Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam
lượt xem 4
download
Trên cơ sở làm rõ thêm lý luận và phân tích thực trạng về hàng hóa công nghệ, TTCN và vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN, từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường hơn nữa vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN trong thời gian tới ở nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam
- TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ PHẠM VĂN HÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN TH.S KINH TẾ Người hướng dẫn: PGS.TS Phan Thanh Phố Hà Nội 2006
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong quá trình đổi mới nền kinh tế từ mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới tác động của Nhà nước và Luật khoa học và công nghệ được Quốc hội thông qua tháng 6 năm 2000, nước ta bước đầu đã hình thành một số thị trường như: Thị trường hàng hoá - dịch vụ, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học - công nghệ vv... Tuy nhiên, sự phát triển của các. loại thị trường này còn ở trình độ sơ khai, các yếu tố thị trường chưa được tạo lập một cách đồng bộ, nhất là thị trường công nghệ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định cần phảỉ: “Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” và “Khẩn trương tổ chức thị trường khoa học và công nghệ, thực hiện tốt bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, chuyển giao công nghệ” [16]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khi nhấn mạnh: “Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh… .” đã chỉ rõ “phát triển thị trường khoa học và công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược, chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành hàng hóa” [20]. Trong các loại thị trường, mỗi loại đều có tầm quan trọng nhất định, nhưng nếu gắn với sự nghiệp CNH - HĐH phát triển rút ngắn, thì như Đảng ta đã xác định “Khoa học - công nghệ là động lực”, thì thị trường công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt. Thực tiễn cho thấy vai trò của Nhà nước trong việc hình
- thành và phát triển thị trường này ở nước ta còn khá mới và còn nhiều bất cập điều đó thể hiện trên nhiều mặt: nhận thức, cơ chế, chính sách, đầu tư vốn, nhất là vai trò nhà nước đối với việc tổ chức các bộ phận, các yếu tố cấu thành và phát triển đồng bộ TTCN. Những yếu kém, bất cập này đang cản trở sự nghiệp CNH - HĐH phát triển triển rút ngắn, xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam đang trước thềm gia nhập WTO. Nó đã và đang đòi hỏi cần có lời giải thoả đáng trên cả hai mặt lý luận và thực tiễn ở nước ta hiện nay. Để góp thêm phần mình vào việc tìm ra lời giải đó, tác giả chọn đề tài: “Vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam” để nghiên cứu làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xung quanh vấn đề này, đã có một số công trình và bài báo nghiên cứu đăng tải như: - “Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”- Đề tài KX.01.07 thuộc chương trình KX.01 có mục tiêu là: Xác định các loại thị trường cơ bản và đặc trưng của chúng; thực trạng một số loại thị trường chủ yếu ở nước ta; kiến nghị các chính sách và giải pháp nhằm tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và hoàn thiện các loại thị trường trong đó có TTCN ở nước ta. - Một số suy nghĩ bước đầu về các loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của TS Lê Xuân Bá, năm 2002. - Một số vấn đề phát triển đồng bộ các loại thị trường trrong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của TS Lê Đăng Doanh, năm 2002. 2
- - Một số ý kiến về quy luật vận động của một số loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế thị trường hiện đại của PGS.TS Phan Thanh Phố, năm 2002. - Một số vấn đề về hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở Việt Nam của PGS. TS. Nguyễn Kế Tuấn, năm 2002. - Một số ý kiến về tình hình thị trường công nghệ ở Việt Nam và hướng tới xây dựng thị trường công nghệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2006 của TS Đỗ Văn Vĩnh, năm 2002. Gần đây đã có một số bài viết về vai trò của Nhà nước đối với việc hình thành và phát triển các loại thị trường trên báo và tạp chí. Tuy nhiên, các công trình khoa học đó chưa nhiều, chưa chuyên sâu, chưa trình bày một cách độc lập và có hệ thống như tác giả sẽ thực hiện trong bản luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ thêm lý luận và phân tích thực trạng về hàng hóa công nghệ, TTCN và vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN, từ đó đưa ra những phương hướng và giải pháp cơ bản để tăng cường hơn nữa vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển TTCN trong thời gian tới ở nước ta. * Nhiệm vụ của luận văn: - Luận giải những vấn đề cơ bản về hàng hóa công nghệ, TTCN và vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị truờng công nghệ ở nước ta. - Tổng quan kinh nghiệm nước ngoài về vai trò của Nhà nước đối với việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ. - Phân tích đánh giá thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ, trong thời gian qua ở nước ta. 3
- - Đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản tiếp tục tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở nước ta trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn lấy việc luận giải vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu. Thời gian nghiên cứu từ 1986, nhưng chủ yếu từ năm 1992 (được đánh dấu bởi Nghị định 35/HĐBT nay là Chính Phủ về công tác quản lý khoa học - công nghệ ban hành 28/01/1992) đến nay. Phương hướng và các giải pháp đưa ra là các giải pháp cơ bản và vĩ mô gắn với chuyên ngành kinh tế chính trị. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung được vận dụng thông qua phương pháp trừu tượng hoá, phân tích và tổng hợp, lịch sử và logic. Ngoài ra còn vận dụng một số phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh nhằm tạo ra một tổng thể phương pháp cho phép tiếp cận nhanh đối tượng và mục tiêu nghiên cứu. 6. Đóng góp mới và ý nghĩa của việc nghiên cứu * Đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa làm rõ thêm hàng hóa công nghệ, TTCN, vai trò của Nhà nước và kinh nghiệm nước ngoài về việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở nước ta; - Đưa ra những đánh giá có căn cứ khoa học về thực trạng vai trò của Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở nước ta; 4
- - Đề xuất có căn cứ lý luận và thực tiễn phương hướng và giải pháp cơ bản tiếp tục tăng cường vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ ở nước ta thời gian tới. * Ý nghĩa của việc nghiên cứu Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch định phát triển khoa học - công nghệ và phát triển TTCN ở nước ta. Nó cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng những phần có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm về thị trường công nghệ và vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ. Chương 2: Thực trạng vai trò nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ thời gian qua ở nứơc ta. Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản tăng cường vai trò Nhà nước trong việc hình thành và phát triển thị trường công nghệ nước ta trong thời gian tới. 5
- Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ THỊ TRƢỜNG CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG CÔNG NGHỆ 1.1. Hàng hoá công nghệ và thị trƣờng công nghệ 1.1.1. Hàng hoá công nghệ * Một số khái niệm cơ bản - Khoa học: Một hiện tượng của đời sống xã hội., nó vừa là hệ thống những tri thức, vừa là sự sản xuất của cải tinh thần - sản xuất những tri thức cùng hoạt động thực tiễn dựa vào tri thức đó. Mặc dù còn có thể có ý kiến khác nhau nào đó, song có thể hiểu. Khoa học là một tập hợp các tri thức của nhân loại về các phạm trù và quy luật vận động và phát triển khách quan của thế giới tự nhiên, kỹ thuật, xã hội và bản thân con người. Khoa học thuộc hình thái ý thức xã hội, mà tri thức của nó được biểu hiện ở các phạm trù, định luật và quy luật về tự nhiên kỹ thuật, xã hội và bản thân con người. Khi tri thức của con người về tự nhiên kỹ thuật, xã hội và bản thân con người có sự biến đổi mới và sâu sắc hơn so với tri thức trước đó trong phạm vi rộng hoặc hẹp, được gọi là cách mạng khoa học, Người ta phân loại khoa học thành các loại sau: + Khoa học tự nhiên - kỹ thuật, nghiên cứu các quy luật tự nhiên và phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên kỹ thuật; + Khoa học xã hội, nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các phạm trù, các quy luật vận động phát triển của chúng và cả bản thân con người. 6
- Xét về vai trò và tác dụng, có thể thấy khoa học bao gồm: khoa học cơ bản, thực nghiệm và khoa học ứng dụng. Chính vì thế, nên trong Điều 2 Luật Khoa học và công nghệ đã giải thích: “Khoa học là hệ thông tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy” [48]. - Công nghệ: Theo nghĩa rộng không chỉ là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà còn là các bí quyết biến các nguồn lực sẵn có thành sản phẩm. Ngày nay người ta thường sử dụng thuật ngữ công nghệ theo nghĩa rộng bao gồm 4 thành phần sau đây: +Trang thiết được coi là “xương sống”, là “cốt lõi” của các hoạt động chuyển hóa của đối tượng lao động. + Kỹ năng và tay nghề, thành phần này có liên quan đến kinh nghiệm nghề nghiệp của từng người, hoặc nhóm người và nó được coi là “chìa khoá” của sản xuất. + Thông tin, có liên quan đến các bí quyết, các quy trình, các phương pháp, các dữ liệu, các bản thiết kế. + Tổ chức, thể hiện trong việc bố trí, sắp xếp, điều phối, quản lý, tiếp thị… có liên quan đến nhiệm vụ liên kết các thành phần nói trên và kích thích người lao động hăng hái làm việc để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh. Các thành phần nói trên có mối quan hệ tương tác với nhau hợp thành nội dung của khái niệm công nghệ [41, tr.7]. Luật Khoa học và công nghệ, Điều 2 giải thích: “Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm” [48]. - Mối quan hệ và sự khác nhau giữa khoa học và công nghệ. 7
- Công nghệ không phải là “lực lượng độc lập và tự trị” hay khái niệm tự nó, mà nó tuỳ thuộc trên mức độ lớn, nếu không muốn nói là sự tuỳ thuộc quyết định bởi môi trường kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Ngoài vai trò của môi trường chính trị, cần phải được nhấn mạnh đến môi trường về tiềm lực khoa học công nghệ và tình hình nghiên cứu khoa học của từng quốc gia và từng thời kỳ nhất định. Tiềm lực khoa học và công nghệ được hiểu là tổng thể các nguồn lực kinh tế và tinh thần có được để phát triển khoa học và công nghệ. Cơ cấu của tiềm lực khoa học và công nghệ bao gồm lực lượng cán bộ khoa học công nghệ, nguồn tài chính và các cơ sở nghiên cứu thí nghiệm và thực nghiệm. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu khoa học cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển khai. Kinh nghiệm các nước trong thời kỳ đầu của CNH - HĐH, việc nghiên cứu ứng dụng và triển khai thường được coi trọng. Khoa học và công nghệ là 2 khái niệm có mối quan hệ với nhau được thể hiện thông qua họat động khoa học và công nghệ. Luật khoa học và công nghệ, điều 2 giải thích: “Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học và nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ” [48]. Không có những thành tựu trong nghiên cứu khoa học thì sẽ không có những tiến bộ trong công nghệ. Nghiên cứu khoa học mà kết quả của nó là tạo ra các sản phẩm khoa học tồn tại dưới hình thức sản phẩm công nghệ được ứng dụng trong lĩnh vực tự nhiên, kỹ thuật và trong lĩnh vực xã hội nhân văn. Ranh giới tương đối giữa khoa học và công nghệ là ở chỗ: nói khoa học là nói về ý thức xã hội, nói đến việc nghiên cứu sáng tạo tri thức, phát minh để tạo 8
- ra nhưng thành tựu về công nghệ. Còn nói công nghệ là nói đến kết quả của việc nghiên cứu sáng chế phát minh, là nói đến hoạt động ứng dụng vào thực tiễn, là nói đến việc cải tạo thực tiễn đời sống kinh tế, công nghệ và xã hội ngày một tiến bộ hơn trước. Luận văn nghiên cứu công nghệ với tư cách là sản phẩm công nghệ dưới hình thái hàng hóa được dùng để giao dịch, trao đổi, mua bán trên TTCN. Toàn bộ hoạt động nói trên gắn liền với dịch vụ khoa học và công nghệ. Điều 2 của Luật Khoa học và công nghệ, giải thích: “Dịch vụ khoa học và công nghệ là các họat động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn” [48]. * Sản phẩm công nghệ là hàng hóa. Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc lý giải sản phẩm công nghệ là hàng hoá bắt nguồn từ những luận cứ sau: Thứ nhất: ngành khoa học công nghệ là ngành công nghiệp quan trọng sản xuất ra sản phầm công nghệ. Thật vậy, sản phẩm công nghệ do ngành khoa học - công nghệ tạo ra thông qua việc độc lập hóa nghiên cứu và hoạt động nghiên cứu làm cơ sở tự nhiên, cùng với việc phát triển của phân công lao động xã hội hoạt động này ngày một phát triển độc lập với các ngành sản xuất vật chất khác để trở thành ngành công nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt, mà sản phẩm của nó là sản phẩm công nghệ. Hơn nữa các cơ quan nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ trở thành chủ thể kinh tế kết hợp trách nhiệm và quyền lợi là cơ sở hình thành quyền sở hữu tài sản của sản phẩm công nghệ - quyền sở hữu trí tuệ. Và sau cùng là tính độc quyền của các thành quả công nghệ hay sản phẩm công nghệ là 9
- điều kiện tồn tại với tính cách là một ngành công nghiệp độc lập và là một điều kiện để sản phẩm của ngành công nghệ trở thành hàng hóa. Thứ hai: Sản phẩm công nghệ vẫn có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị. Thành quả khoa học và công nghệ được ứng dụng vào sản xuất có thể tạo ra sản phẩm mới, đổi mới thiết bị công nghệ, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, nghĩa là sản phẩm công nghệ có công dụng. Hơn nữa quá trình tạo ra sản phẩm công nghệ ngành khoa học và công nghê cũng có những hao phí lao động sống và lao động quá khứ được kết tinh trong sản phẩm công nghệ và được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, có giá trị và giá cả. Rõ ràng sản phẩm công nghệ vừa có công dụng làm thoả mãn nhu cầu của người sử dụng vừa đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, nghĩa là nó cũng có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nên đủ tư cách là một hàng hóa. * Hàng hóa công nghệ, về hình thức có thể phân thành các loại sau: - Linh kiện cứng chỉ công nghệ tồn tại dưới hình thái hiện vật. - Linh kiện mềm chỉ các tài liệu văn bản, bao gói mềm của thiết bị công nghệ có thể ứng dụng vào sản xuất tồn tại với hình thức độc lập. - Dịch vụ và tư vấn công nghệ với hình thái lưu động. - Hình thức hỗn hợp. * Tính đặc thù của hàng hóa công nghệ Hàng hóa công nghệ khác với các hàng hóa khác ở những điểm sau đây: Thứ nhất: Tính đặc thù về giao dịch, sự giao dịch các hàng hóa thông thường là sự chuyển nhượng quyền sở hữu và quyền sử dụng của hàng hoá, còn sự giao dịch hàng hóa công nghệ do tính đặc thù của nó nên không phải là sự 10
- chuyển nhượng quyền sở hữu, mà chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng công nghệ. Sau khi bên mua có quyền sử dụng hàng hóa công nghệ thì bên bán ngoài việc ký hợp đồng độc quyền với bên mua hoặc cấp cho bên mua giấy phép, vẫn có quyền tiếp tục sử dụng và tiếp tục chuyển nhượng công nghệ đó cho người khác. Ngoài ra, việc giao dịch các hàng hóa công nghệ thường phải xác định rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên dưới hình thức hợp đồng. Bởi vì việc giao dịch các hàng hóa công nghệ tương đối phức tạp, cùng với việc chuyển nhượng hàng hóa công nghệ, còn nhiều khoản mục cung cấp có liên quan như: tư vấn công nghệ, đào tạo cán bộ v.v... đều phải xác định theo hình thức hợp đồng. Thứ hai: Việc thực hiện giá trị sử dụng hàng hóa công nghệ cần phải có một quá trình. Nếu hàng hoá thông thường, công dụng của nó được biểu hiện ngay sau khi tiêu dùng, trái lại hàng hóa công nghệ sau khi mua đem về ứng dụng còn phụ thuộc khả năng tiếp nhận và môi trường điều kiện tương ứng của bên mua. Bên mua cần có một quá trình thích ứng dần với công nghệ mới mua về. Thứ ba: Hàng hoá công nghệ chịu sự chi phối của hao mòn vô hình, nên tuổi thọ của hàng hóa thông thường do hao mòn vô hình của hàng hóa công nghệ quyết định. Tốc độ hao mòn vô hình của hàng hoá công nghệ càng nhanh thì tuổi thọ của hàng hóa công nghệ càng giảm vì tốc độ tăng nhanh của khoa học công nghệ . Do đó đòi hỏi phải ứng dụng nhanh và thực hiện khấu hao nhanh. Thứ tư: Tính khó xác định về giá tri của hàng hóa công nghệ. Nếu hàng hóa thông thường lượng giá trị của nó được xác định bởi thời gian lao động xã hội cần thiết, trái lại hàng hoá công nghệ thường sản xuất đơn chiếc, lao động sản xuất ra nó là lao động trí tuệ - lao động phức tạp, như Mác đã 11
- nói trong bộ Tư bản [36].. Do vậy lao động này mang tính sáng tạo, tính rủi ro và tính không xác định của nó về mặt giá trị là rất lớn. 1.1.2. Thị trường công nghệ * Một só vấn đề chung về thị trường C. Mác trong tác phẩn "Tư bản" và tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", đã đề cập đến lý luận xã hội hoá, lý luận về mối quan hệ giữa cách mạng kỹ thuật với phân công lao động xã hội và mối quan hệ giữa chúng với sự hình thành và phát triển thị trường [36]. V.I. Lênin trong các tác phẩm: "Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Nga", "Bàn về cái gọi là thị trường" và một số tác phẩm, bài viết trong "Thời kỳ chính sách kinh tế mới" ở nước Nga, đã đề cập nhiều vấn đề lý luận về sự phân công lao động xã hội - cơ sở của trao đổi - cơ sở của sự hình thành thị trường. Người viết: "Khái niệm thị trường hoàn toàn không thể tách rời khái niệm phân công xã hội được, sự phân công này, như CMác đã nói, là cơ sở chung của mọi nền sản xuất hàng hóa". Người còn nhấn mạnh: "Hễ ở đâu và khi nào có phân công xã hội và sản xuất hàng hóa thì ở đó và khi ấy, có thị trường. Quy mô của thị trường gắn chặt với trình độ chuyên môn hóa của lao động xã hội" [34]. Trong các lý thuyết của một số nhà kinh tế học khác như: Lý thuyết cân bằng tổng quát của L.Walras; lý thuyết về thị trường của Alfred Marshlla và lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp trong chủ nghĩa tư bản hiện đại đáng chú ý là lý thuyết cân bằng tổng quát có liên quan đến tính đồng bộ của các loại thị trường đầu ra và đầu vào của sản xuất; lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp có liên quan đến vai trò của Nhà nước đối với thị trường trong nền kinh tế thị trường hiện đại, liên quan đến khái niệm, chức năng và vai trò của thị trường [37]. Tiếp cận về lịch sử cho thấy: Thị trường hình thành và phát triển đi từ thấp đến cao, tuỳ từng loại hoặc một số loại và chưa đồng bộ đến đa dạng phong 12
- phú và đồng bộ. Mặc dù, ở mỗi nước, mỗi thời kỳ sự hình thành và phát triển các loại thị trường có thể nhanh chậm và với mức độ có khác nhau, song đều lấy sự phát triển của phân công xã hội và trình độ xã hội hoá sản xuất làm điểm xuất phát. Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về khái niệm thị trường, song có thể hiểu: Thị trường là lĩnh vực trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ, lĩnh vực mà ở đó những người tham gia thị trường thường xuyên tác động với nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng hóa. - Thông qua vai trò nối liền và thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng phát triển, thị trường có những chức năng như: Thừa nhận hay không thừa nhận hàng hóa, dịch vụ mà người sản xuất và cung ứng trên thị trường; thông tin cho người sản xuất và người tiêu dùng những thông số hay tín hiệu về quy mô, cơ cấu, chất lượng, mức giá cả, thời gian và không gian mà người mua có nhu cầu; điều tiết (kích thích, kìm hãm, chuyển đổi) sản xuất, lưu thông và tiêu dùng thông qua các quyết định của những người tham gia thị trường. - Thị trường có thể chia thành nhiều loại, do dựa trên nhiều tiêu thức khác nhau. Luận văn lấy tiêu thức quá trình tái sản xuất để phân loại. Theo tiêu thức này, có thể chia thị trường thành 2 nhóm loại cơ bản: Nhóm thị trường các yếu tố sản xuất gắn với đầu vào và thị trường hàng hóa,dịch vụ gắn với đầu ra của sản xuất. - Nhóm thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm: Thị trường tư liệu sản xuất; thị trường tài chính; thị trường sức lao động; thị trường bất động sản; thị trường công nghệ... - Nhóm thị trường hàng hóa, dịch vụ, gắn với đầu ra của sản xuất. dưới góc độ thị trường "mở" có thể chia thành: Thị trường trong nước; thị trường 13
- ngoài nước được thực hiện thông qua tiêu thụ trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài và xuất khẩu tại chỗ thu ngoại tệ. * Khái niệm thị trường công nghệ Lịch sử cho thấy từ trước đại chiến thế giới lần thứ hai, những điều kiện cho sự ra đời của thị trường công nghệ chưa chín muồi, lúc này bí mật của những thành tựu khoa học kỹ thuật đang ngự trị, nên việc chuyển giao kỹ thuật công nghệ thông qua thị trường chưa được phát triển. Sự xuất hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại từ những năm 40 của thế kỷ XX, nhất là từ những năm 70 lại đây, đã làm cho khoa học - công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đúng như dự báo của CMác khi phân tích giai đoạn máy móc đại công nghiệp ở nước Anh vào 60 năm đầu của thế kỷ XIX [36]. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, mà sự tác động của nó đã làm xuất hiện đặc trưng thời gian cho một phát minh khoa học công nghệ mới thay thế cho thế hệ kỹ thuật công nghệ cũ rút ngắn lại và hao mòn tài sản cố định diễn ra nhanh hơn, kinh tế tri thức - một biểu hiện mới đạt trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xuất hiện - cùng với xu thế toàn cầu hoá hình thành và phát triển. Trong bối cảnh đó, sự hình thành và phát triển thị trường công nghệ trở nên tất yếu không thể thiếu được trong tính đồng bộ của nền kinh tế thị trường hiện đại. Các nước có trình độ kinh tế phát triển, thị trường công nghệ đạt trình độ phát triển cao về quy mô, tốc độ và phong phú về nội dung. Chẳng hạn vấn đề sở hữu trí tuệ, các hoạt động dịch vụ thông tin, tư vấn phát triển khá nhanh, đặt biệt phải kể đến là hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các ngành, các vùng và giữa các quốc gia với nhau. Có thể nói, trong thời đại hiện nay, nhất là trong nền 14
- kinh tế thị trường hiện đại, TTCN hình thành và phát triển là một tất yếu khách quan. Như đã phân tích ở trên về khái niêm, mối quan hệ và sự khác nhau giữa khoa học và công nghệ và sự luận giải về hàng hóa công nghệ, trong luận văn này chúng tôi không sử dụng khái niệm thị trường khoa học công nghệ theo nghĩa rộng mà sử dụng khái niệm thị trường công nghệ theo nghĩa hẹp. - Thị trường công nghệ theo nghĩa rộng là tổng thể quan hệ trao đổi, giao dịch để biến thành quả nghiên cứu khoa học và công nghệ trở thành hàng hóa và trở thành lực lượng sản xuất hiện thực. Xét về cơ cấu, nó bao gồm toàn bộ quá trình từ triển khai hàng hóa công nghệ đến ứng dụng và lưu thông hàng hóa công nghệ; do các bên bán, bên mua và trung gian tiến hành như triển khai, chuyển giao công nghệ, tư vấn công nghệ và dịch vụ công nghệ, toàn bộ lĩnh vực và các khâu lưu thông thành quả khoa học và công nghệ. - Thị trường công nghệ theo nghĩa hẹp thể hiện rõ trong khái niệm dịch vụ khoa học và công nghệ. Thị trường công nghệ tuy còn có một số cách hiểu khác nhau, song có thể hiểu: Thị trường công nghệ là một phương thức thương mại hóa các thành quả khoa học công nghệ, liên kết có hiệu quả giữa khoa học với sản xuất kinh doanh, là lĩnh vực trao đổi mua bán hàng hóa công nghệ, tư vấn, môi giới, giám định, thưởng phạt, khiếu kiện giữa các chủ thể tham gia trên thị trường công nghệ. - Phân loại thị trường công nghệ - Theo hình thức sở hữu, các chủ thể có các cá nhân, doanh nghiệp hoặc các công ty hoạt động trong các thành phần kinh tế. - Theo hình thức mua bán, có các hình thức thị trường như: mua bán có giấy phép, hợp tác nghiên cúưu phát triển, công trình chìa khóa trao tay, uỷ thác triển khai. 15
- - Theo tổ chức TTCN, có chợ giao dịch, chợ gọi thầu các vấn đề khó, chợ công bố thông tin khoa học và công nghệ, cửa hàng công nghệ... - Theo phạm vi, có TTCN trong nước, TTCN quốc tế, TTCN khu vực, TTCN địa phương. * Đặc trưng của thị trường công nghệ Là một bộ phận trong hệ thống thị trường, song thị trường công nghệ lại có những đặc trưng riêng: Một là, hàng hoá trao đổi trên thị trường công nghệ không giản đơn là trùng hợp với các yếu tố cấu thành khoa học và công nghệ, mà là những tri thức đã kết tinh trong các phát minh, sáng chế, giải pháp công nghệ. Việc tạo ra những loại hàng hoá này có những đặc trưng khác với những hàng hoá và dịch vụ thông thường khác: có trường hợp trải qua thời gian rất dài trong đó có những thất bại với nhiều phí tổn lớn; có trường hợp lại nảy sinh từ những hiện tượng, những quan sát mang tính ngẫu nhiên. Trong tất cả các trường hợp, việc xác định hao phí lao động để tạo ra hàng hoá là công việc hết sức khó khăn, thậm chí khó có thể xác định chính xác được hết giá trị của nó. Hai là, người cung ứng hàng hóa trên thị trường này là tất cả những người có khả năng tạo ra được hàng hoá công nghệ để đem ra trao đổi trên thị trường. Theo nghĩa đó, người cung ứng hàng hoá công nghệ có thể là: - Các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ nơi tập trung các nhà khoa học trình độ cao với những trang thiết bị hiện đại chuyên nghiên cứu đưa ra những phát minh có tính đón đầu hoặc theo yêu cầu các doanh nghiệp các tổ chức khác. - Các doanh nghiệp sử dụng lực lượng của mình hoặc liên kết với các tổ chức, các cá nhân khác tạo ra thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ yêu cầu 16
- của chính mình và chuyển nhượng quyền sở hữu thành tựu đó cho các chủ thể khác theo đúng các nguyên tắc của trao đổi hàng hoá trên thị trường. - Các cá nhân có trình độ khác nhau tạo ra được những phát minh, sáng chế mới bằng năng lực bằng sự say mê của mình. Họ giữ quyền sở hữu sáng chế đó và chuyển nhượng cho chủ thể khác theo các nguyên tắc trao đổi hàng hoá trên thị trường. - Nhập khẩu hàng công nghệ từ bên ngoài để lưu thông trên thị trường này bằng các phương thức và hình thức khác nhau. Ba là, người mua hàng hoá để tiêu dùng trên thị trường công nghệ này là tất cả các chủ thể (cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và xã hội) có nhu cầu phát triển và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ để đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển. Họ không có khả năng tự đáp ứng yêu cầu của mình và phải tìm mua trên thị trường hàng hoá công nghệ mà mình cần. Bốn là, môi trường pháp lý bảo đảm cho sự trao đổi hàng hoá này trên thị trường công nghệ diễn ra trong khuôn khổ pháp luật. Điều này thể hiện trực tiếp vai trò của Nhà nước đối với việc hình thành và phát triển TTCN, trong đó quan trọng hàng đầu là các văn bản pháp qui thừa nhận sản phẩm khoa học - công nghệ có đủ tư cách là hàng hoá, các văn bản pháp qui về đăng ký phát minh sáng chế và sở hữu trí tuệ, đăng ký kinh doanh hànhg hóa công nghệ... Năm là, quan hệ cung cầu về hàng hoá công nghệ diễn biến gắn với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có áp lực cạnh tranh trên thị trường và trình độ phát triển các hoạt động nghiên cứu, sáng chế và phát minh. Do trình độ khoa học và công nghệ là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, nên áp lực cạnh tranh càng mạnh, nhu cầu đổi mới và nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của các doanh nghiệp, các tổ chức càng cao, nhu cầu với hàng hoá này, do vậy càng mở rộng. Cũng như các 17
- hàng hoá vật chất khác, mỗi hàng hoá công nghệ có chu kỳ sống riêng, tốc độ phát triển khoa học và công nghệ càng cao, chu kỳ sống hàng hoá công nghệ càng ngắn, sự nảy sinh nhu cầu mới sẽ là quá trình phát triển không có giới hạn. Từ những đặc trưng đó, đối chiếu với thực tiễn có thể thấy rằng Việt Nam chưa có TTCN theo nghĩa đầy đủ. Các yếu tố cấu thành thị trường này còn ở trình độ sơ khai, tự phát. Chính đây là một trong những nguyên nhân hạn chế sự phát triển khoa học và công nghệ, chậm nâng cao năng lực cạnh tranh và chủ động hội nhập kinh tế của nước ta thời gian qua. * Sự sự cần thiết và lợi ích của việc hình thành và phát triển TTCN - Sự cần thiết + Việc phát triển TTCN càng nhanh và trình độ càng cao có tác dụng to lớn đối với sự tiến bộ khoa học công nghệ, làm thay đổi mang tính nhảy vọt về chất lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với nhịp độ nhanh và theo hướng ngày càng hợp lý, hiệu quả và hiện đại. + Hình thành và phát triển TTCN còn do yêu cầu phải thực hiện quan điểm CNH - HĐH phát triển theo con đường rút ngắn hiện đại. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt” [16, tr.91]. + Sự hình thành và phát triển TTCN còn do yêu cầu phải tạo lập đồng bộ các yếu tố, các loai thị trường trong quá trình xây dựng và phát triển nhanh nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta Sự chậm trễ trong việc hình thành và phát triển TTCN là một trong những nguyên nhân làm cho thị trường nước ta hình thành và phát triển chậm, thiếu đồng bộ. + Hình thành và phát triển TTCN, còn là sự cần thiết để thúc đẩy nghiên cứu, sáng tạo, phát minh những thành tựu khoa học, đến lượt nó lại là nguyên 18
- nhân thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ở các nước đang phát triển trong đó có nước ta, thị trường này mới bắt đầu sơ khai, do vậy trong thời gian tới cần khẩn trương tổ chức TTCN, thực hiện bảo hộ sở hữu trí tuệ; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ về thông tin, tư vấn và chuyển giao công nghệ... + Cuối cùng sự hình thành và phát triển nhanh chóng TTCN còn do yêu cầu phải nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa, sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế nhanh chóng và hiệu quả. - Lợi ích Sự hình thành và phát triểnTTCN không chỉ là sự cần thiết khách quan mà còn đem lại nhiều lợi ích sau đây: + Về phía cung, sự hình thành và phát triển thị trường này đem lại lợi ích cho cả 3 phía: Nhà nước giảm bớt tình trang bao cấp, giảm gánh nặng chi ngân sách, đồng thời có thể tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua thu thuế trên thị trường này. Tăng khả năng đầu tư vốn cho nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng và khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học, từ đó nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của các nhà nghiên cứu khoa học. Thông qua đòn bẩy lợi ích phát huy tác dụng của các doanh nghiệp trong môi giới, tư vấn và kinh doanh hàng hóa công nghệ trên TTCN. Về phía cầu, sự hình thành và phát triển TTCN đem lại lợi ích cho người mua và sử dụng hàng hóa công nghệ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, hội mhập đứng vững và chiến thắng trên thương trường trong nước và quốc tế. Tất nhiên để lợi ích về phía cầu thành hiện thực, thì vai trò nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt. Trong đó đáng chú ý là nhà 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn