intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Xóa đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

21
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là vận dụng lý luận nghèo đói và XĐGN góp phần đánh giá việc thực hiện XĐGN ở Thanh Hoá, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục XĐGN trong thời gian từ nay đến năm 2010 ở Thanh Hoá.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Xóa đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hóa

  1. TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ LÊ THỊ KHANG XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở TỈNH THANH HÓA LUẬN VĂN TH.S KINH TẾ Người hướng dẫn: PGS.TS Vũ Văn Phúc Hà Nội 2006
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quan điểm phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay do Đảng ta lãnh đạo là hoàn toàn đúng đắn, đã mang lại hiệu quả thiết thực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Nước ta cần phải kiên định và tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường một cách toàn diện. Nhưng sự phát triển kinh tế thị trường có tác động hai mặt, bên cạnh mặt tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nó còn bộc lộ một số tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những tác động tiêu cực đó là sự phân hoá giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội thể hiện ngày càng rõ rệt. Sự phân hoá giàu nghèo làm chậm tiến trình phát triển đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; không khẳng định được tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của CNXH; hơn nữa, đó còn là nguy cơ, tiềm ẩn của sự mất ổn định xã hội, cản trở sự phát triển bền vững ở nước ta. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là vấn đề xã hội bức xúc đối với nước ta. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để giảm bớt sự phân hoá giàu nghèo với phương châm: "người giàu càng ngày càng giàu, người nghèo càng ngày càng giảm bớt". Việt Nam đang từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tức là phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng xã hội hướng tới loại trừ tận gốc sự nghèo khổ. Điều này có nghĩa là ngay từ đầu chúng ta phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Do đó, xoá đói giảm nghèo (XĐGN) trở thành nhiệm vụ cấp bách và xuyên suốt tiến trình phát triển. Sự thành công hay thất bại trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuỳ thuộc một phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề XĐGN. Trong 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và đã đạt được những 1
  3. kết quả nhất định trong công tác XĐGN, tuy nhiên tỷ lệ hộ nghèo đói vẫn còn ở mức cao (7% - theo chuẩn nghèo đói cũ; 19,5% - theo chuẩn mới). Mặc dù số hộ nghèo đói ở nước ta bình quân mỗi năm giảm trên 2%, nhưng với tiêu chuẩn phân định nghèo rất thấp và trong những năm gần đây, khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo có xu hướng ngày càng tăng. So với cả nước, Thanh Hoá là một trong những tỉnh nghèo nhất và là một tỉnh đất rộng, người đông, hiện nay có gần 3,7 triệu dân (đứng thứ 2 toàn quốc, sau Thành phố Hồ Chí Minh). Trong những năm qua, thực hiện chương trình XĐGN, với sự phấn đấu, nỗ lực không ngừng của các ngành, các cấp và nhân dân trong tỉnh, Thanh Hoá đã đạt được những kết quả nhất định trong XĐGN, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể: từ 21,94% đầu năm 2001, đến cuối năm 2005 giảm xuống còn khoảng 10,56% (theo chuẩn đói nghèo cũ). Tuy nhiên hộ thoát nghèo chưa thật vững chắc, nguy cơ tái đói nghèo còn tiềm ẩn cao, số lượng hộ nghèo còn quá nhiều. Theo chuần mới, cuối năm 2005, Thanh Hoá còn 275.146 hộ nghèo chiếm 34,71% tổng số hộ trong toàn tỉnh. Vấn đề XĐGN bền vững để đạt được mục tiêu của tỉnh đề ra (đến năm 2010 còn dưới 20% hộ nghèo, 100% xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu, 100% hộ nghèo được tiếp cận đầy đủ với các dịch vụ xã hội cơ bản) là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn. Chính điều này làm cho vấn đề “Xóa đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hóa” trở nên cấp thiết và thôi thúc tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị của mình. Đề tài nghiên cứu này vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Việt Nam được thế giới đánh giá là đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế và XĐGN nhưng khoảng cách giàu nghèo hiện nay lại có xu hướng tăng lên. Do đó, bên cạnh sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhiều cơ quan, cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn, có rất nhiều tổ chức và cá nhân ở các lĩnh vực trong và ngoài nước đã quan tâm nghiên cứu trên các góc độ khác nhau về vấn đề này, trong đó có những công trình tiêu biểu sau: 2
  4. Ngoài nước có: - Nhóm chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB) gồm Richarh M.Bird, Jennie I.Livack và M.Govinda Rao đã khảo sát nghèo đói trong “Quan hệ tài chính nhà nước các cấp và XĐGN ở Việt Nam” nêu lên mối quan hệ phân cấp tài chính giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương trong công tác XĐGN qua hệ thống phân phối ngân sách. - Công ty ADUKI (Thụy Điển) với “Vấn đề nghèo ở Việt Nam”, đã đánh giá tác động của công cuộc đổi mới đối với vấn đề đói nghèo gắn liền với các vấn đề kinh tế, giáo dục, tín dụng... Trên cơ sở đó, nêu lên một số vấn đề có ý nghĩa chiến lược cần xem xét để nâng cao hiệu quả XĐGN ở Việt Nam. - “Việt Nam tiếng nói của người nghèo”, Báo cáo tổng hợp về đánh giá nghèo đói có sự tham gia của người dân do Ngân hàng Thế giới và Bộ phận Phát triển Quốc tế của Sứ quán Anh phối hợp với Action Aid Việt Nam (Anh), Oxfam (Anh), Quỹ cứu trợ nhi đồng Anh và Chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam - Thuỵ Điển tiến hành, tháng 11/1999... Trong nước: - Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đầu tiên trong cả nước phát động phong trào XĐGN (1992), đã tổng kết, đánh giá những kinh nghiệm XĐGN ở thành phố và một số địa phương trong cuốn “Sổ tay xóa đói, giảm nghèo”. - Báo cáo Phát triển của Việt Nam năm 2000, “Tấn công nghèo đói”, Báo cáo chung của nhóm Công tác chuyên gia Chính phủ - Nhà tài trợ - Tổ chức Phi chính phủ, Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 14- 15/12/1999. - Nguyễn Thị Hằng: “Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 1997, đã đề cập đến vấn đề nghèo đói ở nông thôn nước ta. - Nguyễn Hải Hữu: “Chương trình quốc gia xoá đói, giảm nghèo” - tài liệu Hội thảo kinh tế thị trường và những tiêu cực xã hội, Hà Nội–1998. 3
  5. - Vũ Thị Ngọc Phùng: “ Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, và vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nước ta”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1999, đã đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề XĐGN ở nước ta. - Luận án tiến sỹ kinh tế (2000): “Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của Trần Thị Hằng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nêu phương hướng và giải pháp chủ yếu giải quyết xoá đói, giảm nghèo ở nước ta... - Ở Thanh Hoá, đã có một số Nghị quyết, chỉ thị, Chiến lược về công tác XĐGN trong tỉnh, như: + Tỉnh uỷ và Hội đồng nhân dân tỉnh có Nghị quyết thực hiện chương trình XĐGN với mục tiêu: mỗi năm giảm hơn 2% tỷ lệ hộ nghèo trong giai đoạn 2001-2005. + Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã có chỉ thị số 08-CT/TU về cuộc vận động toàn dân hỗ trợ, giúp đỡ các hộ nghèo chưa có nhà ở, đang ở nhà tạm bợ, dột nát và ổn định đời sống; phân công các sở, ban, ngành, tổ chức đoàn thể theo dõi, giúp đỡ các bản người Mông ổn định cuộc sống. + UBND tỉnh Thanh Hoá đã ban hành Chiến lược XĐGN ở Thanh Hoá thời kỳ 2001-2010. Đồng thời cũng đã có một số bài báo, bài viết trên các tạp chí của một số tác giả trong tỉnh bàn về XĐGN ở Thanh Hoá... Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và những bài viết trên đây đã đề cập đến vấn đề nghèo đói và XĐGN ở các địa bàn khác nhau và dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề XĐGN trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hoá dưới góc độ kinh tế - chính trị. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: vận dụng lý luận nghèo đói và XĐGN góp phần đánh giá việc thực hiện XĐGN ở Thanh Hoá, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu tiếp tục XĐGN trong thời gian từ nay đến năm 2010 ở Thanh Hoá. 4
  6. - Nhiệm vụ: + Điểm lại quá trình nhận thức về đói nghèo và chính sách XĐGN của Đảng, Nhà nước ta. + Đánh giá thực trạng đói nghèo, nguyên nhân của nó và kết quả XĐGN, rút ra kinh nghiệm XĐGN trong thời gian qua ở Thanh Hoá. + Đề xuất định hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu tiếp tục thực hiện XĐGN trong thời gian từ nay đến năm 2010 ở Thanh Hoá. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: về các chủ trương, chính sách XĐGN của Đảng, Nhà nước ta và hoạt động XĐGN trong thời gian qua ở Thanh Hoá. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu hoạt động XĐGN ở Thanh Hoá với thời gian khảo sát từ năm 2001 đến năm 2005. Đề tài nghiên cứu vấn đề XĐGN dưới góc độ kinh tế chính trị cụ thể là: xem đói nghèo là một hiện tượng KT-XH, đồng thời tìm nguyên nhân từ quan hệ sản xuất, nhất là quan hệ phân phối gắn với sự ổn định chính trị và định hướng XHCN trong điều kiện kinh tế thị trường. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. - Phương pháp nghiên cứu: được thực hiện chủ yếu là phương pháp logic dựa trên lý luận của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng những phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, nghiên cứu tổng kết thực tiễn và kế thừa những kết quả nghiên cứu lý luận liên quan đến đề tài... 6. Đóng góp của luận văn - Về khoa học: luận văn góp phần khái quát cơ sở lý luận và thực trạng XĐGN, và đưa ra những giải pháp chủ yếu tiếp tục XĐGN đến năm 2010 trong điều kiện kinh tế thị trường ở tỉnh Thanh Hoá. 5
  7. - Về thực tiễn: từ nghiên cứu lý luận và thực trạng về XĐGN, đề ra những giải pháp chủ yếu vận dụng trong công tác XĐGN hiện nay ở tỉnh Thanh Hoá. Việc thực hiện XĐGN ở Thanh Hoá không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh và cả nước, mà còn là vấn đề mang ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn, củng cố lòng tin của nhân dân đối với đường lối đổi mới của Đảng. Từ đó góp phần thực hiện thành công mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Văn kiện Đại hội X của Đảng ta đã nêu ra. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xoá đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường; Chương 2: Thực trạng xoá đói giảm nghèo trong thời gian qua ở tỉnh Thanh Hoá; Chương 3: Định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu tiếp tục XĐGN ở tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010. 6
  8. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 1.1. Cơ sở lý luận về xoá đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trƣờng Trong lịch sử, đói nghèo đã tồn tại ở nhiều thời đại khác nhau và có nhiều quan niệm, nhiều cách lý giải khác nhau về nguyên nhân đói nghèo. Giai cấp bóc lột lý giải nguyên nhân của sự đói nghèo là do ngu dốt, lười biếng, đồng thời biện minh cho tình trạng đói nghèo, thất nghiệp như là “một áp lực cần thiết, tất yếu” để cho những người đang có việc làm phải cố gắng lao động(?). Điều đó đòi hỏi, để đảm bảo tính khoa học khi nghiên cứu đói nghèo, cần phải đứng vững trên lập trường, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trọng tâm nghiên cứu của Mác, Ăngghen, Lênin là CNTB và ngay từ những năm 50 của thế kỷ XIX, trong các tác phẩm của mình, Mác đã phân tích, vạch rõ bản chất bóc lột của CNTB. Đặc biệt trong bộ “Tư bản”, Mác mô tả tỷ mỹ, cặn kẽ tình cảnh thống khổ của những người lao động phải đi làm thuê cho nhà tư bản và bị bóc lột thậm tệ. Hậu quả sự bóc lột tàn bạo này đã đẩy xã hội tư bản phân hoá thành hai cực: một bên là sự giàu có, sự xa hoa về phía giai cấp tư sản, còn một bên là sự bần cùng, nghèo khổ, thất học về phía giai cấp vô sản. Từ đó dẫn đến mâu thuẫn giai cấp đối kháng không thể điều hoà được. Mác đã chỉ ra: đói nghèo là hệ quả tất yếu của chế độ tư hữu TBCN về TLSX, hệ quả của sự tước đoạt và bóc lột thậm tệ trong quá trình ra đời và tồn tại của CNTB. Do đó, chỉ có xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN, xoá bỏ nguồn gốc sinh ra bóc lột thì người lao động mới thoát khỏi đói nghèo. Tuy nhiên chúng ta thấy, chế độ tư hữu TBCN về TLSX chỉ là nguyên nhân xâu xa, còn nguyên nhân trực tiếp chính là do chế độ phân phối bất bình đẳng. Bởi vì, xét ở hai góc độ lý luận và thực tiễn thì sở hữu là mục đích của đấu tranh giai cấp, là phương tiện để con người đạt đến mục đích cuối cùng là 7
  9. được hưởng cái gì ? bao nhiêu ? đó chính là phân phối. Theo giáo sư, tiến sỹ Đỗ Thế Tùng, trong nền kinh tế thị trường, phân phối không những phụ thuộc vào quyền sở hữu các yếu tố sản xuất mà việc phân phối còn được phân phối lại thông qua trao đổi, nên kết quả phân phối còn phụ thuộc vào thị trường. Ngoài ra, kết quả phân phối còn bị làm sai lệch bởi các nhân tố phi kinh tế, các hiện tượng tiêu cực như tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, và cả các rủi ro do thiên tai... Vì vậy, trong điều kiện còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu về TLSX và kinh tế hàng hoá thì phân phối công bằng vẫn là công bằng trong giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản, và do đó tất yếu còn có sự chênh lệch về thu nhập giữa những người giàu và người nghèo. Mặt khác ngay cả trong những đơn vị kinh tế dựa trên chế độ công hữu về TLSX và thực hiện phân phối theo lao động một cách đúng đắn thì vẫn còn hiện tượng người này giàu hơn người kia, vì ở đây nguyên tắc ngự trị, theo Mác “cũng vẫn là cái nguyên tắc trong việc trao đổi hàng hoá - vật ngang giá; một số lượng lao động dưới hình thức này được đổi lấy cùng một số lượng lao động dưới một hình thức khác”. “Như vậy, với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia... Bởi vì, người này lập gia đình rồi, người kia chưa, người này có nhiều con hơn người kia. Đấy là chưa kể trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ, trong điều kiện kinh tế tri thức, có khoảng cách xa giữa những người công nhân tri thức và những người lao động giản đơn về trình độ chuyên môn nên tất yếu có sự chênh lệch về cống hiến và thu nhập”[47]. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, với sự chi phối của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh... tất yếu sẽ dẫn đến một thực trạng là: một bộ phận người có trình độ cao, có tay nghề, có vốn nhiều, có quan hệ xã hội rộng và biết làm ăn vươn lên trở thành người giàu; ngược lại, một bộ phận người yếu về thể chất, không có sức lao động, trí tuệ thấp kém, không có khả năng tổ chức sản xuất, không có vốn liếng hay là lười lao động phải chấp nhận có thu nhập thấp. “Đặc biệt với nền kinh tế thị trường đang được khởi động và phát triển (như ở Việt Nam), thì phân tầng xã hội là một hệ quả tất yếu. Trong cuộc đấu tranh để tồn tại và phát triển dưới tác động của cơ chế thị trường, nhất định diễn ra cuộc sàng lọc tự nhiên. Những ai có bản lĩnh và tài năng sẽ nhanh chóng tranh thủ 8
  10. được cơ may và vận hội để chiếm lĩnh được những vị thế cao trong xã hội. Những người yếu thế hơn về điều kiện, về tài năng, về kinh nghiệm và học vấn... phải chịu thua thiệt trong cuộc cạnh tranh để rồi có thể tìm kiếm cơ hội mới để vươn lên. Tính cơ động xã hội, do vậy, sẽ được đẩy tới. Động lực của sự tăng trưởng kinh tế và sự tiến bộ xã hội sẽ được phát huy mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh ấy”. Giáo sư Trần Ngọc Hiên cũng thừa nhận và cho rằng sự phân hoá giàu nghèo còn là một tiến bộ lịch sử. Giáo sư nói: “Quá trình phát triển kinh tế thị trường đã làm cho một số người giàu lên do biết tích luỹ và biết kinh doanh, nó cũng làm cho một số người nghèo đi và không thích nghi với kinh tế thị trường (sức khoẻ yếu, đơn côi, tay nghề, học vấn thấp...). Sự phân hoá này là một tiến bộ lịch sử. Khi kinh tế thị trường ở giai đoạn thấp thì dù chế độ chính trị nào cũng nảy sinh ra sự phân hoá giàu nghèo”. Phân tích như vậy để thấy rằng, giải quyết vấn đề đói nghèo không chỉ dừng ở mặt sở hữu mà còn giải quyết vấn đề phân phối. Đồng thời cũng cho thấy rằng, đói nghèo không chỉ xuất hiện trong xã hội có giai cấp mà còn là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, nhiều diễn đàn khu vực và thế giới đã khẳng định, hiện nay, đói nghèo không còn là vấn đề riêng của một quốc gia, mà là vấn đề mang tính toàn cầu. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc năm 2000, 180 quốc gia trong đó có Việt Nam đã nhất trí thông qua tuyên bố Thiên niên kỷ và cam kết vào năm 2015 đạt được 8 Mục tiêu Thiên niên kỷ: 1- Xoá hết đói nghèo; 2- Phổ cập trung học cơ sở và phổ cập trung học phổ thông; 3– Tăng cường bình đẳng giới và tăng cường khả năng của phụ nữ; 4– Giảm tỷ lệ trẻ em chết yểu; 5– Cải thiện sức khoẻ bà mẹ; 6– Chống HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các bệnh khác; 7- Bảo đảm môi trường bền vững; 8- Phát triển đối tác toàn cầu vì phát triển. Với tuyên bố chung này thực sự thể hiện sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo của các quốc gia về việc thực hiện một thế giới mà ở đó không còn nghèo đói, ai cũng được học hành, sức khỏe của người dân được cải thiện, môi trường được bảo vệ một cách bền vững, mọi người đều được hưởng các quyền tự do, bình đẳng và công bằng... Để hình thành các giải pháp XĐGN, cần thiết phải có quan niệm đúng và có những tiêu chí cụ thể về nghèo đói. 9
  11. 1.1.1. Quan niệm của thế giới về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường Đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về nghèo đói, nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất là thoả mãn ở mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển KT- XH cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Ta có thể sử dụng các khái niệm của các tổ chức sau để phân tích, nghiên cứu: - Tổ chức Liên Hợp Quốc nêu khái niệm về nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. + Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu cơ bản, tối thiểu (ăn, mặc, ở, nhu cầu văn hoá, y tế, giáo dục và giao tiếp) để duy trì cuộc sống. + Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng. - Tại Hội nghị về chống đói nghèo do Uỷ ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tháng 09/1993 tại Băng Cốc (Thái Lan), các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: "Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận"[7; tr.11]. Có thể xem đây là định nghĩa chung nhất về nghèo, một định nghĩa có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ biến về nghèo, bao gồm cả nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Định nghĩa này đã làm rõ được bộ phận dân cư nghèo là "không được hưởng” hoặc "không thoả mãn” những nhu cầu cơ bản (nghèo tuyệt đối); làm rõ tính chất động của nghèo là tuỳ theo “trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập 10
  12. quán của từng vùng" (nghèo tương đối). Vì vậy, khái niệm này đã được nhiều quốc gia chấp nhận và sử dụng. - Ngoài ra, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia căn cứ vào thu nhập bình quân đầu người theo hai cách tính: + Phương pháp ATLAS tức là tỷ giá hối đoái và tính theo USD. + Phương pháp PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp sức mua tương đương tính theo USD. Giả sử, theo phương pháp ATLAS, ở cấp quốc gia, căn cứ mức thu nhập bình quân đầu người năm 1990, WB sẽ phân loại giàu nghèo trên thế giới thành 6 mức như sau: + Trên 25.000 USD : nước cực giàu + Trên 20.000 đến 25.000 USD : nước giàu + Trên 10.000 đến 20.000 USD : nước khá giàu + Trên 2.500 đến 10.000 USD : nước trung bình + Trên 500 đến 2.500 USD : nước nghèo + Dưới 500 USD : nước cực nghèo Nếu chỉ căn cứ vào mức thu nhập bình quân đầu người để phân tích thì sẽ là phiến diện, bởi lẽ chỉ cần tăng trưởng kinh tế, nâng cao mức thu nhập của dân chúng là sẽ giải quyết được đói nghèo. Nhưng trong thực tế, không ít trường hợp hai nước có cùng mức GDP và thu nhập bình quân đầu người như nhau nhưng hệ số về bất bình đẳng lại khác nhau. Thậm chí ở những nước giàu, hệ số bất bình đẳng hay khoảng cách giàu nghèo còn cao hơn so với những nước nghèo. Chẳng hạn như ở Úc, thu nhập bình quân đầu người 24.574 USD, nhưng hệ số giữa 10% dân số giàu nhất và 10% dân số nghèo nhất là 12,5. Trong khi Việt Nam thuộc nhóm cực nghèo, thu nhập bình quân đầu người dưới 500 USD nhưng hệ số này là 7,6 [TCTK, 2003]. Thực tế, ngay trong những nước giàu vẫn tồn tại đói nghèo theo cả hai nghĩa tương đối và tuyết đối. Điều này chứng minh rằng trong thời đại ngày nay, giải quyết 11
  13. đói nghèo không chỉ là làm giàu mà phải xoá bỏ nguồn gốc dẫn đến phân hoá - đó là sự phân phối bất bình đẳng. Các quan niệm về đói nghèo nêu trên phản ánh 3 khía cạnh chủ yếu của người nghèo: - Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người; - Có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng dân cư; - Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nào thì hộ nghèo, người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh hàng ngày về kinh tế – vật chất, biểu hiện trực tiếp nhất là bữa ăn. Họ không thể vươn tới các nhu cầu về văn hoá, tinh thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gần như không có. Biểu hiện rõ nhất ở các hộ nghèo là hiện tượng trẻ em bỏ học, thất học, không có điều kiện để chữa bệnh khi ốm đau. Nhìn chung ở hộ nghèo, người nghèo, thu nhập thực tế của họ chỉ dành chi hầu như toàn bộ cho ăn thậm chí không đủ chi ăn, phần tích luỹ hầu như không có. Các nhu cầu tối thiểu ngoài ăn ra gồm các mặt như: ở, văn hoá, y tế, giáo dục, giao tiếp… chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi, không đáng kể. Với mục tiêu hàng đầu là đấu tranh chống nạn nghèo khổ ở các nước đang phát triển, WB cũng đã đưa ra chuẩn nghèo đói tính theo số Calo tối thiểu cần thiết cho một người để sống là 2100 Kcalo/người/ngày, những hộ gia đình không đảm bảo được mức này là những hộ nghèo khổ. Tiêu chuẩn này được tính chung cho các nước trên thế giới, do đó nghèo khổ theo tiêu chuẩn này chính là nghèo tuyệt đối. Theo mức đánh giá chung của thế giới, để đảm bảo mức 2100 Kcalo/người/ngày thì cần ít nhất là 1 USD/người/ngày. Theo tiêu chuẩn này thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đói nghèo, các khu vực có người nghèo nhất thế giới hiện nay là châu Phi và châu Á. Chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời gian. Về không gian, nó biến đổi theo trình độ phát triển KT-XH của 12
  14. từng vùng hay từng quốc gia. Về thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và nó phát triển theo trình độ phát triển KT-XH và nhu cầu của con người theo từng giai đoạn lịch sử, vì rằng kinh tế, xã hội phát triển, thì đời sống của con người cũng được cải thiện tốt hơn, tuy nhiên không phải là tất cả các nhóm dân cư đều có tốc độ cải thiện giống nhau. Theo quan niệm này, WB đưa ra khuyến nghị thang đo đói nghèo như sau: Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi mà có thu nhập dưới: - Đối với nước nghèo là 0,5 USD/ ngày; - Đối với nước đang phát triển là 1 USD/ ngày; - Các nước thuộc Châu Mỹ La tinh và Caribe là 2 USD/ngày; - Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày; - Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày. Tuy vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình, thông thường nó thấp hơn thang nghèo đói mà WB đưa ra. Ví dụ, Mỹ đưa ra là thu nhập dưới 16.000 USD đối với một hộ gia đình chuẩn (gia đình 4 người) trong một năm, tương đương với 11,1 USD/ngày/người, Trung Quốc đưa ra chuẩn nghèo là 960 Nhân dân tệ/năm/người tương đương 0,33 USD/ngày/người. Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình XĐGN ở Việt Nam, WB cũng đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam: Thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng 2100 Kcalo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lương thực thực phẩm; Thứ hai là số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực thực phẩm và chi tiêu cho các nhu cầu phi lương thực thiết yếu khác, gọi là chuẩn đói nghèo chung. Theo quan niệm của WB, ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lương thực, thực phẩm để đảm bảo đủ lượng 2.100 Kcalo/người/ngày (tương đương 70% chi tiêu) còn có những khoản chi tiêu tối thiểu phi lương thực, thực 13
  15. phẩm (tương đương 30% chi tiêu). Do đó, chuẩn nghèo chung có mức cao hơn chuẩn nghèo lương thực, thực phẩm. Dựa vào số liệu điều tra mức sống dân cư tại nước ta năm 1993, năm 1998, và căn cứ vào sức mua của đồng tiền Việt Nam, WB đưa ra chuẩn nghèo đối với từng loại ở Việt Nam như sau: Đơn vị: đồng/người/tháng Mức chuẩn nghèo Năm 1993 Năm 1998 Chuẩn nghèo lương thực thực 62.500 107.000 phẩm Chuẩn nghèo chung 96.600 149.000 1.1.2. Quan niệm của Việt Nam về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo trong điều kiện kinh tế thị trường - Tư tưởng Hồ Chí Minh về XĐGN: Ngay sau khi giành được độc lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ đói và dốt cũng là giặc như giặc ngoại xâm. Con người chỉ thật sự được giải phóng khi thoát khỏi giặc ngoại xâm, giặc đói và giặc dốt. Do đó, Người đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng Việt Nam là giữ cho được nền độc lập, đồng thời phải chống giặc đói, giặc dốt, giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội. Người nói: “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn 2. Làm cho dân có mặc 3. Làm cho dân có chỗ ở 4. Làm cho dân có học hành Cái mục đích chúng ta muốn đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân chúng ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức cho tự do, độc lập”[34; tr.125]. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Người đã nêu vấn đề cấp bách hàng đầu là cứu dân khỏi chết đói. Năm 1947, trong thư gửi 14
  16. đồng bào Thanh Hoá với mong muốn Thanh Hoá phấn đấu thành một tỉnh kiểu mẫu, Người nhấn mạnh tới tư tưởng con người - gia đình và xã hội phải trở nên giàu có. Người nêu rõ: phải giúp cho mọi người khỏi bị đói, trở nên đủ ăn, đủ mặc, vượt qua cái nghèo, trở nên sung túc, khá giả, từ khá giả trở nên giàu có, dân có giàu thì nước mới mạnh, đã giàu có rồi thì phấn đấu để giàu có nữa, giàu có mãi. Tư tưởng của Người chính là “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm” [34; tr.287]. Người luôn nhấn mạnh phải ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô, phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống, thực hành dân chủ, nâng cao dân trí, coi đây là con đường lâu dài và chắc chắn đối với công tác XĐGN và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xoá đói phải tiến tới giảm nghèo, tăng giàu. Đây chính là quan điểm phát triển bền vững để tiến tới một xã hội ngày càng giàu có, văn minh và hạnh phúc. - Kế tục và phát triển những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn lấy độc lập, tư do, hạnh phúc của nhân dân làm mục đích, lý tưởng của mình. Chính vì vậy mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm làm cho toàn dân có được cuộc sống ngày càng tốt hơn, hạnh phúc hơn. Sau 30 năm kháng chiến gian khổ và những năm đầu sau chiến tranh, kinh tế chưa phát triển, thiếu thốn mọi bề, các sản phẩm xã hội làm ra về cơ bản được phân phối bình quân (mà thực chất là “chia đều sự nghèo khổ”), thì ranh giới giàu - nghèo dường như đã bị xoá mờ trong ý thức của đại đa số người dân, trừ những người có điều kiện so sánh với các hoàn cảnh khác. Vì thế, khi bắt đầu chuyển sang thời kỳ đổi mới, trong hệ thống chính sách của Nhà nước chưa thấy đề cập đến chính sách XĐGN. Phải trải qua 5 năm hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu - nghèo mới dần bộc lộ rõ. Do đó, Đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 6/1991) đã chủ trương: “Khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế”. Tuy nhiên chủ trương đó mới chỉ là tư tưởng định hướng cho 15
  17. việc hoạch định chính sách. Thật ra, tư tưởng về chính sách XĐGN ở Việt Nam đã được Đại hội VII của Đảng nêu lên, nhưng bản thân chính sách XĐGN lại được bắt đầu từ dưới lên sau đó mới từng bước được bổ sung hoàn chỉnh từ trên xuống. Năm 1992, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc đề ra chính sách XĐGN. Sáng kiến của Thành phố Hồ Chí Minh nhanh chóng đựơc các địa phương khác trong cả nước nhiệt liệt hưởng ứng. Phát huy sáng kiến của chính quyền địa phương các cấp và căn cứ vào kết quả điều tra mức sống dân cư lần thứ nhất, từ năm 1993, Chính phủ mới lần lượt ban hành các chính sách có liên quan đến XĐGN được thực hiện trên phạm vi cả nước và đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 1991 - 2000. Năm 1995, Báo cáo quốc gia của Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Thượng đỉnh Compenhagen về phát triển xã hội đã khẳng định XĐGN là một chính sách quốc gia quan trọng. Chính vì vậy đến Đại hội VIII của Đảng, với quan điểm: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và CBXH ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. CBXH phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý TLSX lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”[18; tr.113]; “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực XĐGN. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư”[18; tr.114], chủ trương XĐGN đã được đưa lên thành Chương trình về XĐGN với mục tiêu: “Giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói kinh niên”[18; tr.221]. Tiếp theo Chính phủ đã cho tiến hành điều tra mức sống dân cư lần thứ hai (năm 1997 - 1998) và trên cơ sở đó xây dựng, ban hành Chương trình mục tiêu XĐGN giai đoạn 1998 - 2000 theo quyết định 133/1998/QĐ - TTg ngày 20 tháng 7 năm 1998, gọi tắt là chương trình 133. Chương trình này bao gồm 16
  18. một hệ thống các chính sách có nội dung trực tiếp hoặc gián tiếp hướng tới mục tiêu XĐGN. Tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ: “ Thực hiện chương trình XĐGN thông qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình từng địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn hộ đói, giảm mạnh các hộ nghèo“ [19; tr.106]. Trong Định hướng phát triển các lĩnh vực xã hội đến năm 2005, nhấn mạnh: “Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình XĐGN..., phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng thu nhập. Phấn đấu đến năm 2005 về cơ bản không còn hộ đói và chỉ còn khoảng 10% số hộ thuộc diện nghèo... Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo” [19; tr.299]. Đại hội X của Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách XĐGN, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội”, phấn đấu đến năm 2010, “tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10 -11%” [3]. Như vậy, tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về XĐGN thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX, X : - Cùng với quan điểm đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công cuộc XĐGN, thực hiện CBXH, bình đẳng giới, giảm sự phân hoá giàu nghèo. - Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp, đi đôi với XĐGN bền vững, chú trọng phát triển nông nghiệp nông thôn, vì 90% người nghèo sống ở vùng nông thôn. - XĐGN là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, XĐGN là một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, là phong trào của quần chúng, nhất là ở địa phương, cơ sở. - Hình thành được hệ thống chính sách và chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN. - Tập trung nguồn lực để xoá nhanh các hộ đói, xã đặc biệt khó khăn, giảm mạnh các hộ nghèo, xã nghèo. 17
  19. - Thực hiện xã hội hoá công tác XĐGN, đa dạng hoá các nguồn lực trong nước, phát huy nội lực tại chỗ và tranh thủ hợp tác, trợ giúp quốc tế, tạo thành phong trào sôi động trong cả nước, lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là “Ngày vì người nghèo”. Từ những quan điểm XĐGN của Đảng ta và những thành tựu đã đạt được, có thể khẳng định XĐGN luôn là một trong những định hướng lớn trong chính sách xã hội của Đảng. Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, các ngành chức năng đã cụ thể hoá tiêu chí đói nghèo để thực hiện trong cả nước. Ở Việt Nam, ngoài gợi ý về cách xác định chuẩn đói nghèo theo mức thụ hưởng Calo do bữa ăn mang lại hàng ngày quy đổi ra thu nhập của WB đã nêu trên, các nhà nghiên cứu và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã nêu ra các mức xác định chuẩn mực đói nghèo khác nhau, điển hình là cách xác định của Tổng cục Thống kê (TCTK) và của Bộ LĐ-TB &XH. - Cách xác định của Tổng cục Thống kê: Theo quan niệm của TCTK, tiêu chuẩn nghèo được xác định thông qua tiêu thụ lương thực, thực phẩm, chưa tính đến việc tiêu thụ hàng hoá phi lương thực, thực phẩm. Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn này thuộc vào diện hộ nghèo. Tiêu chuẩn nghèo được tính riêng cho 2 khu vực: thành thị và nông thôn. Trên cơ sở định mức chuẩn dinh dưỡng 2100 Kcalo/ngày/người, TCTK đã xác định chuẩn mực nghèo của Việt Nam qua các năm như sau: Đối với thành thị Đối với nông thôn Năm 1993: 70.000 đ/người/tháng 51.000 đồng/người/tháng Năm 1994: 102.000 đ/người/tháng 76.000 đồng/người/tháng Năm 1995: 125.000 đ/người/tháng 95.000 đồng/người/tháng Năm 1996: 130.000 đ/người/tháng 100.000 đồng/người/tháng Năm 1997-1998, TCTK không tiến hành điều tra đa mục tiêu như các năm trước, mà phối hợp với WB tiến hành điều tra mức sống hộ gia đình Việt 18
  20. Nam, trong đó tình trạng nghèo được nghiên cứu theo phương pháp đo lường mức sống của WB. Theo TCTK, tiêu chuẩn nghèo của TCTK và WB tương đương nhau, tỷ lệ nghèo do hai cơ quan này đưa ra cũng rất gần nhau và đều dựa trên số liệu về thu nhập hoặc chi tiêu được điều tra công phu, khách quan. - Cách xác định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội: Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu và đi đến thống nhất ở các Bộ, Ngành, Bộ LĐ-TB&XH (cơ quan thường trực của Chính phủ trong việc tổ chức, triển khai, thực hiện chương trình XĐGN) đã đưa ra các khái niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau: Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống. Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà cửa rách nát. Hộ nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành và không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất… Bộ LĐ-TB&XH đồng tình với quan điểm về đói nghèo của Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kốc (Thái Lan) tháng 09/1993. Chuẩn nghèo được dùng để đánh giá mức độ đói nghèo ở Việt Nam là tính theo thu nhập nhân khẩu một tháng hoặc một năm và được đo bằng giá trị hoặc hiện vật quy đổi. Vì chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời gian. Về không gian, ở Việt Nam, chuẩn nghèo biến động theo 3 vùng sinh thái khác nhau, đó là: vùng thành thị, vùng nông thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi. Về thời gian, Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo chủ yếu dựa vào các số liệu về thu nhập của hộ gia đình tuỳ theo thời kỳ phát triển của đất nước. Theo phương pháp trên và căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ LĐ-TB&XH đã 3 lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2