ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

MAI THỊ BIẾN KINH TẾ, VĂN HÓA CHÂU LỤC YÊN

TỈNH TUYÊN QUANG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

THÁI NGUYÊN - 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM MAI THỊ BIẾN

KINH TẾ, VĂN HÓA CHÂU LỤC YÊN

TỈNH TUYÊN QUANG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM

Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN

THÁI NGUYÊN - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và

kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử

dụng trong công trình nghiên cứu nào. Các tài liệu tham khảo trích dẫn có nguồn

gốc rõ ràng.

Thái Nguyên, tháng .... năm 2017

Tác giả

Mai Thị Biến

i

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch

tỉnh Yên Bái, Bảo tảng tỉnh Yên Bái, UBND huyện Lục Yên, Phòng Thống kê,

phòng Văn hóa huyện Lục Yên và nhân dân địa phương đã giúp đỡ tôi trong quá

trình khảo sát thực tế tại địa phương.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Đàm Thị Uyên cùng

các thầy cô trong khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên đã chỉ

bảo tận tình, động viên, khích lệ tôi trong thời gian học tập và hoàn thành luận văn.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn tới Ban Giám hiệu, các thầy, cô giáo trường Cao

đẳng Sư phạm tỉnh Hà Giang đã tạo điều kiện về mọi mặt để tôi yên tâm học tập.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè và những người thân

trong gia đình đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng .... năm 2017

Tác giả

Mai Thị Biến

ii

MỤC LỤC

Trang

Trang bia phụ

Lời cam đoan ................................................................................................................ i

Lời cảm ơn .................................................................................................................. ii

Mục lục....................................................................................................................... iii

Danh mục các từ viết tắt............................................................................................. iv

Danh mục các bảng ..................................................................................................... v

Danh mục biểu đồ ...................................................................................................... vi

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................................... 2

3. Mục đích, nhiệm vụ................................................................................................................ 4

4. đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 4

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 5

6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................................... 7

7. Cấu trúc của luận văn............................................................................................................. 7

Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .................................... 12

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ..................................................................................... 12

1.2. Lịch sử hành chính huyện Lục Yên ................................................................................. 16

1.3. Các thành phần dân tộc..................................................................................................... 20

1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội huyện Lục Yên .................................................... 26

Chƣơng 2. KINH TẾ CỦA CHÂU LỤC YÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ......... 33

2.1. Tình hình ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Gia Long 4 (1805) .............................. 33

2.1.1. Tình hình các loại ruộng đất ở châu Lục Yên ...................................... 34

2.1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư .............................................................. 35

2.1.3. Bình quân thửa và bình quân sở hữu một chủ ...................................... 36

2.1.4. Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ ...................................................... 37

2.1.5. Tình hình sở hữu ruộng đất của chức sắc ............................................. 38

2.2. Tình hình ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ........................ 41

iii

2.2.1. Tình hình các loại ruộng đất ở Lục Yên ............................................... 41

2.2.2. Sở hữu ruộng đất tư .............................................................................. 42

2.2.3. Bình quân thửa và bình quân sở hữu một chủ ...................................... 43

2.2.4. Sở hữu ruộng đất theo nhóm họ ........................................................... 44

2.2.5. Sở hữu của chức sắc ............................................................................ 45

2.3. Tình hình kinh tế ............................................................................................................... 48

2.3.1. Nông nghiệp ......................................................................................... 48

2.3.2. Thủ công nghiệp và thương nghiệp ...................................................... 54

2.4. Thuế khóa .......................................................................................................................... 58

Chƣơng 3. VĂN HÓA CHÂU LỤC YÊN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX .................. 61

3.1. Làng bản và nhà cửa ......................................................................................................... 61

3.2. Dòng họ và gia đình .......................................................................................................... 65

3.3. Ẩm thực ............................................................................................................................. 68

3.4. Trang phục ......................................................................................................................... 71

3.5. Tục lệ ............................................................................................................................... 74

3.6. Tín ngưỡng, tôn giáo ........................................................................................................ 90

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 101

PHỤ LỤC

iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

KH : Ký hiệu

Nxb : Nhà xuất bản

PGS : Phó giáo sư

M, s, th, t, p : Mẫu, sào, thước, tấc, phân.

Ví dụ : 112 mẫu 5 sào 4 thước 6 tấc 7 phân sẽ viết tắt là 112.5.04.6.7.

Tr : Trang

TS : Tiến sĩ

TTLTQGI : Trung tâm lưu trữ Quốc gia I

HĐND : Hội đồng nhân dân

UBND : Uỷ ban nhân dân

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1. Thống kê ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Gia Long 4 (1805) ............ 34

Bảng 2.2. Quy mô sở hữu ruộng tư ............................................................................. 35

Bảng 2.3. Bình quân sở hữu và bình quân thửa ........................................................... 37

Bảng 2.4. Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ ...................................................... 38

Bảng 2.5: Tình hình tư hữu ruộng đất của các chức sắc .............................................. 39

Bảng 2.6: Quy mô sở hữu và bình quân sở hữu của các chức sắc ............................... 40

Bảng 2.7. Thống kê ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ....... 41

Bảng 2.8. Quy mô tư hữu ruộng đất của chủ sở hữu năm (1840) ............................... 42

Bảng 2.9: Bình quân thửa và bình quân sở hữu một chủ ............................................. 43

Bảng 2.10: Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ .................................................... 44

Bảng 2.11: Sở hữu ruộng tư của các chức sắc ............................................................. 45

Bảng 2.12: Diện tích sở hữu và bình quân sở hữu của chức sắc ................................. 46

v

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 2.1: Quy mô sở hữu ruộng tư năm 1805 ........................................................ 36

Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tư năm 1840 ........................................................ 42

vi

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Lục Yên là huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Yên Bái, tiếp giáp

với các tỉnh Lào Cai, Hà Giang và Tuyên Quang. Trước cách mạng tháng 8/1945,

huyện có tên gọi là Châu Lục Yên thuộc tỉnh Tuyên Quang, nằm án ngữ sườn phía

tây căn cứ địa Việt Bắc, giữ vị trí hết sức quan trọng trong tuyến hành lang bảo vệ

căn cứ hậu phương kháng chiến của cả nước, là cầu nối liền căn cứ địa Việt Bắc với

chiến trường Tây Bắc và tỉnh Lào Cai, Hà Giang.

Lục Yên là vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai tương đối màu

mỡ, giàu tài nguyên khoáng sản, các dân tộc ở Lục Yên mặc dù có nguồn gốc lịch sử

khác nhau nhưng khi đã cùng nhau sinh sống tại nơi đây thì các dân tộc đã tích cực

khai phá, mở mang ruộng đồng, xây làng lập bản để làm nơi sinh cơ lập nghiệp và

phát triển lâu dài. Tình hình cộng cư của nhiều thành phần dân tộc gắn liền với quá

trình phát triển lâu dài của đất nước. Trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở các

vùng dân tộc miền núi nói chung và Lục Yên nói riêng, Đảng và Nhà nước rất quan

tâm đến việc xây dựng và phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số. Việc phân bố

lại dân cư gắn với xây dựng các vùng kinh tế nhằm khắc phục dần sự cách biệt về

kinh tế - xã hội giữa các dân tộc, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, đảm bảo an

ninh quốc phòng, đồng thời góp bảo vệ môi trường sinh thái.

Là vùng đất rộng người thưa, núi non hiểm trở, có vị trí chiến lược về quốc

phòng, Lục Yên từ xa xưa luôn là một bộ phận của tổ quốc Việt Nam thống nhất.

Đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền thống đoàn kết, yêu nước, giàu lòng nhân ái,

dũng cảm trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức, đánh giặc ngoại xâm; cần cù,

sáng tạo trong lao động và có đời sống văn hoá tinh thần khá phong phú, độc đáo.

Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã

hội chủ nghĩa vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh” là sự nghiệp của toàn xã hội, toàn dân tộc trong đó có nhân dân các dân tộc

1

Lục Yên.

Việc nghiên cứu về kinh tế, văn hóa châu Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX không

những góp phần làm rõ hơn lịch sử kinh tế cũng như đời sống văn hóa của các dân tộc

ở Lục Yên mà còn góp phần làm cơ sở nhận thức cho việc thực hiện đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà trong việc đề ra đường lối phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng

khối đoàn kết các dân tộc, trên mảnh đất Lục Yên giàu truyền thống.

Cho đến nay, vấn đề kinh tế và văn hóa châu Lục Yên nửa đầu thế kỉ XIX

chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, vì vậy tôi chọn đề tài “Kinh tế,

văn hóa châu Lục Yên, tỉnh Tuyên Quang nửa đầu thế kỉ XIX” làm luận văn thạc sĩ

của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Những công trình của các tác giả đã xuất bản có liên quan trực tiếp hoặc gián

tiếp đến đề tài, có thể kể đến như sau:

Vào những năm cuối thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, ở nước ta

xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về tình hình kinh tế và ruộng đất, trong đó có

cuốn “Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ” của tác giả Phan Huy Lê

do Nhà xuất bản Văn Sử Địa, Hà Nội xuất bản năm 1959. Mặc dù cuốn sách không đề

cập đến tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp châu Lục Yên tỉnh Tuyên Quang nửa

đầu thế kỷ XIX, nhưng đây là một trong những tài liệu quan trọng để chúng tôi có thêm

nhận thức trong quá trình hoàn thiện luận văn của mình [22].

Trong tác phẩm “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX”

của tác giả Vũ Huy Phúc, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản năm

1979 tác giả đã nêu lên những chính sách chủ yếu về ruộng đất của nhà Nguyễn, các

thiết chế và cơ cấu ruộng đất được hình thành từ chính sách đó, đồng thời chỉ ra

những tác động và hậu quả của nó đối với yêu cầu phát triển của lịch sử. Nội dung

của tác phẩm không trực tiếp đề cập đến châu Lục Yên tỉnh Tuyên Quang, nhưng đây

là một trong những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu về chế độ ruộng đất

của Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XIX [31].

Cuốn sách “Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI – XVIII” của tác giả

Trương Hữu Quýnh do nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội xuất bản. Cuốn sách

2

gồm 2 tập được xuất bản lần lượt vào năm 1982 và năm 1983. Cuốn sách đã thể hiện

những nét chính về sự tiến triển của chế độ ruộng đất ở nước ta từ thế kỷ XI đến thế

kỷ XVIII, bước đầu vạch ra xu thế phát triển chủ yếu và tính chất kinh tế - xã hội của

nó dựa trên cơ sở là các nguồn tư liệu phong phú bao gồm các bộ chính sử và các

nguồn tư liệu địa phương (văn bia, gia phả…) [40].

Năm 1997, hai tác giả Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang đã cho xuất bản tác

phẩm Tình hình ruộng đất, nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn

do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành. Một trong những nội dung của sách đã bàn

về tình hình ruộng đất thông qua tài liệu địa bạ. Các chính sách về nông nghiệp

đặc biệt là các chính sách về ruộng đất dưới triều Nguyễn. Bên cạnh đó, các tác

giả còn nêu được một số nội dung liên quan đến đời sống nông dân dưới triều

Nguyễn [42].

Một trong những công trình nghiên cứu khá đầy đủ về tình hình chính trị, kinh tế,

văn hóa của các dân tộc ít người trên đất nước ta cũng như những chính sách của các

triều đại phong kiến đối với các dân tộc, đó là cuốn Chính sách dân tộc của các triều đại

phong kiến Việt Nam (thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XIX) của tác giả Đàm Thị Uyên do Nhà

xuất bản Văn hóa dân tộc, xuất bản năm 2007 tại Hà Nội [56].

Tác giả Ngô Đức Thịnh đã có một số công trình nghiên cứu về văn hóa có

thể kể đến: Tóm lược nội dung chính cuốn sách Văn hoá vùng và phân vùng văn

hóa ở Việt Nam (2003); Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam (1994); Tìm

hiểu các luật tục các dân tộc Việt Nam (2004); Một cách tiếp cận về lịch sử văn hóa

(2007); Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam (2006). Là những sách có

nội dung đề cập về văn hóa, vùng văn hóa, cũng như sắc thái đa dạng của nền văn

hóa Việt Nam.

Tháng 4 năm 2000, tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Yên Bái đã cho xuất bản

cuốn Tỉnh Yên Bái một thế kỷ (Nxb Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội xuất

bản), cuốn sách đã trình bày về lịch sử Yên Bái với điều kiện tự nhiên và các nền văn

hóa cổ đã từng tồn tại trên đất Yên Bái xưa, về truyền thống yêu nước của nhân dân ở

đây qua các thời kỳ lịch sử khác nhau về việc thành lập tỉnh Yên Bái và về tình hình

chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, truyền thống yêu nước, cách mạng, sáng tạo của

3

nhân dân Yên Bái từ đó đến nay [53].

Trong cuốn Một số nét đặc trưng các dân tộc Yên Bái của Ban Dân vận và

Dân tộc Tỉnh ủy Yên Bái xuất bản tháng 6 năm 2000, cuốn sách đã nêu được nguồn

gốc, phong tục tập quán cũng như các hình thái kinh tế - xã hội của các dân tộc tỉnh

Yên Bái [52].

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Lục Yên xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện

Lục Yên (1930-2005), xuất bản năm 2005. Trong cuốn sách này đã nêu khá đầy đủ và có

hệ thống về lịch sử hành chính huyện Lục Yên, huyện Lục Yên trong thời kì kháng chiến

cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước [4].

Bên cạnh đó còn có một số bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành của một số tác

giả có liên quan đến kinh tế, văn hóa châu Lục Yên như: Đàm Thị Uyên và Nguyễn Thị

Trang (2004), Vài nét về kinh tế tỉnh tuyên Quang nửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên

cứu Lịch sử số 8 năm 2014 [58].

Ngoài ra, còn phải kể đến một số khóa luận, luận văn có nội dung liên quan đến

đề tài của tác giả đó là: Tìm hiểu tục tang ma của người Nùng ở huyện Lục Yên - Yên

Bái của Lộc Thị Hà, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Tây Bắc, năm 2014. Tác giả đã đề

cập về tục tang ma của người Nùng ở huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái [15]. Luận văn: Kinh

tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX của Trần Thị Xuyên, Luận văn thạc

sĩ Lịch sử, Đại học Sư Phạm, Đại học Thái Nguyên, năm 2015 đã nghiên cứu về đặc

điểm tự nhiên, thành phần dân tộc, chế độ ruộng đất, kinh tế, cũng như văn hóa nhân dân

huyện Trấn Yên thế kỷ XIX. Luận văn này giúp tác giả nghiên cứu được những nét

tương đồng, khác biệt giữa Lục Yên với các huyện khác trong cùng thời điểm nửa đầu

thế kỷ XIX [59].

Như vậy, đã có một số sách, các bài báo đề cập đến từng khía cạnh về chính trị,

kinh tế, văn hóa, xã hội của Tuyên Quang nói chung và Lục Yên nói riêng. Nhưng đến

nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu về Lục Yên một cách hệ thống, mặc dù

vậy các công trình nêu trên là nguồn tài liệu quý mà tác giả luận văn được kế thừa trong

quá trình thực hiện đề tài của mình.

3. Mục đích, nhiệm vụ.

- Mục đích

Chọn đề tài “Kinh tế, văn hóa châu Lục Yên, tỉnh Tuyên Quang nửa đầu thế

4

kỷ XIX” để nghiên cứu, tác giả mong muốn nêu lên một cách chân thực, khoa học về

kinh tế, nhất là tình hình ruộng đất và văn hóa của Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX.

Ngoài ra, luận văn cung cấp thêm tư liệu về kinh tế, văn hóa của châu Lục Yên góp

phần làm cơ sở nhận thức cho các nhà nghiên cứu, giảng dạy về vấn đề này.

- Nhiệm vụ nghiên cứu

Tổng quan về địa bàn nghiên cứu, trình bày lịch sử hành chính huyện Lục

Yên, khái quát về tình hình chính trị – xã hội của huyện Lục Yên, đồng thời trình bày

một số nét khái quát về các dân tộc ở Lục Yên.

Làm rõ tình hình ruộng đất và kinh tế nông nghiệp của châu Lục Yên nửa đầu

thế kỷ XIX.

Nêu lên những nét cơ bản về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân

các dân tộc châu Lục Yên ở nửa đầu thế kỷ XIX.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tƣợng nghiên cứu

Bao gồm các vấn đề về chế độ sở hữu ruộng đất, kinh tế nông nghiệp, văn hóa

vật chất và văn hóa tinh thần của mảnh đất Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX.

- Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Châu Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn

thuộc phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang.

Phạm vi thời gian: Nửa đầu thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn.

5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Nguồn tư liệu

- Nguồn tư liệu chung: Đại Việt sử kí toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí,

Việt sử thông giám cương mục, Đồng Khánh địa dư chí, Kiến Văn tiểu lục, Đại Nam

nhất thống chí… Những tư liệu trên đã ghi chép tên trấn, tổng, xã thôn thời Gia Long,

Minh Mệnh; ghi lại số đinh tô thuế ở địa phương, miêu tả vị trí địa lý, thổ sản, phong tục

tập quán … của các địa phương, trong đó có những tư liệu liên quan đến địa bàn nghiên

cứu của tác giả luận văn.

- Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ huyện Lục Yên, Yên Bái một thế

kỷ, Lục Yên đất ngọc …Những tài liệu này đã miêu tả vị trí địa lý của Lục Yên xưa và

5

nay, văn hóa của các dân tộc trên mảnh đất Lục Yên.

- Nguồn tư liệu địa bạ: Luận văn đã sử dụng 15 địa bạ có niên đại Gia Long 4

(1805), 9 địa bạ thời Minh Mệnh 21 (1840) hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu

trữ Quốc gia I. Tất cả những địa bạ trên là nguồn tư liệu chính để tác giả phục dựng lại

tình hình ruộng đất và sở hữu ruộng đất ở châu Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX.

- Nguồn tư liệu thực địa, điền dã: Tác giả đã thu thập được một số tài liệu trên địa

bàn huyện Lục Yên, đến những làng bản của cộng đồng cư dân thiểu số quan sát, ghi

chép về các phong tục tập quán của họ, thu thập các câu chuyện dân ca, ca dao... liên

quan đến văn hóa cổ truyền của nhân dân Lục Yên trong quá khứ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thiện luận văn, tác giả đã vận dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp lịch sử và phương pháp logic được vận dụng để tái hiện quá khứ

thông qua tư liệu, đồng thời nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan.

- Trong nghiên cứu về Lục Yên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp hệ thống –

cấu trúc. Với phương pháp này, đối tượng nghiên cứu được coi như một hệ thống riêng

gồm những yếu tố hợp thành. Về lịch sử nghiên cứu quá trình hình thành và những

chuyển thay đổi về địa giới, hành chính, các biến động lịch sử của địa phương. Về kinh

tế, gồm có tình hình ruộng đất, kinh tế nông nghiệp, các nghề thủ công nghiệp, hoạt động

thương nghiệp và chế độ thuế khóa; Về văn hóa có các yếu tố như: Làng bản và nhà cửa,

ăn uống, các tục lệ xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo,… Từ đó rút ra những mối liên hệ tương

tác giữa các yếu tố trong một hệ thống.

- Phương pháp so sánh được vận dụng nhằm so sánh chọn điểm cùng vấn đề giữa

hai thời điểm lịch sử hoặc với huyện khác trong tỉnh nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên

cứu. Trong luận văn, chúng tôi đã so sánh ruộng đất ở Lục Yên với huyện khác trong

khu vực miền núi phía Bắc để rút ra điểm chung, riêng của ruộng đất ở Lục Yên.

- Phương pháp bản đồ giúp hình dung cụ thể, sinh động về sự phân bố sông

suối và đồi núi…của huyện.

- Với giới hạn của đề tài, chúng tôi đặc biệt chú ý khâu giám định tư liệu, nhất là

các tư liệu bằng chữ Hán để thấy được mức độ chính xác của nó.

- Trong quá trình thực hiện, một số phương pháp khác được sử dụng nhằm thu

thập và xử lý tối đa lượng thông tin như: phương pháp hồi cố, thống kê, phân tích, tổng

6

hợp bằng hệ thống các bảng biểu.

- Phương pháp điền dã giúp tác giả quan sát, phỏng vấn, ghi chép và chụp ảnh

những nội dung liên quan đến luận văn.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn bước đầu làm rõ hơn các vấn đề kinh tế, văn hóa của châu Lục Yên,

tỉnh Tuyên Quang trong nửa đầu thế kỷ XIX. Dựa vào nguồn tài liệu khai thác được,

luận văn bước đầu khôi phục một cách có hệ thống bức tranh về kinh tế, mối quan hệ

tộc người, những vấn đề văn hóa vất chất và văn hóa tinh thần của cộng đồng cư dân,

gắn với môi trường sinh thái địa phương, vùng miền, trong thời kì lịch sử xã hội hồi

nửa đầu thế kỷ XIX.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được chia

làm 3 chương

Chương 1: Khái quát về địa bàn nghiên cứu

Chương 2: Kinh tế châu Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX

7

Chương 3: Văn hóa châu Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX

8

9

ẽ v ả i g c á T : n ồ u g N

I Á B N Ê Y H N Ỉ T H N Í

H C H N À H Ồ Đ N Ả B

10

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN LỤC YÊN

11

Nguồn:Tác giả vẽ

Chƣơng 1

KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Lục Yên là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Yên Bái. Phía

Bắc giáp huyện Quang Bình, huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang; phía Đông giáp

huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang; phía Tây giáp huyện Bảo Yên tỉnh Lào Cai;

phía Nam giáp huyện Văn Yên, huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Theo sách Đại Nam

nhất thống chí: “Lục Yên ở cách phủ 51 dặm về phía bắc; đông tây cách nhau 125

dặm, nam bắc cách nhau 73 dặm; phía đông đến địa giới huyện Vĩnh Tuy 37 dặm,

phía tây đến địa giới huyện Trấn Yên tỉnh Hưng Hóa 88 dặm, phía nam đến địa giới

châu Thu 22 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Vĩnh Tuy 51 dặm” [34, tr.320]. Sách

Đồng Khánh địa dư chí cũng chép lại như sau: “Lục Yên là châu do phủ Yên Bình

thống hạt. Châu lỵ trước kia đặt ở xã Thuận Mục. Trước đây giảm bỏ, do phủ Yên

Bình kiêm nhiếp. Năm Tự Đức 17 (1864) khôi phục lại, sau đó lại dời về đặt ở xã

Đào Lâm, tiếp sau lại bị phỉ cướp phá hư hại. Châu hạt phía đông giáp giới huyện

Vĩnh Tuy, phía tây giáp giới hai huyện châu Trấn Yên, Văn Bàn tỉnh Hưng Hóa,

phía nam giáp giới Thu Châu, phía bắc giáp giới hai châu Thủy Vĩ, Văn Bàn tỉnh

Hưng Hóa. Đông tây cách nhau 3 ngày đường, nam bắc cách nhau 5 ngày đường”

[51, tr.867].

Trải qua những biến động về lịch sử hành chính, địa giới của huyện cũng đã

có sự thay đổi. Ngày nay, huyện Lục Yên có tổng diện tích tự nhiên là 81.001,40 ha

chiếm 11,76% diện tích toàn tỉnh Yên Bái.

Huyện Lục Yên có hệ thống giao thông khá thuận lợi. Từ trung tâm huyện

đi tới các huyện bạn như Yên Bình, Văn Yên, thành phố Yên Bái và các huyện

Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang, Quang Bình tỉnh Hà Giang và Bảo Yên tỉnh Lào Cai

một cách thuận tiện. Tuyến Quốc lộ 70, tỉnh lộ 171, tỉnh lộ Yên Thế - Vĩnh Kiên

và hệ thống giao thông từ huyện tới trung tâm các xã, đường giao thông liên xã ô

tô đi lại thông suốt nên rất thuận lợi cho việc đi lại và trao đổi hàng hóa giữa các

địa phương trong và ngoài huyện. Ngoài ra giao thông đường thuỷ qua hồ Thác Bà

12

với huyện Yên Bình và các xã phía Tây Nam của huyện. Hệ thống giao thông này

đã góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện và phát triển

dịch vụ thương mại, nâng cao đời sống nhân dân.

Về điều kiện tự nhiên, huyện Lục Yên có độ cao phổ biến từ 80m đến dưới

300m; trong đó độ cao trung bình so với mặt nước biển là 100m. Địa hình bao gồm

thung lũng sông Chảy, cao ở phía Tây - Bắc, thấp dần theo hướng Đông - Nam.

Trong đó có nhiều dãy núi đá vôi xen kẽ và chia cắt.

Theo sách Đồng Khánh địa dư chí, khí hậu của Lục Yên cũng giống Thu

Châu và Hàm Yên: “Tháng giêng, tháng hai gió đông thi thoảng gió bắc, nhiều

lạnh rét, ít ấm nóng. Trời mây âm u cả tuần, sương mù dày đặc, buổi sáng phải

đến giờ Thìn mới thấy mặt trời, mới chừng nửa giờ Thân trời đã tối. Đến hạ tuần

tháng 3 mới cảm thấy ấm áp. Tháng 4,5,6 gió nam nắng gắt. Tháng 7,8 mưa lũ,

lốc bão. Tháng 9,10 ít mưa, nhiều ngày tạnh nắng, đã bắt đầu cảm thấy lạnh.

Tháng 11,12 gió bấc, rét đậm. Đó là khí hậu ấm, mát, lạnh, nóng trong một năm.

Còn khí lam chướng thì cả bốn mùa đều có. Còn thủy triều thì không dâng đến

huyện hạt” [51, tr.860].

Các yếu tố khí hậu của huyện Lục Yên mang đặc trưng của khí hậu chuyển tiếp của miền Tây Bắc và Việt Bắc. Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,90c. Mùa lạnh vào tháng 1 nhiệt độ trung bình là 15,80C. Mùa nóng vào các tháng 5,6 nhiệt độ trung bình là 28,30C, cao nhất là khoảng 390C, thấp nhất là 3,10C.

Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.500mm đến 2.200mm. Mùa mưa bắt

đầu vào tháng 5 và kết thúc vào tháng 9. Lượng mưa toàn mùa là 1.629mm, chiếm

76% lượng mưa toàn năm. Số ngày mưa trải đều các tháng. Mùa khô số ngày mưa ít nhất cũng xấp xỉ 10 ngày. Lượng mưa thấp nhất vào tháng 1 là 24mm và cao

nhất vào tháng 7 là 420mm. Lượng mưa phùn nhiều hơn các huyện phía Bắc, bình

quân mỗi năm có 39,3 ngày mưa phùn. Là một trong những huyện có số ngày mưa

lớn nhất tỉnh Yên Bái. Bình quân mỗi năm có 16,8 ngày mưa trên 50mm và 2,3

ngày mưa trên 100mm [4, tr.10].

Do ảnh hưởng của dãy Hoàng Liên Sơn và hồ Thác Bà nên độ ẩm khá cao,

trung bình trong năm là 84%, có lúc lên tới 87%.

Nằm ở vị trí nội tuyến, lượng bức xạ mặt trời lớn và khá đồng đều. Huyện

13

Lục Yên có số giờ nắng trung bình một năm là 1.511 giờ.

Vào mùa lạnh, gió mùa đông bắc ở Lục Yên từ tháng 11 đến tháng 3. Trong

những ngày mùa đông, hiện tượng sương mù chủ yếu về sáng sớm và chiều tối.

Trong mùa này có một vài ngày sương muối. Gió mùa đông nam từ tháng 4 đến

tháng 11 tạo ra sự mát mẻ và mưa. Sang đầu thời kỳ mùa hè (tháng 5,6) có gió tây

nam xen kẽ tạo khí hậu khô nóng và độ ẩm thấp.

Tài nguyên đất có thể phân ra thành hai hệ đất chính đó là đất phù sa do sông

Chảy bồi đắp và hệ đất Feralit phát triển trên nền địa chất đa dạng của địa hình đồi

núi. Đất thung lũng ven sông Chảy, ven hồ có khả năng trồng hoa màu, lúa nước,

cây công nghiệp ngắn ngày, gồm nhiều cánh đồng phì nhiêu, vựa lúa của huyện như

Mường Lai, Vĩnh Lạc, Liễu Đô, Minh Chuẩn...Tổng diện tích tự nhiên của huyện là

81.001,40ha trong đó đất nông nghiệp là 12.792,50ha chiếm 15,8% tổng diện tích tự

nhiên, đất lâm nghiệp 57.973,00ha, đất chuyên dùng là 2.283,80ha, đất ở chiếm

795,50 ha.

Trước đây, ở Lục Yên diện tích rừng tự nhiên khá rộng với nhiều loại gỗ

quý như: lát hoa, sến, táu, chò chỉ...và bạt ngàn tre nứa. Thú quý có hổ, báo, gấu,

cầy hương... Nhưng do phá rừng làm nương rẫy và khai thác khá ồ ạt, kéo dài

dẫn đến diện tích rừng tự nhiên bị giảm, một số loài thú quý không còn. Rừng và

tài nguyên rừng là một trong những thế mạnh của huyện. Rừng núi Lục Yên có

hình dáng khác nhau. Có những ngọn núi, hang động được ghi vào sử sách. Lê

Quý Đôn đã viết: Trên bờ khe Đài Kỵ châu Lục Yên có núi Thần Áo Đen. Tương

truyền, Vua Áo Đen là một vị tướng, trong một cuôc chiến chống ngoại xâm, ông

chiến đấu rất dũng cảm, song do quân ít không chống cự được và phải lui dần,

cuối cùng bị vây chặt ở chân dãy núi đá vùng Tân Lĩnh ngày nay. Sau những trận

kịch chiến, không thể giải vây ông đã hóa đá cùng con ngựa bay lên trên ngọn

núi đá. Từ đó trở đi, ở vách núi, nơi không có cây cối nào mọc được còn lưu giữ

hình bóng của ông và con ngựa. Núi đấy được nhân dân trong vùng gọi là núi

Thần Áo Đen (hay Vua Áo Đen vì ông mặc y phục màu đen) [32, tr.194,195].

Chế độ thủy văn của huyện Lục Yên khá phong phú nhờ hệ thống sông, suối,

ngòi phân bổ đều, nguồn nước dồi dào phục vụ nhu cầu của đời sống sinh hoạt của

14

nhân dân và các ngành kinh tế quốc dân, có tiềm năng thủy lợi, thủy điện. Sông Chảy

(tên cổ là Trôi Hà hoặc sông Đạo Ngạn) là một phụ lưu lớn của sông Lô bắt nguồn từ

vùng Tây Côn Lĩnh chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam qua địa phận huyện dài 60

km, sách Đại Nam nhất thống chí :“Sông Chảy cũng gọi sông Trôi, ở cách châu Lục

Yên 60 dặm về phía Đông Bắc, phát nguyên từ châu Thủy Vĩ tỉnh Hưng Hóa, chảy

vào địa phận châu Lục Yên rồi chảy qua địa phận châu Thu làm sông Đạo Ngạn, lại

chảy 80 dặm, rồi vào địa phận tỉnh Sơn Tây. Bờ phía hữu thuộc địa phận hai huyện

Hạ Hòa và Tây Quan tỉnh Sơn Tây” [34, tr.335].

Lưu vực sông Chảy được giới hạn khá rõ, phía bắc là vùng núi cao trên 1.500m.

Địa hình của lưu vực thấp dần từ Bắc - Tây Bắc xuống Nam - Đông Nam. Phía Tây là

dãy Con Voi cao từ 700m đến 1.450m. Hướng dốc địa hình đã tạo ra hướng chảy ở

trung, hạ lưu là Tây Bắc - Đông Nam. Do sông Chảy xâm thực trên một nền đá rắn kết

tinh nên có thác ghềnh. Mùa mưa dòng chảy xiết nhưng thác ghềnh không nhiều vì vậy

thuyền, bè đi lai tương đối thuận tiện. Ngoài sông Chảy, Lục Yên còn có hệ thống ngòi,

rạch khá phong phú như ngòi Trúc Lâu, ngòi Vàn, ngòi Đại Cại, Khánh Thiện… lớn

nhất là ngòi Biệc (tên cổ là Bích Đà). Bắt nguồn từ vùng núi cao Mai Sơn, Lâm

Thượng chảy dọc thung lũng Bắc Pha, xuống làng Mường, làng Ói đổ vào sông chảy

tại cửa Đầu Đồng xã Ngọc Chấn huyện Yên Bình.

Ngoài hệ thống sông ngòi, hiện nay Lục Yên còn có hệ thống ao, hồ khá

phong phú, tiêu biểu là hồ Thác Bà. Hồ nằm trên địa phận hai huyện Yên Bình và

Lục Yên của tỉnh Yên Bái, được hình thành khi đắp đập ngăn dòng sông Chảy để

xây dựng Nhà máy thủy điện Thác Bà đầu tiên của miền Bắc, hoàn tất vào năm

1970. Đây là là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam, bao phủ hơn

1.300 hòn đảo lớn nhỏ. Diện tích vùng hồ trải rộng 23.400ha, diện tích mặt nước đạt

19.050ha, kéo dài khoảng 80km, mực nước dao động từ 46m - 58m, chứa được 3 - 4

tỉ mét khối nước. Ngoài dòng sông Chảy là nơi cung cấp nước chủ yếu, hồ Thác Bà

còn có các sông lớn như ngòi Hành, ngòi Cát... đổ về, bồi lắng phù sa quanh năm,

tạo điều kiện cho hệ động thực vật phát triển phong phú.

Những yếu tố về khí hậu, đất đai, thổ nhưỡng, chế độ thủy văn đã tạo nên

nhiều yếu tố thuận lợi cho Lục Yên xây dựng cơ cấu kinh tế Nông - Lâm - Ngư -

15

Công nghiệp và dịch vụ khai khoáng. Lục Yên là nơi sản xuất lúa lớn thứ hai của

tỉnh Yên Bái. Bên cạnh cây lúa còn có điều kiện phát triển mạnh cây lạc, ngô, đỗ

tương. Đặc biệt với những vùng được thiên nhiên ưu đãi đất đai thích hợp, còn có

thế mạnh phát triển vườn cam, hồng đặc sản mang tính chất hàng hóa. Về chăn

nuôi, ngoài việc phát triển đàn lợn, trâu mang tính chất truyền thống, còn có nhiều

tiềm năng tăng nhanh về sản lượng nuôi đánh bắt cá.

Bên cạnh những thuận lợi kể trên, địa phương cũng chịu nhiều hậu quả do

đặc điểm của thời tiết gây ra. Mùa đông nhiều đợt gió lạnh buốt tràn về gây ra

sương muối, đầu mùa hè những đợt gió tây nóng, ảnh hưởng đến sức khỏe con

người, súc vật và cây trồng. Thiên tai như hạn hán, lũ lụt, mưa đá, sương muối

đã gây ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân dân trong huyện, đặc biệt là

đối với nông nghiệp, lâm nghiệp.

Tài nguyên, khoáng sản cũng là một trong những tiềm năng, thế mạnh của

huyện. Về khoáng sản quý có pirit, phôtphorit, đá quý, than, đã được xác định trữ

lượng và bước đầu đi vào khai thác. Vàng sa khoáng phân bố ở nhiều vùng. Đặc biệt

một số vật liệu xây dựng như đá hoa, đá vôi, đá trắng chất lượng cao, cát, sỏi có trữ lượng lớn. Cũng chính vì vậy mà Lục Yên được mệnh danh là vùng đất Ngọc.

1.2. Lịch sử hành chính

Lịch sử hành chính huyện Lục Yên gắn liền với lịch sử phát triển của

vùng đất Tuyên Quang.

Tuyên Quang thời Hùng Vương là một trong 15 bộ của quốc gia Lạc Việt,

vùng đất này là địa bàn cư trú của vùng Tây Vu. Trong thời kỳ Bắc thuộc kéo dài

hàng nghìn năm, vùng đất này vẫn nằm trong địa phận huyện Tây Vu thuộc quận

Giao Chỉ. Đến thế kỷ XI mang tên châu Bình Nguyên, thời Lý thuộc Phủ Phú

Lương, thời Trần là Trường Phú Linh.

thế k

16

Thời thuộc Minh. Minh Thành Tổ xuống chiếu đổi nước ta làm quận Giao Chỉ

như một địa phương của nhà Minh. Dưới quận, nhà Minh lập ra 15 phủ gồm 36 châu,

181 huyện và 5 châu trực thuộc thẳng vào quận; trong đó Tuyên Quang thuộc châu

Tuyên Hóa, rồi phủ Tuyên Hóa trực thuộc quận Giao Chỉ.

Theo Minh thực lục: Năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407) đổi trấn Tuyên Quang thành

châu Tuyên Hóa. Châu Tuyên Hóa lĩnh 9 huyện: Khoáng, Đương Đạo, Văn Yên,

Bình Nguyên, Để Giang, Thu Vật, Đại Man, Dương, Ất. Năm Vĩnh Lạc thứ 6 (1408):

Thăng châu Tuyên Hóa thành phủ Tuyên Hóa, vẫn gồm 9 huyện như trước. Năm

Vĩnh Lạc thứ 17 (1419) sáp nhập huyện Văn Yên vào huyện Khoáng; huyện Ất vào

huyện Để Giang [47, tr.260].

Thời Lê sơ, cả nước chia làm 5 đạo: Nam đạo, Bắc đạo, Đông đạo, Tây đạo,

Hải đạo và chia các lộ, trấn, phủ, châu, huyện lệ thuộc vào các đạo. Tuyên Quang

thuộc vào Tây đạo.

Thừa Tuyên Quang có 1 phủ, 1 huyện, 5 châu: Phủ Yên

Bình; Huyện Phúc Yên (Hàm Yên); 5 châu: Thu Vật, Lục Yên, Đại Man (Chiêm

Hóa), Vị Xuyên, Bảo Lạc [8, tr. 143].

Sau năm 1802, vua Gia Long bắt tay vào củng cố bộ máy cai trị từ trung ương

đến địa phương. Vùng đất Lục Yên, Gia Long vẫn theo lệ cũ của nhà Lê giữ nguyên

như vậy.

Theo sách Đại Nam nhất thống chí:“Tên châu đặt từ thời Lê Quang Thuận, do

thổ tù nối đời quản trị; bản triều đầu đời Gia Long vẫn theo như thế; năm Minh

Mệnh thứ 16 đổi đặt lưu quan, lãnh 6 tổng, gồm 27 xã thôn; năm Tự Đức thứ 4, bỏ tri

châu do phủ kiêm nhiếp. Châu lị ở xã Thuận Mục nay bỏ” [34, tr.321]. Cũng theo

sách Đồng khánh địa dư chí, châu Lục Yên có 6 tổng gồm 27 xã. Các tổng, xã của

châu Lục Yên như sau:

Tổng Bì Hạ: Bì Hạ, Dự Vi, Vĩnh Lạc, Cổ Văn, Từ Hiếu, Liễu Đô.

Tổng Trúc Lâu: Trúc Lâu, Động Quan, Tô Trà, Tô Mậu

Tổng Lâm Trường Thượng: Lâm Trường Thượng, Lâm Trường Trung, Tòng

17

Lệnh, Đào Lâm, Minh Chuẩn.

Tổng Lâm Trường Hạ: Lâm Trường Hạ, Đà Dương, Thản Cù, Nhân

Mục, Thuận Mục.

Tổng Lương Sơn: Lương Sơn, Phúc Khánh, Canh Quan, Lâm Vân.

Tổng Nghĩa Đô: Nghĩa Đô, Xuân Kỳ, Vị Thượng [51, tr. 867, 868].

Thời Pháp thuộc, sau khi đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ và Bắc Kỳ, năm

1887, thực dân Pháp đánh chiếm Lục Yên, thiết lập bộ máy cai trị mới. Ngày 11

tháng 4 năm 1900, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Yên

Bái, huyện Lục Yên trực thuộc tỉnh Yên Bái [4, tr. 37].

Tháng 7 năm 1945, huyện Lục Yên thuộc tỉnh Tuyên Quang và đến tháng 12

lại trở về tỉnh Yên Bái. Đến năm 1965 huyện Lục Yên được tách ra thành 2 huyện

là Lục Yên và Bảo Yên.

Ngày 27 tháng 12 năm 1975, trên cơ sở sáp nhập các tỉnh Lào Cai, Yên Bái,

Nghĩa Lộ (các huyện Mù Căng Chải, Văn Chấn, Trạm Tấu, Than Uyên) thành lập

tỉnh Hoàng Liên Sơn . Lục Yên thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.

Ngày 12 tháng 8 năm 1991, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết

chia tỉnh Hoàng Liên Sơn để tái lập tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái, huyện Lục Yên

thuộc tỉnh Yên Bái [4, tr.16].

Hiện nay, huyện Lục Yên có 24 đơn vị hành chính với 1 thị trấn Yên Thế và

23 xã: Tân Phượng, Lâm Thượng, Khánh Thiện, Minh Chuẩn, Khai Trung, Mai

Sơn, An Lạc, Tô Mậu, Tân Lĩnh, Yên Thắng, Minh Xuân, Mường Lai, Khánh Hoà,

Động Quan, Tân Lập, Liễu Đô, Vĩnh Lạc, Minh Tiến, Trúc Lâu, Phúc Lợi, Trung

Tâm, Phan Thanh, An Phú. Với 261 thôn bản, cụ thể:

- Xã An Lạc (7 thôn): Làng Đũng, Làng Hốc, Làng Chà Trong, Làng Chà

Ngoài, Làng Hàm Rồng, Khe Điểu, Lâm Sinh.

- An Phú (14 thôn): Thôn Khau Cuồng, Thôn Khau Xén, Nà Hà, Đồng Dân,

Tổng Khuyển, Khau Vi, Nà Lại, Khau Ca, Làng Sóa, Nà Dụ, Lũng Đẩy, Cao Khánh,

Mỏ Cao, Tân Lập.

- Liễu Đô (11 thôn): Tân Quang, Tiền Phong, Đồng Tâm, Cây Mơ, Cây Thị,

Nà Nọi, Chính Quân, Kha Bán, Cốc Bó, Ngòi Tàu, Ngòi Kèn.

18

- Động Quan (16 thôn): Khe Đươn, Đồng cò, Khe Nàng, Thâm Lương, Khe

Chay, Khe Lác, Đồng Sát, Nà Hốc, Đồng Rèn, Khe Dầu, Nà Trú, Làng Tại, Làng

Nong, Làng Tăm, Làng Thêm, Hồng Quang.

- Tân Phượng (8 thôn): Bó My 1, Bó My 2, Khiểng Khun 1, Khiểng Khun 2,

Lũng Cọ 1, Lũng Cọ 2, Khe Bín 1, Khe Bín 2.

- Lâm Thượng (18 bản): Bản Lẹng, Bản Khéo, Bản Tông Pắng A, Bản Tông

Pắng B, Bản Tông Cại, Bản Tông Pình, Bản Nặm Chắn, Bản Hin Lạn A, Bản Hin

Lạn B, Nản Thâm Pất, Bản Chang, Bản Nà Pồng, Bản Nà Kèn, Bản Nà Bẻ, Bản Nặm

Chọ, Bản Muổi, Bản Thâm Lay, Bản Nà Kéo.

- Khánh Thiện (16 thôn): Hua Tông, Tông Luông, Nà Tông, Tông Mộ, Tông

Áng, Đon Po, Tạng Tát, Nà Lạn, Làng Giàu, Tông Quan, Nà Luồng, Khe Phay, Reo

Nác, Nà Bó, Nà Khang, Khuôn Co.

- Minh Chuẩn (9 thôn): Khuổi Khít, Co Cại, Đồng Kè, Ngòi Nạc, Nà Phung,

Làng Bướm, Làng Khánh Trong, Làng Khánh Ngoài, Sân Tập.

- Khai Trung (5 thôn): Giáp Chảy, Giáp Luồng, Giáp Cang, Tát Én, Khe Lùng

- Mai Sơn (8 thôn): Sơn Hạ, Sơn Đông, Sơn Nam, Sơn Trung, Sơn Bắc, Sơn

Thượng, Sơn Tây, Đán Đăm.

- Tô Mậu (3 bản, 9 xóm): Bản Mường, Bản Thắm, Bản Chang, Xóm Lợi Hà,

Xóm Hin Lặp, Xóm Soi Cậu, Xóm Gốc Diễn, Xóm Cửa Ngòi, Xóm Nà Hỏa, Xóm

Nà Pan, Xóm Nà Hốc, Xóm Nà Ó.

- Tân Lĩnh (18 thôn): Hin Trang, Chuông Trong, Chuông Ngoài, Làng Mo,

Làng Cốc, Bến Mảng, Cẩu Vè, Thâm Rằng, Sâng Ngoài, Sâng Trong, Sâng Chang,

Ngọc Minh, Bến Lăn, Trần Phú, Khuôn Thống, Bản Ính, Xóm Tía, Xóm Ngõa.

- Yên Thắng (có 8 thôn): Đồng Cáy, Hin Lò, Làng Già, Làng Phạ, Làng Thọc,

Thoi Xóa, Nà Khao, Thâm Pồng.

- Minh Xuân (13 thôn): Nà Khà, Nà Vài, Bản Cố, Bản Yên, Tông Pha, Tông

Cụm, Chang Thành, Bó Ngược, Bản Giạng, Tông Cáy, Tông Poọng, Đon Cạng, Bản Ất.

- Mường Lai (22 thôn): Nà Chao, Từ Hiếu, Nà Khoang, Nà Chèn, Nà Bó, Nà

Quành, Khau Quảng, Roong Loỏng, Nà Thợ, Nà Bái, Bản Cạu, Roong Đeng, Nà

Vân, Tặng An, Nà Va, Nà Chùa, Nà Cáy, Nà Ngàm, Thâm Bưa, Khuôn Thếp, Nà

19

Nhàn 1, Nà Nhàn 2.

- Khánh Hoà (7 thôn): Kim Long, Làng Chạp, Khe Pắng, Làng Khương,

Làng Nộc, Khe Chung, Tát Kiêu.

- Tân Lập (11 thôn): Bản São, Bản Xiêng 1, Bản Xiêng 2, Bản Tại, Bản

Chang, Bản Hạ, Bản Lũng, Bản Ao Sen, Bản Thanh Giang, Bản Cát 1, Bản Cát 2.

- Vĩnh Lạc (11 thôn): Yên Phú, Làng Tả, Yên Thịnh, Làng Mường, Bó Luông,

Bến Muỗm, Pù Thạo, Vĩnh Đông, Loong Xe, Bó Mạ, Làng Mác.

- Minh Tiến (14 thôn): Làng Mang, Làng Mang, Khuôn Pục, Làng Quỵ, Tông

Táng, Khau Sảo, Làng Trạng, Khau Dự, Khau Phá, Làng Ven, Làng Chang, Khe Vai,

Khau Nghiềm, Sắc Phất.

- Trúc Lâu (11 thôn): Cửa Khập, Tu Trạng, Bản Chang, Khe Giang, Tông

Châng, Trung Tâm, Nà Hiên, Bản Lẫu, Bản Pạu, Bản Riềng, Bản Lạn.

- Phúc Lợi (4 thôn): Thôn Túc, Thôn Thuồng, Thôn Thuồng, Thôn Vàn.

- Trung Tâm (10 thôn): Thôn Sâm Trên, Thôn Sâm Dưới, Thôn Sài Lớn, Thôn

Khe Vầu, Thôn Làng Lạnh, Thôn Khe Hùm, Thôn Sài Trên, Thôn Sài Dưới, Thôn

Ngòi Thìu, Thôn Làng Đát.

- Phan Thanh (8 thôn): Thôn Bản Kè, Bản Năn, Bản Chang, Bản Thủy Văn,

Bản Hốc, Bản Xả, Thôn Bản Ro, Bản Dầu [93].

1.3. Các thành phần dân tộc

Lục Yên cũng như các huyện khác của tỉnh Yên Bái, là mảnh đất vốn có lịch

sử lâu đời. Từ xa xưa đã có sự tồn tại của con người.

Từ tháng 10 năm 1963 đến tháng 12 năm 1964, các nhà khảo cổ học đã khai

quật di chỉ tại hang Hùm (địa phận xã Tân Lập ngày nay). Tại hang Hùm, hàng

ngàn hóa thạch của 30 loài được phát hiện, đặc biệt việc tìm thấy những chiếc răng

hàm của người khôn ngoan đã chứng tỏ Lục Yên là vùng đất có người của thời kì đồ

đá cũ tồn tại và phát triển [4, tr.16].

Văn hóa đá mới mà tiêu biểu là giai đoạn hậu kỳ đá mới được tìm thấy ở

nhiều điểm thuộc lưu vực sông Chảy. Đặc trưng nổi bật của thời kỳ này là rìu bôn

có vai, tìm thấy ở Lũng Ro (Phan Thanh), Khuôn Thống (Tân Lĩnh).

Những dấu tích của thời đại kim khí cũng tìm thấy ở Lục Yên với trống đồng

20

Ngòi Vặc (nay thuộc xã Minh Xuân) mang phong cách của trống đồng Đông Sơn.

Như vậy là các di chỉ khảo cổ học thuộc văn minh sông Hồng của thời đại Hùng

Vương đã có mặt ở các vùng đất trong đó có Lục Yên. Con người ở đây đã rời hang

động trong rừng, núi xuống cư trú ở vùng thấp và các dải đất ven sông Chảy để

canh tác. Họ dùng rìu đá mài, rìu đồng để làm đất. Khi kỹ thuật luyện kim phát triển

xuất hiện thêm lưỡi cày, lưỡi cuốc. Nghề gốm, sành, sứ xuất hiện đáp ứng nhu cầu

sinh hoạt của con người. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những đồ dùng bằng

gốm, sành với nhiều niên đại khác nhau ở Tân Lĩnh, Yên Thắng, Tân Lập...

Từ những di chỉ, di vật phát hiện ở địa phương cho ta biết một chặng

đường kéo dài hàng vạn năm từ thời đồ đá cũ đến thời đồng thau. Chứng tỏ Lục

Yên nằm trong khu vực địa bàn sinh tồn và phát triển liên tục của người Việt cổ

trên đất nước ta. Đến nay trên dải đất Lục Yên đã có nhiều dân tộc cùng sinh

sống. Sự phân bố dân cư - dân tộc mang yếu tố xen kẽ cao, thấp khác nhau.

Sách Đồng Khánh địa dư chí có viết: “Châu hạt đều là người Thổ (Tày),

người Nùng, người Mán, chuyên làm ruộng đốn củi. Một ít người có học chữ. Tục

chuộng tiết kiệm, đại để giống phong tục Thu Châu, Hàm Yên” [51, tr.868].

Huyện có 4 dân tộc cùng chung sống là Tày, Dao, Kinh, Nùng và 13 dân tộc

khác, như dân tộc: Hoa, Sán Chay, Khơ Mú, Giáy.... Theo số liệu của Chi cục

Thống kê huyện Lục Yên, tính đến tháng 12 năm 2015 toàn huyện có 107.732 nhân

khẩu được phân bố theo các dân tộc sau:

Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Lục Yên

STT Dân tộc Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Ghi chú

1 Tày 53,9 58.068

2 Dao 19,1 20.576

3 Kinh 16,23 17.485

4 Nùng 10,3 11.096

6 Các dân tộc khác 0,47 507

Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Lục Yên, 2015

Tổng số 100 107.732

Trên cơ sở tư liệu hiện có và kết quả khảo sát thực tế có thể khái quát về các

21

thành phần dân tộc như sau:

1.3.1. Dân tộc Tày

Dân tộc tày là một cộng đồng thuộc ngôn ngữ Tày – Thái. Tộc danh Tày có lẽ

bắt nguồn từ cư dân chuyên nghề cày ruộng, mà bộ nông cụ tiêu biểu là cái cày, tiếng

Tày - Thái truyền thống gọi cái cày là “Mạc Thay” hay “Thây” rồi biến âm thành Tày

hay Thái (cũng có dụng ý như vậy khi người Tày được gọi là Cần Nà, tức người cày

ruộng). Từ thế kỉ XV, người Tày còn được gọi là người Thổ để phân biệt giữa thổ

quan địa phương với lưu quan người Kinh từ dưới xuôi lên. Lưu quan người Kinh bị

thổ hóa gọi là Thổ lưu quan. Thổ trong trường hợp này được hiểu là người bản xứ

hay “thổ địa”. Từ 1945 trở lại đây thống nhất cách gọi là dân tộc Tày.

Theo số liệu thống kê tỉnh Yên Bái, Dân tộc Tày chiếm khoảng hơn 17% dân

số toàn tỉnh, sống tập trung trong 7 huyện và chủ yếu là ở huyện Lục Yên. Ở Lục

Yên, dân tộc Tày lại chiếm số dân đông nhất trong huyện (có khoảng 58.068 người,

chiếm 53,9% dân số trong toàn huyện).

Địa bàn cư trú của đồng bào Tày phần lớn ở những nơi có điều kiện sản xuất

nông nghiệp và thuận lợi giao thông, sống tập trung ở các xã như: xã Tân Lĩnh, Động

Quan, Minh Xuân, Tân Lập, Mường Lai...Tuy vậy, cũng có những nơi đồng bào Tày

sinh sống ở các xã vùng cao như: xã Lâm Thượng, Khánh Thiện... Họ sống xen cư

với các dân tộc khác trong huyện. Kinh tế chủ yếu của người Tày là làm ruộng nước,

chăn nuôi gia súc và gia cầm.

Người Tày ở Lục Yên có ba bộ phận hợp thành:

Thứ nhất, người Tày hay “Thổ”, là những người đã sinh sống từ lâu đời ở địa

phương, tức là người Tày bản địa. Qua số liệu thống kê của huyện cũng như qua khảo

sát thực tế cho thấy, cư dân Lục Yên chủ yếu là người Tày bản địa. Hiện nay chiếm

ưu thế trong tộc người Tày là họ Hoàng (Hiện nay, dòng họ này có nhiều người nắm

giữ vai trò lãnh đạo trong huyện với nhiều chức vụ như: Hoàng Văn Đạo - Chánh

Thanh tra huyện, Hoàng Văn Số - Trưởng phòng Nông nghiệp và phát triển nông

thôn, Hoàng Viễn - Trưởng phòng Tài chính và Kế hoạch...)

Thứ hai, là bộ phận người Tày gốc Kinh từ miền xuôi lên theo lệnh của triều

đình, đi dạy học hoặc đi tìm đất để sinh nhai, sau đó ở lại địa phương làm ăn sinh

22

sống với người Tày và đã “Tày hóa”. Những người này do sinh sống ở địa phương

lâu ngày, một số dòng họ đã trở thành người Tày bản địa, vì thế người Tày ở Lục Yên

có câu “Kinh già hóa Thổ”. Cụ thể ở xã Tòng Lệnh (nay là xã Phan Thanh), theo các

cụ cao tuổi kể rằng: Tổ tiên một bộ phận cư dân ở đây có nguồn gốc là người Kinh

quê quán ở Hải Dương, Hải Phòng làm nghề đánh cá biển, trong quá trình giao lưu

buôn bán lâm thổ sản, ban đầu là buôn bè tre giang (lạt giang) về xuôi, nên gọi là

“Keo mạy ràng” (Kinh buôn giang). Tiếp theo là nhiều lý do khác, họ di cư lên lập

nghiệp tại Vạn Thiều, đặt tên cho quần cư của mình là “Vạn” (tức nghề cá) gắn với

địa danh sở tại là xã Xuân Thiều rồi thành Vạn Thiều sau này. Trải qua nhiều đời, sự

giao thoa giữa hai nền văn hóa miền núi và miền biển hòa quyện với nhau, dần dà trở

thành người Tày. Nhìn chung người Tày thuộc các dòng họ Nguyễn, Đinh, Cao, Vũ,

Hà, Phạm…đều là gốc Kinh [85].

Thứ ba, bộ phận Tày - Nùng từ Quảng Tây, Trung Quốc tới Lục Yên tìm kế

lập nghiệp. Vùng tả hữu Giang Quảng Tây vốn là vùng quê cha đất tổ của người Tày-

Thái. Một nhóm họ tự gọi mình là người Tày, còn người Nùng có thể là một bộ phận

người Tày lệ thuộc quyền lực của họ Nông, là người của họ Nông, hay Nùng, nên gọi

là họ Nùng. Từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, do ách thống trị hà khắc của nhà

Thanh, việc làm ăn sinh sống gặp nhiều khó khăn. Khởi nghĩa nông dân Thái Bình

Thiên Quốc bị triều đình Mãn Thanh đàn áp dã man. Nhiều người đã rời bỏ quê

hương sang đất Việt Nam trong đó có Lục Yên để tìm kế sinh nhai. Họ đã nhanh

chóng hòa nhập với các bộ tộc dân tộc Tày bản địa một cách tự nhiên.

Trong quá trình lịch sử, dân tộc Tày nói chung và dân tộc Tày ở Lục Yên nói

riêng dù là người Tày bản địa “cốc đin mác nhả” hay người Tày gốc Kinh ở miền

xuôi lên, người Tày - Nùng từ Trung Quốc sang, đều đã sớm tự nguyện hòa hợp, cố

kết lại với nhau thành cộng đồng người Tày.

1.3.2 Dân tộc Dao

Hiện nay người Dao ở Lục Yên có số dân đứng thứ hai sau dân tộc Tày, với

dân số khoảng 20.576 người (chiếm 19,1% dân số trong toàn huyện). Người Dao vốn

không phải cư dân bản địa. Về nguồn gốc của người Dao thì trong cộng đồng dân

tộc Dao vẫn còn lưu truyền rộng rãi trong truyện Bàn Hồ. Bàn Hồ không chỉ là câu

chuyện truyền khẩu, mà nó còn được ghi khá chi tiết trong các cuốn bảng văn và

23

trong các cuốn sách cúng của người Dao. Quá trình di cư vào Việt Nam có thể bắt

đầu từ thế kỷ XIII cho đến những năm 40 của thế kỷ XX. Người Dao cư trú ở tây bắc

Bắc Bộ, đến Việt Nam vào khoảng thế kỷ XIII và đi theo đường bộ. Còn người Dao ở

Đông Bắc Bắc Bộ và một số tỉnh trung du cũng bắt đầu đến Việt Nam vào khoảng thế

kỷ XIII cho đến thế kỷ XX, họ đi bằng đường thủy là chủ yếu [11, tr. 22]. Khi định

cư ở Việt Nam, họ có nhiều tên gọi khác nhau: Dao Nhân, Kiềm Miền, Dụ Lẩy Miền,

Ồ Gang Miền, Dụ Kùn Miền, Cần Đông, Cần Khau, Cần Téo Chèn… Người Dao ở

Lục Yên chia ra các ngành: Dao Quần Trắng, Dao Quần Chẹt, Dao Làn Tuyển, Dao

Đỏ. Tên gọi các ngành Dao hầu hết căn cứ vào trang phục mà đặt tên. Tuy tiếng nói

và phong tục tập quán không hoàn toàn giống nhau nhưng các ngành Dao trên rất

đoàn kết trong xây dựng bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Địa bàn cư trú của họ chủ

yếu vùng núi thấp, dọc theo các con suối thành các bản riêng biệt, khoảng cách giữa

các nhà thưa thớt. Họ sống tập trung đông nhất là ở các xã Động Quan, Phúc Lợi, Tân

Phượng và Khai Trung. Nguồn sống chính của họ là trồng lúa nước, lúa nương, chăn

nuôi, trồng cây ăn quả, … Nhìn chung, trình độ canh tác của người Dao ở Lục Yên

thấp, nghề phụ không phát triển, chưa biết tận dụng khả năng của đất đai. Hiện nay,

một số người Dao ở Lục Yên nhờ có thu nhập từ cây quế nên nhiều gia đình khá giả,

đây là nghề truyền thống mới được tái lập của người Dao dùng làm của hồi môn cho

con cái xây dựng gia đình. Dân tộc Dao ở Lục Yên cũng giống như các dân tộc khác

trong huyện đã hòa đồng, gắn kết với nhau.

1.3.3. Dân tộc Kinh

Dân tộc Kinh là dân tộc đa số ở Việt Nam với tỷ lệ dân cư đông nhất. Người

Kinh còn có tên gọi khác là người Việt. Còn người Tày thì gọi người Kinh là “Cần

Keo”, theo đó các dân tộc khác cũng gọi người Kinh là “Cần Keo”.

Ở Lục Yên dân tộc Kinh có số dân đứng thứ 3 trong huyện, dân số là 17.485

(chiếm 16,23%). Về nguồn gốc, họ từ dưới xuôi lên, có bộ phận là những người lên

buôn bán. Có bộ phận là những người nghèo tha phương cầu thực, lên miền núi làm

ăn. Có bộ phận khác là con, cháu của các quan quân nhà Mạc chạy lên lánh nạn. Đến

thời kỳ nhà Nguyễn, với chính sách lưu quan, những quan lại khi lên Lục Yên đã

mang theo cả gia quyến và ở lại đây …

Trong cuộc vận động cách mạng để tiến tới tổng thởi nghĩa tháng Tám năm

24

1945, số người Kinh lên Lục Yên ngày càng nhiều. Đó là những cán bộ, bộ đội đi

tuyên truyền vận động cách mạng, tổ chức khởi nghĩa vũ trang, tham gia chiến đấu.

Bên cạnh đó còn bộ phận những gia đình đi tản cư, rời bỏ vùng bị địch tạm chiếm lên

Lục Yên. Sau năm 1954, một số cán bộ, bộ đội và những gia đình tản cư trở lại miền

xuôi, bên cạnh đó một bộ phận không nhỏ đã ở lại lập nghiệp trên mảnh đất Lục Yên.

Vào những năm 60 của thế kỷ XX, với chính sách của nhà nước về “Phát triển

kinh tế - văn hóa miền núi” số người Kinh ở đây gia tăng đáng kể.

Người Kinh ở Lục Yên sinh sống tập trung đông nhất ở thị trấn Yên Thế.

Trước đây dân tộc Kinh ở xã Yên Thắng không nhiều như hiện nay, nhưng đến năm

1967 do thực hiện chuyển dân vùng hồ Thác Bà nên nhiều nhân khẩu người Kinh đã

chuyển vào xã Yên Thắng (đây là xã có số người Kinh đông nhất sau thị trấn Yên

Thế). Ngoài ra, dân tộc Kinh còn cư trú ở các xã: Tân Lĩnh, Minh Xuân, Liễu Đô...

chủ yếu là người Kinh gốc Hà Đông, Nam Định, Hưng Yên. Từ những năm từ năm

1976 đến năm 1985, đồng bào các tỉnh miền xuôi tiếp tục lên xây dựng vùng kinh tế

mới thì số lượng người Kinh ở Lục Yên trở nên đông đúc hơn. Họ sống xen lẫn với

các dân tộc khác trong huyện, chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, đặc biệt

họ rất thông thạo việc buôn bán và kinh doanh.

1.3.2. Dân tộc Nùng

Đại bộ phận người Nùng ở Việt Nam nói chung và ở Lục Yên nói riêng, đều

có nguồn gốc từ Quảng Tây (Trung Quốc). Họ di cư sang Việt Nam cách ngày nay

khoảng 200 đến 300 năm.

Dân tộc Nùng ở Lục Yên có dân số là 11.096 (chiếm 10,3% dân số trong toàn

huyện), sống xen kẽ với các dân tộc Tày, Kinh, Dao, Hoa…ở rải rác hầu khắp các xã

trong huyện. Nơi tập trung đông nhất là các xã Liễu Đô, Phan Thanh, Yên Thắng,

Tân Lĩnh... Họ chủ yếu chuyển cư đến từ Cao Bằng, Tuyên Quang và Hà Giang; có

một bộ phận nhỏ người Nùng có nguồn gốc từ người Kinh, trong quá trình sống xen

kẽ và giao lưu văn hóa họ tự nhận mình là người Nùng, nói tiếng Nùng, ăn ở và sinh

hoạt theo phong tục người Nùng.

Dân tộc Nùng ở Lục Yên chủ yếu thuộc hai nhóm là Nùng An và Nùng Phủ

(tên chỉ nhóm địa phương của người Nùng). Người Nùng An và người Nùng Phủ có

phong tục tập quán cơ bản giống nhau nhưng có sự khác nhau về tiếng nói. Tiếng

25

Nùng An phát âm gần như tiếng Cao Lan - Sán Chay và tiếng Giáy. Tiếng nói người

Nùng Phủ ảnh hưởng âm sắc của tiếng Tày. Ví dụ ông Hoàng Nừng sinh năm 1939,

sống tại xã Phan Thanh, là người dân tộc Nùng và là hậu duệ đời thứ 9 sinh sống ở

đây, ông có thể nghe và nói được tiếng Tày [90].

Dân tộc Nùng ở Lục Yên mang các họ: Nông, Mông, Hoàng.

Do địa bàn cư trú của người Nùng ở nơi có nhiều rừng, núi và ở khoảng giữa

là thung lũng lòng chảo nên đồng bào Nùng rất thành thạo trong khai thác đất đồi,

làm nương rẫy, đất bằng trồng lúa nước.

Nguồn sống chính người Nùng ở Lục Yên là làm ruộng và trồng các loại hoa màu

như: ngô, khoai, sắn... cách trồng trọt và công cụ sản xuất giống như người Tày.

Tóm lại, các dân tộc ở Lục Yên dù là người dân bản địa hay dân nhập cư, dù là

người miền xuôi hay miền ngược nhưng khi cùng chung sống các dân tộc nơi đây đều

có tinh thần đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Tuy khác nhau về ngôn ngữ,

phong tục tập quán song họ gắn bó mật thiết với nhau trong lao động sản xuất, kinh

doanh, công tác, học tập và sinh hoạt cộng đồng tạo nên nét văn hóa đặc sắc, đa dạng

và phong phú.

1.4. Khái quát tình hình chính trị - xã hội

Nhà Nguyễn được thiết lập, vua Gia Long về cơ bản vẫn tiếp tục thực hiện

chính sách của nhà Lê ở Bắc Hà, phần lớn có dòng họ thổ tù, lang cun, lang đạo ở các

trấn biên giới phía Bắc vẫn chịu nhiều ân sủng của nhà Lê. Vì vậy vua Gia Long đã

sử dụng con cháu nhà Lê trong một số công việc. Ngoài ra Gia Long còn miễn thuế

cho các phiên thần thời Lê. Các chính sách này nhằm ngăn chặn những cuộc nổi dậy

hay chống đối của các phiên thần nhà Lê. Khoảng 20 năm đầu thế kỷ XIX, nhà

Nguyễn tiếp tục duy trì chế độ phiên thần cho các thổ tù biên giới, được gọi là thổ

quan. Năm 1802, các phủ, huyện, châu, thổ dân ở Hưng Hóa, Quảng Yên, Thái

Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn lấy quan người địa phương quản lãnh (thổ quan).

Trong bộ máy chính quyền Gia Long còn đặt chức Man Phủ Sứ để chuyên trách công

việc phủ dụ lôi kéo các tộc người miền núi.

Dưới thời vua Gia Long chính quyền địa phương về cơ bản vẫn được tổ

chức như triều Lê - Trịnh ở miền Bắc. Năm 1820, Minh Mệnh lên ngôi vua, một

mặt ông tiếp tục duy trì chính sách của vua cha, mặt khác tăng cường sự kiểm soát

26

của chính quyền trung ương đến địa phương .

Nếu như đầu thời nhà Nguyễn vẫn duy trì chế độ “phiên thần”, thổ quan thì

giờ đây Minh Mệnh từng bước xóa bỏ chế độ này và thực hiện biện pháp người

Kinh và người Thổ cùng cai trị. Năm 1821, Minh Mệnh nghị chuẩn cho tạm đặt

các chức cai châu biên giới. Những chức này triều đình cho phép các quan đứng

đầu trấn chọn người có năng lực ở địa phương đảm nhiệm.

Năm 1827, Minh Mệnh xóa bỏ chức quan: Tuyên úy đại sứ, Tuyên úy sứ,

châu thảo sứ, phòng ngự đồng tri, phòng ngự thiêm sự trao cho các thổ tù cai trị ở

miền núi được đặt ra từ đầu thời Nguyễn thay bằng các chức tri phủ, tri huyện,

huyện thừa như ở khu vực đồng bằng. Nhưng các viên quan này đều do người địa

phương phụ trách có thêm chữ “Thổ” ở đằng trước (Thổ tri phủ, Thổ tri huyện...).

Đến năm 1829, Minh Mệnh ban hành chính sách khá cứng rắn đối với tầng lớp thổ

tù: Trong thành hạt theo công việc nhiều hay ít, dân số đông hay thưa nên đặt thổ

tri châu, tri huyện, huyện thừa, lại mục... thì định rõ ràng. Không cứ thổ ty, hào

mục cứ trong hạt ai là người có trách nhiệm, tài năng cần cán, vốn được nhân dân

tin phục thì chọn cử tâu lên, không được theo trước xưng là tập quản. Việc phân

định chức vụ theo số dân hết sức rõ ràng: đinh từ 5.000 người, ruộng từ 500 mẫu

trở lên thì đặt 1 Thổ tri châu, huyện đặt 1 Thổ tri huyện cùng thổ lại mục đều 1

người: đinh từ 100 người, ruộng từ 100 mẫu trở lên thì đặt 1 Thổ tri châu, huyện

đặt 1 Thổ huyện thừa; đinh điền không đủ 100 thì đặt 1 thổ lại mục [36, tr. 862].

Năm 1831, Minh Mệnh giải thích rõ ràng việc bãi bỏ chế độ thổ ty thế tập ở

các trấn biên giới vì: Lệ thế tập đời xưa là để đền công nhưng con cháu công thần,

nếu có người hư hỏng triều đình cũng phải truất bãi thì lại thương tổn đến ân điển.

Ví như nhà Hán phong tước hầu chỉ vạch núi thề sông mà thề nhưng mới chỉ vài

đời chỉ còn ba, bốn người thì sách thề cũng chỉ là hão. Chẳng gì bằng luận công

phong tước cho công thần ấy, còn con cháu thì tùy tài chức, thế là giữ cho trọn vẹn

cứ gì phải thế tập mới là đền công [37, tr. 224].

Trong thời kì đầu Gia Long chia cả nước ra làm: Gia Định thành gồm 5 trấn, Bắc

Thành gồm 11 trấn. Đến năm 1831 - 1832, Minh Mệnh đã tiến hành một cuộc cải

cách hành chính địa phương, xóa bỏ các tổng trấn, đổi các dinh trấn thành tỉnh

chia cả nước thành 30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên.

Đối với các châu miền núi, tri châu thường do các tù trưởng, thổ tù, lang

27

đạo quản lãnh. Ở miền thượng du, tình hình chính trị thường không ổn định nên

các vua Nguyễn cử quan lại người Kinh lên, có nhiệm vụ chủ yếu là đề xuất việc

thu thuế, dò thám và đàn áp âm mưu phản loạn. Một số tù trưởng trung thành ở

các địa phương xa xôi hiểm yếu được triều đình dựa vào và ban cho quyền hạn đặc

biệt, phong làm ngự sử. Bên cạnh đó thường đặt một viên quan kinh gọi là chiêu

thảo sứ hoặc man phủ sứ. Các chức này gọi là Lưu quan [56, tr.157]. Chính sách

Lưu quan đã được Minh Mệnh mô phỏng theo chính sách của Ung Chính đối với

các dân tộc thiểu số vùng phía Nam Trung Hoa để ngăn chặn xu hướng “li tâm”.

Ông cho rằng đây là một biện pháp tích cực mà “quyền hành nặng nhẹ kiềm chế

lẫn nhau, chức tước lớn nhỏ ràng buộc lấy nhau thực chất là một chính sách hay

trong việc trị dân, nếu mô phỏng mà làm thì nhiều lợi lắm”[56, tr. 158].

Sau đó vua lại ra chỉ dụ: Các thổ châu, huyện ở Hưng Hóa, Tuyên Quang,

Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng cho chọn bổ lưu quan, vì trước đây có vụ

Nông Văn Vân châu huyện ở các tỉnh còn nhiều chỗ khuyết, nên không thể không

đặt những viên chức sung vào, chứ không phải muốn đổi thổ quan và cho theo về

lưu quan, nhất nhất theo y phong tục kinh đâu. Chẳng những trong bọn thổ quan,

những người quy thuận, hết lòng trung, yên phận mình, giữ phép nước, đều chuẩn

cho vẫn để giữ chức, mà cả đến thổ ty, thổ mục, hễ ai một dạ trung thành, kính

cẩn, không có điều gì khác, cũng sẽ được tùy tài cất dùng, không sao cả. Nay

người Kinh, người Thổ cùng ở xen nhau, chính mong rằng lâu ngày, người Thổ sẽ

tiêm nhiễm thói tục người Kinh, được hun đúc theo đường thiện, cùng hưởng phúc

thái bình. Các đốc phủ, bố, án ở Thượng Ty cũng nên để tâm răn bảo rõ lại, không

nên sinh sự yêu cầu hà khắc, cũng không nên hờ hững không quan tâm. Nếu lưu

quan thuộc tỉnh hạt mình có xảy ra tệ nhũng nhiễu gì thì phải lập tức nghiêm ngặt

tham hặc, không được tư vị che đậy chút nào, quyết không nên coi nhau như kẻ

Tần người Việt, làm ngơ như không nghe thấy [38, tr. 633, 634].

Chính sách Lưu quan đã đem lại những hiệu quả thiết thực thể hiện được

sức mạnh của triều đình từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên chính sách này

đã đụng chạm tới những quyền lợi của các thổ tù, tù trưởng. Vì vậy nó vấp phải sự

chống đối của một số tù trưởng mà nổi bật là Nông Văn Vân nên chế độ Lưu quan

không phải được thực hiện ngay trong một lúc trong tất cả các địa phương miền

28

núi khu vục phía Bắc mà phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Trong thời gian từ năm 1828 đến năm 1837, Minh Mệnh chỉ thực thi ở

huyện châu nào khuyết chức thổ quan thì chọn một lưu quan bổ sung, còn thì giữ,

chỉ đặt thêm một chức Lưu quan để cùng hợp đồng với thổ quan mà làm việc. Từ

đó về sau có khuyết thì bổ sung. Đến năm 1838, chế độ Lưu quan mới được thực

hiện một cách triệt để. Những viên Lưu quan này nằm trong bộ máy quan lại thống

nhất, đại diện cho triều đình để quản đất, quản dân, thu tô thuế và tuyển lính, lao

dịch. Tuy nhiên đến thời Thiệu Trị năm 1844, nhà Nguyễn vẫn phải cho đặt lại

chức thổ quan ở các châu huyện biên cương phía Bắc, phải đến thời Tự Đức thì

việc đặt thổ quan mới bị bãi bỏ trong cả nước.

Ngày 1/9/1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta, vừa đánh dẹp các cuộc nổi

dậy, thực dân Pháp vừa ra sức củng cố những vùng đất đã bình định xong. Năm

1886, thực dân Pháp xâm lược Yên Bái. Ngày 31/7/1887, thực dân Pháp đánh

chiếm huyện Lục Yên.

Ngày 20/8/1891 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập 4 đạo

quan binh ở vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc thuộc Bắc Kì. Ngày 9/9/1891, toàn

quyền Đông Dương quy định địa bàn Đạo quan binh thứ 3 ở Yên Bái. Ngày 11- 4

– 1900, thực dân Pháp thành lập tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, hai châu Văn

Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Từ năm 1910 – 1920, Pháp

chuyển châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào

tỉnh Yên Bái.

Về xã hội, Lục Yên là một huyện miền núi phát triển dựa trên cơ sở kinh tế

nông nghiệp, xã hội nông thôn, vì thế ở nửa đầu thế kỷ XIX, các thành phần trong

xã hội Lục Yên cũng gồm 2 tầng lớp chính: thống trị và bị trị.

Tầng lớp thống trị gồm các Tri phủ, Tri châu, Tri huyện, Tổng trưởng, Cai

tổng. Ngoài ra còn một đội ngũ chức dịch địa phương không nằm trong hệ thống

quan lại nhưng có ảnh hưởng chính trị rất lớn, đó là các chức sắc ở làng xã như Xã

trưởng (thời Gia Long), Lý trưởng (Minh Mệnh), các dịch mục, thôn trưởng, khán

thủ. Bên cạnh đó là một bộ phận địa chủ nhiều ruộng đất (ruộng đất có thể do làm ăn

khai phá, mua tậu, cũng có thể là binh lính chức dịch được nhà nước cấp, cũng không

loại trừ khả năng do cậy quyền thế mà chiếm được), hình thức bóc lột là phát canh

29

thu tô, lác đác cũng có vài người cho vay lãi và cầm cố ruộng đất. Tuy nhiên, đội ngũ

địa chủ ở Lục Yên nói riêng và ở Yên Bái nói chung không nhiều, mức độ bóc lột

không tàn khốc như ở các tỉnh miền xuôi. Đó là do quá trình tập trung ruộng đất ở

Lục Yên không lớn, đồng thời trong quá trình cai trị, bóc lột còn thể hiện phần nào

tình cảm họ hàng, làng xóm, cộng đồng.

Tầng lớp bị trị gồm nông dân tự canh, nông dân lĩnh canh và người ở.

Một đặc điểm cơ bản của chế độ sở hữu ruộng đất ở Lục Yên là sở hữu ruộng

đất tư rất lớn. Cơ sở của nền sản xuất nông nghiệp là sở hữu tư về ruộng đất, chính vì

vậy mà tầng lớp nông dân tự canh chiếm ưu thế, người nông dân cày cấy trên mảnh

ruộng của mình (ruộng chủ yếu do khai phá, được thừa kế), chịu nghĩa vụ nộp tô thuế

cho nhà nước cũng như các nghĩa vụ đi lính, phu phen.

Nông dân lĩnh canh là một bộ phận dân cư không có ruộng phải cày cấy trên

ruộng đất của địa chủ, quan lại chịu nghĩa vụ tô thuế với địa chủ, lệ thuộc vào địa chủ

vì ruộng đất, chịu nghĩa vụ với nhà nước.

Người ở là thành phần bần cùng nhất trong xã hội, do làm ăn phá sản thiếu nợ

mà người nông dân phải đi ở đợ cho địa chủ, thổ hào.

Trong xã hội của đồng bào Lục Yên đã có sự phân hóa giàu nghèo, xuất hiện địa

chủ, phú nông dù không nhiều như ở miền xuôi. Mối quan hệ xã hội cơ bản là mối

quan hệ gắn bó cộng đồng của các tộc người. Trong các thành phần xã hội của huyện

Lục Yên còn có một bộ phận không nhỏ là các thày mo, then, pụt, tào. Dù họ không

thoát ly sản xuất nông nghiệp, nhưng do hành nghề cúng bái nên nắm, giữ thế lực thần

quyền, chi phối đời sống tín ngưỡng của đồng bào địa phương, được nhân dân

kính trọng, vì thế chính quyền phong kiến cũng phải kiêng nể họ phần nào.

Với một địa bàn có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, thực dân

Pháp thực hiện chính sách khai thác ráo riết làm cho đời sống của đồng bào các

dân tộc huyện Lục Yên ngày càng cùng cực.

Thuế và phu là hai hình thức bóc lột dã man nhất của thực dân Pháp đối với

người dân Lục Yên. Tùy từng thời kỳ thực dân Pháp điều chỉnh các mức thu nhằm

tăng mức thuế. Chế độ thuế khóa của thực dân Pháp đưa người dân Lục Yên vào

chỗ điêu đứng. Năm 1932, châu Lục Yên có khoảng 12.000 nhân khẩu nhưng

chúng đã thu được 40.000 đồng tiền thuế các loại. Gần 2/3 số nhân khẩu của châu

30

lâm vào tình trạng thiếu đói, cùng quẫn.

Hàng năm thiếu đói từ 5 đến 7 tháng. Bước đầu ở Lục Yên đã có sự phân

hóa xã hội thành các tầng lớp như: Tầng lớp địa chủ: Là con cháu thế tập nhiều thế

hệ tù trưởng. Là lớp người buôn bán. Là chủ nợ. Là binh lính sĩ quan mãn hạn trở

về địa phương. Tầng lớp ấy chia thành bộ phận “cựu chức” đã kinh qua các chức

dịch lớn bé khác nhau. Bộ phận “đương chức” là đại diện cho bộ máy chính quyền

cai trị ở địa phương có quyền lực đối với nhân dân. Hình thức áp bức bóc lột của

họ đối với nhân dân là: Phát canh ruộng đất, cho vay mượn trâu, bò làm sức kéo

để thu tô, thu tức. Phạt vạ, triết công, gán nợ cao nhất là lao dịch không công.Tuy

nhiên tầng lớp địa chủ, phú nông ở Lục Yên không nhiều, tính cố kết cộng đồng

còn đậm nét nên từ ngày có Đảng họ sớm đi theo cách mạng, hòa nhập vào lộ trình

đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân.

Nông dân: là tầng lớp cơ bản của xã hội. Họ làm ruộng và có nghĩa vụ đóng

thuế, đi phu, đi lính. Do thiếu ruộng đất nên một số phải nhận thêm ruộng của địa

chủ cấy rẽ, nộp tô với tỷ lệ từ 3/10 đến 5/10 tùy theo các loại ruộng khác nhau. Ở

vùng cao, nông dân ít ruộng phải làm nương rẫy, nộp thuế, làm lao dịch, tô hiện

vật. Nông dân nói chung phải lao động không công cho chức dịch từ 20-30 ngày

trong năm gọi là “phu đài”. Một bộ phận nhỏ quá nghèo khổ, không có ruộng phải

đi ở cho địa chủ, kỳ mục, chức dịch trở thành kẻ hầu hạ, họ là tầng lớp cố nông.

Tầng lớp nông dân ở Lục Yên chiếm hầu hết dân số, có tư liệu sản xuất ở mức độ

khác nhau. Bản chất thật thà, chất phác, cần cù lao động. Họ sẵn sàng đứng lên

đấu tranh, tham gia vào các cuộc nổi dậy theo thủ lĩnh của họ.

Trong xã hội cũ xuất hiện số ít tiểu thương, tiểu chủ xuất thân từ những

người nông dân ở xuôi lên, Hoa kiều nơi khác đến buôn bán nhỏ, mở quầy hàng

hoặc hoặc sản xuất một số mặt hàng thủ công, chế biến lương thực, thực phẩm

cung ứng nhu cầu nhân dân. Những người này cũng chịu chính sách thuế khóa

nặng nề như thuế môn bài, thuế chợ, thuế thân, thuế nhà ở...

Có một bộ phận khác là hương sư, ký bưu điện, ký nhà thương, học sinh, là

những người có ít nhiều tri thức. Vì vậy, nhiệt tình theo cách mạng, một số trở

thành cốt cán của Đảng.

Trước cách mạng tháng Tám, dưới ách thống trị của thực dân, Pháp tấng

31

lớp thống trị ở Lục Yên chỉ chiếm số lượng ít, nhưng nắm quyền thực lực, chi phối

mọi mặt vật chất và tinh thần của nhân dân. Nhân dân lao động là người làm thuê

bị bóc lột đến cùng. Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân

Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai. Và giữa nông dân với địa chủ phong kiến.

Đó là những mâu thuẫn đối kháng. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam, với một đường lối đúng đắn, các mâu thuẫn trên đã được giải quyết triệt để.

Tiểu kết: Lục Yên là huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Yên

Bái. Là một vùng đất có vị trí thuận lợi, giàu tài nguyên thiên nhiên nên đã thu hút

nhiều dòng người tụ lại để sinh cơ lập nghiệp. Trong đó cư dân nguyên thủy là

người Tày thuộc nhóm ngữ hệ Tày - Thái. Trải qua các giai đoạn lịch sử, thành

phần dân cư dân tộc ở Lục Yên có nhiều xáo trộn. Bên cạnh cư dân bản địa là các

tộc người di cư từ nơi khác tới như người Dao, Nùng, Hoa...và chủ yếu là người

Kinh từ miền xuôi lên. Mặc dù có nguồn gốc, phong tục tập quán, đặc điểm văn

hóa khác nhau nhưng khi cùng nhau sinh sống trên mảnh đất này họ đã cùng nhau

xây dựng làng bản, ổn định đời sống. Trong xã hội Lục Yên có hai tầng lớp chính

là tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Tầng lớp thống trị là đội ngũ quan lại, thổ

tù, địa chủ…Tầng lớp bị trị gồm nông dân và người ở. Xã hội có sự phân hóa giàu

nghèo, có tồn tại bóc lột bất công song mức độ không khốc liệt mà nét đặc trưng

của quan hệ xã hội là tính cộng đồng làng bản.

Trải qua những thăng trầm biến đổi của lịch sử dân tộc, cũng như lịch sử

vùng đất phía Bắc tổ quốc, địa giới huyện Lục Yên có nhiều biến đổi. Đến nay

Lục Yên là một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Yên Bái gồm 1 thị trấn và

23 xã. Tuy còn nhiều khó khăn song Đảng bộ và nhân dân huyện Lục Yên đã và

đang thực hiện thành công công cuộc xây dựng kiến thiết huyện nhà cùng cả nước

32

tiến lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chƣơng 2

KINH TẾ CỦA CHÂU LỤC YÊN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX

2.1. Tình hình ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Gia Long 4 (1805)

Ruộng đất châu Lục Yên (phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang) dưới triều Nguyễn

cũng như các huyện khác ở Bắc Kì đã được kê khai rõ ràng trong địa bạ. Các địa bạ

hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I (Hà Nội) mang ký hiệu từ 7939

đến 7964. Các địa bạ của Lục Yên mà chúng tôi sưu tầm được với tổng số 24 địa bạ

trong đó có 15 địa bạ được lập năm Gia Long thứ 4 (1805) và 9 địa bạ được lập năm

Minh Mệnh 21 (1840).

Việc lập địa bạ được tiến hành theo mẫu chung của nhà nước. Địa bạ châu Lục

Yên, phủ Yên Bình, tỉnh Tuyên Quang bao gồm các nội dung sau:

- Đơn vị hành chính tên xứ Tuyên Quang, phủ Yên Bình, châu Lục Yên,

tổng…, xã...

- Địa giới của xã, thôn giáp giới đông, tây, nam, bắc vật để làm mốc giới: cột

gỗ, cột đá, đường, sông, núi…

- Tổng diện tích thực trưng, lưu hoang, ruộng vụ thu, chất lượng ruộng (hạng

1, hạng 2, hạng 3).

- Miêu tả từng thửa ruộng đất tư hữu với các thông tin diện tích vị trí giáp giới

(đông, tây, nam, bắc), họ và tên người sở hữu, thuộc loại phân canh hay phụ canh.

- Họ tên sắc mục hoặc hương mục, xã trưởng, thôn trưởng cùng toàn thể xã

dân xin khai địa bạ.

Với nội dung trên việc khai thác địa bạ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về chế

độ ruộng đất châu Lục Yên nửa đầu thế kỉ XIX

Nửa đầu thế kỉ XIX, cả nước vẫn tồn tại 2 loại hình sở hữu ruộng đất: Sở hữu

nhà nước và sở hữu tư nhân nhưng sở hữu tư nhân về ruộng đất đã chiếm phần lớn

diện tích. Năm 1840 theo báo cáo của Bộ Hộ, tổng diện tích ruộng đất trong cả nước

là 4.063.892 mẫu, trong đó tổng diện tích ruộng thực canh là 3.396.584 mẫu. Tỉ lệ

ruộng công và ruộng tư là:

Ruộng tư: 2.816.221 mẫu, khoảng 83%

Ruộng công: 580.363 mẫu, khoảng 17% [43, tr. 234].

Sự phân hóa trong chế độ sở hữu là kết quả tất yếu của sự vận động lịch sử

33

nhưng vẫn có những đặc điểm riêng do sự khác biệt nhất định giữa các địa phương.

Nằm trong tình trạng chung của cả nước, châu Lục Yên thời Gia Long 4

(1805) cũng vậy, ruộng đất công không còn, ruộng đất hoang hóa lớn. Có thể thấy

được tình hình đó thông qua việc thống kê từ 15 địa bạ ở Lục Yên có niên đại Gia

Long 4 (1805) như sau:

2.1.1. Tình hình các loại ruộng đất ở châu Lục Yên

Theo số liệu của địa bạ châu Lục Yên năm Gia Long 4 (1805), các loại ruộng

đất được thống kê ở bảng sau:

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Bảng 2.1. Thống kê ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Gia Long 4 (1805)

Tƣ điền

STT

Tổng

Thực trƣng Lƣu hoang

Tổng diện tích ruộng đất

82.2.12.5.0

82.2.12.5.0

Đồ Lệnh

1

17.3.6.0.0

17.3.6.0.0

Lâm Trường Trung

Lâm Trường Thượng

17.3.6.0.0

17.3.6.0.0

Liễu Đô

53.8.11.6.0

25.0.0.0.0

28.8.11.6.0

Xuân Kì

2 Nghĩa Đô

301.6.2.7.0

5.1.0.0.0

296.5.2.7.0

Mỹ Đô

64.5.1.9.0

6.5.1.9.0

58.0.0.0.0

Tô Mậu

31.2.2.9.0

5.2.2.9.0

26.0.0.0.0

Tô Trà

3 Trúc Lâu

154.6.13.2.0

59.5.0.0.0

95.1.13.2.0

Trúc Lâu

Phúc Khánh

54.8.10.0.0

0.8.10.0.0

54.0.0.0.0

4 Lương Sơn

Lâm Vân

36.8.14.3.0

5.0.4.3.0

31.8.10.0.0

Lâm Trường Hạ

87.4.13.1.0

5.0.0.0.0

82.4.13.1.0

Nhân Mục

49.2.7.3.0

15.4.0.0.0

33.8.7.3.0

5 Lâm Trường Hạ

Thuận Mục

17.6.5.2.0

5.0.0.0.0

12.6.5.2.0

Đà Dương

64.1.9.6.0

16.3.0.0.0

47.8.9.6.0

6 Bì Hạ

Lạc Thượng

174.3.13.7.0

22.3.5.3.0

152.0.8.4.0

Tổng

15 xã

1207.5.10.0.0

253.5.6.9.0

954.0.3.1.0

Nguồn: Thống kê 15 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Số liệu trên cho thấy ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (tư điền) chiếm 100%

tổng diện tích cả châu, nhưng trên thực tế phần thực trưng chỉ có 20,99%. Tổng có

nhiều ruộng tư nhất là tổng Nghĩa Đô (hơn 300 mẫu), ít nhất là tổng Lương Sơn

(hơn 90 mẫu). Xã có nhiều ruộng tư nhất là xã Mỹ Đô (301.6.2.7.0) thuộc tổng

34

Nghĩa Đô, xã có ít ruộng tư nhất là xã Lâm Trường Trung và xã Liễu Đô thuộc

tổng Lâm Trường Thượng (17.3.6.0.0). Điều này cho thấy, tùy vào đặc điểm địa

hình của từng vùng mà số ruộng tư phân bố ở các xã và các tổng trong châu Lục

Yên không đều nhau.

So sánh tỷ lệ ruộng tư trong cả nước vào thời điểm này như ở Hà Đông hay

Quảng Hòa vẫn có ruộng đất công (mặc dù chiếm tỷ lệ rất ít) nhưng sự phân bố

ruộng đất của châu Lục Yên năm 1805 là chỉ có tư điền, không có công điền, tư

thổ và công thổ đặc biệt là ruộng đất công đã hoàn toàn “vắng bóng”.

Tuy nhiên có thể thấy, trong tổng số diện tích 1207.5.10.0.0 của Lục Yên thì

ruộng lưu hoang chiếm tới 954.0.3.1.0 (79,01%), trong đó phần bỏ hoang đều là

điền chứ không có thổ. Đặc biệt là xã Lâm Trường Trung và xã Liễu Đô có diện

tích ruộng đất hoàn toàn bỏ hoang. Tại sao có tình trạng này? Điều này được lý

giải do hậu quả cuộc chiến tranh buộc người dân phải xiêu tán, bỏ quê hương nhà

cửa, ruộng vườn đi tìm kiếm một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Cũng có thể do đất

rộng người thưa nên người nông dân miền núi không đủ người để canh tác hết

ruộng đất, buộc họ phải bỏ lại phần nào đó diện tích ruộng đất biến nó thành ruộng

đất hoang. Ngoài ra còn phải kể tới ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt

như hạn hán, sương muối, lũ lụt gây khó khăn cho việc canh tác sản xuất. Qua

phân tích tư liệu địa bạ năm 1805 châu Lục Yên cho thấy ruộng đất ở đây chủ yếu

là đồi núi, ruộng chờ mưa, chất lượng đất đai đều thuộc loại 3 nên năng suất cây

trồng rất thấp.

2.1.2. Tình hình sở hữu ruộng đất tư

Bảng 2.2. Quy mô sở hữu ruộng tư

Đơn vị : Mẫu, sào, thước, tấc, phân

Quy mô sở hữu

Số chủ

Tỷ lệ %

Diện tích sở hữu Tỷ lệ (%)

< 1 mẫu

3

6,38

2.0.10.0.0

0,79

1 đến 3 mẫu

13

27,66

27.3.5.3.0

10,77

3 đến 5 mẫu

9

19,15

16.2.0.0.0

6,47

5 đến 10 mẫu

15

31,91

89.4.1.6.0

35,27

10 đến 20 mẫu

5

10,64

68.2.14.0.0

26,90

20 đến 30 mẫu

2

4,26

50.2.6.0.0

19,80

Tổng cộng

47

100

253.5.6.9.0

100

Nguồn: Thống kê 15 địa bạ Gia Long 4 (1805)

35

Nhìn vào bảng số liệu trên cho thấy, trên bình diện chung châu Lục Yên có mức

độ tập trung ruộng đất không cao. Dựa vào sự phân bố chủ ruộng và mức độ sở hữu thể

hiện rõ nét: Có 3 chủ có diện tích dưới một mẫu chiếm 6,38%, sở hữu 2.0.10.0.0

(0,79%); sở hữu 1-3 mẫu có 13 chủ (27,66%) và có số ruộng đất là 27.3.5.3.0 (10,77%);

từ 3-5 mẫu chỉ có 9 chủ (19,15%) sở hữu 16.2.0.0.0 (6,47%). Sở hữu lớn nhất cả về số

chủ về diện tích tập trung từ 5-10 mẫu có 15 chủ (31,91%) sở hữu 89.4.1.6.0 (35,27%);

từ 10-20 mẫu chỉ có 5 chủ (10,64%) sở hữu 68.2.14.0.0 (26,90%); chỉ có 2 chủ sở hữu

50.2.6.0.0 chiếm 4,26% về số chủ và 19,80% về diện tích.

Tổng quan về quy mô sở hữu ruộng đất tư của các chủ sở hữu được thể hiện ở

biểu đồ 2.1:

Biểu đồ 2.1: Quy mô sở hữu ruộng tư năm 1805

Nhìn chung qua các số liệu cho thấy, sở hữu ruộng đất của các chủ ở châu Lục

Yên thời điểm này thuộc loại vừa và nhỏ. Mức độ tư hữu khá chênh lệch giữa các chủ

sở hữu.

2.1.3. Bình quân thửa và bình quân sở hữu một chủ

Với tổng cộng có 253.5.6.9.0 ruộng phân tán trên 54 thửa, bình quân diện

tích của một thửa là: 4.6.14.2.0. Trong đó xã có bình quân số thửa cao nhất là xã Đồ

Lệnh thuộc tổng Lâm Trường Thượng với 16.4.8.5.0 và xã có bình quân số thửa

thấp nhất là xã Phúc Khánh thuộc tổng Lương Sơn với 8 sào 5 thước.

Về bình quân số chủ, với 48 chủ thuộc 15 xã sở hữu ruộng là 253.5.6.9.0,

trung bình sở hữu mỗi chủ là 5.2.12.35.0. Trong đó xã có bình quân sở hữu một

chủ cao nhất là xã Đồ Lệnh thuộc tổng Lâm Trường Thượng với 16.4.8.5.0, xã có

bình quân sở hữu một chủ thấp nhất là xã Phúc Khánh thuộc tổng Lương Sơn với

36

8 sào 5 thước. Cụ thể:

Đơn vị tính: mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.3. Bình quân sở hữu và bình quân thửa

Tổng

Số thửa

Số chủ

Ruộng tƣ ghi trong địa bạ

Bình quân một thửa

82.2.12.5.0

Diện tích có thể tính sở hữu 82.2.12.5.0

5

16.4.8.5.0

5

Bình quân sở hữu một chủ 16.4.8.5.0

Đồ Lệnh

Lâm

Trường

Lâm Trường Trung

17.3.6.0.0

Thượng

Liễu Đô

17.3.6.0.0

Xuân Kì

53.8.11.6.0

25.0.0.0.0

5

5.0.0.0.0

5.0.0.0.0

5

Nghĩa

Đô

Mỹ Đô

301.6.2.7.0

5.1.0.0.0

5

1.0.3.0.0

1.0.3.0.0

5

Tô Mậu

64.5.1.9.0

6.5.1.9.0

1

6.5.1.9.0

6.5.1.9.0

1

Trúc

Tô Trà

31.2.2.9.0

5.2.2.9.0

1

5.2.2.9.0

5.2.2.9.0

1

Lâm

Trúc Lâu

8.5.0.0.0

7

154.6.13.2.0

59.5.0.0.0

13

4.5.11.5.0

1

1

Phúc Khánh

54.8.10.0.0

0.8.10.0.0

0.8.10.0.0

0.8.10.0.0

Lương

Sơn

Lâm Vân

36.8.14.3.0

5.0.4.3.0

1

5.0.4.3.0

5.0.4.3.0

1

Lâm Trường Hạ

87.4.13.1.0

5.0.0.0.0

5

1.0.0.0.0

1.0.0.0.0

5

Lâm

Nhân Mục

87.4.13.1.0

15.4.0.0.0

5

3.1.5.0.0

3.1.5.0.0

5

Trường

Thuận Mục

49.2.7.3.0

5.0.0.0.0

5

1.0.0.0.0

1.0.0.0.0

5

Hạ

Đà Dương

64.1.9.6.0

16.3.0.0.0

3

5.4.5.0.0

5.4.5.0.0

3

4

4

Lịch Hạ Lạc Thượng

174.3.13.7.0

22.3..5.3.0

5.5.12.5.0

5.5.12.5.0

Tổng

1207.5.10.0.0 253.5.6.9.0 54

4.6.14.2.0

48 5.2.12.3.0

Nguồn: Thống kê 15 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Từ tình hình sở hữu bình quân về ruộng đất, cũng như bình quân về thửa và

sự phân bố các lớp sở hữu có thể rút ra nhận xét: Kết cấu sở hữu ruộng đất ở Lục

Yên nửa đầu thế kỷ XIX thể hiện quá trình tư hữu hóa ruộng đất phát triển mạnh

mẽ. Tuy nhiên, ở Lục Yên tình trạng đất bỏ hoang rất phổ biến và với số lượng rất

lớn, đặc biệt trong tổng số 48 chủ sở hữu thì không có chủ sở hữu nào là nữ; không

có chủ phụ canh.

2.1.4. Sở hữu ruộng đất của các nhóm họ

Khi nghiên cứu về nông thôn Việt Nam nói chung và làng bản miền núi nói

riêng, vấn đề dòng họ thân tộc là một trong những đề tài được nhiều nhà nghiên cứu

quan tâm. Trên cơ sở thống kê địa bạ năm Gia Long 4 (1805) tôi đã thống kê được

các nhóm họ cũng như quy mô sở hữu của nhóm họ ở châu Lục Yên, đó là có 48 chủ

37

sở hữu ở Lục Yên thuộc về 6 nhóm họ. Cụ thể như thống kê ở bảng 2.4.

Đơn vị tính: mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.4. Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ

Diện tích

Họ STT 1 Lương 2 Nguyễn 3 Hà 4 Đinh 5 Hoàng Chiêu 6 Số chủ 12 4 1 1 29 1 Tỷ lệ (%) 25,00 8,33 2,08 2,08 60,43 2,08 68.7.2.9.0 8.4.1.9.0 5.0.4.3.0 25.3.0.0.0 143.0.12.8.0 3.0.0.0.0 Tỷ lệ (%) 27,10 3,31 1,97 10,03 56,41 1,18

Nguồn: Thống kê 15 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Tổng 48 100 253.5.6.9.0 100

Trên cơ sở thống kê mức độ sở hữu ruộng đất ở bảng trên, có thể thấy sự

phân bố chủ sở hữu trong các nhóm họ không đồng đều, có những nhóm họ rất

đông như họ Hoàng với 29/48 số chủ (chiếm 60,43%), họ Lương với 12/48 số chủ

(chiếm 25,00%); nhưng có một số nhóm họ duy nhất có một chủ sở hữu như họ

Hà, Đinh, Chiêu.

Từ sự phân bố không đồng đều về số chủ trong mỗi dòng họ, có thể thấy mức

độ sở hữu giữa các nhóm họ cũng có sự chênh lệch nhau. Họ Hoàng sở hữu tới

143.12.8 (chiếm 56,41 % diện tích sở hữu), bên cạnh đó họ Chiêu chỉ sở hữu 3 mẫu

(chiếm 1,18% diện tích sở hữu).

Tuy nhiên, khi xét về mức độ sở hữu trung bình của một chủ trong từng nhóm

họ thì trên thực tế không phải cứ nhóm họ nào đông người là có sở hữu bình quân

lớn. Trong 6 dòng họ kể trên thì nhóm họ Hoàng mặc dù chiếm phần lớn về diện tích

và số chủ song bình quân diện tích chỉ có 4.9.5.0.0; trong khi đó nhóm họ Đinh chỉ có

một chủ nhưng lại sở hữu tới 25 mẫu 3 sào.

2.1.5. Tình hình sở hữu ruộng đất của chức sắc

Một trong những số liệu khá quan trọng mà địa bạ có thể cung cấp là ruộng đất

thuộc sở hữu của những người có chức quyền ở làng xã, gọi là chức sắc. Chức sắc gồm

chức dịch và sắc mục. Chức dịch là những người quản lý làng xã nằm trong hệ thống tổ

chức hành chính của nhà nước, được nhà nước công nhận như lý trưởng, xã trưởng…

Còn sắc mục là những người được làng cử ra, đại diện cho cộng đồng, tiêu biểu cho bộ

máy tự quản của làng xã như hương mục, dịch mục. Căn cứ vào tài liệu địa bạ năm

1805 trong 15 xã của châu Lục Yên có tới 53 chức dịch, trong số đó có 16 sắc mục, 13

38

xã trưởng, 21 thôn trưởng, 1 khán thủ, 2 tổng trưởng.

Để thấy rõ mức độ sở hữu cụ thể của các chức dịch ở Lục Yên, chúng tôi đã

thống kê ở bảng 2.5 sau:

Đơn vị: Mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.5: Tình hình tư hữu ruộng đất của các chức sắc

Chức vị < 1 Mẫu Từ 1 đến 3 mẫu Từ 3 đến 5 mẫu Từ 5 đến 10 mẫu Từ 10 đến 20 mẫu

Sắc mục Xã trưởng Thôn trưởng Khán thủ Tổng trưởng

Nguồn: Thống kê 15 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Tổng Số chủ/ Tỷ lệ % 16 100% 13 100% 21 100% 1 100% 2 100% 53 100% Không có ruộng đất 3 18,75 3 23,08 4 19,05 2 100% 12 22,64 1 6,25 1 7,69 1 4,76 3 5,66 5 31,25 2 15,38 7 14,29 1 100% 15 28,30 2 12,5 2 15,38 1 4,76 5 9,43 5 31,25 4 30,78 4 19,05 13 24,54 1 7,69 2 9,52 3 5,66 Từ 20 đến 30 mẫu 2 9.52 2 3,77

Số liệu trên cho thấy số chức sắc có ruộng đất chiếm 77,36 %. Trong đó,

phần lớn là các chức sắc sở hữu ruộng đất dưới 5 mẫu, hay nói cách khác, tính

chất sở hữu nhỏ, tự canh là đặc trưng của các chức sắc có ruộng đất: có 3/53 chủ

sở hữu dưới 1 mẫu (chiếm 5,66%), từ 1 đến 3 mẫu có 15/53 chủ sở hữu (chiếm

28,30%), từ 3 đến 5 mẫu có 5/53 chủ sở hữu (chiếm 9,43%), tập trung từ 5 đến10

mẫu có 13/53 chủ sở hữu diện tích lớn nhất (chiếm 24,54%), từ 10 đến 20 mẫu có

3/53 chủ sở hữu (chiếm 5,66%) và chỉ có 2/53 chủ sở hữu từ 20 đến 30 mẫu

(chiếm 3,77%). Bên cạnh đó số chức sắc không có ruộng là 12/53 (chiếm 22,64).

Việc những người có chức ở làng xã mà không có ruộng đất tư là hiện tượng

thường thấy ở một số địa phương miền núi phía Bắc Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XIX, ví dụ như ở huyện Quảng Hòa (Cao Bằng) có 5/87 chức sắc không có ruộng

đất chiếm 5,75% [57, tr. 88], huyện Trấn Yên (Yên Bái) có 5/38 chức sắc không

có ruộng đất [59, tr. 40]. Hiện tượng chức sắc không sở hữu ruộng đất có thể là họ

tham gia công việc của làng xã khi chưa lập gia đình riêng, hoặc lập gia đình

39

nhưng sống cùng bố mẹ, nên ruộng đất do bố mẹ đứng tên.

Đơn vị: Mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.6: Quy mô sở hữu và bình quân sở hữu của các chức sắc

Bình quân sở hữu Chức vụ Số chủ % Diện tích sở hữu một chủ

Sắc mục 16 30,19 42.5.7.2.0 2.6.8.8.0

Xã trưởng 13 24,53 53.1.4.4.0 4.0.13.0.0

Thôn trưởng 21 39,62 114.8.5.0.0 5.4.3.0.0

Khán thủ 1 1,89 1.0.5.3.0.0 1.0.5.3.0

Tổng trưởng 2 3,77

Nguồn: Thống kê 15 địa bạ Gia Long 4 (1805)

Tổng 53 100 211.9.6.9.0 4.1.7.1.0

Có 53 chức sắc sở hữu 211.9.6.9.0, bình quân mỗi chức sắc sở hữu 4.1.7.1.0.

Trong các chức sắc thì số lượng thôn trưởng là lớn nhất về số chủ (39,62%) và

diện tích 114.8.5.0.0. Ngược lại, khán thủ chỉ có một người và sở hữu 1.0.5.3.0.0.

Bên cạnh những chức sắc có ruộng thì có chức sắc không có ruộng (chiếm

12 chủ) như: Xã trưởng Hoàng Đình Tuyên tại xã Thuận Mục thuộc tổng Lâm

Trường Hạ, thôn trưởng Hoàng Đình Văn và Hoàng Đình Thắng tại xã Đà Dương

thuộc Lâm Trường Hạ, tổng trưởng Hoàng Đình Thạc xã Liễu Đô thuộc tổng Lâm

Trường Thượng.

Về bình quân sở hữu, số chủ là thôn trưởng chiếm số lượng lớn nhất về số

chủ và diện tích và có bình quân diện tích lớn nhất (5 mẫu 4 sào 3 thước), trong

khi đó có 2 tổng trưởng không có ruộng. Như vậy ta có thể thấy, sở hữu diện tích

của các chức sắc ở châu Lục Yên thời kỳ này không được đồng đều.

Bằng những phân tích có tính định lượng như trên cho thấy, đội ngũ sắc

mục có quyền lực kinh tế thông qua quyền sở hữu ruộng đất tư lớn hơn hẳn so với

các chức dịch. Phải chăng đây mới chính là những người thực sự có quyền lực

trong thôn, xóm. Xã trưởng đứng đầu đơn vị hành chính cơ sở, nhưng do tính tự

quản của cộng đồng làng xã nên cũng phải tôn trọng các sắc mục và chấp hành

những quy định của hội đồng sắc mục về những hoạt động của cộng đồng làng xã.

Đây là thể hiện một phần mối quan hệ giữa “làng” và “ nước” giữa “lệ làng” và

40

“phép nước”.

2.2. Tình hình ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Để có cái nhìn cụ thể về tình hình ruộng đất thời Minh Mệnh, tôi đã sử dụng 9

địa bạ của 9 xã (Lâm Trường Thượng, Minh Chuẩn, Đào Lâm thuộc tổng Lâm

Trường Thượng; Từ Hiếu thuộc tổng Lịch Hạ; Thản Cù thuộc tổng Lâm Trường

Hạ; Lương Sơn, Điện Quan thuộc tổng Lương Sơn; Bì Hạ thuộc tổng Bì Hạ; Động

Khai thuộc tổng Trúc Lâu) được lập năm Minh Mệnh 21 (1840).

2.2.1. Tình hình các loại ruộng đất ở Lục Yên

Theo số liệu của địa bạ châu Lục Yên năm Minh Mệnh 21 (1840), các loại

ruộng đất được thống kê trong bảng 2.7 như sau:

Bảng 2.7. Thống kê ruộng đất châu Lục Yên theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước,tấc, phân

STT

Tổng

Công thổ

Tổng diện tích

1

Lâm Trường Thượng

Lâm Trường Thượng 65.8.10.0.0 65.8.10.0.0 Minh Chuẩn Đào Lâm 2 Lịch Hạ Từ Hiếu 3 Lâm Trường Hạ Thản Cù

Tƣ điền Thực trƣng Lƣu hoang 5.0.0.0.0 6.4.4.1.0 50.0.0.0.0 56.4.4.1.0 49.0.9.4.0 11.4.0.0.0 37.6.9.4.0 34.1.5.4.0 17.6.0.0.0 16.5.5.4.0

4

Lương Sơn

Bì Hạ

Lương Sơn Điện Quan Bì Hạ

20.6.4.6.0 0.7.4.6.0.0 19.9.0.0.0 93.4.8.0.0 2.5.0.0.0 90.9.8.0.0 72.1.12.0 18.0.0.0.0 54.1.12.0.0

5 6

144.0.14.7.0 16.0.0.0.0 123.1.14.7 4.9.0.0.0 540.8.8.2.0 140.0.3.7.0 395.9.4.5.0 4.9.0.0.0

Trúc Lâu Động Khai Tổng 9 xã

Nguồn: Thống kê 9 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Theo địa bạ năm 1840, diện tích tư điền vẫn chiếm gần như tuyệt đối

(99,09%) tổng diện tích ruộng đất cả châu, không có công điền và tư thổ.

Tổng diện tích là 540.8.8.2.0. Trong đó diện tích tư điền thực trưng là 140.0.3.7.0

(chiếm 25,89%); còn lại là tư điền lưu hoang với diện tích là 395.9.4.5.0 (chiếm 73,20 %).

Như vậy, cho đến tận năm 1840, tức là sau khi triều đại nhà Nguyễn lên

ngôi được 38 năm, nhưng diện tích ruộng đất bỏ hoang ở châu Lục Yên không

giảm và số bỏ hoang này đều là điền.

Đáng chú ý là, thời điểm này đã xuất hiện công thổ (đất công) ở xã Lương

Sơn tổng Lương Sơn với diện tích là 4 mẫu 9 sào. Đây cũng là điểm khác với thời

Gia Long trước đó. Để giải thích vấn đề này có lẽ do thời kỳ Minh Mệnh cho rà

41

soát lại việc lập địa bạ hoặc do chính sách đẩy mạnh khai hoang.

2.2.2. Sở hữu ruộng đất tư

Đơn vị tính: Mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.8. Quy mô tư hữu ruộng đất của chủ sở hữu năm (1840)

STT Tỷ lệ % Diện tích sở hữu Tỷ lệ % Diện tích sở hữu (mẫu) Số chủ

1 < 1 5 15,15 3.1.9.6.0 2,21

2 Từ 1 đến 3 10 30,30 17.8.14.1.0 12,71

3 Từ 3 đến 5 3 9,09 12.4.0.0.0 9,01

4 Từ 5 đến 10 12 36,37 76.5.10.0.0 54,64

5 Từ 10 đến 20 3 9,09 30.0.0.0.0 21,43

Nguồn: Thống kê 9 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840))

Tổng 33 100 140.0.3.7.0 100

Với số liệu trên, chúng ta thấy: Với 33 chủ sở hữu 140.0.3.7.0 diện tích tư điền

thực trưng. Trong đó:

Sở hữu dưới một mẫu chiếm 15,15% số chủ và 2,21 diện tích.

Sở hữu từ 1 đến 3 mẫu chiếm 30,3% số chủ và 12,71% diện tích.

3 chủ có số ruộng đất từ 3 đến 5 mẫu chiếm 9,09% số chủ và 9,01% diện tích.

Tập trung từ 5 - 10 mẫu có 12 chủ sở hữu chiếm 36,37% số chủ và 54,64%

diện tích.

Chỉ có 3 chủ sở hữu diện tích trên 10 mẫu chiếm 9,09% số chủ và 21,43 diện tích.

Quy mô sở hữu ruộng đất tư được thể hiện rõ hơn qua biểu đồ 2.2 sau:

42

Biểu đồ 2.2: Quy mô sở hữu ruộng tư năm 1840

2.2.3. Bình quân thửa và bình quân sở hữu một chủ

Với 37 thửa ruộng phân bố trên 140.0.3.7.0 thì bình quân số thửa là

3.7.12.6.0 Trong đó xã có số bình quân thửa cao nhất là xã Lương Sơn thuộc tổng

Lương Sơn (8 mẫu), xã có bình quân thửa thấp nhất là xã Hạ Bì thuộc tổng Hạ Bì

(5 sào).

Trong 33 chủ sở hữu 140.0.3.7.0 diện tích có thể tính sở hữu thì bình quân

mỗi chủ sở hữu là 4.4.0.1.0. Trong đó, xã có số bình quân cao nhất là xã Lương

Sơn thuộc tổng Lương Sơn (8 mẫu), xã có bình quân thấp nhất là xã Điện Quan

thuộc tổng Lương Sơn (7 sào 4 thước 6 tấc).

Đơn vị: Mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.9: Bình quân thửa và bình quân sở hữu một chủ

STT Tổng

Số thửa

Bình quân số thửa

Số chủ

Ruộng tƣ ghi trong địa bạ

Diện tích có thể tính sở hữu

Bình quân sở hữu một chủ

65.8.10.0.0 65.8.10.0.0

9

7.3.2.7.0

9

7.3.2.7.0

Lâm Trường Thượng

5.0.0.0.0

1.5.0.0.0

0.7.7.5.0

0.7.7.5.0

2

2

Lâm Trường Thượng

65.4.4.1.0

6.4.4.1.0

1.6.1.2.0

1.6.1.2.0

4

4

49.0.9.4.0

11.4.0.0.0

3.8.0.0.0

3.8.0.0.0

3

3

1

Minh Chuẩn Đào Lâm Từ Hiếu

34.1.5.4.0

17.6.0.0.0

4

4.4.0.0.0

4

4.4.0.0.0

2

Thản Cù

Lịch Hạ Lâm Trường Hạ

144.0.14.7.0

16.0.0.0.0

8.0.0.0.0

8.0.0.0.0

2

2

3

Lương Sơn

20.6.4.6.0

0.7.4.6.0

0.7.4.6.0

0.7.4.6.0

1

1

Lương Sơn Điện Quan

93.4.8.0.0

2.5.0.0.0

0.5.0.0.0

0.8.3.0.0

5

3

4

Hạ Bì

Hạ Bì

72.1.12.0.0

18.0.0.0.0

2.55.10.7.0

3.6.0.0.0

7

5

5

Trúc Lâu

Động Khai

6

Tổng

568.4.8.2.0 140.0.3.7.0

37

3.7.12.6.0 33 4.4.0.1.0

Nguồn: Thống kê 9 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Nhìn chung, bình quân sở hữu ruộng đất và bình quân một thửa giữa các xã

43

thôn ở Lục Yên theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) không có sự chênh lệch lớn.

So sánh với bình quân sở hữu một chủ ở huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái cùng

thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX là 2.8.10.8.5 [59, tr. 45], thì Lục Yên có mức bình

quân sở hữu một chủ cao hơn với 4.4.0.1.0.

Ở Lục Yên trong 33 chủ sở hữu ở trên, chúng tôi thống kê thấy 100% chủ sở

hữu là phân canh, không có người phụ canh và cũng không có chủ nữ.

2.2.4. Sở hữu ruộng đất theo nhóm họ

Cũng như trong thống kê địa bạ Gia Long 4 (1805), ở địa bạ Minh Mệnh 21

(1840) chúng tôi tính dòng họ theo quy ước căn cứ vào chữ đầu tiên của tên người

chủ sở hữu. Thời Minh Mệnh ở Lục Yên có 33 chủ sở hữu tư điền thuộc 6 dòng họ

khác nhau (Xin xem bảng 2.10)

Đơn vị: Mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.10: Sự phân bố ruộng đất của các nhóm họ

STT Họ Tỷ lệ % Tỷ lệ %

1 Lương Tổng số chủ 4 12,12 Diện tích sở hữu 15.0.0.0.0 10,71

2 Nguyễn 2 6,06 8.7.3.0.0 6,21

3 Hoàng 24 72,73 96.2.9.1.0 68,80

4 Ngô 1 3,03 0.7.1.6.0 0,5

5 Lý 1 3,03 10.0.0.0.0 7,14

6 Nông 1 3,03 9.3.2.0.0 6,64

Nguồn Thống kê 9 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Tổng 33 100 140.0.3.7.0 100

Từ bảng số liệu trên ta thấy, dưới thời vua Minh Mệnh tại thời điểm năm

1840 Lục Yên có 33 chủ chia thành 6 nhóm họ, nhưng số lượng người giữa các

nhóm họ không đều. Dòng họ Hoàng từ thời Gia Long đến thời Minh Mệnh vẫn là

một dòng họ lớn, có tầm ảnh hưởng rộng về kinh tế, chính trị cũng như văn hóa

đối với nhân dân trong châu Lục Yên. Dòng họ Hoàng sở hữu phần lớn về ruộng

đất với 96.2.9.1.0 (chiếm 68,80%), số chủ cũng đông nhất với 24 chủ (chiếm

72,73%). Ngược lại, có họ chỉ có 1 chủ như họ: Ngô, Lý, Nông.

Nếu xét về mức độ sở hữu trung bình của một chủ trong từng nhóm họ, thì

44

trong 6 nhóm họ trên thì nhóm họ Hoàng có số chủ lớn nhất nhưng bình quân sở

hữu của một chủ lại thấp chỉ có 4 mẫu 1 thước 6 tấc thấp hơn một số nhóm họ

khác khi nhóm họ đó chỉ có một chủ như họ Lý sở hữu tới 10 mẫu, hay họ Nông là

9 mẫu 3 sào 2 thước.

2.2.5. Sở hữu của chức sắc

Căn cứ vào tài liệu địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) cho biết: 9 xã ở Lục Yên có

17 chức sắc, trong đó có 11 Lý trưởng, 6 dịch mục. Tình hình sở hữu ruộng tư của

các chức sắc cụ thể ở bảng sau:

Đơn vị: Mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.11: Sở hữu ruộng tư của các chức sắc

Chức vị Số chủ Dƣới 1 mẫu Từ 1 đến 3 mẫu Từ 3 đến 5 mẫu Từ 5 đến 10 mẫu Không có ruộng đất

Lý trưởng

Dịch mục 11 % 6 % 3 49,72 3 27,27% 1 16,67 3 27,27% 1 16,67 1 9,10% 4 36,36% 1 16,67

Nguồn Thống kê 9 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

17 3 4 4 1 5 Tổng 100% 17.65 23.53 23.53 5.88 29.41

Từ năm 1828, Minh Mệnh thực hiện cải cách hành chính đã bỏ Xã trưởng mà

thay bằng chức Lý trưởng. Quy định một xã có một Lý trưởng, tùy theo quy mô, số

dân mà mỗi xã có một hay hai phó Lý. Lý trưởng hay phó Lý đều phải là người do

dân địa phương bầu ra, được phủ huyện xét ký và được cấp văn bằng, mộc triện.

Theo bảng số liệu 2.11 cho thấy, số lượng chức dịch của châu Lục Yên thời kỳ

này không nhiều (9 xã nhưng chỉ có 17 người). Số chức dịch không có ruộng là 3/17

chiếm 17,65%, số chức dịch có dưới một mẫu là 4/17 chiếm 23,53%, số chức dịc có

từ 1 đến 3 mẫu là 4/17 chiếm 23,53%, số chức dịc có từ 3 đến 5 mẫu là 1/17 chiếm

5,88%, số chức dịch có từ 5 đến 10 mẫu là 5/17 chiếm 29,41%.

Xét về diện tích sở hữu: Có 17 chức sắc sở hữu 48.1.11.7.0. Trong đó lý trưởng

45

có 11 chủ và sở hữu đến 39.4.12.6.0. Dịch mục có 6 chủ (chiếm 35,29%) sở hữu

8.6.14.1.0. Bên cạnh các chức sắc có ruộng thì vẫn có các chức sắc không có ruộng như:

Dịch mục Nguyễn Đình Trung tại xã Thản Cù thuộc Lâm Trường Hạ và Dịch mục

Hoàng Đình Vượng tại xã Lâm Trường Thượng, tổng Lâm Trường Thượng.

Về bình quân sở hữu, mỗi chức sắc sở hữu 2.8.5.1.0. Lý trưởng có bình quân

ruộng đất lớn hơn Dịch mục. Mỗi Lý trưởng sở hữu 3.5.13.4.0, trong khi đó mỗi Dịch

mục chỉ sở hữu 1.4.7.7.0. Cụ thể như thống kê ở bảng 2.12 sau:

Đơn vị: Mẫu, sào, thước, tấc, phân (m.s.th.t.p)

Bảng 2.12: Diện tích sở hữu và bình quân sở hữu của chức sắc

Số chủ Tỷ lệ % Chức dịch Số ngƣời có ruộng Diện tích sở hữu Bình quân sở hữu một chủ

Lý trưởng 11 11 100 39.4.12.6.0 3.5.13.4.0

Dịch mục 6 3 50 8.6.14.1.0 1.4.7.7.0

Nguồn: Thống kê 9 địa bạ Minh Mệnh 21 (1840)

Tổng 17 14 82.35 48.1.11.7.0 2.8.5.1.0

Trong 17 số chủ nêu trên thì chỉ có 14 người có ruộng đất chiếm 82.35%. Có 3

người không có ruộng.

Qua phân tích địa bạ Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) ở châu Lục

Yên, có thể rút ra được một số điểm như sau:

Thứ nhất, Lục Yên là một châu ở miền núi phía bắc, kinh tế nông nghiệp là

chủ yếu, nhưng những diễn biến chính về ruộng đất đã phản ánh xu thế chung của

tình hình ruộng đất của cả nước dưới triều Nguyễn. Qua địa bạ Gia Long 4 (1805) và

Minh Mệnh 21 (1840), ruộng đất ở Lục Yên gần 100% diện tích đất đai là ruộng tư,

sang thời Minh Mệnh có ruộng đất công nhưng diện tích rất nhỏ (4 mẫu 9 sào chiếm

0,91%), không có tư thổ, không có phụ canh. Quá trình tư hữu hóa ruộng đất đã diễn

ra mạnh mẽ.

Hiện tượng phát triển mạnh mẽ tư hữu ruộng đất không chỉ diễn ra ở Lục Yên,

mà nó diễn ra trong cả nước. Theo nghiên cứu của các tác giả Phan Huy Lê, Vũ Minh

Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo, trong Địa bạ Hà Đông thì ruộng tư của Hà

46

Đông cùng thời điểm chiếm 82,90% [23, tr. 24]. Hay theo nghiên cứu Nguyễn Quang

Ngọc về làng xã Việt Nam qua trường hợp làng Đan Loan (xã Nhân Quyền, huyện

Bình Giang, tỉnh Hải Dương) cũng cho kết quả tương tự: “… Như vậy, rõ ràng vào

thời điểm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX hầu hết những ruộng đất ở Đan Loan đều

là ruộng tư và hoàn toàn không có ruộng đất công làng xã…” [39, tr. 190].

Thứ hai, số lượng ruộng đất lưu hoang ở Lục Yên rất lớn và không được khắc

phục: theo địa bạ Gia Long 4 là 79,01%, theo địa bạ Minh Mệnh 21 là chiếm 73,20

%. Ruộng đất thực trưng chiếm số lượng ít, thêm vào đó toàn là ruộng loại 3 khó

canh tác, không có ruộng loại nhất và nhì.

Năm 1840, Minh Mệnh cho sửa lại phép quân điền, chính sách này của ông đã

có tác dụng nhất định đối với một số địa phương trong cả nước, như huyện Quảng

Hòa (Cao Bằng) số diện tích ruộng đất bỏ hoang đã được khôi phục, ở thời điểm Gia

Long 4 (1805) số ruộng đất bỏ hoang ở Quảng Hòa là 5,64% thì đến thời Minh Mệnh

21 (1840) không còn ruộng đất bỏ hoang nữa [57, tr.85]. Tuy nhiên, ở Lục yên thì số

ruộng đất lưu hoang vẫn không được khắc phục.

Trong sở hữu tư nhân nổi bật là xu hướng tập trung ruộng đất vào nhóm họ

Hoàng, họ Lương. Các nhóm họ có sự chênh lệnh rõ rệt cả về số chủ và diện tích sở

hữu. Các chức sắc không những có quyền lực về chính trị mà họ còn nắm trong tay

một số diện tích ruộng đất khá lớn.

Thứ ba, về quy mô sở hữu ruộng đất của các xã ở Lục Yên trong cả hai thời

điểm thì mức độ chênh lệch khá cao. Xã có quy mô sở hữu cao nhất là hơn 301 mẫu

(Gia Long 4) và hơn 144 mẫu (Minh Mệnh 21) và xã có quy mô nhỏ nhất là hơn 17

mẫu (Gia Long 4) và hơn 5 mẫu (Minh Mệnh 21); có 3/15 xã (chiếm 20%) ở thời Gia

Long 4 (1805) và 1/9 xã (chiếm 11,11%) ở thời Minh Mệnh 21 có quy mô sở hữu từ

100 mẫu trở lên.

Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên có thể do Lục Yên là một châu

nằm ở miền núi, địa hình dốc, đồi núi nhiều. Đây là đặc điểm chung của các xã vùng

miền núi phía Bắc.

Thứ tư, về tình hình sở hữu ruộng đất của các nhóm họ ở Lục Yên, có thể thấy

tình hình sở hữu không đồng đều giữa các nhóm họ, chủ yếu tập trung ở họ Hoàng,

47

Lương. Đặc biệt là họ Hoàng, ở cả hai thời điểm đều có số chủ và diện tích sở hữu

lớn nhất (thời Gia Long 4 có số chủ chiếm 60,43%, diện tích sở hữu là 56,41%; thời

Minh Mệnh có số chủ chiếm 72,73%, diện tích sở hữu là 68,80%).

Như vậy, cũng như các huyện miền núi khác, các nhóm họ lớn trong làng, xã

chiếm một vị trí rất quan trọng. Họ nắm trong tay về quyền lực chính trị và sở hữu

lớn về ruộng đất chi phối đến tình hình kinh tế và xã hội trong vùng.

Thứ năm, do điều kiện địa hình là đồi núi nên ruộng đất ở Lục Yên không tập

trung, manh mún nên quy mô sở hữu ruộng tư chưa lớn, chủ yếu là sở hữu vừa và

nhỏ. Hầu hết những người có sở hữu ruộng đất lớn đều là các chức sắc của địa

phương, cũng có một vài người không có ruộng đất.

Những đặc điểm trên cho thấy châu Lục Yên nằm trong xu hướng phát triển

chung của cả nước lúc bấy giờ.

2.3. Tình hình kinh tế

2.3.1. Nông nghiệp

- Trồng trọt

Ở Lục Yên có hai loại hình canh tác chính là ruộng nước và nương rẫy.

Từ xa xưa, cư dân Lục Yên đã biết khai phá những đám ruộng ở lưu vực sông

Chảy, ven các con suối và những thung lũng để làm ruộng trồng lúa nước (tiếng Tày,

Nùng gọi là nà nặm). Bên cạnh đó, do phần lớn đất là đồi núi, nên cư dân đã biết lợi

dụng vào địa hình để khai phá thêm ruộng bậc thang.

Công cụ lao động của đồng bào chủ yếu là cày, bừa, cuốc, liềm, dao… Cày

chìa vôi là phổ biến, thân cây được làm bằng loại gỗ tốt nhất, lưỡi cày được đồng bào

tự đúc bằng gang to, khỏe, có khả năng cày sâu 15 đến 20 cm lật được đất cả hai bên,

phù hợp với cày đất ruộng ở miền núi. Do chủ yếu là ruộng bậc thang hoặc là những

mảng ruộng nhỏ, nên người dân ở đây thường sử dụng bừa đơn rộng khoảng 100cm,

cao khoảng 80cm, có khoảng 9 đến 11 răng bằng gỗ hoặc gốc tre già chắc khỏe, đảm

bảo làm tơi đất dễ dàng. Họ dùng trâu hoặc bò làm sức kéo.

Kỹ thuật làm đất, được đồng bào rất chú ý, nhất là đồng bào Tày, Nùng, Kinh.

Ban đầu là cày ải (công việc này thường làm vào tháng 11, 12 Âm lịch). Việc cày ải

là để diệt cỏ dại, mầm sâu bệnh, phơi đất cho tơi. Đất cày ải, phơi đất vào thời điểm

48

này khi gặp mưa ngấm đất nát ngay đỡ tốn công làm đất. Sau khi cày ải, đồng bào

tiến hành bừa lần một (phưa cải) để thu dọn cỏ dại và cũng là để đảo đất. Sau một

thời gian thì cày lần hai, gọi là “cày lật” và bón lót. Sau khi bón lót thì bừa lần hai

(phưa làu) để trộn phân bón với đất bùn, để phân bố đều trên ruộng và cuối cùng

(loạt) là bừa kỹ lần cuối để cấy.

Hạt giống, thường được chọn từ vụ trước. Khi lúa chín, người ta chọn đám

ruộng nào tốt nhất, bông đều, hạt chắc, già, dùng hái nhắt (hép) ngắt từng bông bó

thành từng cum (va), mỗi cum nặng khoảng năm đến sáu cân, gánh về nhà phơi khô,

để trên gác gần bếp. Gần đến ngày gieo, họ mang xuống vò bằng chân, rồi sàng sẩy

cho sạch sẽ.

Gieo mạ và cấy, đem thóc giống ngâm trong nước khoảng một ngày, rồi vớt

ra ủ, khi gặp thời tiết lạnh phải ủ kỹ, để cạnh bếp củi, ngày hai lần dội nước ấm,

khoảng hai đến ba ngày thóc nẩy mầm đều thì đem gieo. Đất để gieo mạ cũng được

chuẩn bị kỹ càng như đất để cấy lúa, nhưng đất nhỏ và nhuyễn hơn. Sau khi bừa lần

cuối, để đất lắng xuống, tháo cạn nước, đánh luống, rồi gieo đều trên mặt luống. Khi

gieo mạ xong, để khoảng 3 - 4 ngày cho hạt thóc ổn định rồi cho nước vào. Trong

trường hợp gặp mưa to, đồng bào cho nước đầy ruộng mạ để tránh mưa nặng hạt làm

tung bùn đất lấp mất mầm hạt, hoặc nước trôi hạt giống. Sau khi gieo được khảng 20

ngày, người ta lấy phân chuồng đã qua hoai ủ trộn lẫn với tro bếp rắc đều lên trên

đám mạ, cung cấp thức ăn cho mạ. Để xua đuổi chim, chuột khỏi ăn thóc giống,

người ta dùng các con bù nhìn được làm bằng rơm dựng ở ruộng mạ. Từ khi gieo hạt

đến khi cấy, thời gian khoảng một tháng (lúa nếp có thể hơn một tháng). Trước khi

cấy, đồng bào tháo hết nước trong ruộng mạ để khô dễ nhổ. Cuối cùng, người ta nhổ

mạ rồi bó thành từng bó to bằng hai nắm tay người lớn, cắt bỏ ngọn để thân mạ cứng

dễ cấy, cấy xuống cây lúa không bị đổ, nhanh bén rễ và phát triển lá non.

Ngày nay, ở Lục Yên có nhiều giống lúa mới, tuổi mạ không đòi hỏi cao như

vậy, quy trình gieo, nhổ đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, ở nhiều nơi như Khánh Hòa,

Liễu Đô, Tân Lĩnh… đồng bào vẫn duy trì cách canh tác này, nhất là khi cấy lúa nếp.

Sau khi cấy khoảng gần một tháng, đồng bào tiến hành làm cỏ đợt một. Nước

được tháo cạn, lấy chân đạp đất, tay nhổ cỏ (sau này đồng bào đã biết dùng cào làm

49

bằng gỗ để cào cỏ). Đối với chân ruộng bình thường, đồng bào để vài ngày mới tháo

nước trở lại. Làm như vậy để đất giữ chặt cây lúa và kích thích lúa phát triển. Đến

khi lúa sắp làm đòng, đồng bào tiến hành phát cỏ bờ, bón thúc và làm cỏ lần hai.

Đồng bào Lục Yên còn biết ủ phân chuồng (chủ yếu là phân trâu) để bón

ruộng. Ngoài ra, đồng bào còn vào các hang động để hót phân con dơi mang về bón

lúa rất tốt. Phương tiện vận chuyển chủ yếu là gánh, hoặc dùng trâu kéo (dùng thân

cây to khoét rỗng) có thể chở hàng chục gánh phân cùng một lúc.

Ngoài việc bón phân, đồng bào đặc biệt chú ý đến xây dựng hệ thống các

công trình thủy lợi. Đồng bào Tày - Nùng đã biết dựa vào hoàn cảnh thiên nhiên để

giải quyết nước tưới cho đồng ruộng trên cao như: Đắp đập (phai) ngăn nước sông,

suối chảy vào ruộng; đào mương dẫn nước từ đầu nguồn các khe suối, men theo các

sườn đồi để tưới cho các thửa ruộng trên cao. Bên cạnh đó, đồng bào Lục Yên đã

biết lợi dụng sức nước chảy không chỉ để nâng cần giã gạo mà còn biết làm cọn

nước (guồng nước) để đưa nước lên chân ruộng cao. Cọn nước được làm bằng gỗ,

tre, nứa, mây… Đó là những chiếc bánh xe, có đường kính rộng hẹp khác nhau tùy

thuộc vào độ cao thấp của mặt ruộng so với mặt nước của sông hay suối. Ở bánh xe

có những cánh quạt cản nước để cọn nước quay, đồng thời cản nước vào các ống

bương đựng nước buộc chếch ở ngoài vành bánh xe, nước chảy đầy, bánh quay đưa

ống bương lên cao, tự đổ nước vào máng dẫn nước đặt ngang và nước theo các ống

máng nối liền với ruộng.

Về kinh nghiệm mùa vụ, việc nắm bắt thời vụ là rất quan trọng, bởi lẽ khí hậu

ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa,. Khí hậu ở Lục Yên

khắc nghiệt, mùa đông đến sớm và kéo dài, nên thời vụ đặc biệt quan trọng. Vì vậy,

khi có mưa sớm, người dân tranh thủ cấy những thửa ruộng hạn (nà lẹng). Theo sách

Đại Nam nhất thống chí: “Hàng năm cứ vào khoảng tháng tháng 4, tháng 5 gieo mạ,

tháng 6, tháng 7 cấy và gặt vào tháng 10, tháng 11. Nhà nông thường xem ngày 8

tháng 4 có mưa hay không, để xếp đặt công việc làm ruộng cũng có phần ứng

nghiệm. Có câu ngạn ngữ rằng: Ngày 8 tháng 4 không mưa, ruộng trũng đừng bừa,

đi phát ruộng cao” [35, tr. 398] .

Việc đúc kết kinh nghiệm về thời vụ là “chìa khóa” đã đem lại kết quả tốt cho

50

người nông dân.

Khi thu hoạch, người Nùng do chủ yếu ở nhà đất, không có gầm sàn rộng để

lúa, nên khi gặt thường dùng liềm cắt tận gốc, gom từng đống lớn ở giữa ruộng, dùng

loỏng để đập. Loỏng là khúc gỗ to, khoét mảng sâu, khi đập ở hai đầu loỏng, hai bên

có phên che. Sau khi đập xong, lúa được quạt sạch, gánh mang về nhà phơi khô rồi

cất. Đối với người Tày, do sống trên nhà sàn, có gầm sàn rộng, cho nên khi gặt, người

Tày thường dùng liềm cắt lúa ở bên dưới bông gạo khoảng 20 cm, dùng rạ để buộc

thành nắm, phơi luôn trên các gốc rạ cho rơm và hạt thóc khô (khoảng hai đêm ba

ngày), sau đó thu gom gánh về nhà cất vào “giảo khảu” (giảo khảu được quây một

góc ở dưới gầm sàn, phên được đan bằng nứa tép, hoặc bưng ván, dưới sàn giảo được

giải bằng gỗ cách mặt đất khoảng 20 đến 30 cm). Khi nào nhà hết gạo ăn thì người

Tày bỏ lúa ra, xếp thành đống tròn, dắt ba đến bốn con trâu đi vòng quanh dẫm lên

các bó lúa cho thóc rơi ra khỏi rơm. Cách làm này người Tày ở Lục Yên gọi là “nuột

khảu”. Thóc sau khi được quạt sạch thì đem phơi khô để dự trữ và sử dụng, một phần

đem bán, đổi lấy những vật phẩm cần thiết cho gia đình.

Bên cạnh việc canh tác trên đồng ruộng nước, đồng bào ở Lục Yên còn làm

ruộng nương. Nương có hai loại: nương bằng và nương dốc.

Nương bằng có thể dùng cày, cuốc để canh tác, đó là các loại bãi bồi ven sông

ven suối. Nương dốc là loại có độ dốc cao, khó cải tạo thành mặt bằng để làm ruộng,

đồng bào khai thác, đắp bờ, giữ màu trồng cây lương thực, cây hoa màu, nhiều nhất là

ngô, đậu, sắn, đỗ tương... Ở đầu thế kỷ XIX, các nương rẫy của đồng bào chủ yếu là

do đốt rừng mà thành.

Việc tra hạt được thực hiện theo hai cách:

Cách thứ nhất, tra hạt theo hốc, người đi trước dùng gậy chọc lỗ, người đi sau

đem theo một túi hạt bỏ xuống và lấp lại. Đây là cách làm với nương dốc và mới.

Cách thứ hai là vãi hạt. Cách này chỉ cần một người vãi hạt, những người còn

lại dùng bai cào để lấp. Cách này chỉ phù hợp với nương bằng

Cả hai cách tra hạt đều làm tuần tự từ thấp đến cao, để đất lấp kín hạt trong

quá trình ủ mầm và chống chim, thú phá hoại.

Trong quá trình chăm sóc cũng tiến hành làm cỏ, ngoài ra còn phải cắm bù

51

nhìn, làm chòi canh muông thú không cho chúng phá hoại.

Việc thu hoạch được tiến hành vào khoảng tháng 10, tháng 11 Âm lịch. Đồng

bào không gặt lúa mà hái lúa, dụng cụ để hái là chiếc díp (hay nhíp). Sản phẩm thu

được cất vào chòi canh, khi nắng ráo mới đem ra phơi. Lúa, ngô khô mới đem về nhà

treo trên xà nhà hoặc để trên gác.

Nương rẫy canh tác vất vả mà sản lượng lại không nhiều, không có vai trò lớn

trong việc cung cấp lương thực nhưng hiện nay nhiều gia đình ở Lục Yên vẫn duy trì

việc canh tác nương. Họ trồng ngô, đậu tương, sắn, chè... nhất là các dạng lúa nương

bởi chất lượng gạo thơm ngon và một phần do tập quán canh tác. Ở xã Động Quan có

giống khoai sọ tím (đồng bào ở Lục Yên gọi đó là khoai Dao, khoai Xá vì chỉ có

người Dao, người Xá mới trồng được trên nương của họ). Có nơi gọi là khoai môn họ

giải thích câu "Lên rừng nhớ vợ, nhớ con. Về nhà nhớ củ khoai môn trên rừng", ngụ

ý: Khoai ngon đến mức mà người từ biên ải được trở về xuôi sum họp với gia đình

rồi lại thấy nhớ da diết củ khoai môn như khi ở trên rừng nhớ những người thân yêu

nhất nơi quê hương miền xuôi [86]. Vào độ sau Tết Âm lịch, là bà con người Dao ở

Lục Yên lại tìm những sườn đồi, hoặc các hố đất trên núi đá đào hố đặt mầm khoai.

Đến đầu mùa đông khi lá khoai vàng héo là thu hoạch.

Phần lớn các gia đình ở Lục Yên đều có mảnh vườn quanh nhà, vườn được rào

cẩn thận vừa là để xác định phạm vi đất đai của gia đình, vừa là để ngăn vật nuôi phá

hoại. Trong vườn trồng các loại rau, gia vị, cây ăn trái như chuối, cam, chanh, mơ,

mận, hồng không hạt... phục vụ nhu cầu cho gia đình và người thân.

Ngoài ra đồng bào còn trồng các loại cây như hồi, sa nhân, y dong riềng (làm

bánh tráng), các loại cây lấy gỗ như xoan, tre...

- Chăn nuôi

Đồng bào chăn bò, trâu, gà, vịt, ngan, ngỗng, cá,…để phục vụ cho sản xuất

hoặc cải thiện bữa ăn hàng ngày. Đối với trâu, bò đồng bào thường chăn thả ở sườn

đồi, thung lũng. Họ nuôi trâu, bò để lấy sức kéo trong việc cày, bừa, vận chuyển gỗ

làm nhà, thồ thóc, gạo, ngô. Ở châu Lục Yên nổi tiếng có giống trâu ngố to khỏe để

cung cấp sức kéo cho sản xuất nông lâm nghiệp, vận tải. Những con trâu đực trưởng

thành từ 7 tuổi trở lên nặng khoảng 8 tạ đến một tấn và trâu cái nặng 5 đến 6 tạ vẫn

52

còn khá phổ biến trong các bản làng của đồng bào Tày, Nùng, Dao, mỗi nhà thường

nuôi vài con trâu trở lên. Trâu được thả vào rừng, có người đi chăn nhưng do rừng núi

rậm rạp nên con đầu đàn được đeo mõ cho dễ tìm. Ngoài ra, đồng bào còn nuôi dê

trên các sườn núi đá vôi và làm chuồng tại đó để tiện cho việc chăn thả.

Chăn nuôi lợn, gà, vịt, đào ao thả cá hầu như nhà nào cũng có nhưng theo thói

quen của đồng bào, việc đầu tư chăm sóc ít được quan tâm. Việc chăn nuôi gia cầm

cũng chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu hàng ngày của gia đình.

Có thể nói nghề chăn nuôi của đồng bào ở Lục Yên tuy đa dạng nhưng vẫn là

ngành kinh tế phụ bên cạnh ngành chính là trồng trọt.

Nhìn chung nền kinh tế nông nghiệp ở Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX là một

nền kinh tế nông nghiệp đan xen giữa trồng trọt và chăn nuôi, giữa trồng cây lương

thực với hoa màu, giữa khai thác ruộng nước với ruộng nương... Trong quá trình sản

xuất có sự phân công lao động giữa nam và nữ, có sự hợp tác trong lao động (mỗi vụ

cấy, gặt đồng bào thường giúp đỡ nhau, hình thức thường thấy là đổi công). Đồng bào

hợp tác với nhau đào mương, đắp phai trước các vụ gieo trồng để đảm bảo nguồn

nước tưới.

Bên cạnh một nền nông nghiệp truyền thống, cư dân Lục Yên và đồng bào các

dân tộc miềm núi nói chung sinh sống còn dựa vào khai thác các sản vật có sẵn trong

tự nhiên. Ở Lục Yên chủ yếu là khai thác tài nguyên rừng. Theo sách Kiến văn tiểu

lục: “Các xã thuộc châu Lục Yên, sản xuất vỏ cây gió, nứa, tre và các thứ cây khác;

các xã Bắc Quang, Vị Thượng và Điện Quan thuộc châu Lục Yên sản xuất gỗ xoan,

gỗ vàng tâm, người địa phương chở xuống bán ở bến sông Chảy” [13, tr. 387]. Tùy

từng khu vực, từng mùa mà đồng bào ở Lục Yên vào rừng hái lượm những loại rau,

củ, quả, nấm hương, mộc nhĩ có nhiều trong mùa xuân và đầu mùa hạ, các loại măng,

có thể làm chua hay phơi khô để dự trữ ăn dần.

Các loại cây củ rừng có bột như cây báng, củ mài thường được đồng bào khai

thác vào những năm mất mùa hay giáp hạt để ăn thay cơm. Đồng bào còn khai thác

mật ong rừng, củi gỗ, song, mây...để sử dụng và đem bán đổi lấy muối và là một

nguồn thu hỗ trợ cho nông nghiệp.

Bên cạnh hái lượm, đồng bào còn săn bắt thú rừng để bổ sung thức ăn cho bữa

cơm gia đình. Săn bắt còn có ý nghĩa bảo vệ nương rẫy. Vũ khí săn bắt chủ yếu là tên,

53

nỏ, lao, giáo, bẫy.

Ngoài săn bắt, hái lượm ở những nơi gần sông, suối, đồng bào còn đánh bắt cá

bằng các dụng cụ tự chế như lưới, vó, đó...hoặc bằng cách thả ruốc.

Ở nửa đầu thế kỷ XIX tài nguyên thiên nhiên còn nhiều, việc khai thác của

đồng bào có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do con người khai

thác tràn lan, nguồn tài nguyên rừng, tài nguyên sông nước của Lục Yên cạn dần. Các

loài muông thú quý hiếm không còn nữa, sông suối cũng ít hẳn cá tôm. Nghề khai

thác tự nhiên không còn nhiều ý nghĩa đối với đời sống của đồng bào.

Hiện nay, đồng bào Lục Yên tham gia tích cực vào phong trào trồng rừng và

bảo vệ rừng. Ngoài trồng các cây lấy gỗ, đồng bào cũng rất tích cực hưởng ứng

trồng các loại cây công nghiệp như quế, sắn; cây ăn quả có giá trị cao như cam,

quýt, hồng không hạt...

2.3.2. Thủ công nghiệp và thương nghiệp

- Thủ công nghiệp

Đồng bào dân tộc Lục Yên từ lâu đã có một số nghề thủ công truyền thống:

nghề dệt vải, đan lát, nhuộm chàm, làm mộc… Trước đây do xuất phát từ nền kinh tế

tự cung tự cấp nên sản phẩm của nghề thủ công phần lớn để phục vụ nhu cầu sinh

hoạt trong gia đình, ít mang tính chất hàng hóa.

Nghề đan lát: Hầu hết các gia đình đều tự túc được các đồ đan thông thường

như giần, sàng, tấm phên, sọt, rổ… Công việc đan lát có thể làm quanh năm, nhưng

thường tập trung vào lúc nông nhàn. Nguyên liệu lấy từ cây tre, nứa có sẵn trong

vườn hoặc trong rừng được chặt về gác lên rãnh bếp để khi nào rảnh việc thì lấy

xuống đan và đồ đan sẽ dùng được bền, không bị mọt. Nghề đan lát có vai trò rất

quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của người người Tày, Nùng, Dao. Họ dùng

những sản phẩm đó để đựng các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình.

Nghề dệt vải: Cũng như nghề đan lát, nghề dệt phát triển đều khắp ở Lục Yên.

Hiện nay, nhất là ở người Tày ở xã Khánh Thiện, nghề dệt thổ cẩm để làm nên những

vỏ chăn, đệm, trang phục.. vẫn được phát triển. Mỗi dân tộc cũng có những nét riêng

đặc trưng cho truyền thống văn hóa dân tộc. Nếu như người Nùng, người Dao chỉ biết

trồng bông, dệt vải, nhuộm vải thì người Tày còn có thêm nghề trồng dâu, nuôi tằm,

54

ươm tơ và dệt lụa.

Trồng bông, dệt, nhuộm vải: Người Tày, Nùng, Dao ở Lục Yên thường gieo

hạt bông vào tháng Giêng, tháng Hai, gieo vào thời điểm này cây bông sẽ nở hoa

sớm, tránh được sương muối. Bông được thu hoạch vào tháng 6, 7, khi mang về bông

được phơi nắng, rồi tách hạt để được bông nõn, sau đó “công phải” (bật bông) làm

cho bông xốp lên, rồi vê thành từng con đưa vào “slỏa” (xa kéo sợi) kéo thành sợi.

Con sợi được hồ cứng bằng nước cháo bột gạo để làm sợi dọc, sau đó người ta dùng

“cọn lót” (guồng sợi) tạo sợi thành các con sợi đưa vào khung dệt.

Để vải có màu đẹp và bền, đồng bào thường nhuộm vào tháng 7, 8 vì khi đó

tiết trời khô ráo vải mau khô và bắt màu tốt. Vải thường được nhuộm củ nâu, chàm

hoặc các loại lá cây rừng khác, nhưng chủ yếu là nhuộm chàm. Khi chàm được thu

hoạch, đồng bào ngâm chàm vào thùng gỗ to, sau hai ngày đêm thì vớt xác cành lá,

cho nước vôi trong và nước lọc tro bếp vào ngâm cùng. Khi nào chàm lắng xuống thì

gạn bỏ nước, lọc lấy chàm ở đáy thùng. Công đoạn nhuộm chàm cũng rất công phu,

mỗi súc vải phải nhuộm đến hai, ba lần và phải mất vài tháng mới hoàn thành.

Trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải: Những gia đình người Tày ở Lục Yên

trước đây, nhà nào cũng có vườn dâu. Người ta trồng dâu ở vườn hoặc các bãi bồi

ven sông, suối, có gia đình trồng ở xung quanh nương ngô, sắn, vừa để lấy lá nuôi

tằm, vừa để làm cọc rào vườn. Cây dâu cũng được chăm sóc, làm cỏ, bón phân rất

cẩn thận. Tằm được nuôi ở những nơi rộng rãi, thoáng mát, tránh ánh nắng mặt trời,

tránh ruồi, muỗi, kiến đốt tằm. Khi cho tằm ăn lá dâu phải khô ráo, lúc tằm còn nhỏ lá

dâu phải được thái nhỏ khi cho ăn, nhưng đến khi tằm lớn thì không phải thái. Quá

trình nuôi tằm của đồng bào phải kiêng nhiều thứ như: Phụ nữ ở cữ không được đến

gần tằm, người chăn tằm không được xem người và các con vật đẻ, đi đám ma về

phải qua vài ngày mới được cho tằm ăn, kiêng ăn các loại rau có mùi… Nếu không

kiêng được tằm sẽ bị chết hoặc chất lượng kén sẽ không tốt.

Theo kinh nghiệm của đồng bào thì sau khi tằm làm kén được ba đến bốn ngày

là thời điểm đẹp nhất để kéo tơ. Tơ sau khi được kéo, phơi khô, quấn thành con sợi và

từ đó dệt thành vải.

Nghề làm hương đốt: Nguyên liệu làm hương rất đơn giản, chủ yếu từ các loại

cây có sẵn trên rừng như: gỗ mục, vỏ cây kháo, lá cây hắt, tre… Khi làm người ta

55

đem gỗ mục, cây kháo và lá cây hắt đã phơi khô cho vào cối giã mịn, trộn đều, pha

chế; tăm hương được làm từ thân tre hoặc mai trên một năm tuổi, ngâm dưới ao bùn

khoảng từ 25 đến 30 ngày, vớt lên, phơi khô, chẻ nhỏ. Trong quá trình làm hương,

điều quan trọng nhất là người làm hương cần có sự tinh tế, khéo léo trong cách pha

chế, nếu sai lệch dù là nhỏ sẽ tạo ra mùi thơm không như ý muốn. Hương sau khi

làm, phơi khô từ 2 - 3 ngày là có thể dùng được.

Nghề mộc: Nghề mộc của đồng bào ên mới chỉ dừng lại ở phạm vi tương trợ,

giúp nhau dựng nhà, làm khung cửi, làm đuống, cối giã gạo, làm quan tài gỗ…phục

vụ cho sản xuất, vui chơi chứ không chuyên sản xuất đồ gỗ.

Nghề làm đồ trang sức: Phát triển chủ yếu trong đồng bào Dao. Nguyên liệu

chủ yếu là bạc. Sản phẩm chủ yếu là những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân,

vòng tay, nhẫn, những dây bạc, những đồ trang trí trên quần áo.. Ngoài ra đồ trang

sức chế tạo từ đá spilit quắc dít, amphibôlit… là nguồn nguyên liệu có sẵn ở địa

phương. Họ dùng ngay các công cụ bằng đá để cưa, khoan, tiện mài và đánh bóng.

Nghề làm giấy: Đây là một nghề cũng được coi là phổ biến của dân tộc Dao ở

Lục Yên. Không những dân tộc Dao mà cả các dân tộc thiểu số khác, như Tày, Nùng,

rất ưa thích những thứ giấy của người Dao, vì nó bền và tốt. Loại giấy này rất ăn mực

và nét chữ giữ được lâu. Nguyên liệu làm giấy chủ yếu là vầu, nứa, trúc non. Họ

tráng giấy trên khuôn hình chữ nhật rộng 30cm, dài 60cm và thường tráng những tờ

giấy chồng lên nhau ngay trong khuôn khi nào được 40 tờ mới đem phơi, không cần

tách riêng từng tờ [92].

Nhìn chung, thủ công nghiệp nơi đây vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi nông

nghiệp, vẫn chỉ là nghề phụ gia đình, làm vào những lúc nông nhàn. Trong nền kinh

tế truyền thống của các cư dân Tày, Nùng, Kinh, Dao ở Lục Yên còn nhiều hạn chế,

nổi bật là tính tự cung, tự cấp. Hiện nay, nghề thủ công truyền thống của đồng bào

vẫn được duy trì như nghề mộc: làm giường, tủ, bàn, ghế, nghề rèn, các công cụ sản

xuất như dao, cuốc, lưỡi cày... nghề đan lát; các đồ dùng đồ đựng bằng tre, nứa...

- Thương nghiệp

Xuất phát từ vị trí thuận lợi, thương nghiệp của Lục Yên đã sớm khởi sắc: Từ

Lục Yên đi về phía Tây là huyện Trấn Yên tỉnh Hưng Hóa, phía đông và phía Bắc

56

giáp huyện Vĩnh Tuy, phía nam giáp châu Thu (Tuyên Quang), là chiếc cầu nối nền

kinh tế của các tỉnh miền xuôi và các tỉnh miền núi. Vì vậy, từ lâu các đồng bào dân

tộc ở châu Lục Yên đã có sự giao lưu buôn bán với các địa phương khác trong và

ngoài khu vực.

Về đường sông, sông Chảy chảy qua địa phận châu Lục Yên cũng giữ vai trò

quan trọng trong việc thông thương, giao lưu, phát triển kinh tế của Lục Yên với các

trao đổi hàng hóa chủ yếu là qua chợ.

Theo Địa danh Yên Bái Sơ khảo: “Chợ đặt trên một quả đồi thấp ven đường

Lục Yên đi Vĩnh Tuy. Phía Đông là ngòi Vặc nhập vào Bích Hà, phía Tây liền kề

cánh đồng màu mỡ. Chợ họp vào các ngày mồng một, rằm hàng tháng, người tứ

phương trẩy hội rất đông, buôn bán hàng hóa tấp nập” [32, tr.192].

Hoạt động buôn bán, thông thương ở khu vực này ngày một tấp nập đông vui

với chợ Tòng Lệnh và phố Đà Dương. Sản phẩm chủ yếu là tre nứa, gỗ tròn, song,

mây, củ nâu, súc vật.

Nhân dân địa phương mang lâm sản, hàng hóa từ Lục Yên về Tu Vũ (Thanh

Thủy), Chí Chủ, Vũ Ẻn, Hoàng Cương (Thanh Ba), Ấm Thượng (Hạ Hòa) của tỉnh

Phú Thọ để trao đổi. Sự buôn bán qua lại ấy còn được tiếp nối đến ngày nay.

Lúc bấy giờ nhà Nguyễn đã đặt đồn tuần để thu thuế các chợ ở Lục Yên. Hệ

thống phố, chợ và trạm thu thuế xuất hiện là cơ sở quan trọng để khẳng định hoạt

động giao lưu buôn bán trong và ngoài châu đã có sự phát triển.

Tuy nhiên, do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên đã quy định kinh tế Lục Yên

chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp chỉ mang

tính chất là nghề phụ chưa tách khỏi nông nghiệp.

Mặc dù, thực dân Pháp xâm lược nước ta từ năm 1858 nhưng phải đến năm

1886 thực dân Pháp mới đánh chiếm Yên Bái và châu Lục Yên. Từ năm 1886 đến

năm 1898 diễn ra các cuộc khởi nghĩa của nhân dân Yên Bái chống lại thực dân Pháp.

Vì vậy, nửa cuối thế kỷ XIX ở Lục Yên thực dân pháp chỉ đặt được ách cai trị về

chính trị bằng cách chia đặt hành chính còn chưa thống trị được về mặt kinh tế, do

vậy về cơ bản nền kinh tế của Lục Yên chưa có nhiều biến chuyển chủ yếu là nền

kinh tế nông nghiệp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.

Ngày nay, khi mà nền kinh tế phát triển, giao thông đi lại thuận lợi ngành

57

thương nghiệp của Lục Yên phát triển mạnh. Ngoài các chợ ở thị trấn Yên Thế thì

hầu hết các xã đều có chợ phiên họp vào các ngày nghỉ như thứ 7, chủ nhật để đồng

bào mua bán, trao đổi hàng hóa.

2.4. Thuế khóa

Ở thời Lý, nhà nước khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia bằng chính sách

thuế công và khai thác tài nguyên. Theo lệ thuế năm 1013, vua Lý Thái Tổ quy định cư

dân miền núi phải cống nạp những sản vật địa phương cho nhà nước theo định kì. Năm

1117, phò mã Dương Cảnh Thông dâng hươu trắng, còn thủ lĩnh châu Tư Nông (Phú

Bình - Thái Nguyên) Hà Vĩnh Lộc dâng ngựa hồng có cựa [56, tr. 52].

Dưới thời Lê - Trịnh đã tiến hành thu thuế vùng dân tộc thông qua các tù

trưởng địa phương. Để có cơ sở quản lý địa phương, chính quyền ban lệnh: các xã

tiến hành lập sổ “Tu tri bạ” ghi rõ địa giới hình thế núi sông, những nơi hiểm yếu của

địa phương gửi lên để biên vào bản đồ của trấn. Việc lập sổ “Tu tri bạ” là cơ sở để

Nhà nước đánh thuế vùng dân tộc thiểu số.

Năm 1732, chúa Trịnh quy định ngạch thuế ở các tuần có phần rõ ràng và cụ

thể hơn các triều đại trước, như: “tuần Tam Kỳ (Hàm Yên), xứ Tuyên Quang lệ thuế

đồng niên là 1.231 quan 5 tiền 43 đồng tiền quý” [56, tr. 106].

Nhà nước còn thông qua phụ đạo để thu thuế: năm 1689, Nguyễn Công Kiều

kiêm giữ chức trấn thủ, kê khai lệ thuế của các làng người Xá Tụ ở Tuyên Quang,

Hưng Hóa như sau: Châu Văn Bàn các làng người Xá nộp thóc và sơn sống, được

nộp thay bằng bạc nén tính cả chính tang và lễ giấy bút là 4 dật 3 đồng 6 phân; vải to

120 thước [56, tr. 106, 107]. Bảy chủng tộc người Man: Sơn Trang, Sơn Tử, Cao Lan,

Sơn Nam, Sơn Bán, Sơn Miên, Hán Văn ở Tuyên Quang (1722), phụ đạo thường sai

khiến họ, “Hàng năm thu thuế mỗi nóc nhà 5 lạng bạc”.

Sang đầu thế kỉ XIX, vua Gia Long thống nhất đất nước, thiết lập bộ máy cai

trị từ trung ương đến địa phương. Năm 1805 Gia Long cho lập sổ địa bạ nhằm tăng

cường quản lí chặt chẽ ruộng đất, đảm bảo nguồn thu tô thuế, thể hiện quyền sở hữu

tối cao về ruộng đất của nhà nước, đồng thời làm cơ sở để đánh thuế ruộng tư, chia cả

nước làm 4 khu vực để đánh thuế:

Khu vực 1 gồm: các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa

58

Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh.

Khu vực 2 gồm: các địa phương Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn Tây, Kinh Bắc,

Hải Dương, Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, phủ Phụng Thiên.

Khu vực 3 gồm: Yên Quảng, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên

Quang, Cao Bằng.

Khu vực 4 gồm: Bình Thuận, Gia Định, Định Tường, Long Xuyên, Kiên Giang.

Theo đó, mức thuế của Lục Yên thuộc khu vực III, quy định cụ thể như sau:

Hạng nhất nộp 50 bát/mẫu đối với ruộng đất công, 20 bát/mẫu đối với ruộng tư.

Hạng nhì nộp 42 bát/mẫu đối với ruộng đất công, 20 bát/mẫu đối với ruộng tư.

Hạng ba nộp 25 bát/mẫu đối với ruộng đất công, 10 bát/mẫu đối với ruộng tư.

Trên cơ sở đó, châu Lục Yên với 100% là ruộng tư nên mức thuế mà nhân dân

sẽ phải đóng là: Ruộng hạng 3: 10 bát/ mẫu.

Thời Minh Mệnh chia cả nước làm 3 khu vực:

Khu vực 1: Như thời Gia Long

Khu vực 2: Từ Nghệ An ra Bắc

Khu vực 3: như khu vực 4 thời Gia Long

Trên cơ sở phân chia khu vực của vua Minh Mệnh, tỉnh Tuyên Quang thuộc

khu vực 2. Mức thuế như sau:

Hạng nhất 80 thăng/ mẫu với ruộng công và 26 thăng/ mẫu đối với ruộng tư.

Hạng nhì 56 thăng/ mẫu với ruộng công và 20 thăng/ mẫu đối với ruộng tư.

Hạng ba 33 thăng/ mẫu đối với ruộng công và 13 thăng/mẫu đối với ruộng tư

[27, tr. 163].

Như vậy, mức thuế mà nhân dân Lục Yên đóng góp là: ruộng hạng 3: ruộng

công 33 thăng/mẫu, ruộng tư 13 thăng/mẫu. Ngoài thuế ruộng, nhân dân châu Lục

Yên phải đóng góp thêm nhiều loại thuế khác nữa theo quy định của nhà nước như thuế

cửa quan, thuế sản vật...Không chỉ tăng cường quản lý đất đai, quản lý nhân khẩu cũng là

một vấn đề quan trọng của triều đình nhằm thu thuế và tuyển lính. Theo Đồng Khánh địa

dư chí có ghi mức thuế của Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX như sau:

Dân số: Số đinh theo sổ cũ là 265 người.

Ruộng đất: Số ruộng đất theo sổ cũ là 523 mẫu .

Thuế: Thuế đinh điền cả năm nộp bằng tiền là 393 quan, nộp bằng thóc là 126

59

hộc [51, tr. 868].

Tiểu kết: Lục Yên là một châu nằm ở miền núi phía Bắc, kinh tế nông nghiệp

là chủ yếu, nhưng những diễn biến chính về ruộng đất đã phản ánh xu thế chung của

tình hình ruộng đất của cả nước dưới triều Nguyễn. Qua địa bạ Gia Long 4 (1805) và

Minh Mệnh 21 (1840) cho thấy, tình hình ruộng đất châu Lục Yên nửa đầu thế kỷ

XIX có gần 100% là diện tích ruộng tư. Quy mô sở hữu ruộng đất chưa lớn, chủ yếu

là sở hữu vừa và nhỏ. Phần lớn ruộng đất tập trung vào nhóm họ Hoàng vì đây là một

dòng họ thổ tù thế tập, ngoài ra còn có họ Lương. Trong địa bạ, chất lượng đất đai chỉ

có ruộng hạng ba, thu điền. Kinh tế nông nghiệp của Lục Yên còn lạc hậu chủ yếu là

trồng lúa với kỹ thuật canh tác thô sơ, lạc hậu dẫn đến năng suất cây trồng thấp, thủ

công nghiệp chủ yếu trong phạm vi gia đình, sản phẩm làm ra chủ yếu phục vụ trong

gia đình, thương nghiệp chỉ phát triển ở những nơi đông dân cư, trung tâm khu vực.

Để khẳng định quyền thống trị, đồng thời đảm bảo nguồn thu ngân sách, chính

quyền nhà Nguyễn, quản lý ngày một chặt chẽ nền kinh tế Lục Yên bằng chính sách

60

ruộng đất, quản lý nhân khẩu, hệ thống thuế khóa ngày một chặt chẽ, quy củ hơn.

Chƣơng 3

VĂN HÓA CHÂU LỤC YÊN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX

3.1. Làng bản và nhà cửa

Người Tày thường cư trú tập trung thành làng bản ven các chân đồi, thung

lũng, giữa các khe núi gần với nước, ruộng, nương rẫy. Mỗi chòm xóm có 5 - 7 nóc

nhà, cũng có nơi chỉ có một hai nóc nhà, nhà nọ đi đến nhà kia thường tắt qua đồi

“yên ngựa” hoặc từ đường chính rẽ theo các bờ ruộng đến nhà. Tên làng của người

Tày không phụ thuộc vào lịch sử mà thường lấy tên đồi, núi, khe suối, cánh đồng, cây

cổ thụ hoặc một vật thể dân gian nào đấy để đặt. Người Tày Việt Bắc đặt tên đơn vị

hành chính là bản, còn người Tày Tây Bắc thường gọi là làng. Do tập quán sống theo

ven các chân đồi có nương, có ruộng, có nước nên một làng một bản không thể nằm

gọn trong một khu vực nhất định mà thường có chiều dài vài cây số, thậm chí năm

bảy cây số dọc theo con suối làng.

Người Tày cư trú thành làng (thôn) theo các triền đồi, nơi ấy tiện lợi việc đi

lại, lấy nước, tăng gia sản xuất, làm nhà ở chăn nuôi. Tuy nhiên, khi làm nhà ở, làm

chuồng trâu, chuồng lợn, chuồng gà… người Tày đều xem hướng thể hiện qua câu

tục ngữ, thành ngữ: Nhà hướng Nam làm được ăn được; chuồng lợn hướng nhà,

chuồng gà hướng bếp… Tập quán hái lượm, chọc đất trồng hạt đến nay vẫn còn tồn

tại dù rằng nông thôn đã được nông nghiệp hóa, tri thức khoa học ở người dân Tày

cao hơn, song tập quán ấy vẫn lưu lại như một nét văn hóa cổ truyền ở nông thôn.

Tập quán xã hội này không phải ngẫu nhiên được lưu giữ mà do nhiều yếu tố khách

quan (thiên nhiên, phương tiện kỹ thuật), và chủ quan (trình độ canh tác). Để phù hợp

với tính khách quan chủ quan ấy con người đã có quá trình suy nghĩ chọn lọc những

gì do mình sáng tạo ra. Qua nhiều thế hệ những sáng tạo đó được khẳng định, làm

cho nó tồn tại và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt gia đình,

sinh hoạt cộng đồng của người Tày Tây Bắc.

Đường vào cổng của nhà người Tày Lục ở Yên bao giờ cũng là một lối nhỏ ở

phía trái mặt tiền nhà sàn. Do nhà ở không sát trục đường làng nên đoạn từ đường

làng đến cổng nhà thường là bờ ruộng được đắp rộng hơn, cao hơn; hoặc một đoạn

61

sườn đồi được san gạt. Đối với người Tày thì đường vào nhà rất có ý nghĩa, người

Tày Lục Yên có câu “pỉ noọng xỏ cườn tò tồng pỉ noọng táp bá” nghĩa là anh em

hàng xóm như anh em ruột thịt (anh rẽ vào nhà em, em đón; anh không rẽ vào nhà

em, em chờ) (dân ca Tày), cho nên nhiều gia đình trồng hàng cây có hoa rất đẹp dọc

lối vào, thường là hoa dâm bụt, trạng nguyên, đất rộng hơn thì trồng cây có quả: cam,

chanh, hồng, quýt.

Bản là đơn vị cư trú của người Tày, Nùng, họ thường ở chân núi, cạnh cánh

đồng hay ven sông, ven suối, có khi ở giữa cánh đồng. Mỗi bản trung bình có 10 đến

15 nhà, bản lớn hơn có tới 20 đến 30 nhà. Bản có địa vực cư trú riêng, có phạm vi đất

đai canh tác, đất rừng, khúc sông, khe suối, mỏ nước riêng thuộc quyền quản lý và sử

dụng của bản.

Chỗ ở lý tưởng của người Tày, Nùng là nơi tiện nước, gần ruộng, gần rừng

cây, cao ráo, khi mưa xuống nước có thể chảy xuống ruộng đem theo phù sa, mùn

làm cho đất thêm màu mỡ.

Tên bản của người Tày, Nùng cũng như người Dao ở Lục Yên thường đặt

theo tên đồng ruộng, khúc sông, đồi núi chẳng hạn như Bản Lẹng, Bản Nà Kéo, Bản

Tông Cại...của xã Lâm Thượng. Khác với làng bản của của người Tày, Nùng, làng

bản của người Dao thường làm trên các triền núi cao. Đồng bào ở lẻ tẻ mỗi quả đồi

vài hộ gia đình, có khi một hộ sống riêng trên một quả đồi.

Trước đây, người Dao ở Lục Yên sống du canh du cư là chủ yếu, nhưng hiện

nay làng của người Dao đã định cư.

Nhà của người Tày, Nùng thường dựng theo thế đất, đằng sau dựa vào núi, phía

trước nhìn ra cánh đồng, sông suối. Hướng nhà thường căn cứ vào tuổi của gia chủ.

Nhà không chỉ là nơi che nắng, che mưa, tránh giá rét khi mùa đông về, mà

nhà còn phải phù hợp với cảnh quan thiên nhiên, thể hiện tâm tư tình cảm, phản ánh

những giá trị mang đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc. Cấu trúc, bố cục của mỗi ngôi

nhà còn thể hiện phong tục, tập quán và tín ngưỡng dân gian của dân tộc đó.

Nhà của người Tày, Nùng ở Lục Yên có hai loại: Nhà sàn và nhà đất, nhưng

phổ biến nhất vẫn là nhà sàn và là loại hình nhà truyền thống.

Khác với nhà sàn của các dân tộc khác, nhà sàn của người Tày ở Lục Yên to,

62

cao, bề thế thường có ba gian hai chái hoặc năm gian hai chái. Nguyên liệu làm nhà

sàn là loại gỗ rừng (nghiến, đinh, chò chỉ...). Một nhà sàn 3 gian 2 chái thường có 4

cặp cột cái, 4 cặp cột con và hàng chục cột hiên, 4 mái được kết cấu vững chắc bằng

những cây đòn tay, rui, mè đều là cây tre già hoặc cây diễn ngâm kỹ phơi khô. Vật

liệu để buộc là lạt chẻ từ cây giang rừng hoặc dây mây ngâm cho tróc vỏ rồi cho lên

gác bếp sấy khói để chống mọt .

Để làm giát nhà, người ta chọn những cây tre hoặc cây diễn to thẳng và già, băm

dọc mấu tre rồi tách ra thành giát. Mái nhà của người Tày thường lợp bằng lá cọ dày

tới 50cm, nhà có nhiều cọ còn lợp dày hơn, có những mái nhà sau hơn 20 năm mới

phải lợp lại. Chiều cao gầm sàn đủ khoảng cách thoáng mát (độ cao từ mặt nền đất lên

sàn từ 1,8 đến 2m), mái nhà tuy thấp nhưng lòng nhà rộng, khoảng không gian phía

trước cửa sổ rộng nên vẫn đủ ánh sáng và không gây cảm giác lụp xụp.

Nếu người Kinh có Vua bếp, thì nhà người Tày có thần bếp (Pú phưa khay).

Khuôn bếp làm bằng gỗ trắc, lòng bếp đổ bằng đất đỏ và mịn. Đứng cùng trục với bếp là

dựa và gác, dưới gác là dựa dùng để những thứ chống mối mọt và rổ rá, bầu muối...

Không gian bên trong ngôi nhà chính của người Tày ở Lục Yên được chia

mang tính ước lệ, theo những chuẩn mực nhất định:

+ Hàng trên, gian bên trong cùng là buồng ngủ của gia chủ, ngăn giữa là nơi

đặt bàn thờ tổ tiên, các gian bên cạnh là buồng ngủ của nam giới và của khách nam,

gian đầu nhà chỗ cầu thang lên thường là nơi tiếp khách.

+ Hàng giữa, bên trên bố trí bàn thờ, ông chủ nhà gian bên dưới bàn thờ tổ tiên

là bếp củi, ngọn lửa được duy trì thường xuyên, dùng để sưởi về mùa đông và đun

nước uống, ít khi nấu nướng ở đây. Các nghi lễ tôn giáo khác liên quan đến lửa đều

diễn ra ở bếp này. Những đêm đông trời lạnh, quần tụ xung quanh bếp lửa hồng, cả

gia đình người Tày nhiều thế hệ cùng thảo luận việc đồng áng, trẻ em nghe người già

kể chuyện cổ tích, những lời dạy bảo..

+ Hàng bên dưới là buồng ngủ dành cho con gái, con dâu, khách là phụ nữ.

Ngoài ngôi nhà chính, nhà sàn người Tày còn có nhà bếp được ghép vào ngôi

nhà chính. Nhà bếp là nơi để nấu nướng, kho chứa lương thực …kích thước các gian

cửa nhà bếp tỷ lệ bằng 2/3 gian trong nhà chính và gầm sàn dùng để buộc trâu, ngựa,

63

chuồng gà.

Nhà của người Tày ở một số vùng khác chỉ có một cầu thang lên xuống nhưng

nhà ở của người Tày ở Lục Yên thì có hai cầu thang, một ở cửa trước và một ở cửa

sau. (Ngày nay ở Lục Yên, nhà sàn vẫn còn phổ biến và vẫn bảo tồn được nhiều yếu

tố văn hóa truyền thống của người Tày).

Người Tày, Nùng còn có nhà đất (Lườn đin). Kỹ thuật xây cất và cách bố trí

nhà đất giống như nhà sàn, tường đất, có nhà vách bằng phên nứa đan nong mốt hoặc

nong đôi, mái thường lợp lá cọ, cỏ gianh hoặc ngói. Nhà thường là 3 gian, 2 chái.

Gian giữa là phòng khách, gian bên cạnh là bếp đun nấu, bên còn lại là buồng ngủ

được ngăn làm phòng riêng cho nam, nữ. Những gia đình có điều kiện thì làm nhà

bếp riêng ở bên cạnh. Phía trước nhà có sàn phơi thóc, lúa ngô… Chuồng trại gia súc,

gia cầm ở xung quanh nhà. (Hiện nay dù là nhà sàn hay nhà đất thì đồng bào đều làm

chuồng trại và công trình phụ hợp vệ sinh ra xa khu nhà ở).

Người Kinh ở tập trung trong các thôn, làng. Nhà thường đan phên trát vách

đất trộn rơm, rạ, mái lợp tranh, nền nhà và sân bằng đất nện. Nhà khá giả thì nền nhà

và sân được lát gạch. Sân làm chỗ phơi thóc, có tường gạch xây bao quanh nhà. Nhà

chia làm ba gian. Nhà to có 5 gian. Hai phía đầu hồi thường làm thêm hai chái nhà.

Hai chái nhà thường dùng làm kho chứa thóc, lúa, đồ đạc và các dụng cụ khác. Có

nhà dùng làm buồng ở cho đàn bà, con gái. Các chái nhà đều có cửa mở bên trong ra

gian nhà chính. Trước nhà có hiên nhà để ngồi chơi hóng mát. Nhà bếp tách khỏi nhà

ở, có nhà làm nhà ngang, nơi để cối xay thóc, cối giã gạo, chạn bát, nồi niêu…

chuồng trâu, bò, chuồng lợn xa hơn và tách biệt, nhưng nhiều nhà đất hẹp, chuồng

trâu, bò, lợn nối liền với nhà bếp.

Đồng bào Dao dựng nhà gần các con suối và ở tập trung thành từng bản riêng

biệt hoặc xen cư với các dân tộc anh em khác. Người Dao ở Lục Yên có 3 loại hình

nhà ở: nhà đất, nhà sàn và nhà nửa sàn nửa đất.

Nhà đất là loại hình nhà ở đã có từ rất lâu đời và phổ biến trong cuộc sống của

người Dao, nhà đất thường có ba hoặc năm gian đứng (không có chái). Người ta cho

rằng: có ở nhà nền đất thì mới có chỗ để cúng Bàn vương. Bộ sườn của nhà nền đất

được cấu tạo khá đơn giản. Thông thường, mỗi vì kèo chỉ có hai hoặc ba cột, một quá

giang và một bộ kèo đơn. Với người Dao, nhà nền đất luôn mang tính chất bền vững,

64

thích hợp với điều kiện sản xuất tương đối ổn định ở miền núi rừng.

Nhà sàn thường là của người Dao Quần Trắng dài từ ba đến năm gian, cột tròn

to, rộng ngang (khác với người Dao Đỏ ở nhà đất). Hướng nhà được chọn tùy theo

từng họ ví dụ họ Triệu - hướng Nam, họ Tướng - hướng Tây Bắc, họ Lý hướng Đông

Nam. Cách bố trí mặt bằng sinh hoạt, nhà năm gian của người Dao được chia làm hai

phần, ngăn bởi hai đoạn đố ngắn theo chiều ngang nhà. Phần thứ nhất, gian thứ nhất

(gian ngoài cùng bên phải) đặt giường của con trai, gian thứ hai là giường khách, gian

thứ ba (gian giữa nhà) đặt bàn thờ tổ tiên và kê bàn ăn, gian bên trong cùng là buồng

ngủ của gia chủ. Phần thứ hai gồm hai gian về bên trái nhà chủ yếu dành cho nữ giới.

Nhà thường có hai bếp, một bếp nấu ăn và một bếp lò để nấu cám lợn. Vào những

ngày giá rét người ta còn đặt thêm một bếp nữa để sưởi ấm và cũng là nơi để tiếp

khách nên gọi là bếp khách.

Nhà nửa sàn - nửa đất tập trung tại các làng người Dao sống bằng nương rẫy du

canh, cư trú trên đất dốc, vì thế những ngôi nhà này chỉ là phương tiện cư trú tạm thời.

Để làm nhà nửa sàn - nửa đất, người ta không phải bỏ ra nhiều công sức để san

nền. Có thể nói, nhà nửa sàn - nửa đất không chỉ là một bước phát triển của loại hình

nhà nền đất mà là một biến dạng của nhà nền đất để thích ứng với điều kiện sản xuất

du canh du cư trên nền đất dốc.

Mặc dù có ba loại hình nhà ở khác nhau nhưng vẫn có thể nhận ra những nét

chung trong kiến trúc nhà ở người Dao. Đó là vị trí và cách bố trí bên trong của một

"gian đặc biệt" trong ngôi nhà. Gian này thường có vách chắn theo chiều dọc của nhà

và có một đoạn vách ngăn giữa nó với gian bên, ở góc nhỏ này có bàn thờ, sau đoạn

vách ngăn dọc là một buồng nhỏ thường để rượu hay thịt ướp chua. Cách bố trí của

gian nhà này là đặc trưng nhà ở của người Dao.

3.2. Dòng họ và gia đình

Trong một làng một bản, người Tày ở Lục Yên thường tôn vinh dòng họ lớn

(còn gọi là họ gốc). Họ lớn, có thể số lượng gia đình trong làng không nhiều như một

số họ khác nhưng lại là dòng họ có công khai phá đất làng.

Ở Lục Yên người Tày có nhiều họ: Hoàng, Lương, Ma, Bế, Nguyễn...Trong

người Tày không có sự phân biệt, sự đố kỵ giữa các dòng họ, tuy nhiên trong mỗi họ,

người trong họ tộc lại cố gắng làm cho họ mình vẻ vang danh giá như các họ khác

65

hoặc hơn họ khác.

Anh em trong cùng một họ tộc dù có xa bao nhiêu đời, phân tán đi bao nhiêu

nơi vẫn tìm cách đến với nhau và nhận lại nhau kể cả việc cùng họ nhưng người kia

đã là dân tộc khác. Người Tày ở Lục Yên có câu tục ngữ “Lảc mạy tẩn, lảc gần rì”,

nghĩa là người cùng họ dù truyền nối đã xa, vẫn có chung một gốc, một tổ. Người già

nhất trong họ (chi trên cùng) có quyền quyết định mọi việc trong dòng họ. Đã là anh

em trong họ dù có bảy tám đời, mười đời thì cũng không được phép kết hôn (người ta

cho rằng làm như thế là có tội với người xưa). Để giữ niêm luật dòng họ, đồng bào

Tày ở Lục Yên rất coi trọng người đàn ông, người có vai trò duy trì dòng họ, họ nào

con đàn cháu đống (cháu bên nội, mang họ nội) họ ấy càng được tiếng là ăn ở có

phúc có đức, bổn phận của các bậc cha mẹ là phải lo của cải, đất vườn, nhà ở, ruộng

nương, trâu bò... chia đều cho các con trai có đủ cơ ngơi, vợ con yên ổn thì bố mẹ

mới mãn nguyện. Các con gái theo quan niệm của họ thì đã có người khác lo. Tuy

nhiên, cũng có cô gái vì lí do nào đó không lấy được chồng, khi vào độ tuổi 30-35, họ

hàng cho là cao số, bố mẹ vẫn cho ra ở riêng một mình với số tài sản ít ỏi như mảnh

đất đủ làm nhà sàn ba gian nhỏ, nồi niêu xoong chảo...

Do quan niệm con trai mới là người nối tiếp dòng họ nên bằng mọi cách các cặp

vợ chồng phải sinh được con trai. Trường hợp đã cố gắng mà vẫn sinh một bề gái thì

cặp vợ chồng đó phải nhận một người cháu là con trai về nuôi. Người cháu đó có thể là

con của anh trai hoặc em trai chứ không lấy người họ khác, gọi là “lấy cháu làm con”,

nhận con thừa tự để sau này người con đó kế thừa gia sản và thờ cúng tổ tiên. Lễ nhận

“cháu làm con” được tổ chức trọng thể, có trưởng họ và các bậc chi trên cùng chính

quyền làng bản chứng kiến. Từ đây người cháu mới chính thức được gọi là con trai

theo nghĩa con đẻ chứ không phải là con nuôi hay cháu nuôi.

Trong gia đình người Tày ở Lục Yên, quan hệ thứ bậc rất rõ ràng. Tên thứ bậc

của sáu thế hệ trong một gia đình là: cụ ông - cụ bà; ông - bà; bố - mẹ; con; cháu;

chắt. Chủ gia đình bao giờ cũng là người đàn ông. Khi cặp vợ chồng có con, tên

người con cả (trai hoặc gái) thường được ghép với tên bố hay mẹ để khi giao tiếp gọi

kèm tên bố hoặc mẹ với tên con [21, tr.45, 46].

N

66

Những người cùng dòng họ không được kết hôn với nhau. Đồng bào nơi đây không

có nhà thờ họ như người Kinh nhưng những người cùng một dòng họ luôn có quan hệ

mật thiết với nhau, thường cư trú cùng một thôn bản. Trong mỗi dòng họ có người

đứng đầu được gọi là trưởng họ. Trưởng họ là người có uy tín, tiếng nói nhất định mà

mọi người luôn lắng nghe. Trong họ, mọi người được phân theo thứ bậc tuổi tá

trong cùng dòng họ.

.

Kết quả điền dã thực tế của tác giả luận văn cho thấy, người Dao ở Lục Yên

nói riêng và dân tộc Dao nói chung đều phải trải qua lễ cấp sắc đối với con trai từ 15

đến 16 tuổi. Cấp sắc được thực hiện theo thứ bậc trong gia đình, bố mẹ cấp sắc thì

con mới được cấp sắc, anh cấp sắc rồi thì mới đến lượt em, cấp sắc cho cả những

người tàn tật và mất trí. Đồng bào cho rằng, chỉ những người qua cấp sắc mới được

coi là người lớn, người đàn ông nào chưa được cấp sắc thì bị coi như trẻ con. Người

được cấp sắc mới có đầy đủ tư cách hoàn thành những việc mà những thành viên bình

thường trong xã hội làm như có thể gieo nương đầu vụ, đốt lửa và mang đồ vào nhà

mới, khấn tổ tiên...[11, tr.214, 215].

Gia đình của người Nùng ở Lục Yên cũng giống như gia đình của người Dao

con cái cùng một mẹ sinh ra, ai nhìn thấy mặt trời trước là anh, hoặc chị; ai nhiều tuổi

thì là anh hoặc chị; con chú, con bác cũng tính theo tuổi tác của bản thân từng người

để gọi là anh hoặc chị, em, chứ không tính theo vai vế của bố như người Kinh và

67

người Tày. Gia đình người Nùng là gia đình phụ quyền.

3.3. Ẩm thực

Văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam còn được thể hiện

khá đậm nét qua các bữa ăn truyền thống, nó phản ánh diện mạo và đặc điểm kinh tế

của mỗi dân tộc. Xuất phát từ hoạt động kinh tế mang tính nông nghiệp trồng trọt đóng

vai trò chủ đạo và cây lúa là cây trồng chính nên trong bữa ăn của người Tày - Nùng ở

Lục Yên thì thức ăn chính là cơm, lương thực gồm: gạo nếp, gạo tẻ; ngô, khoai, sắn.

Trước kia ở một số vùng, đồng bào ăn cơm nếp là chính, khi giáp hạt cũng có thể ăn

ngô, khoai, sắn. Trong đó, ngô là món ăn phụ quan trọng nhất.

Người Tày ăn ngày hai bữa chính và có thể có bữa phụ vào buổi sáng sớm.

Thực phẩm dùng trong bữa ăn của người Tày thường là các loại rau trồng, rau hái ở

tự nhiên như: rau dớn, mộc nhĩ, nấm hương; các loại thịt gia súc, gia cầm do chăn

nuôi, thịt thú rừng, chim săn bẫy được; các loại cá, tôm nuôi hoặc đánh bắt được.

Món ăn thường là xào, luộc, nấu canh, nướng trên than hồng, vùi trong tro nóng.

Gia vị: đồng bào thiên về dùng gừng, nghệ, ớt, mẻ… Đồng bào thường nấu

cơm nhiều hơn nhu cầu ăn của gia đình, với quan niệm là phải để thừa thì mới dư dật,

ăn nên làm ra.

Tập quán dự trữ và để dành thực phẩm được truyền từ đời này sang đời khác,

có nhiều cách giữ thịt để lâu hàng tháng, có khi hàng năm

Món thịt lạp: thịt lọc hết xương pha thành khổ dày khoảng 3 đầu ngón tay dài

khoảng 20 – 30 cm ướp thịt với muối, riềng giã nhỏ, một ít diêm sinh, một ít rượu

trộn đều cho vào chum đậy nắp, chừng 3 đến 4 ngày cho thịt ngấm đều gia vị và

muối. Lấy thịt ra xâu từng miếng treo lên gác bếp, khi ăn cho vào nước ấm rửa sạch

rồi thái để xào nấu.

Món thịt thính: thái thịt thành miếng vừa ăn cho muối, gia vị xào chín bắc ra

để nguội trộn với bột thính gạo nếp, đậu tương rang cho vào chum đậy lại khi ăn cho

bát thịt thính hấp trong nồi cơm cho nóng.

Món thịt mắm cơm đỏ: Người Tày ở Lục Yên có rất nhiều cách chế các món

ăn từ mắm thịt lợn nhưng ngon nhất vẫn là mắm thịt lợn được xào khan có mùi béo

ngậy của thịt, màu đỏ tím của rượu nếp và lá cơm đỏ ăn với bát cơm trắng thơm lừng

68

của gạo mới... hương vị vừa lạ, vừa độc đáo của núi rừng. Người Tày ở Lục Yên khi

mổ một con lợn, dù to hay bé, phần thịt ba chỉ (thịt bụng) của con lợn thường được

dành riêng để làm thịt mắm cơm đỏ.

Trước khi làm thịt mắm, người Tày ở Lục Yên đã chọn loại gạo nếp thơm

ngon nhất để dành, đến những ngày gần giáp Tết nấu thành cơm nếp rồi ủ bằng men

lá được làm từ các loại lá cây rừng. Khi nếp cái đã lên men thơm lừng có thể ăn được

là lúc có thể dùng làm nguyên liệu. Nguyên liệu làm thịt mắm cơm đỏ không thể

thiếu củ riềng thái chỉ và một ít rau răm. Nhưng quan trọng nhất là cây cơm đỏ.

Lục Yên có hai loại cây cơm đỏ và cơm đen được trồng trong vườn nhà. Vào

ngày Tết dùng nước luộc của cây cơm đen và cơm đỏ để đồ xôi sẽ cho 2 loại xôi đỏ

và đen khác nhau đem trộn lẫn thành xôi hai màu đen đỏ rất đẹp mắt, thơm ngon.

Để làm thịt mắm cơm đỏ, lấy cây cơm đỏ rửa sạch phơi qua trên nắng cho ráo

nước rồi thái nhỏ. Khi lợn đã mổ ra, tất cả thịt ba chỉ của con lợn được làm sạch, thái

nhỏ bằng 2 ngón tay ướp muối. Thịt được đổ vào chum trộn đều với củ riềng thái chỉ,

một ít rau răm, cây cơm đỏ và rượu nếp cái thơm rồi buộc thật kín bằng ni lông.

Chừng 5 đến 6 ngày sau, mở nắp chum ra có mùi thơm nức, là lúc thịt mắm đã ăn

được. Lúc này những miếng thịt mắm đã săn lại có màu đỏ tươi, lớt phớt những sợi

riềng thái nhỏ.

Món hém cá (pja bẳm hay nặm bẳm): đây là món ăn đặc sản mang đậm bản

sắc của người Tày. Khi chưa có nước mắm mang từ miền xuôi mang lên, đồng bào

làm hém cá dự trữ thực phẩm, đồng thời là thức chấm khi ăn xôi, ăn các món luộc.

Để làm hém cá cần có: cá các loại, giềng, muối, men rượu, gừng, lá cơm xôi đỏ, một

ít diêm tiêu. Cách làm: cá mổ sạch cho vào trộn đều ướp với các gia vị như trên, sau

đó cho vào chum trộn đều với men rượu, thường tỉ lệ 1 cá, 1 men rượu, bịt kín miệng

chum đậy nắp hoặc phơi chum ra chỗ nắng. Hém cá ủ khoảng 15 – 20 ngày có thể ăn

được. Khi ăn được hém cá có mùi thơm hấp dẫn, thịt cá không phân rã mà cứng có

màu đỏ ăn rất ngọt và thơm, cũng có khi đem chưng lên trước khi ăn.

Ngoài các món ăn trên, người Tày ở Lục Yên còn biết làm nhiều loại bánh

như: bánh gừng, bánh gù của người Dao, hay bánh chuối, bánh đẳng của người Tày

69

(nhất là bánh đẳng của người Tày ở xã Minh Xuân rất nổi tiếng thơm và ngon).

Đồ uống: đồng bào thường uống các loại nước trà, là vối, chè dây, thân lá lúc

lắc… là những loại lá dễ kiếm, giải khát tốt. Người Tày thường có tập quán uống trà

từ lâu, mùa đông người ta hay vần ấm trà bên bếp lửa hồng, nhấm nháp tách trà thơm

ngon, nóng già…

Trong sinh hoạt hàng ngày, ngoài uống nước thông thường, người Tày còn

uống rượu (kin lẩu) trong bữa ăn. Rượu là đồ uống không thể thiếu được trong sinh

hoạt văn hóa của cộng đồng người Tày nói chung và người Tày ở Lục Yên nói riêng.

Rượu được nấu từ gạo, ngô, trước kia nấu cả bằng sắn, đồng bào tự làm men bằng lá,

gọi là men lá, sau này người ta ít dùng men lá.

Đối với người Kinh truyền thống từ xưa tới nay là dùng cơm tẻ và các loại ngũ

cốc: khoai, sắn, đậu, ngô. Gạo nếp được dùng nấu xôi, chè ngày Tết, ngày giỗ, gạo

nếp còn dùng nấu rượu và làm bánh. Người Kinh rất thích ăn những món mắm làm

bằng tôm, tép, cá. Trong bữa ăn thường có món canh hoặc món luộc để có nước chan

cơm. Người Kinh có thói quen ăn trầu, cả đàn ông và đàn bà, chủ yếu là đàn bà. Ăn

trầu đã trở thành một nét văn hóa Việt cổ và thành một phong tục có tính nghi thức

bắt buộc trong việc tế, lễ, ăn hỏi, lễ cưới, hội hè… những ngày đó phải nhất thiết có

trầu cau. Đàn ông thường hút thuốc lào, một số ít hút thuốc lá. Các thức uống quen

thuộc hàng ngày là nước chè. Rượu trắng nấu từ gạo, khoai, sắn là thức uống có men

say chỉ dùng trong các ngày lễ tết, hội hè, cưới hỏi, ma chay.

Văn hoá ẩm thực của người Dao nói chung và ở Lục Yên nói riêng đơn giản

hơn so với dân tộc người Tày hay dân tộc Kinh, thức ăn chính của người Dao là cơm tẻ

và gạo nương, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc

nhĩ và các loại thảo mộc khác. Các loại gia súc gia cầm được nuôi chủ yếu để phục vụ

các nhu cầu tín ngưỡng dân gian của đồng bào. Thịt lợn là loại thực phẩm không thể

thiếu trong tết nhảy, lễ cấp sắc, lễ chay, lễ cưới và tang ma… mỗi nghi lễ của người

Dao thường mổ từ 5 đến 7 con lợn. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày

thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam.

Cũng như nhiều nhóm Dao ở nơi khác, người Dao ở Lục Yên từ lâu đời đã có

tập quán uống rượu, trong nhà hầu như ai cũng biết uống rượu, kể cả thanh niên, phụ

70

nữ, thậm chí cả trẻ em. Tuy nhiên chỉ có đàn ông hay uống rượu trong ngày thường

nhất là khi có khách đến chơi nhà. Còn đàn bà chỉ uống khi trong nhà có việc, hoặc

uống rượu bổ. Họ cho rằng rượu là đồ uống trong bữa ăn cũng là đồ uống để mời

khách quý. Dù khách lạ hay quen khi đến nhà người Dao ở đây vẫn giữ thói quen

đem rượu ra mời. Họ chủ yếu uống rượu ngô, nguyên liệu là ngô hạt, men. Ngoài ra

còn có rượu ngọt (chế biến từ gạo nếp), rượu sắn. Tuy nhiên, các loại rượu đều là đồ

uống có men nên không thuộc loại đồ uống thường xuyên và không phải ai cũng uống

được. Do đó, nước uống hàng ngày là nước lã đun với một số loại rễ, lá cây rừng vừa

mát vừa bổ như cam thảo, vối, chè… Tuy vậy, khi làm việc trên nương cũng có người

uống nước lã. Loại nước này chủ yếu được dẫn bằng ống tre từ trên đỉnh núi nên sạch

và có vị ngọt [92].

Đồng bào các dân tộc ở Lục Yên cũng giống như các dân tộc miền núi ở các

địa phương khác đều biết dùng những sản vật của tự nhiên để chế ra các loại đồ uống

hợp với mùa, hợp với điều kiện sinh hoạt của gia đình, của cộng đồng.

3.4. Trang phục

Trang phục của đồng bào dân tộc ở Lục Yên rất phong phú, đa dạng, thể hiện

truyền thống, sở thích và trình độ thẩm mỹ. Trang phục còn là bản sắc riêng của từng

dân tộc, là cơ sở để phân biệt các nhóm dân tộc với nhau.

Trang phục của người Tày, Nùng ở Lục Yên giống nhau ở chỗ đều dùng vải

chàm. Phụ nữ vấn khăn mặc váy năm thân, cài sang hai bên, thắt lưng, mặc quần hoặc

váy. Điểm khác nhau ở chỗ người Tày mặc áo dài và tay hẹp hơn, người Nùng mặc áo

ngắn, cánh tay rộng hơn (cũng có một bộ phận nữ Nùng ở Lục Yên mặc áo chàm dài quá

đầu gối). Phụ nữ đeo thêm trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay.

Trang phục truyền thống của nam giới Tày là đầu quấn khăn hoặc chít khăn

kiểu chữ nhân, mặc áo dài quá đầu gối, ống tay hẹp. Trang phục của người đàn ông

Nùng cơ bản giống người phụ nữ, đó là áo chàm ngắn, ống tay rộng, đội nón lá. Đặc

điểm của quần nam, quần nữ của dân tộc Nùng đều là quần đũng rộng, có phân biệt

với nhau là cạp quần nữ có màu xanh.

Cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội ngày nay y phục của nữ giới đã có

nhiều thay đổi, đồng bào đã dùng nhiều loại vải để may mặc, chị em có khuynh

71

hướng mặc áo ngắn, quần dài theo kiểu phụ nữ Kinh. Sắc thái quần áo dân tộc nhiều

khi chỉ còn dùng trong các dịp có nghi lễ cưới xin, lễ hội truyền thống mà thôi.

Người Kinh luôn giữ gìn trang phục của dân tộc mình, quần áo không thêu

thùa và ít cách điệu, nam cũng như nữ hễ ra đường là ăn mặc kín đáo. Đàn ông nông

thôn đi chân đất, mặc áo cánh nhuộm nâu, quần màu nâu chân què. Những ngày lễ

hội long trọng, hoặc việc đình đám, ngày tết, giỗ chạp trong họ, người có của thì đi

đôi guốc mộc bằng gỗ hoặc đẽo bằng gộc tre, mặc chiếc áo cách trắng, quần trắng.

Người giàu thì mặc quần trắng, áo lụa màu mỡ gà chân đi guốc mộc, có người mặc áo

the đen dài ra ngoài áo cánh trắng, đầu đội khăn xếp.

Phụ nữ thường mặc áo cánh xẻ tà, áo cánh màu nâu hoặc nâu non, mặc yếm

che ngực, yếm là một mảnh vải màu nâu đỏ, nâu hoặc nâu nhạt, có khi màu trắng, đeo

lên trước ngực. Yếm không che hai bên lườn và lưng, có dây đeo lên cổ buộc ra sau

gáy và hai dây ở hai bên yếm (chỗ giữa thân yếm) buộc ra sau lưng. Đầu chít khăn

mỏ quạ đen hoặc nâu. Họ mặc váy nâu hoặc váy đen, chân đi đất. Vào những ngày

hội làng, ngày Tết… đàn bà nhất là các cô gái thường mặc áo cánh trắng, áo cánh nâu

gụ, nâu thắm hoặc màu hoa đào, lưng thắt bao xanh hoặc đỏ, nâu… chiếc xà tích bạc

bên thắt lưng. Phụ nữ đội nón quai thao, nón vành rộng, nhưng thường là đeo nón qua

vai hoặc cầm tay để tránh làm hỏng chiếc khăn mỏ quạ trên đầu. Phần lớn các cô gái

mặc áo dài tứ thân nâu có 2 hoặc 4 màu, chân đi guốc hoặc dép da trâu xỏ ngón.

Trang phục của đồng bào Dao ở Lục Yên rất phong phú có nhiều nét đặc trưng

riêng biệt của dân tộc mình.

Đối với người Dao, trang phục của người đàn ông ở các nhóm đều tương tự

giống nhau. Hiện nay phổ biến cắt tóc ngắn như người Kinh nhưng ở nửa đầu thế kỷ

XIX để tóc dài búi sau gáy hoặc để một chỏm trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn.

Dù để tóc dài hay ngắn đàn ông dao ít khi để đầu trần mà vấn trên đầu nhiều vòng

khăn vải chàm dài hai sải tay theo kiểu đầu rìu. Trang phục đàn ông Dao có hai loại

áo: áo ngắn mặc hàng ngày may xẻ bụng cài khuy, ống tay hẹp, áo có hai túi ở hai vạt

trước. Loại áo dài may kiểu năm thân cài khuy cổ, vai, nách, sườn phải nhưng chỉ để

mặc khi đi chợ, đi chơi xa, đi hội, đi đám. Quần của đàn ông Dao để trắng hoặc

72

nhuộm chàm, may theo kiểu chân què, cạp lá tọa, thắt lưng dây rút bên ngoài.

Trang phục phụ nữ người Dao ở Lục Yên theo từng nhóm. Cụ thể, phụ nữ Dao

Đỏ có đặc điểm dễ nhận thấy là dùng rất nhiều màu đỏ, nhiều tua và núm bông đỏ.

Trong đám cưới hay trong lễ cúng Bàn Vương, phụ nữ Dao Đỏ đội mũ rất to có

khung gỗ hay nan tre nứa bẻ thành hai góc nhọn nhô ra phía trước mặt. Bên ngoài

phủ vải đỏ hay khăn thêu. Phụ nữ Dao Quần Chẹt mặc quần ống hẹp bó sát vào chân.

Trước đây họ còn có tục chải tóc bằng sáp ong nên gọi là Dao Sơn Đầu. Trang phục

nữ Dao Quần Trắng có đặc điểm nổi bật là yếm rất to che kín cả ngực và bụng. Tên

gọi Dao Quần Trắng bắt nguồn từ phong tục trong lễ cưới phải mặc quần trắng.

Người Dao Làn Tuyển mặc áo dài, đội mũ nhỏ như cái đấu gỗ.

Nét chung trong văn hóa trang phục tộc người ở Lục Yên là đều có nguồn gốc

lâu đời và được làm ra từ chính bàn tay của họ. Trang phục của mỗi tộc người đạt

đến trình độ khá tinh xảo từ sản xuất nguyên liệu, dệt, nhuộm, in, thêu may do kỹ

năng này được truyền dạy trực tiếp từ đời này đến đời khác.

Đối với các tộc người, trang phục không chỉ đơn giản là để mặc mà còn thể

hiện mỹ thuật, tín ngưỡng và tâm linh. Cụ thể khi tìm hiểu trang phục của người Dao

tại sao lại nhiều màu sắc như vậy? Tương truyền, khởi thủy của họ là dân của nước do

Bàn Vương cai trị nhưng luôn bị nước của Cao Vương áp bức dồn đuổi. Bàn Vương đã

cố sức chống lại nhưng thất bại. Giữa lúc đó, tướng quân Bàn Hồ hình dạng xấu xí

nhưng có tài thao lược đã tâu với Cao Vương xin được hóa thành con long khuyển

mình rồng ngũ sắc (con chó thân rồng có 5 màu) để tiếp cận thành lũy của Cao Vương.

Cao Vương đi tuần du thấy con chó rất đẹp mang về nuôi trong cung. Lợi dụng lúc Cao

Vương say rượu, Bàn Hồ hiện nguyên hình và giết chết Cao Vương. Từ đó trở đi,

người Dao được sống hòa bình và Bàn Vương đã gả công chúa cho Bàn Hồ, ban cho

một vùng đất đai rộng lớn, tặng nhiều vải quý và dặn dò người dân may quần áo có

màu ngũ sắc để đời đời ghi nhớ công lao của Bàn Hồ tướng quân.

Nhìn chung việc thiết kế trang phục và cách ăn mặc của đồng bào ở Lục Yên

khá độc đáo, công phu, nhất là trang phục của phụ nữ Dao. Để hoàn thành một bộ lễ

phục có khi mất cả năm trời thậm chí tới hai năm. Ngày nay, đồng bào đã tiếp nhận

kiểu ăn mặc trang phục Tây Âu, nhưng có nhiều người cả ngày thường lẫn lễ hội vẫn

73

thích mặc trang phục của dân tộc mình nhất là phụ nữ.

3.5. Tục lệ

Nửa đầu thế kỉ XIX ở Lục Yên, các tục lệ là sợi dây ràng buộc mối quan hệ xã

hội của con người, chi phối đời sống của mỗi cá nhân, của bản làng. Tầm ảnh hưởng

của tục lệ rất lớn, tồn tại từ đời này sang đời khác, nhiều khi những quy định của

chính quyền phong kiến cũng không thay đổi được. Các tục lệ xã hội như: cưới xin,

sinh đẻ, ma chay, làm nhà mới... được các dân tộc rất coi trọng và hình thành những

quy tắc bất di bất dịch.

- Tục lệ cưới xin

Theo tục lệ của người Tày ở Lục Yên, hôn nhân của con thường do cha mẹ

sắp đặt. Hôn nhân một vợ một chồng được truyền từ đời nay sang đời khác. Họ

tuyệt đối cấm những người trong cùng một dòng họ, cùng chung một ông tổ, có cùng

một huyết thống tính theo dòng cha, kết hôn với nhau. Nếu cùng họ kết hôn với nhau

phải làm lễ tạ tội tổ tiên. Tục ngữ Tày có câu: Lục pả lục nả au căn đẩy đin/ Lục lùng

lục áo au căn thai khả (Con dì con già lấy nhau làm nên ăn/ Con chú con bác lấy

nhau phải chết chém)[88].

Hôn nhân của người Tày ở Lục Yên không quá lệ thuộc vào các yếu tố chính

trị, kinh tế, xã hội của hai gia đình thông gia, mà lại tuyệt đối phụ thuộc vào số mệnh

của trai và gái trong các cặp hôn nhân. Trai gái Tày được phép tìm hiểu nhau trước

hôn nhân thông qua những đêm hát cọi, những dịp lễ hội lồng Tồng. Nhưng quyền

quyết định thuộc về bố mẹ, trên cơ sở xem bản mệnh của đôi trai gái có hợp nhau

không. Nếu không hợp tuổi, mệnh và số,… rất hiếm khi trai gái Tày ở đây được cha

mẹ cho phép kết hôn. Vì thế, xin số cô dâu tương lai, và xem số, so tuổi cho dâu rể

tương lai, là nghi thức đầu tiên, và quan trọng trong các nghi thức hôn nhân Tày ở

Lục Yên.

Theo phong tục lâu đời của người Tày ở Lục Yên, họ thích chọn vợ, chồng

với các tiêu chuẩn như sau: vợ, phải là người con gái chịu thương, chịu khó, chăm chỉ

làm ăn, nói năng nhẹ nhàng, giỏi cấy hái, trồng bông dệt vải, may vá, thêu thùa, đan

lát, thành thạo việc nội trợ, đối xử lễ phép với cha mẹ anh em, họ hàng, làng xóm;

nếu là dâu trưởng, phải có khả năng lo toan lễ tết, đám cưới, đám ma… Chiêm slao

74

chiêm bươn Lạp (Tìm vợ phải đi vào tháng chạp); chồng, phải là người con trai biết

làm mọi việc, khỏe mạnh, chịu khó, biết cày bừa, làm nhà, giỏi săn bắn, hiền lành,

thật thà và được mọi người quý trọng... Đối với người Tày ở Lục Yên, chồng là trụ

cột, là người lo toan cuộc sống cho vợ và các con, mọi chuyện trong gia đình đều do

chồng quyết định .

Việc chuẩn bị cưới xin

Đối với nhà trai, chuẩn bị đáp ứng thách cưới của nhà gái, bao gồm tiền thách

cưới (đây là số tiền để nhà gái sắm sửa tư trang cá nhân cho cô dâu tương lai mang

theo khi về nhà chồng, tùy theo yêu cầu của nhà gái). Lễ dẫn cưới gồm một con lợn

nặng khoảng 70kg đến 80kg để nhà gái làm cỗ thết họ hàng, gà sống thiến, gạo nếp

để nhà gái làm xôi cúng gia tiên và thết đãi họ hàng…

Đối với nhà gái, chuẩn bị cho cô dâu trước khi đi lấy chồng năm dây dao (thai

pịa), dùng để gói buộc đồ đạc khi về nhà chồng, dây buộc đeo bao dao, dây quai nón

cho tất cả những người nhà gái và nhà trai tham gia đưa đón dâu, một đôi vỏ chăn, một

đôi vỏ gối, đồ trang sức cho cô dâu (gồm vòng tay, vòng cổ và một bộ dây xà tích bằng

bạc,…). Những gia đình khá giả, chuẩn bị đồ trang sức cho cô dâu bằng vàng .

Các nghi thức trước đám cưới

Đánh tiếng, xin lá số (pay lạm pác): Đây là nghi thức đầu tiên trong các nghi

thức cưới xin của người Tày ở Lục Yên. Sau khi đã chọn được cô dâu tương lai, gia

đình nhà trai nhờ mối (pú pà) đánh tiếng ướm hỏi tới gia đình ngà gái. Mối phải là

đàn ông khỏe mạnh, phúc đức, nói năng lưu loát, lịch thiệp, mẫu mực, có uy tín trong

cộng đồng,… Sau khi nhận được lời ướm hỏi, nếu đồng ý, nhà gái cũng dùng lời

lẽ bóng gió đánh tiếng tới nhà trai. Sau đó, hai gia đình sẽ cử người gặp gỡ (pay lạm

pác), bàn bạc thống nhất việc tiến hành những nghi thức tiếp theo. Trong buổi gặp gỡ

này, mối nhà trai chuyển lời đề nghị việc thực hiện các nghi thức tiếp theo và xin lá

số của cô dâu tương lai từ nhà gái. Sau đó, nhà trai sẽ nhờ thày so tuổi cho dâu và rể

tương lai. Nếu dâu rể hợp tuổi, nhà trai sẽ chủ động dẫn lễ báo cáo việc so tuổi với

nhà gái. Nếu không, nhà trai sẽ tự chấm dứt, hủy các nghi thức tiếp theo.

Dạm hỏi (Pay lạm pác): Theo tục lệ của của người Tày ở Lục Yên, dâu rể hợp

tuổi, nhà trai sẽ mang sang nhà gái một lễ, gồm một gói trầu (khoảng 50 lá) và một

75

gói cau (khoảng 50 quả), gói bằng giấy màu đỏ. Màu sắc những chiếc lạt buộc hai gói

trầu và cau dẫn sang nhà gái (đỏ, hoặc xanh), sẽ phản ánh hoàn cảnh hiện tại của nhà

trai. Nếu nhà trai không có tang thì buộc lạt màu đỏ, đang trong thời kỳ có

tang buộc lạt màu xanh. Ông mối sẽ đại diện nhà trai trong nghi thức ăn hỏi. Nếu

chấp thuận, nhà gái sẽ chia đôi trầu cau, gửi mối mang về nhà trai một nửa, nửa giữ

lại họ sẽ dùng làm vật báo hỷ và xin phép họ hàng cho con gái đi lấy chồng.

Sau một thời gian xin ý kiến họ hàng, nếu thuận, nhà gái nhờ người chuyển lời

cho nhà trai biết. Nhận được tin lành, nhà trai nhờ mối mang trầu cau sang thưa

chuyện với nhà gái lần thứ hai. Trong nghi thức trầu cau lần thứ hai, có sự chứng

kiến của cả ông bà nội, ông bà ngoại của cô dâu tương lai. Sau thủ tục trầu cau lần

thứ hai, nhà gái làm cỗ mời mối và đại diện họ nhà trai. Dịp này, mối thay mặt họ nhà

trai, xin nhà gái ngày thực hiện nghi thức ăn hỏi chính thức.

Ăn hỏi (kin cáy): Đối với của người Tày ở Lục Yên, tham gia ăn hỏi, ngoài

mối còn có đại diện nhà trai, chú rể và những người mang vác đồ dẫn lễ (thanh niên

chưa vợ). Lễ vật ăn hỏi gồm: 10 - 12 con gà trống thiến, 1 con lợn đực đen 80 - 100kg

(không lấy lợn cái), 2 gói trầu mỗi gói 100 lá, 1 buồng cau, 20 lít rượu, 40kg gạo

nếp (4). Khi nhà trai tới, nhà gái cử đại diện ra nhận lễ vật, sau đó biện trước bàn thờ

tổ tiên, thắp hương cúng trình báo gia tiên. Tiếp theo, đại diện nhà gái sẽ công bố

trước toàn thể họ hàng và nhà trai việc nhận lễ báo cáo tổ tiên và ra mắt chú rể (khươi

mắng). Lúc này dâu rể coi như đã thành vợ thành chồng, hai gia đình chính thức trở

thành thông gia với nhau.

Ăn hỏi là nghi lễ lớn nhất trong số các nghi thức trước đám cưới của người

Tày ở Lục Yên. Vì thế, nhà trai và nhà gái đều mời đầy đủ họ hàng nội ngoại đến

giúp và chứng kiến nghi thức ăn hỏi, mừng cho hai gia đình có dâu, rể mới. Cũng dịp

này, nhà gái cũng bàn bạc với nhà trai việc chuẩn bị lễ cưới, nhất là thông báo đồ

thách cưới cho nhà trai biết để chuẩn bị.

Tết bố vợ vào dịp 14 /7 (pay chằng giam): Theo tục lệ truyền thống của người

Tày ở Lục Yên, sau khi ăn hỏi hai đến ba năm, mới được làm đám cưới. Khi chưa

làm đám cưới, vào các dịp tết 14/7 hàng năm, con rể sẽ biếu bố vợ một đôi gà thiến,

bốn chai rượu, 12 ống gạo nếp, 1 chai mật, 1 ống đỗ xanh, nửa cân trà,... Cũng trong

76

những năm chờ cưới, hai gia đình thông gia có trách nhiệm đi lại, giúp đỡ nhau trong

mọi việc. Vào mùa thu hoạch, nhà trai sẽ mướn người (au khươi pay tốc nà) sang

giúp nhà gái gặt lúa.

Xin cưới (so mự tón pặng): Sau ăn hỏi hai, ba năm, nhà trai chủ động đến báo

ngày cưới cho nhà gái biết. Nghi thức này được tiến hành trước ngày cưới ít nhất bốn

tháng để hai gia đình có đủ thời gian chuẩn bị cho đám cưới. Đây là dịp hai gia đình

bàn bạc thống nhất mọi việc cho đám cưới chính thức.

Cũng dịp này, nhà trai trao số tiền thách cưới cho nhà gái để mua sắm các đồ

dùng cá nhân của cô dâu và mọi thứ cần thiết cho đám cưới, bàn bạc và định ngày,

giờ dẫn lễ đón dâu, giờ chú rể sang đón cô dâu, giờ cô dâu xuống cầu thang về nhà

chồng, giờ cô dâu lên cầu thang vào nhà chồng trong đám cưới.

Có thể nói, ngày cưới là ngày quan trọng nhất trong cưới xin của người Tày ở

Lục Yên. Vì thế, các nghi thức được thực hiện rất nghiêm ngặt, cả về giờ giấc và cách

thức tiến hành. Họ cho rằng, nếu thực hiện các nghi thức đám cưới nghiêm túc, đôi

vợ chồng trẻ mới hạnh phúc.

Đám cưới bên nhà gái

Lễ chăng chược (căng dây chặn đường): Đúng ngày giờ đã định, đoàn nhà

trai bắt đầu sang nhà gái đón dâu. Ngay khi đoàn nhà trai đến đầu làng, nhà gái cử

một nhóm các cô gái trẻ chuẩn bị một sợi dây hoặc một tấm vải căng ngang lối

vào nhà và hát bài hát với ý chất vấn: các vị là ai, đi đâu, qua đây làm gì, đây là

cửa cấm, muốn đi qua phải nói rõ lý do... Lập tức đoàn nhà trai hát một bài hát đáp

lại, nói rõ lý do và yêu cầu mở đường cho đi qua. Đây được coi là một cuộc so tài

đầu tiên về đối đáp giữa hai họ. Có những đám cưới phải hát hai, ba bài mới đi

qua được, có khi đại diện nhà trai không hát đối đáp lại được thì phải bỏ tiền để

xin qua đường.

Lễ giữ cửa (lệ khay tu): Vượt qua được chặng căng dây chặn đường, đoàn đón

dâu lại gặp chặng giữ cửa. Trên các bậc cầu thang lên nhà có bày các chướng ngại vật

như chậu nước, chổi quét nhà, dao, thớt hay những chiếc sọt, đòn gánh… Với những

chướng ngại vật này đoàn nhà trai có thể lách qua để lên nhà, nhưng họ không bước

qua, vì như vậy sẽ bị nhà gái chê cười là mất lịch sự và kém tài hát đối đáp. Cho nên

ông quan làng nhà trai phải hát một bài xin nhà gái cất bỏ những vật chướng ngại để

77

có lối cho đoàn đón dâu lên nhà.

Lễ trải chiếu (lệ pói phục): Nhà ở của người Tày Lục Yên chủ yếu là nhà sàn 5

gian rộng rãi, bếp và bàn thờ đặt ở gian giữa. Người Tày có tục trải chiếu mời khách

ở gian ngoài cùng. Khi đoàn nhà trai lên nhà và ngồi ở gian ngoài chưa trải chiếu

hoặc trải xộc xệch, ông quan làng nhà trai khi đó sẽ hát một bài hát giới thiệu về đoàn

nhà trai và tỏ ý trách chủ nhà trải chiếu chưa ngay ngắn hoặc chưa trải chiếu đón

đoàn nhà trai. Đại diện nhà gái sẽ hát đáp lại với ý xin lỗi vì sự thiếu sót của mình và

lúc này mới cho người trải chiếu trịnh trọng mời đoàn nhà trai ngồi.

nhà trai ngồi ổn định, đại diện nhà gái sẽ hát bài hát mời rượu và mời nước, hỏi thăm

Lễ mời rượu, mời nước (lệ mơi lảu, mơi nặm): Sau khi quan làng và người họ

đoàn nhà trai đi đường có vất vả không và cảm ơn sự có mặt đúng giờ của nhà trai.

Tiếp đến nhà gái sẽ bê ra một khay nước và một khay có 4 chén rượu rót đầy mời đại

diện nhà trai uống.

Lễ trình tổ và nộp gánh (giao háp): Sau khi mời rượu, mời nước quan làng nhà

trai và đại diện nhà gái ngồi nói chuyện hỏi thăm họ hàng hai bên. Trong thời gian

này chú rể và hai phù rể sẽ bày những gánh lễ vật mà nhà trai mang sang gồm: 3 gói

trầu (một gói báo cáo tổ tiên, một gói treo, một gói xin dâu), một gói chè (1kg), 4 chai

rượu, 4m vải (phái lằm khắng). Nếu trường hợp cô dâu còn có anh trai hoặc chị gái

chưa lập gia đình thì phải có thêm cho mỗi anh, chị một tấm khăn nhuộm màu hồng

để tỏ ý xin anh chị cho phép em được đi xây dựng gia đình trước. Mâm lễ xếp xong

ông mối sẽ hát bài giao lễ cho nhà gái, trước sự chứng kiến của hai bên gia đình và bà

con trong bản. Sau khi ông mối hát xong, nhà gái nhận lễ và bê lên đặt trước bàn thờ

tổ tiên để đại diện nhà gái thắp hương, thông báo với ông bà, tổ tiên đã nhận lễ.

Lễ bái tổ tiên, họ hàng (lạy đẳm táng): Đây là nghi lễ quan trọng và linh thiêng

nhất mà chú rể phải thực hiện trong ngày cưới. Đại diện nhà gái bê ra một khay có 4

chén rượu rót đầy để xin ông đón của nhà trai cho chú rể vào lễ tổ tiên. Ông quan

làng dẫn chú rể và hai phù rể vào đứng trước bàn thờ tổ tiên, trước sự chứng kiến của

đông đủ họ hàng. Đại diện nhà gái tuyên bố lý do và những nghi lễ mà chàng rể phải

làm. Chàng rể phải kính lễ tổ tiên và tất cả họ hàng nội ngoại nhà gái, theo vai vế từ

trên xuống dưới. Mỗi lần đại diện nhà gái xướng lạy thì chàng rể sẽ lạy 4 lạy: "Mự tốt

78

vằn đay, thống tôi lan mà, pà tôi lan lạy. Lạy mừa tổ đức tiên hiền tôi thí pết lạy. Mự

tốt vằn đay, thống tôi lan mà, pà tôi lan lạy. Lay mừa tôi thí pét quý chựa. Mự tốt vằn

đay, thống tôi lan mà, pà tôi lan lạy. Lạy mừ tôi thí pét tá bác, tái pá..." [93]. Bài

xướng cứ tiếp tục cho tới khi lạy đến vai các anh chị của cô dâu mới xong. Mỗi lần

xướng chú rể vái 4 vái, quỳ xuống rồi đứng lên trong không khí rất trang nghiêm. Khi

chú rể vái xong ông quan làng nhà trai sẽ hát bài hát giao cheo chúc cho đôi trẻ trăm

năm hạnh phúc, gắn bó keo sơn.

Lễ dâng tấm vải ướt khô (lệ phái lằm khắng): Sau lễ bái tổ tiên, họ hàng, chú rể

còn thực hiện một nghi lễ quan trọng nữa là lễ dâng tấm vải ướt khô. Tiến hành nghi lễ

này trước bàn thờ tổ tiên, ông quan làng trịnh trọng hát bài hát tạ ơn, chú rể hai tay

nâng tấm vải lên cho mẹ vợ. Nếu gia đình nào người mẹ không còn nữa thì tấm vải này

sẽ được dâng lên bàn thờ tổ tiên, trước vong hồn người mẹ. Nghi lễ này phản ánh

những sinh hoạt thường gặp, trong quá trình nuôi con nhỏ gặp những ngày trời mưa,

âm u, tã không kịp khô, người mẹ phải ủ tã ướt để có tã khô đắp cho con. Nghi lễ này

rất có ý nghĩa, thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với công sinh thành giáo dưỡng

của cha mẹ. Do đó, tấm vải là lễ vật không thể thiếu khi dẫn lễ sang nhà gái. Sau lễ này

nhà gái đưa chậu nước ra cho họ nhà trai rửa tay và mời đoàn nhà trai ăn bữa cơm vui

cùng gia đình, mọi người cùng ăn uống và hát chúc mừng cô dâu, chú rể, mời nhau

uống n rượu, chúc cho cô dâu lên đường về nhà chồng gặp may mắn.

Lễ xin đón dâu (So pặng lồng lang): Khi ăn cơm xong, sắp đến giờ đón dâu

như đã định thì ông đón nhà trai sẽ hát bài hát xin dâu. Đây là lễ trang trọng cuối

cùng trong các nghi lễ bên nhà gái. Nội dung bài xin dâu là cám ơn sự đón tiếp chu

đáo của nhà gái, xin phép ông bà, cha mẹ, họ hàng, bạn hữu cho phép nhà trai được

đón cô dâu về nhà chồng. Sau khi cô dâu chuẩn bị xong trang phục, đồ dùng thì ông

quan làng hát bài xin dâu chính thức.

Từ khi bước chân xuống cầu thang theo chú rể về nhà chồng, cô dâu không

được nhìn lại phía sau, bởi người Tày cho rằng nếu nhìn lại khi sang nhà chồng sẽ

gặp nhiều trắc trở, cuộc sống vợ chồng sẽ không được êm ấm, hạnh phúc. Trên đường

về nhà chồng đoàn đưa đón dâu phải tránh gặp đoàn đưa dâu khác, nếu không may

gặp một đoàn đưa dâu khác thì hai cô dâu phải đổi khăn, đổi nón cho nhau. Họ cho

rằng nếu không làm như vậy một trong hai đôi vợ chồng sẽ không có hạnh phúc,

79

thậm chí không có con.

Đám cưới bên nhà trai

Khi nhà gái đưa dâu đến, nhà trai sẽ têm bốn miếng trầu, chuẩn bị một ống

nước, một cum thóc xuống chân cầu thang trao cho cô dâu cầm lên nhà. Họ quan

niệm cô dâu mới đến mang theo nhiều nước để cấy cày, gia đình sẽ thu được nhiều

thóc lúa. Trước khi cô dâu lên nhà, bố mẹ chồng phải tránh mặt, đi xuống bãi trước.

Khi cô dâu lên nhà rồi bố mẹ chồng mới bước lên sau. Vì với quan niệm truyền thống

bố mẹ chồng phải bước lên sau để dẫm gót chân con dâu, làm như vậy con dâu sau

này sẽ nghe lời bố mẹ chồng, chăm chỉ làm ăn.

Đoàn nhà gái lên nhà và ngồi ở gian ngoài cùng. Nhà trai bê khay nước ra mời,

các nghi lễ mới nước, mời rượu cũng được tiến hành theo trình tự và nghi lễ như bên

nhà gái. Chỉ khác lúc này nhà gái là khách, nhà trai là chủ. Bên nhà trai có hai nghi lễ

quan trọng khi cô dâu về nhà chồng đó là lễ cô dâu bái tổ tiên, họ hàng và lễ nộp dâu.

Lễ cô dâu bái tổ tiên (lạy đẳm táng): Khi đại diện nhà trai xin cô dâu ra bái tổ

tiên họ hàng. Đại diện nhà gái (ta thống) sẽ đưa cô dâu ra ngồi trước bàn thờ nhà trai.

Cô dâu ngồi giữa, hai phù dâu ngồi hai bên. Trước sự chứng kiến của đông đảo họ

hàng nhà trai, ông đưa sẽ xướng lạy để cô dâu bái tổ tiên và họ hàng nhà trai (theo

trình tự vai vế như khi chú rể lễ bái bên nhà cô dâu).

Lễ nộp dâu (giao pặng): Sau lễ bái tổ tiên, đại diện nhà gái (ta thống), sẽ hát

bài “nộp dâu” cho nhà trai: Từ nay cô dâu sẽ thuộc người của họ nhà trai, chịu sự răn

dạy của nhà chồng theo tập tục.

Nghi thức sau đám cưới - lại mặt (tao lòi tin)

Sau khi cưới được ba ngày đôi vợ chồng trẻ sẽ về thăm gia đình bố mẹ vợ. Lễ

vật mà đôi vợ chồng trẻ mang theo sang nhà gái là hai con gà trống thiến, hai ống gạo

nếp, hai chai rượu, và một cặp bánh dày để tạ ơn cha mẹ. Đây cũng là dịp cô dâu

được gặp lại họ hàng thân thích, cảm ơn họ hàng đã giúp đỡ khi tổ chức đám cưới.

Cùng đi với đôi vợ chồng trẻ có một hoặc hai người bạn của chú rể. Ngày lễ lại mặt,

nhà gái cũng mời ông, bà, chú, bác, cô, dì... đến chung vui, cùng ăn cơm với đôi vợ

chồng trẻ và để họ hàng nhận mặt cháu rể.

Cũng dịp này, bố mẹ vợ sẽ trao của hồi môn cho con gái mang về nhà chồng.

Theo tập quán xưa, người Tày Lục Yên thường cho con gái của hồi môn gồm: các

80

loại giống lúa, ngô, giống gia súc, gia cầm, đồ dùng gia đình và tiền bạc .

Cưới xin của người Tày ở Lục Yên là một trong những nghi thức, tục lệ quan

trọng trong chu kỳ đời người. Bởi thế, nó được thực hiện rất nghiêm ngặt theo tục lệ

truyền thống của dân tộc. Việc cưới xin được tất cả các thành viên trong gia đình và

cộng đồng coi trọng như là trách nhiệm với tổ tiên, với con cháu mai sau. Dựng vợ,

gả chồng, làm đám cưới cho con cái là nghĩa vụ và vinh hạnh của ông bà, cha mẹ, họ

hàng, làng bản,…

Cưới xin của người Tày ở Lục Yên không chỉ đơn thuần là việc kết hôn cho

đôi lứa, mà còn bao hàm nhiều ý nghĩa, giá trị lớn lao khác. Đó là sự cố kết cộng

đồng làng bản, họ hàng, gia tộc; tương trợ, giúp đỡ, chia vui giữa các thành viên,

trong cộng đồng. Cưới xin còn góp phần vào việc bảo tồn các tục lệ, sự giáo dục

nhân cách, đạo đức làm người của cha mẹ đối với con cháu. Dâu hiền, rể thảo, lễ

phép, tin tưởng,… là đích hướng tới của những người Tày ở Lục Yên [94].

Đối với hôn nhân của người Dao nói chung và ở Lục Yên nói riêng trong giai

đoạn nửa đầu thế kỷ XIX là hôn nhân buôn bán, tính toán lợi hại. Trong hôn nhân,

thịt, rượu, bạc trắng là những vật để định giá người con gái khi gả bán. Cho nên con

gái của những gia đình khá giả thường được gả cho con trai của những gia đình sung

túc và ngược lại. Lễ cưới, tiếng Dao gọi là “chịp nhau”. Sau khi được gia đình nhà gái

đồng ý, gia đình nhà trai đem lễ vật đến nhà cô dâu. Lễ vật gồm: hai con gà trống,

mười chai rượu, gạo nếp và những đồng bạc trắng hoặc tiền mặt (đáp ứng thách cưới

của nhà gái) để gia đình nhà gái mua một số vật dụng cho đám cưới.

Sau khi nhờ thầy cúng chọn được ngày lành tháng tốt, trước khi về nhà chồng,

cô dâu phải may đồ cưới và sắm những thứ cần thiết để làm của hồi môn. Thời gian

chuẩn bị cho đám cưới có khi phải kéo dài cả năm đến khi nào cô gái chuẩn bị đủ vật

dụng về nhà chồng, đám cưới mới được tiến hành.

Đám cưới người Dao Đỏ kéo dài hai hoặc ba ngày. Trong ngày cưới, gia đình

nhà trai không đến rước dâu. Ngày đầu họ hàng nhà gái đưa cô dâu về nhà chồng,

hướng dẫn cách vào nhà chồng tuỳ vào từng thời điểm đến. Khi vào nhà chồng cô

dâu phải bước qua dải lụa hoặc vải. Từ 13h - 15h thì phải bước vào hướng cửa Đông,

từ 17h đến 19h thì bước vào hướng cửa Bắc. Nếu các hướng đó không có cửa thì phải

81

phá vách để vào nhà.

Trước cửa nhà, thầy cúng đặt một bồn nước sạch để cô dâu bước qua. Thầy

cúng giăng một sợi giây đỏ nối liền vai đôi vợ chồng mới và khấn vái xin tổ tiên

chứng giám, phù hộ cho đôi vợ chồng trẻ trăm năm hạnh phúc, con đàn cháu đống.

Điều đặc biệt là tục của người Dao Đỏ ở Lục Yên bất kỳ họ hàng nhà trai cũng như

nhà gái đến dự đám cưới đều được phần thịt và bánh mang về.

Trước đây, trong lễ cưới hỏi, người Dao Đỏ ở Lục Yên còn lưu giữ nhiều

tập tục lạc hậu nhưng ngày nay, để phù hợp với nếp sống văn hoá mới, bà con đã

tự lược bỏ nhiều thủ tục, chỉ giữ lại những phần quan trọng để đám cưới vừa vui,

vừa ý nghĩa [92].

- Nghi lễ trong đám ma

Đồng bào Tày, Nùng, Dao cho rằng sau khi cha mẹ mất, đạo làm con phải lo

việc ma chay chu đáo, đó là hình thức báo hiếu quan trọng nhất. Từ quan niệm này đã

sinh ra những nghi lễ phong tục trong đám ma rất phức tạp và tốn kém. Một đám ma

của người Tày thường trải qua nhiều nghi lễ:

+ Lễ tắm rửa cho người chết: Khi người thân qua đời, con cháu túc trực bên

cạnh, gõ mõ, bắn ba phát súng hoặc gõ nong nia và gọi “Bố ơi (Mẹ ơi) ở đâu thì về

lấy quần áo” để báo tin cho họ hàng chòm xóm biết. Người chết được mặc thêm áo

mới, đi hài, đội mũ như người có việc phải đi xa. Miệng người chết được cho ngậm

đồng tiền bằng kim loại, hoặc tiền giấy để chi tiêu dọc đường về với mường trời xa

xôi, và cũng để bố thí cho bọn đầu trâu mặt ngựa đỡ quấy quả. Cũng có quan niệm

cho rằng làm vậy để người chết không phát ngôn lung tung ảnh hưởng tới con cháu.

Người chết được tắm bằng lá thơm. Theo tục lệ, người chết được đặt lên tấm vải

trắng gấp kín từ chân lên tới đầu, và xé vải trắng thành từng mảnh nhỏ để buộc thân

xác, nam 7 nút, nữ 9 nút (tượng trưng cho vía của nam và nữ), đoạn vải trắng che đầu

thì lấy hương lửa châm thành ba lỗ để hở mắt mũi. Người chết để giữa nhà được căng

màn ba góc, có nơi lấy màn che bàn thờ tổ tiên tránh uế tạp.

+ Lễ mở đàn thầy tào lập bàn thờ thánh tướng: Mời thánh tướng chứng giám

phù hộ cho đám tang được yên lành.

+ Lễ lấy nước (rặp nặm): Thầy tào gióng trống, chiêng cùng các con trong gia

82

đình mang mâm cúng ra sông suối lấy ít nước, con trai gồng ống nước này bằng dao

hoặc đòn gánh về hòa cùng nước đun lá bưởi, lá thanh táo rửa mặt cho người chết.

+ Lễ nhập quan: Thầy tào làm phép thu hồn vía người chết vào áo quan, áo

quan dù đóng kín hay trát keo cũng phải lót tro đốt từ những bó lúa cho người chết

nằm, trước khi đạy nắp quan người ta nhét quần áo của người chết vào xung quanh

xác. Tục lệ của người Tày- Nùng không cải táng, vì vậy áo quan cúng phải chọn loại

gỗ tốt.

+ Lễ phát tang: Con cháu anh em đến chịu tang, chít khăn trắng, các con mặc

quần áo tang màu trắng, thắt lưng bằng bẹ chuối và chống gậy, con gái, con dâu xõa

tóc đến ngang vai.

+ Lễ tế: Bữa ăn tối ăn trưa tế vào thời gian các bữa ăn trong ngày (sáng, trưa,

chiều) do thầy tào phụ trách.

+ Lễ thắp đèn: Thầy tào mặc áo lễ cho nổi nhạc tang, múa chào trước bàn thờ

thánh tướng của mình đến bên linh cữu, lúc này nhà táng đã được chụp lên linh cữu,

quanh thềm nhà táng được đặt 7 bát dầu mỡ đối với nam, 9 bát đối với nữ (bát dầu có

thể được thay thế bằng nến). Con cháu họ hàng theo thầy tào đi vòng quanh linh cữu,

thầy tào ngâm hát bằng tiếng quan thoại, cũng có khi là tiếng Tày, giọng điệu rầu rĩ

kể công ơn của người đã khuất, mỗi người cầm một que lửa lần lượt đốt sáng các bát

dầu mỡ khiến nhà táng sáng rực ánh đèn.

+ Lễ “xiên đàn phá ngục”: Là một tuần ăn chay cho người chết ra khỏi địa

ngục. Đồng bào cho rằng linh hồn người chết thường hay bị cầm tù ở địa ngục,

nhất là các bà mẹ vì từ lúc sinh con các bà mẹ thường hay xuống suối giặt nên đã

làm ô nhiễm thủy phủ. Cho nên phải làm lễ phá ngục để đưa linh hồn người chết

ra khỏi ngục.

+ Lễ mùng san: Tức lễ bố thí thức ăn cho tất cả những linh hồn người chết

không có người thờ cúng. Đồng bào cho rằng càng bố thí nhiều càng làm cho nhẹ bớt

tội đi để có thể lên thiên đàng.

+ Lễ “mại xe”:Là lễ trao nhà táng cho người chết trước khi đưa ma.

+ Lễ đưa ma: Trước khi đưa áo quan ra cửa, thầy tào làm phép thu thập hồn

vía người chết để sau này không quấy rầy con cháu.

+ Lễ hạ huyệt: Trước khi hạ quan tài xuống huyệt thầy tào thả một con gà

83

xuống trước để “an thần sơn” rổi để con gà nhảy lên khỏi huyệt, con cháu ngồi xung

quanh vì đồng bào cho rằng con gà nhảy về phía nào thì phía ấy được phúc lành.

Người ta hạ huyệt lấp đất, con cháu thay quần áo tang, làm cỗ bàn cúng gia tiên.

+ Lễ mở cửa mồ “Khay tu mả”: Sau ba hôm, thầy tào cùng con cháu đến mở

của mồ, báo cho sơn thần biết đến thu nhận linh hồn người chết mới nhập hộ.

+ Lễ chuộc hồn: Sau khi chôn cất cha mẹ, người thân xong, gia chủ còn phải

làm lễ chuộc hồn cho người đã khuất thông thường là 3 lần 40 ngày, 100 ngày và 3

năm. Lễ chuộc hồn cuối cùng đồng thời là lễ mãn tang. Đồng bào ở Lục Yên rất coi

trọng các lễ nghi trong việc tổ chức đám hiếu, các nghi thức diễn ra cầu kỳ, phức tạp,

thông thường dưới sự phụ trách của thầy tào (thầy cúng).

Tục lệ làm ma của người Tày ở Lục Yên có thể diễn ra một trong hai hình

thức, đó là ma khô và ma tươi. Ở gia đình khá giả không trùng vào mùa vụ, người ta

tiến hành làm ma ngay sau khi người chết đã tắt thở, linh cữu còn trong nhà làm ma,

như vậy gọi là ma tươi. Trường hợp do hoàn cảnh khó khăn, bận rộn mùa vụ, hoặc do

con cái đi vắng xa, sau khi chôn cất vài tháng, vài năm sau người ta mới tổ chức làm

ma, như vậy gọi là ma khô. Để tượng trưng cho linh cữu người ta phải làm nhà xe,

làm xong nhà xe người ta tổ chức ma khô, mời thầy cúng đến, không phải một thầy

mà là nhiều thầy để viết sớ cúng, công việc này cũng tốn nhiều thời gian. Thầy cúng

viết sớ bằn chữ Nôm, rồi cúng khấn, tang chủ đội khăn, mặc áo tang khấn vái cùng

thầy cúng bên cạnh nhà xe. Đám ma tươi hoặc ma khô diễn ra khoảng 2 ngày 2 đêm.

Tổ chức đám ma rất tốn kém, nhiều nghi lễ diễn ra trong nhiều ngày đêm, nếu làm ma

khô thì việc chuẩn bị càng mất nhiều công sức, chi phí tốn kém. Các vật để cúng tế

gồm thịt lợn, trâu, bò, gà vừa là để hiến tế vừa là thực phẩm cho người phục vụ, trả

công cho thầy cúng. Người Tày cũng có tục xem đất để mai táng, nơi mai táng

thường theo gia đình và dòng họ, không cải táng, do vậy họ không có tập quán giỗ,

sau đám ma và lễ mãn tang (sau 3 năm), mọi việc tang ma cho người chết được coi là

đã xong xuôi. Đến ngày Thanh minh 3 - 3 người ta mới sắm lễ đưa mộ cúng. Trước

khi cúng người ta dọn sạch cỏ trên các mộ. Hàng tháng ngày rằm, mồng một họ thắp

hương cho người thân quá cố cùng với tổ tiên.

Có thể nói, vào nửa đầu thế kỉ XIX một đám hiếu của đồng bào người Tày,

84

Nùng, Dao ở Lục Yên thường kéo dài gây nhiều tốn kém cho gia chủ, không đảm

bảo vệ sinh…Ngày nay, các lễ nghi của một đám hiếu vẫn được duy trì song đơn

giản hơn và không kéo dài ngày nữa. Mặc dù vậy ở một số vùng việc ăn uống vẫn

diễn ra [94].

- Tục lệ trong sinh đẻ

Đồng bào các dân tộc ở Lục Yên rất coi trọng việc sinh đẻ và nuôi con. Có lẽ

do điều kiện cuộc sống khó khăn, việc chăm sóc bà mẹ khi mang bầu có nhiều hạn

chế, đặc biệt ở thời kỳ phong kiến, sự hiểu biết khoa học, sức khỏe sinh sản hầu như

không có. Chính vì thế mà nhiều tập tục mê tín, lạc hậu được thực hành ví dụ như tục

lệ trong sinh đẻ của đồng bào Dao. Khi có người ở cữ, gia đình cắm một cành lá xanh

trước cửa để trừ tà khí. Đây cũng là tín hiệu để báo cho mọi người biết không được

vào nhà khi chưa được phép. Khi sinh con, người mẹ phải tự đỡ đẻ trong buồng kín,

nhau thai của đứa trẻ được bảo quản cẩn thận, có thể là treo lên cành cây ở nơi kín

đáo hoặc cho vào ống nứa bịt kín dựng đứng ở gốc cây hay hốc đá. Có nơi đồng bào

gói vào giấy bản để lên gác bếp. Đồng bào cho rằng làm như vậy đứa trẻ sẽ dễ nuôi.

Sau ba ngày gia đình làm lẽ cúng mụ và đặt tên cho đứa bé, thông thường sẽ mời họ

hàng tới dự tiệc chia vui. Và người phụ nữ được tắm lá thuốc (có tới hàng chục vị

thuốc). Chính vì có loại thuốc này nên chỉ khoảng một tháng sau sản phụ đã có thể đi

làm được, thức ăn cho sản phụ thường là thịt gà xào gừng, nghệ và một số loại thuốc

quý. Người Dao làm đầy tháng cho con nhưng thủ tục đơn giản hơn người Tày,

Nùng. Thông thường họ chỉ làm gà, xôi để khấn bái tổ tiên chứ không làm cỗ to.

Trong việc nuôi dưỡng con cái họ không phân biệt con nuôi hay con đẻ mà đối xử

công bằng, khi trẻ bị bệnh nặng thì mời thầy cúng về trừ tà.

Ngoài các lễ nghi kể trên đồng bào ở Lục Yên còn có nhiều nghi lễ trong cuộc

sống như lễ sinh nhật của đồng bào Dao, lễ cấp sắc cho thầy tào, lễ cúng giỗ người đã

khuất, lễ kết nghĩa. Dường như mỗi một sự kiện trọng đại nào cũng có những nghi lễ

kèm theo [89].

Đồng bào Nùng ở Lục Yên có tục lệ rất đặc biệt trong quá trình mang thai và

chăm sóc trẻ nhỏ. Khi người phụ nữ mang thai họ kiêng không được mang các loại lá

cây tươi xanh vào nhà hoặc để dưới gầm sàn đề phòng sẩy thai; kiêng không được sửa

85

nhà, sửa giường chiếu, không được làm gì tác động mạnh đến giường ngủ của người

mang bầu cũng là đề phòng bị sảy thai; người có bầu và chồng mình phải kiêng không

được giết mổ gia súc, gia cầm (không được sát sinh); người mang bầu kiêng không

được đi viếng đám tang hoặc có chuyện buồn để tránh làm ảnh hưởng không tốt và

những chuyện không hay xảy ra với thai nhi …[90]. Những kiêng kỵ của họ được thực

hiện một cách nghiêm túc và tự giác từ mỗi cá nhân, gia đình chứ không phải những

luật tục bắt buộc mọi người tham gia. Tuy vậy, vì là những phong tục có từ lâu đời và

người dân quan niệm có thờ có thiêng, có kiêng có lành nên họ cứ thực hiện phong tục

truyền thống từ đời này sang đời khác với sự thành tâm nhất của mình.

Tập tục lễ nghi của đồng bào ở Lục Yên rất đa dạng, phong phú, mang bản sắc

của các dân tộc ở Lục Yên. Ngày nay với cuộc vận động thực hiện nếp sống mới,

những yếu tố tập tục lạc hậu dần được hạn chế, những yếu tố truyền thống đậm bản

sắc, lành mạnh đang được duy trì và phát triển.

- Lễ tết

Người Tày ở Lục Yên tổ chức các tết: Tết Nguyên đán, Rằm tháng Riêng,

thanh minh (mồng 3 tháng 3), sát sâu bọ (mồng 5 tháng 5), Rằm tháng Bảy, tết cơm

mới (15 tháng 8 Âm lịch), tết Trùng cửu (mùng 9 tháng 9) tết này có hội hát cốm (hội

loỏng) và tết Đông chí ngày rét nhất vào cuối năm tính theo lịch của người Tày.

Tết Nguyên đán là lớn nhất được chuẩn bị ngay từ tháng ba, tháng tư (thiến gà,

vỗ lợn, ngả cây rừng làm củi…). Mỗi gia đình phải có ít nhất một đôi gà thiến, nếu có

việc hỷ, phải chuẩn bị vài đôi để đi lễ tết ông bà vãi. Nhà nào cũng vỗ béo một con

lợn 60kg trở lên, quan niệm của người Tày khi cúng ông bà tổ tiên phải có đầu và

chiếc đuôi lợn cài ngay miệng thủ lợn đặt vào lòng mâm để giữa bàn thờ. Nếu thiếu

đầu lợn thì “ông bà ông vải” (tổ tiên) sẽ quở trách con cháu là năm đấy làm ăn kém

cỏi không bằng nhà người ta.

Sáng ngày mồng một, gần như không ai đến nhà ai trừ con cháu đến lễ tết ông

bà. Họ kiêng vì sợ đem cái không may cả năm đến nhà người khác. Để tránh điều

này, người chủ nào kỹ tính thường nhờ một người đàn ông trong bản làng, khỏe

mạnh, giỏi giang...đến “xông nhà” ngay từ sáng sớm với lời chúc tốt đẹp đến gia chủ

và được gia chủ chúc lại.

Điều đặc biệt nữa ở người Tày Lục Yên là bất kỳ khách là ai, con cháu hay

86

xóm giềng đến chơi và chúc tết trong ngày đều phải ngồi vào mâm “rượu thịt”, dù ăn

ít hay nhiều cũng phải ngồi, phải nhấc đũa lấy may, không ai được từ chối sẽ “dông”

nhà chủ, mà “dông” nhà chủ là điều không ai muốn làm.

Ngày mùng ba tết bắt đầu vào tháng chơi xuân, hội xuân. Đây là tháng sôi

động của tết Nguyên đán mà trọng điểm là từ mùng 3 đến 15 tháng giệng. Những

ngày này từng đoàn từng tốp từ trẻ con đến người già trong những bộ quần áo chàm,

vòng cổ, vòng tay. Ngày thì tụ tập ở bãi bằng chơi đu, ném còn, tát yến, múa xòe...tối

thì tập trung đến nhà sàn nào đó trò chuyện dưới ánh lửa bếp hoặc đèn dầu cho tới 11,

12 giờ đêm mới về, hôm sau lại tiếp tục vui ở nhà người khác.

Tết Trùng cửu là cái tết nhỏ nhưng rất đậm nét xã hội của người Tày. Tháng

chín là tháng của mùa cốm nên nhân tết Trùng cửu, nhà nhà làm cốm, cả làng cả bản

làm cốm và vang lên tiếng chày giã cốm. Đồng bào có câu: “Thâng bươn cẩu khảu

màu còi mừa” (đến tháng chín mùa cốm hãy về).

Ngoài những ngày tết nói trên, người Tày có nhiều lễ hội. Các lễ hội đều là

những dịp để người già, người trung niên, thanh niên và trẻ con hòa nhập một cách

bình đẳng đồng thời truyền cho nhau và truyền cho lớp trẻ nét đẹp trong bản sắc văn

hóa cũng như yếu tố tâm linh lành mạnh như lễ hội Lồng tồng, lễ cầu mưa, lễ đền,

lễ đình,...

Đồng bào Nùng ở Lục Yên có 2 tết lớn nhất trong năm là tết Nguyên đán và

tết 14/7 (Sipslxi). Ngoài ra, đồng bào còn ăn tết vào các dịp: 3/3- tết Thanh minh; 5/5

tết Đoan ngọ, đồng bào ăn mừng đã cấy xong vụ mùa, dịp này đồng bào còn đi hái

cây thuốc; 6/6 lúc này lúa đã lên xanh, đồng bào tổ chức tết cúng thần ruộng, thần

trâu, bảo vệ mùa màng, gia súc; tết trung thu 15/8; 10/10 khi vụ mùa đã gặt xong,

đồng bào tổ chức ăn mừng thành quả lao động.

Những ngày tết của đồng bào Nùng ở Lục Yên đều mang ý nghĩa lành mạnh

thể hiện sự mong muốn của người dân lao động cho mùa màng tốt tươi, đời sống ấm

no hạnh phúc; đồng thời cũng là dịp cải thiện đời sống của người lao động sau những

ngày vất vả trên đồng ruộng, nương rẫy.

Đồng bào Nùng ở Lục Yên có tổ chức mừng sinh nhật, không có tục giỗ,

thông thường những người từ 60 tuổi trở lên được tổ chức lễ sinh nhật. Lễ sinh nhật

87

đầu tiên được tổ chức rất trang trọng, mời thầy cúng, họ hàng nội ngoại, con cháu,

các gia đình trong bản và bạn bè thân thiết. Tổ chức những lần sau không mời nữa,

những ai đã được mời rồi cứ đúng ngày, tháng năm sau đến dự .

Đối với người Kinh cũng có nhiều ngày tết trong một năm: Tết Nguyên đán,

Rằm tháng riêng, mồng Ba tháng Ba, tết mồng Năm tháng Năm, tết Rằm tháng Bảy,

Tết Trung thu, tết ông Công ông Táo... Trong đó, Tết Nguyên đán là to nhất, đầy ý

nghĩa nhất đối với người Kinh. Trong Tết Nguyên đán luôn luôn có những thứ sau:

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ; Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Có nhà không

đầy đủ những thứ trên nhưng bánh chưng nhất thiết phải có.

Người Dao ở Lục Yên cũng có tục cúng ông Công, ông Táo như người Kinh,

nhưng đặc biệt ở chỗ là không cúng vào ngày 23 tháng Chạp mà làm chung với lễ

cúng gia tiên. Những ngày này, cả gia đình cùng dọn dẹp nhà cửa, vườn tược và

chuẩn bị lương thực, thực phẩm để dùng trong những ngày Tết, tất cả công việc đều

phải được làm tươm tất trước ngày 30 Tết.

Người Dao không tự làm lễ mà mời thầy cúng, hoặc những người lớn tuổi có

uy tín trong cộng đồng về nhà hành lễ. Trước sự có mặt của đông đủ thành viên trong

gia đình, thầy cúng thay mặt gia chủ làm lễ cúng giải hạn để xua đi tất cả những điều

rủi ro, không may mắn trong năm cũ; cầu xin sức khỏe, bình an, may mắn cho mọi

người; mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, trâu bò lợn gà khỏe mạnh…[87].

Sau bữa cơm tất niên, tất cả mọi người trong gia đình đều phải tắm rửa sạch sẽ

bằng thứ nước được đun với một số loại lá và rễ cây thơm, sau đó mặc những bộ

trang phục truyền thống mới và đẹp nhất để đón giao thừa. Đêm giao thừa, người Dao

đỏ không ra khỏi nhà mà tất cả mọi người quây quần bên nhau để chờ thời điểm bước

sang năm mới chúc tuổi và những điều may mắn cho nhau. Sáng mùng một Tết, mọi

người đều dậy thật sớm, chuẩn bị bữa cơm tươm tất để cúng đầu năm mới. Cũng có

tục xông đất như người Kinh, nhưng người Dao Đỏ đón khách xông nhà bằng 6 chén

rượu. Trước tiên, chủ nhà rót 4 chén tượng trưng cho tứ quý trong năm, chủ và khách

cùng uống để cầu chúc những điều tốt lành trong năm mới, sau đó rót tiếp hai chén để

chúc nhau sức khỏe.

Trong những ngày Tết, sau khi đi chúc năm mới những người trong họ và

88

hàng xóm láng giềng thì già trẻ, trai gái thường tập trung về nơi bãi đất rộng (nay là

nhà văn hóa thôn bản). Tại đây, bên chén trà đầu Xuân, người lớn tuổi cùng nhau ôn

lại truyền thống và những phong tục, bản sắc văn hóa của dân tộc mình, lớp thanh

niên thì chia thành tốp để ca hát, nhảy múa, chơi các trò chơi dân gian… Đặc biệt,

đây cũng chính là dịp để những chàng trai, cô gái Dao gặp gỡ, tìm hiểu rồi ướm lời

nhau qua những bài hát tỏ tình, giao duyên. Đã có rất nhiều đôi đã nên nghĩa vợ

chồng từ những buổi đi chơi Xuân như thế.

- Tục kết tồng

“Tồng” trong tiếng Tày có nghĩa là “hợp nhau”, “giống nhau”. Những chàng

trai, cô gái dân tộc Tày luôn muốn tìm người hợp ý để làm bạn tồng, giống như kết

nghĩa anh em ở người Kinh và các dân tộc khác. Đây là một phong tục mang tính

nhân văn trong cuộc sống của đồng bào dân tộc Tày.

Do đặc điểm cư trú trước đây, dân tộc Tày thường sống quy tụ thành chòm

xóm nhỏ, bản làng hẻo lánh giữa các thung lũng, triền đồi. Các thanh niên nam nữ

dân tộc Tày luôn mong muốn tìm bạn để mở rộng giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Khi gặp

nhau, qua nhiều lần tiếp xúc, trò chuyện, qua nhiều ngày tháng đi lại thăm nhà nhau

và biết rõ cha mẹ, gia đình, thấy hợp tính tình nhau thì chàng trai (hoặc cô gái) ngỏ ý

đặt vấn đề kết tồng. Việc kết tồng có thể giữa nam với nam, nữ với nữ, còn nam

không kết tồng với nữ. Dân tộc Tày có thể kết tồng với các dân tộc khác cũng có tục

kết tồng như Nùng, Mông... Làm bạn tồng được với nhau bởi hai người có nhiều lý

do tương đồng: Bạn tồng cùng năm sinh, cùng tên, cùng chí hướng, cùng quê, cùng

sở trường, cùng cảnh ngộ… cụ thể như ông Hoàng Văn Nhàn ở xã Mường Lai cho

biết ông có 2 bạn cùng xã Mường Lai đã kết tồng với ông từ khi còn tuổi trẻ. Trong

đó một người là cùng dân tộc Tày và người kia là dân tộc Nùng. Mặc dù năm nay các

ông đều đã 68 tuổi nhưng hễ gia đình nào có công việc gì là các ông và con cháu lại

đến với nhau, tình cảm luôn gắn bó và mật thiết như con cháu một nhà [88].

Tục lệ kết tồng của dân tộc Tày có từ xa xưa, cho đến nay vẫn duy trì. Đây là

một phong tục đẹp, giàu tính nhân ái của dân tộc Tày. Sau khi kết tồng, bạn tồng thể

hiện sự thân thiết, quan tâm giúp đỡ, coi trọng nhau trên cơ sở một quan hệ mới, đôi

khi còn gắn bó, thắm thiết hơn cả họ hàng.

Việc kết tồng có sự suy nghĩ chín chắn, lựa chọn kỹ lưỡng lâu ngày để đi đến

89

quyết định gắn bó với nhau. Mỗi thanh niên, nếu kết bạn tồng thì chỉ với một hoặc hai

người, rất ít người có ba bạn tồng. Những người bạn khác, dù thân thiết đến mấy

cũng chưa gọi là bạn tồng nếu chưa qua một buổi lễ chính thức kết tồng. Việc kết

tồng diễn ra trong một buổi lễ chính thức trang trọng ở gia đình, có sự công nhận của

cha mẹ, ông bà, anh chị em và người thân. Trong buổi lễ có bữa ăn thịnh soạn mừng

đôi bạn tồng và những người chứng kiến.

Khi chính thức kết tồng, đôi bạn trở nên thân thiết, quý mến nhau và thường

gọi nhau là “lạo tồng”. Họ coi nhau như anh em ruột thịt, đi lại nhà nhau như anh em

một nhà, tham gia mọi công việc của nhà bạn như công việc của nhà mình. Bạn tồng

luôn chia sẻ cho nhau những niềm vui, nỗi buồn, động viên nhau vươn lên trong cuộc

sống. Nếu không may, ông bà, cha mẹ mỗi bên qua đời, bạn tồng phải sắm lễ vật đến

lễ tế và để tang như một người con trong gia đình thật sự.

Có thể nói rằng, việc kết tồng của người dân tộc Tày mang ý nghĩa cao đẹp,

thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái giữa con người với nhau. Cho dù đến

đời sau, mối quan hệ tình cảm thân thiết của những người bạn tồng của thế hệ đi

trước vẫn được lưu giữ trong con cháu với tình cảm gắn bó và bền chặt.

3.6. Tín ngƣỡng, tôn giáo

Tín ngưỡng, tôn giáo là chỗ dựa của tinh thần, thuộc về đời sống tâm linh của

con người, là bộ phận cực kỳ quan trọng trong đời sống của các tộc người. Khi gặp

rủi ro bất hạnh hay những hiện tượng không lý giải được, con người lại dựa vào thần

thánh, dựa vào thế lực siêu nhiên, cầu xin sự che chở giúp đỡ của trời, của thánh thần

hay ma quỷ.

Đồng bào Lục Yên tin ở thuyết “Vạn vật hữu linh” có đủ loại hồn và thần. Từ đó

đồng bào cho rằng mọi hiện tượng tự nhiên, xã hội đều có linh hồn.

Đồng bào Tày, Nùng, Dao, Kinh... đều quan niệm có ba thế giới đó là cõi trời,

cõi đất và cõi âm.

Cõi trời (mường bôn, quảc phạ) là nơi ở của Ngọc Hoàng, bà mụ, nàng tiên và

những người sống thanh bạch, cuộc sống vinh hoa phú quý, vì thế khi chết phải tổ

chức tiễn đưa linh hồn về với cõi trời để hưởng lạc.

Cõi đất (trần gian, dương thế, dương đông) là nơi ở của con người và vạn vật.

Cõi âm là nơi ở của các loài ma, yêu tinh, quỷ quái, thuồng luồng...

90

Đồng bào cũng tưởng tượng cả ba cõi đều có người ở, có làng bản, nhà cửa,

đồng rộng. Con người ở trên trần do Pụt Luông (bụt lớn) sinh ra để chế ngự muôn

loài, con người có xác có hồn, đồng bào gọi hồn là khoăn (gồm cả hồn, vía), hồn rời

khỏi xác thì người chết thành phi (ma).

Theo quan niệm của đồng bào tất cả mọi vật kể cả con người đều có ma.

Ma có ma lành, ma dữ, (phúc thần, hung thần). Ma lành (phúc thần) là ma tổ

tiên, ma mường, ma bản, ma mụ, ma bếp giúp người bảo vệ mùa màng, giúp

người trừ các ma tà quỷ quái. Ma dữ (hung thần) như ma rừng, ma rú, ma sấm

sét, ma thuồng luông, ma những người chết vì tai nạn, ma người chết đuối, ma từ

những cây cổ thụ...

Đồng bào thờ ma lành ở trong nhà hay những nơi công cộng. Đối với ma dữ

đồng bào không thờ cúng nhưng nếu khi ốm đau bệnh tật, thầy cúng phát hiện ra con

ma nào gây ốm thì sẽ phải cúng con ma đó.

- Các tục thờ cúng

Tục thờ cúng tổ tiên: Cũng như các đồng bào khác, người Tày - Nùng ở Lục

Yên rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ việc thờ

cúng thị tộc. Bàn thờ là nơi tôn nghiêm trong gia đình. Đồng bào Tày - Nùng theo tộc

hệ 9 đời nhưng thờ cúng 3 đời (cha, ông, cụ). Từ đời thứ 4 trở đi, tổ tiên biến thành

thần giữ gia súc mà đồng bào thờ cúng ngoài trời dịp lễ tết.

Thờ tổ sư: những gia đình có người làm Tào, Mo, Then, Pụt tin là có tổ sư

nghề cúng bái, có nhiều thiên binh, thiên tướng để diệt trừ ma quỷ bảo vệ gia đình,

nên họ thờ tổ sư.

Thờ thần: Đồng bào thờ bà mụ ở trong buồng để bảo vệ trẻ em, thờ thần táo

quân để làm công việc quản lý hộ khẩu trong gia đình, Thổ địa thờ chung cho cả bản

hoặc vài hộ gia đình, thờ thần nông trong lễ hội Lồng tồng, các vị thần công cộng đều

được coi là thần nông, có công giúp đồng bào khai phá ruộng nương, xây dựng bản

làng, ngoài ra còn thờ người có công khai phá bản làng.

Trong xã hội của người Tày - Nùng, đồng bào thờ tổ tiên tức là thờ thần của

gia đình, của dòng họ là chính. Nhưng đồng thời, đồng bào cũng thờ nhiều thứ ma,

cúng rất nhiều ma, không ngoài mục đích mong muốn được phù hộ sức khỏe, hạnh

91

phúc gia đình, bảo bệ gia súc, mùa màng, mong cuộc sống ấm no.

- Ảnh hưởng của tôn giáo ngoại lai

Người Tày - Nùng tiếp thu tam giáo nhờ sự truyền bá của các thầy cúng ở

dưới xuôi lên và qua các tộc người từ Trung Quốc sang. Ở mỗi nơi, mỗi tộc người,

tôn giáo đó lại có biến đổi bằng cách pha tạp thêm những yếu tố tín ngưỡng tôn giáo

địa phương, đặc biệt là của vật linh giáo, ma thuật giáo. Tam giáo ảnh hưởng sâu sắc

đến đời sống tâm linh của các dân tộc địa phương, các Mo, Then, Tào đều là đồ đệ

của tam giáo.

+ Thầy Mo (Pháp sư) cúng các đám ma, có nhiều khi phối hợp với thầy Tào

nhưng chủ yếu là cúng bái để chữa bệnh.

+ Bà Then, Pụt thường cúng lễ chuộc hồn người chết để đưa lên cõi tiên, cầu

bình yên, giải hạn và công việc chính cũng là chữa bệnh.

+ Thầy Tào (Đạo sư) được coi là thầy cao tay, nắm thần quyền mang yếu tố

Phật giáo nhưng lại biết chữ Hán thông thạo đạo Nho. Là người giữ vị trí đặc biệt

trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân, được coi là người mắt sáng. Từ việc xem

ngày lành tháng tốt, bói toán, tử vi, phong thủy, giải hạn, cầu phúc, cúng đám ma...

thầy tào có sách và phải biết viết sớ, viết biểu, nghề chính của thầy tào là cúng đám

ma đưa người chết về cõi thiên đường mà hiếm then pụt làm được. Thầy có thể tiếp

thu phương pháp bí truyền “Khủi giáng” (bước qua đài gươm), bước qua chậu than

hồng mà không bị hề hấn gì. Đồ nghề của thầy Tào ngoài sách cúng, mũ áo, tranh

thờ, các tờ đại tự còn có trống một mặt, thanh la, chiêng, chũm chọe, não bạt. Khi

hành nghề, thầy Tào phải cần 4-5 người giúp đánh trống, thắp hương, chiêng đệm

các bài cúng. Thầy tào còn có quyền năng cấp sắc, ấn cho Mo, Then, Pụt. Trước khi

hành nghề thầy Tào phải kiêng ăn thịt chó, trâu, bò, ba ba và uống rượu, tục gọi là

“lẩu tào”.

Các Mo, Then, Tào không chỉ là những người cúng bái, chữa bệnh, tuyên

truyền tín ngưỡng tôn giáo. Họ không có vai vế gì trong bộ máy thống trị, nhưng vẫn

được cư dân trong vùng kính trọng. Tuy vậy, không phải ai cũng làm được Mo, Then,

Tào mà phải là con cháu dòng dõi, tức là thừa kế những người trong dòng họ và phải

92

trải qua lễ thụ phong để được cấp sắc, ấn tín mới có thể hành nghề.

- Nghi lễ và tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp

+ Lễ hội Lồng tồng: Hằng năm, cứ vào dịp Tết Nguyên đán, ở khắp các bản

làng của tộc người Tày, Nùng ở Lục Yên lại nô nức chờ đón những ngày hội rộn ràng

của lễ hội Lồng tồng (Lồng thồng, Lùng tùng...), hay còn gọi là Oóc tồng, nghĩa là

xuống đồng (Lồng là xuống, tồng là đồng). Do vậy, lễ hội Lồng tồng là lễ hội xuống

đồng. Đây là lễ hội mang tính chất nghi lễ nông nghiệp cổ xưa, mở đầu cho một mùa

sản xuất mới; trong lễ hội còn có lễ tạ Thành Hoàng, Thần Nông, cầu cho mùa màng

bội thu, gia súc phát triển, con người khỏe mạnh, bản làng yên vui, mọi người, mọi

nhà ấm no, hạnh phúc...

Lễ hội Lồng tồng không chỉ thu hút tất cả các thành viên trong thôn mà còn

thu hút dân làng ở nhiều thôn bản, nhiều xã lân cận cũng đến tham dự. Vào dịp đầu

xuân hầu như tại thôn bản nào của người Tày nào cũng đều tổ chức hội Lồng tồng

vào những ngày lệch nhau để mọi người trong vùng đến chia vui như: ở xã Khánh

Thiện được tổ chức vào ngày mồng 5 tết, ở Minh Xuân tổ chức vào 12 tháng giêng

Âm lịch, ở xã Tân Lĩnh, Trúc Lâu tổ chức vào ngày rằm tháng giêng...

Để chuẩn bị cho lễ hội Lồng tồng, đồng bào thường dựng một cây nêu ở khu

đất rộng, bằng phẳng giữa cánh đồng. Mỗi gia đình chuẩn bị một mâm cỗ cúng gồm

xôi, thịt, rượu và đôi quả còn (Quả còn có lõi gạo, hạt bông, bọc ngoài bằng nhiều

mảnh vải ngũ sắc ghép lại, có tua dài).

Từ sáng sớm, mâm cỗ của các gia đình đã được xếp thẳng hàng trước miếu

Thổ công. Thầy mo (một vị cao tuổi có uy tín về mọi mặt “mát tay” trong trồng trọt,

chăm sóc cây quả… ) đứng ra làm chủ lễ. Vị chủ lễ gióng trống chiêng mời làng bản

tề tựu nghiêm trang, ông khấn Thần, khấn xong đại diện các lớp tuổi già, trung niên,

trẻ hoặc các chủ hộ, những ai muốn cầu may mùa màng…vào lễ bái Thần Nông. Giờ

lễ thường chỉ kéo dài một giờ đồng hồ sau đấy vị chủ lễ hoặc Ban tổ chức tuyên bố và

nổi trống khai mạc hội.

Tiếp theo phần lễ trang trọng, thành kính là phần hội náo nhiệt, sôi động. dân

bản và khách thập phương thi nhau ném quả còn qua vòng nguyệt trên cây nêu. Hội

ném còn chỉ kết thúc khi có 3 quả còn chui qua vòng tròn, tượng trưng cho việc dân

bản đã xin được hạt giống tốt hứa hẹn một mùa bội thu. Những người ném được quả

93

còn chui qua vòng tròn, ngoài niềm vui lớn với hi vọng một năm may mắn sẽ được

lĩnh thưởng bằng tiền của thôn mà các gia đình trong thôn đóng góp. Khi hội tung còn

kết thúc, dân bản tranh nhau nhặt quả còn mang về treo ở cây to trong vườn với mong

muốn cây sai quả hoặc bóc lõi gạo bên trong cho lợn, gà ăn cho chóng lớn, không bị

bệnh dịch. Ngoài hội tung còn, hội đánh yến, đánh quay...các trò chơi trong hội lồng

tồng diễn ra rất phong phú và đa dạng kéo dài đến hai ba ngày.

Vài chục năm gần đây, lễ hội Lồng tồng được chuyển hóa dần, ít còn thấy có

mâm cơm, đĩa quả, gà cúng và lễ bái Thổ công, lễ bái Thần Nông, mà chỉ có “mít

tinh” sau đấy từng đoàn người lên đồi trồng cây.

+ Lễ Cầu mùa: Đây là một trong những nghi lễ quan trọng nhất được tổ chức

vào dịp tháng Giêng và Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm. Theo một số già làng, lễ Cầu

mùa đã có truyền thống từ hàng trăm năm, qua thời gian dài bị mai một thì trong

khoảng 20 năm trở lại đây, lễ Cầu mùa đã được người Dao Đỏ khôi phục và duy trì.

Hàng năm, lễ Cầu mùa được bà con tổ chức 2 lần vào dịp đầu tháng Giêng và

Rằm tháng 7 âm lịch, để cầu cho mọi người trong dân làng luôn khỏe mạnh, phát

triển kinh tế chăn nuôi, trồng trọt, mùa màng được bội thu, không có dịch bệnh xảy

ra, gia đình, hàng xóm, làng bản sống hòa thuận, đoàn kết, bản làng được bình an. Bà

Đặng Thị Mây ở thôn Khe Rùng xã Khai Trung chia sẻ: “Mỗi dịp lễ Cầu mùa, chúng

tôi đều mong muốn có một năm làm ăn phát đạt, có được sức khỏe, gia đình hạnh

phúc”.Theo phong tục, lễ Cầu mùa được tổ chức gồm 2 nội dung, phần lễ và phần

hội. Ở phần lễ, mỗi gia đình sẽ cùng nhau đóng góp đồ lễ để thờ cúng mang tính lòng

thành như: gà, thịt lợn, rượu trắng, gạo... Tất cả đều phải do tự tay các hộ trồng được,

nuôi được, không được mua từ nơi khác về, sau đó cùng tập trung về một hộ gia đình

có uy tín trong cộng đồng để tổ chức. Chuẩn bị làm lễ, đàn ông trong làng sẽ lo khâu

thờ cúng; phụ nữ lo nấu ăn và chuẩn bị đồ để thờ.

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ, lễ thờ cúng sẽ được diễn ra ở 2 nơi: trước cửa gian

chính của ngôi nhà và khu vực sau nhà, nơi có địa thế giáp núi. Trong khoảng thời

gian hơn 1 giờ đồng hồ, các thầy cúng có uy tín sẽ được chọn để làm lễ và cầu cho

bản làng một năm mới mưa thuận gió hòa, cây cối tươi tốt, mùa màng bội thu, các hộ

dân trong làng có một năm mới thuận lợi, làm ăn kinh tế phát triển, đời sống ngày

94

càng khá giả, đẩy lùi khó khăn, vất vả.

Lễ Cầu mùa người Dao Đỏ ở Lục Yên tổ chức một năm 2 lần như đã nói ở

trên, tuy nhiên, cứ 3 năm lễ được tổ chức với quy mô lớn theo dạng lễ hội, ngoài phần

lễ, ban tổ chức còn tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao với

các tiết mục, trò chơi mang đậm đà bản sắc của người Dao Đỏ địa phương.

Lễ Cầu mùa là hình thức sinh hoạt tâm linh để bà con gửi gắm những ước

mong về những mùa ngô, lúa tốt tươi, muôn loài được sinh sôi nảy nở, mưa thuận gió

hòa và cuộc sống an lành, ấm no hạnh phúc. Vì vậy, với trên 60% là đồng bào Dao

Đỏ ở đây đã và đang có nhiều giải pháp nhằm phục dựng và duy trì tốt lễ Cầu mùa

vào tháng Giêng và Rằm tháng 7 âm lịch hàng năm để cho đồng bào mơi đây hiểu

thêm ý nghĩa của lễ Cầu mùa trong đời sống của dân tộc mình [92].

- Hệ thống đền, đình, chùa

Văn hóa đền, đình, chùa là khởi nguồn từ vùng đồng bằng, cùng với quá trình

di cư của người kinh, quan quân triều đình lên chung sống với các dân tộc anh em

khác ở Lục Yên. Các dân tộc nơi đây đã dung hòa tiếp nhận vào trong văn hóa địa

phương mình, tạo nên sự giao thoa văn hóa. Điều này chứng tỏ nhân dân ta có lối

sống hòa đồng, tiếp thu một cách có chọn lọc những nét văn hóa tinh hoa của nhau để

làm phong phú thêm văn hóa của mình.

Quần thể di tích đền Ðại Cại thuộc xã Tân Lĩnh được Bộ Văn hóa Thông tin

(nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận năm 2001. Di tích được phát

hiện năm 1995, qua nhiều đợt khai quật càng phát lộ nhiều giá trị đáng quý. Quần thể

di tích lịch sử này bao gồm đình Bến Lăn, chùa tháp đất nung Hắc Y, đền Ðại Cại và

thành nhà Bầu bao bọc quanh bãi đua ngựa huấn luyện kỵ binh.

Quần thể này nằm dưới chân núi Vua áo đen, bên hữu là sông Chảy, trước mặt

là suối Ðại Cại. Những thần được thờ ở đây đều là những người có công khai sơn lập

thạch, mở mang chợ búa, lập ra làng bản, phố xá. Ðền Ðại Cại có từ thời hậu Lê, do

nhân dân tổng Lâm Trường Hạ xây dựng để thờ bà Vũ Ngọc Anh, con gái một vị

quần thần nhà Lê bị nhà Mạc giết hại. Bà là một danh nhân, chịu trách nhiệm việc

đáp luỹ xây thành, lập ra các chợ. Ngoài ra, đền có thờ hai anh em Vũ Văn Mật và Vũ

Văn Uyên có công lớn trong việc chống quân nhà Mạc. Ðền Ðại Cại, đình Bến Lăn

95

có kiến trúc đẹp, có đủ các đồ thờ tự như bát nhang đồng, ngai thờ sơn son thếp vàng,

đề có trạm trổ tứ quý làm từ gỗ tứ quý như chò chỉ, vàng tâm, lõi thọ, đinh hương.

Ðặc biệt, những tảng đá kê cột đình, cột đền được chạm trổ hình mặt trăng, hoa sen,

lá đề, mỗi tảng nặng hơn 100 kg. Ðền có chiên đồng, chuông đồng, có sắc phong

của vua Tự Ðức. Ngôi đền có kiến trúc đồ sộ, các chân tảng kê cột loại lớn có

đường kính tới 45 cm, loại nhỏ 32 cm để đỡ các cột nách, cột lòng. Các chân tảng

đều chạm 16 cấnh hoa sen đều đặn vây quanh. Tại đây còn tìm thấy bệ Phật hoa sen

bằng đất nung, bát sứ, lọ sư men ngà rạn trang trí hình cánh sen rất đặc trưng của

nghệ thuật thời Trần. Ngay dưới chân núi, tại dải thung lũng trải dài song song với

sông Chảy vẫn còn lưu lại dấu vết của ngôi đền và những bức tường đất của một toà

thành bao quanh. Bãi đua ngựa luyện tập kỵ binh nằm trong thành ngay trước của

đình Bến Lăn.

Ngày 21/3/1997, bảo tàng tỉnh Yên Bái đã khảo sát khu miếu Hắc Y và đã tìm

thấy tháp đất nung cổ. Ðây là một phát hiện rất quan trọng vì ở miền núi cao cũng có

một chùa tháp đất nung đồ sộ. Vật liệu xây dựng là những viên gạch đất nung có kích

thước 450x245x100 mm. Trên tháp có hoạ tiết hoa văn trang trí như lá đề, hoa cúc,

hoa sen đều bằng đất nung [45, Tr.81,82,83]

Ðáp ứng tín ngưỡng của nhân dân, trân trọng các di sản văn hoá của cha ông ta

để lại, khu di tích đền Ðại Cại được bảo tồn và trùng tu. Cho tới nay, hàng năm,

khách thập phương từ nhiều nơi trong cả nước tới đây để thắp hương cầu phúc, cầu

may và chiêm ngưỡng hệ thống di chỉ còn lại của văn hoá thời Lý, Trần, Lê đang có ở

một tỉnh miền núi phía Bắc.

Có thể nói, quần thể di tích khảo cổ này rất quan trọng không chỉ của riêng

Yên Bái mà quan trọng đối với cả nước.

Chùa hang São thuộc thôn São, xã Tân Lập. Chùa có tên gọi theo tiếng địa

phương là chùa São, São là một bản của làng Nhân Mục, thuộc tổng Lâm Trường Hạ,

châu Lục Yên xưa. Lý giải về tên chùa có ý kiến cho rằng trước đây thường có đàn

chim São bay về và làm tổ trong hang, vì vậy đặt tên São cho tên chùa.

Theo đồng bào Tày trong vùng này kể lại, thời xa xưa đã lâu lắm rồi, nơi đây

còn hoang dã, chim São thường bay về đậu làm tổ trong hang. Sau này đồng bào dân

96

tộc phát triển ngày một đông đúc, chim São cũng thưa dần, rồi không thấy xuất hiện

nữa. Từ đó, nhân dân quanh vùng vẫn quen gọi là hang São. Thời Lý, Trần kiêm

thêm chức năng chùa nên gọi là chùa hang São. Khoảng giữa thế kỷ 16 anh em Vũ

Văn Uyên, Vũ Văn Mật hợp tác với quân lực Lê trung Hưng để đánh lại nhà Mạc –

dòng họ Vũ được phong tước Quốc công rồi định chia đất nước như thời Tam Quốc

thế kỷ thứ III bên Tàu rồi tự xưng là An Tây Vương. Như vậy, toàn bộ vùng Tây Bắc

và Bắc châu thổ sông Hồng, các cơ sở thờ cúng đều có thay đổi theo phong cách họ

Vũ. Chùa hang São được đưa ra ngoài ngay trước cửa chùa hang São. Có thể nói chùa

hang São được tận dụng động hang tự nhiên làm cơ sở phát triển phật giáo làm quốc

giáo thời Lý Trần, là kế sách giữ nước về mặt chính trị, kế sách an dân, là một mốc

lịch sử quan trọng trong lịch sử vùng núi phía Bắc.

Chùa Hang São đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái cấp bằng chứng nhận

di tích cấp tỉnh theo quyết định số 1395/QĐ - UBND Ngày 17/9/2009 [91].

Tiểu kết: Lục Yên mang trong mình màu sắc văn hóa của các dân tộc anh em

Tày, Nùng, Dao, Kinh... Các dân tộc ở Lục Yên bên cạnh việc duy trì và phát huy các

giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình đã tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân

tộc anh em sống cộng cư để làm giàu thêm vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình.

Đồng thời những tinh hoa văn hóa của mỗi dân tộc được hun đúc lại và phát huy thành

cái tinh hoa chung của cả cộng đồng. Các dân tộc ở Lục Yên hầu hết đều tin vào thuyết

“Vạn vật hữu linh” (mọi vật đều có linh hồn). Xuất phát từ quan niệm đa thần, do con

người nhỏ bé, bất lực trước những thần bí và sức mạnh của tự nhiên. Những thần bí và

sức mạnh chưa lý giải được đều được đồng bào xem là ma. Từ đó sinh ra những tín

ngưỡng mà mục đích, ý nghĩa không rõ ràng, hoặc dẫn đến việc thờ cúng, bói toán,

kiêng kị rườm rà, tốn kém, thiếu cơ sở khoa học. Tục thờ cúng tổ tiên, thờ thổ công, thổ

địa, thờ tổ sư của các dân tộc cũng tương tự như các dân tộc ở các vùng miền, địa

phương khác... Ngoài ra, tín ngưỡng của các dân tộc còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của

97

Tam giáo, một số đền chùa thờ được xây dựng.

KẾT LUẬN

1. Châu Lục Yên tỉnh Tuyên Quang nửa đầu thế kỷ XIX (nay là một huyện

nằm ở phía Đông Bắc thuộc tỉnh Yên Bái). Là vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận

lợi, đất đai tương đối màu mỡ bởi lượng phù sa của sông Chảy bồi đắp, lại có hệ

thống khe suối, ao, hồ đảm bảo nguồn nước tưới tiêu. Bên cạnh đó, Lục Yên còn có

diện tích rừng rộng lớn với các nguồn lợi từ rừng rất phong phú, tài nguyên khoáng

sản dồi dào, có hệ thống giao thông khá thuận lợi... Nhờ có điều kiện tự nhiên tương

đối thuận lợi như vậy, Lục Yên sớm là nơi quần tụ của các tộc người, trong đó cư dân

nguyên thủy là người Tày thuộc nhóm ngữ hệ Tày - Thái. Trải qua các giai đoạn lịch

sử, thành phần dân cư dân tộc ở Lục Yên có nhiều xáo trộn. Bên cạnh cư dân bản địa

là các tộc người di cư từ nơi khác tới như người Dao, Nùng, Hoa...và chủ yếu là

người Kinh từ miền xuôi lên. Do cùng sinh sống trên một địa vực nhất định mà quá

trình thống nhất giữa các tộc người Kinh với các tộc người Tày ở đây diễn ra mạnh

mẽ, lịch sử ghi nhận đây là hiện tượng "Kinh già hóa thổ". Dù là người bản địa hay di

cư từ nơi khác đến, có nguồn gốc và phong tục tập quán khác nhau nhưng khi cùng

chung sống ở một quê hương mới (huyện Lục Yên) thì các tộc người luôn yêu

thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thử thách để

xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, văn minh hơn.

2. Từ số liệu địa bạ tại hai thời điểm Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21

(1840) cho thấy, tình hình ruộng đất và sở hữu ruộng đất của Lục Yên: Đặc điểm nổi

bật nhất của ruộng đất ở châu Lục Yên nửa đầu thế kỷ XIX có tới gần 100% là ruộng

tư, chất lượng đất đều thuộc hạng 3. Diện tích ruộng tư bỏ hoang nhiều. Đây cũng là

hiện tượng phổ biến lúc bấy giờ. Điều này có thể lý giải do nhiều nguyên nhân sau:

Thứ nhất là khu vực miền núi nên đất đai phần nhiều khô cằn, khó canh tác. Ở những

xã vùng cao do khí hậu khắc nghiệt mưa ít vào mùa khô nên không đủ nước để tưới

cho cây trồng nên đồng bào đành phải bỏ hoang ruộng đất. Thứ hai cũng có thể do đất

rộng người thưa nên ruộng đất không thể canh tác hết được. Thứ ba do chiến tranh

xảy ra trong một thời gian dài trước đó nên người dân xiêu tán khắp nơi, bỏ nơi “chôn

98

rau cắt rốn” của mình đi tìm một quê hương mới...

Sở hữu ruộng đất ở Lục Yên thông qua địa bạ năm 1805 và năm 1840 là tư

hữu chiếm tuyệt đối nhưng không có sự tích tụ ruộng đất, không có sở hữu lớn mà

dàn trải với các chủ sở hữu nhỏ, manh mún, không tập trung và không có tình

trạng phụ canh. Điều đó chứng tỏ, nguyên tắc “ruộng làng nào làng ấy cấy” không

bị phá vỡ.

Quy mô sở hữu ruộng đất của các nhóm họ là không đồng đều. Các nhóm họ

lớn tập trung trong tay nhiều về số chủ và nhiều về ruộng đất như nhóm họ Hoàng,

nhóm họ Lương. Đội ngũ chức sắc là những người có quyền lực chính trị ở địa

phương và họ cũng là những người nắm trong tay một phần lớn diện tích ruộng tư

của châu. Nhưng bên cạnh đó cũng có chức sắc không có ruộng đất. Hiện tượng này

có thể giải thích: “những người này được đảm nhận chức vụ vẫn chưa trở thành

người chủ sở hữu của gia đình vì chưa tách riêng ra khỏi đại gia đình chung của bố

mẹ hoặc có thể do đây là những trường hợp đi ở rể” [57, tr. 116,117]. Nhưng nhìn

chung chế độ sở hữu ruộng đất của Lục Yên trong thời gian này là sự thắng thế của

sở hữu tư nhân.

Cũng giống như các địa phương khác, châu Lục Yên được áp dụng mức thuế

cho các địa phương vùng miền núi phía Bắc. Nhìn chung mức thuế không cao nhưng

sự bần cùng của người nông dân ngày càng nặng nề bởi những nghĩa vụ phu, phen tạp

dịch mà người nông dân phải thực hiện đối với nhà nước phong kiến.

Mặc dù, triều Nguyễn đã có nhiều cố gắng trong việc khôi phục nền kinh tế

của đất nước như ban hành hàng loạt chính sách về ruộng đất. Bên cạnh việc đo đạc

lập sổ địa bạ để nắm được quỹ đất trong cả nước, các vua Nguyễn còn đẩy mạnh

chính sách khai hoang, phục hóa, khuyến khích dân phiêu tán trở về quê cũ làm ăn...

nhưng nền kinh tế của đất nước vẫn giảm sút, đời sống của dân nhân ngày càng cơ

cực, đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng ở cuối thế kỷ XIX.

Hoạt động kinh tế chủ yếu ở Lục Yên là nông nghiệp với những cây trồng như

lúa nước, ngô, khoai... Tuy nhiên, với kỹ thuật canh tác lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào

điều kiện tự nhiên nên năng suất cây trồng chưa cao. Thủ công nghiệp và thương

nghiệp chưa phát triển, vẫn chỉ là nghề làm thêm những lúc nông nhàn. Chính vì vậy

99

mà đời sống nhân dân còn gặp rất khó khăn.

3. Văn hóa được nhìn nhận là nền tảng của sự phát triển có tầm quan trọng đối

với sự phát triển văn hóa của mỗi địa phương và lan tỏa đến văn hóa quốc gia, văn

hóa là cái “hồn”, là sức sống nội sinh của tộc người. Người ta có thể tìm thấy những

sắc thái, những đặc trưng văn hóa riêng biệt của mỗi tộc người qua lề lối, qua những

khuân mẫu ứng xử mà dân tộc đó có được. Những nét đẹp của văn hóa truyền thống,

những bài học đạo đức đã trở thành chuẩn mực cho mọi thời đại, trở thành các quy

tắc hướng dẫn lối hành xử của các cá nhân trong cộng đồng. Trong xu thế giao lưu và

hội nhập quốc tế, kho tàng văn hóa, sinh hoạt văn hóa đặc thù là điều kiện thuận lợi,

là thế mạnh để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của huyện miền núi Lục Yên.

Qua nghiên cứu cho thấy, Lục Yên vẫn còn mang đậm bản sắc văn hóa dân

tộc. Các tộc người nơi đây bên cạnh việc duy trì và phát huy các giá trị văn hóa

truyền thống của mình đã tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc sống cộng cư để

làm giàu thêm vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Đồng thời những tinh hoa

văn hóa của mỗi dân tộc được hun đúc lại và phát huy thành cái tinh hoa chung của

cả cộng đồng. Xuất phát từ quan niệm đa thần nên các dân tộc vẫn duy trì tín ngưỡng

thờ cúng tổ tiên, thờ thổ công, thổ địa, thờ tổ sư, các lễ hội diễn ra với mục đích mong

100

muốn những người đã mất phù hộ độ trì cho con cháu khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2005), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

2. Triều Ân - Hoàng Quyết (2010), Tục cưới xin dân tộc Tày, Nxb Đại học quốc gia.

3. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái (1998), Lịch Sử Đảng bộ

huyện Lục Yên (1930-1954), tập I, Huyện ủy Lục Yên xuất bản.

4. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái (2005), Lịch Sử Đảng bộ

huyện Lục Yên (1930-2005), Huyện ủy Lục Yên xuất bản.

5. Nguyễn Trọng Báu (2012), Phong tục tập quán và lễ hội của người Việt, Nxb

Văn hóa thông tin.

6. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc thực trạng và những vấn

đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Chi cục Thống kê huyện Lục Yên (2015), Niên giám thống kê huyện Lục Yên.

8. Phan Huy Chú (2006), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I. Nxb Giáo dục, HN.

9. Quốc Cường (2008), Bảo tồn và phục hồi di tích Hắc Y, Tạp chí Di sản văn hóa, số 2.

10. Ma Ngọc Dung (2007), Văn hóa ẩm thực của người Tày ở Việt Nam, Nxb Khoa

học xã hội.

11. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971),

Người Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

12. Lê Quý Đôn (1977), Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Lê Quý Đôn (1998), Kiến văn tiểu lục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

14. Trần Văn Giầu (1958), Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn

trước năm 1858, NXB Văn hoá, Hà Nội.

15. Lộc Thị Hà (2014), Tìm hiểu tục tang ma của người Nùng ở huyện Lục Yên- Yên

Bái, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Tây Bắc.

16. Nguyễn Thị Hà (2010), Huyện Chiêm Hóa – Tuyên Quang nửa đầu thế kỷ XIX,

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Sư Phạm, Đại học Thái Nguyên.

17. Đỗ Thị Hoa (2003), Trang phục các dân tộc thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt -

Mường, Tày- Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

101

18. Lê Như Hoa (1998), Hôn lễ xưa và nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

19. Phan Kim Huê (2000), Lễ tục Việt Nam xưa và nay, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

20. Nguyễn Văn Huy (1997), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

21. Hà Lâm Kỳ (2005), Mỗi nét hoa văn, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

22. Phan Huy Lê (1959), Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, Nxb

Văn Sử Địa, Hà Nội.

23. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo (1995), Địa

bạ Hà Đông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Ngô Sĩ Liên (1973), Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, Nxb KHXH, Hà Nội.

25. Lã Văn Lô - Hà Văn Thư (1980), Bàn về cách mạng tư tưởng văn hóa ở vùng

các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

26. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày,

Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.

27. Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), Đào Tố Uyên, Võ Xuân Đàn (2008), Giáo trình

Lịch sử Việt Nam, tập 3, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

28. Nguyễn Quang Ngọc (2000), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề làng xã Việt Nam, Nxb Đại học

Quốc Gia, Hà Nội.

30. Nội các triều Nguyễn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập IV, Nxb Thuận

Hóa, 2005.

31. Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

32. Hoàng Việt Quân, Địa danh Yên Bái Sơ khảo (Tài liệu sưu tầm).

33. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực lục chính biên - đệ nhị kỉ, tập

IX, Nxb Khoa học, Hà Nội.

34. Quốc sử quán triều Nguyễn (1971), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb khoa

học xã hội, Hà Nội.

35. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb Thuận Hóa.

36. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục

102

37. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập III, Nxb Giáo dục.

38. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục.

39. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập V, Nxb Giáo dục.

40. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam từ thế kỷ XI - XVIII,

Tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

41. Trương Hữu Quýnh (1983), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam, Tập II, Nxb Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

42. Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang (chủ biên) (1997), Tình hình ruộng đất nông

nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn, Nxb Thuận Hóa.

43. Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh (1999), Lịch sử Việt Nam từ nguyên

thủy đến 1858, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

44. Nguyễn Văn Siêu (2001), Phương Đình dư địa chí, Nxb Văn hóa- Thông tin.

45. Sở Văn hóa Thông tin Yên Bái (2008), Di tích Lịch sử- Khảo cổ học Hắc Y.

46. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Yên Bái (2009), Hồ sơ lý lịch Di tích chùa

Hang São

47. Hồ Bạch Thảo (dịch), (2010), Minh thực lục- Quan hệ Trung Quốc-Việt Nam

Thế kỷ XIV – XVII, Tập 1, Nxb Hà Nội.

48. Phan Phương Thảo (2004), Chính sách quân điền năm 1839 ở Bình Định qua tư

liệu địa bạ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

49. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (dịch) (1999), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ

XIX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

50. Bùi Thiết (1999), 54 dân tộc Việt Nam và các tên gọi khác, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

51. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe PaPin (dịch) (2003), Đồng Khánh

địa dư chí, Nxb Thế giới, Hà Nội.

52. Tỉnh ủy - Ban Dân vận và Dân tộc tỉnh Yên Bái (2000), Một số nét đặc trưng

các dân tộc tỉnh Yên Bái.

53. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2000), Tỉnh Yên

Bái một thế kỷ (1900 - 2000).

54. Trung tâm Văn hóa Thông tin- Thể thao huyện Lục Yên (2005), Lục Yên đất ngọc.

55. Nông Quốc Tuấn (2003), Trang phục cổ truyền của người Dao ở Việt Nam, Nxb

103

Văn hóa dân tộc.

56. Đàm Thị Uyên (2007), Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt

Nam (thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XIX), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

57. Đàm Thị Uyên (2011), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành lập đến

giữa thế kỉ XIX, Nx b Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

58. Đàm Thị Uyên và Nguyễn Thị Trang (2014), Vài nét về kinh tế tỉnh Tuyên

Quang nửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 8.

59. Trần Thị Thanh Xuyên (2015), Kinh tế, văn hóa huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ

104

XIX, Luận Văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên.

TÀI LIỆU ĐỊA BẠ

60. Bì Hạ xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7963.

61. Đà Dương xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7944.

62. Đào Lâm xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7960.

63. Điện Quan xã, địa bạ năm, Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7957.

64. Đồ Lệnh xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7945.

65. Động Khai xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7958.

66. Lạc Thượng xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7955.

67. Lâm Trường Hạ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7950.

68. Lâm Trường Thượng xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21 , TTLTQGIHN, KH: 7951.

69. Lâm Trường Trung xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7949.

70. Lâm Vân xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7948.

71. Liễu Đô xã, Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7947.

72. Lương Sơn xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7959.

73. Minh Chuẩn xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7961.

74. Mỹ Đô xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7941.

75. Nhân Mục xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7940.

76. Phúc Khánh xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7946.

77. Thản Cù xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7962.

78. Thuận Mục xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7939.

79. Tô Mậu xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7952.

80. Tô Trà xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7942.

81. Trúc Lâu xã, địa bạ năm Gia Long 4 , TTLTQGIHN, 7956.

82. Từ Hiếu xã, địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGIHN, KH: 7964.

105

83. Xuân Kỳ xã, địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGIHN, KH: 7954.

TÀI LIỆU ĐIỀN DÃ

STT Họ và tên Tuổi Nghề nghiệp Địa chỉ

84. Nguyễn Xuân Đoán 78 CB hưu trí Thị trấn Yên Thế

85. Nguyễn Nguyên Đúng 48 Trưởng phòng Dân tộc Thị trấn Yên Thế

86. Lý Đạt Lam 42 Trưởng phòng Văn hóa Thị trấn Yên Thế

87. Đặng Thị Mây 65 Nông dân Xã Khai Trung

88. Hoàng Văn Nhàn 68 CB hưu trí Xã Mường Lai

89. Bàn Thị Nòi 70 Nông dân Xã Động Quan

90. Hoàng Quang Nừng 69 CB hưu trí Thị trấn Yên Thế

91. Nguyễn Văn Quy 69 CB hưu trí Thị trấn Yên Thế

92. Phùng Văn Thíp 72 Nông dân Xã Động Quan

93. Hoàng Ngọc Thường 50 Trưởng phòng thống kê Thị trấn Yên Thế

106

94. Hoàng Thị Vĩ 65 Nông dân Xã Khánh Thiện

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: LẠC THƢỢNG XÃ ĐỊA BẠ NĂM GIA LONG 4 (1805)

Tên xã: Lạc Thượng

Tổng: Bì Hạ.

Ký hiệu:7955.

Niên hiệu: Gia Long 4(1805).

Số tờ gốc: 04.

Vị trí: Đông giáp xã Dự Chương đến núi đất.

Nam giáp xã Dự Chương đến núi đá.

Tây giáp xã Bì Hạ đến Tiểu Khê.

Bắc giáp xã Cổ Văn đến núi đá

Diện tích ruộng đất: 174.3.13.7.0

Tư điền: 174.3.13.7.0

Thực canh : 22.3.5.3.0

Lưu hoang: 52.0.8.4.0

Loại đất: Loại 3.

Chức sắc:

Xã trưởng: Hoàng Đình Hột: 17.3.0.0.0.

Khán Thủ: Hoàng Đình Dinh: 1.0.5.3.0

Thôn trưởng: Hoàng Đình Xuân: 4.0.0.0.0

Hoàng Đình Bí

Hoàng Đình Hoàng

Phụ lục 2: HOẠT ĐỘNG KINH TẾ

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

7,8,9. Thu hoạch măng, lúa, ngô, cam 11, 12. Nghề thủ công

1. Cọn nước vào ruộng 2. Làm đất 3. Chăm sóc mạ

4. Nương ngô 5. Lúa nước 6. Lúa nương

Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm tại xã Khai Trung, Động Quan, Tô Mậu, Minh Xuân, Tân Lĩnh, Liễu Đô

Phụ lục 3: LÀNG BẢN VÀ NHÀ CỬA

1

2

4

3

5

6

3,4. Nhà sàn của người Tày 5, 6. Nhà trình tường của người Dao

1. Làng bản của người Tày 2. Làng bản của người Dao

Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm

Phụ lục 4: ẨM THỰC

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

1. Bánh chuối 2. Cơm lam 3. Bánh dày 4. Cốm

5. Gói bánh đẳng 6. Thịt mắm cơm đỏ 7. Cá hém 8. Cá nướng

9. Thịt lạp 10. Trứng kiến 11. Quả cọ 11. Rượu hoẵng

Nguồn: Tác giả chụp tại xã Minh Xuân, Tân Lập, Tân Lĩnh tháng 12/2016

Phụ lục 5: ĐÁM CƢỚI

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

1, 2, 3. Chuẩn bị lễ vật đón dâu của người Tày 4. Quan làng xin dâu của người Tày 5. Cô dâu Tày về đến nhà chồng

6. Cô dâu, chú rể Tày trước bàn thờ gia tiên 7.Nhà gái đưa dâu về nhà chồng của người Dao

8, 9,10,11. Đón dâu của người Dao 12. Cô dâu, chú rể Dao trước bàn thờ gia tiên

Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm tại xã Tân Lập tháng 12/2016

Phụ lục 6: TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG

1.

2.

3.

4.

5.

6.

7.

9.

8.

7. Lễ hội đền Đại Cại 8. Đồng bào Dao chuẩn bị lễ Cầu mùa 9. Lễ Cầu mùa của người Dao

1. Cổng chùa tháp Hắc Y - đền Đại Cại 2,3. Chùa tháp Hắc Y - đền Đại Cại 4. Hang chùa São 5,6. Nhũ đá ở hang chùa São

Nguồn: Tác giả chụp và sưu tầm tại xã Tân Lập, Tân Lĩnh, Khai Trung tháng 7 /2016.