năng động, phát huy hiệu quả nhất mọi nguồn lục trong
nhân dân.
Hai là, thành công thu hút đầu tư và phát triển KTTN của Bình Dương
và Vĩnh Phúc bắt nguồn từ suy nghĩ và quyết tâm tạo môi trường kinh doanh
minh bạch và thuận lợi cho nhà đầu tư. Do vậy, cải cách hành chính được
xem như một khâu then chốt để phát triển kinh tế. Chính quyền địa phương
của Vĩnh Phúc và Bình Dương đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm giảm
thiểu thời gian và chi phí gia nhập thị trường và vận dụng cơ chế chính sách
của Trung ương một cách linh hoạt tạo cư chế mở, thông thoáng cho KTTN
đầu tư vào địa phương mình.
Ba là, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ chức năng của các địa phương đã đổi
mới tư duy nâng cao năng lực chỉ đạo thực tiễn, tính minh bạch và trách
nhiệm: coi việc tạo cơ hội và thuận lợi trong kinh doanh của khu vực KTTN
là trách nhiệm của mỗi cán bộ và chính quyền.
Bốn là, chính quyền địa phương đã tích cực trong việc hỗ trợ khu vực
KTTN về vốn, khoa học công nghệ thông qua các quỹ vốn dành riêng cho
KTTN, đào tạo nghề, tạo cơ hội cho KTTN tiếp cận được các thông tin, đất
35
đai, giải quyết các vấn đề khó khăn cho khu vực KTTN. Mặt khác, chính
quyền địa phương cũng tăng cường hoạt động kinh tế đối ngoại hỗ trợ cho
KTTN mở rộng tiếp cận các thị trường mới thông qua hoạt động xúc tiến
thương mại.
Năm là, bên cạnh những thành công nêu trên, hai tỉnh Bình Dương và
Vĩnh Phúc còn có những hạn chế trong phát triển KTTN, thể hiện qua chỉ số
CPI trong các năm 2007 - 2010. Các tỉnh này không còn duy trì được vị trí
trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh hàng năm: Bình Dương từ
vị trí thứ 1 các năm 2005-2007 đã tụt xuống vị trí thứ 5 năm 2010. Nguyên
nhân do sự giảm sút ở các chỉ số như: chi phí gia nhập thị trường, tiếp cận đất
đai và ổn định trong sử dụng đất, tính minh bạch và tiếp cận thông tin, tính
năng động và tiên phong lãnh đạo tỉnh Bình Dương… Có thể nói đây là
những bất cập tồn tại trong hành chính nhà nước tại hầu hết các địa phương
trong cả nước lâu nay: vẫn còn nhiều thủ tục, hồ sơ không đáng có, tinh thần
làm việc của các cán bộ tiếp xúc với doanh nghiệp tư nhân chưa thật công tâm
làm phát sinh các chi phí không chính thức.
Trên đây là những bài học kinh nghiệm thực tiễn mà tỉnh Bắc Ninh có
thể tham khảo học tập, phát huy tốt cơ chế chính sách, biện pháp tổ chức quản
lý, trong đó đặc biệt chú ý tạo điều kiện tốt để KTTN yên tâm kinh doanh
như: đẩy mạnh cải cách hành chính, chú ý tiếp tục điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện cơ chế chính sách tương ứng từng thời kì trong từng giai đoạn cho
khu vực KTTN, và tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nhằm xóa bỏ
tâm lý kỳ thị, phân biệt đối xử với KTTN.
36
Chương 2
THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BẮC NINH
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA
TỈNH BẮC NINH ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Bắc Ninh là một tỉnh cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô Hà Nội, trung tâm
xứ Kinh Bắc cổ xưa. Phía Bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây và Tây Nam
giáp thủ đô Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Đông giáp tỉnh Hải
Dương. Bắc Ninh có các hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với các tỉnh
trong vùng như Quốc lộ 1A và đường sắt nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn,
đường cao tốc 18 nối Sân bay quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long, Quốc lộ
38 nối Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng. Mạng đường thuỷ có sông Cầu,
sông Đuống, sông Thái Bình rất thuận lợi nối Bắc Ninh với hệ thống cảng
sông và cảng biển của vùng tạo cho Bắc Ninh là địa bàn mở gắn với phát triển
của thủ đô Hà Nội theo định hướng xây dựng các thành phố vệ tinh và sự
phân bố công nghiệp của Hà Nội. Thành phố Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh
chỉ cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 30 km, cách sân bay quốc tế Nội Bài 45
km, cách thành phố Hải Phòng 110 km và thành phố Hạ Long 125 km. Vị trí
địa lý kinh tế liền kề với Thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế lớn, một thị
trường hàng hoá rộng lớn đứng thứ hai trong cả nước, có sức cuốn hút toàn
diện về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, giá trị lịch sử, văn hoá đồng thời là
nơi cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ và tiếp thị thuận lợi đối với
mọi miền tổ quốc. Hà Nội sẽ là thị trường tiêu thụ trực tiếp các mặt hàng của
Bắc Ninh về nông - lâm - thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng
thủ công mỹ nghệ. Bắc Ninh cũng là một địa bàn mở rộng của Hà Nội qua
xây dựng thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công cho các xí nghiệp của thủ
37
đô trong quá trình CNH, HĐH. Đây là yếu tố rất thuận lợi phát triển kinh tế
tư nhân, từ đó tạo cho Bắc Ninh nhiều lợi thế về phát triển và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Sau khi tái lập tỉnh năm 1997, tỉnh Bắc Ninh đã tập trung chỉ đạo các
nhiệm vụ trọng tâm nhằm sớm ổn định các hoạt động của một tỉnh mới
được chia tách, đồng thời chuẩn bị những tiền đề cần thiết để bước vào
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020. Quá trình phát triển kinh tế tỉnh Bắc Ninh giai đoạn
1997-2007 được thể hiện rõ nét trong sự chỉ đạo, điều hành của Uỷ ban
nhân dân (UBND) tỉnh nhằm khai thác có hiệu quả các thế mạnh của tỉnh.
Nhờ vậy sau hơn 10 năm tái lập, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh có
chuyển biển rõ nét và đạt được những thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh, năng lực kết cấu
hạ tầng và đô thị được tăng cường đáng kể, các lĩnh vực văn hoá - xã hội có
nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, an ninh, quốc phòng
được củng cố và giữ vững. Đó là kết quả trên các mặt khác nhau của quá
trình phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn này, bước đầu hướng tới
các mục tiêu của sự phát triển bền vững.
Tăng trưởng kinh tế của tỉnh liên tục duy trì ở mức cao so với cả nước:
Tốc độ tăng tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) Bắc Ninh bình quân hàng năm giai
đoạn 2006 - 2010 đạt 15,27%. GDP bình quân đầu người (giá thực tế) năm 2005
đạt 530 USD, cả nước 642 USD và năm 2010 GDP bình quân đầu người của
Bắc Ninh đạt 1.780 USD, tăng 3,38 lần so với năm 2005 và cao hơn so với GDP
bình quân đầu người cả nước.
38
Bảng 2.1: Tổng sản phẩm nội địa tỉnh Bắc Ninh theo giá thực tế
Đơn vị: Tỷ đồng
Trong đó
Năm
Tổng số
Nông - lâm nghiệp Công nghiệp - xây dựng
Dịch vụ
2005
8.331,1
2.187,6
3.825,6
2.317,9
2006
10.504,2
2.238,0
5.201,5
3.064,7
2007
15.506,5
2.275,6
8.875,6
4.055,3
2008
22.080,8
3.077,9
13.632,4
5.370,5
2009
27.924,1
3.473,8
17.812,0
6.638,3
2010
35.963,4
3.759,4
23.775,2
8.428,8
Nguồn: Niên giám thống kê Bắc Ninh 2010
Năm 2005, GDP cả nước (theo giá cố định 94) đạt 393.031 tỷ đồng.
Trong đó Bắc Ninh là 4.766,1 tỷ đồng, chỉ bằng 1,2% so với tổng GDP cả nước,
tăng trưởng bình quân cả giai đoạn 2001-2005 là13,8%.
Năm 2010, GDP cả nước đạt 549.425 tỷ đồng, của Bắc Ninh là 9.697,3 tỷ
đồng bằng 1,76% tổng GDP cả nước 0,56% so với năm trưởng đó. Tăng trưởng
giai đoạn 2006-2010, của Bắc Ninh là 15,27%.
Bảng 2.2: Tổng sản phẩm GDP bình quân đầu người
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Đơn vị
GDP/người (giá CĐ 1994) Tr. đ
4,77
5,42
6.26
7,21
8,02
9,37
Qui ra USD
USD
526,4 650,7 946,6 1.305,6 1.495,0 1.780
GDP/người (giá thực tế)
Tr.đ
8,34
10,39 15,29
21,67
27,21
39,30
Nguồn: Báo cáo KQTH phát triển KTXH 5 năm 2006-2010 và
Số liệu Thống kê tỉnh Bắc Ninh năm 2010
Năm 2005, GDP bình quân đầu người (giá thực tế) của Bắc Ninh đạt 8,34
triệu đồng đều thấp hơn so với GDP bình quân đầu người của cả nước đạt 10,1
triệu đồng; của Vùng KTTĐBB là 9,5 triệu đồng.
39
Đến năm 2007, GDP bình quân đầu người của Bắc Ninh đạt 15,29 triệu
đồng, xấp xỉ đạt mức GDP bình quân đầu người cả nước là 15,3 triệu đồng. Năm
2010 GDP bình quân đầu người của Bắc Ninh đạt 39,30 triệu đồng, tương đương
1.780 USD lần đầu tiên GDP bình quân trên đầu người của Bắc Ninh cao hơn so
với GDP bình quân cả nước, gấp 3,7 lần so với năm 2005.
Bắc Ninh xưa nay vốn là vùng có nhiều làng nghề (LN) thủ công nổi
tiếng như: Làng tranh dân gian Đông Hồ, Làng gốm Phù Lãng, Làng đúc
đồng Đại Bái, Làng rèn luyện sắt Đa Hội, Làng dệt Lũng Giang, Làng trạm
khắc đồ gỗ Đồng Kỵ, Phù Khê, Hương Mạc, Làng sơn mài Đình Bảng…
Bắc Ninh cũng là tỉnh có nền văn hiến lâu đời. Mật độ phân bố các di
tích lịch sử, văn hoá khá dày đặc, chỉ đứng sau thủ đô Hà Nội. Đến nay có tới
233 di tích lịch sử văn hoá được cấp bằng công nhận di tích cấp quốc gia và
cấp địa phương. Trong đó có những di tích, có những giá trị lịch sử, văn hoá
có ý nghĩa quốc gia và quốc tế như các di tích đền Đô, chùa Dâu, Bút Tháp,
Phật Tích, Văn Miếu...
Bảng 2.3: Số lượng di tích lịch sử văn hoá tỉnh Bắc Ninh
Địa điểm
Tổng số
Xếp hạng quốc gia
Xếp hạng địa phương
Toàn tỉnh
233
162
71
1. TP Bắc Ninh
27
20
7
2. Huyện Từ Sơn
51
37
14
3. Huyện Tiên Du
34
23
11
4. Huyện Quế Võ
22
16
6
5.Huyện Thuận Thành
20
16
4
6. Huyện Lương Tài
18
8
10
7. Huyện Gia Bình
18
8
10
8. Huyện Yên Phong
46
37
9
Nguồn: Sở Văn hoá - Thông tin Bắc Ninh
40
Bắc Ninh cũng là tỉnh có nhiều lễ hội truyền thống có những nét văn hoá
đặc sắc. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có khoảng 41 lễ hội đáng chú ý trong năm
được duy trì. Trong đó có những lễ hội có ý nghĩa đặc biệt và có tầm ảnh hưởng
lớn như: Hội Lim, hội chùa Dâu, hội đền Đô, hội đền Bà Chúa Kho v.v...
Với vị trí địa lý kinh tế thuận lợi, tốc độ tăng trưởng khá, nguồn nhân
lực dồi dào, với 62 làng nghề (LN) truyền thống với nhiều di tích lịch sử, và
những lễ hội truyền thống, tỉnh Bắc Ninh có những tiềm năng to lớn cần được
phát huy một cách có hiệu quả trong việc phát triển kinh tế tư nhân trong các
lĩnh vực: công, nông, nghiệp và dịch vụ, du lịch, đặc biệt là các doanh nghiệp
tư nhân có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thế mạnh của các làng nghề
truyền thống, phát triển du lịch làng nghề. Tiềm năng, lợi thế đó có được các
doanh nghiệp khai thác, phát triển hay không để đóng góp cho phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh phụ thuộc vào chính bản thân các doanh nghiệp và
các chính sách của Nhà nước cũng như của tỉnh Bắc Ninh. Vấn đề đặt ra là
cần có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển nhanh
chóng, bền vững theo mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước
trong tiến trình CNH, HĐH đang diễn ra sâu rộng ở nước ta.
2.2. CHÍNH SÁCH CỦA ĐỊA PHƯƠNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
Từ khi tái lập tỉnh, Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Bắc Ninh đã có
những chủ trương và biện pháp, nhằm khôi phục và khuyến khích các DNVVN.
Nghị quyết 04/NQ-TU năm 1998 của tỉnh ủy Bắc Ninh về khôi phục,
phát triển LN tiểu thủ công nghiệp, Nghị quyết 12/NQ-TU năm 2000 của Ban
thường vụ tỉnh ủy về phát triển KCN, CCN-Tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là
Nghị quyết 02/NQ-TU của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI về xây dựng
và phát triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ngày 4/5/2001. Đây là
Nghị quyết chuyên đề cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 16,
quán triệt và vận dụng chủ trương của Đảng về CNH, HĐH vào điều kiện cụ
41
thể của địa phương, khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh phát huy các
nguồn lực, tăng năng lực sản xuất tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy
mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở các Nghị quyết đó đã tạo ra
những bước chuyển biến mới về nhận thức và hành động nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển của các
DNVVN NQD trong quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp nông thôn
tỉnh Bắc Ninh.
Từ những đường lối đó, UBND tỉnh đã ban hành một số quyết định về
chính sách khuyến khích phát triển các DNVVN.
2.2.1. Nhóm các chính sách khuyến khích đầu tư cho kinh tế tư nhân
- Các DN đầu tư và phát triển hạ tầng KCN được tạo mọi điều kiện
thuận lợi để hoạt động và được ưu đãi, khuyến khích đầu tư theo Quyết định
60/2001/QĐ-UB ngày 26/6/2001 của UBND tỉnh về việc ban hành qui định
ưu đãi khuyến khích đầu tư trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ở các lĩnh vực:
+ Ưu đãi về giá thuê đất: Giá đất cho thuê được xác định với mức thấp
nhất theo khung giá đất khu công nghiệp do UBND tỉnh quy định.
+ Ưu đãi miễn giảm, chậm nộp tiền thuê đất: Tiền thuê đất được miễn
10 năm đầu và giảm 50% cho những năm hoạt động còn lại của dự án, ngoài
ra được xem xét quyết định cho phép được chậm nộp tiền thuê đất trong
khoảng thời gian nhất định theo hình thức nhận nợ với ngân sách nhà nước.
Khi đầu tư vào các địa bàn khác trong tỉnh được hưởng giá đất cho thuê ở
mức thấp nhất theo khung giá đất KCN do UBND tỉnh quy định. Được miễn tiền
thuê đất trong 8 năm đầu và giảm 40% cho những năm tiếp theo.
Các DN có vốn đầu tư trong nước trên địa bàn tỉnh tuỳ theo quy mô
ngành nghề, số lượng lao động, trình độ khoa học công nghệ, địa điểm đầu tư
được xem xét hỗ trợ từ 10% đến 30% giá trị đền bù thiệt hại về đất từ Ngân sách
tỉnh. Các DN này nếu đầu tư vào các KCN được hỗ trợ vốn bằng 30%, đầu tư
42
vào các địa bàn khác được hỗ trợ vốn bằng 20% số thuế giá trị gia tăng thực nộp
ngân sách tỉnh trong 2 năm đầu, kể từ khi bắt đầu sản xuất kinh doanh.
Các DN trong nước đầu tư vào các KCN Bắc Ninh xây dựng nhà cho
công nhân được thuê đất với mức thấp nhất theo khung giá đất KCN do
UBND tỉnh quy định và cho miễn, giảm tối đa các loại thuế theo quy định.
Các DN có nhu cầu đào tạo nghề cho lao động địa phương được Ngân
sách tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí đào tạo nghề trong nước cho người lao động địa
phương được tuyển dụng, mức tối đa không quá 1 triệu đồng cho 1 lao động.
UBND tỉnh tạo điều kiện cho các DN vay vốn từ các nguồn vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, các Ngân hàng thương mại quốc doanh
trên cơ sở cấp bù lãi suất sau đầu tư, thẩm định hiệu quả và khả năng trả nợ
của dự án.
DN trong các KCN Bắc Ninh có vốn đầu tư trong nước chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất khẩu và
hoạt động xuất khẩu, nếu có nhu cầu và đáp ứng các điều kiện quy định hiện
hành sẽ được xem xét cho thành lập DN chế xuất trong KCN.
Các DN có nhu cầu tiếp cận, tìm kiếm, khai thác mở rộng thị trường
trong và ngoài nước, được tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu thương mại,
thăm quan nước ngoài, tham dự các cuộc hội thảo quốc tế để giúp các DN
nắm bắt thông tin, xúc tiến thương mại và đầu tư
- Các cơ sở sản xuất công nghiệp đầu tư mới, đầu tư mở rộng, đầu tư
chiều sâu, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp được Quỹ khuyến công hỗ trợ, khuyến khích theo quyết định số
105/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh. Quỹ khuyến công được sử
dụng để:
+ Hỗ trợ một phần chi phí cho đầu tư cho các dự án mở rộng sản xuất,
đầu tư chiều sâu, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới của các cơ sở sản xuất
công nghiệp.
43
+ Hỗ trợ lãi suất tiền vay thu mua nguyên liệu của các cơ sở sản xuất công
nghiệp trong tỉnh sử dụng nguyên liệu là nông sản, thực phẩm tại địa phương.
+ Hỗ trợ một phần chi phí cho các cơ sở sản xuất công nghiệp đa sản
phẩm đi dự hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế.
+ Hỗ trợ một phần kinh phí cho các DNNN hoạt động sản xuất công
nghiệp chuyển đổi hình thức sở hữu.
+ Hỗ trợ vốn cho các cơ sở sản xuất công nghiệp thu hút thêm từ 100
lao động làm việc dài hạn trở lên so với năm liền kề.
+ Hỗ trợ cho các chương trình dự án của các cơ sở sản xuất công
nghiệp có tác động mạnh đến sản xuất toàn vùng.
+ Thưởng cho các tổ chức, cá nhân có công trong việc thu hút các dự
án đầu tư phát triển có trình độ cao, nộp ngân sách nhiều.
+ Cho vay không lấy lãi có hoàn trả cho các dự án đầu tư cần được
khuyến khích của các cơ sở sản xuất công nghiệp khi Quỹ nhàn rỗi.
- UBND tỉnh Bắc Ninh thay thế quyết định số 105/2002/QĐ-UB bằng
Quyết định 87/2004/QĐ-UB ngày 10/6/2004 về việc ban hành qui chế hình
thành, sử dụng và quản lý quỹ khuyến công tỉnh Bắc Ninh.
Các đơn vị sản xuất công nghiệp trong tỉnh bao gồm các DNNN do
UBND tỉnh quyết định thành lập, CTCP, Công ty TNHH, Công ty hợp
danh, các Hợp tác xã, DNTN, các tổ, hộ sản xuất có dự án đầu tư mới, mở
rộng sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ mới trong công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp, sử dụng nguyên liệu là nông sản thực phẩm tại địa
phương cao nhất, đa sản phẩm đi dự Hội chợ triển lãm trong nước và quốc
tế… được hỗ trợ kinh phí theo mức cụ thể từng trường hợp từ 50 triệu đồng
đến 200 triệu đồng.
- Để khuyến khích các cơ sở kinh doanh sản xuất, khai thác thị trường,
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy sản xuất, tiêu thụ hàng nông sản,
thực phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ của tỉnh đạt kết quả cao, UBND tỉnh Bắc
44
Ninh đã ra Quyết định 106/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 về việc thành lập và
quản lý quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu hỗ trợ về lãi suất vay vốn
Ngân hàng thời gian tối đa không quá 6 tháng cho các cơ sở kinh doanh có
hợp đồng mua hàng nông sản, thực phẩm của nông dân trong tỉnh để xuất
khẩu. Hỗ trợ một phần tài chính cho các cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hoá
theo chủ trương của tỉnh do các cơ sở trong tỉnh sản xuất ra mà bị lỗ vốn. Hỗ
trợ vốn cho các cơ sở kinh doanh xuất khẩu có các dự án đầu tư chiều sâu,
đầu tư mở rộng để sản xuất nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu của tỉnh. Hỗ
trợ và tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới lần đầu tiên hàng xuất khẩu của tỉnh
có mặt ở thị trường đó. Hỗ trợ một phần chi phí quảng cáo, giới thiệu sản
phẩm xuất khẩu. Thưởng cho các mặt hàng xuất khẩu của tỉnh đạt chất lượng
cao được tặng huy chương triển lãm hội trợ trong nước và quốc tế. Thưởng
thêm cho các cơ sở kinh doanh hoạt động xuất khẩu có thành tích đủ tiêu
chuẩn khen của Bộ Thương mại.
- Các DNNN do UBND tỉnh thành lập, CTCP, Công ty TNHH, Công ty
hợp danh, DNTN, Hợp tác xã, các tổ chức kinh doanh có cơ sở kinh doanh và
làm nghĩa vụ nộp ngân sách tại tỉnh được ưu tiên từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu theo
Quyết định 88/2004/QĐ-UB ngày 10/6/2004 của UBND tỉnh về việc ban
hành Quy chế hình thành, sử dụng và quản lý quỹ hỗ trợ xuất khẩu Bắc Ninh.
Phạm vi hỗ trợ: Các dự án đầu tư mở rộng sản xuất, đào tạo lao động để
tiếp thị, khai thác thị trường phục vụ xuất khẩu, vay vốn thời hạn từ 3 tháng
trở lên để mua hàng trong tỉnh để xuất khẩu, hỗ trợ kinh phí các hoạt động
xúc tiến thương mại tùy theo từng trường hợp cụ thể có mức hỗ trợ.
(Do việc thành lập, sử dụng và quản lý Quỹ khuyến khích phát triển
công nghiệp và Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có một số điểm chưa đúng quy định
hiện hành của Trung ương nên Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã ra Nghị
quyết số 40/NQ-HĐND16 ngày 26/7/2005 bãi bỏ các quy định thành lập, sử
dụng và quản lý Quỹ khuyến khích phát triển công nghiệp và Quỹ hỗ trợ xuất
45
khẩu. Việc quản lý và sử dụng các quỹ trên theo quy định hiện hành của
Trung ương).
- Tỉnh Bắc Ninh cũng khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư khai
thác, phát triển du lịch vào các khu du lịch theo Quyết định 107/2002/QĐ-UB
ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định về ưu đãi khuyến
khích đầu tư vào các khu du lịch trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
+ Ưu đãi về giá thuê đất: Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật
Đầu tư trong nước được thuê đất, diện tích ao, hồ với mức giá thấp nhất trong
khung giá đất, mặt nước ao, hồ do UBND tỉnh quy định.
Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài được thuê
đất, diện tích ao, hồ với mức giá thấp nhất trong khung giá đất, mặt nước ao,
hồ do nhà nước quy định.
+ Ưu đãi về tiền thuê đất: Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo luật đầu
tư trong nước sau khi hết thời hạn được hưởng ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê
đất, được ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuê đất trong 15 năm tiếp theo và
50% tiền thuê đất trong những năm còn lại.
Các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài sau khi
hết thời hạn được hưởng ưu đãi về miễn, giảm tiền thuê đất, được ngân sách
tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuê đất trong 10 năm tiếp theo và 50% tiền thuê đất
trong những năm còn lại.
Đối với diện tích đất được dùng làm cảnh quan, khoảng thông thoáng
không bố trí thiết bị kinh doanh, vật kiến trúc, cơ sở kinh doanh được Ngân
sách tỉnh hỗ trợ thêm 30% tiền thuê đất kể từ khi phải nộp tiền thuê đất.
+ Hỗ trợ tiền bồi thường thiệt hại về đất: Ngân sách tỉnh xem xét hỗ trợ
từ 10% đến 30% tiền bồi thường thiệt hại về đất. Riêng các dự án đầu tư vào
khu du lịch nằm trong vùng khó khăn được Ngân sách tỉnh hỗ trợ từ 30% đến
50% tiền bồi thường thiệt hại về đất.
46
+ Hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong, ngoài hàng rào
khu du lịch: Ngân sách tỉnh hỗ trợ một phần kinh phí cho việc trùng tu tôn tạo
các địa điểm di tích xung quanh khu du lịch, cho việc xây dựng kết cấu hạ
tầng kỹ thuật.
+ Hỗ trợ về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng: Các cơ sở
kinh doanh hoạt động theo luật đầu tư trong nước sau khi hết hạn hưởng ưu
đãi về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước
được Ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuế thu nhập doanh nghiệp trong
5 năm tiếp theo và 50% cho 5 năm sau đó trên cơ sở số thuế thu nhập doanh
nghiệp thực nộp.
Đối với các cơ sở kinh doanh hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài
sau khi hết hạn hưởng ưu đãi về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp theo
quy định của nhà nước được ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ tiền thuế thu nhập
doanh nghiệp trong 3 năm tiếp theo và 50% cho 5 năm sau đó trên cơ sở số
thuế thu nhập doanh nghiệp thực nộp.
+ Hỗ trợ về đào tạo phát triển nguồn nhân lực: Ngân sách tỉnh hỗ trợ
100% kinh phí đào tạo nghề trong nước cho lao động tuyển dụng tại địa
phương, tối đa không quá 2 triệu đồng cho một lao động.
+ Hỗ trợ quảng cáo, khai thác thị trường: Ngân sách tỉnh hỗ trợ toàn bộ
lệ phí quảng cáo trong 1 năm, tạo điều kiện để các cơ sở kinh doanh tổ chức
tham dự các buổi hội thảo, tham quan để nắm bắt thông tin thị trường.
+ Hỗ trợ về lãi suất vốn vay tín dụng: Các cơ sở kinh doanh vay vốn để
đầu tư xây dựng khu du lịch trên địa bàn tỉnh trong 3 năm đầu được ngân sách
tỉnh hỗ trợ 100% phần chênh lệch giữa lãi suất vay vốn ưu đãi của nhà nước
và lãi suất vay vốn các ngân hàng.
Ngoài ra, UBND tỉnh Bắc Ninh còn có Quyết định 104/2002/QĐ-UB
ngày 30/8/2002 về việc bổ sung quy định về ưu đãi khuyến khích đầu tư: đã
bổ sung các chính sách ưu đãi khuyến khích hơn đối với các dự án chế biến
47
nông sản thực phẩm, các dự án thu hút nhiều lao động, có hiệu quả kinh tế xã
hội và tác động lớn đến phát triển kinh tế nông thôn, các dự án đầu tư vào các
vùng khó khăn là các huyện phía nam sông Đuống (Gia Bình, Lương Tài,
Thuận Thành), Quyết định số 23/2002/QĐ-UB ngày 22/2/2002 quy định về
thưởng cho các đơn vị sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm và hỗ trợ đối
với các sản phẩm mới.
Các chính sách khuyến khích đầu tư của tỉnh Bắc Ninh trên đã tạo điều
kiện cho các DNVVN NQD được hỗ trợ và được hưởng các ưu đãi để góp
phần phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.
2.2.2. Nhóm các chính sách trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực để
phát triển kinh tế tư nhân
Để nâng cao nguồn nhân lực, UBND tỉnh Bắc Ninh đã có Quyết định số
84/2003/QĐ-UB ngày 17/9/2003 về việc phê duyệt đề án quy hoạch phát triển
mạng lưới cơ sở dạy nghề tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2003-2010. Sau đó, một số
Quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh thành lập hoặc cho phép thành lập các
trung tâm, các trường dạy nghề cả công lập và ngoài công lập trên địa bàn tỉnh,
Quyết định số 60/2005/QĐ-UB ngày 6/6/2005 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về
chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng nhân tài tỉnh Bắc Ninh.
Từ đó, nhiều cơ sở đào tạo đã được hình thành và phát triển, góp phần đảm
bảo nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cho các DN.
2.2.3. Nhóm các chính sách về đất đai
Các Quyết định của UBND tỉnh về quy định khung giá mức bồi thường
các loại đất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh như: Quyết định 84/CT ngày 3/6/1997;
Quyết định 36/1998/QĐ-UB ngày 13/6/1998, Quyết định 74/1998/QĐ-UB
ngày 11/9/1998; Quyết định 69/2004/QĐ-UB ngày 28/12/2004; Quyết định số
225/QĐ-UB ngày 31/12/2004; Quyết định 123/2006/QĐ-UBND ngày 8/12/2006
v.v… Trong đó mức giá quy định vừa đảm bảo phù hợp đặc điểm từng vùng,
vừa đảm bảo đền bù đất thoả đáng cho người bị thu hồi đất nhưng cũng đảm
48
bảo sức hút cho các nhà đầu tư. Các Chỉ thị, Quyết định của UBND tỉnh về cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đo đạc bản đồ, lập hồ sơ địa chính… như:
Chỉ thị 12/UB-CT ngày 24/12/1997, Quyết định 945/1998/QĐ-UB ngày
01/10/1998; v.v… nhằm tạo điều kiện cho việc quản lý đất đai trên địa bàn hiệu
quả minh bạch.
- Quyết định số 38/QĐ-UB ngày 11/4/2006 của UBND tỉnh về việc ban
hành quy định phân công, phân cấp quản lý quy hoạch xây dựng trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh cho các cơ quan và các cấp ở địa phương về nhiệm vụ, thẩm
quyền trong công tác lập, thẩm định, phê duyệt, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch
xây dựng, về quản lý thực hiện quy hoạch xây dựng.
- Ngoài ra, UBND tỉnh có Quyết định số 128/2005/QĐ-UB ngày
10/10/2005 về việc ban hành quy chế quản lý các khu công nghiệp nhỏ và vừa,
các cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Liên Sở Công
nghiệp - Sở Tài nguyên Môi trường cũng có hướng dẫn liên ngành số 142/HD-
LN ngày 12/6/2001 về việc xét duyệt các đối tượng thuê đất và lập hồ sơ xin
thuê đất của các tổ chức kinh tế và các hộ gia đình trong các khu, cụm công
nghiệp làng nghề theo hướng đơn giản, thuận tiện cho các nhà đầu tư.
Các đơn vị sản xuất kinh doanh dịch vụ trong các KCN nhỏ và vừa, Cụm
công nghiệp làng nghề có các quyền: Được thuê đất, được sử dụng các công trình
kết cấu hạ tầng, tổ chức sản xuất kinh doanh, dịch vụ, xuất nhập khẩu trực tiếp,
được hưởng các chế độ ưu đãi khuyến khích đầu tư của Nhà nước và của tỉnh.
2.2.4. Nhóm các chính sách hỗ trợ tín dụng cho thành phần kinh tế
tư nhân
Quyết định số 267/QĐ-UBND ngày 25/2/2008 của UBND tỉnh Bắc
Ninh về việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và
vửa tỉnh Bắc Ninh. Đây là một tổ chức tài chính thực hiện chính sách giúp
phát triển DNVVN của Bắc Ninh thông qua việc bảo lãnh cho các DNVVN
vay vốn tại các tổ chức tín dụng khi không đủ tµi sản bảo lãnh.
49
Quỹ hoạt động không với mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo hoàn vốn và bù
đắp chi phí, DN muốn được bảo lãnh phải theo các quy định và phải có tài sản
thế chấp trị giá 30% số tiền vay. Quỹ sẽ bảo lãnh 80% phần chênh lệch giữa
số tiền DN vay và tài sản thế chấp. Mức bảo lãnh cho một DN tối đa là 4.500
triệu đồng.
Đối tượng được bảo lãnh: Các DNVVN, Các hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã, Các hộ gia đình cá thể theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP
về đăng ký kinh doanh, Các chủ trang trại, các hộ nông dân thực hiện dự án
trồng cây công nghiệp, chăn nuôi.
2.2.5. Nhóm các chính sách hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
- Hỗ trợ xây dựng đường giao thông nông thôn theo Quyết định số
39/QĐ-UB ngày 21/4/2000; Quyết định số 66/QĐ-UB ngày 18/7/2001; Quyết
định 170/QĐ-UB ngày 22/12/2005. Theo đó Nhà nước hỗ trợ 20% giá trị khối
lượng hoàn thành, xã khó khăn là 40%; từ năm 2006 tỷ lệ hỗ trợ 40% giá trị
hoàn thành các dự án xây dựng đường giao thông nông thôn.
- Hỗ trợ đầu tư xây dựng kiên cố hoá kênh mương cấp 3 của các xã
theo Quyết định số 902/QĐ-CT ngày 13/10/1999, Nghị định số 11/2000/NQ-
HĐND, ngày 26/4/2000. Theo đó, Nhà nước hỗ trợ 50% giá trị tổng mức đầu
tư, riêng đối với các xã khó khăn là 70% giá trị tổng mức đầu tư.
- Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất các trường mầm non dân lập,
các trường tiểu học, trung học cơ sở công lập theo Quyết định số
110/2002/QĐ-UB ngày 6/9/2002.
- Hỗ trợ đầu tư xây dựng trụ sở xã, nhà sinh hoạt nông thôn theo Quyết
định số 140/2003/QĐ-UB ngày 31/12/2003: Nhà nước hỗ trợ 30% giá trị
quyết toán đối với trụ sở xã, các xã khó khăn là 45%, hỗ trợ 20% giá trị hoàn
thành quyết toán đối với nhà sinh hoạt thôn.
- Ngoài ra, tỉnh cũng đã có các Quyết định hỗ trợ từng năm cho xây
dựng hạ tầng chợ nông thôn, các cơ sở khác như trạm y tế, hạ tầng thể thao,
50
văn hoá ở cơ sở từ nguồn ngân sách tỉnh. Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng đã có
Quyết định số 134/2002/QĐ-UB ngày 30/7/2004 về quy trình thực hiện các
dự án sử dụng quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng tỉnh Bắc Ninh nhằm
tạo điều kiện cho các cấp khai thác quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng.
2.2.6. Các chính sách liên quan đến cải cách hành chính nhằm thuận tiện
cho các DNVVN NQD đầu tư phát triển như: Quyết định số 117/2000/QĐ-UB
ngày 20/11/2000 quy định thủ tục hồ sơ, quy chế phối hợp cấp giấy phép đầu
tư, giấy chứng nhận đầu tư, Quyết định 13/2004/QĐ-UB ngày 16/2/2004 phê
duyệt chương trình cải cách hành chính tỉnh Bắc Ninh và một loạt các Quyết
định của UBND về ban hành quy trình, thủ tục, trình tự, thời gian giải quyết
các lĩnh vực công việc áp dụng thực hiện cơ chế một cửa tại các cơ quan như
Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Tài nguyên môi trường, Sở Xây dựng, Ban Quản lý
các KCN…
2.2.7. Các chính sách khác về phân cấp quản lý ngân sách, định
mức phân bổ ngân sách năm đầu thời kỳ ổn định đều xác định hệ số phân
bổ riêng cho các làng nghề đối với một số định chi về sự nghiệp kinh tế,
bảo vệ môi trường…
Ngoài các chính sách trên, UBND tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng các qui
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, định hướng đến năm
2020 về: Giao thông, công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn,
thương mại và du lịch, qui hoạch tổng thể phát triển đô thị, qui hoạch không
gian, hành lang các tuyến quốc lộ, các khu và cụm công nghiệp để tạo mặt
bằng cho các DN.
UBND tỉnh Bắc Ninh cũng đã thành lập các Trung tâm nhằm trợ giúp
các DNVVN ngoài quốc doanh: Trung tâm tư vấn đầu tư (Sở Kế hoạch đầu
tư), Trung tâm xúc tiến thương mại và du lịch (Sở Công Thương), Trung tâm
xúc tiến việc làm (Sở Lao động - Thương binh và Xã hội), Trung tâm phát
triển quĩ đất (Sở Tài nguyên - môi trường), Trung tâm tư vấn và chuyển giao
51
công nghệ (Sở Khoa học - Công nghệ), Trung tâm khuyến công và tư vấn
phát triển công nghiệp (Sở Công Thương), Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN
(UBND tỉnh). Các Trung tâm này đã hỗ trợ cho các DNVVN ngoài quốc
doanh về các ưu đãi đầu tư, về tư vấn đầu tư, các thông tin thị trường, về
khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực, đất đai, nguồn vốn và các điều kiện
khác để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
2.3. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH
Thực hiện các chức năng được phân cấp, tỉnh Bắc Ninh đã hoàn chỉnh
đề án phát triển các cụm kinh tế của Tỉnh đến năm 2020, trong đó tập trung
triển khai thực hiện các tuyến đường chuyên doanh, đẩy nhanh tiến độ thực
hiện các dự án chợ - siêu thị - trung tâm thương mại tổ chức “đối thoại cùng
doanh nghiệp” nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong quá trình
hoạt động của các đơn vị, thực hiện cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ
thông tin, áp dụng hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001 vào giải quyết
các thủ tục hành chính và quản lý sau đăng ký kinh doanh, v.v… Do vậy, các
thành phần kinh tế, có kinh tế tư nhân đã có điều kiện phát huy nội lực để
không ngừng phát triển.
2.3.1. Về số lượng và quy mô các doanh nghiệp tư nhân
* Số doanh nghiệp đăng kí mới hàng năm
Với sự ra đời của Luật DNTN (1990) và Nghị định số 221/NĐBT ngày
32/7/1991 về cá nhân và nhóm kinh doanh, cùng nhiều chỉ thị, nghị quyết,
chính sách của Đảng, Nhà Nước, đã tạo ra bước ngoặt cho sự hồi sinh và phát
triển của KTTN trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên sự phát triển KTTN ở Bắc
Ninh chỉ thực sự bắt đầu từ sau năm 2000 khi Luật Doanh nghiệp 2000 ra đời
(vì năm 1997 Bắc Ninh mới được tái lập tỉnh).
52
Bảng 2.4: Số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký mới của Bắc Ninh
và toàn quốc
Đơn vị: Doanh nghiệp
Năm
2000 2001
2002 2003
2004
2005
2006
2007
2008 2009
2010
Toàn quốc 14457 19800 21535 27771 37230 39950 46606 58196 65318 84531 89180
Bắc Ninh
68
120
232
365
364
318
409
572
556
776
782
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ trung tâm thông tin, Cục Phát triển doanh nghiệp - Bộ KH&ĐT
Số lượng DN đăng ký mới của Bắc Ninh giai đoạn 2000-2004 là 1149
DN (toàn quốc có 120.793 DN đăng ký mới), bình quân 229,8DN/năm (toàn
quốc 24.158,6 DN/năm), giai đoạn 2005-2010 số DN đăng ký mới của Bắc
Ninh là 3413 (bình quân 526,2DN/năm) bằng 1,04% so với số DN đăng ký
mới hằng năm trên toàn quốc. Đặc biệt số lượng DN đăng lý mới hằng năm
của Bắc Ninh luôn có xu hướng tăng năm sau cao hơn năm trước và ngay cả
trong hai năm khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu thì số lượng doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh mới cũng không hề suy giảm.
Số doanh nghiệp đang hoạt động
Theo số liệu của Sở KH&ĐT tỉnh Bắc Ninh thì số doanh nghiệp đăng
ký hằng năm tính đến 31/12/2010 của Bắc Ninh là 4562 doanh nghiệp. Tuy
nhiên số liệu điều tra hằng năm của Cục Thống kê Bắc Ninh thì số doanh
nghiệp thuộc khu vực KTTN của tỉnh Bắc Ninh đến hết năm 2010 là 2007
DN bằng 43,9% số DN đăng ký.
Doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh nhưng không hoạt động do nhiều
nguyên nhân: ý tưởng kinh doanh chưa chín muồi, những thay đổi nội tại và
ngoại cảnh ảnh hưởng tới kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, môi trường
kinh doanh quá phức tạp và khó khăn so với dự tính ban đầu của chủ doanh
nghiệp, trình độ quản trị và điều hành còn hạn chế của chủ doanh nghiệp, thủ
tục sau đăng ký kinh doanh quá phức tạp,...do vậy doanh nghiệp không thể đi
53
vào hoạt động hoặc ban đầu hoạt động rồi phải dừng hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tại Bắc Ninh một số trường hợp DNTN được thành lập với mục đích
không lành mạnh như chỉ đơn thuần là mua bán hóa đơn và gian lận thuế,
hoặc có trường hợp doanh nghiệp được thành lập do chủ đầu tư nước ngoài
(người Trung Quốc) thuê người Việt Nam không có trình độ làm giám đốc
doanh nghiệp nhưng mọi giấy tờ như: hóa đơn, sổ sách, con dấu do chủ nước
ngoài nắm giữ.
Cơ cấu doanh nghiệp theo loại hình
Số lượng DNTN của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-1010 theo từng loại
hình doanh nghiệp biến động như sau:
Bảng 2.5: Số lượng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
Năm Tổng số Doanh nghiệp TN Công ty TNHH Công ty cổ phần 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
132 227 314 465 648 873 1050 1304 1443 1701 2007
81 144 196 313 412 543 667 886 973 1177 1403
49 73 108 137 202 270 289 299 293 285 316
2 10 10 15 34 60 94 119 177 239 288
Nguồn: Cục Thống kê Tỉnh Bắc Ninh cung cấp.
- Đối với loại hình DNTN, năm 2000 Bắc Ninh mới chỉ có 49 DN
(chiếm 37,12% tổng số DNTN) thì đến năm 2010 đã có 316 DN (chiếm
15,7%) gấp 6,4 lần so với năm 2000.
- Loại hình công ty TNHH năm 2000 có 81 DN (chiếm 61,36%), đến
năm 2010 là 1403 DN (chiếm 69,90%) gấp 17,3% so với năm 2000.
54
- Loại hình Công ty cổ phần (CTCP), nếu so với các tỉnh thành khác
thì ở Bắc Ninh hoạt động của loại hình này xuất hiện muộn hơn. Năm 2000
khi Luật Doanh nghiệp chính thức thi hành, thì số CTCP hoạt động mới có 2
DN (chiếm 1,52%) đăng kí kinh doanh với số vốn là 3 tỷ đồng. Đến năm
2001 và 2002 số lượng CTCP ở Bắc Ninh cũng chỉ có thêm 8 DN, phải đến
năm 2005 khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời thì số lượng CTCP ở Bắc Ninh
mới có sự bứt phá với 60 DN và đến năm 2010 là 288 DN (chiếm 14,3% tổng
số DNTN của Tỉnh)
Như vậy, có thể thấy rằng Công ty TNHH và DNTN là loại hình doanh
nghiệp mà KTTN Bắc Ninh phát triển mạnh mẽ nhất, chiếm gần 90% DNTN.
Tuy nhiên tỷ trọng loại DNTN có xu hướng giảm dần và tỷ trọng loại hình
Công ty TNHH và CTCP đang có xu hướng tăng lên (tăng mạnh nhất là Công
ty TNHH).
* Quy mô lao động trong các DNTN ở Bắc Ninh
Theo số liệu của Cục thống kê Bắc Ninh, trong giai đoạn 2006 - 2010
, trung bình hàng năm có 10.000 người được bổ sung vào lực lượng lao
động (người từ 15 tuổi trở lên) có việc làm.
Khu vực kinh tế nhà nước tại Tỉnh có số lao động tăng thêm hàng
năm không đáng kể; khu vực kinh tế tập thể đang trong giai đoạn phát triển
hết sức khó khăn nên cũng không thu hút được nhiều lao động và có xu thế
giảm dần qua các năm; số lao động mới của Tỉnh (trên 90%) thuộc về kinh
tế tư nhân, cụ thể các tỷ lệ như sau: năm 2005 chiếm 93,42%, năm 2006:
92,37%, năm 2007: 91,60%, năm 2008: 90,81%, năm 2009: 89,95%, năm
2010: 88,09%.
55
Bảng 2.6: Số lao động sử dụng trong các doanh nghiệp
phân theo thành phần kinh tế tại Bắc Ninh
Đơn vị tính: Lao động
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
9.198
7.500
7.353
7.388
7.408
7.699
15.537
19.865
25.606
Số lao động chia theo thành phần kinh tế Khu vực doanh nghiệp nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
36.800
Khu vực tư nhân
36.198
44.121
47.547
56.463
66.503
Nguồn:Niên giám Thống kê Tỉnh Bắc Ninh năm 2010.
Như vậy trong các doanh nghiệp có đăng ký chính thức, thì khối DNTN
có sự tăng nhanh về số lượng, cũng là khu vực có tốc độ tạo ra việc làm lớn
nhất so với các khu vực kinh tế khác. Điểm đáng chú ý là sau gần 10 năm
thực hiện Luật Doanh nghiệp, “kích cỡ” của các DNTN ở Bắc Ninh chiếm đa
số vẫn là Doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể:
Bảng 2.7: Số lượng các DNTN ở Bắc Ninh theo quy mô lao động
Năm 2000
Năm 2005
Năm 2009
Tổng số DN
132
873
1670
<10 lao động
23
242
490
10-49 lao động
71
480
937
50-99 lao động
20
92
128
100-199 lao động
12
38
77
200-299 lao động
4
9
19
300-499 lao động
9
14
500-999 lao động
3
3
> 1000 lao động
2
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục thống kê Bắc Ninh
56
Như vậy, đại đa số DNTN ở Bắc Ninh sử dụng từ 50 lao động trở
xuống, có đến 1427 DN (năm 2009: dưới 10 lao động là 490 DN và từ 10-49
lao động là 937 DN) chiếm 85,45%. Tại Bắc Ninh hiện chỉ có 2 DN sử dụng
trên 1000 lao động đó là Công ty may Đáp Cầu và công ty Kính Đáp Cầu, đây
là các DNNN thực hiện cổ phần hóa (hiện nhà nước chiếm giữ 20% vốn chủ
sở hữu tại 2 công ty này.
Trong giai đoạn vừa qua, số lượng lao động trong khu vực DNTN của
Bắc Ninh tăng, chủ yếu là do tăng nhanh số lượng doanh nghiệp, còn bình
quân lao động trong một doanh nghiệp lại có xu hướng giảm: nếu năm 2000
bình quân số lao động trên 1 DN là 49 lao động, thì đến năm 2009 chỉ còn 33
lao đông/1DN.
Nếu so sánh với khu vực DNNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN thì rõ
ràng có sự tách biệt lớn. Năm 2000, quy mô bình quân của DNNN là 270 lao
đông/1DN gấp 5,5 lần DNTN, doanh nghiệp có vốn ĐTNN là 213 lao
động/1DN gấp 4,3 lần DNTN. Tuy nhiên năm 2010, tỷ lệ này còn tăng lên,
quy mô bình quân của DNNN là 463 lao động/DN lần lượt gấp 12,60 lần so
với DNTN (bình quân 33 lao động/DN) và số lao động bình quân của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 287 lao động/DN gấp 8,69 lần DNTN.
Bảng 2.8: Số lao động bình quân của doanh nghiệp
các thành phần kinh tế ở Bắc Ninh năm 2000 và 2010
Năm 2000
Năm 2010
DNTN
DNNN
DNTN
DNNN
DN có vốn FDI
DN có vốn FDI
132
44
2
2007
16
128
Số DN đang hoạt động
6.470
11.932
427
66.530
7408
36.800
Tổng số lao động
49
270
213
33
463
287
Lao động trung bình/DN(người)
Nguồn: Cục thống kê Bắc Ninh
57
Như vậy, do có sự khác nhau về tiềm lực tài chính, mặt bằng SXKD và
trình độ quản lý nên quy mô lao động bình quân một DNTN có chênh lệch
khá lớn và biến động đáng kể trong 10 năm qua so với loại hình DNNN và
DN có vốn ĐTNN tại Bắc Ninh. Rõ ràng, so sánh với các DNNN và doanh
nghiệp có vốn ĐTNN thì các DNTN ở Bắc Ninh vẫn là những “chàng tí hon”
tính theo bình quân lao động/DN.
2.3.2. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân trong các ngành ở Bắc Ninh
2.3.2.1. Kinh tế tư nhân trong các ngành phi nông nghiệp
Với chính sách khôi phục và phát triển của các làng nghề truyền thống,
các hộ sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp của Bắc Ninh cũng phát
triển mạnh mẽ và đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh. Tính đến thời điểm cuối năm 2010 tổng số hộ sản xuất kinh doanh cá thể
ở Bắc Ninh là 77.057 hộ tăng hơn năm 2000 là 52.678 hộ và gấp 3,16 lần,
tính bình quân trong giai đoạn 2000-2010 tốc độ tăng 23,8%/năm.
Bảng 2.9: Số cơ sở sản xuất kinh tế cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp
tỉnh Bắc Ninh
Năm 2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Số hộ 24.370 32.332 42.595 44.654 47.529 50.590 55.159 74.374 75.543 76.467 77.057
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh.
Tuy nhiên các hộ sản xuất kinh doanh cá thể ở Bắc Ninh tập trung chủ
yếu trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến với 28.351 hộ năm 2010, chiếm
38,02% tổng số hộ (năm 2000 là 10.240 hộ tương ứng 42%); thương nghiệp
và sửa chữa xe máy có động cơ, đồ dùng cá nhân với 29.966 tăng 24.178 hộ
so với năm 2000 (gấp 5,17 lần) và chiếm 38,88% tổng số hộ.; lĩnh vực nhà
hàng, khách sạn và vận tải kho bãi, thông tin liên lạc có số lượng trên 5000
hộ. Như vậy có thể thấy số hộ SXKDCT trong ngành thương nghiệp và sửa
chữa xe có động cơ, đồ dùng cá nhân ỏ Bắc Ninh trong giai đoạn 2000-2010
58
có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất cả về tuyệt đối và cơ cấu, điều này minh
chứng cho quá trình chuyển dịch cơ cấu sang lĩnh vực dịch vụ.
Về phân bố số cơ sở SXKDCT và lao động các đơn vị này giữa các
huyện cũng có sự tương đồng: thị xã Từ Sơn có số hộ SXKDCT lớn nhất là
17.641 hộ (năm 2010) chiếm 22,85% tổng số hộ SXKDCT phi nông nghiệp
toàn tỉnh, tiếp đến là Tp. Bắc Ninh với 13.296 hộ (chiếm 17,38%), còn lại các
huyện khác số hộ SXKDCT trong khoảng từ 5000-9000 hộ.
Bảng 2.10: Phân bố số hộ SXKDCT phi nông nghiệp theo huyện thị
2006
2008
2010
Tp.Bắc Ninh
10.989
12.938
13.296
Từ Sơn
14.196
18.303
17.641
Yên Phong
4.165
7.389
8.024
Quế Võ
3.683
7.555
7.596
Tiên Du
5.296
7.241
7.940
Thuận Thành
6.838
9.318
9.918
Gia Bình
5.360
7.279
6.991
Lương Tài
4.632 5.520
5.651
Nguồn: Cục Thống kê Bắc Ninh
Về lao động
Chính vì các hộ SXKDCT phi nông, lâm nghiệp phân bố rộng khắp các
huyện thị và tham gia vào 13 nhóm ngành, nên đã thu hút khá lớn lực lượng
lao động vào làm việc: Năm 2000 lao động của các cơ sở này là 58.599 lao
động và năm 2010 là 156.227 lao động, gấp 2,66 lần so với năm 2000. Số lao
động bình quân trong các hộ SXKDCT năm 2000 là 2,39 lao động/hộ, nhưng
đến năm 2008 thì con số này còn 2,03 lao động/hộ, năm 2010 là 2,02 lao
động/hộ. Như vậy, cùng với các thành phần kinh tế khác, các hộ SXKDCT đã
59
tham gia tích cực vào vấn đề giải quyết việc làm và thu nhập ổn định cho
người lao động, nhất là khu vực nông thôn. Số lao động trong các hộ
SXKDCT ở các huyện thuần nông vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu và tốc độ gia
tăng lao động ở các huyện này cao hơn các huyện có ngành nghề truyền thống
và Tp. Bắc Ninh: Năm 2010 số lao động tại các hộ SXKDCT của huyện Quế
Võ tăng 24,02%, Tiên Du tăng 24,44%; Gia Bình tăng 32,18% so với 2005 và
Thuận Thành tăng 18,9%....
Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu về hộ SXKDCT phi nông nghiệp
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010
Lao động
Năm
Tổng số hộ
Số lượng (người)
Bình quân lao động/cơ sở
2000
24.370
58.299
2,39
2002
42.631
90.235
2,12
2004
47.529
110.502
2,32
2006
55.159
134.427
2,48
2007
74.374
156.326
2,11
2008
75.543
149.444
2.07
2009
76.467
154.871
2.03
2010
77.057
156227
2.02
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh
2.3.2.2. Kinh tế tư nhân trong nông nghiệp
Là tỉnh có diện tích hẹp, đông dân, Bắc Ninh chủ trương phát triển kinh
tế trang trại (KTTT) theo hướng đẩy mạnh chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và
trồng các loại cây rau màu có giá trị hàng hóa. Ngay từ năm 2000, sau khi có
Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ về phát triển
KTTT, tỉnh Bắc Ninh đã nắm bắt thời cơ đẩy mạnh phát triển loại hình kinh tế
này tại các vùng nông thôn, đặc biệt là những vùng có nhiều diện tích đồng
60
chiêm trũng, gieo cấy lúa đạt hiệu quả thấp. Ngày 26/7/2001 tỉnh ủy Bắc Ninh
có nghị quyết 06-NQ/TU về định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, mở đường cho sự hình thành và phát triển mô hình kinh tế trang
trại trong tỉnh. Cụ thể hóa nghị quyết 06 này, ngày 30/8/2002 UBND tỉnh Bắc
Ninh ra quyết định số 108/2002/QĐ-UB về hỗ trợ các loại cây, con, giống
mới, chuyển giao kỹ thuật, giúp đỡ xây dựng cơ sở hạ tầng… Đặc biệt chính
sách giao đất ổn định, lâu dài tới hộ gia đình, khuyến khích dồn điền đổi thửa,
cho thuê đất tạo vùng sản xuất quy mô lớn, chính sách tín dụng, thị trường
tiêu thụ… góp phần kích thích mô hình trang trại phát triển ngày càng rộng
khắp trên các huyện, thị xã trong tỉnh.
Bảng 2.12: Tăng trưởng số lượng trang trại giai đoạn 2005-2010
Số lượng trang trại
Năm
2005
1.757
2006
1.788
2007
1.859
2008
1.926
2009
2.477
2010
2.679
Nguồn: Số liệu tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh
Kinh tế trang trại đang có xu hướng phát triển mạnh là mô hình sản
xuất hàng hóa mang lại hiệu quả cao. Số trang trại ở Bắc Ninh đã tăng từ
1.757 trang trại năm 2005 lên 2.679 trang trại năm 2010, tăng 922 trang trại
so với năm 2005 và năm 2009 đã tăng 515 trang trại so với năm 2008, con số
này nhiều hơn số trang trại tăng thêm từ 2005-2008 là 169 trang trại. Các
trang trại được phân bố rộng khắp ở các địa phương trong tỉnh Bắc Ninh,
nhưng nhiều nhất là ở các huyện Thuận Thành (578 trang trại), Gia Bình (546
61
trang trại), Lương Tài (441 trang trại), Yên Phong (430 trang trại); các huyện
thị còn lại số trang trại dao động từ 150-200 trang trại.
Hiện tại quy mô trang trại còn nhỏ với tổng số đất sử dụng năm 2010 là
1.582 ha, bình quân mỗ trang trại sử dụng 0.59 ha. Trong đó trang trại trồng
cây hàng năm là 1,7 ha, trang trại thủy sản 0,9 ha và trang trại kinh doanh
tổng hợp là 1,1 ha. Điều này cho thấy, quy mô diện tích trang trại của Bắc
Ninh là rất nhỏ, số trang trại từ 5-10ha chỉ chiếm tỷ lệ 14%.
Kinh tế trang trại ở Bắc Ninh năm 2010, đã thu hút được 8.419 lao
động (bình quân 3 lao động/trang trại), trong đó có 2.526 lao động thuê theo
thời vụ.
Về vốn đầu tư của các trang trại năm 2010, đã huy động được 448.124
tỷ đồng dùng cho sản xuất, kinh doanh, bình quân 182,2 triệu/ trang trại cao
hơn 39,6 triệu so với năm 2006. Tại các địa phương có không ít các chủ trang
trại đã mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất có quy mô lớn mang lại hiệu
quả kinh tế khá cao, các chủ trang trại chủ động dùng vốn tự có đầu tư hơn
370 tỷ đồng vào quy hoạch, cải tạo đồng ruộng, xây dựng hệ thống chuồng
trại, đào ao hồ thả cá, từng bước vươn lên thực hiện phương án sản xuất kinh
doanh có giá trị hàng hóa cao.
Như vậy, trong 6 năm qua, tôc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế
trang trại ở Bắc Ninh là 13%. Nguồn gốc hình thành các loại đất KTTT phần
lớn đều tập trung từ các vùng hoang hóa, hoặc khó canh tác, gặp khó khăn về
cơ sở hạ tầng. Trên diện tích như vậy, bằng nhiều cách làm khác nhau đã đem
lại một khối lượng sản phẩm hàng hóa ngày càng nhiều cho xã hội. Chỉ tính
riêng năm 2010, giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ của KTTT đã đạt
687.075 tỷ đồng, bình quân một trang trại tạo ra giá trị sản lượng hàng hóa
256.5 triệu đồng. Xét về thu nhập, các mô hình KTTT trong năm qua cho thu
nhập134.305 tỷ đồng, bình quân một trang trại cho thu nhập 50,1 triệu đồng.
62
Về cơ cấu trang trại theo loại hình
Bảng 2.13: Cơ cấu trang trại theo loại hình năm 2006 và 2010
Năm
Trang trại chăn nuôi
Trang trại khác
Trang trại nuôi trồng thủy sản
Trang trại SXKD tổng hợp
2006
76,28%
8,89%
13,75%
1,08%
2010
49.98%
18,81%
31,05%
0,16%
Nguồn: Cục Thống kê Bắc Ninh
Các trang trại theo loại hình ở Bắc Ninh chủ yếu là chăn nuôi, thủy
sản và SXKD tổng hợp, trong đó loại hình chuyên về trang trại chăn nuôi tập
trung chiếm tỷ trọng cao nhất: Năm 2010 loại hình trang trại này chiếm
49,98 % tổng số trang trại với 1.339 trang trại (năm 2006 là 76,28% với
1.364 trang trại).
Số trang trại SXKD tổng hợp chiếm 31,05% năm 2010 với 832 trang
trại (năm 2006 là 13,75% với 246 trang trại).
Số trang trại thủy sản năm 2010 chiếm 18,81% với 504 trang trại (năm
2006 là 8,89% với 159 trang trại). Phát triển kinh tế trang trại đã tận dụng
được diện tích đất đai, mặt nước để phát triển chăn nuôi, trồng trọt và thủy
sản. Toàn Tỉnh đã chuyển được nhiều ha ruộng trũng cấy lúa năng suất thấp
sang nuôi trồng thủy sản, đưa diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng từ
4.848 ha năm 2006 lên 5.419 ha năm 2010. Các trang trại thủy sản đã ứng
dụng các tiến bộ kỹ thuật như: giống mới, kỹ thuật nuôi thả…đưa sản lượng
nuôi trồng thủy sản tăng từ 19 nghìn tấn năm 2006 lên 30 nghìn tấn năm
2010. Tổng giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ bán ra của trang đại đạt trên
310 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt khoảng 160 triệu đồng.
Tuy nhiên, mô hình KTTT ở Bắc Ninh chưa phát triển đồng đều mà tập
trung ở một số huyện, còn mang tính tự phát, quy mô trang trại nhỏ (bình
quân diện tích đất sử dụng năm 2010 chỉ còn 0,6ha), số lao động hạn chế, chủ
63
yếu là lao động trong gia đình, mức đầu tư thấp (trên dưới 100 triệu đồng) nên
giá trị sản lượng hàng hóa và dịch vụ chưa cao, mức lợi nhuận thấp (gần 24
triệu đồng/trang trại/năm).
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ
NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH
2.4.1. Những kết quả đạt được
Một là, từ sau khi tái lập tỉnh Bắc Ninh khu vực KTTN tăng nhanh cả
về số lượng và vốn đăng ký, sự phát triển của khối DNTN là nhân tố chính
thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp nói chung ở Bắc Ninh. Cơ cấu các DNTN
theo ngành kinh tế của Bắc Ninh so với cả nước có tiến bộ hơn (doanh nghiệp
ngành công nghiệp chiếm trên 50%), mặt khác các loại hình DNTN có mặt
trong tất cả các nhóm ngành nghề, các huyện trong tỉnh.
Hai là, các đơn vị KTTN Bắc Ninh được phân bổ phù hợp với lợi thế
và điều kiện tự nhiên ở các địa phương trong Tỉnh. Một số huyện, thị như: Từ
Sơn, Tiên Du, Yên Phong, Bắc Ninh có truyền thống các làng nghề cũng như
tập quán kinh doanh từ xưa kia đã phát triển mạnh các loại hình DNTN cũng
như các hộ cá thể, tiểu chủ phi nông nghiệp, cung cấp hàng hóa, sản phẩm
cho thị trường Hà Nội và các tỉnh lân cận. Còn tại các huyện như Lương Tài,
Gia Bình, Thuận Thành có thế mạnh riêng để hình thành các mô hình trang
trại phù hợp với tập quán canh tác và vị trí địa lý của mình; các xã có diện
tích lớn nhưng dân cư thưa thớt thì phát triển mô hình chăn nuôi gia súc, gia
cầm; các xã vùng trũng thì xây dựng mô hình chan nuôi kết hợp phát triển
thủy sản… Mô hình trang trại đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều trên khắp
các xã, phường, thị trấn đã góp phần quan trọng xóa đói, giảm nghèo, huy
động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn, làm
thay đổi diện mạo kinh tế nông nghiệp, nông thôn của Bắc Ninh.
Ba là, KTTN Bắc Ninh đã khẳng định được vị trí và vai trò to lớn trong
quá trình phát triển kinh tế của tỉnh, thong qua sự đóng góp vào tăng trưởng
64
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết lao động việc làm, đặc biệt là
khơi dậy tiềm năng của các làng nghề, phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế
nhờ quy mô ở từng vùng, từng địa phương.
Thu hút vốn đầu tư xã hội đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế
Sự lớn mạnh của các DNTN của Bắc Ninh không chỉ góp phần đến
quyết định tăng trưởng kinh tế chung, mà còn tác động nhiều đến cơ cấu kinh
tế và các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong 10 năm qua DNTN trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh đã góp phần rất lớn, có tính quyết định giữ vững nhịp đọ tăng
trưởng kinh tế ổn định ở mức cao và tác động tích cực vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế cũng như các vấn đề xã hội.
Liên tục trong 10 năm qua, KTTN Bắc Ninh phát triển nhanh đã tạo ra
một khối lượng hàng hóa dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất lượng hơn sau
mỗi năm. Tuy đóng góp của từng đơn vị cá thể độc lập là không lớn nhưng
với số lượng lớn các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể nên hàng năm
đã huy động được nguồn lực khá lớn vào sản xuất kinh doanh. Cụ thể năm
2000 mới chỉ huy động từ khu vực KTTN được 732 tỷ đồng chiếm 51,32%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì năm 2010 đã thu hút được 11.412,7 tỷ đồng
chiếm 57,01%.
Bảng 2.14: Vốn đầu tư toàn xã hội theo khu vực tại tỉnh Bắc Ninh
Đơn vị: tỷ đồng
2000
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Vốn nhà nước
675,7
968,7 1025,8 1.135,7 1.213,3
2.273,3
2.667,3
Vốn tư nhân
732 3.358,2 4.278,6 5.949,3 7.478,6 10.296,0 11.412,7
18,6
443,4
680,6 2.293,3 4.002,1
4.126,6
5.938,3
Vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn: Số liệu tác giả tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh
Việc huy động được ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư của khu vực
này càng thể hiện tầm quan trọng trong phát triển KTTN của tỉnh cũng như
65
phản ánh sức mạnh của nền kinh tế. Đó cũng là yếu tố góp phần quyết định
làm cho tỷ trọng đóng góp giá trị tăng thêm của khu vực KTTN vào GDP
chung của tỉnh tăng nhanh.
Bảng 2.15: Tỷ trọng đóng góp GDP của tỉnh Bắc Ninh
theo thành phần kinh tế
Đơn vị: %
2000
2005
2010
Kinh tế nhà nước
23,28
17,49
15,86
Kinh tế tập thể
30,51
3.80
2,32
Kinh tế tư nhân
40,10
72,82
53,82
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
6,12
5.90
28
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Cục thống kê Bắc Ninh
Năm 2000, GDP của KTTN Bắc Ninh chỉ chiếm 40% (1.350,3 tỷ
đồng), thì đến năm 2005 KTTN đóng góp 72,82% GDP của cả tỉnh với
6.066,9 tỷ đồng, đây là năm KTTN đóng góp tỷ trọng GDP toàn tỉnh cao nhất
trong giai đoạn 2000 - 2010. Năm 2010 khu vực KTTN của tỉnh Bắc Ninh
đóng góp 19.356,7 tỷ đồng (chiếm 53,82% GDP cả tỉnh) gấp 3,19 lần so với
năm 2005 và gấp 14,3 lần so với năm 2000. Mặc dù khu vực KTTN đóng góp
vào GDP có sự tăng trưởng mạnh về giá trị tuyệt đối nhưng lại có xu hướng
giảm về tỷ trọng (từ 72,82% năm 2005 xuống 53,82% năm 2010) đó là do sự
đóng góp mạnh mẽ của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Tạo nguồn vốn bổ sung cho ngân sách nhà nước
Cùng với sự tăng lên của số lượng các loại hình DNTN thì nguồn thu từ
khu vực này cũng tăng lên rất nhiều: Năm 2000 DNTN của Bắc Ninh đóng
góp 35 tỷ đồng chiếm 15.62% tổng thu ngân sách toàn khối doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh, năm 2010 là 700,5 tỷ đồng gấp 20 lần so với năm 2000, chiếm
34,34%. Như vậy ở Bắc Ninh khu vực KTTN cùng với khu vực có vốn đầu tư
66
nước ngoài (năm 2010 đóng 521,4 tỷ đồng chiếm 25,12% tổng thu ngân sách
khối doanh nghiệp) là bộ phận đóng góp ngân sách chủ yếu.
Giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của các
tầng lớp dân cư
Quá trình cải cách DNNN làm giảm dần số lao động trong các cơ sở
khối kinh tế Nhà nước, trong khi đó kinh tế tập thể chưa phát huy hết được
vai trò cho nên vấn đề giải quyết việc làm phụ thuộc vào khu vực KTTN và
kinh tế có vốn ĐTNN. Trong khi trình độ nguồn nhân lực của Việt Nam nói
chung và của Bắc Ninh nói riêng còn thấp, thì khu vực KTTN sẽ là khu vực
thu hút lao động và giải quyết việc làm hiệu quả hơn cả. Thực tế, trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh năm 2010, khu vực KTTN đã thu hút 522.490 lao động; tính ra
mỗi năm KTTN Bắc Ninh giải quyết thêm khoảng trên 15.000 việc làm, góp
phần đáng kể vào giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Việc phát triển các ngành nghề truyền thống đóng góp đáng kể trong
việc giải quyết việc làm cho lao động nhàn rỗi ở nông thôn và nâng cao thu
nhập cho bộ phận này. KTTN của tỉnh phát triển đã khuyến khích năng khiếu
quản lý kinh doanh của đội ngũ doanh nhân và giúp cho họ ngày càng hoàn
thiện hơn kỹ năng quản lý của mình. Mặc dù đội ngũ doanh nhân trên địa bàn
hình thành tự phát và có quá trình chưa lâu, nhưng đã tỏ ra thích ứng khá
nhanh với cơ chế thị trường cũng như yêu cầu mới của thời kỳ mới.
Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH -HĐH
Việc khu vực KTTN tham gia nhiều vào lĩnh vực công nghiêp - xây
dựng, thương mại - dịch vụ đã làm cho cơ cấu kinh tế tỉnh chuyển dịch theo
hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng của
ngành nông nghiệp. Đồng thời do hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực
KTTN ngày càng tăng buộc các DNNN do TW và Địa phương quản lý cũng
phải khẩn trương tổ chức, sắp xếp hoạt động để có thể cạnh tranh đứng vững
trong cơ chế thị trường.
67
Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh không những trong ngành công
nghiệp, xây dựng, dịch vụ… mà còn có mặt ở nhiều địa phương, đặc biệt ở
vùng trước đây là thuần nông. Huyện Lương Tài, Gia Bình, Quế Võ trước đây
hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là nông nghiệp, số lượng các doanh
nghiệp phi nông, lâm, thủy sản tương đối ít, từ năm 2000 và những năm gần
đây số DNTN đã tăng lên đáng kể, tập trung ở các KCN làng nghề như:
Quảng Bố (Lương tài), Đại Bái (Gia Bình), KCN tập trung Quế Võ (Quế Võ).
Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế năm 2000: Nông lâm nghiệp thủy sản - Công
nghiệp - Dịch vụ là: 37,96% - 35,57% - 26,37%; năm 2005 là: 26,26% -
45,92% - 27,82% và năm 2010 là: 10,45% - 66,11% - 23,44%.
Bốn là, một số dơn vị KTTN đã chú ý tới xây dựng thương hiệu. Trong
số các làng nghề, các doanh nhân làng nghề đồ gỗ Đồng Kỵ (thị xã Từ sơn) là
những người “nhanh chân” trong việc xây dựng thương hiệu. Từ những năm
đầu thập kỷ này, nhiều doanh nghiệp Đồng Kỵ đã chú ý xây dựng các gian
hàng giới thiệu sản phẩm ở khắp các đô thị lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh, Hải Phòng…Những doanh nhân này cũng là những người đầu tiên xây
dựng các trang web cá nhân của Doanh nghiệp mình để quảng bá thương
hiệu, sản phẩm ra thế giới. Chính vì vậy khi nói đến sản phẩm gỗ mỹ nghệ
người ta nhớ ngay đến đồ gỗ Đồng Kỵ, trong khi Phù Khê, Hương Mạc mới
là quê hương của mặt hàng này. Ba trong những làng nghề cũng đã bước đầu
thành công với việc quảng bá thương hiệu, là làng tranh dân gian Đông Hồ
(Thuận Thành), tre trúc Xuân Lai (Gia Bình) và gốm Phù Lãng (Quế võ).
Tiêu biểu hơn cả là làng tranh Đông Hồ được nhiều du khách trong nước,
quốc tế biết đến nhờ phương tiện truyền thông đại chúng.
2.4.2. Những hạn chế của kinh tế tư nhân Bắc Ninh
Thứ nhất, năng lực cạnh tranh còn thấp, mang nặng tính tự phát, manh
mún, chưa có chiến lược kinh doanh dài hạn, dễ tổn thương trước các biến
động kinh tế.
68
Tuy phát triển nhanh với số lượng lớn, nhưng phần lớn các DNTN
được thành lập có quy mô nhỏ, số vốn không quá 5 tỷ đồng, bộ máy quản ly,
điều hành gồm giám đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ… vẫn theo lối “gia
đình trị”. Không ít chủ Doanh nghiệp chưa qua đào tạo cơ bản, trình độ và
năng lực quản lý kinh tế còn hạn chế, thiếu hiểu biết pháp luật… nên không
xây dựng được các kế hoạch kinh doanh lâu dài và bền vững với những mục
tiêu, sứ mệnh, định hướng sản xuất kinh doanh được xác định rõ ràng. Nhiều
DNTN Bắc Ninh được thành lập theo phong trào dẫn đến việc sản xuất kinh
doanh tùy tiện, nhiều doanh nghiệp ưa chuộng các cơ hội đầu tư ngắn hạn,
nhất thời …là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vi phạm Luật Doanh nghiệp hoặc
phá sản. Có nhiều trường hợp thành lập công ty nhằm che đậy những hoạt
động trái luật pháp, như chiếm đất, buôn bán hóa đơn giá trị gia tăng, chiếm
dụng vốn tín dụng, hoặc trốn thuế bằng nhiều hình thức…sản xuất hàng giả bị
các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý.
Vì các đơn vị KTTN Bắc Ninh chưa có kế hoạch kin doanh cụ thể về
các nguồn lực đầu vào cũng như nhu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ, nên
hầu hết các doanh nghiệp này rất dễ tổn thương trước các biến động của thị
trường. Các DNTN đôi khi chỉ chú trọng một thị trường hoặc trong nước hoặc
nước ngoài, sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài hoặc cưa có hoặc
chưa tạo được chỗ đứng trên thị trường. Chính điều này đã làm cho khu vực
KTTN ở Bắc Ninh chịu tác động mạnh mẽ của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
2008, đặc biệt là trong các làng nghề - nơi có các gia đình, tổ sản xuất, hợp
tác xã, các DNNVV: sản xuất, kinh doanh đình đốn, lao động thiếu việc làm,
không ít DNTN đang phải thu hẹp sản xuất, hoặc buộc phải cho thôi việc một
số lao động.
Sự thiếu thích nghi với thị trường của các đơn vị KTTN đặc biệt tại
một số làng nghề đã làm cho các nghề truyền thống mai một, một số làng
nghề nổi tiếng như Làng nghề dệt vải Đại Mão chỉ còn máy dệt vải vuông,
69
làng nghề tranh Đông Hồ chỉ còn hai hộ làm, làng nghề tre đan Đông Côi,
làng gốm Phù Lãng…nhưng các làng nghề này đang bị mai một dần do thị
hiếu của người tiêu dung thay đổi hay do phương thức sản xuất của ngành này
không có nững cải tiến thích hợp hơn, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ buộc các
cơ sở sản xuất phải thu hẹp hoặc chuyển sang nghề khác. Điều này đặt ra cần
tái cơ cấu các ngành nghề tại khu vực KTTN ở Bắc Ninh: Cần giữ lại hệ
thống các nghề có khả năng cạnh tranh, thích nghi với thị trường.
Thứ hai, trình độ quản lý yếu kém và trang thiết bị công nghệ lạc hậu,
sử dụng mặt bằng sản xuất lớn.
Lao động trong các DNTN Bắc Ninh có tỷ lệ đào tạo thấp, thiếu trầm
trọng công nhân có kỹ năng, tay nghề cao, còn lao động trong các hộ
SXKDCT thì chủ yếu tận dụng lao động trong gia đình, hay lao động nhàn rỗi
ở nông thôn. Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của các DNTN ở Bắc Ninh
còn nhiều hạn chế, không chuyên nghiệp, phần lớn dựa vào kinh nghiệm cá
nhân của các chủ doanh nghiệp, chưa có điều kiện đầu tư đào tạo nhân lực và
ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý.
Trình độ quản lý tài chính, sổ sách kế toán, thống kê của KTTN Bắc
Ninh còn rất yếu, không thực sự quan tâm đến việc thực hiện các báo cáo định
kỳ với cơ quan quản lý Nhà nước. Hiện tại mới chỉ có 40% số doanh nghiệp
trên địa bàn nộp báo cáo tài chính hằng năm.
Trong loại hình kinh tế trang trại thì trình độ chuyên môn, kinh nghiệm
sản xuất cũng như quản lý của chủ trang trại còn yếu và thiếu. Thực tế chỉ có
63% chủ trang trại là nông dân, số còn lại là bộ đội phục viên, cán bộ đã nghỉ
hưu. Hầu hết họ đều chưa qua đào tạo nghiệp vụ quản lý (chiếm 95%) thường
lung túng trước những biến động của thị trường.
Trình độ trang thiết bị công nghệ của khu vực KTTN Bắc Ninh nhìn
chung còn lạc hậu gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Do tiềm lực về vốn
hạn chế vì vậy ít có khả năng đổi mới công nghệ. Phần lớn máy móc, thiết bị
70
đều rất cũ, lạc hậu nhiều doanh nghiệp còn tiết kiệm chi phí bằng cách mua
dây truyền sản xuất cũ của các DNNN tiến hành cổ phần hóa.
Tại Bắc Ninh rất nhiều cơ sở KTTN tại các làng nghề: đúc đồng Đại
Bái, sắt thép Đa Hội; đúc nhôm chì Văn Môn, giấy Phong Khê hoạt động
trong lĩnh vực cơ khí, luyện kim hoặc sản xuất giấy tái sinh, sử dụng các
nguyên liệu là các phế liệu đưa vào lò nung tự tạo không có hệ thống xử lý
nước thải, khí thải… đã dẫn tới hậu quả là ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
cho tỉnh Bắc Ninh.
Thứ ba, thiếu vắng các doanh nghiệp lớn đóng vai trò đầu tàu, lĩnh
vực quan trọng.
Số lượng những DNTN lớn và vừa của Bắc Ninh có rất ít: trong báo
cáo tóp 500 doanh nghiệp lớn nhất của Vietnam Report và Vietnamnet công
bố năm 2009, Bắc Ninh chỉ đóng góp có 3 doanh nghiệp (trong số 145 DN
trên toàn quốc) của khu vực tư nhân đó là: Công ty CP DABACO Việt Nam
(chế biến thức ăn gia súc, đây là DNNN cổ phần hóa), Công ty CP Tập đoàn
Hanaka (sản xuất thiết bị điện, dây dẫn), Tổng công ty CP Phát triển đô thị
Kinh Bắc (bất động sản). Trong ba doanh nghiệp trên chỉ có công ty Hanaka
hình thành từ hộ SXKDCT lên, trải qua các giai đoạn từ công ty gia đình,
doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp vừ và doanh nghiệp lớn (hiện nay Hanaka
cũng đã hình thành Đảng bộ).
Rõ ràng là khu vực KTTN Bắc Ninh cũng đang thiếu vắng những
doanh nghiệp cỡ vừa để có thể sớm trở thành những doanh nghiệp lớn.
Điều này cũng có nghĩa với việc trong thời gian trung hạn sẽ khó có một
vài DNTN Bắc Ninh đủ tầm cỡ có thể vươn xa nhằm xây dựng một thương
hiệu doanh nghiệp Việt Nam ở quy mô đa quốc gia.
Các ngành có hàm lượng công nghệ cao (sản xuất máy móc thiết bị, kỹ
thuật điện, điện tử, thiết bị chính xác…) rất cần để tăng thêm năng lực sản
xuất nhưng lại chưa được chú ý đầu tư đúng mức, DNTN ở các ngành này đã
71
ít lại có quy mô quá nhỏ, kỹ thuật công nghệ chưa cao. Các ngành dịch vụ
chất lượng cao: tư vấn quản lý kinh doanh, kiểm định chất lượng… hiện nay
trên địa bàn chưa có doanh nghiệp nào. Trong ngành dịch vụ, KTTN chưa
gánh vác được các dịch vụ công trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng vốn ngân
sách. Các DNTN không hoạt động trong lĩnh vực công ích do ngành này
không mang lại lợi nhuận, lợi nhuận không cao, thời gian thu hồi vốn lâu như:
khu vui chơi công cộng…, chủ yếu dựa vào nguồn vốn từ TW hoặc ngân sách
địa phương, trong lĩnh vực dịch vụ y tế thì đa phần là các cơ sở y tế tư nhân
nhỏ, mới chỉ có một bệnh viện tư nhân đa khoa Kinh Bắc.
Thứ tư, sự liên kết giữa khu vực KTTN với các khu vực kinh tế khác
còn lỏng lẻo.
Hầu hết các DNTN Bắc Ninh đều mới chỉ bắt đầu triển khai đầu tư nhà
xưởng, máy móc thiết bị một cách quy mô để tham gia vào hoạt động sản xuất
từ sau năm 2000, với tuổi đời chưa đầy mười năm và bắt đầu gần như từ con
số không (về công nghệ cũng như kỹ năng quản lý kinh doanh), vì thế đã cản
trở các doanh nghiệp này tham gia vào hoạt động cung cấp sản phẩm phụ trợ
cho các doanh nghiệp FDI. Đó là sự chênh lệch về trình độ công nghệ và chất
lượng sản phẩm, sự thiếu hụt thông tin của cả hai phía. Các doanh nghiệp FDI
tham gia đầu tư vào lĩnh vực: sản xuất thép, công nghiệp điện tử tin học, sản
xuất máy văn phòng của công ty Canon Việt nam, nhà máy sản xuất điện
thoại SamSung; còn các DNTN Bắc Ninh sản xuất thép công nghệ thủ công,
thương mại dịch vụ, xây dựng…) dẫn tới sự không tương thích trong việc
cung cấp sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp FDI.
Ngoài ra sự liên kết giữa các bộ phận của khu vực KTTN cũng hạn
chế, chẳng hạn việc liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, chủ yếu
theo phương thức tự sản, tự tiêu hoặc cung cấp cho tư tưởng kinh doanh.
Những trang trại liên kết đầu tư sản xuất, cung ứng sản phẩm cho các cơ sở
chế biến để tăng giá trị sản phẩm hàng hóa chiếm con số rất ít. Chất lượng
72
hàng hóa của trang trại chủ yếu dưới dạng thô, do đó năng suất, chất lượng
chưa cao. Báo cáo của các địa phương cho thấy, 90% sản phẩm của trang trại
bán ở dạng thô hoặc tươi sống chưa qua chế biến, 60% sản phẩm của trang
trại bán với giá thấp, chưa hợp lý… Sản phẩm của trang trại chủ yếu tiêu thụ
thông qua thương lái nên thường bị ép cấp, ép giá làm thiệt hại cho sản xuất.
Các hộ chăn nuôi thiếu thông tin thị trường, thiếu kiến thức về kỹ thuật chăn
nuôi, thiếu sự chỉ đạo quy hoạch phát triển, nên chưa mạnh dạn đầu tư vào
các khâu chuồng trại, giống, thức ăn…Tỉnh cũng chưa có định hướng tổng thể
phát triển chăn nuôi lợn nạc, nên các địa phương thiếu các giải pháp đồng bộ
và cụ thể để tạo thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung.
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển kinh tế tư
nhân ở Bắc Ninh
2.4.3.1. Nguyên nhân khách quan
Một là, những cải tiến về thể chế và cơ chế quản lý của môi trường
kinh doanh đã thay đổi nhiều, nhưng chưa nhanh, chưa thực sự mang tính
cách mạng, chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO, do đó chưa tác động mạnh
nhằm mang lại những thay đổi lớn cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung
và cho khu vực KTTN nói riêng. Mặc dù đã có nhiều cải tiến về phương diện
pháp lý và cải cách thủ tục hành chính, những cải tiến đó chưa đủ để tạo nên
một môi trường thể chế và pháp lý thuận lợi cho công việc kinh doanh của
khu vực KTTN. Năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đáp ứng
yêu cầu của phương thức quản lý mới, còn thấp so với yêu cầu tạo điều kiện
và hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển.
Các quy định luật pháp chưa theo kịp sự phát triển của hoạt động kinh
doanh, các văn bản được ban hành quá nhiều và nhanh, đôi khi lại thiếu nhất
quán, đã gây lung túng cho các doanh nghiệp trong việc nhận thức và ững xử
với những thay đổi của luật pháp. Chẳng hạn, ở các địa phương việc vận dụng
luật thuế thu nhập công ty để khuyến khích đầu tư là rất khác nhau, hay trách
73
nhiệm về chi phí và chế độ cho việc giải tỏa đền bù không thống nhất cũng
gây khó khăn đối với việc tiếp cận nguồn lực đất đai của doanh nghiệp.
Hai là, sự bất bình đẳng giữa kinh tế nhà nước và KTTN làm cho các
DNTN gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Trong các quy định luật
pháp về đầu tư, khi quá nhấn mạnh ưu tiên cho thu hút đầu tư nước ngoài và
các dự án đầu tư lớn của Nhà Nước. ít nhiều có ảnh hưởng đến sự phát triển
của khu vực KTTN, hay nhấn mạnh ưu tiên với một số đối tượng, ngành hàng
trong chừng mực nhất định có thể gây thiệt hại cho các đối tượng khác.
Ba là, theo cam kết WTO, Việt Nam bỏ tài trợ trực tiếp đối với hoạt
động xuất khẩu. Điều này sẽ ảnh hưởng nhất định đôi với các DNTN đặc biệt
là với các DNNVV khi tham gia xuất khẩu hàng hóa ra thị trường khu vực và
thế giới. Việc Việt Nam chưa được thừa nhận có nền kinh tế thị trường. Theo
cam kết khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam là nền kin tế phi thị trường
cho đến năm 2018. Điều này đã tác động đến khả năng tự vệ, chống bị kện
bán phá giá của các DNTN ở Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế.
Bên cạnh đó nền công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa phát triển, vì vậy đa
số các DNTN vừa và nhỏ bị lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu; nhập
siêu của Viêt Nam gia tăng. Nhập khẩu nhiều dẫn tới chi phí kinh doanh tăng,
tác động hạn chế đến khả năng cạnh tranh của các DNTN vừa và nhỏ ở trong
nước cũng như thị trường quốc tế.
2.4.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, môi trường kinh doanh cấp tỉnh của Bắc Ninh vẫn còn
những bất cập nhất định.
Mặc dù chủ trương của Chính phủ và những động thái của chính quyền
tỉnh Bắc Ninh đã rất quan tâm tạo điều kiện thông thoáng tối đa cho khu vực
KTTN, nhưng vẫn còn những rào cản lớn về mặt pháp lý và hành chính trong
quá trình hoạt động của khu vực này. Tuy thủ tục hành chính tại Bắc Ninh đã
được cải cách, bộ phận một cửa của Bắc Ninh đã hoạt động góp phần rút ngắn
74
thời gian, chi phí của người dân trong quá trình đăng kí thành lập doanh
nghiệp. Nhưng sự cải cách này chưa toàn diện, sự phối hợp giữa các cơ quan,
ban ngành trong thủ tục đăng kí kinh doanh còn hạn chế nên chưa đem lại
hiệu quả thiết thực cho chủ doanh nghiệp. Sự yếu kém, nhũng nhiễu của
không ít cán bộ công chức đã làm vô hiệu hóa những chính sách tốt và cam
kết cải cách của Nhà nước, nhiều vướng mắc của Doanh nghiệp trong lĩnh
vực thanh tra, kiểm tra, thuế, phí, hải quan, đất đai… kéo dài đã lâu, nhưng rất
chậm được giải quyết.
Sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các sở, ban ngành liên quan, giữa
các ban ngành với cơ quan Nhà nước, cũng như giữa các phòng ban trong một
cơ quan còn hạn chế. Đôi khi các cơ quan chức năng thực hiện lại công việc
của nhau khi thẩm định và đánh giá những hồ sơ, quy trình thủ tục đã được
một cơ quan khác thẩm định và đánh giá. Nhiều doanh nghiệp còn phàn nàn
về các thủ tục hành chính phức tạp gây tốn kém thời gian và tiền bạc. Ví dụ
như việc kiểm tra, thanh tra của các cán bộ công quyền địa phương, hay việc
xin cấp phép, vay vốn… đã làm tăng chi phí giao dịch của doanh nghiệp đã
ảnh hưởng không tốt tới tâm lý của DNTN, dường như sự phân biệt đối xử
giữa các khu vực kinh tế trong một địa phương cấp tỉnh vẫn còn tồn tại trên
thực tế.
Thứ hai, việc tiếp cận một số nguồn lực đầu vào của KTTN Bắc Ninh
rất hạn chế
Tiếp cận đất đai
Với trình độ khoa học công nghệ và lao động còn thấp thì việc sử dụng
đất đai làm mặt bằng sản xuất vẫn là yếu tố quan trọng của khu vực KTTN.
Tại Bắc Ninh, các DNTN có thể có mặt bằng đất đai trực tiếp bằng hai cách:
Một là, từ các chủ sở hữu đất tư nhân, việc tiếp cận đất đai trong trường hợp
này giống như việc thuê hoặc chuyển nhượng đất đai thông thường giữa chủ
75
đầu tư và chủ sở hữu đất. Hai Là, từ các cơ quan của chính quyền Tỉnh và địa
phương hoặc trong các khu đã quy hoạch như khu, cụm công nghiệp. Tuy
nhiên việc tiếp cận đất đai của các DNTN vừa và nhỏ ở Bắc Ninh tại các khu
công nghiệp không dễ dàng, vì các KCN chủ yếu phục vụ cho các doanh
nghiệp lớn và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy các
DNNVV thường thuê đất từ chính quyền cấp tỉnh và địa phương.
Tuy nhiên, việc xin đất từ chính quyền địa phương hoặc trong các cụm
công nghiệp cũng là việc không dễ dàng đối với các DNTN. Họ phải trải qua
nhiều bước với nhiều thủ tục phức tạp khác nhau do một số cơ quan nhà nước
thụ lý. Do trải qua nhiều bước tuần tự và phức tạp, nên hầu hết các doanh
nghiệp tư nhân ở Bắc Ninh phải tiêu tốn quá nhiều thời và gian và chi phí
không cần thiết, do không hiểu biết hết về các quy trình này.
Tiếp cận nguồn vốn tín dụng chủ yếu từ hệ thống ngân hàng thương mại
Các quỹ hỗ trợ tín dụng cho các đơn vị KTTN ở Bắc Ninh cũng chưa
phát huy hiệu quả cao, quy mô vốn cho hoạt động hỗ trợ nhỏ, do chưa huy
động được nhiều nguồn vốn. Tuy nhiên sau một thời gian hoạt động, quỹ
khuyến công, quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã bộc lộ những hạn chế: nguồn thu quỹ
chủ yếu từ ngân sách của tỉnh, đối tượng đóng góp, thụ hưởng ít, không hiệu
quả... Hơn nữa hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN là công
việc hoàn toàn mới, Bộ tài chính chưa có quy trình tự tham khảo nghiệp vụ
của các ngân hàng, của các tỉnh nên việc tiếp cận công việc không khỏi những
bỡ ngỡ, khó khăn. Bản thân doanh nghiệp cũng gặp lung túng, khó khăn trong
việc tiếp cận với việc vay vốn về hồ sơ, hóa đơn, kế toán và lập phương án
sản xuất kinh doanh, phương án vay vốn phù hợp với các quy định của ngân
hàng cũng như của quỹ. Chính vì vậy các đơn vị KTTN vẫn chủ yếu tiếp cận
nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại, tư nhân, bạn bè và người
quen là chủ yếu.
76
Chất lượng đào tạo nguồn lao động cung cấp cho khu vực KTTN còn thấp
Mặc dù các cơ sở đào tạo ngày càng được đầu tư cả về số lượng và chất
lượng, các hình thức đầu tư ngày càng phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, quy mô
đào tạo còn nhỏ, chủ yếu đào tạo theo chỉ tiêu được giao, không căn cứ vào nhu
cầu thực tế, chưa đa dạng hóa về nội dung và chương trình đào tạo để thức ứng
với nhu cầu và cấp độ khác nhau của người lao động. Công nhân được đào tạo
qua các trường nghề không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp, bởi các
trang thiết bị của trường nghề đã quá lạc hậu không theo kịp quá trình phát
triển. Hiện nay vẫn còn những Trung tâm, Trường tiến hành đào tạo các
chuyên ngành không phù hợp với các yêu cầu của doanh nghiệp như trường
Công nhân xây dựng, Trường công nhân hóa chất mỏ, dẫn đến các doanh
nghiệp phải tìm lao động ở các trường đào tạo nghề ở các tỉnh khác, hoặc phải
tự đào tạo dẫn tới chi phí kinh doanh ở các DNTN Bắc Ninh cao hơn các tỉnh
thành khác: Các DNTN ở Bắc Ninh phải mất 2% tổng chi phí kinh doanh để
đào tạo lao động, cao gấp đôi so với Vĩnh Phúc và Bình Dương (1%).
Thứ ba, chất lượng thông tin thị trường đầu ra chưa cao.
Thông tin thị trường đối với các doanh nhiệp rất quan trọng, nó cung
cấp cho người sản xuất biết được các đối thủ cạnh tranh, thị hiếu, nhu cầu của
người tiêu dung để có thể điều chỉnh sản xuất. Tuy nhiên thông tin thị trường
tại các cơ quan chức năng ở Bắc Ninh dường như quá ít ỏi và không mới đối
với các doanh nghiệp, nội dung thông tin còn thiếu chuyên sâu, trọng tâm cho
các doanh nghiệp của tỉnh Bắc Ninh, thiếu phân tích đánh giá cụ thể về thị
trường, công tác dự báo thị trường gần như chưa thực hiện được. Các doanh
nghiệp và các hộ kinh doanh xưa nay vẫn kinh doanh theo kiểu tự phát, không
có chiến lược rõ ràng, thiếu thông tin - là một trong những yếu tố khiến nhiều
doanh nghiệp Bắc Nin không phát huy được hiệu quả của mình.
Các DNTN thường có quy mô nhỏ, không có khả năng thu thập thông
tin đầy đủ về thị trường trong nước cũng như xuất khẩu, trong khi đó các cơ
77
quan xúc tiến thương mại thường chỉ nắm được thông tin ở tầm vĩ mô về kim
ngạch xuất khẩu. Nhưng nhu cầu về nhóm hàng, loại hàng và đối thủ cạnh
tranh thì không có số liệu chính xác và cập nhật. Thực tế là các doanh nghiệp
sẵn sang mua thông tin, nhưng những thông tin theo kiểu chung chung sẽ
không giúp ích gì cho doanh nghiệp và họ sẽ không có nhu cầu mua.
Việc thông tin chỉ thu thập được qua một vài triển lãm hội chợ, qua các
chuyến tham quan, hợp tác song phương, thì thị trường thế giới còn rất xa các
DNTN của Bắc Ninh cũng như của Việt Nam. Chính vì thiếu thông tin và dự
báo, nên KTTN Bắc Ninh khó khăn về thị trường đầu ra cho sản phẩm. Chỉ có
ít cơ sở trong tỉnh liên kết với các doanh nghiệp bên ngoài tỉnh, 80% sản
phẩm thủ công mỹ nghệ của các làng nghề ở Bắc Ninh không thể trực tiếp
xuất khẩu, mà vẫn phải xuất khẩu ủy thác qua các đơn vị khác.
Thứ tư, hệ thống dịch vụ và tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp chưa đầy đủ.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra bài toàn nâng cao năng lực cạnh
tranh với các doanh nghiệp của Bắc Ninh. Tính chuyên nghiệp trong hoạt
động kinh doanh ngày càng trở nên cấp thiết. Chính vì vậy hệ thống dịch vụ
phát triển kinh doanh, hệ thống ttor chức hỗ trợ doanh nghiệp rất cần thiết đối
với khu vực KTTN, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó sẽ giúp các
doanh nghiệp kinh doanh một cách bài bản. Tuy nhiên thị trường dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh trên địa bàn Bắc Ninh đều chưa được phát triển, vừa thiếu, vừa
yếu, vừa kém về chất lượng. Đặc biệt đối với các dich vụ như tư vấn, bao gồm
tư vấn quản lý, tư vấn phát triển thương hiệu, tư vấn pháp luật, sở hữu trí tuệ,
phát triển thị trường, thương mại điện tử…
Tại nước ta bắt đầu hình thành được dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh
doanh và thị trường này đang và sẽ giữ vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, tại Bắc Ninh mặc dù số lượng DNTN
phát triển khá nhanh nhưng chủ yếu tập trung vào những ngành công nghiệp
chế biến, cơ khí... còn dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển rất hạn chế, thị
78
trường các nguồn lực khác như khoa học công nghệ trên địa bàn Bắc Ninh
chưa phát triển. Bên cạnh đó tỉnh Bắc Ninh cũng chưa có trương trình và
chính sách cụ thể nào nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh, sự phát triển của thị trường trên địa bàn Bắc Ninh còn mang
tính tự phát cao.
Thứ năm, khu vực KTTN Bắc Ninh chưa có tư duy về sản xuất lớn.
Các đơn vị KTTN ở Bắc Ninh chủ yếu là nhỏ lẻ, manh mún, chưa có tư
duy sản xuất lớn. Điều này thể hiện ở sự liên kết giữa các cơ sở KTTN rất hạn
chế. Có thể nhận thấy thực trạng là các DNTN cùng tham gia sản xuất một
nghề, nhưng thường không có mối liên hệ với nhau, hoặc nếu có thì rất mờ
nhạt, lỏng lẻo. Các doanh nghiệp này tồn tại một cách song song và cạnh
tranh theo kiểu “phận của ai người nấy lo”. Do vậy ở Bắc Ninh đã xuất hiện
“làng nhiều giám đốc nhất nước” đó là làng Đồng Kỵ.
Mặc dù “làng nhiều giám đốc nhất nước” này có đóng góp nhất định
vào giá trị sản xuất của cả tỉnh, nhưng nó thể hiện tâm lý tiểu nông khá rõ,
mạnh ai nấy làm…Nhưng các DNTN này vừa ngỏ vừa yếu lại thiếu tổ chức
hoặc lạc hậu về tổ chức, thường mang tính chất gia đình nên càng yếu về tiềm
lực về tài chính. Sức cạnh tranh của khu vực KTTN Bắc Ninh sẽ cao hơn nếu
từng doanh nghiệp nhỏ này hợp thành những CTCP.
Một số mô hình kinh tế trang trại phát triển chưa thực sự hiệu quả, rõ
nét và không bền vững gắn kiền với nếp suy nghĩ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún
của người nông dân. Người nông dân từ xưa tới nay ít dám chấp nhận rủi ro, tư
tưởng “ăn chắc” đã hạn chế rất nhiều tới việc bỏ vốn đầu tư. Mặt khác do thời
gian giao đất ngắn từ 5 - 10 năm, chưa tạo sự yên tâm cho người nông dân phát
triển các mô hình trang trại vườn đồi trồng cây lâu năm, mô hình VAC. Ngoài
ra tại các địa phương cũng chưa có quy hoạch cụ thể, chi tiết xem vùng nào nên
nuôi trồng thủy sản, vùng nào phát triển trang trại kinh doanh tổng hợp… để
người nông dân có sự liên kết trong tiêu thụ sản phẩm.
79
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC NINH TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. BỐI CẢNH KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TƯ NHÂN Ở BẮC NINH
3.1.1. Cơ hội, thách thức đối với kinh tế tư nhân tỉnh Bắc Ninh
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Tỉnh Bắc Ninh phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công
nghiệp theo hướng hiện đại, tạo tiền đề để đến năm 2020 là một trong những
tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Khai thác và phát huy
hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của địa phương, huy động và sử dụng có hiệu
quả nguồn lực, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm tăng cường kinh tế với tốc độ cao và bền
vững hơn.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 của Việt Nam xác định
hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình “vừa hợp tác, vừa đấu tranh; đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại... chú trọng phát huy lợi thế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh và giảm
dần hàng rào bảo vệ”.
Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh Bắc Ninh được đề ra
trong văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ 17: “hoàn thiện kết cấu hạ
tầng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế khu vực”. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan trong thế
giới ngày nay. Hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa là mở cửa nền kinh tế thực
hiện tự do hoá thương mại đưa các DN tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế.
Các doanh nghiệp tư nhân ở Bắc Ninh chủ yếu tập trung vào các làng
nghề, công nghiệp và thương mại dịch vụ, là những lĩnh vực chịu nhiều tác
80
động nhất khi gia nhập WTO. Vì vậy các DN này cần phải nắm bắt, nhận thức
đầy đủ những cơ hội cũng như thách thức trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế, để từ đó có các giải pháp thích ứng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của mình.
3.1.1.1. Cơ hội
Gia nhập WTO, các doanh nghiệp Bắc Ninh có điều kiện mở rộng thị
trường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ trên qui mô toàn cầu. Tiếp cận với các
thị trường tiềm năng lớn như: Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản với chính sách thuế
và hàng rào phi thuế giảm. Từ đó mở rộng thị trường cho việc xuất khẩu những
mặt hàng thế mạnh: sản phẩm của các làng nghề truyền thống (đồng Đại Bái,
giấy Phong Khê, đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, gốm Phù Lãng, đồ tre Xuân Lai...),
sản phẩm nông sản, giày dép và dệt may. Các DNVVN có điều kiện tiếp cận
được nguồn vốn quốc tế với nhiều hình thức đa dạng, cả đầu tư trực tiếp và qua
thị trường chứng khoán, tận dụng được các nguồn vốn vay ưu đãi chính thức,
vay thương mại, các nguồn viện trợ của nước ngoài, hoặc qua con đường hợp
tác liên doanh, liên kết, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các DNVVN có điều kiện
nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu và dịch vụ cần thiết với chất lượng tốt
và giá cả thuận lợi. Từ đó tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật hiện đại,
nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm, học tập được những
kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên tiến của thế giới. Được hưởng các ưu đãi
trong thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà các nước thành viên giành cho
nhau và có điều kiện tốt hơn để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương
mại quốc tế một cách xây dựng và công bằng.
3.1.1.2. Thách thức
Tuy nhiên, bên cạnh các cơ hội, kinh tế tư nhân Bắc Ninh phải đương
đầu với những thách thức do quá trình hội nhập WTO.
Thứ nhất, gia nhập WTO, thị trường của nước ta sẽ phải mở cửa, Việt
Nam phải hạ thấp hoặc cắt giảm hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan
81
cho 149 nước thành viên của WTO. Điều đó sẽ dẫn đến việc hàng loạt dịch vụ
từ nước ngoài được đầu tư và hoạt động ở những lĩnh vực: viễn thông, ngân
hàng, bảo hiểm, văn hóa giải trí, vận tải, giáo dục. Vì vậy các doanh nghiệp
trong lĩnh vực này sẽ phải cải thiện chất lượng, giá cả buộc phải cạnh tranh
gay gắt không những ở thị trường nước ngoài mà còn ngay tại thị trường
trong nước.
Thứ hai, các đối thủ chính của DN Việt Nam nói chung và các doanh
nghiệp dân doanh Bắc Ninh nói riêng là các nước ASEAN và Trung Quốc.
Trung Quốc có thể mạnh hơn Việt Nam về giá nhân công rẻ và lực lượng lao
động dồi dào. Việc xuất khẩu của các doanh nghiệp về hàng dệt may, giày
dép, sản phẩm điện tử bán dẫn, đồ dùng nội địa... sẽ gặp nhiều khó khăn do
khó cạnh tranh được với các DN của Trung Quốc.
Thứ ba, bên cạnh việc các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế quan
từ các quốc gia thành viên, Việt Nam cũng phải có trách nhiệm và nghĩa vụ
cắt giảm mức thuế quan của mình theo một lộ trình vạch sẵn, việc này sẽ làm
cho lượng hàng hóa nhập khẩu tràn vào Việt Nam. Các DNTN, DNVVN
không nâng cao được sức cạnh tranh thì sẽ thất bại.
Thứ tư, các nước thành viên WTO đềuss áp dụng những quy định
chặt chẽ hơn về trợ cấp xuất khẩu và tín dụng xuất khẩu với hàng nông sản.
Điều này sẽ gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp sản xuất và chế
biến 4 mặt hàng đang được trợ cấp xuất khẩu: gạo, cà phê, thịt lợn, rau quả
đóng hộp.
Thứ năm, các doanh nghiệp chủ yếu là nhập khẩu nguyên vật liệu để
sản xuất hàng hóa trong nước và xuất khẩu. Chi phí nguyên liệu, nhiên liệu
đầu vào liên tục tăng: xăng dầu, cước vận chuyển, tiền công. Trong khi đó xu
thế giá hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu của thế giới giảm. Vì vậy việc
mở rộng ra thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN
sản xuất hàng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.
82
3.1.2. Mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh
Nhận thức được vấn đề phát triển KTTN là nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược xây dựng quan hệ sản xuất mới, dựa trên đặc điểm, tính chất và xu
hướng phát triển của khu vực này, Bắc Ninh đã đề ra phương hướng phát triển
KTTN phù hợp với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và phát triển
theo định hướng chung của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Cụ thể là:
Thứ nhất, xây dựng Quy hoạch tổng thể khu vực KTTN trên nguyên tắc
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tốt các tiềm năng,
lợi thế của tỉnh. Trong từng ngành, hướng các DN hoạt động vào những
ngành có thế mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia Hội nhập kinh
tế quốc tế, theo đó cần nâng cao tỷ lệ nội địa hoá trong ngành công nghiệp,
nâng cao trình độ CNH, HĐH, chất lượng sản phẩm, phù hợp với yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ
tiên tiến trong sản xuất, chủ động mở rộng, đẩy mạnh công tác tiếp thị, xúc
tiến thị trường, đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu, giữ gìn tín nhiệm với
khách hàng, phát triển xuất khẩu với tốc độ cao, liên tục, nhanh hơn các địa
phương miền Bắc; phấn đấu đưa xuất khẩu trở thành lĩnh vực mũi nhọn và
xuất khẩu ròng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của tỉnh.
Thứ hai, phải tạo được môi trường bình đẳng cho sự phát triển của tất
cả các thành phần kinh tế. Có chính sách hỗ trợ thành phần KTTN, được ưu
tiên phát triển một số ngành có lựa chọn, trong một số ngành mà DN lớn
không có lợi thế, ưu tiên phát triển DNVVN ở nông thôn. Phát triển DN theo
hướng nâng cao năng lực cạnh tranh, đạt tốc độ tăng trưởng cao và bền vững.
Theo đó, xây dựng các DN mạnh có khả năng cạnh tranh quốc tế, đưa các DN
địa phương gia nhập các tổng công ty mạnh, tạo điều kiện để các tổng công ty
đầu tư nhiều hơn vào Bắc Ninh; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và hội
nhập thành công, nhạy bén nắm bắt thời cơ chuyển đổi nhanh cơ cấu sản
phẩm, dịch vụ xuất khẩu phù hợp với thay đổi cung cầu trên thị trường; đầu tư
83
công nghệ thiết bị mới nhằm tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường và
có khả năng cạnh tranh quốc tế lâu dài.
Thứ ba, thành lập một số KCN, CCN dành riêng cho các doanh nghiệp
tư nhân. Phát triển DN trên các địa bàn trọng điểm vừa đảm bảo chuyển dịch
cơ cấu kinh tế hợp lý vừa có sức lan toả phát triển ra những vùng khó khăn,
góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội; đẩy nhanh xây dựng phát
triển các KCN, CCN trên địa bàn tỉnh và thu hút nhiều nhà đầu tư vào các
KCN, CCN; chú trọng phát triển các DNVVN nằm ngoài các KCN, CCN phù
hợp quy hoạch, các DN có khả năng thu hút nhiều lao động, áp dụng công
nghệ tiên tiến và nộp ngân sách lớn cho Nhà nước.
Căn cứ vào mục tiêu, phương hướng phát triển KTTN phù hợp với quy
hoạch tổng thể của tỉnh, các doanh nghiệp cần được định hướng phát triển vào
những địa bàn kinh tế trọng điểm, các KCN, CCN để tạo sức hút - đẩy đối với
các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa, thu hút nhiều lao động và tạo ra các
sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Mỗi khu vực cần được bố trí ngành nghề phù hợp với các đặc điểm của
địa phương và tận dụng được lợi thế so sánh, trong đó cần lưu ý: phát triển
ngành nghề trong khu đô thị là những ngành dịch vụ phục vụ đô thị, công
nghiệp sạch, công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao và công nghiệp ít ô
nhiễm môi trường. Vùng nông thôn tập trung phát triển các làng nghề truyền
thống kết hợp với sản xuất công nghiệp hiện đại, các ngành nghề mà địa
phương có thế mạnh và các dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn.
Song song với công tác quy hoạch quỹ đất, quy hoạch theo vùng kinh
tế trọng điểm, Bắc Ninh cũng cần chú trọng tới đầu tư kết cấu hạ tầng cho
phát triển kinh tế theo địa bàn trên nguyên tắc chính quyền hỗ trợ DN, tạo các
cơ chế thông thoáng trong thực hiện, giảm thiểu các rào cản và chi phí, tạo
sức hấp dẫn DN vào đầu tư.
84
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở TỈNH BẮC
NINH TRONG THỜI GIAN TỚI
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với chính quyền và các cơ quan ban
ngành của tỉnh Bắc Ninh
3.2.1.1. Xây dựng lộ trình phát triển kinh tế tư nhân Bắc Ninh
Để KTTN Bắc Ninh phát triển có hiệu quả, phát huy sức mạnh thực sự
thì phải xây dựng chiến lược phát triển KTTN một cách rõ ràng, phát huy thế
mạnh của địa phương phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế chung của
tỉnh Bắc Ninh, nếu không KTTN sẽ phát triển tự phát làm cho nguồn lực bị
phân tán, không phát huy được sức mạnh của khu vực này. Vì vậy tỉnh Bắc
Ninh cần xác định một lộ trình dài hạn để triển khai một cách đồng bộ các
giải pháp khuyến khích phát triển khu vực kinh tế này. Về mặt cơ chế, nên
phân biệt một số giai đoạn với các ưu tiên chính sách khác nhau:
Trong giai đoạn đầu (tức giai đoạn hiện nay), điều cần nhất là công
nhận vai trò ngày càng trở nên quan trọng của KTTN đối với sự phát triển bền
vững của tỉnh Bắc Ninh, trong đó khai thông các rào cản và giảm thiểu chi phí
gia nhập thị trường để dễ dàng cho việc “ khai sinh” ra các doanh nghiệp mới.
Sauk hi đã được “khai sinh”, các doanh nghiệp này cần được “ nuôi dưỡng”
trong một môi trường cạnh tranh công bằng và lành mạnh. Cần lưu ý răng
việc xây dựng Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư thống nhất không nhất thiết
dẫn đến sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vì trên thực tế sự công
bằng không chỉ phụ thuộc vào hiệu lực thực sự của những đạo luật này mà
còn phụ thuộc vào nhiều thể chế khác và hoạt động thực thi của các cơ quan
công quyền.
Giai đoạn 2010 - 2015: tập trung hoàn thiện môi trường đầu tư theo
hướng ngày càng thông thoáng; xây dựng một nền tảng pháp lý đồng bộ và ổn
định, cải tiến các thủ tục hành chính; công bố quy hoạch phát triển kinh tế của
tỉnh Bắc Ninh một cách rõ ràng và cụ thể.
85
Giai đoạn 2015-2020: Hướng các hoạt động đầu tư theo chiến lược
phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh; thông qua các giải pháp: xây dựng và
hoàn thiện các khu kinh tế (KCN, KCX, khu du lịch) để thu hút đầu tư,
khuyến khích đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn của Tỉnh (dịch vụ,
thương mại, công nghiệp phụ trợ…)
- Ưu tiên phát triển các DNTN hoạt động có tính chuyên môn hóa và
công nghệ cao có hiệu quả, mang tính ổn định và bền vững. Đặc biệt khuyến
khích các DNTN đầu tư vào các ngành sản xuất phụ trợ phục vụ các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại các KCN của Bắc Ninh.
- Tăng số lượng DNTN hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch
vụ, nhất là phát triển trong các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch nhằm khai
thác các thế mạnh của tỉnh về điều kiện tự nhiên, sinh thái và môi trường xã
hội nhân văn gắn với lợi thế của một tỉnh cửa ngõ phía Bắc thủ đô theo các
hướng tương tác: quan hệ về sản xuất. cung ứng hàng hóa; quan hệ về cung
ứng dịch vụ; quan hệ về du lịch - nghỉ dưỡng; quan hệ về kết cấu hạ tầng và
cung ứng các dịch vụ công cộng. Một mặt vừa tăng hiệu quả kinh tế, vừa gắn
chặt được giữa phát triển kinh tế và xây dựng nền văn hóa, bảo tồn, phát triển
các giá trị văn hóa truyền thống của địa phương.
- Rà soát, đánh giá lại các quy hoạch phát triển ngành nghề trên địa
bàn tỉnh, điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quy hoạch phát triển các ngành
nghề cho phù hợp với thực tế và phù hợp với điều kiện phát triển của khu vực
KTTN và định hướng của tỉnh trong tương lai.
Thời gian vừa qua việc khôi phục và phát triển làng nghề tại Bắc Ninh
đã có những tác động tích cực tới phát triển KTTN ở Bắc Ninh. Tuy nhiên,
thời gian tới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì việc phát triển các
làng nghề với mục đích phát triển KTTN cần phải có chọn lọc. Hiện tại ở Bắc
Ninh với 62 làng nghề, trong đó chỉ có 74% là những làng nghề phát triển tốt
và khá như: làng nghề Đa hội, Đồng kỵ, Phù khê, Phong khê, Đại bái…, còn
86
lại 16% là những làng nghề phát triển cầm chừng, có nguy cơ mai một và mất
nghề, như các làng nghề chế biến nông sản, ươm tơ dệt lụa, tranh dân gian…
Do vậy mọi cơ chế chính sách của tỉnh Bắc Ninh cần chú trọng tập trung vào
các làng nghề đang hoạt động có hiệu quả và các làng nghề có hướng phát
triển bền vững trong tương lai.
Đối với các làng nghề kém phát triển hoặc hoạt động cầm chừng, cần
chọn lọc những làng nghề mà sản phẩm vẫn được người tiêu dùng chấp nhận
và có cơ hội tồn tại, nhất là những làng nghề mang giá trị văn hóa dân tộc cao
để có chính sách ưu tiên hỗ trợ về thị trường, vốn, công nghệ… nhằm bảo tồn
và phát huy có hiệu quả các làng nghề này.
- Phát triển các hộ SXKDCT ở những lĩnh vực mà địa phương có lợi
thế, tạo điều kiện thuận lợi để các hộ SXKDCT tiếp cận được với các nguồn
vốn vay, tiếp cận được các nguồn thông tin, giúp đỡ các hộ SXKDCT về kinh
nghiệm sản xuất, nâng cao trình độ cho người lao động. Khuyến khích các hộ
SXKDCT liên kết, hợp tác, không phân biệt quy mô, địa giới hành chính
nhằm mục đích đưa các hộ kinh doanh này làm vệ tinh gia công, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm cho các hệ thống doanh nghiệp trên địa bàn. Đồng thời
hướng các hộ SXKDCT phát triển thành DNTN.
Khuyến khích các DNTN đổi mới, ứng dụng những tiến bộ khoa học và
công nghệ vào sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Đối với
những doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tỉnh tạo điều kiện hỗ trợ từ nguồn
vốn khuyến công hằng năm do ngân sách tỉnh cấp để giúp đỡ lập dự án, hỗ trợ
chi phí cho việc áp dụng tiến bộ khoa học-kĩ thuật vào sản xuất. Có chính
sách khen thưởng đối với những DNTN du nhập ngành nghề mới có công
nghệ sản xuất phù hợp phù hợp và khai thác được những thế mạnh của tỉnh.
- Xây dựng và công bố quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội,
quy hoạch phát triển ngành nghề, quy hoạch chi tiết về sử dụng đất, quy
hoạch phát triển đô thị, quy hoạch phát triển khu công nghiệp, làng nghề, quy
87
hoạch phát triển nguyên liệu để người dân và doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư
đều được thông tin đầy đủ, chính xác nhất. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho các
doanh nghiệp có lựa chọn cơ hội đầu tư theo khả năng và sở trường của mình.
- Các ngành, các cấp căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ phải tăng cường
trách nhiệm của mình trong việc chủ động triển khai thực hiện các cơ chế,
chính sách liên quan đến tổ chức và hoạt động của khu vực KTTN. Các cơ
quan quản lý Nhà nước về kinh doanh cần tăng cường đối thoại với doanh
nghiệp để giải quyết vướng mắc và bàn định thực hiện các dự án chung phát
triển kinh tế địa phương. Đồng thời kiên quyết xử lý những đơn vị làm ăn vi
phạm pháp luật, vi phạm lợi ích kinh tế của các đơn vị khác và vi phạm lợi ích
của người tiêu dùng, có chế tài nghiêm khắc và chặt chẽ nhằm tạo một sân
chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp.
3.2.1.2. Nâng cao hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước ở
Bắc Ninh
Một hệ quả về chính sách là để duy trì mức tăng trưởng cao, Bắc Ninh
phải có những giải pháp phát triển KTTN một cách bền vững, trong đó quan
trọng nhất là phải tạo lập được một môi trường kinh doanh lành mạnh để
KTTN phát triển, trong đó không thể chú ý đến vai trò của các biện pháp cải
cách hành chính liên quan tới hoạt động của khu vực KTTN. Các cơ quan
chính quyền tỉnh Bắc Ninh cần đổi mới hoạt động theo hướng bám sát và tuân
thủ các văn bản pháp luật hiện hành; đồng thời vận dụng một cách linh hoạt
sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật có lợi cho sự phát triển của KTTN Bắc
Ninh. Trước mắt, cần tập trung xử lý kịp thời, hiệu quả các vấn đề bức xúc,
khó khăn đang tồn tại trong phát triển KTTN. Mặt khác, cần lắng nghe, tiếp
thu những đề xuất, kiến nghị từ chính khu vực KTTN để chủ động, kịp thời,
bổ sung, hoàn thiện các quy phạm và hệ thống luật định của Trung ương và
địa phương. Cụ thể:
88
Một là, cải tiến mạnh thủ tục hành chính kiên quan đến các hoạt động
đầu tư theo hướng tiếp tục đơn giản hóa việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm
vi các dự án thuộc diện đăng ky cấp phép đầu tư. Quy định rõ ràng, công khai
các thủ tục hành chính, đơn giản hóa và giảm bớt các thủ tục không cần thiết;
kiên quyết xử lý các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách
nhiệm của cán bộ công quyền.
Hai là, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà
nước của tỉnh trong hoạt động quản lý đầu tư; phân định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì
thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với
các doanh nghiệp.
Ba là, các cơ quan KH & ĐT chủ trì phối hợp cới các cơ quan công an,
thuế, rà soát lại quy trình, thủ tục tại các khâu của quá trình đăng kí thành lập
doanh nghiệp, bao gồm: cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, khắc dấu,
đăng kí mã số thuế và mua hóa đơn. Trên cơ sở đó xây dựng một quy trình,
thủ tục hợp lý, đúng luật để đăng ký thành lập doanh nghiệp theo hướng đơn
giản thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian xử lý công việc.
Bốn là, các cơ quan chuyên ngành rà soát lại các giấy phép con, loại
bỏ những giấp phép không còn hiệu lực thuộc ngành quản lý và triển khai
áp dụng cải cách hành chính theo mô hình “một cửa” trong việc cấp các
loại giấy phép và chứng chỉ hành nghề một cách nhanh chóng cho các
doanh nghiệp.
Năm là, nâng cao năng lực làm việc cho các cán bộ làm việc trực tiếp
với các đơn vị KTTN. Cần có những biện pháp nâng cao trình độ của cán
bộ các cơ quan hành chính để vận dụng luật pháp của các cấp chính quyền,
thể chế hóa các quy định pháp lý và đầu tư sang hình thức các văn bản quy
định có giá trị pháp lý và văn bản hướng dẫn thực hiện, tạo niềm tin cho
các DNTN
89
3.2.1.3. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
Lao động là một nguồn lực đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất
kinh doanh, vì vậy để khu vực KTTN phát triển thì cần phải có đội ngũ lao
động có trình độ cao. Do vậy công tác đào tạo nghề và đào tạo người lao động
tại chỗ có tay nghề cao đang là yêu cầu cấp bách, qian trọng tạo nguồn nhân
lực đủ mạnh cho khu vực KTTN. Nguồn nhân lực tại chỗ có chất lượng luôn
có ưu thế hơn nguồn nhân lực từ các khu vực khác đối với khu vực KTTN bởi
vì: các doanh nghiệp không phải đối mặt với tình trạng các lao động không
quay lại làm việc sau mỗi đợt nghỉ tết; các doanh nghiệp không phải lo chỗ ở
cho người lao động… Vì vậy, cần phải có những giải pháp đồng bộ, toàn diện
đào tạo nghề tại chỗ cho nguồn nhân lực phục vụ cac DNTN trên địa bàn Bắc
Ninh, trong đó chú trọng một số giải pháp cơ bản sau:
- Xác định cụ thể nguồn lực hiện có của địa phương và nhu cầu sử
dụng nguồn nhân lực theo cơ cấu nghề cụ thể của các doanh nghiệp, các cơ sở
sản xuất trên địa bàn.
- Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện quy hoạch dạy nghề đồng bộ, gắn dạy
nghề với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Phát huy tính tích cực, chủ động của các trung tâm, cơ sở dạy nghề trong việc
mở rộng, tăng cường hợp tác, liên kết để có những hợp đồng đào tạo nghề,
cung ứng lao động, tạo quy trình khép kính giữa đào tạo và sử dụng.
- Phát triển nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề, đặc biệt là các
trung tâm dạy nghề thuộc các huyện, thành phố. Cần coi trọng việc sử dụng,
đãi ngộ đối với đội ngũ giáo viên, bảo đảm đáp ứng nhu cầu hiện nay và
những năm tiếp theo. Xây dựng mới và tăng cường cơ sở vật chất cho các
trường dạy nghề, các trung tâm hướng nghiệp, trung tâm kỹ thuật tổng hợp…
- Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ chi các
địa phương. Việc làm này góp phần gắn đào tạo với sử dụng, khắc phục tình
90
trạng mất cân đối trong phân bố sử dụng nhân lực và tình trạng dư thừa giả
tạo lao động qua đào tạo trong tỉnh.
Bên cạnh hoạt động đào tạo nghề thì tỉnh Bắc Ninh cũng cần phải nâng
cao hiệu quả của sàn giao dịch việc làm Bắc Ninh để làm cầu nối giữa người
lao động và các DNTN: cung cấp thông tin về cung - cầu lao động và các
thông tin liên quan đến lao động - việc làm, đào tạo nghề…; tổ chức tiếp nhận
đăng ký tìm việc, đăng ký học nghề, đăng ký tuyển dụng qua hệ thống mạng
máy tính, hoặc trực tiếp giữa ngưới lao động với người sử dụng lao động; tổ
chức tư vấn về tác phong, kỹ năng, nghiệp vụ đối với những lao động đến sàn
lao động để tìm việc làm nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển
dụng; đẩy mạnh hoạt động của các điển giao dịch việc làm tại vệ tinh của các
quận, huyện, KCN, KCX ở xa sàn giao dịch chính thức…
3.2.2. Nhóm các giải pháp trực tiếp đối với khu vực kinh tế tư nhân
của tỉnh Bắc Ninh
3.2.2.1. Phát triến dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trên địa bàn Bắc Ninh
Để KTTN phát triển thì bên cạnh sự cải thiện về kết cấu hạ tầng giao
thông năng lượng, viễn thông và hạ tầng thông tin thì các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh cũng có vai trò không kém. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh tham gia vào
mọi công đoạn kinh doanh của doanh nghiệp. Chính các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh đóng vai trò quan trọng giúp cho KTTN tăng được sự chuyên môn hóa
giảm bớt các chi phí. Cung cấp các kỹ năng chuyên môn cần thiết để nâng cao
năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Trong các nền kinh tế đang phát
triển, trung bình có ít nhất một phần ba của giá trị đầu vào mà các doanh
nghiệp mua là những dịch vụ như hạch toán kế toán, luật pháp, bảo hiểm,
nghiên cứu, thiết kế, marketing, vận tải, bưu điện, điện nước… Sự trợ giúp từ
phía Nhà nước và trợ giúp thông qua các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh là đặc biệt
cần thiết đối với DNVVN khu vực KTTN.
91
Xuất phát từ những thách thức mà quá trình hội nhập KTQT mang lại,
tỉnh Bắc Ninh cần nghiên cứu và đưa ra danh mục những dịch vụ cần cung
cấp cho khu vực KTTN: Xây dựng các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, bao
gồm chương trình khởi sự kinh doanh, đào tạo quản lý, xúc tiến xuất khẩu, hỗ
trợ chuyển giao công nghệ, đào tạo và phát triển đội ngũ tư vấn về xây dựng
dự án, kế hoạch kinh doanh. Các cơ quan Nhà nước cần từng bước rút khỏi
chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ, chuyển sang vai trò thúc đẩy, xúc tiến,
giám sát và quản ký chất lượng dịch vụ.
Thực tế cho thấy, mỗi loại giải pháp chỉ phù hợp với một hoặc một số
dịch vụ, do vậy tỉnh Bắc Ninh cần tiến hành nghiên cứu sâu đặc thù của từng
loại dịch vụ, từ đó quyết định áp dụng giải pháp nào cho phù hợp. Quan điểm
xuyên suốt cần quán triệt là: bên cạnh các giải pháp phát triển cho toàn bộ thị
trường dịch vụ hỗ trợ kinh doanh, Bắc Ninh cần xây dựng các giải pháp cá
biệt cho từng dịch vụ theo sự ưu tiên của tỉnh.
- Trước mắt xây dựng các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp để thực hiện
các dịch vụ tư vấn về quản lý và kinh doanh đáp ứng các nhu cầu của các
DNTN như: 1) tư vấn về hoạch định chiến lược kinh doanh, bồi dưỡng kiên
thức quản lý về tài chính, sản xuất, marketing, nhân sự, WTO, thương mại
quốc tế…; 2) cung cấp thông tin về thị trường, khách hang, hỗ trợ xúc tiến
thương mại; 3) giới thiệu và tư vấn về các nguồn vốn đầu tư để doanh nghiệp
lựa chọn.
- Thông tin cho khách hàng nhằm giải quyết sự thiếu thông tin về dịch
vụ và nhà cung cấp. Giải pháp này nhằm tạo thuận lợi cho các giao dịch thành
công của thị trường giúp cung và cầu về dịch vụ gặp nhau.
- Liên kết cầu về dịch vụ nhằm tạo ra các nhóm doanh nghiệp có nhu
cầu sử dụng dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Tạo ra các nhu cầu đủ lớn để giúp các
doanh nghiệp giảm phí và có thể sử dụng được các dich vụ mà nếu một mình
92
họ sẽ không đủ sức để sử dụng. Thực chất là giúp các doanh nghiệp nhỏ có
thể mua được dịch vụ theo nhóm làm tăng lợi thế quy mô trong giao dịch.
- Phát triển và thương mại hóa sản phẩm nhằm giải quyết việc thiếu
vắng trên thị trường những sản phẩm dịch vụ phù hợp. Mục tiêu là quảng cáo
sản phẩm, hỗ trợ phát triển sản phẩm, nhượng quyền dịch vụ…
3.2.2.2. Tăng cường khả năng tiếp cận đất đai
Để KTTN có thể tiếp cận được đất đai dễ dàng có mặt bằng phục vụ
sản xuất kinh doanh, thì trước hết cần phải có nhiều quỹ đất sạch và các thông
tin lien quan tới đất đai rõ rang, minh bạch.
Để tạo diều kiện thuận lợi cho KTTN tiếp cận đất đai thì tỉnh Bắc Ninh
nên tiếp tục quy hoạch các KCN, Đặc biệt là các CCN phù hợp nhu cầu của
các nhà đầu tư vừa và nhỏ. Quy hoạch các CCN nhằm mở rộng quy mô sản
xuất của các hộ trong làng nghề, tạo điều kiện cho các hộ có mặt bằng sản
xuất rộng rãi và nhằm làm giảm tình trạng lấn chiếm đất công một cách phổ
biến và khó giải quyết (như tại làng nghề Đồng Kỵ - Bắc Ninh hiện nay) vì ý
thức của người dân và sự yếu kém của chính quyền địa phương nơi đay. Cần
xây dựng các KCN và CCN đưa vào hoạt động đúng như mục đích của quy
hoạch, tránh tình trạng để các doanh nghiệp, các hộ đăng ký thuê đất tại đây
nhưng đã không di dời cơ sở sản xuất Cụm mà thay vào đó là xây dựng cửa
hang giới thiệu sản phẩm hay xây nhà ở, một số hộ còn cho thuê lại với mục
đích kinh doanh. Kết quả là vấn đề mặt bằng không những không được giải
quyết mà còn nảy sinh các vấn đề phức tạp như: ô nhiễm môi trường, tranh
chấp đất đai… Công tác quy hoạch cũng cần tính đến việc giải quyết ô nhiễm
môi trường của Cụm và đầu tư hạ tầng kỹ thuật thỏa đáng.
Với việc xây dựng các KCN và CCN, các nhà đầu tư không phải tìm
kiếm các mảnh đất nhỏ lẻ và trải qua những quy trình tìm kiếm đất phức tạp,
các nhà đầu tư có thể dễ dàng thuê được mặt bằng trong các KCN, CCN và
93
tận dụng được những cơ sở hạ tầng có sẵn với những quy chế tiếp cận thuận
tiện cho chính nhà đầu tư.
3.2.2.3. Tăng cường hỗ trợ đầu tư - tín dụng cho kinh tế tư nhân
KTTN có thể tiếp cận được nguồn vốn đầu tư qua hai kenh cơ bản:
kênh chính thức và kênh phi chính thức. Kênh tài chính chính thức có các nhà
cung cấp vốn vay là các ngân hang thương mại, các quỹ tài chính. Tuy nhiên
việc tiếp cận các nguồn vốn từ ngân hang thương mại của khu vực KTTN Bắc
Ninh bị chi phối bởi các quy định của Luật các tổ chức tín dụng, điều chỉnh
chính sách của Ngân hang Nhà nước và chiến lược kinh doanh của các ngân
hang thương mại trên toàn hệ thống. Do vậy, để khu vực KTTN Bắc Ninh tiếp
cận được với các nguồn vốn, thì giải pháp từ chính quyền địa phương là gai
tăng nguồn vốn cho các quỹ hỗ trợ khu vực KTTN mà cụ thể là tập trung vào
các vấn đề sau:
Thứ nhất, giải quyết nhanh chóng các vấn đề liên quan tới tài sản thế
chấp của khu vực KTTN - như đẩy nhanh tiến độ cung cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp, trang trại… Xóa bỏ các hạn
chế đối với DNTN trong việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất để liên
doanh với nước ngoài.
Thứ hai, thường xuyên tổ chức hội thảo, hội nghị gặp gỡ giữa các đơn
vị thuộc KTTN với các ngân hang thương mại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, để
nắm được các bất cập nảy sinh, từ đó có những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề
vay vốn của khu vực KTTN với ngân hàng thương mại.
Thứ ba, tỉnh Bắc Ninh cần có chương trình quảng bá hình ảnh địa
phương cũng như khu vực KTTN của tỉnh trên phạm vi toàn quốc và thế giới
thông qua các chương trình xúc tiến thương mại của Tỉnh, qua đó kêu gọi các
nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư mạo hiểm tài trợ vốn cho khu vực
KTTN của Tỉnh.
94
Thứ tư, hỗ trợ phát triển dịch vụ cho thuê tài chính. Đây là giải pháp đi
kèm với hỗ trợ công nghệ và vốn cho các DNTN nhỏ và vừa. việc cho thuê tài
chính sẽ trở tahnhf công cụ khá quan trọng trong việc phát triển các DNTN ở
Bắc Ninh. Đặc biệt trong điều kiện các DNTN Bắc Ninh còn yếu về vốn và
công nghệ, việc hình thành dịch vụ cho thuê tài chính sẽ giúp các dpanh
nghiệp này giảm bớt rủi ro khi đầu tư cho công chệ, giảm chi phí đầu tư ban
đầu, tiếp cận được các thông tin hiện đại hơn và rút ngắn thời gian hấp thu
công nghệ.
Tỉnh Bắc Ninh cần có các cơ chế cụ thể cho việc thúc đẩy các doanh
nghiệp cho thuê tài chính: xây dựng đề án đánh giá về nhu cầu và năng lực
của các dịch vụ cho thuê tài chính; thực hiện các hội thảo về cho thuê tài
chính; giới thiệu và kêu gọi các công ty cho thuê tài chính trong nước và quốc
tế đến đặt văn phòng hoặc hoạt động tại địa phương; thiết lập văn phòng hỗ
trợ pháp lý và thông tin cho các DNVVN trong lĩnh vực cho thuê tài chính.
3.2.2.4. Hỗ trợ ứng dụng khoa học - công nghệ cho khu vực kinh tế
tư nhân
Việc tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ cho khu vực KTTN sẽ
giúp gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm, nâng cao sức
canh tranh của khu vực này, đồng thời cũng nâng cao giá trị hàng hóa. Tuy
nhiên đại đa số các doanh nghiệp trong khu vực KTTN không đủ khả năng
giải quyết các vấn đề về đổi mới công nghệ, cải tiến máy móc, thiết bị; mặt
khác họ lại thiếu thông tin về các vấn đề đó, như: không biết rõ hiện có những
laoij công nghệ, máy móc nào, chất lượng ra sao, mua ở đâu? Để giải quyết
vấn đề này, tỉnh Bắc Ninh cần thực hiện những giải pháp sau:
* Đẩy mạnh các chương trình khuyến công, tư vấn khoa học công nghệ
cho khu vực KTTN
Để giúp các đơn vị sản xuất trong khu vực KTTN giảm bớt khó khăn
trong lĩnh vực khoa học công nghệ, UBND tỉnh Bắc Ninh, sở Công thương
95
cần tăng cường chỉ đạo Trung tâm khuyến công tư vấn cho các doanh nghiệp,
hộ cá thể, tiểu chủ - đặc biệt là trong các làng nghề đổi mới máy móc thiết bị,
công nghệ, ứng dụng kho học, kỹ thuật vào sản xuất.
- Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị và
công nghệ, hiện đại hóa công nghệ theo phương châm kết hợp giữa công nghệ
tiên tiến và công nghệ cổ truyền nâng cao chất lượng sản phẩm
- Các dự án làng nghề có ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật được
sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học và kinh phí khuyến công của tỉnh, huyện
và các nguồn vốn khác. Các đề tài khoa học phục vụ cho chương trình phát
triển nghề và làng nghề được tỉnh ưu tiên xem xét và tạo điều kiện cấp kinh
phí để thực hiện đề tài.
- Đối với các sử dụng công nghệ tiên tiến, được hưởng chính sách ưu
đãi của tỉnh về kinh phí hỗ trợ vốn sự nghiệp khoa học công nghệ. Khuyến
khích sử dụng công nghệ sạch, ngăn ngừa và xử lý nghiêm khắc các trường
hợp gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Tăng cường
giám sát, kiểm tra tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm để ngăn chặn và xử lý
nghiêm khắc hàng giả trên thị trường. Thực hiện chính sách ưu đãi về mặt
bằng, về thuế, về tín dụng đối với cơ sở sản xuất đầu tư đổi mới trang thiệt bị
như chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, nên miễn thuế từ 1 - 2 năm
đầu và có thể điều tiết hỗ trợ 100% trong 2 - 3 năm tiếp theo đối với các cơ sở
đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ mới.
- Đối với các cán bộ khoa học kỹ thuật: Các chi phí cho việc học tập
nâng cao trình độ, tham quan khảo sát máy móc thiết bị ở các khu vực tỉnh
thành khác và nước ngoài được hỗ trợ 50 - 100% chi phí.
* Hình thành các trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ hoặc thí
nghiệm mô hình “ Vườn ươm doanh nghiệp” tại Bắc Ninh
Các DNTN khi mới thành lập đa phần là các DNVVN. Chính vì quy
mô nhỏ đó mà doanh nghiệp phải đối mặt với rất nhiều khó khăn mặc dù
96
nhiều doanh nghiệp có ý tưởng kinh doanh độc đáo, tính khả thi cao. Trừ lợi
thế linh hoạt, thì khi mới thành lập các DNTN vẵn gặp nhiều khó khăn - từ
nhân sự, vốn, mặt bằng kinh doanh. Đó là chưa kể, DNVVN hầu hết khởi
nghiệp ở bước thử nghiệm công nghệ mới mà chưa biết có vượt qua được hay
không. Nhưng khi họ đã thành công thì giá trị gia tăng sẽ không phải là 1 hay
2 lần chi phí mà có khi lên cả trăm lần.
Để giải quyết vấn đề này cần phải hình thành các trung tâm đào tạo
và chuyển giao công nghệ hoặc vườn ươm doanh nghiệp trong một số
ngành then chốt như Chế tạo thiết bị cơ khí, thiết bị điện, nhựa, cao
su…Mô hình này sẽ giúp các DNTN giải quyết được một số vấn đề như:
mặt bằng, văn phòng, hỗ trợ lập kế hoạch kinh doanh, tư vấn đầu tư, hỗ
trọe đào tạo nhân lực, cán bộ quanrv lý và giúp tìm nguồn vôn đầu tư,
chuyển giao công nghệ sản xuất và quản lý, giữa các DN lớn và các
DNVVN, doanh nghiệp FDI và DNTN.
Việc hành thành các trung tâm đào tạo và chuyển giao công nghệ hoặc
“vườn ươm doanh nghiệp” cần có sự tham gia của bốn bên:
- Chính quyền tỉnh chịu trách nhiệm về chi phí đầu tư ban đầu, thành
lập trung tâm, “vườn ươm”
- Các trường đại học và viện nghiên cứu hỗ trợ về kỹ thuật, công nghệ.
- Các doanh nghiệp lớn sẽ là người xây dựng chương trình và các hoạt
động chuyển giao công nghệ mà họ cần.
- Các DNVVN sẽ trở thành các đối tượng hấp thụ sự chuyển giao công
nghệ này.
Bắc Ninh là tỉnh có nhiều thuận lợi cho việc xây dựng trung tâm đào
tạo và chuyển giao công nghệ hoặc mô hình vườn ươm doanh nghiệp, vì Bắc
Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có nhiều khu cụm
công nghiệp, đã thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn
97
xuyên quốc gia sản xuất công nghệ cao. Việc nâng cao năng lực khoa học
công nghệ mới cho các DNTN sẽ giúp cho các doanh nghiệp này tham gia
vào mạng lưới cung cấp linh kiện, bán thành phẩm và dịch vụ của họ cho các
tập đoàn đa quốc gia ngay tại các KCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Điều này
có tác dụng rất tích cực, để giúp thành lập các cụm công nghiệp.
3.2.2.5. Một số giải pháp khác đối với các hộ sản xuất kinh doanh cá
thể và trang trại
* Đối với kinh tế trang trại
Để trang trại phát triển ổn định, đúng hướng trở thành mục tiêu phấn
đấu của mỗi nông hộ, ngành nông nghiệp và chính quyền tỉnh Bắc Ninh
cần xây dựng quy hoạch phù hợp với từng loại hình trang trại, khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi để dồn điền đổi thửa mở rộng quy mô sản
xuất cây hằng năm, thủy sản, bố trí quỹ đất phát triển trang trại chăn nuôi
tập trung xa khu dân cư, định hướng cho chủ trang trại phát triển loại cây
trồng, vật nuôi hướng vào thị trường xuất khẩu. Thời giam qua, trang trại
chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản phát triển nhanh, cần có chính sách
hỗ trợ bằng nguồn vốn vay ưu đãi; dự báo kịp thời và hướng dẫn phòng
dịch, bệnh nhằm hạn chế rủi ro trong sản xuất; phát triển các doanh nghiệp
chế biến và tiêu thụ nông sản cho trang trại; cung cấp thông tin thị trường
tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước để trang trại chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi phù hợp. Điều quan trọng là nâng cao trình độ chuyên môn
và quản lý cho các chủ trang trại, làm tốt như vậy KTTN Bắc Ninh mới
phát triển bền vững.
Tại Bắc Ninh, các trang trại chăn nuôi có hướng phát triển, vì vậy để
các trang trại chăn nuôi chuyển biến căn bản về chất lượng sản phẩm và hiệu
quả, tỉnh đã chủ trương từng bước chuyển chăn nuôi thủ công sang chăn nuôi
công nghiệp với chuồng trại và trang thiết bị tiên tiến; áp dụng đồng bộ các kỹ
98
thuật mới nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, bảo vệ môi
trường; phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa với quy mô
vừa và lớn gắn với công nghiệp chế biến thực phẩm đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước và xuất khẩu, muốn vậy cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, về thị trường, để nắm bắt và đưa sản phẩm chiếm lĩnh được thị
trường, tỉnh cần tiếp tục tổ chức các đoàn đi khảo sát, tìm hiểu kinh nghiệm
sản xuất, phát hiện và tìm kiếm thị trường tiêu thị sản phẩm cây trồng, vật
nuôi ở trong và ngoài nước. Đồng thời thường xuyên nghiên cứu nắm bắt
thông tin thị trường, tìm kiếm đối tác làm ăn lâu dài, thậm chí phải mua các
thông tin rất chi tiết về sản xuất, các quy định của nước nhập khẩu; quy định
về vệ sinh an toàn thực phẩm, thủ tục kiểm dịch, chế độ thuế các kênh lưu
thông, tiêu thụ…
Nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
tham gia tìm kiếm thị trường xuất khẩu thịt lợn, tổ chức các hoạt động xúc
tiến thương mại, các đơn vị tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi thương phẩm, ngoài
mức hỗ trợ của Nhà nước, còn được hỗ trợ theo điều 8 của Quyết định
108/2002/QĐ-UB ngày 30/8/2002 của UBND tỉnh.
Hai là, quy hoạch vùng chăn nuôi và chế biến
Quy hoạch vùng chăn nuôi
Để tạo được vùng chăn nuôi hàng hóa tập trung, đảm bảo sự phát triển
liên tục, ốn định trong thời gian dài, tránh lãng phí, nhất thiết phải quy hoạch
vùng sản xuất. Quy hoạch vùng chăn nuôi phải nằm ngoài các khu vực quy
hoạch để phát triển đô thị, KCN, dịch vụ trong 10 - 15 năm tới.
Quy hoạch hệ thống chế biến
Hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có nhà máy giết mổ, chế biến, dự báo
nhu cầu thịt. Để tránh ô nhiễm môi trường và thực hiện tốt công tác vệ sinh
thú y, cần quy hoạch các lò mổ tập trung. Các cơ sở giết mổ, chế biến thịt lợn
phải được trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật đúng theo yêu cầu của quy trình sản
99
xuất, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và phải tuân thủ các quy định
hiện hành về bảo vệ môi trường. Trước mắt xây dựng lò giết, mổ tập trung ở
Tp.Bắc Ninh, sau sẽ nhân rộng ra các địa phương.
Ba là, về cơ chế chính sách. Trên cơ sở định hướng chung vùng chăn
nuôi, UBND các huyện, thị xã rà soát lại các quy hoạch sử dụng đất đai để
dành một số diện tích đất phù hợp, xa khu dân cư cho các tổ chức, cá nhân, hộ
gia đình thuê làm chuồng trại, xây dựng các cơ sở chế biến, giết mổ. Các địa
phương cần căn cứ vào quy hoạch vùng sản xuất, tiến hành vận động nông
dân dồn điền dổi thửa, chuyển đổi ruộng đất hay dung hình thức góp vốn bằng
đất để tạo thành các xí nghiệp hay trang trại chăn nuôi với quy mô lớn. Bên
cạnh đó khuyến khích và tạo điều kiện phát triển chăn nuôi trong các hộ có
quy mô sản xuất khá, khuyến khích các hộ sử dụng đất trong vùng quy hoạch
phát triển chăn nuôi góp vốn bằng đất để tạo thành các xí nghiệp hay trang
trại chăn nuôi với quy mô lớn và các xí nghiệp giết mổ tập trung.
Về hỗ trợ vốn: để các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư chuồng trại và
trang thiết bị hiện đại, tỉnh cần hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng trong 3 năm
cho các nghiệp nghiệp đầu tư xây dựng và hỗ trợ kinh phí mua con giống.
Giải pháp về chuyển giao công nghệ: tăng cường đầu tư cơ sở vật chất,
cán bộ cho Trung tâm khuyến nông, để trung tâm kết hợp với các trạm
khuyến nông huyện, các hợp tác xã, hiệp hội chăn nuôi đảm đương nhiệm vụ:
xây dựng mô hình, cung cấp cây giống, tập huấn và chuyển giao kỹ thuật tiến
bộ về chăm sóc, vệ sinh thú y cho các hộ nông dân. Hình thành quỹ bảo hiểm
chăn nuôi: để hỗ trợ về giá hoặc dịch bệnh cho người sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm chăn nuôi.
* Đối với các hộ sản xuất kinh doanh cá thể
Một là, tỉnh Bắc Ninh cần cơ chế hỗ trợ đối với các hộ kinh doanh cá thể.
Thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với kinh tế hộ SXKDCT, tháo gỡ
khó khăn cho các hộ sản xuất kinh doanh về những vấn đề liên quan tới đất
100
đai, tài chính - tín dụng, đào tạo, khoa học-công nghệ, thông tin thị trường…
Đẩy mạnh các chính sách dồn điền đổi thửa, phát triển các cụm công nghiệp
làng nghề; khuyến khích các hộ liên doanh, liên kết với nhau, với các doanh
nghiệp, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện phát triển lên quy mô
lớn hơn.
Tăng cường quản lý nhà nước của chính quyền địa phương đối với kinh
tế hộ gia đình để bộ phận kinh tế này hoạt động có nề nếp, theo pháp luật,
không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh. Theo đó, ngoài việc
hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế, chính sách, cần xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ và nâng cao chất lượng bộ máy quản lý nhà nước đối với hộ
SXKDCT của chính quyền các cấp. Các cơ quan chức năng một mặt phải
hướng dẫn, giúp đỡ tháo gỡ những khó khăn cho các hộ sản xuất kinh doanh;
mặt khác phải phát hiện, uốn nắn những sai phạm của các bộ, đồng thời xử lý
nghiêm minh những hộ vi phạm pháp luật.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ SXKDCT trong việc phát triển thị
trường. Chính quyền địa phương cần hỗ trợ để các hộ SXKDCT có được
thông tin về thị trường trong và ngoài nước, đổi mới công nghệ, giảm chi phí
một cách thấp nhất khi gia nhập thị trường; phát triển nguồn nhân lực có khả
năng quản trị doanh nghiệp và đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề cao,
đáp ứng yêu cầu phát triển.
Hai là, tăng cường hoạt động thông tin tuyên truyền tới các hộ
SXKDCT có khả năng chuyển thành doanh nghiệp.
Tại Bắc Ninh, nhiều hộ SXKDCT có năng lực sản xuất lớn thậm chí
lớn hơn rất nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên nhiều hộ chưa muốn chuyển thành
doanh nghiệp. Vì vậy để giúp các hộ kinh tế SXKDCT thấy được lợi ích và có
động lực tự giác chuyển đổi mô hình kinh doanh, tham gia vào cộng đồng
doanh nghiệp, cần thực hiện một số giải pháp sau:
101
- Tiếp tục tổ chức quán triệt, phổ biến sâu rộng nâng cao hơn nữa nhận
thức trong toàn xã hội về đường lối và chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với phát triển KTTN. Phổ biến, tuyên truyền những ưu thế khi
chuyển từ hộ SXKDCT sang các loại hình doanh nghiệp như: có cơ sở pháp
lý để mở rộng sản xuất kinh doanh, nhất là môi trường kinh doanh thuận lợi,
khung khổ pháp lý rõ rang, minh bạch, ổn định hơn, đặc biệt là chính sách
thuế, dễ dàng tiếp cận với cơ sở hạ tầng như: thuê đất để mở rộng mặt bằng
sản xuất cũng như các nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực trong việc quản trị đối
với cơ sở sản xuất…
- Tháo gỡ vướng mắc trong kê khai tài sản của các hộ SXKDCT, trước
mắt cần phải tháo gỡ vướng mắc trong kê khai tài sản để tính thuế. Khi lập
doanh nghiệp, các hộ SXKDCT phải đưa tài sản của mình vào tài sản doanh
nghiệp nhưng không có hóa đơn chứng từ về nguồn gốc, giá mua đầu vào nên
không xác định được mức khấu hao tài sản cố định.
102
KẾT LUẬN
Trong năm đổi mới kinh tế, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã
khởi động được mọi tiềm năng kinh tế, góp phần thúc đẩy tiến trình CNH,
HĐH ở nước ta. Trong bối cảnh ấy, những năm qua, thành phần kinh tế tư
nhân có sự tăng tiến về số lượng, sự mở rộng về quy mô hoạt động và đã
khẳng định rõ vai trò tích cực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên trong phát triển, kinh tế tư nhân cũng gặp không ít khó khăn về
môi trường cơ chế chính sách, về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật…
Đề tài “Kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” nhằm giải quyết
những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh hiện
nay. Trong nghiên cứu, luận văn đã hoàn thành những mục tiêu đặt ra và có
một số đóng góp sau:
- Luận văn đã hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề lý luận về
Kinh tế tư nhân. Từ đó, luận án đã làm rõ vai trò của kinh tế tư nhân đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội. Để làm rõ hơn những vấn đề lý luận, nhận thức
về kinh tế tư nhân, luận văn cũng nghiên cứu khả năng thực tiễn về tình hình
phát triển kinh tế tư nhân của một số tỉnh để rút ra một số bài học kinh
nghiệm với sự phát triển kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh trong quá trình đổi mới
kinh tế.
- Luận văn đã khái quát một số vấn đề chủ yếu về điều kiện tự nhiên và
kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh để thấy những thuận lợi, khó khăn đối với sự
phát triển kinh tế tư nhân. Luận văn đã đi sâu phân tích các chính sách và giải
pháp của nhà nước và địa phương đối với kinh tế tư nhân. Đặc biệt từ nghiên
cứu và khảo sát động thái phát trển kinh tế tư nhân ở Bắc Ninh từ năm 2000
đến nay để làm rõ những thành tựu và những đóng góp của nó đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đồng thời luận văn đã chỉ ra những hạn
chế và những nguyên nhân của hạn chế đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế
103
tư nhân trong thời gian qua. Xuất phát từ thực trạng kinh tế - hội và những
mục tiêu phát triển của tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn mới, trong đó có những
yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển kinh tế tư nhân, luận văn đã chỉ ra những
cơ hội và thách thức với nó trong phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay. Từ thực tế ấy, luận văn đã chỉ ra mục tiêu và những
giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Bắc Ninh hiện
nay. Các giải pháp tập trung vào: xây dựng lộ trình phát triển KTTN; đẩy
mạnh cải cách hành chính; tạo điều kiện về vốn, khoa học-công nghệ, thong
tin nhằm hỗ trợ phát triển KTTN, tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước với
KTTN, giữa các cơ sở KTTN, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối
với toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, KTTN nói riêng, để các lực
lượng trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và đúng hướng.
Thực tế phát triển kinh tế tư nhân là sự nghiệp lâu dài đòi hỏi sự nỗ lực
của chính khu vực kinh tế tư nhân và sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiều mặt của nhà
nước. Những giải pháp nêu trên là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu, để hoàn thiện
hệ thống các chính sách góp phần làm cho kinh tế tư nhân ngày càng phát
triển trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế khu
vực và thế giới.
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Vũ Hùng Cường (2009), Một số vấn đề cơ bản về phát triển khu vực tư
nhân với tư cách là động lực cơ bản của mô hình tăng trưởng kinh
tế mới giai đoạn 2011-2020, Viện Kinh tế Việt Nam.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban
Chấp hành Trung ương khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
11. Vũ Văn Gàu (2010), Phát triển kinh tế tư nhân và vấn đề đảng viên làm
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
105
12. Đặng Hiển (2006), Kinh tế tư nhân - Một trong những động lực của nền
kinh tế nước ta hiện nay, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
13. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. C.Mác và Ph.Ănghen (1996), Toàn tập, tập 23 Nxb CTQG, Hà Nội
15. Nguyễn Như Chung (2008), Quá trình hoàn thiện các chính sách thúc
đẩy phát triển làng nghề ở Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến 2003 -
Thực trạng, kinh nghiệm và gải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường
ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
16. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh, Niên giám thống kê Bắc Ninh 2005, 2008,
2010, NXB Thống kê, Hà Nội.
17. Mẫn Bá Đạt (2008), Quá trình phát triển DNVVN ngoài quốc doanh ở
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997 - 2003 - Thực trạng, kinh nghiệm
và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế, ĐH KTQD Hà Nội.
18. Sở Kế hoạch và Đầu Tư tỉnh Bình Dương (2009), Cải cách hành chính
nhà nước và phát triển kinh tế tỉnh Bình Dương, Hội thảo các tỉnh
phía Nam, chương trình cải cách hành chính cấp tỉnh, hiện trạng và
kiến nghị (TP.HCM 28-29/4/2009)
19. Sở Công nghiệp Bắc Ninh (2005), Báo cáo kết quả hoạt động thực hiện
nghị quyết 02-NQ/TU về phát triển làng nghề, khu, cụm công
nghiệp làng nghề.
20. Tỉnh Ủy Bắc Ninh (2005), Các văn bản chỉ đạo của tỉnh ủy Bắc Ninh từ
2001-2005, Bắc Ninh, tháng 5/2005
21. Tỉnh ủy Vĩnh Phúc 92009), Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết 14-
NQ/TW (khóa 9) về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến
khích và tạo điều kiện phát triển KTTN, Vĩnh Yên
22. Viện Thông tin khoa học xã hội (2003), KTTN trong giai đoạn toàn cầu
hóa hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
106
23. UBND tỉnh Bắc Ninh (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010 và một số định hướng chiến lược
đến năm 2020, Bắc Ninh
24. UBND tỉnh Bắc Ninh (2010), Báo cáo kết quả thực hiện phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011 - 2015 (Tài liệu báo cáo HĐND tỉnh khóa XVI kỳ họp thứ
22), Bắc Ninh.
25. Tổng cục Thống kê (2010), Niên giám thống kê (tóm tắt) năm 2010, Nxb
Thống kê, Hà Nội.
26. Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê năm 2009, Nxb Thống
kê, Hà Nội.
27. Hà Huy Thành (2002), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư
nhân, lý luận và chính sách, Nxb CTQG, Hà Nội
28. Nguyễn Thanh Tuyền (2002), Thành phần kinh tế Tư bản tư nhân trong
quá trình CNH,HĐH, Nxb CTQG
29. Nguyễn Thanh Tuyền (2006), Sở hữu tư nhân và KTTN trong nền Kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb
CTQG, Hà Nội.
30. Website: Tổng cục Thống kê.
107