ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌCGIÁO DỤC PHẠM THỊ HƯƠNG KỸ NĂNG XÂY DỰNG CÂU HỎI TRONG ĐỀ KIỂM TRA
NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌCGIÁO DỤC PHẠM THỊ HƯƠNG KỸ NĂNG XÂY DỰNG CÂU HỎI TRONG ĐỀ KIỂM TRA
NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN NGỮ VĂN Mã số: 8140111 Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỨC KHUÔNG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy lớp Cao học Lý luận và Phương
pháp dạy học bộ môn Ngữ văn, những người thầy đã trang bị cho tôi tri thức
và kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực khoa học giáo dục.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô khoa Sau đại học, Đại học
Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, các bạn bè đồng nghiệp đã động viên,
nhiệt tình giúp đỡ tôi và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành bản luận
văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS. Nguyễn
Đức Khuông đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn
Phạm Thị Hương
i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Từ, cụm từ
1 dạy học DH
2 đối chứng ĐC
3 đọc hiểu ĐH
4 giáo viên GV
5 học sinh HS
6 KTĐG kiểm tra đánh giá
7 KQHT kết quả học tập
8 năng lực NL
9 Ngữ văn NV
10 THPT trung học phổ thông
11 thực nghiệm TN
12 văn bản VB
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................................ i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................... ii
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ .................................................................................. vii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................. 6
5. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................ 6
6. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 6
7. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 7
8. Kết cấu của đề tài .................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG CÂU HỎI TRONG ĐỀ KIỂM
TRA ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ VĂN Ở
TRƯỜNG THPT ............................................................................................................. 9
1.1. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hư ớng tiếp
cận năng lực ..................................................................................................................... 9
1.1.1 Khái niệm kiểm tra, đánh giá .............................................................................. 9
1.1.2. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ............................................. 10
1.1.3. Năng lực và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng
tiếp cận năng lực ............................................................................................................... 12
1.2. Kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản ...................................................... 20
1.2.1. Văn bản và năng lực đọc hiểu văn bản .............................................................. 20
1.2.2. Kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh tro ng
dạy học môn Ngữ văn ................................................................................................. 28
iii
1.2.3 Câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản ............................................ 31
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 37
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG CÂU HỎI
TRONG ĐỀ KIỂM TRA NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ
VĂN Ở TRƯỜNG THPT ........................................................................................... 38
2.1. Thực trạng xây dựng câu hỏi kiểm tra, đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản
trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay............................................... 38
2.1.1 Thực trạng kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở trường THPT ......................... 38
2.1.2. Thực trạng xây dựng câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu môn Ngữ
văn ở trường THPT ....................................................................................................... 41
2. 2. Biện pháp xây dựng câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ
văn bậc THPT ................................................................................................................... 54
2.2.1. Xác định mục đích, yêu cầu kiểm tra .................................................................. 55
2.2.2. Lập ma trận đề ....................................................................................................... 56
2.2.3. Biên soạn đề kiểm tra đánh giá. .......................................................................... 60
2.2.4. Xây dựng đáp án, thang điểm .............................................................................. 67
2.2.5. Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra và đáp án thang điểm ........................ 67
Tiểu kết chương 2: ...................................................................................................... 68
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM ................................................................................. 70
3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm ........................................................................... 70
3.2.Thời gian, đối tượng, địa bàn thực nghiệm ............................................................ 70
3.3. Tiến trình thực nghiệm ............................................................................................. 70
3.3.1.Thực nghiệm tại trườngTHPT Nguyễn Trãi - Vũ Thư - Thái Bình ................. 71
3.3.2. Thực nghiệm tại trường THPT Đông Thụy Anh - Thái Thụy -
Thái Bình ........................................................................................................................... 74
3.4. Kết quả thực nghiệm: ............................................................................................... 74
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm: ............................................................................... 78
iv
3.5.1. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm .............................................................. 78
3.5.2 Cách thức đánh giá: ............................................................................................... 79
Tiểu kết chương 3 ......................................................................................................... 87
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ......................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 90
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 94
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. So sánh kiểm tra đánh giá theo tiếp cận năng lực với kiểm tra đánh
giá kiến thức kĩ năng ....................................................................................... 17
Bảng 1.2. Các bậc trình độ nhận thức trong kiểm tra đánh giá NL ................ 32
Bảng 3.1. Kết quả ý kiến chia sẻ của giáo viên .............................................. 81
Bảng 3.2. Kết quả ý kiến chia sẻ của học sinh ................................................ 84
Bảng 3.3. Bảng phân phối điểm của học sinh (theo loại) ............................... 85
vi
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Hình 3.4. Biểu đồ phân phối điểm của học sinh ............................................ 86
vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình dạy học, hoạt động đánh giá kết quả học tập của học
sinh có vai trò vô cùng quan trọng. Đánh giá kết quả học tập của học sinh
cung cấp thông tin giúp nhà quản lý, giáo viên giám sát quá trình dạy học,
phát hiện các vấn đề để có các quyết định kịp thời điều chỉnh nội dung, cách
thức và điều kiện dạy học nhằm đạt tới cái đích của quá trình dạy học: chất
lượng đầu ra của sản phẩm…Với ý nghĩa ấy, kiểm tra đánh giá không những
là một bộ phận không thể tách rời của quá trình dạy học, có mối quan hệ mật
thiết với các yếu tố khác của quá trình này mà còn là động lực để thúc đẩy sự
đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức tổ chức hoạt động dạy học...
nhằm nâng cao chất lượng dạy học - yếu tố quan trọng hàng đầu đối với mỗi
nhà trường.
Hiện nay, xu hướng chung của giáo dục toàn cầu là chuyển từ mục tiêu
cung cấp tri thức sang hình thành các năng lực ở người học. Để bắt kịp xu thế
đó, cũng là đáp ứng yêu cầu tất yếu của thời đại về “đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục và đào tạo” theo tinh thần NQ/29 - Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI ("đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và
đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan”; [1] ),
giáo dục Việt Nam đang thực hiện công tác đổi mới kiểm tra đánh giá theo
tiếp cận năng lực, coi đây là khâu đột phá có ý nghĩa then chốt của quá trình
dạy học, giúp phát triển năng lực người học, tạo ra mã số thành công của mỗi
học sinh trong tương lai. Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và đào tạo
đang triển khai việc đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của học sinh. Việc chuyển từ kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận nội dung
sang kiểm tra đánh giá tiếp cận năng lực người học đã và đang đáp ứng được
1
yêu cầu đổi mới của giáo dục hiện đại. Kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn cũng
không nằm ngoài định hướng đó.
Trong dạy học Ngữ văn, đổi mới kiểm tra đánh giá đã trở thành vấn đề
quan tâm hàng đầu, bởi đó là một trong những khâu then chốt, một mắt xích
quan trọng, chủ yếu để xác định năng lực của người học, điều chỉnh quá trình
dạy và học; là động lực để đổi mới phương pháp dạy học, góp phần cải thiện,
nâng cao chất lượng giáo dục. Thực tế cho thấy, từ năm 2014 đến nay, việc
đổi mới công tác kiểm tra đánh giá đã từng bước tạo sự chuyển biến trong dạy
văn, học văn. Các đề kiểm tra định kì, thi tuyển sinh, thi THPT Quốc gia môn
Ngữ văn theo hướng đổi mới, có tính ứng dụng cao vào thực tiễn cuộc sống,
tôn trọng chính kiến của học sinh, tạo điều kiện cho các em bộc lộ năng khiếu,
quan điểm, cách nhìn nhận của mình về thế giới xung quanh, tránh việc sao
chép tài liệu, đọc vẹt một cách máy móc... Đặc biệt trong kì thi tốt nghiệp
THPT 2014, thi THPT Quốc gia năm 2015, 2016, 2017, yêu cầu kiểm tra
đánh giá năng lực của học sinh được chú trọng. Cấu trúc đề thi gồm 2 phần:
đọc hiểu văn bản và làm văn với hệ thống câu hỏi tập trung đánh giá năng lực
tiếp nhận văn bản, năng lực tạo lập văn bản của người học. Cách đổi mới
kiểm tra đánh giá như vậy đã có tác động sâu sắc đến quá trình dạy học từ xác
định nội dung đến đổi mới phương pháp dạy học. Nhưng làm thế nào để việc
kiểm tra đánh giá năng lực của người học có hiệu quả và xây dựng hệ thống
câu hỏi trong đề kiểm tra như thế nào để đánh giá đúng chất lượng dạy học là
vấn đề đang được quan tâm. Hiện nay, nhiều giáo viên Ngữ văn còn lúng túng
khi xây dựng một đề kiểm tra nhằm đánh giá năng lực học sinh theo hướng
đổi mới kiểm tra đánh giá nhất là xây dựng hệ thống câu hỏi trong đề kiểm tra
năng lực đọc hiểu văn bản. Qua đề tài này, chúng tôi xin đưa ra những ý kiến
trao đổi về kĩ năng xây dựng câu hỏi trong đề kiểm tra năng lực đọc hiểu môn
2
Ngữ văn khi kiểm tra đánh giá năng lực tiếp nhận văn bản của người học ở
trường THPT.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Trên thế giới
Trong lịch sử nhân loại, đã từ lâu, đánh giá luôn được coi là một hoạt
động tự thân và đã trở thành một khoa học ở mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, nói như Examenet Docmolgic: “Đánh giá là một môn khoa học tự nó
hình thành”
Trong lĩnh vực giáo dục, năm 1966, mô hình CIPP của L.D.Stufflebean
được hình thành dựa trên sự kết hợp của đánh giá bối cảnh, đánh giá đầu vào,
đánh giá quá trình và đánh giá kết quả học tập.
Năm 1967, M.Scriven đưa ra mô hình đánh giá không theo mục tiêu ;
tiếp theo là sự ra đời của mô hình ứng đáp câu hỏi do R.E.Stake khởi
xướng,… Những năm sau này, để đánh giá chất lượng giáo dục, người ta tập
trung đánh giá kết quả học tập của người học.
Từ sau những năm 1970 đến nay lý thuyết trắc nghiệm ra đời và phát
triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1971, B.S. Bloom và các
cộng sự đã nghiên cứu và phân loại các mục tiêu đánh giá thành các cấp độ
khác nhau: biết, hiểu, áp dụng, phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Những nghiên cứu trên có tác dụng quan trọng trong hoàn thiện các lý
thuyết về đánh giá và hoàn thiện việc dạy học .
Trong quá trình dạy học hiện nay, các nhà giáo dục luôn chú trọng mục
tiêu phát triển năng lực và phẩm chất người học. Bên cạnh phát triển năng
năng lực chung, các năng lực chuyên biệt cũng được quan tâm. Đọc và đọc
hiểu văn bản có ý nghĩa rất quan trọng trong hình thành năng lực giao tiếp cho
học sinh, trong việc tự học và học tập suốt đời của mỗi cá nhân. Do những lợi
ích to lớn mà khả năng đọc và hiểu mang lại nên chương trình đánh giá học
3
sinh quốc tế PISA thuộc tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới chủ
trương coi đọc hiểu là một trong ba lĩnh vực chủ yếu (đọc hiểu, toán học,
khoa học) để xác định năng lực học sinh giai đoạn cuối của giáo dục bắt buộc.
2.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu
về đánh giá trong giáo dục của các tác giả:
- Năm 1996, hai tác giả Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc đưa ra cơ
sở lý luận của việc đánh giá chất lượng học tập của học sinh phổ thông.
- Trần Bá Hoành năm 2001 với nghiên cứu về đánh giá trong giáo dục
đã khái quát quy trình đánh giá, chỉ ra các phương pháp, kĩ thuật đánh giá.
- Năm 2007, tác giả Lê Đức Ngọc nghiên cứu về Lý thuyết đo lường
và xử lý số đo. Công trình nghiên cứu này đã được xuất bản tại Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Công Khanh (2012) nghiên cứu về đo lường trong đánh giá
kết quả học tập của người học. Năm 2014, tác giả này cùng các cộng sự bàn
về kiểm tra, đánh giá trong Giáo dục.
- Vũ Thị Ngọc Anh và các cộng sự (2010) bàn về thực trạng đánh giá
kết quả học tập của học sinh ở trường phổ thông hiện nay.
- Năm 2013, Nguyễn Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Ngọc Bích đưa ra
các kĩ thuật đánh giá trong lớp học, kinh nghiệm quốc tế và đề xuất áp dụng
cho bậc THPT ở Việt Nam.
Trong nhà trường Việt Nam, từ sau năm 2000, mục tiêu dạy đọc hiểu
văn bản cũng được đặt ra trong chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ
văn và dạy đọc hiểu cũng được coi là mắt xích quan trọng trong đổi mới
phương pháp dạy học môn Ngữ văn. Có nhiều công trình nghiên cứu về dạy
đọc hiểu văn bản trong môn Ngữ văn. Trần Đình Sử bàn nhiều về đọc văn,
học văn; chú trọng đến văn bản văn học và đọc - hiểu văn bản, coi đọc hiểu
4
văn bản là một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy văn hiện
nay. Nguyễn Thanh Hùng dày công nghiên cứu đặt ra vấn đề hiểu văn, dạy
văn, chú trọng khâu đọc và tiếp nhận văn chương đặc biệt là đọc hiểu tác
phẩm văn chương trong nhà trường cùng kĩ năng đọc hiểu Văn. Tác giả Phạm
Thị Thu Hương quan tâm đến đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu văn bản trong
nhà trường phổ thông. Phạm Thị Thu Hiền đưa ra một số đề xuất để đổi mới
dạy học đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông và dạy học đọc hiểu
văn bản thông tin ở trường trung học của Việt Nam trong thời gian tới.
Trên thực tế, việc dạy học đọc hiểu văn bản cũng chưa đạt được hiệu
quả mong muốn, công tác kiểm tra đánh giá cũng chậm thay đổi. Kiểm tra,
đánh giá năng lực đọc hiểu là một trong những yêu cầu cơ bản trong kiểm tra
đánh giá môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông hiện nay. Về vấn đề này đã có
một số tác giả nghiên cứu, tham gia ý kiến thảo luận trong Hội thảo đổi mới
kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông. Tác
giả Đỗ Ngọc Thống đặt ra vấn đề đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ
văn theo yêu cầu phát triển năng lực. Phạm Minh Diệu bàn về đánh giá năng
lực môn Ngữ văn và cấu trúc bài kiểm tra môn Ngữ văn ở cấp THPT. Phạm
Thị Thu Hiền đặt ra vấn đề đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn
Ngữ văn ở cấp Trung học phổ thông". Lê Thị Mĩ Hà, Nguyễn Thị Huệ nghiên
cứu vận dụng cách hỏi của PISA trong kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu
của học sinh THPT. Bên cạnh những nghiên cứu tiêu biểu đó, trong cuộc hội
thảo, nhiều tác giả khác cũng bàn về kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào trình bày
một cách hệ thống về kĩ năng xây dựng câu hỏi trong kiểm tra đánh giá năng
lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT. Kế thừa những thành tựu
mà người đi trước đã đạt được khi nghiên cứu về kiểm tra đánh giá năng lực
đọc hiểu văn bản của học sinh đồng thời đưa ra các biện pháp rèn kĩ năng xây
5
dựng câu hỏi trong kiểm tra năng lực đọc hiểu môn Ngữ văn, chúng tôi đề xuất
đề tài "Kĩ năng xây dựng câu hỏi trong đề kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản
môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông". Chúng tôi mong có thể góp một
phần nhỏ bé vào việc tìm ra những biện pháp hiệu quả nhất giúp giáo viên
thành thục hơn khi ra đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Nêu lên một số biện pháp để nâng cao kĩ năng xây dựng câu hỏi trong
đề kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về hệ thống câu hỏi trong đề kiểm tra năng
lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn của học sinh THPT theo tiếp cận năng
lực; nghiên cứu về thực trạng kiểm tra, đánh giá, xây dựng câu hỏi trong đề
kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT, đề ra một
số biện pháp nâng cao kĩ năng xây dựng hệ thống câu hỏi đọc hiểu văn bản
trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở bậc THPT hiện nay.
- Thực nghiệm xây dựng hệ thống câu hỏi trong đề kiểm tra năng lực
đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở một số trường THPT.
5. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng câu hỏi trong đề kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản trong
dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT .
6. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu: Kĩ năng xây dựng câu hỏi đọc hiểu - công cụ
kiểm tra đánh giá năng lực tiếp nhận văn bản của học sinh THPT.
- Thời gian nghiên cứu: học kì 2 năm học 2016-2017, học kì 1 năm
học 2017-2018.
- Không gian nghiên cứu: Trường THPT Nguyễn Trãi - Vũ Thư - Thái
Bình; trường THPT Đông Thụy Anh - Thái Thụy - Thái Bình.
6
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phân tích các tài liệu liên quan đến đề tài, tìm ra cấu trúc, xu hướng
phát triển của lý thuyết. Từ đó tổng hợp lại để xây dựng hệ thống khái niệm,
phạm trù lý thuyết khoa học mới
- Phân loại và hệ thống hoá lý thuyết
- Sắp xếp lý thuyết khoa học thành hệ thống lôgíc theo từng mặt, từng
vấn đề… dễ nhận biết, dễ sử dụng
- Hệ thống hoá lý thuyết theo quan điểm hệ thống cấu trúc tầng bậc từ
thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Khảo sát thực tế ra đề đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn của giáo viên
một số trường THPT để nắm bắt tình hình, hiểu được thực trạng kiểm tra
đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực, kiểm tra
đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh.
- Phân tích kết quả khảo sát để nhận xét về công tác ra đề kiểm tra
đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh theo hướng đổi mới. Từ đó đưa ra
một số biện pháp để nâng cao kĩ năng xây dựng câu hỏi nhằm đánh giá năng
lực đọc hiểu văn bản của học sinh.
- Lập sơ đồ, bảng biểu thống kê kết quả, phân tích số liệu...
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài danh mục ký hiệu chữ viết tắt, phần mở đầu, kết luận và khuyến
nghị, phụ lục, tài liệu tham khảo, danh mục công trình khoa học liên quan đến
luận văn của tác giả, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng câu hỏi kiểm tra, đánh giá năng
lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT.
7
Chương 2: Thực trạng và biện pháp xây dựng câu hỏi trong đề kiểm tra
năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT.
Chương 3: Thực nghiệm.
8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG CÂU HỎI
TRONG ĐỀ KIỂM TRA NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận
năng lực
1.1.1 Khái niệm kiểm tra, đánh giá
- Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên "kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét" [25,tr 504].
Trong giáo dục, kiểm tra được hiểu là hoạt động đo lường để đưa ra các
kết quả, các nhận xét, phán quyết dựa vào các thông tin thu được theo công cụ
đã chuẩn bị trước với mục đích xác định xem cái gì đã đạt được, cái gì chưa
đạt được... Và như vậy kiểm tra cũng là một hoạt động đánh giá. kết quả của
kiểm tra được sử dụng để phản hồi, làm cơ sở cho các quyết định giáo dục
như đánh giá, xếp loại, giải trình, báo cáo, tư vấn…
- Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định phán đoán về
kết quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối
chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra nhằm đề xuất những quyết
định thích hợp để cải thiện thực trạng điều chỉnh nâng cao chất lượng và
hiệu quả công việc [8, tr5]
Như vậy, đánh giá là quá trình đưa ra những quyết định trên cơ sở
đo lường, làm sáng tỏ số liệu thu thập được một cách có hệ thống để xét
đoán giá trị.
Trong giáo dục, đánh giá được hiểu là là quá trình thu thập và lý giải
kịp thời có hệ thống các thông tin về hiện trạng khả năng hay nguyên nhân về
chất lượng và hiệu quả giáo dục căn cứ vào mục tiêu giáo dục, làm cơ sở cho
việc điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện những chủ trương biện pháp và hành
9
động giáo dục tiếp theo. Trong dạy học, kiểm tra, đánh giá được xem xét như
một quá trình liên tục và là một phần của hoạt động dạy học.
1.1.2. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
1.1.2.1. Khái niệm kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh
Đánh giá kết quả học tập là thuật ngữ chỉ quá trình hình thành những
nhận định, rút ra những kết luận hoặc phán đoán về trình độ, phẩm chất của
người học, hoặc đưa ra những quyết định về việc dạy học dựa trên cơ sở
những thông tin đã thu thập được một cách hệ thống trong quá trình kiểm tra.
Theo đó, khi đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên đưa ra
những nhận định, những phán đoán về mức độ thực hiện mục tiêu dạy học đã
đề ra của học sinh, từ đó có các giải pháp điều chỉnh phương pháp dạy học
phù hợp, đưa ra các khuyến nghị góp phần thay đổi các chính sách giáo dục.
1.1.2.2. Một số yêu cầu đối với kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh.
- Phải đánh giá được các năng lực khác nhau của học sinh. Mỗi cá nhân
để thành công trong học tập, thành đạt trong cuộc sống cần phải sở hữu nhiều
loại năng lực khác nhau. Quá trình giáo dục cũng hướng đến phát triển toàn
diện cho học sinh với những năng lực khác nhau đó. Do vậy giáo viên phải sử
dụng đa dạng các loại hình, các công cụ khác nhau nhằm kiểm tra đánh giá
được các loại năng lực khác nhau của người học, để kịp thời phản hồi, điều
chỉnh hoạt động dạy học và giáo dục.
- Đảm bảo tính khách quan: nguyên tắc khách quan được thực hiện
trong quá trình kiểm tra và đánh giá nhằm đảm bảo kết quả thu thập được ít
chịu ảnh hưởng từ những yếu tố chủ quan khác.
- Đảm bảo sự công bằng: nguyên tắc công bằng trong đánh giá kết quả
học tập nhằm đảm bảo rằng những học sinh thực hiện các hoạt động học tập
với cùng một mức độ và thể hiện cùng một nỗ lực trong học tập sẽ nhận được
những kết quả như nhau.
10
- Đảm bảo tính toàn diện: quá trình đánh giá kết quả học tập của học
sinh nhằm đảm bảo kết quả học sinh đạt được qua kiểm tra phản ánh được
mức độ đạt được về kiến thức, kỹ năng, thái độ trên bình diện lý thuyết cũng
như thực hành, ứng dụng với các mức độ nhận thức khác nhau trong hoạt
động học tập của họ.
- Đảm bảo tính công khai: đánh giá phải là một tiến trình công khai. Do
vậy, các tiêu chí và yêu cầu đánh giá, các nhiệm vụ hay bài tập, bài thi cần
được công bố đến học sinh trước khi họ thực hiện. Việc công khai các yêu cầu
hoặc tiêu chí đánh giá tạo điều kiện cho học sinh có cơ sở để xem xét tính
chính xác, tính thích hợp trong đánh giá của giáo viên cũng như tham gia
đánh giá kết quả học tập của bạn học và của bản thân. Điều này sẽ góp phần
làm cho hoạt động kiểm tra đánh giá trong nhà trường khách quan và công
bằng hơn.
- Đảm bảo tính giáo dục: đánh giá phải góp phần nâng cao hiệu quả học
tập và khả năng tự học, tự giáo dục của học sinh. Từ những điều đã học được,
học sinh định ra cách tự điều chỉnh hành vi học tập về sau của bản thân.
Những nhận xét của giáo viên trong bài kiểm tra về những gì mà học sinh làm
được; những gì mà học sinh có thể làm được tốt hơn; những gì học sinh cần
được hỗ trợ thêm; những gì học sinh cần tìm hiểu thêm... sẽ giúp học sinh
nhận thấy được sự tiến bộ của bản thân, những gì cần cố gắng hơn trong môn
học, cũng như nhận thấy sự khẳng định của giáo viên về khả năng của họ.
Điều này có tác dụng động viên người học rất lớn, góp phần quan trọng vào
việc thực hiện chức năng giáo dục và phát triển của đánh giá giáo dục.
- Đảm bảo tính phát triển: đánh giá hướng đến việc duy trì sự phấn đấu
và tiến bộ của người học cũng như góp phần phát triển động cơ học tập đúng
đắn trong người học. Qua những phán đoán, nhận xét về việc học của học
sinh, giáo viên giúp các em nhận ra chiều hướng phát triển trong tương lai của
11
bản thân, nhận ra tiềm năng của mình. Nhờ vậy, thúc đẩy các em phát triển
lòng tự tin, hướng phấn đấu và hình thành năng lực tự đánh giá cho học sinh.
1.1.3. Năng lực và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo
hướng tiếp cận năng lực
1.1.3.1. Năng lực
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên, từ năng lực có thể hiểu theo hai nghĩa: "năng lực là khả năng, điều kiện
chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó"; năng lực
còn là "phẩm chất tâm lí, sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một
loại hoạt động nào đó với chất lượng cao [25, tr 639].
Hiện nay, khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa:
- Theo T.S Bùi Minh Đức: năng lực là “khả năng cá nhân đáp ứng các
yêu cầu phức tạp dựa trên việc huy động những nguồn lực tâm lý (bao gồm cả
kĩ năng và thái độ) trong một hoàn cảnh cụ thể” [2, tr41]
- Theo PGS - TS Đỗ Ngọc Thống "năng lực là sự vận dụng tổng hợp
nhiều yếu tố: kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm và
nhiều nguồn lực tinh thần khác để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề đặt
ra trong cuộc sống" [2, tr14].
Như vậy “năng lực là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kỹ
năng, thái độ và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện
thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu quả vấn đề đặt ra của cuộc sống.
Năng lực là một cấu trúc động (trừu tượng), có tính mở, đa thành tố, đa tầng
bậc, hàm chứa trong nó không chỉ là kiến thức, kỹ năng…mà cả niềm tin, giá
trị, trách nhiệm xã hội…thể hiện ở tính sẵn sàng hành động trong những điều
kiện thực tế hoàn cảnh thay đổi” [6, tr.79].
Năng lực thường tồn tại dưới hai hình thức: năng lực chung và năng lực
chuyên biệt.
12
- Năng lực chung là những năng lực cần thiết để cá nhân có thể tham
gia hiệu quả trong nhiều hoạt động và các bối cảnh khác nhau của đời sống xã
hội. Năng lực chung cần thiết cho mọi người.
- Năng lực chuyên biệt thường liên quan đến một số môn học cụ thể
hoặc một lĩnh vực hoạt động có tính chuyên biệt, cần thiết ở một hoạt động cụ
thể, đối với một số người hoặc cần thiết ở những bối cảnh nhất định. Các
năng lực chuyên biệt không thể thay thế năng lực chung.
Ở bậc giáo dục trung học phổ thông, năng lực của học sinh không chỉ là
vốn kiến thức, kỹ năng, thái độ sống phù hợp với lứa tuổi mà còn là sự kết
hợp hài hòa của cả ba yếu tố này thể hiện ở khả năng hành động (thực hiện)
hiệu quả, muốn hành động và sẵn sàng hành động (gồm động cơ, ý chí, tự tin,
trách nhiệm xã hội…).
Các tác giả nghiên cứu dự thảo chương trình giáo dục phổ thông sau
2015 phân chia các năng lực chung gồm:
+ Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân gồm: năng lực tự học;
năng lực giải quyết vấn đề; năng lực sáng tạo; năng lực tự quản lý.
+ Nhóm năng lực về quan hệ xã hội gồm: năng lực giao tiếp, năng lực
hợp tác.
+ Nhóm năng lực công cụ gồm: năng lực sử dụng công nghệ thông tin
và truyền thông; năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tính toán.
- Năng lực chuyên biệt thường liên quan đến một số môn học cụ thể
(Ví dụ: năng lực cảm thụ văn học trong môn Ngữ văn) hoặc một lĩnh vực hoạt
động có tính chuyên biệt (Ví dụ: năng lực chơi một loại nhạc cụ); cần thiết ở
một hoạt động cụ thể, đối với một số người hoặc cần thiết ở những bối cảnh
nhất định.
Năng lực của cá nhân thể hiện qua hoạt động có thể quan sát được ở
các tình huống, hoàn cảnh khác nhau và có thể đo lường/đánh giá được. Mỗi
13
hoạt động kiểm tra đánh giá cụ thể phải thu thập được các chứng cứ cốt lõi về
các kiến thức, kỹ năng, thái độ,... được tích hợp trong những tình huống, ngữ
cảnh thực tế.
Năng lực của mỗi cá nhân là một hệ thống từ năng lực bậc thấp như
nhận biết/tìm kiếm thông tin (tái tạo), tới năng lực bậc cao (khái quát
hóa/phản ánh). Ví dụ, theo nghiên cứu của OECD (2004) thì có 3 lĩnh vực
năng lực từ thấp đến cao: tái tạo, kết nối; khái quát/phản ánh. Do vậy, kiểm
tra đánh giá phải bao quát được cả 3 lĩnh vực này. Theo đó, trong nhà trường,
năng lực nhận thức của học sinh được đánh giá theo các cấp độ từ năng lực
bậc thấp như tái hiện/nhận biết, thông hiểu kiến thức, có kỹ năng (biết làm…)
đến năng lực bậc cao như phân tích, khái quát, tổng hợp, đánh giá, sáng tạo.
năng lực ấy được hình thành và phát triển trong suốt quá trình học tập và rèn
luyện của mỗi học sinh trong những điều kiện, bối cảnh cụ thể.
1.1.3.2. Tiếp cận năng lực
Cho đến nay, đã có nhiều quan điểm về tiếp cận năng lực. Tuy chưa
hoàn toàn thống nhất song có thể hiểu tiếp cận năng lực là cách tiếp cận kết
quả đầu ra với mục tiêu dạy học là đảm bảo chất lượng đầu ra - hệ thống năng
lực cần có ở mỗi người học. Trọng tâm của cách tiếp cận này là chú trọng
hình thành và phát triển ở người học năng lực vận dụng tri thức trong những
tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị năng lực giải quyết các tình huống của
cuộc sống và nghề nghiệp; nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là
chủ thể của quá trình nhận thức. Nó khác với cách tiếp cận nội dung - tiếp cận
đầu vào với trọng tâm là trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học
khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau, chưa chú trọng đến chủ thể là người
học, chưa chú trọng đến khả năng ứng dụng tri thức khoa học trong tình
huống thực tiễn.
Trong giáo dục, cách tiếp cận năng lực đã có từ những năm 60 song
14
phải đến những năm 90 của thế kỷ XX mới trở thành xu hướng chung của
giáo dục hiện đại.
1.1.3.3. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực của người học
Năng lực của cá nhân thể hiện qua hoạt động (có thể quan sát được ở
các tình huống, hoàn cảnh khác nhau) và có thể đo lường, đánh giá được. Mỗi
kế hoạch kiểm tra đánh giá cụ thể phải thu thập được các chứng cứ cốt lõi về
các kiến thức, kỹ năng, thái độ,... được tích hợp trong những tình huống, ngữ
cảnh thực tế. năng lực và các thành tố của nó không bất biến mà được hình
thành và biến đổi liên tục trong suốt cuộc sống của mỗi cá nhân. Mỗi kết quả
kiểm tra đánh giá chỉ là một “lát cắt”, do vậy mà mỗi phán xét, quyết định về
học sinh phải sử dụng nhiều nguồn thông tin từ các kết quả kiểm tra đánh giá.
Xu hướng chung của giáo dục toàn cầu hiện nay là chuyển từ dạy học,
kiểm tra đánh giá định hướng nội dung (đánh giá kiến thức, kỹ năng) sang
định hướng tiếp cận năng lực. Theo đó, để chứng minh người học có một
năng lực nào đó cần phải tạo cơ hội cho họ được giải quyết vấn đề trong tình
huống, bối cảnh mang tính thực tiễn. Và khi ấy, thông qua việc phải thực hiện
một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người học sẽ bộc lộ khả năng vận dụng
không chỉ kiến thức, kỹ năng đã được học trong nhà trường mà cả những kinh
nghiệm mình có qua sự trải nghiệm của bản thân để giải quyết vấn đề. Trong
tình huống ấy, người đánh giá có thể đánh giá cả kiến thức, kỹ năng thực
hiện, những giá trị, tình cảm của người học. Nếu đánh giá theo chuẩn kiến
thức kỹ năng chủ yếu thiên về đánh giá mức độ ghi nhớ, tiếp nhận, tái hiện,
phát hiện kiến thức và rèn kỹ năng của người học thì đánh giá theo định
hướng phát triển năng lực quan tâm nhiều đến sự tiến bộ và khả năng của học
sinh được bộc lộ trong quá trình học tập; kích thích được sự tự kiểm tra đánh
giá của các em và kiểm định được chính xác, khách quan thành quả học tập và
mức độ đạt được mục tiêu dạy học .
15
+ Đánh giá theo định hướng phát triển năng lực chú trọng khả năng vận
dụng kiến thức kỹ năng trong những tình huống khác nhau, giải quyết những
vấn đề của thực tiễn. Theo định hướng này cần chú ý đến các nội dung đánh
giá mang tính tổng hợp, tích hợp hướng tới những câu hỏi gắn với việc giải
quyết các tình huống trong cuộc sống phù hợp với học sinh; giúp các em biết
ứng dụng vào thực tiễn; kết nối những vấn đề được học với thực tiễn cuộc
sống. Việc kiểm tra đánh giá này hướng tới khả năng làm phong phú và mở
rộng vốn sống cá nhân của học sinh, kiểm soát những nội dung học tập để
tham gia vào xã hội trên các mặt văn hóa, khoa học…
+ Đánh giá theo định hướng năng lực giúp học sinh có cơ hội bộc lộ
quan điểm, chính kiến cá nhân, suy nghĩ khác nhau (không đi ngược giá trị
chuẩn mực đạo đức và pháp luật) và cách cảm nhận cá nhân, phát triển tư duy
sáng tạo, từ đó biết cách tự học; giúp các em yêu thích, say mê các môn học.
Như vậy, theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học
tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm
của việc đánh giá. Đánh giá KQHT theo NL cần chú trọng khả năng vận dụng
sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Đây là biện
pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, có vai trò
quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh. Hay nói cách
khác, đánh giá theo NL là đánh giá kiến thức, kỹ năng và thái độ trong bối
cảnh có ý nghĩa.
Tham khảo bảng so sánh sau ta có thể hiểu rõ hơn về đặc điểm của
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo tiếp cận năng lực:
16
Bảng 1.1. So sánh kiểm tra đánh giá theo tiếp cận năng lực
Tiêu
chí
so
với kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ năng
sánh
Đánh giá kiến thức, kỹ năng Đánh giá năng lực
- Đánh giá khả năng học sinh - Xác định việc đạt kiến vận dụng các kiến thức, kỹ thức, kỹ năng theo mục tiêu năng đã học vào giải quyết vấn 1. Mục đích của chương trình giáo dục. đề thực tiễn của cuộc sống. chủ yếu
- Đánh giá, xếp hạng giữa - Vì sự tiến bộ của người học
những người học với nhau. so với chính mình.
Gắn với nội dung học tập Gắn với ngữ cảnh học tập và 2. Ngữ cảnh (những kiến thức, kỹ năng, thực tiễn cuộc sống của học đánh giá thái độ) được học trong nhà sinh. trường.
- Những kiến thức, kỹ năng,
thái độ ở nhiều môn học, nhiều
hoạt động giáo dục và những - Những kiến thức, kỹ năng, trải nghiệm của bản thân học thái độ ở một môn học. sinh trong cuộc sống xã hội 3. Nội dung
(tập trung vào năng lực thực đánh giá
hiện).
- Quy chuẩn theo việc người - Quy chuẩn theo các mức độ
học có đạt được hay không phát triển năng lực của người
một nội dung đã được học. học.
4. Công cụ - Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ - Nhiệm vụ, bài tập trong tình
đánh giá trong tình huống hàn lâm huống, bối cảnh thực.
17
Tiêu
chí
so
sánh
Đánh giá kiến thức, kỹ năng Đánh giá năng lực
hoặc tình huống thực.
- Thường diễn ra ở những - Đánh giá mọi thời điểm của 5. Thời điểm thời điểm nhất định trong quá trình dạy học, chú trọng đánh giá quá trình dạy học, đặc biệt là đến đánh giá trong khi học. trước và sau khi dạy.
- Năng lực người học phụ - Năng lực người học phụ thuộc vào số lượng câu hỏi, thuộc vào độ khó của nhiệm vụ nhiệm vụ hay bài tập đã hoặc bài tập đã hoàn thành. hoàn thành.
- Càng đạt được nhiều đơn - Thực hiện được nhiệm vụ
6. Kết quả vị kiến thức, kỹ năng, càng càng khó, càng phức tạp hơn sẽ
đánh giá được coi là có năng lực cao được coi là có năng lực cao
hơn. hơn.
(Nguồn: Báo cáo chuyên đề thuộc Hội thảo đánh giá kết quả giáo dục
dựa theo chương trình giáo dục phổ thông sau 2015”).
Cùng với việc nắm vững đặc điểm của hai cách đánh giá kể trên, để
chuyển từ đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng nội dung
sang định hướng tiếp cận năng lực cần chú ý những điểm sau:
- Chuyển từ tập trung đánh giá cuối môn học, khóa học (đánh giá
tổng kết) sang các hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau
từng chủ đề, từng chương (đánh giá không chỉ dựa vào điểm số cuối kỳ
mà cả quá trình).
- Chuyển từ đánh giá kiến thức, kỹ năng sang đánh giá năng lực vận
18
dụng, giải quyết những vấn đề thực tiễn của người học, đặc biệt chú trọng
đánh giá các năng lực tư duy bậc cao.
- Chuyển từ đánh giá một chiều sang đánh giá đa chiều, kết hợp đánh
giá của thầy và tự đánh giá của trò; học sinh đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá.
- Chuyển đánh giá từ một hoạt động độc lập với quá trình dạy học
(đánh giá về quá trình học tập) sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy
học, xem đánh giá là một phương pháp dạy học (đánh giá vì quá trình học tập
và đánh giá như một hoạt động học tập)
- Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra của môn học/cấp học, có
tính đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng trong
các tình huống thực tiễn.
Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh
giá kiến thức kỹ năng, mà đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao
hơn so với đánh giá kiến thức, kỹ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực
ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề
trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng
những kiến thức, kỹ năng đã được học ở nhà trường, vừa phải dùng những
kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà
trường (gia đình, cộng đồng và xã hội). Như vậy, thông qua việc hoàn thành
một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả
kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người
học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình
giáo dục môn học như đánh giá kiến thức, kỹ năng, bởi năng lực là tổng hòa,
kết tinh kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,…
được hình thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự phát triển tự nhiên về mặt
xã hội của một con người.
19
1.2. Kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản
1.2.1. Văn bản và năng lực đọc hiểu văn bản
1.2.1.1. Khái niệm văn bản
- Trong Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ
biên, từ văn bản có thể hiểu theo hai nghĩa - nghĩa thông dụng là “Bản viết
hoặc in, mang nội dung là những gì cần được ghi để lưu lại làm bằng”; nghĩa
chuyên môn là “Chuỗi kí hiệu ngôn ngữ hay nói chung những kí hiệu thuộc
một hệ thống nào đó, làm thành một chỉnh thể mang một nội dung ý nghĩa
trọn vẹn” [25, tr.1062].
Bài học Văn bản trong SGK Ngữ văn 10 nâng cao bậc THPT hiện
hành có đoạn khái quát về văn bản: “Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, nói
phải nói thành lời, viết phải viết thành bài. Lời nói và bài viết đó là văn
bản. Như vậy, văn bản vừa là phương tiện, vừa là sản phẩm của hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ. Văn bản thường do nhiều câu kết hợp với nhau
tạo thành, như bài thơ, bài báo, đơn xin việc, giấy mời họp…văn bản có
thể ngắn dài khác nhau” [4, tr.14].
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, khái niệm văn bản
cũng được mở rộng để phù hợp hơn. Chương trình PISA đưa ra khái niệm văn
bản là “một tập hợp kí hiệu (hình thức) để biểu đạt một ý nghĩa, hàm chứa
một thông điệp (nội dung)” [dẫn theo 16, tr.5]. Việc mở rộng khái niệm như
vậy được phản ánh trong cách phân loại văn bản. Hiện nay, cách phân loại
văn bản của PISA được dựa trên bốn tiêu chí như sau: theo phương tiện thể
hiện (medium), có văn bản in và văn bản kĩ thuật số; theo môi trường (Ngữ
văn ironment), có văn bản không thể cập nhật thông tin và văn bản có thể cập
nhật thông tin; theo hình thức (text format), có văn bản liên tục, văn bản
không liên tục, văn bản hỗn hợp và văn bản phức hợp; theo thể loại (text
20
type), có văn bản tự sự, văn bản giải thích, văn bản lập luận, văn bản giới
thiệu và kỉ yếu, văn kiện.
Theo đó, xét về mặt chất liệu cấu tạo và hình thức biểu hiện, văn bản
không chỉ giới hạn trong các sản phẩm ngôn ngữ dạng nói hoặc dạng viết mà
có xu hướng bao hàm cả các sản phẩm có sự kết hợp giữa ngôn ngữ và các
loại kí hiệu khác với các hình thức và phương tiện thể hiện đa dạng. Có thể
nói, với tư cách là đối tượng của hoạt động đọc hiểu, VB ngày càng đa dạng
về chất liệu cấu thành, phương thức biểu hiện, đồng thời được nhìn nhận như
một hệ thống mở, đa chiều khi soi chiếu từ người đọc và các hành động đọc.
- Các loại văn bản được dạy học đọc hiểu trong môn Ngữ văn
Trong phần dạy học đọc hiểu ở chương trình Ngữ văn hiện hành tại
Việt Nam, học sinh chủ yếu được học VB văn chương (hay VB văn học).
Ngoài ra còn một khái niệm văn bản được sử dụng trong chương trình là văn
bản nhật dụng. Các văn bản trong chương trình đều được trình bày bằng chữ
viết và in trên giấy. Trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay, chương trình
dạy học Ngữ văn ở nước ta đang tiếp cận với xu thế chung của một số nước
có nền giáo dục tiên tiến là mở rộng phạm vi đọc hiểu cho học sinh thông qua
các loại văn bản đa dạng về ngôn ngữ và hình thức trình bày với các nguồn
cung cấp khác nhau, trong đó việc đọc hiểu các văn bản thông tin gắn với đời
sống rất được chú trọng. Vì vậy văn bản văn chương vẫn có vai trò quan
trọng, nhưng không phải là loại văn bản duy nhất và chiếm số lượng quá lớn.
Cách phân loại văn bản đọc hiểu trong chương trình môn Ngữ văn cũng
rất phong phú, song xét về phương diện nội dung, có thể quy vào hai loại lớn
như tác giả Nguyễn Thị Hồng Nam [10]: văn bản văn chương và văn bản
thông tin. Văn bản văn chương là loại văn bản sử dụng ngôn từ một cách nghệ
thuật, có giá trị thẩm mĩ cao còn văn bản thông tin có thể hiểu rộng là tất cả
21
các loại văn bản còn lại, không sử dụng các yếu tố hư cấu, tưởng tượng, có
mục đích chính là cung cấp thông tin. Trong luận văn, khái niệm văn bản gắn
với kiểm tra năng lực đọc hiểu được sử dụng cũng nhằm hướng tới hai loại
văn bản theo cách phân chia như vậy.
+ Văn bản văn chương (văn bản văn học)
Khái niệm văn bản văn học được hiểu theo nghĩa rộng là “tất cả các
văn bản sử dụng ngôn từ một cách nghệ thuật” [4, tr.45], nghĩa là không chỉ
có các “sáng tác có hình tượng nghệ thuật được xây dựng bằng hư cấu (tức là
tạo ra những hình tượng bằng tưởng tượng) như sử thi, truyền thuyết, truyện
cổ tích, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ, phú,…” [4, tr.45] mà gồm cả các
văn bản mang tính chức năng như hịch, chiếu, biểu, cáo, sử kí của thời trung
đại hoặc kí, tạp văn của thời hiện đại.
Văn bản văn học có những đặc điểm riêng về ngôn từ, về hình tượng,
về ý nghĩa và đặc điểm, về cá tính sáng tạo của nhà văn. Khi xây dựng hệ
thống câu hỏi trong một bài văn bản văn chương cần chú ý đến những đặc
điểm cơ bản này.
+ Văn bản thông tin:
Khác với văn bản văn chương, văn bản thông tin chủ yếu được viết để
truyền đạt thông tin hoặc kiến thức. Về cơ bản, chúng ta đọc loại văn bản này
để chuyển hóa các thông tin hoặc kiến thức thành tri thức của mình với mục
đích sử dụng luôn trong học tập và đời sống làm tư liệu cho mai sau.
Văn bản thông tin bao giờ cũng trình bày thông tin một cách khách
quan, cung cấp những thông tin chi tiết giúp người đọc người nghe hiểu
những gì mô tả bằng cách tổ chức hoặc phân loại thông tin. Trong văn bản,
tác giả sử dụng những cách thức hoặc phương tiện, tính năng để hỗ trợ
người đọc trong việc tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả
22
(bảng nội dung, chỉ số, chữ in đậm, in nghiêng, chú giải vốn từ vựng
chuyên ngành...)
Văn bản thông tin thường xuất hiện trong sách giáo khoa các môn học,
các tài liệu quảng cáo, các báo hoặc trang web... được viết theo các phong
cách ngôn ngữ như sinh hoạt, báo chí, chính luận, khoa học, hành chính... Đây
là loại văn bản rất phổ biến và hữu dụng trong học tập và đời sống sinh hoạt
của mỗi cá nhân. Bởi vậy việc đọc hiểu loại văn bản này có tính thực tiễn cao.
1.2.1.2. Năng lực đọc hiểu văn bản
a. Khái niệm năng lực đọc hiểu văn bản
- Các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đã đưa ra rất nhiều định
nghĩa về đọc hiểu.
Đọc hiểu là năng lực nhận thức phức tạp yêu cầu khả năng tích hợp
thông tin trong văn bản với tri thức người đọc (Anderson và Pearson, 1984)
Đọc hiểu là một quá trình tương tác xảy ra giữa một người đọc và một
văn bản (Rumelhart, 1994)
Đọc hiểu là một quá trình tư duy có chủ tâm, trong suốt quá trình này, ý
nghĩa được kiến tạo thông qua sự tương tác giữa văn bản và người đọc
(Durkin, 1993)
Theo lí thuyết giao tiếp và tương tác xã hội, một số tác giả trình bày
khái niệm đọc hiểu tập trung làm rõ chức năng của đọc hiểu trong việc hình
thành năng lực tham gia vào xã hội của người đọc: đọc hiểu là một hoạt động
giao tiếp ở đó người đọc lĩnh hội lời nói đã được viết thành văn bản nhằm làm
thay đổi những hiểu biết, tình cảm, hoặc hành vi của chính mình (Nguyễn Thị
Hạnh, 2002)
Trong số các định nghĩa về đọc hiểu, phải kể tới định nghĩa của PISA.
PISA phân biệt: đọc hường được hiểu một cách đơn giản là giải mã, thậm chí
23
chỉ là đọc thành tiếng còn đọc hiểu là một phạm vi rộng, bao gồm các năng
lực nhận thức với nhiều cấp độ, từ việc giải mã cơ bản đến việc hiểu ý nghĩa
các từ, các cấu trúc, đặc điểm về ngữ pháp, về ngôn ngữ ở cấp độ rộng hơn,
về văn bản, cho đến việc hiểu biết về thế giới. Nó cũng bao gồm cả những
năng lực siêu nhận thức: sự hiểu biết về nhiều chiến thuật thích hợp và khả
năng sử dụng chúng trong quá trình xử lí các văn bản. Từ những khảo sát cụ
thể PISA đã định nghĩa: “ đọc hiểu là sự hiểu, sử dụng, phản ánh và gắn kết
với các văn bản viết nhằm đạt được các mục tiêu đọc, phát triển hiểu biết và
tiềm năng của người đọc cũng như nhằm tham gia vào xã hội”
Dù nhìn từ góc độ nào, các tác giả cũng thống nhất với nhau những dấu
hiệu cốt lõi của khái niệm đọc hiểu, đó là:
- Đọc hiểu là một hoạt động nhận thức. Đối tượng của đọc hiểu là ý
nghĩa của văn bản. Hoạt động đọc hiểu là hoạt động tương tác giữa người đọc
và văn bản.
- Mục đích của đọc hiểu là nhằm phát triển tri thức, liên kết cá nhân
người đọc với môi trường sống để mỗi người đọc học tập và làm việc chuyên
môn, duy trì cuộc sống.
Từ những dấu hiệu cốt lõi trên ta có thể thấy, mặc dù không đi kèm với
thuật ngữ năng lực song rõ ràng, để đọc hiểu được văn bản, người đọc cần
phải có năng lực để đạt được mục đích cuối cùng của quá trình “đọc” là sự
“hiểu” văn bản .Từ việc xác định bản chất, đặc trưng của năng lực (thể hiện
qua hoạt động, đem lại hiệu quả trong bối cảnh cụ thể) và hoạt động đọc hiểu
(quá trình tương tác tích cực, tạo nghĩa), kết hợp vận dụng các định nghĩa
trên, chúng tôi quan niệm: năng lực đọc hiểu văn bản là sự tương tác tích cực
giữa người đọc với văn bản tạo nên những hiểu biết, phản hồi, sử dụng đối
với văn bản trong bối cảnh cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu đọc và tự phát
24
triển các tiềm năng của bản thân.
b. Các yếu tố cấu thành năng lực đọc hiểu văn bản
Để xác định các yếu tố cấu thành năng lực đọc hiểu, cần tìm hiểu các
yếu tố cấu thành năng lực nói chung. Năng lực được cấu thành từ những yếu
tố cơ bản: tri thức về lĩnh vực hoạt động; kĩ năng tiến hành hoạt động; những
điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện tri thức, kĩ năng đó trong một cơ cấu
thống nhất và theo một định hướng rõ ràng, chẳng hạn ý chí - động cơ, tình
cảm - thái độ đối với nhiệm vụ,…
Theo đó, năng lực đọc hiểu cũng có các yếu tố cấu thành như những
năng lực khác. Nó bao gồm những yếu tố cấu thành như tri thức về văn
bản, về chiến lược ĐH; kĩ năng thực hiện các hành động, thao tác ĐH; sự
sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống cần
đến đọc hiểu.
- Yếu tố tri thức về văn bản, về chiến lược đọc hiểu
Tri thức về văn bản là những hiểu biết về từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp
có trong văn bản, là những hiểu biết về cấu trúc, thể loại của văn bản. Người
đọc muốn nắm bắt được ý nghĩa của văn bản thì việc đầu tiên là phải hiểu ý
nghĩa của các từ ngữ trong văn bản, hiểu được cách diễn đạt của tác giả thông
qua các mô hình ngữ pháp được tác giả sử dụng trong văn bản. Từ ngữ trong
văn bản không chỉ có nghĩa hiển ngôn mà mang nghĩa hàm ngôn; nhiều hình
ảnh, chi tiết trong văn bản mang nghĩa biểu tượng. Do đó người đọc cần biết
cách dựa trên các nghĩa hiển ngôn và sự liên kết với bối cảnh của văn bản mà
thực hiện các thao tác suy ý để tìm ra nghĩa hàm ẩn có trong văn bản. Cấu
trúc của văn bản cũng là một yếu tố chuyển tải ý nghĩa hoàn chỉnh của văn
bản đến với người đọc, do vậy người đọc cần nắm được cấu trúc của từng loại
văn bản. Mỗi văn bản đều thuộc về một thể loại, ở mỗi thể loại, nội dung văn
25
bản được tổ chức theo cách khác nhau, được thể hiện bằng cách thức diễn đạt
khác nhau của ngôn từ. Do đó để hiểu ý nghĩa một văn bản, rất cần có những
hiểu biết về thể loại của văn bản đó hỗ trợ.
Chiến lược đọc hiểu là một tiến trình thực hiện các hoạt động, hành
động, thao tác đọc hiểu. Tiến trình đó bao gồm những hoạt động: ghi nhớ và
nhận biết thông tin; hiểu thông tin, rút ra thông tin từ văn bản; phản hồi thông
tin trong văn bản, vận dụng thông tin trong văn bản vào tình huống tương tự;
đánh giá thông tin trong văn bản; vận dụng thông tin trong văn bản vào giải
quyết vấn đề ở những tình huống khác với những mục đích khác trong học
tập, đời sống
- Yếu tố kĩ năng thực hiện các hoạt động, thao tác đọc hiểu
Yếu tố kĩ năng thực hiện các hoạt động, hành động, thao tác đọc hiểu
là khả năng thực hiện đúng hành động, hoạt động phù hợp với những mục
tiêu và điều kiện cụ thể tiến hành đọc hiểu mỗi văn bản. Kĩ năng đọc hiểu bao
gồm chuỗi các thao tác, hành vi của người đọc được sắp xếp theo một cấu
trúc hay một trình tự nhất định.
Để thực hiện đọc hiểu, đầu tiên học sinh cần biết thực hiện các hành
động làm tiền đề cho đọc hiểu là: đọc thầm, đọc lướt, đọc quét.
Tiếp đó là các hành động ghi nhớ và nhận biết thông tin. Để thực hiện
hành động này, học sinh phải trải qua một hoặc một số thao tác sau: nhắc lại
nguyên văn thông tin có trong văn bản, nhắc lại thông tin bằng lời khác so với
lời trong văn bản, điền thông tin trong văn bản vào chỗ trống, chọn thông tin
trong văn bản ở bối cảnh có nhiễu (câu hỏi có nhiều câu trả lời để lựa chọn)...
Tiếp theo là những hành động hiểu ý nghĩa của văn bản. Loại hành
động này được thực hiện bằng các thao tác: hiểu nghĩa của từ, hiểu nghĩa
tường minh và nghĩa hàm ẩn của các thông tin, giải thích, cắt nghĩa, phân
26
tích, phân loại, kết nối, so sánh thông tin, nắm được ý chính của đoạn
trong văn bản, dàn ý hóa văn bản, hiểu mối quan hệ giữa các thông tin
trong văn bản, nêu được các thủ pháp nghệ thuật kiến tạo ý nghĩa của văn
bản văn chương...
Sau hành động hiểu văn bản là những hành động áp dụng văn bản vào
những nhiệm vụ nhằm thay đổi nhận thức, tình cảm, quan điểm của chính
người đọc. Hành động này còn gọi là hành động vận dụng văn bản bậc thấp.
Hành động vận dụng văn bản bậc thấp được thực hiện bằng các thao tác: đưa
ra ý kiến cá nhân của người đọc về một hoặc một số thông tin trong văn bản,
rút ra được thông tin từ các chi tiết trong văn bản, dùng thông tin trong văn
bản để thực hành giải quyết vấn đề đơn giản tương tự như vấn đề nêu trong
văn bản...
Hành động phản hồi văn bản được diễn ra trên cơ sở hành động hiểu
văn bản. Để thực hiện hành động phản hồi văn bản, học sinh cần thực hiện
các thao tác: liên kết thông tin trong văn bản với kinh nghiệm, với những điều
các em quan tâm; đưa ra những nhận định về độ tin cậy của văn bản, đưa ra
nhận xét về tính cần thiết của nội dung văn bản với nhiệm vụ học tập các em
đang làm, với những trải nghiệm của bản thân các em trong cuộc sống...
- Yếu tố sự sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ
trong đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu.
Hoạt động vận dụng văn bản vào giải quyết các nhiệm vụ trong học
tập, trong đời sống là hành động cuối cùng của quá trình đọc hiểu. Hoạt động
này thể hiện mục đích cuối cùng của đọc hiểu, đồng thời cũng là hành động
thể hiện đọc hiểu là một năng lực chung của mỗi người, góp phần làm cho
mỗi người đọc có thể tham gia vào xã hội bằng cách thay đổi nhận thức, tình
cảm hành vi của chính mình, đưa ra các giải pháp để giải quyết vấn đề trong
đời sống mà mình đã học được từ các văn bản đọc hiểu. Để thực hiện hoạt
27
động vận dụng này, học sinh phải tiến hành một số hành động, thao tác: suy
luận để bàn luận về những vấn đề trong cuộc sống có thể giải quyết bằng sự
học hỏi từ nội dung văn bản, trình bày những giải pháp giải quyết một vấn đề
cụ thể (là một nhiệm vụ trong học tập, trong đời sống) từ sự học tập nội dung
của văn bản...
1.2.2. Kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh trong dạy
học môn Ngữ văn
Kiểm tra chất lượng học tập môn Ngữ văn cần căn cứ vào chuẩn giáo
dục phổ thông - kết quả đầu ra ở mức độ tối thiểu cần đạt về phẩm chất, năng
lực cần đạt của học sinh sau khi kết thúc mỗi cấp học.
Theo định hướng phát triển năng lực, học sinh phổ thông cần được hình
thành và phát triển các năng lực chung và năng lực chuyên biệt. Môn Ngữ văn
hướng đến các năng lực chuyên biệt sau:
- Nhóm năng lực tiếp nhận ngôn bản thông qua đọc và nghe các ngôn
bản thuộc các phong cách nghệ thuật, khoa học, hành chính, nghị luận (nghe,
đọc hiểu, cảm thụ văn học).
- Nhóm năng lực tạo lập ngôn bản thuộc các phong cách nghệ thuật,
khoa học, hành chính, nghị luận (nói, viết, trình bày các văn bản viết tay và
điện tử).
- Nhóm năng lực sử dụng tiếng Việt để làm công cụ giao tiếp xã hội,
học tập (thông tin, trình bày kinh nghiệm, quan điểm, học tập và các hoạt
động xã hội.
Kết quả đầu ra của môn học, cũng được định hướng là học sinh biết
chọn đọc các văn bản có quan điểm riêng về bài đọc và có thể đưa ra những
lời giải thích khác nhau về bài đọc với bạn và với giáo viên, xác định được bố
cục và các điểm chính của văn bản quen thuộc... đọc thêm một số đoạn văn
bản mình thích.
28
Hiện nay, chương trình Ngữ văn THPT chưa chú trọng nội dung thực
hành rèn luyện kĩ năng, năng lực thực tế cho học sinh nên kiểm tra đánh giá
chủ yếu hướng vào một số năng lực cơ bản như năng lực giao tiếp, nnawng
lực đọc hiểu, tiếp nhận và năng lực tạo lập văn bản. Trong luận văn, chúng tôi
chủ yếu trình bày những nội dung về đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh
trong môn học này.
Đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh là đánh giá khả năng vận dụng
tổng hợp những kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm để đọc và hiểu những vấn
đề đặt ra trong một văn bản bất kì, đánh giá được giá trị của văn bản đó cả về
nội dung lẫn hình thức thể hiện. Ở trường trung học, việc rèn kĩ năng đọc hiểu
rất được coi trọng. Phần lớn bài học trong chương trình và SGK hiện nay là
bài học về văn bản văn học. Tuy nhiên, càng lên khối lớp cao hơn, nhất là ở
các khối lớp của cấp THPT, việc dạy học đọc hiểu văn bản còn nhiều vấn đề
cần quan tâm. Trước đây, trong các nhà trường, do áp lực thi cử, tình trạng
giáo viên “đọc hộ”, “hiểu hộ”, “cảm thụ hộ” học sinh diễn ra khá phổ biến.
Trong các giờ dạy học văn bản văn học, học sinh thường nghe và ghi chép lại
những bài giảng của giáo viên hơn là tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá
văn bản. Hơn nữa, văn bản được đọc hiểu chủ yếu là văn bản văn học, có rất ít
văn bản nhật dụng được đưa vào chương trình, SGK. Do vậy, qua các giờ học
Ngữ văn, học sinh ít được rèn kĩ năng đọc hiểu văn bản. Việc đánh giá năng
lực đọc hiểu của học sinh hiện nay thường diễn ra dưới hai hình thức: kiểm tra
miệng (yêu cầu học sinh nhắc lại một nội dung nào đó của bài học đã ghi chép
trong vở) và kiểm tra viết (viết về một vấn đề nào đó của văn bản đã học).
Hình thức này chưa đánh giá được năng lực đọc hiểu các loại văn bản khác
nhau của người học.
Vì vậy, những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiên đổi
mới đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh bằng việc đưa ra những văn bản
29
mới (bao gồm cả văn bản văn học và văn bản thông tin, có cùng đề tài, chủ đề
hoặc thể loại với văn bản đã học trong chương trình, SGK), yêu cầu học sinh
vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã có vào việc đọc hiểu và cảm thụ văn
bản mới này. Đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh cần được tiến hành
thường xuyên trong các bài kiểm tra từ 1-2 tiết, bài kiểm tra học kì, kiểm tra
cuối năm, thi THPT Quốc gia.
Các câu hỏi đánh giá kĩ năng đọc hiểu và cảm thụ được thiết kế theo
hướng vận dụng cách làm của PISA kết hợp với cách hỏi truyền thống bao
gồm: câu hỏi mở yêu cầu trả lời ngắn; câu hỏi mở yêu cầu trả lời dài; câu hỏi
đóng yêu cầu trả lời dựa trên những trả lời có sẵn; câu hỏi trắc nghiệm khách
quan nhiều lựa chọn; câu hỏi có - không, đúng - sai phức hợp.
Cùng với bộ công cụ, cần xây dựng được hướng dẫn chấm đảm bảo
tính khoa học và chính xác. Hiện nay cách xây dựng hướng dẫn chấm có thể
theo điểm số hoặc theo mã hóa câu trả lời (theo hướng PISA). Đối với bộ
công cụ là các câu hỏi mở, một trong những cách chấm điểm là xây dựng
rubric, đó là một tập hợp các tiêu chí và minh chứng xác định các cách trả lời
câu hỏi của học sinh cùng với những chỉ số thực hiện đối với mỗi kết quả
được quy định ở một mức chuẩn cụ thể. Những chỉ số này được trình bày rõ
ràng để tất cả mọi người có thể hiểu học sinh cần phải làm gì, kết quả ra sao
và minh chứng được kết quả học tập ở mỗi một mức độ (tốt, khá, trung bình
hay không đạt). Việc chấm điểm theo rubric cung cấp những thông tin cụ thể,
xác thực giúp cho việc phân tích, xử lí kết quả đánh giá được chính xác,
khách quan.
30
1.2.3 Câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản
1.2.3.1 Câu hỏi
Câu hỏi là phát ngôn được đưa ra với mục đích chính nhằm nhận được
thông tin cụ thể về vấn đề được hỏi từ phía người trả lời. Câu hỏi được xem là
bộ công cụ chủ yếu có vai trò quan trọng trong khâu kiểm tra đánh giá kết quả
dạy học. Mục đích của hệ thống câu hỏi là thu thập những thông tin về kết
quả thực hiện những mục tiêu và kiến thức, kĩ năng, thái độ của người học
trong quá trình dạy học từ đó đánh giá được năng lực, trình độ của học sinh.
Xây dựng hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá trong các môn học phải xuất
phát từ đặc trưng bộ môn, đến mục tiêu đánh giá các mức độ phát triển năng
lực của học sinh để lựa chọn dạng câu hỏi phù hợp.
Các yếu tố quan trọng trong đánh giá việc đổi mới xây dựng câu hỏi là:
sự đa dạng của câu hỏi, chất lượng câu hỏi, sự lồng ghép các dạng câu hỏi
trong giờ học và sự liên kết với nhau của các câu hỏi.
1.2.3.2. Câu hỏi kiểm tra đánh giá năng lực người học
a. Những đặc điểm của câu hỏi định hướng năng lực
- Câu hỏi được xây dựng trên cơ sở chuẩn: câu hỏi luyện tập bảo đảm
nắm vững tri thức cơ sở; lập luận, lí giải, phản ánh để phát triển và củng cố tri
thức mở rộng, chuyển giao, đào sâu và kết nối, xây dựng tri thức thông minh.
- Có nhiều mức độ khác nhau từ dễ đến khó, mô tả tri thức và kỹ năng
yêu cầu định hướng theo kết quả .
- Liên kết các nội dung qua các năm, các cấp học, vận dụng thường
xuyên cái đã học, kết nối với kinh nghiệm đời sống, nhận biết được sự gia
tăng của năng lực.
- Khuyến khích cá nhân đưa ra các giải pháp gắn với các tình huống và
bối cảnh cụ thể; phát huy tinh thần trách nhiệm đối với việc học của bản thân.
31
b. Các bậc trình độ trong đề kiểm tra theo định hướng năng lực
Về phương diện nhận thức, người ta chia các mức quá trình nhận thức
và các bậc trình độ nhận thức tương ứng như sau:
Bảng 1.2. Các bậc trình độ nhận thức trong kiểm tra đánh giá NL
Các quá trình Các bậc trình độ Các đặc điểm
nhận thức
1. Hồi tưởng Tái hiện - Nhận biết lại cái gì đã học theo cách
thông tin Nhận biết lại thức không thay đổi.
Tái tạo lại - Tái tạo lại cái đã học theo cách thức
không thay đổi.
2. Xử lý Hiểu thông tin - Phản ánh theo ý nghĩa cái đã học.
thông tin Nắm bắt ý nghĩa - Vận dụng các cấu trúc đã học trong
Vận dụng tình huống tương tự.
3. Tạo thông Xử lí, giải quyết - Nghiên cứu có hệ thống và bao quát
tin vấn đề một tình huống bằng những tiêu chí
riêng.
- Vận dụng các cấu trúc đã học sang
một tình huống mới.
- Đánh giá một hoàn cảnh, tình huống
thông qua những tiêu chí riêng
Dựa trên các bậc nhận thức và chú ý đến đặc điểm của học tập định
hướng năng lực, có thể xây dựng câu hỏi tập theo các dạng:
- Dạng câu hỏi tái hiện: Yêu cầu sự hiểu và tái hiện tri thức. Câu hỏi tái
hiện không phải trọng tâm của bài tập định hướng năng lực.
32
- Dạng câu hỏi vận dụng: Các câu hỏi vận dụng những kiến thức trong
các tình huống không thay đổi. Các câu hỏi này nhằm củng cố kiến thức và
rèn luyện kỹ năng cơ bản, chưa đòi hỏi sáng tạo.
- Dạng câu hỏi giải quyết vấn đề: Các câu hỏi này đòi hỏi sự phân tích,
tổng hợp, đánh giá, vận dụng kiến thức vào những tình huống thay đổi, giải
quyết vấn đề. Dạng câu hỏi này đòi hỏi sự sáng tạo của người học.
- Các câu hỏi gắn với bối cảnh, tình huống thực tiễn: Các câu hỏi vận
dụng và giải quyết vấn đề gắn các vấn đề với bối cảnh và tình huống cụ thể
diễn ra trong đời sống thực tiễn. Những câu hỏi này là những câu hỏi mở, tạo
cơ hội cho nhiều cách tiếp cận, nhiều con đường giải quyết khác nhau.
1.2.3.3. Câu hỏi kiểm tra, đánh giá năng lực môn Ngữ văn
Trong quá trình dạy học, giáo viên thường sử dụng hai hình thức kiểm
tra: kiểm tra miệng và kiểm tra viết. Kiểm tra viết giúp giáo viên nắm bắt
được trình độ, năng lực của tất cả học sinh trong lớp tại một thời điểm, đồng
thời có thể kiểm tra được nhiều mạch kiến thức, kĩ năng, từ bao quát đến cụ
thể. Kiểm tra viết không chỉ nhằm đánh giá kết quả học tập chung của lớp học
mà còn đánh giá chất lượng học tập của mỗi học sinh, vì vậy trong đề kiểm
tra nên có những câu hỏi phân hoá trình độ học sinh.
- Dạng thiết kế câu hỏi trong đề kiểm tra đánh giá năng lực môn Ngữ văn
+ Câu hỏi trắc nghiệm tự luận: Trong kiểm tra đánh giá, giáo viên
thường sử dụng câu hỏi trắc nghiệm tự luận (cách nói thông thường hiện nay
là tự luận). Đây là loại câu hỏi thường được sử dụng,yêu cầu học sinh phải trả
lời bằng cách suy nghĩ và diễn đạt qua ngôn ngữ (nói và viết). Việc sử dụng
loại câu hỏi này có ưu điểm là đánh giá được khả năng diễn đạt của học sinh,
giúp giáo viên thấy được quá trình tư duy của học sinh để đi đến đáp án, trong
một số trường hợp dễ biên soạn đề, dễ xây dựng biểu điểm. Tuy nhiên, nhược
điểm của cách kiểm tra này là đôi khi thiếu tính khách quan trong đánh giá
33
học sinh, việc đánh giá phụ thuộc nhiều vào chủ quan của người chấm. Bài
kiểm tra viết lại thường khó chấm, mất nhiều thời gian nên mức độ tin cậy
qua điểm số của bài tự luận là hạn chế; mặt khác lại dễ gây tâm lí học tủ, học
lệch cho học sinh, dễ nảy sinh hiện tượng tiêu cực như quay cóp, sao chép từ
bài mẫu.
+ Câu hỏi trắc nghiệm khách quan: trắc nghiệm khách quan (cách nói
thông thường hiện nay là trắc nghiệm) là cách kiểm tra yêu cầu học sinh lựa
chọn đáp án đúng hoặc đúng nhất từ những câu trả lời đó có sẵn cho mỗi câu
hỏi, hoặc đưa ra một phương án trả lời duy nhất đúng cho câu hỏi. Có nhiều
dạng thức trắc nghiệm khách quan, song hiện nay thường sử dụng 4 dạng thức
sau: câu hỏi nhiều lựa chọn; câu điền khuyết; câu đúng - sai; câu ghép đôi.
Theo định hướng về kiểm tra đánh giá của Chương trình giáo dục phổ
thông hiện hành, để phát huy những ưu điểm và hạn chế tối đa các nhược
điểm của mỗi hình thức kiểm tra, cần có sự kết hợp một cách hợp lí cả 2 dạng
trắc nghiệm khách quan và trắc nghiệm tự luận. Đối với môn Ngữ văn THPT
thì một trong những nội dung rất quan trọng mà việc đánh giá cần hướng tới
là năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn học nghệ thuật một cách chủ
động, tích cực của mỗi học sinh cũng như năng lực tư duy và giao tiếp bằng
tiếng Việt. Những năng lực này chỉ có thể được bộc lộ qua việc tạo lập các
văn bản (nói và viết). Do vậy, việc yêu cầu học sinh thực hiện những bài tập
tự luận vẫn là một cách ra đề rất cần thiết trong môn học Ngữ văn, và trong
một bài kiểm tra tổng hợp thì việc phân bố thời lượng cũng như điểm số đối
với các câu hỏi tự luận không thể dưới 50% tổng điểm toàn bài. Tất nhiên,
việc kiểm tra bằng hình thức tự luận rất cần có sự đổi mới để phù hợp với
mục tiêu, nội dung và phương pháp học tập mới.
Với hình thức kiểm tra tự luận, trong việc ra đề không nên cho học sinh
viết dài mà yêu cầu viết có giới hạn dung lượng, có cân nhắc suy nghĩ để gíáo
34
viên có thể chấm cả ý lẫn văn. Cần chú ý ra các câu hỏi nhằm khai thác văn
bản ở nhiều phương diện (cả về Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn) thể hiện được
yêu cầu tích hợp của chương trình. Trong câu hỏi/bài tập và đề tự luận, ngoài
hình thức câu hỏi luận đề, giáo viên có thể đa dạng hoá các cách ra đề khác
như: tìm ý, đề xuất ý, viết đoạn văn (mở bài, kết luận, triển khai một ý của
thân bài), tóm tắt văn bản, chữa câu, đoạn, viết theo mẫu, theo gợi ý,... Như
vậy trong một bài kiểm tra không chỉ có một câu hỏi tự luận (viết một bài văn
hoàn chỉnh) mà có thể có nhiều câu với yêu cầu khác nhau và số điểm được
phân bố khác nhau, giúp cho việc bao quát các nội dung học tập được thực
hiện thuận lợi.
- Một số yêu cầu cơ bản về kĩ thuật biên soạn câu hỏi kiểm tra tự luận môn
Ngữ văn:
Để phát huy ưu điểm của câu hỏi trắc nghiệm tự luận và hạn chế độ
thiên lệch, thiếu khách quan của việc chấm bài, cần lưu ý một số điểm chính
như sau: đảm bảo sao cho câu hỏi trắc nghiệm tự luận phù hợp với mục tiêu
học tập; câu hỏi cần rõ ràng và xác định để học sinh hiểu rõ nhiệm vụ mà
mình phải thực hiện; cần cho học sinh biết các tiêu chí được sử dụng để đánh
giá bài tự luận; nên sử dụng những câu hỏi khuyến khích tư duy sáng tạo, bộc
lộ óc phê phán và ý kiến cá nhân của học sinh; có thể cho giới hạn độ dài (số
từ hoặc số trang, dòng); đảm bảo đủ thời gian để học sinh làm bài khi làm ở
lớp hoặc thời hạn nộp bài khi làm ở nhà. Khi ra đề bài tự luận có cấu trúc gồm
nhiều câu, nên quy định tỷ lệ điểm cho mỗi phần, và khi chấm bài nên chấm
điểm từng phần cho mọi học sinh.
Các yêu cầu về kĩ thuật được nêu ra trên đây đồng thời cũng là những
tiêu chí quan trọng để đánh giá về tính chuẩn hoá của các câu hỏi trắc nghiệm
tự luận trong môn học Ngữ văn.
35
1.2.3.4 Câu hỏi kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu trong dạy học môn Ngữ văn
- Câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu được xem là bộ công cụ đánh giá
năng lực Ngữ văn của người học. Trong phần đọc hiểu ở đề kiểm tra môn
Ngữ văn, người ra đề thường sử dụng dạng câu hỏi tự luận ngắn yêu cầu
người tiếp nhận phát hiện, lý giải, nhận xét, đánh giá và trình bày ngắn gọn
những cảm nhận, suy nghĩ, kiến giải riêng của bản thân về vấn đề đặt ra trong
văn bản.
- Câu hỏi, bài tập đọc hiểu văn bản thường tập trung vào các vấn đề sau :
+ Nội dung của văn bản: đề tài, chủ đề, ý chính của văn bản hay đoạn, câu.
+ Hình thức của văn bản: thể loại, bố cục, phương thức biểu đạt, phong
cách ngôn ngữ, các biện pháp tu từ, chi tiết, hình ảnh, sự kiện, thông tin….
- Các câu hỏi, bài tập đọc hiểu văn bản được chia làm 3 mức độ: nhận
biết, thông hiểu, vận dụng với những định hướng cơ bản sau đây:
+ Nhận biết: nhận biết đề tài, thể loại, phương thức biểu đạt, phong
cách ngôn ngữ, các biện pháp tu từ, chi tiết, hình ảnh, các sự kiện…; nhận
biết các thông tin được thể hiện phản ánh trực tiếp trong văn bản; diễn đạt
hoặc mô tả lại nội dung của văn bản bằng ngôn ngữ của mình.
+ Thông hiểu: nêu chủ đề hoặc nội dung chính của văn bản; sắp xếp,
phân loại được thông tin trong văn bản; kết nối, đối chiếu mối quan hệ của
các thông tin để lý giải nội dung văn bản; cắt nghĩa, lý giải nội dung, ý nghĩa
các từ ngữ, các biện pháp tu từ, chi tiết, sự kiện, thông tin có trong văn bản;
dựa vào nội dung văn bản để lý giải hoặc giải quyết các tình huống, vấn đề
tương tự tình huống, vấn đề trong văn bản.
+ Vận dụng: đánh giá nội dung và hình thức của văn bản: bày tỏ ý kiến,
quan điểm, thái độ của bản thân trên cơ sở kết nối giữa nội dung, ý nghĩa của
văn bản với thực tiễn cuộc sống, với những quan niệm, hiểu biết về thế giới
36
xung quanh; vận dụng ý nghĩa hoặc bài học rút ra từ văn bản để giải quyết
những vấn đề của thực tiễn, thể hiện được trải nghiệm của bản thân.
Tiểu kết chương 1
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh là yếu tố không thể tách
rời của quá trình dạy học. Trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay, đổi
mới công tác kiểm tra đánh giá rất được chú trọng theo hướng chuyển từ kiểm
tra đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực người học. Kiểm tra
đánh giá năng lực học sinh có vai trò vô cùng quan trọng, tạo động lực thúc
đẩy quá trình dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học. Ở bộ
môn Ngữ văn, kiểm tra đánh giá năng lực người học chú trọng đánh giá năng
lực đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Để công tác kiểm tra, đánh giá đạt
hiệu quả cao người giáo viên dạy Ngữ văn cần xây dựng đề kiểm tra đánh giá
có chất lượng với bộ câu hỏi có tính hệ thống, khoa học. Trong công tác ra đề
kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn, việc rèn kĩ năng xây dựng câu hỏi đánh giá
năng lực đọc hiểu văn bản là vô cùng cần thiết.
37
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG CÂU HỎI
TRONG ĐỀ KIỂM TRA NĂNG LỰC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Thực trạng xây dựng câu hỏi kiểm tra, đánh giá năng lực đọc hiểu
văn bản trong dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT hiện nay
2.1.1 Thực trạng kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở trường THPT
Kiểm tra - đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình dạy học, là động
lực thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng giáo dục.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện giáo dục hiện nay, đổi
mới kiểm tra đánh giá là vấn đề được đặt lên hàng đầu...Tuy nhiên thực tế
hoạt động kiểm tra - đánh giá của nhà trường nói chung và môn Ngữ văn nói
riêng vẫn còn một số vấn đề đáng quan tâm.
2.1.1.1. Nhận thức về đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
Hiện nay, nhận thức của đại đa số giáo viên về đổi mới kiểm tra đánh
giá theo hướng tiếp cận năng lực chưa thật đầy đủ. Hiện tượng thiên về kiểm
tra đánh giá mức độ học thuộc lòng, kiểm tra ghi nhớ một cách đơn thuần còn
khá phổ biến. Người ra đề thường dừng lại ở mức độ kiểm tra đánh giá kiến
thức lý thuyết, khả năng ghi nhớ (nhận biết, tái hiện), ít đặt ra yêu cầu kiểm
tra đánh giá mức độ thông hiểu và khả năng vận dụng tri thức. Đề kiểm tra
thường nặng về đòi hỏi học sinh tái hiện kiến thức mà chưa chú trọng đến
việc rèn kĩ năng, dẫn đến tình trạng ứng phó với thi cử cụ thể là gây ra tình
trạng học vẹt, học lệch, học tủ, ghi nhớ máy móc không hiểu bản chất vấn đề,
thiếu kĩ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn, khả năng phân
tích, suy luận, khái quát còn hạn chế.
38
2.1.1.2. Công tác ra đề, phản biện đề
Đánh giá kết quả học tập của học sinh cần sử dụng phối hợp nhiều công
cụ, phương pháp và hình thức khác nhau. Đề kiểm tra là một trong những
công cụ được dùng khá phổ biến để đánh giá kết quả học tập của học sinh sau
khi học xong một chủ đề, một chương, một học kì, một lớp hay một cấp học.
Khi biên soạn đề kiểm tra, giáo viên cần căn cứ vào mục đích yêu cầu cụ thể
của việc kiểm tra, căn cứ chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình và thực tế
học tập của học sinh để xây dựng mục đích của đề kiểm tra cho phù hợp.
Song trên thực tế, việc xác định mục đích của đề kiểm tra cũng chưa được
nhận thức đầy đủ, rõ ràng mà đôi khi còn nặng về cảm tính. Khi thiết lập ma
trận đề kiểm tra, người ra đề cần chú ý đến sự tương ứng giữa nội dung (mạch
kiến thức, kĩ năng chính) cần đánh giá với các cấp độ nhận thức của học sinh
từ nhận biết, thông hiểu đến vận dụng (vận dụng ở cấp độ thấp và vận dụng ở
cấp độ cao). Đề kiểm tra cũng phải đảm bảo được tính cân đối giữa chuẩn
kiến thức kĩ năng chương trình cần đánh giá, tỉ lệ % số điểm, số lượng câu hỏi
và tổng số điểm của các câu hỏi. Số lượng câu hỏi trong các phần của đề phụ
thuộc vào mức độ quan trọng của mỗi chuẩn cần đánh giá, lượng thời gian
làm bài kiểm tra và trọng số điểm quy định cho từng mạch kiến thức, từng cấp
độ nhận thức. Nhiều giáo viên còn lúng túng khi ra đề, phản biện đề, chưa
phân biệt rạch ròi các câu hỏi ứng với từng cấp độ nhận thức. Ở cấp độ nhận
biết, đề yêu cầu học sinh nhớ được các khái niệm cơ bản, có thể nêu lên hoặc
nhận ra chúng khi được yêu cầu. Các từ lệnh trong câu hỏi thường là nêu, tóm
tắt, xác định, gọi tên, chỉ ra, trình bày... Cấp độ thông hiểu yêu cầu học sinh lí
giải, suy diễn, kết nối các thông tin, biết vận dụng các kiến thức, khái niệm
theo cách tương tự. Trong câu hỏi thường sử dụng các động từ mô tả giải
thích, phân biệt, lí giải, nhận xét… Với cấp độ vận dụng thấp, học sinh cần
39
tạo ra sự liên kết, kết nối, so sánh giữa kiến thức đã học và vận dụng chúng để
thực hành các yêu cầu tương tự như giáo viên đã dạy hoặc SGK đã hướng dẫn
tạo lập (câu, đoạn). Các động từ mô tả trong đề bài thường là so sánh, nhận
xét, đánh giá, phân tích… Cấp độ vận dụng cao đòi hỏi học sinh sử dụng các
khái niệm, kiến thức về môn học để giải quyết các vấn đề mới hoặc những
tình huống tương tự như trong thực tiễn cuộc sống. Các động từ mô tả trong
câu hỏi là tạo lập (bài viết, đoạn); so sánh, nhận xét, đánh giá, phân tích, trình
bày (quan điểm cá nhân); …Trong quá trình ra đề nhiều giáo viên còn tùy
hứng khi đặt ra các câu hỏi kiểm tra các cấp độ nhận thức của học sinh, thích
gì ra nấy, chưa xác định được ma trận đề.
Một số giáo viên cũng gặp khó khăn trong việc xây dựng hướng dẫn
chấm (đáp án) và thang điểm đối với bài kiểm tra. Nội dung các câu hỏi chưa
thực sự khoa học và chính xác, cách trình bày còn chung chung, dài dòng
chưa đảm bảo tính cụ thể, chi tiết ngắn gọn và dễ hiểu, phù hợp với ma trận
đề kiểm tra. Hướng tới xây dựng bản mô tả các mức độ đạt được để học sinh
có thể tự đánh giá được bài làm của mình vẫn còn là cái đích chưa chạm đến
được của một số giáo viên.
2.1.1.3. Khâu chấm trả bài
Khâu chấm trả bài của giáo viên đôi khi còn mang tính áp đặt, chưa
nhìn ra được tính sáng tạo của người học. Đổi mới đánh giá kết quả học tập
môn Ngữ văn của học sinh luôn dựa trên quan điểm tích cực hoá hoạt động
học tập của học sinh với ý nghĩa học sinh tự giác, chủ động, linh hoạt trong
lĩnh hội và vận dụng kiến thức, kỹ năng. Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá đòi
hỏi giáo viên dạy văn cũng cần đổi mới cách chấm, cách phê. Tiếp nhận văn
bản văn học là một hệ thống mở và kết quả tiếp nhận ở mỗi học sinh có thể
khác nhau, thậm chí có nhiều mới lạ chưa hẳn trùng khớp với dự kiến của
40
giáo viên. Chính vì thế, đổi mới kiểm tra đánh giá còn có nghĩa là tôn trọng và
đề cao những tìm tòi, khám phá, cảm thụ, phân tích văn bản của học sinh.
Khi chấm bài cần tránh tình trạng chỉ cho điểm cao những bài viết đúng ý
mình, giống như bài giảng của mình mà nên tôn trọng và khuyến khích những
cảm thụ tích cực của học sinh bởi như nhà giáo Mararenco từng nói: “Mỗi
học sinh không phải là cái hũ để chúng ta đổ đầy nước, mà mỗi học sinh là
một bó đuốc mà ta phải thắp cho sáng rực”. Làm được điều đó là chúng ta vừa
đánh giá được kết quả học tập của học sinh vừa khuyến khích, phát triển được
năng lực tư duy, năng lực sáng tạo của các em.
2.1.2. Thực trạng xây dựng câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu môn Ngữ
văn ở trường THPT
Trong quá trình kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn, mục tiêu cơ bản là
đánh giá hai năng lực chính: năng lực đọc hiểu văn bản và năng lực tạo lập
văn bản. Ở phần kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản, đề bài gồm hai yếu tố:
ngữ liệu đọc hiểu và hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu.
Khi ra đề kiểm tra, cần lựa chọn ngữ liệu tiêu biểu, đưa ra các câu hỏi đánh
giá mức độ hiểu văn bản trên cả phương diện nội dung và hình thức với các
cấp độ phát triển năng lực từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp đến vận
dụng cao. Các câu hỏi đưa ra phải đảm bảo tính khoa học, lôgic, có hệ thống.
Trong thực tế kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh ở trường
THPT hiện nay, đa số giáo viên chọn văn bản, đưa ra các câu hỏi rồi mới áp
vào ma trận đề từ đó chỉnh sửa câu hỏi mà không định hình được ma trận đề
trước. Các khâu lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu, xây dựng hệ thống câu hỏi trong
đề bài còn nhiều vấn đề cần bàn.
41
2.1.2.1. Lựa chọn ngữ liệu
Ngữ liệu đưa ra cần có xuất xứ nguồn gốc rõ ràng, ngắn gọn, sáng rõ
chứa đựng nội dung sâu sắc, mang tính giáo dục, hình thức phong phú... có
thể gợi ra nhiều vấn đề cần tìm hiểu về văn bản. Với ngữ liệu đó, người ra đề
có thể kiểm tra được kiến thức, kĩ năng, hiểu được tâm tư tình cảm của người
học, cách người học vận dụng vào giải quyết những tình huống cụ thể mang
tính thực tiễn.
Từ thực tế ra đề kiểm tra năng lực đọc hiểu ở các trường, chúng tôi
nhận thấy đa số giáo viên khi ra đề kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn
bản của học sinh thường dựa vào cấu trúc đề minh họa của Bộ Giáo dục,
tìm những văn bản tương tự, đưa ra hệ thống câu hỏi tương tự như đề minh
họa của Bộ mà ít có tính sáng tạo. Nhiều giáo viên sao chép ngữ liệu đọc
hiểu trong các đề thi có trên mạng internet rồi chỉnh sửa lại hệ thống câu
hỏi đọc hiểu.
Nguồn ngữ liệu đọc hiểu vô cùng phong phú song để chọn được một
văn bản vừa đảm bảo các yêu cầu trên vừa phù hợp với khả năng nhận thức
của học sinh ở các lớp không hề dễ dàng. Có những đề bài chọn lựa văn bản
chưa đảm bảo tính khoa học, độ dài văn bản ko phù hợp, văn bản đề cập đến
những vấn đề nhạy cảm trong đời sống xã hội hiện nay.
Tại buổi Hội thảo chuyên đề tổ chức ôn tập thi THPT Quốc gia năm
2016 ở một trường THPT tỉnh Thái Bình, trong một giờ dạy minh họa bài ôn
tập, giáo viên trường sở tại luyện đề (phần đọc hiểu) cho học sinh. Ngữ liệu
giáo viên ấy lựa chọn là một đoạn văn bản được đăng tải trên báo chí :
"Vậy phải giải thích thế nào về việc hàng nghìn người dân ''hôi'' bia bị
đổ trên cầu Bến Thủy ngày 26/11/2011, về vụ ''hôi'' bia tương tự ngày
4/12/2013 ở Biên Hòa? Vì dân nghèo không có tiền mua bia ư? Họ có tiền
42
mua xe máy cơ mà? Khi xem video do camera giao thông ghi lại vụ ở Biên
Hòa, tôi lại thấy đa số người đi đường và sống hai bên đường ở Biên Hòa lao
vào ''hôi'' bia, giống y hệt cảnh tôi nhìn thấy ở Hà Nội năm 1986. Trong các
vụ cháy nhà, cháy ki-ốt bán hàng, cháy chợ ở các địa phương nước ta, hôi
của gần như là phần không thể thiếu. Người dân đã có cuộc sống đầy đủ hơn,
hàng hóa không còn khan hiếm, nhưng ''tính hôi của'' không thay đổi mấy.
Chúng ta ghét cay ghét đắng các quan tham. Nhưng quan từ đâu mà
ra? Họ cũng từ dân ra, hết nhiệm kì quan lại về làm dân. Họ là con, là chồng
hoặc vợ, là bố hoặc mẹ, là ông hoặc bà trong các gia đình dân. Quan có từ
trên trời rơi xuống đâu? Nếu quan nào đó tham, phải chăng người đó đã có
sẵn máu tham từ trước khi làm quan, từ khi làm dân? Khi một người có sẵn
máu hôi của, thì khi làm quan, tham nhũng cũng là một kiểu hôi của với mức
độ lớn hơn, hình thức tinh vi hơn mà thôi. Tôi không tin rằng khi còn làm dân
thì họ không có máu tham, đến khi làm quan mới đổ đốn ra. Quan mà giữ
được thanh liêm trong một xã hội mà sự tử tế bị ''mất giá'' trên diện rộng, khi
họ nắm nhiều quyền trong tay, mà lương của họ thì thấp hơn lương chuyên
viên ở các doanh nghiệp trung bình, kể ra cũng khó. Để quan bớt tham, không
còn cách nào khác cách ''4 không'' mà Singapore và nhiều nước khác làm:
sao cho quan không muốn tham, không cần tham, không dám tham, không thể
tham những gì không phải của mình.
Nhưng với những người dân chúng ta thì sao? Cần làm gì để chế ngự
lòng tham và tẩy sạch dòng máu tham? Không phải chỉ đối với của cải, mà
còn đối với nhiều thứ khác. Vượt đèn đỏ là ''cướp'' đường, ''cướp'' sự an toàn
giao thông. Chen hàng xô đẩy là ''cướp'' thời gian,''cướp'' cơ hội của người
khác. Bán thực phẩm, hàng hóa độc hại là ''cướp'' sức khỏe của đồng loại.
43
Nhiều hành vi xấu xa xảy ra ở nước ta tạo thành một xã hội kém văn minh,
kém an toàn có chung một nguồn gốc là ''lòng tham''.
Khi nào nước ta không còn xảy ra những vụ người dân hôi của, nhiều
hành vi xấu xa khác sẽ biến mất theo. Khi đó, chắc chắn chính quyền cũng sẽ
liêm chính hơn. Cần phải làm bất kì điều gì để lấy lại giá trị đã bị mất đi rất
nhiều của sự tử tế.
(Lương Hoài Nam, vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/long-tham, ngày
19/1/2016)
Rõ ràng văn bản trên mang tính thời sự, nội dung cụ thể, hình thức
phong phú có thể gợi ra các câu hỏi về chủ đề, về phong cách ngôn ngữ, về
phương thức biểu đạt, về các câu hỏi tu từ...Song chúng ta vẫn nhận thấy văn
bản lựa chọn ở đây chưa thực sự hợp lý bởi đoạn văn bản ngữ liệu dài dòng,
đề cập đến vấn đề nhạy cảm, không thật tích cực trong đời sống xã hội hiện
nay: vấn đề quan tham. Vấn đề này có thể sẽ đem đến cho học sinh cái nhìn
sai lệch về thực trạng xã hội hiện nay, mất niềm tin vào bộ máy lãnh đạo bởi
hiện tượng đó không phải là phổ biến. Nếu vẫn muốn chọn văn bản này làm
ngữ liệu cho đề bài đánh giá năng lực đọc hiểu, người ra đề nên lược bớt đoạn
văn " Chúng ta ghét cay ghét đắng các quan tham. Nhưng quan từ đâu mà
ra? Họ cũng từ dân ra, hết nhiệm kì quan lại về làm dân. Họ là con, là chồng
hoặc vợ, là bố hoặc mẹ, là ông hoặc bà trong các gia đình dân. Quan có từ
trên trời rơi xuống đâu? Nếu quan nào đó tham,phải chăng người đó đã có
sẵn máu tham từ trước khi làm quan, từ khi làm dân? Khi một người có sẵn
máu hôi của, thì khi làm quan, tham nhũng cũng là một kiểu hôi của với mức
độ lớn hơn, hình thức tinh vi hơn mà thôi. Tôi không tin rằng khi còn làm dân
thì họ không có máu tham, đến khi làm quan mới đổ đốn ra. Quan mà giữ
được thanh liêm trong một xã hội mà sự tử tế bị ''mất giá'' trên diện rộng, khi
44
họ nắm nhiều quyền trong tay, mà lương của họ thì thấp hơn lương chuyên
viên ở các doanh nghiệp trung bình, kể ra cũng khó. Để quan bớt tham, không
còn cách nào khác cách ''4 không'' mà Singapore và nhiều nước khác làm:sao
cho quan không muốn tham, không cần tham, không dám tham, không thể
tham những gì không phải của mình.
Nhưng với những người dân chúng ta thì sao?".
Sau khi lược bớt, ngữ liệu đưa ra phù hợp với thời gian làm bài đọc
hiểu của học sinh, ngắn gọn và vẫn chứa đựng những thông tin, yêu cầu cần
kiểm tra đánh giá năng lực học sinh.
Có những văn bản được chọn làm ngữ liệu chưa phù hợp với mục
đích kiểm tra kiến thức, kĩ năng tiếng Việt, làm văn của học sinh. Với
những văn bản đa phong cách khi câu hỏi đặt ra yêu cầu xác định phong
cách ngôn ngữ của văn bản, người ra đề đã không đạt được mục tiêu đề
ra bởi thí sinh khó có thể xác định chính xác phong cách ngôn ngữ của
văn bản. Khi đó, cách lựa chọn văn bản và đưa ra câu hỏi trên gây lúng
túng cho thí sinh khi trả lời câu hỏi.
Một bất cập nữa trong việc lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu là văn bản được
chọn khó tiếp nhận, ko phù hợp với năng lực học sinh từng khối lớp. Với đề
kiểm tra lớp 10, cần chọn những văn bản ngắn, nội dung dễ hiểu, vấn đề đưa
ra trong hệ thống câu hỏi gần gũi với học sinh. Trong một đề kiểm tra cuối
học kì môn Ngữ văn 10 có giáo viên lựa chọn văn bản sau:
" Trước khi các em nghĩ đến chuyện bay cao bay xa, hãy tập làm bất cứ
thứ gì, có thể cả những thứ chẳng có ý nghĩa gì chứ không phải chỉ là những
điều các em thích hay cho là quan trọng. Đừng bực bội vì những việc mà các
em không tin tưởng, vì như thế các em sẽ cảm thấy nhàm chán chính bản thân
mình, cũng đừng đem bản thân so sánh một cách lệch lạc với những người
45
như Baltimore Orioles. Hãy giết chết cảm giác tự mãn và dễ dàng thỏa hiệp,
cảm giác mọi thứ dường như đều có lý hay cảm giác tự bằng lòng trong trạng
thái tinh thần u mê. Hãy làm cho bản thân xứng đáng với những gì mà các em
đang cố gắng. Và hãy đọc, đọc mọi lúc, đọc như một nguyên tắc của bản thân
và như một cách để tôn trọng chính mình. Coi việc đọc như nguồn sống của
cuộc đời. Hãy phát triển và bảo vệ một giá trị đạo đức bằng cách đưa ra các
lập luận để chấp nhận nó. Hãy mơ những giấc mơ vĩ đại. Hãy làm việc cật
lực. Hãy nghĩ cho bản thân mình. Hãy yêu tất cả những thứ các em thích và
những người các em cảm mến bằng tất cả tấm lòng của mình. Và hãy làm tất
cả những điều đó, như thể các em đang bị thúc giục, mỗi giây mỗi phút, từng
chút một. Hãy tin bữa tiệc nào rồi cũng tàn nhưng các em đừng bao giờ tham
gia vào một cuộc vui khi đã đến lúc tàn, cho dù buổi chiều hôm nay có rực rỡ
đến thế nào."
(Trích Bài phát biểu tại buổi lễ tốt nghiệp trường trung học Wellesley -
David McCullough)
Thiết nghĩ vấn đề được đặt ra trong đề bài là tương đối khó với đối
tượng học sinh lớp 10. Văn bản ấy nên chọn làm ngữ liệu đọc hiểu cho học
sinh khối 11, khối 12. Khi có những sự lựa chọn văn bản không phù hợp như
vậy làm ngữ liệu đọc hiểu, người ra đề sẽ khó đánh gíá được chính xác năng
lực của học sinh.
2.1.2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi
Sau khi lựa chọn văn bản phù hợp, người ra đề tiến hành xây dựng hệ
thống câu hỏi. Để đánh giá được năng lực đọc hiểu của người học, hệ thống
câu hỏi cần bao quét được kiến thức, kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, làm văn và
cảm thụ văn học. Các câu hỏi đặt ra theo mức độ từ dễ đến khó, đánh giá
được các cấp độ nhận thức của người học từ nhận biết, thông hiểu, vận dụng
46
thấp đến vận dụng cao. Từ ngữ được sử dụng trong câu hỏi cần rõ nghĩa,
chuẩn xác, tránh sử dụng từ ngữ mập mờ khó hiểu gây lúng túng cho người
làm bài khi trả lời; ngôn từ đảm bảo tính nghệ thuật.
Thực tế ra đề cho thấy, trong phần đọc hiểu ở các đề kiểm tra cuối kì,
cuối năm mà giáo viên ra, hệ thống câu hỏi chưa phù hợp, các câu hỏi rời rạc,
không có tính kết nối, không đo được năng lực đọc hiểu của học sinh. Nhìn
vào một số đề bài sau đây, ta dễ dàng nhận ra điều đó.
Trong đề bài: Đọc đoạn văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới :
“ Nhớ người những sớm tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo.
Nhớ chân người bước lên đèo,
Người đi rừng núi trông theo bóng người.”
(Trích " Việt Bắc" -Tố Hữu)
Câu 1: Nêu nội dung chính của đoạn văn bản trên.
Câu 2: Xác định các phương thức biểu đạt trong đoạn văn bản.
Câu 3: Hãy xác định các biện pháp tu từ trong văn bản trên?
Câu 4: Từ tình cảm của nhân dân Việt Bắc đối với Bác Hồ, hãy viết
đoạn văn ngắn nêu suy nghĩ của em về vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc."
Ta thấy câu hỏi 2 và 3 cùng sử dụng từ lệnh là xác định, đem đến ấn
tượng nặng nề. Câu hỏi 3 chỉ yêu cầu xác định các biện pháp tu từ mà không
phải là gọi tên và nêu tác dụng của phép tu từ nên giá trị đo được trong câu
hỏi này chỉ ở cấp độ nhận biết mà không nâng lên tầm thông hiểu. Như thế, hệ
thống câu hỏi trong bài không giúp người ra đề đánh giá được đủ các cấp độ
nhận thức của người học: chủ yếu dừng lại ở cấp độ nhận biết mà ít thông
hiểu, vận dụng.
Một giáo viên khác ra đề kiểm tra năng lực đọc hiểu như sau:
47
Đọc đoạn văn bản:
“ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay,
dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập".
Câu 1: Xác định dạng văn bản?
Câu 2: Nêu nội dung chính của đoạn văn?
Câu 3: Trong đoạn văn, tác giả sử dụng những biện pháp tu từ nào?
Nêu tác dụng của biện pháp tu từ đó?
Câu 4: Trình bày suy nghĩ của anh/ chị về vấn đề đặt ra trong đoạn văn
trên. Trả lời khoảng 5-7 dòng.
Ở đề bài trên, ngữ liệu đọc hiểu sơ sài. Hệ thống câu hỏi cho thấy tỉ
trọng đo các cấp độ nhận thức của học sinh chưa cân đối: chú trọng đo cấp độ
nhận biết mà ít chú ý đến cấp độ thông hiểu, vận dụng.
Đề kiểm tra môn Ngữ văn trong kì kiểm tra khảo sát lớp 12 THPT
khóa ngày 20.21.22 /4/2017 của Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Nội cũng đem đến
cho giáo viên môn Ngữ văn nhiều băn khoăn.
Câu hỏi đọc hiểu đặt ra những yêu cầu hơi thấp với học trò, sẽ khó
đánh giá được năng lực đọc hiểu của học sinh, không có tác dụng trong việc
giúp học sinh tự đánh giá khả năng của mình mà có hướng ôn luyện trước kì
thi quốc gia. Ví như câu hỏi về thể loại, câu hỏi tìm biện pháp tu từ trong câu
" Bốn bức tường im nghe/ Bác lật từng trang sách gấp" (không đề cập giá trị
của biện pháp tu từ) quá dễ so với số điểm 0,5. Ở câu hỏi số 3, ngôn ngữ
trong diễn đạt câu lệnh chưa chuẩn xác khi yêu cầu cầu người học " Xác định
từ trái nghĩa...". Đúng ra phải là "Xác định cặp từ trái nghĩa...". Câu hỏi 4 yêu
cầu nêu suy nghĩ về " công lao của Bác với đất nước", dễ khiến phần trả lời
48
của thí sinh rơi vào mòn sáo, dễ dãi. Để đánh giá được cấp độ vận dụng trong
thang đánh giá năng lực nên đặt ra vấn đề về vai trò "tìm đường/ mở đường" .
Năm 2017, đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn có sự thay đổi lớn từ
cấu trúc, nội dung đến thời gian thi. Không còn một bài thi Ngữ văn thông
thường với thời gian làm bài là 180 phút mà năm nay thí sinh chỉ có thời gian
làm bài là 120 phút với hai phần là Đọc hiểu và Làm văn. Từng phần của đề
thi cũng có sự điều chỉnh để phù hợp với thời gian làm bài. Cụ thể phần đọc
hiểu gồm 1 ngữ liệu đi kèm 4 câu hỏi nhỏ với các cấp độ nhận thức nhận biết
- thông hiểu - vận dụng. Ngữ liệu nằm ngoài/trong chương trình sách giáo
khoa. Đề bài phần đọc hiểu như sau:
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm. Thấu cảm là khả năng
nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ.
Giống như cái lạnh thấu tủy hay cái đau thấu xương, thấu cảm là sự hiểu
biết thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu được những suy nghĩ của
họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự
phán xét. Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là một
khả năng phát triển ở những người mẫn cảm. Thấu cảm khiến ta hồi hộp
khi quan sát một người đang đi trên dây ở trên cao, làm chúng ta cùng vui
buồ n với một nhân vật trong truyện.
Thấu cảm xảy ra trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Một đứa
trẻ ba tuổi chìa con gấu bông của mình cho em bé sơ sinh đang khóc để
dỗ nó. Một cô gái nhăn mặt khi theo dõi bạn mình trên giường bênh chật
vật uống một viên thuốc đắng. Mùa EURO 2016 kết thúc với một hình ảnh
đẹp: một cậu bé Bồ Đào Nha tiến tới an ủi một fan người Pháp cao to gấp
rưỡi mình, đang ôm mặt khóc vì đội Pháp thua trận chung kết. Anh người
49
Pháp cúi xuống ôm cậu bé mà người vẫn rung lên nức nở. Cậu đợi cho tới
khi anh đi khuất hẳn rồi mới tiếp tục phất cờ mừng chiến thắng.
(Trı́ch Thiện, Á c và Smartphone - Đặng Hoàng Giang, NXB Hội nhà văn, 2017, tr.275)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, thấu cảm là gì?
Câu 3. Nhân xét về hành vi củ a đứ a trẻ ba tuổ i, cô gái có bạn bị ̣ố m,
cậu bé Bồ Đào Nha đươc nhắ c đến trong đoạn trích.
Câu 4. Anh/Chị có đồ ng tı̀nh vớ i ý kiến: Lòng trắc ẩn có nguồn gốc
từ sự thấu cảm? Vì sao?
Chúng ta nhận thấy: câu 1 chỉ dừng lại ở việc kiểm tra năng lực học
sinh ở mức độ nhận biết, nhớ kiến thức tiếng Việt với câu hỏi cụ thể về
phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. học sinh sẽ hoàn thành yêu cầu
của đề rất dễ dàng. Ở câu 2 với yêu cầu giải thích khái niệm thấu cảm, dường
như đề đã chạm tới mức độ thông hiểu theo tiêu chí thông thường của các câu
hỏi đọc hiểu. Tuy nhiên, khi đề yêu cầu giải thích thấu cảm là gì theo quan
điểm của tác giả, học sinh chỉ cần chép lại những ý cơ bản trong phần một của
đoạn trích và gần như không cần sự sáng tạo. Khi đó, câu hỏi này nghiêng
sang nhận biết nhiều hơn là đáp ứng những tiêu chí về sự thông hiểu. Câu hỏi
3 không yêu cầu cao mức độ suy luận của thí sinh bởi để nhận xét về "hành
vi của đứa trẻ ba tuổi, cô gái có bạn bị ốm, cậu bé Bồ Đào Nha được nhắc đến
trong đoạn trích", thí sinh chỉ cần nhắc lại câu mở đoạn "Thấu cảm xảy ra
trong từng khoảnh khắc của cuộc sống" và đưa ra thêm một vài ý kiến cá nhân
dựa theo ý trong câu mở đầu đoạn đó. Câu hỏi duy nhất đòi hỏi tư duy, trải
nghiệm, sự suy ngẫm và "thấu cảm" của thí sinh chính là câu 4, đây là câu hỏi
có thể coi đã đạt tới mục đích đánh giá năng lực người học ở cấp độ vận dụng
50
- vận dụng cao theo tiêu chí của bài đọc hiểu. Tuy nhiên, yêu cầu về tư duy
cho phần đọc hiểu như vậy là chưa thỏa đáng trong một đề thi quốc gia.
Việc sử dụng từ ngữ trong các câu hỏi không chỉ đảm bảo tính khoa
học, lô gic mà còn mang tính nghệ thuật. Các từ ngữ trong đề bài đặc biệt là
từ lệnh phải rõ ràng, không gây hiểu lầm cho người học tạo sự lúng túng khi
các em làm bài. Thực tế ra đề kiểm tra cho thấy vẫn còn nhiều giáo viên sử
dụng từ ngữ chưa chính xác, đáp án, biểu điểm và hướng dẫn chấm bài không
phù hợp với đề. Ví dụ phần đọc hiểu trong đề bài sau:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
"Tôi được tặng một chiếc xe đạp leo núi rất đẹp nhân dịp sinh nhật của
mình. Trong một lần tôi đạp xe ra công viên chơi, một cậu bé cứ quẩn quanh
ngắm nhìn chiếc xe với vẻ thích thú và ngưỡng mộ thực sự.
- Chiếc xe này của bạn đấy à? - Cậu bé hỏi.
- Anh mình đã tặng nhân dịp sinh nhật của mình đấy. - Tôi trả lời,
không giấu vẻ tự hào và mãn nguyện.
- Ồ, ước gì tôi... - Cậu bé ngập ngừng.
Dĩ nhiên là tôi biết cậu bé đang nghĩ gì rồi. Chắc chắn cậu ấy ước ao
có đựơc một chiếc xe như thế. Nhưng câu nói tiếp theo của cậu bé hoàn toàn
nằm ngoài dự đoán của tôi.
- Ước gì tôi có thể trở thành một người anh như thế! - Cậu ấy nói chậm
rãi và gương mặt lộ rõ vẻ quyết tâm. Sau đó, cậu đi về phía chiếc ghế đá sau
lưng tôi, nơi một đứa em trai nhỏ tật nguyền đang ngồi và nói:
- Đến sinh nhật nào đó của em, anh sẽ mua tặng em chiếc xe lăn lắc tay nhé."
(Hạt giống tâm hồn, Nhiều tác giả, Quyển 4,NXB Tổng hợp TP Hồ Chí
Minh, 2010)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong văn bản trên.
51
Câu 2. Quà tặng nào của nhân vật tôi khiến cậu bé thích thú và
ngưỡng mộ?
Câu 3. Vì sao câu nói tiếp theo của cậu bé hoàn toàn nằm ngoài dự
đoán của nhân vật tôi?
Câu 4. Câu nói của cậu bé " Ước gì tôi có thể trở thành một người anh
như thế!" có ý nghĩa gì?
Ở phần đọc hiểu trên, trong câu hỏi 2, người ra đề dùng từ "quà tặng
nào của nhân vật tôi" là chưa chính xác. Đúng ra phải hỏi "món quà nào nhân
vật tôi được tặng" hoặc "quà tặng nào nhân vật tôi nhận được", câu hỏi mới rõ
nghĩa, mới phù hợp với nội dung văn bản.
Câu hỏi thứ tư yêu cầu nêu ý nghĩa câu nói của cậu bé " Ước gì tôi có
thể trở thành một người anh như thế!". Phần đáp án cần phải nêu rõ: Câu nói
trên nói về ước mơ cao đẹp của cậu bé. Ước mơ ấy cho thấy cậu bé là người
giàu lòng nhân ái , biết sẻ chia vơi người khác, làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn
của cậu. Nhưng trong đáp án người ra đề lại viết: Ý nghĩa câu nói của cậu bé:
thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của con người: lòng nhân ái, biết yêu thương sẻ chia
cho nhiều hơn là nhận. Với đáp án như thế, trong câu hỏi nên sửa từ "có ý
nghĩa gì" thành "thể hiện điều gì", câu hỏi sẽ tường minh hơn về nghĩa..
2.1.2.3. Xây dựng đáp án, biểu điểm
Điều đáng chú ý là trong quá trình ra đề, nhiều giáo viên còn lúng túng
khi xây dựng đáp án biểu điểm, hướng dẫn chấm. Nguyên nhân là do năng lực
của một số giáo viên còn hạn chế, với nhiều văn bản khó, giáo viên không
hiểu cặn kẽ văn bản, hiểu sai về các vấn đề đặt ra trong văn bản. Ví dụ trong
kì thi thử THPT Quốc gia tại một trường THPT, phần đọc hiểu trong một đề
văn như sau:
Đọc văn bản sau đây và trả lời câu hỏi từ câu 1 - 4:
52
Gió nói với chiếc lá úa:
"Trong vòng tuần hoàn bất tận của chiếc lá,
Màu vàng của mi trong khoảnh khắc này
Là sắc đẹp vĩnh hằng của nhan sắc mùa thu tàn phai nhanh;
Đừng buồn cái đẹp nào cũng phù du vì chỉ có cái phù du mới đẹp”
Lá biết gió nói dối nhưng lá vẫn vui vẻ bay vèo theo gió.
"Chàng thấy nàng đẹp rồi chàng mới yêu
Anh thì ngược lại, anh yêu trước rồi sau đó mới biết rằng em đẹp”
Lời nói dối ngược ngạo luật phản xạ của anh chồng làm ửng hồng đôi
má cô vợ trẻ.
Cô gái nói với ông già:
“Bố đẹp lão quá! Hồi còn trai chắc bố có số đào hoa"
Ông già - héo queo như cây kiểng còi - uống lời nói dối cực kỳ khó tin
của cô gái như uống giọt nước thần có dược chất hồi xuân
Tiếc thay! những lời nói dối ta phải nghe hằng ngày lại là những lời
nói dối không nhân ái.
( Lời nói dối nhân ái -Trang Thế Hy)
Câu 1: Văn bản trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào?
Câu 2: Xác định nội dung chính của văn bản?
Câu 3: Xác định và nêu tác dụng biện pháp tu từ chính được sử dụng
văn bản.
Câu 4: Trình bày suy nghĩ của anh/chị về những lời nói dối không nhân
ái xuất hiện trong cuộc sống hiện nay? Viết từ 5 – 7 dòng.
Khi xây dựng đáp án, biểu điểm hướng dẫn chấm ở câu 3 người ra đề
xác định biện pháp tu từ chính được sử dụng văn bản là phép liệt kê. Thực ra
trong văn bản phép tu từ chính là so sánh mà không có dấu hiệu của phép tu
53
từ liệt kê. Người ra đề nhầm việc kể ra một loạt các sự việc gió nói với chiếc
lá úa, anh nói với em, cô gái nói với ông già và phép tu từ liệt kê. Thực chất,
liệt kê là sắp xếp nối tiếp hàng loạt từ hay cụm từ cùng loại để diễn tả đầy đủ,
sâu sắc hơn những khía cạnh khác nhau của thực tế hay tư tưởng, tình cảm.
Trong câu hỏi trên, để tạo được mạch lôgic chặt chẽ, để thí sinh dễ trả lời hơn,
người ra đề cần giới hạn gọn lại phạm vi sử dụng của biện pháp tu từ là trong
một đoạn văn, một câu văn thay vì trong cả văn bản. Câu hỏi có thể sửa lại
thành: Tìm biện pháp tu từ chính trong câu văn "Ông già - héo queo như cây
kiểng còi - uống lời nói dối cực kỳ khó tin của cô gái như uống giọt nước thần
có dược chất hồi xuân".
Một hiện tượng phổ biến trong thực tế ra đề kiểm tra môn Ngữ văn nói
chung, phần đọc hiểu nói riêng là khi đưa ra đáp án biểu điểm, người ra đề
không lường trước được các phương án có thể có bởi các câu hỏi ở cấp độ vận
dụng thường là câu hỏi mở. Khi chấm bài thi THPT Quốc gia năm học 2016 -
2017, giám khảo lúng túng khi các đáp án đưa ra phương án trả lời cho câu
hỏi số 4 chưa thật đầy đủ . Đề bài yêu cầu thí sinh trả lời có đồng tình với ý
kiến "lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm hay không?" Đáp án đưa ra 2
phương án có đồng tình hoặc không đồng tình. Nhưng trong thực tế bài làm
của học sinh, các em thể hiện thái độ vừa đồng tình vừa không đồng tình và
đưa ra những lý giải hợp lý. Với những đáp án như vậy, khi chấm bài giám
khảo cần hết sức linh hoạt vận dụng biểu điểm đáp án chấm.
2. 2. Biện pháp xây dựng câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản môn
Ngữ văn bậc THPT
Từ thực trạng kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn và thực trạng ra đề kiểm
tra năng lực đọc hiểu trong môn Ngữ văn như đã nói ở trên, người viết mạnh
dạn nêu lên một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc ra đề kiểm tra năng lực
54
đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT. Các biện pháp được thực
hiện trong quy trình ra đề kiểm tra đánh giá từ xác định mục đích yêu cầu
kiểm tra, xây dựng ma trận đề kiểm tra đánh giá đến lựa chọn ngữ liệu đọc
hiểu, biên soạn câu hỏi và hướng dẫn chấm.
2.2.1. Xác định mục đích, yêu cầu kiểm tra
Mục tiêu chung của việc kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu của học
sinh trong nhà trường là đánh giá mức độ hiểu sâu sắc văn bản từ đó đánh giá
được các năng lực chuyên biệt và cốt lõi. Tuy nhiên, mỗi loại văn bản đọc
hiểu, người ra đề cần hướng đến các mục tiêu đọc cụ thể, chi tiết hơn. Đọc
văn bản thông tin, người đọc cần nhận ra các thông tin chính được cung cấp,
nắm bắt được mục đích của người viết, sử dụng các thông tin thu nhận được
một cách phù hợp. Với văn bản văn học, đích đến của độc giả là cùng trải
nghiệm với tác giả, kiến tạo ý nghĩa và thưởng thức văn học.
Từ mục đích yêu cầu kiểm tra, người ra đề cần xác định chuẩn kiến
thức kĩ năng, thái độ với từng vấn đề đặt ra và điểm số tương ứng cho các đơn
vị kiến thức đó. Ví dụ ra đề kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh
khối 12 cần đặt ra mục đích cụ thể: kiểm tra tổng hợp kiến thức kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt, làm văn, cảm thụ tác phẩm văn học, đánh giá được năng lực
tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, năng lực tự giải quyết
vấn đề. Xây dựng hệ thống câu hỏi cần chú ý đến thời gian làm bài của học
sinh. Nếu tổng thời gian làm bài thi môn Ngữ văn từ 150 -180 phút, phần đọc
hiểu 3 điểm có thể chọn đọc hai văn bản, đánh giá năng lực người học với 8
câu hỏi; với bài kiểm tra tống thời gian làm bài từ 90 đến 120 phút, người ra
đề lựa chọn đọc một văn bản và đánh giá năng lực người học với 4 câu hỏi.
55
2.2.2. Lập ma trận đề
2.2.2.1. Xác định cấu trúc ma trận đề:
+ Lập một bảng có hai chiều, một chiều là nội dung hay mạch kiến
thức chính cần đánh giá, một chiều là các cấp độ nhận thức của học sinh từ
nhận biết đến thông hiểu và vận dụng (gồm có vận dụng và vận dụng ở mức
cao hơn).
+ Trong mỗi ô là chuẩn kiến thức kĩ năng chương trình cần đánh giá, tỉ
lệ % số điểm, số lượng câu hỏi và tổng số điểm của các câu hỏi.
+ Số lượng câu hỏi của từng ô phụ thuộc vào mức độ quan trọng của
mỗi chuẩn cần đánh giá, lượng thời gian làm bài kiểm tra và số điểm quy định
cho từng mạch kiến thức, từng cấp độ nhận thức.
2.2.2.2. Lập bảng mô tả các cấp độ tư duy:
Bảng mô tả các mức độ đánh giá theo năng lực nhằm cụ thể hoá chuẩn
kiến thức kỹ năng theo các mức độ khác nhau, nhằm đánh giá được khả năng
đạt được của học sinh từ nhận biết, thông hiểu đến vận dụng thấp, vận dụng
cao. Khi đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh, giáo viên có thể
xác định các cấp độ tư duy của học sinh theo 6 mức độ đánh giá mà Chương
trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) đã nêu như sau:
- Mức độ 1
+ Đòi hỏi người đọc xác định vị trí của một hoặc nhiều phần thông tin
để nhận ra chủ đề chính hay mục đích của tác giả trong một văn bản về một
đề tài quen thuộc, hoặc để tạo ra một kết nối đơn giản giữa các thông tin trong
các văn bản và kiến thức thông thường hàng ngày. Các thông tin cần thiết
trong văn bản là nổi bật và có rất ít tính cạnh tranh/nhiễu. Người đọc được
định hướng một cách rõ ràng để xem xét các yếu tố liên quan trong nhiệm vụ
và trong văn bản.
56
+ Đòi hỏi người đọc xác định vị trí của một mẩu thông tin duy nhất
được quy định rõ ràng ở một vị trí nổi bật trong một văn bản đơn giản về cú
pháp, ngắn và quen thuộc về chủ đề và thể loại, chẳng hạn như một văn bản tự
sự hay một bản danh sách đơn giản. Các văn bản thông thường cung cấp cho
người đọc các dấu hiệu, chẳng hạn như sự lặp đi lặp lại các thông tin, hình
ảnh hoặc biểu tượng quen thuộc với rất ít các thông tin cạnh tranh/nhiễu.
Trong các nhiệm vụ giải thích, người đọc có thể cần phải thực hiện các kết
nối đơn giản giữa các thông tin gần kề nhau.
- Mức độ 2: đòi hỏi người đọc xác định vị trí của một hoặc nhiều mẩu
thông tin có thể cần phải được suy ra và có thể gặp trong một số hoàn cảnh
nhất định. Những yêu cầu khác như nhận ra nội dung chính của một văn bản,
hiểu các mối quan hệ, hoặc giải thích ý nghĩa của một phần của văn bản được
giới hạn khi thông tin là không nổi bật và người đọc phải đưa ra được suy
luận ở mức độ thấp. Các nhiệm vụ ở cấp độ này có thể liên quan đến việc so
sánh hoặc tương phản dựa trên một đặc điểm nào đó của văn bản. Các nhiệm
vụ phản ánh tiêu biểu ở cấp độ này yêu cầu độc giả so sánh hoặc tạo ra sự kết
nối giữa các văn bản và kiến thức bên ngoài, bằng cách dựa trên kinh nghiệm
và thái độ của cá nhân.
- Mức độ 3: đòi hỏi người đọc xác định vị trí, và trong một số trường
hợp nhận ra các mối quan hệ giữa một số thông tin. Các nhiệm vụ giải thích ở
cấp độ này đòi hỏi người đọc tích hợp một số phần của một văn bản để xác
định nội dung chính, hiểu một mối quan hệ hoặc giải thích ý nghĩa của một từ
hoặc cụm từ. Người đọc cần phải đưa ra được những biểu hiện cụ thể trong
khi so sánh, đối lập hoặc phân loại. Các thông tin đưa ra thường không phải là
nổi bật hoặc có nhiều thông tin cạnh tranh/nhiễu, hoặc có những trở ngại khác
từ văn bản, chẳng hạn như các ý tưởng (của người viết) trái với kỳ vọng/suy
57
nghĩ thông thường hoặc có những cách diễn đạt tiêu cực. Những nhiệm vụ
phản ánh ở mức này có thể yêu cầu kết nối, so sánh và giải thích, hoặc có thể
yêu cầu người đọc đánh giá một đặc điểm của văn bản. Một số nhiệm vụ phản
ánh yêu cầu độc giả chứng minh một ý hay của văn bản liên quan đến tri thức
hàng ngày. Các nhiệm vụ khác không yêu cầu hiểu chi tiết văn bản, nhưng
yêu cầu người đọc rút ra kiến thức ít phổ biến hơn.
- Mức độ 4: bao gồm việc lấy thông tin, yêu cầu người đọc xác định vị
trí và tổ chức một số thông tin lấy từ trong văn bản. Một số nhiệm vụ ở cấp độ
này yêu cầu giải thích ý nghĩa sắc thái của ngôn ngữ trong một đoạn văn bằng
cách đặt nó vào chỉnh thể của văn bản. Các nhiệm vụ diễn giải khác đòi hỏi sự
hiểu biết và áp dụng vào một ngữ cảnh mới. Các nhiệm vụ phản ánh ở cấp độ
này yêu cầu độc giả sử dụng các kiến thức cơ bản và phổ thông để đưa ra giả
thuyết hoặc phê bình đánh giá một văn bản. Người đọc phải thể hiện một sự
hiểu biết chính xác về một văn bản dài hoặc phức tạp với nội dung hoặc hình
thức có thể không quen thuộc.
- Mức độ 5: liên quan đến việc lấy thông tin, yêu cầu người đọc xác
định vị trí và tổ chức một số mảng thông tin liên quan đến các ý nằm sâu
trong văn bản. Các nhiệm vụ phản ánh đề cập đến việc người đọc đưa ra đánh
giá hoặc giả thuyết dựa trên kiến thức chuyên sâu/chuyên ngành. Cả hai
nhiệm vụ diễn giải và phản ánh đều đòi hỏi một sự hiểu biết đầy đủ và chi
tiết về một văn bản có nội dung hoặc hình thức mới (không được in trong
SGK - chúng tôi nhấn mạnh). Đối với tất cả các khía cạnh của đọc, nhiệm
vụ ở cấp độ này thường liên quan đến việc xử lí với các vấn đề trái với
suy nghĩ thông thường.
- Mức độ 6: yêu cầu người đọc tạo ra được nhiều suy luận, so sánh và
phản bác một cách chi tiết và cụ thể. Yêu cầu người đọc phải thể hiện/trình
58
bày một cách đầy đủ và tỉ mỉ hiểu biết của mình về một hoặc nhiều văn bản
và có thể tích hợp thông tin từ nhiều văn bản. Nhiệm vụ này cũng có thể yêu
cầu người đọc bộc lộ suy nghĩ của mình về những chủ đề mới hoặc khác nhau
bằng việc nêu ra những ý tưởng/thông tin nổi bật, mang tính khái quát của văn
bản. Phản ánh và đánh giá có thể yêu cầu người đọc đưa ra giả thuyết hoặc
phê bình về một văn bản có tính tổng hợp/đa dạng về chủ đề và hình thức thể
hiện, đồng thời vận dụng sự hiểu biết sâu sắc về văn bản. Một điều kiện quan
trọng đối với phản ánh và đánh giá ở cấp độ này là độ chính xác của phân tích
và sự quan tâm đến từng chi tiết nhỏ trong văn bản.
Như vậy, theo cách diễn giải của PISA, mức độ 4,5,6 bao gồm việc
hiểu văn bản được học, vận dụng vào đọc văn bản mới; các mức độ còn lại áp
dụng với những văn bản được học hoặc quen thuộc với người đọc. Khi ra đề
kiểm tra, các mức độ tư duy cần kiểm tra đánh giá càng được xác định cụ thể,
đề bài càng đáp ứng mục tiêu yêu cầu kiểm tra, người ra đề càng dễ dàng xây
dựng được ma trận đề kiểm tra.
2.2.2.3. Xây dựng ma trận đề kiểm tra :
Sau khi xác định các cấp độ tư duy cần đo, người ra đề dựa vào mục
đích yêu cầu của kiểm tra đánh giá, bảng mô tả các cấp độ tư duy vừa xác
định và cấu trúc ma trận đề kiểm tra đã thống nhất để xây dựng ma trận đề.
Công việc này đòi hỏi người ra đề phải có tư duy khoa học, thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể, tỉ mỉ với các bước sau:
- Bước 1: Liệt kê tên các chủ đề (nội dung, chương...) cần kiểm tra;
- Bước 2: Viết các chuẩn cần đánh giá đối với mỗi cấp độ tư duy;
- Bước 3: Quyết định phân phối tỉ lệ % điểm cho mỗi chủ đề (nội
dung, chương...);
59
- Bước 4: Tính số điểm cho mỗi chủ đề (nội dung, chương...) tương
ứng với tỉ lệ %;
- Bước 5: Quyết định số câu hỏi cho mỗi chuẩn tương ứng và điểm
tương ứng;
- Bước 6: Tính tổng số điểm và tổng số câu hỏi cho mỗi cột và kiểm
tra tỉ lệ % tổng số điểm phân phối cho mỗi cột;
- Bước 7: Đánh giá lại ma trận và chỉnh sửa nếu thấy cần thiết.
Lưu ý : Khi tính tổng số điểm và tổng số câu hỏi cho mỗi cột và kiểm
tra tỉ lệ % tổng số điểm phân phối cho mỗi cột cần:
+ Căn cứ vào mục đích của đề kiểm tra, căn cứ vào mức độ quan trọng
của mỗi chủ đề (nội dung, chương...) trong chương trình và thời lượng quy
định trong phân phối chương trình.
+ Căn cứ vào mục đích của đề kiểm tra để quyết định số câu hỏi cho
mỗi chuẩn cần đánh giá ở mỗi chủ đề.
+ Số câu hỏi, số điểm nên theo tỉ lệ phù hợp với chủ đề, nội dung và
trình độ, năng lực của học sinh, theo thứ tự các cấp độ: nhận biết, thông hiểu,
vận dụng. Cần căn cứ vào số điểm đã xác định ở bước 4 để quyết định số
điểm và số câu hỏi tương ứng.
2.2.3. Biên soạn đề kiểm tra đánh giá.
2.2.3.1. Lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu
Công việc đầu tiên trong biên soạn đề kiểm tra đánh giá năng lực đọc
hiểu văn bản là lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu. Các nghiên cứu đã chỉ ra nguồn
văn bản được lựa chọn có tác động rất lớn tới thái độ, động cơ đọc - một
thành tố làm nên cấu trúc bề sâu trong năng lực đọc hiểu của người học. Do
đó, đảm bảo lựa chọn văn bản phù hợp với khả năng, nhu cầu, gợi được hứng
thú đọc hiểu là một trong những nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc này xuất
60
phát từ luận điểm mang tính nền tảng: mỗi văn bản là ngữ liệu, là phương tiện
phục vụ cho hoạt động đọc hiểu.; đích đến cuối cùng của quá trình kiểm tra
đánh giá đọc hiểu là đánh giá kĩ năng, năng lực đọc hiểu của người học,
không phải là các kiến thức về từng văn bản cụ thể. Trong quá trình đổi mới
kiểm tra đánh giá theo xu hướng chuyển từ kiểm tra đánh giá kiến thức kĩ
năng sang kiểm tra đánh giá năng lực người học như hiện nay, việc chọn lựa
văn bản đọc hiểu để đánh giá khả năng đọc của học sinh đóng một vai trò vô
cùng quan trọng. Thực tế ra đề cho thấy đây là công việc khó khăn của người
ra đề kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản. Vậy làm thế nào để việc
lựa chọn văn bản đọc hiểu không còn là trở ngại ?
Trước hết, người ra đề cần dựa vào mục đích kiểm tra đánh giá, ma trận
đề kiểm tra để có định hướng lựa chọn loại văn bản đọc hiểu (văn bản văn học
hay văn bản thông tin) cho phù hợp.
Tiếp đó giáo viên dành thời gian tìm ngữ liệu đọc hiểu từ nhiều nguồn
tài liệu khác nhau từ báo chí , từ sách vở hay những câu chuyện cuộc sống...
để lựa chọn ngữ liệu. Khi tìm ngữ liệu đọc hiểu, giáo viên cần xem xét độ phù
hợp của văn bản với mục đích kiểm tra đánh giá (đánh giá được kiến thức của
cả phân môn Tiếng Việt, làm văn, kĩ năng tổng hợp và năng lực sử dụng tiếng
Việt, tạo lập văn bản của người học).
Sau khi tìm được ngữ liệu đọc hiểu, người ra đề cần đọc để “thẩm
định” nội dung các thông tin của văn bản và đưa ra quyết định về sự lựa chọn
của mình. Những văn bản hay đoạn văn bản được lựa chọn có dung lượng vừa
phải, đặt ra những vấn đề có tính giáo dục, mang ý nghĩa xã hội và có tính
thực tiễn cao. Điều quan trọng hơn là văn bản đọc hiểu cần phù hợp với năng
lực và trình độ học sinh, tạo được những hiệu ứng tâm lí, hiệu ứng xã hội nhất
định. Các vấn đề đặt ra trong văn bản có thể được lí giải một cách rõ ràng
61
tránh những văn bản mà vấn đề liên quan đến văn bản nêu lên trong câu hỏi
có 2 đáp án. Trong quá trình đọc "thẩm định" văn bản lựa chọn, giáo viên xác
định độ khó của văn bản, mức độ phù hợp với tầm nhận thức của mỗi đối
tượng học sinh từng cấp, từng lớp để có căn cứ thiết lập hệ thống câu hỏi phù
hợp với các cấp độ năng lực cần đánh giá.
Có hai phương án lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu:
Phương án 1: Đưa ra một văn bản ngắn (văn bản hoàn chỉnh hay đoạn
văn) lấy từ những nguồn khác nhau ngoài chương trình SGK như sách báo,
iternet... có nội dung bàn về một vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
nghệ thuật, y học, khoa học....thuộc dạng văn bản thông tin được viết theo các
phong cách ngôn ngữ mà học sinh đã học.
Phương án 2: Đưa ra một văn bản văn học (thơ hoặc văn xuôi , có thể là
văn bản hoàn chỉnh hay đoạn trích không có trong chương trình SGK nhưng
cùng chủ đề hoặc đề tài và thể loại với các văn bản đã học, các văn bản đề cập
đến những vấn đề gần gũi với tâm lý lứa tuổi học sinh. Khi ra đề kiểm tra học
kì môn Ngữ văn 12 dựa vào ma trận trên có thể lựa chọn một bài thơ trữ tình
ngắn gọn, nội dung phù hợp với tâm lí, tư tưởng gần gũi với học sinh lớp 12
như bài thơ "Kính gửi tuổi học trò" của Nguyễn Duy. Với bài thơ đó, giáo
viên có thể đưa ra hệ thống câu hỏi khai thác được những thông tin cơ bản về
nội dung văn bản, về các phương thức biểu đạt, về các biện pháp tu từ, cách
sử dụng từ ngữ và cả cảm nhận, quan điểm của người đọc về những vấn đề
được đặt ra. (Xem đề bài số 1, Phụ lục 1)
Ở một đề bài khác, người ra đề chọn văn bản " Câu chuyện con lừa"
nhằm yêu cầu thí sinh xác định các phương thức biểu đạt, nêu lên hoàn cảnh
mà con lừa lâm vào, ý nghĩa của việc tạo dựng hoàn cảnh đó; lí giải tại sao
62
con lừa từ chỗ “ kêu la thảm thiết” đã “trở nên im lặng” và nêu chi tiết nào để
lại cho anh/chị ấn tượng sâu sắc nhất? Vì sao? (Xem đề bài số 2, Phụ lục 1)
Có giáo viên khi ra đề đọc hiểu lựa chọn một đoạn văn bản bàn về sự
cần thiết của việc phải học lấy cách tự yêu lấy bản thân mình của mỗi người
trong cuộc sống như sau:
"Phải chăng ta lớn lên để học cách tự yêu lấy bản thân mình khi ta biết
ngoài kia người ta sống với nhau không hẳn là không có điều kiện. Yêu lấy
bản thân để không ai làm tổn thương nó, yêu lấy bản thân để trân trọng
những cơ hội, những thử thách…
Phải chăng lớn lên là để biết được cuộc sống đa chiều và không ai có
thể là người hoàn hảo. Nếu như có ai làm điều không tốt với ta cũng không
nên sân si, oán giận. Lớn rồi phải biết cách tha thứ và cảm thông. Không ai
hoàn hảo nên ai cũng có thể mắc sai lầm nhưng quan trọng hơn cả là họ biết
sửa chữa những lỗi lầm của mình. Lớn rồi nên trái tim cũng lớn thêm ra, đủ
bao dung và ấm áp cho tất cả mọi người.
Phải chăng lớn lên là để biết hoàn thiện bản thân mình hơn, không chỉ
về tâm hồn mà còn hình dáng bên ngoài nữa. Một nhân viên tốt, nếu có thêm
ngoại hình ưa nhìn và phong cách chuyên nghiệp thì sẽ phục vụ tốt hơn cho
công việc, phải không nào?
Phải chăng lớn lên là để biết đôi khi con người ta nên học cách chấp
nhận những thất bại, có những cố gắng hết mình nhưng chẳng đi đến đâu
hoặc là kết quả không như ý muốn. Đừng buồn vì cuộc sống thử thách quá
khắc nghiệt với mình, mọi sự xảy ra trên đời đều có lí do. Khi bản thân đầy
đủ những vết tích của cuộc sống, tâm hồn bạn trở nên rắn rỏi và bình yên.
Ngoảnh nhìn lại rồi bạn sẽ thấy khó khăn hôm qua nhào nặn nên con người
bạn hôm nay: trưởng thành - mạnh mẽ - bình yên trước bão táp cuộc đời.”
63
(Anthony Robbins, Đánh thức con người phi thường trong bạn, NXB
Tổng Hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015)
Với ngữ liệu là văn bản trên, người ra đề có thể yêu cầu học sinh trình
bày những tri thức đọc hiểu về nội dung của đoạn trích, phong cách ngôn ngữ;
các phương thức biểu đạt, các biện pháp tu từ, lí giải một số nội dung theo
quan điểm tác giả, trình bày suy nghĩ của mình về một thông điệp có ý nghĩa.
(Xem đề bài số 3, Phụ lục 1)
2.2.3.2. Biên soạn câu hỏi:
Biên soạn câu hỏi là yếu tố quan trong nhất trong xây dựng đề kiểm tra
đánh giá.Trong kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản, người ra đề cần sử dụng
đa dạng câu hỏi nhằm tác động đến nhiều dạng tư duy khác nhau của người
học: câu hỏi đánh giá tư duy tái hiện, câu hỏi đánh giá tư duy sáng tạo, câu
hỏi đánh giá tư duy phản biện. Hình thức câu hỏi phần đọc hiểu chủ yếu là
câu hỏi tự luận và bài viết ngắn. Xây dựng hệ thống câu hỏi cần chú trọng
tính ứng dụng thực tiễn, tính giáo dục, mang ý nghĩa xã hội và thể hiện được
chính kiến cá nhân người học. Câu hỏi phải đánh giá nội dung quan trọng của
chương trình, thể hiện tính tích hợp cao. Các tri thức đọc hiểu, tiếng Việt, làm
văn trong môn Ngữ văn không học một cách riêng lẻ mà thường được khai
thác dựa trên các đoạn trích hoặc văn bản. Điều này không chỉ giúp học sinh
có kỹ năng đọc và tiếp nhận văn bản dưới góc độ ngôn ngữ mà còn trang bị
cho các em những hiểu biết về các kiến thức làm văn hoặc ngược lại. Do đó
câu hỏi kiểm tra ngoài việc ghi nhớ, tái hiện còn yêu cầu học sinh nhận diện
chúng trong các tình huống cụ thể, hiểu ý nghĩa sử dụng của chúng trong đoạn
trích hoặc văn bản. Theo hướng đó, từ việc lựa chọn các văn bản trên ta có thể
xây dựng hệ thống câu hỏi cho các đề kiểm tra năng lực đọc hiểu theo các
bước sau:
64
Bước 1: Xác định nội dung kiến thức kĩ năng cần kiểm tra, đánh giá
gắn với ngữ liệu văn bản được lựa chọn. Người ra đề phải trả lời được câu
hỏi: với văn bản này, có thể kiểm tra được những kiến thức nào về Tiếng Việt
(từ loại, nghĩa của từ, các biện pháp tu từ...), Làm văn (các phương thức biểu
đạt, các thao tác lập luận), và văn bản văn học (đề tài, chủ đề, cảm hứng, tư
tưởng...) của học sinh.
Bước 2: Xác định các dạng câu hỏi phù hợp với mục đích yêu cầu kiểm
tra năng lực, phù hợp với nội dung kiến thức cần kiểm tra vừa xác định ở trên.
Các dạng câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản theo PISA bao gồm: câu
hỏi mở yêu cầu trả lời ngắn, câu hỏi mở yêu cầu trả lời dài,, câu hỏi đóng yêu
cầu trả lời dựa trên những thông tin có sẵn, câu hỏi trắc nghiệm khách quan
có nhiều lựa chọn, câu hỏi có - không, đúng - sai phức hợp.
Bước 3: Đưa ra các tiêu chí xây dựng câu hỏi về mặt trình bày và số
điểm tương ứng phù hợp với trình độ, nhận thức của học sinh:
- Cấp độ nhận biết: xác định phong cách ngôn ngữ, các phương thức
biểu đạt, cho biết đâu là phương thức biểu đạt chính, nêu các thao tác lập
luận, chỉ ra các biện pháp tu từ, những từ ngữ, hình ảnh thể hiện một nội
dung thông tin.
- Cấp độ thông hiểu: phân tích hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ,
ý nghĩa của các từ ngữ, tác dụng của phương thức thức biểu đạt hay thao tác
lập luận.
- Cấp độ vận dụng: thể hiện thái độ đồng tình hay không đồng tình với
quan điểm của người viết và lí giải tại sao.
Hệ thống câu hỏi cần yêu cầu học sinh tìm kiếm thông tin từ văn bản,
tích hợp và suy luận các thông tin đã đọc, phản ánh và đánh giá, tìm hiểu về
văn bản và liên hệ với kinh nghiệm bản thân. Ở cấp độ thông hiểu và vận
65
dụng các câu hỏi chú trọng phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh; giúp
học sinh bộc lộ được những quan điểm cá nhân nhằm phát triển tư duy độc
lập, tư duy phản biện.
Bước 4: Xây dựng hệ thống câu hỏi gắn với nội dung và các cấp độ tư
duy cần đo.
- Lựa chọn từ ngữ, viết câu hỏi phù hợp với từng nội dung kiến thức và
mức độ tư duy cần kiểm tra đánh giá. Trong câu hỏi, người ra đề thường sử
dụng từ ngữ, cấu trúc câu rõ ràng, dễ hiểu với mọi đối tượng học sinh. Ngôn
ngữ trong câu hỏi sáng rõ, khoa học truyền tải hết những yêu cầu của người ra
đề tới người học...Nội dung câu hỏi cần đặt ra một yêu cầu và có những
hướng dẫn cụ thể về cách thực hiện yêu cầu đó. Ví dụ khi hỏi về các biện
pháp tu từ, cần đưa ra yêu cầu cụ thể: Chỉ ra và xác định hiệu quả của các
biện pháp tu từ trong ngữ liệu cho sẵn.
- Tìm hiểu nghiên cứu để xây dựng những tình huống giả định sát thực
tiễn, lựa chọn những tình huống tạo được tính hấp dẫn, lôi cuốn với học sinh
dựa trên những vấn đề có ý nghĩa xã hội, giáo dục sâu sắc, có tính thời sự...
nhằm đánh giá năng lực học sinh ở cấp độ vận dụng cao.
- Xác định mức điểm cho từng câu phù hợp với ma trận đề đã xây dựng
ở trên, đảm bảo tính cân đối giữa các cấp độ nhận thức theo các mức độ đã
mô tả.
- Sắp xếp câu hỏi theo hệ thống đảm bảo tính phù hợp với yêu cầu đánh
giá theo các cấp độ tư duy từ dễ đến khó từ đơn giản đến phức tạp nhằm tạo
hứng thú làm bài cho học sinh.
Bước 5: Đọc lại hệ thống câu hỏi vừa xây dựng để đánh giá mức độ
phù hợp của câu hỏi với mục đích, yêu cầu kiểm tra đánh giá và ma trận đề.
Nếu chưa phù hợp, cần có sự điều chỉnh hợp lý. Ở khâu này, người ra đề nên
66
xem xét các câu hỏi kiểm tra có phát huy tối đa tính tự giác, tích cực, chủ
động của học sinh khi làm bài, có yêu cầu học sinh thể hiện sự am hiểu nhiều
hơn là ghi nhớ những khái niệm, thông tin và vận dụng kiến thức kĩ năng vào
các tình huống mới hay không.
2.2.4. Xây dựng đáp án, thang điểm
2.2.4.1. Yêu cầu của việc xây dựng đáp án, thang điểm
Việc xây dựng đáp án chấm và thang điểm cần đảm bảo những yêu cầu
cơ bản sau:
- Nội dung khoa học và chính xác, giải quyết được triệt để những yêu
cầu, những vấn đề đặt ra trong đề bài.
- Cách trình bày cụ thể, chi tiết nhưng ngắn gọn, dễ hiểu.
- Phù hợp với ma trận đề kiểm tra.
2.2.4.2. Các bước xây dựng đáp án, thang điểm
Khi xây dựng đáp án, thang điểm, người ra đề tiến hành các bước sau:
- Dự kiến được các phương án trả lời câu hỏi theo nhiều hướng khác nhau.
- Lựa chọn phương án tối ưu nhất, phù hợp với khả năng và trình độ của học
sinh, giải quyết được những yêu cầu đặt ra ở đề bài.
- Xây dựng đáp án đánh giá nhiều mức độ, thí sinh đạt ở mức độ nào cho
điểm ở mức độ ấy: đạt điểm tối đa khi học sinh trả lời được đầy đủ các yêu
cầu; đạt nửa số điểm nếu học sinh đáp ứng được 50% yêu cầu, đạt 1/4 số điểm
nếu học sinh trả lời được 25% yêu cầu; 0 điểm nếu học sinh không trả lời
được theo yêu cầu.
2.2.5. Thẩm định bộ công cụ kiểm tra
Sau khi biên soạn xong đề kiểm tra cần thẩm định lại bộ công cụ kiểm
tra. Khâu này gồm các bước sau:
67
- Xem xét mức độ phù hợp của ma trận đề vừa xây dựng với mục đích
yêu cầu kiểm tra, tính phù hợp của hệ thống câu hỏi với ma trận đề.
- Đối chiếu từng câu hỏi với hướng dẫn chấm và thang điểm, phát hiện
những sai sót hoặc thiếu chính xác của đề và đáp án.
- Sửa các từ ngữ, nội dung nếu thấy cần thiết để đảm bảo tính khoa học
và chính xác. Ví dụ trong đề bài số 2 phần phụ lục 2, câu hỏi số 2 hỏi "Vì sao
con lừa từ chỗ “ kêu la thảm thiết” đã “trở nên im lặng”". Đáp án đưa ra là
"vì: Nó đã nhận ra trong khó khăn thách thức cơ hội để tự cứu mình". Đọc lại
đáp án ta nhận thấy từ "thách thức" chưa chính xác nên cần sửa lại thành từ
thử thách.
- Đối chiếu từng câu hỏi với ma trận đề, xem xét mức độ phù hợp của
câu hỏi với chuẩn đánh giá, với cấp độ nhận thức cần đánh giá. Người ra đề
cần trả lời các câu hỏi: Số điểm có thích hợp không? Thời gian dự kiến có phù
hợp không?
- Thử đề kiểm tra để tiếp tục điều chỉnh đề cho phù hợp với mục tiêu,
chuẩn chương trình và đối tượng học sinh.
- Hoàn thiện đề, hướng dẫn chấm và thang điểm.
Khâu xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra là cần thiết, có ý nghĩa
quan trọng. Điều này giúp người ra đề có điều kiện nhìn nhận lại quá trình ra
đề, hạn chế đến mức thấp nhất việc sai sót không đáng có. Đây vốn là một
yêu cầu khắt khe trong công tác ra đề kiểm tra đánh giá.
Tiểu kết chương 2
Những năm gần đây, đổi mới công tác ra đề kiểm tra đánh giá là vấn đề
rất được coi trọng trong các nhà trường. Với môn Ngữ văn tinh thần đổi mới
được thể hiện rõ từ việc kiểm tra kiến thức kĩ năng yêu cầu học sinh tạo lập
văn bản chuyển sang kiểm tra năng lực học sinh bao gồm cả năng lực đọc
68
hiểu và năng lực tạo lập văn bản. Ở phần kiểm tra năng lực đọc hiểu, việc xây
dựng câu hỏi trong các đề kiểm tra ở các trường về cơ bản đã đáp ứng được
mục đích, yêu cầu kiểm tra đánh giá. Song trong quá trình xây dựng hệ thống
câu hỏi đọc hiểu văn bản nhiều giáo viên vẫn tỏ ra lúng túng, một số đề ra
chưa đảm bảo chất lượng. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đã đưa ra một số
biện pháp nhằm rèn luyện kĩ năng xây dựng câu hỏi trong kiểm tra năng lực
đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT. Các biện pháp được đề xuất
dựa trên cơ sở khoa học, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và từ thực tế kiểm tra
đánh giá môn Ngữ văn.
69
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM
3.1. Mục đích, nhiệm vụ thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành với mục đích kiểm chứng kết
quả nghiên cứu được đề xuất ở chương 2 - tính hiệu quả của các biện pháp rèn
kĩ năng xây dựng câu hỏi trong kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản.
Tuy vậy, hình thành kĩ năng xây dựng câu hỏi trong kiểm tra đánh giá năng
lực đọc hiểu văn bản là cả một quá trình liên tục và lâu dài, trong khi thực tế
công tác kiểm tra đánh giá năng lực học sinh hiện nay còn nhiều nan giải; vì
vậy, chúng tôi khó có thể thực nghiệm một cách toàn diện các biện pháp đề
xuất. Trong điều kiện sư phạm thực tế cho phép, chúng tôi cố gắng tối đa để
vận dụng và kiểm chứng biện pháp quan trọng nhất, chủ yếu nhất ở mức độ
có thể. Biện pháp đó là thực hiện đúng quy trình ra đề kiểm tra đánh giá: tuân
theo các bước ra đề kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản. Cụ thể, các
nội dung được triển khai trong quá trình TN bao gồm:
+ Hệ thống lại những yêu cầu cơ bản và bổ sung nhận thức cho giáo
viên về quy trình xây dựng câu hỏi đọc hiểu văn bản trong kiểm tra đánh giá.
+ Tổ chức cho giáo viên vận dụng thực hành xây dựng câu hỏi đọc hiểu
văn bản trong kiểm tra đánh giá theo quy trình đó.
3.2.Thời gian, đối tượng, địa bàn thực nghiệm
Thời gian thực nghiệm: Học kì 1 năm học 2017- 2018
Đối tượng thực nghiệm: giáo viên trường THPT Đông Thụy Anh và
giáo viên trường THPT Nguyễn Trãi, học sinh trường THPT Nguyễn Trãi .
Địa bàn: tỉnh Thái Bình
3.3. Tiến trình thực nghiệm
Đề kiểm tra môn Ngữ văn giới hạn trong phạm vi đánh giá năng lực
đọc hiểu văn bản. Thời gian làm bài 45 phút.
70
3.3.1. Thực nghiệm tại trườngTHPT Nguyễn Trãi - Vũ Thư - Thái Bình
Chúng tôi thực hiện nội dung đề tài đang nghiên cứu như một chuyên
đề về kiểm tra đánh giá, một sáng kiến kinh nghiệm của tổ chuyên môn Ngữ
văn tại trường THPT Nguyễn Trãi. Tác giả luận văn giúp các giáo viên bộ
môn Ngữ văn nắm rõ thực trạng ra đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn nói
chung, ra đề kiểm tra đánh giá phần đọc hiểu nói riêng, đề xuất các biện pháp
mà chúng tôi đưa ra và thực hiện việc ra đề kiểm tra đánh giá theo đúng quy
trình mà tác giả luận văn đề xuất.
Trong kì kiểm tra chất lượng học kì 1 năm học 2017 - 2018, các giáo
viên được phân công ra đề đã tích cực hoàn thành nhiệm vụ ra đề của mình.
Do phạm vi giới hạn của luận văn chúng tôi tiến hành thực nghiệm với nhóm
giáo viên dạy khối 12.
Trước hết các thầy cô trong tổ nhóm chuyên môn thống nhất xác định
mục đích, yêu cầu kiểm tra:
- Về kiến thức: kiểm tra được những kiến thức cơ bản của học sinh về
văn bản, giá trị nội dung, đặc sắc nghệ thuật của văn bản khi tích hợp liên
phân môn: Làm văn, Tiếng Việt, Văn học.
- Về kĩ năng: Rèn luyện, đánh giá được kĩ năng đọc thẩm thấu văn bản,
kĩ năng xác định vấn đề đặt ra trong văn bản qua hệ thống câu hỏi....
- Về thái độ: Đánh giá thái độ học tập nghiêm túc; những thái độ tích
cực trước những vấn đề của đời sống đặt ra trong văn bản.
- Năng lực cần kiểm tra, đánh giá: năng lực đọc hiểu văn bản, năng lực
giái quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực sử dụng ngôn ngữ.
Sau khi xác định mục đích, yêu cầu kiểm tra, các thầy cô thống nhất
thiết lập ma trận đề kiểm tra.
71
Vận
Tên chủ đề
Vận dụng
Nhận biết Thông hiểu
dụng
Cộng
(nội dung)
thấp
cao
1.Tiếng Việt
Nhận diện
Hiểu được
Từ vựng Tiếng Việt
được
từ
ý nghĩa của
Phong cách ngôn
loại
tiếng
việc
sử
ngữ , các biện pháp
Việt, phong
dụng
từ
tu từ, các phép liên
cách ngôn
ngữ,
tác
kết
ngữ và gọi
dụng
của
tên
các
các
biện
biện pháp
pháp tu từ,
tu từ, các
các
phép
phép
liên
liên
kết
kết,
nêu
được
sử
biểu
hiện
dụng
của chúng
Số câu :02
Số câu: 01
Số câu: 01
Số câu: 0
Số điểm 4 điểm
Số điểm 2đ
Số điểm 2đ
Số điểm
câu Số
Tỉ lệ 40 %
02
4 điểm
2.Làm văn
Gọi tên các
Sử
dụng
Phương
thức biểu
phương
phương
đạt,thao tác lập luận,
thức biểu
thức
nghị
kết cấu văn bản
đạt, chỉ ra
luận,
biết
các thao tác
kết hợp các
lập
luận,
thao tác lập
cách
kết
luận trả lời
=40 %
72
văn
cấu
các câu hỏi
bản
về
quan
niệm,
suy
nghĩ
của
bản thân
Số câu 02
Số câu 01
Số câu: 01
Số điểm 3 điểm
Số điểm2đ
Số điểm1đ
Số câu 2
Tỉ lệ: 30%
Số điểm
3. Văn bản
Chủ đề của
Thể hiện
Nội dung và nghệ
văn bản văn
quan
thuật của văn bản
học, giá trị
điểm về
nội dung tư
những
tưởng
của
vấn đề đặt
văn bản
ra
trong
tác phẩm
Số câu :02
Số câu 01
câu:
Số
3đ
Số điểm :3.0điểm
Số điểm 1.0 đ
1.0
Số câu 2
Tỉ lệ 3.0 %
Số điểm
Số điểm
1.0đ
Tổng số câu 6 câu
Số câu:02
Số câu 2
Số câu 2
Tổng số điểm 10
Số điểm 4
Số điểm 3.0
Số điểm 3 điểm
điểm
điểm
điểm
30 %
Tỉ lệ 100%
40%
30%
3.0 đ
Từ ma trận đề được thống nhất chung trong tổ, nhóm giáo viên dạy
khối 12 ra đề . Để có được một đề kiểm tra chung trong một kì kiểm tra chất
lượng học tập của học sinh, các giáo viên nhóm 12 ra đề, nộp lại cho thầy cô
tổ trưởng chuyên môn. Sau đó, tổ trưởng chuyên môn phân công hai giáo viên
73
có năng lực trong tổ lựa chọn và phản biện đề. Các thầy cô được phân công
thực hiện công tác ra đề với các bước sau:
- Chọn ngữ liệu đọc hiểu
- Xây dựng câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu
- Xây dựng đáp án biểu điểm
- Thẩm định đề - phản biện đề
3.3.2. Thực nghiệm tại trường THPT Đông Thụy Anh - Thái Thụy - Thái Bình
Ở trường THPT Đông Thụy Anh chúng tôi không có điều kiện tổ chức
chuyên đề giúp giáo viên có nhận thức đầy đủ về quy trình xây dựng câu hỏi
kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu môn Ngữ văn. Trước khi tiến hành kiểm
tra đánh giá chất lượng học kì I, Tổ chuyên môn thống nhất mục tiêu kiểm tra
đánh giá, phân công 12 giáo viên thành từng cặp: 1 giáo viên ra đề, 1 giáo
viên phản biện đề nộp về bộ phận chuyên môn của nhà trường trước khi kiểm
tra 5 ngày.
3.4. Kết quả thực nghiệm:
Tại trường THPT Nguyễn Trãi, từ các đề bài các thầy cô nộp, tổ trưởng
chuyên môn đã cùng các giáo viên có năng lực, kinh nghiệm giảng dạy được
phân công đánh giá chất lượng các đề bài đã nộp, chọn ra 1 đề kiểm tra cho
học sinh khối 12. Chúng tôi xin giới thiệu đề bài đó:
ĐỀ SỐ 1:
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI
SỞ GD & ĐT THÁI BÌNH ĐỀ KIỂM TRA MÔN: NGỮ VĂN 12
Thời gian làm bài: 45 phút
"Đã bao giờ các em suy nghĩ một cách nghiêm túc để trả lời đúng đắn cho
một câu hỏi có vẻ tầm thường sau:“Hàng ngày chúng ta đến trường để học cái
gì?”. Phần lớn các em đều nhanh chóng có câu trả lời: “Học những điều có
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
74
trong sách vở, cụ thể nhất là trong sách giáo khoa”. Chính vì thế mà người ta
hay nói: “Cắp sách đến trường”…
Thầy năm nay đã 79 tuổi, thầy cũng được “cắp sách đến trường” liên tục
từ cấp 1, cấp 2, cấp 3 rồi đại học, sau đại học, nghiên cứu sinh và lấy bằng Tiến
sĩ… Và bây giờ, khi nhìn lại cuộc đời đã qua của mình, thầy phải thừa nhận
rằng những điều mình đã được học ở trường thực sự ra không phải là toàn
những “bảo bối” và cũng không phải những “cẩm nang kỳ diệu” giúp cho thầy
bước vào cuộc sống đời thường, một thực tế rất sôi động, đầy cơ hội và cạm
bẫy…, trong cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác nhiều khi khó phân định được rõ
ràng. Bởi vì hồi bấy giờ, nhà trường chỉ truyền thụ những kiến thức thuần túy
sách vở, ít gắn liền với đời sống xã hội ngoài nhà trường.
Cũng còn may là ở cái thuở thiếu thời ấy, thầy không chỉ chúi đầu vào
sách vở, mà do hoàn cảnh gia đình, thầy còn phải làm nhiều việc khác nhau,
ngẫm nghĩ những vấn đề khác nhau… Dẫu sao thầy vẫn ân hận và lấy làm tiếc
cho cái thuở đến trường ấy đã không tranh thủ để học được nhiều hơn những bài
học bổ ích không nằm trong chương trình và sách giáo khoa.
Bởi vậy với tư cách là một thầy giáo nhiều tuổi nghề và nhiều tuổi đời,
thầy muốn nhắn nhủ với các em rằng “Biển học là mênh mông, trong đó sách vở
tuy quan trọng nhưng cũng chỉ là vùng biển gần bờ mà thôi”.
Nền giáo dục của chúng ta đang bắt đầu đổi mới theo xu hướng tiến bộ
hơn, tích cực hơn, theo đó học sinh muốn thành đạt thì ngoài những kiến thức
sách vở, họ còn phải thành thạo các kỹ năng xã hội, kỹ năng sống để phát triển
toàn diện, họ cần phải được trang bị các giá trị chuẩn mực về tính cách, phẩm
chất và những đạo đức tốt đẹp.
( Trích Bài phát biểu của PGS. TS Văn Như Cương trong lễ khai giảng
năm học 2015 - 2016 - Trường THPT Lương Thế Vinh - Hà Nội)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn văn bản (2.0 điểm)
Câu 2: Nêu ngắn gọn nội dung của văn bản trên ? (3.0 điểm
75
Câu 3: Vì sao tác giả cho rằng "nền giáo dục của chúng ta đang bắt
đầu đổi mới theo xu hướng tiến bộ hơn, tích cực hơn" ? (2.0 điểm)
Câu 4: Thông điệp nào trong đoạn văn bản trên có ý nghĩa nhất với anh
(chị)? (3.0 điểm)
ĐÁP ÁN - HƯỚNG DẪN CHẤM:
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: nghị luận
- Điểm 2.0: Trả lời đúng phương thức biểu đạt trên.
- Điểm 0: Ghi phương thức biểu đạt khác hoặc không trả lời
Câu 2. Nội dung chính của đoạn văn bản: bàn về việc học, đặc biệt nhấn
mạnh tầm quan trọng của những kiến thức trong cuộc sống.
- Điểm 3.0 : Trả lời đúng nội dung trên có thể có cách diễn đạt khác.
- Điểm 1.5: Trả lời được 1/2 số ý trên, trả lời chung chung, chưa thật rõ ý.
- Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Câu 3. Tác giả cho rằng "nền giáo dục của chúng ta đang bắt đầu đổi mới
theo xu hướng tiến bộ hơn, tích cực hơn" vì: học sinh muốn thành đạt thì
ngoài những kiến thức sách vở, họ còn phải thành thạo các kỹ năng xã hội, kỹ
năng sống để phát triển toàn diện, họ cần phải được trang bị các giá trị
chuẩn mực về tính cách, phẩm chất và những đạo đức tốt đẹp.
- Điểm 2.0: Trả lời đủ nội dung theo cách trên
- Điểm 1.0: Câu trả lời chung chung, chưa thật rõ ý
- Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Có thể diễn đạt theo cách khác nhưng phải hợp lí, chặt chẽ.
Câu 4. Đây là câu hỏi mở, HS có thể chọn một có ý nghĩa nhất trong số các
thông điệp sau:
+ Chúng ta không chỉ học kiến thức trong sách vở mà phải học cả ngoài đời sống.
+ Ngoài việc học kiến thức chúng ta phải rèn luyện kĩ năng sống, trau dồi đạo đức.
76
- Điểm 3.0: Nêu được thông điệp và đưa ra những lý giải hợp lý, diễn đạt
mạch lạc, lập luận chặt chẽ.
- Điểm 1.5: Chỉ nêu được thông điệp mà không lý giả vì sao hoặc câu trả lời
chung chung, không rõ ý, không có sức thuyết phục
- Điểm 0: Không nêu được thông điệp hoặc không trả lời.
Tại trường THPT Đông Thụy Anh, trong kì kiểm tra chất lượng giữa
học kì 1 năm học 2017-2018, các giáo viên xây dựng được 6 đề với hệ thống
câu hỏi kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn. Tổ trưởng
bộ môn chọn được 1 đề kiểm tra năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh khối
12 như sau:
ĐỀ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG GIỮA HỌC KÌ I
ĐỀ SỐ 2:
MÔN NGỮ VĂN 12
TRƯỜNG THPT ĐÔNG THỤY ANH
SỞ GD & ĐT THÁI BÌNH
-----------------------
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Mong ước đầu tiên và lớn nhất của tôi là các con sẽ trở thành người tử
tế, sau đó là cháu sẽ có một cuộc sống hạnh phúc.
Sau này con có trở thành bất cứ ai trên cuộc đời này, làm bất cứ công
việc gì thì cũng làm việc một cách tử tế, ứng xử với bản thân, với gia đình,
bạn bè, những người xung quanh, với cộng đồng và thậm chí là với cả trái đất
này một cách tử tế! Việc cháu tiếp tục học ở đâu, làm việc gì là tùy vào sở
thích, niềm đam mê và năng lực của cháu. Tôi và gia đình hoàn toàn tôn
trọng vào sự lựa chọn và quyết định của con mình.
(Thạc sĩ Đinh Thị Thu Hoài - Giám đốc Trung tâm Đào tạo Kĩ năng
sống Insight, mẹ của "cậu bé vàng" Đỗ Hải Nhật Minh trả lời phỏng vấn báo
Giáo dục và Thời đại số 24 ngày 28-1-2017, trang 7)
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn văn trên (2.0đ).
77
Câu 2. Theo em, đoạn văn được trình bày theo kiểu kết cấu nào? (2.0 đ)
Câu 3. Xác định nội dung cơ bản và phong cách ngôn ngữ của đoạn văn? (3đ)
Câu 4. Là một người trẻ tuổi, anh/chị có tán đồng với mong ước về tương lai
tuổi trẻ của vị phụ huynh thể hiện trong đoạn trích trên không? Vì sao? (3đ)
ĐÁP ÁN - BIỂU ĐIỂM CHẤM:
Câu Yêu cầu Điểm
Câu 1 - Phương thức biểu đạt chính: nghị luận 2.0
Câu 2 Văn bản trên được trình bày theo kiểu kết cấu diễn dịch 2.0
- Nội dung chính của đoạn văn bản: Văn bản là lời chia sẻ
Câu 3 những suy nghĩ, quan điểm của người mẹ về cách dạy con. 1.5
- Phong cách ngôn ngữ: chính luận 1.5
Đây là câu hỏi mở, HS cần đáp ứng các yêu cầu sau:
Câu 4 - Bày tỏ thái độ: tán đồng hay không tán đồng hoặc vừa tán 1.5
đồng vừa không tán đồng với quan điểm của người mẹ
- Lý giải vì sao. 1.5
Ghi chú: Đề số 1 là đề thực nghiệm; đề số 2 là đề đối chứng.
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm:
3.5.1. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn và điều kiện sư phạm cho
phép, chúng tôi đã thực nghiệm công tác xây dựng hệ thống câu hỏi kiểm tra
đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn ở trường THPT. Tiêu chí
đánh giá kết quả thực nghiệm được chúng tôi xác định gồm: mức độ đáp ứng
mục đích yêu cầu kiểm tra, độ phù hợp giữa các mức năng lực cần kiểm tra
đánh giá với ma trận đề đã thiết lập, sự phù hợp của ngữ liệu đọc hiểu với
khả năng, nhu cầu, hứng thú đọc hiểu của học sinh, tính khoa học, khả năng
78
khơi gợi được hứng thú của người học và đáp ứng yêu cầu đánh giá các mức
độ năng lực của học sinh trong hệ thống câu hỏi.
3.5.2 Cách thức đánh giá:
Trong quá trình thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy kết quả thực nghiệm
là đề kiểm tra đánh giá, một sản phẩm tinh thần nên rất khó tìm ra cách thức
đánh giá đảm bảo tính khách quan, mang tính tổng quát. Để đánh giá kết quả
thực nghiệm, chúng tôi lựa chọn một số cách đánh giá để thấy được cách nhìn
nhận từ cả phía GV- người ra đề kiểm tra và HS - người làm bài kiểm tra
đánh giá. Đó là đánh giá qua lấy ý kiến chia sẻ của giáo viên và học sinh về
đề kiểm tra đánh giá và kết quả làm bài của các em học sinh.
3.5.2.1. Đánh giá kết quả thực nghiệm qua phiếu lấy ý kiến chia sẻ của giáo
viên và học sinh:
Để đánh giá mức độ phù hợp và tính hiệu quả của đề kiểm tra đánh giá
năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh, chúng tôi lấy ý kiến của giáo viên và
học sinh trong phiếu chia sẻ cảm nhận sau kì kiểm tra. Do phạm vi có hạn của
luận văn, chúng tôi chỉ trình bày nội dung các phiếu chia sẻ cảm nhận và trả
lời nhanh đó.
PHIẾU CHIA SẺ CẢM NHẬN CỦA GIÁO VIÊN
VỀ ĐỀ KIỂM TRA ĐỌC HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ VĂN 12
Sau khi đọc đề bài thầy (cô) đọc từng mục ở bảng dưới, khoanh tròn
vào ô chữ số tương ứng với mức độ đánh giá cụ thể của từng nội dung mà
mình chọn (yêu cầu đánh giá khách quan và đúng với tình hình thực tế)
1 - Không đồng ý
2 - Đồng ý một phần
3 - Đồng ý về cơ bản
4 - Hoàn toàn đồng ý
79
Kí hiệu Tiêu chí đánh giá Các mức độ ĐG
Đề bài đáp ứng được mục đích yêu cầu của kì 1.1 1 2 3 4 kiểm tra đánh giá
văn bản đọc hiểu trong đề được chọn lọc, đề cập
1.2 đến vấn đề mang tính thực tiễn cao, khơi gợi 1 2 3 4
được hứng thú cho học sinh
Hệ thống câu hỏi bao quát được kiến thức các 1.3 1 2 3 4 phân môn đã học (Tiếng Việt, Làm văn, Văn học)
Hệ thống câu hỏi thể hiện được các mức độ
1.4 đánh giá năng lực (nhận biết, thông hiểu, vận 1 2 3 4
dụng , sáng tạo)
Ngôn ngữ trong hệ thống câu hỏi trong sáng rõ 1.5 1 2 3 4 ràng, mạch lạc
Người học thường trả lời ngay và thấu đáo 1.6 1 2 3 4 những câu hỏi trong đề kiểm tra theo dạng này.
Qua hệ thống câu hỏi, người học được gợi mở,
1.7 khuyến khích tham gia vào quá trình tìm hiểu 1 2 3 4
văn bản.
Hệ thống câu hỏi đọc hiểu giúp giáo viên đánh
1.8 giá khách quan và khoa học kết quả học tập của 1 2 3 4
học sinh theo hướng phát triển năng lực.
Thầy (cô) hài lòng với cách ra đề theo hướng 1.9 1 2 3 4 tiếp cận năng lực người học như vậy.
Nên duy trì cách ra đề kiểm tra đánh giá theo
1.10 hướng tiếp cận năng lực người học cả ở các cấp 1 2 3 4
học khác.
80
Chúng tôi tiến hành khảo sát qua giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy tại trường THPT Nguyễn Trãi - Vũ Thư - Thái Bình. Số giáo viên
tham gia chia sẻ quan điểm đánh giá về 2 đề bài là 12 thầy cô. Sau khi
nhận lại phiếu chia sẻ của giáo viên, chúng tôi thống kê lại ý kiến của
các thầy cô về 2 đề bài theo bảng số liệu sau:
Bảng 3.1. Kết quả ý kiến chia sẻ của giáo viên
Tiêu chí Đề số 1 Đề số 2
đánh giá ( kí PA 1 PA2 PA3 PA4 PA1 PA2 PA3 PA4
hiệu)
1.1 2 10 1 5 3 3
1.2 5 7 6 6
1.3 3 9 4 8
1.4 4 8 6 5 1
1.5 3 9 5 4 3
1.6 8 2 2 1 7 4
1.7 5 7 2 8 2
1.8 1 11 2 3 6 1
1.9 2 9 3 5 3 1
1.10 1 11 5 4 3 0
Đánh giá chất lượng của đề bài kiểm tra nếu chỉ nhìn nhận từ phía giáo
viên sẽ không tránh khỏi sự phiến diện, cái nhìn một chiều. Để có được cái
nhìn đầy đủ , toàn diện hơn về chất lượng của đề bài, để đánh giá hiệu quả của
các biện pháp đề ra ở chương 2, thiết nghĩ sự đánh giá của học sinh về đề
kiểm tra đánh giá là rất cần thiết. Song song với việc lấy ý kiến chia sẻ của
81
giáo viên, chúng tôi lấy ý kiến chia sẻ của học sinh đang học tập tại trường
THPT Nguyễn Trãi - Vũ Thư - Thái Bình về đề kiểm tra thực nghiệm và đề
kiểm tra đối chứng. Sau khi các em làm bài kiểm tra, chúng tôi phát cho
mỗi em một phiếu chia sẻ ý kiến, những cảm nhận của các em về hai đề
bài vừa làm.
Trong khuôn khổ giới hạn của luận văn, chúng tôi xin giới thiệu mẫu
phiếu chia sẻ:
PHIẾU CHIA SẺ CẢM NHẬN CỦA HỌC SINH SAU KHI LÀM
BÀI KIỂM TRA ĐỌC HIỂU VĂN BẢN MÔN NGỮ VĂN
A. Thông tin về người trả lời phiếu chia sẻ
Họ và tên học sinh .................................................................................
Lớp : ................................................. Năm học: ....................................
B. Nội dung chia sẻ: Nhũng suy nghĩ cảm nhận của người học về chất
lượng đề kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn.
Học sinh đọc từng mục ở bảng dưới, khoanh tròn vào chữ số tương ứng
với mức độ đánh giá cụ thể của từng nội dung mà mình chọn (yêu cầu đánh
giá khách quan và đúng với tình hình thực tế).
1 - Không đồng ý
2 - Đồng ý một phần
3 - Đồng ý về cơ bản
4 - Hoàn toàn đồng ý
82
Kí Tiêu chí đánh giá Các mức độ
hiệu ĐG
Văn bản đọc hiểu trong đề được chọn lọc, đề cập 1.1 1 2 3 4 đến vấn đề mang tính thực tiễn cao.
Hệ thống câu hỏi bao quát được kiến thức các 1.2 1 2 3 4 phân môn đã học (Tiếng Việt, Làm văn, Văn học)
Ngôn ngữ trong hệ thống câu hỏi rõ ràng, 1.3 1 2 3 4 mạch lạc
Hệ thống câu hỏi thể hiện được các mức độ
1.4 đánh giá năng lực (nhận biết, thông hiểu, vận 1 2 3 4
dụng , sáng tạo)
Người học thường trả lời ngay và thấu đáo 1.5 1 2 3 4 những câu hỏi trong đề kiểm tra
Qua hệ thống câu hỏi, anh/ chị được gợi mở,
1.6 khuyến khích tham gia vào quá trình tìm hiểu 1 2 3 4
văn bản.
Hệ thống câu hỏi đọc hiểu giúp đánh giá khách
1.7 quan và khoa học kết quả học tập của học sinh 1 2 3 4
theo hướng phát triển năng lực.
Anh/Chị cảm thấy hào hứng khi làm bài kiểm tra 1 2 3 4 1.8 phần này.
Anh/Chị hài lòng với cách ra đề theo hướng tiếp 1 2 3 4 1.9 cận năng lực người học như vậy.
Nên duy trì cách ra đề kiểm tra đánh giá theo
1.10 hướng tiếp cận năng lực người học cả ở các cấp 1 2 3 4
học khác.
83
Số học sinh tham gia chia sẻ quan điểm đánh giá về 2 đề bài là 92 học
sinh. Sau khi nhận lại phiếu chia sẻ của học sinh, chúng tôi thống kê lại ý kiến
của các em về 2 đề bài theo bảng số liệu sau:
Bảng 3.2. Kết quả ý kiến chia sẻ của học sinh
Tiêu chí đánh
Đề số 1
Đề số 2
giá ( kí hiệu)
PA 1 PA2 PA3 PA4 PA1 PA2 PA3 PA4
1.1 34 58 55 37
1.2 45 47 46 46
1.3 23 69 44 48
1.4 5 61 26 36 47 9
1.5 25 64 3 16 65 11
1.6 2 65 25 25 71 6
1.7 9 62 21 31 58 3
1.8 9 71 12 15 67 20
1.9 86 16 5 79 18
1.10 75 17 14 64 14
Từ số liệu thống kê trên chúng tôi nhận thấy đa số giáo viên và học sinh
đánh giá cao đề thực nghiệm từ việc đáp ứng được mục đích, yêu cầu kiểm tra
đến văn bản lựa chọn và hệ thống câu hỏi được xây dựng. Một điều dễ nhận
thấy ở đề đối chứng, hệ thống câu hỏi cho thấy tỉ trọng đo các cấp độ nhận
thức của học sinh chưa cân đối: chú trọng đo cấp độ nhận biết mà ít chú ý đến
cấp độ thông hiểu, vận dụng.
3.5.2.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm qua chất lượng bài làm của học sinh
- Đối tượng TN: học sinh 2 lớp 12A2, 12A6 trường THPT Nguyễn Trãi.
- Nội dung TN: Kết quả bài làm của học sinh trong hai bài kiểm tra đề
số 1 và đề số 2.
84
- Giáo viên cho cùng đối tượng học sinh làm bài với 2 đề nêu trên.giáo
viên chấm bài theo đáp án biểu điểm
- Dựa trên số lượng các câu trả lời đạt được theo từng mức độ đã xác
định, chúng tôi tiến hành phân loại bài làm của học sinh theo bốn loại:
+ Chưa đạt chuẩn (ứng với mức điểm dưới 5)
+ Đạt ở mức trung bình (ứng với mức điểm 5 - 6)
+ Đạt ở mức khá (ứng với mức điểm 6.5 - 7.5)
+ Đạt ở mức tốt (ứng với mức điểm ≥ 8) như trong bảng sau:
Bảng 3.3. Bảng phân phối điểm của học sinh (theo loại)
Chưa Đạt ở mức Đạt ở mức Đạt ở mức Loại đạt trung bình khá độ tốt Đề
< 5 5 - 6 6.5 -7.5 ≥ 8 xi
nxi 8 48 20 16
TN
8.7 17.4 52.2 21.7 fxi(%)
nxi 0 26 56 10
ĐC
0 60.9 10.9 28.3 fxi(%)
85
Hình 3.4. Biểu đồ phân phối điểm của học sinh
Quan sát trên biểu đồ, dễ dàng nhận thấy sự khác biệt trong kết quả
bài làm ủa học sinh với đề TN và ĐC. Với đề ĐC, tỉ lệ bài làm của học
sinh đạt ở mức độ khá và tốt cao hơn, trong khi tỉ lệ bài làm ở mức chưa
đạt không có và đạt ở mức trung bình thấp hơn. Phổ điểm tập trung ở mức
tốt và khá. Trong khi đó, với đề TN số lượng học sinh đạt ở mức độ khá
chiếm tỉ lệ cao nhất, phổ điểm rải đều ở các mức từ đạt ở mức trung bình
đến tốt.
Như vậy, cùng với kết quả các bài kiểm tra, thông tin thu được từ
các phiếu chia sẻ cảm nhận của giáo viên và học sinh để đánh giá chất
lượng của đề bài cùng hệ thống câu hỏi kiểm tra năng lực đọc hiểu văn
bản cũng góp phần giúp chúng tôi khẳng định thêm kết quả nghiên cứu
86
của đề tài. Bằng việc phân tích các kết quả TN như trên, chúng tôi đi đến
kết luận: những biện pháp trau dồi kĩ năng xây dựng câu hỏi trong kiểm
tra đánh giá năng lực đọc hiểu môn Ngữ văn ở trường THPT đặc biệt là
việc thực hiện đúng quy trình xây dựng câu hỏi đọc hiểu được luận văn đề
xuất ở chương 2 đã thể hiện được tính khả thi trong quá trình TN ở một số
trường. Sau mỗi kì kiểm tra đánh giá, giáo viên đã xây dựng được hệ
thống câu hỏi đáp ứng mục đích, yêu cầu kiểm tra và điều quan trọng hơn
là các thầy cô nắm vững hơn quy trình ra đề kiểm tra đánh giá, xây dựng
được bộ câu hỏi khoa học hơn, đánh giá được năng lực đọc hiểuvăn bản
của học sinh theo các cấp độ đánh giá năng lực người học.
Tiểu kết chương 3
Nội dung chương 3 thể hiện quá trình thực nghiệm để kiểm chứng
những kết quả nghiên cứu của đề tài. Từ việc xác định mục đích thực
nghiệm cũng như thông qua việc phân tích tình hình thực tiễn điều kiện sư
phạm cho phép, chúng tôi đã lựa chọn các nội dung thực nghiệm và đối
tượng giáo viên, học sinh thực nghiệm như đã trình bày. Mặc dù phạm vi
thực nghiệm còn hạn chế về nhiều mặt do giới hạn của điều kiện sư phạm
thực tiễn, song những kết quả thu được đã giúp khẳng định hướng triển
khai của đề tài và tiếp tục gợi mở những nội dung nghiên cứu tiếp theo.
87
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kiểm tra đánh giá năng lực của học sinh trong dạy học nói chung và
kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản trong môn học Ngữ văn nói riêng
là một vấn đề lớn, lâu dài, quan trọng và phức tạp, đồng thời hiện cũng là vấn
đề mang tính thời sự trong công cuộc đổi mới chương trình giáo dục tại Việt
Nam. Kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản là một yếu tố động, luôn
phát triển, với mỗi đối tượng, mỗi thời điểm cụ thể lại tồn tại ở những hình
thức khác nhau. Để làm tốt công tác này đòi hỏi người giáo viên phải luôn nỗ
lực nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, nâng cao kiến thức kĩ năng trong
công tác kiểm tra đánh giá mà việc rèn kĩ năng xây dựng đề với hệ thống câu
hỏi kiểm tra là vấn đề đáng quan tâm. Trên cơ sở lý luận, phân tích làm rõ
thực trạng công tác ra đề kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn nói chung, kiểm tra
đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản nói riêng ở các trường THPT hiện nay,
luận văn đã đề xuất một số biện pháp nâng cao kĩ năng xây dựng hệ thống câu
hỏi đọc hiểu trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn. Các biện pháp được xây
dựng dựa trên cơ sở khoa học và thực tế ra đề kiểm tra đánh giá từ xác định
mục đích, yêu cầu kiểm tra, thiết lập ma trận đề, biên soạn đề kiểm tra với các
khâu lựa chọn ngữ liệu đọc hiểu, biên soạn câu hỏi, xây dựng đáp án thang
điểm. Ở mỗi khâu, trong quá trình ra đề, chúng tôi đều đưa ra các bước thực
hiện cụ thể nhằm giúp giáo viên thực hiện công việc của mình một cách khoa
học, thành thục hơn. Các biện pháp nêu trên đã được khảo nghiệm về mức độ
cần thiết và tính khả thi, có thể áp dụng trong trường THPT Nguyễn Trãi
huyện Vũ Thư Thái Bình và nhiều trường THPT khác.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh theo tiếp cận năng lực nói chung,
xây dựng hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá năng lực đọc hiểu trong bộ môn
88
Ngữ văn nói riêng chịu ảnh hưởng lớn của vốn tri thức, khả năng tư duy và
tính sáng tạo của giáo viên và nhiều yếu tố khác như cơ chế quản lý của cơ sở
giáo dục vv... Trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay, cần tạo ra sự thay
đổi nhận thức và hành động ở giáo viên về việc tổ chức dạy học đọc hiểu văn
bản và các hoạt động kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo
hướng tiếp cận năng lực.
Thay đổi quan niệm và cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh
THPT nhất là đánh giá năng lực đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn cần đặt ra
vấn đề đổi mới trong nội dung và phương pháp đánh giá. Trong các đề kiểm
tra, năng lực đọc hiểu của học sinh cần được kiểm tra đánh giá thông qua việc
tự đọc hiểu các văn bản ngoài chương trình, câu hỏi kiểm tra đánh giá cần xây
dựng có hệ thống để đo mức độ năng lực đọc hiểu theo các cấp độ từ nhận
biết, thông hiểu, vận dụng thấp đến vận dụng cao. Quá trình đổi mới kiểm tra
đánh giá đặt ra yêu cầu giáo viên phải tự học hỏi, tích lũy vốn kiến thức và tự
rèn luyện để nâng cao tư duy sáng tạo, kĩ năng xây dựng hệ thống câu hỏi
trong kiểm tra đánh giá. Trong các cơ sở giáo dục cần phát huy vai trò của
Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn Ngữ văn trong hoạt động kiểm
tra đánh giá năng lực đọc hiểu cho học sinh.
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành TW8 (khóa XI), Nghị quyết số 29 -NQ/TW về đổi
mới giáo dục căn bản, toàn diện.
2. Bộ Giáo dục và đào tạo (2014), Tài liệu Hội thảo Đổi mới kiểm tra
đáng giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, (2014); Tài liệu tập huấn đổi mới sinh hoạt
chuyên môn.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Ngữ văn 10 nâng cao, tập 1, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
5. Vũ Thị Ngọc Anh và các cộng sự (2010), "Thực trạng đánh giá kết
quả học tập của học sinh ở trường phổ thông hiện nay", Viện Khoa học Giáo
dục Việt Nam.
6. Nguyễn Đức Chính (2011), Giáo trình đo lường và đánh giá trong
giáo dục, trường Đại học Giáo dục.
7. Hà Thị Đức (3/1989), "Đảm bảo tính khách quan trong kiểm tra,
đánh giá kiến thức học sinh", Tạp chí NCGD.
8. Lê Thị Mĩ Hà (2013), “Vận dụng PISA vào đánh giá môn Ngữ văn
trong nhà trường phổ thông”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy học
Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ GD&ĐT, NXB Đại học Sư phạm,
tr.511-524.
9. Trần Bá Hoành (2004), Đánh giá trong giáo dục, Tài liệu dùng cho
sinh viên các trường đọc hiểuọc sinhP và CĐSP.
10. Nguyễn Thị Hạnh (2014), “Xây dựng chuẩn năng lực đọc hiểu
cho môn Ngữ văn của chương trình giáo dục phổ thông sau 2015 ở Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học, số 56 (90), Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí
Minh, tr. 88 - 97.
11. Phạm Thị Thu Hiền (2013), “Đổi mới kiểm tra đánh giá chất
90
lượng học tập môn Ngữ văn ở cấp trung học phổ thông”, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ
GD&ĐT, NXB Đại học Sư phạm, tr113-124.
12. Phạm Thị Thu Hiền (2014), “Một số đề xuất để đổi mới dạy học
đọc hiểu văn bản trong nhà trường phổ thông”, Tạp chí Khoa học, số 56(90),
Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, tr. 166-178.
13. Phạm Thị Thu Hiền (2016), “Đề xuất về việc dạy học đọc hiểu
văn bản thông tin ở trường trung học của Việt Nam trong thời gian tới”, Kỉ
yếu khoa học hội thảo toàn quốc Đổi mới nghiên cứu và giảng dạy Ngữ văn
trong nhà trường Sư phạm, NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 587 – 596.
14. Phạm Thị Huệ (2013), “Vận dụng cách hỏi của PISA trong kiểm
tra đánh giá năng lực đọc hiểu của học sinh trung học phổ thông", Kỷ yếu Hội
thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ
GD&ĐT, NXB Đại học Sư phạm, tr.125-130
15. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn – Dạy văn, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
16. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc – hiểu tác phẩm văn chương
trong nhà trường, NXB Giáo dục, Hà Nội.
18.Nguyễn Thanh Hùng (2011), Kĩ năng đọc hiểu Văn, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội..
19. Nguyễn Thị Huyền (2011); Quản lý các hoạt động giáo dục trong
trường học, Tài liệu dành cho học viên cao học Quản lý giáo dục, Đại học Sư
phạm Thái Nguyên.
20. Phạm Thị Thu Hương (2012), Đọc hiểu và chiến thuật đọc hiểu
văn bản trong nhà trường phổ thông, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
91
21. Phạm Thị Thu Hương (2013), “Dạy học Ngữ văn ở phổ thông –
một cái nhìn hướng ra thế giới”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy
học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ GD&ĐT, Nxb Đại học Sư
phạm, tr.559-569.
22. Nguyễn Công Khanh và các cộng sự (2014), Kiểm tra, đánh giá
trong Giáo dục, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Hồng Nam, Dương Thị Hồng Hiếu (2016), Giáo
trình Phương pháp dạy đọc văn bản, NXB Đại học Cần Thơ.
24. Lê Đức Ngọc (2005); Đo lường và đánh giá trong giáo dục. Tài
liệu bài giảng khóa đào tạo Thạc sĩ Đo lường và đánh giá trong giáo dục.
25. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1987), Giáo dục học tập 1,2, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
26. Hoàng Đức Nhuận, Lê Đức Phúc (1996), Cơ sở lý luận của việc
đánh giá chất lượng học tập của học sinh phổ thông, Chương trình khoa học
cấp nhà nước, KX07-08, Hà Nội 1996.
27. Trần Thị Tuyết Oanh (2005), Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
28. Trần Đình Sử (2004), “Đọc hiểu văn bản – một khâu đột phá trong
nội dung và phương pháp dạy văn hiện nay”, Tạp chí Giáo dục, số 102
(chuyên đề, quý IV), tr.16-18.
29. Trần Đình Sử (2012) “Văn bản văn học và đọc – hiểu văn bản”,
Tài liệu chuyên văn, tập 1, Đỗ Ngọc Thống chủ biên, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2012, tr.184-238.
30. Nguyễn Thị Tính (2014), Đánh giá và kiểm định chất lượng giáo
dục, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
31. Nguyễn Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Ngọc Bích (2013), Các kĩ
thuật đánh giá trong lớp học, kinh nghiệm quốc tế và đề xuất áp dụng cho bậc
92
THPT ở Việt Nam, Dự án phát triển giáo dục Viện THPT&TCCN .
32. Đỗ Ngọc Thống (2003), “Chương trình Ngữ văn trung học phổ
thông và việc hình thành năng lực học văn cho học sinh”, Tạp chí Giáo
dục, số 66 (9/2003), tr. 26 -28.
33. Đỗ Ngọc Thống (2005), “Sách giáo khoa Ngữ văn cần giúp học
sinh tự tiếp nhận văn học”, Tạp chí Giáo dục, số 110 (3/2005), tr. 19-21.
34. Đỗ Ngọc Thống (2013), “Đánh giá kết quả học tập – một mắt xích
trọng yếu của đổi mới giáo dục phổ thông”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc
gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ GD&ĐT, NXB Đại
học Sư phạm, tr.791-800.
35. Nguyễn Thị Thu Thủy, "Xây dựng câu hỏi, đề kiểm tra nhằm
đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông theo định
hướng phất triển năng lực", Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về dạy
học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, Bộ GD&ĐT, Nxb Đại học Sư
phạm, tr.189-195.
36. Đỗ Công Tuất (2005)Đánh giá trong giáo dục, Tài liệu giảng dạy,
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
37. Viện ngôn ngữ học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
38. Nguyễn Thị Hồng Vân (2014), “Đánh giá kết quả học tập môn
Ngữ văn theo định hướng đánh giá năng lực”, Tạp chí Khoa học, số 56 (90),
Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, tr. 151-156.
39. Nguyễn Thị Hồng Vân (2015), “Đề xuất cấu trúc và chuẩn đánh
giá năng lực đọc hiểu trong chương trình giáo dục phổ thông mới”, Tạp chí
Khoa học Giáo dục, (114), tr. 19-20 .
93
PHỤ LỤC
Phụ lục 1.1: Các đề kểm tra đánh giá
ĐỀ SỐ 1: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Câu chuyện con lừa
Một ngày nọ, con lừa của ông chủ trang trại sảy chân rơi xuống một
cái giếng. Lừa kêu la tội nghiệp hàng giờ liền. Người chủ trang trại cố nghĩ
xem nên làm gì. Cuối cùng ông quyết định: con lừa đã già, dù sao cái giếng
cũng cần phải lấp lại và không ích lợi gì trong việc cứu con lừa lên cả. Ông
nhờ vài người hàng xóm sang giúp mình. Họ xúc đất và đổ vào giếng. Ngay từ
đầu, lừa đã hiểu chuyện gì xảy ra và nó kêu la thảm thiết. Nhưng sau đó, lừa
trở nên im lặng. Sau một vài xẻng đất, ông chủ trang trại nhìn xuống giếng và
vô cùng sửng sốt. Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng, lừa lắc mình cho đất
rơi xuống và bước chân lên. Cứ như vậy, đổ đất xuống, lừa lại bước lên cao
hơn. Chỉ một lúc sau, mọi người nhìn thấy chú lừa xuất hiện trên miệng giếng
và lóc cóc chạy ra ngoài.
Câu 1. Xác định các phương thức biểu đạt trong văn bản trên. (2.0 điểm)
Câu 2. Tại sao con lừa từ chỗ “ kêu la thảm thiết” đã “trở nên im lặng”?
(2.0 điểm)
Câu 3. Trong câu chuyện, con lừa bị lâm vào một hoàn cảnh như thế
nào? Ý nghĩa của việc tạo dựng hoàn cảnh đó? (3.0 điểm)
Câu 4. Trong câu chuyện, chi tiết nào để lại cho anh/chị ấn tượng sâu sắc
nhất? Vì sao? (3.0 điểm)
94
ĐÁP ÁN- BIỂU ĐIỂM ĐỀ SỐ 1:
Câu 1. Phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm.
- Điểm 2.0: Trả lời đúng các phương thức biểu đạt trên.
- Điểm 1.5: Trả lời đúng hai trong số các phương thức biểu đạt trên.
- Điểm 0.75: Trả lời đúng một trong số các phương thức biểu đạt trên.
- Điểm 0: Ghi phương thức biểu đạt khác hoặc không trả lời
Câu 2. Con lừa từ chỗ “ kêu la thảm thiết” đã “trở nên im lặng”, vì: Nó đã
nhận ra kêu la chẳng có ích gì và trong khó khăn thách thức có cơ hội để tự
cứu mình.
- Điểm 2.0 : Trả lời đúng nội dung trên có thể có cách diễn đạt khác.
- Điểm 1.0: Trả lời được 1/2 số ý trên, trả lời chung chung, chưa thật rõ ý.
- Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời.
Câu 3. Trong câu chuyện, con lừa bị đặt vào hoàn cảnh: không may bị rơi
xuống giếng nhưng ông chủ của nó lại quyết định lấp giếng và chôn nó.
- Ý nghĩa của việc tạo dựng hoàn cảnh:
+ Hoàn cảnh bi đát, tuyệt vọng đó đã khẳng định: Con lừa rất thông minh,
nhanh trí khi tìm ra cách để cứu mình.
+ Đem đến một bài học về cách ứng xử của con người trước khó khăn thử
thách: Trước khó khăn thử thách, mỗi người cần dũng cảm đối mặt với nó, xử
lí linh hoạt, biết biến khó khăn thử thách thành những cơ hội để tự khẳng định
mình.Có thể diễn đạt theo cách khác nhưng phải hợp lí, chặt chẽ.
Điểm 3.0: Trả lời đủ nội dung theo cách trên
Điểm 1.5: Trả lời được 1 trong 2 ý hoặc câu trả lời chung chung, chưa rõ ý
Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Câu 4. Đây là câu hỏi mở, học sinh phải
+ chọn được chi tiết tiêu biểu
+ nêu rõ vẻ đẹp của con lừa qua chi tiết đó.
95
Điểm 3.0: Nêu được chi tiết tiêu biểu và đưa ra những lý giải hợp lý, diễn đạt
mạch lạc, lập luận chặt chẽ.
Điểm 1.5: Chỉ nêu được chi tiết tiêu biểu mà không lý giả vì sao hoặc câu trả
lời chung chung, không rõ ý, không có sức thuyết phục
Điểm 0: Cho điểm 0 nếu không nêu được thông điệp hoặc không trả lời.
ĐỀ SỐ 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
"Học trò con trai ma quỷ
học trò con gái thần tiên
thầy bắt thần tiên ngồi kèm ma quỷ
Bén hơi ma quỷ ghẹo thần tiên
lập lòe đom đóm vĩnh cửu
ô mai đổi kẹo bạc hà
Lấm láp trang đời mỗi dày mỗi kịch
tuổi học trò đồng nghĩa với trang thơ
thời gian không mất trắng bao giờ
Câu chuyện học trò không đầu không cuối
tình ý học trò quả me chua loét
lưu bút mùa hoa phượng cháy mãi không thôi
Lá thư học trò vu vơ dấm dúi
Nỗi nhớ học trò chấp chới suốt đời nhau
đẹp như là không đâu vào đâu"
( Kính gửi tuổi học trò – Nguyễn Duy)
Câu 1. Xác định nội dung chính của văn bản trên. (2.0 điểm)
96
Câu 2. Những từ ngữ, hình ảnh nào gợi nhắc về kỉ niệm của tuổi học trò. (2.0
điểm)
Câu 3. Chỉ rõ và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ chính trong hai
câu thơ sau (3.0 điểm) "Học trò con trai ma quỷ/ học trò con gái thần tiên"
Câu 4. Nêu tác dụng của các từ láy “vu vơ”, “dấm dúi” và “chấp chới” trong
việc diễn tả những kỉ niệm học trò? Anh/chị có đồng tình với quan điểm của
nhà thơ “đẹp như là không đâu vào đâu” khi nói đến kỉ niệm đó không? Vì
sao? (3.0 điểm).
ĐÁP ÁN - BIỂU ĐIỂM ĐỀ SỐ 2
Câu 1. Nội dung: Cảm nhận của nhà thơ về tuổi học trò.
- Điểm 2.0: Trả lời đúng nội dung trên có thể có cách diễn đạt khác.
- Điểm 1.0: Trả lời chung chung, chưa thật rõ ý.
- Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Câu 2. Những từ ngữ, hình ảnh gợi nhắc về kỉ niệm của tuổi học trò: con
trai ma quỷ, con gái thần tiên, thần tiên ngồi kèm ma quỷ, ma quỷ ghẹo
thần tiên, lập lòe đom đóm, ô mai đổi kẹo bạc hà, câu chuyện học trò, tình
ý học trò, quả me chua loét, lưu bút mùa hoa phượng, lá thư học trò…
- Điểm 2.0 : Trả lời đủ nội dung theo cách trên
- Điểm 1.0: Trả lời được một nửa nội dung trên
- Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Câu 3:
- Biện pháp tu từ chính: biện pháp nghệ thuật đối (con trai – con gái, ma quỷ -
thần tiên).
- Hiệu quả nghệ thuật:
+ Nhấn mạnh những nét đẹp rất riêng của tuổi học trò: rất hồn nhiên, trong
sáng, hiếu động, tinh nghịch, xinh đẹp, duyên dáng...
+ Tạo nên nhạc điệu, sự cân đối hài hòa cho lời thơ.
97
- Điểm 3.0: Gọi tên và nêu được biện pháp tu từ và những hiệu quả nghệ
thuật của biện pháp tu từ đó.
- Điểm 1.5: Chỉ nêu được biện pháp tu từ mà không nêu những hiệu quả nghệ
thuật của biện pháp tu từ đó và ngược lại.
- Điểm 0: Cho điểm 0 nếu không nêu được biện pháp nghệ thuật hoặc không
trả lời.
Câu 4.
- Tác dụng của các từ láy “vu vơ”, “dấm dúi” và “chấp chới”:
+ Gợi nhớ về lá thư tình, lén lút, vụng trộm trao cho nhau của tuổi học trò.
+ “ Chấp chới ”: nỗi nhớ về mối tình của tuổi học trò thỉnh thoảng lại hiện lên
rồi lại tạm quên, cứ như thế suốt cả cuộc đời.
- Bộc lộ quan điểm của người viết trước cảm nhận của nhà thơ: là câu hỏi mở,
đòi hỏi HS có quan điểm rõ ràng và lập luận chặt chẽ, đúng chuẩn mực
Điểm 3.0: Nêu được các nội dung yêu cầu ở trên.
Điểm 1.5: Chỉ nêu được tác dụng của từ láy hoặc bộc lộ quan điểm của người
viết về cảm nhận của nhà thơ.
Điểm 0: Không nêu được tác dụng của từ láy, không bộc lộ quan điểm của
người viết hoặc không trả lời.
ĐỀ SỐ 3:
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4:
Phải chăng ta lớn lên để học cách tự yêu lấy bản thân mình khi ta biết
ngoài kia người ta sống với nhau không hẳn là không có điều kiện. Yêu lấy
bản thân để không ai làm tổn thương nó, yêu lấy bản thân để trân trọng
những cơ hội, những thử thách…
Phải chăng lớn lên là để biết được cuộc sống đa chiều và không ai có
thể là người hoàn hảo. Nếu như có ai làm điều không tốt với ta cũng không
nên sân si, oán giận. Lớn rồi phải biết cách tha thứ và cảm thông. Không ai
98
hoàn hảo nên ai cũng có thể mắc sai lầm nhưng quan trọng hơn cả là họ biết
sửa chữa những lỗi lầm của mình. Lớn rồi nên trái tim cũng lớn thêm ra, đủ
bao dung và ấm áp cho tất cả mọi người.
Phải chăng lớn lên là để biết hoàn thiện bản thân mình hơn, không chỉ
về tâm hồn mà còn hình dáng bên ngoài nữa. Một nhân viên tốt, nếu có thêm
ngoại hình ưa nhìn và phong cách chuyên nghiệp thì sẽ phục vụ tốt hơn cho
công việc, phải không nào?
Phải chăng lớn lên là để biết đôi khi con người ta nên học cách chấp
nhận những thất bại, có những cố gắng hết mình nhưng chẳng đi đến đâu
hoặc là kết quả không như ý muốn. Đừng buồn vì cuộc sống thử thách quá
khắc nghiệt với mình, mọi sự xảy ra trên đời đều có lí do. Khi bản thân đầy
đủ những vết tích của cuộc sống, tâm hồn bạn trở nên rắn rỏi và bình yên.
Ngoảnh nhìn lại rồi bạn sẽ thấy khó khăn hôm qua nhào nặn nên con người
bạn hôm nay: trưởng thành - mạnh mẽ - bình yên trước bão táp cuộc đời.”
(Anthony Robbins, Đánh thức con người phi thường trong bạn,
NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh, 2015)
Câu 1. Nêu nội dung và xác định phương thức biểu đạt chính của văn
bản. (3.0 điểm)
Câu 2. Chỉ rõ và nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ chủ yếu
trong văn bản. ( 2.0 điểm)
Câu 3. Theo tác giả, tại sao ta cần phải “học cách tự yêu lấy bản thân
mình”? (2.0 điểm)
Câu 4. Trong văn bản trên, thông điệp cuộc sống nào có ý nghĩa sâu sắc
nhất với anh/chị? Vì sao? Trả lời trong khoảng 5-7 dòng.(3.0 điểm)
99
ĐÁP ÁN - BIỂU ĐIỂM ĐỀ SỐ 3
Câu 1.
- Nội dung: Là những cảm nhận, suy nghĩ của người viết về thời điểm khi ta
lớn lên.
- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận
Điểm 3.0: Trả lời đúng các nội dung trên.
Điểm 2.0: Trả lời đúng nội dung văn bản.
Điểm 1.0: Trả lời đúng phương thức biểu đạt trên.
Điểm 0: Trả lời nội dung và phương thức biểu đạt khác hoặc không trả lời
Câu 2. - Biện pháp tu từ: Điệp cấu trúc( Phải chăng ta lớn lên là để…Phải
chăng lớn lên là để biết…)
- Hiệu quả:
+ Nhấn mạnh sự trưởng thành trong nhận thức và hành động của con người
khi ta lớn lên.
+ Tạo nên sự cân đối và nhạc điệu cho đoạn văn.
Điểm 3.0: Gọi tên và nêu được biện pháp tu từ và những hiệu quả nghệ
thuật của biện pháp tu từ đó.
Điểm 1.5: Chỉ nêu được biện pháp tu từ mà không nêu những hiệu quả
nghệ thuật của biện pháp tu từ đó và ngược lại.
Điểm 0: Không nêu được biện pháp nghệ thuật hoặc không trả lời.
Câu 3.
- Theo tác giả, ta cần phải “học cách tự yêu lấy bản thân mình”, vì:
+ Ngoài kia người ta sống với nhau không hẳn là không có điều kiện.
+ Yêu lấy bản thân để không ai làm tổn thương nó.
+ Yêu lấy bản thân để trân trọng những cơ hội, những thử thách…
Điểm 2.0: Trả lời đủ nội dung theo cách trên
Điểm 1.5: Trả lời được 2 trong 3 ý trên
100
Điểm 0.75: Trả lời được 1 trong 3 ý trên hoặc câu trả lời chung chung, chưa
thật rõ ý.
Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Câu 4. Đây là câu hỏi mở, HS có thể chọn một có ý nghĩa nhất trong số các
thông điệp sau:
+ Phải biết tự yêu lấy bản thân mình
+ Biết trân trọng những cơ hội, biết cách tạo cơ hội...
Điểm 3.0: Nêu được thông điệp và đưa ra những lý giải hợp lý, diễn đạt mạch
lạc, lập luận chặt chẽ.
Điểm 1.5: Chỉ nêu được thông điệp mà không lý giả vì sao hoặc câu trả lời
chung chung, không rõ ý, không có sức thuyết phục
Điểm 0: Không nêu được thông điệp hoặc không trả lời.
ĐỀ SỐ 4 :
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ câu 1 đến câu 4.
Vị vua và những bông hoa
Một ông vua nọ rất có tài chăm sóc những cây hoa và ông đang muốn
tìm một người kế vị mình. Ông quyết định để những bông hoa quyết định, vì
thế ông đưa cho tất cả mọi người mỗi người một hạt giống. Người nào trồng
được những bông hoa đẹp nhất từ hạt giống này sẽ được lên ngôi.
Một cô gái tên là Serena cũng muốn được tham gia vào cuộc cạnh
tranh để trồng được bông hoa đẹp nhất. Cô gieo hạt giống trong một cái chậu
rất đẹp chăm sóc nó rất kĩ càng, nhưng đợi mãi mà chẳng thấy hạt nảy mầm.
Năm sau, cô thấy mọi người tụ tập tại cung điện với những chậu hoa
rất đẹp, Serena rất thất vọng, nhưng vẫn tới tụ họp với chậu hoa trống rỗng.
Nhà vua kiểm tra tất cả các chậu hoa, rồi dừng lại bên chậu hoa của Serena.
Ngài hỏi “tại sao chậu hoa của cô không có gì?”. “Thưa điện hạ, tôi đã làm
mọi thứ lớn lên nhưng tôi đã thất bại” - cô gái trả lời.
101
“Không, cô không thất bại. Những hạt giống mà ta đưa cho mọi người
đều đã được nướng chín vì thế chúng không thể nảy mầm. Ta không biết
những bông hoa đẹp này ở đâu ra. (…)”.
(Trích Quà tặng cuộc sống)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản ? (2.0 điểm)
Câu 2: Theo anh (chị), vị vua sẽ quyết định như thế nào? Hãy viết tiếp
vào dấu (…) trong văn bản . (3.0 điểm)
Câu 3: Nêu nội dung chính của văn bản. (2.0 điểm)
Câu 4: Trả lời trong khoảng 5 đến 7 dòng về một bài học anh/chị rút ra
từ văn bản trên. (3.0 điểm)
ĐÁP ÁN - BIỂU ĐIỂM ĐỀ SỐ 4 :
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là tự sự
Điểm 2.0: Trả lời đúng: Trả lời đúng phương thức biểu đạt trên.
Điểm 0: Trả lời phương thức biểu đạt khác hoặc không trả lời.
Câu 2.
- Serena xứng đáng có được vương miện và nhà vua sẽ phong cho cô làm nữ
hoàng của vương quốc.
- Viết tiếp vào dấu ba chấm " Cô rất trung thực, vì thế cô xứng đáng được
nhận vương miện. Cô sẽ là nữ hoàng của vương quốc này."
Điểm 3.0: Trả lời đúng nội dung trên, chấp nhận cách diễn đạt khác nhưng
đúng ý.
Điểm 1.5: Chỉ nêu được một trong số hai ý trên hoặc trả lời chung chung,
chưa thật rõ ý.
Điểm 0: Cho điểm 0 nếu không nêu được các ý trên hoặc không trả lời.
Câu 3.
102
- Câu chuyện kể về việc một vị vua muốn lựa chọn người kế vị bằng
cách thử lòng trung thực của mọi người từ những hạt giống hoa đã được
nướng chín. Có duy nhất cô gái tên Serena là người chiến thắng nhờ lòng
trung thực của mình.
- Thông qua câu chuyện "Vị vua và những bông hoa", tác giả khẳng
định tính trung thực là một phẩm chất tốt đẹp, nó sẽ đem lại cho chúng ta
những món quà bất ngờ.
Điểm 2.0: Trả lời đủ nội dung theo cách trên
Điểm 1.0: Trả lời được 1 trong 2 ý trên hoặc câu trả lời chung chung, chưa
thật rõ ý.
Điểm 0: Trả lời sai hoặc không trả lời
Câu 4. Đây là câu hỏi mở, HS có thể chọn một bài học bổ ích cho bản thân:
+ Bài học về lòng trung thực
+ Bài học về cách thử lòng người trong cuộc sống…
- Đưa ra những lí giải tích cực, hợp lí
Điểm 3.0: Nêu được bài học và đưa ra những lý giải hợp lý, diễn đạt mạch
lạc, lập luận chặt chẽ.
Điểm 1.5: Chỉ nêu được bài học mà không lý giải vì sao hoặc câu trả lời
chung chung, không rõ ý, không có sức thuyết phục
Điểm 0: Không nêu được thông điệp hoặc không trả lời.
103
104
105
106
107