ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRỊNH VĂN THẮNG

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN TIÊN DU,

TỈNH BẮC NINH TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013

Chuyên ngành: Lịch sử việt Nam

Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Minh

Thái Nguyên - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, kết quả

nghiên cứu trong luận văn là trung thực, chưa được công bố.

Người thực hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTn

http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trịnh Văn Thắng

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên tác giả Luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn

Xuân Minh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tác giả trong quá trình tìm

hiểu, nghiên cứu và hoàn thành đề tài.

Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy, cô giáo trong Khoa

Lịch Sử Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận

tình, động viên khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành

Luận văn này.

Trong thời gian thực hiện Luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình

của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh, Huyện ủy, UBND huyện Tiên Du, cùng các

phòng, ban, đoàn thể trong tỉnh Bắc Ninh đã cung cấp tư liệu để tác giả hoàn thành

luận văn.

Tác giả xin chân thành cảm ơn những nhận xét, đánh giá, góp ý quý báu của

Hội đồng khoa học đánh giá luận văn.

Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè,

đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành

Luận văn này.

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2015

Tác giả

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTn

http://www.lrc.tnu.edu.vn

Trịnh Văn Thắng

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa Trang

Lời cam đoan ............................................................................................................ i

Lời cảm ơn .............................................................................................................. ii

Mục lục .................................................................................................................. iii

Danh mục các bảng, biểu đồ ................................................................................... iv

Danh mục các kí hiệu, chữ viết tắt. .......................................................................... v

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

Chương 1 TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN TIÊN DU TRƯỚC NĂM

1999 .......................................................................................................................10

1.1 Khái quát về huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh .................................................10

1.1.1 Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên.............................................................10

1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên chính .............................................................14

1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội .............................................................................18

1.2.1. Đặc điểm kinh tế ................................................................................18

1.2.2. Đặc điểm xã hội .................................................................................19

1.3. Tình hình kinh tế, xã hội huyện Tiên Du trước năm 1999 ...........................23

1.3.1. Tình hình kinh tế ................................................................................23

1.3.2. Tình hình xã hội .................................................................................29

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................34

Chương 2 CHUYỂN BIẾN KINH TẾ HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH

TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013 ..........................................................................36

2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng bộ địa phương ...........................36

2.1.1. Bối cảnh lịch sử .................................................................................36

2.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế, xã hội của huyện Tiên Du....................38

2.2. Chuyển biến về kinh tế của huyện Tiên Du từ năm 1999 đến năm 2013 ............... 40

2.2.1. Trong cơ cấu kinh tế ..........................................................................40

2.2.2. Trong công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ..........................................47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

iii

2.2.3. Trong thương mại, dịch vụ và du lịch .................................................53

2.2.4. Trong nông - lâm nghiệp - thủy sản ....................................................58

2.2.5. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng ............................................................66

Tiểu kết chương 2 ........................................................................................70

Chương 3 CHUYỂN BIẾN VỀ XÃ HỘI HUYỆN TIÊN DU TỪ NĂM 1999

ĐẾN NĂM 2013 ....................................................................................................71

3.1. Về dân số - lao động - việc làm ..................................................................71

3.2. Về thu nhập và đời sống .............................................................................75

3.3. Về văn hóa - giáo dục .................................................................................77

3.3.1. Về giáo dục ........................................................................................77

3.3.2. về văn hóa ..........................................................................................81

3.4. Về công tác y tế và bảo vệ môi trường .......................................................84

3.4.1. Y tế ....................................................................................................84

3.4.2. Về bảo vệ môi trường.........................................................................86

3.5. Về chính sách xã hội ..................................................................................88

3.6. Về an ninh, quốc phòng ..............................................................................90

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................94

KẾT LUẬN ...........................................................................................................95

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

iv

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Trang

Bảng 2.1-Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế huyện Tiên Du giai đoạn 2005-

2013...............................................................................................................45

Bảng 2.2- Giá trị sản xuất công nghiệp huyện Tiên Dugiai đoạn 2005 - 2013. ........51

Bảng 2.3- Số cơ sở, lao động, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ-

thương mại - du lịch huyện Tiên Du giai đoạn 2005 - 2013 ............................57

Bảng 2.4- GTSX nông - lâm nghiệp - thủy sản huyện Tiên Du giai đoạn 2005 -

2013 ...............................................................................................................64

Bảng 3.1- Biến động dân số huyện Tiên Du 2000 - 2006 ........................................72

Bảng 3.2-Thu nhập bình quân đầu người huyện Tiên Du giai đoạn 2005 - 2013 .....76

Bảng 3.3- Số trường, số lớp, số học sinh huyện Tiên Du năm 2013 ........................79

Bảng 3.4- Một số chỉ tiêu về y tế huyện Tiên Du từ năm 2000 đến năm 2007. ........86

Biểu đồ 2.1- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Tiên Du, từ năm 2000 - 2013 ........47

Biểu đồ 2.2- Cơ cấu (%) giá trị sản xuất công nghiệp huyện Tiên Du, giai đoạn

2005 - 2013 ....................................................................................................53

Biểu đồ 2.3- Giá trị lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ huyện Tiên Du, từ

năm 2000 - 2013.............................................................................................58

Biểu đồ 2.4- Cơ cấu giá trị sản xuất nông - lâm - hủy sản huyện Tiên Du, từ năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

iv

2000 - 2013 ....................................................................................................66

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

KÍ HIỆU NỘI DUNG

Ban Chấp hành BCH

Cụm công nghiệp CCN

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH

Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp CN -TTCN

Chủ nghĩa xã hội CNXH

Hội đồng Nhân dân HĐND

Khu công nghiệp KCN

Kế hoạch hóa gia đình KHHGĐ

Khoa học - kĩ thuật KHKT

Khoa học - kĩ thuật KHKT

Nhà xuất bản NXB

Thể dục thể thao TDTT

Trung học cơ sở THCS

Trung học phổ thông THPT

Trung ương TW

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

v

Ủy ban Nhân dân UBND

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

vi

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN TIÊN DU - TỈNH BẮC NINH.

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Kinh tế - xã hội có mối quan hệ biện chứng trong sự vận động và phát

triển của lịch sử mỗi quốc gia, dân tộc. Sự phát triển kinh tế, xã hội là thước đo

trình độ phát triển của bất cứ một quốc gia hay một chế độ chính trị, xã hội nào. Vì

vậy, tất cả các quốc gia, dân tộc đều tìm cho mình một con đường phù hợp để phát

triển đi lên cùng thời đại.

Đại thắng mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử

đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cách mạng nước ta

chuyển sang thời kì mới - thời kì độc lập, thống nhất và đi lên CNXH. Trong 10

năm đầu (1976 - 1986) cả nước đi lên CNXH, nhân dân ta đã phải đối mặt với

muôn vàn khó khăn, thách thức: Các thế lực thù địch tiến hành bao vây cấm vận

một nước Việt Nam còn mang đầy mình vết thương chiến tranh, lại phải gồng

mình gánh chịu vết thương mới do hai cuộc chiến tranh biên giới gây ra. Trong

khi đó, cả nước thực hiện nhiệm vụ chiến lược xây dựng CNXH với một xuất phát

điểm thấp, trình độ tổ chức, quản lí kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. Việc thực

hiện 2 kế hoạch Nhà nước 5 năm do Đại hội IV (12/1976) và Đại hội V (3/1982)

của Đảng đề ra, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song khó khăn

gặp phải cũng không nhỏ, chủ yếu do yếu kém, sai lầm trong chủ trương, chính

sách lớn và việc chỉ đạo thực hiện, dẫn đến tình trạng đất nước lâm vào khủng

hoảng nghiêm trọng, nhất là về kinh tế - xã hội. Để thoát khỏi tình trạng đó, Việt

Nam cần phải có những bước đi mang tính đột phá.

Từ ngày 15 đến 18/12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần VI được tổ chức tại

Hà Nội. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, chủ trương phát

triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò

chủ đạo: “Nhiệm vụ cải tạo XHCN đặ ra cho chặng đường đầu tiên là kinh tế

XHCN với khu vực quốc doanh làm nòng cốt, phải giành được vai trò quyết định

trong nền kinh tế quốc dân” [12, tr. 59]. Kinh tế địa phương được ví như tế bào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

1

sống của nền kinh tế quốc gia. Do vậy, việc đầu tư phát triển kinh tế địa phương

được Đảng xác định là nhiệm vụ hàng đầu, thường xuyên, mang tính lâu dài và tất

yếu trên bước đường xây dựng, phát triển đất nước.

Đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra đã tác động mạnh mẽ và sâu rộng tới tất

cả mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, các địa phương trong cả nước. Sau

gần 30 năm (1986 - 2013) tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước đã từng bước

vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định, phát triển và dần bắt kịp được

tốc độ phát triển của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Thực tiễn

cách mạng nước ta đã chỉ ra rằng, không thành công trên lĩnh vực kinh tế thì

không giữ được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Để làm được điều đó,

chúng ta cần xác định rõ bước đi cho quá trình phát triển. Việc nghiên cứu tình

hình kinh tế, xã hội trong giai đoạn vừa qua là việc làm cần thiết.

Huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh là một vùng quê có truyền thống lịch sử và văn

hoá lâu đời. Trải suốt chiều dài lịch sử, những truyền thống tốt đẹp ngày càng được

bồi đắp và phát huy. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân Tiên Du

một lòng theo Đảng cùng với cả nước làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công,

tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ thắng lợi.

Sau khi đất nước thống nhất (năm 1975), nhân dân Tiên Du cùng cả nước

bước vào thời kì xây dựng CNXH. Trong 10 năm đầu (1976 - 1986), mặc dù đã đạt

được một số thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH, nhưng Tiên

Du vẫn là một địa phương chậm phát triển về kinh tế, xã hội; đến đầu những năm 80

thì rơi vào khủng hoảng cùng với cả nước. Bước vào thời kì đổi mới, Đảng bộ và

nhân dân huyện Tiên Du đã vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương của Đảng vào

hoàn cảnh thực tế của địa phương.

Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ khi tái lập huyện

(năm 1999), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Tiên Du từng bước khai thác,

phát huy tiềm năng, thế mạnh kinh tế của địa phương. Nhờ đó, kinh tế Tiên Du từng

bước thoát khỏi khủng hoảng và phát triển mạnh mẽ; sự nghiệp CNH, HĐH đạt

được nhiều thành tựu; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Bộ mặt kinh

tế, xã hội ở huyện Tiên Du từng bước đổi thay, đời sống vật chất và tinh thần của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

2

nhân dân ngày càng được nâng cao.

Bên cạnh những thành tích, ưu điểm, công cuộc xây dựng và phát triển kinh

tế - xã hội ở huyện Tiên Du trong thời kì sau ngày tái lập vẫn còn bộc lộ những hạn

chế, yếu kém, bất cập cần được tổng kết rút kinh nghiệm để có những giải pháp

đúng đắn, phù hợp nhằm đưa huyện phát triển bền vững trong giai đoạn tiếp theo.

Nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Tiên Du từ năm 1999 đến

năm 2013 chính là nhằm làm rõ những thành tựu, hạn chế trong quá trình vận dụng

đường lối đổi mới của Đảng; thấy được sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng

bộ và chính quyền địa phương. Mặt khác, là một giáo viên giảng dạy bộ môn Lịch

sử, tôi nhận rõ trách nhiệm tìm hiểu và giáo dục cho các thế hệ học trò của mình

niềm tự hào về quê hương, đất nước. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tôi mạnh

dạn nêu lên một số giải pháp phát triển kinh tế, xã hội. Đây có thể là những gợi ý để

các cấp chính quyền địa phương bổ sung, hoàn thiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã

hội trong tương lai.

Xuất phát từ những lí do trên, tôi quyết định chọn vấn đề “Sự chuyển biến

kinh tế, xã hội huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1999 đến năm 2013” làm đề

tài Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.

Đề tài sẽ là một nguồn tư liệu quan trọng góp phần vào việc nghiên cứu,

biên soạn và giảng dạy lịch sử địa phương vì đề tài đã đi sâu nghiên cứu những

chuyển biến trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện, làm nổi bật

truyền thống lịch sử, văn hóa của nhân dân Tiên Du trong quá khứ và hiện tại.

Đề tài góp phần tập hợp tự liệu, cung cấp cho một nguồn tư liệu cần thiết,

xác đáng về huyện để các nhà khoa học, các nhà chính trị, kinh tế, văn

hóa….nghiên cứu so sánh, đối chiếu và mở rộng phạm vi nghiên cứu.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Vấn đề kinh tế, xã hội đất nước nói chung và các địa phương nói riêng là một

trong những đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các

nhà khoa học dưới các góc độ khác nhau.

Trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) đến Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ XI (2010), vấn đề kinh tế, xã hội đã được nêu lên thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

3

đường lối chung mang tính định hướng cho sự phát triển. Đăc biệt, Đại hội Đảng

toàn quốc lần thứ IX đã thông qua 2 văn kiện quan trọng là “Chiến lược phát triển

kinh tế - xã hội 5 năm 2001- 2005’’ và “Chiến lược ổn định sự phát triển kinh tế -

xã hội đến năm 2010’’.

Trong tác phẩm Nắm vững đường lối cách mạng XHCN tiến lên xây dựng

kinh tế địa phương vững mạnh (Nxb Sự thật - Hà Nội 1968), Tổng Bí thư Đảng Lê

Duẩn đã đề cập đến vai trò, vị trí của kinh tế địa phương đối với sự phát triển của

nền kinh tế quốc dân, đồng thời nêu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc

xây dựng và phát triển đất nước. Tác phẩm Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất

nước và thời đại (Nxb Sự thật - Hà Nội 1987) của đồng chí Trường Chinh đã phân

tích chủ trương của Đảng đề ra trong Nghị quyết Đại hội IV, V, khẳng định tính

đúng đắn và ý nghĩa của những thành tựu đạt được; đồng thời cũng chỉ ra những

sai lầm, khuyết điểm; từ đó nêu lên sự cần thiết phải tiến hành đổi mới toàn

diện đất nước, trọng tâm là đổi mới về kinh tế.

Trong cuốn Có một Việt Nam như thế - đổi mới và phát triển (Nxb Chính trị

Quốc gia - Hà Nội 1987) do Trần Nhâm chủ biên, các tác giả đã phân tích sự phát

triển của Việt Nam trong công cuộc đổi mới, coi đổi mới là đòi hỏi bức thiết của

chính sách dân tộc và sự phát triển của đất nước; những thành tựu bước đầu của

công cuộc đổi mới, những bài học và triển vọng; nguồn lực con người - yếu tố quyết

định đối với việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh, củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc XHCN…

Trong tập giáo trình Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay (Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội - 2000) và Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay - Những vấn đề lí luận và

thực tiễn của CNXH ở Việt Nam (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội - 1998), PGS.TS

Trần Bá Đệ đã nêu bật bối cảnh đất nước, nền tảng kinh tế-xã hội Việt Nam khi tiến

hành công cuộc xây dựng CNXH, chủ trương, quan điểm, đường lối đổi mới của

Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế, chính trị, xã hội; coi đổi mới là đòi hỏi cấp

thiết có ý nghĩa sống còn đối với CNXH của nước ta; những thành tựu và hạn chế

trong bước đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.

http://www.lrc.tnu.edu.vn

Bộ kỉ yếu Việt Nam trong thế kỉ XX do Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn

hành, gồm nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước đã làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 4

nổi bật những chuyển biến kinh tế - xã hội - văn hóa - chính trị của Việt Nam trong

thế kỉ XX, nhất là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cuối thế kỉ XX.

Về tình hình kinh tế, xã hội huyện Tiên Du, trong các chỉ thị, nghị quyết của

Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, các văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Du lần thứ XIV,

XV, XVI và một số tài liệu khác, những thành tựu, tiến bộ và cả những khó khăn,

hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện hiện công cuộc đổi mới của địa phương

đã được đánh giá nghiêm túc, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra chủ trương,

đường lối phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong các giai đoạn tiếp theo.

Năm 2010, BCH Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh cho xuất bản cuốn Lịch sử Đảng bộ

tỉnh Bắc Ninh (1926 - 2008) (Nxb Chính tri Quốc gia Hà Nội). Cuốn sách đã trình

bày một cách đầy đủ, hệ thống điều kiện tự nhiên, xã hội; các giai đoạn lịch sử,

truyền thống lịch sử, văn hóa, tiềm năng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội;

chiến lược phát triển kinh tế, quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh

CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh.

Các đề án: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020

của Tỉnh ủy Bắc Ninh, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện

Tiên Du đến năm 2020 và Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện

Tiên Du đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Huyện ủy Tiên Du; tập bài giảng

Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy; Lịch sử huyện

Tiên Sơn của Đảng bộ huyện Tiên Sơn xuất bản năm 1994; Lịch sử Đảng bộ

huyện Tiên Du (1926 - 2000) của BCH Đảng bộ huyện Tiên Du xuất bản năm

2003… là những tài liệu đã đề cập đến quá trình thực hiện công cuộc đổi mới,

đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh nói chung và huyện Tiên Du nói riêng.

Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh, BCH Đảng bộ huyện

Tiên Du trong các kì Đại hội từ 1986 đến 2010 đã tổng kết tình hình kinh tế-xã hội

của tỉnh, huyện. Các báo cáo đó đã nêu lên những thành tựu, hạn chế…trong việc

thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và đề ra mục tiêu, phương hướng,

nhiệm vụ trong nhiệm kì tiếp theo.

Hệ thống sách, báo, tạp chí, báo cáo tổng kết hằng năm, đề án của UBND

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

5

huyện, các sở, phòng, ban ngành của tỉnh, của huyện…đều đã nêu bật những thành

tựu đã đạt được; khó khăn, hạn chế, phương hướng phát triển…, song chỉ đi sâu vào

lĩnh vực chuyên môn mà mình phụ trách.

Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Thị Thúy Hường: Đánh giá tình hình thực

hiện qui hoạch sử dụng đất huyện Tiên Du giai đoạn 2000 - 2010, đã đề cập đến

hiện trạng sử dụng đất của huyện.

Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Xuân: Cuộc vận động khuyến học,

khuyến tài ở huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh(2001 - 2007), có đề cập đến tình hình

giáo dục của huyện Tiên Du từ năm 2001 - 2007.

Luận văn Thạc sĩ của tác giả Vũ Phương Mai: Phát triển nguồn nhân lực

cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn ở Bắc Ninh, có đề cập

đến thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở huyện Tiên Du.

Luận án Tến sĩ của tác giả Nguyễn Sỹ: Quá trình CNH - HĐH nông nghiệp-

nông thôn tỉnh Bắc Ninh từ 1986 - nay. Thực trạng, kinh nghiệm, giải pháp.Có đề

cập đến tình hình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn huyện Tiên Du từ

1999 - 2007.

Hệ thống niên giám thống kê của Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh, Phòng

Thống kê huyện Tiên Du từ năm 1986 đến năm 2013 đã phản ánh được tình

hình kinh tế - xã hội của huyện Tiên Du hằng năm trên tất cả các lĩnh vực: công

- nông - lâm - thủy sản, văn hóa - giáo dục…Tuy nhiên, đó chỉ là những thống

kê số liệu rời rạc, lẻ tẻ mang tính chất tin tức, thời sự chưa thành một hệ thống.

Nhìn chung, những tư liệu trên đã góp phần làm sáng tỏ vấn đề về chuyển

biến kinh tế-xã hội của đất nước, tỉnh Bắc Ninh nói chung và huyện Tiên Du nói

riêng, ở những khía cạnh khác nhau đã đề cập được vấn đề đổi mới là bức thiết, là

sự sống còn của Quốc gia, dân tộc; phản ánh những thành tựu bước đầu của công

cuộc đổi mới đất nước; nêu bật được các giai đoạn lịch sử, truyền thống lịch sử -

văn hóa, khái quát được tình hình kinh tế - xã hội huyện Tiên Du, những thành tựu

và hạn chế. Song, cho đến nay chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

6

chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Tiên Du từ khi tái lập đến nay (1999 - 2013).

Tuy vậy, những công trình, tài liệu được công bố là nguồn tư liệu quý

giúp tôi phương hướng tiếp tục đi sâu nghiên cứu để hoàn thành đề tài Luận

văn Chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh từ năm 1999 đến

năm 2013.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về sự chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Tiên Du,

tỉnh Bắc Ninh 1999-2013.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đề tài giới hạn trong huyện Tiên Du thuộc tỉnh Bắc Ninh,

địa giới hành chính gồm 13 xã, 1thị trấn.

- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu sự chuyển biến kinh tế, xã hội

huyện Tiên Du từ sau khi tái lập (1999) đến năm 2013. Tuy nhiên, để làm rõ nội

dung theo yêu cầu của đề tài, Luận văn đề cập tình hình kinh tế, xã hội của Tiên Du

những năm trước đó.

3.3. Nhiệm vụ của đề tài

- Khái quát về huyện Tiên Du, làm rõ tình hình kinh tế - xã hội huyện Tiên

Du trước khi tái lập (1999).

- Đi sâu phân tích những thành tựu, nêu bật những chuyển biến kinh tế,

xã hội của huyện Tiên Du trong những năm 1999 - 2013; đồng thời làm rõ

những hạn chế, yếu kém trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trên

địa bàn.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng và

phát triển kinh tế - xã hội trong những giai đoạn tiếp theo.

3. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

3.1. Nguồn tài liệu

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả Luận văn đã sử dụng những nguồn

tài liệu sau: Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, các chỉ thị, nghị quyết của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

7

Đảng - Nhà nước về kinh tế, xã hội; các chỉ thị, nghị quyết, các báo cáo tổng kết

của Huyện ủy và UBND huyện Tiên Du từ 1999 - 2013; các tập Niên giám thống

kê của Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh, Phòng Thống kê huyện Tiên Du…cùng các

công trình nghiên cứu, sách báo, tạp chí… về những vấn đề thuộc phạm vi nghiên

cứu của đề tài.

Ngoài ra, để đảm bảo tính chính xác khoa học và làm phong phú hơn nội

dung của Luận văn, tác giả còn sử dụng các nguồn tư liệu thu thập được thông qua

các đợt khảo sát thực tế tìm hiểu những vấn đề về xây dựng và phát triển của huyện

Tiên Du tại các KCN, các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh trên địa bàn

huyện; gặp gỡ phỏng vấn các cụ già cao tuổi, các cá nhân tiêu biểu có nhiều thành

tích xuất sắc trong xây dựng phát triển kinh tế tại địa phương để có thêm thông tin

bổ sung, thẩm định cho các tài liệu lưu trữ.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Để tái hiện quá trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Tiên Du từ

1999 đến 2013, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp

logic, thông qua việc sử dụng các phương pháp chuyên ngành (diễn tiến theo

các giai đoạn, các lĩnh vực), phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu để khôi

phục lại tình hình phát triển kinh tế, xã hội ở huện Tiên Du từ năm 1999 -

2013.

- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp tìm ra sự tác động giữa sự

chuyển biến kinh tế đến sự chuyển biến xã hội trong thời kì tiến hành CNH, HĐH ở

huyện Tiên Du, để từ đó rút ra nhận xét, kết luận khái quát.

- Ngoài ra, tác giả cũng kết hợp sử dụng phương pháp phỏng vấn điều tra xã hội

học, thống kê, so sánh, để chọn lọc, bổ sung tư liệu làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.

4. Đóng góp của luận văn

- Luận văn dựng lại một cách sinh động quá trình xây dựng và phát triển về

kinh tế, xã hội của huyện Tiên Du từ khi tái lập (1999) đến 2013.

- Thông qua việc xử lí các nguồn tư liệu, Luận văn phát triển, làm rõ những

thành tựu, ưu điểm, tiến bộ cũng như những hạn chế, yếu kém, bất cập trong quá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

8

trình chuyển biến kinh tế, xã hội của huyện Tiên Du trong thời kì đổi mới đất nước

kể từ khi tái lập huyện. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp

nhằm phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của huyện trong giai đoạn tiếp theo.

- Luận văn dùng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy lịch sử ở địa phương.

5. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung

Luận văn được cấu trúc làm 3 chương:

Chương 1: Tình hình kinh tế, xã hội huyện Tiên Du trước 1999.

Chương 2: Chuyển biến kinh tế huyện Tiên Du từ năm 1999 đến năm 2013.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

9

Chương 3: Chuyển biến xã hội huyện Tiên Du từ năm 1999 đến năm 2013.

Chương 1

TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI HUYỆN TIÊN DU TRƯỚC NĂM 1999

1.1 Khái quát về huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh

1.1.1 Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên

Bắc Ninh - Kinh Bắc, mảnh đất địa linh nhân kiệt, cái nôi ra đời của thiên

anh hùng ca Ông Gióng - một mô hình anh hùng cứu nước điển hình mà mọi người

Việt Nam hôm nay vẫn rất đỗi xúc động, tự hào:

Ngựa sắt linh thiêng lừng đất Bắc

Giáo thần khua trỏ vững trời Nam

Phật Tích rồng bay điềm sinh thánh

Vũ Ninh voi thúc sáng công thần.

Mảnh đất Bắc Ninh là nơi phát tích vương triều Lý - một vương triều giỏi võ

công, văn trị, định đô Thăng Long và khai mở nền Văn minh Đại Việt.

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ; phía tây và tây nam giáp thủ

đô Hà Nội, phía bắc giáp tỉnh Bắc Giang, phía đông và đông nam giáp tỉnh Hải

Dương, phía nam giáp tỉnh Hưng Yên. Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh Bắc Ninh

thuộc vùng Thủ đô. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế Côn Minh

- Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh và Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội -

Hải Phòng - Quảng Ninh.

Tiên Du là một vùng đất cổ, có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời. Ngược

dòng lịch sử, trở về thời các vua Hùng dựng nước, Tiên Du nằm trong bộ Vũ Ninh -

vùng đất trù phú của nước Văn Lang xưa. Khi Thục Phán chinh phục nước Văn

Lang lập ra nước Âu Lạc thì cư dân Việt cổ ở vùng Tiên Du đã đóng góp một phần

quan trọng trong việc xây đắp Loa thành.

Thời Bắc thuộc, Tiên Du nằm trong địa vực của huyện Long Biên. Đời nhà

Hán đô hộ, Tiên Du nằm trong quận Giao Chỉ; đời Nam Tấn là châu Vũ Ninh; đời

Đường là châu Long.

Thời kì đất nước độc lập tự chủ, lịch sử đã đặt tên Tiên Du - phản ánh một

http://www.lrc.tnu.edu.vn

vùng đất vừa kì vĩ vừa lãng mạn. Sách Đại Việt sử kí ghi: “Tên của huyện Tiên Du

được bắt nguồn từ tên của núi Tiên Du thuộc làng Phật Tích và tồn tại từ thời Trần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 10

trở về trước” [30, tr.14b]. Thời Trần, huyện Tiên Du được thành lập khi hai huyện

Đông Ngàn và Tiên Du ra đời.

Trải mấy trăm năm lao động sáng tạo, cả vùng đất này trở nên trù phú vào

bậc nhất nước Đại Việt. Khu vực Phật Tích trở thành thư viện, cung điện Bảo Hòa

và là nơi tuyển chọn nhân tài cho đất nước.

Thời thuộc Minh, Tiên Du vẫn thuộc châu Vũ Ninh và là một bộ phận cấu

thành của tỉnh Bắc Giang. Thời Lê, huyện Tiên Du thuộc phủ Từ Sơn, trấn Kinh

Bắc; đến đầu thời Nguyễn vẫn giữ cách sắp xếp như vậy [46, tr.99]. Năm Minh

Mệnh thứ 2 (1821), trấn Kinh Bắc được đổi thành trấn Bắc Ninh, Tiên Du thuộc

phủ Từ Sơn. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc

Ninh. Tiên Du gồm 9 Tổng: Nội Duệ, Khắc Niệm, Chi Nê, Nội Viên, Thụ Triền,

Đại Vi, Dũng Vi, Đông Sơn, Phù Đổng. Năm 1895, chính quyền thực dân Pháp lấy

sông Cầu làm ranh giới, chia đôi tỉnh Bắc Ninh làm 2 tỉnh là Bắc Giang (phía Bắc

sông Cầu) và Bắc Ninh (phía Nam sông Cầu); huyện Tiên Du thuộc phủ Từ Sơn.

Sau Cách mạng tháng Tám, phủ Từ Sơn được giải thể, huyện Tiên Du

được giữ nguyên địa giới cũ. Năm 1961, Quốc hội (khóa II) Nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa quyết định cắt xã Phù Đổng và xã Trung Mầu về huyện Gia Lâm -

Hà Nội. Ngày 27/10/1962, Quốc hội ra quyết định sáp nhập tỉnh Bắc Ninh và tỉnh

Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc. Ngày 14/3/1963, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định

số 25/QĐ sáp nhập huyện Tiên Du và huyện Từ Sơn thành huyện Tiên Sơn. Sau

khi huyện Tiên Sơn thành lập, huyện lị đóng tại chân núi Lim (Hồng Vân Sơn)

thuộc xã Vân Tương.

Ngày 6/11/1996, tại kì họp thứ 10, Quốc hội (khóa IX) nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam ra nghị quyết chia tách và điều chỉnh địa giới một số tỉnh trong

cả nước. Tỉnh Hà Bắc được tách thành hai tỉnh: Bắc Ninh và Bắc Giang, có địa giới

như trước khi hợp nhất (10/1962) và hoạt động theo đơn vị hành chính mới kể từ

ngày 1/1/1997.

Ngày 10/12/1998, Chính phủ ra Nghị định số 10/NĐCP thành lập thị trấn

Lim. Ngày 9/8/1999, Chính phủ ra Nghị định số 68/NĐCP tách huyện Tiên Sơn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

11

thành huyện Tiên Du và huyện Từ Sơn. Huyện Tiên Du được tái lập, huyện lị đặt tại

thị trấn Lim. Huyện Tiên Du gồm 13 xã và 1 thị trấn: Đại Đồng, Tri Phương, Hoàn

Sơn, Phật Tích, Việt Đoàn, Minh Đạo, Cảnh Hưng, Tân Chi, Lạc Vệ, Hiên Vân,

Liên Bão, Nội Duệ, Phú Lâm và thị trấn Lim.

Như vậy, sau nhiều lần phân định địa giới hành chính, huyện Tiên Du vẫn

giữ nguyên tên gọi từ thời cổ và khá ổn định về các đơn vị hành chính; chỉ có 2

xã Trung Mầu và Phù Đổng cắt về huyện Gia Lâm-Hà Nội (1961), xã Võ Cường

cắt về thị xã Bắc Ninh (1985), xã Khắc Niệm và xã Hạp Lĩnh cắt về thành phố

Bắc Ninh (2007).

Huyện Tiên Du ngày nay là một trong 8 đơn vị hành chính trực thuộc

tỉnh Bắc Ninh; có tọa độ địa lí giới hạn từ 20005’30’’ đến 21011’ vĩ Bắc và từ

105058’15’’ đến 106006’30’’ kinh Đông. Nằm ở khu vực Tây Nam tỉnh Bắc

Ninh, huyện Tiên Du cách trung tâm tỉnh 5km, cách thủ đô Hà Nội 25km; phía

bắc giáp thành phố Bắc Ninh và huyện Yên Phong, phía nam giáp huyện Thuận

Thành, phía đông giáp huyện Quế Võ, phía tây giáp thị xã Từ Sơn [97, tr.7].

Huyện Tiên Du có tổng diện tích tự nhiên là 9.568,65 ha, chiếm 11,63%

diện tích tự nhiên của tỉnh; trong đó đất nông nghiệp là 5.346,75 ha, chiếm 55,87%

chủ yếu là đất trồng lúa với diện tích là 4.394,66 ha chiếm 45,92 % diện tích tự

nhiên; nuôi trồng thủy sản diện tích là 493,74 ha, chiếm 5,16 % diện tích tự nhiên;

đất phi nông nghiệp là 4.169,24 ha, chiếm 43,57% diện tích tự nhiên, trong đó đất ở

là 1.084,08 ha, chiếm 11,33% diện tích tự nhiên, còn lại là đất chưa sử dụng 52,66

ha, chiếm 0,55% diện tích tự nhiên. Tính đến năm 2013, dân số toàn huyện là

130.801 người; mật độ trung bình 1.367 người/km2, cao hơn mật độ trung bình của

tỉnh (1.344 người/km2) [74].

Nằm giữa 2 trung tâm kinh tế, thương mại của tỉnh là thành phố Bắc Ninh và

thị xã Từ Sơn, huyện Tiên Du có vị trí đặc biệt thuận lợi: Có đường xe lửa Hà Nội-

Lạng Sơn, Quốc lộ 1A, 1B đi qua nối liền với thành phố Bắc Ninh, thông thương

với Lạng Sơn và thủ đô Hà Nội; Quốc lộ 38 với cầu Hồ bắc qua sông Đuống đi Hải

Dương, Hưng Yên và thông thương với thành phố cảng Hải Phòng. Ngoài ra, Tiên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

12

Du còn có các tuyến đường tỉnh 276, 287, 295 cùng hệ thống các tuyến đường

huyện và sông Đuống chảy qua, hình thành một mạng lưới giao thông thủy, bộ, sắt

rất thuận lợi. Tiên Du được coi là cầu nối giữa Hà Nội với các tỉnh phía Bắc.

Với vị trí như vậy, huyện Tiên Du có nhiều lợi thế phát triển kinh tế-xã hội,

thu hút vốn đầu tư và mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa với các địa phương trong

và ngoài tỉnh.

Huyện Tiên Du nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên địa hình tương

đối bằng phẳng, hầu hết có độ dốc <300 (trừ một số đồi núi thấp, như đồi Lim, núi

Vân Khám, núi Chè, núi Phật Tích, Núi Đông Sơn, Núi Bát Vạn.. có độ cao từ 20 -

120m nhưng chiếm diện tích nhỏ so với tổng diện tích đất tự nhiên của huyện). Địa

hình vùng đồng bằng có độ nghiêng ra biển theo hướng tây bắc- đông nam, độ cao

trung bình từ 2,5-6 m so với mặt nước biển.

Địa hình Tiên Du thuận lợi cho phát triển giao thông, xây dựng cơ sở hạ

tầng, mở rộng mạng lưới khu dân cư, các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và

kiến thiết đồng ruộng tạo ra những vùng chuyên canh lúa chất lượng cao, phát triển

rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày.

Tiên Du nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, thời tiết chia thành hai mùa rõ

rệt: Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa trung bình

từ 125,2 mm (tháng 10) đến 283,3 mm (tháng 5), chiếm khoảng 86,64% lượng mưa

cả năm. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 4 năm sau, với lượng

mưa trên tháng biến động từ 11,6 đến 82,9 mm. Số giờ nắng trung bình các

tháng/năm khoảng 139,32 giờ, nhiệt độ trung bình dao động từ 23,40C đến 29,90C.

Độ ẩm không khí trung bình/năm khoảng 84%, trong đó tháng có độ ẩm lớn nhất

khoảng 88% (tháng 3), tháng có độ ẩm thấp nhất khoảng 70% (tháng 12). Hằng năm

có 2 mùa gió chính: Gió mùa Đông Bắc (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau) và gió

mùa Đông Nam (từ tháng 4 đến tháng 9) mang theo hơi ẩm và mưa rào [97, tr.8].

Nhìn chung, Tiên Du có điều kiện khí hậu khá thuận lợi cho sản xuất nông

nghiệp, nhưng cũng có nhiều bất lợi như nắng nóng, lạnh, khô hạn và lượng mưa

phân bố không đều giữa các mùa, nhất là mưa lớn tập trung theo mùa thường làm

ngập úng các khu vực thấp trũng gây khó khăn cho thâm canh tăng vụ, mở rộng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

13

diện tích canh tác.

1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên chính

* Tài nguyên nước: Huyện Tiên Du chịu ảnh hưởng của chế độ thủy văn

sông Đuống và các sông ngòi kênh rạch chảy qua địa bàn. Trong đó, sông Đuống có

lưu lượng chảy vào mùa mưa là 305,73 m3/s và mùa khô là 728 m3/s với tổng lượng

nước bình quân hằng năm khoảng 31,6 tỉ m3. Mức nước cao nhất tại bến Hồ là 9,64

m, chênh từ 4-5m so với mặt ruộng; mức thấp nhất là 0,19 m, thấp hơn mặt ruộng 3-

4 m [96,tr.10]. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có hệ thống sông ngòi khá dày đặc

với lượng nước dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tưới tiêu.

Nhìn chung, hệ thống thủy văn của Tiên Du thuận lợi về nguồn nước tưới

cho sản xuất nông nghiệp, kể cả mùa khô. Mặt khác, sông Đuống có hàm lượng phù

sa khá lớn, vào mùa mưa trung bình 1m3 nước có khoảng 2,8 kg phù sa. Lượng phù

sa khá lớn này đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành đồng bằng phù sa

màu mỡ ven sông của huyện.

- Tài nguyên nước mặt: Nguồn nước mặt khá dồi dào, gồm sông Đuống, ngòi

Tào Khê, kênh Nam, kênh Trịnh Xá…Trong đó, sông Đuống là nguồn cung cấp

chính; đoạn chảy qua phía Nam huyện từ xã Tri Phương đến xã Tân Chi khoảng 10

km, sau đó chảy qua huyện Gia Bình nối sông Hồng với sông Thái Bình, thuyền bè

có thể đi lại quanh năm tạo thành một tuyến giao thông thủy rất thuận tiện.

Hệ thống sông ngòi, kênh mương và số lượng ao, hồ tạo điều kiện cho

việc cung cấp nước ngọt quanh năm phục vụ sản xuất, sinh hoạt và cải tạo đất.

- Tài nguyên nước ngầm: Tuy chưa được khảo sát tính toán cụ thể, nhưng

qua thực tế cho thấy mực nước có độ sâu trung bình từ 3 m đến 7 m, chất lượng

nước tốt, có thể khai thác phục vụ sinh hoạt và tưới cho các loại cây trong vườn của

nhân dân trong mùa khô.

* Tài nguyên đất: Theo kết quả điều tra, đất đai huyện Tiên Du gồm các loại

chính sau:

- Đất phù sa được bồi đắp hằng năm của của hệ thống sông Hồng (Phb) có

diện tích 330,46 ha, chiếm 3,45% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố dọc sông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

14

Đuống ở các xã: Cảnh Hưng, Minh Đạo, Tân Chi. Đất được hình thành bởi phù sa

sông Đuống, tính chất của đất là được bồi đắp thường xuyên vào mùa mưa (tháng 7,

8), thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất khá dày, khả năng giữ nước và dinh dưỡng

thấp. Tuy nhiên, do được bồi đắp thường xuyên nên đất vẫn có độ phì khá cao, thích

hợp cho trồng các loại cây lúa, ngô, khoai, mía, rau, đậu.

- Đất không được bồi tụ của hệ thống sông Hồng (Ph) có diện tích 609,63 ha,

chiếm 6,37% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố ở các xã Đại Đồng, Tri

Phương, Minh Đạo, Tân Chi. Loại đất này hình thành ở địa hình cao hơn so với đất

trên; thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình, ít chua, chất dinh dưỡng trung

bình. Đất này có khả năng thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích vụ đông.

- Đất phù sa của hệ thống sông Hồng (Phg) có diện tích 3.331,94 ha, chiếm

34,82% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố ở hầu hết các xã, có thành phần cơ

giới từ thịt trung bình đến nặng, chua có hàm lượng bùn và đạm khá, thích hợp cho

trồng lúa nước và vụ đông.

- Đất phù sa của hệ thống sông Hồng (Phf) có diện tích 686,54 ha, chiếm

7,17% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố ở các xã Hoàn Sơn, Liên Bão, Phú

Lâm, Việt Đoàn, Lạc Vệ. Loại đất này hình thành ở địa hình cao hơn các loại đất

phù sa khác, có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến nhẹ, chua vừa có thể thâm

canh tăng vụ các loại cây vụ đông.

- Đất phù sa của hệ thống sông Thái Bình (Pg) có diện tích 762,07 ha, chiếm

7,96% diện tích tự nhiên toàn huyện, phân bố chủ yếu ở xã Phú Lâm, đất có địa

hình thấp thích hợp với cây lúa nước.

- Đất phù sa có tầng loang lổ của hệ thống sông Thái Bình (Pf) có diện tích

321,61 ha, tập trung ở xã Phú Lâm, ở địa hình cao có thể thâm canh tăng vụ.

- Đất phù sa ủng nước có diện tích 35.402 ha, chiếm 3,7% diện tích tự nhiên toàn

huyện, phân bố ở xã Phú Lâm, Phật Tích, Nội Duệ; ở địa hình thấp thường bị úng nước

sau khi mưa, thích hợp cho cây lúa nước và nuôi trồng thủy sản.

- Đất xám bạc màu trên phù sa cổ có diện tích 572,4 ha, chiếm 5,98% diện

tích tự nhiên toàn huyện, phân bố ở xã Hoàn Sơn, thành phần cơ giới thô, nghèo sét,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

15

màu xám trắng, độ phì thấp, phù hợp với cây ăn quả lưu niên.

- Đất nhạt trên cát (Fp) có diện tích 287,09 ha, chiếm 3% diện tích tự

nhiên toàn huyện, phân bố ở các xã Hoàn Sơn, Phật Tích, Hiên Vân và thị trấn

Lim, được hình thành tại chỗ trên nền núi độc lập giữa đồng bằng. Loại đất

này có thành phần cơ giới nhẹ, tầng mỏng, lẫn nhiều đá, chua, thích hợp với

trồng rừng.

- Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ (D) có diện tích 16,18 ha, chiếm 1,32%

diện tích tự nhiên toàn huyện, đất dốc được bồi tụ các sản phẩm từ trên xuống,

thành phần cơ giới nặng. Do quá trình canh tác lâu đời và tình trạng ngập nước

thường xuyên, nên loại đất này bị yếm khí, thích hợp cho trồng lúa nước.

Như vậy, so với tổng quỹ đất thì đất canh tác chiếm tỉ lệ lớn và được sử

dụng tối đa. Nhìn chung, đất đai Tiên Du chủ yếu do phù sa sông bồi tụ, đa phần đất

có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến thịt nhẹ, dung tích hấp thụ cao, thích

hợp cho trồng lúa nước và các loại cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên, do đặc

điểm của địa hình đồi gò, núi sót đã tạo ra những thửa ruộng cao thấp không bằng

phẳng, nên mỗi khi mưa, đất dễ bị rửa trôi làm nghèo chất dinh dưỡng đưa đến bị

chua, bạc màu, vùng cao hay bị khô hạn, vùng thấp hay bị ngập úng.

* Tài nguyên rừng: Tiên Du có 207,06 ha đất rừng, chiếm 2,16% diện

tích tự nhiên toàn huyện; trong đó, rừng phòng hộ là 64,47 ha, chiếm 31,14%

diện tích lâm nghiệp của huyện, đất rừng đặc dụng là 142,59 ha, chiếm 68,86%

diện tích lâm nghiệp của huyện [74], chủ yếu ở các xã Việt Đoàn, Hoàn Sơn,

Phật Tích, Hiên Vân. Diện tích rừng không lớn chủ yếu là rừng trồng các loại

cây thông, keo, lát…; có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh

thái, thúc đẩy sự phát triển bền vững của huyện. Đặc biệt, ở những điểm di tích

lịch sử - văn hóa, rừng là yếu tố cấu thành quan trọng tạo cảnh quan tươi đẹp,

thúc đẩy sự phát triển du lịch nhân văn trên địa bàn huyện.

* Tài nguyên khoáng sản: Chủ yếu là đất sét và pha sét phân bố ở các xã

Cảnh Hưng, Tri Phương, Minh Đạo, Tân Chi. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện còn

có trữ lượng cát ở các xã ven đê tuy không nhiều, nhưng cũng góp phần phát triển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

16

ngành vật liệu xây dựng.

Ngoài các nguồn tài nguyên thiên nhiên, huyện Tiên Du còn có tài nguyên

nhân văn và du lịch rất đặc biệt. Đây là vùng đất có lịch sử, văn hiến lâu đời nằm

trong cái nôi của nền Văn minh Đại Việt, có truyền thống khoa bảng nổi tiếng.

Trong lịch sử khoa cử thời phong kiến, Tiên Du có 42 vị đại khoa, như Vũ Mộng

Nguyên, lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo…

Theo các huyền thoại, Tiên Du là nơi có danh thắng đẹp tới mức các nàng

tiên thường xuống du ngoạn. Mỗi dòng sông, quả núi nơi đây đều chứa đựng các

huyền thoại giàu chất trữ tình, tạo nên một Tiên Du - vùng đất kì vĩ và lãng mạn với

truyền thống lịch sử văn hóa đặc sắc hiếm có.

Tiên Du có 132 di tích lịch sử - văn hóa được bảo tồn, trong đó có 23 di tích

xếp hạng Quốc gia; tiêu biểu như chùa Phật Tích (Vạn Phúc Tự) nằm dưới chân núi

Lạn Kha (Rìu mục) - nơi du nhập và khởi phát của Phật giáo Việt Nam, thời Trần

còn là trung tâm đào tạo và tuyển chọn nhân tài cho Đại Việt. Đến nay, trong chùa

còn bảo tồn được nhiều tư liệu quý như tượng Phật A Di Đà thời Lý (thế kỉ XI),

năm 2012 được xếp hạng là Bảo vật Quốc gia. Cùng với chùa Phật Tích, Tiên du

còn có một hệ thống các Chùa làng, Đền, Đình rất phong phú, đặc sắc.

Tiên Du có những làng nghề truyền thống nổi tiếng, như trồng cây cảnh ở

Phú Lâm, làm mành, làm nón ở Vĩnh Phục (Phú Lâm), dệt lụa ở Đình Cả (Nội

Duệ)… Sách Kinh Bắc phong thổ kí quốc sự có ghi:

"Lụa thời Nội Duệ - Lũng Giang

Một làng Xuân Ổ - Thanh Lương tiếng đồn".

Tiên Du là quê hương của nhiều lễ hội dân gian mang đậm bản sắc văn hóa

dân tộc. Hằng năm, làng nào cũng mở hội làng, hội chùa, như Hội rước chạ ở thôn

Bái Uyên (Liên Bão), Hội làng Đình Cả, Lộ Bao (Nội Duệ)… Đặc biệt có những lễ

hội lớn và rất nổi tiếng, như Hội Khán Hoa mẫu đơn chùa Phật Tích gắn với truyện

cổ tích Từ Thức gặp tiên, được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng Giêng; Hội Lim là

lễ hội đặc sắc và là trung tâm của dân ca quan họ - nơi sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật

truyền thống lâu đời của vùng Kinh Bắc, diễn ra từ ngày 13 đến 15 tháng Giêng, thu

hút đông đảo du khách thập phương về trẩy hội. Hội Lim với những hoạt động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

17

phong phú cả phần lễ và phần hội, mang đặc sắc văn hóa truyền thống của người

Việt và quan họ Bắc Ninh- Kinh Bắc, đã trở thành niềm tự hào của nhân dân

Tiên Du và là tài sản vô giá, một thứ tài nguyên đặc biệt cho sự phát triển du

lịch của vùng đất này.

Ngoài ra, Tiên Du còn lưu giữ cả một kho tàng văn học dân gian, sinh hoạt cộng

đồng hết sức phong phú, đa dạng, kết tinh tâm hồn và trí tuệ người Việt, như chèo Chải

Hê, hát Trống Quân, Tuồng, Xẩm, hát ví, ca dao, tục ngữ, truyện kể dân gian, truyện kể

thế sự…; đặc biệt là dân ca Quan họ. Hiện nay có 12 làng quan họ gốc đã được

UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội

1.2.1. Đặc điểm kinh tế

Tiên Du là vùng tiếp giáp giữa trung du và đồng bằng, mặc dù có nhiều quả

núi sót nhưng địa hình chủ yếu là đồng bằng. Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho kinh

tế nông nghiệp phát triển nhất là trồng lúa nước và hoa màu, rau quả; nhiều địa

phương nổi tiếng là vựa lúa được dân gian đúc kết thành tục ngữ: “Long thóc Dọc

tương", hoặc “Tiền kẻ Dọc thóc Đông Sơn"…

Vùng kinh tế nông nghiệp lúa nước phát đạt nhất ở tổng Nội Duệ - nơi có

dòng Tiêu Tương chảy qua, ruộng đất phì nhiêu rộng hàng nghìn mẫu. Tương

truyền đó là ruộng của bà “Mụ Ả" hay còn gọi là chúa Ả Nương được coi là thần

linh thờ ở núi Hồng Vân. Người dân nơi đây còn lưu truyền rằng chính bà Mụ Ả đã

có công bắc cầu qua sông Tiêu Tương giúp dân đôi bờ giao lưu làm ruộng.

Ngoài trồng lúa là chính, các địa phương còn trồng các loại rau màu, trồng

dâu nuôi tằm..; đặc biệt là nghề trồng rau muống, rau cần ở làng Ngang đã có

thời phát triển mạnh, có sản phẩm nổi tiếng “rau muống tiến vua", được khắp nơi

ưa chuộng.

Các nghề phụ, tiểu thủ công nghiệp, tiểu thương khá phát triển. Xưa hầu như

làng nào cũng có nghề phụ, như nuôi lợn nái ở làng Ngang, nấu rượu ở Vân Khám,

làm hàng sáo ở Bái Uyên, Bựu Sim, làm thợ nề ở Nội Duệ, làm vàng mã hương đen

ở Văn Chinh, tre đan ở Đông Lâu, sơ chế dệt lụa và buôn bán vải sợi ở Nội Duệ.. Sự

phát triển của các nghề phụ là tiền đề, điều kiện cho kinh tế tiểu thương sớm hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

18

thành ở đây.

Trước thời kì đổi mới, Tiên Du là một huyện nông nghiệp, kinh tế chậm phát

triển, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Sản xuất thủ công nghiệp mang tính tự cấp tự túc.

Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), dưới sự lãnh đạo của

Đảng bộ huyện Tiên sơn, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhân dân Tiên Du

chủ động, năng động, sáng tạo, phát huy tiềm năng, lợi thế của mình đẩy mạnh sản

xuất, kinh doanh, ứng dụng KHKT, làm cho bộ mặt kinh tế của huyện chuyển biến

sâu sắc, nhất là từ sau khi tái lập huyện năm 1999.

Trước đó, nông nghiệp là một trong những thế mạnh trong nền kinh tế của

Tiên Du. Với những cánh đồng màu mỡ bằng phẳng, tập trung đông dân cư thuận lợi

cho sản xuất nông nghiệp, Tiên Du trở thành vựa lúa của tỉnh Bắc Ninh. Sau khi tái

lập huyện, thực hiện chủ trương đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

CNH, HĐH, kinh tế của Tiên Du phát triển năng động với cơ cấu ngành nghề đa

dạng: CN - TTCN, nông - lâm nghiệp, thương mại - dịch vụ - du lịch đan xen cùng

phát triển. Hoạt động kinh tế tổng hợp này đã phát huy được sức mạnh nội lực, khai

thác được tiềm năng, lợi thế của huyện làm chuyển biến sâu sắc bộ mặt kinh tế, nâng

cao đời sống nhân dân.

Trong quá trình phát triển, khu vực CN - TTCN đã vươn lên giữ vai trò

chủ đạo trong nền kinh tế của huyện. Sản xuất CN - TTCN phát triển mạnh và

toàn diện ở các KCN tập trung, các CCN và ngành nghề địa phương; KCN Tiên

Sơn, KCN Đại Đồng - Hoàn Sơn, KCN VSIP được hình thành, mở rộng đi vào

hoạt động đã thu hút hàng trăm doanh nghiệp trong và ngoài nước vào đầu tư.

1.2.3. Đặc điểm xã hội

Hiện nay, Tiên Du là một trong những huyện có dân số và mật độ dân cư

đông nhất tỉnh Bắc Ninh. Mật độ dân số phân bố không đều giữa các xã và thị trấn;

những nơi tập trung đông dân là những vùng đất tốt, dễ làm ăn hoặc thuận đường

giao thông, như thị trấn Lim và các xã Nội Duệ, Đại Đồng, Lạc Vệ, Liên Bão, Phú

Lâm, Việt Đoàn, Hoàn Sơn; các xã còn lại mật độ dân cư ít hơn, tập trung ở ven đê,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

19

sườn đồi, sườn núi, gồm các xã Phật Tích, Cảnh Hưng, Minh Đạo, Hiên Vân. Tính

đến năm 2001, trên địa bàn huyện Tiên Du có 20 thành phần dân tộc sinh sống,

trong đó dân tộc Kinh chiếm 99,85%, các dân tộc khác chỉ chiếm 0,15%.[73]

Tiên Du là vùng đất cổ, từ xa xưa đã là một điểm tụ cư lớn của người Việt

cổ. Trên vùng đất này, những cư dân nguyên thủy đã biết tìm những nơi đất cao như

đỉnh gò, sườn đồi, chân núi… để sinh sống. Việc lựa chọn thế đất vừa gần nguồn

nước, lại thuận tiện cho việc phòng ngự, chài lưới, săn bắt, hái lượm rồi tiến tới

trồng trọt và chăn nuôi là bước tiến nhảy vọt của loài người nói chung, cư dân Việt

cổ và con người vùng Tiên Du nói riêng. Trên cơ sở đó, những chủ nhân của vùng

đất này đã tràn xuống khai phá rừng rậm, lập xóm dựng làng, sinh sôi phát triển..

Họ đã biết dựng nhà, đóng thuyền đánh cá, trồng dâu nuôi tằm, chế tạo khung dệt,

làm đồ gốm, dệt vải... nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Kĩ thuật chế tác đá của

cư dân vùng Tiên Du đã đạt đến mức hoàn hảo, những di vật đá tìm thấy ở Bãi Tự

sát chân núi Tiêu (Tương Giang - Từ Sơn) đã chứng minh điều này.

Kết quả nghiên cứu khảo cổ học đã chứng minh Tiên Du là một tâm điểm

trong khu vực sinh tồn và phát triển liên tục của người Việt cổ trên đất nước ta,

khẳng định Tiên Du là một trong những trung tâm của miền đất Kinh Bắc cổ. Trên

địa bàn Tiên Du, đã phát hiện hàng loạt dấu tích của văn hóa Phùng Hưng, Đồng

Đậu. Năm 1975, các nhà khảo cổ học đứng đầu là G.S Trần Quốc Vượng trong đợt

điều tra khảo cứu dọc 2 bờ sông Tiêu Tương cổ thuộc Tiên Du và Từ Sơn, đã kết

luận: “Trên chặng đường nước suốt gần 20 km đã liên tiếp tìm ra 8 di chỉ phân bố

có quy luật từ đầu sông đến cuối sông, chúng giống nhau một cách kì lạ về đồ gốm,

đồ đá, chì lưới… thể hiện một rình độ ngang nhau và do đó chúng là một di chỉ

đồng đại và thuộc về các bộ lạc chủ nhân Văn hóa Phùng Nguyên giai đoạn muộn

bắt đầu chuyển sang Văn hóa Đồng Đậu" [99, tr. 17].

Tại di chỉ Xuân Ổ (xã Võ Cường nay về thành phố Bắc Ninh), hiện vẫn

còn dấu tích của dòng Tiêu Tương xưa. Di vật tìm được ở đây cũng rất phong

phú, đặc biệt là khu vực Thùng Lò và Chùa Lái, tầng văn hóa của di chỉ này khá

dày (khoảng 80 cm) màu nâu nhạt, trong chứa nhiều than tro và các di vật chủ

yếu là đồ đá và đồ gốm có chất liệu thô màu xám đen, lớp vỏ áo bên ngoài đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

20

bong hết; các hiện vật bằng đá như công cụ sản xuất, công cụ đánh cá, đồ dùng

và đồ trang sức. Ngoài ra, ở di chỉ Chùa Lái cũng tìm thấy bàn mài đá thon dài,

dẹt hai đầu, được mài nhẵn, chứng tỏ đây là khu vực cư trú của người xưa.

Năm 1992 - 1993, trong đợt điền dã, khảo cứu các di tích ở huyện Tiên

Sơn, các nhà khảo cổ đã phát hiện thấy di chỉ khảo cổ ở khu ngõ Giuộc làng Đại

Trung và khu Bãi Tháp; giáp nghè Tiểu làng Đại Thượng cách di chỉ Từ Sơn

5km đã tìm thấy những lưỡi bôn, chiếc rìu có vai bằng đá cứng, rìu loại thẳng,

rìu lưỡi xéo bằng đồng có lỗ tra cán và nhiều gốm sứ từ trước thời Hán kéo dài

liên tục cho tới nhà Nguyễn.

Năm 1997, TS. Phạm Minh Huyền, Bùi Văn Liêm cùng một số nhà khảo cổ

nước ngoài đã tìm hiểu và phát hiện thêm nhiều điểm khảo cổ nằm rải rác ở khắp

các xã trong huyện như: Hoàn Sơn, Phật Tích, Việt Đoàn, Đại Đồng…; trong đó có

di chỉ chùa Hoa (Đại Đồng) phát hiện nhiều mảnh gốm có niên đại thời Đông Sơn

(cách ngày nay khoảng 4000 năm).

Bổ trợ cho các di chỉ khảo cổ là các loại hình mộ táng được đặt ở trên núi

hoặc lưng chừng núi, điển hình như ngôi mộ Hán ở núi Và (Hạp Lĩnh) hay ở sườn

núi Hiên Vân đã phát hiện trong mộ chứa nhiều hiện vật là đồ đá, đồ đồng, đồ gốm

và đồ sắt…

Những di chỉ khảo cổ và các loại hình mộ táng là minh chứng sinh

động khẳng định: Tiên Du là một trong những trung tâm của miền Kinh

Bắc cổ kính xưa.

Tiên Du là một trong những trung tâm Phật giáo lớn, đa số người dân theo

đạo Phật. Từ thời Pháp thuộc, đạo Thiên Chúa du nhập vào Tiên Du và được một bộ

phận dân cư tiếp nhận đi theo. Ngày nay, huyện Tiên Du có khoảng 15% dân số

theo tôn giáo này.

Cũng như nhiều địa phương khác, nhân dân các dân tộc Tiên Du có tục thờ

cúng. Người dân Tiên Du xưa tụ cư, lập làng và liên kết với nhau trong mối quan hệ

“Trong họ ngoài làng’’, gắn bó với nhau trong quá trình xây dựng quê hương và bảo

vệ xóm làng. Các gia đình, dòng họ ăn ở với nhau bằng mối liên hệ bền vững trong

cộng đồng dân cư có, tổ chức chặt chẽ. Làng nào cũng có Đền (Nghè) để thờ Thành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

21

hoàng làng, như đền Cổ Lũng (Đình Cả - Nội Duệ) thờ vợ chồng tướng quân Phạm

Ban, nghè Tiểu (Đại Thượng - Đại Đồng) thờ đức Quý Minh Đại Vương…Và Miếu

để làm nơi tế lễ thần linh (Sơn Thần, Hậu Thổ, Thủy Bá).

Tục kết Chạ giữa các làng với nhau và các làng ở Tiên Du với các làng

ngoài huyện khá phổ biến, tiêu biểu như: Ném Thượng- Ném Sơn, Ném Đoài-

Ném Tiền… Đây là một tập tục phổ biến ở vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ thể

hiện nét đẹp văn hóa, sự đoàn kết gắn bó giữa cộng đồng các làng xã trong quá

trình phát triển. Tiên Du là một trong những vùng có mật độ kết Chạ đậm đặc

nhất. Cũng như các địa phương khác, các quan niệm và nghi thức về cưới xin, ma

chay...rất được coi trọng.

Tiên Du đặc biệt nổi tiếng với những lễ hội, làng nào cũng có Xuân hội và

Thu tế; có những hội lớn như Hội chùa Phật Tích mở vào ngày mùng 4 Tết Nguyên

Đán. Các làng quan họ gốc mở Hội Quan họ vào mùa xuân. Huyện Tiên Du sớm

hình thành hội hàng tổng - hội mang tính chất rộng lớn vùng miền, đó là Hội Lim.

Xưa kia, vào ngày 15/8 (Âm lịch), các làng thuộc tổng Nội Duệ cùng tổ chức

Thu tế - lễ tế, rước thần. Tuy nhiên, thu tế vẫn mang tính chất hội hè bởi sự sôi động

của các trò hát xướng, hát quan họ, hát Cửa đình, tuồng, chèo, trống quân…Về sau,

tổng Nội Duệ chuyển Thu tế thành Xuân hội, tức Hội Chùa, Hội Chạ vào dịp 13/1

(Âm lịch) được tổ chức trên núi Hồng Vân (núi Lim) nên gọi là Hội Lim. Dân các

làng từ các ngả rước cờ, kiệu, biểu, tán, lọng, siêu đao, bát bửu… lên đỉnh núi Lim

tổ chức tế lễ; khách thập phương vào chùa Hồng Vân thắp nhang cúng Phật, bà Mụ

Ả. Liền anh, liền chị khắp các làng quan họ rủ nhau đến Hội Lim gặp gỡ ca hát,

buổi tối các làng quan họ tổ chức đón tiếp các “Bọn Quan Họ" kết bạn và tổ chức

hát canh. Ngoài hát quan họ, Hội Lim còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian, như đấu

vật, đánh cờ người, tổ tôm điếm, chọi gà,.. tạo nên một không gian văn hóa rất đặc

sắc, đã được UNESCO vinh danh.

Vùng đất Tiên Du khá nổi tiếng bởi các loại hình di tích lịch sử, văn hóa và

nghệ thuật kiến trúc phát triển rực rỡ, được sáng tạo bởi đầu óc thông minh, bàn tay

khéo léo tài hoa của con người nơi đây. Hiện nay vẫn còn tồn tại khá nhiều ngôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

22

đình có kiến trúc đẹp, như đình Tri Phương, đình Trung ở Cảnh Hưng, đình Bái

Uyên, đình Long Khám… Theo thống kê, hiện nay Tiên Du có 132 di tích vật thể

gồm 73 chùa, 47 đình, 5 đền, 3 miếu, 3 nhà thờ lưu niệm danh nhân, 1 lăng đá Đỗ

Nguyên Thụy ở làng Đình Cả (Nội Duệ); trong đó có 23 di tích lịch sử, văn hóa

được Nhà nước xếp hạng cấp Quốc gia và 37 di tích cấp Tỉnh [73, tr. 18].

1.3. Tình hình kinh tế, xã hội Tiên Du trước năm 1999

1.3.1. Tình hình kinh tế

Đại thắng mùa Xuân 1975, với đỉnh cao là Chiến dich Hồ Chí Minh lịch

sử, đã kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến kháng chiến chống Mĩ cứu nước kéo

dài trên 20 năm. Miền Nam nước ta được hoàn toàn giải phóng, giang sơn thu về

một mối. Cách mạng nước ta chuyển sang thời kì mới với hai nhiệm vụ chiến

lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa.

Hòa chung không khí phấn khởi, tự hào của cả dân tộc sau Đại thắng mùa

Xuân 1975, nhân dân Tiên Du cùng nhân dân Từ Sơn và cả nước hăng hái bước vào

thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và

phát triển kinh tế, xã hội.

Đất nước hòa bình, thống nhất tạo ra điều kiện hết sức thuận lợi để tổ chức

lại sản xuất, phân công lao động, khai thác tài nguyên, phát triển kinh tế, xã hội.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976), lần thứ V

(3/1982) và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Sơn các khóa, các tầng lớp

nhân dân Tiên Du hăng hái thi đua sản xuất, đạt được những thành tựu quan trọng

về mọi mặt.

Trong những năm 1976 - 1980, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện

Tiên Sơn lần thứ VII và VIII, Đảng bộ và nhân dân Tiên Du nỗ lực khắc phục khó

khăn, phát huy thuận lợi, hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu kinh tế - xã hội. So với 5

năm trước, trong 5 năm 1976-1980, tổng sản lượng lương thực tăng 55,7%; bình

quân lương thực đầu người 315 kg/năm, tăng 8,6%; diện tích lúa tăng 10,11%,

ngô tăng 46,05%, khoai lang tăng 13,77%, khoai tây tăng 5 lần; diện tích cây

màu vụ đông tăng 4 lần, cây thực phẩm tăng 22,72%, lạc tăng 18,73%...; chăn

http://www.lrc.tnu.edu.vn

23

nuôi tăng 32,6%, với tốc độ tăng mỗi năm là 6,9% [3, tr. 229]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

Các ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp được hình thành ở các HTX chuyên

nghiệp, các HTX nông nghiệp kiêm doanh và tư nhân. So với 5 năm trước, sản

lượng thủ công nghiệp tăng 62,77%, khu vực nhà nước kiêm doanh (vật liệu xây

dựng, rèn đúc cơ khí, chế biến lâm sản, xay xát..) tăng 103%, các ngành chủ yếu

như: cơ khí tăng 7,3%, vật liệu xây dựng tăng 11,4%, chế biến lâm sản tăng 28,4%,

văn hóa phẩm tăng 13%, riêng gạch chỉ tăng 66%, mành trúc tăng hơn 2 lần.

Các mặt hàng chủ yếu, như thảm cỏ, mành trúc, mành tăm, bình quân giá

trị xuất khẩu theo đầu người năm 1976 là 70đ tăng 20đ so với 1975. Thu ngân

sách đạt khá, tổng mức bán lẻ hàng tiêu dùng (1976 - 1980) tốc độ tăng

7,7%/năm, bình quân đầu người là 120đ tăng hơn so với 1975 là 29đ, đáp ứng

được nhu cầu theo chế độ tem phiếu về lương thực, thực phẩm, vải, chất đốt…

Đời sống nhân dân tương đối ổn định và có mặt được cải thiện [ 3, tr.129-31].

Trong những năm 1981 đến 1985, cán bộ, đảng viên và nhân dân Tiên

Du thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Sơn lần thứ IX

(28/12/1981- 1/1/1982) trong điều kiện có nhiều khó khăn về điện, nguyên liệu,

vật tư thiếu thốn; thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng xấu đến cây trồng, vật

nuôi. Giá cả tăng nhanh, đồng tiền mất giá, hàng tiêu dùng thiếu thốn, cung cầu

mất cân đối nghiêm trọng, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.

Trước tình hình trên, Huyện ủy Tiên Sơn đã kịp thời vạch kế hoạch, biện

pháp cụ thể chỉ đạo nhằm tạo ra những chuyển biến mới trong sản xuất, cải tiến

quản lí kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất, phân phối lưu thông.

Sản xuất nông nghiệp có những chuyển biến mới quan trọng trong thâm canh

cây trồng, áp dụng KHKT; đổi mới cơ cấu cây trồng, tăng cường phân bón, bảo vệ

thực vật; đẩy mạnh công tác dịch vụ nông nghiệp và mở rộng vành đai thực phẩm.

Năm 1981, tổng sản lượng lương thực đạt 59.167 tấn bằng 98,3% kế hoạch, tăng

24,5% so với năm 1980; năm 1982, tổng sản lượng lương thực đạt 65.037 tấn, đạt

105,9% kế hoạch. Tuy nhiên, do thiên tai xảy ra liên tiếp trong các năm 1983,1984,

1985 nên sản xuất nông gặp rất nhiều khó khăn, chỉ tiêu kế hoạch không hoàn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

24

thành. Năm 1983 tổng sản lượng lương thực chỉ đạt 56.795,8 tấn, bằng 84,6% kế

hoạch; năm 1984 giảm xuống 53.685,1 tấn bằng 79,9% kế hoạch; năm 1985, giảm

tiếp chỉ còn 43.808,8 tấn, đạt 62,1% kế hoạch đề ra.

Trong chăn nuôi, mặc dù được khuyến khích phát triển, công tác bảo vệ vật

nuôi được chú ý hơn, song do sản xuất lương thực thất thường nên kết quả chăn

nuôi cũng bấp bênh, hằng năm đều không đạt chỉ tiêu đề ra. Năm 1981, tổng đàn

trâu bò đạt 6.469 con (chỉ tiêu 5.947con), đàn lợn đạt 41.564 con (chỉ tiêu 41.000

con); năm 1985 con số tương ứng là 7.024 con (chỉ tiêu 8.200 con) và 36.667(chỉ

tiêu 50.000 con) [34, tr. 237].

Trên lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, do chưa xây dựng được

các định mức kinh tế - kĩ thuật phù hợp, nên mặt hàng còn đơn điệu, không đảm bảo

chất lượng, nhiều năm không hoàn thành kế hoạch. Do buông lỏng công tác quản lí

và chỉ đạo nên các nghề thủ công phát triển tự phát. Một số hộ mua máy xay xát,

máy bơm nước, máy tuốt lúa về làm thuê kiếm lời, dẫn đến tình trạng tiêu thụ xăng

dầu trái phép. Các nghề thủ công nghiệp trong các hợp tác xã nông nghiệp bị dừng

lại và có nơi giảm sút do thiếu nguyên liệu, vật tư và nơi tiêu thụ.

Các ngành thương nghiệp, dịch vụ được mở rộng nên có bước phát triển khá

hơn, từng bước vươn lên nắm được nguồn hàng, làm nhiệm vụ phân phối và cung

ứng hàng hóa. Hàng loạt cửa hàng, bách hóa công nghệ thực phẩm và mạng lưới

HTX mua bán được tổ chức tại các xã và các điểm dân cư tập trung, đưa hàng hóa

đến tận các thôn xóm phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, do công tác cải tạo công thương

bị buông lỏng, nên HTX mua bán, hệ thống thương nghiệp quốc doanh hoạt động

yếu; số thương nhân tăng nhanh (năm 1984 tăng 4 lần so với năm 1979). Năm 1985,

thiên tai nặng nề, sản lượng lương thực giảm sút, giá cả biến động lớn. Sau khi có

Nghị quyết 08 của TW Đảng về giá-lương-tiền, tình hình càng biến động phức tạp,

công tác phân phối lưu thông bị lúng túng. Hàng hóa cung không đủ cầu, giá cả mất

ổn định, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Tình hình cung ứng vật tư,

nguyên liệu cho sản xuất không đảm bảo; giá cả không ổn định, mất cân đối giữa

sản xuất và tiêu thụ; nhiều cơ sở sản xuất giảm sút, công tác quản lí sản xuất và

quản lí tài vụ, quản lí lao động bị buông lỏng. Việc chấp hành các chế độ phân phối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

25

ăn chia thiếu nghiêm túc, có HTX mua bán lợi dụng danh nghĩa để buôn bán vụ lợi.

Một số cán bộ trong các HTX chỉ lo vun vén cá nhân làm cho xã viên thiếu tin

tưởng, dẫn đến một số xã mua bán bị tan vỡ.

Công tác tài chính, ngân hàng đã giảm được bội chi ngân sách, kiểm soát

chặt chẽ việc thu, chi tiền mặt. Ngân sách của huyện năm 1983 tăng 8,2% so với

1982; ngân hàng thu chi tiền mặt đạt 100% kế hoạch. Hoạt động tín dụng, vốn cho

vay dài hạn và ngắn hạn đều tăng, thu hút tiền gửi bình quân đầu người đạt 101,6 đ.

Bước vào thực hiện công cuộc đổi mới, huyện Tiên Sơn nói riêng và tỉnh Hà

Bắc nói chung phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tình hình kinh tế lúc này đang

lâm vào tình trạng sa sút; vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất thiếu nghiêm trọng.

Chính sách giá - tiền lương chưa ổn định, trong khi đó năng lực tiếp thu vận hành

cơ chế thị trường của cán bộ, đảng viên còn hạn chế.

Với phương châm "lấy dân làm gốc”, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện

ủy và Ủy ban Nhân dân huyện, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng vận

động hội viên thực hiện mục tiêu 3 chương trình kinh tế lớn: Lương thực- thực

phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; tổ chức các phong trào thi đua sản xuất

đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội.

Trong nông nghiệp, thực hiện cơ chế khoán đến hộ gia đình, năng suất

lúa từ 32,8 tạ/ha (năm 1988), tăng lên 35,6 tạ/ha (năm 1989). Diện tích gieo

trồng của huyện Tiên Sơn năm 1989 đạt 23.042 ha, sản lượng quy thóc đạt

73.403,5 tấn. Do nhiều nguyên nhân, nhất là trận mưa lớn cuối 7/1990 làm

ngập úng mất trắng 4.556 ha lúa, nên sản lượng lương thực năm 1990 đạt thấp.

Chăn nuôi, nhất là chăn nuôi hộ gia đình, có bước phát triển mạnh. So với

năm 1985, trong năm 1986, tổng đàn trâu bò trên địa bàn huyện Tiên Sơn có 7.460

con, tăng 7,1%; đàn lợn có 41.977 con (không kể lợn sữa), tăng 14,5%; đến năm

1990, đàn lợn tăng lên 47.818 con, vượt 3,9% kế hoạch [34, tr.256].

Lâm nghiệp phát triển khá ổn định. Nhiều vùng đất trống, đồi trọc tiếp tục

được phủ xanh, song so với chỉ tiêu chưa đạt, việc chăm sóc bảo vệ cây đã trồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

26

vẫn còn yếu.

Các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển khá mạnh, sản xuất

được nhiều loại sản phẩm, nhất là các mặt hàng đồ gỗ, sắt thép, vật liệu xây dựng. Khu

vực sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong nền

kinh tế của huyện, giải quyết việc làm có thu nhập nhập khá cho hàng ngàn lao động,

góp phần thúc đẩy nhịp độ tăng tưởng kinh tế cao hơn nhiều so với so với các huyện

thuần nông khác trong tỉnh. Tuy nhiên, một số ngành thủ công truyền thống (sơn mài,

dệt, mành mành) lại giảm sút do thị trường tiêu thụ gặp khó khăn.

Công tác xây dựng cơ bản đạt nhiều kết quả lớn. Bằng nguồn kinh phí của

địa phương và đóng góp của nhân dân, trong 3 năm (1987 - 1989), vốn đầu tư xây

dựng cơ bản lên tới 3.500 triệu đồng. Hàng loạt các công trình kiên cố được xây

dựng, sửa chữa nâng cấp, như trường học, trụ sở UBND xã, nhà HTX mua bán,

công trình điện... Năm 1990, huyện phê duyệt quy hoạch xây dựng huyện lị và khu

văn hóa núi Lim, chuẩn bị cho xây dựng từng bước những năm tiếp theo.

Công tác thủy lợi, giao thông vận tải, bưu điện có bước phát triển đáng kể,

phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, công tác

thủy lợi, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản vẫn còn trong tình trạng chắp vá, nhỏ

bé, nguồn vốn còn phân tán, dàn trải; các công trình bị kéo dài gây lãng phí. Tiềm

năng giao thông vận tải chưa được khai thác tốt. Cơ sở hạ tầng dù có bước tiến dài

và hơn hẳn nhiều địa phương, nhưng vẫn còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu

của công cuộc đổi mới.

Công tác phân phối lưu thông có những chuyển biến lớn. Ngành phân phối lưu

thông cải tổ lại gần như toàn bộ. Công tác quản lí thương nghiệp tư nhân, quản lí thị

trường ngày càng chặt chẽ. Ngành Thương nghiệp đi vào thế ổn định. Các ngành Tài

chính, Ngân hàng phục vụ ngày càng có hiệu quả cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã

hội ở địa phương. Tuy vậy, hoạt động của ngành Tài chính, Ngân hàng vẫn còn nhiều

mặt yếu, thu chi còn lãng phí, giải quyết công nợ chưa dứt điểm.

Có thể nói, với những kết quả đạt được trong 5 năm đầu thực hiện đường lối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

27

đổi mới (1986 - 1990), huyện Tiên Sơn đã khai thác được thế mạnh về tài nguyên

đất, khơi dậy và phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở sản xuất, kinh

doanh, tạo đà cho việc đẩy mạnh công cuộc đổi mới trong những năm tiếp theo.

Xuất phát từ thực trạng kinh tế của huyện sau 5 năm thực hiện đường lối

đổi mới đã có sự chuyển biến tích cực, đúng hướng, Đảng bộ huyện Tiên Sơn tập

trung lãnh đạo thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XII,

đạt được kết quả rất quan trọng trên các lĩnh vực, đặc biệt là phát triển kinh tế.

Sản xuất nông nghiệp trong những năm 1991 - 1995 có bước chuyển biến

mới. Diện tích, năng suất và sản lượng lương thực Tiên Du đều tăng. Bình quân

trong 5 năm (1991 - 1995), sản lượng lương thực tăng 7,7% so với bình quân 5 năm

trước (1986 - 1990). Nhờ xác định đúng hướng chuyển dịch cơ cấu phân vùng hợp

lí, giá trị sản xuất nông nghiệp năm sau cao hơn năm trước. Giá trị/ha canh tác

từ 16,6 triệu đồng (năm 1990), tăng lên 25,8 triệu (năm 1995); diện tích lúa

gieo cấy tăng 3,9 lần, đậu tương tăng 21,3% [3, tr.251]. Chương trình cấp I

giống hóa lúa DT10, C70, C71, X21 tiếp tục được nâng cấp. Ngành chăn nuôi

chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa vật nuôi, sản phẩm chuyển dần sang

hướng nuôi trang trại và đặc sản có giá trị kinh tế cao. Tổng giá trị sản xuất

nông nghiệp của Tiên Du năm 1995 đạt 154,9 tỉ đồng.

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp phát triển với nhiều hình thức,

thích ứng với cơ chế thị trường. Các doanh nghiệp được sắp xếp lại, tăng cường đầu

tư trang thiết bị công nghệ mới, ổn định sản xuất. Giá trị tổng sản lượng công

nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân mỗi nãm trong 5 nãm (1991-1995) là

9,6%. Một số sản phẩm chủ yếu, nhý chế biến nông sản tãng 11,8%, gạch ngói tăng

9,05%. Dù nguyên vật liệu khan hiếm, thị trường eo hẹp và không ổn định, nhưng

sản xuất TTCN vẫn phát triển mạnh, nhất là ngành đồ gỗ, sắt thép. Giá trị tổng sản

lượng nãm 1991 đạt 145.000.000đ, năm 1992 đạt 170.095.500đ, tăng 17,9% so với

nãm 1991 [34, tr.256]. Tuy nhiên, một số ngành nghề truyền thống, như sơn mài,

dệt mành mành lại giảm sút do việc tìm kiếm thị trường khó khăn. Dù vậy, ngành

Tiểu thủ công nghiệp ngày càng chứng tỏ được vị trí quan trọng trong nền kinh tế,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

28

đóng góp ngày càng lớn vào tốc độ phát triển kinh tế hằng năm của huyện và giải

quyết việc làm cho hàng ngàn lao động có thu nhập khá. Đây là tiền đề thuận lợi

cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của huyện trong giai đoạn tiếp theo.

Trong lĩnh vực thương nghiệp - tài chính, tín dụng - ngân hàng, trải qua thử

thách của cơ chế thị trường, những gì không phù hợp được chuyển đổi hoặc xóa bỏ.

Các công ti thương nghiệp dịch vụ không đáp ứng được yêu cầu với cơ chế, chính

sách mới, đã được thu hẹp, sắp xếp lại. Các HTX mua bán làm ăn thua lỗ bị giải thể.

Thương nghiệp tư nhân phát triển nhanh, hàng hóa trên thị trường phân phối, lưu

thông thuận lợi. Thu ngân sách hằng năm tăng 21%. Ngân hàng Nông nghiệp tăng

cường cho vay, đáp ứng nhu cầu vay vốn của nhân dân, góp phần phục vụ đắc lực

và có hiệu quả cho công cuộc xóa đói, giảm nghèo.

Trong xây dựng cơ sở hạ tầng, bằng nguồn vốn Nhà nước và nhân dân đóng

góp, mạng lưới điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt cơ bản được hoàn thiện. Đến

cuối 1993, 100% thôn xóm đã có điện. Các tuyến đường được cải tạo nâng cấp, như

Tỉnh lộ 270, 295… Các nhà văn hóa thôn, trường học, bệnh viện cũng được đầu tư

xây dựng và sửa chữa.

Trong 5 năm (1996 - 2000), thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV và Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ huyện Tiên sơn lần thứ XIII, công cuộc đổi mới của nhân dân Tiên

Du đạt được thành tựu to lớn hơn nữa. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định,

bình quân đạt 10,4%/năm; năm 2000, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 213,6 tỉ đồng,

sản xuất CN - TTCN đạt 35,7 tỉ đồng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch

vụ đạt 135 tỉ đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tạo ra tiền đề

và động lực vững chắc để Tiên Du bước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH.

1.3.2. Tình hình xã hội

Là mảnh đất có truyền thống hiếu học, khoa bảng bậc nhất trong lịch

sử nên ngay cả trong điều kiện có chiến tranh, truyền thống ấy vẫn được

phát huy tốt. Sau thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, phát huy

truyền thống quê hương, Đảng bộ và các cấp chính quyền huyện Tiên Sơn

vận dụng sáng tạo các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương Đảng và Tỉnh ủy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

29

Hà Bắc, đề ra chủ trương, biện pháp tích cực nhằm phát triển văn hóa-giáo

dục. Nhờ có sự đồng thuận và hưởng ứng của nhân dân, sự nghiệp văn hóa -

giáo dục trên địa bàn Tiên Du đạt được những kết quả quan trọng, góp phần

xứng đáng vào kết quả chung toàn huyện, từng bước nâng cao đời sống văn

hóa tinh thần của nhân dân.

Cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục từ mầm non đến phổ thông được

chú trọng đầu tư nâng cấp, đẩy mạnh cải cách giáo dục toàn diện. Phong trào

thi đua Hai tốt trong các trường trên địa bàn Tiên Du diễn ra sôi nổi; chất

lượng giảng dạy và học tập không ngừng được nâng cao. Năm hoc 1976 - 1977,

học sinh thi tốt nghiệp cấp II đạt 80%, cấp III đạt 74%. Năm học 1977 - 1978,

các trường cấp I và cấp II sáp nhập thành trường phổ thông cấp I-II , kết quả

công tác giáo dục năm học này đạt loại khá. Năm học 1978 - 1979 có 54% số

cháu trong độ tuổi đến lớp mẫu giáo, học viên bổ túc tăng 15% so với năm học

trước, học sinh các cấp tăng trên dưới 10%. Năm học 1979 - 1980, giáo dục

mầm non thu hút được 69% số cháu đến lớp, có 3 xã Tân Chi, Tri Phương,

Hoàn Sơn được công nhận phổ cập cấp I. Nhìn chung cả hệ phổ thông và bổ túc

phát triển đều, điển hình như Liên Bão, Hoàn Sơn [34, tr. 222 - 223].

Bước vào năm học 1980 - 1981, huyện Tiên Sơn triển khai thực hiện nghị

quyết của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục. Đội ngũ cán bộ, giáo viên các

trường trên địa bàn Tiên Du được chấn chỉnh về kỉ cương, nền nếp về chuyên

môn, nghiệp vụ. Năm 1981, có 62% các cháu trong độ tuổi mẫu giáo, 65% các

cháu độ tuổi nhà trẻ đến lớp; toàn huyện có 38.942 học sinh phổ thông, 2.000

lượt học sinh bổ túc văn hóa; thi hết lớp 7, số học sinh đỗ đạt 90,2%; thi hết lớp

10, số học sinh đỗ đạt 94% [34, tr. 241]. Trong các năm học tiếp theo, phong trào

thi đua Hai tốt vẫn được duy trì, kết quả giáo dục được giữ vững và phát triển.

Tuy nhiên, do kinh tế gặp nhiều khó khăn, tình hình dạy và học trong những năm

này ở các trường phổ thông còn yếu, chất lượng chưa cao; tình trạng học sinh bỏ

học, giáo viên xin thôi việc xảy ra ở một số trường.

Công tác y tế, vệ sinh phòng dịch bệnh và khám, chữa bệnh cho nhân dân

được duy trì thường xuyên. Cơ sở vật chất khám, chữa bệnh tiếp tục được tăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

30

cường, chất lượng khám, điều trị được nâng cao, mạng lưới y tế xã ổn định. Hằng

năm, huyện kết hợp với các bệnh viện tiêm phòng cho nhân dân. Công tác vận

động, tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch và đặt vòng tránh thai hằng năm được ngành

Y tế thực hiện tốt, góp phần giảm tỉ lệ gia tăng dân số.

Việc giải quyết các chế độ chính sách đối với các đối tượng chính sách,

những người có công với cách mạng được tiến hành nghiêm túc và kịp thời. Chính

sách hậu phương quân đội được đặc biệt quan tâm, góp phần ổn định tình hình

chính trị - xã hội ở địa phương.

Công tác quốc phòng, an ninh được giữ vững. Đầu 1979, chiến tranh

biên giới phía Bắc nổ ra, Huyện ủy xác định nhiệm vụ xây dựng kinh tế là quan

trọng, đồng thời chú trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đoàn viên thanh niên tự giác và sẵn sàng lên

đường làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Công tác tuyển quân năm 1979 đạt 104%

kế hoạch, nhiều xã đã làm tốt như Việt Đoàn, Phật Tích, Lạc Vệ, Cảnh Hưng,

Đại Đồng, Tri Phương. Lực lượng dân quân, tự vệ ở các địa phương đảm bảo số

lượng từ 10% đến 12%. Các cơ quan công sở, trường học đều có đội tự vệ

chiến đấu cơ động. Huyên đã thành lập một tiểu đội quân dự bị; các đội dân

quân, tự vệ được tổ chức biên chế lồng ghép theo đơn vị HTX nông nghiệp.

Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, thể dục- thể thao

được đẩy mạnh. Nhiều cơ sở đã xây dựng được quy ước, thực hiện công khai trong

quản lí kinh tế, thực hiện dân chủ trong xây dựng kế hoạch, trong phân phối...

Phong trào thực hiện nếp sống mới, tiết kiệm của Hội Phụ lão; làm thủy lợi, cải tạo

đất của Đoàn Thanh niên; phong trào Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc, phát triển kinh tế gia đình của Hội Liên hiệp Phụ nữ thu hút đông đảo hội

viên tham gia, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Tất cả tình hình trên cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy,

HĐND,UBND, nhân dân các xã trên địa bàn Tiên Du đã nỗ lực phấn đấu, nêu cao

ý thức tự lực, tự cường, phát huy truyền thống quê hương, khai thác tốt tiềm năng

về lao động, đất đai, ngành nghề của địa phương. Trong 10 năm (1976 - 1985),

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

31

nhân dân Tiên Du đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về phát triển kinh tế, xã

hội, góp phần làm chuyển biến bộ mặt huyện Tiên Sơn, tạo ra những điều kiện căn

bản cho việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng thắng lợi.

Trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, công tác văn hóa, giáo

dục gặp khá nhiều khó khăn, phức tạp, có lúc tưởng như dừng lại và đi xuống. Được

sự chỉ đạo của các cấp, các ngành trong khối Văn hóa - Xã hội, công tác văn hóa,

giáo dục từng bước vượt qua khó khăn, dần dần lấy lại được nhịp độ phát triển.

Trong các trường học, phong trào thi đua Hai tốt tiếp tục được duy trì; ý thức giáo

dục toàn diện trong các cấp học được coi trọng. Năm 1986, các nhà trẻ mẫu

giáo thu hút 50% số cháu trong độ tuổi. So với năm 1985, học viên bổ túc văn

hóa tăng 17%; các xã Phật Tích, Liên Bão có phong trào bổ túc văn hóa sôi nổi.

Năm học 1986 - 1987, học sinh tốt nghiệp cấp II đạt 79%. Bước sang năm học

1987 - 1988, chất lượng dạy và học giảm sút, học sinh thi tốt nghiệp cấp II và

phổ thông trung học chỉ đạt 58%. Tình trạng học sinh bỏ học vẫn xảy ra; riêng

trong năm học 1988-1989, học sinh cấp II bỏ học tới 12,9%... Năm học 1989 -

1990, ngành Giáo dục đẩy mạnh phong trào thi đua Hai tốt, động viên tạo điều

kiện để học sinh đến trường, nên tình trạng học sinh bỏ học giảm đáng kể. Kết

thúc năm học, học sinh cấp I đỗ tốt nghiệp 84%, cấp II đỗ 98%, cấp III đỗ 84%,

thực hiện xóa mù chữ vượt kế hoạch 16% [34, tr. 262-263]; ngành Giáo dục

Tiên Sơn được xếp loại tiên tiến của tỉnh Hà Bắc.

Từ năm 1991, hoạt động giáo dục và đào tạo các xã trên địa bàn Tiên Du tiến

bộ không ngừng qua từng năm học. Chất lượng giáo dục toàn diện các trường trên

địa bàn Tiên Du nâng lên rõ rệt, góp phần vào kết quả toàn huyện Tiên Sơn được

công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học và xóa mù chữ. Trong năm học

1992 - 1993, Tiên Du không còn học sinh xếp loại yếu kém về đạo đức, văn hóa yếu

kém giảm mạnh ở các cấp; thi học sinh giỏi toàn tỉnh đạt 3 giải nhất, 4 giải nhì, 10

giải 3, xếp thứ 5 toàn tỉnh. Với kết quả đó, huyện Tiên Sơn liên tục giữ vững danh

hiệu Đơn vị Tiên tiến xuất sắc của ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hà Bắc.

Trong những năm 1996 - 1999, ngành Giáo dục - Đào tạo Tiên Sơn tiếp tục

phát triển và có những chuyển biến mới tích cực. Quy mô các ngành học được mở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

32

rộng theo hướng đa dạng hóa các loại hình trường lớp, các hình thức học tập. Đội

ngũ cán bộ giáo viên các cấp được đảm bảo về số lượng và từng bước nâng lên về

chất lượng; cơ sở vật chất được tăng cường, chất lượng dạy và học được nâng cao.

Đó là cơ sở và động lực quan trọng để giáo dục-đào tạo Tiên Du phát triển mạnh mẽ

khi tái lập, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH, HĐH của huyện.

Trong hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, ngành Y tế huyện Tiên Sơn

đã vượt qua rất nhiều khó khăn để đứng vững và phát triển. Công tác y tế, vệ sinh

phòng bệnh và khám, chữa bệnh cho nhân dân được đặc biệt coi trọng. Huyện đã đầu

tư nhiều công sức duy trì phong trào vệ sinh phòng bệnh, xây dựng 3 công trình vệ

sinh, tổ chức tiêm chủng mở rộng phòng các loại bệnh dịch cho trẻ em, phụ nữ mang

thai. Từ năm 1986, mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; cuộc vận động sinh đẻ có kế

hoạch phát triển rộng khắp và đạt kết quả tốt, giảm tỉ lệ tăng dân số từ 1,68% năm

1985, xuống còn 1,62% năm 1986; đến 1988 còn 1,53% và tiếp tục giảm trong những

năm tiếp theo. Năm 1989, Bộ Y tế công nhận Tiên Sơn là đơn vị hoàn thành cuộc vận

động xây dựng 3 công trình vệ sinh. Do làm tốt công tác vệ sinh phòng bệnh, thường

xuyên tổ chức kết hợp giữa Bệnh viện huyện với các Trạm xá khám chữa bệnh cho

nhân dân nên tỉ lệ bệnh nhân và số người phải đi khám bệnh, tỉ lệ tử vong vì bệnh tật

giảm đáng kể qua các năm. Đặc biệt, ngành Y tế đã triển khai chương trình chống

bệnh phong đạt kết quả cao, huyện đã mời đội ngũ y, bác sĩ của Bộ Y tế về giúp

khám và chữa bệnh cho nhân dân 8 xã, được nhân dân khen ngợi.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và sự chỉ đạo của Huyện ủy, Phòng

Thương binh - Xã hội huyện Tiên Sơn đã phối hợp với các ban ngành có liên quan

kịp thời giải quyết các chế độ đãi ngộ của Đảng, Nhà nước cho các đối tượng chính

sách; đồng thời thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Xã Hạp Lĩnh hoàn

thành tặng sổ tình nghĩa cho 100% gia đình chính sách, Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn tăng cường cho vay giải quyết công ăn việc làm, xóa đói giảm

nghèo đạt kết quả tốt.

Công tác văn hóa, thông tin và thể thao được đẩy mạnh. Các đội văn nghệ

quần chúng, các đội tuyên truyền cổ động cơ sở được duy trì và hoạt động tích cực.

Phong trào TDTT, nhất là các môn bóng chuyền, bóng đá, vật, cầu lông... thu hút

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

33

đông đảo các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, công sở. Phong trào xây dựng làng

văn hóa với những quy ước có nội dung văn hóa mới, hiện đại được đông đảo nhân

dân hưởng ứng. Các hoạt động lễ hội truyền thống, truyền thanh, phim ảnh, sách

báo phát triển phong phú. Ngành Văn hóa tích cực phối hợp với các cơ quan hữu

quan thu quét các văn hóa phẩm đồi trụy, phản động.

Công tác quốc phòng, an ninh được coi trọng. Hằng năm, lực lượng quân sự

từ huyện đến cơ sở đều rà soát, bổ sung hoàn thiện phương án tác chiến phòng thủ,

tổ chức huấn luyện, diễn tập đạt kết quả tốt; hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân theo

chỉ tiêu kế hoạch. Lực lượng công an viên, bảo vệ và công an huyện luôn bám sát

địa bàn trọng điểm, tích cực truy quét tội phạm hình sự, các hoạt động gây rối trật

tự. Cùng với phong trào thi đua học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy lực lượng

công an, phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được sự hưởng ứng của

đông đảo nhân dân. Hoạt động của các tổ an ninh nhân dân, của lực lượng thanh

niên xung kích đi vào nền nếp, có chất lượng.

Tiểu kết chương 1

Lịch sử Tiên Du trải dài theo tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, nhưng lịch

sử Tiên Du có những đặc điểm riêng của mình.

Vùng đất Tiên Du có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi nên từ rất sớm đã trở

thành nơi tụ cư của người Việt cổ. Con người nơi đây đã sớm biết khai phá những

cánh đồng màu mỡ để phát triển kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước kết hợp với các

nghề thủ công, buôn bán; biến vùng đất này trở thành một miền quê tương đối trù

phú. Tiên Du từ rất sớm đã được biết đến bởi vẻ đẹp của thiên nhiên, bởi nét đẹp

văn hóa của con người.

Phát huy truyền thống văn hiến và cách mạng, nhân dân Tiên Du sát cánh

cùng nhân dân Từ Sơn nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao phó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, nhân dân Tiên Du cần cù, sáng

tạo lao động sản xuất phát triển kinh tế-xã hội, gặt hái được những thành tựu quan

trọng về mọi mặt, góp phần đáng kể vào sự chuyển biến kinh tế-xã hội của huyện

Tiên Sơn . Sau hơn 10 năm (1986 - 1999), cùng với Từ Sơn, nhân dân Tiên Du thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

34

hiện đường lối đổi mới của Đảng, góp phần đưa nền kinh tế của huyện từng bước

thoát ra khỏi khủng hoảng, ổn định và phát triển. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục tiến

bộ không ngừng; đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao rõ rệt; tình hình xã

hội đã có chuyển biến tích cực; quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn

xã hội được đảm bảo. Đó là tiền đề hết sức quan trọng để Tiên Du vững tin vào

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

35

mình tiếp tục tiến lên thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.

Chương 2

CHUYỂN BIẾN KINH TẾ HUYỆN TIÊN DU TỈNH BẮC NINH

TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013

2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng bộ địa phương

2.1.1. Bối cảnh lịch sử

Trong thập niên cuối thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, bối cảnh thế giới đã

có những biến đổi to lớn và sâu sắc, ảnh hưởng toàn diện và mạnh mẽ đến mọi

mặt đời sống xã hội của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Dân tộc ta đứng

trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn. Khả năng duy trì hoà

bình ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ

trung tâm là phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh giác,

chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra ngày càng mạnh mẽ; khoa học

và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tiếp tục có

những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự

phát triển kinh tế, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.

Kinh tế tri thức phát triển mạnh, do đó con người và tri thức càng trở thành nhân tố

quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia.

Đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,

tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó,

chúng ta còn phải đối phó với những thách thức: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so

với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa,

nạn tham nhũng quan liêu,“diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.

Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kì mới là

vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX diễn ra trong hoàn cảnh đó, nhằm hoạch định đường lối cho sự phát triển của

đất nước trong những năm 2001 - 2005 và 2001 - 2010. Đại hội có nhiệm vụ tổng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

36

kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII; 15 năm đổi mới đất nước, 10 năm

thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc, từ đó

phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong

hai thập kỉ đầu của thế kỉ XXI. Với tinh thần “Dân chủ - Trí tuệ - Trách nhiệm

- Đổi mới”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đề ra mục

tiêu tổng quát phát triển đất nước là đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển nhanh,

bền vững theo định hướng XHCN, phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành

nước công nghiệp có tŕnh độ phát triển trung bình, chính trị-xã hội ổn định, dân

chủ-kỉ cương, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt,

độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của

Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao, tạo tiền đề vững chắc để

phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.

Tỉnh Bắc Ninh từ sau ngày tái lập, nhất là từ sau Đại hội Đảng bộ tỉnh lần

thứ XV (10/1997) đã nỗ lực phấn đấu, giành được nhiều thành tựu quan trọng, hoàn

thành và vượt mức nhiều chỉ tiêu do Đại hội đề ra. Tình hình chính trị-xã hội ổn

định, kinh tế phát triển nhanh, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được tăng cường,

văn hóa xã hội phát triển khá, đời sống vật chất tinh thần nhân dân được cải thiện,

bộ mặt đô thị, nông thôn từng bước được đổi mới. Thành tựu đó là bước khởi đầu

tốt đẹp, có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng tỉnh Bắc

Ninh giàu mạnh, văn minh. Bên cạnh đó, tỉnh Bắc Ninh đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất

cập trong xây dựng và phát triển, nhất là về hệ thống phân chia các đơn vị hành

chính chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đòi hỏi cần phải hoàn thiện.

Tiên Sơn là một huyện lớn của tỉnh Bắc Ninh, được thành lập năm 1963 trên

cơ sở hợp nhất 2 huyện Từ Sơn và Tiên Du, khi tỉnh Bắc Giang và tỉnh Bắc Ninh

hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc. Trong hoàn cảnh mới, tình hình đó không còn phù hợp

cho sự phát triển, hạn chế rất lớn việc khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng địa

phương, ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch phát triển

của tỉnh.

Chính vì vậy, ngày 9/8/1999, Chính phủ ra Nghị định số 68/NĐCP tách

huyện Tiên Sơn thành huyện Tiên Du và huyện Từ Sơn. Huyện Tiên Du được tái

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

37

lập, gồm 15 xã và 1 thị trấn: Đại Đồng, Tri Phương, Hoàn Sơn, Phật Tích, Việt

Đoàn, Minh Đạo, Cảnh Hưng, Tân Chi, Lạc Vệ, Hiên Vân, Liên Bão, Nội Duệ, Phú

Lâm, Khắc Niệm, Hạp Lĩnh (1) và thị trấn Lim.

Huyện Tiên Du được tái lập đã tạo điều kiện thuận lợi để Đảng bộ và nhân

dân trong huyện chủ động, tích cực phát huy truyền thống, khai thác hết tiềm năng

và thế mạnh của mình vào việc xây dựng và phát triển quê hương.

2.1.2. Chủ trương phát triển kinh tế, xã hội của huyện Tiên Du

Vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (18 - 25/2006), Đại

hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII (14 - 16/12/2005) đề ra mục tiêu tổng quát

đến năm 2010 là: “Khai thác và phát huy hơn nữa tiềm năng, thế mạnh của địa

phương, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng cường sức mạnh

đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc

độ cao và bền vững hơn. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc, nâng cao chất

lượng và hiệu quả các hoạt động văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công

nghệ, phát triển nguồn nhân lực, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho nhân

dân…Phấn đấu đến năm 2010, Bắc Ninh là tỉnh phát triển khá trong cả nước, đến

năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo tiền đề đến

năm 2020 là một trong những tỉnh dẫn đầu trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc

Bộ’’…[80, tr. 40]

Quán triệt đường lối chung của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh

Bắc Ninh lần thứ XVII, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, Đại hội Đảng

bộ huyện Tiên Du lần thứ XIV (19 - 21/11/2000) đã xác định phương hướng, nhiệm

vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005 là: “Tập trung mọi

nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Từng bước cải thiện đời sống nhân dân,

giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội… đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng huyện Tiên Du giàu mạnh, văn minh”.

Đại hội cũng nêu rõ mục tiêu cụ thể: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế bình quân là

(1) Từ năm 2007, hai xã Khắc Niệm và Hạp Lĩnh sáp nhập vào thành phố Bắc Ninh.

Như vậy, từ thời điểm này trở đi, huyện Tiên Du gồm 13 xã và 1 thị trấn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

38

13,5%, trong đó: nông - lâm nghiệp tăng từ 5,5 đến 5,8%, công nghiệp - xây dựng

tăng từ 28 đến 30%, thương mại-dịch vụ tăng từ 15 đến 17%; cơ cấu kinh tế nông-

lâm nghiệp chiếm 41,5%, công nghiệp xây dựng chiếm 33,5%, thương mại-dịch vụ

chiếm 25%; thu ngân sách tăng bình quân hằng năm là 8,25% [47, tr. 15 - 16].

Đại hội Đảng bộ Tiên Du lần thứ XV (16-18/2005) xác định phương hướng,

nhiệm vụ và mục tiêu tổng quát 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 là: “Phát huy sức

mạnh đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi tiềm năng và lợi thế của địa phương đẩy

mạnh CNH, HĐH nhằm duy trì tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững.

Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, dịch vụ và nông

nghiệp, xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại. Phát triển toàn diện các lĩnh

vực văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời sống

vật chất, tinh thần của nhân dân. Củng cố quốc phòng vững chắc, an ninh chính trị,

trật an toàn xã hội ổn định… Phấn đấu đến năm 2015 Tiên Du cơ bản trở thành

huyện công nghiệp…”. Mục tiêu cụ thể được Đại hội nhất trí thông qua: Nhịp độ

tăng trưởng kinh tế là 16,5%/năm, trong đó: nông - lâm - thủy sản tăng 4,1%, công

nghiệp - xây dựng cơ bản tăng 23,3%, dịch vụ tăng 16%; cơ cấu kinh tế công

nghiệp - xây dựng cơ bản 57,7%, dịch vụ 24,4%, nông nghiệp 17,9%; thu nhập bình

quân đầu người đạt 18,110 triệu đồng/năm [48, tr.18 - 19].

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV và lần thứ XV,

nhân dân Tiên Du đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tình hình kinh tế - xã hội

của huyện có nhiều chuyển biến phát triển đi lên. Tuy nhiên, Đảng bộ và nhân dân

huyện Tiên Du vẫn còn đối mặt nhiều khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của

khủng hoảng tài chính thế giới và sự suy giảm kinh tế trong nước, lạm phát tăng

cao, tình hình thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp.

Trong bối cảnh ấy, Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Du lần thứ XVI (7/2010)

xác định hướng đi tiếp theo trong giai đoạn 2010 - 2015 là: “Huy động mọi tiềm

năng và lợi thế của địa phương đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm duy trì tăng trưởng

kinh tế với tốc độ cao và bền vững; tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng

công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại;

phát triển văn hóa - xã hội, y tế, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

39

sống vật chất, tinh thần của nhân dân; củng cố quốc phòng vững chắc, an ninh

chính trị, trật an toàn xã hội ổn định... phấn đấu đến năm 2015 Tiên Du cơ bản trở

thành huyện công nghiệp”. Mục tiêu cụ thể được xác định: Tốc độ tăng GDP bình

quân 14,5%/năm, trong đó nông - lâm - thủy sản tăng 2,6%/năm, công nghiệp - xây

dựng tăng 16,1%/năm, dịch vụ tăng 14%/năm; cơ cấu kinh tế: tỉ trọng công nghiệp -

xây dựng chiếm 76,6%,dịch vụ 16,9%, nông - lâm - thủy sản 5,5%; thu ngân sach

hằng năm bình quân 23,5%; đến 2015 GDP bình quân đầu người đạt 84 triệu đồng

(theo giá hiện hành) [49, tr. 14-15].

Những nghị quyết các kì đại hội Đảng bộ huyện thể hiện sự vận dụng sáng

tạo đường lối mới của Đảng và Đảng bộ tỉnh phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của

địa phương theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH. Thông qua quá trình triển khai thực

hiện các nghị quyết Đại hội Đảng bộ, tình hình kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện có

những bước chuyển biến mạnh mẽ.

2.2. Chuyển biến về kinh tế của huyện Tiên Du từ năm 1999 đến năm 2013

2.2.1. Trong cơ cấu kinh tế

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn lúng túng khi mới được tái lập, nhưng BCH

Đảng bộ huyện Tiên Du đã nhanh chóng bắt tay vào việc chỉ đạo thực hiện các kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nhằm thực hiện thắng lợi Nghị

quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV (10/1997) và Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ huyện Tiên Sơn lần thứ XIII (29 - 30/31996).

Trong 5 năm (1996 - 2000), nhờ việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, cây trồng, vật nuôi đi đôi với phân vùng sản xuất, dịch vụ, nền kinh tế của

huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực với tốc độ tăng trưởng khá, bình quân

tăng 10,4%/năm. Trong đó: Nông - lâm - thủy sản tăng 8,5%, công nghiệp-xây

dựng cơ bản tăng 18,7%, thương mại - dịch vụ tăng tăng 11,2%. Đến năm

2000, cơ cấu kinh tế của huyện Tiên Du chuyển dịch khá tích cực, giảm tỉ trọng

ngành Nông nghiệp và tăng dần tỉ trọng khu vực công nghiệp, thủ công nghiệp

và dịch vụ. So với năm 1995, tỉ trọng khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế

giảm từ 65,8%, xuống còn 52,4%; công nghiệp-xây dựng cơ bản tăng từ 11,9%,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

40

lên 24,5%, thương mại - dịch vụ cũng tăng từ 22,3%, lên 23,1% [3, tr. 260].

Trong những năm 2001 - 2005, huyện Tiên Du có nhiều thuận lợi cơ bản để

đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đất nước sau 15 năm đổi mới đã đạt được

những thành tựu to lớn, sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang được đẩy mạnh.

Huyện Tiên Du sau khi được tái lập nằm giữa 2 trung tâm kinh tế - thương mại của

tỉnh là thị xã Bắc Ninh và huyện Từ Sơn, cách thủ đô Hà Nội 25 km. Ở vị trí này,

huyện Tiên Du có hệ thống giao thông hết sức thuận lợi để thu hút đầu tư phát triển

các KCN, CCN; phát triển các hoạt động dịch vụ - thương mại và du lịch, khai thác

các tiềm năng thế mạnh để tạo ra bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên, trong giai đoạn này huyện cũng gặp không ít

khó khăn do mới tái lập nên quy mô nền kinh tế còn nhỏ, cơ sở hạ tầng bất cập, đội

ngũ cán bộ còn thiếu và chưa đồng bộ.

Nhờ biết phát huy thuận lợi, từng bước vượt qua khó khăn, nhân dân huyện

Tiên Du đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, nổi bật là duy trì tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ. Trong 5 năm (2001 -

2005), tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 15,5%/năm, vượt kế hoạch 2%

(mục tiêu là 13,5%); trong đó khu vực sản xuất nông - lâm - thủy sản tăng 5%, khu

vực công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng 29,5%, thương mại - dịch vụ tăng 16,5%;

thu nhập bình quân đầu người tăng 37,64% so với mục tiêu Đại hội XIV đề ra, đạt

7570000đ/người/năm [48, tr. 2].

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: Tỉ trọng khu vực công nghiệp - xây

dựng cơ bản từ 24,5% năm 2000, tăng lên 56,3% năm 2005; thương mại - dịch vụ

chiếm 18.8%; khu vực sản xuất nông - lâm - thủy sản từ 52,4% năm 2000, giảm

xuống còn 24% năm 2005. Cụ thể như sau:

Về sản xuất nông - lâm - thủy sản: Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp năm

2005 đạt 319 tỉ đồng, tăng 32,4% so với năm 2000; giá trị sản xuất/ha canh tác năm

2005 đạt 35 triệu đồng, vượt 2 triệu đồng/ha (mục tiêu là 33 triệu đồng). Cơ cấu giá

trị trong khu vực sản xuất nông nghiệp có chuyển biến rất tích cực: Tỉ trọng ngành

trồng trọt từ 65,5% năm 2000, giảm xuống còn 54,2% năm 2005, ngành chăn nuôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

41

và thủy sản từ 27,3% năm 2000, tăng lên 35,2% năm 2005.

Sản xuất CN - TTCN được xác định là khâu đột phá để thúc đẩy nền kinh tế

của huyện. Các KCN tập trung, CCN và các ngành nghề địa phương phát triển

mạnh và toàn diện; nổi bật là KCN Tiên Sơn, CCN Phú Lâm, các làng nghề ở thị

trấn Lim, Khắc Niệm, Nội Duệ, Phú Lâm…Giá trị sản xuất CN - TTCN tăng mạnh,

từ 35,7 tỉ năm 2000, lên 2.087 tỉ năm 2005 với tốc độ tăng trưởng trung bình

102%/năm.

Về thương mại - dịch vụ: Mạng lưới chợ nông thôn được mở rộng. Các loại

hình kinh doanh đa dạng đã thúc đẩy ngành Thương mại - Dịch vụ có bước phát

triển khá. Bên cạnh những doanh nghiệp cũ, trên địa bàn huyện xuất hiện thêm các

doanh nghiệp mới, nâng tổng số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương

mại-dịch vụ lên 21 cơ sở. Toàn huyện có 2.270 hộ tham gia buôn bán, tăng gấp 3

lần so với năm 2000, đáp ứng tốt nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng của nhân

dân. Nhờ đó, tổng mức lưu chuyển hàng hóa năm 2005 đạt 295 tỉ đồng, tăng 1,94

lần so với năm 2000.

Xây dựng cơ sở hạ tầng được quan tâm tập trung đầu tư và đạt kết quả

tốt. Huyện đã đầu tư gần 250 tỉ đồng để xây dựng các công trình giao thông

phục vụ phát triển kinh tế. Các tuyến đường vào khu công nghiệp, huyện lị đều

được nhựa hóa. Phong trào xây dựng đường giao thông nông thôn phát triển

mạnh mẽ ở tất cả các xã; nhiều xã hoàn thành gạch hóa, bê tông hoá 100% [73].

Như vậy, trong 5 năm (200 - 2005), dù có nhiều khó khăn do huyện vừa mới

lập lại, xuất phát điểm còn thấp, song được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, sự giúp

đỡ của các ban, ngành, đoàn thể, sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân, nên huyện Tiên

Du đã đạt được nhiều kết quả quan trọng về kinh tế. Những giải pháp tích cực, thu

hút đầu tư vào các KCN, CCN, các làng nghề xây dựng, sản xuất giấy, vật liệu xây

dựng, chế biến nông - lâm sản, gia công tơ tằm, dệt may…, đi đôi với việc đầu

tư chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi, áp dụng KHKT, đầu tư xây

dựng cơ sở hạ tầng đã tạo ra bước phát triển nhanh và đồng đều ở các ngành

sản xuất. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt ở mức cao, vượt chỉ tiêu do Đại hội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

42

Đảng bộ huyện lần thứ XIV đề ra. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực

theo hướng CNH, HĐH, công nghiệp - xây dựng cơ bản, dịch vụ - thương mại

ngày càng chiếm tỉ trọng lớn, nông - lâm - thủy sản giảm mạnh.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện

Tiên Du trong những năm 200 - 2005 cũng bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế. Tốc độ

tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu chưa đồng bộ và thiếu vững chắc. Khu vực sản

xuất nông - lâm - thủy sản còn chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế (24%), tỉ trọng

khu vực dịch vụ thấp (18,8%).

Trong nông nghiệp, sự chuyển dịch cơ cấu chậm chạp, trồng trọt chiếm hơn

50% giá trị sản xuất. Một số chương trình dự án có hiệu quả kinh tế cao, như

chương trình lợn hướng nạc, nuôi cá đồng trũng chậm được triển khai thực hiện; dự

án chăn nuôi bò sữa chưa đạt chỉ tiêu. Nông nghiệp phát triển chưa toàn diện và

chậm chuyển sang sản xuất hàng hóa.

Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chưa tạo được sự chuyển

biến đột phá thực sự. Công tác quản lí đầu tư phát triển các KCN, CCN chưa

chặt chẽ và chậm. Năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của nhiều đơn vị

thuộc khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp. Kĩ thuật công nghệ các cơ sở kinh tế

ngoài quốc doanh, nhất là thủ công nghiệp còn lạc hậu. Các làng nghề mới

chậm phát triển, chưa có mặt hàng chủ lực và lĩnh vực mũi nhọn. Việc khai

thác và huy động nội lực chưa đạt hiệu quả cao. Vai trò quản lí và điều hành

của HTX theo luật còn lúng túng, thậm chí mang tính hình thức, hoạt động

thiếu hiệu quả.

Thương mại - dịch vụ chuyển biến còn chậm, tỉ trọng trong cơ cấu kinh tế

còn thấp, kém phát triển, quy mô nhỏ, chất lượng và hiệu quả thấp, chưa hình thành

trung tâm giao lưu, đầu mối buôn bán lớn cho khu vực. Du lịch chậm phát triển,

chưa khai thác được tiềm năng to lớn của huyện.

Dù còn nhiều hạn chế, nhưng những kết quả đạt được trong thời kì 2001 -

2005 đã tạo tiền đề vững chắc cho huyện Tiên Du đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

43

những năm tiếp theo.

Từ năm 2006, khi bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần

thứ XV, huyện Tiên Du có nhiều thuận lợi rất cơ bản. Đất nước sau 20 năm đổi mới

đã đạt được những thành tựu to lớn. Huyện Tiên Du sau hơn 5 năm tái lập, kinh tế

phát triển mạnh, hệ thống giao thông bước đầu được hoàn thiện; môi trường đầu tư

được cải thiện đáng kể. Đây là lợi thế để huyện Tiên Du đẩy mạnh công cuộc CNH,

HĐH. Bên cạnh đó, huyện cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do tác động tiêu

cực từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và suy giảm kinh tế trong nước, lạm phát

tăng cao; thời tiết, dịch bệnh diễn biến phức tạp; hạ tầng giao thông một số tuyến

tỉnh và huyện chưa đáp ứng được yêu cầu.

Phát huy những thành quả đã đạt được, khai thác tiềm năng, lợi thế sẳn có,

khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức, Đảng bộ và nhân dân Tiên Du đã thực

hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu đề ra, đạt được thành tựu to lớn.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân từ năm 2006 đến năm 2010 đạt

16,7%/năm; trong đó khu vực nông - lâm - thủy sản tăng 4,6%, công nghiệp - xây

dựng cơ bản tăng 18,5%, dịch vụ tăng 19,9%. Từ năm 2010 đến năm 2013, tăng

trưởng bình quân đạt 10,6%/năm; trong đó khu vực nông - lâm - thủy sản tăng

2,7%, công nghiệp - xây dựng cơ bản tăng 12%, dịch vụ tăng 9,8% [73].

Cùng với sự tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng CNH.

Năm 2010, tỉ trọng khu vực công nghiệp chiếm 68,5% (năm 2005 là 56,3%); khu

vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 24% năm 2005, xuống còn 10,9%; dịch vụ chiếm

20,6%. Đến năm 2013, tỉ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng cơ bản chiếm

73,5%; dịch vụ 17,5%; nông - lâm nghiệp 9% [74].

Tổng sản phẩm xã hội (GDP) bình quân đầu người theo giá hiện hành

đạt 60,6 triệu đồng/người (tương ứng gần 2.900 USD), tăng 21,2 triệu so với

năm 2010. Năm 2013, tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn huyện đạt 2.201 tỉ

đồng (theo giá so sánh năm 1994), tăng 14,1% so với năm 2012; trong đó

khu vực công nghiệp - xây dựng cơ bản chiếm 1.053 tỉ đồng, tăng 18,5%;

dịch vụ chiếm 508,7 tỉ đồng, tăng 5,9%; nông - lâm - thủy sản chiếm 188,6 tỉ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

44

đồng, tăng 5% [28].

Bảng 2.1- Tăng trưởng và cơ cấu kinh tế huyện Tiên Du giai đoạn 2005 - 2013

Chỉ tiêu 2005 2006 2010 2013

Tốc độ tăng trưởng bình quân (%) 2011- 2006- 2013 2010

1-GRDP (giá 1994, tỉ 750,8 869,8 1627,9 2201,0 16,7 10,6 đồng)

-Nông, lâm, thủy sản 139,0 145,5 174,2 188,5 4,6 2,7

-Công nghiệp và xây 456,9 546,2 1069,4 1503,8 18,5 12 dựng

154,9 178,1 385,3 580,7 19,9 -Dịch vụ 9,8

2-GRDP (giá HH, tỉ 1314,1 1710,2 4978,0 7928,6 28,6 16,8 đồng)

-Nông, lâm, thủy sản 252,1 285,4 542,7 711,8 9,0 9,5

-Công nghiệp và xây 796,2 1101,2 3408,1 5830,8 33,8 19,6 dựng

-Dịch vụ 265,8 323,6 1027,2 1386 31,0 10,5

3-Cơ cấu GRDP (giá 100 100 100 100 x x HH,%)

-Nông, lâm, thủy sản 24,0 16,69 10,9 9,0 x x

-Công nghiệp và xây 56,3 64,39 68,5 73,5 x x dựng

-Dịch vụ 18,8 18,92 20,6 17,5 x x

4-Dân số trung bình 119.190 120.500 126325 130.801 1,17 1,17 (người)

5-GRDP bình

quân/người/năm

11684 14194 39406 60,616 27,1 15,4 +Giá HH (VND)

749 886,3 2020 2870 22,0 12,4 +Giá HH (USD)

6-GRDP/người so với 1,41 1,11 0,90 x x toàn tỉnh (lần)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

45

Nguồn: [28], [74].

Như vậy, từ một huyện kinh tế thuần nông, công nghiệp kém phát triển,

huyện Tiên Du đã vươn lên trở thành một trong những huyện có tốc độ phát triển

kinh tế cao nhất tỉnh Bắc Ninh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ

trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ, thương mại. Các ngành phát triển đều, thu

ngân sách Nhà nước năm sau cao hơn năm trước. GDP bình quân đầu người ngày

tăng, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã

hội được đầu tư phát triển mạnh, như giao thông, điện, trường, bệnh viện, công trình

thủy lợi…, làm thay đổi nhanh chóng diện mạo kinh tế trên địa bàn huyện.

Dù có bước chuyển biến nhanh chóng, nhưng tốc độ phát triển kinh tế của

huyện thiếu bền vững, chưa có các sản phẩm chủ lực. Sức cạnh tranh của hàng hóa

và dịch vụ chưa cao; quy mô của các ngành sản xuất còn nhỏ bé, chưa có những

công trình then chốt tạo được sự bứt phá để đẩy mạnh việc phát triển kinh tế - xã

hội. Cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế chưa rõ nét, chưa chuyên sâu.

Thị trấn và các trung tâm kinh tế cụm xã chưa có sức mạnh, thiếu năng lực cạnh

tranh; tích lũy nội bộ thấp, thiếu vốn đầu tư cho phát triển. Chuyển dịch cơ cấu nội

bộ ngành nông - lâm - thủy sản còn chậm. Việc sử dụng các giống cây trồng, vật

nuôi có năng suất cao còn hạn chế, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi chưa

mạnh; phát triển thủy sản chưa tương xứng với tiềm năng. Chăn nuôi chưa có bước

đi lâu dài và vững chắc, chưa gắn kết sản xuất nông - lâm - thủy sản với các cơ sở

chế biến để tăng giá trị sản phẩm. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tuy

phát triển cao, song chưa tạo được đột phá cho nền kinh tế của huyện, chưa có các

cơ sở công nghiệp then chốt mang tính nền tảng. Phát triển CN - TTCN và ngành

nghề ở nông thôn còn chậm, hiệu quả sản xuất của các HTX thấp. Ô nhiễm môi

trường ở các làng nghề trầm trọng và có biểu hiện tăng lên. Khả năng ứng dụng

KHKT, công nghệ tiên tiến trong các ngành kinh tế và đời sống chưa cao. Thương

mại - dịch vụ chưa tạo được chuyển biến lớn. Dịch vụ có tiềm năng nhưng chưa

được đầu tư khai thác tốt. Các hoạt động kinh tế, kinh doanh, thương mại diễn ra

chưa sôi động. Sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa còn thấp, chưa xây dựng

được thương hiệu... Chất lượng mạng lưới kết cấu hạ tầng đã được đầu tư nâng cấp,

song còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và phục vụ đời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

46

sống nhân dân.

Năm 2000 Năm 2005

Năm 2010 Năm 2013

Nguồn: [82], [87], [93], [96].

Biểu đồ 2.1- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Tiên Du,từ năm 2000-2013

2.2.2. Trong công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp

Với lợi thế về địa lí, giao thông và đất đai, sản xuất CN - TTCN được Đảng

bộ huyện xác định là khâu đột phá, là động lực phát triển kinh tế, xã hội cần phải

đầu tư, tạo mọi điều kiện để phát triển nhanh và bền vững. Đảng bộ huyện đã ban

hành nhiều nghị quyết về phát triển CN - TTCN nhằm thu hút và tạo điều kiện

thuận lợi cho các doanh nghiệp vào đầu tư sản xuất kinh doanh ở các KCN, CCN

trên địa bàn. Huyện cũng có chính sách để các địa phương khôi phục, phát triển

làng nghề truyền thống, tạo thêm và nhân rộng nghề mới, giải quyết việc làm cho

lao động nông thôn.

Trong những năm đầu sau khi tái lập, huyện còn gặp nhiều khó khăn, lúng

túng, chưa xác định hướng phát triển cụ thể. Do vậy, sản xuất CN - TTCN của

huyện còn nhỏ bé, chiếm tỉ trọng thấp trong cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, sản xuất

công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp bước đầu đã được quan tâm đầu tư. Ngoài một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

47

số làng nghề ở Nội Duệ, thị trấn Lim, Khắc Niệm với các nghề truyền thống như dệt

lụa, làm bún, xây dựng…, đã phát triển thêm một số nghề mới, như sản xuất giấy ở

Phú Lâm, chế biến lâm sản ở thị trấn Lim, nghề mộc ở Đại Đồng… Đến năm 2000,

toàn huyện đã có 27 doanh nghiệp ngoài quốc doanh; 15 doanh nghiệp sản xuất CN

- TTCN, trong đó có 4 công ty TNHH, 11 HTX và 798 hộ cá thể thu hút hàng và

giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động [73, tr. 25]. Giá trị sản xuất toàn ngành

CN - TTCN tăng từ 18,73 tỉ đồng năm 1995, lên 35,7 tỉ đồng năm 2000; bình quân

mỗi năm tăng 13,7%. Đáng chú ý là có một số mặt hàng phát triển và đạt chất lượng

khá tốt, như giấy, tơ tằm, chế biến nông sản, lâm sản...

Từ năm 2001 trở đi, thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh CNH, HĐH, huyện tập trung

đầu tư phát triển mạnh sản xuất CN - TTCN, khôi phục và phát triển các làng nghề

truyền thống; đồng thời mở mang thêm nghề mới. Trước mắt, huyện đẩy nhanh tiến độ

xây dựng và hình thành các CCN Khắc Niệm, Hạp Lĩnh, Liên Bão, Phú Lâm và tạo

điều kiện để Trung ương và tỉnh hình thành, phát triển KCN tập trung Tiên Sơn. Cùng

với việc ưu tiên đầu tư các nghề sản xuất giấy, vật liệu xây dựng, chế biến nông sản,

dệt may..., huyện tập trung tổ chức khai thác tài nguyên, sản xuất gạch ngói, xây dựng

dân dụng, nghề mộc, mây tre đan..

Trong những năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất CN - TTCN tăng mạnh. Nếu

năm 2000 mới đạt 35,7 tỉ đồng, thì đến năm 2005 tăng lên 2.087 tỉ đồng (theo giá so

sánh hiện hành); tốc độ tăng trưởng đạt 102,1%/năm [87]. Sự phát triển nhanh

chóng ngành CN - TTCN đã tác động mạnh đến khả năng phát triển của các ngành

sản xuất và dịch vụ khác, làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, phát huy

được hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,

nông thôn. Sản phẩm chủ yếu có sức cạnh tranh và tiêu thụ mạnh là vật liệu xây

dựng các loại (gạch, ngói…), giấy các loại, thức ăn gia súc.

Hiện trạng phát triển TCN trên địa bàn huyện cho thấy: Các ngành nghề tiểu

thủ công chế biến sản phẩm lâm sản, như mây tre đan, mộc là những sản phẩm có

thị trường mở, giá trị cao, thu hút nhiều lao động, thu nhập khá ổn định nhưng thiếu

doanh nghiệp đầu mối đứng ra cung ứng vật tư và thu mua sản phẩm. Các ngành cơ

khí, điện tử chủ yếu đáp ứng yêu cầu các mặt hàng dân dụng và xây dựng thiết yếu

của nhân dân; chế biến lương thực, thực phẩm sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra

mới được chế biến một phần nhỏ so với tổng sản phẩm của nông dân, chủ yếu là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

48

nấu rượu, làm bún, làm bánh…thiếu các cơ sở chế biến rau quả, giết mổ thịt lợn

xuất khẩu và chế biến lương thực ở các làng nghề; chế biến thủy sản có nguồn

nguyên liệu song chủ yếu là tiêu thụ sản phẩm tươi sống; may thêu ren và móc sợi

có tiềm năng khai thác lao động nông thôn phù hợp và thuận lợi, giá nhân công phù

hợp nhưng còn manh mún; sản xuất vật liệu xây dựng, hệ thống lò sản xuất gạch đã

đáp ứng được nhu cầu xây dựng nội huyện và có khả năng xuất ra ngoài huyện

nhưng chưa được đầu tư có chiều sâu để giảm thiểu ô nhiễm môi trường và nâng

cao chất lượng, tăng cường sức cạnh tranh. Đây à những ngành nghề có tiềm năng

ớn và bước đầu đã phát triển khá tốt, song cần phải được đẩy mạnh đầu tư hơn nữa.

Ngoài ra, các nghề khác vẫn được duy trì tốt, tốc độ phát triển khá, đáp được nhu

cầu thị trường và nhu cầu của nhân dân.

Sau 5 năm thực hiện, tình hình phát triển nghề và làng nghề trên địa bàn

huyện đã có bước tiến vượt bậc. 100% các xă và thị trấn đã có nghề, tổ chức sản

xuất, góp phần quan trọng nâng cao thu nhập cho người lao động, đẩy nhanh tốc độ

CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Việc quy hoạch xây dựng và phát triển các

KCN tập trung, CCN cũng có những bước tiến mới. Trên địa bàn huyện có 2 KCN

tập trung: KCN Tiên Sơn với tổng quy hoạch 349 ha và KCN Đại Đồng - Hoàn Sơn

với tổng quy hoạch 230,58 ha. Ngoài ra, có 3 CCN nhỏ được phê duyệt điều chỉnh

quy hoạch gồm CCN làng nghề Phú Lâm với diện tích 22 ha, CCN Tân Chi với

diện tích 80 ha và CCN Nội Duệ diện tích 17 ha. Các dự án đầu tư vào KCN ngày

càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Năm 2002, tần suất đầu tư chỉ đạt bình

quân 1,2 triệu USD/ha và khoảng 2 triệu USD/dự án; đến năm 2006, đã tăng lên 3

triệu USD/ha và khoảng 5,3 triệu USD/dự án.

KCN Tiên Sơn được khởi công xây dựng từ năm 2000 nằm trên địa bàn

xã Hoàn Sơn (huyện Tiên Du) và xã Tân Hồng (huyện Từ Sơn). Tính đến cuối

năm 2006, Khu công nghiệp Tiên Sơn có 79 dự án với tổng giá trị là 5154,63 tỉ

đồng; trong đó, 25 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với số tiền là 14 triệu USD;

diện tích đã thu hồi 330,3 ha, trong đó đã cho thuê 142,805 ha, bằng 43,23%.

Các doanh nghiệp đã đăng kí thuê đất đạt 100%, có 50 dự án đã đi vào hoạt

động sản xuất, kinh doanh, giải quyết được việc làm thường xuyên cho 5.741

lao động có thu nhập ổn định từ 800.000đ/người/tháng trở lên.

CCN Phú Lâm được điều chỉnh quy hoạch với diện tích 26 ha (mở rộng thêm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

49

4 ha) tại xóm Hạ Giang, thôn Tam Tảo, có 11 công ty và HTX hoạt động sản xuất

giấy, bao bì, bìa Cacton. Diện tích công nghiệp đang sử dụng chiếm 45,7% diện tích

quy hoạch. CCN Tân Chi đã phê duyệt quy hoạch 80 ha, đang tiến hành xây dựng

hạ tầng và thu hút đầu tư dự kiến mở rộng thêm 50 ha. Hiện ở 2 CCN trên có 17

doanh nghiệp đang hoạt động, với số vốn đầu tư trên 350 tỉ đồng, giả quyết việc làm

cho hơn 1000 lao động [92].

Từ năm 2006 đến năm 2013, trong bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới

suy giảm, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, sản phẩm, hàng hóa tiêu thụ

chậm, song sản xuất CN - TTCN của huyện Tiên Du vẫn có bước phát triển khá,

góp phần tích cực thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm,

tăng thu nhập cho người lao động và tăng ngân sách cho địa phương. Các sản phẩm

chủ đạo của ngành Công nghiệp huyện Tiên Du gồm: Gạch xây dựng các loại, hàng

thủ công mĩ nghệ, giấy các loại, thức ăn gia súc, quần áo may sẵn… Tốc độ tăng

trưởng giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 1994) trong giai đoạn

2006 - 2010 là 42,67%/năm, giai đoạn 2011 - 2013 là 9,14%/năm. Giá trị sản xuất

công nghiệp năm 2010 đạt 19.532 tỉ đồng; theo giá so sánh năm 2010 thì giá trị sản

xuất công nghiệp năm 2013 đạt 26.096 tỉ đồng, tăng 8,2% so với năm 2012; tốc độ

tăng bình quân từ năm 2011-2013 đạt 10,6%/năm [74, tr, 26].

Đến năm 2013, trên địa bàn huyện có 3 KCN tập trung gồm: KCN Tiên

Sơn, KCN Đại Đồng-Hoàn Sơn, KCN - đô thị và dịch vụ Việt Nam - Singapo

(VISIP Bắc Ninh). Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chủ trương mở rộng quy

hoạch KCN Tiên Sơn lên 410 ha, gồm 380 ha công nghiệp và 30 ha đô thị; KCN

Đại Đồng - Hoàn Sơn lên 572 ha. Ngoài ra tỉnh còn dự kiến quy hoạch mới KCN

tập trung AJS của tập đoàn AJS nằm trên địa bàn các xã Lạc Vệ, Hiên Vân và

Tân Chi. KCN Tiên Sơn là KCN có tỉ lệ lấp đầy nhanh nhất (69,9%), góp phần

quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao của huyện Tiên Du.

KCN Đại Đồng - Hoàn Sơn khởi công xây dựng năm 2008, tổng diện tích

quy hoạch là 572 ha, có 31 dự án đầu tư với số vốn đăng kí 96,42 triệu USD; diện

tích đã thu hồi 198,99 ha, bằng 56,6%. Trong đó có 2 dự án đi vào hoạt động sản

xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho 965 lao động. Đến năm 2010, KCN Tiên

Sơn và Đại Đồng - Hoàn Sơn có 158 dự án với tổng vốn đầu tư 3.656,66 tỉ đồng và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

50

trên 250 triệu USD; trong đó có 116 dự án đã đi vào sản xuất, giải quyết việc làm

cho 16.800 lao động. Đến năm 2013, diện tích lấp đầy đạt khoảng trên 70% [49, tr,

3].

Khu VISIP - Bắc Ninh, được triển khai xây dựng năm 2007 với tổng diện

tích quy hoạch 700 ha, gồm 500 ha KCN và 200 ha đô thị nằm trên địa bàn xã Đại

Đồng (Tiên Du) và phường Phù Chẩn (thị xã Từ Sơn); tổng vốn đầu tư 169 triệu

USD; diện tích hiện tại đã cho thuê là 141,3 ha. Đến năm 2013 thu hút được 50 nhà

đầu tư tới thuê đất, xây dựng nhà xưởng sản xuất, trong đó có nhiều nhà đầu tư lớn

đến từ các quốc gia Nhật Bản, Singapo, Mỹ, châu Âu như: Microsoft, PepsiCo,

Foster, Mapetree...Trong 500 ha KCN, có 300 ha thuộc huyện Tiên Du, KCN VISIP

- Bắc Ninh đã hoàn thiện giai đoạn 1 với tỉ lệ lấp đầy đạt 90% và đang hoàn thiện

các bước để triển khai giai đoạn 2. Tổng vốn đầu tư tính đến đầu năm 2014 đạt 1,13

tỉ USD, chủ yếu các doanh nghiệp FDI, chiếm 18% tổng vốn FDI của tỉnh Bắc

Ninh, tạo việc làm cho 17.000 ao động cho thu nhập cao và ổn định [11], [49].

Bảng 2.2- Giá trị sản xuất công nghiệp huyện Tiên Dugiai đoạn 2005 - 2013.

Tổng số Chia ra Năm

Nhà nước FDI Ngoài Nhà nước

Theo giá hiện hành (tỉ đồng)

2.087 3.246 4.710 8.963 10.492 19.532 25.474 29.486 32.079 272 252 311 535 1.087 1.550 1.056 808 751 1.092 1.577 1.887 2.517 3.395 5.341 7.947 1.077 14.789 723 1.417 2.512 5.911 6.010 12.648 16.478 18.601 16.575 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Tốc độ tăng/giảm bình quân mối năm (%)

42,67 9,14 29,34 28,21 -32,88 0,65 36,41 24,88 29,64 53,33 2,41 34,82 2006-2010 2011-2013 2006-2013

Theo giá so sánh năn 2010 (tỉ đồng)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

51

19.532 23.013 1.550 878 5.341 6.965 12.641 15.170 2010 2011

24.450 26.096 631 561 8.012 11.444 15.807 14.091 2012 2013

Nguồn: [28].

Có thể thấy, sản xuất CN - TTCN của huyện tăng trưởng cao, đạt và vượt tốc độ tăng trưởng theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực. Các ngành sản xuất đã thể hiện được thế mạnh như thức ăn gia súc, sản xuất giấy, sản xuất đồ gỗ mĩ nghệ, sản xuất vật liệu xây dựng và chế biến nông sản thực phẩm chiếm tỉ trọng khá cao trong giá trị tổng sản phẩm. Sản xuất CN - TTCN phát triển nhanh cả về số lượng, quy mô, trình độ công nghệ và hiệu quả sản xuất kinh doanh; bước đầu đã củng cố và phát triển làng nghề, ngành nghề truyền thống, làm tăng nhanh số lượng người lao động có việc làm, góp phần ổn định đời sống nhân dân, trật tự an ninh xã hội trên địa bàn huyện, đồng thời làm tăng đáng kể thu ngân sách địa phương.

Tuy nhiên, ngành Công nghiệp của huyện còn bộc lộ một số hạn chế: Một số cơ sở sản xuất CN - TTCN có chất thải xử lí chưa triệt để, gây ô nhiễm môi trường; việc phân công lao động nông nghiệp sang công nghiệp chưa mạnh, thiếu công nhân kĩ thuật lành nghề, không qua các trường đào tạo mà chủ yếu làm việc bằng kinh nghiệm, tự học hỏi; trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất còn rất hạn chế, việc áp dụng cơ khí hóa còn ít và chắp vá, máy móc cơ khí đều là tận dụng, chậm đổi mới; việc quy hoạch các cụm, điểm công nghiệp còn thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu; việc đền bù giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn.

Năm 2005 Năm 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

52

Năm 2013

Nguồn: [28].

Biểu đồ 2.2 - Cơ cấu (%) giá trị sản xuất công nghiệp huyện Tiên Du,

giai đoạn 2005 - 2013

2.2.3. Trong thương mại, dịch vụ và du lịch

Trong những năm đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường, thương nghiệp

Nhà nước dần dần thích ứng với cơ chế mới, cùng với các thành phần kinh tế khác

làm cho thị trường trong huyện ngày càng phong phú đa dạng, lưu thông thông suốt.

Các cụm thương mại - dịch vụ từng bước hình thành ở thị trấn, thị tứ được tập trung

phát triển ở trung tâm huyện lị Lim, chợ Và, chợ Sơn, chợ Ve...cùng với hệ thống

bán lẻ gồm 353 hộ kinh doanh năm 1995, đã tăng lên 590 hộ trong năm 2000. Mạng

lưới chợ nông thôn phát triển cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa của nhân

dân; giá cả hàng hóa, dịch vụ ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch

vụ tiêu dùng xã hội năm 2000 đạt 135 tỉ đồng [73].

Ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã tích cực khai thác các nguồn tiền nhàn

rỗi trong nhân dân và sự hỗ trợ của ngân hàng cấp trên để tăng nguồn vốn phục vụ

mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của huyện. Tổng mức huy động vốn bình quân 5

năm (1996 - 2000) đạt 43,9 tỉ đồng: riêng năm 2000 đạt 56 tỉ đồng, tăng 55,4% so

với năm 1995. Cùng thời gian này, toàn huyện có 29.700 lượt hộ nông dân được

vay vốn phát triển sản xuất, trong đó có 6.000 hộ được vay vốn ngân hàng người

nghèo với tổng số tiền là 13 tỉ đồng. Hoạt động của các quỹ tín dụng được thực hiện

có quy trình, giúp các hộ nông dân mạnh dạn đầu tư có chiều sâu, cải tiến kĩ thuật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

53

đổi mới công nghệ.

Nhìn chung do đặc điểm là một huyện kinh tế thuần nông, lại vừa mới được

tái lập, cơ sở hạ tầng còn rất lạc hậu, nên hoạt động thương mại - dịch vụ giai đoạn

1996 - 2000 chậm phát triển; tỉ trọng của ngành trong cơ cấu kinh tế còn nhỏ bé, chỉ

chiếm 23,1% (năm 2000).

Trong những năm 2001 - 2005, thương mại - dịch vụ trên địa bàn huyện

chuyển dịch khá mạnh. Huyện tiếp tục cung cấp, sắp xếp và xây dựng các ngành

thương mại - dịch vụ - du lịch theo hướng đổi mới với tất cả các doanh nghiệp Nhà

nước làm chức năng lưu thông hàng hóa đến các điểm dân cư, đảm bảo cung ứng

đến người dân các mặt hàng thuộc diện chính sách xã hội, các loại vật tư thiết yếu

phục vụ sản xuất. Cùng với việc mở rộng mạng lưới chợ nông thôn và đa dạng hóa

các loại hình kinh doanh, thương mại - dịch vụ có bước phát triển đáng kể so với

những năm trước. Trong kinh doanh có sự kết hợp chặt chẽ giữa các khâu bán buôn,

bán lẻ, mở đại lí với nhiều mặt hàng đa dạng. Công tác quản lí thị trường có nhiều

cố gắng trong đấu tranh chống buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép và gian

lận thương mại, đảm bảo giữ gìn trật tự về sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện.

Năm 2001, Tiên Du mới có 689 cơ sở kinh doanh thương mại, khách sạn, nhà

hàng và dịch vụ với 905 lao động; đến năm 2005 đã có 2.569 cơ sở hoạt động trong

lĩnh vực này với 4.251 lao động. Các cơ sở kinh doanh này ngày càng lớn mạnh, góp

phần thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thị trường ở cả khu vực nông thôn và thị

trấn, thị tứ. Toàn huyện có 8 chợ (chợ Lim, chợ Sơn, chợ Nội Duệ, chợ Và, chợ Bựu,

chợ Ve, chợ Hồ và chợ Tam Tảo) với tổng diện tích đất sử dụng 17.316 m2; trong đó

có 4 chợ được xây dựng kiên cố và bán kiên cố. Tuy mức độ và khả năng phục vụ của

hệ thống chợ còn hạn chế nhưng cũng đã góp phần quan trọng trong việc lưu chuyển

hàng hóa, vật tư phục vụ cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện. Ngoài

hệ thống chợ, trên địa bàn huyện đã có 11 cửa hàng xăng dầu, tập trung chủ yếu ven

các huyện lộ, tỉnh lộ, khu vực thị trấn, thị tứ và các khu trung tâm liên xã đảm bảo

phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và khách hàng. Các ngành dịch vụ khác

như vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, vui chơi giải trí…cũng được

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

54

các cấp, các nghành quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp đáp ứng tốt yêu cầu phát

triển kinh tế-xã hội của địa phương. Năm 2005, tổng mức lưu chuyển hàng hóa và

doanh thu dịch vụ ước đạt 336 tỉ đồng.

Về hoạt động xuất khẩu, tiềm năng của huyện là khá lớn với các mặt hàng

như: Sản phẩm thủy sản chế biến, sản phẩm rau hoa quả, thực phẩm chế biến (dưa

gang, dưa chuột...) và các sản phẩm làng nghề (đồ gỗ mĩ nghệ, lụa tơ tằm...), song

hàng hóa xuất khẩu của Tiên Du vẫn còn nhiều hạn chế. Tính đến 2005, giá trị xuất

khẩu toàn huyện chỉ đạt 4,5 triệu USD, chưa tương xứng với tiềm năng [73].

Từ năm 2006 đến năm 2010, hoạt động thương mại-dịch vụ tiếp tục phát

triển. Hệ thống chợ nông thôn được đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp; hầu hết các

xã đều đã có chợ và được xây dựng kiên cố. Các cửa hàng kinh doanh dịch vụ phát

triển mạnh tại thị trấn Lim, thị tứ Và, Việt Đoàn, các điểm trung tâm xã và khu

đông dân cư Đại Đồng, Đồng Xép, Bựu…Đặc biệt, Trung tâm Thương mại và chợ

Lim mới được đầu tư xây dựng với quy mô lớn, đi vào hoạt động từ năm 2010, trở

thành đầu mối trung chuyển hàng hóa cho toàn bộ khu vực phía Bắc, tạo ra bước

phát triển mạnh mẽ về thương mại-dịch vụ cho huyện Tiên Du. Năm 2010 có 4.432

cơ sở kinh doanh dịch vụ - thương mại với 6.138 lao động. Tổng mức lưu chuyển

hàng hóa năm 2010 đạt 1.362 tỉ đồng, tăng gấp 4,8 lần so với năm 2005.

Trên đà phát triển, trong những năm 2011 - 2013, hoạt động thương mại và

các loại hình dịch vụ của huyện phát triển khá sôi động, đáp ứng tốt nhu cầu cung

ứng vật tư sản xuất, hàng tiêu dùng cho nhân dân. Hệ thống chợ nông thôn tiếp tục

được quan tâm đầu tư xây dựng, cải tạo và nâng cấp theo đúng quy hoạch nông thôn

mới, như chợ Sơn, chợ Ve, chợ Tam Tảo. Các đại lí, cửa hàng bán buôn, bán lẻ tiếp

tục phát triển mạnh. Trung tâm Thương mại HDB và chợ Lim thu hút hàng trăm hộ

và các doanh nghiệp tham gia kinh doanh buôn bán, thực sự trở thành trung tâm đầu

mối phân phối hàng hóa cho toàn bộ khu vực phía Bắc của đất nước. Mạng lưới

kinh doanh thương mại tiếp tục được mở rộng tới các địa bàn nông thôn và thu hút

nhiều thành phần kinh tế với nhiều loại hình tổ chức khác nhau. Cơ cấu phân bổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

55

thương mại chuyển biến theo hướng tăng dần các điểm kinh doanh ở thị trường

nông thôn. Năm 2013 toàn huyện có có 5.485 cơ sở kinh doanh dịch vụ - thương

mại với 7.502 lao động.

Để tạo môi trường kinh doanh, buôn bán lành mạnh nhằm thu hút đầu tư,

huyện thường xuyên tập trung chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị

trường chống buôn bán hàng giả, buôn lậu và gian lận thương mại, chú trọng quản lí

chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng và

các doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại dịch vụ. Tổng

mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2013 đạt 2.936 tỉ đồng, tăng 14,9%

so với năm 2012 và tăng 62,2% so với năm 2011; bình quân mỗi năm trong giai

đoạn 2011-2013 tăng 29,2%. Kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, năm 2010 đạt

59.333.000 USD, năm 2013 đạt 160.738.000 USD; kim ngạch nhập khẩu cũng giảm

nhanh,năm 2010 là 208.650.000 USD, năm 2013 là 139.197.000 USD [74].

Công tác quy hoạch phát triển ngành Du lịch được UBND huyện đặc biệt

quan tâm. Hưởng ứng Chương trình Du lịch Quốc gia Việt Nam - điểm đến của

thiên niên kỉ mới, Huyện ủy chủ trương xây dựng quy hoạch, kế hoạch để khai thác

tiềm năng du lịch trên địa bàn, phát triển đa dạng các loại hình du lịch, đầu tư hạ

tầng kĩ thuật ở các dự án du lịch trọng điểm, như chùa Phật Tích, du lịch tại các làng

quan họ cổ, làng nghề, du lịch sông Đuống. Thực hiện chủ trương của tỉnh và

huyện, các ngành chức năng đã huy động vốn đầu tư cho du lịch thuộc các thành

phần kinh tế khác nhau ở địa phương đạt hàng chục tỉ đồng. Hệ thống các nhà hàng,

khách sạn, nhà nghỉ, công viên, khu vui chơi giải trí, các khu di tích lịch sử văn hóa,

tín ngưỡng như chùa Phật Tích, chùa Hồng Vân, đình Tam Tảo, chùa Bách Môn…,

được đầu tư xây dựng, tôn tạo và nâng cấp, đáp ứng tốt nhu cầu nghỉ dưỡng, tham

quan du lịch của du khách đến Tiên Du. Các hoạt động văn hóa lớn như Lễ hội Lim,

Hội chùa Phật Tích, Hội Đình Tam Tảo cùng với hàng loạt các lễ hội làng ở các địa

phương trong huyện được tổ chức hằng năm đã thu hút hàng vạn lượt khách về du

lịch, tham quan trẩy hội, góp phần đáng kể thúc đẩy ngành Du lịch phát triển và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

56

đem lại thu nhập cho người dân.

Có thể nói, ngành Du lịch Tiên Du đã có bước phát triển đáng kể trong

những năm gần đây và đang tạo được vị trí quan trọng trong ngành Du lịch của

tỉnh, từng bước hội nhập với các tỉnh bạn và khu vực. Tuy nhiên, ngành Du lịch

của huyện Tiên Du vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh rất lớn của mình.

Để khai thác tốt thế mạnh, tiềm năng của lĩnh vực thương mại - dịch vụ - du

lịch trên địa bàn, huyện Tiên Du đã đề ra mục tiêu phấn đấu tốc độ gia tăng giá trị

của ngành trong cơ cấu kinh tế của huyện giai đoạn tiếp theo là: 2016 - 2020 tăng

9,5%/năm, chiếm 16,8%; 2020 - 2030 tăng 9,5%/năm, chiếm 17,7% [97]. Một số

trung tâm thương mại, cụm thương mại dịch vụ quy mô lớn được hình thành, đưa

Tiên Du thực sự trở thành đầu mối giao thương trong không gian kinh tế thủ đô Hà

Nội, phát triển thương mại - dịch vụ - du lịch theo hướng văn minh, hiện đại.

Bảng 2.3- Số cơ sở, lao động, tổng mức bán lẻ hàng hóa

và doanh thu dịch vụ-thương mại-du lịch huyện Tiên Du giai đoạn 2005-2013

Năm

Số cơ sở kinh doanh thương mại- dịch vụ (cơ sở) Lao động trong cơ sở kinh doanh thương mại- dịch vụ (người)

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ (tỉ đồng) 336 2569 4251 2005

420 3527 4783 2006

640 3820 5118 2007

777 3881 5246 2008

1063 3936 5315 2009

1362 4432 6138 2010

1810 5366 7058 2011

2555 5079 6946 2012

2936 5485 7502 2013

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

57

Nguồn: [74].

Nguồn: [73], [74].

Biểu đồ 2.3 - Giá trị lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ

huyện Tiên Du, từ năm 2000 - 2013

2.2.4. Trong nông - lâm nghiệp - thủy sản

Trong những năm 1996 - 2000, sản xuất nông - lâm nghiệp của huyện phát

triển mạnh. Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng từ 154,9 tỉ đồng năm 1995, lên

213,6 tỉ đồng năm 2000. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 6,65%, giá trị

sản xuất đạt 27 triệu đồng/ha [47, tr.2].

Bằng các biện pháp thâm canh tăng vụ, đi đôi với đổi mới cơ cấu cây trồng,

vật nuôi cùng với việc tăng cường đầu tư cho xây dựng, cải tạo các trạm bơm và

công trình thủy lợi đầu mối, diện tích gieo trồng của huyện được mở rộng, từ

114.000 ha năm 1995, lên 114.716 ha năm 2000, tăng 0,508%. Hệ số sử dụng đất

năm 2000 đạt 2,19 lần, tăng 0,1 lần so với năm 1995. Nhìn chung, diện tích các loại

cây lương thực đều tăng; trong đó, diện tích lúa năm 2000 tăng 5,88%, ngô tăng

62,96% so với năm 1995. Nhiều dự án ứng dụng KHKT được đưa vào sản xuất có

hiệu quả và hướng mở rộng, như: Dự án sản xuất lúa lai, ngô lai, nuôi cá đồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

58

trũng, cải tạo vườn tạp, trồng dâu nuôi tằm, chương trình bò sữa, chương trình Sind

hóa đàn bò…Đó là những biện pháp thúc đẩy nông nghiệp phát triển, có xu hướng

chuyển dần sang sản xuất hàng hóa. Chương trình đưa giống lúa có năng suất, chất

lượng cao vào đồng ruộng thâm canh theo tinh thần Nghị quyết 09 của Tỉnh ủy

được triển khai thực hiện có hiệu quả. Riêng vụ xuân năm 2000, toàn huyện đã có

70% diện tích gieo cấy được sử dụng các giống lúa lai C70,C71, nếp 352, lúa lai 2

dòng, lúa thuần Trung Quốc…Do vậy, năng suất và sản lượng tăng đáng kể qua các

năm, bình quân mỗi năm tăng 7,05%. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực quy

thóc đạt 65.000 tấn; bình quân lương thực đầu người là 510 kg. Một số nơi đã mạnh

dạn sản xuất lúa đặc sản chất lượng cao. Trên địa bàn huyện đã hình thành một số

vùng chuyên canh rau, hoa, cây cảnh ở các xã Tân Chi, Việt Đoàn, Tri Phương, Phú

Lâm… Các loại cây công nghiệp, như lạc, đậu tương, khoai tây được khôi phục.

Sản lượng lương thực tăng không những đảm bảo ổn định lương thực trên

địa bàn huyện mà còn là nguồn cung cấp thức ăn cho chăn nuôi phát triển. Kết quả

thống kê cho thấy, chăn nuôi đã có bước chuyển biến đáng kể cả về tốc độ gia tăng

và giá trị. Đàn lợn tăng 10,45%/năm; riêng năm 2000, toàn huyện có 64.100 con,

sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 4.934 tấn. Đàn trâu do nhu cầu đưa cơ giới vào

phục vụ sản xuất nên có xu hướng giảm, năm 2000 chỉ còn 1.380 con, trong khi nhu

cầu về chăn nuôi bò thịt và bò sữa có xu hướng tăng nhanh, tổng đàn bò năm 2000

có 5.490 con, bò lai Sind tăng gấp 3 lần năm 1995, bò sữa có 200 con. Chăn nuôi

gia súc, gia cầm theo phương pháp công nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy,

trong một số hộ gia đình, chăn nuôi đã và đang trở thành ngành sản xuất chính.

Về lâm nghiệp, phong trào trồng cây phủ xanh đất trống đồi trọc và trồng

cây phân tán phát triển khá ở hầu hết các xã trong huyện. Đến năm 2000, huyện

Tiên Du đã hoàn thành cơ bản việc trồng rừng phủ xanh đồi núi trọc theo Dự án

327 và tiếp tục triển khai bước 2 Chương trình 661. Phong trào trồng cây ăn quả

theo mô hình VAC được mở rộng ở các hộ gia đình và các xã vùng đồi, như Việt

Đoàn, Hoàn Sơn, Phật Tích, Liên Bão, Hiên Vân, Lạc Vệ.

Nhìn chung, trong giai đoạn 1996 - 2000, sản xuất nông - lâm nghiệp đã có

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

59

bước phát triển đáng kể, nhưng việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật

nuôi chưa có chuyển biến rõ rệt ở một số dự án như trồng lúa đặc sản, chăn nuôi bò

Sind, bò sữa, cây ăn quả…

Để khắc phục những yếu kém trên, từ năm 2001, Huyện ủy, UBND huyện đã

chỉ đạo phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng cường

hiệu quả kinh tế/đơn vị diện tích canh tác, tăng sản lượng nông sản hàng hóa, kim

ngạch xuất khẩu, ưu tiên phát triển các loại: lúa lai, rau màu, hoa, cây xuất khẩu;

đẩy mạnh thâm canh, áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất. Nhờ đó, các chỉ tiêu đề

ra trong sản xuất nông - lâm nghiệp đều đạt kế hoạch.

Trong quá trình khắc phục những hạn chế, yếu kém của ngành sản xuất nông

– lâm nghiệp, Huyện ủy quyết định chuyển nền sản xuất nông nghiệp còn nặng về

độc canh thành nền sản xuất đa canh, đa dạng hóa sản phẩm. Đồng thời tạo ra cơ

cấu kinh tế hợp lí có tốc độ phát triển nhanh, khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của

huyện, hình thành những vùng sản xuất tập trung quy mô lớn nhằm tạo ra sản phẩm

hàng hóa trong sản xuất nông - lâm nghiệp. Để làm được điều đó, huyện xác định

trước hết phải đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính, có vị trí tương xứng với

trồng trọt; trong ngành trồng trọt tiếp tục đẩy mạnh sản xuất lương thực trên cơ sở

thâm canh tăng vụ, chuyển đổi một số diện tích trồng cây lương thực truyền thống

không hiệu quả sang trồng cây công nghiệp, cây thực phẩm và nuôi trồng thủy sản

có giá trị kinh tế cao, mở rộng diện tích cây ăn quả, cây đặc sản.

Nhờ chủ trương và những giải pháp đúng đắn trên, trong những năm 2001 -

2005, sản xuất nông - lâm nghiệp phát triển với nhịp độ khá và đồng đều ở các

ngành sản xuất. Đến năm 2005, giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp đạt 378,8 tỉ

đồng, tăng 32,4% so với năm 2000; giá trị sản xuất/ha đạt 35 triệu đồng, vượt 2

triệu đồng/ha (chỉ tiêu do Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XIV đề ra là 33 triệu

đồng/ha). Cơ cấu giá trị trong ngành có sự chuyển biến tích cực, tỉ trọng ngành

trồng trọt giảm từ 65,5% năm 2000, xuống còn 53,2% năm 2005; ngành chăn nuôi

và thủy sản tăng từ 27,3% năm 2000, lên 41,2% năm 2005.

Do có chính sách đầu tư trong việc sử dụng các giống lúa lai có năng suất, chất

lượng cao, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, đầu tư thâm canh, cứng hóa kênh mương,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

60

thực hiện “Dồn điền đổi thửa’’ và khuyến khích nông dân ứng dụng KHKT vào sản

xuất, nên cơ cấu giống và cơ cấu mùa vụ đã có những thay đổi rất căn bản. Diện tích

gieo cấy các giống lúa thuần, lúa lai Trung Quốc và các giống lúa đặc sản tăng nhanh,

từ 44% năm 2000, lên 91,5% năm 2005; diện tích cấy lúa hàng hóa 1.300 ha, chiếm

12% diện tích gieo cấy lúa. Cơ cấu trà xuân muộn từ 23,5% năm 2000, tăng lên

91,2% năm 2005; trà mùa trung từ 70,08% tăng lên 90%, góp phần tăng nhanh năng

suất và sản lượng lương thực trên phạm vi toàn huyện. So với năm 2000, năng suất

lúa năm 2004 tăng 3%, tổng diện tích cây có hạt giảm 600 ha do chuyển đổi mục đích

sử dụng đất, nhưng tổng sản lượng vẫn đạt 62.214 tấn, bằng 83,4% chỉ tiêu kế hoạch;

sản lượng đậu tương năm 2005 đạt 688 tấn, tăng 53,6% so với năm 2000.

Ngành Chăn nuôi được đầu tư phát triển theo mô hình trang trại. Trên địa

bàn huyện đã hình thành và phát triển các HTX chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi lợn.

Các tiến bộ KHKT trong chăn nuôi được áp dụng rộng rãi. Công tác tiêm phòng

ngăn ngừa dịch bệnh thường xuyên được tiến hành kịp thời, góp phần tăng nhanh

đàn gia súc, gia cầm và nuôi trồng thủy sản. Đàn bò tăng bình quân mỗi năm 6,5%.

Năm 2005, tổng đàn bò trên địa bàn huyện có 7.268 con, tăng 28% so với năm

2000; trong đó bò sữa có 424 con, tăng gấp 2,12 lần so với năm 2000 (đạt 84,8%

chỉ tiêu Đại hội đề ra); sản lượng sữa đạt 750 tấn, tăng gấp 5 lần so với năm 2000,

đàn bò lai Sind chiếm 74% tổng đàn bò thịt. Tổng đàn lợn năm 2005 có 66.450 con,

tăng 3,1% so với năm 2000. Đàn gia cầm có 585.000 con, tăng bình quân

7,2%/năm. Tổng sản lượng thịt xuất chuồng năm 2005 đạt 8.896 tấn, tăng 46,3% so

với năm 2000 [48, tr. 3], [87].

Nghề nuôi trồng thủy sản được xác định là mũi nhọn đột phá trong chương

trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư

xây dựng trang trại, phát triển nghề cá kết hợp với chăn nuôi gia cầm đạt hiệu quả

kinh tế cao. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2005 đạt 290 ha, tăng 33,6%, sản

lượng thủy sản tăng gấp 2,5 lần so với năm 2000.

Về lâm nghiệp, phong trào trồng cây tiếp tục được duy trì tốt ở hầu hết

các địa phương trong huyện. Toàn huyện đã hoàn thành trồng rừng bước 2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

61

Chương trình 661, với diện tích 230 ha. Các địa phương thường xuyên làm tốt

công tác chăm sóc, bảo vệ rừng đã trồng, đồng thời mở rộng mô hình trồng cây

phân tán, bình quân mỗi năm trồng được từ 150.000 đến 200.000 cây các loại.

Từ năm 2006 trở đi, kinh tế nông nghiệp huyện Tiên Du có những bước

chuyển biến mạnh mẽ. Giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp năm 2010 đạt 892,6 tỉ

đồng, tăng 114% so với năm 2005; trong đó, tỉ trọng ngành trồng trọt chiếm 41,7%

giảm 11,3% so với năm 2005; ngành chăn nuôi chiếm 53,4%, tăng 12,2%; dịch vụ

nông nghiệp chiếm 4,9%. Diện tích lúa hàng hóa từ 8% năm 2005, tăng lên 31,2%

năm 2010; diện tích lúa lai từ 7,5%, tăng lên 38,9%; giá trị sản xuất trồng trọt/ha

canh tác đạt 72,1 triệu đồng (gấp 2 lần mục tiêu đề ra). Toàn huyện đã quy hoạch,

phát triển được 85 ha trồng hoa, cây cảnh, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chăn nuôi

gia súc, gia cầm tiếp tục phát triển mạnh. Từ năm 2010, toàn huyện đã có 30,14 ha

mô hình chăn nuôi công nghiệp xa khu dân cư; các hình thức chăn nuôi bò, lợn

hướng nạc tiếp tục được duy trì và phát triển tốt. Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng

mạnh, năm 2010 có 370 ha, tăng 123 ha so với năm 2005, vượt chỉ tiêu Đại hội

Đảng bộ đề ra [49, tr. 2]. Sản lượng thịt hơi gia súc, gia cầm và thủy sản tăng mạnh.

Trong những năm 2006 - 2013, mặc dù nông nghiệp Tiên Du phải đương đầu

với không ít khó khăn, thách thức do tác động của biến đổi khí hậu, dịch bệnh kéo dài,

song sản xuất nông - lâm - thủy sản vẫn đạt những kết quả, tiến bộ tích cực. Sau khi

hoàn thành việc “Dồn điền đổi thửa’’, trên địa bàn huyện đã hình thành một số vùng

chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hóa cho thu nhập cao và ổn định. Việc thực

hiện các chủ trương, đề án, kế hoạch phát triển chăn nuôi trang trại ngoài khu dân cư

theo hướng an toàn sinh học gắn với giết mổ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, cùng với

việc tăng cường ứng dụng KHKT và áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất trồng trọt, nuôi

cá thâm canh có năng suất và giá trị kinh tế cao, đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm

cho rau, thịt, cá, cũng như việc kiểm tra, quản lí sử dụng đất phát triển mô hình kinh tế

trang trại, VAC trên địa bàn huyện…, đã góp phần nâng cao giá trị và hiệu quả sản

xuất của ngành. Giá trị ngành trồng trọt và nuôi trồng thủy sản/ha canh tác năm 2013

đạt 95,9 triệu đồng, tăng 23,8 triệu đồng so với năm 2010.

Về cơ cấu giống cây trồng, huyện đã chú trọng đầu tư theo hướng tăng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

62

cường các giống lúa thuần, lúa lai, lúa hàng hóa có năng suất, chất lượng cao, chịu

được thời tiết và sâu bệnh, như giống KD, VH1, LT2, nếp các loại… thay thế các

giống có năng suất thấp, như Bao thai, DT10…Ngoài ra, huyện còn chú trọng đầu

tư và mở rộng diện tích một số giống đặc sản để xây dựng vùng sản xuất nông sản

hàng hóa.

Việc mở rộng diện tích sản xuất cây thực phẩm, trong đó các cây vụ đông là

một trong những ưu tiên của huyện Tiên Du. Huyện đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác

chuyển giao KHKT, khuyến khích kí kết hợp đồng thu mua, chế biến với các doanh

nghiệp và tư thương, tăng cường xây dựng cơ sở bảo quản giống trên địa bàn, đảm

bảo cho người dân chủ động được giống, xác định và chỉ đạo đưa các loại cây vụ

đông chủ lực, như khoai tây, cà rốt, ớt…vào sản xuất.

Trên cơ sở đất đai của từng xã, huyện đã chỉ đạo bố trí các loại cây trồng phù

hợp với đặc điểm nông hóa thổ nhưỡng của từng địa phương. Nhờ đó, vùng sản

xuất lúa hàng hóa có giá trị kinh tế cao bước đầu được hình thành ở các xã Lạc Vệ,

Hiên Vân, Tân Chi, Nội Duệ, Phú Lâm. Những loại cây trồng có giá trị kinh tế cao,

như khoai tây, đỗ tương, ngô, rau cũng được quan tâm phát triển. Vùng rau an toàn

hình thành ở xã Việt Đoàn, Hiên Vân. Toàn huyện có 85 ha hoa cây cảnh tập trung

ở các xã Phú Lâm, Việt Đoàn, thị trấn Lim, bước đầu đã cho hiệu quả kinh tế rất

cao, mở ra một hướng phát triển mới đầy tiềm năng cho nông nghiệp của huyện

trong tương lai.

Với mục tiêu đẩy mạnh phát triển ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất

chính, Huyện ủy, UBND huyện đã tích cực chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung đầu

tư, tạo điều kiện khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng trang trại, gia trại,

chăn nuôi tập trung bán công nghiệp nằm ngoài khu dân cư; tăng cường công tác

phòng chống dịch bệnh, tổ chức tập huấn chuyển giao KHKT, cải tạo đàn vật nuôi ở

các địa phương bằng các loại giống mới có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt, từ khi có

chính sách cải tạo đàn bò bằng Đề án Sind hóa đàn bò và Chương trình Nạc hóa

đàn lợn đã làm thay đổi sâu sắc cơ cấu giống vật nuôi, tạo ra được những giống tốt

có năng suất, chất lượng cao, rút ngắn thời gian nuôi, tăng trọng lượng thịt hơi xuất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

63

chuồng. Trong giai đoạn 2011 - 2013, tốc độ tăng đàn lợn bình quân mỗi năm là

2,1%/năm; đàn gia cầm tăng từ 596.000 con năm 2010, lên 717.228 con năm 2013

[96]. Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà Nước về phát triển nông nghiệp, nông

thôn, huyện Tiên Du đẩy mạnh thâm canh số diện tích nuôi trồng thủy sản đã có,

từng bước chuyển diện tích ruộng trũng cấy lúa một vụ không ăn chắc, sang nuôi

trồng thủy sản. Đồng thời, huyện tạo điều kiện cho các hộ nông dân vay vốn với

chính sách ưu đãi, dồn ô đổi thửa, mở rộng diện tích, cấp chứng chỉ công nhận trang

trại, vì vậy đã khuyến khích kinh tế trang trại phát triển mạnh. Trang trại đã từng

bước cải tiến về quy mô sản xuất cũng như chất lượng hàng hóa, đáp ứng nhu cầu

thị trường, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động dư thừa ở địa phương. Diện

tích nuôi trồng năm 2013 là 401 ha, song nhờ làm tốt công tác thâm canh nên sản

lượng thu hoạch tăng nhanh: Năm 2011 đạt 2.513 tấn, năm 2012 đạt 2.684 tấn và

đến 2013 tăng lên 2.813 tấn. Giá trị sản xuất của ngành Thủy sản năm 2013 đạt 99,1

tỉ đồng [96].

Về dịch vụ nông nghiệp, nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát

triển và mong muốn của người nông dân, mới tập trung ở một số khâu làm đất bằng

máy, xay xát, sửa chữa cơ khí về nông nghiệp, chữa bệnh cho gia súc, gia cầm,

cung ứng vật tư.

Công tác trồng mới, chăm sóc, bảo vệ và khai thác diện tích rừng hiện có

luôn được coi trọng. Tốc độ tăng bình quân của ngành Lâm nghiệp đạt 3,8%/năm,

toàn huyện có 153,8 ha đất lâm nghiệp, trong đó diện tích đất rừng là 152,9 ha. Từ

năm 2010 đến năm 2013, toàn huyện đã trồng mới được 230.000 cây phân tán các

loại.

Bảng 2.4 - GTSX nông-lâm nghiệp-thủy sản huyện Tiên Du giai đoạn 2005-2013

Năm Tổng số Chia ra

Trồng trọt Chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản Lâm nghiệp và dịch vụ NLTS

Theo giá hiện hành (triệu đồng)

378.803 156209 21749 200845 2005

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

64

455.197 211002 26546 217649 2006

515.308 250603 236158 28547 2007

594.527 331401 238721 24405 2008

722.671 391756 301807 29054 2009

892.593 372391 476108 44094 2010

1.130.022 478220 602737 49064 2011

1.152.59 423928 610384 80946 2012

1143327 407151 644642 91534 2013

Cơ cấu (%)

100 53,02 41,24 5,74 2005

100 47,81 46,35 5,83 2006

100 48,63 45,83 5,54 2007

100 55,74 40,15 4,1 2008

100 54,21 41,77 4,02 2009

100 41,7 53,4 4,9 2010

100 42,3 53,3 4,3 2011

100 38 54,7 7,3 2012

100 35,6 56,4 8,0 2013

Nguồn: [74].

Như vậy, cùng với việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp - tiểu thủ công

nghiệp, thương mại - dịch vụ - du lịch, ngành Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản luôn

được huyện coi trọng bằng việc đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp và sát

sao chỉ đạo các ngành, các cấp thực hiện. Kết quả sau 15 tái lập huyện (1999-2013),

nông nghiệp Tiên Du đã có bước tiến dài, vững chắc; bước đầu hình thành các vùng

chuyên canh sản xuất lúa lai, lúa hàng hóa, trồng rau màu và kinh tế trang trại; chăn

nuôi đã trở thành ngành sản xuất chính. Đến năm 2013, huyện Tiên Du đã xây dựng

được nhiều mô hình điểm áp dụng công nghệ cao; điển hình là Khu Công nghệ cao

Việt Đoàn, Hoa cây cảnh ở Phú Lâm, chăn nuôi tập trung xa khu dân cư ở Cảnh

Hưng, Tri Phương. Năng suất lúa bình quân từ 39,2 tạ/ha năm 1999, tăng lên 60,5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

65

tạ/ha năm 2013; giá trị sản xuất nông nghiệp từ 27 triệu đồng/ha năm 1999, tăng lên

95,9 triệu đồng/ha năm 2013. Sự phát triển đúng hướng này là cơ sở vững chắc để

huyện Tiên Du xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa phát triển trong tương lai.

Năm 2000 Năm 2005

Năm 2010 Năm 2013

Nguồn: [82], [87], [93], [96].

Biểu đồ 2.4 - Cơ cấu giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản huyện Tiên Du, từ

năm 2000 - 2013

2.2.5. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng

Sau ngày tái lập huyện, dù nguồn vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng còn

hạn hẹp nhưng vẫn được lãnh đạo huyện quan tâm đúng mức; các nguồn vốn được

huy động, từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện Nghị quyết 01 của Tỉnh ủy về phát triển giao thông nông thôn,

Huyện ủy đã nhanh chóng lập dự án quy hoạch cải tạo và nâng cấp các tuyến đường

huyện, đường liên xã, tranh thủ mọi nguồn vốn thi công hoàn thành 20 km đường

nhựa thuộc các tuyến 270, 295, Tri Phương - Đại Đồng. Tính từ tháng 9/1999 đến

năm 2000, nhiều địa phương đã tiến hành nhựa hóa, bê tông hóa 14 km các tuyến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

66

đường liên thôn, liên xóm, trị giá 3,6 tỉ đồng do nhân dân đóng góp, phục vụ tốt hơn

cho nhu cầu vận tải hành khách và hàng hóa trên địa bàn huyện, đưa tổng doanh thu

vận chuyển từ 15 tỉ đồng năm 1995, lên 21,3 tỉ đồng năm 2000 (tăng 41,81%).

Hệ thống đê kè hằng năm được tu bổ và nâng cấp, hoàn thành việc xây dựng

phần đầu mối trạm bơm Tân Chi 2. Các trạm bơm Tri Phương, Phú Lâm 1, Phú

Lâm 2 được sửa chữa, nâng cấp, thường xuyên đáp ứng tốt yêu cầu tưới tiêu cho

hơn 6.000 ha đất canh tác của huyện. Cùng với đó, các chiến dịch làm thủy lợi, cải

tạo đất hằng năm được thực hiện cơ bản có kết quả; các công trình cứng hóa kênh

mương bước đầu được triển khai ở một số cơ sở.

Thông tin - liên lạc và điện lực được các ngành chức năng quan tâm đầu tư

hiện đại hóa về trang thiết bị kĩ thuật, mở rộng mạng lưới đi đôi với nâng cao chất

lượng phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tính đến năm 2000, số lượng

điện thoại trên địa bàn huyện tăng gấp 2 lần năm 1995, 11 xã có điểm bưu điện văn

hóa xã, đáp ứng nhu cầu thông tin và đọc sách, báo của nhân dân.

Mạng lưới điện phát triển nhanh và thường xuyên được nâng cấp để phục vụ

cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Đến năm 2000, 100% số hộ được dùng điện

thắp sáng. Trạm biến áp trung gian Tri Phương, thị trấn Lim được nâng cấp với

công suất cao hơn cùng mạng lưới điện trung thế ở 6 xã: Tân Chi, Việt Đoàn, Phật

Tích, Khắc Niệm, Hạp Lĩnh, Hiên Vân được chuyển giao cho ngành Điện quản lí

nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác quản lí và phục vụ của ngành Điện lực.

Nhìn chung, công tác quản lí xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện đã có nhiều

cố gắng thực hiện đúng quy trình các bước về quản lí đầu tư và tư vấn giám sát.

Huyện thường xuyên quan tâm đến công tác quy hoạch và xây dựng dự án để thu

hút vốn đầu tư. Các công trình xây dựng cơ bản do huyện tổ chức thực hiện đều

đảm bảo chất lượng, đưa vào sử dụng kịp thời, có hiệu quả, như Bệnh viện huyện,

Trụ sở làm việc UBND huyện, Nhà liên cơ, Đường vòng núi Lim, Đường 270…

Tuy có những bước chuyển biến như phần trên đã trình bày, nhưng cho đến

nửa đầu thập kỉ thứ nhất của thế kỉ XXI, cơ sở hạ tầng trên địa bàn huyện còn nhiều

bất cập. Đường giao thông của huyện và các thôn, xã hầu hết là đường cấp phối

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

67

đang xuống cấp nghiêm trọng. Hơn 60% số trụ sở làm việc, trường học, trạm y tế

các xã chưa được kiên cố hóa. Hệ thống thủy lợi ngày càng xuống cấp, gây trở ngài

cho công tác tưới tiêu phục vụ sản xuất.

Để giải quyết tình trạng trên, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện

lần thứ XIV, trong những năm 2001 - 2005, toàn huyện đã đầu tư gần 250 tỉ đồng

đẻ xây dựng các công trình phục vụ sản xuất, dân sinh làm cho bộ mặt nông thôn

ngày càng đổi mới theo hướng CNH - HĐH. Các xã, thị trấn đã thi công và đưa vào

sử dụng 29 km đường nhựa, 135 km đường bê tông với số vốn đầu tư gần 115 tỉ

đồng, vượt hơn 4 lần kế hoạch đề ra. Các tuyến đường huyện, đường vào khu công

nghiệp, đường trung tâm huyện lị đều được nhựa hóa và bê tông hóa; 14 km đường

thuộc Dự án WB2 được rải cấp phối. Phong trào xây dựng đường giao thông nông

thôn phát triển mạnh mẽ ở tất cả các xã; nhiều xã đã hoàn thành đường bê tông,

gạch hóa 100%. Cùng với việc cải tạo nâng cấp các tuyến đường, các phương tiện

vận tải phát triển nhanh, gồm 632 đầu phương tiện, tăng 1,5 lần so với năm 2000,

đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa phục vụ sản xuất

và đời sống của nhân dân.

Hệ thống đê điều thường xuyên được quan tâm tu bổ, nâng cấp, đảm bảo an

toàn trong mùa mưa lũ. Bằng nguồn vốn tài trợ của Trung ương, huyện đã phối hợp

chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng công trình đầu mối

Trạm bơm Tân Chi và tiến hành thi công hệ thống kênh tưới. Cùng với đó, hằng

năm huyện còn phát động chiến dịch làm thủy lợi cải tạo đất, đào đắp 10.000 m3

khối đất, tu sửa hàng trăm cống lớn, nhỏ đảm bảo yêu cầu tưới nước và tiêu úng

phục vụ sản xuất. Chương trình kiên cố hóa kênh mương phát triển mạnh. Đến năm

2005, toàn huyện đã có 16 km kênh cấp 2 và 62 km kênh cấp 3 được kiên cố hóa,

với số vốn đầu tư 30,17 tỉ đồng, bằng 35% số kênh cần cứng hóa [48, tr. 4-6].

Công tác đầu tư xây dựng cơ bản nhìn chung có bước phát triển tốt. Công tác

quy hoạch, lập dự án được xúc tiến, chuẩn bị đầu tư cho các công trình của huyện,

các khu vực thị tứ, các trung tâm xã. Việc chỉ đạo thực hiện các chương trình mục

tiêu quan trọng diễn ra khá tốt, như: Kiên cố hóa trường học, Bệnh viện, Trạm y tế,

Trụ sở làm việc và các công trình văn hóa thôn xóm, điểm dân cư đô thị. Tổng kinh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

68

phí đầu tư cho các chương trình này vào khoảng 110 tỉ đồng, thúc đẩy nhanh tốc độ

đô thị hóa ở các khu vực trung tâm, đáp ứng tốt điều kiện làm việc và nhu cầu văn

hóa tinh thần của cán bộ và nhân dân.

Mạng lưới điện tiếp tục được cải tạo nâng cấp, xây dựng mới đáp ứng ngày

càng tốt hơn nhu cầu phát triển công nghiệp, nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của

nhân dân. Sản lượng điện tiêu thụ tăng nhanh từ 23,4 triệu kw/h năm 2000, lên 67,9

triệu kw/h năm 2004 và 75 triệu kw/h năm 2005.

Trong những năm 2006 - 2013, công tác xây dựng cơ bản được đẩy mạnh

hơn trước. Trong 5 năm (2006 - 2010), đặc biệt 3 năm (2011 - 2013), hàng chục dự

án KCN, CCN, khu đô thị mới, khu du lịch, khu vui chơi giải trí, trung tâm thương

mại, các cụm kinh tế - xã hội, khu dân cư được quy hoạch, phê duyệt làm cơ sở để

đầu tư xây dựng. Nhiều công trình được mở rộng, nâng cấp, như Bệnh viện Đa khoa

huyện, Đường 295, Trường Trung học phổ thông Tiên Du 1.

Để thúc đẩy 2 ngành mũi nhọn công nghiệp và dịch vụ, huyện đã tập trung

đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng, cải tạo, nâng cấp quốc lộ, tỉnh lộ và các tuyến

đường liên huyện, liên xã. Từ năm 2006 đến năm 2010, 8 công trình, hạng mục

công trình giao thông với tổng kinh phí trên 66,8 tỉ đồng và 37 công trình, hạng mục

công trình xây dựng với tổng kinh phí 79,9 tỉ đồng, được thi công xây dựng. Trong

số đó có nhiều công trình trọng điểm như: Đường Đại Đồng - Cống Bựu, Đường

vòng núi Lim, Đường Khu du lịch Phật Tích, Đường Nội Duệ - Tri Phương, HL4,

HL5, ĐT1. Huyện phối hợp với tỉnh xây dựng mới Tỉnh lộ 287, nút giao giữa

QL1A với Đường 276; đồng thời tiến hành quy hoạch khu đô thị mới của huyện với

diện tích 258 ha, trung tâm các xã và mạng lưới điểm dân cư tại 14/14 xã, thị trấn.

Các xã, thị trấn đã đầu tư trên 56 tỉ đồng thực hiện 56 dự án đường giao thông; 91 tỉ

đồng đầu tư 91 công trình xây dựng [97]. Đến năm 2010, về cơ bản đường làng, ngõ

xóm trên địa bàn đã được bê tông hóa.

Như vậy, từ năm 1999 đến năm 2013, kết cấu hạ tầng huyện Tiên Du đã có

sự chuyển biến rất mạnh mẽ. Khi huyện mới tái lập, hệ thống giao thông của huyện

có quy mô nhỏ bé và chia cắt. Trên địa bàn huyện mới chỉ có Quốc lộ 1A (cũ),

Quốc lộ 38 và Tỉnh lộ 276 được nhựa hóa và 40% đường làng ngõ xóm được cứng

hóa. Đến năm 2013, cùng với Quốc lộ 1A mới, Quốc lộ 38 và Tỉnh lộ 276, các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

69

tuyến Tỉnh lộ 287, Tỉnh lộ 295B được đầu tư nâng cấp. Toàn bộ tuyến đường

huyện, đường liên xã, đường liên thôn và đường làng, ngõ xóm đều được nhựa hóa,

bê tong hóa. Các tuyến đường trong khu công nghiệp, đường nội thị được hình

thành và phát triển, hệ thống đường lên đê, mặt đê được mở rộng và cứng hóa.

Tiểu kết chương 2

Trong 15 năm (1999 - 2013) thực hiện đường lối CNH, HĐH theo tinh thần

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, XI, được sự quan tâm lãnh đạo

của Tỉnh ủy, Đảng bộ và chính quyền huyện Tiên Du trên cơ sở xác định đúng đắn

chiến lược phát triển cùng lộ trình và bước đi phù hợp, đã lãnh đạo, chỉ đạo các ban

ngành cùng các tầng lớp nhân dân trong huyện nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức,

phát huy thế mạnh và khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế. Từ một huyện kinh

tế thuần nông, công nghiệp kém phát triển trong những ngày đầu mới tái lập, sau 15

năm, Tiên Du đã vươn lên trở thành một trong những huyện có tốc độ tăng trưởng kinh

tế cao nhất của tỉnh Bắc Ninh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm trong 15

năm (1999 - 2013) là 15,36%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại với tỉ

trọng công nghiệp - xây dựng chiếm 73,5%, dịch vụ 17,5%, nông nghiệp chỉ còn 9%;

thu nhập bình quân đầu người năm 2013 đạt gần 2.900 USD.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, kinh tế Tiên Du trong quá trình phát

triển còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém: Kinh tế tăng trưởng cao nhưng còn thiếu

bền vững; hiệu quả sản xuất, sức cạnh tranh của sản phẩm chưa cao; cơ cấu kinh tế

chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm (ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng thấp); nông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

70

nghiệp phát triển chưa cân đối, một số chương trình kinh tế trọng điểm chưa

Chương 3

CHUYỂN BIẾN VỀ XÃ HỘI HUYỆN TIÊN DU

TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2013

Những thành tựu to lớn trong xây dựng và phát triển kinh tế 15 năm (1999 -

2013) của huyện Tiên Du là cơ sở thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đời sống xã

hội. Quán triệt và thực hiện đường lối của Đảng và các nghị quyết của Đảng bộ tỉnh,

Đảng bộ và chính quyền huyện Tiên Du luôn coi trọng thực hiện tốt các chính sách

xã hội, đưa đến những chuyển biến sâu sắc về xã hội.

3.1. Về dân số - lao động - việc làm

Vào năm 2000, dân số của huyện Tiên Du là 112.352 người, trong đó dân số

thành thị là 8.818 người, chiếm 7,85% và ở nông thôn là 103.507 người, chiếm

92,15% dân số của huyện; mật độ dân số trung bình là 1.174 người/km2. Đến ngày

31/12/2013, tăng lên 130.801 người; trong đó có 64.654 nam, 66.147 nữ. Số dân ở

thành thị là 11.610 người, chiếm 8,9% và ở nông thôn là 119.191 người, chiếm

91,1% dân số của huyện [73], [74]. Sau 13 năm (2000 - 2013), dân số huyện Tiên

Du tăng thêm 18.449 người. Mật độ dân số trung bình là 1.367 người/km2 (cao hơn

mật độ dân số trung bình của tỉnh: 1.344 người/km2); phân bố không đều, nơi có

mật độ cao nhất là thị trấn Lim: 2.267 người/km2, nơi thấp nhất là xã Cảnh Hưng:

953 người/km2. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên từ năm 2000-2005 là 1,11%/năm, thời kì

2006 - 2013 là 1,17%/năm. Dân số tăng đã đóng góp một lực lượng lao động dồi

dào, làm nền tảng để phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên, sự gia

tăng dân số làm phát sinh các vấn đề xã hội, như nhu cầu về nhà ở, vấn đề an ninh,

trật tự xã hội, văn hóa và môi trường cũng bị ảnh hưởng không nhỏ, nhất là vấn đề

giải quyết việc làm gây áp lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Kết quả thống kê cho thấy tốc độ tăng dân số của huyện từ năm 1995 -

2001 có xu hướng giảm dần (từ 1,41% xuống còn 1,13% năm 2001). Trung bình

mỗi năm giảm 0,046%. Có được kết quả đó là do việc đẩy mạnh công tác dân số

kế hoạch hóa gia đình. Nhờ thực hiện tốt công tác KHHGĐ đến tận địa phương,

triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền tư vấn, vận động người dân thực hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

71

KHHGĐ, đồng thời cung cấp các dịch vụ sức khỏe sinh sản đã góp phần tích cực

vào thành công tác dân số của huyện. Tỉ lệ sinh đã giảm dần, từ 1,67%0 năm

2000 xuống còn 15,6%0 năm 2005, đến năm 2006 là 15,1%0. Tỉ lệ sinh con thứ 3

trở lên từ năm 2000 đã có xu hướng giảm dần. Năm 2003, Pháp lệnh Dân số ra

đời, trong khi chưa có các văn bản hướng dẫn thực hiện, một số cán bộ, đảng

viên và người dân nhận thức chưa thống nhất hoặc cố tình hiểu sai về số con của

mỗi cặp vợ chồng, dẫn đến tình trạng số người sinh con thứ 3 tăng trở lại (năm

2000 là 13,3%, năm 2005 tăng lên 15,4%).

Cơ cấu dân số theo giới tính tương đối ổn định, tỉ lệ dân số nữ so với dân số

chung năm 2000 là 51,45%, năm 2005 là 51,8%. Do tỉ lệ xuất sinh giảm, tuổi thọ

bình quân tăng, cơ cấu dân số theo độ tuổi đang có xu hướng gia tăng, tỉ lệ trẻ em

ngày càng giảm, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động ngày càng tăng. Người già trên

60 tuổi chiếm 9,45% dân số, số người dưới 18 tuổi chiếm 31% dân số.

Bảng 3.1- Biến động dân số huyện Tiên Du 2000 - 2006

Tốc độ Dân số Tỉ lệ sinh Tỉ lệ xuất Tỉ lệ chết tăng dân số Năm trung bình con thứ 3 sinh (%0) (%0) tự nhiên (người) trở lên (%) (%)

112.352 16,7 4,5 12,2 13,0 2000

119.190 15,6 4,8 10,8 15,4 2005

120.520 15,1 4,7 10,4 14,1 2006

Nguồn: [73].

Công tác dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội của huyện, là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống

của từng người, từng gia đình và toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp

CNH, HĐH trên địa bàn. Do vậy, đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho sự phát

triển bền vững, vừa mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp, vừa đảm bảo sự ổn định xã

hội. Huyện ủy Tiên Du đã đề ra chương trình thực hiện chính sách DS - KHHGĐ và

xây dựng gia đình thời kì CNH, HĐH, chỉ đạo ngành Y tế và hệ thống tuyên truyền

kiên trì tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức của người dân về chính sách DS -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

72

KHHGĐ của Nhà nước và tỉnh, nhất là từ sau khi Nhà nước ban hành Pháp lệnh Dân

số năm 2003. Vì thế, trên địa bàn huyện không xảy ra tình trạng tăng dân số đột biến,

tỉ lệ người trong độ tuổi sinh đẻ tham gia các biện pháp tránh thai tăng và đạt hiệu

quả rõ rệt. Số phụ nữ sinh con thứ 3+, phụ nữ đẻ dày, đẻ trước tuổi 22 giảm xuống. Tỉ

lệ phát sinh dân số giảm từ 1,22% năm 2000, xuống còn 1,08% năm 2005; năm 2010

là 1,02% và năm 2013 là 1,18%. Kết quả của việc thực hiện chính sách DS -

KHHGĐ đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, góp

phần xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân.

Sinh sống trên địa bàn huyện Tiên Du có 20 thành phần dân tộc, trong đó

người Kinh chiếm tuyệt đại số (99,85%). Dân số huyện Tiên Du thuộc loại trẻ. Năm

2000, dân số trong độ tuổi lao động là 56.163 người, chiếm 50% dân số. Tính đến

tháng 12/2013, tổng số lao động trong độ tuổi (15 đến 55 đối với nữ, đến 60 tuổi đối

với nam) của Tiên Du là 82.246 người, chiếm 62,9% tổng dân số toàn huyện. Đây

là một lợi thế của huyện, lực lượng lao động dồi dào là động lực cho sự phát triển

kinh tế - xã hội, song cũng là một áp lực lớn đối với huyện trong việc giải quyết

công ăn việc làm cho người lao động.

Thực tế cho thấy tỉ lệ dân số nông nghiệp vẫn chiếm phần chủ yếu. Tình hình

đó đặt ra yêu cầu cần giảm dân số cũng như lao động nông nghiệp, tăng cường lực

lượng lao động cho công nghiệp và dịch vụ. Trong 5 năm (2000 - 2005), lao động

trong độ tuổi tăng trên 6.020 người, lao động ở khu vực nông nghiệp nông thôn

chiếm tỉ lệ cao, năm 2006 chiếm 90,9% số lao động. Nguồn lao động dồi dào nhưng

trình độ tay nghề thấp.

Trong cơ cấu lao động, ngành Nông - Lâm nghiệp - Thủy sản chiếm tỉ lệ cao

nhưng đã bắt đầu có sự chuyển dịch theo xu hướng tích cực phù hợp với sự chuyển

dịch cơ cấu nền kinh tế. Lao động ngành Nông - Lâm - Thủy sản giảm từ 73,63%

năm 2000, xuống 57,83% năm 2005. Lao động trong ngành Công nghiệp - Xây

dựng cơ bản tăng nhanh từ 18,25% năm 2000, lên 29,55%; tốc độ tăng bình quân

giai đoạn 2001 - 2005 đạt 10,12%/năm. Lao động trong ngành Dịch vụ tăng từ

8,12% năm 2000, lên 12,6% năm 2005; tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2001 -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

73

2005 là 9,18%/năm. Năm 2013, tổng số lao động có 79.388 người; trong đó, lao

động ở khu vực nông nghiệp là 24.346 người, chiếm 30,7% tổng số lao động, khu

vực phi nông nghiệp là 55.042 người, chiếm 69,3% tổng số lao động [73], [74].

Dân số - Lao động - Việc làm có mối liên hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng

trực tiếp đến sự phát triển, ổn định xã hội. Dân số càng đông thì lực lượng lao động

càng lớn, nhu cầu việc làm càng tăng. Vì vậy, vấn đề dân số - lao động - việc làm

không chỉ là mối quan tâm riêng của người lao động có nhu cầu việc làm, mà nó

còn đặt ra vấn đề rất lớn cho xã hội.

Giải quyết tốt việc làm cho người lao động là nhân tố thúc đẩy sản xuất phát

triển, tăng nhanh sản phẩm cho nền kinh tế, đồng thời là cơ sở ngăn chặn tận gốc

các tệ nạn xã hội. Trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình thực tế, Đảng bộ và chính

quyền huyện Tiên Du đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho

người lao động bằng các biện pháp khác nhau như: Thông qua các đề án tạo việc

làm, khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh

doanh và làm dịch vụ. Mặt khác, huyện tích cực củng cố lại sản xuất ở các đơn vị

quốc doanh, tập thể, đẩy mạnh kinh tế hộ gia đình nhằm tạo việc làm tối đa cho

người lao động.

Từ năm 2000 - 2005, huyện đã giải quyết cho 14.697 lao động có việc làm

mới, trong đó 2.255 lao động làm việc trong các KCN - CCN, 1.738 lao động đi

xuất khẩu lao động nước ngoài; số còn lại là lao động theo thời vụ tại các HTX, các

doanh nghiệp. Trung bình mỗi năm tạo được gần 3.000 chỗ làm mới, đời sống nhân

dân không ngừng được cải thiện, tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 5,96% năm 2001, xuống

5,51% năm 2005 [48, tr.8].

Các chương trình giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2005 đã được triển

khai tích cực đến các xã, thị trấn trong huyện. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã có sự

thay đổi tích cực, chuyển đổi diện tích cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy

sản, chăn nuôi…Ngành chăn nuôi phát triển mạnh, chuyển từ hình thức chăn nuôi

nhỏ sang trang trại, gia trại. Toàn huyện có 1.302 gia trại, trang trại thu hút trên

2.000 lao động; đồng thời triển khai đề án xuất khẩu lao động đi làm việc có thời

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

74

hạn ở nước ngoài. Riêng năm 2006, huyện đã xuất khẩu 600 lao động, tăng 134 lao

động so với năm 2000, chủ yếu ở các nước Đài Loan, Malayxia, Hàn Quốc, Nhật

Bản.

Nhận thức rõ tầm quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm cho người

lao động, huyện đã triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình lao động -

việc làm theo hướng giải quyết việc làm tại chỗ là chính thông qua các chương

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, phát triển CN - TTCN,

mở rộng làng nghề, xã nghề, kết hợp xuất khẩu lao động cùng với sự hỗ trợ của

các nguồn vốn vay hỗ trợ giải quyết việc làm, vốn xóa đói giảm nghèo.

Trong 5 năm (2006 - 2010), huyện đã mở 40 lớp dạy nghề cho 1.202 lao

động, giải quyết việc làm cho 14.878 lao động, xuất khẩu 2.629 lao động. Tỉ lệ hộ

nghèo giảm từ 17,7% năm 2005, xuống còn 5% năm 2010, vượt chỉ tiêu Đại hội

[49, tr. 5]. Từ năm 2011, huyện bắt đầu triển khai thực hiện Đề án đào tạo nguồn

nhân lực và giải quyết việc làm giai đoạn 2011 - 2015. Công tác đào tạo nghề được

mở rộng và có bước phát triển cả về quy mô ngành nghề và hình thức. Riêng năm

2013, huyện đã tổ chức được 32 lớp dạy nghề cho 960 lao động và phối hợp với các

cơ quan chức năng giải quyết việc làm cho 2.850 lao động (gốm cả xuất khẩu), tỉ lệ

hộ nghèo giảm còn 2,5% [96].

3.2. Về thu nhập và đời sống

Trước năm 1986 và trong suốt thời gian 1986 - 1999, sản xuất nông nghiệp là

ngành kinh tế chủ đạo của Tiên Du. Lực lượng lao động chủ yếu tập trung trong lĩnh

vực nông nghiệp; thu nhập rất thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn. Từ 1999, sau ngày

tái lập huyện đến năm 2013, các ngành CN - TTCN, Thương mại - Dịch vụ trên địa

bàn phát triển mạnh cùng với sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu ngành Nông

nghiệp. Đặc biệt, sự hình thành, phát triển các KCN tập trung, CCN, làng nghề chẳng

những đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo kinh tế của huyện Tiên Du, mà còn tạo ra

nhiều việc làm ổn định cho lao động của huyện với thu nhập ngày càng cao. Đời sống

nhân dân trong huyện được nâng lên, đứng hàng đầu tỉnh Bắc Ninh.

Được sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước, các cấp chính quyền và sự cố gắng

của từng hộ gia đình, số lao động có việc làm qua các năm đều tăng lên. Đời sống

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

75

nhân dân không ngừng được cải thiện, số hộ khá, giàu ngày càng tăng. Số hộ đói,

nghèo từ 17,8% (năm 1995), giảm xuống còn 12,7% (năm 2000), 4,5% (năm 2005,

theo chuẩn mới là 17,7%), 5% (năm 2010, theo chuẩn mới) và đến năm 2013 chỉ

còn 2,5%, không còn hộ đói. Thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh, từ

11.684.000 đồng (tương ứng 749 USD) trong năm 2005, lên 39.406.000 đồng

(tương ứng 2.020 USD) trong năm 2010 (gấp 1,11 lần so với toàn tỉnh) và đến năm

2013, đạt 60.616.000 đồng (tương ứng 2.870 USD) [47], [48], [49], [96]; 100% hộ

gia đình có nhà ngói, nhà kiên cố, không còn nhà tranh tre dột nát hay nhà tạm;

100% số hộ được dùng điện thắp sáng; gần 100% số hộ có phương tiện nghe nhìn,

số hộ sử dụng điện thoại tăng nhanh, năm 2005 toàn huyện có 11.272 máy, tăng gấp

5 lần so với năm 2000 và đạt bình quân 8,4 máy/100 dân.

Bảng 3.2-Thu nhập bình quân đầu người huyện Tiên Du giai đoạn 2005 - 2013

2005 2010 2013 2006-2010 2011-2013 GRDP bình quân/người/năm

11684 39406 60,616 27,1 15,4 +Giá hiện hành (VND)

749 2020 2870 22,0 12,4 +Giá hiện hành (USD)

1,41 1,11 0,90 x x GRDP/người so với toàn

tỉnh (lần)

Nguồn:[24], [27].

Nhìn chung trong 15 năm (1999 - 2013), nhờ sự vận dụng sáng tạo

đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, dưới sự ãnh đạo của Đảng bộ

huyện, các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân Tiên Du đã nỗ lực phấn

đấu vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng và khai thác tốt tiềm năng, lợi thế

của địa phương, đưa kinh tế phát triển nhanh, nâng cao thu nhập và mức sống,

đạt và vượt mục tiêu kế hoạch đề ra. Thành quả ấy càng củng cố hơn nữa niềm

tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, góp phần ổn định chính trị, xã hội

và tạo tiền đề thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của huyện trong giai đoạn tiếp

theo. Tuy nhiên, tình trạng phân hóa giàu, nghèo và chênh lệch thu nhập giữa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

76

khu vực thành thị và nông thôn, giữa các hộ gia đình bắt đầu gia tăng trong

những năm gần đây, đòi hỏi Đảng bộ và chính quyền huyện phải có giải pháp

khắc phục, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn số hộ nghèo.

3.3. Về văn hóa- Giáo dục

3.3.1. Về giáo dục

Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta là: “Coi giáo dục và đào tạo là quốc sách

hàng đầu’’ trong mọi chiến lược phát triển đất nước. Nhận thức rõ điều đó, trong

suốt 15 năm (1999 - 2013), Đảng bộ, chính quyền huyện Tiên Du luôn quan tâm,

đầu tư và tạo mọi điều kiện cho sự phát triển giáo dục - đào tạo. Hệ thống trường

lớp trên địa bàn huyện được sắp xếp, tổ chức lại với nhiều hình thức, quy mô đào

tạo hợp lí, đa dạng hóa các loại trường chuyên, lớp chọn, trường dạy nghề, trường

dân lập - tư thục, chính quy và không chính quy nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu học

tập của nhân dân trong huyện. Những học sinh nghèo, học sinh khuyết tật, học sinh

thuộc diện chính sách, học sinh các xã khó khăn đều được tạo điều kiện để đến lớp

và hưởng các chính sách xã hội, chính sách khuyến học của Đảng và Nhà nước.

Mặc dù nguồn ngân sách đầu tư cho giáo dục - đào tạo của huyện còn hạn

hẹp nhưng các trường đã làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, từng bước xây dựng,

nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị trong các trường học phục vụ cho dạy và học

ngày càng tốt hơn. Tính đến năm 2005, toàn huyện đã có 50% phòng học bậc mầm

non, 80% phòng học bậc tiểu học và 93% phòng học bậc THCS được kiên cố hóa.

Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia được thực hiện tốt với 29,4% trường

mầm non, 100% trường tiểu học và 17,6% trường THCS đạt chuẩn quốc gia.

Nội dung, phương pháp và chương trình đào tạo không ngừng được đổi mới,

do đó chất lượng và hiệu quả giáo dục đã được nâng cao rõ rệt qua từng năm. Ngành

Giáo dục của huyện liên tục giữ vững là lá cờ đầu trong ngành Giáo dục của tỉnh. Thực

hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 (24/12/1996) Ban Chấp hành Trung ương (khóa

VIII) và Nghị quyết 03 (30/6/2006) của Tỉnh ủy về giáo dục - đào tạo, khoa học - công

nghệ và môi trường, huyện đã tiến hành sắp xếp lại hệ thống giáo dục, tách riêng cơ sở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

77

vật chất các trường tiểu học và THCS, phát triển trường phổ thông dân lập - tư thục;

tăng cường chỉ đạo xây dựng các trường trọng điểm, trường chuẩn quốc gia… nhằm

mục tiêu: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài’’.

Tính đến năm 2000, toàn huyện có 337 nhóm trẻ với 1.641 cháu, 158 lớp

mẫu giáo với 4.365 học sinh, đạt tỉ lệ huy động trẻ từ 3 đến 5 tuổi là 67% (riêng các

cháu 5 tuổi ra lớp là 2.395 cháu, đạt 100%); 4 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia:

Lạc Vệ 1, Lac Vệ 2, Hoàn Sơn và Đại Đồng; 7 xã hoàn thành phổ cập THCS gồm:

Nội Duệ, Hạp Lĩnh, Tân Chi, thị trấn Lim, Hiên Vân, Liên Bão và Phật Tích. Hằng

năm, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học vào THCS đạt 98,2%, THCS vào THPT đạt

từ 72% đến 75%. Số lượng học sinh cũng như số trường Trung học phổ thông đều

tăng. Năm 1995, Trường THPT Tiên Du 1 có 30 lớp với gần 1.400 học sinh; đến

năm học 2000 - 2001 đã phát triển lên 58 lớp với 3.046 học sinh. Trường phổ thông

cấp II+III Hạp Lĩnh khi mới thành lập (năm 1996) chỉ có 3 lớp cấp III với 150 học

sinh. Từ năm 1998, Nhà trường được chia tách, thành lập Trường THPT Tiên Du II.

Đến năm học 2000 - 2001, Nhà trường có 26 lớp với hơn 1.300 học sinh. Trường

THPT dân lập Tiên Du cũng được thành lập, trong năm học 2001 - 2002 có 16 lớp

với gần 1.000 học sinh theo học. Số học sinh THPT toàn huyện từ 5.002 em trong

năm học 1999 - 2000, tăng lên 6.400 em trong năm học 2004 - 2005 [73].

Cùng với số lượng, chất lượng giáo dục có chiều hướng đi lên. Phong trào thi

đua dạy tốt - học tốt được duy trì và đẩy mạnh trong các nhà trường. Đội ngũ giáo

viên ở tất cả các cấp học thường xuyên được bồi dưỡng, theo học các lớp nâng hệ,

các lớp chuyên đề để nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, đạt chuẩn theo

quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhờ đó, tỉ lệ giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn

và giáo viên giỏi các cấp đều tăng. Riêng trong năm học 2006 - 2007, số giáo viên

dạy loại giỏi đạt 35%, loại khá đạt 55% tổng số giáo viên toàn huyện [89]. Đến năm

2013, toàn ngành Giáo dục huyện có 100% giáo viên đạt chuẩn, trong đó trên chuẩn

chiếm 84,5%, có 273 giáo viên dạy giỏi cấp huyện và 26 giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh

[96, tr. 3]. Tỉ lệ học sinh đạt loại tốt về hạnh kiểm, loại khá, giỏi về văn hóa trong

các năm học ngày càng tăng. Từ năm 2000 đến năm 2005, số học sinh tiểu học xếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

78

hạnh kiểm tốt từ 65% tăng lên 97%, xếp loại văn hóa khá - giỏi từ 65% tăng lên

81,2%; số học sinh THCS xếp loại hạnh kiểm tốt từ 63% tăng lên 75%, xếp loại văn

hóa khá, giỏi từ 39,7% tăng lên 59,1%; học sinh THPT xếp đạo đức tốt và khá đạt

bình quân 93,5%; xếp loại văn hóa khá-giỏi 50,1%. Kết quả thi học sinh giỏi cấp

tiểu học và THCS huyện Tiên Du không ngừng tăng lên, từ vị trí thứ 8 toàn tỉnh

trong năm học 1999 - 2000, vươn lên đứng thứ 5 trong năm học 2004 - 2005 và đến

năm 2010 đã xếp vào vị trí thứ 3. Toàn huyện đã hoàn thành phổ cập THCS trước 3

năm so với kế hoạch đề ra [73], [87].

Công tác xã hội hóa giáo dục tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển, các trung

tâm giáo dục cộng đồng phát triển đều khắp ở các xã, thị trấn. ở các thôn, làng dòng

họ, các hội khuyến học được thành lập, hoạt động thiết thực và có hiệu quả góp

phần tiên tới xây dựng một xã hội học tập. Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và

học trong các nhà trường được quan tâm đầu tư theo hướng hiện đại hóa và chuẩn

hóa. Trang thiết bị đồ dùng dạy học được đầu tư, mua sắm đồng bộ và đầy đủ. Tính

đến năm 2013, toàn huyện có 43/53 trường (81,1%) đạt chuẩn Quốc gia [96, tr. 3].

Để đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH, tạo tiền đề thực hiện mục tiêu

xây dựng Tiên Du thành huyện công nghiệp vào năm 2020, trong những năm 2011 -

2013, huyện đã tập trung chỉ đạo thực hiện đề án phát triển giáo dục - đào tạo, xây

dựng trường chuẩn quốc gia, phổ cập THPT; đổi mới phương pháp quản lí, nâng

cao chất lượng giáo dục, tiếp tục mở rộng quy mô giáo dục theo hướng đa dạng hóa

các loại hình trường lớp; tiếp tục duy trì kết quả phổ cập giáo dục vững chắc. Năm

2013, tỉ lệ huy động học sinh ra lớp tăng 3% so với năm học 2011 - 2012; tỉ lệ học

sinh tốt nghiệp THCS đạt 97,4%, tốt nghiệp THPT đạt 98,5%; chất lượng đầu vào

lớp 6 THCS Tiên Du, vào lớp 10 THPT và tỉ lệ học sinh đỗ đại học, cao đẳng giữ

vững ở tốp đầu của tỉnh. Trường THPT Nguyễn Đăng Đạo và trường THPT Tiên

Du I được xếp vào tốp 200 trường có điểm thi cao nhất toàn quốc [96].

Bảng 3.3- Số trường, số lớp, số học sinh huyện Tiên Du năm 2013

Ngành học Số trường Số lớp Số học sinh

18 224 7036 Mầm non

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

79

Phổ thông

16 340 10.485 - Tiểu học

15 218 7.266 - THCS

4 90 3.830 - THPT

Nguồn: [74].

Nhìn chung, sự nghiệp giáo dục - đào tạo Tiên Du từ sau ngày tái lập huyện,

nhất là từ năm 2006 trở đi, phát triển khá toàn diện và ổn định. Chất lượng giáo dục

có những bước chuyển biến vượt bậc. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp THCS và THPT bình

quân đạt trên 95%. Chất lượng đầu vào các trường THPT có điểm chuẩn cao đứng ở

tốp đầu của tỉnh. Tỉ lệ học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng hằng năm từ 55%

đến 60%; nhiều học sinh đạt giải cao trong các kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc

gia; đặc biệt trong các năm học 2002 - 2003, 2003 - 2004, 2004 - 2005, huyện Tiên

Du đều có học sinh đỗ thủ khoa 30/30 điểm, á khoa 29,75 điểm, 29,5 điểm thi đại

học. Trên 90% số phòng học, phòng chức năng được kiên cố hóa. Từ chỗ đứng ở tốp

cuối của tỉnh Bắc Ninh khi mới tái lập huyện, đến năm 2013, ngành Giáo dục Tiên

Du đã vươn lên đứng ở tốp đầu của tỉnh. Trên địa bàn huyện Tiên Du đã có 6 trường

đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, làm

sáng thêm truyền thống hiếu học, khoa bảng của quê hương “Lưỡng quốc Trạng

nguyên’’ Nguyễn Đăng Đạo.

Bên cạnh những bước chuyển biến mạnh mẽ nêu trên, ngành Giáo dục và Đào

tạo huyện Tiên Du trong những năm 1999 - 2013 vẫn còn một số hạn chế cần khắc

phục. Đó là, các trường tiểu học đạt chuẩn nhưng còn thiếu phòng chức năng, thư viện;

đội ngũ giáo viên chưa đủ ở một số môn, chưa đồng bộ; công tác xã hội hóa giáo dục

chưa mạnh, vấn đề đa dạng hóa các loại hình đào tạo còn bất cập; diện tích nhiều

trường chưa đủ mức tối thiểu 10m2/học sinh (thiếu sân chơi, bãi tập cho học sinh); một

bộ phận giáo viên trình độ còn chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục; chất

lượng dạy và học một số nơi chưa cao, chưa đồng đều, việc áp dụng phương pháp dạy

học mới còn lúng túng; đặc biệt là số giáo viên ra trường chưa được phân công công

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

80

tác còn lớn, gây lãng phí nguồn nhân lực có trình độ cao.

3.3.2. Về văn hóa

Thực hiện Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) về xây dựng nền văn hóa tiên tiến,

đậm đà bản sắc dân tộc, Huyện ủy Tiên Du tích cực chỉ đạo chính quyền các cấp, các

ngành, các địa phương tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao bám sát và phục vụ có

hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hoạt động văn hóa được triển khai

trên địa bàn huyện bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thực sự trở thành phong

trào quần chúng phục vụ đắc lực nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân,

xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc của quê hương Quan họ.

Toàn huyện có 1 trung tâm văn hóa huyện; 100% xã có điểm bưu điện văn

hóa; 100% thôn, làng có nhà văn hóa; 100% làng có đội văn nghệ. Các thiết chế

cho hoạt động văn hóa, thể thao từ huyện đến cơ sở được quan tâm đầu tư, có

quy hoạch, có cơ chế hỗ trợ. Công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể thao

được đẩy mạnh, thu hút các nguồn lực xã hội tham gia phát triển. Tuy nhiên, các

nhà văn hóa thôn làng còn thiếu cả về diện tích và thiết bị; chỉ có khoảng 30% số

nhà văn hóa đáp ứng đủ bàn ghế, loa đài, phông màn và diện tích khuôn viên;

trên 40% số nhà văn hóa thôn hoạt động thường xuyên có nền nếp, số còn lại gặp

nhiều khó khăn về nội dung và kinh phí hoạt động.

Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và công tác xây

dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa, cơ quan văn hóa phát triển rộng khắp. Nếu

như năm 2000, toàn huyện chỉ có 37/78 (47,4%) làng đạt danh hiệu Làng văn hóa

và trên 60% số hộ đạt danh hiệu Gia đình văn hóa, thì đến năm 2005 đã có 71,9%

làng đạt tiêu chuẩn Làng văn hóa, 96% hộ gia đình đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hóa.

Việc đánh giá công nhận ngày càng thực chất đã đưa phong trào Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa của huyện đi vào chiều sâu. Kết quả bình xét năm 2007

toàn huyện có 34/68 (50%) làng đạt tiêu chuẩn Làng văn hóa, 47 cơ quan (97,9%)

đạt tiêu chuẩn Cơ quan văn hóa, 23.438 gia đình (90%) đạt tiêu chuẩn Gia đình văn

hóa. Năm 2010, toàn huyện có 95% số gia đình đạt tiêu chuẩn Gia đình văn hóa,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

81

64,7% số làng đạt tiêu chuẩn Làng văn hóa. Đến năm 2013, toàn huyện có trên 80%

cơ quan đơn vị đạt tiêu chuẩn Cơ quan văn hóa, 93% số hộ đạt tiêu chuẩn Gia đình

văn hóa, 66,2% số làng đạt danh hiệu Làng văn hóa [82], [87, [89], [93], [96]

Các xã đều tăng cường chỉ đạo vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn

minh trong việc cưới hỏi, tang ma và lễ hội.

Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao phát triển mạnh, nhất là vào

những dịp tổ chức kỉ niệm hoặc chào mừng những sự kiện chính trị lớn của đất

nước và địa phương. Trung bình mỗi xã trong một năm có từ 4 đến 8 chương trình

văn nghệ được dàn dựng và biểu diễn. Sinh hoạt câu lạc bộ được các đơn vị duy trì

tốt, có năm tổ chức tới 3 - 4 đợt giao lưu các câu lạc bộ thơ ca trong các cụm. Công

tác quản lí các hoạt động kinh doanh, biểu diễn văn hóa và lễ hội ở địa phương luôn

đảm bảo theo quy định. Để xây dựng một nền văn hóa lành mạnh, tiên tiến đậm đà

bản sắc dân tộc, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của quê hương

Kinh Bắc, Phòng Văn hóa huyện tích cực phối hợp với các ngành chức năng, các cơ

sở kiểm tra xử lí nghiêm các loại văn hóa phẩm không lành mạnh, các tụ điểm cờ

bạc, rượu chè, lô đề, các quán Internet, Karaoke trá hình…

Hoạt động thể dục thể thao được đẩy mạnh, dần dần trở thành nhu cầu trong

đời sống văn hóa tinh thần của quần chúng. Đến năm 2013, huyện Tiên Du có 1

trung tâm TDTT; 100% số xă đã quy hoạch được sân vận động; 48/68 làng có điểm

tập luyện; trên địa bàn huyện có 34 sân bóng chuyền, 143 sân cầu lông, hơn 20 sân

bóng bàn, 1 sới vật, và nhiều phương tiện dụng cụ phục vụ tập luyện. Các khu trung

tâm TDTT xã, thị trấn, thôn, làng cũng từng bước được triển khai xây dựng. Nhiều

môn thể thao truyền thống được khôi phục và phát triển.

Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại’’ với

khẩu hiệu “Mỗi người chọn cho mình một môn thể thao mà mình ưa thích” được

đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong huyện hưởng ứng. Số

lượng người luyện tập TDTT thường xuyên tăng lên rõ rệt, tạo thành phong trào

quần chúng rộng rãi. Hằng năm, Phòng Văn hóa - Thông tin - Thể thao huyện phối

hợp với các ban ngành, đoàn thể tổ chức thi đấu các môn thể thao, thu hút mọi lứa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

82

tuổi tham gia. Trong các lực lượng vũ trang và trường học, phong trào rèn luyện

thân thể phát triển mạnh. Hằng năm, Ban Chỉ huy quân sự và Công an huyện đều tổ

chức Hội thao giáo dục quốc phòng cho dân quân, tự vệ trong toàn huyện, các giải

cầu lông, bóng chuyền, bóng bàn… Huyện Tiên Du được khẳng định là đơn vị

mạnh của tỉnh về giáo dục thể chất trong các trường học, hằng năm có khoảng 95 -

96% số học sinh đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể... Huyện còn mở lớp nghiệp dư

các môn thể thao để phát hiện tài năng, tuyển chọn và bồi dưỡng vận động viên từ

cơ sở tham gia các giải cấp tỉnh. Nhờ đó, trong các cuộc thi đấu thể thao do tỉnh tổ

chức, đoàn vận động viên thể thao của huyện đều đạt giải cao. Riêng năm 2007, các

vận động viên của huyện Tiên Du đạt 15 HCV, 16 HCB, 21 HCĐ [89]. Trong

những năm sau đó, thành tích của đoàn thể thao huyện luôn đứng ở tốp đầu tỉnh và

đóng góp nhiều vận động viên xuất sắc cho tỉnh tham dự các giải thể thao Quốc gia.

Nhìn chung, phong trào TDTT huyện Tiên Du phát triển tương đối đều,

rộng khắp và khá mạnh, song vẫn còn nhiều hạn chế: Cơ sở vật chất từ huyện

đến cơ sở còn nghèo nàn, thiếu nhiều dụng cụ tập luyện. Dù huyện đã dành đất

cho hoạt động TDTT nhưng chưa có quy hoạch đồng bộ, chưa có lộ trình đầu tư

xây dựng, nên chậm có công trình chuẩn theo quy định của ngành TDTT...

Công tác thông tin tuyên truyền được đẩy mạnh. Huyện có 1 máy phát

sóng FM 300W; 1 tăng âm cùng các trang thiết bị khác. Đài Truyền thanh huyện

thường xuyên duy trì chương trình phát sóng; mỗi tuần sản xuất 6 chương trình

với thời lượng 30p/chương trình, phản ánh kịp thời mọi mặt đời sống kinh tế,

văn hóa trong toàn huyện, tuyên truyền gương người tốt việc tốt, phổ biến kiến

thức, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của địa phương

đến với mọi người dân. Huyện đã hoàn thành việc lắp đặt Đài Truyền thanh xã

Hoàn Sơn, Phật Tích đảm bảo 14/14 xã, thị trấn có hệ thống truyền thanh. 60%

đài xã xây dựng được 2 chương trình/tuần, 100% xã, thị trấn và 49 thôn có đài

truyền thanh hoạt động tốt, tổ chức tiếp âm đủ 3 cấp vào 3 buổi trong ngày. Nhìn

chung, các đài truyền thanh trong huyện có cơ sở vật chất trang thiết bị đảm bảo

yêu cầu phục vụ thông tin thông suốt, góp phần tuyên truyền đường lối, chính

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

83

sách của Đảng, Nhà nước trong mọi tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, cơ sở vật chất

kĩ thuật của các đài truyền thanh còn thiếu, chất lượng máy móc còn hạn chế, tin

bài chưa đa dạng, đôi lúc phát chưa kịp thời.

Công tác tôn tạo, bảo tồn các di tích lịch sử, văn hóa được quan tâm và sự ủng

hộ của cộng đồng dân cư. Từ 2001 đến năm 2013, nhiều di tích lịch sử, văn hóa tiêu

biểu và danh thắng của huyện đã được quy hoạch tổng thể thành các dự án lớn để đầu

tư xây dựng, tôn tạo, như Chùa Phật Tích, Chùa Bách Môn, Khu Di tích danh thắng

Núi Lim - Chùa Hồng Vân…Toàn huyện có 60 di tích lịch sử, văn hóa được xếp

hạng (23 di tích cấp quốc gia và 37 di tích cấp tỉnh), 68 lễ hội truyền thống được tổ

chức hằng năm đều thực hiện tốt các quy định của Bộ Văn hóa. Các giá trị văn hóa

đặc sắc, phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa dân gian được lưu giữ và phát huy tốt.

Trong đó, đáng chú ý là dân ca Quan họ đã được UNESCO vinh danh danh là Di sản

văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

3.4. Về công tác y tế và bảo vệ môi trường

3.4.1. Y tế

Trong những năm đầu sau ngày huyện được tái lập, mặc dù còn gặp rất nhiều

khó khăn cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ y tế vừa thiếu về số

lượng, vừa yếu về chuyên môn, song công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân

được các cấp lãnh đạo quan tâm. Các chương trình y tế quốc gia được thực hiện

nghiêm túc; chương trình tiêm chủng mở rộng hằng năm cho trẻ em đều đạt trên

99% so với số cháu trong độ tuổi. Y tế dự phòng được chú ý và tăng cường kiểm tra

vệ sinh an toàn thực phẩm, kịp thời dập tắt các ổ dịch bệnh trên địa bàn huyện.

Trang thiết bị kĩ thuật và đội ngũ y, bác sĩ từng bước được bổ sung cho các cơ sở.

Mạng lưới y tế xã được củng cố khá tốt, từng bước đáp ứng nhu cầu khám, chữa

bệnh của nhân dân.

Thực hiện Thông tri số 05 - TTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (10/9/2002)

về củng cố mạng lưới y tế cơ sở, các cấp, các ngành, các đơn vị chú trọng đến công

tác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân. Mạng lưới y tế trên địa bàn

huyện được mở rộng, gồm có 15 cơ sở khám chữa bệnh, trong đó có 1 bệnh viện đa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

84

khoa huyện với quy mô 250 giường bệnh, 14 trạm y tế xã, thị trấn. Cơ sở vật chất,

trang thiết bị cũng được tăng cường; từ 133 giường bệnh, đạt tỉ lệ 11,8

gường/10.000 dân (năm 2000), tăng lên 143 giường, đạt tỉ lệ 11,42 giường/10.000

dân (năm 2005), 12 giường/10.000 dân (năm 2010) và năm 2013 là 13,8

giường/10.000 dân. Đội ngũ cán bộ y tế thường xuyên được bổ sung và bồi dưỡng

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 100% trạm y tế xã, thị trấn có bác sĩ và

nữ hộ sinh trung học, hoặc y sĩ sản nhi. Tỉ lệ bác sĩ/10.000 dân từ 2,51 bác sĩ năm

2000, tăng lên 2,8 năm 2013. Số cơ sở đạt chuẩn quốc gia về y tế tăng nhanh. Năm

2005, toàn huyện chỉ có 9/14 xã, thị trấn (64,28%) đạt chuẩn quốc gia về y tế, đến

năm 2010, tỉ lệ đó đã tăng lên 100%. Năm 2013 có 3/14 xã, thị trấn đạt tiêu chí

chuẩn quốc gia về y tế giai đoạn 2011 - 2020 (Theo tiêu chí mới) là Phú Lâm, Tân

Chi và thị trấn Lim [73],[74]. Mạng lưới y tế cơ sở xã và các cơ sở tư nhân có cơ sở

vật chất trang thiết bị phù hợp cho hoạt động chuyên môn.

Công tác tiêm chủng mở rộng thường xuyên được duy trì, tăng cường tiêm

phòng các loại vắc - xin dịch vụ phục vụ cho công tác phòng dịch, như tiêm phòng

dại, phòng uốn ván, viêm gan B, viêm gan A, thương hàn, quai bị... để giảm tỉ lệ

mắc các bệnh truyền nhiễm, bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Công tác khám, chữa bệnh đạt kết quả cao. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân

dân, sức khỏe trẻ em và sinh sản thường xuyên được quan tâm. Tỉ lệ chuyển viện hằng

năm giảm từ 5%, xuống còn 3%. Năm 2013, tổng số khám bệnh đạt 111.562 lượt

người, điều trị nội trú cho 5.704 bệnh nhân; 3.580 trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm đủ

miễn dịch cơ bản; số phụ nữ có thai được tiêm AT2 là 3.824 người [74].

Tiêm chủng cho trẻ em dưới 1 tuổi hằng năm đạt 95-99,8%. Chương trình

chống suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi được thực hiện ở 14/14 xã, thị trấn và đạt

kết quả tốt. Năm 2000, số trẻ em suy dinh dưỡng chiếm 34,6% tổng số trẻ; đến năm

2005, tỉ lệ đó giảm xuống còn 24%, năm 2010 là 13,5% và đến 2013 chỉ còn 10%.

Công tác xã hội hóa y tế đã đạt được một số kết quả bước đầu, đáp ứng nhu

cầu sử dụng các thiết bị, kĩ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị. Hệ thống các cơ sở

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

85

y tế tư nhân ngày càng phát triển.

Tuy nhiên, khả năng đáp ứng của ngành Y tế huyện vẫn bộc lộ nhiều hạn

chế: Khoảng cách và mức độ hưởng thụ các dịch vụ y tế còn chênh lệch; hoạt động

xã hội hóa công tác y tế còn thấp; công tác khám chữa bệnh, mặc dù các chỉ tiêu

đều đạt và vượt cao so với kế hoạch đề ra, song chủ yếu là bệnh nhẹ, một số bệnh

nhân nặng phải chuyển tuyến trên do thiếu cán bộ chuyên khoa sâu. Trong công tác

y tế dự phòng, như xét nghiệm, y tế trường học, an toàn lao động, vệ sinh lao động

còn thiếu trang thiết bị và thiếu nhân lực, đặc biệt là đội ngũ bác sĩ.

Bảng 3.4- Một số chỉ tiêu về y tế huyện Tiên Du từ năm 2000 đến năm 2007.

Năm Năm Năm Năm Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2005 2006 2007

1.Số bệnh viện Bệnh viện 01 01 01 01

2. Số trạm y tế Trạm 14 14 14 14

3. Số xã, thị trấn đạt chuẩn quốc Trạm 0 9 12 12

gia về y tế

4. Số trạm y tế có bác sĩ Trạm 2 8 10 10

5. Phòng khám đa khoa Phòng 1 1 1 1

6. Số bác sĩ Bác sĩ 20 31 37 37

Bác sĩ 7. Số bác sĩ/10.000 dân 21,51 2,25 2,66 2,66

8. Tổng số giường bệnh Giường bệnh 133 143 143 143

9.Số giường bệnh/10.000 dân Giường bệnh 11,18 11,42 11,16 11,16

10. Tỉ lệ TE<5 tuổi suy dinh % 34,6 22,1 20,7 19,2

dưỡng

11. Tỉ lệ TE<1 tuổi được tiêm % 95 97 97 99,8

chủng

Nguồn: [74].

3.4.2. Về bảo vệ môi trường

Môi trường là một trong những yếu tố hàng đầu đảm bảo cho sự phát triển

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

86

kinh tế, xã hội bền vững. Bước vào thời kì đẩy mạnh CNH, HĐH, với sự phát triển

mạnh mẽ của nền kinh tế và quá trình đô thị hóa đã và đang làm cho vấn đề môi

trường của huyện Tiên Du trở nên cấp thiết.

Đến cuối năm 2013, trên địa bàn huyện có hàng trăm nhà máy, xí nghiệp

công nghiệp lớn nhỏ đang hoạt động, như Nhà máy chế biến thức ăn chăn nuôi

DABACO II, Công ti chế biến thực phẩm Á Châu, Công ti bia Việt Hà, Nhà máy

gạch Hoa Sơn, Nhà máy gạch tuynen Sông Đống, tuynen Bắc Hưng, Nhà máy chế

biến thức ăn chăn nuôi cao cấp NUTRECO… Hằng năm, những nhà máy này thải

ra môi trường một khối lượng khí thải, chất thải cực lớn mặc dù đã tuân thủ nghiêm

ngặt những quy định về xử lí chất thải theo quy trình trước khi thải ra môi trường.

Nhưng sự tác động của các nhà máy, xí nghiệp này đối với bộ phận dân cư quanh

vùng là rất lớn, nguy cơ ô nhiễm môi trường xung quanh là rất cao. Ngoài ra, các

hoạt động sản xuất, kinh doanh ở các làng nghề, cùng chất thải, rác thải hằng ngày

từ bệnh viện, trạm y tế, từ sinh hoạt của người dân làm cho môi trường của Tiên Du

đứng trước nguy cơ ô nhiễm trầm trọng.

Trước thực trạng trên, Đảng bộ huyện, các cấp, các ngành, nhất là Phòng Tài

nguyên - Môi trường đã đề ra nhiều giải pháp tích cực nhằm bảo vệ và cải tạo môi

trường trên địa bàn huyện. Trong những năm 1999 - 2013, công tác quản lí nhà

nước về môi trường được chỉ đạo thường xuyên nhằm từng bước giảm thiểu tình

trạng ô nhiễm. Huyện đã xây dựng quy định về bảo vệ môi trường trong các khu

dân cư, CCN; chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp để chấm dứt tình trạng đun

đốt gạch thủ công gây ảnh hưởng xấu tới môi trường đúng thời hạn quy định; hoàn

thành việc xây dựng các bãi thu gom trung chuyển rác thải sinh hoạt ở 100% số

thôn xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Đến năm 2013, tất cả các thôn đã thành lập

được tổ vệ sinh môi trường, thực hiện thu gom, vận chuyển rác thải. Đồng thời,

huyện cũng chỉ đạo các ngành chức năng tăng cường kiểm tra việc thực hiện các

quy định về bảo vệ môi trường ở các đơn vị, các doanh nghiệp, nhất là các KCN

trên địa bàn huyện, kịp thời xử lí những vi phạm theo pháp luật.

Phong trào trồng cây xanh được các cơ quan, đơn vị và toàn dân thực hiện

liên tục và đạt kết quả khá tốt. Ngoài diện tích đồi rừng đã được phủ xanh và chăm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

87

sóc tốt, hằng năm huyện chỉ đạo trồng được khoảng 200.000 cây phân tán các loại.

Nhờ đó, mật độ cây xanh tăng lên đáng kể, tạo ra môi trường không khí trong

lành, mát mẻ và cảnh quan tươi đẹp cho huyện, nhất là ở 2 bên các tuyến đường,

tuyến phố, các khu di tích lịch sử văn hóa, công viên, trường học, bệnh viện…

Những dự án quy hoạch, xây dựng hạ tầng, chỉnh trang đô thị được thực hiện

đúng thiết kế, cùng với các đợt ra quân hằng năm làm công tác vệ sinh ở khu dân

cư, nơi công cộng; khơi thông cống rãnh, dòng chảy các kênh mương..., đã góp

phần đắc lực vào việc giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện.

Nhìn chung, vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường những năm 1999 -

2013 trên dịa bàn huyện Tiên Du đã có nhiều cố gắng và đạt được kết quả quan

trọng, giảm thiểu đáng kể tình trạng ô nhiễm do sự phát triển của công nghiệp và

quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh, bảo vệ tốt cảnh quanh thiên nhiên và các

không gian đô thị. Tuy nhiên, là một huyện đang trên đà phát triển nhanh nên

nguy cơ ô nhiễm môi trường rất lớn. Vấn đề xử lí chất thải công nghiệp chưa

đảm bảo, các làng nghề, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã ngang nhiên xả thẳng chất

thải chưa xử lí ra môi trường. Một số tuyến đường trong huyện chưa được nâng

cấp, gây bụi bẩn trong những ngày nắng nóng và hanh khô. Ý thức bảo vệ môi

trường của một bộ phận dân cư chưa cao. Một số gia đình xả rác sinh hoạt chưa

đúng quy định, xây cống rảnh công trình vệ sinh chưa đảm bảo. Trong các khu

dân cư ở địa bàn nông thôn do chăn nuôi với số lượng lớn nên ô nhiễm có chiều

hướng gia tăng. Trên các cánh đồng, các loại thuốc bảo vệ thực vật, phân bón

hóa học sử dụng tràn lan, gây ô nhiễm môi trường…

3.5. Về chính sách xã hội

Đồng thời với việc tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, trong những

năm 1999 - 2013, việc hiện hiện các chính sách xã hội được Đảng bộ, chính quyền

các cấp, các ngành huyện Tiên Du thường xuyên quan tâm và thực hiện tốt. Chính

sách đối với người có công, gia đình chính sách, người nghèo được giải quyết kịp

thời theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chế độ lương, phụ cấp

cho các đối tượng hưởng lương trong ngân sách Nhà nước được chi trả đầy đủ và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

88

đúng kì hạn. Công tác từ thiện, nhân đạo, tương trợ, giúp đỡ đồng bào khó khăn về

đời sống, về nhà ở mang tính xã hội hóa ngày càng được tăng cường, trở thành

phong trào phát triển sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân.

Với đạo lí Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ người trồng cây, phong trào

“Đền ơn đáp nghĩa’’ được mọi tầng lớp nhân dân trong huyện nhiệt liệt hưởng ứng.

Tính riêng trong thời gian 1996 - 2000, nhân dân Tiên Du đã quyên góp tặng 2.896

sổ tiết kiệm tình nghĩa, trị giá 561 triệu đồng, tặng 47 ngôi nhà cho các gia đình

thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ. Huyện còn giải quyết kịp thời chế độ ưu đãi đối

với người có công, đối tượng chính sách theo đúng Nghị định 28/CP của Chính phủ.

Từ năm 2000 trở đi, phong trào Đền ơn đáp nghĩa càng được đẩy mạnh, trở

thành nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Tiên Du. Trong 5 năm

(2001 - 2005), toàn huyện đã vận động quyên góp được gần 2 tỉ đồng, tặng gần

3.000 sổ tiết kiệm tình nghĩa; xây dựng 70 nhà tình nghĩa, 87 nhà đại đoàn kết cho

gia đình chính sách, người neo đơn, hoàn thành xóa nhà tranh tre nứa lá cho người

nghèo trên địa bàn huyện [48, tr. 7]. Huyện thường xuyên quan tâm đến chính sách

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chính sách xã hội khác cho người có công với

nước, người tham gia hoạt động kháng chiến, đối tượng chính sách và người nghèo.

Đến năm 2013, 100% người nghèo đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Việc chăm sóc,

bảo vệ trẻ em được đặc biệt chú trọng. Huyện thường xuyên hỗ trợ tặng quà cho trẻ

em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em mồ côi, khuyết tật thuộc hộ nghèo, cận nghèo;

khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em khuyết tật, dị tật bẩm sinh. Các chính sách xã

hội đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người già yếu cô đơn, người

nghèo, học sinh nghèo vượt khó, người tàn tật, người nhiễm chất độc da cam đi - ô -

xin, Bà mẹ Việt Nam anh hùng… được các cấp ủy đảng, đoàn thể quần chúng trong

huyện quan tâm thực hiện tốt. Hằng năm, các chính sách hỗ trợ về y tế, giáo dục -

đào tạo, an sinh xã hội, dự án tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo, hỗ trợ sản xuất,

phát triển ngành nghề đối với người nghèo được duy trì thường xuyên. Công tác

giảm nghèo được thực hiện bằng nhiều biện pháp đồng bộ, tích cực và đạt kết quả

cao, đưa tỉ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 2,54% năm 2013.

Công tác phòng chống ma túy, mại dâm cũng được đẩy mạnh. Riêng năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

89

2013, huyện đưa 23 đối tượng vào cai nghiện tại Trung tâm Giáo dục - Dạy nghề -

Hướng thiện; đồng thời triển khai, duy trì 9 xã, thị trấn lành mạnh không có tệ nạn

ma túy, mại dâm [96].

Có thể nói, nhờ sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính

quyền từ tỉnh, huyện đến cơ sở, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, đoàn thể,

các tổ chức xã hội và sự hưởng ứng của các tầng lớp nhân dân, trong 15 năm (1999

- 2013), huyện Tiên Du đã triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách xã hội,

góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát

triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính

sách xã hội, huyện còn một số hạn chế. Đó là, việc xác định các đối tượng chính

sách, xác định hộ nghèo, người khuyết tật... để chi trả, trợ cấp, thăm hỏi tặng quà và

giải quyết chính sách ưu đãi cho những đối tượng này nhiều lúc, nhiều nơi chưa kịp

thời, chưa thỏa đáng, khiến dư luận bất bình.

3.6. Về an ninh, quốc phòng

Bước vào thế kỉ XXI, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và

trong nước, đặc biệt là mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động xấu đến tình hình

an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Trên địa bàn huyện, một số nơi xảy ra

những diễn biến phức tạp, như tranh chấp ruộng đất, tệ nạn xã hội (cờ bạc, rượu

chè, ma túy, mại dâm…), tệ quan liêu, tham ô, lãng phí…Mặt khác, các thế lực thù

địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược diễn biến hòa bình bằng nhiều thủ đoạn tinh vi,

xảo quyệt. Vì vậy, vấn đề xây dựng, củng cố nền Quốc phòng là một trong những

nhiệm vụ chủ yếu được Đảng bộ đặt lên hàng đầu.

Trong những năm 1999 - 2013, các cấp, các ngảnh từ huyện đến cơ sở đẩy

mạnh công tác tuyên truyền giáo dục cho quần chúng hiểu rõ quan điểm, đường lối

quân sự của Đảng, âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, đặc biệt là chiến lược “Diễn biến

hòa bình - Bạo loạn lật đổ’’, nêu cao tinh thần cảnh giác, tham gia bảo vệ Đảng,

bảo vệ chính quyền. Thế trận phòng thủ chiến tranh nhân dân, kết hợp thế trận an

ninh trên địa bàn đã được xây dựng và củng cố vững chắc. Nghị quyết Hội nghị lần

thứ 8 BCHTW khóa IX về chiến lược an ninh bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

90

và các nghị quyết của Tỉnh ủy Bắc Ninh về công tác Quốc phòng, quân sự địa

phương được quán triệt thực hiện nghiêm túc. Lực lượng vũ trang của huyện ngày

càng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không ngừng nâng cao khả

năng sẳn sàng chiến đấu, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Công tác xây dựng lực lượng dự bị động viên và huấn luyện dân quân, tự vệ

được duy trì thường xuyên. Công tác tuyển quân, tuyển sinh quân sự hằng năm đều

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, hoàn thành tốt

chỉ tiêu ra quân 100%. Công tác chỉ đạo và thực hiện diễn tập phòng thủ khu vực

được thực hiện có hiệu quả. Riêng trong 3 năm (2011 - 2013), huyện đã tổ chức 2

cuộc diễn tập chiến đấu trị an và 3 cuộc diễn tập phòng chống lụt bão, giảm nhẹ

thiên tai; đồng thời tham mưu xủ lí các tình huống xảy ra ở các cơ sở, giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội,

góp phần xây dựng khu vực phòng thủ huyện vững chắc.

Việc quản lí và huy động lực lượng dự bị động viên theo kế hoạch thực sự

đi vào nền nếp, tạo nên sự chuyển biến mạnh trong nhận thức của các cấp ủy

đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Cơ quan quân sự huyện thường

xuyên tổ chức tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán

bộ, dân quân, tự vệ trong các cơ quan, đơn vị, trường học trên địa bàn huyện.

Quán triệt Nghị quyết 08 - NQ/TW của Bộ Chính trị và các Nghị quyết 09 -

NQ/CP, 32 - NQ/CP của Chính phủ về công tác đảm bảo an ninh chính trị và trật tự

an toàn xã hội, các cấp ủy đảng, chính quyền huyện Tiên Du và các địa phương đã

lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác an ninh, quốc phòng, từng

bước kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội. Các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, phòng chống ma túy,

bảo đảm an toàn giao thông được triển khai tích cực. Lực lượng Công an nhân dân

được tăng cường và thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các ngành, đoàn thể làm

tốt công tác tuyên truyền các chỉ thị, nghị định của Chính phủ về công tác phòng

chống tội phạm; đồng thời nắm chắc tình hình, tập trung lực lượng giải quyết kịp

thời các điểm có dấu hiệu phức tạp liên quan đến an ninh nông thôn, các loại tội

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

91

phạm hình sự, các tụ điểm cờ bạc, ma túy, mại dâm. Nhờ vậy, số vụ án được khám

phá đạt tỉ lệ cao, tai nạn giao thông đã giảm dần; an ninh nông thôn được giữ vững.

Nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ pháp luật và bảo vệ chính trị

nội bộ được coi trọng. Lực lượng Công an và mạng lưới an ninh được kiện toàn

nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ.

Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, phong trào Toàn dân bảo vệ an

ninh Tổ quốc được đẩy mạnh, phát triển cả chiều rộng và chiều sâu với nhiều hình

thức phong phú. Các cụm an ninh giáp ranh, câu lạc bộ hướng thiện, tổ liên gia, tổ,

ngõ, xóm an toàn… được thành lập ở nhiều nơi. Công tác phòng ngừa xã hội, phòng

ngừa nghiệp vụ kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu, và

công tác điều tra truy xét án đạt hiệu quả cao.

Công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án luôn được Đảng bộ quan tâm

chỉ đạo. Các đơn vị luôn xác định rõ chức năng nhiệm vụ, hoàn thành tốt công tác

chuyên môn. Các vụ án đều được giải quyết kịp thời, nghiêm minh, đúng các quy

định về tố tụng hình sự, dân sự theo đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước; không có vụ án nào điều tra truy tố, xét xử oan sai, tỉ lệ thi hành án được

nâng lên. Đã bám sát nhiệm vụ chính trị trọng tâm của từng giai đoạn để xác định

án điểm và đưa ra xét xử lưu động đạt kết quả cao trong giáo dục riêng và phòng

ngừa chung.

Công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật được tiến hành thường

xuyên. Hoạt động trợ giúp pháp lí và hoạt động hòa giải ở cơ sở có nhiều tiên bộ,

góp phần tích cực làm giảm tình trạng vi phạm pháp luật và mâu thuẫn trong nội bộ

nhân dân. Cùng với đó, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của

công dân được chỉ đạo sát sao và có hiệu quả, nhất là việc duy trì đổi mới phương

pháp, phong cách tiếp dân được nâng cao rõ rệt. Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các

quyết định, kết luận sau thanh tra và các bản án có hiệu lực thi hành từng bước được

giải quyết và có tiến bộ. Công tác thanh tra có nhiều cố gắng trong quá trình thực

hiện thanh tra theo kế hoạch, chuyên đề, thực hiện các nhiệm vụ đột xuất của cấp

ủy, chính quyền; kịp thời phát hiện xử lí nhiều vụ việc sai phạm, nhất là trong lĩnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

92

vực quản lí đất đai, xây dựng cơ bản, thực hiện các chính sách xã hội, giải phóng

mặt bằng…Vì vậy, số vụ khiếu kiện đông người vượt cấp và số đơn thư tồn đọng đã

giảm đáng kể, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa

bàn huyện.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội và trật tự an toàn giao thông có

nơi, có lúc còn gia tăng và có chiều hướng diễn biến phức tạp, nhất là ở địa bàn các

KCN, CCN. Một số điểm tranh chấp, khiếu kiện gây ảnh hưởng đến an ninh nông

thôn chưa được giải quyết kịp thời, triệt để. Số vụ phạm pháp hình sự tuy giảm

nhưng một số nhóm tội phạm lại gia tăng. Phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

93

quốc phát triển chưa đồng đều...

Tiểu kết chương 3

Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của huyện Tiên Du trong 15 năm (1999 -

2013) đã tạo ra động lực thúc đẩy sự chuyển biến về xã hội. Bộ mặt kinh tế - xã hội

của huyện đổi thay rõ rệt so với trước đây. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển

nhanh và toàn diện. Mạng lưới trường lớp không ngừng được củng cố, mở rộng và

đa dạng về các lọai hình đào tạo, đáp ứng tối đa nhu cầu học tập của con em nhân

dân trong huyện. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân có bước tiến đáng

kể. Hệ thống y tế từ huyện đến cơ sở được đầu tư hoàn thiện, chất lượng khám chữa

bệnh được nâng cao. Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, phát

huy, đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nâng cao thể lực của nhân dân và phục

vụ tốt các nhiệm vụ chính trị - xã hội của địa phương. Việc thực hiện các chính sách

xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động được tiến hành tốt. Quốc phòng, an

ninh, trật tự an toàn xã hội được củng cố vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho phát

triển kinh tế - xã hội.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, tình hình phát triển xã hội của huyện

Tiên Du trong 15 năm (1999 - 2013) đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là, giáo dục - đào

tạo chưa có bước phát triển đột phá, việc phân luồng, hướng nghiệp và đào tạo nghề

chưa thực sự hiệu quả, nhiều khi còn mang tính hình thức. Vấn đề vệ sinh an toàn

thực phẩm chưa đảm bảo, chưa có chế tài đủ mạnh để xử lí những vi phạm; việc

kiểm soát và xử lí dịch bệnh còn chậm chạp và nhiều khi mang tính hình thức. Vấn

đề giải quyết việc làm cho người lao động hiệu quả chưa cao, tình trạng thất nghiệp

có chiều hướng gia tăng do một bộ phận rất lớn nông dân bị thu hồi ruộng đất để

phát triển công nghiệp. Việc chuyển đổi nghề nghiệp diễn ra chậm và chưa có

hướng đi phù hợp. Sự chênh lệch về thu nhập, khoảng cách giàu nghèo có chiều

hướng gia tăng. Công tác xóa đói giảm nghèo chưa bền vững. Vấn đề thực hiện các

chính sách xã hội còn nhiều bất cập, vấn đề đền bù giải phóng mặt có nơi, có lúc

chưa thỏa đáng khiến dư luận bức xúc, dẫn đến tình tình trạng khiếu kiện vượt cấp

vẫn xảy ra. Việc quy hoạch đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng còn bất hợp lí. Tình trạng

ô nhiễm môi trường chưa được xử lí triệt để và có nguy cơ trầm trọng hơn. Các tệ

nạn xã hội còn nhiều và diễn biến phức tạp, nhất là vấn nạn ma túy, mại dâm, cờ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

94

bạc, số đề có chiều hướng gia tăng...

KẾT LUẬN

1- Từ sau khi thực hiện đường lối đổi mới, nhất là từ sau ngày tái lập, kinh tế

- xã hội huyện Tiên Du có những bước chuyển biến nhanh chóng

Từ một nền kinh tế thuần nông, lạc hậu, mất cân đối, chuyển sang nền kinh

tế hàng hóa với cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ khá cân đối, phát triển

theo hướng hiện đại, là một bước chuyển căn bản của huyện Tiên Du. Cơ cấu kinh

tế của huyện năm 2000 còn tương đối lạc hậu với tỉ trọng: nông nghiệp chiếm

52,4%, công nghiệp chỉ chiếm 24,5% và dịch vụ là 23,1%. Đến năm 2013, cơ cấu

kinh tế đã chuyển dịch mạnh mẽ với tỉ trọng các khu vực tương ứng là: 9% - 73,5%

- 17,5%. Tuy đây chưa phải là tỉ lệ lí tưởng cho một cơ cấu kinh tế hiện đại (dịch vụ

còn thấp), song đã cho thấy một sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp,

là cơ sở để hoạch định giải pháp điều chỉnh hợp lí hơn trong những năm tới.

Chuyển mạnh từ một huyện nông nghiệp thành một huyện công nghiệp,

trong 15 năm, kinh tế của Tiên Du luôn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, trung bình

15,36%/năm, thuộc loại cao nhất của tỉnh Bắc Ninh. Quy mô nền kinh tế cũng vì thế

mà lớn mạnh vượt bậc, năm 2013 gấp 8,53 lần so với năm 2000. Sản xuất CN -

TTCN đã có bước phát triển nhảy vọt; tổng giá trị sản xuất của ngành từ 35,7 tỉ

đồng năm 2000, tăng lên 26.096 tỉ đồng trong năm 2013. Điều quan trọng hơn là,

huyện đã xác định được những ngành nghề mũi nhọn, sản phẩm thế mạnh như:

Gạch ngói, chế biến lâm sản, thức ăn gia súc, giấy, chế biến thực phẩm, đồ gỗ mĩ

nghệ…, để từ đó xây dựng kế hoạch phát triển. Sản xuất CN - TTCN từ chỗ nhỏ bé

thực sự đã vươn lên trở thành ngành kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế của huyện.

Sản xuất nông - lâm - thủy sản, mặc dù tỉ trọng trong nền kinh tế giảm mạnh

nhưng giá trị lại tăng rõ rệt; tổng giá trị sản xuất từ 213,6 tỉ đồng năm 2000, tăng lên

hơn 11.000 tỉ đồng năm 2013. Từ nền sản xuất độc canh, huyện Tiên Du đã chuyển

sang nền sản xuất đa canh hàng hóa; chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính.

Thương mại - Dịch vụ đã có sự chuyển biến đáng kể so với trước. Tốc độ

tăng trưởng bình quân khá cao, giá trị tổng doanh thu dịch vụ năm 2000 mới đạt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

95

135 tỉ đồng thì đến 2013 đã tăng lên 2.936 tỉ đồng. Tiên Du từng bước trở thành

trung tâm trung chuyển hàng hóa, giao thương của khu vực phía Bắc thủ đô Hà Nội.

Đó là cơ sở để Tiên Du vững tin có thể đưa thương mại - dịch vụ sớm trở thành

ngành kinh tế chính của huyện trong tương lai gần, đuổi kịp và vượt tốc độ phát

triển của ngành công nghiệp.

Song song với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội cũng có sự chuyển

biến rõ rệt, đạt được những thành tựu quan trọng. Từ vị trí ở tốp cuối của tỉnh Bắc

Ninh, ngành Giáo dục Tiên Du đã vươn lên đứng ở tốp đầu; chất lượng giáo dục ở

các cấp học được nâng cao, hoàn thành phổ cập THCS toàn huyện và bắt đầu triển

khai phổ cập THPT. Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân phát triển

tốt và ngày càng đảm bảo.

Cùng với việc thực hiện các chính sách xã hội, chương trình giảm nghèo và

bảo đảm an sinh xã hội được coi trọng, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả đã góp phần

tăng cường khối đoàn kết toàn dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo

của Đảng, chính quyền. Đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân được

nâng cao rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người năm 2013 đạt gần 2900 USD, thuộc

diện cao nhất tỉnh. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ

vững, ổn định, tạo được môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.

2- Những chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, xã hội huyện Tiên Du trong thời

kì 1999 – 2013 khẳng định đường lối đổi mới do Đảng ta đề ra là đúng đắn; đồng

thời thể hiện tính sáng tạo của Đảng bộ và chính quyền địa phương trong quá trình

vận dụng đường lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trên địa bàn

Sau 10 năm đổi mới (1986 - 1996), nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế

- xã hội. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề

cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước. Đại hội VIII đã điều chỉnh chính sách CNH theo hướng lấy

nông nghiệp làm khâu đột phá, coi nông nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến là

mặt trận hàng đầu; tiếp tục thực hiện rộng rãi hơn chính sách mở cửa, phát triển kinh

tế nhiều thành phần, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

96

nghiệp; gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, lấy khoa học - công nghệ làm động

lực, lấy nguồn lực con người làm yếu tố trung tâm của CNH, HĐH. Đại hội IX (năm

2001), Đại hội X (năm 2006) và Đại hội XI của Đảng tiếp tục bổ sung và phát triển

đường lối CNH, HĐH đất nước.

Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành

một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí,

quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;

mức sống vật chất và tinh thần cao; quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đường lối của Đảng đã từng bước đi vào cuộc sống, định hướng chiến lược

cho sự phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, căn cứ vào điều kiện thực tế, các địa

phương đề ra phương hướng, biện pháp cụ thể về kinh tế - xã hội.

Vận dụng đường lối chung của Đảng, ngay sau khi tái lập, Đảng bộ huyện

Tiên Du đã tiến hành rà soát hoàn thiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai

đoạn 2001 - 2005, đồng thời xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển các ngành đến

năm 2010, định hướng đến năm 2020. Huyện đã xác định kế hoạch và bước đi cho

từng giai đoạn:

- Giai đoạn 2001 - 2005: Tập trung nâng cấp cơ sở hạ tầng, ổn định ngành nghề

truyền thống, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại.

- Giai đoạn 2005 - 2010 là giai đoạn đột phá, xây dựng phát triển các KCN,

CCN gắn với quy hoạch tổng thể.

- Giai đoạn 2010 - 2015, điều chỉnh, rà soát, quy hoạch và định hướng tổ

chức không gian kinh tế và đô thị.

Biết khai thác lợi thế về vị trí địa lí, giao thông, đất đai và nguồn nhân lực

dồi dào, khi bước vào thực hiện chiến lược CNH, HĐH, huyện đã nỗ lực huy động

mọi nguồn vốn đầu tư với các hình thức linh hoạt theo phương châm “Nhà nước

và nhân dân cùng làm”. Trong đó, huyện tập trung đầu tư các công trình trọng

điểm phục vụ cho các khu trung tâm: Thị trấn Lim, phố Và, các trung tâm dân cư

cơ sở, sửa chữa, nâng cấp và kiên cố hóa các trường học, trạm xá, bệnh viện, các

công trình văn hóa huyện, xã. Để có nguồn vốn cho đầu tư, ngoài nguồn vốn từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

97

ngân sách, vốn hỗ trợ từ tỉnh, từ Trung ương, từ đóng góp của nhân dân, huyện

chủ trương thực hiện phương thức đổi đất lấy công trình, tiến hành bán đấu giá

quyền sử dụng đất…Qua 15 năm kết cấu cơ sở hạ tầng của huyện đã dần hoàn

thiện và khá hiện đại, bộ mặt nông thôn nhất là các thị trấn, thị tứ, khu trung tâm

nhanh chóng được hiện đại hóa. Nhờ đó, Tiên Du chẳng những tạo được nền tảng

cho sự phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện, mà còn tạo ra được lợi thế so

sánh hơn hẳn các địa phương khác trong việc thu hút đầu tư. Đây là một cách làm

linh hoạt và chủ động của huyện Tiên Du, không trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn

của tỉnh, của Trung ương.

Trong quá trình thực hiện đường lối CNH, HĐH, huyện Tiên Du xác định

phát triển CN - TTCN là khâu đột phá, là động lực và nền tảng cho sự phát triển

kinh tế - xã hội của địa phương. Do vậy, huyện một mặt đẩy nhanh tiến độ xây dựng

và hình thành các CCN Khắc Niệm, Hạp Lĩnh, Liên Bão, Phú Lâm, tạo điều kiện để

Trung ương và tỉnh hình thành phát triển các KCN tập trung (Tiên Sơn, Đại Đồng -

Hoàn Sơn, khu VISIP); mặt khác có chính sách khôi phục và phát triển các làng

nghề truyền thống, mở mang thêm nghề mới, ưu tiên tập trung vào các ngành nghề

có thế mạnh. Đặc biệt, huyện Tiên Du đã đưa ra chính sách hấp dẫn để thu hút đầu

tư nước ngoài, tạo được cơ chế thuận lợi, thông thoáng cho các nhà đầu tư trong

nước, hỗ trợ khuyến khích phát triển các doanh nghiệp địa phương, như thực hiện

chính sách một cửa, nhanh chóng bàn giao mặt bằng... Đồng thời, huyện chú trọng

việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế địa

phương, tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư trong và ngoài nước bằng cách khuyến

khích hỗ trợ cho công tác đào tạo nghề, đầu tư phát triển giáo dục với nhiều quy mô

loại hình khác nhau; kêu gọi con em Tiên Du có trình độ cao, các nhà khoa học, các

chuyên gia đầu ngành về làm việc tại địa phương. Tiên Du là một trong số ít huyện

của tỉnh Bắc Ninh ngay từ đầu đã đưa ra chính sách thu hút nhân tài và đào tạo bồi

dưỡng nguồn nhân lực của địa phương.

Một trong những thành công của huyện Tiên Du trong việc vận dụng chủ

trương CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là đã đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch

cơ cấu kinh tế nông nghiệp bằng việc tiến hành chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

98

nuôi, áp dụng tiến bộ KHKT, thâm canh tăng vụ làm tăng nhanh giá trị sản xuất.

Việc nhanh chóng hoàn thành “ công tác dồn điền đổi thửa” đã tạo điều kiện hình

thành nền sản xuất lớn đa canh hàng hóa. Huyện đã chỉ đạo các ngành các địa

phương xây dựng các vùng sản xuất lúa hàng hóa, lúa đặc sản tập trung ở các xã

Lạc Vệ, Tân Chi, Hiên Vân Phú Lâm; chuyển vùng ngập úng sang nuôi trồng thủy

sản ở Phú Lâm, Hiên Vân; có chính sách hỗ trợ vốn, cơ chế phát triển trang trại, gia

trại; thành lập thí điểm mô hình áp dụng công nghệ cao ở Việt Đoàn, Phú Lâm, thị

trấn Lim trồng rau sạch, hoa cây cảnh…

Nhờ có những chính sách và giải pháp phù hợp trên mà huyện Tiên Du đã

khai thác tốt được tiềm năng, lợi thế của mình tạo ra sự chuyển biến kinh tế-xã hội

mạnh mẽ. Đó là minh chứng khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn

đúng đắn; đồng thời thể hiện sự vận dụng sáng tạo đường lối CNH, HĐH của Đảng

bộ, chính quyền huyện Tiên Du vào điều kiện cụ thể của địa phương mình.

3- Sự chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Tiên Du góp phần nâng cao tầm vóc

tỉnh Bắc Ninh.

Gần 30 năm đổi mới, nhất là từ khi tái lập tỉnh (năm 1997), Bắc Ninh đã vươn

lên mạnh mẽ. Kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, đứng thứ 2 trong vùng kinh tế trọng

điểm Bắc Bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng CNH; thu nhập bình quân

đầu người vào loại cao nhất nước; kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội

được tăng cường đầu tư làm thay đổi bộ mặt của tỉnh. Đời sống vật chất tinh thần của

nhân dân được cải thiện rõ rệt. Văn hóa, y tế tiếp tục phát triển. Bắc Ninh là một trong

những tỉnh dẫn đầu cả nước về giáo dục - đào tạo. Thế trận quốc phòng, an ninh được

giữ vững. Quan hệ kinh tế đối ngoại mở rộng và phát triển không ngừng. Bắc Ninh

đang tiến gần đến mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp và trở thành đô thị cốt lõi trực

thuộc trung ương vào những năm 20. Có được vị thế đó là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn

của Trung ương Đảng, cùng sự cố gắng nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ, nhân dân trong

tỉnh và các cấp các ngành, các địa phương; trong đó có sự đóng góp quan trọng của

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Tiên Du.

Những chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, xã hội huyện Tiên Du sau 15 năm

tái lập góp phần đắc lực vào sự phát triển chung của tỉnh Bắc Ninh. Tiên Du thực

http://www.lrc.tnu.edu.vn

sự đã trở thành trục kết nối tối quan trọng trong không gian kinh tế Vùng thủ đô

Hà Nội với thành phố Bắc ninh và các tỉnh phía Bắc. Trong bước tiến mạnh mẽ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN 99

của tỉnh Bắc Ninh, huyện Tiên Du là một trong những địa phương đầu tiên thực

hiện thành công mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp - nông thôn.

4- Sự chuyển biến kinh tế, xã hội huyện Tiên Du trong thời kì 1999 - 2013

còn bộc lộ một số hạn chế

Những thành tựu mà Tiên Du đạt được 15 năm (1999 - 2013) là rất to lớn,

làm cho bộ mặt kinh tế - xã hội của huyện chuyển biến sâu sắc. Tuy nhiên, trong

quá trình ấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế, yếu kém cần có giải pháp khắc phục

trong những năm tới, đó là:

- Kinh tế phát triển thiếu bền vững vì chưa có sản phẩm chủ lực, sức cạnh

tranh của hàng hóa và dịch vụ chưa cao; quy mô sản xuất của các ngành kinh tế còn

nhỏ bé, chưa có những công trình then chốt tạo ra được sự bứt phá, chưa có ngành

công nghiệp chủ lực mang tính nền tảng cho sự phát triển. Nguyên nhân của tình

trạng trên là do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, trong quá trình phát triển chủ

yếu chú trọng quy mô, bề rộng… Cho nên phải xây dựng phương hướng, mục tiệu

phát triển cho từng ngành, từng lĩnh vực chủ yếu theo từng giai đoạn để tập trung

nguồn lực đầu tư. Ưu tiên đầu tư phát triển các ngành nghề có tiềm năng, thế mạnh

thu hút nhiều lao động như: dệt may, da dầy, dịch vụ - du lịch… Đẩy mạnh cải cách

hành chính, tạo cơ chế thông thoáng nhằm thu hút đầu tư mạnh mẽ theo hướng có

chọn lọc, thu hút các dự án lớn, ưu tiên những doanh nghiệp sử dụng công nghệ

cao, tạo ra sản phẩm tinh có giá trị và có số thu nộp ngân sách lớn; tiêu tốn ít năng

lượng, sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, có sức lan

tỏa thu hút công nghiệp phụ trợ. Đồng thời có chính sách khuyến khích đầu tư phát

triển các ngành công nghiệp nền tảng đảm bảo sự phát triển bền vững.

- Cơ cấu kinh tế chưa cân đối (dịch vụ chiếm tỉ lệ thấp 17,5%); một mặt là

do tốc độ đầu tư phát triển của CN - TTCN quá cao; mặt khác, trong những năm

đầu mới tái lập huyện, thương mại - dịch vụ chưa được ưu tiên đầu tư phát triển,

cơ sở vật chất còn nhỏ bé lạc hậu; cơ chế chính sách còn nhiều bất cập không theo

kịp đà phát triển, lại chịu tác động bất lợi do gần thủ đô Hà Nội nên thương mại-

dịch vụ có xu hướng dịch chuyển sang thủ đô, nhất là dịch vụ cao cấp.

Để khai thác tốt tiềm năng ngành Thương mại - Dịch vụ, cần tập trung đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

100

tư phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, hình thành và phát triển các trung tâm

thương mại, dịch vụ, khu Du lịch Phật Tích, khu Du lịch đồi Lim, các khu du

lịch sinh thái và văn hóa; tạo điều kiện thu hút các thành phần kinh tế đầu tư xây

dựng các cơ sở đào tạo (trường Đại học, cao đẳng,..), phát triển các loại hình

dịch vụ hiện đại gắn với công nghiệp, chuỗi các KCN (nhà ở, bất động sản, môi

giới việc làm và xúc tiến đầu tư..).

- Cơ cấu ngành vùng và các thành phần kinh tế chưa rõ nét, chưa chuyên

sâu; chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành Nông - Lâm - Thủy sản còn chậm chủ yếu do

việc ứng dụng KHKT hạn chế, sản phẩm làm ra thiếu thị trường tiêu thụ. Do vậy

cần phải tăng cường ứng dụng KHKT vào sản xuất, nhất là sử dụng công nghệ cao

tạo đột phá về năng suất, chất lượng và đạt hiệu quả kinh tế cao; đẩy mạnh phát

triển sản xuất theo hướng hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với

công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm, hướng mạnh vào xuất khẩu.

- Diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi rất lớn, vấn đề giải quyết việc làm cho

nông dân bị thu hồi đất còn rất nóng bỏng, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ

nét. Công tác vệ sinh bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế. Các tệ nạn xã hội có

chiều hướng gia tăng, nhất là ở địa bàn các KCN, CCN có số lượng công nhân tập

trung rất đông từ nhiều tỉnh khác đến làm việc; việc quản lí trật tự trị an đối với lực

lượng này chưa chặt chẽ.

Để khắc phục tình trạng trên, cần thực hiện đồng bộ các chính sách xã hội;

chú trọng nghiên cứu, nhân rộng các mô hình có khả năng giảm nghèo hiệu quả,

nhất là những mô hình tạo việc làm. Tích cực phòng chống tệ nạn xã hội-một trong

những nguyên nhân dẫn tới đói nghèo và cản trở sự phát triển xã hội. Đầu tư hơn

nữa cho giáo dục, đào tạo nghề cho người lao động, có chính sách đãi ngộ tốt hơn

nữa để thu hút nhân tài. Tạo điều kiện cho các đối tượng chính sách, người nghèo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

101

được tiếp cận và hưởng thụ các thành quả giáo dục - y tế - văn hóa - TDTT...

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2002), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc

Ninh, tập 1.

2. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2005), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc

Ninh, tập 3.

3. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Tiên Du (2003), Lịch sử Đảng bộ huyện Tiên

Du(1926-2000).

4. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh (2010), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh

(1926-2008); Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

5. Ban Chấp hành Trung ương (1996), Báo cáo tổng kết xây dựng Đảng thời kỳ

1975-1995, Nhà xuất bản Chính tri Quốc gia.

6. Ban Chấp hành Trung ương (1996), Nghị quyết về định hướng chiến lược phát

triển khoa học công nghệ trong thời kỳ Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa và

nhiệm vụ đến năm 2000.

7. Ban ĐIều hành Chính phủ (1996): “ Một số giải pháp chủ yếu điều hành thực

hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ”; Tạp chí phát triển

kinh tế số 63.

8. Ban Văn hóa - tư tưởng Trung ương (1994). Đưa đất nước chuyển dần sang một

thời kì mới; Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà nội.

9. Ban Văn hóa-tư tưởng Trung ương (1997). Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết

Trung ương(khóa VIII) của Đảng; Nhà xuất bản Chính tri Quốc gia.

10. Ban Văn hóa - tư tưởng Trun ương, Bộ Nông nghiệp và PTNN(2002). Con

đường Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa Nông nghiệp, Nông thôn Việt Nam. Nhà

xuất bản Chính trị Quốc gia.

11. Baobacninh.com.vn (2014), VISIP Bắc Ninh – Mô hình KCN kiểu mẫu,

kcnbacninh.com/vi, ngày 23/10/2014.

12. Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại,

Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

21. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2011), Niên giám TK 2010 tỉnh Bắc Ninh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

102

13. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2000), Niên giám TK 1999 tỉnh Bắc Ninh.

14. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2001), Niên giám TK 2000 tỉnh Bắc Ninh

15. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2002), Niên giám TK 2001 tỉnh Bắc Ninh

16. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2003), Niên giám TK 2002 tỉnh Bắc Ninh

17. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2004), Niên giám TK 2003 tỉnh Bắc Ninh

18. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2005), Báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu

kinh tế-xã hội chủ yếu, theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ

XVI (2001-2005).

19. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2005), Niên giám TK 2004 tỉnh Bắc Ninh

20. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2006), Niên giám TK 2005 tỉnh Bắc Ninh

21. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2007), Niên giám TK 2006 tỉnh Bắc Ninh

22. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2008), Niên giám TK 2007 tỉnh Bắc Ninh

23. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2009), Niên giám TK 20008 tỉnh Bắc Ninh

24. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2010), Báo cáo tình hình thực hiện các mục tiêu

kinh tế-xã hội chủ yếu, theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ

XVII (2006-2010).

25. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2010), Niên giám TK 2009 tỉnh Bắc Ninh

26. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2012), Niên giám TK 2011 tỉnh Bắc Ninh

27. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2013), Niên giám TK 2012 tỉnh Bắc Ninh

28. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2014), Niên giám TK 2013 tỉnh Bắc Ninh.

29. Lê Duẩn (1968), Nắm vững đường lối cách mạng XHCN, tiến lên xây dựng kinh

tế địa phương vững mạnh, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

30. Đại Việt sử kí toàn thư (2006), tập 1,2, Nhà xuất bản - Văn học.

31. Đảng bộ huyện Tiên Du (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Du lần

thứ XIV, lưu trữ tại Huyện ủy.

32. Đảng bộ huyện Tiên Du (2010), Văn kiện Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Du lần

thứ XV, lưu trữ tại Huyện ủy.

33. Đảng bộ huyên Tiên Du(2000), Văn Kiện Đại hội Đảng bộ huyện Tiên Du lần

thứ XIII, lưu trữ tại Huyện ủy.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

103

34. Đảng bộ huyện Tiên Sơn – Hà Bắc (1994), Lịch sử huyện Tiên Sơn.

35. Đảng cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V,

tập II, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,

Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì

quá độ lên CNXH, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991),Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,

Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

VIII, Nhà xuất Chính trị quốc gia.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,

Nhà xuất Chính trị quốc gia.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X,

Nhà xuất Chính trị quốc gia.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,

Nhà xuất Chính trị quốc gia.

43. Trần Bá Đệ (1998), Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay. Những vấn đề lý luận và

thực tiễn của Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà

Nội.

44. Trần Bá Đệ (2000), Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, Nhà xuất bản Đại học

Quốc gia Hà Nội.

45. Đoàn Minh Huấn (2000), “Quan điểm của Đảng về đảm bảo sự thống nhất giữa

chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới”. Tạp chí Lịch sử

Đảng số 11.

46. Nguyễn Văn Huyên (1997), Địa lý hành chính Kinh Bắc, Hội khoa học Lịch sử,

Sở Văn hóa – Thông tin Bắc Giang xuất bản.

47. Huyện ủy lâm thời Tiên Du (2000), Báo cáo của BCH Đảng bộ huyện Tiên Du tại

Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XIV, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

48. Huyện ủy Tiên Du (2005), Báo cáo của BCH Đảng bộ huyện Khóa XIV tại Đại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

104

hội đại biểu lần thứ XV Đảng bộ huyện Tiên Du, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

49. Huyện ủy Tiên Du (2010), Báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ huyện khóa XV,

nhiệm kì 2005-2010 tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XVI, nhiệm kì 2010-

2015, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

50. Huyện ủy Tiên Sơn (1986), Báo cáo tổng kết công tác năm 1986, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du

51. Huyện ủy Tiên Sơn (1987), Báo cáo tổng kết công tác năm 1987, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du

52. Huyện ủy Tiên Sơn (1988), Báo cáo tổng kết công tác năm 1988, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du

53. Huyện ủy Tiên Sơn (1989), Báo cáo tổng kết công tác năm 1989, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du

54. Huyện ủy Tiên Sơn (1990), Báo cáo tổng kết công tác năm 1990, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du.

55. Huyện ủy Tiên Sơn (1991), Báo cáo tổng kết công tác năm 1991, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du

56. Huyện ủy Tiên Sơn (1992), Báo cáo tổng kết công tác năm 1992, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du

57. Huyện ủy Tiên Sơn (1993), Báo cáo tổng kết công tác năm 1993, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du.

58. Huyện ủy Tiên Sơn (1994), Báo cáo tổng kết công tác năm 1994, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du.

59. Huyện ủy Tiên Sơn (1995), Báo cáo tổng kết công tác năm 1995, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du.

60. Huyện ủy Tiên Sơn (1996), Báo cáo tổng kết công tác năm 1996, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du.

61. Huyện ủy Tiên Sơn (1997), Báo cáo tổng kết công tác năm 1997, Tài liệu lưu

trữ tại Huyện ủy Tiên Du.

62. Huyện ủy Tiên Sơn (1998), Báo cáo tổng kết công tác năm 1998, Tài liệu lưu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

105

trữ tại Huyện ủy Tiên Du.

63. Thanh Hương – Hương Anh (1973), Hà Bắc ngàn năm văn hiến, Sở Văn hóa –

Thông tin Hà Bắc xuất bản.

64. Lê Thị Thúy Hường (2012), Đánh giá tình hình thực hiện qui hoạch sử dụng

đất huyện Tiên Du giai đoạn 2000-2010.

65. Trần Hoàng Kim (1991). Kinh tế Việt Nam chặng đường 1954 – 1995 và triển

vọng đến năm 2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.

66. Đặng Xuân Kỳ (2000), “Sự nghiệp đổi mới, thành tựu, bài học kinh nghiệm và

những vấn đề đặt ra hiện nay”. Tạp chí cộng sản số 6.

67. Nguyễn Văn Linh (1995), Đổi mới đi lên, Nhà xuất bản sự thật , Hà nội

68. Vũ Phương Mai (2011), Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện

đại hóa nông nghiệp-nông thôn ở Bắc Ninh.

69. Đỗ Mười (1992), Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì CNXH, Nhà xuất bản Sự thật,

Hà Nội.

70. Lê Viết Nga ( Chủ biên - 2004), Các di tích lịch sử văn hóa Bắc ninh, Bảo tàng

Văn hóa Bắc Ninh xuất bản.

71. Trần Nhâm (Chủ biên – 1997), Có một Việt Nam như thế đổi mới và phát triển,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

72. Bùi Đình Phong (2001), Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh Công

nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước, Nhà xuất bản Lao động.

73. Phòng Thống kê huyện Tiên Du (2007), Hệ thống niên giám thống kê năm

2006, Lưu trữ tại Phòng Thống kê huyện Tiên Du.

74. Phòng Thống kê huyện Tiên Du (2014), Hệ thống niên giám thống kê năm

2013, Lưu trữ tại Phòng Thống kê huyện Tiên Du.

75. Nguyễn Sinh (1998). “Kinh tế - xã hội Việt Nam 12 năm đổi mới 1986-1997”,

Tạp chí cộng sản số 6.

76. Nguyễn Sỹ (2007), Quá trình CNH-HĐH nông nghiệp-nông thôn tỉnh Bắc Ninh

từ 1986-nay. Thực trạng, kinh nghiệm, giải pháp.

77. Trần Văn Túy (2012), Bắc Ninh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để

bước vào chu kỳ phát triển mới, http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

106

1/1/2012.

78. Tỉnh ủy Bắc Ninh (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần

thứ XV, Lưu trữ tại VP Tỉnh ủy.

79. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần

thứ XVI, Lưu trữ tại VP Tỉnh ủy.

80. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần

thứ XVII, Lưu trữ tại VP Tỉnh ủy.

81. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần

thứ XVIII, Lưu trữ tại VP Tỉnh ủy.

82. UBND huyện Tiên Du (2000), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2000; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2001, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

83. UBND huyện Tiên Du (2001), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2001; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2002, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

84. UBND huyện Tiên Du (2002), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2002; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2003, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

85. UBND huyện Tiên Du (2003), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2003; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2004, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

86. UBND huyện Tiên Du (2004), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2004; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2005, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

87. UBND huyện Tiên Du (2005), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2005; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2006, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

88. UBND huyện Tiên Du (2006), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2006; kế hoạch phát triển KT – XH năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

107

2007, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

89. UBND huyện Tiên Du (2007), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2007; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2008, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

90. UBND huyện Tiên Du (2008), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2008; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2009, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

91. UBND huyện Tiên Du (2009), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2009; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2010, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

92. UBND huyện Tiên Du (2009), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội huyện Tiên Du đến năm 2020, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

93. UBND huyện Tiên Du (2010), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2010; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2011, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

94. UBND huyện Tiên Du (2011), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2011; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2012 , Lưu trữ tại VP UBND huyện.

95. UBND huyện Tiên Du (2012), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2012; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2013, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

96. UBND huyện Tiên Du (2013), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ KT – XH và

điều hành của UBND huyện năm 2013; kế hoạch phát triển KT – XH năm

2014, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

97. UBND huyện Tiên Du (2014), Dự thảo báo cáo tổng hợp đề án quy hoạch tổng

thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Tiên Du đến năm 2020, định hướng đến

năm 2030, Lưu trữ tại VP UBND huyện.

98. Bích Vân (2015), VISIP Bắc Ninh và chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài, http://www.vietnam.vnanet.vn, ngày 31/1/2015. 99. Trần Quốc Vượng (chủ biên – 1984), Một Hà Bắc cổ trong lòng đất, Ty Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN

http://www.lrc.tnu.edu.vn

108

hóa – Thông tin Hà Bắc xuất bản. 100. Đỗ Trọng Vỹ (1997), Bắc Ninh dư địa chí, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1:

NHỮNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC TIÊU BIỂU TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN TIÊN DU ĐẾN NĂM 2013.

Tên dự án đăng kí Chủ dự án Địa diểm thực hiện ST T Diện tích đất (ha)

Tổng vốn đầu tư đăng kí (tỉ VNĐ) 6 2 3 4 5 1

Trường Đại hoc tư Trường Đại học tư Xã Võ 7.36 166.60 1

thục công nghệ Đông thục công nghệ Cường và

Á Đông Á thị trấn Lim

2 Nhà máy chế biến sản Công ty TNHH Xã Hoàn 4.00 229.68

xuất rượu bia và nước Thanh Tùng Sơn

uống tinh khiết

3 Mô hình sản xuất hoa Công ty cổ phần Xã Việt 3.00 10.84

chất lượng cao xây dựng Vạn Đoàn

Xuân

4 Trường Đại học Quốc Tr. Đại học Quốc Khu đào tạo 15.20 305.29

tế Bắc Hà tế Bắc Hà nghiên cứu

KHCN

huyện

5 Nhà máy gạch Tuynel Công ty cổ phần Xã Tri 6.0 26.41

vật liệu xây dựng Phương

Tân Sơn

6 Dây tryền sản xuất Công ty TNHH CCN Phú 0.33 107.16

giấy bao gói xi măng Bình Minh Lâm

7 Trường CĐ KT-KT Công ty cổ phần Xã Nội Duệ, 16.72 367.21

Đại Việt đầu tư C.E.O Liên Bão và

thị trấn Lim

8 Xây dựng, mở rộng Công ty cổ phần CCN Tân 2.2 17.54

nhà máy gạch Tuynel sản xuất thương Chi

mại Bắc Hưng

9 Nhà máy sản xuất Công ty TNHH Xã Minh 6.0 55.38

gạch Tyunel Đức Minh Đạo

10 Nhà máy chế biến thịt Công ty cổ phần Xã Lạc Vệ 3.36 43.49

gia súc, gia cầm xuất DABACO Việt

khẩu Nam

11 Xí nghiệp chăn nuôi Công ty cổ phần Xã Tân Chi 5.36 19.72

DABACO

12 Chợ Lim Tập HDB Việt Thị trấn Lim 4.08 279.44

Nam và xã Nội

Duệ

13 Nhà máy sản xuất Công ty sản xuất CCN Phú 0.56 108.66

giấy Kraf-Medium giấy và bao bì Lâm

cao cấp Phương Đông

14 Đầu tư xây dựng hạ Xí nghiệp giấy Xã Phú Lâm 26.74 91.43

tầng CCN Phú Lâm Cường Thịnh

15 Khu chăn nuôi và môi Công ty Xã Tân Chi 12.63 108.23

trường sinh thái DABACO Việt

Nam

16 Nhà máy chế biến Công ty Xã Hoàn 3.50 145.76

thức ăn chăn nuôi cao DABACO Sơn

cấp NUTRECO

17 Nhà máy chế biến gỗ Công ty xây dựng Thị trấn Lim 2.00 43.63

và bê tông đúc sẳn Cường Thịnh

18 Nhà máy bê tông dị Công ty cổ phần 10.00 81.50

ứng lực đầu tư Thịnh Liệt

19 Nhà máy sản xuất Công ty TNHH CCN Phú 0.62 23.06

Kraft công suất 4000 Nam Long Lâm

tấn/năm

20 DADT xây dựng nhà Công ty SX-TM Xã Minh 5.00 53.22

máy gạch Tuynel Đồng Tâm Đạo

21 Nhà máy sản xuất Công ty giấy và CCN Phú 6.97 70.80

giấy và bao bì xi bao bì Phú Cường Lâm

măng

22 Nhà maysw sản xuất Công ty xây dựng Xã Minh 3.50 45.63

gạch Tuynel Minh Đạo Đạo

23 Nhà máy gạch Tuynel Công ty xây dựng Xã minh 6.47 48.50

sông Đuống đồng Nguyên Đạo

24 Nhà máy sản xuất Công ty TNHH CCN Phú 0.67 147.5

giấy xi măng và giấy Hùng Phát Lâm

Kraft

25 Tr. Trung cấp nghề kĩ Công ty xây lắp và Xã Lạc Vệ 15 228.02

thuật công nghệ Kinh kết cấu thép Lê

Bắc Hồng

26 Tr. Trung cấp dược Tr. Trung cấp Xã Tân Chi 4.0 71.76

Tuệ Tĩnh dược Tuệ Tĩnh

27 Khu nhà ở DABACO Tập đoàn Xã Lạc Vệ 6.29 71.01

DABACO Việt

Nam

28 Cửa hàng phân phối Công ty cổ phần Xã hoàn 0.46 5.99

xăng dầu và phân phối SX-TM quốc tế Sơn

ga Thái Lan

29 Trung tâm xúc tiến Công ty TNHH Xã Đại 4.97 27

thương mại, phân phối Tân Việt Tiến Đồng

hàng hóa

30 Mô hình sản xuất rau Công ty cổ phần Xã Lạc Vệ 22.23 97.18

an toàn ứng dụng DABACO

công nghệ cao

31 Nhà máy sản xuất bao Công ty cổ phần Xã Phú Lâm 0.6 47.23

bì Carton sóng Phú Lâm

32 Kho xăng dầu trung Công ty TNHH Xã Tân Chi 6.09 84.41

chuyển Hải Linh

33 Nhà máy sản xuất Công ty cổ phần Xã tri 4.00 46.95

gạch không nung vật liệu xây dựng Phương

Tân Sơn

34 Trung tâm nghiên cứu Tập đoàn Xã Lạc Vệ 4.62 102.87

và phát triển giống gia DABACO Việt

Nam súc, gia cầm

DABACO

35 Nhà máy sản xuất Công ty Việt Toàn Xã Phú Lâm 0.27 55.46

giấy

36 Bến xe thị trấn Lim Tập đoàn HDB Thị trấn Lim 0.90 28.64

37 Cửa hàng giới thiệu Công ty Tuấn Xã Tân Chi 2.00 17.25

sản phẩm, sửa chữa ô Xuân

tô, trạm cân

Phụ lục 2

Dự án qui hoạch KCN Tiên Sơn.

(Ảnh tư liệu)

Dự án qui hoạch KCN Đại Đồng-Hoàn Sơn.

(Ảnh tư liệu)

Một góc KCN Tiên Sơn.

(Ảnh minh họa của tác giả)

Đường vào KCN VISIP-Bắc Ninh.

(Ảnh tư liệu)

Nhà máy PEPSICO nằm trong KCN VISIP-Bắc Ninh.

(Ảnh minh họa của tác giả)

Công ty NIKIA- tập đoàn Microsof trong KCN VISIP-Bắc Ninh.

(Ảnh minh họa của tác giả)

Một góc chùa Phật Tích

(Ảnh minh họa của tác giả)

Vạn cổ tự xứ Kinh Bắc

(Ảnh tư liệu)

Lễ đón nhận Bằng Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt tại chùa Phật Tích

(Ảnh tư liệu)

Quang cảnh mùa Lễ hội chùa Phật Tích

(Ảnh minh họa của tác giả)

Du khách thập phương đi trẩy hội.

(Ảnh minh họa của tác giả)

Một góc trung tâ m thị trấn Lim

(Ảnh minh họa của tác giả)

Quang cảnh Tr. THPT Tiên Du Số 1

(Ảnh minh họa của tác giả)