ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------------------------------------------
Nguyễn Thị Hồng Nhung
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh Tế Chính Trị Mã số: 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐÀO THỊ BÍCH THỦY HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt i
Danh mục các bảng ii
Danh mục các biểu ii
LỜI MỞ ĐẦU 01
08 CHƢƠNG 1
LÝ THUYẾT TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA SOLOW VÀ
PHƢƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN
LỰC ĐỐI VỚI TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ
08 1.1. Lý thuyết tăng trƣởng kinh tế của Solow và phƣơng pháp
hạch toán tăng trƣởng
1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow 08
1.1.1.1. Hàm sản xuất và những nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế 09
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và sự tăng trưởng của vốn 10
1.1.2. Phương pháp hạch toán tăng trưởng 15
1.2.Các chỉ tiêu đánh giá nguồn lực tăng trƣởng kinh tế và vận 19
dụng vào Việt Nam
1.2.1. Thu nhập bình quân đầu người 19
1.2.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động – Năng suất lao 19
động
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - Hệ số ICOR 19
1.2.4 . Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) 20
CHƢƠNG 2 24
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
2.1 . Các nguồn tăng trƣởng kinh tế Việt Nam 24
2.1.1.Vốn đầu tư 24
2.1.2. Nguồn lực con người 25
2.1.2.1. Năng suất lao động và việc áp dụng tính toán ở Việt Nam 27
2.1.2.1.1. Phân tích năng suất lao động chung toàn nền kinh tế giai 29
đoạn 2001 – 2008
2.1.2.1.2. Phân tích năng suất lao động theo khu vực kinh tế 31
2.1.2.1.3. Phân tích năng suất lao động theo ngành kinh tế 33
2.1.3. Khoa học công nghệ 39
2.1.4. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế 41
2.1.5. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong nền kinh tế 43
2.2. Phân tích vai trò của các nguồn lực đối với tăng trƣởng kinh 46
tế Việt Nam
48 2.2.1.Tác động của Khoa học &Công Nghệ đối với Tăng trưởng kinh
tế
2.2.2. Đóng góp của TFP đối với tăng trưởng kinh tế 49
2.3. Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trƣởng kinh tế 51
Việt Nam
2.3.1. Đánh giá vai trò của nguồn vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh 51
tế Việt Nam
2.3.2. Đánh giá vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế 54
Việt Nam
2.3.3. Đánh giá vai trò của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng 55
kinh tế Việt Nam
2.3.4. Đánh giá vai trò của TFP đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam 58
2.3.5. Đánh giá vai trò của các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh 59
tế Việt Nam
CHƢƠNG 3
64 QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC
NGUỒN LỰC CHO TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ ĐỐI VỚI VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Triển vọng và quan điểm tăng trƣởng kinh tế Việt Nam 64
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam 64
65 3.1.2. Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
3.2. Các giải pháp pháp huy các nguồn lực tăng trƣởng kinh tế 69
Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô 69
3.2.1.1.Cải cách toàn diện nền kinh tế 69
3.2.1.2. Từ bỏ cơ cấu kinh tế theo đuôi, tìm lối đi riêng dựa vào những 73
điểm Việt Nam có lợi thế
3.2.2. Nhóm giải pháp vi mô 75
3.2.2.1. Tăng việc làm, tạo nguồn việc làm mới để tăng GDP 75
3.2.2.2. Đầu tư cho công nghệ 76
3.2.3. Một số giải pháp khác 78
3.2.3.1. Giảm chi phí trung gian là biện pháp quan trọng để thực hiện 78
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững
3.2.3.2. Phát huy và sử dụng mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản 79
xuất
3.2.3.3. Đổi mới công nghệ và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trong hoạt 80
động của doanh nghiệp
3.2.3.4. Nhận thức đúng vai trò của tín dụng, ngân hàng trong việc 82
phân phối và tối ưu hoá nguồn vốn xã hội
3.2.3.5. Phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho nền kinh 84
tế
3.3. Gợi ý giải pháp phát triển các nguồn lực tăng trƣởng kinh tế 86
Việt Nam trong thời gian tới
86 3.3.1. Tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) để nâng cao chất
lượng tăng trưởng
87 3.3.2. Khuyến khích phát triển một số lĩnh vực
3.3.2.1. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư 87
3.3.2.2. Khuyến khích đầu tư từ nước ngoài 87
3.3.2.3. Khuyến khích giáo dục 88
3.3.2.4. Bảo vệ quyền sở hữu và duy trì ổn định chính trị 88
3.3.2.5. Khuyến khích thương mại tự do 88
3.3.2.6. Kiểm soát tăng trưởng dân số 89
3.3.2.7. Khuyến khích nghiên cứu và triển khai 89
90 KẾT LUẬN
91 TÀI LIỆU THAM KHẢO
93 PHỤ LỤC
GDP
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GNP
TFP
ICOR
NSLĐ
APO
ASEAN
WB
FAO
UNDP
WEF
KH&CN
R&D
ODA
FDI
FPI
GS
CEPR
VA
GO Gross Domestic Product – Tổng sản phẩm quốc nội Gross National Product – Tổng sản phẩm quốc dân Total Factor Productivity – Năng suất nhân tổ tổng hợp (Tổng năng suất nhân tố sản xuất) Incremental capital output ratio – Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn Năng suất lao động Asia Productivity Organization – Tổ chức năng suất châu Á Association of Southest Asia Nations – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á World bank – Ngân hàng thế giới Food and Agriculture Organization of the United Nations – Tổ chức Nông Lương của Liên Hợp quốc United Nations Development programme – Chương trình phát triển liên hợp quốc World Economic Forum – Diễn đàn kinh tế thế giới Khoa học và Công nghệ Research and Development – Hoạt động nghiên cứu và phát triển Official Development Assistance – Vốn hỗ trợ phát triển chính thức Foreign direct investment – Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài Goldman Sachs – Ngân hàng đầu tư hàng đầu của Mỹ Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách Tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm Tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP của Việt Nam, 1991-2008 24
Bảng 2.2: Mức năng suất và tốc độ tăng năng suất lao động của 30
một số nước và lãnh thổ trên thế giới năm 2008
Bảng 2.3: Tốc độ tăng năng suất lao động của các khu vực kinh tế 33
thời kỳ 2001 – 2008
Bảng 2.4: Tốc độ tăng năng suất lao động của các ngành kinh tế 35
thời kỳ 2004 – 2008
Bảng 2.5: Tỷ trọng lao động của các ngành kinh tế qua các năm 36
Bảng 2.6: Mức độ đóng góp của thay đổi cơ cấu lao động giữa các 37
ngành đối với mức tăng của NSLĐ chung toàn nền
kinh tế quốc dân
Bảng 2.7: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1991 – 2008 41
45 Bảng 2.8: Chỉ số Icor của Việt Nam từ 1990 đến 2008
Bảng 2.9: Các nhân tố tăng trưởng của Việt Nam qua các thời kỳ 46
Bảng 2.10: Vốn đầu tư và tích lũy tài sản (theo giá 1994) 52
59 Bảng 2.11: Đóng góp của TFP vào tăng trưởng Việt Nam qua các
thời kỳ
Bảng 2.12: Các nguồn tăng trưởng GDP ở Việt Nam giai đoạn 62
1986 -2002
Bảng 3.13: Báo cáo tăng trưởng kinh tế của WB tháng 11 năm 2008 66
DANH MỤC CÁC BIÊU
Biểu 2.1: Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội từ 2001 đến 2008 29
ii
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc là mong ước của mọi người. Bàn luận về
điều này thật có ý nghĩa vô cùng to lớn. Cùng với sự phát triển của nhân loại,
những nghiên cứu về các vần đề kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường đã làm
tốn không biết bao thời gian, công sức, trí tuệ mà vẫn là chưa đủ.
Trong lời tựa cuốn sách nhan đề "Vì chất lượng cuộc sống tốt hơn", được coi
là tài liệu xác định Chiến lược Phát triển bền vững của Chính phủ Vương quốc
Anh, Thủ tướng Tony Blair viết: “Tiến bộ thực sự không thể đo bằng tiền. Chúng
ta phải bảo đảm rằng tăng trưởng kinh tế đóng góp cho chất lượng cuộc sống của
chúng ta, chứ không phải là làm cho nó xấu đi... Tăng trưởng vừa phải ổn định, vừa
phải bền vững về mặt môi trường. Điều có ý nghĩa quan trọng ở đây là chất lượng
của tăng trưởng, chứ không chỉ là số lượng.” [17, tr 7]
Còn trong phần Tổng quan mở đầu cuốn sách "Chất lượng tăng trưởng", do
Ngân hàng Thế giới tổ chức biên soạn và xuất bản, có đoạn viết: “Thập niên cuối
cùng của thế kỷ 20 đã chứng kiến bước tiến bộ đáng kể tại nhiều khu vực trên thế
giới, đồng thời cũng chứng kiến sự trì trệ và những bước thụt lùi, thậm chí ở cả
những quốc gia trước đó đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại nhanh
nhất. Những khác biệt đang tiếp tục gia tăng và những đảo lộn ghê gớm này cho ta
hiểu nhiều điều về những gì là yếu tố đóng góp cho phát triển. Đứng ở vị trí trung
tâm là tăng trưởng kinh tế, nhưng không chỉ là tốc độ tăng (về số lượng) của nó, mà
cũng quan trọng như vậy là cả chất lượng của tăng trưởng”[18, tr 16]
Đến đây, chúng ta có thể nói rằng, các phạm trù - phát triển và phát triển bền
vững, tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng - có mối quan hệ gần gũi với nhau,
nhưng không trùng lặp, mà bổ sung lẫn cho nhau. Mỗi phạm trù đều có nội hàm
riêng, thể hiện quá trình phát triển của tư duy, nhận thức của con người về tự nhiên,
1
về xã hội và về bản thân cuộc sống của mình.
Có thể thấy, phạm vi của khái niệm "chất lượng tăng trưởng" là khá rộng và
các tiêu chí định lượng để đánh giá nó vẫn còn trong quá trình tiếp tục được nghiên
cứu, xác định. Cho đến nay, vì nhiều lý do, trong đó có việc cho phép so sánh quốc
tế, GDP (GNP) và GDP (GNP) bình quân đầu người (cả số tuyệt đối và số tương
đối) vẫn là hai tiêu chí được cả thế giới thừa nhận và sử dụng để đo lường, đánh giá
mức độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng, cũng từ lâu trong kinh tế học, cả lý thuyết và
thực hành, người ta đã lưu ý về những điểm hạn chế, điểm không phù hợp của các
thước đo này, nhất là liên quan đến phúc lợi và chất lượng cuộc sống và trong
những khía cạnh xã hội của quá trình phát triển. Với sự phân biệt ngày càng chi tiết
và sâu sắc giữa "tăng trưởng" và "phát triển", đặc biệt là trong quá trình xây dựng
các tiêu chuẩn về phát triển bền vững, các học giả kiến nghị rằng thước đo về phát
triển phải bao gồm không chỉ tốc độ tăng trưởng, mà cả các khía cạnh về chất
lượng như cơ cấu, sự phân bổ và tính bền vững của tăng trưởng. Từ đó, trong hoạt
động thực tiễn ở nhiều quốc gia, một số tiêu chí và đại lượng đã lần lượt được áp
dụng. Trong đó yếu tố năng suất được đặc biệt chú ý.
Ngày nay, năng suất có quan hệ nhiều mặt của nền kinh tế - xã hội, liên quan
đến sản xuất và đời sống của dân cư. Nó trở thành nội lực phát triển của các công
ty, ngành và nền kinh tế. Hơn nữa, nó còn là cơ sở đảm bảo cho đời sống của dân
cư ngày càng tốt hơn. Lấy một thí dụ để thấy sự quan trọng của hiệu suất. Các nền
kinh tế ở Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan từ giữa thập niên 1960 và
Trung Quốc từ thập niên 1980 đã cho thấy một sự phát triển kỳ diệu. Tuy nhiên nếu
so với thời đại phát triển thần kỳ của Nhật (1950-1973) thì Nhật hiệu suất hơn
nhiều. Nhật dùng lượng tư bản ít hơn và phát triển với tốc độ cao hơn. Chẳng hạn,
trường hợp Hàn Quốc trong giai đoạn 1960-1994, kinh tế tăng trưởng bình quân
năm là 8,3%, trong đó tư bản đóng góp 4,3%, lao động 2,5% và hiệu suất 1,5%,
trong khi Nhật trong giai đoạn 1950-1973, kinh tế tăng trưởng tới 9,2% nhưng tư
bản chỉ đóng góp 3,4% (nhỏ hơn Hàn Quốc) vì hiệu suất đóng góp tới 3,6%. Chính
2
vì vậy, luận văn này sẽ nghiên cứ u cá c cá ch tiếp cận mới về bản chất năng suất ,
tổ ng hợ p và phân tí ch cơ sở củ a việc đo lường năng suấ t . Trên cơ sở đó, sẽ trình
bày phương pháp phân tích biến động năng suất, tổ ng hợ p và tì m hiể u cá c nghiên
cứ u về lượng hoá vai trò cũ ng như mức độ ảnh hưởng của các nhân tố củ a tăng
trưở ng đến sự biến động đó. Đồng thời xem xét ảnh hưởng của năng suất đến các
chỉ tiêu kinh tế xã hội khác. Trong đó, chú trọng đến phân tích chỉ tiêu năng suất
nhân tố tổng hợp (TFP), từ đó đánh giá đượ c vai trò của của các nguồn lực đối với
tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế (theo nghĩa nguyên gốc, gắn với GDP) bắt nguồn từ ba
yếu tố đầu vào là vốn, lao động và tiến bộ công nghệ (bao quát công nghệ sản xuất,
kỹ năng quản lý và một số khía cạnh liên quan khác). Để đánh giá ba yếu tố này,
lâu nay, người ta sử dụng các tiêu chí ICOR, năng suất lao động và năng suất nhân
tố tổng hợp - TFP. TFP là chữ viết tắt của thuật ngữ tiếng Anh "Total Factor
Productivity" (có tác giả dịch là "tổng năng suất nhân tố sản xuất").
Trong tăng trưởng GDP có sự đóng góp của vốn và lao động (là hai trong ba
nhân tố sản xuất cơ bản cùng với đất đai). Ở trên chúng ta đã nói về đóng góp của
vốn và lâu nay ta đã quen thuộc với khái niệm năng suất lao động. Nhưng nhiều khi
chúng ta muốn biết hiệu quả của các đầu vào tính gộp chung, chứ không chỉ riêng
từng đầu vào. Về cơ bản, khái niệm năng suất nhân tố tổng hợp - TFP là một cách
đo lường đồng thời năng suất của cả vốn lẫn lao động trong một hoạt động cụ thể
hay cho cả nền kinh tế. Cách tiếp cận được sử dụng ở đây là thông qua "hàm sản
xuất" có dạng: GDP = A × f(K, L), thể hiện quan hệ giữa GDP và các đầu vào - vốn
K và lao động L, trong đó A đại diện cho năng suất nhân tố tổng hợp.
Có thể nói, TFP là thước đo phản ánh hiệu quả kinh tế trong sử dụng vốn và
lao động; Song, với cách tiếp cận tổng thể này, ta có thể bổ sung các yếu tố khác.
Trong các yếu tố bổ sung, người ta quan tâm nhiều đến tiến bộ công nghệ và các
biện pháp quản lý, điều hành, cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Nhiều nghiên cứu đã được
các học giả trên thế giới tiến hành về vai trò của TFP đối với tăng trưởng. Đối với
3
một quốc gia, vốn và lao động là những đại lượng hữu hạn, vì thế các học giả
khuyến cáo các chính phủ cần tập trung thúc đẩy TFP. Họ cũng đi đến kết luận
rằng sự khác biệt giữa các quốc gia về tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng phần
lớn bắt nguồn từ khác biệt trong TFP. Đến nay, trong nghiên cứu phân tích tăng
trưởng kinh tế, người ta thống nhất chỉ tập trung vào ba thành phần tạo nên tăng
trưởng là vốn, lao động và TFP (trong hệ thống số liệu thống kê công bố hàng năm,
nhiều nước đã công bố tỷ lệ phần trăm đóng góp của từng thành phần trong tăng
trưởng GDP). Có nhiều yếu tố có thể góp phần thúc đẩy TFP. Năng lực tổ chức và
quản lý; hệ thống giáo dục quốc gia cùng với hoạt động nghiên cứu - triển khai,
công tác phổ biến và chuyển giao công nghệ; việc phân bổ nguồn lực; chính sách
kinh tế, v.v… đều đóng góp vào việc đó.
Để kinh tế phát triển nhanh và bền vững, hiệu suất đóng vai trò quan trọng
nhất. Hiệu suất cao là động lực làm cho kinh tế tăng trưởng cao hoặc/và tiết kiệm
được nguồn lực đầu tư cho tư bản cố định, dành nhiều nguồn lực hơn cho đầu tư hạ
tầng xã hội và giáo dục, văn hóa. Phát triển chú trọng hiệu suất theo nghĩa đó cũng
làm giảm áp lực đối với môi trường. Dĩ nhiên không ai là không thấy sự quan trọng
của hiệu suất. Nhưng nguồn gốc của hiệu suất ở đâu và làm thế nào để tăng hiệu
suất thì không phải là vấn đề dễ thấy. Luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ điều này.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu định lượng về các nguồn
tăng trưởng kinh tế như các nghiên cứu TFP trong các ngành dệt may và nông
nghiệp. Tuy nhiên, đây mới là các nghiên cứu ở mức khu vực ngành nghề; Cụ thể
là các đề tài sau:
- Nghiên cứu xác định các chỉ tiêu thống kê đánh giá chất lượng tăng trưởng
của nền kinh tế” do Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia chủ trì - Đề tài đượ c nghiên
cứ u và o năm 2001 có nội dung mang tính chất tổng hợp, trên cơ sở tham khảo kinh
nghiệm của quốc tế kết hợp với phân tích lý luận để áp dụng vào thực tiễn của Việt
4
Nam.
- Nghiên cứu tính chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất các nhân tố tổng hợp ở Việt
Nam do Viện Khoa học Thống kê chủ trì và phối hợp với một số đơn vị trong Tổng
cục, kết quả nghiên cứu năm 2002 này đã làm rõ nội dung, bản chất của năng suất
các nhân tố tổng hợp (TFP) và phương pháp tính tốc độ tăng TFP, mối quan hệ của
TFP với năng suất tổng hợp chung. Trên cơ sở đó đã phân tích, xác định khả năng
và điều kiện tính toán tốc độ tăng TFP ở Việt Nam, tính toán thử nghiệm tốc độ
tăng TFP và đóng góp của nó đối với sự tăng lên của giá trị tăng thêm.
Ngoài ra, có rất nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu về bản chất, phương
pháp tiếp cận cũng như cách tính TFP trong lĩnh vực thống kê – tin học như:
- Các phương pháp tính tốc độ tăng năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) theo
cách tiếp cận thống kê năm 2003 của TS Tăng Văn Thiên (Viện Khoa học Thống
kê).
- Lê Dân- Bộ môn Thống kê Tin học- Đại học Đà Nẵng năm 2002 vớ i đề tài:
Giới thiệu bản chất của TFP và phương pháp nghiên cứu sự biến động của nó.
Đặc biệt, thạc sỹ Nguyễn Thị Bích Hồng, trường đại học Kinh Tế thành phố
Hồ Chí Minh đã ứng dụng TFP trong phân tích tăng trưởng kinh tế của thành phố
Đà Nẵng giai đoạn 1997 đến 2006. Đề tài này đánh dấu sự nỗ lực của các nhà khoa
học kinh tế trong việc tìm hiểu, tính toán và ứng dụng TFP để tìm ra nguyên nhân
tăng trưởng của nền kinh tế Đà Nẵng trong một giai đoạn nhất định. Điều này
khẳng định hơn nữa giá trị của việc ứng dụng tính toán TFP trong phân tích tăng
trưởng.
Đối với tổng thể nền kinh tế, hầu như chưa có nghiên cứu đánh giá vai trò
của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài: “Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam” nhằm khám phá và xác định các nhân tố có khả năng tác động đến tăng
5
trưởng kinh tế của Việt Nam, tìm hiểu phương pháp ứng dụng các tính toán về tốc
độ tăng trưởng năng suất nhân tố (TFP) để xác định một cách chính xác và đo
lường tác động của các các nhân tố này đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam,
đồ ng thờ i tổ ng hợ p cá c kế t quả kiểm tra mô hình lý thuyết về tăng trưởng, phương
pháp hạch toán tăng trưởng của Solow đối với nền kinh tế của các nước đang phát
triển. Dựa vào cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu đo lường TFP đã được thực hiện,
đồng thời kết hợp với nghiên cứu định tính về các nhân tố ảnh hưởng đến tăng
trưởng, đề tài xác định và tìm hiểu thực trạng các nguồn lực đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, chỉ ra ưu điểm và nhược điểm của các nguồn lực này trong tổng
thể nền kinh tế. Phân tích, đánh giá vai trò của các nguồn lực này đối với mô hình
tăng trưởng kinh tế đang được thực hiện tại nước đang phát triển như Việt Nam.
Đưa ra quan điểm định hướng và đề xuất các giải pháp phát huy các nguồn lực cho
tăng trưởng kinh tế đối với Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các nguồn lực tăng trưởng kinh tế
Việt Nam dưới góc độ định tính và tổ ng hợ p phân tí ch cá c nghiên cứ u định lượng
đã đượ c thự c hiệ n.
Phạm vi nghiên cứu: Đặc biệt chú trọng đến việc thu thập các số liệu phản
ánh thực trạng các nguồn lực về nguồn vốn (vốn đầu tư và vốn con người), đo
lường các nguồn lực phát triển, các nhân tố ảnh hưởng… và tác động của chúng
đối với sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua (chú trọng đến thời
kỳ từ 2002 đến 2008).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở biện pháp biện chứng duy vật biện chứng làm phương pháp luận
tổng quát, trong quá trình nghiên cứu, luận văn chú trọng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: logic kết hợp với lịch sử, phân tích kết hợp với tổng hợp và
phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
Luận văn sử dụng số liệu từ Niên giám thống kê hàng năm của Tổng Cục
6
thống kê; ứng dụng phương pháp hạch toán tăng trưởng và hàm sản suất Cobb-
Douglas để nghiên cứu vai trò, tác động của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh
tế Việt Nam. Đi sâu vào tì m hiể u , nghiên cứ u phương pháp và áp dụng thực
nghiệm. Mặc dù là luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu về TFP của nhiều tác
giả nhưng việc lựa chọn sử dụng các nghiên cứu đều xoay quanh mục tiêu chính,
luận văn có thể được xem như một chỉnh thể thống nhất. Các nghiên cứu được lựa
chọn sử dụng đều dựa trên đặc thù của đối tượng nghiên cứu để xác định các nhân
tố làm cho hoạt động sản xuất trở thành phi hiệu quả cũng như các nhân tố thúc đẩy
tăng trưởng. Dù có hạn chế nhất định về cơ sở dữ liệu, các kết quả ước lượng đều
được giải thích dựa trên cơ sở lý thuyết, cô đọng và súc tích là các gợi ý và chỉ dẫn
hữu ích trong việc đề xuất và xây dựng chính sách.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Nghiên cứu về sự đóng góp của các yếu tố đối với tăng trưởng kinh tế có ý
nghĩa về nhiều mặt, không những xác định vị trí của từng yếu tố để có kế hoạch
khai thác, mà còn có ý nghĩa xác định được yếu tố tiềm ẩn gia tăng lạm phát. Xác
định ý nghĩa và ứng dụng mô hình tăng trưởng thích hợp trong việc xây dựng chính
sách nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chỉ ra các nguồn tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam, tìm hiểu những động lực và những trở ngại đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, từ đó gợi ý chiến lược tăng trưởng kinh tế
Việt Nam trong tương lai.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương:
Chƣơng 1: Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow và phương pháp đánh giá vai
trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế.
Chƣơng 2: Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam.
Chƣơng 3: Quan điểm định hướng và giải pháp phát huy các nguồn lực cho tăng
7
trưởng kinh tế đối với Việt Nam trong thời gian tới.
CHƢƠNG 1
LÝ THUYẾT TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ CỦA SOLOW VÀ PHƢƠNG
PHÁP ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG
TRƢỞNG KINH TẾ
1.1. Lý thuyết tăng trƣởng kinh tế của Solow và phƣơng pháp hạch toán
tăng trƣởng
1.1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow
Liệu gia tăng mức tiết kiệm quốc dân có thể làm cho mức tăng trưởng của
đầu ra tăng thường xuyên hay không? Câu trả lời là “không”. Đó là kết quả bất ngờ
nhất của một lý thuyết về tăng trưởng kinh tế do Robert M. Solow lần đầu tiên
trình bày trong những năm 1950. [23, tr 65- 94]. Công trình nghiên cứu này đã
mang lại cho ông giải thưởng Nobel năm 1987. Những bộ phận chủ yếu tạo thành
lý thuyết của Solow là Hàm sản xuất bình quân đầu người và Mối quan hệ giữa
mức tiết kiệm và sự tăng trưởng của vốn.
Mô hình tăng trưởng của Solow được lựa chọn làm cơ sở lý thuyết cho việc
xác định, đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
vì những lí do sau:
- Mô hình tăng trưởng của Solow có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, sự đóng góp của vốn vào tốc độ phát triển kinh tế
hay sự tăng trưởng của nền kinh tế là rất đáng kể;
- Trong Mô hình tăng trưởng của Solow, công nghệ được coi là biến ngoại
sinh, vì vậy nó rất phù hợp với thực trạng của nền kinh tế Việt Nam từ trước đến
nay chủ yếu nhập công nghệ từ nước ngoài;
- Mô hình Solow cho ta phương pháp hạch toán tăng trưởng. Phương pháp
8
này cho phép xác định và tính toán được sự đóng góp của các yếu tố đầu vào đã
được sử dụng. Và như thế chúng ta có thể sử dụng phương pháp này để xác định,
tính toán, đánh giá vai trò của các nguồn tăng trưởng trong nền kinh tế Việt Nam.
1.1.1.1. Hàm sản xuất và những nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế có liên quan đến sự tăng trưởng của GDP thực
tế. (Gross Domestic Product – GDP: tổng sản phẩm quốc nội). Những yếu tố kinh
tế trực tiếp sản xuất ra GDP thực tế là những yếu tố đầu vào.
Hàm sản xuất: là mối quan hệ thường được trình bày theo kiểu đại số học,
cho thấy có thể sản xuất bao nhiêu đầu ra bằng một số lượng nhất định các yếu tố
đầu vào. Nói cách khác, hàm sản xuất thể hiện suất sinh lợi theo quy mô không đổi.
Câu hỏi đặt ra là: có thể sản xuất ra bao nhiêu GDP thực tế (Y) trong một
thời gian nhất định? Điều này tùy thuộc vào tổng lượng có sẵn để sử dụng của hai
yếu tố đầu vào chủ yếu là vốn (K), lao động (L) và vào tác động của đầu ra theo
yếu tố đầu vào bình quân có sẵn để sử dụng còn được gọi là A (yếu tố tăng trưởng
tự định).
Mối quan hệ giữa Y, A, K và L được biểu thị bằng Hàm sản xuất dạng tổng
quát sau:
Y = AF (K,L) (1)
Trong đó, tổng sản phẩm quốc dân (Y) được sản xuất từ lao động (L) và vốn
(K). Ở đây có một giả thiết cụ thể là F(K,L) (thể hiện sản lượng được sản xuất từ
L và K trong thời kỳ đầu) tăng lên A lần nhờ tiến bộ công nghệ.
Hàm sản xuất cũng có thể được thể hiện dưới dạng: “hàm sản xuất Cobb – Douglas”(4) (4) Hàm sản xuất mang tên Cobb – giáo sư toán học ở Amherst, và Paul
H. Douglas – giáo sư kinh tế học ở đại học Tổng Hợp Chicago (sau đó là Thượng
Nghị Sĩ Mỹ), và được trình bày trong một cuốn sách do Paul H. Douglas viết, The
Theory of Wages ( New York: Macmillan, 1934).
Dạng tổng quát như sau:
9
Y = A KαL1-α (2)
Phương trình (2) nói lên rằng GDP thực tế bằng yếu tố tăng trưởng tự định
(A) nhân với chỉ số vốn (K) và lao động (L). Các trọng lượng α và 1-α biểu thị
mức co dãn (hay tỷ lệ phần trăm ứng đối) của GDP thực tế theo sự gia tăng của
một trong hai yếu tố này. Tính co dãn được hiểu là tỷ lệ phần trăm thay đổi trong
một biến số ứng với bao nhiêu phần trăm thay đổi trong một biến số khác.
Trên thực tế, chúng ta thấy rằng sự tăng trưởng của mức sống không phải tùy
thuộc vào tổng số GDP thực tế mà phụ thuộc vào GDP thực tế bình quân đầu
người. GDP thực tế bình quân đầu người được biểu thị là GDP thực tế (Y) chia
cho tổng số lao động đầu vào (L), tức là Y/L. Vì vậy, hàm sản xuất (1) được viết
như sau:
Y/L =Af(K/L) (3)
Mối quan hệ quan trọng này nói lên rằng quả thật có hai nguồn gốc tăng
trưởng của mức sống (GDP thực tế bình quân đầu người (Y/L)). Đó là yếu tố tăng
trưởng tự định (A), và tỷ số của vốn với lao động đầu vào (K/L). (Trong khuôn khổ
luận văn này, tác giả coi “ người” và “việc làm” là những từ đồng nghĩa, bỏ qua
những thay đổi trong tỷ số của số việc làm với số dân để đơn giản hóa việc tính
toán). Đến đây, một vấn đề nảy sinh là phương trình (3) không lý giải được những
khác biệt hiển nhiên giữa nước này với nước khác hay giữa thời gian này so với
thời gian khác vì nó không cho biết tại sao hai nguồn gốc tăng trưởng ấy lại khác
nhau giữa các nước so với nhau hay giữa các thời gian lịch sử khác nhau.
Chúng ta sẽ tìm hiểu những yếu tố quy định sự tăng trưởng của vốn bình quân đầu
người (K/L) thông qua mối quan hệ cơ bản giữa tiết kiệm và đầu tư mà Solow đã
đề cập đến trong mô hình tăng trưởng của ông.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và sự tăng trưởng của vốn
Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu xem sự tăng trưởng trong K/L có liên
quan như thế nào với tổng mức tiết kiệm quốc dân. Mối quan hệ này là quan trọng
vì nó biểu thị sự liên quan giữa chính sách tài chính của chính phủ và sự tăng
10
trưởng trong thời gian dài của đầu ra bình quân đầu người. Khái niệm mức tiết
kiệm (S), yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, không phải là số tiết kiệm
của các hộ gia đình mà là tổng mức tiết kiệm quốc dân, bao gồm số tiết kiệm của
các hộ gia đình, của các công ty và của chính phủ (số thặng dư ngân sách chính
phủ). Khi chính phủ có ngân sách thâm hụt thì thâm hụt ấy là một thành tố âm của
tổng mức tiết kiệm quốc dân, được bù đắp bằng một phần số tiết kiệm dương của
các hộ gia đình và các công ty trong cả nước. Giả định rằng trong nền kinh tế đóng
thì tổng mức tiết kiệm quốc dân (S) bằng tổng mức đầu tư trong nước (I).
S = I (4)
Để xác định mối quan hệ giữa sự tăng trưởng trong số vốn với số đầu tư và
do đó với tổng mức tiết kiệm quốc dân (S), ta chia tổng đầu tư trong nước (I) thành hai phần: Phần đầu tư ròng (In) - đây là phần tạo ra sự tăng trưởng trong vốn, và
phần đầu tư thay thế (D) - phần này được dùng để thay thế số vốn cũ đã hư hỏng
hay đã trở nên lỗi thời.
I = In +D (5)
Đầu tư ròng chỉ là sự thay đổi trong kho vốn từ thời gian này sang thời gian sau.
Nếu ký hiệu sự thay đổi trong kho vốn là: K, ta có:
In = K (6)
Phần đầu tư thay thế được giả định là một phân số cố định (mức hao mòn “d” của
kho vốn K). Ta có:
D = ∂K (7)
Thay (6), (7) và (5) vào (4), ta được phương trình mô tả mối quan hệ giữa mức tiết
kiệm quốc dân (S) và mức tăng trưởng trong kho vốn ( K), đó là:
S = K + ∂K (8)
Đưa mức thay đổi của vốn ( K/K) vào phương trình (8) ta sẽ được phương trình
sau:
11
S = + ∂K = ( +∂) K (9)
Phương trình (9) cho thấy mức tiết kiệm quốc dân bằng tổng mức đầu tư, tổng mức
đầu tư này đến lượt nó bằng mức tăng trưởng của vốn cộng với mức hao mòn nhân
với kho vốn. Rõ ràng là mức tiết kiệm quốc dân và mức tăng của vốn ( ) có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
Điểm trung tâm trong công trình phân tích của Solow là tư tưởng về một
trạng thái đều đều.
Một trạng thái đều đều là một tình hình trong đó đầu ra và vốn đầu vào tăng
theo những mức giống nhau, hàm ý một tỷ số không thay đổi của đầu ra với vốn
đầu vào.
Trong trường hợp đơn giản nhất, khi không có sự tăng trưởng trong A (yếu
tố tăng trưởng tự định), trạng thái đều đều xuất hiện khi mức tăng trưởng của Y và
K đều bằng mức tăng trong L, hàm ý rằng các tỷ số Y/L và K/L là không thay đổi.
Ký hiệu các mức tăng trưởng bằng các chữ cái nhỏ, ta có:
y = Y/L: S
k = K/L
l: mức tăng trưởng của lao động đầu vào
Do đó điều kiện để có một trạng thái đều đều, trong đó số vốn bình quân đầu người
(K/L) không thay đổi, có thể được viết một cách đơn giản là:
k = l (10)
Phương trình (9) được viết lại như sau:
S = (l+ ∂) K (11)
Phương trình (11) nói lên rằng một trạng thái đều đều đòi hỏi tổng mức tiết kiệm
(S) phải bằng mức “đầu tư ở trạng thái đều đều”, mức này là lượng đầu tư làm cho
kho vốn tăng theo mức tăng của số dân trong khi chấp nhận sự hao mòn của vốn
12
(∂K).
Chúng ta định nghĩa lại tổng mức tiết kiệm quốc dân (S) là tỷ số tiết kiệm quốc dân
với đầu ra (s = S/Y) nhân với đầu ra rồi chia cả hai vế của phương trình (11) cho K,
ta được phương trình sau:
s = l + ∂ (12)
Phương trình (12) cho thấy số tiết kiệm tính theo đơn vị vốn phải bằng tổng của
mức tăng dân số và mức mất giá, mức này đến lượt nó là lượng đầu tư ở trạng thái
đều đều tính theo đơn vị vốn.
Solow đã kết hợp chặt chẽ hàm sản xuất tính theo đầu người của phương
trình (3) với mối quan hệ tiết kiệm - đầu tư trong phương trình (12) bằng cách nhân
cả hai vế của phương trình (12) với K rồi chia cả hai về của phương trình này cho
L:
s ( ) = (l + ∂) (13)
Vế trái của phương trình(13) là tổng mức tiết kiệm quốc dân bình quân đầu người,
vế phải là lượng mức đầu tư ở trạng thái đều đều bình quân đầu người, tức là lượng
đầu tư cần thiết để trang bị cho mỗi thành viên mới trong số dân một sốvốn bình
quân đầu người giống y như của số dân hiện tại, và để thay thế cho số vốn đã hư
hỏng hay lỗi thời. Vì sức sinh lợi giảm dần trong hàm sản xuất, tỷ số của Y với K
không phải là không thay đổi nhưng trở thành ngày càng thấp hơn khi vốn được
tích tụ nhiều hơn. Nếu vế trái và vế phải của phương trình (13) không bằng nhau
ngay từ đầu thì vốn bình quân đầu người sẽ tự động tăng lên hay co lại cho đến khi
chúng bằng nhau và trạng thái đều đều được hình thành.
Câu hỏi đặt ra là vốn bình quân đầu người sẽ tăng lên hay co lại là bao
nhiêu? Điều này được lý giải như sau:
Mức thay đổi trong vốn bình quân đầu người là (∂K/L), mức này là số tiết
kiệm bình quân đầu người còn lại sau khi bù khấu hao và trang bị cho mỗi thành
viên mới của số dân bằng mức vốn bình quân đầu người hiện tại. Xuất phát từ
13
phương trình (9), giải để tìm ∂K, chia cả hai vế cho K, sau đó đặt S là sY, ta có:
∂ = s ( ) – ∂ (14)
Vế trái của phương trình (14) là mức tăng trưởng của vốn. Lấy vế phải của phương
trình (14) trừ đi “l” ta sẽ có mức thay đổi của vốn bình quân đầu người (k – l) như
sau:
k– l = s( ) – (∂ + l) (15)
Phương trình (15) nói lên rằng mức tăng trưởng của vốn bằng số tiết kiệm tính theo
một đơn vị vốn còn lại sau khi bù khấu hao. Nhân cả hai vế của phương trình(15)
với K/L, trong đó (k –l) (K/L) = (∂K/L), ta được phương trình sau:
∂ ( ) = s( ) – (l + ∂) ( ) (16)
Phương trình (16) cho thấy mỗi khi vế bên trái của phương trình (13) lớn hơn vế
phải của nó có nghĩa là mức tiết kiệm đã vượt quá mức cần thiết cho những người
lao động mới và cho phần khấu hao, khiến cho vốn bình quân đầu người tăng lên,
tức (∂K/L) là một số dương. Chỉ khi vốn bình quân đầu người ngừng tăng - điều
này đòi hỏi phải thỏa mãn phương trình (13), thì nền kinh tế mới đạt tới một trạng
thái đều đều.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sự gia tăng trong mức tiết kiệm (s) sẽ làm giảm
chi tiêu tiêu dùng và như thế sẽ làm cho nền kinh tế suy thoái. Làm sao chúng ta có
thể chắc chắn rằng sự gia tăng trong mức tiết kiệm sẽ kích thích sự tăng trưởng của
vốn bình quân đầu người? Câu trả lời của Solow về vấn đề này như sau: Mô hình
Solow dùng để phân tích trong dài hạn (hàng thập kỷ, chứ không dùng để phân tích
hàng tháng hay hàng năm) với giả định liên tục có việc làm đầy đủ và các giá cả là
linh hoạt. Vì vậy, khi mức tiết kiệm tăng lên thì cả mức tiêu dùng và mức giá cả
đều giảm xuống, lãi suất sụt xuống đủ để kích thích đầu tư và đủ để đảm bảo rằng
số tiết kiệm và số đầu tư sẽ được duy trì bằng nhau.
Khác với các quan điểm lâu nay cho rằng yếu tố then chốt để nâng cao mức
14
tăng trưởng của nền kinh tế là nâng cao mức tiết kiệm, sự phân tích của Solow cho
thấy mức tăng trưởng trạng thái đều đều của nền kinh tế chỉ tùy thuộc vào mức tăng
trưởng của số dân (l) và hoàn toàn không bị tác động bởi những thay đổi trong mức
tiết kiệm. Vì sao vậy? Solow đã chứng minh rằng mức tiết kiệm có một vai trò
quan trọng, nhưng không như trước đây người ta vẫn tưởng. Một sự gia tăng trong
mức tiết kiệm nâng cao mức sống. Để thực hiện sự nâng cao ấy trong (Y/L), mức
tăng trưởng của Y phải được tạm thời nâng lên cao hơn mức tăng trưởng của L.
Nhưng mức tiết kiệm cao hơn không tạo ra một mức tăng trưởng thường xuyên cao
hơn của đầu ra vì mức này chỉ tùy thuộc vào mức tăng trưởng của số dân. Trong
trạng thái đều đều, Y/L là cố định, vì vậy Y và L phải tăng theo cùng một mức độ
như nhau. Một cách trực giác có thể hiểu là số tiết kiệm có thêm chỉ tài trợ cho một
mức cao hơn của kho vốn bình quân đầu người (K/L) chứ không tài trợ cho sự gia
tăng tiếp tục trong kho vốn bình quân đầu người. Số tiết kiệm có thêm bị “ngốn
hết” bởi mức đầu tư thêm thay thế mà kho vốn cao hơn đòi hỏi và bởi mức đầu tư
ròng cần thêm để trang bị cho mỗi người lao động một mức cao hơn của kho vốn
bình quân đầu người.
1.1.2. Phương pháp hạch toán tăng trưởng
Mô hình tăng trưởng của Solow gần như đã phủ nhận vai trò của tiết kiệm và
tích lũy vốn đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Điều này không đúng đối với
các nước đã phát triển những vẫn còn có giá trị và thực tế đã chứng minh nó phù
hợp và đã mở ra con đường mới cho các nước đang phát triển, phá vỡ quan điểm
truyền thống cho rằng tích lũy vốn là chìa khóa của tăng trưởng kinh tế và rằng tỷ
lệ tiết kiệm thấp chính là giới hạn chủ yếu của tăng trưởng đối với các nước đang
phát triển. Hơn thế, nó là cơ sở để các nhà kinh tế đưa ra một phương pháp thực
nghiệm nhằm giải đáp các vấn đề tăng trưởng kinh tế trong thực tiễn.
Cụ thể, mô hình Solow cho ta một phương pháp luận (hạch toán tăng trưởng)
để đo tốc độ tiến bộ công nghệ, còn gọi là phần dư Solow hay tăng trưởng tổng
15
năng suất nhân tố (TFP).
TFP được định nghĩa là chênh lệch giữa tăng trưởng sản lượng và tốc độ tăng
trưởng của các đầu vào vốn và lao động (có trọng số theo tỷ phần của từng nhân tố
trong tổng thu nhập).
Do bản chất của TFP là một số dư nên trên thực tế, nó là “thước đo phần bỏ
qua” (measure of our ignorance). Rõ ràng là nhiều nhân tố có thể tạo ra sự chuyển
biến của hàm sản xuất, ví dụ như giáo dục, cải tiến kỹ thuật, thay đổi về thể chế…
Số dư là giá trị còn lại sau khi trừ khỏi mức tăng trưởng của GDP thực tế tất
cả những nguồn gốc có thể nhận biết của tăng trưởng kinh tế.
Chỉ tiêu TFP rất quan trọng trong phân tích kinh tế. Sự biến động TFP được
Solow sử dụng đầu tiên vào năm 1957 nhằm phản ánh sự thay đổi công nghệ và
giải thích sự tăng trưởng kinh tế. Từ đó về sau được các nhà kinh tế sử dụng rộng
rãi và trở thành một chỉ tiêu không thể thiếu trong phân tích kinh tế.
Xuất phát từ những nguồn tài liệu và mục tiêu khác nhau, TFP được phân
tích theo những hướng khác nhau. Có thể tiến hành phân tích ảnh hưởng của các
nhân tố đến sự biến động của TFP hay phân tích ảnh hưởng của TFP đến tăng
trưởng kinh tế. Thông thường TFP được phân tích theo hướng thứ hai.
Phương pháp hạch toán tăng trưởng đặt giả thiết là có một hàm sản xuất liên
kết đầu ra (sản lượng) của một nền kinh tế với các đầu vào lao động và vốn (và tài
nguyên thiên nhiên nếu nó được tách ra khỏi vốn). Nhờ sử dụng hàm sản xuất này,
người ta đo được phần đóng góp của mỗi đơn vị đầu vào tăng lên đối với tăng
trưởng đầu ra và phần dư không thể giải thích bằng gia tăng đầu vào được gọi là
tăng trưởng “Tổng năng suất nhân tố” (TFP). Khi đó, TFP là thước đo tiến bộ công
nghệ được hiểu theo nghĩa rộng, tức là thước đo tăng trưởng sản lượng khi các đầu
vào không thay đổi.
Tuy nhiên, trong thực tế, rất khó đo được lao động và vốn một cách chính
xác. Xét trên khía cạnh đóng góp đối với sản lượng, thì số giờ lao động là thước đo
đầu vào lao động chính xác hơn số công nhân, nhưng người ta lại khó thu thập
16
được dữ liệu về giờ công. Việc điều chỉnh các đầu vào lao động có chất lượng khác
nhau (do tuổi tác, giới tính, trình độ…) vào cùng một biến lao động thuần nhất lại
càng khó khăn hơn nữa. Tương tự như vậy, phép đo vốn cũng gặp phải nhiều vấn
đề như mức sử dụng, tuổi thọ, khấu hao…Ngoài ra, nếu có tính kinh tế theo quy
mô, thì sản lượng gia tăng không tỷ lệ với gia tăng đầu vào. Thêm vào đó, nếu các
nhân tố sản xuất được phân bổ lại hiệu quả hơn giữa các vùng và các ngành, thì
tổng sản lượng có thể tăng cho dù các đầu vào không tăng. Việc định dạng một
hàm sản xuất trong những phân tích thực nghiệm cũng vấp phải một số vấn đề khó
khăn. Vì việc đo phần đóng góp của sự gia tăng đầu vào đối với tăng trưởng sản
lượng là rất khó khăn, nên tăng trưởng tổng nhân tố (dưới dạng phần dư) sẽ không
tránh khỏi sai số quan sát lớn. Để giảm bớt những sai số này, việc phân tích hạch
toán tăng trưởng sẽ trở nên vô cùng phức tạp. Tuy nhiên, trong luận văn này, phân
tích sẽ dựa trên phương trình tính toán đơn giản nhất, chỉ để tìm ra kết luận về
những yếu tố của tăng trưởng kinh tế.
Trước hết, ta xem xét hàm tổng sản xuất giả định dạng tổng quát đã đề cập ở
phương trình (1)
Y = AF (K, L) (1)
Giả thiết là F(K,L) thể hiện sản lượng được sản xuất từ K và L trong thời kỳ đầu,
tăng lên A lần nhờ tiến bộ công nghệ. Việc đưa ra giả thiết như vậy nhằm hàm ý
tiến bộ công nghệ trung lập theo cách xác định của Hick (năng suất cận biên của
vốn và lao động thay đổi cùng tốc độ với một tỷ lệ vốn – lao động cho trước).
Một giả thiết đơn giản hóa khác là tính thuần nhất tuyến tính và lợi tức không đổi
theo quy mô.
Khi đó, lấy vi phân phương trình (1) theo thời gian, ta thu được:
dY =dAF + AFK dK + AFL dL
Chia cả hai vế phương trình trên cho Y và sắp xếp lại, ta có:
17
= + + (17)
Ký hiệu:
gY, gA, gK, gL lần lượt là tốc độ tăng trưởng của Y, công nghệ, vốn và lao động.
Vậy, phương trình (17) trở thành:
gY =gA +
gK +
gL (18)
Đây là phương trình liên kết tốc độ tăng trưởng sản lượng với tốc độ tiến bộ công
nghệ (còn gọi là số dư Solow hay tốc độ tăng trưởng của TFP) và tốc độ tăng vốn
và lao động.
Trong thực tế, các nhà nghiên cứu thường sử dụng dạng hàm sản xuất Cobb-
Douglas:
Y = AKα L1-α
Hàm này thỏa mãn các giả định của mô hình Solow và có tỷ phần thu nhập nhân tố
cố định (tỷ phần của vốn bằng α, còn tỷ phần của lao động bằng 1- α)
Một khi ta ước lượng được tốc độ tăng trưởng của sản lượng, vốn và lực lượng lao
động và tìm được ước lượng của α, thì có thể giải phương trình (20) để tính tốc độ
tiến bộ công nghệ:
gY =gA + α gK + (1- α) gL (19)
gA= g y - αgK - (1- α) gL (20)
Trong đó, gy là tốc độ tăng GDP, gK là tốc độ tăng vốn hoặc tài sản cố định,
gL là tốc độ tăng lao động làm việc, α và (1- α) là hệ số đóng góp của vốn và lao
động, thường được xác định bằng phương pháp hạch toán hoặc dựa trên hàm sản
xuất Cobb-Douglas.
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) cao, bảo đảm cho việc duy trì tốc độ tăng
trưởng dài hạn và tránh được những biến động kinh tế từ bên ngoài. Tăng trưởng
kinh tế theo chiều sâu, thể hiện ở sự đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp
18
(TFP) cao và không ngừng gia tăng.
1.2.Các chỉ tiêu đánh giá nguồn lực tăng trƣởng kinh tế và vận dụng vào Việt
Nam
1.2.1. Thu nhập bình quân đầu người
Để đánh giá xác thực hơn về tăng trưởng kinh tế của một quốc gia dưới góc
độ mức sống dân cư, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu bình quân đầu người,
chẳng hạn GDP bình quân đầu người. Khi đó, tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào
Tốc độ tăng trưởng GDP/người = Tốc độ tăng trưởng GDP - Tốc độ gia tăng dân số
hai yếu tố: tăng trưởng thu nhập và tăng trưởng dân số.
Nếu tốc độ tăng trưởng tổng thu nhập bằng hoặc thấp hơn tốc độ tăng trưởng
dân số thì điều đó có nghĩa là không có sự gia tăng về mặt lượng của tăng trưởng
đứng trên góc độ bình quân đầu người. Khi một nền kinh tế có sự vượt trội của gia
tăng GDP so với tăng trưởng dân số thì nền kinh tế đó mới tăng trưởng và do đó ta
có thể định lượng và đánh giá sự đóng góp của dân số đối với tăng trưởng kinh tế.
Mặt lượng của tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng những thước đo cụ thể
và ta có thể nhận biết được nó thông qua phân tích các chỉ tiêu đánh giá động thái
biến động của nó.
1.2.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động – Năng suất lao động
Để tính năng suất lao động cho toàn bộ nền kinh tế, có thể đơn giản lấy GDP
(theo giá cố định) chia cho số lao động (hoặc giờ lao động). Nếu GDP bình quân
trên mỗi lao động càng lớn, thì năng suất lao động xã hội càng cao.
Dưới góc độ ngành, GDP có thể được thay bằng các chỉ số khác sẵn có như
giá trị sản phẩm, từ đó có chỉ số giá trị sản phẩm trên một giờ lao động hoặc chỉ số
giá thành lao động trên một đồng giá trị sản phẩm. Đây là những chỉ số theo dõi chi
phí và năng suất lao động.
1.2.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn - Hệ số ICOR
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp cho biết: để
tăng thêm một đơn vị GDP đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư thực
19
hiện. Vì vậy, hệ số này phản ánh hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư dẫn tới tăng
trưởng kinh tế. Với nội dung đó, hệ số ICOR được coi là một trong nhưng chỉ tiêu
quan trọng để đánh giá tăng trưởng kinh tế.
Hệ số ICOR thấp, chứng tỏ đầu tư có hiệu quả cao. Tuy nhiên, theo quy luật lợi tức
biên giảm dần, khi nền kinh tế tăng trưởng thì hệ số ICOR sẽ tăng lên, tức là để duy
trì cùng một tốc độ tăng trưởng, cần một tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP cao hơn.
Hệ số ICOR có thể tính theo hai cách sau [10, tr 43]:
Cách thứ nhất:
I1
ICOR =
Y1 -Y0
Trong đó, I1 là tổng vốn đầu tư của năm nghiên cứu, Y1 là GDP của năm
nghiên cứu, và Y0 là GDP của năm trước đó. Các chỉ tiêu về vốn đầu tư và GDP để
tính hệ số ICOR theo phương pháp này phải được đo theo cùng một loại giá (giá
thực tế hoặc giá so sánh).
Cách thứ hai:
I/Y
ICOR =
gY
Trong đó, I/Y là tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP, gY là tốc độ tăng GDP. Hệ số
ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: để tăng thêm 1% GDP đòi hỏi phải tăng
thêm bao nhiêu tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP.
1.2.4 . Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP)
Mặc dù hai chỉ tiêu năng suất lao động xã hội và hiệu quả sử dụng vốn
thường được sử dụng nhiều trong phân tích hiệu quả kinh tế, nhưng trên thực tế,
trong sản xuất có ba yếu tố chính làm tăng GDP: lao động, vốn sản xuất và TFP.
20
Nếu chỉ chia GDP cho lao động hay lấy vốn đầu tư chia cho mức gia tăng GDP, thì
những chỉ số này không thể phản ánh đóng góp riêng của yếu tố năng suất. Năng
suất nhân tố tổng hợp chỉ là phần tăng của GDP sau khi trừ đi vai trò của việc tăng
chất lượng tổ chức lao động, chất lượng máy móc, vai trò của quản lý và tổ chức
sản xuất, và được gọi chung là năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Nói một cách rõ
ràng hơn, TFP phụ thuộc vào hai yếu tố: tiến bộ công nghệ và kỹ thuật; hiệu quả sử
dụng các yếu tố đầu vào.
TFP tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao trong đóng góp vào tăng trưởng kinh
tế sẽ đảm bảo duy trì được tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những biến
động kinh tế từ bên ngoài. Có thể thấy, tốc độ tăng TFP và đóng góp TFP vào tăng
trưởng kinh tế là chỉ tiêu phản ánh đích thực và khái quát nhất hiệu quả sử dụng
nguồn lực sản xuất, làm căn cứ quan trọng để đánh giá tính chất phát triển bền
vững của kinh tế, là cơ sở để phân tích hiệu quả sản xuất xã hội, đánh giá tiến bộ
khoa học công nghệ, đánh giá trình độ tổ chức, quản lý sản xuất…của mỗi ngành,
mỗi địa phương hay mỗi quốc gia.
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) là kết quả sản xuất mang lại do nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn và lao động (các nhân tố hữu hình), nhờ vào tác động của các
nhân tố vô hình như tiến bộ khoa học công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, cải tiến quản
lý, nâng cao trình độ người lao động v.v...(gọi chung là nhân tố tổng hợp). Năng
suất nhân tố tổng hợp biểu thị phần thay đổi của GDP không do lao động và tài sản
tạo nên, được xác định bằng phần dư còn lại của tăng trưởng sau khi đã loại trừ tác
động của các yếu tố vốn và lao động. Vốn và lao động được xem là yếu tố vật chất,
có thể lượng hóa được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế và được coi
là những nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng. TFP được coi là yếu tố chất lượng
của tăng trưởng hay tăng trưởng theo chiều sâu
Như đã phân tích ở trên, một nền kinh tế tăng trưởng theo chiều rộng tức là nền
kinh tế tăng trưởng chỉ chú trọng mặt lượng, tăng về quy mô mà không chú trọng
21
đến các yếu tố duy trì tăng trưởng trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng,
nguồn lực của nền kinh tế được tập trung cho đầu tư, mở rộng quy mô vốn vật chất,
chú trọng đầu tư cho công nghiệp, khai thác tài nguyên, nhằm nhanh chóng đạt tốc
độ tăng trưởng cao. Và nếu chú trọng duy trì tăng trưởng theo cách này mà không
kết hợp các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn trong thời gian dài
thì chắc chắn hiệu suất sử dụng của các loại tài sản vốn sẽ giảm, đặc biệt làm suy
kiệt tài nguyên, và đẩy nền kinh tế vào sự trì trệ, suy thoái.
Nền kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu, theo các nghiên cứu, là khi nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng cao không chỉ tăng về số lượng mà tăng trưởng về chất
lượng, đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhờ vào nâng cao chất lượng lao động, thay
đổi về thành phần hay chất lượng của vốn và đặc biệt là nhờ các tiến bộ khoa học
công nghệ. Tiến bộ công nghệ không chỉ là yếu tố quan trọng đóng góp vào TFP
mà còn tác động tới hiệu quả sử dụng và năng suất các nhân tố khác (vốn vật chất,
vốn lao động và vốn tài nguyên môi trường).
Trong thời gian qua, các nước đang phát triển đều đã chú trọng đến mục tiêu
chất lượng tăng trưởng, và hầu hết các quốc gia tăng trưởng nhanh đều có tỉ lệ tăng
trưởng TFP ít nhất là 2%/năm [13, tr 57]. Để tăng TFP cần có các biện pháp tác
động tổng hợp lên các nhân tố đóng góp vào TFP. Có thể tăng chất lượng lao động
bằng các biện pháp phát triển nguồn nhân lực như tăng cường chất lượng giáo dục
và đào tạo. Hay sự thay đổi cơ cấu và chất lượng của vốn, nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn cũng có tác động tăng TFP. Và đặc biệt là các biện pháp thúc đẩy phát
triển khoa học - công nghệ như: tiếp thu công nghệ từ các nước, tăng cường đầu tư
cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D), v.v… Áp dụng đồng thời, kết hợp
các biện pháp này sẽ nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm chi
phí và giá thành, tạo ra sức cạnh tranh của sản phẩm.
Tuy nhiên, đối với điều kiện các nước đang phát triển, khi mà tiềm lực tài chính
còn hạn chế, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, chất lượng nhân lực còn chưa đủ cao,
22
năng lực về công nghệ còn thấp thì việc thực hiện các biện pháp tăng TFP nên được
đặt ra cho dài hạn và tiến hành từng bước, phù hợp với điều kiện tăng trưởng. Ở
giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng
cũng rất cần thiết, tạo cơ sở để có thể chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng theo
chiều sâu. Nhưng trong quá trình phát triển, các nước đang phát triển đồng thời với
việc xác định mục tiêu tăng trưởng về lượng, cần thiết phải kết hợp các mục tiêu
tạo cơ sở cho tăng trưởng dài hạn, khơi dậy các tiềm năng tăng trưởng, định hướng
và tạo nền cho tăng trưởng kinh tế chuyển dần sang đi theo chiều sâu thay cho
chiều rộng.
Để đánh giá tăng hiệu quả của việc sử dụng các yếu tố nguồn lực của sản
xuất, chúng ta tiến hành tính toán năng suất của từng yếu tố nguồn lực, bên cạnh đó
khi nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế, ngoài việc nâng cao năng suất của
các yếu tố nguồn lực còn làm tăng năng suất chung do hiệu quả của việc kết hợp
các yếu tố nguồn lực (như quản lý, công nghệ,… gọi chung là các nhân tố tổng
hợp). Vì thế phần tăng thêm của kết quả sản xuất tạo ra ngoài phần đóng góp của
yếu tố vốn và lao động còn có phần đóng góp của năng suất chung tạo ra mà chúng
ta gọi là năng suất các nhân tố tổng hợp. Như vậy, chúng ta có thể chia kết quả sản
xuất thành ba thành phần đó là phần do vốn tạo ra; phần do lao động tạo ra và phần
do các yếu tố khác tạo ra (gọi là các nhân tố tổng hợp). Việc tính toán phần đóng
góp của năng suất các nhân tố tổng hợp bằng cách tính tổng phần tăng lên của kết
quả sản xuất trừ đi phần đóng góp của các yếu tố nguồn lực (có thể tính trực tiếp
23
được đó là do vốn và lao động tạo ra).
CHƢƠNG 2
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CÁC NGUỒN LỰC ĐỐI VỚI TĂNG TRƢỞNG
KINH TẾ VIỆT NAM
2.1 . Các nguồn tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
2.1.1.Vốn đầu tư
Đầu tư phát triển xã hội tăng cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng, tạo nguồn
lực cho phát triển sản xuất. Nhìn chung, vốn đầu tư đóng vai trò chủ yếu và ngày
càng tăng trong tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP tăng
mạnh qua các năm: từ 17.6% năm 1991 lên 34.2% năm 2000 và 38.7% năm 2005.
Từ 1998 đến tháng 9 năm 2004, Việt Nam đã thu hút được 51 tỷ USD vốn đăng ký
từ FDI, 26 tỷ USD vốn thực hiện. Với một nước khan hiếm vốn, lại chịu tác động
xấu của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực (khiến cho vốn đầu tư nước
ngoài giảm và phục hồi chậm chạp), đây là kết quả của việc tích cực huy động một
lượng vốn lớn đưa vào đầu tư. Điều này chứng tỏ tiềm lực kinh tế nước ta đã tăng
lên và đó là cơ sở đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Bảng 2.1: Tỷ lệ vốn đầu tƣ so với GDP của Việt Nam, 1991-2008
Đơn vị: %
Năm
Tỷ lệ vốn đầu tƣ trên GDP
Tỷ lệ vốn đầu tƣ trên GDP
Năm
1991
17.56
2001
35.42
1992
22.38
2002
37.16
1993
30.07
2003
37.76
1994
30.41
2004
38.45
1995
31.65
2005
38.67
1996
32.13
2006
39.15
1997
34.55
2007
39.40
1998
32.45
2008
42.17
1999
32.80
2009 (E)
35.00
2000
34.20
24
Nguồn: Tổng cục thống kê
Mặc dù vậy, dường như nền kinh tế Việt Nam vẫn luôn khát vốn. Vốn thiếu
xét trên cả ba nguồn. Nguồn vốn nhà nước tuy chiếm tỷ trọng cao (năm 2008 vẫn
còn chiếm tới 56.1%), nhưng tỷ trọng đã giảm dần, do chi từ nguồn ngân sách nhà
nước phụ thuộc vào thu ngân sách, trong khi thu ngân sách vẫn chưa đủ chi, mức
bội chi vẫn còn trên dưới 5% so với GDP; do nguồn vốn chủ sở hữu của các tổ
chức tín dụng nhà nước còn thấp và do nguồn vốn chủ sở hữu của các doanh
nghiệp nhà nước quy mô còn nhỏ, tăng chậm.
Nguồn vốn của dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà nước tuy đã tăng khá,
nhưng tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội còn thấp; chủ trương xã hội hóa
đã được đưa ra từ lâu, nhưng việc thực hiện còn chậm, người dân vẫn có thói quen
gửi tiền tiết kiệm hay đầu tư vào vàng, USD, vào bất động sản, mà việc đầu tư trực
tiếp cho sản xuất kinh doanh vẫn chưa gia tăng mạnh [6, tr 3]. Thực tế cho thấy vẫn
có một lượng vốn nhàn rỗi không nhỏ nằm dưới trạng thái “chết” trong xã hội, chỉ
tính phần GDP tiết kiệm nhưng không được chuyển thành đầu tư, hàng năm có tới
30-40 nghìn tỷ đồng (5-7% GDP) rơi vào trạng thái vốn chết. Đó là chưa tính số
vốn người Việt Nam ở nước ngoài chuyển về, khoảng 2,5-3 tỷ USD/năm, chưa
được huy động đầu tư một cách tích cực và 15-20% của quỹ tích lũy chưa được huy
động vào đầu tư.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tuy đã có dấu hiệu khởi sắc khi lượng
vốn đăng ký và bổ sung năm 2008 đã đạt 6,85 tỷ USD, cao nhất tính từ năm 1998,
nhưng quy mô vẫn còn thấp hơn mức 9,74 tỷ USD của năm 1996. Tỷ trọng vốn
FDI thực hiện trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội còn thấp và có xu hướng
giảm dần.
2.1.2. Nguồn lực con người
Với số dân trên 80 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động
chiếm khoảng 55%, thì nguồn nhân lực là lợi thế phát triển quan trọng của nước ta
hiện nay. Số lao động đang làm việc hàng năm vẫn tăng thêm khoảng 1 triệu người.
25
Tuy nhiên, lợi thế này không được sử dụng hết, thậm chí đang bị lãng phí nghiêm
trọng, bởi đến đầu năm 2009, có tới 5,3% lao động ở thành thị thất nghiệp và
19,4% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng. Những tỷ lệ này vẫn còn đang tiếp
tục lớn hơn cho đến thời điểm hiện nay (tháng 9 năm 2009) do cuộc khủng hoảng
kinh tế làm cho hàng loạt các doanh nghiệp lớn nhỏ bị phá sản kéo theo hệ quả tất
yếu là người lao động bị mất việc làm. Theo ước tính, số thất thoát thời gian lao
động trên tương đương với trên 10 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn [8, tr 27-
32]. Trong số này, có không ít lao động trẻ, có sức khỏe và không ít lao động đã
qua đào tạo, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chưa có việc làm hoặc làm không đúng
nghề còn lớn, lãng phí rất nhiều chi phí đào tạo. Có thể nhận thấy rằng, nguồn lao
động lớn chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu quả đang trở thành vấn đề đáng báo
động đe dọa sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
Phân tích các chỉ tiêu phản ánh vai trò của lao động nước ta từ năm 1995 đến
2007 cho thấy, năm 1995, cả nước có 33 triệu lao động làm việc với năng suất lao
động (theo giá năm 1994) đạt bình quân 5,9 triệu đồng/người; đến năm 2000, lao
động làm việc tăng 11% (36,7 triệu), năng suất lao động tăng 26% (7,46
triệu/người). Vào năm 2008, lực lượng lao động làm việc có 62,3 triệu người (tăng
35% so với 1995), năng suất lao động đạt 8,55 triệu đồng/người (tăng 45%) và tổng
sản phẩm quốc nội tăng được 85% (đạt trên 361.524 tỷ đồng). Tuy nhiên, năng suất
lao động được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chia cho số lượng lao động
(L). Vì vậy, sự gia tăng của GDP không chỉ do số lượng lao động quyết định mà
chủ yếu là phụ thuộc vào năng suất lao động của nền kinh tế.
Mặc dù tốc độ tăng năng suất lao động nước ta không thấp, song trình độ
năng suất lao động ở nước ta so với các nước trong khu vực đang có khoảng cách
quá xa. Theo số liệu Ngân hàng phát triển châu Á công bố năm 2008, năng suất lao
động bình quân năm 2008 ở Việt Nam đạt 638 USD, bằng 37% của Philipin, 16%
Thái Lan, 2% của Đài loan và 1% so với Singapore. Điều này cho thấy, tiềm năng
về nguồn lực con người ở nước ta có dư địa để tăng năng suất lao động, góp phần
26
đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế đất nước.
Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB), dân số trong độ tuổi lao động
nước ta năm 2008 là 54 triệu người; dự báo đến năm 2010 lên trên 57 triệu (chiếm
64,7% dân số cả nước) và vào năm 2020 lên khoảng 62,2 triệu. Với nguồn cung
cấp lao động dồi dào, nước ta có thể tránh được tình trạng thiếu lao động của những
nước phát triển. Mặt khác, với những lợi thế cơ bản của lực lượng lao động trẻ (trên
50%), trình độ học vấn không thấp (bình quân có từ 9,5 đến 9,7 năm đi học); nếu
có chiến lược xây dựng, nuôi dưỡng và khai thác hợp lý, thế hệ lao động trẻ nước
nhà có thể phát triển nhanh. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, nguồn lao động của
Việt Nam là nguồn nhân lực có cơ hội vàng, đây là tiềm năng to lớn có thể khai
thác để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng nhanh năng suất lao động,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm đáng kể lực lượng lao động nông
nghiệp, tăng tỷ trọng lao động ở các ngành nghề đem lại giá trị gia tăng cao.
2.1.2.1. Năng suất lao động và việc áp dụng tính toán ở Việt Nam
Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động, đặc trưng
bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu
vào (lao động làm việc). Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất
của một đơn vị hay cả nền kinh tế - xã hội. Tùy theo mục đích nghiên cứu của mỗi
nước, mỗi ngành khác nhau trong từng giai đoạn khác nhau mà áp dụng chỉ tiêu
năng suất lao động (nói cụ thể là chỉ tiêu năng suất lao động sống) theo phương
thức khác nhau, được tính toán bằng chỉ tiêu đầu ra khác nhau. Ở Việt Nam, năng
suất lao động được tính toán theo chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng. Từ khi Việt Nam
gia nhập tổ chức năng suất châu Á (Asia Productivity Organization - APO) và quan
hệ hợp tác quốc tế được mở rộng, đặc biệt là gia nhập khối ASEAN (tháng 7 năm
1995) thì việc nghiên cứu chỉ tiêu năng suất lại được đặt ra ngày càng cấp thiết.
Cũng thời gian này, Tổng cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (Bộ Khoa học
Công nghệ và Môi trường) đã thiết lập Trung tâm năng suất Việt Nam. Tuy mới
27
được thành lập nhưng Trung tâm năng suất đã tham gia thực hiện nhiều chương
trình của APO liên quan đến Việt Nam, tiến hành một số đề tài khoa học để nghiên
cứu cách tiếp cận mới về năng suất, tính toán các chỉ tiêu năng suất, trong đó có chỉ
tiêu năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp.
Hiện nay, các chỉ tiêu năng suất lao động và tốc độ tăng năng suất các nhân
tố tổng hợp được đưa vào danh mục các chỉ tiêu trong Hệ thống chỉ tiêu Thống kê
quốc gia của Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ áp dụng ở cấp nào, tính toán cụ thể ra
sao thì còn đang ở giai đoạn nghiên cứu để giải thích và hướng dẫn áp dụng rộng
rãi. Trên phạm vi nền kinh tế quốc dân, tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic
Production - GDP) là chỉ tiêu được dùng để tính toán tốc độ tăng trưởng kinh tế,
làm căn cứ để đánh giá sự phát triển kinh tế của đất nước và tính toán nhiều chỉ tiêu
kinh tế quan trọng khác, nên tất nhiên sẽ làm căn cứ để tính toán các chỉ tiêu năng
suất, trong đó có năng suất lao động trong phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân.
Khác với phạm vi chung của nền kinh tế, trong các ngành như công nghiệp,
nông - lâm nghiệp vẫn tiếp tục áp dụng chỉ tiêu giá trị sản xuất để tính toán tốc độ
tăng trưởng, đánh giá kết quả hoạt động sản xuất của từng ngành cũng như để tính
toán các chỉ tiêu năng suất, chất lượng và hiệu quả. Năng suất lao động tính theo
giá trị tăng thêm có ưu điểm hơn hẳn so với năng suất lao động tính theo giá trị sản
xuất vì ở tử số của chỉ tiêu năng suất lao động không tính phần chi phí trung gian
(phần giá trị này luôn bị tính trùng giữa các doanh nghiệp, giữa các ngành) nên sự
biến động của chỉ tiêu năng suất lao động không phụ thuộc vào thay đổi tổ chức sản
suất như năng suất lao động tính theo giá trị sản xuất. Hơn nữa, nếu trong toàn nền
kinh tế, năng suất lao động tính theo tổng sản phẩm trong nước, thì đối với từng
ngành, từng doanh nghiệp, năng suất lao động cũng cần được tính theo giá trị tăng
thêm. Có như vậy mới cho phép nghiên cứu, phân tích mối liên hệ giữa năng suất
lao động của các doanh nghiệp, các ngành với năng suất lao động chung của toàn
28
nền kinh tế quốc dân.
2.1.2.1.1. Phân tích năng suất lao động chung toàn nền kinh tế giai đoạn 2001 - 2008
Từ số liệu về tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá thực tế và lao động
làm việc có trong Niên giám Thống kê của Tổng cục Thống kê, ta tính được mức
năng suất lao động của năm 2005 đạt 19,62 triệu đồng. Nếu tính theo giá cố định
(giá năm 1994) và nghiên cứu biến động của năng suất lao động ta thấy trong thời
gian từ 2001 đến 2005,năng suất lao động chung toàn nền kinh tế quốc dân của
Việt Nam liên tục tăng lên và tăng với xu thế cao dần. Xu thế này cũng tiếp diễn từ
năm 2006 đến 2008. Con số tăng trung bình từ 2006 đến 2008 là 5,27%, cụ thể như
sau:
Biểu 2.1: Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội từ 2001 đến 2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
So sánh mức năng suất lao động tính theo USD và tốc độ tăng năng suất lao
động tính bằng % năm 2008 của Việt Nam với một số nước trên thế giới, ta có kết
29
quả như sau:
Bảng 2.2: Mức năng suất và tốc độ tăng năng suất lao động của một số
nƣớc và lãnh thổ trên thế giới năm 2008
Mức năng suất lao động
Tốc độ tăng NSLĐ
Tên nƣớc và lãnh thổ
Mức NSLĐ (USD)
Thứ tự
Tốc độ (%)
Thứ tự
Mỹ
77.346
1
1,8
12
Nhật
77.061
2
1,9
10
Irland
62.936
3
1,0
15
Hồng Kông
60.299
4
5,0
4
Pháp
57.677
5
1,4
14
Phần Lan
55.698
6
0,1
18
Singapore
52.426
7
1,9
10
Anh
51.882
8
0,9
16
Đức
50.789
9
0,9
16
Canada
49.308
10
1,6
13
Australia
45.545
11
-1,0
20
Đài Loan
35.856
12
2,7
8
Hàn Quốc
27.907
13
2,6
9
Malaysia
11.300
14
3,0
6
Thái Lan
4.305
15
3,0
6
Philipin
2.807
16
-0,8
19
Trung Quốc
2.272
17
7,1
1
Indonesia
1.952
18
4,4
5
Ấn Độ
1.242
19
6,6
2
Việt Nam
1.237
20
5,53
3
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của UNDP năm 2008
Qua bảng số liệu trên ta thấy năng suất lao động của Việt Nam đạt ở mức
thấp xấp xỉ năng suất lao động của Ấn Độ và đứng cuối cùng trong số 20 nước
30
được chọn để so sánh. Nếu so với năng suất lao động của Mỹ (nước có năng suất
lao động cao nhất trong bảng), thì năng suất lao động của Việt Nam chỉ mới bằng
1,6%.
Nếu tách riêng 6 nước trong khối ASEAN có trong bảng trên gồm:
Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philipin, Indonesia và Việt Nam thì Singapore dẫn
đầu và Việt Nam tất nhiên ở vị trí cuối. Năng suất lao động năm 2008 của Việt
Nam so với Singapore là 3,45%, so với Malaysia là 11,23%, so với Thái Lan là
35,12%, so với Philipin là 52,21% và so với Indonesia là 72,61%. Tuy nhiên, xét về
tốc độ tăng năng suất lao động thì trong số những nước này Việt Nam có tốc độ
tăng cao (5,53%, đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Ấn Độ) trong khi đó 4 nước còn
lại chỉ tăng từ 1,9% đến 4,4%. Riêng Philipin, năng suất lao động năm 2008 giảm
1,2% và Australia giảm 1,8%.
Như vậy, có thể nói, năng suất lao động của Việt Nam còn quá thấp so với
năng suất lao động của các nước khác. Điều đó có thể giải thích về trình độ kỹ
thuật, công nghệ của ta còn thấp, cơ sở vật chất còn nghèo, công tác quản lý còn
một số hạn chế, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, đặc biệt là sản xuất
nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu xét theo xu thế biến động từ năm 2001 - 2008 thì năng
suất lao động chung của Việt Nam liên tục tăng lên và có mức tăng khá (từ 4,25%
đến 5,53%). Mức bình quân 5 năm (từ 2001 đến 2005) là 4,81%, bình quân 3 năm
từ 2006 đến 2008 là 5,27%. Những năm gần đây, Việt Nam đã chú ý đầu tư vốn và
kỹ thuật để phát triển sản xuất, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế... là những yếu
tố quan trọng góp phần nâng cao năng suất lao động.
2.1.2.1.2. Phân tích năng suất lao động theo khu vực kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam chia thành 3 khu vực: Kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài
nhà nước (gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, kinh tế tư nhân,...)
và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (gồm các loại hình 100% vốn đầu tư nước
31
ngoài và loại hình liên doanh liên kết với nước ngoài). Trong 3 khu vực kinh tế nói
trên, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có mức năng suất lao động cao nhất.
Theo Niên giám Thống kê, năm 2008, năng suất lao động theo giá thực tế của khu
vực kinh tế này đạt 196,97 triệu đồng. Khu vực kinh tế nhà nước có mức năng suất
đứng vị trí thứ hai, đạt 78,01 triệu đồng. Thấp nhất là năng suất lao động của khu
vực kinh tế ngoài nhà nước, đạt 10,1 triệu đồng. Nếu so sánh năng suất lao động
năm 2008 của các khu vực kinh tế có mức đạt được cao hơn (khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế nhà nước) với năng suất lao động của
khu vực kinh tế có mức thấp nhất (khu vực kinh tế ngoài nhà nước), thì năng suất
lao động khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gấp 19,50 lần và mức năng suất
lao động của khu vực kinh tế nhà nước gấp 7,72 lần. Nói cách khác, nếu lấy mức
năng suất của khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 1 đơn vị, thì năng suất lao động
của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 19,50 đơn vị và kinh tế nhà nước
là 7,72 đơn vị.
Nếu so sánh năng suất lao động của khu vực kinh tế nhà nước, đặc biệt là
năng suất của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt được năm 2008 với
mức năng suất lao động chung toàn nền kinh tế quốc dân đạt được của các nước
trên thế giới và trước hết là so với 10 nước thuộc "tốp dưới" trong số 20 nước kể
trên, thì năng suất lao động của Việt Nam không phải là quá thấp. Năng suất lao
động của khu vực kinh tế nhà nước, năm 2008 đạt 78,01 triệu đồng tương đương
4.919 USD. Còn mức năng suất lao động bình quân chung của 2 khu vực kinh tế
nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài năm 2008 đạt 94,75 triệu
đồng, tương đương 5.975 USD.
Theo hai phương án mức năng suất lao động của khu vực kinh tế nhà nước
cũng như năng suất lao động chung của khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài đều cao hơn mức năng suất lao động chung cả nền
kinh tế quốc dân đạt được của 5 nước: Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a, Trung Quốc, Phi-lip-
32
pin và Thái Lan.
Qua đây có thể thấy, năng suất lao động chung của cả ba khu vực ở Việt
Nam đạt thấp chủ yếu là do, năng suất lao động của khu vực kinh tế ngoài nhà nước
đạt quá thấp, trong khi đó lao động của khu vực kinh tế này lại rất lớn, chiếm tới
88% tổng số lao động làm việc ở cả ba khu vực.
Xét về tốc độ tăng, quan sát năng suất lao động tính theo giá cố định (giá
năm 1994), thì năng suất lao động khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng nhanh và
đều nhất, sau đến năng suất lao động khu vực kinh tế nhà nước. Đến năm 2007, bắt
đầu tăng lên và có mức tăng khá (tăng trên 5%). Cụ thể xem bảng 2.3.
Bảng 2.3: Tốc độ tăng năng suất lao động của các khu vực kinh tế thời kỳ 2001- 2008
Năm
2001
2004
2006
2007
2008
Bình quân 5 năm
1. KV kinh tế nhà
4,39
2,91
3,05
5,84
6,87
4,61
nước
2. KV kinh tế ngoài
4,16
4,85
5,29
5,55
5,67
5,10
nhà nước
Đơn vị tính: %
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của WB
2.1.2.1.3. Phân tích năng suất lao động theo ngành kinh tế
Theo hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, nền kinh tế của Việt Nam chia
theo nhiều ngành kinh tế khác nhau như công nghiệp; nông, lâm nghiệp, thủy sản;
xây dựng, giao thông,... Trên góc độ phân tích năng suất lao động, hơn nữa do điều
kiện về số liệu hiện có nên không phân tích sâu đến từng ngành kinh tế mà ở đây
chỉ nghiên cứu các ngành và nhóm ngành như sau: Nông - lâm nghiệp, công nghiệp
và các ngành kinh tế khác (các ngành kinh tế khác gồm tất cả các ngành còn lại
33
ngoại trừ các ngành nông lâm nghiệp và công nghiệp).
Trong các ngành và nhóm ngành kinh tế trên đây, công nghiệp luôn là ngành
tiên tiến hơn, có trình độ kỹ thuật cao nên cũng luôn có năng suất lao động cao hơn.
Theo số liệu thống kê được công bố trong báo cáo của FAO, năm 2008, năng suất
lao động của công nghiệp Việt Nam tính bằng chỉ tiêu giá trị tăng thêm - một bộ
phận của tổng sản phẩm trong nước theo giá thực tế đạt 52,87 triệu đồng. Nông -
lâm nghiệp luôn là những ngành có trình độ kỹ thuật thấp, sản xuất lại phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên, do vậy luôn có năng suất lao động thấp nhất, năm 2008 chỉ
đạt 6,26 triệu đồng.
Các ngành kinh tế khác có năng suất lao động đứng vị trí thứ hai (sau công
nghiệp, nhưng cao hơn nông - lâm nghiệp). Năm 2008, năng suất lao động trong
các ngành kinh tế khác đạt 28,04 triệu đồng.
Nếu so sánh mức năng suất lao động của ngành công nghiệp (ngành có năng
suất lao động cao nhất) và các ngành kinh tế khác (ngành có năng suất lao động
đứng vị trí thứ hai sau ngành công nghiệp) với năng suất lao động của ngành nông,
lâm nghiệp (ngành có năng suất lao động đạt thấp nhất). Số liệu thống kê cho thấy
năm 2008 năng suất lao động của ngành công nghiệp gấp 8,45 lần và năng suất lao
động các ngành kinh tế khác gấp 4,48 lần. Nói cách khác, nếu lấy năng suất lao
động ngành nông - lâm nghiệp là một đơn vị thì năng suất lao động ngành công
nghiệp đạt 8,45 đơn vị và năng suất lao động các ngành khác đạt 4,48 đơn vị. Nếu
quan sát theo thời gian, quan hệ chênh lệch này của cả hai trường hợp giữa năng
suất lao động ngành công nghiệp và năng suất lao động các ngành khác so với năng
suất lao động ngành nông - lâm nghiệp đều có xu hướng giảm dần qua các năm.
Xét về biến động của năng suất lao động (so sánh năng suất lao động tính
theo giá cố định qua các năm), ta thấy: năng suất lao động trong ngành nông - lâm
nghiệp tăng đều hơn (từ 3,15% đến 4,14%) và bình quân 5 năm (2004-2008) đạt
34
3,81%. Năng suất lao động của công nghiệp trong 3 năm đầu (2004 - 2006) tăng
không đáng kể, đến năm 2006 có tốc độ tăng tương đương tốc độ tăng năng suất lao
động của ngành nông - lâm nghiệp (3,35%) và đến năm 2008 đạt khá cao (6,54%).
Mức tăng bình quân 5 năm đạt 3,23%, thấp hơn tốc độ tăng năng suất lao động
bình quân 5 năm của ngành nông, lâm nghiệp là 0,578%. Năng suất lao động của
các ngành kinh tế khác trong 2 năm 2004 và 2005 giảm chút ít, 3 năm tiếp theo có
tăng, nhưng chậm và bình quân 5 năm (2004 - 2008) năng suất lao động của các
ngành này gần như không tăng.
Có thể quan sát tốc độ tăng năng suất lao động của từng năm và bình quân 5
năm của các ngành kinh tế (xem bảng 2.4).
Bảng 2.4: Tốc độ tăng năng suất lao động của các ngành kinh tế thời kỳ 2004 - 2008
Đơn vị tính: %
Năm
Bình quân
2004
2005
2006
2007
2008
5 năm
Ngành KT
Toàn nền kinh tế
4,25
4,48
4,54
5,19
5,58
4,81
Ngành nông lâm nghiệp
4,21
3,15
3,34
4,21
4,14
3,81
Ngành công nghiệp
0,19
2,03
3,35
4,05
6,54
3,23
Các ngành kinh tế khác
-0,1
-0,03
1,07
1,19
0,20
0,48
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của WB
Quan sát quan hệ giữa tốc độ tăng năng suất lao động chung của nền kinh tế
quốc dân và tốc độ tăng năng suất lao động của các ngành và nhóm ngành kinh tế
cho thấy, tốc độ tăng năng suất lao động của toàn nền kinh tế có mức tăng cao hơn
mức tăng năng suất lao động của riêng các ngành. Điều đó được giải thích là năng
suất lao động của toàn nền kinh tế như là năng suất lao động bình quân giữa năng
suất lao động các ngành, vì vậy biến động của năng suất lao động bình quân phụ
35
thuộc vào hai yếu tố: sự biến động trực tiếp về năng suất lao động của các ngành và
sự thay đổi cơ cấu lao động theo ngành (nếu tỷ trọng lao động của những ngành có
năng suất cao hơn tăng lên còn tỷ trọng lao động của những ngành có năng suất lao
động thấp giảm đi thì sự thay đổi cơ cấu đó sẽ làm tăng năng suất lao động bình
quân chung. Và ngược lại, nếu tỷ trọng lao động của các ngành có năng suất lao
động cao hơn giảm đi, còn tỷ trọng lao động của những ngành có năng suất lao
động thấp tăng lên thì sự thay đổi cơ cấu đó sẽ làm giảm năng suất lao động bình
quân chung).
Thực tế ở Việt Nam trong 5 năm qua (2004 - 2008), tỷ trọng lao động của
ngành công nghiệp và các ngành kinh tế khác có năng suất lao động cao hơn (so
với năng suất lao động của ngành nông, lâm nghiệp) luôn tăng lên và tất nhiên tỷ
trọng lao động các ngành nông, lâm nghiệp (ngành có năng suất lao động thấp hơn)
sẽ giảm đi.
Sự biến động cơ cấu lao động giữa các ngành theo xu hướng như trên đã liên
tục đóng góp từ 48,22% - 78,75% vào phần trăm tăng lên của tốc độ tăng năng suất
lao động bình quân chung toàn nền kinh tế quốc dân thời kỳ 2004 - 2008.
Bảng 2.5: Tỷ trọng lao động của các ngành kinh tế qua các năm
Đơn vị tính: %
Năm 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số lao động 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
Tỷ trọng lao động nông 60,34 58,66 56,98 55,37 53,34 lâm nghiệp
Tỷ trọng lao động công 39,66 41,34 43,02 40,63 46,66 nghiệp và các ngành khác
36
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của UNDP
Tóm lại, phân tích trên đây cho thấy, năng suất lao động bình quân chung
toàn nền kinh tế quốc dân của nước ta đạt được còn ở mức thấp so với các nước
trên thế giới. Trong đó, đặc biệt khu vực kinh tế ngoài nhà nước (xét theo hình thức
sở hữu) và ngành nông - lâm nghiệp (xét theo ngành kinh tế) có mức năng suất lao
động rất thấp, nhưng lại có lao động chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó đã làm ảnh hưởng
rất nhiều đến mức năng suất lao động bình quân chung toàn nền kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, xét theo xu thế biến động, thì năng suất lao động toàn nền kinh tế
liên tục tăng lên và có mức tăng khá. Mức tăng lên của năng suất lao động bình
quân chung này do sự tăng lên thuần túy về năng suất lao động các ngành, các khu
vực đóng góp bình quân dưới 40%, còn do chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng lao động của các khu vực kinh tế, các ngành có năng suất lao động
cao hơn tức là giảm tỷ trọng lao động theo tỷ lệ tương ứng của các khu vực kinh tế,
các ngành có năng suất lao động thấp đóng góp bình quân trên 60%.
Để không ngừng nâng cao năng suất lao động chung của toàn nền kinh tế
quốc dân, trong thời gian tới chúng ta phải hết sức chú ý đầu tư cho phát triển sản
xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý sản xuất, đẩy mạnh
đào tạo nâng cao trình độ của người lao động... để phấn đấu tăng năng suất lao
động đều hơn ở cả 3 khu vực kinh tế, cũng như tất cả các ngành kinh tế quốc dân.
Phải đặc biệt chú ý nâng cao năng suất lao động ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước
cũng như nâng cao năng suất lao động ngành nông - lâm nghiệp, vì ở các khu vực
và ngành kinh tế này hiện nay trình độ kỹ thuật còn rất thấp, nhưng lại có phạm vi
37
hoạt động rộng và chiếm tỷ lệ lao động rất lớn.
Bảng 2.6: Mức độ đóng góp của thay đổi cơ cấu lao động giữa các ngành đối
với mức tăng của NSLĐ chung toàn nền kinh tế quốc dân
Đơn vị tính: %
Bình
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 quân 5
năm
I. Tốc độ NSLĐ của ngành và do thay đổi cơ cấu lao động
Tăng NSLĐ các 0,90 1,22 1,60 2,69 2,84 1,85 ngành
Thay đổi cơ cấu lao 3,35 3,26 2,94 2,50 2,67 2,96 động giữa các ngành
II. Tỷ phần đóng góp trong tốc độ NSLĐ chung của nền KTQD
Tăng NSLĐ các 21,25 27,18 35,27 51,78 51,52 37,20 ngành
Thay đổi cơ cấu lao 78,75 72,82 64,73 48,22 48,48 62,80 động giữa các ngành
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn
Mặt khác, phải tạo môi trường thật thông thoáng để lao động dễ dàng dịch
chuyển từ những lĩnh vực, những ngành kinh tế có năng suất lao động thấp sang
các lĩnh vực, các ngành kinh tế có năng suất lao động cao, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế một cách tích cực theo hướng vừa công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa
38
tăng nhanh năng suất lao động toàn xã hội.
2.1.3. Khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là yếu tố có vai trò ngày càng to lớn trong tăng trưởng
kinh tế. Nếu quá trình tăng tích luỹ vốn, đầu tư mở rộng quy mô sản xuất được coi
là quá trình tái sản xuất theo chiều rộng thì phát triển khoa học công nghệ lại được
gọi là quá trình tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Khoa học công nghệ là yếu tố
tác động trực tiếp đến sản xuất, là nhân tố tăng năng suất lao động, hoàn thiện, nâng
cao chất lượng và năng lực cạnh tranh sản phẩm; đó cũng là yếu tố tạo đà tăng
trưởng cho mọi quốc gia.
Theo WEF (World Economic Forum), chỉ số cạnh tranh của Việt Nam năm
2008 giảm 17 bậc, xếp thứ 77 trong số 104 quốc gia được xem xét.[18, tr 7]. Cùng
với đánh giá của tổ chức này, những kết quả nghiên cứu trong nước cũng đã chỉ ra,
KH&CN nước nhà đã có nhiều đóng góp để tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, về mặt
này KH&CN nước ta có những hạn chế và còn nhiều tiềm năng có thể khai thác để
đi vào hội nhập.
Đến nay chưa có số liệu chính thức về đóng góp của KH&CN cho tăng
trưởng kinh tế, song theo những kết quả nghiên cứu về đóng góp của yếu tố năng
suất tổng hợp (TFP) vào GDP từ 2004 đến 2008 thì khả năng này hàng năm đã
đóng góp vào từ 23,4% đến 34,9%. Phân tích mối quan hệ giữa năng suất lao động
và đầu tư R&D trên lao động gần đây, các nhà nghiên cứu cho biết, thu nhập quốc
dân đầu người gia tăng tỷ lệ thuận với mức độ đầu tư. So với Thái Lan và Trung
Quốc, đầu tư R&D cho một lao động ở nước ta thấp thua nhiều lần, điều này cho
thấy nước ta còn có thể nâng cao năng suất lao động xã hội nếu tăng được nguồn
vốn và sử dụng hiệu quả hơn vốn đầu tư R&D.
Trong suốt thời gian qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để tăng cường đầu tư
cho KH&CN. Chi cho KH&CN từ ngân sách nhà nước tăng bình quân hàng năm
trên 23% trong giai đoạn 1995-2008. Từ năm 2005 đến nay, đầu tư tài chính cho
39
KH&CN luôn đảm bảo ở mức 2% tổng chi ngân sách nhà nước, đạt đến 4.270 tỷ
đồng trong năm 2008. Tuy nhiên, xét cả về số lượng tuyệt đối và tương đối, đầu tư
cho R&D ở nước ta còn thấp hơn nhiều lần so với các nước trong khu vực. Theo
tiêu chí chi R&D tính trên 1 đầu cán bộ nghiên cứu thì Việt Nam thấp hơn 4 lần
Thái Lan, 7 lần Trung Quốc, 8 lần Malaixia và 26 lần so với Xingapo. Đáng quan
tâm là tỷ trọng chi R&D của khu vực tư nhân so với tổng chi R&D vào năm 2008
của nước ta còn thấp, mới đạt khoảng 19%, trong khi ở Trung Quốc là 45%,
Malaixia là 60% và Nhật Bản là trên 72% (trung bình, các doanh nghiệp Việt Nam
mới đầu tư cho R&D chừng 0,03% doanh thu, tỷ lệ này ở các nước công nghiệp là
khoảng 3%).
Theo nhiều nghiên cứu quốc tế thì năng lực nghiên cứu cơ bản của Việt Nam
không phải thấp, khả năng tư duy và trí thông minh của thế hệ trẻ Việt Nam được
thế giới ghi nhận. Song nhìn chung, khả năng nghiên cứu cơ bản và phát triển công
nghệ ở nước ta vẫn còn trong dạng tiềm năng. Kỹ năng làm việc theo nhóm của các
tổ chức nghiên cứu và các nhà khoa học chưa cao đã hạn chế việc phối kết hợp và
thừa kế các kết quả nghiên cứu đạt được, thậm chí còn lãng phí do việc tiến hành
trùng lắp. Trình độ công nghệ trong nước chưa đóng góp được nhiều trong chiếm
lĩnh thị trường và xuất khẩu của doanh nghiệp. Do chưa chú trọng đúng mức đến
việc biến các kết quả nghiên cứu thành sản phẩm có giá trị thương mại, mặt khác,
việc công bố và đăng ký các kết quả nghiên cứu tạo ra chưa thường xuyên nên phát
huy ảnh hưởng của nghiên cứu vẫn còn nhiều hạn chế. So với khu vực, số lượng
bằng phát minh sáng chế tính trên đầu người nước ta bằng 9% Trung Quốc, 1% so
với Xingapo. Trên lĩnh vực công nghệ, tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu sử dụng công
nghệ cao ở nước ta quá thấp, mới đạt chừng 8,2%, trong khi Malaixia đã đạt 67%,
Thái Lan là 39% và Philipin cũng đạt 33%. Thực tế này cũng phản ánh năng lực
cạnh tranh yếu của các mặt hàng xuất khẩu nước ta trong tiến trình hội nhập.
Nhìn tổng thể, năng lực công nghệ nước nhà còn ở trình độ thấp, lạc hậu 3 đến 4
thế hệ (từ 50 đến 100 năm) so với những nước công nghiệp phát triển và còn có
40
khoảng cách khá xa so với nhiều nước trong khu vực. Theo những tiêu chí xếp loại
thể hiện ở chỉ số công nghệ, đổi mới công nghệ, thông tin viễn thông và chuyển
giao công nghệ; tổ chức WEF năm 2008 xếp nước ta ở bậc 92 trong số 104 nước về
công nghệ thấp thua Thái Lan 49 bậc, chỉ số đổi mới xếp thứ 79, dưới Thái Lan 42
bậc, thông tin viễn thông ở hàng 86 dưới Thái Lan 31 bậc; thứ hạng cao nhất đạt
được là chuyển giao công nghệ xếp được xếp hạng thứ 66 nhưng còn thấp thua
Thái Lan tới 62 bậc.
2.1.4. Tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế
Đối với Việt Nam, tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, không
chỉ do xuất phát điểm của nước ta còn thấp, phải tăng trưởng nhanh để chống nguy
cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
mà còn là tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế-xã hội khác như chống lạm
phát, giảm thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, phát triển
giáo dục, y tế, văn hóa, xóa đói giảm nghèo… Với ý nghĩa này, những thành tựu về
tăng trưởng kinh tế của đất nước ta trong những thập kỷ qua là rất đáng tự hào, cả
trong so sánh với giai đoạn trước đổi mới của Việt Nam lẫn trong so sánh với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
So với các thời kỳ 1976-1985 (đạt khoảng 2%/năm), 1986-1990 (đạt xấp xỉ
khoảng 3,9%/năm), thì tốc độ tăng trưởng bình quân năm thời kỳ 1991-1995
(8,2%),1996-2000 (6,7%), 2001-2005 (7,5%) và 2006-2008 (7.64%) là vô cùng ấn
tượng. Tính bình quân trong cả giai đoạn 1991-2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
gần 7.6%/năm. Đó là những tốc độ tăng thuộc loại cao nhất so với các nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới, có chăng chỉ thấp hơn tốc độ tăng trưởng bình quân
năm của Trung Quốc trong thời gian tương ứng. Hơn thế, thời gian tăng trưởng
kinh tế liên tục của Việt Nam đã đạt 25 năm, vượt kỷ lục 23 năm của Hàn Quốc, và
41
cũng chỉ thua kỷ lục 27 năm mà Trung Quốc đang nắm giữ cho đến nay.
Bảng 2.7: Tốc độ tăng trƣởng kinh tế Việt Nam từ 1991 – 2008
Đơn vị: %
Tốc độ tăng
Tốc độ tăng
Tốc độ tăng
Tốc độ tăng
Năm
Năm
Năm
Năm
trƣởng kinh tế
trƣởng kinh tế
trƣởng kinh tế
trƣởng kinh tế
1991
5.81
1996
2001
9.34
6.89
1992
8.70
1997
2002
8.15
7.08
8.17
2006
1993
8.08
1998
2003
5.76
7.34
8.44
2007
1994
8.83
1999
2004
4.77
7.79
6.3
2008
1995
9.54
2000
2005
6.79
8.43
TB
TB
TB
TB
thời
8.2
thời
7.0
7.5
7.64
thời
thời kỳ
kỳ
kỳ
kỳ
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thời kỳ 1991-1995 thể hiện những bước chuyển đầu tiên của nền kinh tế
sang cơ chế thị trường. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển mạnh mẽ, đưa
nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, đạt đỉnh điểm vào năm 1995 (9.54%). Sự
tăng trưởng nhanh trong giai đoạn này là do tác động của nhiều cải cách lớn như:
ban hành và sửa chữa những bộ luật liên quan đến ngân sách nhà nước, doanh
nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, tín dụng và ngân hàng, khuyến khích đầu
tư trong nước và nước ngoài, mở rộng các quan hệ thương mại và tài chính với
cộng đồng quốc tế thông qua đàm phán và tự do hoá cao hơn, thể hiện qua việc
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1994 và AFTA năm 1995. Ngoài ra, các nguồn
vốn ODA đã giúp Việt Nam thực hiện những điều chỉnh cơ cấu quan trọng bước
đầu. Nhìn chung, giai đoạn chuyển đổi này đã xây dựng nền móng cơ sở cho cơ chế
thị trường phát triển những năm sau đó.
Thời kỳ 1996-2000 là khoảng thời gian tốc độ tăng trưởng kinh tế có chiều
hướng đi xuống, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu Á. Đây
có thể coi là thách thức đầu tiên đối với nền kinh tế thị trường còn non trẻ của Việt
42
Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á xuất phát từ Thái Lan và lan
rộng sang các nước Đông Á khác, tạo nên sự giảm sút đột ngột về thương mại và
đầu tư. Nền kinh tế Việt Nam tuy không chịu ảnh hưởng trực tiếp do có mức kiểm
soát tài khoản vốn cao, nhưng việc nguồn vốn FDI suy giảm và sự cạnh tranh ngày
càng khốc liệt trên các thị trường xuất khẩu thực sự tác động tiêu cực đến nền kinh
tế. Tốc độ tăng trưởng giảm đáng kể trong giai đoạn này, từ 8.2% năm 1997 xuống
4.8% năm 1999. Bình quân cả thời kỳ, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7%.
Trong thời kỳ 2001-2005 chứng kiến đà tăng trưởng trở lại của nền kinh tế.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á lắng xuống, cùng với các chương
trình cải cách hướng vào cải tổ cơ cấu kinh tế, bao gồm thúc đẩy sự phát triển khu
vực ngoài quốc doanh và cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, sự gia tăng số
lượng các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước vừa huy động được tiết kiệm
trong dân cư, vừa tạo động lực cạnh tranh trong nền kinh tế. Khu vực kinh tế nông
nghiệp và nông thôn cũng có những bước chuyển mạnh mẽ dưới tác động của các
chính sách khuyến khích kinh tế trang trại và cải cách phân phối sản phẩm. Tốc độ
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cũng tăng lên, đặc biệt từ năm 2002 trở lại
đây. Tất cả những đổi thay này đưa nền kinh tế trở lại đà tăng trưởng GDP bình
quân 5 năm đạt gần 7.5%, xấp xỉ mức kế hoạch.
Theo báo cáo Theo dõi Kinh tế Châu Á số tháng 7 của Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB) đưa ra hôm 23/7/2009, dự báo, mức tăng trưởng GDP của Việt
Nam năm 2009 sẽ ở mức 4,5%, năm 2010 sẽ là 6,5%. Nếu phân tích từ báo cáo
này, kể từ 2004 đến nay, Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng ổn định nhất
khu vực Đông Á mới nổi.
2.1.5. Tốc độ tăng trưởng của các nhóm ngành trong nền kinh tế
Sự tăng trưởng của nền kinh tế thể hiện rõ qua việc nhóm ngành nào cũng có
tăng trưởng. Sau khi cải cách kinh tế, Việt Nam đã đạt được những bước tăng
43
trưởng vượt bậc, kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng lên một cách nhanh chóng.
Việt Nam cũng thu hút được nhiều quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, được
thể hiện qua dòng vốn FDI và FPI chảy vào ngày càng lớn.
Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Sự kiện này đánh
dấu một bước ngoặt lớn trên con đường phát triển kinh tế của Việt Nam. Gia nhập
WTO không chỉ giúp kinh tế Việt Nam có điều kiện hội nhập, được hưởng những
chính sách thương mại có lợi mà đây còn là một động lực để nâng cao khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy vậy, gia nhập WTO cũng là một thách thức thực sự
khi những yếu kém kém trong nền kinh tế vẫn chưa được khắc phục. Chất lượng
tăng trưởng thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, thể chế pháp luật còn nhiều hạn chế, chất
lượng nguồn nhân lực chưa cao. Đây chính là những hạn chế mà Việt Nam phải
vượt qua để duy trì được một tốc độ tăng cao và đưa đất nước thoát khỏi nhóm
nước nghèo như hiện nay.
● Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản:
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp của Việt Nam tăng liên tục trong cả
giai đoạn 1991-2005. Giá trị sản xuất của ngành tăng bình quân 4.5%/năm so với
thời kỳ 1991-1995, vượt mức đề ra trong kế hoạch 5 năm (3.7-4.5%); 5.7%/năm
trong thời kỳ 1996-2000, vượt mức kế hoạch (4.5 – 5%). Trong thời kỳ 2004 -2008,
mặc dù nông nghiệp gặp khó khăn (do hạn hán kéo dài, dịch cúm gia cầm lan rộng,
bão lụt xảy ra liên tục…, gây tổng giá trị thiệt hại lên đến hàng trăm nghìn tỷ
đồng), nhưng nhờ thủy sản vẫn tăng khá, nên tính chung giá trị sản xuất của nhóm
ngành nông – lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân trên 5.4%/năm, vượt tốc độ
tăng 4.8%/năm theo mục tiêu đề ra cho kế hoạch 5 năm.
● Công nghiệp và xây dựng:
Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp qua 15 năm liên tục đạt 2 chữ số.
Năm 2008 so với năm 2000, quy mô giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp gấp
44
trên 7.6 lần, bình quân tăng 14.5%/năm, một tốc độ tăng vừa cao, vừa liên tục, vừa
trong thời gian dài, điều mà trong lịch sử nền kinh tế, chúng ta chưa bao giờ đạt
được. Trong đó, giá trị sản xuất của ngành tăng bình quân 13.3%/năm và
13.5%/năm lần lượt trong các thời kỳ 2000-2003 và 2004-2008. Riêng 5 năm
2001-2005, giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 16%/năm, cao hơn tốc độ tăng
13.1%/năm theo mục tiêu đề ra.
Tăng trưởng cao của công nghiệp đạt được ở cả ba khu vực (khu vực doanh
nghiệp nhà nước, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài).
Tăng trưởng cao của công nghiệp cũng đạt được trên một số địa bàn quan trọng,
với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng chung như Vĩnh Phúc, Bình Dương, Hải
Dương, Cần Thơ, Đồng Nai, Hà Tây, Khánh Hòa, Quảng Ninh, Hải Phòng, Đà
Nẵng… Những địa bàn có quy mô lớn cũng đạt khá như thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội. Tăng trưởng cao cũng đạt được ở một số sản phẩm chủ yếu như than, phân
hóa học, ô tô lắp ráp, máy công cụ, thép cán, gạch lát…
● Dịch vụ:
Trong thời kỳ 1991-1995, ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao. Giá
trị sản xuất của ngành tăng bình quân 12%/năm. Tốc độ này giảm sút dần trong 5
năm 1996-2000 (giá trị các ngành dịch vụ tăng bình quân 6.8%/năm), nhưng trở lại
đà tăng trưởng kể từ năm 2001 đến nay. GDP do nhóm ngành dịch vụ tạo ra năm
2008 tăng khoảng 8.5%, cao nhất tính từ năm 1997, và lần đầu tiên kể từ năm 1996,
đã cao hơn tốc độ tăng chung của nền kinh tế.
Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, gấp đôi so với
mức tăng trưởng bình quân của thế giới và đứng thứ hai, thứ ba thế giới trong
những năm gần đây. Nhưng chất lượng tăng trưởng thấp, đóng góp vào tăng trưởng
GDP chủ yếu là tăng vốn, lao động, chẳng hạn thời kỳ 1998 đến 2002 mức tăng
GDP bình quân đạt 6,3%/năm trong đó 3 nhân tố đóng góp vào tăng trưởng là: vốn
57,5%; lao động 20%, TFP 22,5%. Như vậy tăng trưởng kinh tế chủ yếu là gia tăng
các yếu tố vật chất đầu vào còn đóng góp của công nghệ, trình độ tổ chức quản lý,
45
tri thức (TFP) ở mức khiêm tốn.
Bảng 2.8: Chỉ số Icor của Việt Nam từ 1990 đến 2008
Năm Icor Năm Icor Năm Icor
2.95 2002 4.83 2006 5.02 1990
3.35 2003 4.74 2007 5.2 1995
4.83 2004 4.74 2008 6.68 2000
4.78 2005 4.85 2001
Nguồn: Kinh tế VN trên đường rồng hoá trang 277, Nhà xuất bản Trẻ – 2004 và
Niên giám thống kê năm 2008
2.2. Phân tích vai trò của các nguồn lực đối với tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
Theo tính toán của Goldman sachs (GS) [6, tr 10], ta có thể nhận thấy: sự
tăng trưởng TFP chính là nguồn lực chính cho sự tăng trưởng sản lượng quốc nội
GDP của Việt Nam kể từ khi đổi mới.
Để đơn giản hóa, GS sử dụng hàm sản xuất theo Cobb-Douglas, tức là
Ln(A)= ln(Y)-αln(K)- (1-α)ln(L) với α=0,4 (chính là tỉ lệ vốn và nhân lực giả định
của nền kinh tế Việt Nam).
Như vậy, trong hơn 20 năm đổi mới thì sự tăng trưởng của Việt Nam được chèo lái
bởi TFP, chứ không phải quá trình tích luỹ tư bản, đặc biệt càng không phải do số
lượng nhân lực đến tuổi lao động. Trong suốt 20 năm từ 1986 đến 2006, TFP đóng
46
góp đến hơn 40% vào sự tăng trưởng của GDP của Việt Nam [6, tr12].
Bảng 2.9: Các nhân tố tăng trƣởng của Việt Nam qua các thời kỳ
Tăng trƣởng Bình quân đóng góp cho Bình quân tỷ lệ đóng góp Giai bình quân tăng trƣởng cho tăng trƣởng đoạn GDP A A K L A(%) K(%) L(%)
1986- 6,85 3,05 3,10 2,30 1,45 45 31 24 2006
1986- 4,68 2,83 2,85 0,17 1,65 60 3 37 1991
1992- 8,90 5,10 5,19 2,39 1,32 58 27 15 1996
1997- 6,23 1,87 1,91 3,31 1,01 26 56 18 1999
2000- 7,50 2,27 2,33 3,63 1,55 31 48 21 2006
2007- 8,07 2,99 3,06 3,63 1,38 38 45 17 2020
Nguồn: Goldman sachs
Để có thể dự đoán cho giai đoạn 2007 -2020, (GS) đã dựa trên 3 giả thiết cơ
bản [6, tr 18]:
- Tích lũy tư bản: GS dự đoán tăng trưởng tổng tư bản sẽ ổn định như mức hiện tại
đến năm 2010 trước khi giảm dần đều đến 2020 và đảm bảo mức đầu tư về tỷ lệ
trên GDP ổn định từ 38% đến 41 %.
- Nhân lực: GS sử dụng dự đoán dân số của Liên Hợp Quốc để dự kiến số dân
trong tuổi lao động (từ 15 đến 64 tuổi), giả thiết có sự ổn định về tỷ lệ thất nghiệp.
-Tăng trưởng TFP: Giả sử sự tăng trưởng TFP sẽ còn cao hơn nữa do kết quả của
tiến trình công nghệ, tích lũy vốn con người, sự gia nhập WTO và thành quả của
47
quá trình cải tổ không ngừng nghỉ.
2.2.1.Tác động của Khoa học &Công Nghệ đối với Tăng trưởng kinh tế
Để phục vụ việc đánh giá, phân tích tác động của KH &CN đối với tăng
trưởng kinh tế trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, cần có số liệu về các chỉ tiêu
thống kê cần thiết. Cuộc điều tra thống kê thu thập số liệu và khai thác thông tin ở
34 tỉnh /thành phố trong cả nước thuộc phạm vi đề tài khoa học “Nghiên cứu đánh
giá tác động của KH &CN đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam” của Tổng cục
Thống kê có áp dụng phương pháp tương quan hồi quy để đánh giá tác động của
KH &CN đối với tăng trưởng kinh tế [15, tr 12]. Theo các phương pháp này, các
chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế được xác định là các chỉ tiêu kết quả vì chúng chịu
sự tác động của KH &CN, còn các chỉ tiêu về công nghệ được xác định là các chỉ
tiêu nguyên nhân vì chúng là các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Các chỉ tiêu đặc trưng cho tăng trưởng kinh tế gồm: Tốc độ phát triển hoặc tốc độ
tăng GDP; GDP theo giá thực tế bình quân đầu người; tỷ lệ giá trị xuất khẩu so với
giá trị sản xuất; tỷ lệ thu ngân sách so với GDP.
Các chỉ tiêu đặc trưng về năng lực công nghệ gồm: Các chỉ tiêu đổi mới công nghệ;
các chỉ tiêu về chuyển giao công nghệ và các chỉ tiêu công nghệ thông tin và truyền
thông. Đây là các chỉ tiêu đặc trưng cho chu trình công nghệ từ sáng tạo, sử dụng,
cho đến phổ biến và lan truyền công nghệ. Cũng như các chỉ tiêu kinh tế, để áp
dụng công cụ phân tích một cách thuận tiện, từng chỉ tiêu riêng biệt về công nghệ
cần được chuyển thành các chỉ số tương ứng, sau đó tổng hợp lại thành 3 chỉ số
thành phần tương ứng với 3 nhóm chỉ tiêu: Chỉ số đổi mới công nghệ, chỉ số
chuyển giao công nghệ và chỉ số công nghệ thông tin và truyền thông.
Quá trình phân tích tác động của KH &CN đối với phát triển kinh tế được tiến hành
theo 2 bước:
Bước 1: Phân tích tác động của các yếu tố công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế
48
Bước 2: Phân tích tác động của năng lực công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế
Sử dụng kết quả tính toán của GS Tăng Văn Khiên trong đề tài Phương pháp
tính tốc độ tăng trưởng TFP theo cách tiếp cận thống kê, ta thấy rằng quan hệ giữa
các chỉ tiêu đặc trưng cho năng lực công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế của 34
tỉnh /thành phố trong cả nước (số liệu tính bình quân 5 năm: 2004-2008): Cả 3 nhân
tố đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ, công nghệ thông tin đều quan hệ
thuận chiều với tăng trưởng kinh tế. Trong số các chỉ tiêu thành phần đặc trưng cho
năng lực công nghệ, chỉ tiêu về chuyển giao công nghệ (nhập công nghệ) và trình
độ công nghệ thông tin và truyền thông (phổ biến công nghệ) có quan hệ chặt chẽ
hơn và ảnh hưởng mạnh hơn đối với tăng trưởng kinh tế so với chỉ tiêu đổi mới
sáng tạo công nghệ. Điều này hoàn toàn phù hợp với công thức tính bình quân các
chỉ số công nghệ thành phần của WEF khi coi yếu tố chuyển giao công nghệ (nhập
công nghệ) và trình độ công nghệ thông tin và truyền thông (phổ biến công nghệ)
quan trọng hơn chỉ tiêu đổi mới, sáng tạo công nghệ đối với các nước đang phát
triển (tương ứng là 3 lần và 4 lần).
Trên góc độ phân tích thống kê, có thể kết luận: Năng lực công nghệ có ảnh
hưởng khá rõ nét đến tăng trưởng kinh tế, tức là khi năng lực công nghệ càng được
nâng cao thì kết quả tăng trưởng kinh tế cũng sẽ đạt kết quả càng tốt và các mối
quan hệ này tương đối chặt chẽ. Cụ thể là: Cứ tăng lên 1% về chỉ số năng lực công
nghệ thì sẽ tăng thêm được 1,2298% về chỉ số phát triển kinh tế và sự phát triển
kinh tế có thể giải thích liên quan đến yếu tố năng lực công nghệ là 73,52%.
2.2.2. Đóng góp của TFP đối với tăng trưởng kinh tế
Năng suất lao động gia tăng chậm chạp trong khi hiệu quả đầu tư có xu
hướng giảm sút trong giai đoạn 2004-2008 đã cho chúng ta một cái nhìn khá rõ về
chất lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, việc tính toán
năng suất của lao động và vốn như trên không tách được tác động riêng phần của
từng nhân tố với tăng trưởng. Cụ thể hơn, năng suất của nhân tố này cũng chịu tác
49
động từ sự thay đổi của nhân tố kia. Ví dụ, năng suất lao động có thể tăng lên do
đầu tư gia tăng. Để đánh giá được chất lượng của tăng trưởng kinh tế cũng như
đánh giá các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế, ta phải xem xét đến năng
suất các nhân tố tổng hợp (TFP).
Qua kết quả phân tích xác định mức độ đóng góp của các yếu tố vốn, lao
động, và năng suất tổng hợp đối với tốc độ tăng trưởng của một số nước châu Á
trong bốn thập kỷ cuối của thế kỷ qua, người ta nhận xét rằng: tỷ lệ đóng góp của
lao động và vốn càng nhiều thì sự phát triển của nền kinh tế càng thiên về chiều
rộng, bằng cách sử dụng các nguồn lực vật chất. Trái lại, tỷ lệ đóng góp của TFP
càng lớn thì tăng trưởng càng mang tính chất phát triển theo chiều sâu và yếu tố
bền vững càng có cơ sở đảm bảo. Kết quả cho thấy, mặc dù tỷ lệ đóng góp của TFP
của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cao hơn một số nước trong khu vực như
Malaysia, Indonexia, Philippines và Hàn Quốc, song thua kém hẳn các nước khác
như Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản.
Tăng trưởng TFP thể hiện cả hiệu quả khoa học – công nghệ lẫn hiệu quả sử
dụng các nguồn lực. Kết quả nghiên cứu của Lê Dân trong bài viết giới thiệu bản
chất của TFP và phương pháp nghiên cứu sự biến động của nó cho thấy: trong giai
đoạn 1991-1996, tăng trưởng TFP là nhân tố quyết định tăng trưởng GDP, nhưng
trong giai đoạn 1997 – 2004, tăng trưởng GDP được quyết định bởi tăng vốn là chủ
yếu.
Trong giai đoạn 1991 -1996, tăng trưởng TFP đóng góp khoảng 50-57% tăng
trưởng GDP, trong khi đóng góp của sự tăng vốn chiếm khoảng 10- 40%, còn lao
động chỉ đóng góp 2-20% tăng trưởng GDP. Trong giai đoạn 1997-2004, vốn là
yếu tố quyết định tăng trưởng GDP còn TFP dần mất vai trò chủ đạo. Tuy nhiên,
giai đoạn này chịu tác động nặng nề của yếu tố chu kỳ kinh tế đi xuống. Nếu loại
bỏ yếu tố chu kỳ ra khỏi tăng trưởng GDP thì đóng góp thực của tăng trưởng TFP
lại cao hơn nhiều so với thời kỳ trước đó.
Từ năm 1996 đến 2004, tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP của
50
yếu tố vốn đã tăng từ 34.6 lên tới 61.5% , của yếu tố lao động đã tăng từ 1.5% lên
21.9%, của yếu tố TFP giảm từ 62.1% xuống còn 16.6%. Kể cả khi xét tới tác động
của yếu tố chu kỳ kinh doanh, qua đó làm tăng đáng kể sự đóng góp của TFP vào
tăng trưởng GDP, thì chúng ta vẫn thấy rõ rằng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
nghiêng nhiều về số lượng hơn là chất lượng, nghiêng về chiều rộng hơn là chiều
sâu. Tính trung bình, tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn và lao động cao gấp trên 3
lần tỷ trọng đóng góp của yếu tố TFP. Ngay cả trong tăng trương chiều rộng thì sự
tăng trưởng của nước ta cũng nghiêng về yếu tố vốn hơn là yếu tố lao động (tỷ
trọng đóng góp của vốn cao gấp 3 lần tỷ trọng đóng góp của yếu tố lao động).
Trong khi đó, vốn là yếu tố mà nước ta còn thiếu, còn lao động là yếu tố mà nước
ta rất dồi dào. Kéo dài tình trạng này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ không
bền vững, chất lượng tăng trưởng không được cải thiện, cuối cùng sẽ kìm hãm tốc
độ tăng trưởng kinh tế. Bài học cho thấy là nhiều quốc gia Đông Á đã trải qua thời
kỳ tăng trưởng cao, sau đó lại chìm sâu vào khủng hoảng do năng suất thấp.
2.3. Đánh giá vai trò của các nguồn lực đối với tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
2.3.1. Đánh giá vai trò của nguồn vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
Hiệu quả đầu tư của Việt Nam từ năm 2005 đến 2008 hầu như không được
cải thiện. Nhiều khoản đầu tư công sử dụng kém hiệu quả. Thực tế này đã được
chứng minh bằng những con số phát triển của Việt Nam. Nếu như giai đoạn 1996 -
2000 tăng trưởng 6,9% và tổng mức đầu tư tương đương 25,6% GDP; giai đoạn
2001 - 2005 tăng trưởng 7,5% vốn đầu tư lên đến 34,6% GDP; giai đoạn 2006 -
2010 dự kiến khoảng 7,5 - 8% với mức đầu tư tương đương 40% GDP.
Các phân tích trong luận văn đã chứng tỏ rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam
chủ yếu dựa trên tỷ lệ đầu tư cao khoảng 40% so với GDP. Đây là mức cao thứ hai
trên thế giới sau Trung Quốc. Theo quan điểm cá nhân, tác giả nhận thấy: với một
51
nền kinh tế mới nổi (nói cách khác là nền kinh tế đang phát triển) như Việt Nam thì
đầu tư cao là điều cần thiết để giải quyết các vấn đề bức xúc về hạ tầng cơ sở, phát
triển nhân lực. Thế nhưng, ở Việt Nam, mức đầu tư cao này không đem lại hiệu quả
cao tương ứng trong suốt một thời gian dài. Điều này có thể được lý giải bằng khả
năng sử dụng, quản lý nguồn vốn đầu tư không hiệu quả. Mức đầu tư này nếu đi
cùng với sự cải cách tích cực sẽ tạo ra sự phát triển bền vững.
Một điều cũng rất dễ nhận thấy qua các phân tích ở phần trên là: cùng với sự
tăng lên về nguồn vốn đầu tư nhằm đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng, hiệu quả đầu
tư của Việt Nam lại giảm đi. Nếu như giai đoạn 1996 - 2000 để có 1 đơn vị GDP
cần 3,7 đơn vị đầu vào thì 2001 - 2005 đã lên đến 4,6 đơn vị đầu vào. Và đến giai
đoạn 2006 - 2008 thì để có 1 đơn vị GDP cần tới 5,1 đơn vị đầu vào.
Chúng ta đều biết rằng sự tăng trưởng dựa vào sự tăng nguồn lực đầu vào
như mô hình hiện nay của Việt Nam đến một thời điểm nào đó sẽ không thể duy trì
được vì các nguồn lực đầu vào không thể tăng lên mãi. Đất đai sẽ hết, nguồn vốn
có hạn, nhân lực trẻ không thể duy trì với tỷ lệ 65% dân số như hiện nay.
Bảng 2.10: Vốn đầu tƣ và tích lũy tài sản (theo giá 1994)
Đơn vị : ngàn tỉ VNĐ
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Vốn đầu
115,1
129,4
148,0
166,8
189,3
213,9
243,3
306,1
317,6
tư
Tích lũy
83,5
92,5
104,3
116,6
128,9
143,3
160,2
199,0
189,7
tài sản
Khác biệt 72,5%
71,5%
70,4%
69,9%
68,1%
67,0%
65,9%
65,0%
68,0%
52
Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của UNDP về Việt Nam
Từ những số liệu như trên, có thể rút ra một số nhận xét sau:
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của
yếu tố số lượng vốn đầu tư. Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều
đã vượt qua mốc 40% (năm 2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt
41%, ước năm 2007 đạt 40,4%), kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%.
Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung
Quốc - một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới,
đã nhiều năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng
trưởng liên tục (28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của
tăng trưởng và đẩy mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của
tháng 2/2008 đã lên đến 8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng
vào yếu tố số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt. Một mặt, do
nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi
năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn
còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng
góp của yếu tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư
tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Điều này chứng tỏ, sự đóng góp của
yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn nhỏ, chưa được một phần
tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu tố này của các nước trong
khu vực hiện nay. Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo
hướng tăng trưởng về số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn
chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều
53
sâu.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên
các diễn đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập
đến hiệu quả đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR. Chỉ tiêu này được
tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các chuyên gia đề cập là lấy
tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR càng lớn thì
hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau:
Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2008 là 4,86 lần, cao
hơn nhiều so với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn
Quốc (trong thời kỳ 1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995),
4 lần của Trung Quốc (trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời
kỳ 1981-1995); cũng cao hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-
1995). Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp.
Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng
năm (đều tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/Vốn đầu tư (có nghĩa là 1
đồng vốn đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm
qua các thời kỳ: nếu thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn
3,0 đồng/đồng, 2001-2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2008 còn 2,46 đồng/đồng.
2.3.2. Đánh giá vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Lao động Việt Nam còn bộc lộ khá nhiều nhược điểm. Lực lượng lao động
tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo. Hiện tỷ
lệ lao động qua đào tạo nghề mới chỉ chiếm khoảng 25%. Thêm vào đó, tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị còn ở mức khá cao 5,3%, tỷ lệ lao động nông thôn không sử
dụng hết quỹ thời gian khoảng 19,4%.
Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Theo số liệu thống kê năm 2008,
54
năng suất lao động của Việt Nam mới đạt 25.886 đồng/người, của nhóm ngành
nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn đồng/người, ngay
cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072 đồng/người và
của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159 nghìn đồng/người.
Nếu quy ra USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động của toàn nền kinh tế
cũng mới đạt khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản
chỉ đạt 0,6 nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438
USD, của nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD.
Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới
(khoảng trên 14,6 nghìn USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế
giới (khoảng 6,5 nghìn USD/người). Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị
thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp,
nhất là hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao
động thấp,... nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao sẽ tạo sức
ép làm tăng lạm phát.
2.3.3. Đánh giá vai trò của khoa học công nghệ đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
Mô hình tăng trưởng của Việt Nam theo phân tích ở phần trên không dựa
trên đầu tư cho khoa học công nghệ, nhưng việc hoạch định chính sách phát triển
đã không thực hiện được vai trò dẫn hướng để doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh, cũng như đầu tư vào các lĩnh vực có sức cạnh tranh cao. Số liệu thống
kê hàng năm cho thấy Việt Nam trong suốt gần một thập niên đầy những biến động
về xu thế cạnh tranh toàn cầu, dường như không có bất kỳ một sự thay đổi nào về
năng lực cạnh tranh về công nghệ xét cả về giá trị gia tăng công nghiệp và hàm
lượng công nghệ trong xuất khẩu.
Trình độ công nghệ hiện đang sử dụng ở Việt Nam thấp tương đối so với các
55
nước trong khu vực. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong Báo cáo Cạnh tranh
toàn cầu 2008-2009 đã xếp năng lực cạnh tranh của Việt Nam thứ 70 trong tổng số
134 quốc gia, với 4,1 điểm. Riêng hệ số cạnh tranh về công nghệ, Việt Nam xếp
thứ 79, với 3,12 điểm. Trong khi đó Malaysia: 4,41 điểm; Thái Lan: 3,37 điểm;
Philipines: 3,26 điểm. Trình độ công nghệ sử dụng thấp kéo theo năng suất lao
động xã hội thấp. Nếu coi năng suất lao động xã hội của Việt Nam = 1, thì Trung
Quốc = 1,73, Thái Lan = 3,63 và Singapore = 39,05.
Giá trị gia tăng công nghệ thấp
Các phân tích ở phần trên và số liệu thống kê cho thấy trong giai đoạn 2001
– 2008, giá trị tuyệt đối gia tăng công nghệ của Việt Nam tăng bình quân 11,8%,
tương đương với Trung Quốc, cao hơn hai lần so với các nước ASEAN khác.
Tuy nhiên, bình quân một lao động ở Việt Nam tạo ra 3.557 USD giá trị gia
tăng công nghiệp, thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực, ít hơn một
nửa so với Trung Quốc, bằng 1/3 so với Indonesia, và 1/5 so với Malaysia, Thái
Lan và thậm chí Philippines. Nếu lấy chỉ số GDP bình quân đầu người ngang giá
sức mua (PPP) làm cơ sở mốc phát triển tương đương, Việt Nam năm 2008 có mức
phát triển như Trung Quốc (năm 1998) và Indonesia (năm 1999), nhưng lại có tỷ
trọng giá trị gia tăng công nghiệp/GDP vẫn thấp hơn so với những nước này, và chỉ
tương đương với Philippines (năm 1994) và Thái Lan (năm 1986).
Năng lực cạnh tranh công nghệ tụt hậu
Xét về cơ cấu, giá trị ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào ngành sử dụng tài
nguyên thô, hàm chứa ít công nghệ. Tỷ trọng ngành có hàm lượng công nghệ trung
bình và cao luôn đứng ở mức 25%, so sánh với hơn 60% ở Thái Lan, Malaysia và
Trung Quốc, sau quá trình tăng mạnh giá trị gia tăng công nghiệp của các nước này
qua các năm.
Năng lực cạnh tranh Việt Nam còn được thể hiện ở tỷ trọng hàm lượng công
56
nghệ trong các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu, trong mối tương quan so sánh với
các nước khác. Tỷ trọng cao của những ngành khai thác tài nguyên thô trong cơ cấu
xuất khẩu cho thấy khả năng cạnh tranh của những ngành công nghiệp còn rất
khiêm tốn.
Trên lý thuyết, quốc gia có cơ cấu cân bằng sản xuất khi tỷ trọng sản xuất và
xuất khẩu của ngành có hàm lượng công nghệ trung bình và cao bằng nhau. Ở Việt
Nam, trong khi đó, xuất khẩu ngành có hàm lượng công nghệ trung – cao chỉ chiếm
chưa tới 20% tổng giá trị xuất khẩu.
Nếu so sánh với các nước tại thời điểm có trình độ phát triển tương đương
(thông qua chỉ tiêu GDP bình quân đầu người ngang giá sức mua), Việt Nam năm
2008 vẫn có năng lực công nghệ thấp hơn nhiều so với các nước ở thời điểm trên
dưới một thập kỷ trước. Ngành sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm 8,4% giá trị xuất
khẩu, bằng 1/2 Trung Quốc (năm 1998), Thái Lan (năm 1986) và bằng 1/3
Malaysia (năm 1980). Trong khi đó, tỷ trọng ngành có hàm lượng công nghệ thấp
của các nước ở thời điểm phát triển tương đương đều thấp hơn nhiều so với Việt
Nam (năm 2008).
Thiếu chiến lược cạnh tranh hiệu quả
Việt Nam vẫn dựa vào các ngành công nghiệp thâm dụng lao động, hàm
chứa ít công nghệ, có giá trị gia tăng thấp, mà không thực sự nâng được tầm cạnh
tranh quốc tế. Những ngành này tuy mang lại giá trị xuất khẩu lớn như dệt may, da
giày, đồ gỗ, v.v… có khả năng cạnh tranh rất dễ bị tổn thương, bị tác động lớn bởi
những rủi ro và những ngoại ứng.
Trong chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài tuy nguồn vốn đổ vào nhiều
nhưng xu hướng chảy vào chỗ trũng “dịch vụ và bất động sản”. Trong khi đó, vốn
đầu tư vào công nghiệp nặng (bao gồm khai khoáng), công nghiệp nhẹ và công
nghiệp chế biến chỉ chiếm 36% tổng vốn đầu tư, có nghĩa là vốn đầu tư vào ngành
57
công nghiệp còn thấp hơn con số đó.
Vốn đầu tư vào các ngành công nghệ cao đã ít, cơ cấu lại cũng có vấn đề.
Trong những dự án có hàm lượng công nghệ cao đựợc cấp phép, nhiều dự án lợi
dụng tình trạng quản lý lỏng lẻo để tảng lờ yêu cầu về bảo vệ môi trường, sử dụng
công nghệ lạc hậu, khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên. Không có
nhiều những dự án đầu tư vào ngành có hàm lượng công nghệ trung và cao.
Nhập khẩu công nghệ trong thời gia qua chủ yếu là công nghệ không tiên
tiến. Tình trạng nhiều tỉnh muốn có nhà máy đường, đã mua công nghệ lạc hậu của
Trung Quốc vì rẻ, nhưng thời gian vận hành không lâu cho thấy Việt Nam đang
thiếu một chiến lược tổng thể và nhất quán. Đồng thời với việc nhập khẩu công
nghệ là đào tạo nguồn nhân lực để làm chủ được công nghệ. Trong khi đó số đơn vị
đào tạo nguồn nhân lực cho công nghệ cao ở Việt Nam vừa thiếu vừa yếu, không
đáp ứng được nhu cầu xây dựng năng lực công nghệ.
Một nhân tố quan trọng nữa của phát triển công nghệ là sự sẵn có và khả
năng tiếp cận các nguồn tài chính hỗ trợ công nghệ. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ
phần trăm của chi phí nghiên cứu và phát triển trong cơ cấu GDP của Việt Nam
(2008) rất nhỏ (0,19%), so với Thái Lan (2003) – 0,26%, Malaysia (2004) – 0,6%
và Trung Quốc (1,42%).
2.3.4. Đánh giá vai trò của TFP đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Trong thời kỳ 2000 – 2005 đóng góp của TFP vào tăng trưởng chiếm đến
22,5% tức là TFP bình quân vào khoảng 1,58 điểm phần trăm vào tăng trưởng và
giai đoạn 2003 – 2008 đóng góp vào tăng trưởng vào khoảng 1,6 điểm phần trăm.
Nếu vậy, đóng góp của TFP vào tăng trưởng của Việt Nam cao hơn hầu hết các giai
đoạn của Mỹ (trừ giai đoạn 1957 – 1960 và 1979 – 1989) với mức bình quân giai
đoạn 1948 – 2006 chỉ là 1,5 điểm phần trăm. Tuy nhiên, về thực chất mô hình Tăng
58
trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua chủ yếu vẫn theo chiều rộng, mặc dù
đóng góp của nhân tố TFP có tăng dần qua các năm nhưng không đáng kể. Tỷ
trọng đóng góp của yếu tố vốn và lao động cao gấp hơn 3 lần so với của TFP.
Theo một tính toán của trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (CEPR)
thì phần trăm đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng chỉ vào
toán này dưa vào ước lượng chỉ tiêu vốn (capital stock) với số liệu từ 2007). [4, tr 23]
khoảng 15 – 16%, vốn vào khoảng 64% và lao động vào khoảng 19 – 20% (tính
Bảng 2.11: Đóng góp của TFP vào tăng trƣởng Việt Nam qua các thời kỳ
STT Thời kỳ Đóng góp của TFP
(điểm %)
1 2000-2005 1,58
2 2003-2008 1,6
Nguồn: Báo cáo của UNDP
2.3.5. Đánh giá vai trò của các yếu tố đầu ra đối với tăng trưởng kinh tế Việt
Nam
Tăng trưởng kinh tế xét ở yếu tố đầu ra có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng
góp của tiêu dùng cuối cùng, của tích luỹ tài sản, của xuất khẩu ròng (xuất khẩu
ròng được tính bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu).
Có một số nhận xét được rút ra từ đóng góp của các yếu tố đầu ra đối với tăng
trưởng kinh tế:
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế chủ yếu do tăng trưởng tiêu dùng cuối cùng.
Điều đó được lý giải là do quy mô GDP của Việt Nam còn thấp, nên tỷ trọng tiêu
dùng cuối cùng hiện đang chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (trên dưới 70%); mức tiêu
dùng bình quân đầu người trong nhiều năm còn thấp nên nhu cầu và tốc độ tăng
thường khá cao (mấy năm liên tục tăng trên 7%, gần bằng với tốc độ tăng của
59
GDP).
Một nét quan trọng là tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường
ngày một chiếm tỷ trọng lớn, do tốc độ tăng qua các năm (đã loại trừ yếu tố giá)
mấy năm nay liên tục tăng hai chữ số (năm 2002 tăng 11,2%, năm 2003 tăng
15,2%, năm 2004 tăng 10,8%, năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 yăng 12,5%, năm
2007 tăng 11,4%).
Khi tiêu dùng cuối cùng thông qua mua bán trên thị trường tăng nhanh và trở
thành động lực của tăng trưởng kinh tế thì một mặt nó hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài mặt khác tạo áp lực tăng cung tiền tệ, tạo áp lực lạm phát. Cùng với tăng
trưởng tiêu dùng chung thì tiêu dùng của một bộ phận dân cư đã tăng rất cao về quy
mô, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng. Cùng với xu hướng này cũng đã
xuất hiện tâm lý ưa chuộng hàng hiệu, hàng ngoại, thậm chí mua bán với bất kỳ giá
nào.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế do tăng trưởng tích luỹ tài sản chiếm tỷ trọng
khá cao. Đây cũng là một tín hiệu tốt thể hiện tâm lý tiết kiệm để dành cho tích luỹ
của khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh việc trực tiếp đầu tư tăng trưởng, có một phần không
nhỏ đã được để dành dưới dạng cất trữ hoặc chạy lòng vòng qua các kênh gây ra
những cơn sốt nóng hoặc lạnh ở các kênh này mà không được đầu tư trực tiếp cho
sản xuất kinh doanh. Hiện có hàng trăm tỷ đồng vốn đầu tư đang được chôn vào bất
động sản, vào vàng.
Thứ ba, tăng trưởng xuất khẩu ròng hiện đang mang dấu âm do nhập siêu gia
tăng mạnh cả về quy mô, cả về tỷ lệ so với xuất khẩu. Nhập siêu cả về hàng hoá, cả
về dịch vụ. Riêng về hàng hoá, năm 2007 lớn gấp 2,5 lần năm 2006, năm nay mới
qua 3 tháng mà đã gấp 3,8 lần cùng kỳ, khả năng cả năm có thể gấp rưỡi hoặc cao
hơn so với năm trước.
Có thể nhận thấy rằng, sự đóng góp của các nhân tố công nghệ, lao động,
vốn và TFP vào sự tăng trưởng của Việt Nam có sự khác biệt qua từng thời kỳ. Cụ
60
thể là:
- Trong thời kỳ 1986 – 1988, đóng góp của hiệu quả công nghệ rất thấp,
đóng góp của vốn âm, đóng góp của lao động giảm rất nhiều. Về mặt toán học, có
thế nhận thấy rằng các nhân tố đóng góp cho tăng trưởng đều sụt giảm sẽ dẫn tới
kết quả tất yếu là tăng trưởng GDP trong thời kỳ này cũng phải giảm. Tuy nhiên,
Tăng trưởng GDP trong thời kỳ này vẫn tăng từ 2,13% năm 1986 lên 5,54 % năm
1987 và đến năm 1988 con số tăng trưởng là 4.69. Như vậy , theo tác giả, sự thay
đổi của chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong thời kỳ này chủ yếu là do tác động của chu
kỳ kinh doanh.
- Trong thời kỳ 1989 -1992, đóng góp của vốn tăng từ giá trị âm lên giá trị
dương, đóng góp của lao động giảm mạnh (từ 90,4% xuống còn 14,5%). Đóng góp
của chu kỳ kinh doanh mang giá trị âm vào năm 1989, nhưng sau đó lại chiếm tỷ
phần lớn trong tăng trưởng GDP, TFP chỉ chiếm một tỷ phần tương đối trong giai
đoạn này.
- Trong thời kỳ 1992 -1996, đóng góp của TFP tăng đáng kể, đạt tỷ phần
trung bình là 60%. Đóng góp của vốn tăng lên còn của lao động giảm xuống. Điều
này thể hiện quá trình thay thế lao động bằng vốn dưới dạng đầu tư. Chu kỳ kinh
doanh có đóng góp âm trong những năm này.
- Điều đáng chú ý là hiệu quả công nghệ có đóng góp cao nhất vào tăng
trưởng GDP trong suốt thời kỳ khủng hoảng kinh tế châu Á (1997-1999). Kết quả
này có được là do hiệu ứng của yếu tố chu kỳ kinh doanh. Vốn cũng có vai trò đáng
kể trong giai đoạn này.
- Trong thời kỳ 2000-2002, đóng góp của TFP có xu hướng giảm còn của
vốn vẫn ở mức cao.
Như vậy, tăng trưởng TFP đã trở thành lực lượng thúc đẩy tăng trưởng GDP
chủ yếu kể từ năm 1992 đến nay. Tuy nhiên, dường như đã có xu hướng giảm sút
hiệu quả công nghệ trong một vài năm đến 2008, đòi hỏi Việt Nam phải chú ý hơn
61
đến việc nâng cao hiệu quả công nghệ.
Như trên đã phân tích, tăng trưởng kinh tế do ba yếu tố tác động : đó là vốn,
lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp(TFP). Ở Việt Nam ba yếu tố này được
biểu hiện như sau : yếu tố vốn chiếm 52,7%, yếu tố lao động chiếm 19,1%, yếu tố
năng suất của các cá nhân tổng hợp chiếm 28,2%.
Bảng 2.12: Các nguồn tăng trƣởng GDP ở Việt Nam giai đoạn 1986 -2002
Đơn vị: %
Yếu tố chu kỳ
Vốn
Lao động
TFP
Tỷ
kinh doanh
Tăng
phần
Tốc
Tỷ
Tốc
Tỷ
Tốc
Tỷ
Tốc
Tỷ
Năm
trƣởng
của
độ
phần
độ
phần
độ tăng
phần
độ
phần
GDP
lao
tăng
đóng
tăng
đóng
đóng
tăng
đóng
động
góp
góp
góp
góp
1986
2.13
0.36
-1.41
-23.98 2.37
71.23
0.93
43.95
0.19 8.81
1987
5.54
0.37
-0.52
-3.48
2.53
28.85
3.31
56.65
0.83 17.98
1988
4.69
0.38
-0.35
-2.83
2.61
34.72
2.23
47.42
0.97 20.69
1989
2.38
0.38
-0.35
-5.60
3.45
90.42
-0.12
-4.87
0.48 20.06
1990
4.85
0.39
-0.20
-1.58
3.49
43.86
2.06
42.42
0.74 15.30
1991
6.83
0.39
0.11
0.66
1.90
16.95
3.57
52.24
2.06 30.16
1992
9.02
0.42
1.19
5.50
2.24
14.49
4.47
49.61
2.74 30.40
1993
6.51
0.42
4.00
25.94
2.44
21.63
-0.78
-12.04 4.20 64.48
1994
8.03
0.43
4.87
26.21
2.61
18.49
-0.31
-3.87
4.75 59.17
1995
8.85
0.42
6.02
28.58
2.47
16.16
-0.75
-8.47
5.65 63.78
1996
10.87
0.43
6.87
27.31
0.28
1.46
0.16
1.45
7.58 69.78
1997
7.49
0.45
7.15
42.67
2.17
16.04
-3.27
-43.69 6.36 84.98
1998
6.52
0.43
7.77
51.56
2.14
18.65
-4.82
-73.90 6.76 103.69
1999
6.42
0.47
6.99
51.28
2.11
17.39
-4.36
-67.95 6.37 99.28
2000
8.18
0.44
7.34
39.80
0.64
4.34
-3.26
-39.82 7.82 95.69
2001
6.88
0.46
7.74
52.02
4.06
31.78
-4.93
-71.73 6.05 87.93
2002
9.17
0.42
7.07
37.05
4.28
27.03
-3.37
-36.77 6.67 72.69
62
Nguồn: Báo cáo về tăng trưởng kinh tế Việt Nam của WTO năm 2003
Con số này thể hiện điều gì về tăng trưởng của Việt Nam?
Câu trả lời là:
1. Ở Việt Nam, vốn + lao động = 71,8%, chứng tỏ Việt Nam phát triển kinh tế theo
chiều rộng, hiệu quả sức canh tranh thấp, xuất khẩu khó.
2. Ngay trong yếu tố vốn, phần nội lực chỉ chiếm phân nửa, trong đó FDI chiếm
khoảng 20% , ODA chiếm khoảng 20% ( Trong đó có 10% nguồn vốn ODA là viện
trợ không hoàn lại, 90% vay dài hạn và 10 năm ân hạn). Hệ số ICOR (tính bằng
cách chia tổng số vốn đầu tư phát triển năm nay cho phần GDP tính theo giá trị
thực tế năm nay tăng lên so với năm trước) vẫn còn thấp, để tăng 1 đồng GDP phải
đầu tư 3-4 đồng vốn .
3. Tỷ lệ đóng góp của năng suất tổng hợp các nhân tố là 28,2% thấp hơn thời kỳ
1992- 1994 và còn thấp hơn các nước trong khu vực, Thái Lan 35%, Philippin
41%, Indonesia 43%.
4. Nếu tính riêng trong ngành công nghiệp tỉ trọng TFP còn thấp hơn nhiều, lao
63
động cũng thấp, trong khi đó vốn lại cao hơn nhiều.
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY CÁC NGUỒN
LỰC CHO TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN TỚI
3.1. Triển vọng và quan điểm tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng nhanh và bền vững là mục tiêu hàng đầu với mọi quốc gia. Đối
với các nước đi sau, có xuất phát điểm thấp như Việt Nam, đây là vấn đề sống còn.
Tham khảo một vài nhận định của Goldman Sachs (ngân hàng đầu tư hàng đầu của
Mỹ) về nền kinh tế Việt Nam [6, tr 53], chúng ta được biết rằng:
- Việt Nam là một trong 11 nền kinh tế đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao nhất
trong nhiều năm gần đây;
- Năng suất các nhân tố tổng hợp không ngừng được nâng cao là động lực chủ yếu
tạo nên sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong suốt hai thập kỷ qua, kể từ khi
đổi mới (1986-2006). Kế đó là sự tăng trưởng nguồn nhân lực và tính lũy vốn/tư
bản;
- Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng với động lực chủ yếu dựa trên năng suất các
nhân tố tổng hợp trong thời gian tới. Tuy nhiên, vẫn còn những lo ngại về những
rủi ro liên quan đến lạm phát và những thách thức về chính sách tài chính tiền tệ.
3.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra ra mục tiêu tổng
quát của phát triển kinh tế nước ta trong nhiệm kỳ lãnh đạo 5 năm (2006-2010) của
Đảng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh bài học về phát triển nhanh và bền vững đồng
thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu cần hướng tới là: “Đẩy nhanh tốc độ
tăng trưởng kinh tế, đạt được chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính
bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển…”.
64
[5, tr 46]
Thực ra, không chỉ đến Đại hội X mà nhiều năm qua quan điểm chỉ đạo trên
đều đã được đề cập ở các mức độ, hình thức diễn đạt nhất định trong các văn kiện
Đảng. Tuy nhiên, để trở thành đường lối phát triển là phải đến Đại hội IX (2001)
của Đảng, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 của Việt Nam khi
đó đã khẳng định mục tiêu hướng tới là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững,
tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi
trường" và "Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường,
bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn
đa dạng sinh học"…
Như thế có thể thấy Đảng ta đã rất chú trọng đến tăng trưởng kinh tế nhanh
trong mối quan hệ với nâng cao hiệu quả và sự phát triển bền vững của đất nước.
Tuy nhiên, cần thấy tiêu chí cấu thành quan trọng nhất và trước hết của phát triển
bền vững chính là tăng trưởng kinh tế nhanh. Để đạt được như vậy lại phụ thuộc
trước hết vào sự tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững của toàn bộ các lĩnh vực
khác nhau của nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, thương mại,
dịch vụ…
3.1.2. Triển vọng tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới
● Bối cảnh kinh tế thế giới
Trong những năm gần đây kinh tế thế giới đã đạt được tốc độ tăng trưởng ấn
tượng. Những nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ, Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng
cao. Sự phát triển công nghệ thông tin, thương mại và dịch chuyển dòng vốn các
quốc gia trở nên gần gũi và phụ thuộc lẫn nhau hơn.
Năm 2008, khủng hoảng tài chính từ Mỹ đã nhanh chóng lan rộng và gây ra
ảnh hưởng nặng nề trên quy mô toàn cầu. Tăng trưởng sụt giảm, thậm chí nhiều
nền kinh tế rơi vào suy thoái, hệ thống tài chính rối loạn. Các quốc gia và tổ chức
như IMF, WB… không ngừng nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp để đối phó song
65
triển vọng kinh tế toàn cầu cho đến này vẫn không mấy sáng sủa. Theo dự báo của
các chuyên gia và tổ chức, kinh tế thế giới còn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn,
khả năng phục hồi có thể chỉ bắt đầu từ cuối năm 2009. Hậu quả của cuộc suy thoái
hiện nay sẽ còn kéo dài trong nhiều năm sắp tới.
● Bối cảnh kinh tế Việt Nam
Trong bối cảnh như vậy, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác động rất lớn do xuất
nhập khẩu, vốn đầu tư nước ngoài suy giảm. Các doanh nghiệp sản xuất trong nước
sẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt của hàng ngoại nhập. Sự ảnh hưởng này còn tăng
thêm do kinh tế Việt Nam tồn tại một số yếu kém nên khó có những thay đổi kịp
thời để thích nghi với tình hình mới.
Bảng 3.13: Báo cáo tăng trƣởng kinh tế của WB tháng 11 năm 2008
(Cuối năm 2008 dự báo của WB còn khá lạc quan về tăng trưởng kinh tế thế giới.
Dự báo mới nhất của WB vào tháng 4/2009 đã hạ mức dự báo tăng trưởng của các
quốc gia. Kinh tế thế giới giảm khoảng 1.7%, các nước phát triển giảm 3%, tăng
trưởng của Trung Quốc chỉ còn 6.5%, các nước Đông Nam Á, Singapore,
Malaysia, Thái Lan tăng trưởng âm). [18, tr 43]
Do nhiều nguyên nhân khác nhau cùng tác động, trong đó có một nguyên
nhân đồng thời cũng là một giải pháp cơ bản rất quan trọng là chúng ta đã tích cực
thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng CNH,
66
HĐH, trong đó trước hết là chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế nên kinh tế nước
ta đã đạt được tăng trưởng liên tục nhiều năm qua. Các số liệu thống kê về động
thái tăng trưởng kinh tế nước ta từ sau 1986 đến nay đã cho thấy, nếu như như tốc
độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của nước ta trong giai đoạn 1986-1990 là
5 năm đầu tiên của công cuộc đổi mới còn đạt được ở mức thấp 4,4% do nền kinh
tế nước ta vừa bước ra khỏi cuộc khủng hoảng đã kéo dài suốt cả thời kỳ 10 năm
trước khi đổi mới, 1975-1986, thì liên tục từ năm 1991 cho đến năm 2007 chúng ta
đều duy trì được sự tăng trưởng GDP liên tục với tốc độ khá nhanh và tương đối ổn
định.
Theo dõi động thái tiến triển của tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta từ năm
1986 đến nay về cơ bản đã phản ánh một thực trạng khả quan là vẫn tiếp tục giữ
được đà tăng trưởng năm sau đều tănghơn năm trước và sự tăng đó đã diễn ra liên
tục cho đến năm 2007 (loại trừ hai năm 1998 và 1999 đã có sự suy giảm tương đối,
nguyên nhân chính là nằm trong bối cảnh chung của khu vực Đông Á khi đó đang
chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ 1997-1998).
Riêng từ năm 2008 đến nay, trong bối cảnh khó khăn, thách thức chung của suy
giảm kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam cũng đã lâm vào tình trạng lạm phát, dẫn
đến suy giảm tương đối về tăng trưởng kinh tế như đã thấy, kinh tế Việt Nam đạt
mức tăng trưởng là 6,3 %. Đến năm 2009, trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế
đang xảy ra trên toàn thế giới, ước mức tăng trưởng của Việt Nam là khoảng
4,75%.
Điều cần thấy là cũng vì sự liên tục tăng trưởng GDP trước năm 2008 của
nuớc ta đã đạt tốc độ khá cao và tương đối ổn định như nêu trên đây nên đã khiến
cho nền kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế đứng thứ hai khu vực Đông Á và kể
cả trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc) về thành tựu tốc độ tăng trưởng GDP trong
suốt hơn hai thập niên vừa qua. Đáng lưu ý là GDP - chỉ số kinh tế cơ bản nhất của
67
nước ta đã đạt tới 1.114 tỷ đồng (tăng hơn 71 tỷ đồng so với năm 2006, khiến cho
GDP bình quân đầu người năm 2007 đã đạt tới 13,4 triệu đồng, tương đương 835
USD.
Với thành tựu tăng trưởng kinh tế nhanh trên đây rõ ràng là có tác động tích
cực đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài suốt nhiều năm trước năm
1990, tăng cường cơ sở vật chất, tạo tiền đề cần thiết cho các giai đoạn phát triển
tiếp theo, mà trước hết là giai đoạn 2006-2010.
Với đà tăng trưởng và phát triển khả quan đó,từ tháng 4/2006, chúng ta đã đề
ra những chỉ tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội cơ bản nhất mà chúng ta cần phấn đấu
để thực hiện thành công trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-
2010. Riêng trong lĩnh vực kinh tế, có một số chỉ tiêu cơ bản nhất cần quan tâm
thực hiện trước hết là: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so
sánh sẽ gấp hơn 2,1 lần năm 2000; Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng
bình quân GDP sẽ là 7,5 - 8%/năm, nhưng cần phấn đấu đạt trên 8%/năm; theo
đó, GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá hiện hành phấn đấu sẽ đạt
khoảng 1.050 - 1.100 USD; Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010 sẽ là: khu vực
nông nghiệp khoảng 15 - 16%; công nghiệp và xây dựng 43 - 44%; dịch vụ 40 -
41%; Kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm; Tỉ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt
21 - 22%; Vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 40% GDP...
Cho đến tháng 1/2009, đối chiếu với mục tiêu tổng quát trên và các chỉ tiêu
kinh tế cơ bản nhất của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006- 2010, với sự nỗ
lực phấn đấu của cả nước, cho đến nay chúng ta đã làm được khá nhiều việc với kết
quả khả quan nhưng cũng còn không ít những việc còn dang dở, thậm chí còn nhiều
hạn chế, bất cập mà chúng ta cần nhanh chóng có các giải pháp khắc phục mới có
thể hy vọng hoàn thành được kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010, đặc biệt
là năm 2009 đầy khó khăn và thử thách này để tạo đà phát triển tích cực cho năm
68
còn lại là 2010.
3.2. Các giải pháp pháp huy các nguồn lực tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô
3.2.1.1.Cải cách toàn diện nền kinh tế
Cùng với việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tổ chức thành
công hội nghị các nhà lãnh đạo APEC, triển khai Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã
hội giai đoạn 2006-2010 cũng như sự gia tăng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài, Việt Nam đã bước sang một thời kỳ phát triển kinh tế mới mang đặc điểm
hội nhập toàn cầu hóa và cùng với những thách thức và triển vọng liên quan.
Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được một sự tăng trưởng ấn
tượng với mức tăng trưởng bình quân là 7,3%, tỉ lệ nghèo giảm từ 58,1% (năm
1993) xuống mức dự tính 18,1% (năm 2006). Thành công bước đầu này của nền
kinh tế Việt Nam được ghi nhận từ việc chuyển đổi một cách ổn định nền kinh tế
sang hướng thị trường cũng như tỉ lệ tăng trưởng nhanh chóng của khu vực kinh tế
tư nhân (như phân tích đã chỉ ra). Bên cạnh đó,việc hội nhập sâu rộng cũng tạo ra
lực đẩy cho những cải cách mạnh mẽ và các chính sách khuyến khích doanh
nghiệp, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế mạnh trong tương lai.
Tuy nhiên, chúng ta không nên tập trung thái quá vào những con số tăng
trưởng cao mà điều quan trọng nhất là đưa ra được cách thức đẩy mạnh cải cách
nền kinh tế hiệu quả nhất. Vì cải cách tốt - tăng trưởng cao là một hệ quả đương
nhiên.
Vì vậy, để tăng trưởng, Theo tác giả, Việt Nam có hai lựa chọn: một là theo
mô hình hiện nay là tiếp tục tăng đầu vào (trong một thời kỳ nhất định); hai là tăng
hiệu quả đầu tư và sáng tạo trong quá trình phát triển. Trong giai đoạn đầu phát
triển hầu hết các nước trên thế giới đều cần vốn nhiều để xây dựng hạ tầng để cải
69
thiện kết cấu cơ sở của nền kinh tế nhưng đến khi hạ tầng đã đạt mức nhất định thì
giữa việc tăng vốn đầu tư hay tăng tính hiệu quả, sáng tạo trong phát triển kinh tế
phải được lựa chọn.
Việc gia tăng vốn đầu vào luôn có giới hạn nhưng sự sáng tạo, tăng hiệu quả
kinh tế lại không có giới hạn nào cả. Và để tăng hiệu quả kinh tế thì cải cách luôn
đóng một vai trò quan trọng. Có thể nói cải cách luôn là động lực cho phát triển và
việc duy trì tốc độ cải cách là vấn đề then chốt của Việt Nam. Để làm được điều
này, theo tác giả, cần thực hiện theo các hướng sau:
Một là: Thay đổi tư duy về mô hình Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế cần dựa trên nền tảng coi trọng chất lượng. Theo đó,
trong dài hạn cần từ bỏ quan điểm phải đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh theo
chiều rộng, tăng trưởng nhờ tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên thiên nhiên và
sức lao động, mà chuyển dần sang mô hình tăng trưởng dựa vào tri thức và công
nghệ.
Hai là: Thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư.
Trước hết, tăng cường đầu tư cho khoa học công nghệ nhằm nâng cao trình
độ khoa học công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn. Cần
đầu tư có trọng tâm để tạo sự bứt phá của một số công nghệ cao có tác động tích
cực đến sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Khuyến khích các tổ chức
nghiên cứu khoa học tham gia trao đổi sản phẩm công nghệ trên thị trường. Nên sử
dụng FDI như là xung lực để tạo hiệu ứng lan toả thúc đẩy công nghệ phát triển.
Tiếp theo, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước. Đổi mới
công tác quản lý nhà nước về đầu tư theo hướng loại bỏ tình trạng khép kín trong
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh
70
doanh. Từ đó, tăng cường tính công khai, minh bạch và thực hiện đầu tư có hiệu
quả, tránh dàn trải. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và thực hiện quản lý
đầu tư theo quy hoạch. Khắc phục tình trạng tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu
tư, tăng cường công tác giám sát đầu tư, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện và xử lý
nghiêm những hành vi vi phạm quy định về quản lý đầu tư. Bên cạnh đó, cần tiếp
tục tăng cường và nâng cao hiệu quả các chính sách khuyến khích đầu tư trong
nước nhằm thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân. Chính sách khuyến khích đầu
tư hiện nay cần được hiểu và vận dụng với nội hàm rộng hơn. Nếu như trước kia,
khuyến khích đầu tư đồng nghĩa với việc Chính phủ ban hành các chính sách ưu đãi
(miễn, giảm) đối với các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp thông qua các công cụ
như thuế, tín dụng, đất đai,… thì trong bối cảnh hội nhập, các chính sách ưu đãi
trên khó được áp dụng một cách riêng lẻ do sự ràng buộc của các nguyên tắc đối xử
mà Việt Nam đã ký kết với cộng đồng quốc tế. Chính sách khuyến khích đầu tư cần
được xây dựng nghiêng nhiều hơn về khía cạnh cơ chế đối xử bình đẳng trên tất cả
các lĩnh vực giữa các thành phần kinh tế (Nhà nước, ngoài Nhà nước và có vốn đầu
tư nước ngoài). Đồng thời, tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn
ngoài nước, cụ thể là FDI và ODA.
Đối với vốn FDI, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư quốc tế nhằm thu hút vốn, công nghệ và tạo ra nhiều việc làm
mới cho lao động Việt Nam. Trong thời gian trước mắt, nên tập trung giải quyết
dứt điểm những tồn tại mà các nhà đầu tư nước ngoài còn vướng mắc để đưa các
dự án đã được cấp giấy phép đi vào hoạt động. Chính sách đầu tư nước ngoài cần
đặt mục tiêu thu hút các công ty có tiềm năng lớn về vốn và khả năng cao trong
việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, các công ty hàng đầu trên thế giới đầu tư
vào Việt Nam.
Đối với vốn ODA, để nâng cao hiệu quả cần phát huy vai trò làm chủ quốc
gia từ khâu vận động đến khâu sử dụng và khai thác dự án, lựa chọn những lĩnh
71
vực phù hợp để vận động ODA, từ đó tối đa hoá hiệu quả và tác động lan toả của
các chương trình, dự án ODA. Về công tác quản lý, nên tăng cường sự tham gia
của các đối tượng thụ hưởng ở các cấp vào quá trình chuẩn bị, tổ chức thực hiện và
theo dõi giám sát các chương trình, dự án để góp phần làm cho nguồn vốn này
được quản lý và sử dụng một cách công khai, minh bạch, chống được thất thoát,
lãng phí và tham nhũng.
Ba là: Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là nhân tố chính
quyết định tốc độ và chất lượng của Tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực chất chính là tăng cường
đầu tư cho giáo dục - đào tạo. Giải pháp trước mắt đó là nâng cao trình độ văn hoá
và trình độ nhận thức cho người lao động. Phấn đấu hoàn thành chiến lược phổ cập
trung học cơ sở vào năm 2010, tiếp tục nâng cao chất lượng phổ cập tiểu học, tiến
tới thực thi chiến lược phổ cập trung học phổ thông. Từng bước xây dựng và hoàn
thiện các cơ sở dạy nghề hiện có theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá. Cùng với đó,
cần tiếp tục đổi mới và chuẩn hoá nội dung, chương trình đào tạo, giáo trình của
các cơ sở đào tạo để tăng tính thực tiễn, sát với thực tế Việt Nam, theo kịp tiến bộ
khoa học kỹ thuật trên thế giới, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong
nước và thế giới. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong các cơ sở
đào tạo cũng cần được nâng cao trên tất cả các mặt như phẩm chất đạo đức, trình
độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học.
Nhà nước có chính sách thiết thực khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
có kinh nghiệm, có trình độ quản lý thành lập cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước
ngoài để đào tạo người lao động. Trong đó chú trọng hướng các nhà đầu tư nước
ngoài thực hiện các dự án thuộc các lĩnh vực: đào tạo nghề, phát triển khoa học
công nghệ, giáo dục đại học và sau đại học,… Các lĩnh vực này có khả năng tạo lợi
nhuận cao cho các nhà đầu tư, đồng thời cần phát triển nhanh để đào tạo và nâng
72
cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH đất nước. Bên cạnh
đó, tăng cường vận động ODA cho giáo dục ở mọi cấp học, ưu tiên cho cấp phổ
cập, dành một tỷ lệ thích đáng vốn ODA (kể cả đi vay ưu đãi) đầu tư xây dựng
đồng bộ hệ thống trường đại học, cao đẳng, dạy nghề ở cả 3 miền Bắc, Trung và
Nam.
Bốn là: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cần có chính sách hình thành và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của 5 loại thị
trường cơ bản: thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn,
thị trường khoa học - công nghệ và thị trường bất động sản. Trong bối cảnh VN là
thành viên chính thức của WTO, hệ thống văn bản pháp luật cần nhanh chóng sửa
đổi, bổ sung và ban hành mới nhằm thực hiện đầy đủ các cam kết của VN với quốc
tế. Nghiên cứu thực hiện trước thời hạn một số cam kết nếu thấy có cơ hội thuận lợi
và việc thực hiện đem lại lợi ích cho quốc gia. Đây chính là kinh nghiệm thành
công của Trung Quốc khi là thành viên của WTO. Bên cạnh đó, thúc đẩy mạnh mẽ
tiến trình cải cách hành chính để Chính phủ thực sự trở thành Chính phủ vì nhân
dân, vì doanh nghiệp.
3.2.1.2. Từ bỏ cơ cấu kinh tế theo đuôi, tìm lối đi riêng dựa vào những điểm Việt
Nam có lợi thế
Một là, xây dựng nền tảng cho sự phát triển bền vững, xây dựng cơ cấu kinh
tế hiệu quả, chất lượng, tiến bộ, không phải cơ cấu kinh tế theo đuôi. Gắn với nó là
thể chế kinh tế thị trường hiện đại. Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng, chúng ta
xem lại hiện đại là như thế nào, không hẳn là kinh tế thị trường xã hội như một số
nước châu Âu nhưng cũng không phải là kinh tế thị trường kiểu Mỹ; khắc phục
73
những khuyết tật của kinh tế thị trường, gắn với cạnh tranh và minh bạch.
Đồng thời, xây dựng thể chế chính trị dựa trên nền tảng dân chủ và dân tộc.
Xét cho cùng, nền tảng có giá trị nhất của thế giới này là dân chủ. Ý tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về một Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là như vậy.
Tuy nhiên, Dân chủ không có nghĩa và không hẳn là phải đa nguyên. Dân
chủ thế nào để Đảng thực sự uy tín, là đảng tiên phong, trí tuệ, từ đó lãnh đạo nhà
nước, hệ thống chính trị thế nào để loại trừ tham nhũng và dân phát huy được hết
sức lực và trí tuệ của mình.
Trong thế giới biến động, nền tảng dân tộc cần giữ vững để làm gốc. Việt
Nam lấy nền tảng dân tộc của mình, đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên sức mạnh
dân tộc gắn với dân chủ, tạo thành sức mạnh tuyệt đối, để Việt Nam tồn tại và phát
triển bền vững.
Hai là, trong sự phát triển, đặc biệt phát triển kinh tế, lựa chọn những ngách
đi, những gì mình có thể phát huy được lợi thế tốt nhất, chen kẽ hở mà đi. Trật tự
kinh tế thế giới sắp đặt rồi, chuỗi giá trị cũng được các nước chiếm lĩnh gần hết rồi.
Việt Nam cần chen chân vào chỗ mình phát huy lợi thế tốt nhất của mình: địa kinh
tế, địa chính trị và con người có khả năng tiếp thu văn hóa và khoa học công nghệ.
Việt Nam không phải là quốc gia có nhiều lợi thế về tài nguyên, và cũng
không thể dựa vào tài nguyên mãi. Khai thác và bán đi rồi, tài nguyên sẽ hết. Từ
dầu, than, sắt thép không còn bao nhiêu và giá cũng đang giảm đi. Khai thác
bauxite cũng không mang lại lợi ích quá lớn, mà mất cũng nhiều, cần được cân
nhắc tính toán thật kỹ.
Có thể nói, muốn đứng vững và đi lên trong nền kinh tế thế giới đầy biến
động, Việt Nam phải ra sức phấn đấu gây dựng và phát huy cơ cấu kinh tế chất
lượng và hiệu quả , đầu tư thật mạnh cho con người và công nghệ, xây dựng hoàn
chỉnh và vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường hiện đại định hướng
74
XHCN gắn với hội nhập quốc tế.
3.2.2. Nhóm giải pháp vi mô
3.2.2.1. Tăng việc làm, tạo nguồn việc làm mới để tăng GDP
Trong suy giảm kinh tế hiện nay, hàng triệu người lao động Việt Nam sẽ
không có việc làm, và hàng triệu người khác không có việc làm đầy đủ, vốn ít được
tính đến (cần gấp rút đánh giá đúng và dự báo các con số này). Tạo việc làm là giải
pháp quyết liệt nhất, là ưu tiên hàng đầu. Chỉ có tạo việc làm thì Việt Nam mới tạo
ra được thêm nhiều GDP, không thể chỉ dựa vào vốn.
Báo cáo về khu vực kinh tế phi chính thức của Viện khoa học thống kê Việt
Nam và Viện Nghiên cứu Phát triển Pháp mới đây cho thấy, 1/2 lao động khu vực
phi nông nghiệp thuộc về phi chính thức. Cả nước có khoảng 25% lao động trong
khu vực phi chính thức, nghĩa là họ có việc hay không thì cũng không ai nắm được:
những người kinh doanh không đăng ký, những người bán rong, phu hồ... Trong
bối cảnh kinh tế khó khăn, xây dựng giảm sút, lấy đâu ra thêm mà chỉ có bớt đi
việc làm cho bộ phận lao động này? Doanh nghiệp khó khăn, nhu cầu kinh doanh,
dịch vụ chỉ còn hạn chế ở những mặt hàng, dịch vụ thiết yếu: ăn uống, đi lại.
Những dịch vụ khác bị hạn chế nhiều. Tình hình này cũng cho thấy cần gắn kích
cầu đầu tư với kích cầu tiêu dùng để tăng sức mua của toàn xã hội. Tạo việc làm là
giải pháp quyết liệt nhất, là ưu tiên hàng đầu. Chỉ có tạo việc làm thì Việt Nam mới
tạo ra được thêm nhiều GDP, không thể chỉ dựa vào vốn. Đầu tư tạo việc làm có
thể được thực hiện theo cách thức như sau:
Trước hết, phải đầu tư, hỗ trợ cho Doanh nghiệp vừa và nhỏ, khu vực tạo ra
hơn 90% việc làm mới cho xã hội.
Thứ hai, phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, không phải là những công
trình lớn, mà những dự án 'ăn ngay': thủy lợi, đường nông thôn, những tuyến đường
75
lưu lượng giao thông lớn nhưng còn bất cập, hệ thống kho bãi, trại giống, nhà kho
cho nông nghiệp... Cùng với những việc đó, cần khẩn trương chấn chỉnh đầu tư
công, đặc biệt đối với những dự án lớn để đảm bảo tạo chuyển biến thật sự trong
việc nâng cao hiệu quả đầu tư.
Ba là, đầu tư đào tạo con người, nhất là công nhân lành nghề. Khó khăn,
người lao động chưa có việc làm thật nhưng cần tập trung đào tạo nhân lực chất
lượng phục vụ cho các khu công nghiệp, Doanh nghiệp và lao động nông thôn. Đây
là việc đáng để kích cầu. Đồng thời đây cũng là lúc Nhà nước cần chăm lo nhiều
hơn nữa cho sự nghiệp y tế, nhất là y tế cơ sở, các vùng khó khăn.
Bốn là, cố gắng đầu tư cho nhà ở, bất động sản, nhưng thay đổi hẳn chính
sách để tạo khả năng có nhà ở cho người có thu nhập trung bình và thấp. Giải quyết
vấn đề giá cả nhà đất, chống được đầu cơ. Xây nhà ra, người mua không ở, người
cần ở không mua được. Chương trình nhà ở xã hội cần được tiến hành quyết liệt
hơn. Nói cách khác, dư địa để tạo việc làm của chúng ta còn nhiều. Chúng ta cần
tập trung đầu tư hướng vào tạo ra nhiều việc làm, xem đây là ưu tiên số một.
3.2.2.2. Đầu tư cho công nghệ
Đầu tư cho công nghệ cũng là một hướng quan trọng. Năng suất các nhân tố
tổng hợp TFP phụ thuộc vào quản trị, công nghệ và nguồn nhân lực. Quản trị khó
đo đếm, lao động của Việt Nam còn phải đào tạo thêm, trong khi cải tiến công nghệ
là điều Việt Nam có thể làm ngay.
Năm 1997, khi khủng hoảng châu Á nổ ra, đồng won bị mất giá và cả đất
nước Hàn Quốc chìm trong một bầu không khí ảm đạm. Thế nhưng, người Hàn
Quốc quyết liệt thay đổi công nghệ, chỉ trong 1-2 năm đã tạo nên một bộ mặt mới.
Seoul năm 2001đã có một bộ mặt hoàn toàn mới về công nghệ và quản trị. Đó cũng
76
là bí quyết để nước này nhảy vào được nhóm nước OECD và là nước phát triển nhờ
đầu tư cho công nghệ. Khẩu hiệu của Hàn Quốc là phải sở hữu công nghệ hàng đầu
châu Á.
Từ bài học Hàn Quốc, với Việt Nam, trong thời kỳ khủng hoảng, chúng ta
cần tranh thủ đổi mới công nghệ. Quan điểm chuyển đổi mô hình tăng trưởng của
Thủ tướng cũng nhằm vào điều này: phát triển theo chiều sâu, đi vào khoa học và
công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Có ý kiến quan ngại điều này đi
ngược lại với ưu tiên tăng việc làm. Với nhiều năm làm việc và theo dõi trong lĩnh
vực khoa học công nghệ, tôi có thể khẳng định không phải công nghệ nào cũng
mâu thuẫn với việc làm.
Trên thế giới tồn tại hai loại công nghệ: công nghệ tự động làm giảm việc
làm và công nghệ tạo ra được việc làm mới, ví dụ trong lĩnh vực dệt may, công
nghệ mới thay đổi một chút sẽ tạo thêm nhiều việc làm chen vào quy trình sản xuất.
Điện tử cũng là ngành công nghệ cao đòi hỏi nhiều việc làm, nhưng là những người
lao động thủ công có trình độ cao.
Trong lúc này, các ngân hàng cần rót tiền để Doanh nghiệp đầu tư đổi mới
công nghệ gắn với việc nâng cao trình độ lao động của người công nhân.
Nhân cơ hội giá thế giới giảm mà đầu tư, không nhất thiết phải trông chờ vào
FDI, đặc biệt là cố gắng tạo sự thay đổi trong thị trường nhập khẩu. Hiện nay,
chúng ta phụ thuộc quá lớn vào việc nhập khẩu công nghệ của Trung Quốc.
Đương nhiên, quy trình nhập công nghệ cần phải được thẩm định cẩn thận.
Hiện nay, chúng ta mới chỉ thẩm định xem công nghệ đó có ảnh hưởng môi trường
mà cũng chưa làm tốt, nhưng đến lúc chúng ta cần tăng cường thẩm định để đảm
bảo công nghệ đó là tiên tiến, phù hợp trình độ sản xuất của Việt Nam và hiệu quả
77
cả trước mắt và lâu dài.
Trên thế giới, vòng đời của công nghệ chỉ tầm 5-6 năm. Trong khi đó, vòng
đời công nghệ của Việt Nam vẫn khoảng 15 năm. Việt Nam cần nhanh giảm vòng
đời xuống, nếu không, bao giờ Việt Nam mới CNH, HĐH được. Trong thừa hưởng
công nghệ cũ của thế giới, chúng ta cần tiến dần tới đỉnh cao công nghệ. Trong quá
trình nhập công nghệ, cần tính toán xem công nghệ nào cần nhập trước, công nghệ
nào nhập sau, và tránh sự tác động và chi phối của lợi ích nhóm, lợi ích trước mắt
và rơi vào khu vực rác thải công nghệ lạc hậu. Doanh nghiệp tự thay đổi là quan
trọng nhất đồng thời nhà nước đầu tư để thay đổi, nhất là về cơ cấu. Nếu không,
GDP trước mắt có thể cao nhưng không cạnh tranh, không thể phát triển lâu dài,
bền vững.
3.2.3. Một số giải pháp khác
3.2.3.1. Giảm chi phí trung gian là biện pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu
phát triển kinh tế bền vững
Trong những năm qua tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm (VA) chậm hơn
tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất (GO). Sự tăng trưởng như vậy của nền kinh
tế quốc dân phần nào nói lên hiệu quả sản xuất của xã hội bị suy giảm đồng thời
cũng thể hiện một trong số rất nhiều yếu tố gây ra sự tăng trưởng kinh tế không bền
vững. Qua sự phân tích các chỉ số tăng trưởng ngành công nghiệp Việt Nam, chúng
ta đã phần nào nhận ra thực trạng của sự cách biệt và một số giải pháp cần thiết để
giảm bởi sự cách biệt về nhịp độ tăng trưởng của 2 chỉ tiêu này trong công nghiệp
Việt Nam, vì đây là lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng nhanh và sử dụng nhiều nguồn
tài nguyên không thể tái tạo đựơc. Sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp
sẽ góp phần tích cực không chỉ vào sự phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân mà còn là cơ sở để phát triển bền vững của lĩnh vực xã hội và môi trường
78
(Phụ lục số 01).
3.2.3.2. Phát huy và sử dụng mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất
Lối ra đầu tiên cho vấn đề này là cần có nhiều biện pháp hỗ trợ tích cực đẩy
mạnh phát triển kinh tế dân doanh hơn nữa trong thời gian tới theo đúng tinh thần
chỉ đạo của Hội nghị TW 5 (khoá 9) nhằm giải phóng mọi tiềm năng vốn có của lực
lượng sản xuất. Sự ra đời và hoạt động có hiệu quả của Luật Doanh nghiệp trong
thời gian qua (bắt đầu thực hiện từ năm 2000) đã có tác động rất lớn đối với khu
vực kinh tế này. Sau 3 năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, hiện đã có khoảng hơn
60.000 doanh nghiệp mới được thành lập, cộng với số doanh nghiệp được thành lập
trước đó thị hiện nay cả nước có khoảng trên 80.000 dân doanh đang hoạt động, và
kinh tế dân doanh đang trở thành khu vực phát triển năng động nhất của nền kinh
tế. Để làm rõ hơn điều này xin dẫn chứng thêm số liệu về tốc độ tăng vốn đầu tư
phát triển trong các năm 2000, 2001, 2002; của toàn xã hội: 10,8%, 12,2%, 12,4%,
trong khi đó tốc độ tăng của khu vực dân doanh là: 9,7%, 11%, 24,7%. Tuy nhiên,
ở nước ta nếu tính số dân thì bình quân gần 1000 người mới có một doanh nghiệp,
chỉ bằng 1/16 so với tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc, bằng 1/20 các nước kinh tế
phát triển. Các con số đó cho thấy mức bình quân của doanh nghiệp tính trên tỷ lệ
1000 của Việt Nam còn kém rất xa so với các nước trên thế giới, vì thế để nền kinh
tế nước ta phát triển tương thích với nền kinh tế thế giới thì nhu cầu rất lớn để phát
triển các loại hình doanh nghiệp. Do đó, kinh tế dân doanh phải được phát triển ở
tất cả các lĩnh vực, ngành nghề mà pháp luật không cấm và mở rộng địa bàn hoạt
động ở cả thành thị (doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần) nông
thôn (các HTX tiểu thủ công nghiệp, mỹ nghệ). ở nông thôn Trung Quốc các xí
nghiệp hương trấn hoạt động rất thành công cũng là điều ta cần tham khảo và vận
dụng, và miền núi, miền biển (trang trại lâm nghiệp, thuỷ sản) với mục đích là tạo
ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được những
79
tiềm năng rất lớn của nguồn nội lực quan trọng này.
Việc phát triển kinh tế dân doanh phải được đặt trong mối tương quan với
các thành phần kinh tế khác, tạo ra sự liên kết kinh tế với nhau trong điều kiện vừa
cạnh tranh vừa hợp tác với nhau, vừa hỗ trợ nhau cùng phát triển, nhằm làm cho
các nguồn lực xã hội xét trên bình diện tổng thể được sử dụng có hiệu quả nhất.
Chẳng hạn sự kết hợp lẫn nhau giữa DNNN và doanh nghiệp dân doanh nhằm khắc
phục một thực tế hiện nay: DNNN có tiềm năng kinh tế cao, nhưng hiệu quả kinh tế
nói chung kém, doanh nghiệp dân doanh tiềm lực thấp hơn, nhưng hiệu quả thường
cao hơn. Chủ trương kết hợp đó có thể mở rộng ra thị trường thế giới với các doanh
nghiệp Việt kiều ở nước ngoài. Qua đó, nhanh chóng tranh thủ được vốn, công
nghệ hiện đại và kinh nghiệm thương trường của người Việt ở nước ngoài là điều
nên làm trong thời đại toàn cầu hoá kinh tế thế giới. Cũng với lý do đó việc đẩy
mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN theo tình Hội nghị TW 3 (khoá
9) cũng sẽ tạo ra tác động động kép trong việc tối ưu hoá mọi nguồn lực, vì thông
qua đó, hơn 5000 DNNN chỉ còn lại khoảng 3000 vào năm 2005, và sẽ nắm các
mạch máu then chốt của nền kinh tế có vại trò chi phối các chủ thể kinh tế khác, do
vậy mặc nhiên cũng có nghĩa là khu vực kinh tế dân doanh cũng được mở rộng
thêm một cách tự nhiên. Điều này không hoàn toàn làm giảm vai trò của kinh tế
Nhà nước, trái lại nó sẽ gia tăng sức mạnh của kinh tế Nhà nước trong vai trò định
hướng và dẫn dắt nền kinh tế theo các mục tiêu đã định.
3.2.3.3. Đổi mới công nghệ và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trong hoạt động của
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp kinh doanh tế bào của nền kinh tế, là nơi sử dụng và kết
hợp các nguồn lực để tạo ra sản phẩm hàng hoá, điều quan trọng để tạo ra nhiều sản
phẩm tốt với giá thành hạ, thì cần tăng năng suất lao động. Muốn vậy cần phải
nhanh chóng thực hiện đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp, vì trình độ trang
bị máy móc, thiết bị hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam lạc hậu so với khu
80
vực và thế giới khoảng từ 20 năm đến 30 năm, đó cũng là một trong những lý do
chính làm giảm hiệu suất sử dụng vốn đầu tư trong thời gian qua. Mà đặc biệt là
việc đổi mới công nghệ tại các DNNN phải được ưu tiên hàng đầu, bởi vì đây là
khu vực trọng yếu của nền kinh tế, chiếm tỷ trọng phần lớn vốn đầu tư của toàn xã
hội. Vấn đề này phải được gắn liền với quá trình sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp
Nhà nước, kiên quyết giải thể, phá sản, bán hoặc cho thuê các doanh nghiệp thua lỗ
kéo dài, bởi vì bản thân các doanh nghiệp này sẽ không đủ sức tồn tại và cạnh tranh
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc khuyến
khích tư bản nước ngoài thâm nhập vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng các hình
thức mua, sát nhập, thuê, khoán để nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý doanh
nghiệp là điều cần được tham khảo và vận dụng. Thực hiện tốt việc đổi mới công
nghệ sẽ quyết định trực tiếp tới năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, sử dụng
đồng vốn có hiệu quả.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và nền kinh tế thế giới đang bước
vào một dạng thức mới- nền kinh tế tri thức, một dạng thức mới của kinh tế thế giới
(đặc trưng là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chất xám chiếm tỷ lệ chủ
yếu trong giá thành sản phẩm), thì cho các ngành công nghệ cao (công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới) phải được ưu tiên và quan tâm
hàng đầu. Do đó Nhà nước cần xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển các
ngành công nghệ cao của toàn đất nước, với một cơ chế đặc thù về các phương diện
đầu tư, tài chính, tín dụng (được thuê đất với giá rẻ, được miễn giảm các loại thuế,
được vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi), và cần phải có những bước đi thích hợp.
Theo đó các ngành công nghệ cao cần được ưu tiên phát triển tại các khu vực kinh
tế trọng điểm của cả nước, mà đặc biệt nhất là tại hai trung tâm kinh tế lớn nhất của
cả nước là thủ đô Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, từ đó tạo ra các không gian kinh tế
rộng lớn, với sức lan toả mạnh, trở thành những đầu tàu kinh tế, đưa đất nước bước
vào giai đoạn phát triển mới. Để phát triển các ngành công nghệ cao phải đòi hỏi
81
một nguồn vốn đầu tư ban đầu rất lớn, điều này có thể ảnh hưởng phần nào tới việc
phân bổ các nguồn lực xã hội, nhưng đây lại là những ngành có khả năng thu hồi
vốn nhanh, hiệu suất đầu tư lớn. Vì thế trong thời gian tới nên xem việc gia tăng
mạnh mẽ tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành công nghệ cao trong tổng vốn đầu tư
của toàn xã hội là một hướng đi tích cực, kiên quyết không đầu tư thêm vốn cho
những chương trình, dự án kinh tế không có khả năng thu hồi vốn, không có lợi thế
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, mà việc đầu tư hàng tỷ đô là trong chương trình
mía đường của ta không mang lại hiệu quả kinh tế là bài học nhãn tiền. Nếu cũng
với số vốn đó dùng để đầu tư cho các ngành công nghệ cao thì chắc chắn rằng hiệu
suất đầu tư vốn sẽ đạt cao hơn nhiều.
3.2.3.4. Nhận thức đúng vai trò của tín dụng, ngân hàng trong việc phân phối và
tối ưu hoá nguồn vốn xã hội
Hiện nay nền kinh tế nước ta đang phát triển lên một cấp độ mới, nền kinh tế
hội nhập. Điều đó đang đặt ra cho các chủ thể kinh doanh của nền kinh tế phải đối
mặt với những thách thức mới. Đó là làm thế nào để có thể tồn tại, đứng vững và
phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh
như vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng nổi lên như một mắt xích trọng yếu trong
hoạt động của nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng có một vai trò cực kỳ quan
trọng, với vị trí là trung gian tài chính của nền kinh tế, thông qua các nguồn lực xã
hội được phân bổ sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả. Thông qua việc cung
ứng nguồn vốn, tín dụng ngân hàng có tác động rất lớn tới quá trình hoạt động của
doanh nghiệp. Đặc biệt đang lúc chúng ta đẩy nhanh quá trình sắp xếp lại và cổ
phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước thì vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng
lại càng quan trọng hơn, nhất là trong bối cảnh hiện tại khi mà vốn của ngân hàng
thương mại chiếm tỷ trọng lớn trong tài sản của DNNN, có trường hợp vốn tín
dụng ngân hàng chiếm tới 80% tài sản của doanh nghiệp. Vì thế hoạt động tín dụng
ngân hàng lại càng quan trọng hơn trong việc phân bổ lại các nguồn lực nhằm lành
82
mạnh và tối ưu hoá các hoạt động kinh tế của loại hình doanh nghiệp này. Theo đó,
cần tích cực cung ứng vốn tín dụng cho ngành nghề, các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả, có lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế như các ngành: thuỷ sản, may
mặc và da giày. Kiên quyết không cung ứng và thu hồi vốn tín dụng đối với các
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nợ nần dây dưa, mất uy tín trên thương trường, hạn
chế đầu tư đối với các ngành mà có sản phẩm khó có thể cạnh tranh trên thị trường,
đó cũng là một trong những biện pháp quan trọng để sử dụng tối ưu hoá nguồn lực
xã hội. Do đó trong thời gian tới cần tăng tỷ trọng vốn tín dụng trung, dài hạn trong
hoạt động đầu tư. Lẽ ra việc đầu tư vốn trung dài hạn cần được huy động từ thị
trường chứng khoán, nhưng hiện tại hoạt động của thị trường này còn quá non yếu
chưa đáp ứng được các bước phát triển của nền kinh tế. Việc Ngân hàng Nhà nước
cho phép các ngân hàng thương mại được nâng tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn để đầu
tư trung, dài hạn từ 25% đến 30% đang là những bước đi tích cực, điều này sẽ tạo
nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn quan trọng này để đổi
mới và trang bị công nghệ hiện đại.
Hơn nữa, các ngân hàng thương mại cần có quan hệ tín dụng thực sự bình
đẳng giữa các chủ thể kinh doanh, mà cụ thể là các DNNN và các doanh nghiệp
dân doanh, vì hiện nay có đến 80% vốn tín dụng được đầu tư vào DNNN và chỉ có
20% vốn tín dụng được đầu tư vào các doanh nghiệp dân doanh trong khi đó khu
vực dân doanh đóng góp tới 42% GDP của cả nước. Do vậy, trong thời gian tới cần
mở rộng và gia tăng thị phần tín dụng đối với kinh tế dân doanh, ít nhất cũng tương
đương với mức đóng góp vào GDP của khu vực này, điều này có thể khả thi vì theo
Quy chế cho vay mới - Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN về Nghị định
85/2002/NĐ/CP về sửa đổi bổ sung cơ chế đảm bảo tiền vay thì các ngân hàng
83
thương mại được hoàn toàn chủ động và tự chịu trách nhiệm về vốn tín dụng.
3.2.3.5. Phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho nền kinh tế
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế
xã hội và nó cũng quyết định đến quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước nhằm nhanh chóng hoà nhập nền kinh tế nước ta với khu vực và quốc tế,
vì suy cho cùng chính con người mới là yếu tố cơ bản nhất và quan trọng của toàn
bộ lực lượng sản xuất. Nhưng trong một thời gian dài vừa qua, vấn đề đào tạo
nguồn nhân lực nhìn chung chưa được quan tâm đúng mức và cũng chưa có các
bước đi thích hợp. Đặc biệt là tại khu vực sản xuất kinh doanh, nơi trực tiếp tạo ra
sản phẩm và các hoạt động dịch vụ cho toàn xã hội lại càng chưa được quan tâm
một cách thích đáng, chưa xem đấy là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhất
là trong bối cảnh thế giới ngày nay đang có sự tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật, nhờ đó mà trình độ kỹ thuật, quy trình công nghệ ngày càng
được đổi mới một cách hết sức mau lẹ, thì vấn đề quan tâm đến đào tạo nguồn nhân
lực cho nền kinh tế để tương thích với sự thay đổi nhanh chóng của máy móc thiết
bị được đặt ra như một nhu cầu bức xúc.
Hiện nay trên phạm vi cả nước có gần 40 triệu lao động (chiếm gần một nửa
dân số), trong đó theo Tổng Cục Thống kê thì có tới 83% lao động chưa có trình độ
chuyên môn kỹ thuật, như vậy nền kinh tế nước ta về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng
lao động thủ công là chủ yếu. Chính vì lẽ đó mà năng suất nhân tố tổng hợp của ta
(TFP: Total Factor Productivity) chỉ chiếm 28,2% trong tăng trưởng kinh tế, trong
khi đó con số này ở các nước trong khu vực là 40%, điều này nó cũng phản ánh
rằng hàm lượng chất xám trong giá thành sản phẩm của ta còn thấp hơn nhiều so
với các nước trong khu vực, và dĩ nhiên nó cũng kéo theo sự yếu kém khả năng
cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế. Để gia tăng tỷ trọng TFP trong tăng trưởng kinh
tế, Nhà nước cũng đã đề ra mục tiêu là phấn đấu đến năm 2005 nâng tỷ lệ lao động
qua đào tạo là 30% và phấn đấu đến năm 2010 là 40% nhưng thực ra với mức phấn
84
đấu đó thì quả là một con số còn khá khiêm tốn khi mà chúng ta đang từng bước
tiếp cận với kinh tế tri thức. Thiết tưởng các con số trên cần được điều chỉnh lại
theo hướng gia tăng hơn nữa để phù hợp với các bước phát triển mới của nền kinh
tế- nền kinh tế hội nhập. Vì rằng đó sẽ là con đường ngắn nhất để gắn liền tri tri
thức khoa học với thực tiễn sản xuất, và đó cũng là biện pháp hữu hiệu nhất để tăng
năng suất lao động xã hội, yếu tố quyết định đến đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế theo
chiều sâu.
Trong thời đại bùng nổ thông tin và kinh tế tri thức, thì việc đào tạo và nâng
cao trình độ nguồn nhân lực phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, nhất là tại
các đơn vị sản xuất kinh doanh, đó cũng chính là một trong những biện pháp quan
trọng làm gia tăng nhanh chóng hàm lượng chất xám trong giá thành sản phẩm, từ
đó góp phần tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường. Thực tế
cho thấy rằng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp gắn liền với công
tác đào tạo và nghiên cứu khoa học mà điển hình là sự thành công nhanh chóng của
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ sinh
học là một minh chứng (các doanh nghiệp loại này rất chú trọng tới khâu đào tạo
nhân lực và nghiên cứu áp dụng kỹ thuật mới cho nên tạo ra được nhiều sản phẩm
với chất lượng cao mà giá thành lại hạ). Hiện tại trong các doanh nghiệp của ta mức
đầu tư bình quân cho công tác đào tạo và nghiên cứu còn rất thấp, chưa tới 0,5%
doanh thu, trong khi đó ở các nước phát triển con số này là từ 5-6% doanh thu, lớn
hơn gấp 10 lần so với Việt Nam, đó cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến
khả năng cạnh tranh yếu kém của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
Chính vì thế, công tác đào tạo nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp cần gắn liền
với công tác nghiên cứu cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện pháp quản lý, và xem đó như
một trong những bộ phận quan trọng nhất trong tổng thể chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp, và cần xem đây là khâu đột phá quan trọng để gia tăng khả năng
cạnh tranh của các doanh nghiệp tại thị trường nội địa cũng như trên thị trường thế
85
giới trong bối cạnh cạnh tranh quốc tế gay gắt hiện nay.
3.3. Gợi ý giải pháp phát triển các nguồn lực tăng trƣởng kinh tế Việt Nam
trong thời gian tới
Những phân tích trên cho thấy tăng trưởng kinh tế liên quan mật thiết tới các
chính sách công của chính phủ. Tư bản hiện vật, vốn nhân lực, tài nguyên thiên
nhiên và tri thức công nghệ là những nhân tố quyết định năng suất, còn năng suất
lại quyết định mức sống. Do đó, muốn tăng năng suất và mức sống cho người dân,
Chính phủ Việt Nam có thể thực hiện các chính sách sau:
3.3.1. Tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) để nâng cao chất lượng tăng
trưởng
Qua phân tích tác giả nhận thấy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong
những thập kỷ qua chủ yếu phụ thuộc vào sự tích lũy của các yếu tố đầu vào, đặc
biệt là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bên cạnh chiến lược tăng trưởng dựa
vào đầu vào, định hướng phát triển trong giai đoạn tiếp theo cần dựa vào tăng năng
suất, đặc biệt là nâng cao năng suất TFP - biểu thị hiệu quả của chất lượng lao động
và chất lượng vốn. TFP chứng minh được sự gia tăng của đầu ra sẽ không phụ
thuộc vào sự gia tăng số lượng đầu vào, mà dựa vào cải tiến các yếu tố đầu vào như
lao động và vốn. Với cùng số lượng đầu vào, sẽ tạo ra nhiều đầu ra hơn nhờ cải tiến
chất lượng lao động, chất lượng vốn và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này. TFP
đại diện cho các yếu tố không thể định lượng được như: Công nghệ, sự sáng tạo và
đổi mới về quản lý, nâng cao kỹ năng, thái độ làm việc nhằm giảm các chi phí hoạt
động.
Với sự gia tăng cạnh tranh của các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế
đang nổi lên, yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam là cần có các chiến lược phát triển
mới tập trung vào phát triển nguồn nhân lực cũng như công nghệ tiên tiến nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thông qua chiến lược phát triển định
86
hướng vào TFP.
Nâng cao TFP là một chiến lược để nền kinh tế phát triển bền vững và là yêu
cầu quan trọng trong môi trường kinh tế toàn cầu hiện nay. Chiến lược này yêu cầu
phải có đầu tư liên tục vào giáo dục - đào tạo và cơ cấu vốn cùng với yêu cầu tái cơ
cấu lại nền kinh tế. Phải đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để đạt được sự thành
công của chiến lược phát triển kinh tế dựa vào TFP.
3.3.2. Khuyến khích phát triển một số lĩnh vực
3.3.2.1. Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư
Nếu tiêu dùng ít hơn và tiết kiệm nhiều hơn, xã hội sẽ có nhiều nguồn lực
hơn dành cho việc sản xuất hàng hóa tư bản. Tư bản bổ sung làm tăng năng suất và
nâng cao mức sống. Sự tăng trưởng thêm này có một chi phí cơ hội – xã hội phải
hy sinh mức tiêu dùng hiện tại để có được sản lượng cao hơn trong tương lai. Đầu
tư vào tư bản có thể vấp phải vấn đề lợi suất giảm dần: khi lượng tư bản tăng, đầu
ra được tạo thêm từ mỗi đơn vị tư bản bổ sung sẽ giảm. Vì thế sự bổ sung tư bản ở
một nước nghèo sẽ tạo ra tăng trưởng nhiều hơn so với một lượng tư bản tương tự
bổ sung ở một nước đã giàu có. Điều này được biết đến như là hiệu ứng đuổi kịp,
tức là một nước nghèo dễ đạt mức tăng trưởng nhanh hơn các nước giàu. Tuy
nhiên, vì lợi suất giảm dần đối với tư bản, mức tiết kiệm và đầu tư cao hơn ở một
nước nghèo sẽ chỉ tạo ra mức tăng trưởng cao hơn trong một thời gian nhất định,
sau đó tăng trưởng sẽ giảm dần đến khi nền kinh tế tích lũy được nhiều tư bản hơn.
3.3.2.2. Khuyến khích đầu tư từ nước ngoài
Khuyến khích đầu tư từ nước ngoài có thể được thực hiện thông qua việc dỡ
bỏ những hạn chế về sở hữu tư bản trong nước và tạo ra một môi trường chính trị
ổn định. Bên cạnh việc sử dụng tiết kiệm trong nước để đầu tư vào hàng tư bản,
Việt Nam có thể thu hút đầu tư từ nước ngoài. Có hai loại đầu tư từ nước ngoài:
Đầu tư nước ngoài trực tiếp – người nước ngoài đầu tư vào tư bản trong nước, họ
trực tiếp sở hữu và điều hành doanh nghiệp đó. Đầu tư nước ngoài gián tiếp - đầu
87
tư vào tư bản được trang trải bằng tiền từ nước ngoài nhưng được điều hành bởi
người trong nước. Đầu tư nước ngoài làm tăng GDP nhiều hơn GNP vì nước đầu tư
được hưởng lợi nhuận từ việc đầu tư.
3.3.2.3. Khuyến khích giáo dục
Giáo dục là đầu tư vào con người, làm tăng vốn nhân lực. Giáo dục không
chỉ giúp nâng cao năng suất đối với người tiếp nhận mà còn đem lại ảnh hưởng
ngoại biên tích cực. Một ảnh hưởng ngoại biên nảy sinh khi hành động của một
người ảnh hưởng đến phúc lợi của người ngoài cuộc. Người được giáo dục có thể
sáng tạo ra những ý tưởng có ích cho người khác. Đó là lý lẽ ủng hộ giáo dục công
lập. Các nước nghèo có thể phải đối mặt với tình trạng chảy máu chất xám khi
những lao động có trình độ cao di cư sang các nước giàu.
3.3.2.4. Bảo vệ quyền sở hữu và duy trì ổn định chính trị
Quyền sở hữu là khả năng của con người trong việc kiểm soát nguồn lực của
họ. Để các cá nhân sẵn sàng làm việc, tiết kiệm, đầu tư, sản xuất và trao đổi với cá
nhân khác theo hợp đồng, họ nhất định phải tin tưởng rằng tư bản của họ và kết quả
tạo ra không bị người khác chiếm đoạt và những thỏa thuận của họ phải có hiệu
lực. Ngay cả sự tiềm ẩn về những bất ổn định chính trị có thể xảy ra cũng tạo nên
những bất ổn định về quyền sở hữu vì chính quyền mới có thể trưng dụng tài sản
của một số doanh nghiệp.
3.3.2.5. Khuyến khích thương mại tự do
Thương mại tự do giống như tiến bộ công nghệ. Nó cho phép một nước sử
dụng các sản phẩm mà nước khác sản xuất hiệu quả hơn. Lập luận về ngành non trẻ
cho rằng các nước đang phát triển nên theo đuổi chính sách hướng nội bằng cách
ngăn cản thương mại quốc tế nhằm bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa còn non
trẻ trước sức cạnh tranh của nước ngoài. Đa số các nhà kinh tế đều phản đối ý kiến
cho việc bảo hộ như thế và ủng hộ chính sách hướng ngoại với sự cắt giảm hoặc
88
xóa bỏ các hàng rào thương mại.
3.3.2.6. Kiểm soát tăng trưởng dân số
Tăng trưởng dân số nhanh có khuynh hướng dàn mỏng các nhân tố sau
nghiên cứu và triển khai, năng suất giảm ( giảm lượng tư bản và tài nguyên tính
bình quân cho một công nhân). Những phụ nữ có trình độ học vấn thường sinh ít
con hơn vì chi phí cơ hội của việc sinh con tăng lên khi họ có nhiều cơ hội trong xã
hội hơn.
3.3.2.7. Khuyến khích nghiên cứu và triển khai
Phần lớn sự tăng trưởng về mức sống bắt nguồn từ tiến bộ công nghệ vốn là
kết quả của quá trình nghiên cứu và triển khai. Sau một thời gian, tri thức trở thành
hàng hóa công cộng, nghĩa là chúng ta có thể cùng sử dụng nó mà không làm giảm
phúc lợi của người khác. Chính phủ có thể khuyến khích các hoạt động nghiên cứu
và triển khai thông qua tài trợ, ưu đãi về thuế và cấp bằng sáng chế khẳng định
89
quyền sở hữu và đảm bảo sự ổn định chính trị cũng là một cách để khuyến khích.
KẾT LUẬN
Tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quyết định phúc lợi kinh tế của
người dân mỗi quốc gia và con đường tăng trưởng kinh tế từ lâu đã trở thành một
trong những câu hỏi trung tâm của kinh tế học. Nói đến tăng trưởng người ta không
chỉ hiểu đơn thuần là tăng thu nhập bình quân đầu người, mà phải gắn với phát
triển bền vững, chú trọng tới cả ba thành tố : kinh tế, xã hội và môi trường. Để duy
trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn, tăng thu nhập phải gắn với tăng chất lượng
cuộc sống hay tăng phúc lợi và xóa đói nghèo. Tăng trưởng không nhất thiết phải
đạt tốc độ quá cao, mà chỉ cần cao ở mức hợp lý nhưng bền vững...
Luận văn đã góp phần xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng của
Việt Nam qua các thời kỳ, vận dụng Mô hình tăng trưởng Tân Cổ Điển, thường
được gọi là mô hình tăng trưởng SoLow để phân tích các tác động của các nhân tố
đó đến tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở thu thập một số lượng rất lớn các số liệu
thực tế, vận dụng lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Solow, tác giả đã chứng minh lý
thuyết tăng trưởng của Solow vẫn còn nguyên giá trị đối với các quốc gia đang phát
triển như Việt Nam. Từ đó gợi ý các nhóm giải pháp thiết thực giúp Việt Nam có
thể duy trì tốc độ tăng trưởng tốt tương ứng với tiềm lực nền kinh tế, tạo đà phát
triển kinh tế quốc gia trong dài hạn. Đó là: nguồn biến động tốc độ tăng trưởng sản
lượng bình quân lao động (hay thu nhập bình quân đầu người) trong mô hình này là
tốc độ tăng hiệu quả lao động được xác định là biến Ngoại Sinh. Hiệu quả của lao
động không phải gì khác mà chính là đại diện cho tất cả các nhân tố tác động tới
sản lượng ngoại trừ vốn và lao động. Theo phương pháp hạch toán tăng trưởng do
Solow khởi xướng, nó được gọi với cái tên là Tổng Năng Suất Nhân Tố (TFP) hay
Số Dư Solow. Như vậy, vấn đề sống còn đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
là tăng năng suất và hiệu quả lao động đồng thời phát huy tối đa hiệu quả của công
90
nghệ trong sản xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. APEC (2006), Văn kiện hội nghị các nhà lãnh đạo APEC năm 2006, Báo cáo
triển khai Kế hoạch Phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006-2010, Nhà
xuất bản Công An Nhân Dân.
2. Lê Dân (2002) Giới thiệu bản chất của TFP và phương pháp nghiên cứu sự
biến động của nó, Bộ môn Thống kê Tin học- Đại học Đà Nẵng.
3. Lê Dân (2006), Đề tài Phương pháp nghiên cứu thống kê sự thất thoát thời
gian lao động, trang 27-32, Đại học Đà Nẵng.
4. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) (2009), Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu 2008-
2009, Tạp chí Kinh Tế Châu Á số 24, Nhà xuất bản Trẻ.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ X, Mục tiêu tổng
quát của phát triển kinh tế Việt Nam nhiệm kỳ 5 năm (2006-2010), Nhà xuất
bản Công An Nhân Dân.
6. Goldman sachs, Nhận định về tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
{ http:/www.econlib.org/library/YBDBooks}.
7. Phạm Ngọc Hải (2001), 25 năm quan hệ kinh tế Việt Nam-APEC, Quan
điểm và triển vọng, Những vấn đề kinh tế thế giới, tập 72 (số 4), tr. 26-31,
Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân.
8. Nguyễn Quang Hòa (2008), Tốc độ tăng năng suất lao động của các ngành
kinh tế thời kỳ 2004 – 2008, Nhà xuất bản trẻ.
9. Nguyễn Thị Bích Hồng (2006), Ứng dụng TFP trong phân tích tăng trưởng
kinh tế của thành phố Đà Nẵng giai đoạn 1997 đến 2006, Trường đại học
91
Kinh Tế thành phố Hồ Chí Minh.
10. Đặng Văn Minh (2008), Những nhân tố tác động đến chỉ số Icor của Việt
Nam, Trường đại học Đà Nẵng.
11. Nhà xuất bản thống kê (2009), Niên giám thống kê năm 2008.
12. Nhà xuất bản Trẻ (2004), Kinh tế VN trên đường rồng hoá rồng, trang 277.
13. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Báo cáo Theo dõi Kinh tế Châu Á số
tháng 7.
14. Tăng Văn Thiên (2003), Các phương pháp tính tốc độ tăng năng suất nhân tố
tổng hợp (TFP) theo cách tiếp cận thống kê, Viện Khoa học Thống kê.
15. Tổng Cục Thống Kê, Đề tài khoa học “Nghiên cứu đánh giá tác động của
KH &CN đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam”, Nhà Xuất Bản Thống Kê.
16. United Nations (2005), Báo cáo về chỉ số cạnh tranh của Việt Nam.
17. Dịch giả Trần Xuân Vĩnh (2001), Vì chất lượng cuộc sống tốt hơn, (Sách
của Tony Blair), Nhà xuất bản Công An Nhân Dân.
18. World Bank (2008), Chất lượng tăng trưởng, Nhà xuất bản Thế giới.
19. World Bank (2008), Những nhận định của World economic Forum về tăng
trưởng kinh tế Việt Nam, Nhà xuất bản Thế Giới.
20. WTO (2003), Báo cáo về tăng trưởng kinh tế năm 2003 của Việt Nam, Nhà
Xuất Bản Thống Kê.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
21. Paul H. Douglas (1934), The Theory of Wages, New York – Macmillan.
22. Robert M. Solow (1950), A Contribution to the Theory of Economic, Nhà
xuất bản Thống Kê.
23. Robert M. Solow (1956), Growth, Quartely Journal of Economics, tập 70,
92
trang 65- 94, Nhà xuất bản Thống Kê.
PHỤ LỤC
Phụ lục 01
Giảm chi phí trung gian là biện pháp quan trọng để thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế bền vững
Tác giả mạnh dạn cho rằng, khi nói đến tăng trưởng kinh tế, chỉ cần đề cập
tới sự tăng lên của phần giá trị mới sáng tạo VA (xét cho đơn vị sản xuất kinh
doanh hoặc trên giác độ ngành hoặc nhóm ngành kinh tế) hoặc GDP (xét trên giác
độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân). Nói cách khác, khi nói tăng trưởng kinh tế là nói
giá trị tăng thêm đã tăng lên bao nhiêu phần trăm so với kỳ trước hoặc so với kế
hoạch.
Giá trị tăng thêm được tính bằng công thức VA = GO - IC
Trong đó: GO là giá trị sản xuất và IC là chi phí trung gian
Giá trị tăng thêm phụ thuộc thuận vào GO và nghịch với IC. Do đó, giảm chi
phí trung gian là một biện pháp cực kỳ quan trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất
của xã hội đồng thời đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế.
Xem xét sự sản xuất trong ngành công nghiệp của nước ta trong những năm
qua, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy tình trạng có tính quy luật không theo mong
muốn của các nhà quản lý.
Sự mong muốn Thực tế diễn ra
Tốc độ tăng trưởng của GO > Tốc độ Tốc độ tăng trưởng của GO < Tốc
tăng trưởng của IC độ tăng trưởng của IC
Tốc độ tăng trưởng của GO < Tốc độ Tốc độ tăng trưởng của GO > Tốc
tăng trưởng của VA độ tăng trưởng của VA
93
Để minh chứng cho nhận định trên ta quan sát thông tin trong các biểu sau đây:
Bảng 1.1: Tốc độ tăng trƣởng và tỷ trọng của GO, VA, IC qua các năm của
ngành công nghiệp khai thác
Tốc độ tăng trƣởng so % VA % IC GO (tỷ IC (tỷ VA (tỷ với năm trƣớc Năm trong trong đồng) đồng) đồng) GO GO GO IC VA
A 1 2 3 4 5 6 7 8
1995 13919,7 3574,7 10345 74,32 25,68
2000 27334,6 8904,6 18430 96,37 149,10 78,15 67,42 32,58
2001 29097,2 9912,2 19185 6,45 11,32 4,10 65,93 34,07
2002 30326,4 10930,4 19396 4,22 10,27 1,10 63,96 36,04
2003 33002,4 12483,4 20519 8,82 14,21 5,79 62,17 37,83
Nguồn: Niên giám thống kê 2003
(trong tất cả các biểu: cột 4, 5, 6 của năm 2000 là so với năm 1995; số liệu năm 2003
là số sơ bộ)
Tất cả các thông tin tính toán trong bài này đều tính theo giá so sánh 1994.
Sở dĩ tác giả không sử dụng giá thực tế vì không có thông tin về GO công nghiệp
tính theo giá thực tế năm 2003.
Ngành công nghiệp khai thác mỏ gồm khai thác than; dầu thô và khí tự
nhiên; khai thác quặng kim loại; khai thác đá và các loại mỏ khác. Đây là ngành có
tỷ trọng IC thấp nhất và tương ứng với nó là tỷ trọng VA trong GO là cao nhất
trong các ngành công nghiệp ở nước ta hiện nay. Chi phí trung gian của ngành này
tăng lên quá nhanh (cột 5). Tốc độ tăng trưởng của IC lớn hơn tốc độ tăng trưởng
94
của GO từ 1,5 lần năm 1995 lên gần 2,5 lần năm 2002.
Bảng 1.2: So sánh tốc độ tăng của GO và IC ngành công nghiệp khai thác
Đơn vị: %
So sánh tốc độ Tốc độ tăng Tốc độ tăng tăng của IC với Năm trƣởng của GO trƣởng của IC GO
96,37 149,10 154,72 2000
6,45 11,32 175,50 2001
4,22 10,27 243,36 2002
8,82 14,21 161,11 2003
Nguồn: Niên giám thống kê 2003 (3)
Do đó, tỷ trọng chi phí trung gian chiếm trong GO từ 25,68 % năm 1995 đã
tăng lên tới 37,83% vào năm 2003. Điều này đã dẫn đến kết cục tất yếu là phần giá
trị tăng thêm bị suy giảm từ 74,32% năm 1995 xuống còn 62,17% vào năm 2003.
Ngành công nghiệp chế biến hiện nay chiếm khoảng 81% về giá trị sản xuất và
khoảng 70% giá trị tăng thêm trong toàn bộ lĩnh vực công nghiệp Việt Nam.
Chính vì chiếm tỷ trọng lớn như vậy nên bất kỳ một sự thay đổi nào đó trong
ngành này đều ảnh hưởng rất nhiều tới sự biến động chung của toàn bộ khu vực
công nghiệp. Nhìn chung, công nghiệp chế biến của Việt Nam nằm trong tình
trạng lấy công làm lãi, mà tiền công ở đây cũng quá rẻ so với các nước.
Với công nghiệp chế biến thì tốc độ tăng của IC vẫn lớn hơn tốc độ tăng của
GO. Bởi thế đã đưa đến tốc độ tăng của VA nhỏ hơn tốc độ tăng GO. Sự chênh
lệch giữa tốc độ tăng trưởng của GO và IC nhỏ hơn nhiều so với ngành công
nghiệp khai thác. Biên độ chênh lệch giữa 2 chỉ tiêu này của công nghiệp chế biến
95
chỉ nằm trong khoảng 13 -14%.
Bảng 1.3: Tốc độ tăng trƣởng và tỷ trọng của GO, VA, IC qua các năm của
ngành công nghiệp chế biến
Tốc độ tăng trƣởng so % VA % IC GO (tỷ IC (tỷ VA (tỷ với năm trƣớc Năm trong trong đồng) đồng) đồng) GO GO GO IC VA
1995 83260,5 53029,5 30231 36,31 63,69
2000 158098 106606 51492 89,88 101,03 70,33 32,57 67,43
2001 183542 126207 57335 16,09 18,39 11,35 31,24 68,76
2002 213697 149714 63983 16,43 18,63 11,60 29,94 70,06
2003 250126 178814 71312 17,05 19,44 11,45 28,51 71,49
Nguồn: Niên giám thống kê 2003
Bảng 1.4: So sánh tốc độ tăng trƣởng của GO và IC ngành công nghiệp chế
biến.
So sánh tốc độ Tốc độ tăng Tốc độ tăng tăng của IC với Năm trƣởng của GO trƣởng của IC GO
89,88 101,00 112,37 2000
16,09 18,39 114,29 2001
16,43 18,63 113,39 2002
17,05 19,44 114,02 2003
Nguồn: Niên giám thống kê 2003
Các tính toán như trên cho thấy:
Một là, tốc độ tăng trưởng của phần giá trị mới sáng tạo (VA) tăng lên chậm
hơn GO. Điều đó cũng có nghĩa là hiệu quả sản xuất của công nghiệp chế biến chưa
96
được cải thiện, thậm chí còn suy giảm nhẹ.
Hai là, tỷ trọng phần giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp chế biến ở nước
ta quá nhỏ trong GO. Qua đó thể hiện công nghiệp chế biến còn mang nặng tính
chất gia công, làm thuê.
Đối với ngành công nghiệp sản xuất, phân phối điện nước, điện và khí đốt
cũng diễn ra tương tự như 2 ngành công nghiệp trên: tốc độ tăng trưởng của GO
chậm hơn tốc độ tăng trưởng của IC. Do đó, tỷ trọng của VA trong GO giảm từ
54,63% năm 1995 xuống còn 44,99% vào năm 2003 (dòng 5, biểu 05). Theo
chúng tôi, sự suy giảm như vậy là quá nhanh, trung bình 1 năm giảm 1%.
Bảng 1.5: Tình hình phát triển của một số chỉ tiêu chủ yếu của ngành công
nghiệp sản xuất, phân phối điện, khí đốt và nƣớc của Việt Nam
Đơn vị tính: %
Năm 1995 2000 2001 2002 2003
A 1 2 3 4 5
1. Tốc độ tăng trưởng 108,10 14,04 16,09 16,36 GO
2. Tốc độ tăng trưởng 133,30 14,85 20,54 20,37 IC
3. Tốc độ tăng trưởng 87,26 13,19 11,42 11,80 VA
4. % IC trong GO 45,37 50,85 51,22 53,18 55,01
5. % VA trong GO 54,63 49,15 48,78 46,82 44,99
Nguồn: Niên giám thống kê 2003 (3)
Từ những phân tích trên cho thấy:
1. Chi phí trung gian tăng lên thường xuyên qua các năm diễn ra ở cả 3 ngành công
nghiệp cấp 1. Đây là dấu hiệu của quá trình sản xuất kém hiệu quả.
2. Sự gia tăng của chi phí trung gian thể hiện sử dụng lãng phí vật tư sản xuất. Bởi
vì phải chi ra ngày một nhiều hơn chi phí vật chất và dịch vụ để làm ra một đơn vị
97
sản phẩm. Nếu tình trạng này cứ tái diễn sẽ phá vỡ tính bền vững của sản xuất. Như
trên đã nêu tinh thần cơ bản của 5 mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là phải
duy trì tăng trưởng nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao không ngừng tính hiệu
quả, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường,…
3. Công nghiệp là lĩnh vực sử dụng nhiều tài nguyên không thể tái tạo được. Nếu sử
dụng kém hiệu quả thì trong tương lai sẽ không còn nguyên liệu để phục vụ cho sản
xuất. Vì thế tiết kiệm nguyên liệu không có khả năng tái tạo là điều vô cùng quan
98
trọng để đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
99