ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ------ TẠ ĐỨC THANH

NÂNG CAO VAI TRÒ NHÀ NƢỚC

TRONG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Hà Nội – 2010

MỤC LỤC

Trang

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng MỞ ĐẦU Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

i iii 1 7 7 1.1. Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo 7 1.1.1. Nghèo đói 15 1.1.2. Xóa đói giảm nghèo 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xóa đói giảm nghèo 19 1.2. Vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo 26 27 1.2.1. Định hướng và mục tiêu xóa đói giảm nghèo 29 1.2.2. Chính sách và chương trình xóa đói giảm nghèo 31 1.2.3. Tổ chức thực hiện xóa đói giảm nghèo 33 1.2.4. Kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện xóa đói giảm nghèo 34 1.3. Một số chính sách và chƣơng trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam 34 1.3.1. Đặc điểm nghèo đói ở Việt Nam 36 1.3.2. Các chính sách và chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam 45 1.3.3. Kết quả xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam Chƣơng 2

47 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở LẠNG SƠN

2.1. Thực trạng và nguyên nhân nghèo đói ở Lạng Sơn. 2.1.1. Thực trạng nghèo đói ở Lạng Sơn 47 47

2.1.2. Nguyên nhân nghèo đói ở Lạng Sơn 49

2.2. Vai trò của nhà nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở 52 Lạng Sơn

2.2.1. Định hướng và mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn 52

2.2.2. Chính sách và chương trình xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn

2.2.3. Tổ chức thực hiện xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn 54 71

74

75

2.2.4. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện xóa đói giảm nghèo ở Lạng sơn 2.3. Đánh giá chung về vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn 2.3.1. Những thành tựu cơ bản 2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế Chƣơng 3 75 81 87

88

88

88

93

96 ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC NÂNG CAO VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở LẠNG SƠN 3.1. Bối cảnh kinh tế mới và định hƣớng nâng cao vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn 3.1.1. Bối cảnh kinh tế mới 3.1.2. Định hướng nâng vai trò của Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

3.2.1. Hoàn thiện chương trình, mục tiêu về xóa đói giảm nghèo 96 phù hợp với điều kiện thực tế ở Lạng Sơn

3.2.2. Hoàn thiện các chính sách, chương trình về xóa đói giảm 98 nghèo ở Lạng Sơn

100

106 3.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ cán bộ quản lý kinh tế nói chung và cán bộ trực tiếp thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo nói riêng 3.2.4. Nâng cao hiệu quả thực hiện và kiểm tra, giám sát công tác xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn

3.2.5. Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và đẩy mạnh phát 107 triển kinh tế hàng hóa ở Lạng Sơn

3.2.6. Đề ra những biện pháp phù hợp để chống lại tư tưởng ỷ lại, 110

112 113

trông chờ vào sự trợ giúp từ phía Nhà Nước của những hộ nghèo KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Các từ viết tắt Tiếng Việt

TT

VIẾT TẮT

NGHĨA ĐẦY ĐỦ

1 BCĐGN Ban chỉ đạo giảm nghèo

2 BHYT Bảo hiểm y tế

3 BLĐTBXH Bộ lao động thương binh xã hội

4 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

5 CNTB Chủ nghĩa tư bản

6 CNXH Chủ nghĩa xã hội

7 CSHT Cơ sở hạ tầng

8 CSXH Chính sách xã hội

9 CTMT Chương trình mục tiêu

10 CTMTQG Chương trình mục tiêu quốc gia

11 DTTS Dân tộc thiểu số

12 ĐBKK Đặc biệt khó khăn

15 HĐND Hội đồng nhân dân

14 KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình

15 KT-XH Kinh tế- Xã hội

16 LĐ-TB&XH Lao động- Thương binh và Xã hội

Ngân sách nhà nước 17 NSNN

Phát triển sản xuất- Phát triển nông nghiệp 18 PTSX-PTNN

Thanh niên cộng sản 19 TNCS

Ủy ban nhân dân 20 UBND

Xóa đói giảm nghèo 21 XĐGN

Xóa đói giảm nghèo- Việc làm 22 XĐGN-VL

i

Xuất khẩu lao động 23 XKLĐ

Xã hội chủ nghĩa 24 XHCN

Các từ viết tắt Tiếng Anh

TT

VIẾT TẮT

NGHĨA ĐẦY ĐỦ

ESCAP

1 Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á-Thái Bình Dương

2 UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc

3 ASEAN Hội hiệp các quốc gia Đông Nam Á

4 GDP Tổng sản phẩm trong nước

FDI

5 GNP Tổng sản phẩm quốc dân

IMF

6 Đầu tư trực tiếp nước ngoài

7 Quỹ Tiền tệ quốc tế

8 ODA Đầu tư gián tiếp

9 OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

10 USD Đô la Mỹ

11 WTO Tổ chức Thương mại thế giới

ii

12 WB Ngân hàng thế giới

DANH MỤC CÁC BẢNG

TRANG

NỘI DUNG

TT

45 1 Bảng 1.1: Tỷ lệ hộ nghèo tính theo %

2 47 Bảng 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo đói của Lạng Sơn so với cả nước và khu vực miền núi phía Bắc

3 55 Bảng 2.2: Tổng hợp chính sách, chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006-2010

56 4 Bảng 2.3: Kết quả cho vay chương trình tín dụng ưu đãi 2003- 2009

5 58 Bảng 2.4: Kết quả thực hiện chương trình hỗ trợ về nhà ở (2005- 2009)

6 59 Bảng 2.5: Chương trình hỗ trợ nước sạch sinh hoạt đồng bào dân tộc thiểu số (2005-2009)

7 61 Bảng 2.6: Tổng hợp nguồn vốn thực hiện chương trình 135 năm 2009

8 64 Bảng 2.7: Tổng hợp chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006- 2010

9 69 Bảng 2.8: Kết quả ủy thác cho vay qua các tổ chức Chính trị- Xã hội

78 10 Bảng 2.9: Kết quả giảm hộ nghèo giai đoạn 2006- 2009

iii

88 11 Bảng 3.1: Dự báo tăng trưởng GDP

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam được

thực hiện từ nhiều năm qua, đặc biệt là Chiến lược phát triển toàn diện về tăng

trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo phê duyệt tháng 5/2002, được coi là một

bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong

giai đoạn (2001-2010) và kế hoạch 5 năm (2001-2005), được tổ chức triển khai

và thực hiện đã mang lại cho đồng bào ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam

những công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, cải thiện một phần đời sống vật chất,

tinh thần cho đồng bào, góp phần tích cực giảm tỷ lệ đói nghèo, nâng cao niềm

tin của đồng bào vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước.

Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chương trình mang lại cũng còn

những vấn đề tồn tại, đó là hệ thống chính sách, chương trình, cơ chế về xóa đói

giảm nghèo, việc tổ chức thực hiện, công tác kiểm tra, giám sát... còn nhiều bất

cập, chưa thực sự phù hợp với điều kiện vị trí địa lý, phong tục tập quán... của

đại đa số đồng bào đang sinh sống nơi đây. Khối lượng vốn giành cho Chương

trình xóa đói giảm nghèo còn chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi, vấn đề đầu tư,

xây dựng cơ sở hạ tầng nhiều nơi còn chưa thực sự mang lại hiệu quả, đầu tư còn

tràn lan, lãng phí, thất thoát... Một trong những nguyên nhân của sự bất cập đó là

do vai trò của Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi

phía Bắc Việt Nam nói chung và ở Lạng Sơn nói riêng chưa thực sự được phát

huy. Điều đó cho thấy cần phải nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước trong

hoạt động xóa đói giảm nghèo để chương trình thực sự có hiệu quả và mang lại

lợi ích thiết thực cho người dân nơi đây.

Để góp phần bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao vai trò

1

của Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn mang lại hiệu

quả thiết thực, đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra, tác giả đã

chọn đề tài: “Nâng cao vai trò Nhà nước trong xóa đói giảm nghèo ở Lạng

Sơn” làm luận văn thạc sĩ của mình.

Câu hỏi nghiên cứu của đề tài là: Nhà nước có vai trò gì trong hoạt

động xóa đói giảm nghèo và giải pháp nào cho việc nâng cao vai trò của

nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn?

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Vấn đề nghèo đói và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam là vấn đề được

Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành cũng như nhiều cơ quan, nhà khoa học

quan tâm nghiên cứu. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX đến nay đã có

nhiều công trình khoa học, đề tài nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề

xóa đói, giảm nghèo được công bố, đáng chú ý là các công trình sau:

- Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới, (2004),

“Chính sách đất đai cho tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo”, Nxb. Văn hóa-

Thông tin.

- Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 với chủ đề “Nghèo” đã đánh

giá những thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, tồn tại

và hạn chế trong cách xách định chuẩn nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, các tiêu chí sử

dụng để xác định mức nghèo...

- Báo cáo phát triển Việt Nam hàng năm đều có đánh giá về hoạt động

xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam và chỉ ra các thách thức phát triển.

- TS. Lê Xuân Bá (cùng tập thể tác giả) (2001), “Nghèo đói và xóa đói,

giảm nghèo ở Việt Nam”, Nxb. Nông nghiệp.

- Cuốn sách “Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực

hiện” do PGS-TS Trần Đình Hoan chủ biên (nhà xuất bản Chính trị quốc gia -

1996) đã đưa ra những luận cứ khoa học để nghiên cứu đổi mới chính sách xã

2

hội và cơ chế quản lý, trong đó có chính sách về xóa đói giảm nghèo.

- Vũ Minh Cường (2003), “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu

nhằm xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang”, Luận văn tốt nghiệp cử nhân

chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

- Trần Đình Đàn (2002), “Những giải pháp kinh tế- xã hội chủ yếu

nhằm xóa đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh”, Luận án tiến sỹ Kinh doanh và quản

lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

- Hoàng Thị Hiền (2005), “Xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân

tộc ít người tỉnh Hòa Bình- Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ Kinh

tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

- Thái Văn Hoạt (2007), “Giải pháp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn

tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Kinh doanh và

quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

- Năm 2007, Trung tâm thông tin và dự báo quốc gia - Bộ Kế hoạch và

Đầu tư đã xuất bản cuốn sách “Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt

Nam - Thành tựu, thách thức và giải pháp”, đói nghèo, thành tựu công cuộc

xóa đói giảm nghèo và đưa ra những giải pháp cụ thể để đẩy nhanh công cuộc

xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.

- Mai Sơn (2008), “Hoàn thiện chính sách xã hội nông thôn trong phát

triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, trường Đại học Kinh

tế quốc dân cũng đề cập đến chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.

Ngoài ra còn nhiều bài báo, tạp chí viết về vấn đề xóa đói, giảm nghèo

như: TS. Đàm Hữu Đắc, “Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt Nam thực trạng

và giải pháp”, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 272, tháng 10/2005;

TS.Nguyễn Hải Hữu, “Hướng tới giảm nghèo toàn diện, bền vững, công bằng

và hội nhập”, Tạp chí Cộng sản, số 9, tháng 5/2006,...

Đồng thời, còn nhiều công trình khoa học khác nghiên cứu vấn đề xóa

3

đói, giảm nghèo ở nhiều khía cạch khác nhau. Có thể khẳng định, các công

trình nghiên cứu về đói nghèo và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam là rất

phong phú. Thành quả của những công trình đã cung cấp những luận cứ khoa

học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai công tác xóa đói, giảm nghèo trên

toàn quốc và từng địa phương.

Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách độc lập và cụ

thể về vai trò của nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở địa

phương Lạng Sơn. Đó chính là lý do tác giả luận văn chọn đề tài nghiên cứu:

“Nâng cao vai trò Nhà nước trong xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn”.

Trên thực tế, kinh nghiệm các nước cho thấy sự thiếu vắng vai trò của

Nhà nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, cộng đồng nghèo; vì người

nghèo không tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa trong thành quả

chung của tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, Nhà nước có vai trò

nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ

chức chính trị, kinh tế, xã hội.

Biết rằng, để thoát nghèo thì trước tiên đó là việc của người nghèo, Nhà

nước không dùng biện pháp cứu trợ đơn thuần, sẽ dẫn đến sự ỷ lại của người

nghèo. Phải để người nghèo tự khơi dậy tiềm năng của mình, ý thức vươn lên

thoát nghèo. Tuy nhiên, để người nghèo nhận thức được vấn đề nghèo đói và có

ý thức tự vươn lên thoát nghèo thì trước tiên cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

*Mục đích: Vận dụng lý luận về vai trò của Nhà nước trong hoạt động

xóa đói giảm nghèo để đánh giá những thành công cũng như những hạn chế

về vai trò Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo tại Lạng Sơn. Từ đó

đề xuất những giải pháp có căn cứ khoa học và có tính khả thi nhằm nâng cao

vai trò Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn một cách

4

hiệu quả.

*Nhiệm vụ:

- Hệ thống hóa lý luận về xóa đói, giảm nghèo và về vai trò của Nhà

nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo.

- Phân tích, đánh giá thực trạng về vai trò Nhà nước trong hoạt động

xóa đói giảm nghèo tại Lạng Sơn.

- Đề xuất và luận cứ có cơ sở khoa học về giải pháp nhằm nâng cao vai

trò Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

*Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của Nhà nước trong hoạt động xóa đói

giảm nghèo.

*Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi không gian: Vai trò của các cấp chính quyền địa phương ở

Lạng Sơn.

Phạm vi thời gian: Từ năm 2001, nhưng chủ yếu từ 2006 đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Tác giả luận văn kế thừa các công trình đã nghiên cứu để hệ thống

hóa lý luận về xóa đói giảm nghèo và khái quát thực tiễn xóa đói giảm nghèo

ở Việt Nam.

- Luận văn sử dụng các số liệu của Chi cục thống kê Lạng Sơn, các Báo

cáo thường kỳ của Sở lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Lạng Sơn để

phân tích, đánh giá thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

- Trên cơ sở phân tích những hạn chế và nguyên nhân về vai trò của

nhà nước ở Lạng Sơn, kết hợp với việc dự báo tình hình mới, luận văn đưa ra

những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong hoạt động

5

xóa đói giảm nghèo.

6. Những đóng góp của luận văn

- Luận văn làm rõ hơn lý luận và thực tiễn Việt Nam về đói nghèo, xóa

đói giảm nghèo và vai trò của nhà nước trong XĐGN.

- Nhận diện rõ vai trò của Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm

nghèo ở Lạng Sơn.

- Đưa ra những đề xuất, những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò

của Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,

luận văn kết cấu thành 3 chương.

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước trong

hoạt động xóa đói giảm nghèo.

Chƣơng 2: Thực trạng vai trò của Nhà nước trong hoạt động xóa đói

giảm nghèo ở Lạng Sơn.

Chƣơng 3: Định hướng và giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao vai trò

6

Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC

TRONG HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

1.1. Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo.

1.1.1. Nghèo đói

1.1.1.1. Các khái niệm

* Nghèo đói

Hiện nay, nghèo đói không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia, mà là

vấn đề có tính toàn cầu, bởi lẽ ở tất cả các quốc gia trên thế giới, kể cả những nước

giàu như Mỹ, Đức, Nhật... người nghèo vẫn còn và khó có thể hết người nghèo

khi trong các xã hội chưa thể chấm dứt những rủi ro về kinh tế, xã hội, môi trường

và sự bất bình đẳng trong phân phối của cải làm ra. Rủi ro quá nhiều trong sản

xuất và đời sống làm cho một bộ phận dân cư rơi vào tình trạng đói nghèo.

Vì vậy, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà đã

trở thành vấn đề quốc tế. Để giải quyết vấn đề đói nghèo cần phải có quan

niệm đúng về nó. Do mỗi quốc gia có trình độ phát triển kinh tế xã hội, điều

kiện địa lý tự nhiên, trình độ dân trí, văn hóa, chính trị khác nhau, nên mỗi

quốc gia lại có cách làm và giải pháp khác nhau. Thậm chí ngay trong một

quốc gia ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử cũng có sự khác nhau. Điều đó

đã dẫn đến có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo.

Chúng ta thường thấy một số khái niệm về nghèo như: đói nghèo,

nghèo khổ, giàu nghèo, phân hóa giàu nghèo hay khoảng cách giàu nghèo,

những khái niệm này được các học giả, các nhà khoa học định nghĩa dưới

nhiều góc độ, khía cạch khác nhau như nghèo về vật chất, nghèo về tri thức,

nghèo về văn hóa... Mặt khác, bên cạnh khái niệm nghèo, còn sử dụng khái

niệm đói để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Chính vì

7

vậy, hiện nay chúng ta thường thấy khái niệm kép đói nghèo hoặc nghèo đói.

Đói nghèo là một hiện tượng tồn tại ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Nó

là một khái niệm rộng, luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Đến nay,

nhiều nhà nghiên cứu và các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác

nhau, trong đó có khái niệm khái quát hơn cả được nêu ra tại Hội nghị bàn về

xóa đói giảm nghèo ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức

tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã thống

nhất cho rằng: “Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được

hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa

nhận, tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của

từng địa phương”[49,tr.9]. Đây là khái niệm khá đầy đủ, toàn diện về đói

nghèo, được nhiều nước trên thế giới nhất trí sử dụng, khái niệm này đã phân

định đói nghèo theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán

của từng địa phương. Nhưng các tiêu chí và chuẩn mực về mặt lượng hóa

chưa được xác định vì còn phải tính đến sự chênh lệch về điều kiện tự nhiên,

xã hội và trình độ phát triển của mỗi vùng, miền khác nhau.

Dựa vào những khái niệm chung do các tổ chức quốc tế đưa ra và căn cứ vào

thực trạng kinh tế xã hội ở Việt Nam, trong chiến lược toàn diện về tăng trưởng và

XĐGN đến năm 2005 và 2010, Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo

do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á -Thái Bình Dương do ESCAP tổ

chức tại Băng Cốc (Thái Lan) tháng 9/1993. Đồng thời vấn đề đói nghèo ở Việt

Nam còn được nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau như cá nhân, hộ gia đình và

cộng đồng, nên đói nghèo còn được phân theo hai cấp độ: đói và nghèo.

* Đói: là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới

mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì

cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai

tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Hay có thể

8

nói đói là một nấc thấp nhất của nghèo.

Tài liệu của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội đã phân loại đói làm

hai dạng (theo mốc đánh giá năm 1993):

Thiếu đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập dưới mức

thu nhập là 12kg gạo/người/tháng. Hay là tình trạng của một bộ phận dân cư ở

nông thôn có thu nhập dưới mức 20.400 đồng/người/tháng và ở thành thị là

24.500 đồng/người/tháng.

Đói gay gắt: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập

dưới mức 8 kg gạo/người/tháng và ở thành thị là 16.300 đồng/người/tháng.

Ngoài ra còn có khái niệm khác nhằm làm rõ hơn tình trạng đói ở

Việt Nam.

Đói kinh niên: (tương ứng với đói truyền từ đời này qua đời khác) là bộ

phận dân cư đói nhiều năm liền cho tới thời điểm đang xét.

Đói cấp tính: (hay còn gọi là nghèo mới) là bộ phận dân cư rơi vào tình

trạng đói đột xuất vì nhiều nguyên nhân như phá sản hoặc gặp các rủi ro như

thiên tai, dịch bệch khác tại thời điểm xét.

* Nghèo

Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo thành hai loại:

nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.

Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng

và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người mà những nhu cầu

này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và

phong tục tập quán của địa phương.

Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức

trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định. Khái niệm

nghèo tương đối gắn liền với sự chênh lệch về mức sống của một bộ phận dân

9

cư với mức sống trung bình của địa phương trong một thời kỳ nhất định. Vì

vậy, việc xóa dần nghèo tuyệt đối là có thể làm, nhưng nghèo tương đối là

hiện tượng thường có trong xã hội và vấn đề ở đây là rút ngắn khoảng cách

giàu nghèo, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội.

Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa

vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc

cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người

thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.

Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ

thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo

tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ

thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất

(tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan

trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa-xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã

hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một

thách thức xã hội nghiêm trọng.

Năm 1998, UNDP công báo một bản báo cáo nhan đề “Khắc phục sự

nghèo khổ của con người” đã đưa ra định nghĩa về nghèo như sau:

Sự nghèo khổ của con người: Thiếu những quyền cơ bản của con người

như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.

Sự nghèo khổ về tiền tệ: Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả

năng chi tiêu tối thiểu.

Sự nghèo khổ cực độ: Nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng

thỏa mãn những nhu cầu cơ bản tối thiểu.

Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác

định như sự không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu lương thực và phi

lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở

10

những nước khác nhau.

Sự nghèo khổ tương đối: Sự nghèo khổ được xác định theo những

chuẩn mực có thể thay đổi với thời gian ở nước này hay nước khác. Ngưỡng

này có thể tăng lên đồng thời với thu nhập.

Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định bằng một chuẩn

mực nhất định. Chẳng hạn như ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là

1USD/người/ngày.

Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra khái niệm:

Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ hàng hóa

lương thực hàng ngày và được gọi là “ngưỡng nghèo về lương thực, thực

phẩm”. Ngưỡng nghèo này thường thấp bởi vì nó không tính đến số tiền chi

tiêu cho những sản phẩm phi lương thực khác.

Ngưỡng nghèo thứ hai là “ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả chi tiêu

cho lương thực, thực phẩm và chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực.

Xuất phát từ nhu cầu calo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể

trạng con người: WB đã đưa ra con số phổ biến được sử dụng là 2.100 Kcal

cho một người mỗi ngày. Mỗi gia đình Việt Nam phải mất bao nhiêu tiền để

mua được một rổ hàng hóa lương thực đủ để cung cấp 2.100 Kcal cho mỗi

người một ngày. Vì vậy, nghèo theo định nghĩa của WB là những hộ không

có khả năng chi trả cho số hàng hóa lương thực của mình để đủ cung cấp

2.100 Kcal cho mỗi người một ngày [42, tr48-49].

1.1.1.2. Mức chuẩn đánh giá nghèo đói

* Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế:

Chuẩn nghèo là thước đo để xác định ai nghèo, ai không nghèo, điều

này có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước có thể xác định được đối tượng cần

trợ giúp; hoạch định chính sách và các giải pháp trợ giúp và tổ chức thực hiện

giúp đối tượng tiếp cận với các chính sách trợ giúp.

11

Có 2 phương pháp xác định chuẩn nghèo:

Thứ nhất, phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào nhu cầu chi tiêu.

Là phương pháp do Ngân hàng thế giới khởi xướng. Nội dung cơ bản của

phương pháp này là dựa vào nhu cầu chi tiêu để bảo đảm các nhu cầu cơ bản

của con người (ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội).

Công thức tính: CNj =(CLTTPj-1 * CSG + CLTTPj-1): 70*100

Trong đó: CNj: chuẩn nghèo năm thứ j

CLTTPj-1: chi tiêu cho lương thực thực phẩm

CSG: tốc độ giá gia tăng của rổ hàng hóa

Chia 70*100: chi tiêu cho lương thực thực phẩm chiếm 70%

tổng chi tiêu.

Theo phương pháp này, Ngân hàng thế giới đã tính toán và đưa ra

khuyến nghị chuẩn nghèo đói cho các quốc gia vào những năm cuối của thập

kỷ trước như sau:

- Đối với nước nghèo: các cá nhân bị coi là nghèo đói khi có thu nhập

dưới 0,5USD/ngày

- Đối với các nước đang phát triển là 1USD/ngày

- Các nước thuộc Châu Mỹ la tinh và Caribe là 2USD/ngày

- Các nước Đông âu là 4USD/ngày

- Các nước phát triển là 14,4USD/ngày

Thứ hai, phương pháp xác định chuẩn nghèo dựa vào so sánh thu nhập

bình quân đầu người của các hộ gia đình. Theo phương pháp này người nghèo

là người có thu nhập bằng 1/2 hoặc 1/3 thu nhập bình quân xã hội.

Ở Việt Nam chuẩn nghèo được lấy bằng khoảng giữa 1/2 và 1/3 thu

nhập bình quân đầu người của hộ gia đình.

Công thức tính như sau: CNj =(TNj/2 + TNj/3): 2

Trong đó: CNj: chuẩn nghèo năm thứ j

12

TNj: thu nhập bình quân đầu người của các hộ gia đình năm thứ j

Phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo:

Song song với hai phương pháp xác định chuẩn nghèo cơ bản nêu trên,

có hai phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo theo từng thời kỳ phát triển kinh

tế - xã hội của các quốc gia, vùng lãnh thổ.

Thứ nhất, phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo theo giá cả thực tế. Là

phương pháp điều chỉnh giá cả của rổ hàng hóa, giá cả các mặt hàng phi

lương thực, thực phẩm cho phù hợp với thực tế.

Thứ hai, phương pháp điều chỉnh chuẩn nghèo theo lạm phát: lấy chuẩn

nghèo đã được xác định nhân với chỉ số lạm phát cùng thời kỳ tương ứng.

* Mức chuẩn nghèo đói đối với Việt Nam:

Bộ Lao động Thương binh - Xã hội là cơ quan thuộc Chính phủ được

Nhà nước giao trách nhiệm nghiên cứu và công bố chuẩn nghèo của cả nước

qua từng thời kỳ.

* Giai đoạn 1993- 1995, với yêu cầu cấp bách về chỉ đạo XĐGN, Bộ

LĐ- TB&XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo của cả nước như sau:

- Hộ đói ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người

quy ra gạo là dưới 8kg/người/tháng.

- Hộ đói ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu người quy

ra gạo là dưới 13kg/người/tháng.

- Hộ nghèo ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người

quy ra gạo là dưới 15kg/người/tháng.

- Hộ nghèo ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu người

quy ra gạo là dưới 20kg/người/tháng.

* Giai đoạn 1996- 1997:

- Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo là dưới

13

13kg/người/tháng cho mọi vùng.

- Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo là

dưới 20kg/người/tháng đối với khu vực thành thị và dưới 15kg/người/tháng

đối với khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo.

* Giai đoạn 1998- 2000: Theo thông báo số 1751/LĐ- TB&XH như sau:

- Hộ đói: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 13kg gạo tương

ứng 45.000đ/người/tháng.

- Hộ nghèo: Là hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo như sau:

+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương

đương 55.000đ)

+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương

đương 70.000đ)

+ Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000đ)

* Giai đoạn 2001- 2005: Theo Quyết định 1143/QĐ.LĐ- TB&XH ngày

01/11/2000 thì chuẩn hộ nghèo được điều chỉnh theo chuẩn mức thu nhập

bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như sau:

- Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân theo vùng

+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: Dưới 80.000đ/người/tháng.

+ Vùng nông thôn đồng bằng: Dưới 100.000đ/người/tháng.

+ Vùng thành thị: Dưới 150.000đ/người/tháng.

- Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên và chưa đủ cơ sở hạ

tầng thiết yếu (điện, đường, trường, trạm, nước sạch, chợ).

Ngân hàng thế giới dựa theo mức nhu cầu calo tiêu thụ hàng ngày là

2.100 Kcal/người/ngày và đồng thời cũng tính đến việc thay đổi giá cả theo

từng vùng của một số nhóm hàng hóa lương thực, thực phẩm thiết yếu đã đưa

ra một tiêu chuẩn để đánh giá nghèo đói tại Việt Nam là:

14

Tính bình quân: 1.090.000 đồng/người/năm

Tính riêng: Đô thị là 1.203.000 đồng/người/năm

Nông thôn là 1.040.000 đồng/người/năm

* Giai đoạn 2006- 2010: Theo Quyết định số 170/2005/QĐ- TTg ngày

8/72005 của Thủ tướng Chính phủ, chuẩn nghèo giai đoạn này được nâng lên

cho phù hợp với mức sống đã được nâng lên của nhân dân, số hộ nghèo theo

tiêu chí cũ đã giảm đáng kể, đồng thời đưa ra chuẩn đói nghèo mới để gần với

chuẩn đói nghèo quốc tế:

- Vùng nông thôn: 200.000đ/người/tháng;

- Vùng thành thị 260.000đ/người/tháng;

Với chuẩn nghèo này, cả nước còn 22% hộ nghèo, tập trung chủ yếu ở

các tỉnh miền núi, biên giới, Tây Nguyên.

Tuy còn một số hạn chế nhưng cách tính chuẩn nghèo của Bộ Lao

động- Thương binh và Xã hội là tương đối phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam

hiện nay, dựa vào đó các địa phương có thể thống kê số hộ nghèo, để có giải

pháp và hỗ trợ cần thiết.

1.1.2. Xóa đói, giảm nghèo

1.1.2.1. Khái niệm

Xóa đói là hoạt động làm cho bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới

mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì

cuộc sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ

để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.

Giảm nghèo là hoạt động làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức

sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số

lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình

15

chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn [29,tr.39].

Ở khía cạch khác giảm nghèo là việc chuyển từ tình trạng con người có

ít điều kiện để lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn

nhằm cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.

Nói giảm nghèo là trong đó bao hàm xóa đói, không xóa đói thì không thể

giảm nghèo và cũng giống khái niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo cũng chỉ là

tương đối. Bởi, đói nghèo có thể tái sinh khi chuẩn nghèo thay đổi, hoặc có sự

tác động của thiên tai, lạm phát, khủng hoảng... Vì vậy, việc đánh giá mức độ

giảm nghèo cần được xem xét trong một không gian và thời gian nhất định.

Việt Nam hiện nay do nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ

nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại, vì vậy còn tồn tại đan xen nhiều

trình độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất cũ lạc hậu vẫn còn, trong khi

trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo. Do đó, trong các

tầng lớp dân cư vẫn còn có sự phân hóa giàu nghèo.

Như vậy, ở góc độ quốc gia, XĐGN chính là việc từng bước thực hiện

quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn tại trong xã hội,

sang trình độ sản xuất mới, hiện đại hơn. Ở góc độ người nghèo, giảm nghèo

là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn

lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn

hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo hiện tại.

1.1.2.2. Nội dung cơ bản của xóa đói, giảm nghèo

Thứ nhất, tăng thu nhập cho vùng nghèo, người nghèo

Khi đánh giá về vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các

nước khác nhau đều lựa chọn phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống

nhau. Nhìn chung các quốc gia đều căn cứ vào chỉ tiêu chính là thu nhập để

đánh giá. Như vậy tăng thu nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được

16

quan tâm, nhất là đối với công tác XĐGN.

Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu nhập

từ sức lao động, từ công việc trên mảnh đất của họ, từ tiền lương hay từ những

hình thức lao động khác. Sức lao động của người nghèo chỉ có thể được sử dụng

để đem lại thu nhập khi họ có việc làm. Vì thế việc làm ổn định, việc làm tốt là

cơ sở để người nghèo có thu nhập ổn định và nâng cao thu nhập.

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta hiện nay, XĐGN là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội

và tăng trưởng kinh tế bền vững; ngược lại, tăng trưởng kinh tế cao và bền vững

mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo điều kiện cho người nghèo. Mặt khác,

nếu lao động có sức khỏe, được đào tạo, bồi dưỡng tốt, môi trường kinh tế của

vùng nghèo được cải thiện thì năng suất lao động sẽ tăng lên, từ đó người nghèo

cũng dễ có cơ hội để tăng thu nhập và vươn lên thoát nghèo.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy vùng nghèo thường thiếu việc làm và năng

suất lao động thấp. Vì vậy, tăng năng suất lao động, tạo việc làm và tăng thu

nhập cho người nghèo, đẩy mạnh phát triển kinh tế cho vùng nghèo là nội

dung quan trọng hàng đầu trong các giải pháp XĐGN hiện nay.

Thứ hai, tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển và dịch vụ

công đối với người nghèo, vùng nghèo.

Phần lớn người nghèo tập trung ở nông thôn, nhất là vùng miền núi,

vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường xa trung tâm kinh tế và dịch vụ xã

hội, hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu và yếu hơn nhiều so với các vùng khác.

Phổ biến là tình trạng thiếu điện, thiếu nước sản xuất, nước sinh hoạt, thiếu

thông tin, thiếu chợ đầu mối, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu đất sản xuất và

thị trường, giao thông đi lại khó khăn v .v... Do đó, năng suất lao động thấp,

giá cả sản phẩm thấp do vận chuyển khó khăn. Chính vì vậy, cơ hội tự vươn

lên của người nghèo là rất hạn chế. Điều đó cho thấy việc giải quyết bài toán

17

XĐGN không dễ dàng, cần có thời gian.

Nghèo đói thường gắn liền với dân trí thấp do họ không có điều kiện để

học hành nâng cao trình độ hiểu biết. Dân trí thấp thì khó có khả năng tiếp thu

tiến bộ khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất và không có khả năng tiếp

cận với tiến bộ, văn minh của nhân loại nên dẫn đến nghèo về mọi mặt. Vì

vậy, để giảm nghèo phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho

người nghèo là giải pháp có tính chiến lược lâu dài.

Ngoài ra, công tác XĐGN phải tạo điều kiện giúp người nghèo tiếp cận

có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ tài chính, tín dụng và tiến bộ của

khoa học kỹ thuật, công nghệ.v.v... Hỗ trợ người nghèo về y tế để họ có điều

kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn, hạn chế được bệnh tật, từ đó có điều kiện tái

sản suất sức lao động, đây là yếu tố quan trọng để phát triển sản xuất. Người

nghèo thường thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, thiếu kinh nghiệm, đất sản xuất,

thiếu thông tin thị trường và thiếu kiến thức. Do vậy, hoạt động XĐGN phải

hỗ trợ cho người nghèo có được sự tiếp cận tốt hơn những yếu tố trên.

Thư ba, giảm thiểu sự tổn thương cho người nghèo để XĐGN mang

tính bền vững.

Trong thực tiễn người nghèo rất dễ bị tổn thương, bởi có nhiều hộ gia

đình sau khi thoát nghèo một thời gian nếu gặp thiên tai, tai nạn lao động, rủi

ro trong sản xuất, ốm đau, bệch tật...lại tái trở thành hộ nghèo. Ở nước ta, quá

trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa, cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trong thời gian qua đã

đạt được những thành tựu quan trọng, khẳng định sự đúng đắn của đường lối

đổi mới của Đảng ta, nhưng bên cạnh đó thì tình trạng phân hóa giàu nghèo

cũng gia tăng như một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển. Điều đó đã đặt

ra những thách thức lớn: một mặt, nếu không tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi

mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và thực hiện CNH, HĐH

18

thì không thể tồn tại, phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; nhưng mặt khác,

việc phát triển kinh tế thị trường tất yếu sự phân hóa giàu nghèo sẽ gia tăng

và trong khi đất nước giàu lên, nhiều người giàu lên thì sẽ có một bộ phận dân

cư đói nghèo.

Vì vậy, nhiệm vụ của công tác XĐGN không chỉ hỗ trợ để người nghèo

vượt qua ngưỡng nghèo một cách thụ động mà phải có giải pháp tích cực để

bản thân người nghèo chủ động vươn lên thoát nghèo vững chắc và tiến tới

trở thành hộ khá, hộ giàu. Đồng thời, Nhà nước phải có chính sách, giải pháp

giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và XĐGN. Trong

những trường hợp cần thiết phải có sự trợ giúp kịp thời, phải xây dựng chiến

lược XĐGN dài hạn.

Thứ tư, xóa đói giảm nghèo trước hết phải ưu tiên các đối tượng chính

sách, vùng cách mạng, gắn giải quyết vấn đề kinh tế với chính trị- xã hội.

Trong những năm qua kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu

vượt bậc, đời sống của đa số dân cư được cải thiện, Đảng và Nhà nước đã có

nhiều chính sách chăm lo đối với những gia đình chính sách có công với cách

mạng. Song vẫn còn một số vùng cách mạng, vùng dân tộc ít người có nhiều

hộ gia đình đã đóng góp lớn cho sự nghiệp cách mạng nhưng do hậu quả của

chiến tranh để lại họ đang phải chịu nhiều thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng

và cũng không đủ sức tiếp nhận những thành tựu của công cuộc đổi mới mang

lại. Vì thế, những giải pháp XĐGN tập trung cho đối tượng này vừa là yêu

cầu cấp thiết đối với mục tiêu phát triển bền vững, vừa mang tính nhân văn

sâu sắc thể hiện rõ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xóa đói giảm nghèo.

Có nhiều nhân tố tác động đến đói nghèo và XĐGN khác nhau. Khi

nghiên cứu tác động của các nhân tố đến XĐGN người ta có thể chia thành

19

các nhóm nhân tố sau:

1.1.3.1. Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên.

- Vị trí địa lý không thuận lợi: đó là những nơi xa xôi, hẻo lánh, giao

thông đi lại khó khăn. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ đói

nghèo cao. Bởi những vùng, địa phương có vị trí không thuận lợi dễ bị rơi vào

thế cô lập với bên ngoài, khó tiếp cận với những nguồn lực để phát triển như:

khoa học - công nghệ, tín dụng, thị trường... Do đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng,

nhất là phát triển hệ thống giao thông có ý nghĩa lớn đối với sự nghiệp XĐGN.

- Đất đai không thuận lợi cho sản xuất: đất canh tác ít, cằn cỗi, khó

canh tác, năng xuất cây trồng, vật nuôi đều thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến

sản xuất trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với những vùng

thuần nông. Thiếu đất sản xuất sẽ ảnh hưởng đến khả năng đảm bảo lương

thực cho người nghèo và khả năng đa dạng hóa sản xuất để hướng tới những

cây trồng có giá trị kinh tế cao, dẫn đến thu nhập của người nông dân thấp,

kéo theo việc tích lũy và tái sản xuất mở rộng bị hạn chế. Bởi vậy, người

nghèo lại tiếp tục nghèo, việc tìm kiếm giải pháp XĐGN cũng khó khăn hơn.

- Địa hình khó khăn: địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi sông suối và núi

đá, đất dốc... Những vùng có địa hình như vậy việc tổ chức sản xuất, kinh

doanh và dịch vụ gặp nhiều khó khăn. Đất bị xói mòn, dễ bị khô hạn, chi phí

sản xuất cao, hiệu quả sản xuất thấp.

- Điều kiện tự nhiên khắc nhiệt, hay găp thiên tai như: hạn hán, lũ lụt,

mưa bão, sương muối, lũ quét... Những vùng có điều kiện tự nhiên khắc

nghiệt, hay xảy ra thiên tai làm cho việc XĐGN thiếu cơ sở bền vững.

1.1.3.2. Nhóm nhân tố thuộc về kinh tế.

Ảnh hưởng không thuận lợi của những nhóm nhân tố thuộc về kinh tế

làm gia tăng đói nghèo và khó khăn đối với công tác XĐGN, nhóm nhân tố này

bao gồm: quy mô của nền kinh tế nhỏ bé, cơ cấu kinh tế lạc hậu, thị trường bị

20

bó hẹp, tốc độ tăng trưởng chậm, thu nhập của dân cư thấp, khả năng huy động

nguồn lực vật chất cho XĐGN khó khăn. Hơn nữa việc ưu tiên nhiều cho các

vùng kinh tế trọng điểm sẽ làm giảm nguồn lực đầu tư cho các vùng nghèo, kéo

theo việc hỗ trợ người nghèo giảm và phân hóa giàu nghèo tăng.

- Quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng tạo

điều kiện tiền đề để người nghèo có cơ hội vươn lên nhờ hưởng lợi từ kinh tế

mang lại. Mặt khác nhờ quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà Nhà

nước tăng nguồn thu, tăng tích lũy tạo sức mạnh vật chất để thực hiện tốt hơn

công tác XĐGN. Vì vậy, quy mô nền kinh tế lớn và tăng trưởng kinh tế cao,

bền vững là điều kiện quan trọng nhất để thực hiện XĐGN. Ngược lại, nếu

quy mô nền kinh tế nhỏ, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm thì khả năng tích lũy

sẽ gặp khó khăn, nguồn lực dành cho XĐGN hạn chế. Cùng với lực lượng sản

xuất ở trình độ thấp, cơ cấu kinh tế chậm tiến bộ, sản xuất nông nghiệp là chủ

yếu; cơ cấu sản xuất trong nền kinh tế chậm đổi mới, hàm lượng khoa học -

công nghệ trong sản phẩm thấp thì tỷ trọng giá trị gia tăng của sản phẩm là

nhỏ, khả năng cạnh tranh trên thị trường là thấp, làm cho thu nhập của người

lao động giảm và khả năng thoát nghèo là khó khăn.

- Thu nhập của dân cư thấp và phân hóa thu nhập lớn là một bất lợi lớn

đối với người nghèo và công tác XĐGN nói chung. Các cuộc điều tra mức

sống dân cư gần đây cho thấy chênh lệch giàu nghèo, thu nhập giữa các nhóm

dân cư ở nước ta hiện nay có xu hướng gia tăng.

- Khả năng huy động nguồn lực vật chất là yếu tố rất quan trọng quyết

định sự thành công khi thực hiện các mục tiêu XĐGN. Để thực hiện các mục

tiêu XĐGN trên diện rộng và đạt được kết quả nhanh thì Nhà nước và bản

thân các hộ nghèo đều phải có nguồn lực. Về phía Nhà nước cần có nguồn lực

đủ mạnh để thực hiện các chương trình hỗ trợ như: xây dựng kết cấu hạ tầng

thiết yếu cho xã nghèo, vùng nghèo; hỗ trợ các doanh nghiệp để chuyển dịch

cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tạo việc làm cho người lao động; hỗ

21

trợ trực tiếp cho hộ nghèo về đời sống khi gặp rủi ro, thiên tai và hỗ trợ phát

triển sản xuất thông qua các chương trình khuyến nông, đào tạo... Nguồn lực

này phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ tích lũy

và chính sách chi tiêu của chính phủ, khả năng vay nợ của nước ngoài...

Về phía hộ gia đình, để thoát nghèo, họ cũng cần có nguồn lực để tự

phấn đấu vươn lên thoát nghèo. Nguồn lực của họ có thể là từ các nguồn hỗ

trợ của Nhà nước, của cộng đồng dân cư, vốn vay tín dụng và khả năng tích

lũy của bản thân. Tuy nhiên, khả năng tích lũy và vay tín dụng đối với người

nghèo là rất khó khăn.

- Thị trường cũng là nhân tố tác động đến đói nghèo và XĐGN theo hai

khuynh hướng thuận lợi và khó khăn:

Nếu thị trường tương đối phát triển, nó sẽ tạo cơ hội cho các vùng, các hộ,

các cá nhân có điều kiện tiếp cận đầy đủ hơn các nguồn lực phát triển của xã hội

và quan trọng là giúp vùng nghèo, hộ nghèo vươn lên thoát nghèo. Bởi, trong

nền kinh tế thị trường, người ta buộc phải tính toán bằng giá trị cho mọi kết quả

lao động và lợi ích được chú trọng, trước hết là lợi ích cá nhân. Hơn nữa, cạnh

tranh cũng thường xuyên đặt con người vào thử thách năng lực nghề nghiệp,

buộc con người phải tự khẳng định, phải thường xuyên tự đổi mới và phát triển.

Ngược lại, nếu thị trường phát triển không đầy đủ, nhất là khi thị

trường yếu ớt hoặc không có thị trường, thì những hộ gia đình sống trong

vùng có điều kiện này gần như bị gạt ra khỏi vòng quay của tiến trình phát

triển. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ khó có thể thoát ra khỏi tình trạng

đói nghèo, vì thế đây là vấn đề nan giải đối với vùng nghèo, hộ nghèo ở các

khu vực miền núi, hẻo lánh.

Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có mặt trái của nó, do chạy theo lợi

nhuận, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, tình trạng đói nghèo của một bộ

phận dân cư không được chú trọng giải quyết và dẫn đến phân hóa giàu nghèo

22

ngày càng sâu sắc, dễ xảy ra xung đột giai cấp, xung đột xã hội.

1.1.3.3. Nhóm nhân tố thuộc về xã hội

Nhóm nhân tố xã hội tác động đến đói nghèo và hoạt động XĐGN bao

gồm: dân số và lao động, trình độ dân trí, đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức

khỏe, phong tục tập quán, an ninh chính trị, vấn đề cán bộ và tổ chức bộ máy

quản lý, điều hành.

- Về dân số, tình trạng đói nghèo liên quan chặt chẽ với sự gia tăng dân số

và cơ cấu dân cư. Theo điều tra, bình quân nhân khẩu phải nuôi trên một lao động

chính của các hộ nghèo thường cao hơn các hộ giàu. Như vậy, chính đói nghèo,

dân trí thấp dẫn đến sinh đẻ nhiều và đến lượt nó, sinh đẻ nhiều lại càng làm cho

đời sống khó khăn hơn. Vì sinh đẻ nhiều, thời gian lao động giảm kéo theo thu

nhập của hộ gia đình cũng giảm theo. Hơn nữa nhân khẩu trong gia đình tăng nên

mức thu nhập bình quân đầu người của hộ tiếp tục giảm. Sức khỏe của người mẹ

đẻ nhiều cũng suy giảm và tác động đến sức khỏe của những đứa con sau khi sinh

làm cho sức lao động giảm dần, nguy cơ đói nghèo sẽ tăng cao và kéo dài.

Trên góc độ quốc gia, dân số tăng nhanh thì mức gia tăng thu nhập bình

quân đầu người sẽ giảm. Với một nguồn lực hạn chế lại phải cân đối cho một

lượng dân cư lớn hơn sẽ khó khăn cho việc huy động nguồn lực để hỗ trợ trực

tiếp cho các mục tiêu XĐGN. Nếu cơ cấu dân số trẻ cao, thì áp lực đầu tư cho

giáo dục lớn, đầu tư cho phát triển sản xuất giảm và tăng trưởng chậm là tất

yếu. Ngoài ra, nếu sự phân bố dân cư ở vùng nghèo mà cao thì nguy cơ xuống

cấp môi trường và tình trạng đói nghèo sẽ lớn.

- Về lao động, nếu cơ cấu dân cư có tỷ lệ lao động thấp, một lao động

chính phải nuôi nhiều người ăn theo thì khả năng tăng trưởng kinh tế thấp, đói

nghèo tăng và XĐGN sẽ gặp khó khăn. Hoặc cơ cấu lao động chủ yếu phân

bố trong nông nghiệp, tỷ lệ lao động trong công nghiệp và dịch vụ nhỏ, thì đó

là một bất lợi lớn cho việc tăng nhanh mức thu nhập bình quân đầu người, tỷ

23

lệ tích lũy sẽ thấp, khó khăn cho việc xây dựng các quỹ XĐGN.

Chất lượng lao động (trình độ tay nghề, sức khỏe, thái độ lao động của

người lao động) là một nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế nói chung và

XĐGN nói riêng. Chất lượng lao động sẽ tác động trực tiếp đến tăng năng

suất lao động và tăng thu nhập cho người lao động. Trong bối cảnh toàn cầu

hóa hiện nay, khi Việt Nam đã ra nhập WTO đã và đang tạo ra nhiều cơ hội

việc làm và thu nhập cao cho một bộ phận đáng kể người lao động trong các

khu vực có lợi thế so sánh như (nông, lâm, thủy sản, dệt may, xây dựng và

xuất khẩu), nhưng cũng đòi hỏi cao hơn về chất lượng lao động. Nếu chất

lượng lao động thấp, không đáp ứng được nhu cầu thực tế thì nguy cơ thất

nghiệp, giảm thu nhập là điều khó tránh khỏi.

- Về giáo dục, chất lượng lao động gắn với việc nâng cao trình độ dân

trí và chiến lược phát triển giáo dục. Hầu hết những người nghèo, vùng nghèo

ở Việt Nam là những nơi có trình độ dân trí thấp. Cùng với tác động của thu

nhập thấp nên việc đầu tư cho con cái học hành của các hộ gia đình nghèo và

vùng nghèo ít được quan tâm hơn, ít được đào tạo nghề nên ít có cơ hội tìm

kiếm việc làm có thu nhập cao. Kết quả tỷ lệ đi học trong độ tuổi ở các vùng

này rất thấp và như vậy nguy cơ nghèo về tri thức dẫn tới đói nghèo về mọi

mắt sẽ gia tăng.

- Về y tế, người nghèo có thu nhập thấp nên ít có điều kiện chăm lo sức

khỏe, bệnh tật phát sinh nên sức lao động suy giảm và sẽ ảnh hưởng trực tiếp

đến thu nhập và chi tiêu của họ. Họ phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất

đi thu nhập từ lao động, hai là gánh chịu chi phí cao cho khám chữa bệnh. Họ

phải vay mượn, cầm cố tài sản để có tiền chi phí, dẫn đến người nghèo càng ít

có cơ hội thoát khỏi đói nghèo.

- Tác động của môi trường an ninh chính trị- xã hội, môi trường

chính trị- xã hội và nghèo đói có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khi môi

24

trường chính trị - xã hội ổn định và tiến bộ thì sẽ là điều kiện tốt để thực

hiện các chương trình phát triển KT - XH. Các nhà đầu tư, các nhà sản

xuất kinh doanh sẽ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, nhờ

vậy mà thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, đây sẽ là cơ sở để tăng nguồn

lực cho XĐGN. Ngoài ra, môi trường chính trị - xã hội ổn định và tiến bộ

thì việc huy động nguồn lực cho phát triển không những thuận lợi mà còn

có điều kiện thực hiện tốt hơn phúc lợi xã hội. Ngược lại, môi trường

chính trị - xã hội không ổn định thì môi trường đầu tư xấu đi, rủi ro trong

đầu tư sẽ cao. Do vậy, việc thu hút và khuyến khích đầu tư sẽ khó khăn,

nguồn lực cho đầu tư bị giảm sút, tăng trưởng kinh tế cũng giảm và

XĐGN sẽ khó khăn. Mặt khác, nếu tệ nạn xã hội phát sinh không kiềm

chế được thì đói nghèo sẽ càng gia tăng.

- Một nhân tố khác cũng tác động đến đói nghèo, tăng tính phức tạp cho

XĐGN đó là hậu quả của chiến tranh tàn khốc. Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn

khoảng 8 triệu người thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người bị ảnh

hưởng chất độc mầu gia cam. Hơn nữa, một số vùng tài nguyên, môi trường

bị hủy hoại để lại những hậu quả nặng nề và lâu dài do chất độc màu da cam,

tai nạn chiến tranh do bom mìn, ô nhiễm môi trường...gây khó khăn cho sản

xuất và sinh hoạt của người dân.

1.1.3.4. Nhóm nhân tố thuộc về đường lối, chính sách của Đảng và

Nhà nước.

Cùng với tiến trình đổi mới, Đại hội VII (1991) đã đề ra chủ trương:

trong quá trình đổi mới cùng tăng trưởng kinh tế phải tiến hành XĐGN,

thực hiện công bằng xã hội, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết yếu và ngày

càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; đảm bảo vững chắc nhu cầu lương

thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp hạt ở

một số vùng [20,tr73]. Đến Đại hội VIII (1996), Việt Nam tiếp tục nhấn

25

mạnh: vấn đề nghèo khổ không được giải quyết thì không một mục tiêu

nào mà cộng đồng quốc tế cũng như quốc gia đặt ra như: tăng trưởng kinh

tế, cải thiện đời sống, hòa bình ổn định, bảo đảm các quyền con người

được thực hiện [21]. Cho tới nay, quan điểm tăng trưởng kinh tế đi đôi

với XĐGN là cơ sở để định hướng cho các chính sách, giải pháp tập trung

XĐGN hiệu quả. Đường lối, chủ trương, chính sách XĐGN ở Việt Nam

đã được cụ thể hóa trong nhiều chương trình, chính sách, dự án liên quan

đến XĐGN.

1.1.3.5. Nhóm nhân tố thuộc về bản thân người nghèo, vùng nghèo

Bản thân người nghèo có đủ năng lực và ý chí vươn lên thoát nghèo là

động lực quyết định để thực hiện XĐGN thành công và bền vững. Trong cuộc

sống, con người sinh ra ai cũng phải hành động để mong đem lại lợi ích cho

mình, mà trước hết là để tồn tại. Nhưng mỗi con người lại có năng lực và ý

chí khác nhau nên kết quả hành động của họ trong những điều kiện giống

nhau có thể khác nhau, đây là nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giàu nghèo.

Nhà nước và cộng đồng đã có những cố gắng để hỗ trợ cho những người yếu

thế. Nếu bản thân người nghèo biết nắm cơ hội này để vươn lên, tự nâng cao

năng lực của mình, quyết tâm thoát nghèo và vươn lên làm giàu thì cơ hội

thoát nghèo của họ sẽ cao hơn và kết quả XĐGN sẽ bền vững. Ngược lại, nếu

bản thân người nghèo không có ý chí vươn lên, trông chờ ỷ lại, không tận

dụng được cơ hội thì khả năng thoát nghèo của họ sẽ rất khó khăn và kết quả

XĐGN sẽ thiếu bền vững.

Vì vậy, bản thân người nghèo phải tự vươn lên thoát nghèo thì mới đảm

bảo mục tiêu XĐGN thành công và vững chắc.

1.2. Vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo.

Vai trò của Nhà nước trong hoạt động XĐGN trước tiên được thể hiện

từ nhân tố sâu xa đó là đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng lãnh

26

đạo. Song, để đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành

hiện thực vận động trong đời sống xã hội, chúng phải được thể chế hóa thành

hệ thống chương trình, chính sách, kế hoạch, mục tiêu và được triển khai bằng

Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự quản lý của Nhà nước do Đảng lãnh

đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động trực tiếp nhất tới việc định

hướng và xác định mục tiêu của hoạt động xóa đói giảm nghèo.

Mỗi mặt của đời sống xã hội cụ thể đều có những quan điểm, nội dung,

phương pháp quản lý khác nhau. Song chúng đều có một điểm chung là đều

phải có sự can thiệp của Nhà nước thông qua hệ thống chính sách phù hợp,

hay nói cách khác nó không thể thiếu được vai trò đặc biệt quan trọng, có tính

chất then chốt của Nhà nước. Đối với chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt

Nam, vai trò then chốt thuộc về chính quyền địa phương thể hiện ở chỗ chính

quyền địa phương thể chế hóa mục tiêu, mô hình hóa thiết chế và cơ chế vận

hành các dự án, chính sách xóa đói giảm nghèo của Nhà nước phù hợp với

điều kiện thực tế ở địa phương để chính sách đó đến đúng mục tiêu, đối tượng

và có hiệu quả cao nhất.

1.2.1. Định hướng và mục tiêu xóa đói giảm nghèo

Định hướng xóa đói giảm nghèo là việc Nhà nước xác định phương

hướng thực hiện công cuộc xóa đói giảm nghèo dựa trên những mục tiêu cần

đạt được trong từng giai đoạn nhất định. Định hướng xóa đói giảm nghèo là

tiền đề giúp cho Nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xóa

đói giảm nghèo theo những hướng đi đúng đắn và đạt được hiệu quả cao nhất.

Để có được những hướng đi đúng đắn, Nhà nước cần định hướng cho

công tác xóa đói giảm nghèo dựa trên nhứng căn cứ như: căn cứ vào tình hình

phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước; thực trạng kinh tế - xã hội ở từng địa

phương để xác định mục tiêu XĐGN cho phù hợp theo lộ trình.

27

Định hướng xóa đói giảm nghèo tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, đưa công tác xoá đói giảm nghèo là công tác trọng tâm của

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó tập trung vào các hoạt động hỗ

trợ, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo có tư liệu và phương tiện để sản

xuất, nâng cao thu nhập để tự vượt qua nghèo đói; tạo cơ hội để người nghèo

tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế,

nước sạch; giảm thiểu rủi ro do thiên tai, bão lụt và tác động tiêu cực của quá

trình cải cách kinh tế, bảo đảm xoá đói giảm nghèo bền vững. Đồng thời hỗ

trợ các xã nghèo phát triển hạ tầng cơ sở, phát triển sản xuất, dịch vụ, thu hẹp

dần khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển, mức sống giữa các vùng,

các tầng lớp dân cư.

Thứ hai, tập trung giúp cho các địa phương nghèo phát triển kinh tế

thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị

kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hoá, cơ cấu lao động theo hướng tăng

dần tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng lao

động trong nông nghiệp.

Thứ ba, kết hợp chặt chẽ chương trình xoá đói giảm nghèo với các

chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ và cải thiện môi

trường; khuyến khích làm giàu chính đáng và hợp pháp, đi đôi với đẩy mạnh

xoá đói giảm nghèo, nâng nhanh mức sống nhân dân ở các xã nghèo, vùng

nghèo, giảm dần khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng, các dân

tộc, các tầng lớp dân cư và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Thứ tư, tập trung hoàn thiện mạng lưới an sinh xã hội phù hợp để

đáp ứng nhu cầu bức xúc và khẩn cấp của các nhóm dễ bị tổn thương,

những người có hoàn cảnh khó khăn, nạn nhân của chiến tranh và thiên

tai, giúp họ hòa nhập cộng đồng, phòng ngừa và hạn chế tình trạng tái đói

28

kinh niên và tái nghèo.

Thứ năm, động viên cộng đồng người nghèo phát huy nội lực, tự vươn

lên thoát khỏi nghèo đói, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các cộng

đồng khác thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững. Tăng cường và đa dạng

hoá các nguồn lực để xóa đói giảm nghèo, phát huy nội lực là chính, kết hợp

sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hợp tác quốc tế để đẩy nhanh xoá đói

giảm nghèo.

1.2.2. Chính sách và chương trình xóa đói giảm nghèo

Chính sách là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế - xã

hội. Tuy nhiên, qua tìm hiểu các tài liệu, các nghiên cứu cho thấy khái niệm

chính sách được thể hiện khác nhau, theo Từ điển tiếng Việt (Nhà Xuất bản Đà

Nẵng. 1988. Tr.157): “Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm

đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực

tế mà đề ra”; hoặc theo Đại Từ điển tiếng Việt (Nhà Xuất bản Văn hoá - Thông

tin.1999. tr.369) thì: “Chính sách là các chủ trương và các biện pháp của một

đảng phái, một chính phủ trong các lĩnh vực chính trị - xã hội”.

Chính sách xóa đói giảm nghèo là một hệ thống quan điểm, chủ trương,

biện pháp dựa trên những tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo, được cụ

thể hóa và thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà nước để giải quyết vấn đề đói

nghèo, vấn đề công bằng xã hội; nó phản ánh trách nhiệm của cộng đồng xã

hội nói chung và của từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích thỏa mãn

các nhu cầu cơ bản của nhóm người nghèo về đời sống vật chất, văn hóa và

tinh thần, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ

phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương.

Chính sách xóa đói giảm nghèo là công cụ, là đòn bẩy thúc đẩy nhanh

quá trình xóa đói giảm nghèo, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công

29

cuộc XĐGN. Thực hiện tốt chính sách xóa đói giảm nghèo để giải quyết

những khó khăn, thiếu thốn của những người nghèo, khuyến khích làm giàu

chính đáng và hợp pháp, nâng nhanh mức sống nhân dân ở các xã nghèo,

vùng nghèo, giảm dần khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng,

các dân tộc, các tầng lớp dân cư và nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp cho

bộ phận dân cư dễ bị tổn thương thoát khỏi đói nghèo để hòa nhập vào cuộc

sống cộng đồng. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chỉ được thực

hiện thành công chừng nào người dân thoát khỏi cảnh đói nghèo, được bảo

đảm các nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống phù hợp với trình độ phát triển

kinh tế - xã hội của từng địa phương.

Một số chính sách về xóa đói giảm nghèo

Việc xây dựng chính sách xóa đói giảm nghèo theo hướng bền vững

phải dựa trên bốn trụ cột cơ bản là: Tạo cơ hội cho người nghèo phát triển

kinh tế, tăng thu nhập; mở rộng khả năng cho người nghèo tiếp cận các dịch

vụ xã hội (y tế, giáo dục, nước sạch sinh hoạt...) có chất lượng, thuận tiện và

chi phí thấp; giảm thiểu nguy cơ rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã

hội khác, nhất là thiên tai, dịch bệnh; thực hiện cơ chế dân chủ ở cơ sở với

nguyên tắc công khai, minh bạch, bảo đảm cho người nghèo tham gia vào

công cuộc xóa đói, giảm nghèo và phát triển. Cụ thể:

Nhóm chính sách tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất,

tăng thu nhập:

Thực hiện hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, trong đó bao gồm việc hỗ

trợ vốn cho hộ gia đình nghèo có sức lao động, có điều kiện sản xuất kinh

doanh nhưng thiếu vốn để phát triển kinh tế; hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các

hộ nghèo chưa có nhà ở hoặc nhà ở dột nát, tạm bợ, có nguy cơ sập đổ và

không có khả năng tự cải thiện về nhà ở; hỗ trợ vốn khai hoang đất chuyển

30

thành đất sản xuất cho các hộ nghèo thuộc diện thiếu đất canh tác; xây dựng

các công trình cung cấp nước sinh hoạt cho các hộ nghèo được thụ hưởng,

phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống.

Trang bị cho người nghèo những kiến thức cơ bản về kỹ thuật trồng

trọt, chăn nuôi, thú y, bảo vệ thực vật, sử dụng máy móc công cụ lao động,

chế biến nông sản, phát triển ngành nghề. Đồng thời tạo việc làm ổn định tại

chỗ, tăng thu nhập cho người lao động nghèo.

Nhóm chính sách tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội:

Hỗ trợ về y tế, giáo dục cho người nghèo, theo đó Nhà nước sẽ tạo cơ

hội cho người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ y tế khi ốm đau được

thuận lợi hơn, bình đẳng hơn; đồng thời hỗ trợ con em hộ nghèo được tới

trường học tập bình đẳng như các trẻ em khác, góp phần nâng cao trình độ

văn hoá của người nghèo.

Nhóm chính sách nâng cao năng lực và nhận thức cho người nghèo:

Bao gồm các chính sách để đào tạo cán bộ giảm nghèo và hoạt động

truyền thông. Nội dung chủ yếu của nhóm chính sách này là: Đào tạo để nâng

cao được năng lực xóa đói giảm nghèo cho đội ngũ cán bộ, thông qua đó nâng

cao hiệu quả thực hiện Chương trình; tuyên truyền nâng cao nhận thức cho

toàn xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu và chủ trương của Đảng,

Nhà nước về xóa đói giảm nghèo. Nâng cao năng lực phòng chống rủi ro,

nâng trách nhiệm bản thân của người nghèo tham gia giảm nghèo, tự lực vươn

lên khá, giàu.

1.2.3. Tổ chức thực hiện xóa đói giảm nghèo

Chương trình xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh được quản lý theo cơ chế

phối hợp đa ngành dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và sự

điều hành quản lý của UBND tỉnh. Căn cứ Nghị quyết về công tác xóa đói

31

giảm nghèo của Tỉnh ủy, Nghị quyết về chương trình xóa đói giảm nghèo của

HĐND; UBND tỉnh lập tờ trình đề nghị HĐND phê duyệt Chương trình xóa

đói giảm nghèo của tỉnh và tổ chức thực hiện chương trình:

- Xây dựng kế hoạch toàn diện triển khai thực hiện các chính sách,

chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo.

- Kiện toàn tổ chức, bộ máy ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo.

- Phân công trách nhiệm cho các cơ quan tổ chức thực hiện chương

trình. Theo đó, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường

trực chương trình; Chủ trì và phối hợp với các sở, Ban, Ngành liên quan

xác định đối tượng hỗ trợ, xây dựng cơ chế, chính sách, chỉ đạo các địa

phương xây dựng và thực hiện chương trình; hướng dẫn thực hiện một số

dự án: nhân rộng mô hình giảm nghèo, đào tạo cán bộ xóa đói giảm nghèo,

dự án dạy nghề, dự án giải quyết việc làm, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư

sản xuất.

Các sở, ban, ngành như Sở Tài chính - Vật giá, Sở Kế hoạch - Đầu tư,

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Chính sách xã hội, Ban

Dân tộc,… căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình và kế hoạch hành động của

ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo tỉnh, tổ chức thực hiện chương trình và chịu

trách nhiệm trước UBND tỉnh về các chính sách, dự án được phân công.

Các cơ quan thông tin tuyên truyền: Có trách nhiệm tuyên truyền nâng

cao nhận thức, tầm quan trọng, ý nghĩa của chương trình; tuyên truyền kết quả

hoạt động, mô hình cách làm hay, sáng tạo, có hiệu quả trong suốt quá trình

thực hiện chương trình.

Các huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn có trách nhiệm chủ động

huy động nguồn lực tại chỗ và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu của chương trình

theo chỉ đạo của ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo tỉnh. Phân công, phân cấp rõ

trách nhiệm của từng phòng, ban, đơn vị theo dõi chỉ đạo cac cấp xã thực hiện

32

chương trình.

1.2.4. Kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện xóa đói giảm nghèo.

Kiểm tra, giám sát, đánh giá là một hoạt động hết sức quan trọng trong

thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Theo đó,

Chủ tịch UBND tỉnh có nhiệm vụ tổ chức kiểm tra, giám sát chương trình xóa

đói giảm nghèo của tỉnh, tổng hợp tình hình thực hiện chương trình theo nội

dung, biểu mẫu và thời gian quy định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và các

Bộ liên quan.

Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm đề xuất với

UBND tỉnh hệ thống chỉ tiêu theo dõi, giám sát chương trình mục tiêu quốc

gia giảm nghèo cấp huyện, xã (hệ thống chỉ tiêu theo dõi, giám sát chương

trình được thực hiện theo quyết định số 23/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày

5/10/2007); Lập kế hoạch kiểm tra, đánh giá giảm nghèo hàng năm, hoàn

thiện công cụ, thống nhất in mẫu biểu kiểm tra, đánh giá trên địa bàn; Phối

hợp với các cơ quan có liên quan chỉ đạo thực hiện việc kiểm tra, đánh giá đối

với cấp huyện; Trình UBND cấp tỉnh kết quả kiểm tra, đánh giá định kỳ, báo

cáo ban chỉ đạo giảm nghèo của Chính phủ.

Hoạt động kiểm tra, giám sát chương trình xóa đói giảm nghèo là hoạt

động thường xuyên mà các cấp địa phương phải tiến hành, làm cơ sở đánh giá

tiến độ thực hiện và mức độ tiếp cận của đối tượng thụ hưởng của chương

trình. Nguyên tắc của kiểm tra, đánh giá là phải đảm bảo tính sát thực, dân

chủ, công bằng, công khai và có sự phản hồi của đối tượng thụ hưởng. Nội

dung kiểm tra, đánh giá bao gồm:

Kiểm tra, đánh giá công tác chỉ đạo thực hiện chương trình xóa đói

giảm nghèo của địa phương;

Kiểm tra kết quả thực hiện và tiến độ kết quả thực hiện các chính sách,

33

dự án xóa đói giảm nghèo so với kế hoạch 5 năm, hàng năm (mục tiêu, chỉ

tiêu xóa đói giảm nghèo...); Kiểm tra kết quả thực hiện quy trình rà soát hộ

nghèo so với quy định.

1.3. Một số chính sách và chƣơng trình xóa đói giảm nghèo ở

Việt Nam.

1.3.1. Đặc điểm nghèo đói ở Việt Nam

Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh

Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc

giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn

còn rất mong manh.

Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo,

do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi

xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.

Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện

nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người

nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình

và cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo,

nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói, do vậy, khi có những dao động

về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ

trong sản xuất nông nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo. Mặc dù

chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm

hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhóm người có mức sống cao. Hệ số

chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất cao.

Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn

Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất

34

nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa

hoặc ở các vùng Trung du miền múi phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung do sự

biến động của thời tiết (bão, lụt, lũ quét, hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh

sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển

về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt

với các vùng khác. Năm 2005, khoảng 20-30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt

khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng

học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa

có đường điện đến trung tẫm xã; 50% chưa đủ công trình thủy lợi nhỏ. Bên cạch

đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột

xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người.

Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn.

Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người

nghèo sinh sống ở nông thôn. Trên 80% số người nghèo là nông dân, trình độ tay

nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công

nghệ...), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý

phức tạp, chất lượng sản phẩm kém, chủng loại loại sản phẩm nghèo nàn. Những

người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông

tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang ngành phi nông nghiệp.

Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao

Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu,

vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo rất cao.

Tính đến hết năm 2009 vẫn còn 64% số người nghèo tập trung tại các

vùng Trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và Duyên hải miền Trung.

Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng

tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng

cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy

35

ra thường xuyên.

Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người

Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng

cuộc sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập.

Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song

lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo. Đa số người dân tộc ít

người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị cô lập về mặt địa lý, văn hóa,

thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản.

1.3.2. Các chính sách và chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam

Các hoạt động của Chương trình xóa đói giảm nghèo bao gồm các chính

sách, dự án và các chương trình lồng ghép nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Chính sách ưu đãi tín dụng cho người nghèo;

Việt Nam đã có chủ trương thực hiện các khoản tín dụng cho vay mở

rộng tới hộ nông dân, và theo quyết định số 525/TTg ngày 31-8-1995 của Thủ

tướng chính phủ cho phép thành lập Ngân hàng Phục vụ người nghèo để giúp

người nghèo vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, góp phần thực

hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Ngân hàng Phục vụ người nghèo có chức

năng khai thác các nguồn vồn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài

nước, tiếp nhận các nguồn vốn của Nhà nước đối với người nghèo và các

nguồn vốn khác nhà nước cho phép được lập quỹ cho người nghèo vay thực

hiện Chương trình của chính phủ đối với người nghèo.

Hoạt động của Ngân hàng người nghèo vì mục tiêu xoá đói giảm

nghèo, không vì mục đích lợi nhuận, thực hiện bảo tồn vốn ban đầu, phát triển

vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện việc cho vay

trực tiếp đến hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn, được cho vay để phát

triển sản xuất, không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn, và theo lãi suất

36

quy định. Ngân hàng phục vụ người nghèo được xét miễn thuế doanh thu và

thuế lợi tức để giảm lãi suất cho vay đối với người nghèo. Các rủi ro trong

quá trình hoạt động phục vụ người nghèo được bù đắp bằng quỹ bù đắp rủi ro

theo quy chế tài chính của Bộ tài chính.

Sau 7 năm họat động ngày 4-10-2002 chính phủ đã ban hành Nghị định

78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và đối tượng chính sách

khác trong đó ghi rõ thành lập Ngân hàng Chính sách Xã hội để thực hiện tín

dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên cơ sở

tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ người nghèo, đưa Ngân hàng Chính sách Xã

hội trở thành một ngân hàng hoàn chỉnh giúp cho việc thực hiện các chức

năng của mình hiệu quả hơn.

Chính sách hỗ trợ người nghèo về y tế; với mục tiêu trợ giúp người

nghèo trong khám chữa bệnh bằng các hình thức như mua thẻ BHYT, cấp thẻ

và giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí, khám chữa bệnh từ thiện nhân

đạo... chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người nghèo. Cung cấp trang thiết bị,

cung ứng thuốc cho tuyến y tế cơ sở ở các huyện nghèo, khuyến khích và tăng

cường cán bộ y tế cơ sở để nâng cao chất lượng phục vụ.

Bảo đảm tài chính để hỗ trợ khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua

điều chỉnh, phân bổ ngân sách y tế giữa các tỉnh, điều tiết và điều chỉnh các

mức thu viện phí giữa người giàu, người có khả năng kinh tế, người nghèo...

Huy động cộng đồng trong việc xây dựng quỹ khám chữa bệnh cho

người nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo, bữa ăn nhân đạo, khám chữa bệnh

nhân đạo, khuyến khích các đội y tế lưu động phục vụ vùng cao, vùng sâu,

biên giới hải đảo, xác định trách nhiệm của người nghèo trong phòng bệnh, tự

bảo vệ chăm lo sức khoẻ và chia sẻ một phần kinh phí trong khám chữa bệnh.

Chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục; Bảo đảm cho con em tất cả

các hộ nghèo có các điều kiện cần thiết trong học tập. Giảm sự chênh lệch về

37

môi trường trong học tập và sinh hoạt trong các nhà trường ở thành thị và

nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa vùng khó khăn với vùng có điều

kiện phát triển.

Miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường, lớp, hỗ trợ

vở viết sách giáo khoa, cấp học bổng cho học sinh tiểu học loại quá nghèo,

khuyến khích học sinh nghèo học khá, học giỏi bằng các giải thưởng, học

bổng và các chế độ ưu đãi khác. Cho vay học sinh, sinh viên thuộc diện hộ

nghèo và cận nghèo.

Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường

dân tộc nội trú để đào tạo các cán bộ cho các xã đặc biệt khó khăn.

Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tình nguyện tham gia giúp người

nghèo nâng cao trình độ học vấn, tổ chức các hình thức giáo dục phù hợp để

xoá mù chữ và ngăn chặn tình trạng tái mù như các lớp bổ túc văn hoá, lớp

học tình thương, lớp học chuyên biệt.

Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn; nhằm hỗ trợ các

gia đình đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn có số dân nhỏ hơn 10000 người

nhằm ổn định cuộc sống, hỗ trợ phát triển sản xuất, thay đổi phương thức sản

xuất lạc hậu, từng bước hướng dẫn đồng bào dân tộc tiếp cận phương thức sản

xuất mới, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, thực hiện xoá

đói giảm nghèo bền vững.

Hỗ trợ các đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn ổn định cuộc sống,

lương thực cứu đói, quần áo chống rét, chăn màn, dụng cụ gia đình, hỗ trợ

làm giếng nước hoặc nước tự chảy cho 1 nhóm hộ gia đình.

Hỗ trợ các gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn phát triển sản xuất để tự

đảm bảo cuộc sống.

Về nông nghiệp: Chọn và đưa giống cây mới có năng suất cao cho

đồng bào, khuyến khích thâm canh tăng vụ lúa nước, lúa nương. Tăng cường

38

và khuyến khích phát triển đàn gia súc, gia cầm, vật nuôi phù hợp với trình độ

của các hộ gia đình. Hướng dẫn kỹ thuật, khuyến khích khai hoang ruộng

đồng, mở rộng diện tích canh tác.

Về lâm nghiệp: Hỗ trợ khoanh nuôi, bảo vệ rừng, hỗ trợ công cụ sản

xuất, thuốc bảo vệ thực vật, mở rộng diện tích trồng rừng, trồng cây công

nghiệp, vườn đồi, hướng dẫn làm kinh tế VAC.

Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo; với mục tiêu tạo điều kiện

cho người nghèo nắm được những kiến thức phổ thông về pháp luật để phát

huy được vai trò của mình trong đời sống kinh tế - xã hội. Nhận thức được

đầy đủ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong gia đình và xã hội.

Ban hành pháp lệnh về trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thực

thi pháp luật cho người nghèo.

Phát hành sổ tay trợ giúp pháp lý cho các chuyên viên và cộng tác viên,

phát hành tờ gấp pháp lý để hỗ trợ cho các tỉnh để tuyên truyền, phổ biến và

giải đáp pháp luật. Tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ trợ giúp pháp lý cấp

trung ương, tỉnh, huyện, xã.

Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế;

Hỗ trợ trực tiếp cho những người bị rủi ro do thiên tai, bão lụt, để ổn

định cuộc sống. Hỗ trợ nhóm người yếu thế (người già cô đơn không nơi

nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật...) ổn định

cuộc sống, từng bước hoà nhập xã hội.

Trợ giúp các đối tượng yếu thế (có khả năng làm việc) về học nghề, tạo

việc làm, tự đảm bảo cuộc sống.

Hỗ trợ các vùng thiên tai phải di chuyển nhà, hỗ trợ điều kiện sản xuất

để sớm ổn định xây dựng kinh tế mới nhằm thực hiện phát triển kinh tế xã hội

và xây dựng nông thôn mới.

Trợ giúp di dân kịp thời, hỗ trợ cứu đói, hỗ trợ sửa chữa nhà đổ, sập,

39

trôi, hư hỏng nặng, hỗ trợ gia đình có người chết, bị thương.

Trợ cấp xã hội thường xuyên cho các đối tượng thuộc diện trợ cấp xã

hội có hoàn cảnh khó khăn, nuôi dưỡng các đối tượng đặc biệt khó khăn.

Dự án hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng;

Phát triển hạ tầng cơ sở cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, hải

đảo, ven biển. Các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu như: thuỷ lợi, trường

học, trạm y tế, nước sinh hoạt, điện, đường giao thông, chợ; xây dựng các

trung tâm cụm xã thành các thị tứ và trở thành nơi giao lưu văn hoá của nhân

dân trong vùng, tạo điều kiện cho người nghèo trong vùng tiếp cận được các

dịch vụ xã hội cơ bản.

Hướng dẫn cách làm ăn, khuyến Nông - Lâm - Ngư, chuyển giao công

nghệ, hỗ trợ phát triển ngành nghề nông thôn; Đào tạo cán bộ khuyến nông

các cấp tỉnh, huyện, xã; tập huấn cho các hộ nghèo cách làm ăn.

Xây dựng và chuyển giao các mô hình hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành

nghề, định canh, định cư, di dân và kinh tế mới, phòng ngừa và giảm nhẹ rủi

ro, thiên tai cho người nghèo trên cơ sở ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phù hợp

với từng vùng. Hỗ trợ phát triển, xây dựng mô hình chế biến, bảo quản Nông-

Lâm sản và nghề phi nông nghiệp.

Dự án định canh, định cư, di dân, kinh tế mới; Tiếp tục thực hiện phân

bố dân cư, giải quyết việc làm, di dân chấm rứt tình trạng du canh, du cư,

hoàn thành cơ bản định canh, định cư. Sắp xếp ổn định di dân tự do và tiến tới

kiểm soát và chấm rứt tình trạng di dân tự do.

Dự án hỗ trợ người nghèo về văn hoá - thông tin; Hỗ trợ người nghèo

cải thiện đời sống tinh thần, giúp người nghèo có được thông tin về kinh tế -

xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống của họ và từng bước tiếp cận với đời

sống văn hoá mới, duy trì văn hoá truyền thống.

Dự án đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác xoá

40

đói giảm nghèo;

Trang bị kiến thức và Chủ trương, Chính sách của Đảng và Nhà nước, nội

dung Chương trình xoá đói giảm nghèo, những kỹ năng cơ bản trong tổ chức

thực hiện và quản lý chương trình, những kiến thức cơ bản đối với đội ngũ cán

bộ xoá đói giảm nghèo ở cấp xã về xây dựng kế hoạch, dự án và tổ chức triển

khai thực hiện trên địa bàn nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ này.

Dự án trồng 5 triệu ha rừng; Mục tiêu và nguồn lực của chương trình

này hầu hết dành cho những người nghèo, xã nghèo được hưởng quyền lợi

thông qua tạo việc làm tăng thu nhập, góp phần vào việc ổn định dân cư cho

đồng bào dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng cao.

Chương trình 134; Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và

nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn

mà Chính phủ Việt Nam áp dụng từ năm 2004 nhằm mục đích đẩy nhanh tiến

độ xóa nghèo cho các hộ dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Các mục tiêu chính của Chương trình 134 gồm:

Đảm bảo mỗi hộ dân tộc thiểu số có tối thiểu 0,5 ha đất nương, rẫy

hoặc 0,25 ha đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước hai

vụ để sản xuất nông nghiệp.

Đảm bảo mỗi hộ dân tộc thiểu số ở nông thôn có tối thiểu 200 m² đất ở.

Riêng hộ dân tộc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long có chính sách riêng. Chính

quyền trung ương cùng chính quyền địa phương sẽ trợ cấp cho các hộ dân tộc

thiểu số nghèo chưa có nhà ở hoặc nhà ở tạm bợ để họ xây nhà.

Chính quyền trung ương sẽ trợ cấp bằng 0,5 tấn xi măng cho mỗi hộ

dân tộc thiểu số để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc cấp 300.000 đồng để

đào giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt đối với các hộ dân tộc thiểu số sống

phân tán tại vùng cao, núi đá, khu vực khó khăn về nguồn nước sinh hoạt. Đối

với các thôn, bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số trở lên, chính

41

quyền trung ương sẽ trợ cấp 100% kinh phí xây dựng công trình cấp nước

sinh hoạt tập trung. Đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ

đồng bào dân tộc thiểu số, chính quyền trung ương sẽ trợ cấp 50% kinh phí

xây dựng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung.

Chương trình 135; Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc

biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi, là một trong các chương

trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt Nam triển khai từ

năm 1998. Chương trình được biết đến rộng rãi dưới tên gọi Chương trình

135 do Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt thực hiện

chương trình này có số hiệu văn bản là 135/1998/QĐ-TTg. Theo kế hoạch

ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai đoạn; giai đoạn I

từ năm ngân sách 1998 đến năm 2000 và giai đoạn 2 từ năm 2001 đến năm

2005. Tuy nhiên, đến năm 2006, Nhà nước Việt Nam quyết định kéo dài

chương trình này thêm 5 năm, và gọi giai đoạn 1997-2006 là giai đoạn I. Tiếp

theo là giai đoạn II (2006-2010). Nội dung chính của chương trình:

Hỗ trợ phát triển sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình

độ sản suất của đồng bào các dân tộc. Đào tạo cán bộ khuyến nông thôn bản.

Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Xây dựng các mô hình sản xuất có

hiệu quả, phát triển công nghiệp chế biến bảo quản. Phát triển sản xuất: Kinh

tế rừng, cây trồng có năng suất cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm có giá trị.

Phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.

Làm đường dân sinh từ thôn, bản đến trung tâm xã phù hợp với khả năng nguồn

vốn, công khai định mức hỗ trợ nhà nước. Xây dựng kiên cố hóa công trình thủy

lợi: Đập, kênh, mương cấp 1-2, trạm bơm, phục vụ tưới tiêu sản xuất nông

nghiệp và kết hợp cấp nước sinh hoạt. Làm hệ thống điện hạ thế đến thôn, bản;

nơi ở chưa có điện lưới làm các dạng năng lượng khác nếu điều kiện cho phép.

Xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho cộng đồng. Xây dựng nhà sinh

42

hoạt cộng đồng thôn, bản (tùy theo phong tục tập quán) ở nơi cấp thiết.

Đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở, kiến thức kĩ năng quản lý điều hành xã

hội, nâng cao năng lực cộng đồng. Đào tạo nghề cho thanh niên 16 - 25 tuổi

làm việc tại các nông lâm trường, công trường và xuất khẩu lao động. Hỗ trợ

các dịch vụ, nâng cao chất lượng giáo dục, đời sống dân cư hợp vệ sinh giảm

thiểu tác hại môi trường đến sức khỏe người dân. Tiếp cận các dịch vụ y tế,

bảo hiểm và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

Chương trình 327 phủ xanh đất chống, đồi trọc. Chương trình bảo vệ

môi trường mà nước ta triển khai nhằm mục tiêu nâng cao kiến thức, tập huấn

kỹ thuật cho đồng bào miền núi. Những yêu cầu, biện pháp bảo vệ môi trường

dễ hiểu, thiêt thực đối với họ. Đồng thời có các chương trình chyển giao khoa

học kỹ thuật để họ có thể thâm canh tăng năng suất lao động trên đất nông

nghiệp hiện có và quan trọng hơn là không mở rộng diện tích canh tác khi dân

số tăng hoặc do thiếu đất bằng cách chuyển đất rừng làm nương rẫy. Tuy

trọng tâm của những chương trình được triển khai là tập trung vào việc xoá

đói giảm nghèo, giải quyết những bức xúc của người nghèo nhưng không cho

phép xâm hại phá vỡ tính ổn định của tự nhiên. Nói cách khác, xoá đói giảm

nghèo và bảo vệ môi trường là hai mặt của một quá trình cải thiện tính bền vững

của môi trường sống, có giá trị lâu bền với đồng bào các dân tộc thiểu số.

Chương trình Phòng chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và

HIV/AIDS

Tập trung thực hiện các dự án: Phòng chống bệnh sốt rét, phòng chống

bệnh bướu cổ, phòng chống bệnh phong, phòng chống bệnh lao, phòng chống

bệnh sốt xuất huyết; thực hiện tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh

dưỡng trẻ em, bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng; bảo đảm chất lượng và vệ

sinh an toàn thực phẩm; thực hiện phòng chống HIV/AIDS...

Chương trình Dân số và Kế hoạch hóa gia đình

Tiến hành quy hoạch và phân bổ lại dân cư giữa các vùng; tiếp tục đầu

43

tư tăng cường dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho vùng nghèo, vùng khó khăn,

vùng sâu, vùng xa; đầu tư hoàn thiện hệ thống thông tin, nâng cao năng lực

quản lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số kế hoạch hóa gia đình

Chương trình Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn

Nhà nước tập trung hỗ trợ một phần cho những vùng có nhiều hộ

nghèo, vùng khó khăn, xây dựng hệ thống cấp nước tập trung, thực hiện

chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, hỗ trợ cho vay

không lãi hoặc lãi suất thấp. Nhằm đảm bảo cung cấp nước sạch và vệ sinh

môi trường nông thôn nói chung, trong đó có người nghèo, xây dựng các

chương trình cung cấp nước sạch cho các xã nghèo.

Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm (gọi tắt là chương trình

120) tham gia giải quyết việc làm cho những người nghèo không có việc làm.

Đào tạo nghề miễn phí cho con em các hộ nghèo tại các trung tâm dịch vụ

việc làm thuộc khu vực Nhà nước quản lý.

Chương trình Phát triển văn hoá: Tiếp tục đầu tư, hoàn thiện hệ thống phát

thanh, truyền hình trên cả nước, bảo đảm 90- 95% hộ gia đình xem được đài

truyền hình và nghe được đài tiếng nói Việt Nam. Thực hiện đầu tư, dự án chống

xuống cấp và tôn tạo các di tích lịch sử, dự án nghiên cứu, điều tra, bảo tồn một số

làng, bản, buôn tiêu biểu, xây dựng ngân hàng dữ liệu về văn hóa phi vật thể; xây

dựng các thiết chế văn hóa thông tin cơ sở, xây dựng các mô hình hoạt động văn

hóa thông tin ở làng xã. Bảo đảm tất cả các xã đều có điểm văn hóa xã (điện thoại

liên lạc, thư viện sách báo, phòng hội họp, nhà văn hóa sinh hoạt chung....).

Chương trình quốc gia số 06/CP về phòng chống ma tuý

Chương trình quốc gia số 06/CP là chương trình về phòng chống và

kiểm soát ma tuý theo nghị quyết số 60/CP của chính phủ ra ngày 29-01-

1993. Chương trình này được triển khai nhằm mục tiêu phòng và kiểm soát

ma tuý mang ý nghĩa chính trị xã hội và quốc tế rộng lớn. Song quá trình thực

44

hiện lại có ý nghĩa rất lớn đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vận động đồng

bào dân tộc từ bỏ trồng cây thuốc phiện và thay thế cây trồng vật nuôi để bù

đắp sự hẫng hụt từ việc mất nguồn thu từ cây thuốc phiện

1.3.3. Kết quả xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam

Chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã thu được thành

công lớn. Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc

về xóa đói giảm nghèo trước 10 năm. Số hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh,

từ 18,10% năm 2004 xuống còn 12,3% năm 2009, phấn đấu giảm xuống dưới

10% năm 2010; các xã nghèo chỉ còn trên 1.000 xã, các huyện nghèo chỉ còn

62, nhà tranh tre nứa lá trong toàn quốc chỉ còn 30 vạn và sẽ sớm được xóa

trong một vài năm tới; thu nhập bình quân của người dân đạt 1.056 USD/năm

vào năm 2009, gấp đôi, nhiều nơi gấp ba vài chục năm trước. Những thành

tích xóa đói giảm nghèo đó không chỉ thay đổi bộ mặt đất nước, củng cố khối

đại đoàn kết toàn dân mà còn có tiếng vang rộng rãi trên thế giới, được Liên

Hợp Quốc, nhiều tổ chức quốc tế và quốc gia công nhận.

Bảng 1.1: Tỷ lệ hộ nghèo tính theo %

2004 2006 2007

2008

2009

Cả nƣớc

18,10 15,47 14,75 13,40

12,30

Chia theo

Thành thị

8,60

7,70

7,40

6,70

6,00

Nông thôn

21,20 18,00 17,70 16,20

14,80

Chia theo

Đồng bằng Sông Hồng

12,70 10,00 9,50

8,60

7,70

Trung du và miền núi phía Bắc

29,70 27,50 26,50 25,10

23,50

Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 25,30 22,20 21,40 19,20

17,60

Tây Nguyên

29,20 24,00 23,00 21,00

19,50

Đông Nam Bộ

4,60

3,10

3,00

2,50

2,10

Đồng Bằng sông Cửu Long

15,30 13,00 12,40 11,40

10,40

45

Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 2009- 2010

Hàng loạt chính sách xóa đói giảm nghèo được triển khai đồng bộ ở tất cả

các địa phương, được sự đồng thuận hưởng ứng tích cực của toàn xã hội đã cải

thiện đáng kể diện mạo và tỉ lệ đói nghèo đã giảm nhanh ở tất cả các vùng miền

trong cả nước, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền múi, hải đảo là

những khu vực tập trung đông người nghèo. Tuy nhiên, tỉ lệ nghèo đói vẫn tập

trung cao ở các vùng như các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc (23,5%; 2009), Tây

Nguyên (19,5%; 2009), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (17,6%: 2009).

Tóm lại: Đói nghèo là tình trạng chung tồn tại ở những nước chậm phát

triển và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Đối với những nước này

XĐGN không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa về chính trị xã

hội to lớn; XĐGN toàn diện, bền vững được coi là mục tiêu xuyên suốt quá

trình phát triển kinh tế xã hội, là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp

phần phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Để XĐGN thành công cần

có sự tham gia của toàn xã hội, bản thân người nghèo, trong đó nhà nước có

vai trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng, tổ chức, triển khai các

chương trình, chính sách XĐGN nhằm tạo điều kiện hỗ trợ người nghèo, xã

nghèo, vùng nghèo tiếp cận được với các nguồn lực để tự vươn lên thoát

nghèo bằng chính những tiềm năng của mình.

Việt Nam là một trong những điểm sáng thành công trong công tác XĐGN.

Với những chương trình, chính sách, dự án hỗ trợ XĐGN của Nhà nước, cùng với

sự đồng thuận, nỗ lực của toàn xã hội, tỉ lệ đói nghèo của cả nước đã giảm từ trên

18,1% (năm 2004) xuống còn 15,47% (2006), 14,75% (2007), 13,40% (2008),

46

12,3% (2009) và phấn đấu giảm xuống còn 9,45% trong năm nay.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƢỚC

TRONG HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở LẠNG SƠN

2.1. Thực trạng và nguyên nhân nghèo đói ở Lạng Sơn

2.1.1. Thực trạng nghèo đói ở Lạng Sơn

Có thể nói ở Việt Nam đói nghèo có mặt ở hầu hết tất cả các vùng, miền

trong cả nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ vùng đồng bằng cho đến các vùng núi

cao. Tuy nhiên với những đặc điểm riêng về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, trình

độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, nguồn nhân lực…ở các tỉnh miền núi

phía Bắc Việt Nam nói chung và Lạng Sơn nói riêng đã làm cho vấn đề đói nghèo

nơi đây có những đặc điểm riêng biệt so với các vùng khác trong cả nước.

Theo kết quả điều tra xác định hộ nghèo tỉnh Lạng Sơn năm 2005, toàn tỉnh

có 44.001 hộ nghèo chiếm 29,07% so với tổng số hộ dân; trong đó khu vực vùng

nông thôn 42.557 hộ chiếm 34,95%; khu vực thành thị 1.644 hộ chiếm 5,44%;

toàn tỉnh có 47 xã nghèo có tỷ lệ từ 55% trở lên; 291/2303 thôn có tỷ lệ hộ nghèo

từ 70% trở lên, trong đó có 47 thôn có tỷ lệ hộ nghèo 100%. Có 386 hộ nghèo

diện chính sách người có công chiếm 0,19% so với hộ nghèo, 765 hộ nghèo diện

chính sách xã hội chiếm 1,74% so với hộ nghèo; toàn tỉnh có gần 7000 hộ nghèo

chiếm 15,77% so với hộ nghèo có nhà ở tạm, dột nát cần hỗ trợ; số hộ thiếu đất

nông nghiệp là 7.260 hộ chiếm 16,49% so với hộ nghèo toàn tỉnh [40, tr.1].

Bảng 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo đói của Lạng Sơn so với cả nƣớc và khu

vực miền núi phía Bắc

Đơn vị %

Năm Cả nước Trung du và miền núi phía Bắc Lạng Sơn 2004 18,10 29,70 28,50 2006 2009 2007 2008 15,47 14,75 13,40 12,30 27,50 26,50 25,10 23,50 27,05 21,82 18,81 17,85

Nguồn: Tổng hợp từ thời báo kinh tế Việt Nam 2009 - 2010 và báo cáo

47

Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Lạng Sơn

Các tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất so với các tỉnh

trong cả nước, trong đó có Lạng Sơn với các đặc điểm sau:

Thứ nhất, đặc điểm cơ bản của đói nghèo ở Lạng Sơn là đói nghèo

thường rơi vào nhóm hộ thuần nông, độc canh cây lúa và tự cung, tự cấp,

thiếu việc làm nghiêm trọng và việc làm kém hiệu quả, thu nhập quá thấp,

không có khả năng tích lũy và tái sản xuất giản đơn, chịu nhiều thiếu thốn

trong cuộc sống.

Thứ hai, nghèo đói ở Lạng Sơn thường là hậu quả trực tiếp của thiên

tai, mất mùa, của điều kiện địa lý bất lợi. Đa số người nghèo sinh sống trong

các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt

như ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, do sự biến động của thời tiết (bão, lụt,

hạn hán...) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng

thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng

nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Sự tách

biệt đó đã làm cho nguời dân nghèo vùng này khó có thể tự thoát nghèo, vì

vậy họ thường xuyên cần đến sự hỗ trợ của Nhà nước.

Thứ ba, nghèo đói ở Lạng Sơn luôn gắn liền với phong tục tập quán,

phương thức canh tác lạc hậu.

Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi

cao với trên 90% số người nghèo sinh sống ở khu vực này bị cô lập về mặt

địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã

hội cơ bản như y tế, giáo dục... Vì thế đây là nơi có trình độ dân trí rất thấp.

Mặt khác, phần lớn số người nghèo ở vùng này là nhóm dân tộc ít người, họ

là những người có đời sống văn hóa với không ít những phong tục, tập quán

lạc hậu. Những thói quen, phong tục, tập quán lạc hậu này đã ăn sâu vào tiềm

thức của người dân nơi đây. Vì vậy, có thể nói việc thay đổi là không hề đơn

giản. Mặt khác, do điều kiện vị trí, địa lý của một số huyện như Cao Lộc, Chi

48

Lăng, Đình Lập, Hữu Lũng với đặc điểm là núi cao, giao thông đi lại khó

khăn. Chính vì lẽ đó, việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước khó có thể đến được với đồng bào nơi đây. Vì vậy, việc xóa bỏ phong

tục, tập quán lạc hậu lại càng thêm khó khăn. Như vậy, có thể khẳng định,

phong tục tập quán lạc hậu là biểu hiện của trình độ dân trí thấp và trình độ

dân trí thấp luôn gắn với tập tục canh tác, sản xuất lạc hậu và như vậy, nghèo

đói lại thường xuyên diễn ra.

2.1.2. Nguyên nhân nghèo đói ở Lạng Sơn

Thứ nhất, nhóm nguyên nhân thuộc về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội:

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới, nằm ở phía Đông Bắc của Tổ

quốc. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây -

Trung Quốc, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Nam giáp tỉnh Bắc

Giang, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Tây giáp tỉnh Bắc Cạn.

Lạng Sơn có 10 huyện, 1 thành phố gồm 226 xã, phường, thị trấn. Diện tích

tự nhiên là 830.521 ha trong đó diện tích đất lâm nghiệp là 669.265 ha chiếm

80,58% diện tích tự nhiên. Diện tích đất nông nghiệp là 68.958,8 ha chiếm

8,30% còn lại là đất núi đá vôi và sông suối. Dân số là 75,2 vạn người gồm 7

dân tộc chính: Dân tộc Nùng 43,7%, Tày 37%, Kinh 15%, dân tộc Dao 3,6%

ngoài ra là các dân tộc thiểu số khác như Hoa, Sán, Chay, Cao Lan, Mông.

Lạng Sơn là tỉnh đông dân nhất trong các tỉnh miền núi phía Bắc hiện

nay. Tốc độ tăng dân số bình quân 1,45%/ năm, mỗi năm lao động của Lạng

Sơn tăng bình quân từ 7.000 - 10.000 người. Trong tổng số 226 xã, phường,

thị trấn có 163 xã vùng cao, 21 xã biên giới. Trong đó số xã đặc biệt khó khăn

là 102 xã, số xã có đường ô tô đến trung tâm xã (đi lại được 4 mùa) là

190/226 xã chiếm 84%; số xã có điện lưới quốc gia là 214/226 xã chiếm 95%.

Do điều kiện vùng núi cao như vậy, vấn đề giao thông, đi lại giữa trung tâm

xã với trung tâm huyện, tỉnh, giữa các thôn bản với trung tâm xã là cực kỳ

49

khó khăn, đặc biệt là trong mùa mưa. Chính vì lẽ đó công tác tuyên truyền,

vận động nhân dân, thực hiện chính sách, chủ trương của Nhà nước về công

tác xóa đói giảm nghèo không đến hết được với đồng bào dân tộc, vùng núi

cao. Điều này đã làm hạn chế vai trò của Nhà nước trong thực hiện công cuộc

xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn. Vì vậy, đói nghèo thường xuyên xảy ra.

Cơ sở hạ tầng yếu kém chưa phát triển: Thực tế cho thấy cơ sở hạ tầng

gồm điện, nước, giao thông thuỷ lợi, trường học, trạm xá, thông tin liên lạc

còn rất thấp kém. Người dân không có điều kiện tiếp xúc với tiến bộ khoa học

kỹ thuật. Nông lâm nghiệp là ngành sản xuất chủ yếu nhưng điều kiện sản

xuất khó khăn nên năng suất lao động thấp.

Trình độ quản lý còn nhiều hạn chế: Từ khi chuyển đổi cơ chế quản lý

kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự

điều tiết của Nhà nước, đội ngũ cán bộ các huyện miền núi, đặc biệt là ở xã

vùng cao còn ở trình độ thấp, chậm đổi mới và nhiều lúng túng chưa thích

nghi với cơ chế quản lý mới.

Cơ cấu kinh tế chưa hợp lý: Hầu hết dân số ở miền núi sống bằng nghề

nông lâm nghiệp. Công nghiệp, xây dựng dịch vụ... chưa phát triển. Do đó cơ

cấu kinh tế còn mất cân đối. Ngay bản thân ngành trồng trọt cơ cấu cây trồng

vẫn chưa hợp lý, nông dân hầu như chỉ độc canh cây ngô, lúa nhằm giải quyết

nhu cầu trước mắt mà chưa chú trọng đến mục tiêu phát triển bền vững lâu dài.

Ở khu vực này có nhiều ưu thế trồng cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như:

Quýt (huyện Bắc Sơn), na (huyện Chi Lăng), hồi (huyện Văn Quan), vải thiều

(huyện Hữu Lũng)... nhưng trình độ sản xuất yếu kém và điều kiện giao thông,

thuỷ lợi khó khăn nên những thế mạnh này chưa được khai thác triệt để..

Đất canh tác ít: Địa hình vùng núi phức tạp, diện tích đất canh tác ít,

phân bố không đồng đều và điều kiện sản xuất khó khăn nên hệ số sử dụng

đất thấp, nhiều hộ dân do quá túng thiếu, nợ nần nên đã chuyển giao bớt

ruộng đất của mình để gán nợ nên không có phương tiện canh tác, càng làm

50

cho cuộc sống khó khăn.

Bệnh tật ốm đau, những rủi ro và tai hoạ phát sinh đột xuất: Do điều

kiện sống khắc nghiệt, tập tục lạc hậu nên đồng bào các dân tộc vùng núi

thường mắc nhiều bệnh xã hội và bệnh dịch nguy hiểm như sốt rét, lao, bướu

cổ... dẫn đến sức lao động bị giảm sút. Ngoài ra những tai hoạ ập đến đột ngột

như: bão lụt, hoả hoạn, ốm đau... đã làm cho họ cùng quẫn không còn khả

năng lao động hoặc mất nguồn thu nhập chính từ nông nghiệp khó có thể gây

dựng lại cơ nghiệp từ ban đầu.

Thứ hai, nhóm nguyên nhân thuộc cơ chế chính sách:

Trong nền kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tích cực cũng còn

nhiều mặt hạn chế tồn tại như sự phân hoá giàu nghèo, thất nghiệp, phân phối

không đều. Để giải quyết công bằng xã hội và hạn chế những mặt trái của

kinh tế thị trường. Nhà nước đã có những cơ chế, chính sách kịp thời hỗ trợ

cho các huyện, xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn.

Thứ ba, nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan của người nghèo, đói:

Do thiếu vốn sản xuất, thiếu việc làm: Qua phỏng vấn trực tiếp ở các huyện

có tỷ lệ đói nghèo cao như Cao Lộc, Chi Lăng, Đình Lập, Hữu Lũng thì có 91,53%

số hộ trả lời nguyên nhân nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển là do thiếu vốn .

Nguồn vốn ngân hàng phục vụ người nghèo còn hạn hẹp, thủ tục điều kiện ràng

buộc... nên ít thu hút được người dân. Thiếu vốn sản xuất là lực cản lớn nhất hạn

chế sự phát triển sản xuất nâng cao đời sống của đồng bào. Tỷ lệ thất nghiệp cao do

cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, đất canh tác ít, trung bình một người chỉ sử dụng được

từ 40 - 45% quỹ thời gian. Vấn đề này gây ảnh hưởng xấu đến xã hội.

Trình độ dân trí thấp, thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm ăn: Trình độ dân

trí thể hiện ở trình độ học vấn, năng lực nhận thức của con người. Thực tế trình độ

dân trí ở khu vực này rất thấp, nhiều người chưa biết chữ, nhiều người chỉ có trình

độ từ cấp I đến cấp II... do vậy khả năng tiếp thu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ

51

thuật còn hạn chế. Hơn nữa các hộ do thiếu thông tin, đời sống lam lũ quanh năm

lại sử dụng phương pháp canh tác cổ truyền đã ăn sâu vào tiềm thức nên chậm đổi

mới tư duy, bảo thủ, làm cho năng suất chất lượng sản phẩm thấp.

Đẻ nhiều, đông con: Mặc dù Đảng và Nhà nước từ lâu đã vận động thực

hiện chương trình kế hoạch hoá gia đình và sinh đẻ có kế hoạch nhưng nhìn chung

vùng dân tộc miền núi tỷ lệ giảm sinh còn thấp so với khu vực khác. Sinh đẻ nhiều

dẫn đến suy yếu sức khoẻ của mẹ và con, người làm thì ít, người ăn theo thì nhiều

gây ra nạn suy dinh dưỡng, trẻ em ít được chăm sóc học hành dẫn đến tình hình

đói nghèo lại càng trở nên gay gắt và khó giải quyết.

Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo ở Lạng

Sơn. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác như:

Do hậu quả để lại của các cuộc chiến tranh (CSHT bị tàn phá, chất độc hóa

học ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ nhiều thế hệ…); Do ảnh hưởng của cuộc

khủng hoảng kinh tế thế giới (hạn chế xuất khẩu, hạn chế tiêu dùng)… làm xáo

trộn cuộc sống của nhiều người lao động, thu nhập thấp, mất việc làm… đã làm

cho cuộc sống của họ rơi vào cảnh túng thiếu và nghèo đói lại tái diễn.

Từ đặc điểm và nguyên nhân nghèo đói lạc hậu của Lạng Sơn như đã phân

tích cho thấy, nếu cứ để tự phát không có sự can thiệp của Nhà nước thì khoảng

cách giàu nghèo, sự cách biệt về kinh tế xã hội giữa miền xuôi và miền núi sẽ

ngày càng gay gắt, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của cả nước.

2.2. Vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở

Lạng Sơn.

2.2.1. Định hướng và mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Đảng bộ Lạng Sơn khóa

XIV ngày 12 tháng 7 năm 2006 về đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo

giai đoạn 2006 - 2010 đã thể hiện quan điểm chỉ đạo về công tác đẩy mạnh

xóa đói giảm nghèo như sau: “Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động

52

tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong các cấp ủy Đảng và toàn

hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong nhân dân; đẩy mạnh công tác xã hội

hóa, huy động mọi nguồn lực vào việc thực hiện các mục tiêu xóa đói giảm

nghèo. Tạo điều kiện thuận lợi và phù hợp để hộ nghèo, người nghèo tiếp cận

các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tự lực vươn lên thoát nghèo, cải thiện

mức sống một cách bền vững và từng bước làm giàu, ngăn chặn tình trạng tái

nghèo; giúp người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội một cách bình đẳng với các

thành phần khác. Thực hiện các biện pháp giải quyết việc làm, tăng thu nhập;

giảm tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỉ lệ sử dụng thời gian lao

động ở khu vực nông thôn. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân tham gia công cuộc xóa đói giảm nghèo”.

Hội đồng Nhân dân tỉnh khóa XIV kỳ họp thứ 6 đã ra Nghị quyết phê

chuẩn Chương trình xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 với mục tiêu tổng

quát là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng thu nhập, từng bước nâng cao mức sống của các

hộ đói nghèo, tạo môi trường thuận lợi cho người nghèo tiếp cận với dịch vụ sản

xuất, tự lực vượt qua đói nghèo vươn lên khá và giàu; thu hẹp khoảng cách giàu

nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các nhóm hộ giàu và hộ nghèo”.

Theo đó, Lạng Sơn phấn đấu đạt được một số mục tiêu cụ thể như sau: mỗi năm

giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 2 - 3%, hết năm 2010 giảm xuống còn 17%; thu nhập của

nhóm hộ nghèo tăng lên 1,6 lần (vào năm 2010); cải thiện thêm một bước CSHT

thiết yếu và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các xã; bảo đảm 100% người

nghèo được hưởng thụ đầy đủ các chính sách của Nhà nước như chính sách tín

dụng, giáo dục, y tế, khuyến nông, khuyến lâm…

Để đạt được mục tiêu đó, các chính sách về xóa đói giảm nghèo của

Lạng Sơn được xây dựng và tổ chức thực hiện theo định hướng cơ bản sau:

Một là, tạo điều kiện thuận lợi và phù hợp để hộ nghèo, người nghèo

tiếp cận các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tự lực vươn lên thoát nghèo,

cải thiện mức sống một cách bền vững và từng bước làm giàu, ngăn chặn tình

53

trạng tái nghèo;

Hai là, giúp người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục)

một cách bình đẳng với các thành phần khác. Thực hiện các biện pháp giải

quyết việc làm, tăng thu nhập; giảm tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và

nâng cao tỉ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn;

Ba là, thực hiện lồng ghép chương trình xoá đói giảm nghèo với các

chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh; hỗ trợ các xã nghèo

phát triển hạ tầng cơ sở, phát triển sản xuất, dịch vụ, thu hẹp dần khoảng cách

chênh lệch về trình độ phát triển, mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư;

Bốn là, có chính sách khuyến khích, động viên người nghèo phát huy

nội lực, tự vươn lên thoát nghèo, kết hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các

cộng đồng khác thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững. Đẩy mạnh công

tác xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực vào việc thực hiện các mục tiêu xóa

đói giảm nghèo. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể nhân dân tham gia công cuộc xóa đói giảm nghèo.

Chương trình XĐGN giai đoạn 2006- 2010 đã được HĐND tỉnh ra

Nghị quyết. Kế hoạch, mục tiêu XĐGN giai đoạn 2006- 2010 được UBND

tỉnh phê duyệt. Chương trình, mục tiêu XĐGN mang tính khả thi cao, được

các ngành, các cấp quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện, được sự đồng thuận

của đông đảo quần chúng nhân dân. Vì thế hầu hết các huyện, thị đều xây

dựng được chương trình XĐGN thông qua HĐND, tất cả các xã, phường có

ban XĐGN ngày càng chuyên nghiệp đủ điều kiện đón nhận, triển khai các

chương trình XĐGN ở cơ sở mang lại hiệu quả.

2.2.2. Chính sách và chương trình xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn

Chính sách về xóa đói giảm nghèo và các chương trình phục vụ xóa đói

giảm nghèo được coi là đòn bẩy để đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo,

54

bảo đảm các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội đã đề ra.

Bảng 2.2: Tổng hợp chính sách, chƣơng trình giảm nghèo giai đoạn 2006- 2010

TT Chỉ tiêu

ĐVT TH 2006 TH 2007 TH 2008 TH 2009

Ƣ.TH 2010

I

Chính sách tín dụng ƣu đãi

Số lượt hộ nghèo được vay vốn

Hộ 15064 18870 10241 10435 10110

Tổng doanh số cho vay

Trđ 85516 153067 126309 147753 176100

Tổng số hộ dư nợ

Hộ 58219 60918 53892 46143 50140

Tổng số tiền dư nợ

Trđ 265100 331642 371627 414403 466500

II

Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số Tổng kinh phí thực hiện

Trđ

1243

1243

500

500

500

Số hộ nghèo DTTS được hỗ trợ đất SX

Hộ

1096

1096

2000

2000

2000

Tổng diện tích đất được hỗ trợ

ha

248

249

100

100

100

III Dự án khuyến nông-lâm-ngƣ

Tổng kinh phí thực hiện

Trđ

1909

3192

3278

2800

4700

Kinh phí thuộc dự án giảm nghèo

Trđ

250

300

500

800

2700

Vốn huy động khác

Trđ

1659

2892

2778

2000

2000

Số lượt người được tập huấn hội nghị đầu bờ Lượt 62222 114319 103840 100000 100000

Số mô hình lớp thực hiện

MH

20

28

67

60

60

IV Dự án hỗ trợ PTSX-PTNN

Kinh phí

Trđ

1600

6911

9620

8218

21100

Số lượng hộ tham gia

Lượt 1664

14738 16551 12457 14047

V Dự án dạy nghề cho ngƣời nghèo

Tổng kinh phí từ ngân sách nhà nước

0

Trđ

350

665

760

1000

Số người nghèo được dạy nghề

0

Người

270

926

1000

1300

Nguồn: Báo cáo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lạng Sơn năm 2010

Bảng 2.2 cho thấy: Chính sách và chương trình XĐGN của Lạng Sơn rất đa

dạng, gồm nhiều loại như: Chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách hỗ trợ đất sản

xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, dự án dạy nghề cho người nghèo... Lạng Sơn

đã thực hiện lồng nghép nhiều chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ về xóa đói

55

giảm nghèo nhằm đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo trong toàn tỉnh. Trong đó, đặc

biệt là các chương trình như: tín dụng ưu đãi cho người nghèo với số vốn cho vay

hộ nghèo không ngừng tăng qua các năm 126.309 triệu đồng (2008); 147.753

triệu đồng (2009); 176.100 triệu đồng (ước thực hiện 2010); số lượng người nghèo

được dạy nghề 926 người (2008); 1000 người (2009); 1.300 người (2010)...

2.2.2.1. Nhóm chính sách tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản

xuất tăng thu nhập

Chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi hộ nghèo

Cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện các chương trình tín dụng ưu

đãi của Chính phủ cho các hộ nghèo là Ngân hàng Chính sách Xã hội Lạng

Sơn. Nguồn vốn cho vay của Ngân hàng này đã góp phần cho hộ nghèo có

vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế tạo cơ hội cho các hộ

nghèo vươn lên thoát nghèo.

Bảng 2.3: Kết quả cho vay chƣơng trình tín dụng ƣu đãi 2003 - 2009

ĐVT: triệu đồng

Dư nợ Chƣơng trình

2009

Cho vay hộ nghèo

332.642

371.627 416.813

Cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn

13.599

43.442

49.600

Cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường

7.941

21.923

27.345

Cho vay đồng bào dân tộc thiểu số ĐBKK

1.440

6.080

9.078

Cho vay giải quyết việc làm

36.356

41.803

52.400

Cho vay hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn

29.456

145.447 199.99

Cho vay đi lao động có thời hạn ở nước ngoài

28.896

22.321

23.975

2003-2007 2008

Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Lạng Sơn 2003- 2009

Tổng nguồn vốn tín dụng hộ nghèo được thực hiện thông qua Ngân

hàng Chính sách Xã hội tính đến hết năm 2009 là 416.813 triệu đồng tăng

201.400 triệu đồng so với năm 2006; cơ cấu vốn 391.315 triệu đồng vốn trung

56

ương; 23.088 triệu đồng vốn địa phương. Tổng dư nợ đến 31/12/2009:

416.813 triệu đồng với 46.143 hộ dư nợ, bình quân dư nợ cho vay đạt 9,3

triệu/hộ; mạng lưới tín dụng hộ nghèo phủ 100% các xã, phường, thị trấn. Đã

mở được 198 điểm giao dịch trên địa bàn toàn tỉnh, thành lập trên 3.038 tổ tiết

kiệm và vay vốn do các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội quản lý. Đó là biểu

hiện tích cực về cải cách thủ tục hành chính của Ngân hàng, giúp cho người

nghèo vùng sâu, vùng xa làm thủ tục nhanh chóng, thuận tiện, giảm chi phí đi

lại tiếp cận các dịch vụ cho vay vốn hộ nghèo, đảm bảo vốn an toàn, hạn chế

tiêu cực. Trên 60 % vốn đã tập trung cho vay vùng khó khăn, giúp các hộ

nghèo đầu tư trồng rừng, trồng cây công nghiệp, phát triển trang trại, nuôi trâu

bò, sản xuất kinh doanh nhỏ; góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hoá, nâng cao

thu nhập cho người dân. Kết quả trong 5 năm đầu tư được 55.099 con lợn sinh

sản và lợn thịt, 7.871 con trâu bò, 11.020 con dê, 60 tấn tôm cá các loại,

550.996 con gà vịt, trồng mới được 1.871 ha rừng, 3.658.000 cây ăn quả các

loại như na, hồng, cam…[40, tr.3]

Chương trình 134 hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở và nước sạch sinh hoạt

cho hộ nghèo dân tộc thiểu số.

Ban Dân tộc là cơ quan chịu trách nhiệm thực hiện chương trình này. Theo

kết quả điều tra đầu giai đoạn 2006- 2010, Lạng Sơn có trên 7260 hộ nghèo thuộc

diện sản xuất nông nghiệp thiếu đất canh tác; 6939 hộ nghèo có nhu cầu cần được

hỗ trợ về nhà ở, trong đó khoảng 1/3 số hộ có khả năng huy động được nguồn lực

của địa phương, họ hàng, dòng họ. Tính đến hết năm 2009, Lạng Sơn đã đầu tư

104.761 triệu đồng để hỗ trợ đất ở, xóa nhà tạm, đất sản xuất, nước sạch...

Trong đó hỗ trợ nhà ở cho 9.116 hộ, hỗ trợ 87,485 ha đất ở cho 1.087 hộ

nghèo, hỗ trợ đất sản xuất cho 4.192 hộ; hỗ trợ nước sạch cho 16.305 hộ;

trong đó nước sạch phân tán hỗ trợ cho 9.254 hộ với kinh phí là 35.451 triệu

57

đồng [39, tr.7].

Tổng cộng 4 năm

Trong đó vốn huy động khác

Kinh phí (triệu đồng)

Số hộ

(2005-2009)

(triệu đồng)

Tổng nguồn

vốn huy động

TT Đơn vị

TH

TH

TH

Vốn

TH

TH

TH

TH

TH

(triệu đồng)

Hộ

(2005-

(2005-

(2005-

TH (2008)

(tr.đ)

(2008)

(2009)

(2008)

(2009)

(2009)

2006)

2006)

2006)

Bảng 2.4: Kết quả thực hiện chƣơng trình hỗ trợ về nhà ở (2005-2009)

9099

60458

19500 18580 10678

11700

3900

3900

3900

3900

3716

1483

Tổng số

1241

7633

2050

3705

648

410

410

410

410

741

90

Bắc Sơn

1

1230

1074

7112

2500

2320

792

500

500

500

500

464

110

Bình Gia

2

1500

Văn Quan

888

6076

2250

1540

936

450

450

450

450

308

130

3

1350

Tràng Định

1101

7112

2300

2690

741

460

460

460

460

538

103

4

1380

892

6053

1450

2840

982

290

290

290

290

568

124

Văn Lãng

5

870

4904

1350

1160

1584

722

270

270

270

270

232

220

Cao Lộc

6

810

5311

1750

200

2311

711

350

350

350

350

40

321

Lộc Bình

7

1050

3856

1800

400

576

520

360

360

360

360

80

80

Đình Lập

8

1080

5948

1850

1980

1008

906

370

370

370

370

396

140

Chi Lăng

9

1110

864

10 Hữu Lũng

5733

1750

1745

1188

350

350

350

350

349

165

1050

90

11 TP Lạng Sơn

720

450

0

0

90

90

90

90

0

0

270

58

Nguồn: Báo cáo Sở Lao động- Thương binh Xã hội tỉnh Lạng Sơn năm 2009.

Nước sạch phân tán

Nước sinh hoạt tập trung

Kinh phí

Cộng TH (2005-2009)

Kinh phí

Hộ

Công trình

Hộ

Cộng TH (2005-2009)

TT

Đơn vị

Vốn

Hộ

Vốn

Hộ

Công trình

BS năm 2008

TH năm 2009

TH năm 2008

BS năm 2008

TH năm 2009

TH năm 2008

TH năm 2008

TH năm 2009

TH năm 2008

TH năm 2009

TH năm 2008

TH năm 2009

Bảng 2.5: Chƣơng trình hỗ trợ nƣớc sạch sinh hoạt đồng bào dân tộc thiểu số (2005-2009)

Tổng số

4283

15662 2080

1339

864

6931

6931

4800

28952 5062

63

16093 12859 2512

2550

38

25

Bắc Sơn

1

992

3986

575

345

72

1918

1918

150

3400

541

9

1600

1800

249

292

4

5

Bình Gia

2

498

1890

261

165

72

870

870

150

3289

328

8

1589

1700

158

170

4

4

Văn Quan

3

482

1810

249

161

72

830

830

150

3555

527

7

1855

1700

266

261

4

3

Tràng Định

4

320

1012

114

86

120

381

381

250

2701

722

3

1801

900

562

160

2

1

Văn Lãng

5

198

526

41

37

120

138

138

250

1700

179

4

1200

500

123

56

3

1

Cao Lộc

6

353

1295

168

101

84

560

560

175

2343

217

6

1543

800

112

105

4

2

Lộc Bình

7

348

1207

155

109

84

516

516

175

2220

534

7

1520

700

434

100

6

1

Đình Lập

8

378

1348

183

135

60

609

609

125

2008

114

3

1308

700

66

48

2

1

Chi Lăng

9

508

1975

278

170

60

925

925

125

2933

441

5

1233

1700

122

319

2

3

10 Hữu Lũng

200

582

50

30

120

166

166

250

3384

1053

6

1575

1809

103

950

3

3

406

5

869

550

317

89

4

1

1419

36

18

18

0

5

0

11 TP Lạng Sơn 5 0 Nguồn: Báo cáo Sở Lao động - Thương binh Xã hội tỉnh Lạng Sơn năm 2009.

59

Theo báo cáo tình hình thanh toán vốn chương trình 134 năm 2009 của

Kho bạc nhà nước Lạng Sơn (chương trình 134 là tên gọi thông dụng của

Chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng

bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, được triển khai từ năm 2004

theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ), chỉ tính

riêng trong năm 2009, toàn tỉnh đã giải ngân được 32.317 triệu đồng cho 52

dự án có khối lượng hoàn thành, bằng 87% kế hoạch năm và bằng 30,8% so

với tổng nguồn vốn đã giải ngân của 5 năm 2005-2009. Điều này thể hiện tốc

độ giải ngân phục vụ cho các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm

nghèo đã có những bước tiến triển đáng kể, nguồn vốn đầu tư của chương

trình đã đến được với người dân nghèo và thực sự phát huy hiệu quả, đem lại

những lợi ích thiết thực, góp phần giải quyết cơ bản vấn đề khó khăn về nhu

đất, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số.

Hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm cho lao động nghèo.

Dạy nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn, nhất là người nghèo,

người tàn tật được Nhà nước quan tâm chỉ đạo triển khai. Tổng nguồn vốn hỗ

trợ cho dạy nghề từ năm 2007 dự tính đến năm 2010 là 5.275 triệu đồng, (năm

2007 được giao kinh phí 350 triệu đồng, năm 2008 tăng lên 665 triệu đồng,

năm 2009 là 760 triệu đồng, năm 2010 là 3.500 triệu đồng), đã tổ chức dạy

nghề được trên 50 lớp với nhiều nhóm nghề phù hợp như: cơ khí, nông

nghiệp, điện dân dụng, thú y, chăn nuôi, trồng trọt…

Sau gần 4 năm triển khai công tác dạy nghề cho người nghèo nói riêng, lao

động nông thôn nói chung, tổ chức đào tạo được trên 26.000 lượt lao động trong

đó đào tạo cho 4000 người nghèo, đào tạo trung cấp nghề trên 4.000 người, sơ cấp

nghề trên 8.000 người, dạy nghề thường xuyên trên 12.000 người; thực hiện đề án

đào tạo nghề cho lao động nông thôn có 19.757 người được đào tạo, kết quả tỷ lệ

60

lao động qua đào tạo tăng từ 19,6% năm 2005 lên 30% năm 2009.

Tính đến nay Lạng Sơn đã có 4/11 Trung tâm dạy nghề do cấp huyện

quản lý và 02 cơ sở dạy nghề có cơ sở vật chất đảm bảo như Trường trung

cấp nghề Việt Đức trực thuộc Sở LĐTB&XH, trường Trung cấp nghề cơ điện

và kỹ thuật nông lâm Đông Bắc trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn và các cơ sở dạy nghề khác thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh, Hội

Phụ nữ tỉnh. Sau 2 năm triển khai công tác dạy nghề cho người nghèo, nhiều

ngành nghề mới đã được mở ra phục vụ cho nông thôn, nông dân, góp phần

chuyển đổi cơ cấu kinh tế, lao động nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn.

Chương trình 135 hỗ trợ phát triển xã đặc biệt khó khăn.

Bảng 2.6: Tổng hợp nguồn vốn thực hiện chƣơng trình 135 năm 2009

Đơn vị tính: 1000 đồng.

TT Huyện, thành phố Vốn đầu tư Vốn sự nghiệp

Tổng số:

83.105.488

21.823.770

01 Tràng Định

7.747.175

1.691.514

02 Văn Lãng

6.992.166

933.710

03 Bắc Sơn

6.124.097

711.000

04 Bình Gia

15.012.692

3.231.665

05 Văn Quan

10.305.081

1.522.870

06 Cao Lộc

7.843.658

2.704.099

07 Lộc Bình

8.605.860

1.064.158

08 Đình Lập

8.965.551

1.650.908

09 Chi Lăng

5.775.403

970.620

10 Hữu Lũng

5.733.805

493.729

Nguồn: Báo cáo thực hiện chương trình 135 - Kho bạc Nhà nước Lạng Sơn

Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền

núi, vùng sâu, vùng xa theo quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998

của Thủ tướng Chính phủ là một trong những chương trình thể hiện sự quan

61

tâm của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào các xã đặc biệt khó khăn vùng sâu,

vùng xa, vùng biên giới. Chương trình 135 được chia làm 2 giai đoạn. (Giai

đoạn 1 thực hiện từ năm 1999 đến năm 2005, giai đoạn 2 thực hiện từ năm

2006 đến năm 2010).

Giai đoạn I, Lạng Sơn có 106 xã được hưởng lợi từ chương trình 135.

Tổng nguồn vốn huy động cho chương trình là 234,2 tỷ đồng. Trong đó

nguồn ngân sách nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 221 tỷ đồng;

ngân sách địa phương là 5 tỷ đồng; các doanh nghiệp hỗ trợ đầu tư là 7,1 tỷ

đồng; nguồn huy động tại chỗ của nhân dân địa phương đóng góp (ngày công

lao động, giải phóng mặt bằng, vận chuyển nguyên vật liệu...) là 1,1 tỷ đồng.

Kết quả thực hiện chương trình 135 giai đọan I Lạng Sơn đã xây dựng được

743 công trình gồm 365 công trình giao thông, 74 công trình thủy lợi, 27 công

trình nước sạch, 53 công trình cấp điện, 180 công trình trường học, nhà ở giáo

viên và nhiều công trình khác như trạm y tế xã, chợ xã...

Bước vào giai đoạn 2006-2010, Lạng Sơn được phê duyệt 74 xã đặc

biệt khó khăn với tỷ lệ nghèo bình quân 27,34 %, dân tộc thiểu số chiếm

94,07 %. Tổng kinh phí được giao từ 2006-2010 là 402.919 triệu đồng, đã

được thực hiện đạt 98% kế hoạch, chia thành các hợp phần sau:

- Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất: Kinh phí giao 47.499 triệu hỗ trợ cho

59.457 lượt hộ, số lượt hộ nghèo được thụ hưởng, hỗ trợ 16,2 tấn giống cây

lương thực, 0,2 tấn cây giống cây công nghiệp, 164.373 cây giống công

nghiệp dài ngày, 740.597 cây ăn quả các loại, 420.580 cây giống lâm nghiệp,

188 con trâu bò, 2.524 con lợn, 768 con gà giống, 890 tấn phân vô cơ, 1.724

công cụ lao động các loại.

- Dự án phát triển cơ sở hạ tầng Kế hoạch giao 296.995 triệu đầu tư được

217 công trình giao thông, cải tạo nâng cấp 18 công trình thủy lợi, xây mới 50

công trình điện, 28 công trình trường học với 58 phòng học tương đương

62

1.954m2, xây mới 14 nhà trạm y tế, 24 công trình nhà văn hóa cộng đồng.

- Dự án nâng cao năng lực cán bộ và cộng đồng kế hoạch giao 17.560

triệu đồng đào tạo 46.949 lượt người trong đó cán bộ: 18.432 lượt người, đối

tượng cộng đồng: 31.217 lượt người.

- Chính sách hỗ trợ và cải thiện đời sống nhân dân nâng cao nhận thức,

trợ giúp pháp lý kế hoạch giao 40.915 triệu đồng thực hiện 40.915 triệu đạt

100% cụ thể hỗ trợ cho học sinh, sinh viên con hộ nghèo 28.275 lượt em, cải

thiện môi trường được 11.006 hộ, hỗ trợ pháp lý được 135 lượt xã và 103 lượt

thôn bản.

Ngoài ra còn các chính sách khác như trợ cước, trợ giá tiếp tục được hỗ

trợ, tổng kinh phí 5 năm là 37.573 triệu đồng, bình quân mỗi năm hỗ trợ

7.514 triệu đồng đạt 100% kế hoạch góp phần giữ vững an ninh lương thực

của tỉnh, đặc biệt với chính sách này toàn tỉnh đã áp dụng chính sách một giá

vật tư nông nghiệp từ tỉnh đến xã; hỗ trợ các hộ vay vốn được: 7.525 triệu

đồng với 1627 lượt hộ được vay đã đầu tư được 105 con trâu bò, 596 con lợn,

5750 con gà vịt, trồng được 4.300 cây ăn quả.

Chương trình 135 giai đoạn 2 qua 5 năm triển khai đã giúp 13 xã hoàn

thành đạt mục tiêu và ra khỏi chương trình, đẩy nhanh tiến độ bê tông hoá hệ

thống thuỷ lợi, kết hợp với chính sách khuyến nông, khuyến lâm chuyển đổi

cơ cấu vụ mùa và các cây trồng vật nuôi, trợ giá, trợ cước .. đã góp phần cho

các xã 135 tự túc được lương thực thực phẩm, cơ bản chấm dứt được tình

trạng di cư tự do, cải thiện đời sống sinh hoạt cho đồng bào vùng sâu vùng xa,

khuyến khích học sinh nghèo đi học và một phần nâng cao nhận thức pháp lý

cho người dân.

Hỗ trợ khuyến Nông - Lâm - Ngư và phát triển sản xuất, phát triển

ngành nghề:

Sau 3 năm triển khai thực hiện, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn (Sở NN&PTNT) Lạng Sơn đã tổ chức được 7.419 lớp chuyển giao khoa

học kỹ thuật cho 280.381 người tham gia. Xây dựng và chuyển giao được 87

63

mô hình khuyến nông, lâm, ngư nghiệp; hỗ trợ lâm nghiệp cho 33.134 hộ với

tổng kinh phí hỗ trợ là 33.207 triệu đồng. Qua chương trình khuyến nông,

lâm, ngư nhiều hộ gia đình nghèo ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa đã nắm bắt

thêm được những kiến thức cơ bản về kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, thú y,

bảo vệ thực vật, sử dụng máy móc công cụ lao động, chế biến nông sản, kiến

thức về tín dụng, xây dựng kế hoạch và quản lý chi tiêu trong gia đình…, vì

vậy họ có thêm cơ hội và điều kiện vươn lên thoát khỏi đói nghèo.

Theo biểu tổng hợp chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006-2009 của

Sở NN&PTNT Lạng Sơn, tỷ lệ kết quả thực hiện các chương trình giảm

nghèo năm 2009 phần đa đều tăng so với năm 2006 như: tập huấn kỹ thuật

tăng 1.129 lớp với số người tập huấn được tăng thêm là 41.618 người; mô

hình trồng trọt tăng thêm 14 mô hình; các chỉ tiêu về chính sách trợ cước, trợ

giá, kinh phí giành cho các dự án hỗ trợ các chương trình giảm nghèo đều

tăng thêm. Điều này thể hiện sự quan tâm, đầu tư thực hiện các dự án khuyến

nông - lâm - ngư và hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề của các cơ

quan chức năng ở Lạng Sơn đã theo xu hướng chú trọng hơn đến vấn đề chất

lượng, bền vững, tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc nâng cao thêm những

kiến thức cơ bản về khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.

2.2.2.2. Nhóm chính sách tạo điều kiện người nghèo tiếp cận với các

dịch vụ xã hội cơ bản

Chỉ tiêu

ĐVT TH 2006 TH 2007 TH 2008 TH 2009

TT

Ư.TH 2010

Bảng 2.7: Tổng hợp chƣơng trình giảm nghèo giai đoạn 2006-2010

I

Trđ

9073

19160 20520 39897 122850

Người 302462 239451 214372 179897 350000

Lượt

24245 52620 68000 50000 40000

II

1055

1075

1046

Chính sách hỗ trợ về y tế cho ngƣời nghèo Tổng kinh phí mua thẻ Số người nghèo được mua thẻ BHYT Số lượt người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho ngƣời nghèo Tổng kinh phí thực hiện Số học sinh nghèo được hỗ trợ

1025 1077 Trđ 20156 20500 19951 19987 2098 HS Nguồn: Báo cáo Sở Lao động- Thương binh Xã hội tỉnh Lạng Sơn năm 2010

64

Chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo

Để đảm bảo công bằng trong y tế, chăm sóc sức khỏe cho toàn dân, đặc

biệt là người nghèo, Lạng Sơn đã có nhiều giải pháp như củng cố và hoàn

thiện mạng lưới y tế cơ sở, đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu có chất

lượng tới gần người nghèo, vùng nghèo, triển khai tốt các chương trình mục

tiêu quốc gia "phòng chống sốt rét, phong, lao, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng,

khám chữa bệnh nhân đạo... Công tác hỗ trợ y tế cho người nghèo đã được

các cấp, các ngành, tích cực triển khai phổ biến, tuyên truyền, lập danh sách,

cấp thẻ và tổ chức khám chữa bệnh, đã thu hút được nhiều người nghèo đến

các cơ sở y tế để khám chữa bệnh.

Kết quả gần 5 năm thực hiện (2006- 2010) tổng kinh phí đầu tư

211.500 triệu đồng để mua và cấp 1.286.183 lượt thẻ BHYT cho người

nghèo. Chính sách cấp thẻ BHYT cho người nghèo là một trong những mục

tiêu tiến tới BHYT toàn dân, chất lượng khám chữa bệnh từng bước nâng lên,

cơ sở vật chất và trang thiết bị được tăng cường, các bệnh viện tuyến huyện

được đầu tư nâng cấp, trình độ đội ngũ y bác sỹ đã nâng lên. Năm 2009 có

190 xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế, đạt 84,1% tăng 145 xã so

với năm 2004; 75% trạm y tế xã, phường, thị trấn có bác sỹ; toàn tỉnh đạt 19,3

giường bệnh/vạn dân. Công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em được quan tâm

thường xuyên, tỷ lệ trẻ em được tiêm đủ 7 loại vacxin đạt 95%, tỷ lệ trẻ em

dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng là 21% giảm 7,9% so với năm 2004. Người nghèo

được cấp thẻ BHYT, cũng đồng thời được tiếp cận với các dịch vụ khám chữa

bệnh dễ dàng, thuận tiện góp phần thực hiện mục tiêu xã hội hóa công tác y

tế, nâng cao các hoạt động bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng ngày

càng tốt hơn nhu cầu khám chữa bệnh, tạo được niềm tin đối với người bệnh

và nhân dân, khống chế các bệnh dịch nguy hiểm xảy ra…Đặc biệt tại các

tuyến xã số lần khám chữa bệnh đã tăng lên đáng kể, đạt 136,2% kế hoạch,

65

bằng 1,46 lần khám bệnh /người/năm [40, tr.6].

Qua đánh giá chung từ khi các đối tượng người nghèo được cấp thẻ

BHYT, người nghèo đã được tiếp cận với các dịch vụ khám chữa bệnh công

của Nhà nước rất dễ dàng, thuận tiện góp phần đáng kể vào công tác giảm

nghèo của tỉnh nói riêng và của chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo

nói chung.

Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo

Quy mô, chất lượng giáo dục đào tạo, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho

dạy và học được tăng cường. Hỗ trợ cho 101.949 lượt học sinh nghèo, nội

dung hỗ trợ chủ yếu là miễn giảm học phí và các khoản đóng góp, cấp sách

giáo khoa, vở viết và dụng cụ học tập với tổng kinh phí và các khoản đóng

góp, cấp sách giáo khoa, vở viết và dụng cụ học tập với tổng kinh phí lên đến

12.882 triệu đồng, góp phần hạn chế các em học sinh nghèo bỏ học, khuyến

khích đến trường. Chính sách hỗ trợ phổ cập trung học cơ sở mỗi năm hỗ trợ

một lần cho trên 3000 lượt em học sinh là con hộ nghèo dân tộc thiểu số, học

sinh tàn tật, mồ côi góp phần vào hoàn thành mục tiêu phổ cập trung học cơ

sở vào năm 2006, hết năm 2009 có 215/226 xã, phường, thị trấn đạt phổ cập

giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đạt 95,1%.

2.2.2.3. Nhóm chính sách nâng cao năng lực nhận thức, ý thức trách

nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức và người dân đối với công tác

giảm nghèo

Dự án đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ trực tiếp làm công tác

giảm nghèo các cấp

Công tác đào tạo nâng cao năng lực cán bộ làm công tác giảm nghèo đã

được tổ chức triển khai với nhiều hình thức, giải pháp đồng bộ. Với kinh phí

được giao 1.869 triệu đồng tổ chức đào tạo được 9.594 lượt cán bộ làm công

66

tác giảm nghèo các cấp.

Năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện chương trình giảm nghèo với sự

phối hợp cùng với Ban chỉ đạo giảm nghèo các huyện sở LĐ-TB&XH đã mở

được 24 lớp với 3.654 lượt cán bộ tham gia, năm 2007 kết hợp với các ngành

mở được 20 lớp với 2.885 người tham gia năm 2008 mở được 6 lớp tại tỉnh số

cán bộ tham gia là 450 người. Đưa 90 cán bộ giảm nghèo tại các xã đi thực tế

học tập các mô hình giảm nghèo tại các tỉnh bạn. Đối tượng tập trung chủ

yếu là cán bộ xã, cán bộ thôn, bản, cán bộ tăng cường làm công tác giảm

nghèo trên toàn tỉnh không phân biệt các xã đặc biệt khó khăn.

Công tác đào tạo đã góp phần nâng cao nhận thức và kỹ năng nghiệp

vụ, trao đổi kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ giảm nghèo các cấp. Nhưng việc

đào tạo mới chỉ dừng ở mức độ phổ biến chính sách, việc đào tạo bồi dưỡng

kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn còn hạn chế.

Công tác truyền thông giảm nghèo

Công tác truyền thông giảm nghèo được trú trọng với nhiều hình thức

như cung cấp báo, tạp trí miễn phí đến tất cả các xã, phường thị trấn qua tất cả

các phương tiện thông tin báo đài, tạp chí từ Trung ương đến huyện, thành

phố. Công tác truyền thông mới được đưa vào mục tiêu bổ sung của chương

trình MTQG nhưng đã thật sự hiệu quả làm chuyển biến và góp phần nâng

cao nhận thức cho cán bộ, người dân và đặc biệt là người nghèo trong việc

vươn lên trong cuộc chiến giảm nghèo.

Trong 5 năm, công tác truyền thông giảm nghèo được chú trọng với

nhiều hình thức phong phú, như tuyên truyền thông qua các đợt phát động

quần chúng nhân dân tham gia phong trào XĐGN của các tổ chức đoàn thể

chính trị, xã hội. Từ năm 2008 công tác truyền thông giảm nghèo đã được

chương trình cân đối kinh phí, ngoài các hình thức tuyên truyền, ban chỉ đạo

giảm nghèo đã thay đổi bổ sung hình thức tuyên truyền mới thông qua các

67

phương tiện thông tin đại chúng nhằm chuyển tải những chính sách mới

nhanh chóng và kịp thời, cung cấp mỗi năm miễn phí gần 40.000 tờ báo Lao

động xã hội, tạp chí giảm nghèo. In và cấp 3000 cuốn cẩm nang giảm nghèo

đến tất cả các xã, phường thị trấn. Biên soạn cuốn sách “Những mô hình điểm

trong xóa đói giảm nghèo” đã in được 2500 quyển cấp cho các xã, phát hành

hơn 40.000 tờ rơi, đưa tin về các gương sáng đã khắc phục khó khăn vươn lên

làm giàu chính đáng trên báo, Đài phát thanh và đài truyền hình Lạng Sơn.

2.2.2.4. Xã hội hoá các nguồn lực thực hiện Chương trình xóa đói giảm nghèo

Vận động ủng hộ quỹ vì người nghèo, quỹ hỗ trợ nông dân

Quỹ vì người nghèo: Đã được Uỷ ban Mặt trận tổ quốc các cấp quyên

góp, vận động được 5.950 triệu đồng trong đó cấp tỉnh 3.067 triệu đồng; cấp

huyện 2.341 triệu đồng; cấp xã 538,4 triệu đồng; Hoạt động của quỹ các cấp

đã hỗ trợ 839 hộ được cải thiện nhà ở; trợ cấp cho 80 hộ nghèo được hỗ trợ

Sản xuất; Hỗ trợ cho 55 trẻ em khuyết tật con hộ nghèo được điều trị, chăm

sóc sức khoẻ. Hỗ trợ cứu đói được 36 hộ.

Quỹ hỗ trợ nông dân: Trong 5 năm ngân sách tỉnh hỗ trợ thông qua Hội

nông dân tỉnh cùng với nguồn vận động của Hội nông dân các cấp đã nâng

tổng quỹ lên 5.502 triệu đồng, quỹ sử dụng cho vay chăn nuôi trâu bò, nuôi

lợn, trồng cây ăn quả. Quỹ đã tạo sự chủ động cho Hội Nông dân cơ sở giúp

đỡ nhau vươn lên thoát nghèo, tình đoàn kết tương thân tương ái được tăng

cường, phong trào nông dân hoạt động có hiệu quả, thu hút được nhiều nông

dân vào tổ chức Hội, xây dựng cơ sở Hội vững mạnh, thực sự làm nòng cốt

trong phong trào nông dân, xây dựng nông thôn mới.

Công tác cứu trợ xã hội đột xuất, cứu đói giáp hạt là một trong những

nhiệm vụ chính đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn, các cơ sở đều chủ động

giải quyết nhanh, kịp thời, giúp các đối tượng này sớm ổn định đời sống và

sản xuất. Sau gần 5 năm toàn tỉnh đã trợ giúp cho 459.030 người, kinh phí

176.972 triệu đồng. Từ những hỗ trợ trên đã bù đắp mất mát thiếu hụt, động

68

viên và giúp đối tượng nghèo, khó khăn nhanh chóng ổn định.

Hoạt động tham gia giảm nghèo của các tổ chức Hội, Đoàn thể

Với nhiều hình thức, nội dung hoạt động đa dạng, công tác giảm nghèo

của các hội đoàn thể các cấp có đóng góp to lớn vào kết quả chung của

Chương trình giảm nghèo. Các cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn

hoá khu dân cư ”; toàn dân ủng hộ Quỹ vì người nghèo; Vận động ủng hộ quỹ hỗ

trợ nông dân; phong trào mái ấm tình thương … đặc biệt là việc đứng ra bảo lãnh,

tín chấp cho hội viên, đoàn viên vay vốn giảm nghèo; hướng dẫn kinh nghiệm làm

ăn, kỹ thuật sản xuất kinh doanh, nâng cao đời sống, tương trợ và phân công giúp

hội viên, đoàn viên nghèo có địa chỉ đã giúp hội viên sớm thoát nghèo.

Ngân hàng Chính sách- Xã hội Lạng Sơn đã thực hiện ủy thác cho vay

qua 4 tổ chức CTXH: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến

binh và Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

ĐVT: triệu đồng

Bảng 2.8: Kết quả ủy thác cho vay qua các tổ chức Chính trị - Xã hội

Dƣ nợ ủy thác đến 31/12/2009

STT

Tên tổ chức chính trị - xã hội

Số tổ tiết kiệm và vay vốn

Số hộ còn dƣ nợ

Tổng số

Tỷ trọng dƣ nợ (%)

Trong đó Nợ quá hạn

01

Hội Phụ nữ

367.080

3.253

59,3

1.635

44.339

02

171.644

2.811

27,7

1.007

21.654

Hội Nông dân

03

Hội Cựu chiến binh

54.757

517

8,9

283

6.797

04

Đoàn thanh niên

25.289

183

4,1

107

2.805

Tổng cộng

618.779

6.764

100

75.595

3.032 Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Lạng Sơn 2009

Các tổ chức CTXH đã thực sự là cầu nối giữa Ngân hàng Chính sách

Xã hội tới các hộ vay, là cánh tay dài vươn tới các thôn bản vùng sâu, vùng

xa, vùng cao, biên giới để tuyên truyền các chương trình tín dụng ưu đãi của

69

Chính phủ và lồng ghép có hiệu quả các mô hình xóa đói giảm nghèo.

2.2.2.5. Nhóm các chính sách xã hội khác góp phần xóa đói giảm nghèo

Cùng với việc thực hiện các dự án hỗ trợ vốn trực tiếp cho người

nghèo, vốn thực hiện lồng ghép thông qua các chương trình, dự án, các chính

sách đặc thù riêng của Lạng Sơn để thực hiện xóa đói giảm nghèo thì các

chính sách khác có liên quan đến xóa đói giảm nghèo cũng được thực hiện

khá đồng bộ, có tác động tích cực đến kết quả thực hiện mục tiêu phát triển

kinh tế-xã hội và xóa đói giảm nghèo. Trong những năm vừa qua, tỉnh Lạng

Sơn đã vận dụng linh hoạt, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và

Nhà nước để ban hành và tổ chức triển khai thực hiện một số chính sách hỗ

trợ sản xuất, đời sống cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh một cách có hiệu

quả. Một số chính sách chủ yếu là:

- Chính sách trợ cước, trợ giá: Hàng năm Lạng Sơn được Trung ương

hỗ trợ kinh phí cho các chương trình mục tiêu như chương trình trợ giá giống

cây lương thực, trợ giá các mặt hàng chính sách, trợ giá vận chuyển sản phẩm

địa phương với tổng kinh phí trong các năm 2003 - 2005 là 48,8 tỷ đồng. Năm

2006 - 2008 được hỗ trợ mỗi năm trên 6 tỷ đồng. Ngoài ra, ngân sách địa

phương cũng đã hỗ trợ chương trình trợ cước, trợ giá hàng năm từ 2 đến 3 tỷ

đồng. Chính sách trợ cước, trợ giá đã góp phần khuyến khích sản xuất phát

triển, chuyển dịch cơ cấu sản xuất hàng hóa, nâng cao đời sống nhân dân, góp

phần tích cực xóa đói giảm nghèo.

- Chính sách hỗ trợ vốn, lãi suất vay: Tỉnh đã ban hành một số chính

sách hỗ trợ vốn, lãi suất vay như chính sách phát triển đàn bò, phát triển cây

chè, hỗ trợ vay tín dụng mua máy nông nghiệp, vốn vay trồng cây lâm nghiệp,

cây ăn quả... Kết quả đã có 816 hộ mua được 2.046 con bò với tổng số tiền

trên 4,98 tỷ đồng; trồng được 16.326 ha cây lâm nghiệp, 5.256 ha cây ăn quả.

- Chính sách tăng cường công chức có thời hạn về các xã đặc biệt khó

70

khăn: Để giúp chính quyền cấp xã, đặc biệt là các xã đặc biệt khó khăn, tỉnh Lạng

Sơn đã có cơ chế bố trí công chức cấp tỉnh về tăng cường cho các xã đặc biệt khó

khăn với thời hạn 3 năm. Kết quả đã có 97 cán bộ về công tác tại 75 xã để giúp

chính quyền cấp xã xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo.

2.2.3. Tổ chức thực hiện xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn

2.2.3.1. Hệ thống chỉ đạo thực hiện

Thực hiện Nghị quyết số 03/NQ- TƯ, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành

Nghị quyết số 58/2006/NQ- HĐND ngày 21/7/2006 về Chương trình xóa đói

giảm nghèo giai đoạn 2006- 2010, đồng thời Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành

Kế hoạch số 69/KH- UBND ngày 22/12/2007 về triển khai Chương trình mục

tiêu Quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006- 2010 trên địa bàn Lạng Sơn.

Ủy ban nhân dân tỉnh ra Quyết định số 1152/QĐ- UBND ngày

29/6/2007 về kiện toàn Ban chỉ đạo giảm nghèo tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2006

- 2010 và Quyết định số 2199/QĐ- BCĐ ngày 26/11/2007 ban hành Quy chế

hoạt động của Ban chỉ đạo giảm nghèo tỉnh.

Trong đó trưởng ban chỉ đạo giảm nghèo tỉnh là Phó chủ tịch UBND

tỉnh; Giám đốc Sở LĐ-TBXH là Phó trưởng ban Thường trực; Phó Giám đốc

Sở Kế hoạch và Đầu tư và Cục trưởng Cục Thống kê Lạng Sơn là Phó

Trưởng ban. Các thành viên tham gia ban chỉ đạo bao gồm: Giám đốc Sở Tài

chính - Vật giá; Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;

Trưởng Ban Dân tộc; Phó Giám đốc sở Y tế; Phó Giám đốc sở Giáo dục -

Đào tạo; Phó Giám đốc Sở LĐ-TB&XH; Giám đốc Ngân hàng Chính sách -

Xã hội. Ngoài ra, tỉnh còn mời các thành viên tham gia bao gồm: Chủ tịch

UBMTTQ Việt Nam tỉnh; Chủ tịch Hội nông dân; Chủ tịch hội LHPN; Bí thư

Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Chủ tịch hội Cựu chiến binh tỉnh.

Ở cấp huyện, thành lập Ban chỉ đạo giảm nghèo cấp huyện do Phó Chủ

tịch huyện làm trưởng ban, trưởng phòng LĐ-TB&XH làm phó ban thường

trực; các thành viên ban giảm nghèo cấp huyện bao gồm lãnh đạo các phòng,

ban: Phòng Kế hoạch-tài chính; phòng Nông nghiệp; Phòng Giáo dục; Phòng

71

Dân tộc; Phòng Y tế; Ngân hàng Chính sách- Xã hội huyện.

Ở cấp xã, thành lập ban giảm nghèo xã do đồng chí Chủ tịch (hoặc Phó

Chủ tịch xã) làm trưởng ban. Ban giảm nghèo cấp xã huy động một số cán bộ

xã, cán bộ thôn, bản trực tiếp tham gia công tác xóa đói giảm nghèo. Đây là

lực lượng giữ vai trò vô cùng quan trọng góp phần nâng cao vai trò Nhà nước

trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở địa phương.

Hàng năm UBND tỉnh chị đạo các cơ quan thành viên Ban chỉ đạo

giảm nghèo tỉnh, gắn việc xây dựng kế hoạch giảm nghèo với nhiệm vụ phát

triển kinh tế- xã hội của nghành, của tỉnh; tham mưu đề xuất thực hiện các

giải pháp có hiệu quả, tháo gỡ những vướng mắc khó khăn, tồn tại, nhằm duy

trì tăng trưởng kinh tế cao, thực hiện tốt các mục tiêu văn hóa, xã hội, xóa đói

giảm nghèo, củng cố quốc phòng, an ninh.

2.2.3.2. Phân công trách nhiệm cụ thể cho các ban, ngành

Sở LĐ-TB&XH: Là cơ quan thường trực chương trình, chủ trì và phối

hợp với các sở, ban ngành liên quan xây dựng kế hoạch hàng năm và chăm lo

công tác đào tạo cán bộ giảm nghèo, đào tạo nghề; theo dõi tổng hợp, sơ tổng

kết kết quả hoạt động từng thời gian; Sở Kế hoạch và Đầu tư: Có trách nhiệm

cân đối nguồn lực thực hiện lồng ghép các chương trình. Chỉ đạo hướng dẫn

phối hợp thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó

khăn; Các sở, ban ngành khác được phân công trách nhiệm quản lý các dự án,

chương trình phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.

Các cơ quan thông tin tuyên truyền: Có trách nhiệm tuyên truyền nâng

cao nhận thức, tầm quan trọng, ý nghĩa của chương trình; tuyên truyền kết quả

hoạt động, mô hình cách làm hay, sáng tạo, có hiệu quả trong suốt quá trình

thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo.

UBND các huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn: Chủ động huy động

nguồn lực tại chỗ và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu của chương trình theo chỉ

72

đạo của ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo tỉnh. Phân công, phân cấp rõ trách

nhiệm của từng phòng, ban, đơn vị theo dõi chỉ đạo các cấp xã thực hiện

chương trình.

2.2.3.3. Tổ chức ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết về công tác xóa đói

giảm nghèo

Để thực hiện được các mục tiêu cụ thể về xóa đói giảm nghèo trên dịa

bàn toàn tỉnh, Ban chỉ đạo giảm nghèo tỉnh đã tham mưu UBND tỉnh trình

Tỉnh uỷ, HĐND ban hành các chỉ thị, nghị quyết về công tác xóa đói giảm

nghèo. Cụ thể:

Nghị quyết số 03/NQ/TU ngày 12/7/2006 của Ban thường vụ Tỉnh uỷ

về đẩy mạnh công tác XĐGN giai đoạn 2006-2010; Nghị quyết số

58/2006/NQ-HĐND ngày 21/7/2006 của Hội đồng nhân dân tỉnh về Chương

trình XĐGN giai đoạn 2006-2010; Kế hoạch số 69/KH -UBND ngày

22/12/2007 của UBND tỉnh thực hiện Chương trình giảm nghèo của tỉnh

Lạng Sơn giai đoạn 2006-2010.

Ban chỉ đạo giảm nghèo tỉnh đã phân công ngành LĐ-TB&XH làm cơ

quan thường trực; Xây dựng quy chế hoạt động, trong đó có phân công nhiệm vụ

cụ thể cho từng thành viên, đồng thời phân công theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực

hiện chương trình giảm nghèo từng cơ sở. Ban chỉ đạo các cấp đều xây dựng

được chương trình giảm nghèo tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền đưa chỉ tiêu

giảm nghèo vào Nghị quyết của cấp uỷ, Hội đồng nhân dân, xây dựng chương

trình, kế hoạch triển khai; rà soát kiện toàn lại Ban chỉ đạo để tăng cường và

nâng cao hiệu quả hoạt động. Hàng năm Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp đều

tham mưu cho UBND giao chỉ tiêu giảm hộ nghèo cụ thể đến cấp xã.

2.2.3.4. Công tác truyền thông

Hoạt động truyền thông giảm nghèo của Lạng Sơn đã thực hiện được

73

nhiệm vụ phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp

luật của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo. Qua đó đã góp phần nâng

cao nhận thức, chuyển biến thái độ, hành vi của nhân dân các dân tộc Lạng

Sơn về xóa đói giảm nghèo, tạo ra sự đồng thuận của toàn xã hội trong thực

hiện các mục tiêu về xóa đói giảm nghèo và xã hội hóa các nguồn lực trong

và ngoài tỉnh phục vụ công tác xóa đói giảm nghèo.

2.2.4. Kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện xóa đói giảm nghèo ở

Lạng sơn

Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo giảm nghèo của Lạng Sơn đã phối

hợp với các thành viên, UBND các huyện xây dựng, tham mưu cho UBND

tỉnh kế hoạch thực hiện các chương trình giảm nghèo có sự phân công nhiệm

vụ cụ thể cho các thành viên tham gia kiểm tra, giám sát. Hệ thống các chỉ

tiêu giám sát, đánh giá được thực hiện theo Quyết định 23/2007/QĐ-

BLĐTBXH ngày 5/10/2007 của Bộ LĐ-TB&XH.

Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp đều xây dựng quy chế hoạt động, phân công

nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, có trách nhiệm theo dõi giám sát, đánh giá kết

quả thực hiện giảm nghèo từng địa phương, cơ sở. Việc giám sát đánh giá theo

nguyên tắc cơ sở ban, ngành chức năng tự thực hiện và định kỳ báo cáo về cấp có

thẩm quyền theo các tiêu chí và thời gian quy định. Một số thành viên BCĐGN tỉnh

như Hội Phụ nữ, Tỉnh Đoàn, Hội Nông dân… luôn thể hiện được vai trò trách

nhiệm cuả mình, phân công lãnh đạo và cán bộ theo dõi và báo cáo kết quả thực

hiện theo đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng; Ban chỉ đạo cấp huyện đều có sự chỉ

đạo định kỳ thường xuyên giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện ở cơ sở.

Trong các năm từ 2001 đến 2010, Ủy ban mặt trận tổ quốc tỉnh đã phối

hợp với các thành viên của Ban vận động vì người nghèo của tỉnh tổ chức các

đoàn đi kiểm tra, đánh giá việc sử dụng quỹ vì người nghèo ở tất cả các cấp

huyện, xã. Qua kiểm tra đã chỉ ra được nhiều tồn tại cần khắc phục như các

nghiệp vụ về kế toán, sổ sách theo dõi, nội dung quản lý... Điều này đã góp

74

phần nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ vì người nghèo trên địa bàn.

2.3. Đánh giá chung về vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt động xóa

đói giảm nghèo ở Lạng Sơn

2.3.1. Những thành tựu cơ bản

Định hướng mục tiêu xóa đói giảm nghèo đã dần sát với điều kiện kinh

tế-xã hội địa phương và nguồn lực để thực hiện mục tiêu. Giai đoạn từ năm 2006 -

2010, nhận thức về tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu xóa đói giảm nghèo

ở Lạng Sơn đã được nâng cao thêm một bước. Nhờ có định hướng, mục tiêu đúng

đắn, công tác xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn đã đạt được những chỉ tiêu cơ bản

như mục tiêu đã đề ra; các chính sách về giảm nghèo được triển khai đồng bộ, hiệu

quả, bao phủ hầu hết số người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, xã ĐBKK trong toàn

tỉnh. Người nghèo, hộ nghèo ngày càng được hỗ trợ trực tiếp và có hiệu quả hơn

các phương tiện, cách thức, điều kiện sản xuất, tiếp cận và sử dụng các dịch vụ xã

hội một cách đầy đủ, công bằng và toàn diện hơn.

Có thể khẳng định, mặc dù chịu nhiều sự tác động bởi ảnh hưởng của

thiên tai, lạm phát, khủng hoảng kinh tế toàn cầu... nhưng do có định hướng

đúng đắn và đề ra được các mục tiêu xóa đói giảm nghèo dựa trên những cơ

sở thực tiễn về điều kiện tự nhiên, xã hội của tỉnh cũng như những dự báo sát

thực về tình hình kinh tế trong nước và thế giới nên công tác xóa đói giảm

nghèo của Lạng Sơn trong những năm vừa qua đã luôn đi đúng hướng và đạt

được những mục tiêu cơ bản đã đề ra.

Chính sách xóa đói giảm nghèo và các chính sách có liên quan đến xóa

đói giảm nghèo ở Lạng Sơn được thực hiện theo hệ thống chính sách về xóa

đói giảm nghèo được Chính phủ ban hành trên toàn quốc. Tuy nhiên do biết

khai thác tốt lợi thế riêng có của tỉnh, biết vận dụng một cách có sáng tạo hệ

thống chính sách về xóa đói giảm nghèo phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội

của tỉnh. Lạng Sơn đã thực hiện tốt và đảm bảo nội dung, yêu cầu của chính

75

sách xóa đói giảm nghèo và các chính sách liên quan đến xóa đói giảm nghèo.

Chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi hộ nghèo, được thực hiện ở 226/226

xã, phường, thị trấn trong tỉnh đã góp phần giúp hầu hết các hộ nghèo vay

thoát ngưỡng nghèo, thu hút được nhiều lao động có việc làm; học sinh, sinh

viên nghèo được vay vốn để học tập; hàng ngàn người đi lao động xuất khẩu

được vay vốn. Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh đã xây dựng được màng lưới

giao dịch tại hầu hết các xã, điều này đã tạo điều kiện cho người nghèo, các

hộ vay chính sách giảm bớt được thời gian đi lại, họ được tiếp cận với Ngân

hàng Chính sách xã hội ngay tại xã. Chính vì vậy nó đã mang lại lợi ích thiết

thực cho nhân dân các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, góp

phần phát huy vai trò Nhà nước trong xóa đói giảm nghèo.

Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sạch sinh hoạt cho

hộ nghèo dân tộc thiểu số, đã mang lại những điều kiện sinh hoạt tốt hơn về

điều kiện nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của các hộ dân tộc thiểu số

nghèo, từ đó làm cho họ yên tâm lao động sản xuất, giảm bớt đói nghèo.

Chính sách hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm cho người lao động nghèo, là

một chính sách hết sức quan trọng trong chiến lược giảm nghèo của Lạng

Sơn. Với nguồn kinh phí được ngân sách Trung ương hỗ trợ là 1.015 triệu

đồng, tỉnh đã đầu tư thí điểm xây dựng 4 cơ ở dạy nghề cho người nghèo.

Đồng thời sở LĐ-TB&XH đã giao cho các cơ sở dạy nghề trực thuộc thực

hiện chương trình lồng ghép giới thiệu việc làm với dạy nghề nông thôn, qua

đó đã tổ chức dạy nghề và tạo công ăn việc làm cho người nghèo.

Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền

núi và vùng sâu, vùng xa theo quyết định số 135/1998/QĐ-TTg (gọi tắt là

Chương trình 135): đây là một chương trình lớn của Đảng và Nhà nước nhằm

đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội các xã ĐBKK. Chương trình 135

76

được thực hiện đã mang lại cho người dân các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh

nhiều công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu (chợ, giao thông, thủy lợi...), từ đó

góp phần nâng cao đời sống nhân dân, ổn định sản xuất và góp phần vào việc

thực hiện thắng lợi các mục tiêu chung của chương trình xóa đói giảm nghèo.

Các dự án, chính sách tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận với các

dịch vụ xã hội như: hỗ trợ y tế, giáo dục cho người nghèo; trợ giúp pháp lý

cho người nghèo... cũng đã được thực hiện một cách tốt nhất, bảo đảm

mang lại những hiệu quả thiết thực, giúp người nghèo được chăm sóc sức

khỏe, được hỗ trợ về giáo dục, nâng cao nhận thức pháp luật... từ đó nâng

cao thêm trình độ dân trí cho người nghèo, góp phần đẩy nhanh công cuộc

77

xóa đói giảm nghèo.

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Huyện,

Số hộ

Số

hộ

Tỷ

lệ

Số hộ

Số hộ

Tỷ

lệ

Số hộ

Số

hộ

Tỷ

lệ

Số hộ

Số

hộ

Tỷ

lệ

Stt

thành phố

thực tế

nghèo

(%)

thực tế

nghèo

(%)

thực tế

nghèo

(%)

thực tế

nghèo

(%)

TP, Lạng Sơn

17613

383

17855

211

1,18

19317

154

2,17

0,80

21173

128

0,6

1

Tràng Định

13134

5162

13336

3185

23,88

13454

39,30

1835

13,64

13633

1725

12,65

2

Văn lãng

10267

2788

10891

2537

23,29

10902

27,15

2300

21,10

11659

2253

20,10

3

Bình Gia

10774

4727

10930

4092

37,44

11091

43,87

4224

38,08

11360

5196

45,6

4

Bắc Sơn

13980

3558

14044

3152

22,44

14377

25,45

2540

17,67

14620

2234

15,27

5

Văn Quan

11663

4577

11792

3861

32,74

11966

39,24

4297

35,91

12236

4113

33,61

6

Cao Lộc

14259

3558

14636

3028

20,69

14976

24,95

2530

16,89

15450

2344

15,17

7

Chi Lăng

16242

5587

16869

4258

25,24

17109

34,40

3735

21,83

17562

3587

20,43

8

Đình Lập

15300

4194

15514

3648

23,51

15729

27,41

2259

14,36

15989

2116

13,23

9

Lộc BÌnh

5883

2408

5925

2032

34,30

6027

40,93

1766

29,30

6027

1751

29,05

10

Hữu Lũng

24494

4613

25492

4323

16,96

25492

18,83

4533

17,78

25902

4110

15,86

11

Bảng 2.9: Kết quả giảm hộ nghèo giai đoạn 2006 - 2009

Tổng cộng

153.609 41.555

27,05

157.284 34.327 21,82

160.440

30.173

18,81

165.617 29.557

17,85

78

Nguồn: Báo cáo Sở lao động - Thương binh và Xã hội Lạng Sơn 2009

Qua biểu số liệu trên cho thấy, do có nhận thức đúng đắn về tầm quan

trọng của chương trình xóa đói giảm nghèo, trong những năm qua, dưới sự

lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, cùng với sự cố gắng nỗ lực của

các cấp, các ngành và đồng bào các dân tộc tỉnh Lạng Sơn. Chương trình mục

tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn đã đạt được những thành quả

nhất định. Tỷ lệ hộ nghèo không ngừng giảm qua các năm, năm 2006

(27,05%), năm 2007 (21,82%), năm 2008 (18,81%), năm 2009 giảm còn

(17,85%). Tính bền vững của chương trình xóa đói giảm nghèo ngày càng

được khẳng định, tổng số hộ thoát nghèo giai đoạn 2006 - 2008 là 21.618 hộ;

trong đó số hộ tái nghèo và phát sinh nghèo đã giảm từ 2.676 hộ năm 2006

còn 788 hộ năm 2008, 600 hộ năm 2009. Theo số liệu báo cáo đánh giá kết

quả giảm hộ nghèo giai đoạn 2006 - 2010 của Sở LĐ-TB&XH Lạng Sơn, có

8/11 huyện, thành phố đã không còn hộ diện tái nghèo và phát sinh nghèo.

Đây là một tín hiệu đáng mừng, thể hiện hiệu quả của các chính sách xóa đói

giảm nghèo và các chính sách có liên quan đến xóa đói giảm nghèo ở Lạng

Sơn trong thời gian qua.

Các chủ trương về xóa đói giảm nghèo được cụ thể hóa bằng các Chỉ

thị, Nghị quyết của Đảng bộ, HĐND tỉnh đã được tổ chức triển khai thực hiện

một cách nghiêm túc. UBND tỉnh đã cụ thể hóa chủ trương xóa đói giảm

nghèo của tỉnh bằng việc ban hành quyết định số 11/2002/UB-QĐ về việc:

phê duyệt chương trình xóa đói giảm nghèo-việc làm tỉnh giai đoạn 2001-

2005, đồng thời thành lập ban chỉ đạo XĐGN-VL và phân công các ban

ngành chức năng của tỉnh quản lý, chỉ đạo thực hiện.

Bước sang giai đoạn 2006 - 2010, trước sự thay đổi về mọi mặt của đời

sống kinh tế-xã hội và những kết quả đáng ghi nhận về xóa đói giảm nghèo

trong tỉnh cũng như cả nước, chương trình XĐGN-VL được chuyển thành

79

chương trình xóa đói giảm nghèo. Tiếp tục thực hiện chủ trương xóa đói giảm

nghèo của tỉnh trong giai đoạn mới, UBND tỉnh đã ban hành chương trình xóa

đói giảm nghèo tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2006 - 2010 đồng thời kiện toàn Ban

chỉ đạo giảm nghèo các cấp tỉnh, huyện và ban giảm nghèo cấp xã và phân công

trách nhiệm cụ thể của từng thành viên trong ban chỉ đạo, xây dựng quy chế hoạt

động và kế hoạch hằng năm phù hợp với từng địa bàn huyện, thành phố.

Xác định rõ công tác tuyên truyền, vận động để nâng cao nhận thức cho

người dân về các chính sách của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo có

vị trí vô cùng quan trọng trong công tác xóa đói giảm nghèo. Lạng Sơn đã

luôn giành sự quan tâm cho công tác này. Các hình thức tuyên truyền chủ yếu

là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài PT-TH địa

phương. Trong đó chú trọng nêu gương điển hình vượt khó, vượt nghèo và

tuyên truyền các mô hình giảm nghèo của địa phương đến đông đảo bà con

các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn để từ đó họ nhận thức được quyền,

nghĩa vụ với chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước và có ý

thức tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo.

Kiểm tra, giám sát và đánh giá kết quả là một khâu hết sức quan trọng

trong chu trình quản lý các chính sách, chương trình, dự án xóa đói giảm

nghèo. Việc theo dõi, đánh giá nhằm giúp cho các cấp quản lý nắm được tiến

độ, kết quả thực hiện các giải pháp đưa ra, đồng thời thấy được mức độ phù

hợp, tính hiệu quả, tác động đến việc thực hiện mục tiêu cũng như những tồn

tại, hạn chế của các chính sách trong tổ chức thực hiện.

Ban chỉ đạo giảm nghèo các cấp xây dựng quy chế hoạt động, phân

công nhiệm vụ cho các thành viên, có trách nhiệm theo dõi giám sát, đánh giá

kết quả thực hiện giảm nghèo ở từng địa phương cơ sở. Việc giám sát đánh

giá theo nguyên tắc ban, ngành chức năng, tự thực hiện và định kỳ báo cáo về

cấp có thẩm quyền theo các chỉ tiêu và thời gian quy định. Hệ thống chỉ tiêu

80

chỉ tiêu giám sát, đánh giá các chính sách, dự án xóa đói giảm nghèo ở Lạng

Sơn được thực hiện theo Quyết định 23/2007/QĐ-BLĐTBXH ngày 5/10/2007

của Bộ LĐ-TBXH. Ban chỉ đạo cấp huyện định kỳ có báo cáo đánh giá kết

quả thực hiện như các huyện Bình Gia, Bắc Sơn, Hữu Lũng có sự chỉ đạo tích

cực, thường xuyên giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện ở cơ sở. Bên cạnh đó

còn một số Ban chỉ đạo giảm nghèo của một số huyện còn buông lỏng, giao

khoán choc ơ quan thường trực, chưa có sự chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan

thành viên trong việc giám sát đánh giá hàng năm như huyện Tràng Định, Chi

Lăng, Đình Lập… Qua công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá, Ban chỉ đạo

giảm nghèo đã phát hiện ra nhiều sai sót trong quá trình thực hiện công tác

xóa đói giảm nghèo ở các cấp huyện, xã, đồng thời cũng đã phát hiện ra

những bất cập trong chính sách xóa đói giảm nghèo của Nhà nước. Từ đó kịp

thời chấn chỉnh, uốn nắn và có những kiến nghị nhằm ngày càng hoàn thiện

hơn các chính sách về xóa đói giảm nghèo và các chính sách có liên quan.

Công tác rà soát, quản lý hộ nghèo được Ban chỉ đạo giảm nghèo tỉnh

chỉ đạo thực hiện theo đúng quy định. Từ năm 2008 toàn tỉnh áp dụng phương

pháp quản lý theo dõi hộ nghèo, hộ cận nghèo bằng công nghệ tin học tại các

phòng Lao động - Thương binh và Xã hội các huyện, thành phố để tiện theo

dõi và kiểm soát được các hộ nghèo.

Tuy nhiên việc rà soát hộ nghèo, cận nghèo vẫn còn nhiều bất cập rà

soát có nơi thiếu khách quan còn khoán cho trưởng thôn, thiếu kiểm tra giám

sát, hệ thống mẫu biểu điều tra phức tạp cũng gây nhiều khó khăn cho cán bộ

thực hiện. Việc quản l ý hộ nghèo bằng công nghệ thông tin còn một số huyện

áp dung chưa hiệu quả và còn thiếu đồng bộ.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân

- Những hạn chế

Mục tiêu về xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn còn mang tính chất chung

81

chung, chưa thực sự có căn cứ khoa học, chưa phát huy hết lợi thế, tiềm năng

sẵn có của tỉnh. Mục tiêu giảm nghèo của tỉnh đề ra cho từng giai đoạn chỉ là

số ước lượng trên cơ sở mục tiêu về xóa đói giảm nghèo của cả nước do vậy

chưa thực sự phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh.

Việc xây dựng kế hoạch giảm nghèo ở cấp tỉnh được thực hiện theo cơ

chế tổng hợp số liệu từ Ban chỉ đạo giảm nghèo cấp huyện, xã nhưng do một

bộ phận cán bộ làm công tác giảm nghèo chưa xác định rõ và nhận thức đúng

về vai trò, trách nhiệm của mình trước Nhà nước, nhân dân nên đã dẫn đến

hiện tượng số liệu tổng hợp báo cáo theo phân tích có độ tin cậy thấp.

Các chính sách xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn được thực hiện trong

thời gian qua đã thể hiện được vai trò của Nhà nước đối với công tác xóa đói

giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Tuy nhiên, việc thực hiện hệ thống

chính sách vẫn còn một số bất cập như sau:

Thứ nhất, đối với nhóm chính sách tạo điều kiện cho người nghèo phát

triển sản xuất, tăng thu nhập.

Tiến độ thực hiện các dự án, chương trình thuộc chính sách hỗ trợ đất

sản xuất, nhà ở và nước sạch sinh hoạt cho hộ nghèo dân tộc thiểu số còn

chậm, nhất là công tác cấp phát, thanh toán vốn; Công tác giám sát đánh giá

chưa được quan tâm đúng mức, còn ngại khó, hiệu quả chưa cao. Công tác

tuyên truyền vận động chưa đi vào chiều sâu, nhân dân còn trông chờ ỷ lại Nhà

nước, việc vận động tự huy động trong dân thuộc vùng thực hiện dự án đạt còn

thấp. Vấn đề hỗ trợ đất sản xuất đạt thấp do quỹ đất hoang, quỹ đất từ các

nông, lâm trường đều không có, mức hỗ trợ quá thấp so với chi phí khai hoang

trên thực tế rất khó khăn cho quá trình thực hiện; vấn đề xóa nhà ở dột nát cho

hộ nghèo thực hiện chưa đảm bảo đúng quy trình, chất lựợng như yêu cầu.

Chương trình xây dựng CSHT các xã ĐBKK nhìn chung còn chậm,

việc tổ chức thực hiện của chủ đầu tư mặc dù đã có kế hoạch ổn định hàng

82

năm, nhưng triển khai còn chưa khịp thời. Kiến thức, kỹ năng của đội ngũ cán

bộ xã chưa theo kịp yêu cầu nghiệp vụ quản lý và triển khai xây dựng cơ bản

ở cấp xã vì vậy việc phân cấp quản lý đầu tư cho chủ đầu tư cấp xã gặp nhiều

khó khăn; việc xây dựng các chợ trung tâm cụm xã do quy hoạch không phù

hợp với đặc điểm, phong tục tập quán của người dân do vây hiệu quả sử dụng

các công trình này còn thấp, thậm trí nhiều nơi bị bỏ hoang.

Thứ hai, nhóm chính sách tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận với

các dịch vụ xã hội cơ bản:

Chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo mới dừng lại ở việc cấp mua

thẻ BHYT theo mệnh giá, riêng việc lập danh sách người nghèo để mua tại

các cơ sở xã, huyện, tỉnh thì không được bố trí kinh phí dẫn đến thời gian lập

danh sách kéo dài, chất lượng danh sách còn thấp như sai tên, sai địa chỉ, sai

năm sinh nên phải chỉnh sửa lại nhiều.

Thứ ba, nhóm dự án nâng cao năng lực nhận thức, ý thức trách

nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức và người dân đối với công tác

giảm nghèo:

Định mức hỗ trợ đào tạo thấp, kinh phí hỗ trợ cho công tác truyền

thông chưa đáp ứng được nhu cầu. Các tài liệu, văn bản tuyên truyền hướng

dẫn chưa phong phú, trong khi đó nhu cầu thông tin về chủ trương chính sách

giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đến cán bộ thôn, bản, hộ người nghèo là

rất cần thiết nhưng chưa được đáp ứng.

Tổ chức thực hiện xóa đói giảm nghèo của các cấp chính quyền chưa

hiệu quả. Ban chỉ đạo giảm nghèo chủ yếu mang tính kiêm nhiệm, đội ngũ

cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là đội ngũ cán bộ cấp xã,

phường trực tiếp làm công tác giảm nghèo năng lực còn nhiều hạn chế, chưa

được tập huấn kỹ càng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn mang tính thụ động,

83

dựa hoàn toàn vào kế hoạch, nguồn vốn của Trung ương.

Công tác soạn thảo văn bản hướng dẫn thực hiện đến cấp huyện, xã còn

chậm, ban chỉ đạo giảm nghèo các huyện tổ chức thực hiện văn bản giảm

nghèo còn nhiều lúng túng.

Quy chế hoạt động của Ban giảm nghèo ở một số địa phương còn sơ

sài, chung chung, không có sự phân công trách nhiệm và phối hợp công tác

trong công tác xóa đói giảm nghèo.

Việc giao chỉ tiêu giảm hộ nghèo đến tận cấp xã đã gây ra áp lực về

thành tích cho cán bộ giảm nghèo cấp xã, dẫn đến hiện tượng số liệu báo cáo

có nơi không trung thực.

Chất lượng, công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá còn thấp

Qua kiểm tra, giám sát đánh giá của Ban chỉ đạo giảm nghèo Lạng Sơn

về các hoạt động của Chương trình giảm nghèo cho thấy: Nhiều nơi, Ban chỉ

đạo giảm nghèo bị khoán trắng cho việc tổng hợp số liệu nhưng không có

quyền trong việc tham gia phân bổ các chương trình, dự án giảm nghèo dẫn

tới việc theo dõi kiểm tra còn mang tính hình thức, chưa thường xuyên, còn

chung chung, chưa tạo được ý thức trách nhiệm của các cấp về thực hiện nội

dung này. Một vấn đề khác đáng quan tâm đó là việc rà soát, đánh giá hộ

nghèo hàng năm. Đây là phần việc hết sức quan trọng, qua đó có thể đánh giá

được hiệu quả của xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ

quan và khách quan, Ban chỉ đạo giảm nghèo các huyện, thành phố đều không

xây dựng được dự toán kinh phí cho công tác này. Vì vậy không có kinh phí

để thực hiện trong khi đây cũng là một hợp phần quan trọng của công tác xóa

đói giảm nghèo, từ đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng rà soát hộ

nghèo hàng năm.

- Nguyên nhân của những hạn chế

84

Nguyên nhân khách quan:

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, biên giới, giao thông đi lại khó khăn,

cơ sở hạ tầng thấp kém, có xuất phát điểm nền kinh tế thấp, chủ yếu mang

tính nhỏ lẻ chưa xây dựng được vùng chuyên canh lớn, sản xuất nông nghiệp

phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Trình độ dân trí còn thấp, phong

tục tập quán sản xuất của đại bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số chưa được

đổi mới, trình độ canh tác lạc hậu, thấp kém. Các tệ nạn xã hội có xu hướng

diễn biến phức tạp, nhất là ở các xã biên giới song chưa có biện pháp ngăn

chặn có hiệu quả.

Nguyên nhân chủ quan:

Công tác tuyên truyền tuy đa dạng về hình thức, nhưng mới chỉ đến

được với cán bộ thôn bản, nhiều nơi chưa đến được với người nghèo, hộ

nghèo. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo

chưa đạt yêu cầu. Thiếu các mô hình sản xuất hiệu quả, việc nhân rộng các

mô hình điển hình chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo được nhiều vùng

sản xuất hàng hoá để người nghèo tham gia; công tác dạy nghề cho nông dân,

cho người nghèo chưa được coi trọng, hệ thống dạy nghề và công tác khuyến

nông, khuyến lâm, hướng dẫn cách làm ăn còn chung chung chưa sát với

thực tế địa phương.

Đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất cho các xã nghèo

chưa có quy hoạch tổng thể và chưa đầu tư đúng mức. Việc huy động nguồn

lực cho xóa đói giảm nghèo còn nhiều hạn chế.

Một số cán bộ cấp uỷ chính quyền, đoàn thể, ở cơ sở thiếu sự quyết liệt

trong chỉ đạo, triển khai thực hiện chương trình, đặc biệt là công tác rà xoát,

theo dõi đối tượng nghèo; thiếu quan tâm bố trí đào tạo, bồi dưỡng, động viên

đội ngũ cán bộ làm công tác giảm nghèo, nhiều nơi còn giao khoán cho cán

bộ văn hoá xã hội. Việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện triển khai

85

các chính sách giảm nghèo của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Còn nhiều hộ

nghèo, người nghèo có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, lười lao động,

không có ý thức phấn đấu vươn lên thoát nghèo.

Để thoát nghèo thì trước tiên là việc của người nghèo, Nhà nước không

dùng biện pháp cứu trợ trực tiếp đơn thuần, sẽ dấn đến sự ỷ lại của người

nghèo, xã nghèo, huyện nghèo. Phải để người nghèo, xã nghèo, huyện nghèo

tự khơi dậy tiềm năng của mình kết hợp với sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước,

cố gắng dần dần vươn lên thoát nghèo. Tuy nhiên, ý thức tự vươn lên thoát

nghèo của một bộ phận hộ nghèo còn thấp, còn tư tưởng trông trờ, ỷ lại vào

sự trợ giúp của Nhà nước. Nhiều hộ nghèo không muốn ra khỏi danh sách hộ

nghèo, mà đăng ký xin vào diện nghèo để được thụ hưởng các chính sách trợ

giúp của Nhà nước. Một số hộ nghèo còn thiếu kinh nghiệm và kiến thức làm

ăn, nên khi vay vốn thì không phát huy được hiệu quả của vốn, thậm chí

không hoàn trả được vốn vay. Nhiều hộ nghèo ở nông thôn và đồng bào

DTTS còn chậm thay đổi cách nghĩ, cách làm nên hiệu quả của các chương

trình, dự án đầu tư XĐGN còn thấp. Vì vậy mà vai trò của các cấp chính

quyền địa phương từ cấp tỉnh, huyện, xã cho tới thôn bản càng cần phải

được phát huy hơn nữa. Chương trình XĐGN phải được xã hội hóa cao,

Nhà nước không làm thay tất cả mà chủ yếu tập trung vào việc tạo ra các

cơ chế chính sách và điều kiện cần thiết để khuyến khích người nghèo, hộ

nghèo tự vươn lên thoát nghèo và từng bước hướng tới làm giàu chính

đáng. Nguồn vốn của chương trình phải được đầu tư có trọng điểm; việc

đầu tư, hỗ trợ của chương trình phải gắn chặt với việc hướng dẫn, kiểm tra

để đảm bảo cho các nguồn lực được sử dụng đúng mục đích và đạt hiệu quả

cao. Cần đặc biệt chú trọng hơn nữa đến đội ngũ cán bộ thôn (trưởng thôn),

bản (trưởng bản) người trực tiếp với người nghèo; chú trọng trong công tác

hướng dẫn người nghèo, hộ nghèo tích cực chuyển đổi phương thức làm ăn

86

để XĐGN một cách bền vững.

Tóm lại, do nhận thức rõ vấn đề XĐGN là một nhiệm vụ khó khăn,

phức tạp và lâu dài, nó liên quan đến mục tiêu kinh tế và xã hội, liên quan đến

hoạt động của nhiều ngành. Quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước, với sự nỗ lực của các cấp chính quyền và nhân dân Lạng

Sơn. Công tác XĐGN đã được đẩy mạnh, tỷ lệ hộ nghèo không ngừng giảm

qua các năm, năm 2006 (27,05%), năm 2007 (21,82%), năm 2008 (18,81%),

năm 2009 giảm còn (17,85%). Tuy nhiên, vai trò của các cấp chính quyền địa

phương trong công tác XĐGN ở Lạng Sơn còn bộc lộ nhiều bất cập trong việc

xác định định hướng, mục tiêu, chương trình, chính sách và tổ chức, triển khai

87

thực hiện XĐGN.

Chƣơng 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC NÂNG CAO

VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG HOẠT ĐỘNG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

Ở LẠNG SƠN

3.1. Bối cảnh kinh tế mới và định hƣớng nâng cao vai trò của Nhà

nƣớc trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

3.1.1. Bối cảnh kinh tế mới

3.1.1.1. Bối cảnh quốc tế

Nhìn chung các tổ chức quốc tế đều nhận định kinh tế thế giới đang

trên đà phục hồi nhưng với tốc độ khác nhau ở mỗi khu vực. IMF dự báo tăng

trưởng GDP của các nền kinh tế phát triển, đang nổi lên và toàn cầu trong

năm 2010 lần lượt là 2,3; 6,3; và 4,2 và trong năm 2011 sẽ tăng nhẹ lên lần

lượt là 2,4; 6,5; và 4,3%. Thương mại thế giới tăng mạnh trong năm 2009 và

dự kiến sẽ tiếp tục giữ được đà tăng trưởng trong các năm tiếp theo. Dự báo

cụ thể tình hình kinh tế ở mỗi khu vực như sau:

Bảng 3.1: Dự báo tăng trƣởng GDP:

Các nền kinh tế Kinh tế Các nền kinh tế đang Năm nổi lên (%) phát triển (%) toàn cầu (%)

2010 2,3 6,3 4,2

2011 2,4 6,5 4,3

Nguồn: Dự báo tăng trưởng GDP của IMF 2010

Các nền kinh tế phát triển có dấu hiệu tích cực. OECD cho rằng kinh tế

88

các nước phát triển là thành viên của tổ chức này chuyển biến nhanh hơn dự

báo trước đây, tăng 2,7% và 2,8% lần lượt trong các năm 2010 và 2011 (cao

hơn so với mức dự báo đưa ra tháng 11/2009 lần lượt là 1,9% và 2,5%). Mỹ

dự báo sẽ tăng trưởng khoảng 3,2% trong năm 2010 và 2011, còn Nhật lần

lượt là 3,0% và 2,0% các năm 2010 và 2011. Số liệu thực tế trong quý I/2010

cho thấy, GDP của Mỹ tăng 3%, của Nhật tăng 4,9% (cao hơn so với mức dự

báo 1,9% của IMF 4/2009), của Trung Quốc tăng 11,9%. Ấn Độ kết thúc năm

tài khóa (4/2009- 3/2010) với mức tăng GDP 7,2%.

Các nền kinh tế mới nổi, nhất là châu Á phục hồi mạnh dẫn dắt quá

trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Các nền kinh tế mới nổi, các nước đang phát

triển, đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin, Nga... có tốc độ tăng trưởng

cao, dự báo mức bình quân chung về tăng trưởng có thể đạt trên 6%, khẳng

định vai trò động lực tăng trưởng toàn cầu. OECD cũng nhận định tăng

trưởng toàn cầu sẽ tiếp tục được hỗ trợ bởi sự năng động của các nền kinh tế

ngoài OECD. Các dòng vốn chảy vào các nền kinh tế đang trỗi dậy đang ngày

càng mạnh hơn với việc tăng cường các khoản vay ngân hàng, đầu tư nước

ngoài trực tiếp và gián tiếp. Đặc biệt, sự tăng trưởng mạnh mẽ của Trung

Quốc và các nền kinh tế mới nổi là động lực mạnh mẽ giúp kéo các nước ra

khỏi suy thoái.

Nếu nhìn theo khu vực thì châu Á tiếp tục là điểm sáng, có thể đạt tốc

độ tăng trưởng 7,5% năm 2010, Ấn Độ, Trung Quốc hiện đã đạt mức tăng

trưởng sản lượng trước khủng hoảng; tăng trưởng năm nay của Ấn Độ có thể

đạt 8,8%, Trung Quốc là 10%. Với tốc độ phục hồi nhanh chóng của nền kinh

tế Trung Quốc và là nước trúng thầu cao trong các dự án ở Việt Nam (trên

90%), đặc biệt là các dự án thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và

Lạng Sơn nói riêng, đã thu hút một lực lượng lao động phổ thông không nhỏ

nhưng chủ yếu là lao động của Trung Quốc đưa sang đã ảnh hưởng tới việc

89

giải quyết công ăn việc làm, thu nhập của nhân dân nơi đây.

3.1.1.2. Bối cảnh trong nước.

Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới tiềm ẩn từ

cuối năm 2007, bùng nổ vào cuối năm 2008, phát tác và lan rộng vào năm

2009; bắt đầu từ thị trường địa ốc, lan sang kinh tế tài chính, kinh tế thực, lan

sang các lĩnh vực xã hội, đặc biệt là lao động, việc làm; bắt đầu từ Mỹ, lan

sang các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Việt Nam là nền kinh tế mở cả về vốn đầu tư, cả về xuất khẩu, nhập

khẩu. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện năm cao nhất đạt 11,6

tỷ USD, chiếm 30,9% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội; nguồn vốn hỗ

trợ phát triển chính thức (ODA) giải ngân đạt trên 2 tỷ USD. Chỉ hai nguồn

này đã chiếm trên dưới 40% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.

So với GDP, xuất khẩu năm 2008 bằng 70%, nhập khẩu bằng 90,1%,

cộng cả xuất, nhập khẩu bằng 160,1%, cao thứ 5 trên thế giới. Hiệu ứng phụ

của các biện pháp kiềm chế lạm phát đầu năm 2008, làm đầu tư và tiêu dùng

ở trong nước giảm sút, tăng trưởng kinh tế chững lại.

Đứng trước bối cảnh đó, năm 2008 và đầu năm 2009 đã có nhiều dự

báo, cảnh báo như: Kinh tế Việt Nam sẽ bị suy thoái, lạm phát tăng, cán cân

thanh toán tổng thể bị mất cân đối lớn, thất nghiệp và thiếu việc làm gia tăng,

tỷ lệ nghèo đói tăng.... Nhưng thực tế không diễn ra như vậy.

Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn có tốc độ tăng trưởng kinh tế

dương và ở mức cao. Kinh tế không bị suy thoái, chỉ suy giảm tốc độ tăng trưởng.

Điều quan trọng là tăng trưởng kinh tế năm 2009 đã thoát đáy vào quý I/2009,

vượt dốc đi lên từ quý II và tăng dần với tốc độ quý sau cao hơn quý trước.

Tổng sản phẩm trong nước quý I/2010 tăng 5,83% so với cùng kỳ năm

2009, quý II/2010 tăng 6,4%, bằng 109,8% tốc độ tăng quý I/2010. Tính

90

chung 6 tháng đầu năm, tổng sản phẩm trong nước tăng 6,16% so với cùng kỳ

năm trước, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,13%, đóng

góp 0,59 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp và xây

dựng tăng 6,50%, đóng góp 2,63 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng

7,05%, đóng góp 2,94 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

6 tháng đầu năm tuy chưa bằng mục tiêu 6,5% đề ra cho cả năm nhưng đã gấp

1,6 lần tốc độ tăng trưởng 6 tháng đầu năm 2009; tỷ lệ thu cân đối ngân sách

nhà nước đạt cao hơn so với cùng kỳ năm 2008, 2009; an sinh xã hội và đời

sống nhân dân cơ bản được đảm bảo. Nhiều chương trình, chính sách xóa đói

giảm nghèo của Chính phủ được triển khai thực hiện có hiệu quả tại các địa

phương đã góp phần quan trọng hỗ trợ các hộ nghèo phát triển sản xuất, tạo

công ăn việc làm, tăng thu nhập; bảo đảm các đối tượng cứu trợ xã hội đều

được hưởng chính sách trợ giúp thường xuyên, đặc biệt đối với người nghèo

và đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tỷ lệ nghèo đói tiếp tục giảm, năm

2010 ước tính còn khoảng 9,45% so với 13,40% (2008), 12,30% (2009);

chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Hoạt động đối

ngoại tiếp tục được đẩy mạnh, cả ngoại giao song phương và đa phương.

Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác

trong khuôn khổ “Năm hữu nghị Việt - Trung”, duy trì tiếp xúc cấp cao và

đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa các địa phương. Hợp tác kinh tế phát triển

mạnh (phấn đấu đưa kim ngạch thương mại 2010 lên 25 tỷ USD). Trung

Quốc có 661 dự án FDI tại Việt Nam và tập trung chủ yếu ở các tỉnh Miền núi

phía Bắc như Lạng Sơn, Lào Cai...với tổng số vốn đăng ký 2,6 tỷ USD.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam còn không ít khó khăn,

thách thức. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững; một số cân đối vĩ mô còn

tiểm ẩn nhiều rủi ro. Nhập siêu lớn (năm 2007: 10 tỷ USD; 2008: 13 tỷ USD;

2009 trên 10 tỷ USD); cùng với suy giảm của dòng vốn đầu tư nước ngoài do

91

ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán

tổng thể của nền kinh tế và dự trữ ngoại hối. Việc huy động vốn đầu tư gặp

không ít khó khăn; hiệu quả đầu tư và sản xuất, kinh doanh còn thấp, giải

quyết việc làm cho người lao động hạn chế. Thiên tai, dịch bệch bất thường

xảy ra ở nhiều nơi với diễn biến hết sức phức tạp đã ảnh hưởng lớn đến công

cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam.

Mặc dù gặp nhiều khó khăn, tỉnh miền núi biên giới Lạng Sơn đã đạt

được nhiều kết quả, thành tựu đáng ghi nhận trên nhiều lĩnh vực. Mặc dù tốc

độ tăng trưởng GDP 5 năm qua (10,45%) chưa đạt mục tiêu đề ra (11-12%)

do tác động không nhỏ của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nhưng thu nhập

bình quân đầu người của tỉnh đạt 820 USD, gấp khoảng 2 lần so với năm

2005. Tỷ lệ hộ nghèo giảm hàng năm 2-3%, từ mức 29% năm 2005 xuống

17,85% năm 2009. Về cơ cấu kinh tế, nông nghiệp và dịch vụ cùng chiếm tỷ

trọng lớn (mỗi ngành chiếm 39-40%), công nghiệp-xây dựng chiếm 21-22%.

Đáng chú ý, các ngành dịch vụ tăng trưởng bình quân hàng năm 12,7%.

Trong đó, kinh tế cửa khẩu đóng vai trò động lực thúc đẩy tăng trưởng và

chuyển dịch cơ cấu trên địa bàn. Tỉnh có đường biên giới giáp với Trung

Quốc dài trên 20km, có 2 cửa khẩu quốc tế, có 2 cửa khẩu quốc gia và 7 điểm

chợ biên giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn tăng trưởng bình

quân trên 30%/năm, dự kiến năm 2010 đạt 1,45 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu

đạt 413 triệu USD. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh vẫn còn

chậm. Trên 80% dân cư của tỉnh sống bằng nghề nông. Các loại hình dịch vụ

phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Hệ thống kết

cấu hạ tầng kinh tế-xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.

Trong bối cảnh nền kinh tế cả nước trên đà thuận lợi, Lạng Sơn cần tập

trung thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra năm 2010. Nỗ lực của tỉnh có thể

mang lại kết quả khả quan nếu biết phát huy hơn nữa thế mạnh kinh tế cửa

92

khẩu. “Phát triển cửa khẩu Lạng Sơn là mối quan tâm của cả nước”, tỉnh cần

tạo bước tiến rõ rệt trong việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng -

Lạng Sơn trong bối cảnh quan hệ hợp tác Việt Nam - Trung Quốc ngày càng

mở rộng; năm 2010, dự kiến kim ngạch thương mại hai nước đạt 25 tỷ USD.

Từ khu kinh tế cửa khẩu này, có thể phát triển thêm các khu chế xuất, khu

trung chuyển hàng hóa... Nếu Lạng Sơn biết phát huy những lợi thế, cơ hội

này, vượt qua những khó khăn, thách thức thì chắc chắn “Tỉnh hoàn toàn có

thể đạt và vượt kế hoạch 5 năm 2006-2010” và thực hiện tốt hơn nữa hoạt

động xóa đói giảm nghèo của mình.

3.1.2. Định hướng nâng cao vai trò của Nhà nước trong hoạt động

xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

Thứ nhất, nâng cao vai trò Nhà nước về xóa đói giảm nghèo phải đáp

ứng được yêu cầu đẩy nhanh công cuộc xóa đói giảm nghèo qua đó góp phần

vào ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.

Mặc dù Lạng Sơn đã có nhiều chủ trương, quyết sách để thực hiện các

mục tiêu cơ bản về xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, nhìn chung Lạng Sơn vẫn

là tỉnh có tỷ lệ nghèo cao năm 2009 (17,85%). Chính vì vậy, để tiến dần tới

mục tiêu công bằng, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền, địa phương

trong cả nước. Nhà nước cần phát huy và nâng cao hơn nữa vai trò của mình

trong thực hiện công cuộc xóa đói giảm nghèo nói chung và xóa đói giảm

nghèo ở tỉnh Lạng Sơn nói riêng.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về

nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đánh giá: “Đời sống vật chất và tinh

thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng

bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và

thành thị, giữa các vùng còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề bức xúc.” Từ những

vấn đề đó, Nghị quyết Trung ương 7 đã đề ra mục tiêu đến năm 2020: “Nâng

93

cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu quả, bền

vững công cuộc xóa đói giảm nghèo”. Như vậy, có thể khẳng định yêu cầu

đẩy nhanh công cuộc xóa đói giảm nghèo nói chung và xóa đói giảm nghèo ở

Lạng Sơn nói riêng là một yêu cầu vô cùng cấp bách, nhằm đạt tới mục tiêu

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nông thôn, đặc biệt là ở

các vùng miền núi, vùng khó khăn, tạo cơ hội phát triển đồng đều giữa các

vùng, miền, địa phương trong cả nước.

Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng một khi kinh tế có sự phát triển

nhưng sự phát triển đó không đưa lại lợi ích công bằng cho các cư dân, các

nhóm xã hội, hay nói cách khác phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội không

được hạn chế cũng là nguy cơ tạo nên xung đột xã hội, gây mất ổn định về

kinh tế, chính trị. Hay nói cách khác, nếu tình trạng đói nghèo không được

khắc phục thì xung đột xã hội là một kết quả tất yếu sẽ diễn ra trong tương lai.

Một khi xung đột xã hội bùng nổ, nền chính trị sẽ không ổn định và nền chính

trị không ổn định thì sự nghèo đói càng không có cơ sở để giải quyết. Chính

vì vậy, công cuộc xóa đói giảm nghèo cần phải được đẩy nhanh hơn nữa, điều

này sẽ nhanh chóng đem lại sự tiến bộ và công bằng cho xã hội, qua đó kinh

tế, chính trị, xã hội sẽ được ổn định.

Thứ hai, nâng cao vai trò Nhà nước về xóa đói giảm nghèo phải khắc

phục những bất cập trong vai trò Nhà nước về xóa đói giảm nghèo

Trong những năm qua, công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn đã

đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Tuy nhiên vai trò Nhà nước về xóa đói giảm

nghèo vẫn còn nhiều bất cập như: một số cơ chế, chính sách giảm nghèo chưa

đồng bộ, chưa thực sự phù hợp với thực tế địa phương. Ví dụ như: quy định

mức hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn, người nghèo, chi phí khám

chữa bệnh còn quá thấp, không thực tế; chính sách trợ cước, trợ giá còn bất hợp

lý…; Việc điều hành kế hoạch và lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội với

giảm nghèo còn lúng túng và một số nơi còn kém hiệu quả; Cơ chế hỗ trợ người

94

nghèo chưa hướng vào nâng cao nhận thức, năng lực và tính làm chủ, người

nghèo chưa thực sự tham gia được vào thị trường để phát triển kinh tế với vai trò

người làm chủ; Đầu tư cho đào tạo cán bộ làm công tác giảm nghèo còn rất hạn

chế dẫn đến tình trạng cán bộ làm công tác giảm nghèo vừa thiếu vừa yếu;

Nguồn lực huy động cho chương trình còn khiêm tốn…

Những bất cập nêu trên cho thấy, nếu không có sự đổi mới trong xây

dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền

núi phía Bắc Việt Nam nói chung và Lạng Sơn nói riêng thì công tác xóa đói

giảm nghèo sẽ không đạt được những mục tiêu như mong muốn. Nói một

cách khác, vai trò của Nhà nước, mà ở đây là vai trò của chính quyền địa

phương cấp tỉnh, huyện, xã, phường cần phải được nâng cao hơn nữa để khắc

phục những bất cập đang tồn tại nhằm bảo đảm vai trò chủ đạo của Nhà nước

trong xóa đói giảm nghèo.

Thứ ba, nâng cao vai trò Nhà nước về xóa đói giảm nghèo phải tạo lập

những điều kiện thuận lợi nhất để thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo

Công tác tuyên truyền, giáo dục của Nhà nước sẽ có tác dụng nâng cao

nhận thức của người nghèo và một số địa phương nghèo để họ gạt bỏ tư tưởng

ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, từ đó có ý thức tự vươn lên thoát

nghèo. Cơ chế, chính sách và các biện pháp hỗ trợ người nghèo phù hợp sẽ là

động lực là yếu tố thuận lợi nhất để người nghèo có thể thoát nghèo.

Phát triển kinh tế - xã hội đồng bộ từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng

thuận lợi đến vùng khó khăn. Chú trọng giúp các địa phương nghèo phát triển

thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế

cao; phát triển sản xuất hàng hóa, đổi mới cơ cấu lao động, tạo việc làm cho

người nghèo sẽ là những điều kiện vô cùng thuận lợi để thực hiện công cuộc

xóa đói giảm nghèo.

Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn, vùng núi,

95

vùng xâu và vùng xa, phát triển các loại hình dịch vụ giáo dục, y tế, văn hóa

và bảo vệ môi trường sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người

dân các xã nghèo, vùng nghèo, làm giảm dần khoảng cách giữa các vùng, các

dân tộc và các tầng lớp dân cư; bảo đảm cho người nghèo tiếp cận được với

các dịch vụ xã hội, đặc biệt là về chăm sóc y tế, giáo dục và KHHGĐ, làm

giảm bớt những hậu quả trước mắt và nguồn gốc của nghèo đói.

Mục tiêu XĐGN của Lạng Sơn đến năm 2015 và 2020 đó là: “Tính tự

chủ tiếp cận cơ chế thị trường của người nghèo được nâng cao, cơ bản thay

đổi phương thức sản xuất kinh doanh, dịch vụ của người nghèo, xóa bỏ cách

thức sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hóa phục vụ nhu cầu

của thị trường dựa vào lợi thế so sánh của từng địa phương để tăng thu nhập,

xóa nghèo bền vững. Hằng năm giảm ít nhất 10% số hộ nghèo trong tổng số

hộ nghèo, tỷ lệ tái nghèo giảm xuống dưới 10% so với số hộ thoát nghèo (tỷ lệ

1/10). Tốc độ tăng thu nhập của nhóm hộ nghèo ngang bằng hoặc cao hơn

tốc độ tăng thu nhập trung bình của dân cư, góp phần thu hẹp khoảng cách

giàu nghèo. Năng lực lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội theo hướng có lợi cho người nghèo của các huyện nghèo được

nâng cao; cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất và dịch vụ xã hội cơ bản

được cải thiện một cách cơ bản, góp phần tích cực vào kết quả giảm nghèo

bền vững của địa phương”[46, tr.45]. Để thực hiện được mục tiêu trên đòi hỏi

chính quyền các cấp ở Lạng Sơn phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau.

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Nhà nƣớc trong hoạt

động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn

3.2.1. Hoàn thiện chương trình, mục tiêu về xóa đói giảm nghèo phù

hợp với điều kiện thực tế ở Lạng Sơn.

Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam, có dân cư thưa thớt,

96

hơn 80% là dân tộc thiểu số, thuộc vào vùng nghèo nhất ở Việt Nam. Sinh kế

của đa số dân vùng này là dựa vào nương dẫy. Tuy nhiên, theo thực tế kết quả

của các cuộc điều tra do Tổng cục Thống kê thực hiện thì nguồn thu nhập ở

nông thôn tỉnh Lạng Sơn lại đa dạng hơn ở bất kỳ vùng nào khác, thậm trí

ngay cả ở những nhóm nghèo nhất. Nông dân ngày càng trồng nhiều loại cây,

tạo ra nhiều loại sản phẩm để bán ra thị trường như: ngô, sắn, chè, vải…,

những cây tinh bột như lúa, gạo đã trở nên ít quan trọng hơn. Việc đa dạng

hóa cây trồng một phần xuất phát từ nhu cầu cao về các sản phẩm đó ở các

vùng trong cả nước và thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến

những nguyên nhân cũng khá quan trọng khác như khả năng tiếp cận cao với

nguyên liệu đầu vào, cơ sở hạ tầng được cải thiện, điều kiện về giáo dục, y tế

đã ngày càng tốt hơn.

Các hộ gia đình nông thôn ở vùng này thường có khá nhiều đất rừng

nhưng thu nhập từ rừng lại chỉ chiếm khoảng 8% tổng số thu nhập ở nông

thôn. Nông dân cho rằng họ được hưởng lợi rất ít từ những nỗ lực trồng rừng.

Mặt khác, tình trạng sói mòn và lở đất thường xuyên xảy ra trong vùng là do

các vụ canh tác hàng năm trên đất dốc. Chính vì lẽ đó, ý thức bảo vệ rừng

hoặc khai thác nguồn lợi từ tài nguyên rừng của người dân vùng núi còn rất bị

hạn chế.

Vấn đề đặt ra ở đây là các chương trình, mục tiêu về xóa đói giảm

nghèo ở Lạng Sơn phải được hoàn thiện trên cơ sở xem xét đặc điểm của điều

kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của người dân vùng này. Theo đó, hướng hoàn

thiện các chính sách, chương trình, mục tiêu xóa đói giảm nghèo phải đáp ứng

được các yêu cầu như: Chính sách, chương trình phải hướng vào việc giúp

nông dân khai thác được nguồn thu nhập đa dạng từ các sản phẩm về rừng, về

nông nghiệp. Giúp họ tiếp cận với các kỹ thuật trong nông - lâm nghiệp từ

đó tăng cường hiệu quả sử dụng đất, nhưng vẫn bảo tồn đất đai; giúp họ

97

có những thông tin để tiếp cận với các loại thị trường tiêu thụ sản phẩm

nông - lâm nghiệp… Như vậy có thể khẳng định rằng việc xác định

chương trình, mục tiêu về xóa đói giảm nghèo nếu được dựa trên những

điều kiện thực tế về tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng vùng, miền sẽ phát

huy được vai trò của Nhà nước để đặt ra những mục tiêu cụ thể về xóa đói

giảm nghèo của từng vùng, miền phù hợp với chương trình chiến lược

giảm nghèo của quốc gia.

3.2.2. Hoàn thiện các chính sách về xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

Các chính sách về xóa đói giảm nghèo cần được tiếp tục hoàn thiện

nhằm bảo đảm vai trò chủ đạo của Nhà nước trong thực hiện Chương

trình MTQG về xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn. Theo đó, Nhà nước phải

thực hiện thường xuyên các chính sách ưu đãi về lãi suất tín dụng, chính

sách hỗ trợ cho con em đồng bào ở vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, con

em đồng bào các dân tộc thiểu số về giáo dục- đào tạo, y tế, chính sách

tạo nghề, mở rộng việc làm, chính sách hỗ trợ các hộ nghèo về đất sản

xuất, nước sinh hoạt, chính sách đầu tư xây dựng CSHT kinh tế - xã hội,

văn hóa- xã hội, chính sách với cán bộ dân tộc thiểu số… Để đạt được

mục tiêu hoàn thiện các chính sách như đã nêu trên, Nhà nước cần thực

hiện một số giải pháp cụ thể sau:

Nhà nước cần tập trung trợ giúp các địa phương nghèo phát triển kinh

tế thông qua việc hỗ trợ quy hoạch phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu

kinh tế, hướng vào chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế

cao, phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động công

nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ lệ nông nghiệp. Phát triển kinh tế nông thôn theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Hình thành liên kết công, nông nghiệp,

dịch vụ ngay tại vùng nông thôn. Trang bị kiến thức, áp dụng các tiến bộ kỹ

thuật, xây dựng và phát triển hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư

98

phù hợp với các xã nghèo, người nghèo.

Tiếp tục tăng nguồn vốn tín dụng xóa đói giảm nghèo, đổi mới phương

thức cho vay, đẩy mạnh trợ giúp người nghèo phát triển sản xuất kinh doanh;

nâng mức vay tín dụng gắn với hướng dẫn cách làm ăn cho hộ nghèo phát

triển sản xuất, tăng thu nhập. Tạo mọi điều kiện, cơ chế cần thiết để người

nghèo dễ dàng tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng, vay vốn thuận lợi và sử

dụng có hiệu quả, tạo điều kiện về mặt bằng kinh doanh, tạo cơ hội làm ăn và

hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm; đồng thời tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và

kỹ năng phù hợp.

Tiếp tục hoàn thiện các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo

như, hỗ trợ về giáo dục, y tế dân số và KHHGĐ, hỗ trợ đào tạo lao động kỹ

thuật, trợ giúp pháp lý cho người nghèo… theo hướng mở rộng quy mô, đa

dạng hóa các loại hình, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nghèo

được tiếp cận với các dịch vụ này. Đồng thời chú ý tới việc hỗ trợ đào tạo

nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng văn hóa, đào tạo định hướng để lao động ở các

vùng nghèo tham gia xuất khẩu lao động.

Tổ chức thực hiện tốt chính sách hỗ trợ hộ nghèo, vùng nghèo tiêu thụ

sản phẩm; Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia tiêu thụ sản phẩm

cho người nghèo, có chính sách ưu đãi về thuế, cước vận chuyển cho các tổ

chức kinh tế, cá nhân tham gia tiêu thụ sản phẩm của người nghèo ở vùng núi,

vùng sâu, vùng xa.

Thực hiện bỏ dần các bao cấp bất hợp lý trong xóa đói giảm nghèo;

chuyển sang những phương pháp, phương thức hỗ trợ phù hợp với kinh tế thị

trường. Sửa đổi chính sách trợ giá, trợ cước và cung cấp miễn phí một số

hàng hóa cho miền núi để hạn chế thất thóat và tăng thêm tác dụng thiết thực

của biện pháp này. Áp dụng phương thức trợ giúp lãi suất đối với vốn tín

dụng cho người nghèo; mở rộng diện tín dụng được bảo lãnh. Sửa đổi. bổ

99

sung hoàn chỉnh các chính sách xã hội như các chính sách khám, chữa bệnh;

chính sách hỗ trợ giáo dục; chính sách hỗ trợ nhà ở; chính sách cho vay vốn

tín dụng….

3.2.3. Đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng

cao trình độ cán bộ quản lý kinh tế nói chung và cán bộ trực tiếp thực hiện

công tác xóa đói giảm nghèo nói riêng

Cơ chế quản lý trong công tác xóa đói giảm nghèo phải được tiếp tục

đổi mới theo hướng: bảo đảm công khai, dân chủ, tăng cường sự tham gia,

giám sát thực hiện từ cơ sở; đa dạng hóa các nguồn lực; thực hiện cơ chế

khuyến khích hỗ trợ trên một số lĩnh vực cụ thể nhằm đẩy mạnh phân cấp

trong tổ chức quản lý, thực hiện chương trình dự án cho các địa phương cơ sở.

Cụ thể:

Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách về xoá đói

giảm nghèo và các mô hình xoá đói giảm nghèo có hiệu quả

Tổ chức hệ thống truyền thông, tuyên truyền và phổ biến thông tin

theo nhiều kênh khác nhau phù hợp với điều kiện của các vùng, các địa

phương về chủ trương chính sách và các chương trình xóa đói giảm nghèo,

các chương trình cụ thể để thực hiện giảm nghèo tại địa phương; phổ cập và

cập nhật thông tin đến tận xã, bản làng, nhất là vùng sâu, vùng xa, đồng bào

dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhằm

tạo chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao nhận thức hơn nữa cho cán bộ, đảng viên

và nhân dân trong việc thực hiện Chương trình xóa đói giảm nghèo; xác định

“xóa đói giảm nghèo” là một cuộc cách mạng; là nhiệm vụ hàng đầu của các

ngành, các cấp.

Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động thực hiện

giảm nghèo, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, đoàn thể từ tỉnh đến

100

cơ sở và toàn thể xã hội cùng chung tay, chung sức, cộng đồng trách nhiệm

chăm lo cho người nghèo, vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa; đồng thời thúc

đẩy, khuyến khích ý chí quyết tâm tự vươn lên thoát nghèo của mọi người

dân, xóa bỏ tư tưởng trông chờ và ỷ lại vào sự quan tâm của Nhà nước và toàn

thể xã hội.

Tăng cường công tác tuyên truyền để hạn chế tiến tới xóa bỏ phong tục

tập quán lạc hậu trong sản xuất đối với đồng bào các dân tộc trong tỉnh.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền thực hiện các mô hình xóa đói giảm

nghèo có hiệu quả, coi đó là một nội dung quan trọng của hoạt động tuyên

truyền. Việc xây dựng mô hình về xóa đói giảm ghèo phải được tiến hành

theo hướng đảm bảo các yêu cầu: dễ nghe, dễ hiểu và phù hợp với điều kiện

tự nhiên, kinh tế, xã hội, phong tục tập quán của từng vùng.

Hình thành hệ thống thông tin, báo cáo và thông báo công khai về thực

hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, thông tin đại chúng về các mô hình

xóa đói giảm nghèo có hiệu quả.

Thứ hai, tổ chức huy động nguồn lực

Đẩy mạnh xã hội hoá công tác xóa đói giảm nghèo. Tuyên truyền vận

động nhân dân phát huy nội lực tại chỗ, khuyến khích các tổ chức đoàn thể

vận động quyên góp ủng hộ người nghèo, tổ chức tốt cuộc vận động “Ngày vì

người nghèo”. Tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng các mô hình xã hội

hoá công tác xóa đói giảm nghèo có hiệu quả; huy động các nguồn lực trong

xã hội cho công tác xóa đói giảm nghèo.

Tăng cường dân chủ và công khai hoá các hoạt động xóa đói giảm

nghèo để dân biết, tham gia giám sát thực hiện. Đề cao tinh thần trách nhiệm,

tính chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền; phát hiện và xử lý nghiêm

những trường hợp làm thất thoát kinh phí, nhất là NSNN, vốn đóng góp của

101

các tầng lớp dân cư cho công tác xóa đói giảm nghèo.

Tăng cường sự giúp đỡ của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp… đối

với các xã khó khăn. Các cơ quan, đơn vị được phân công phải cử cán bộ

thường xuyên nắm bắt tình hình của xã, bản, đặc biệt là công tác giảm nghèo

để có những giải pháp cụ thể giúp đỡ người nghèo tại xã, bản một cách hiệu

quả nhất.

Tổ chức tốt việc lồng ghép các chương trình, dự án với mục tiêu xóa

đói giảm nghèo.

Vận động các tổ chức quốc tế tăng cường thêm nguồn lực cho xóa đói

giảm nghèo.

Thứ ba, thực hiện tốt các quy chế dân chủ ở cơ sở trong việc triển khai

chiến lược và chương trình xoá đói giảm nghèo

Gắn việc thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo với thực hiện quy chế

dân chủ cơ sở để ngươì nghèo, xã nghèo trực tiếp tham gia vào xây dựng và

thực hiện các kế hoạch, chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo nhằm phản

ánh đựơc nguyện vọng, nhu cầu thiết thực của dân và đảm bảo công bằng đối

với người nghèo. Thực hiện dân chủ công khai ở các cấp xã, huyện, tỉnh;

Nhân dân trong xã được dân chủ bàn bạc từ xây dựng dự án, thứ tự ưu tiên

đầu tư và quy mô kỹ thuật công trình, nhất là về nguồn tài chính, các chính

sách, chế độ liên quan đến lợi ích của ngươì nghèo đến việc công khai mức

vốn Nhà nước hỗ trợ đầu tư và đóng góp của nhân dân trong xã; có Ban Giám

sát đại diện cho nhân dân trong xã giám sát trong suốt quá trình thi công,

nghiệm thu thanh toán, quản lý, khai thác công trình.

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn phải đạt hai lợi

ích: xã có công trình để phục vụ nhân dân; người dân có việc làm tăng thêm

thu nhập từ lao động xây dựng công trình của xã. Những công việc nhân dân

102

địa phương có thể đảm nhận được thì ưu tiên giao cho dân trong xã làm, gắn

quyền lợi, trách nhiệm, tình cảm của nhân dân địa phương với việc đầu tư,

quản lý, khai thác công trình có hiệu quả lâu dài.

Đẩy mạnh công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo tại cơ sở, đặc

biệt các xã vùng sâu, vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn, đảm bảo người

nghèo khi có nhu cầu đều được trợ giúp pháp lý miễn phí.

Thứ tư, xây dựng và nhân rộng các mô hình xoá đói giảm nghèo

Nhà nước cần phải có các chương trình để xây dựng, tổng kết và nhân

rộng các mô hình có hiệu quả về xóa đói giảm nghèo ở các vùng, các địa

phương, đặc biệt là mô hình xóa đói giảm nghèo cho vùng đồng bào dân tộc,

vùng sâu, vùng xa. Trên thực tế hiện nay khu vực nào, vùng nào cũng có

những mô hình hiệu quả hay, các chương trình, dự án xóa đói, giảm nghèo có

hiệu quả nhưng chưa được địa phương quan tâm chỉ đạo, nhân rộng. Có vùng,

bộ phận dân cư phải theo hướng cầm tay chỉ việc vì trình độ dân trí thấp, thiếu

kỹ năng. Vì vậy, việc phân công trách nhiệm cho các bộ chức năng giúp đỡ,

chỉ đạo các tỉnh miền núi diện nghèo còn cao, không chỉ dừng lại ở chỗ đi

kiểm tra tình hình thực hiện các mục tiêu, mô hình giảm nghèo, mà còn tham

gia chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện mô hình, đồng thời huy động sức mạnh của

bộ, ngành để giúp cho địa phương đó và định kỳ báo cáo Chính phủ kết quả

thực hiện các mô hình về xóa đói giảm nghèo ở tỉnh.

Có cơ chế, chính sách động viên khuyến khích các doanh nghiệp tham

gia chương trình nhân rộng mô hình xóa đói giảm nghèo ở vùng nghèo cao

như miễn giảm thuế doanh thu, hỗ trợ phát triển sản xuất, tiêu thụ sản phẩm,

đầu tư hạ tầng cơ sở...

Thứ năm, thực hiện cơ chế lồng ghép để tạo thêm nguồn lực và hoạt

động có hiệu quả

Cần xác định rõ nội dung, mục tiêu về xóa đói giảm nghèo trong các

103

chương trình, dự án về phát triển kinh tế-xã hội; Các chương trình dự án về

xóa đói giảm nghèo cần được phối hợp chặt chẽ trên từng địa bàn, đồng thời

phát huy được lợi thế so sánh về nguồn lực, chi phí sản xuất, tiêu thụ sản

phẩm; huy động được sự tham gia đông đảo của người dân mà đặc biệt là

nhóm hộ nghèo, giúp họ tạo thêm việc làm thu nhập và giảm nghèo; chú trọng

huy động nguồn lực của cộng đồng, của các doanh nghiệp vào phát triển vùng

nguyên liệu giúp dân xoá đói giảm nghèo.

Cần lồng ghép các chương trình, dự án khác với mục tiêu xóa đói giảm

nghèo từ việc xây dựng kế hoạch, huy động nguồn lực, tổ chức thực hiện,

giám sát, đánh giá... Gắn kết Chương trình xóa đói giảm nghèo với Chương

trình 135 giai đoạn II, ưu tiên trong việc bố trí nguồn lực, cấp vốn đảm bảo

tiến độ, đưa công trình vào sử dụng đúng kế hoạch, không để dàn trải, kéo

dài dẫn đến hiệu quả thấp.

Thứ sáu, phân công trách nhiệm và phân cấp thực hiện

Đối với các chính sách vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo nguồn

lực xóa đói giảm nghèo, giao cho các bộ, ngành chức năng xây dựng và chỉ

đạo thực hiện. Đối với các chính sách hỗ trợ trực tiếp người nghèo, xã nghèo

và các giải pháp tổ chức thực hiện, phân công cụ thể cho các sở, ban, ngành

thực hiện.

Đối với các dự án xóa đói giảm nghèo có quy mô nhỏ, phân cấp trách

nhiệm xuống xã, thôn, bản, phát huy vai trò của lãnh đạo xã, thôn, bản trong

việc tham gia xây dựng, vận hành, bảo trì các công trình của dự án. Thực hiện

phương châm "xã có công trình, dân có việc làm".

Gắn kết thực hiện chương trình giảm nghèo với thực hiện Quy chế Dân

chủ ở cơ sở, tăng cường phân cấp cho cơ sở, tạo cho cơ sở chủ động trong quá

trình lập kế hoạch, điều hành quản lý các hoạt động của chương tình giảm

104

nghèo. Các xã có tỷ lệ hộ nghèo cao phải có cán bộ chuyên trách làm công tác

giảm nghèo, cán bộ khuyến nông để hướng dẫn, giúp đỡ cho người dân

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hiệu quả, tăng thu nhập, giảm nghèo

bền vững.

Thứ bảy, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ cán bộ quản

lý kinh tế nói chung và cán bộ trực tiếp thực hiện công tác xóa đói giảm

nghèo nói riêng

Phải kiện toàn tổ chức cán bộ của các cấp, các ngành, địa phương, cơ

sở làm công tác giảm nghèo. Bộ máy tổ chức thực hiện công tác xóa đói giảm

nghèo cần phải được hoàn thiện theo hướng tăng số lượng đội ngũ cán bộ

quản lý chuyên trách về xóa đói giảm nghèo, bổ sung chính sách đãi ngộ thoả

đáng cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo ở cơ sở, trước hết là ở vùng

miền núi, vùng sâu, vùng xa (cán bộ xã, thôn, bản). Gắn kết thực hiện chương

trình giảm nghèo với thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tăng cường phân

cấp cho cơ sở, tạo cho cơ sở chủ động trong quá trình lập kế hoạch, điều hành

quản lý các hoạt động của chương tình giảm nghèo. Các xã có tỷ lệ hộ nghèo

cao ngoài việc phải có cán bộ chuyên trách làm công tác giảm nghèo, thì cần

phải có thêm cán bộ khuyến nông để hướng dẫn, giúp đỡ cho người dân

chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi hiệu quả, tăng thu nhập, giảm nghèo

bền vững.

Không ngừng củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo

Chương trình xóa đói giảm nghèo các cấp, đi đôi với việc xây dựng kế hoạch

cụ thể để thực hiện Chương trình xóa đói giảm nghèo phù hợp với từng địa

phương, cơ sở. Đặc biệt các ngành, các cấp phải nắm chắc thực trạng, nguyên

nhân đói nghèo cụ thể để có biện pháp thực hiện các chỉ tiêu xóa đói giảm

nghèo trong từng thời kỳ.

Có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế

105

ở các tỉnh miền núi phía Bắc nói chung và Lạng Sơn nói riêng, từ đó nâng cao

nhận thức, trách nhiệm và trình độ chuyên môn của đội ngũ này để phục vụ

cho việc quản lý, phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương.

Xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói

giảm nghèo từ cấp tỉnh đến cấp xã đặc biệt quan tâm đến nâng cao năng lực

đội ngũ cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ ở các xã nghèo, xã vùng sâu vùng xa có

đông đồng bào dân tộc thiểu số. Xác định trách nhiệm cụ thể của từng ngành,

đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện đối với một xã nghèo, cử cán bộ về địa bàn giúp

địa phương và nhân dân tổ chức tốt công tác này.

Thực hiện chính sách khuyến khích và tạo các điều kiện thuận lợi cho

cán bộ biệt phái, thanh niên tình nguyện về cơ sở giúp địa phương thực hiện

công tác xóa đói giảm nghèo.

Tổ chức các đội thanh niên tình nguyện về các xã nghèo, vùng nghèo

giúp dân tiến hành xóa đói giảm nghèo, đặc biệt coi trọng các đội tình nguyện

về cung cấp dịch vụ xã hội miễn phí (đội bác sĩ khám, chữa bện miễn phí cho

người nghèo, đội giáo viên tình nguyện đi xoá mù chữ, tư vấn chuyển giao kỹ

thuật miễn phí...)

3.2.4. Nâng cao hiệu quả thực hiện và kiểm tra, giám sát hoạt động

xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn.

Tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát ở tất cả các cấp. Tăng

cường sự tham gia của cộng đồng và người dân trong hoạt động giám sát việc

thực hiện chương trình

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá mức độ

hoàn thành chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo ở các cấp, định kỳ sơ kết,

tổng kết đánh giá kết quả thực hiện các chính sách, chương trình xóa đói

giảm nghèo. Xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát có sự tham gia của cộng

106

đồng và người dân, các địa phương, cơ sở có cơ chế tạo điều kiện để các tổ

chức đoàn thể và nhân dân tham gia giám sát việc thực hiện chương trình.

Giao trách nhiệm cho cơ quan chức năng riêng, tổ chức thực hiện việc kiểm

tra, giám sát.

Phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể trong công tác kiểm tra,

giám sát việc thực hiện các quỹ vì người nghèo. Hoàn thiện cơ chế thu - chi

các quỹ vì người nghèo có sự tham gia giám sát của người dân và các tổ chức

đoàn thể.

Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu theo dõi đánh giá hàng năm và định kỳ

cho các cấp làm cơ sở cho việc hoàn thiện chính sách đã có, hoạch định chính

sách mới và chỉ đạo tổ chức thực hiện.

Xây dựng chế tài xử lý hiện tượng thất thoát trong thực hiện các chương

trình, dự án về xóa đói giảm nghèo. Xử phạt nghiêm minh các hành vi bớt xén

nguồn chi hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo dưới các hình thức khác nhau.

3.2.5. Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và đẩy mạnh phát triển

kinh tế hàng hóa

Thứ nhất, Nhà nước cần tăng cường đầu tư từ NSNN vào các địa bàn

khó khăn nhất (các xã ĐBKK, vùng căn cứ cách mạng cũ, vùng cao, biên giới

hải đảo, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc), tập trung trước hết vào

việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, giáo dục, cấp điện, nước, y tế hỗ trợ

các xã nghèo phát triển sản xuất dịch vụ, tiếp cận thị trường.

Việc phát triển sản xuất, tạo việc làm nhằm cải thiện mức sống người

dân, nâng cao thu nhập và xóa đói giảm nghèo là những vấn đề trọng tâm đối

với tỉnh nhà. Trong các chiến lược phát triển, đẩy mạnh phát triển kinh tế

hàng hóa là cách thức tốt có thể giúp người dân tăng thu nhập và cải thiện đời

sống. Chính vì vậy vai trò của Nhà nước đối với quá trình chuyển biến từ nền

107

sản xuất tự nhiên (tự cung tự cấp) sang sản xuất hàng hóa theo nhu cầu thị

trường của các hộ là rất quan trọng. Theo đó, Nhà nước cần phải có quy

hoạch về tổ chức sản xuất các loại hàng hóa, xác định rõ các vùng, các địa

phương, các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa, các kênh tiêu thụ sản phẩm

hàng hóa và xuất khẩu; Đổi mới trang thiết bị, đưa công nghệ sản xuất hàng

hóa trên cơ sở tiêu chuẩn hàng hoá có chất lượng nhằm tạo ra những sản

phẩm tốt đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và hàng xuất khẩu; Đồng thời Nhà nước

phải có chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lý đối với các tỉnh miền núi

phía Bắc Việt Nam nói chung và Lạng Sơn nói riêng, theo đó hướng chuyển

đổi phải được thực hiện theo nguyên tắc xây dựng các vùng sản xuất chuyên

canh, xóa bỏ hình thức sản xuất tự cung, tự cấp; định hướng chuyển đổi,

nghiên cứu giống mới phù hợp với điều kiện miền núi và kèm theo những hỗ

trợ kỹ thuật. Tạo ra sự liên kết vùng sản xuất hàng hóa giữa các địa phương

miền núi trên cơ sở có chính sách phù hợp, đặc biệt là chính sách giá cả nông

sản nhằm bảo đảm lợi ích cho người sản xuất hàng hóa. Tổ chức tốt công tác

thu gom và tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho người sản xuất hàng

hóa tiếp cận tốt hơn với vấn đề bán sản phẩm hàng hóa, vấn đề xuất khẩu

hàng hoá. Phát huy vai trò của các công ty thương mại cấp huyện; xây dựng

các trung tâm chợ miền núi nhằm tạo điều kiện cho việc giao thương hàng

hóa, thu mua sản phẩm nông - lâm nghiệp cho người dân nơi đây.

Thứ hai, Nhà nước phải xây dựng, phát triển mạng lưới đô thị bằng

việc đầu tư vào các trung tâm đô thị của tỉnh (xây dựng các thành phố, thị xã).

Hình thành các trung tâm đô thị mới trên cơ sở phát triển các đặc khu kinh tế,

như kinh tế biên giới, du lịch, công nghiệp khai thác mỏ, các nhà máy thủy

điện và các cụm công nghiệp khác. Phát triển các mạng lưới thị trấn tại các

trung tâm huyện và ở các vùng sản xuất hàng hóa. Xây dựng các trung tâm xã

hoạt động như các trung tâm kinh tế, văn hóa và dịch vụ ở từng cụm dân cư.

108

Đối với những vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp tự túc còn phổ

biến như vùng núi, vùng sâu, vùng xa phải đầu tư xây dựng hệ thống giao

thông thuận lợi cho giao lưu hàng hóa giữa các vùng, xây dựng chợ hoặc

trung tâm thương mại để có nơi trao đổi, mua bán hàng hóa, Từ đó tạo điều

kiện cho việc hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, đặc biệt là

thị trường sức lao động, thị trường mua bán hàng hóa và dịch vụ, thị trường

khoa học công nghệ…

Thứ ba, Nhà nước cần đề ra những chính sách cụ thể để phát triển các loại

thị trường: tạo môi trường và điều kiện cho tự do sản xuất kinh doanh, đa dạng

hóa sở hữu, đa dạng hóa thành phần kinh tế; xây dựng đồng bộ các chính sách về

thị trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính tiền tệ, đất đai, lao động, khoa

học và công nghệ, đầu tư...; đề ra các giải pháp tăng nguồn cung ứng hàng hóa cho

thị trường, có quy hoạch, kế hoạch cụ thể, phù hợp để định hướng phát triển, phân

bố và sử dụng hợp lý các nguồn lực; Đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ

quản lý, nhà kinh doanh. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước…

Thứ tư, Nhà nước phải đưa ra các mô hình mẫu về phát triển kinh tế

hàng hóa phù hợp với từng địa phương. Đây là điều rất quan trọng vì hiện

nay, phát triển kinh tế hàng hóa đang là một yếu tố không thể tách rời trong

nền kinh tế thị trường. Đối với Lạng Sơn và đặc biệt là đối với những vùng

nghèo, xã nghèo, việc chuyển từ nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế

sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài. Người dân nơi đây từ

nhiều năm nay chỉ quen với việc "bán những gì mà mình có" mà không biết

khai thác tiềm năng, tổ chức sản xuất hàng hóa để "bán những gì mà thị

trường cần". Tuy nhiên, Nhà nước không thể mang các mô hình sản xuất hàng

hóa của các tỉnh đồng bằng áp dụng cho các tỉnh miền núi. Do vậy, một mô

hình mẫu về phát triển kinh tế hàng hóa phù hợp với các tỉnh miền núi phía

Bắc Việt Nam sẽ là điều kiện lý tưởng để đẩy mạnh phát triển hàng hóa, phát

109

triển các loại thị trường ở Lạng Sơn.

Thứ năm, Nhà nước phải có chính sách phù hợp để tạo môi trường tăng

trưởng bền vững cho xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt

Nam; đồng thời đẩy nhanh công cuộc cải cách hành chính, tăng cường năng

lực, hiệu lực và hiệu quả Nhà nước trong quản lý; hoàn thành chính sách

thương mại đáp ứng nhu cầu hội nhập và tạo mọi điều kiện để nâng cao tiếp

cận thị trường đối với tầng lớp người nghèo, nhất là ở vùng nông thôn, vùng

sâu vùng xa.

3.2.6. Đề ra những biện pháp phù hợp để chống lại tư tưởng ỷ lại,

trông chờ vào sự trợ giúp từ phía Nhà nước của những hộ nghèo

Khi triển khai các chính sách hỗ trợ cho người nghèo đã nảy sinh một

thực tiễn đó là: không ít người nghèo không chịu làm lụng để vươn lên thoát

khỏi đói nghèo mà luôn có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà

nước. Qua phỏng vấn một số hộ nghèo ở huyện Văn Quan (Lạng Sơn), có đến

trên 80% số hộ nghèo không muốn được đưa ra khỏi danh sách hộ nghèo,

thậm trí họ còn rất "tự hào" khi được nằm trong diện hộ nghèo. Chính vì lẽ

đó, Nhà nước cần phải đề ra những biện pháp để chống lại hiện tượng "thích

đăng ký làm hộ nghèo" và không muốn được "rút khỏi danh sách hộ nghèo".

Một số biện pháp cụ thể đó là:

Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào các dân tộc, nhất là các hộ

nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng ĐBKK nâng cao nhận thức không chấp nhận

nghèo đói. Muốn thoát nghèo thì việc đầu tiên phải là của người nghèo. Sự trợ

giúp trực tiếp của Nhà nước chỉ mang ý nghĩa tạo động lực, cơ hội nhằm thúc đảy

khả năng tự giải quyết của người nghèo. Chính vì vậy, Nhà nước chỉ hỗ trợ trực

tiếp cho các hộ nghèo ở một giai đoạn, chừng mực nhất định, các hộ nghèo phải

quyết tâm lao động sản xuất, phấn đấu thoát khỏi đói nghèo.

Thứ hai, kiên quyết không tiếp tục trợ cấp cho những người đã thoát

110

khỏi diện hộ nghèo, hoặc hộ nghèo đã được hỗ trợ trực tiếp nhưng không chịu

lao động, sản xuất, không chịu phấn đấu thoát nghèo, từ đó dần dần loại bỏ tư

tưởng trông chờ, ỷ lại Nhà nước.

Thứ ba, các chính sách hỗ trợ người dân xóa đói giảm nghèo phải

chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp và tiến tới xóa bỏ hẳn

chính sách hỗ trợ trực tiếp.

Thứ tư, Chỉ đạo thực hiện tốt quy trình rà soát hộ nghèo hàng năm,

phân tích nguyên nhân, đánh giá thực trạng hộ nghèo; đồng thời nêu cao trách

111

nhiệm, tăng cường sự giám sát của cộng đồng dân cư khi bình bầu hộ nghèo.

KẾT LUẬN

Hiện nay, trong khi nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ về nhiều

mặt, nhưng đói nghèo cũng vẫn là một vấn nạn lớn gây nhiều trở ngại cho sự phát

triển kinh tế- xã hội. Vì thế nên cuộc chiến chống đói nghèo vẫn đang được cả nhân

loại và chính quyền các quốc gia đặc biệt quan tâm giải quyết. Đối với Việt Nam

XĐGN được coi là mục tiêu gắn với tăng trưởng kinh tế. Để XĐGN thành công cần

có sự tham gia của toàn xã hội, bản thân người nghèo, trong đó Nhà nước có vai trò

đặc biệt quan trọng trong việc định hướng, mục tiêu; ban hành chương trình, chính

sách; tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát, đánh giá công tác XĐGN. Việt Nam

là một trong những quốc gia được đánh giá là thành công trong công cuộc XĐGN.

Với những chương trình, chính sách và dự án hỗ trợ XĐGN, cùng sự nỗ lực chung

của toàn xã hội, tỉ lệ đói nghèo đã giảm dần từ 18,1% năm 2004 xuống còn 12,3%

năm 2009.

Quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, với sự

chủ động, tích cực của các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân Lạng Sơn; công

tác XĐGN đã được đẩy mạnh, tỷ lệ hộ nghèo không ngừng giảm qua các năm, năm

2006 (27,05%), năm 2007 (21,82%), năm 2008 (18,81%), năm 2009 giảm còn

(17,85%). Tuy nhiên, vai trò của các cấp chính quyền địa phương còn bộc lộ nhiều

bất cập trong việc xác định định hướng, mục tiêu, chương trình, chính sách và tổ

chức, triển khai thực hiện XĐGN xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan, khách

quan khác nhau.

Để nâng cao vai trò nhà nước trong công tác XĐGN với mục tiêu đến năm

2015 và 2020; Lạng Sơn cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp như: tăng cường

công tác truyền thông để tạo ra sự đồng thuận trong nhận thức của chính quyền các

cấp, nhân dân các xã nghèo, người nghèo. Song song với công tác tuyên truyền,

giáo dục thì việc hoàn thiện các chương trình, chính sách phù hợp với thực tế địa

phương; đổi mới cơ chế quản lý, kiện toàn chính quyền bộ máy ở cơ sở; thực hiện

hiệu quả quá trình kiểm tra, giám sát là những giải pháp cần được đặc biệt chú trọng

để đảm bảo triển khai tốt công tác XĐGN.

112

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Minh Anh (2006), Vấn đề nghèo đói của người Khơ Mú ở bản Cha, xã

Chiềng Lương, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, Tạp chí Dân tộc học, số

2(140), tr. 45-49.

2. Vũ Đình Bách (2008), Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Dân tộc tỉnh Lạng Sơn (2007), Tài liệu hướng dẫn cơ chế quản lý các

chính sách dân tộc, Lạng Sơn.

4. Báo cáo Phát triển Việt Nam 2004, 2007, 2008, 2009.

5. BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X (2008), Nghị quyết hội

nghị lần thứ bảy về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị (2007) Nghị quyết 37-NQ/T.Ư về phương hướng phát triển

kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền

núi Bắc Bộ đến năm 2010, Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lê nin,

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.

8. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2007), Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt

Nam, thành tựu thách thức và giải pháp, Hà Nội.

9. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2008), Báo cáo bối cảnh kinh tế thế giới và dự báo

kinh tế vĩ mô năm 2009, Hà Nội.

10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc

nghiên cứu xây dựng Chiến lược phát triển thời kỳ 2011-2020, Hà nội.

11. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (2008), Thông tư số 30/2008/TT-

BLĐTBXH ngày 9/12/2008 hướng dẫn quy trình kiểm tra, đánh giá

định kỳ hàng năm Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo ở các

113

cấp địa phương, Hà Nội.

12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2003), Thông tư số 56/2003/TT-

BNN ngày 49/4/2003 hướng dẫn thực hiện các dự án thuộc Chương

trình xóa đói giảm nghèo và việc làm do Bộ Nông nghiệp và phát triển

nông thôn chỉ đạo, Hà Nội.

13. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2007), Thông tư số 78/2007/TT-

BNN ngày 11/9/2007 hướng dẫn thực hiện dự án khuyến nông - lâm -

ngư và hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề thuộc Chương

trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, Hà Nội.

14. Chính phủ (2002), Chiến lược phát triển toàn diện về tăng trưởng kinh tế

và xoá đói giảm nghèo, Hà Nội.

15. Lê Trọng Cúc, Chu Hải Quý (2002), Phát triển bền vững miền núi Việt Nam,

10 năm nhìn lại và những vấn đề đặt ra, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

16. Cục Thống kê tỉnh Lạng Sơn (2007), Niên giám thông kê tỉnh Lạng Sơn

2007, Lạng Sơn.

17. Mai Ngọc Cường (2006), "Chính sách xã hội ở nông thôn nước ta hiện

nay: Thực trạng và khuyến nghị", Tạp chí Kinh tế và phát triển, số

111, tr. 3-7.

18. Vũ Minh Cường (2003), “Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm

xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang”, Luận văn tốt nghiệp cử nhân

chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

19. Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn (2006), Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn

lần thứ XIV, Lạng Sơn.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng cộng

114

sản toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội..

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng cộng

sản toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Trần Đình Đàn (2002), “Những giải pháp kinh tế- xã hội chủ yếu nhằm

xóa đói giảm nghèo ở Hà Tĩnh”, Luận án tiến sỹ Kinh doanh và quản

lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

24. Nguyễn Đình Hòa (2008), "Phát triển du lịch công đồng và xóa đói giảm

nghèo ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 136, tr. 7-10.

25. Nguyễn Đình Hòa (2009), "Chuyển dịch giàu, nghèo hộ gia đình Việt

Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 140, tr. 17-21.

26. Hoàng Thị Hiền (2005), “Xóa đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít

người tỉnh Hòa Bình- Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ Kinh

tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

27. Thái Văn Hoạt (2007), “Giải pháp xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh

Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Kinh doanh và

quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

28. Trần Đình Hoan (1996), Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc

thực hiện, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội.

29. Trần Thị Hằng (2000), Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc

Gia Hồ Chí Minh.

30. Nguyễn Hải Hữu (2008), Thực trạng và giải pháp xoá đói giảm nghèo đối

với đồng bào dân tộc thiểu số, www.molisa.gov.vn.

31. Phạm Gia Khiêm (2006), Xóa đói giảm nghèo ở nước ta - thành tựu,

115

thách thức và giải pháp, Tạp chí Cộng sản, số 99, tr. 4-9 Hà Nội.

32. Kho bạc nhà nước Lạng Sơn (2008), Báo cáo thực hiện chương trình 135

(2001-2008), Lạng Sơn.

33. Phạm Văn Khôi (2006), Nhận diện đói nghèo theo tiêu chí mới ở Việt

Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 111, tr. 8-12.

34. Niên giám Thời báo kinh tế Việt Nam 2009 - 2010.

35. Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh Lạng Sơn (2008), Báo cáo tổng kết

công tác 5 năm (2003-2007), Lạng Sơn.

36. Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Lạng Sơn (2009), Báo cáo tổng kết

công tác năm 2008, Lạng Sơn.

37. Nguyễn Viết Nguyên (2005), Vai trò của đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

trong chiến lược phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo,

www.nea.gov.vn/QTMT/Baocao/tailieu.

38. Sở LĐ-TB&XH tỉnh Lạng Sơn (2006), Báo cáo đánh giá sơ kết thực hiện

nghị quyết số 15 ngày 21/7/2001 của HĐND tỉnh vầ thực hiện Chương

trình xóa đói giảm nghèo tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001 - 2005, Lạng Sơn.

39. Sở LĐ-TB&XH tỉnh Lạng Sơn (2009), Báo cáo đánh giá sơ kết 3 năm

(2006 - 2008) thực hiện mục tiêu Chương trình giảm nghèo tỉnh Lạng

Sơn giai đoạn 2006 - 2010, Lạng Sơn.

40. Sở LĐ-TB&XH tỉnh Lạng Sơn (2010), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị

quyết số 03/NQ-TU ngày 12/7/2007 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh

Lạng Sơn về đẩy mạnh công tác Xóa đói giảm nghèo giai đoạn giai

đoạn 2006 - 2010, Lạng Sơn

41. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn (2009), Báo cáo kết

quả thực hiện chương trình giảm nghèo giai đoạn 2006-2008, Lạng sơn.

42. Lê Du Phong (cùng tập thể tác giả, 2000), Giải quyết vấn đề phân hóa

116

giàu nghèo ở các nước và Việt Nam, Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội.

43. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết Định số 20/2007/QĐ-TTg ngày

5/2/2007 Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai

đoạn 2006-2010, Hà Nội.

44. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 04/2008/CT-TTg ngày

25/01/2008 về việc tăng cường chỉ đạo thực hiện các Chương trình

giảm nghèo, Hà Nội.

45. Vương Xuân Tình (2007), Hướng sử dụng đất với xóa đói giảm nghèo của

các dân tộc thiểu số ở miền núi Việt Nam, Tạp chí Dân tộc học, số

2(146), tr. 5-19.

46. UBND tỉnh Lạng Sơn (2006), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã

hội tỉnh Lạng Sơn đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020, Lạng Sơn.

47. UBND tỉnh Lạng Sơn (2006), Tài liệu tập huấn cán bộ xóa đói giảm

nghèo, Lạng Sơn.

48. Ủy ban Dân tộc tỉnh Lạng Sơn (2008), Sổ tay hướng dẫn quản lý tài chính

cho các chủ đầu tư thực hiện dự án Chương trình 135 giai đoạn 2,

Lạng Sơn.

49. Văn phòng Chương trình quốc gia xóa đói, giảm nghèo (1993), Báo cáo

117

tại hội nghị chống đói nghèo, Băng Cốc.