ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNGĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

PHẠM NGỌC HÀ

LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở

SƠN LA

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Dân tộc học

Mã số: 60 22 70

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Sỹ Giáo

Hà Nội - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài “Lịch và nông lịch của người Thái Đen ở Sơn La” là công

trình nghiên cứu của riêng tôi, từ kết quả điền dã dân tộc học của bản thân và có

tham khảo các tài liệu khác đã được trích dẫn đầy đủ.

Hà Nội, tháng 09 năm 2015

Tác giả

Phạm Ngọc Hà

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin cảm ơn các thầy, cô trong Khoa Nhân học, Khoa Lịch sử -

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, đặc biệt là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê

Sỹ Giáo, người đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt cho tôi những kiến thức cơ bản để

tôi hoàn thiện luận văn này.

Trong quá trình điền dã ở Sơn La, ở huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình tôi đã

nhận được ý kiến đóng góp quý báu của các ông Cà Văn Chung (Sở Khoa học và

Công nghệ tỉnh Sơn La), nhà thơ Vương Trung (nay đã mất), ông Lò Văn Lả -

Nguyên là cán bộ Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Sơn La, ông Khà Văn Tiến -

Nguyên Trưởng phòng văn hóa huyện Mai Châu, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn

chân thành tới các ông, các bác. Tôi cũng xin cảm ơn bà con người Thái Đen bản

Cọ, bản Bó phường Chiềng An, thành phố Sơn La, bà con người Thái Trắng xã Mai

Hạ, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình đã cho tôi những tư liệu cổ và hiểu biết thực tế

để hoàn thành bản luận văn này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình ông, bà Cà Văn

Chung – Hà Thị Bông đã tạo điều kiện cho tôi cả về vật chất và tinh thần vô cùng

quan trọng trong thời gian tôi tiến hành nghiên cứu thực địa tại địa phương.

Sau cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình và bạn bè của tôi – những người đã

tạo điều kiện và động viên tôi rất nhiều để tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ này.

Hà Nội, tháng 9 / 2015

Học viên thực hiện

Phạm Ngọc Hà

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC .................................................................................................................. 1

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 4

1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 4

2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 5

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 6

4. Nguồn tài liệu của luận văn ....................................................................................... 6

5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................... 7

CHƢƠNG I. ĐẠI CƢƠNG VỀ LỊCH ................................................................... 18

1.1. Khái niệm lịch và nguồn gốc của lịch ................................................................ 18

1.2. Những cơ sở của việc làm lịch ........................................................................... 21

1.2.1. Cơ sở thiên văn của việc làm lịch và các đơn vị lịch ...................................... 21

1.2.2. Cơ sở thực tế của việc làm lịch ....................................................................... 28

1.2.3. Cơ sở tính toán Âm - Dương lịch Việt Nam ................................................... 32

1.3. Phân loại lịch ...................................................................................................... 36

CHƢƠNG 2. LỊCH VÀ KẾT CẤU LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN ............... 39

2.1. Sơ lược giới thiệu về tộc người Thái ở Việt Nam .............................................. 39

2.2. Cơ sở của việc làm lịch Thái .............................................................................. 45

2.2.1. Yếu tố nhân sinh quan, tôn giáo, tín ngưỡng và ngũ hành trong việc hình

thành nên lịch Thái .................................................................................................... 47

2.2.2. Cách tính lịch cổ xưa của người Thái ............................................................. 52

2.2.3. Lịch theo Mặt trăng ......................................................................................... 54

2.2.4. Lịch theo hệ đếm Can, Chi .............................................................................. 59

2.3. Kết cấu của lịch Thái .......................................................................................... 64

2.3.1. Giờ (Chơ) ........................................................................................................ 64

2.3.2. Ngày ................................................................................................................ 66

2.3.3. Tháng ............................................................................................................... 68

1

2.3.4. Năm ................................................................................................................. 70

CHƢƠNG 3. CÁCH TÍCH LỊCH VÀ SỬ DỤNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI

ĐEN .......................................................................................................................... 72

3.1. Một số nguyên tắc để ứng dụng lịch .................................................................. 72

3.2. Cách tính lịch và sử dụng lịch của người Thái Đen ........................................... 74

3.2.1. Xem lịch để làm nhà mới ................................................................................ 74

3.2.2. Xem tuổi để lấy vợ, gả chồng ......................................................................... 79

3.2.3. Cách tính lịch theo ngày vào một số công việc khác ...................................... 80

3.2.4. Một số cách tính ngày cho những công việc khác .......................................... 85

3.2.5. Cách xem số phận con người .......................................................................... 88

3.2.5.1. Tính theo giờ, ngày, tháng, năm sinh ........................................................... 88

3.2.5.2. Xem năm, tháng, ngày, giờ theo giả thiết định sẵn ...................................... 88

3.2.5.3. Phỏng đoán số phận con người qua trọng lượng theo ngày, tháng, năm

sinh ............................................................................................................................ 89

3.2.5.4. Xem cẩu cong hõng phữm ........................................................................... 90

CHƢƠNG 4. LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở SƠN LA

HIỆN NAY ............................................................................................................... 92

4.1. Lịch và nông lịch truyền thống .......................................................................... 92

4.1.1. Sử dụng lịch truyền thống ............................................................................... 92

4.1.2. Lịch và cách sử dụng lịch của người Thái hiện nay........................................ 94

4.2. Sức sống của nông lịch Thái .............................................................................. 95

4.2.1. Nông lịch truyền thống của người Thái ở Sơn La .......................................... 96

4.2.2. Nông lịch của người Thái hiện nay ............................................................... 107

CHƢƠNG 5. LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN TRONG SỰ

SO SÁNH VỚI LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI TRẮNG Ở MAI

CHÂU, HÒA BÌNH ............................................................................................... 110

5.1. Người Thái ở Mai Châu, Hòa Bình .................................................................. 110

5.2. Lịch và cách tính lịch của người Thái Mai Châu ............................................. 112

5.2.1. Lịch theo hệ đếm Can – Chi .......................................................................... 112

2

5.2.2. Lịch theo sao Đoi và Mặt Trăng ................................................................... 114

5.3. Các đơn vị trong lịch của người Thái Trắng Mai Châu ................................... 114

5.3.1. Giờ (Chờ) ...................................................................................................... 114

5.3.2. Ngày (Mự) ..................................................................................................... 115

5.3.3.Tháng (Bơn) ................................................................................................... 116

5.3.4. Năm (Pi) ........................................................................................................ 117

5.4. Cách sử dụng lịch trong đời sống hàng ngày ................................................... 118

5.4.1. Phương pháp tính ngày tốt xấu theo lịch Cẩu Coong – Háp Hạng – Tsảng

Moong ..................................................................................................................... 118

5.4.2. Lịch Háp hạng (Ấn định các ngày dở dang ở các tháng trong năm) ................. 119

5.4.3. Cách tính tuổi lấy vợ, lấy chồng (Lịch tsảng moong) ................................... 120

5.4.4. Xem lịch làm nhà mới ................................................................................... 120

5.4.5. Xem lịch bằng bảng “Ta – u” ........................................................................ 121

5.5. Nông lịch của người Thái Mai Châu ................................................................ 122

5.6. So sánh lịch của người Thái Đen và Thái Trắng ............................................. 122

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 126

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ xa xưa, con người sống trên trái đất đã nhận thức được thời gian qua sự

vận động của các thiên thể, đó là bộ máy đồng hồ thiên nhiên. Cơ thể con người

ngay từ khi sinh ra đã thích ứng với hệ thống thời gian thiên nhiên ấy một cách kì

diệu. Với tiếng khóc chào đời, con người bắt đầu một chu trình sống như một đồng hồ

không cần lên giây lại nữa. Cho nên người ta đã nói tới hệ thống thời gian của con

người. Các sinh vật trên Trái đất đều có một hệ thống thời gian thích ứng như vậy. Cây

cỏ, súc vật đều phát triển đúng vào một mùa riêng của mỗi loài giống như một chiếc

đồng hồ báo thức, đúng đến ngày đó nó mới xuất hiện.

Các mùa là nhịp điệu thiên nhiên và của cuộc sống. Sau khi nhận thức được

ngày, tháng thì con người nhận thức được năm qua các mùa. Lịch của con người

phải chỉ được các mùa, trong cuộc sống phải biết ngày này là mùa nào, bao giờ thì

hết mùa nóng, còn bao nhiêu ngày nữa thì đến mùa lạnh, bao giờ đến mùa gieo cấy,

bao giờ đến mùa gặt. Có như vậy mới dự kiến được kế hoạch sản xuất và đời sống.

Ngày xưa, người ta chỉ quan tâm đến lịch vào những ngày đặc biệt như cưới

hỏi, cúng giỗ, làm nhà…Ngày nay, trong cuộc sống hiện đại khi khoa học, kĩ thuật

đã phát triển thì các phương tiện tính thời gian đã trở nên phổ biến, người ta không

chỉ xem thời gian trên đồng hồ, các loại lịch khác nhau như lịch quyển, lịch block,

lịch treo tường mà một loại phương tiện khác rất hiện đại là điện thoại di động còn

cho chúng ta biết được cả giờ, ngày, tháng và năm. Vì vậy, trong cuộc sống ngày

nay, đồng hồ, cuốn lịch, điện thoại là cần thiết cho mọi hoạt động xã hội.

Ở Việt Nam, nhiều loại lịch khác nhau đều đang được dùng như Dương lịch

(lịch Công giáo, lịch Dương, Tây lịch), Âm – Dương lịch, lịch khí tiết. Việt Nam

cũng là một quốc gia dân tộc với 54 tộc người nên bên cạnh việc dùng một loại lịch

chung Dương lịch thì nhiều tộc người lại sử dụng thêm cả lịch riêng của mình.

Người Thái không chỉ là một tộc người chiếm số đông ở Tây Bắc Việt Nam

mà còn sinh sống rất đông ở Đông Nam Á và Vân Nam, Trung Quốc. Chúng ta đã

biết đến người Thái qua các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể khác nhau như

ngôi nhà sàn, trang phục nữ, các món ăn trong đời sống hàng ngày, múa xòe và các

4

lễ hội truyền thống. Những giá trị đó đã trở nên quen thuộc mà mỗi khi nhắc tới

chúng ta đều nghĩ ngay tới văn hóa Thái. Nhưng có những giá trị văn hóa của người

Thái mà chúng ta chưa biết, cũng chưa được nghiên cứu chuyên sâu hoặc chưa được

biết đến ở mức độ phổ thông nhất. Một trong những thành tựu văn hóa ấy là lịch của

người Thái. Lịch pháp là một sản phẩm sáng tạo loài người. Lịch của người Thái

cũng vậy, nó là một trong những thành tựu văn hóa độc đáo mà cùng với những giá

trị văn hóa khác làm nên bản sắc của một tộc người.

Trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thì người Thái có lịch và

cách tính lịch khác với người Kinh (Việt). Lịch của người Thái đã ra đời từ rất lâu

và tồn tại cho đến nay, đã trải qua nhiều năm nhưng nó vẫn có sức sống mãnh liệt

trong đời sống của đồng bào. Ngày nay, lịch Thái không những được phục hồi mà

còn được đồng bào đón nhận và sử dụng cùng với Dương lịch, Âm – Dương lịch

như một loại lịch chính trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt thường ngày.

Khảo sát và nghiên cứu về lịch của người Thái – một giá trị văn hóa, nghệ

thuật đặc sắc không chỉ để thấy được nguồn gốc, cơ sở và kết cấu của lịch Thái mà

còn thấy được sức sáng tạo hết sức thông minh và tài tình của cộng đồng người

Thái ở Tây Bắc Việt Nam.

Đó là lý do để cho tôi lựa chọn đề tài “Lịch và nông lịch của ngƣời Thái

Đen ở Sơn La” cho luận văn này.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn của tôi tập trung giải quyết các vấn đề sau:

a. Khảo cứu các nguồn tài liệu để nêu lên những cơ sở của việc làm lịch nói

chung và của Việt Nam nói riêng, từ đó áp dụng và so sánh với lịch Thái để thấy

được cơ sở của việc làm lịch này, thấy được mối liên hệ giữa lịch Âm - dương Việt

Nam với lịch Thái và phần nào hé mở được nguồn gốc lịch của người Thái.

b. Mô tả để thấy được kết cấu của lịch Thái, các hệ thống đo thời gian và đơn

vị đo thời gian trong lịch Thái so sánh với lịch Dương, Âm - Dương Việt Nam.

Cách tính lịch và áp dụng lịch trong các công việc thường ngày.

5

c. Tìm hiểu cách dùng lịch và sử dụng nông lịch trong sản xuất nông nghiệp

trước kia và hiện nay như thế nào để thấy vai trò của lịch Thái trong đời sống cộng

đồng người Thái ở Tây Bắc Việt Nam.

d. Nghiên cứu làm sáng tỏ được sức sống của lịch Thái trong sự tác động của

môi trường kinh tế - xã hội, của sự giao thoa và tiếp biến văn hóa. Tìm hiểu lịch của

người Thái Trắng ở Mai Châu, Hòa Bình để so sánh lịch của người Thái Đen và

Thái Trắng.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: các vấn đề liên quan đến lịch của gười Thái Đen (cụ

thể là người Thái Đen tại tỉnh Sơn La).

- Phạm vi nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến lịch và nông lịch của người

Thái Đen ở Sơn La. Một phần của phạm vi nghiên cứu đã được nói ở phần mục tiêu

nghiên cứu của luận văn.

- Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu này nhằm mang đến cho bạn đọc những

nét cơ bản nhất về lịch của người Thái Đen vùng Tây Bắc Việt Nam. Vì vậy, địa

bàn nghiên cứu thực địa sẽ được tiến hành tại nơi được coi là quê hương của lịch

Thái – tỉnh Sơn La. Cụ thể là: bản Bó và bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố

Sơn La. Đây là vùng có nhiều người Thái Đen sinh sống và là nơi còn lưu giữ được

nhiều tài liệu cổ bằng chữ Thái về lịch.

Tôi cũng tiến hành nghiên cứu thêm tại một số huyện như Thuận Châu,

Mường La, đó là những huyện mà lịch Thái vẫn còn lưu giữ khá đậm nét trong cộng

đồng tộc người.

Để so sánh sự giống và khác nhau giữa lịch của hai nhóm Thái Đen và Thái

Trắng, tôi nghiên cứu lịch của người Thái tỉnh Hòa Bình, cụ thể là tại bản Lác, thị trấn

Mai Châu và xã Mai Hạ, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

4. Nguồn tài liệu của luận văn

Gồm tài liệu thư tịch và tài liệu điền dã dân tộc học. Nguồn tài liệu thư tịch

là các tác phẩm đã được xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng Thái dịch ra tiếng Việt

của một số cá nhân am hiểu lịch Thái.

6

Nguồn tài liệu thứ hai và quan trọng nhất trong nghiên cứu này là những tư

liệu và tài liệu điền dã dân tộc học được tác giả thu thập trong quá trình nghiên cứu

tại tỉnh Sơn La, tại huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

5.1. Những nghiên cứu chung về lịch Việt Nam

Mỗi sự kiện, biến cố xẩy ra trong tự nhiên xã hội đều diễn ra trong không

gian, thời gian nhất định và việc ghi chép thời gian đã là nhu cầu của con người từ

rất xa xưa. Ngay từ thời khoa học kĩ thuật, thiên văn học và toán học chưa phát triển

thì các cách tính lịch thô sơ nhất đã ra đời. Đến khi khoa học về lịch phát triển,

ngành thiên văn trở nên thịnh hành trong giới khoa học thế giới thì các loại lịch ra

đời và phát triển mạnh mẽ. Vì lịch là một trong những yếu tố có ảnh hưởng vô cùng

quan trọng đến hoạt động kinh tế, văn hóa và cuộc sống của con người nên có rất

nhiều công trình khác nhau nghiên cứu về nó. Việc nghiên cứu về lịch ở nước ta tuy

có muộn hơn so với các nước khác nhưng nó cũng đã được nhiều người, nhiều

ngành quan tâm dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi khác nhau. Đó là nguồn tư liệu

quý cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quan về lịch nói chung cũng như những

đặc điểm của lịch, cở sở của việc làm lịch và sự phát triển của lịch nói chung.

Việc nghiên cứu về lịch Việt Nam vào thời cổ đại và phong kiến rất khó

khăn vì tài liệu rất hiếm, thậm chí còn không có sách nào ghi đến lịch pháp. Ngoài

một vài tên lịch dùng trong các triều đại phong kiến Trung Quốc thì các sử gia xưa

không hề hé lộ về lịch pháp, kể cả các nhà đại nho tinh thông toán học như Lê Quý

Đôn, Phan Huy Chú...Điều này cũng dễ hiểu bởi vì trong thời phong kiến lịch pháp

là một bí mật gia truyền, chức lịch quan thường là thế tập, ví như nước ta dưới triều

Nguyễn, ông Hoàng Thiện là người nhậm chức làm lịch cuối cùng thì đã có tổ tiên

mấy đời giữ chức ấy từ thời chúa Nguyễn. Nước ta thời xưa thì Nho học độc tôn mà

Nho học thì lại không học toán, muốn học toán, học lịch thì cũng không có thầy,

không trường và không sách. Lịch thư là một thứ cấm lưu truyền, thế cho nên các

sứ thần nước ta thời xưa có mua được sách ấy ở Trung Quốc thì cũng phải giấu

mang về. Hơn nữa, sử sách nước ta thời xưa rất ít ghi chép về lịch pháp. Các triều

7

đại phong kiến nước ta về cơ bản đều dùng lịch của Trung Quốc. Coi lịch như thứ

trời ban để cho dân làm nông vụ, cày cấy cho đúng lúc, cử hành tế lễ kị kì, nên chỉ

có vua mới có quyền ban lịch. Hàng năm, vua làm lễ ban Sóc, tức là ban lịch cho

thần dân.

Cho đến nay, nghiên cứu về lịch pháp Việt Nam sớm nhất và công phu nhất

có lẽ là các công trình nghiên cứu của giáo sư Hoàng Xuân Hãn. Trên báo Khoa học

năm 1942 – 1944, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã đăng ba bài nghiên cứu: “Đổi năm

âm lịch và dương lịch”, “Đổi ngày Tây lịch và Can chi”, “Lịch và lịch đời Lê”. Sau

khi sang định cư tại Paris, Pháp ông có tìm tài liệu và nghiên cứu thêm về lịch Việt

Nam, đến năm 1982 ông đã tổng kết những bài nghiên cứu trên cùng những bài

khác in trong “Lịch và lịch Việt Nam” trong Tập san Khoa học xã hội (Số đặc biệt)

của Hội người Việt Nam tại Pháp. Đây là một trong những tác phẩm rất có ý nghĩa

đối với việc nghiên cứu lịch ở Việt Nam bởi vì lần đầu tiên trong cuốn sách này

giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dựa vào các âm tố “ngày, tháng, trăng” để đưa ra ý

kiến rằng ngày xưa nước ta đã dùng âm lịch, đó là loại lịch mà tháng có 29 – 30

ngày. Bằng việc đối chiếu, so sánh và đưa ra các bảng đổi ngày giữa âm lịch và âm

dương lịch ông đã đưa ra các điểm khác nhau giữa lịch ta và lịch Trung Quốc và

khuyến khích mọi người dùng âm dương lịch cải tiến. Các công trình nghiên cứu

của giáo sư Hoàng Xuân Hãn có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho việc nghiên cứu và

soạn lịch pháp ở Việc Nam sau này, điển hình như Giáo sư Nguyễn Xiển, ông Lê

Thành Lân là những người trực tiếp kế thừa những thành quả đó để nghiên cứu và

soạn lịch cho nước ta.

Lịch là một trong những phát minh vĩ đại của loài người nên việc ra đời của

lịch dựa trên rất nhiều cơ sở khác nhau. Cho đến nay, các công trình nghiên cứu về

lịch ở Việt Nam nói chung đều đề cập đến một trong những lĩnh vực quan trọng

nhất đó là cơ sở ra đời của lịch mà cụ thể ở đây là cơ sở thiên văn. Trước hết, phải

kể đến những công trình của các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về lịch như “Lịch

Việt Nam thế kỉ XX – XXI (1901 – 2100)” của tác giả Trần Tiến Bình và PGS.TS Lê

Thành Lân với “Lịch hai thế kỉ (1802 – 2010) và các lịch vĩnh cửu”. Hai tác giả

8

cùng là những người nghiên cứu về lịch của Việt Nam đều cho rằng thiên văn là cơ

sở quan trọng của việc làm lịch và đã chỉ ra những cở sở thiên văn cơ bản nhất để

làm nên lịch ngày nay. Cả hai tác giả cùng nói tới sự chuyển động biểu kiến của mặt

trời, chuyển động của mặt trời và mặt trăng cùng với trái đất là những cơ sở quan

trọng nhất để chỉ ra được các đơn vị thời gian lịch – đó là một phần quan trọng của

lịch. Đơn vị cơ bản của lịch là: ngày – tháng – năm và các đơn vị của thời gian và lịch

pháp được tính như thế nào cũng được các hai tác giả phân tích cặn kẽ. Đặc biệt,

trong phần “Cơ sở tính toán lịch Việt Nam” tác giả Trần Tiến Bình đã cho chúng ta

biết được trong từng thời kì lịch sử khác nhau, người Việt Nam đã dùng loại lịch nào,

tác giả cũng nói đến một loại lịch của người Việt cổ mà cụ thể là lịch tre của người

Mường còn tồn tại đến ngày nay, rất tiếc rằng tác giả đã không nghiên cứu chuyên

sâu vào vấn đề này. Phần quan trọng nhất, tác giả đã nêu ra được quy tắc để tính toán

lịch Âm - Dương Việt Nam là sự kết hợp giữa Âm lịch và Dương lịch.

Dù ít hay nhiều nhưng hai cuốn sách trên cũng đã cung cấp cho độc giả

những kiến thức cơ bản nhất về cơ sở thiên văn của lịch pháp, đã chỉ ra được những

điểm khác nhau giữa lịch Công giáo (lịch Dương) và Âm - Dương lịch Việt Nam.

Đó là những kiến thức nền tảng để người nghiên cứu hiểu rõ hơn cơ sở làm lịch của

người Thái ở Tây Bắc Việt Nam.

Mỗi con người Việt Nam ít nhiều đều biết đến Âm - Dương lịch mà chúng ta

vẫn quen gọi là Âm lịch. Dù Âm - Dương lịch có được du nhập từ Trung Quốc

nhưng lịch nước ta vẫn có điểm khác, vì hai nước ở hai múi giờ khác nhau và vì lịch

nước ta phù hợp với môi trường, khí hậu Việt Nam. Vì vậy, các công trình nghiên

cứu về Âm - Dương lịch Việt Nam và sự khác nhau giữa lịch Việt Nam và lịch

Trung Quốc không phải là ít. “Lịch Âm Dương Việt Nam 1900 – 2010” của tác giả

Nguyễn Văn Chung là một công trình khá đồ sộ, điều đặc biệt là công trình được

hoàn thành khi tác giả đang bị bệnh nặng, những nỗ lực của tác giả đã mang đến

cho độc giả một cái nhìn khá toàn diện về lịch sử dụng ở Việt Nam. “Âm Dương

lịch Việt Nam” trọng tâm nghiên cứu về Cấu trúc và ứng dụng Lịch Âm Dương Việt

Nam từ năm 1900 đến năm 2010 nhưng tác giả cũng đã giới thiệu sơ lược về lịch

9

Dương, lịch Âm, lịch Âm - Dương để độc giả thấy được sự khác nhau giữa ba loại

lịch này, đồng thời với việc nêu đặc điểm của các loại lịch tác giả cũng nêu lên ưu,

nhược điểm của chúng. Riêng phần giới thiệu về lịch Âm - Dương, ông Nguyễn

Văn Chung còn nêu lên các quy tắc để tính những năm có tháng nhuận trong lịch

của nước ta, nó không chỉ có ý nghĩa đối với những người nghiên cứu về Âm -

Dương lịch mà còn phù hợp để tính được các ngày lễ cổ truyền của dân tộc. Nếu

như hai tác giả Trần Tiến Bình và Lê Thành Lân đã nói đến cấu trúc đơn giản nhất

của lịch Âm – Dương Việt Nam thì tác giả Nguyễn Văn Chung, ngoài việc đưa ra

một cấu trúc đầy đủ nhất của lịch Âm - Dương như ngày âm, ngày dương, năm,

tháng âm, tháng dương còn đưa ra hệ đếm Can Chi, nhị thập bát tú, 12 trực – đó là

yếu tố không thể thiếu được trong cấu trúc của Âm - Dương lịch…để gọi tên các

thời gian trong lịch. Điều đáng nói là trong phần này, tác giả không chỉ nêu lên một

cách đơn thuần cấu trúc của lịch mà từ những đơn vị thời gian lịch ông đã tìm tòi và

phát hiện được một số quy luật cổ Phương Đông gắn liền với các yếu tố thời gian

đó, ông đã nêu lên được mối liên hệ giữa Cửu tinh năm, Hà Đồ và Lạc Thư….

Khi bàn về lịch, ngoài những vấn đề như cơ sở để làm lịch, cấu trúc, cách

tính lịch trong sản xuất và sinh hoạt thì nó còn nảy sinh nhiều vấn đề khác như dùng

loại lịch nào thì tốt, lịch nào cho phù hợp với từng loại công việc riêng. Nước ta nên

dùng loại lịch nào và dùng như thế nào là đề tài tranh luận sôi nổi của các nhà khoa

học mà đầu tiên là từ chính các nhà soạn lịch. Giáo sư Nguyễn Xiển với “Vì sao nên

dùng Dương lịch”, “Tìm hiểu Âm lịch nước ta” của Nguyễn Mậu Tùng, rồi “Lịch và

thời gian” của Nha khí tượng Việt Nam…Các tác giả đã phân tích âm lịch, dương

lịch và âm dương lịch ở Việt Nam để thấy được ưu, nhược điểm của từng loại lịch.

Có người thì khuyến khích dùng Dương lịch để phù hợp với bang giao quốc tế, có

người thì khuyên dùng âm lịch vì nó mang tính cổ truyền, mang bản sắc văn hóa

dân tộc và nhất là nó phù hợp với các ngày lễ lớn của dân tộc như Tết nguyên đán,

Giỗ tổ Hùng Vương…cũng có nhà khoa học cho rằng nếu so sánh âm lịch và âm

dương lịch thì âm dương lịch tốt hơn nhiều nhưng trong nông nghiệp thì không nên

dùng âm dương lịch vì rất bất tiện cho sản xuất. Dù các nhà khoa học còn đưa ra

10

những ý kiến đánh giá ý nghĩa của từng loại lịch trên nhiều phương diện khác nhau,

dù nó tốt hay xấu thì những ý kiến và quan điểm đó là nền tảng để cho việc soạn

một thứ lịch chung dùng cho nước ta được dễ dàng hơn.

Người Việt có câu: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Tâm lý chung của

xã hội loài người là tìm điều lành, tránh điều dữ, đó chính là nguồn gốc của các loại

hình tôn giáo, các loại hình bói toán và thuật chọn ngày lành dữ. Cũng chính từ

những nhu cầu đó mà thuật chiêm tinh cổ xưa nhất con người đã hình thành nên một

loại lịch phục vụ cho nhu cầu trên đó chính là lịch Vạn niên. Ở nước ta, thì tục chọn

giờ, xem ngày tốt xấu ngày càng trở nên thịnh hành, đặc biệt là những người giàu có

thì càng xem trọng. Vì thế, lịch Vạn niên và những người hành nghề bói toán, xem

ngày càng nhiều hơn. Những công trình nghiên cứu về lịch vạn niên ở nước ta phần

lớn đều có xuất xứ từ Trung Quốc, như Bàn về lịch Vạn niên của Tân Việt, Thiều

Phong…Những tác phẩm đó không những phục vụ cho nhu cầu của đại chúng mà

còn phục vụ cho những người nghiên cứu về lịch Việt Nam nói chung và lịch Thái

nói riêng.

Có một điều không thể phủ nhận được là, những nghiên cứu về lịch trong

những năm gần đây thường mang mục đích phục vụ xã hội như lịch vạn niên, lịch

vạn sự, Âm - dương đối lịch…Đó cũng là ý nghĩa quan trọng nhất của lịch trong

cuộc sống hiện đại. Về lĩnh vực này thì có nhiều tác phẩm, nhiều công trình của

nhiều tác giả và các nhà xuất bản khác nhau. Tiêu biểu như tác giả Lê Quý Ngưu

với “Lịch Vạn niên” gồm ba tập, do nhà xuất bản Văn hóa thông tin xuất bản năm

2004, “Bàn về lịch vạn niên” của hai tác giả Tân Việt và Thiều Phong, xuất bản

qua các năm 1999, 2000 của nhà xuất bản Văn hóa dân tộc…Những ấn phẩm đó

được in ấn rất nhiều đáp ứng nhu cầu hàng ngày của mọi tầng lớp trong xã hội.

Người muốn xem lịch để chọn ngày tốt xấu, quy đổi ngày âm lịch, dương lịch một

cách dễ dàng mà ít khi phải nhờ đến thầy bói.

Qua việc khảo cứu các nguồn tài liệu về lịch pháp nói chung ta thấy với

những công trình nghiên cứu ở thế kỉ XX trở về trước thì chủ yếu là bàn về nguồn

gốc các loại lịch, cơ sở để làm lịch và một phần liên quan đến cách tra ngày, đổi

11

ngày như công trình của Giáo sưu Hoàng Xuân Hãn, Lê Thành Lân, Trần Tiến

Bình… Cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI, phần lớn các công trình nghiên cứu về lịch

là lịch vạn niên, Âm – Dương đối lịch như của ông Lê Quý Ngưu, Nguyễn Văn

Chung…

Hơn nữa, khi nghiên cứu về lịch nhiều tác giả lưu ý đến các ưu, nhược điểm

của từng loại lịch khác nhau để mỗi người biết nên chọn loại lịch nào dùng cho

thích hợp như Nguyễn Xiển, Nguyễn Mậu Tùng…

Các nghiên cứu đều tập trung nói về lịch pháp chung trên thế giới và lịch

Việt Nam mà dường như không quan tâm lắm đến các loại lịch cổ truyền của các

tộc người thiểu số ở Việt Nam. Chỉ có một số bài viết ngắn, nhỏ nói về lịch của các

dân tộc thiểu số như lịch của người mường Bi ở Hòa Bình của tác giả Kiều Bá Mộc,

lịch Thái ở Sơn La của tác giả Lò Văn Lả. Tôi sẽ phân tích kĩ hơn ở phần ngay sau

đây.

5.2. Những nghiên cứu về ngƣời Thái và lịch của ngƣời Thái

Cho đến nay nguồn tư liệu về người Thái ở Việt Nam nói chung và người

Thái ở Tây Bắc nói riêng rất phong phú. Nó không chỉ được đăng tải trên sách, báo,

các tạp chí chuyên khảo mà còn đăng tải trên các báo mạng. Tuy nhiên, cho đến nay

những nghiên cứu về lịch của người Thái rất ít, nếu không nói là rất ít người biết

đến. Các nhà nghiên cứu về văn hóa Thái ở Việt Nam cũng chỉ đề cập đến một chút

trong các công trình nghiên cứu của mình.

Cuốn “Tư liệu về Lịch sử và xã hội dân tộc Thái” do Đặng Nghiêm Vạn

(Chủ biên) cùng các tác giả Cầm Trọng, Khà Văn Tiến, Tòng Kim Ân sưu tầm, xuất

bản năm 1977 là tác phẩm dịch và công bố những tư liệu cổ về người Thái còn lưu giữ

đến ngày nay, có các tác phẩm nổi tiếng như Truyện kể bản Mường (Quăm Tô Mương),

Lai lịch dòng họ Hà Công, Luật Mường, Lệ Mường…Có một điều đáng chú ý là trong

phần “Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu (Sơn La)” các tác giả nói đến một cách

tính lịch của người Thái Đen. Cũng giống như các nghiên cứu trước đều đưa ra kết luận

rằng người Thái có cách tính lịch mà chênh với Âm lịch 6 tháng. Tuy nhiên tác giả

Đặng Nghiêm Vạn không chỉ đưa ra cách tính năm, tháng của lịch Thái mà còn so sánh

12

nó với lịch Âm, xem nó giống và khác nhau ở chỗ nào. Theo tác giả thì cách tính tháng

của người Thái còn giống với lịch ở Miến Điện từ thế kỉ XI – XIII. Dù những nghiên

cứu về lịch của tác giả còn ít nhưng đó là những tư liệu quý lại cho thế hệ sau [41, tr.

44] .

Năm 1978, nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản cuốn: “Người Thái ở Tây

Bắc Việt Nam” của tác giả Cầm Trọng. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện

về người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, từ quá trình hình thành tộc người Thái đến các

hoạt động kinh tế, văn hóa, thiết chế xã hội, bản mường, đã cung cấp cho bạn đọc

một cái nhìn toản cảnh về cộng đồng người Thái ở Tây Bắc. Mặc dù không được

nhắc tới nhiều và tác giả cũng không giải thích thêm nhưng trong phần Các hoạt

động kinh tế ông cũng nhắc tới một thứ gọi là lịch Thái: “…Mùa nóng, mùa mưa ở

Tây Bắc bắt đầu từ tháng 5, 6 đến tháng 10 dương lịch. Theo lịch cổ truyền còn lưu

lại ở vùng người Thái Đen thì bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 – chúng tôi gọi tắt là

lịch Thái. Đặc điểm nổi bật của mùa này là thời tiết oi bức, mưa to, kéo dài và độ

ẩm cao…Đỉnh cao của mùa mưa thường vào các tháng 6, 7, 8 (10, 11, 12 của lịch

Thái), mưa như vậy hẳn phải gây ngập lụt…” [35, tr. 84 – 85]. Tuy tác giả chỉ giới

thiệu sơ qua về lịch trong phần khí hậu của miền Tây Bắc mà không nói rõ hơn về

nguồn gốc, cách tính lịch của người Thái nhưng đó cũng là gợi mở cho những thế

hệ sau tiếp tục nghiên cứu.

Đến năm 1992, vấn đề lịch Thái dường như được hé mở với các nhà nghiên

cứu và độc giả khi cuốn “Kỉ yếu Hội Thảo Thái học lần thứ nhất (25 – 26/ 11/

1991)” được in và xuất bản. Trong Kỉ yếu này, ông Lò Văn Lả - cán Đài Phát

thanh và Truyền hình tỉnh Sơn La đã có một bài giới thiệu về lịch của người Thái

Đen ở Sơn La. Bằng những tài liệu cổ của người Thái Đen ở thành phố Sơn La và

huyện Thuận Châu, ông Lò Văn Lả đã giới thiệu đến bạn đọc về lịch, tên gọi và

cách sử dụng trong đời sống hàng ngày như làm nhà mới, cưới vợ, cưới

chồng…Tiếp tục với những nghiên cứu về lịch Thái, đến năm 1998 ông Lò Văn

Lả giới thiệu với bạn đọc lịch Thái (phần II) trong cuốn: “Văn hóa và lịch sử

người Thái ở Việt Nam”, xuất bản năm 1998. Tuy nhiên, tác giả chỉ giới thiệu lịch

13

Thái ở phương diện áp dụng lịch trong các công việc thường ngày mà lại chưa đề

cập đến nguồn gốc, cơ sở và kết cấu của lịch Thái.

Cuốn “Văn hóa Thái Việt Nam” của hai tác giả Cầm Trọng và Phan Hữu Dật

xuất bản năm 1995 không chỉ nghiên cứu về văn hóa Thái Việt Nam ở rất nhiều các

góc độ khác nhau như kinh tế, văn học, tín ngưỡng mà còn nghiên cứu văn hóa Thái

đặt mối quan hệ với văn hóa các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme ở Tây Bắc

và một số dân tộc ở miền Bắc Việt Nam để thấy được sự giao lưu và tiếp biến văn

hóa giữa những tộc người này. Đặc biệt ở Chương VI: phần Văn hóa hệ thống tư

tưởng và tri thức hai tác giả có giới thiệu một số văn tự của người Thái còn lưu giữ

đến ngày nay. Cuốn Pặp mự (Quyển ngày) – Đây là cuốn sách lịch và cách thức

xem giờ, ngày tháng, năm lành dữ tốt xấu của người Thái gồm ba nội dung lớn: “a.

Hệ thống tính giờ, ngày, tháng, năm và năm theo can, chi; b. Xem số mệnh cho mỗi

người và cuối cùng là c. Xem ngày, giờ tốt xấu và thời tiết của từng năm” [37, tr.

392]. Mặc dù chỉ mang tính chất giới thiệu một quyển sách xem ngày của người

Thái nhưng cũng cung cấp cho người đọc những nét cơ bản nhất của lịch Thái như

tên gọi giờ, tháng, năm trong lịch Thái, cách xem ngày tốt xấu, đó cũng là một phần

trong kết cấu của lịch Thái.

Cầm Trọng, Phan Hữu Dật, Đặng Nghiêm Vạn khi nghiên cứu về người Thái

ở Việt Nam đã cố gắng đưa ra một bức tranh toàn diện nhất với đầy đủ các gam

màu về người Thái và văn hóa Thái ở Tây Bắc. Trong các nghiên cứu của họ đều đã

nhắc đến một thứ lịch riêng của người Thái nhưng lại chưa đưa ra một cách đầy đủ,

vì vậy vấn đề này vẫn còn là một ẩn số cho những người nghiên cứu về người Thái

ở Việt Nam.

Ngoài những nghiên cứu về lịch Thái dưới góc độ dân tộc học, sử học còn

có những nghiên cứu về lịch của người Thái đen với những tác phẩm văn học như:

“Tìm hiểu văn học dân tộc Thái ở Việt Nam” của tác giả Cầm Cường, xuất bản

năm 1977. Hoàng Trần Nghịch (sưu tầm và biên dịch) với “Lời có vần ông cha

truyền lại” – công trình kỉ niệm 110 năm thành lập tỉnh Sơn La, xuất bản năm

2005. “Tục ngữ Thái” do Hà Văn Năm, Cầm Thương, Lò Văn Sĩ, Tòng Kim Ân

14

(biên soạn và dịch) năm 1978; truyện ngắn “Lũ muộn” của nhà văn Nguyễn Anh

Tuấn…Tuy rằng những tác phẩm ấy không phải là những tác phẩm nghiên cứu

chính thống về lịch Thái nhưng nó tập hợp những câu ca dao, tục ngữ, lời răn dạy

của người Thái về thời tiết, khí hậu, về nông vụ và những kinh nghiệm tích lịch cổ

điển của người Thái.

Năm 2010, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Trí Dõi cùng với tác giả Nguyễn Văn Hòa

cũng đã đề cập đến một loại lịch của người Thái trong cuốn “Tiếng Thái cơ sở -

Tiếng Thái Đen vùng Tây Bắc”. Tuy nhiên, trong công trình này, tác giả chỉ nhắc

đến hai đơn vị cơ bản của lịch Thái đó là tháng và năm mà chưa đề cập đến phần

nguồn gốc, cơ sở tính và những kiêng kị của lịch Thái.

Từ năm 2011 trở đi nhờ Dự án “Công bố và phổ biến tài sản văn hóa - văn

nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam” mà một số cuốn sách nghiên cứu về lịch Thái

đã ra đời. Tiêu biểu như cuốn “Lịch và những kiêng kị của người Thái Mường So”

của tác giả Nông Văn Nảo. Tác giả của cuốn sách đã sưu tầm và giới thiệu đến

người đọc bản lịch âm của người Thái xã Mường So, huyện Phong Thổ, Lai Châu,

phương pháp tính ngày tốt - xấu, cách chọn ngày thích hợp cho việc chài lưới, bẫy

thú và những kiêng kị trong đời sống hàng ngày của đồng bào Thái Mường So.

Năm 2012, cuốn “Người Thái đen cách tính lịch và xem ngày giờ lành” của tác giả

Nguyễn Văn Hòa ra đời. Ở cuốn sách này tác giả không giới hạn vùng nghiên cứu ở

một địa bàn nhỏ như ông Nông Văn Nảo mà đã mở rộng địa bàn ra cả vùng Tây

Bắc từ đó tác giả đã đưa ra cách tính lịch, cách xem số tử vi của đồng bào Thái

vùng Tây Bắc rất chi tiết về cách tính ngày làm nhà, cưới hỏi, đi săn, xem tử vi con

người...Trong cả hai cuốn sách trên các tác giả đều có nhắc tới sự khác biệt giữa

lịch Thái và bản âm lịch của người Việt nhưng chưa tác giả nào nghiên cứu sâu về

nguồn gốc, cơ sở của việc làm lịch Thái.

Các nghiên cứu ở trên chỉ trọng tâm nghiên cứu về lịch của người Thái Đen

và Thái Trắng vùng Tây Bắc Việt Nam, còn người Thái ở Thanh Hóa, Nghệ An thì

sao. Họ có dùng lịch riêng như người Thái ở Tây Bắc hay không. Điều này đã được

tác giả Nguyễn Doãn Nga trả lời ở phần Phép tính lịch của người Thái Nghệ An in

15

trong cuốn Văn hóa dân tộc thiểu số Nghệ An do Phan Đăng Nhật chủ biên. Vũ

Trường Giang với “Lịch của người Thái ở miền núi Thanh Hóa” trên Tạp chí Văn hóa

nghệ thuật năm 2007.

Như vậy ta thấy, trong khi các công trình nghiên cứu về lịch pháp nói chung,

lịch Âm - dương, lịch vạn niên nói riêng thì chiếm một số lượng lớn và có lịch sử

nghiên cứu lâu đời thì các nghiên cứu về lịch của đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt là

lịch của người Thái Đen lại thiếu vắng. Vấn đề này hiện nay đang được một số nhà

khoa học nghiên cứu nhưng mới chỉ là ở vấn đề sưu tầm và giới thiệu đến bạn đọc chứ

chưa có một nghiên cứu mang tính chuyên sâu.

Trên cơ sở khảo cứu, kế thừa tiếp thu những thành quả nghiên cứu của thế hệ

trước giúp ích cho nghiên cứu của mình như các tài liệu về lịch pháp, cơ sở để làm lịch,

các nguồn tài liệu về người Thái ở Việt Nam), cũng như xuất phát từ thực tiễn là sự hồi

sinh và phát triển của lịch Thái trong cộng đồng người Thái ở Tây Bắc hiện nay. Đặc

biệt là xu hướng bảo tồn các tri thức và văn hóa bản địa của các tộc người đã nảy sinh

trong tôi ý tưởng nghiên cứu về lịch Thái – một di sản văn hóa đặc sắc, ý thức của

người Thái về việc bảo tồn một giá trị văn hóa của riêng mình. Vì vậy, nghiên cứu của

tôi đặt sự phát triển và tồn tại của lịch Thái trong đời sống cộng đồng, trong sự chuyển

hóa chung về kinh tế, văn hóa và sự giao lưu, tiếp xúc văn hóa hiện nay.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

Với luận văn này, tôi sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành để thu thập

tài liệu. Thêm vào đó, tôi cũng sử dụng các phương pháp chính sau đây:

Phương pháp khảo sát, điền dã dân tộc học: quan sát để miêu tả, chụp

ảnh, nghiên cứu thực trạng và thu nhập tài liệu cấp một (bằng cách phỏng vấn

sâu, sử dụng bảng hỏi…). Điền dã là một phương pháp quan trọng nhất trong

nghiên cứu nhân học. Khác với các khoa học xã hội khác, nhân học đặc biệt

nhấn mạnh vào nghiên cứu thực địa như là nguồn kiến thức mới quan trọng

nhất từ xã hội và văn hóa.

Khảo cứu các nguồn tài liệu liên quan đến lịch pháp để tìm hiểu về nguồn

gốc và cơ sở của việc làm lịch. Từ những kiến thức cơ bản về lịch pháp như vậy tôi

16

tiếp tục sử dụng phương pháp điền dã dân tộc học để thu thập thông tin từ các

nguồn tư liệu cổ của người Thái còn lưu giữ đến ngày nay. Cũng giống như các

thông tin cơ bản về lịch pháp chung, đối với lịch của người Thái Đen ở Sơn La tôi

cũng phải thu thập thông tin như những cơ sở để làm lịch, kết cấu và cách sử dụng

lịch Thái trong truyền thống. tác giả Cầm Trọng và Giáo sư Phan Hữu Dật đã nói:

“…Chủ chuyên xem những quyển xem ngày của người Thái phải là những người

biết nhìn nhận và phán đoán giỏi nên được xã hội tôn là ông Mo Ngày (Po mự)

hoặc nếu là đàn bà thì được gọi là Bà ngày (Mẹ vên)” [37, tr. 398]. Nghĩa là, việc

xem ngày và tính lịch của người Thái chỉ có những người đặc biệt mới biết, mỗi bản

chỉ có một người và nó mang tính chất “gia truyền” nên để thu nhận được thông tin tôi

bắt buộc phải tìm đến các tư liệu cổ của người Thái còn giữ được đến ngày nay. Để có

được thông tin về cách thức sử dụng lịch Thái trong đời sống hàng ngày và sản xuất

nông nghiệp ngày nay tôi tiến hành điều tra theo hộ gia đình với cả hai kĩ năng định

tính và định lượng. Các thông tin thu được sẽ giúp chúng ta thấy được vai trò và tác

động của lịch Thái đến đời sống cộng đồng người Thái Đen ở Sơn La. Với cách tiếp

cận định lượng chúng tôi sẽ lấy hộ gia đình làm đối tượng nghiên cứu trọng tâm, từ đó

sẽ thu thập các số liệu thống kê về số hộ dùng lịch Thái, số hộ dùng Âm - dương lịch

và số hộ dùng cả hai loại lịch trên.

7. Bố cục luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, phần Danh mục tài liệu tham khảo và phần Phụ lục,

luận văn này gồm năm chương chính:

Chương 1: Đại cương về lịch.

Chương 2: Lịch và kết cấu lịch của người Thái Đen ở Sơn La.

Chương 3: Cách tính lịch và sử dụng lịch của người Thái Đen.

Chương 4: Lịch và nông lịch của người Thái ở Sơn La hiện nay.

Chương 5: Lịch và nông lịch của người Thái Đen ở Sơn La trong sự so sánh với lịch

của người Thái Trắng ở Mai Châu, Hòa Bình.

17

CHƢƠNG I. ĐẠI CƢƠNG VỀ LỊCH

1.1. Khái niệm lịch và nguồn gốc của lịch

Mỗi sự kiện, biến cố xảy ra trong tự nhiên hay xã hội đều diễn ra trong một

không gian và thời gian nhất định và ghi chép thời gian như một nhu cầu từ rất xa

xưa của con người. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam thì lịch là:

“Lịch là một hệ thống tổ chức, ghi chép thời gian theo cách thuận tiện cho

việc điều tiết các công việc dân sự, các nghi lễ tôn giáo cũng như cho các mục đích

lịch sử và khoa học”.

Ngày nay, từ lịch trong tiếng anh là “Calendar”, từ này bắt nguồn từ chữ

Caledae hay Kaledae trong tiếng La tinh có nghĩa là ngày đầu tiên của tháng La mã,

ngày người ta công bố thời biểu tổ chức các phiên chợ, lễ hội hay các sự kiện khác

[1, tr. 22].

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì có một định nghĩa hết sức ngắn gọn: “Lịch là

phép quy định những khoảng thời gian có những tên quen thuộc: năm – tháng –

ngày” [10, tr. 5].

PGS.TS Lê Thành Lân định nghĩa: “Lịch là một hệ thống ghi các khoảng

thời gian dài như ngày, tuần lễ, tháng, mùa, quý, năm, thập niên, thế kỉ, thiên niên

kỉ…các khoảng thời gian ngắn hơn như giờ, phút, giây…thì được đo bằng đồng hồ

[18, tr. 21].

Có thể nói: Lịch là hệ thống đơn vị dùng để đo đếm thời gian theo một

phương pháp nhất định, lấy các hiện tương thiên văn làm chuẩn mực cơ bản để

tính toán, nhằm phản ánh các quy luật, nhịp điệu của tự nhiên, phục vụ đời sống

và xã hội.

Như vậy, lịch không phải là bản thân thời gian mà là thước đo thời gian.

Nó chỉ ra vị trí vận động trên quỹ đạo của Trái đất giữa các thiên thể và mối quan

hệ phức tạp giữa chúng, thông qua sự biểu hiện sáng tối, sự thay đổi pha Mặt trăng,

khí hậu và chu kỳ nhật nguyệt thực… Không giống các đơn vị đo lường khác, để

tính lịch đòi hỏi người ta phải có một cách thức nhất định gọi là lịch pháp. Lịch pháp

18

là phương pháp làm lịch, tính lịch được hình thành trên nhiều cơ sở khác nhau mà quan

trọng nhất là toán học, thiên văn và thực tế.

Lịch xuất hiện từ khi nào?

Hiện chúng ta biết rất ít về việc đo đạc, ghi chép thời gian trong thời tiền sử,

nhưng từ các di vật khảo cổ ở mọi nền văn hoá đều phát hiện thấy dấu vết của việc

này. Sau đây là một số tư liệu về sự hình thành lịch ở một số vùng trên thế giới.

Châu Âu : thời kỳ băng hà cách đây hơn 20 nghìn năm các thợ săn ở châu Âu

đã khắc các vạch lên thân gỗ và xương, có thể bằng cách này họ dùng để đếm các

ngày trong tuần trăng. Các cột đá tại nước Anh (Stonehenge) được xây dựng cách

đây hơn 4000 năm có lẽ đã được sắp xếp nhằm xác định một số thời điểm đặc biệt

liên quan đến mùa và hiện tượng thiên văn như ngày chí, nguyệt thực… Tại Hy Lạp

các bản di vật bằng đất sét thế kỷ 13 trước CN hay những ghi chép của Homer và

Hesiod cho thấy người cổ Hy Lạp sử dụng lịch Mặt trăng (lịch âm), các tháng bao

gồm 29 và 30 ngày xen kẽ nhau. Đến thế kỷ thứ 6 trước CN các nhà thiên văn học

Hy Lạp đã đề nghị một lịch chính xác hơn bằng cách chèn thêm 3 tháng vào mỗi

chu kỳ 8 năm. lịch chu kỳ 8 năm này vẫn tiếp tục được sử dụng ở Hy Lạp mặc dù

sau đó đã có thêm hai phát hiện đáng chú ý: Khoảng năm 433 trước CN nhà thiên

văn học Meton ở Aten tìm thấy 19 năm mặt trời (chu kỳ meton) vừa bằng 235 tuần

trăng và vào năm 130 trước CN Hipparchus quan sát thấy năm mặt trời không phản

ánh chính xác bằng 365,25 ngày. Ở La Mã vào khoảng thế kỷ thứ 7 hoặc thứ 8

trước CN nhà cai trị thành Rome đầu tiên là Romulus đưa vào sử dụng loại lịch gồm

10 tháng, 6 tháng 30 ngày và 4 tháng 31 ngày, tổng cộng 304 ngày, năm khởi đầu

vào tháng 3.

Sau này lịch La Mã tiếp tục được cải tiến dưới các thời Numa Pompilus

(715-613 trước CN) và Etruscan Tarquinius Priscus (năm 616-579 trước CN, nó có

tên là lịch cộng hoà La Mã. Tuy ở lịch này năm (365,25 ngày) dài hơn năm mặt trời

một ngày nhưng nhiều yếu tố của lịch cộng hoà La Mã đã được đưa vào lịch

Gregorius thông dụng hiện nay.

19

Trung Cận Đông: tại Ai Cập cách đây hơn 10 nghìn năm, vào thời kỳ đầu

nền văn minh của mình, người Ai Cập cổ đã sử dụng lịch bao gồm 12 tháng mỗi

tháng 30 ngày (một năm dài 360 ngày). Nhưng sau đó họ nhận ra rằng sao Thiên

Lang (Sirius) ở chòm sao Đại Khuyển (Canis Major) cứ sau 365 ngày thì mọc cạnh

mặt trời, lúc sông Nin bắt đầu chu kỳ ngập lụt hàng năm. Dựa trên điều này Ai Cập

làm ra lịch 365 ngày, lịch này có lễ bắt đầu vào năm 4236 trước CN năm được ghi

nhận sớm nhất trong lịch sử. Còn ở vùng Lưỡng Hà, thung lũng sông Tigris-

Euphrate (Irắc), cách đây 5000 năm người Xume dùng lịch chia năm thành các

tháng 30 ngày, chia ngày thành 12 khoảng (tương đương với 2 giờ) và mỗi khoảng

này chia ra 30 phần (bằng 4 phút). Cũng ở Irắc, vào khoảng 2000 năm trước CN

người Babylon sử dụng lịch mặt trăng gồm 12 tháng xen kẽ 29 và 30 ngày . Sau đó,

khoảng năm 380 trước CN, lịch này trở nên tinh xảo hơn khi trong lịch đã có sự kết

hợp giữa tuần trăng với thời tiết. Điều này được thực hiện bằng cách chèn thêm 7

tháng nhuận vào chu kỳ 19 năm chu kỳ 19 năm trùng với chu kỳ Meton của nhà

thiên văn học người Hy Lạp. Không rõ người Babylon cùng tìm ra chu kỳ Meton

hay tiếp thu nó từ người Hy Lạp, tuy nhiên lịch này được chấp nhận ở Hy Lạp và

các thuộc địa của La Mã cho đến năm 75 sau CN. Lịch sớm nhất của người Do Thái

có lẽ là lịch Gezer ở thời kỳ vua Solomon, khoảng cuối thế kỷ thứ 10 trước CN, sau

đó người Do Thái cổ sử dụng lịch của người Babylon (587 trước CN).

Nam Á và Viễn Đông: ở Việt Nam hiện còn lưu giữ một thứ lịch của người

Mường gọi là lịch tre, lịch này gồm 12 thanh tre ghi lại 12 tháng và trên mỗi thanh

tre khắc các vạch ký hiệu ngày, tháng và các hiện tượng khác. Phải chăng đây là

một thứ lịch cổ dùng ở nước ta trước khi lịch âm dương được du nhập từ Trung Hoa

sang? Ở Ấn Độ theo ghi chép thì lịch cổ nhất có vào năm 1000 trước CN, một năm

lịch có 360 ngày chia thành 12 tháng âm bao gồm 27 hoặc 28 ngày, số ngày thiếu

được bù bằng cách chèn tháng nhuận sau mỗi 60 tháng. Còn tại Trung Quốc, lịch

Âm - Dương có từ Thế kỷ 14 trước CN (đời Thương), theo truyền thuyết thì sớm

hơn nữa vào thời Tam Hoàng Ngũ Đế (năm 2637 trước CN) đã có lịch do hoàng đế

20

sáng tạo ra. Đáng chú ý là đời nhà Thương người Trung Hoa đã biết đến độ dài năm

là 365.25 ngày và tuần trăng dài 29.5 ngày.

Trung Mỹ: người Maya ở Trung Mỹ không chỉ dưạ trên mặt trăng, mặt trời

mà cả sao Kim để tạo ra lịch 260 và 365 ngày. Nền văn hoá Maya hưng thịnh từ

khoảng 2000 năm trước CN đến năm 1500 sau CN, các chu kỳ thiên văn ghi lại cho

thấy họ tin là thế giới được sáng ra vào năm 3114 TCN . Các lịch của họ sau này trở

thành một phần của lịch đá Aztec [1, tr. 22 – 23].

1.2. Những cơ sở của việc làm lịch

Lịch thường có tính chu kì, lặp đi lặp lại chạy mãi không ngừng theo thời

gian để đo mốc thời gian, chúng được soạn theo một quy tắc nhất định, thường là

dựa vào các hiện tượng tự nhiên có tính chất chu kì. Đặc biệt là các hiện tượng thiên

văn. Cũng như các ngành khoa học kĩ thuật khác, lịch ra đời do chính nhu cầu của

đời sống và trước hết là do sản xuất nông nghiệp. Chính chăn nuôi và trồng trọt là

đã đặt ra những đòi hỏi đầu tiên về việc phải làm ra lịch. Người ta cần phải biết và

dự đoán trước được những thay đổi của các mùa mưa gió, nóng, lạnh, khô hạn, thủy

triều, sáng trăng hay tối trời…Các yếu tố này của thời tiết, khí hậu, phụ thuộc vào

chính mặt trời và một phần chịu ảnh hưởng của mặt trăng. Lịch được hình thành từ

nhiều cơ sở nhưng quan trọng nhất là cơ sở thiên văn.

1.2.1. Cơ sở thiên văn của việc làm lịch và các đơn vị lịch

Thiên văn là một khoa học được hình thành và phát triển rất sớm, song cũng

đầy kịch tính. Là một khoa học gắn liền với vũ trụ quan, trong thời kì Trung cổ nó

bị triết học và thần học chi phối mạnh mẽ và nhiều khi bị đình trệ, kìm hãm hàng

thế kỉ. Người phương Đông xưa có thuyết Trời tròn, Đất vuông; Người Việt xưa có

sự tích “Bánh chưng, bánh dầy”, bánh chưng vuông tượng trưng cho đất, bánh dầy

tròn tượng trưng cho trời. Ở phương Tây xưa có thuyết địa tâm, coi trái đất là đứng

yên, là trung tâm của vũ trụ. Rồi sau đó có thuyết nhật tâm, coi mặt trời là trung tâm

của hệ mặt trời, trái đất quanh xung quanh mặt trời. Song, các quan niệm khác nhau

đó không cản trở nhiều đến việc làm lịch, bởi người làm lịch dựa vào thiên văn học

quan sát. Họ đứng trên trái đất mà nhìn bầu trời, chính là dùng một hệ tọa độ gắn

21

vào trái đất; một cách tương đối là coi trái đất đứng yên, các thiên thể khác chuyển

động tương đối với nó. Bằng thiên văn học quan sát, người ta đã hiểu bầu trời sao

một cách tinh tế, phát hiện ra tính chu kì của các chuyển động tương đối của mặt

trời, mặt trăng và bầu trời sao. Các chu kì thiên văn chính là ngày dựa trên sự quay

của trái đất xung quanh trục của nó, tháng dựa trên vòng quay của mặt trăng quanh

trái đất và năm dựa trên sự chuyển động của trái đất xung quanh mặt trời. Ngày,

tháng, năm cũng là các đơn vị cơ bản nhất của lịch vì vậy chuyển động biểu kiến

của mặt trăng, mặt trời có ý nghĩa rất quan trọng khi người ta thấy được mối liên

quan giữa chúng với thời tiết, khí hậu, cảnh quan trên trái đất. Nhờ vậy mà làm ra

nhiều loại lịch khoa học và ngày càng chính xác.

Đơn vị cơ bản của lịch là ngày, tháng, năm được thiết lập dựa trên sự chuyển

động của ba thiên thể lớn là mặt trời, mặt trăng và trái đất.

Trong bầu trời có hàng tỉ ngôi sao, song bằng mắt thường chúng ta chỉ nhận

biết được chừng 6000 ngôi sao. Vào ban đêm, quan sát thật lâu ta thấy hàng nghìn

ngôi sao sáng lấp lánh, dường như gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một vòm trời

(Thiên cầu), cùng quanh xung quanh sao Bắc cực (Thiên cực Bắc). Sao ở gần thì

quay thành một vòng tròn, sao ở xa thì mọc ở phương Đông rồi lặn ở phương Tây.

Đó là do trái đất tự quay quanh mình nó, một ngày một đêm được một vòng, con

người sống trên Trái đất, cứ nghĩ rằng trái đất đứng yên còn thiên cầu quay tròn. Ảo

giác đó cho ta nhận biết chuyển động tương đối của Thiên cầu đối với Trái đất – đó

chính là nhật động (chuyển động trong ngày). Trục quay của Thiên cầu đi qua thiên

cực bắc gọi là trục vũ trụ.

Các ngôi sao – theo danh từ thiên văn là các thiên thể khổng lồ, thường có

nhiệt độ rất cao và tự phát sáng. Hàng triệu triệu các ngôi sao làm thành thiên hà,

hàng triệu triệu thiên hà làm thành Vũ trụ. Mặt trời mà hàng ngày chúng ta thấy chỉ

là một ngôi sao trong muôn vàn ngôi sao trong dải ngân hà. Từ Trái đất quan sát, ta

thấy các ngôi sao có một vị trí nhất định trên Thiên cầu, dường như chúng không

chuyển động trên Thiên cầu, người phương Đông gọi là các định tinh.

22

Mặt trời có 9 hành tinh lớn, theo quỹ đạo lần lượt từ trong ra ngoài là: Thủy

tinh, Kim tinh, Trái đất, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thổ tinh, Thiên vương tinh, Hải

vương tinh, Diêm vương tinh. Người xưa, bằng mắt thường chỉ nhìn thấy và ghi

nhận 5 hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Riêng Trái đất con người sống trên

đó, quá quen thuộc với nó nên không nhận ra rằng nó cũng là một hành tinh của hệ

mặt trời nên không tính đến nó. Đối với Mặt trăng và Mặt trời người ta gộp chúng

lại cùng với Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ để tạo thành Thất tinh, xem trọng Thất

tinh nên người xưa đã mượn tên chúng đặt cho hai học thuyết quan trọng: học

thuyết Âm Dương, học thuyết Ngũ hành. Đó là một trong những cơ sở của lịch

pháp Trung Quốc.

Giờ

Giờ là ước của ngày, những nơi trên cùng một kinh tuyến đều có giá trị góc

giờ của Mặt trời như nhau, còn các nước nằm trên các kinh tuyến khác nhau có giờ

địa phương khác nhau. Để xác định múi giờ, người ta đã tiến hành chia Mặt đất thành 24 phần giới hạn bởi 24 kinh tuyến nằm cách đều nhau 150. Giờ múi là giờ

Mặt trời trung bình của kinh tuyến chính giữa múi đó. Hệ thống múi giờ được dánh

số tứ tự từ 0 đến 23 và quy định múi 0 là múi chứa kinh tuyến gốc đi qua Đài thiên

văn Greenwich (Anh), các múi tiếp theo lần lượt đánh số tăng theo chiều quay của

Trái đất (từ Tây sang Đông). Vì vậy, đi từ Tây sang Đông qua mỗi một múi giờ phải

văn đồng hồ lên 1 giờ và ngược lại nếu đi từ Đông sang Tây, qua mỗi múi giờ phải

giảm 1 giờ. Để thuận tiện trong giao dịch, năm 1884 Hội Đo lường quốc tế đã thống

nhất quy ước lấy múi giờ 0 làm múi giờ gốc gọi là Giờ quốc tế. Để tránh sự nhầm lẫn, người ta đã quy định Đường đổi ngày dọc theo kinh tuyến 180o đi qua Thái

Bình Dương. Nếu du hành qua Đường đổi ngày từ Tây sang Đông phải giảm 1

ngày, nếu đi từ Đông sang Tây phải tăng 1 ngày cho phù hợp.

Ngày

Mặt trời là trung tâm của Hệ Mặt trời, là nguồn năng lượng vô tận, quyết

định sự sống trên Trái đất, người xưa thường gọi bằng các tên như Thái Dương,

Nhật, Ác…Ta biết, Trái đất tự quay quanh mình nó, tạo nên nhật động. Một cách

23

tương đối ta coi Trái đất đứng yên, còn Mặt trời chuyển động, hàng ngày Mặt trời

mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây, hướng về Bắc cực, ta thấy Mặt trời

chuyển động một vòng ngược chiều kim đồng hồ. Chuyển động này tạo thành chu

kì sáng, tối chu kì ngày, đêm…Hình thành nên một đơn vị thời gian rất quan trọng

đó là ngày. Chu kì này được gọi là ngày sao, có độ dài là 23 giờ 56 phút 4 giây.

Đối với chúng ta điều quan trọng nhất là sự nhận biết chính xác về sự thay

đổi ngày và đêm, sáng và tối nhưng sự thay đổi đó không được phản ánh trung thực

trong ngày sao (ngày Thiên văn). Trái đất tự quay quanh mình nó, Mặt trời đứng

yên chiếu sáng Trái đất tạo nên ngày đêm nhưng trong một ngày đó, Trái đất đã

quay được 1/365 phần quỹ đạo của nó trong một năm, tức là lệch đi một chút so với

Mặt trời. Để cho trưa ngày hôm sau ta lại nhìn thấy Mặt trời ở trên đỉnh đầu, tức là

vào lúc chính Ngọ, thì trái đất phải quay thêm một khoảng thời gian chừng 4 phút

nữa. Thành thử ngày Mặt trời (ngày Thái dương) dài hơn ngày sao chừng 4 phút.

Do Trái đất chuyển động trên quỹ đạo với vận tốc không đều và trục trái đất lại nghiêng trên mặt phẳng hoàng đạo (góc nghiêng 23,50…) nên ngày Thái dương

thực không bằng nhau và độ dài ngày đêm cũng khác nhau theo vĩ độ nên người ta

phải tính ngày trung bình. Ngày mặt trời trung bình có độ dài là 24 giờ, mỗi giờ dài

60 phút, mỗi phút có 60 giây. Nói một cách chính xác thì ngày mặt trời là khoảng

thời gian cần thiết để mặt trời quay trở lại kinh tuyến địa phương.

Đối với việc làm lịch thì người ta chỉ nói đến ngày mặt trời trung bình, hầu

hết các lịch đều tính ngày vào lúc nửa đêm, tức là vào lúc 0 giờ lịch dương, cũng

tức là giờ Tí lịch âm.

Tuần lễ:

Nguốn gốc 7 ngày của tuần một mặt quan hệ tới bốn chu kỳ xấp xỉ 7 ngày

của pha Mặt trăng (Sóc - Thượng Huyền - Vọng - Hạ huyền), mặt khác đây là con

số được người Babylon tin một cách thần bí, có thể do tương ứng với 7 hành tinh.

Người Do Thái là những người đầu tiên sử dụng 7 ngày trong một tuần mặc dù có

khả năng họ tiếp thu khái niệm này từ các nhà chiêm tinh Chaldea (vùng đất hiện

nay là phía Đông Nam Irắc). Theo kinh Cựu ước thì Chúa tạo ra thế giới trong 6

24

ngày và nghỉ vào ngày thứ 7. Ở phương Tây tuần lễ bắt đầu được sử dụng từ thế kỷ

thứ 3 sau CN và trong nhiều ngôn ngữ thì tên ngày trong tuần liên quan đến 7 thiên

thể được người cổ đại biết đến là Mặt trời, Mặt trăng, Hỏa tinh, Thủy tinh, Mộc

tinh, Kim tinh và Thổ tinh (Tương ứng với các ngày từ chủ nhật đến thứ bẩy). Tuy

nhiên ở một số ngữ khác như Ả Rập, Bồ Đào Nha hay Do Thái thì các ngày trong

tuần được gọi tên theo số thứ tự.

Trong lịch sử đã có các tuần không phải bẩy ngày như tuần 4 ngày ở Congo,

tuần 5 ngày ở châu Phi và nước Nga năm 1929, tuần 8 ngày ở Cộng hòa La Mã. Ở

một số nơi như Hy Lạp, Ai Cập vào thời cổ đại tháng được chia làm 3 phần. Tại

Trung Quốc ít nhất từ thời Đế Nghiêu cách đây 4200 năm người ta đã dùng đơn vị

tuần và mỗi tuần gồm 10 ngày là Thượng tuần, Trung tuần, Hạ tuần (Hạ tuần có thể

có 9 hoặc 10 ngày tùy theo tháng thiếu hay đủ). Tuần còn được sử dụng như số đếm

10, thí dụ dùng bát tuần để nói về tuổi có nghĩa là 80 tuổi. Trong tiếng Việt 10 ngày

đầu tháng người ta thêm từ “Mồng”, như Mồng một, Mồng hai…

Người Chaldea là những người đầu tiên đặt tên cho các ngày trong tuần theo

thứ tự lập lại, vào năm 321 sau CN Hoàng đế Constantine đã để tuần lễ 7 ngày vào

lịch La Mã và truyền bá điều này trong thế giới Cơ đốc.

Tháng

Mặt trăng là vệ tinh duy nhất của Trái đất, nó cũng di chuyển giữa các ngôi

sao về phía Đông như Mặt trời và quay xung quanh trái đất theo một quỹ đạo hình

elip với chu kì là 27.321661 ngày (27 ngày 7 giờ 43 phút 11 giây), chu kì này được

gọi là tháng sao hay là tháng vũ trụ. Thời gian để Mặt trăng trở lại cùng một vị trí

với Mặt trời trong Thiên cầu được gọi là tháng giao hội. Trong tháng giao hội, Mặt

trăng dần dần chuyển qua các pha: không trăng hay thời điểm Sóc là thời điểm mà

Mặt trăng nằm xấp xỉ thẳng hàng giữa Trái đất và Mặt trời, bề mặt quay về phía

Trái đất bị tối không nhìn thấy; Thượng huyền (hay pha bán nguyệt, nhìn thấy một

nửa đĩa mặt trăng); Trăng tròn (Vọng), thời điểm Mặt trăng ở phía đối diện với mặt

trời , bề mặt quay về phía Trái đất sáng hoàn toàn; Hạ huyền, thời điểm nhìn thấy

một nửa đĩa Mặt trăng và sau đó quay lại thời điểm Sóc.

25

Chu kì chuyển pha vừa kể trên của mặt trăng được gọi là tuần trăng hay là

chu kì giao hội của Mặt trăng và Mặt trời, hay là tháng Mặt trăng. Tháng Mặt trăng

trung bình có độ dài là 29.53058 ngày (29 ngày 12 giờ 44 phút 0.28 giây) và nó dài

hơn tháng vũ trụ 2 ngày. Điều này cũng dễ hiểu là: khi Mặt trăng quanh được 1

vòng xung quanh trái đất thì trái đất đã quay được 1/12 quỹ đạo của nó xung quanh

mặt trời, nghĩa là nó đã lệch đi một góc khá lớn. Để trở lại pha ban đầu, chẳng hạn

đến điểm vọng thì trái đất phải quay thêm 2 ngày nữa để triệt tiêu góc lệch kia đi.

Như vậy, tuần trăng không chỉ là chu kì quay của Mặt trăng xung quanh trái đất mà

còn phải tính đến cả chuyển động của trái đất xung quanh mặt trời. Chính tuần trăng

mới được sử dụng để làm lịch, tháng âm lịch dựa hẳn vào tuần trăng, về phần này

chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn ở phần sau.

Quỹ đạo mà mặt trăng quay quanh Trái đất gọi là Bạch đạo, Bạch đạo nghiêng với Hoàng đạo một góc ~50 và cắt Hoàng đạo tại hai Tiết điểm đối diện

nhau. Do ảnh hưởng nhiễu loạn của lực hấp dẫn từ trường và các thiên thể khác tác

dụng lên mặt trăng nên bạch đạo không ổn định trong không gian, hai tiết điểm này dịch chuyển trên Hoàng đạo về hướng tây khoảng 19.40 một năm và đường thẳng

nối chúng dao động với chu kỳ ~18.6 năm quanh Hoàng đạo, chuyển động của tiết

điểm có ý nghĩa quan trọng trong dự đoán Nhật thực và Nguyệt thực.

Mặt trăng là tấm gương phản chiếu ánh sáng mặt trời để chiếu sáng vào ban

đêm. Thưở xưa ánh sáng mặt trăng rất quan trọng cho sinh hoạt, canh tác và nhất là

cho chăn nuôi. Điều quan trọng là mặt trăng ở rất gần trái đất nên lực hấp dẫn của

nó rất lớn, ảnh hưởng đến khí triều, địa triều và nhất là thủy triều. Ta biết, thủy triều

có ảnh hưởng lớn đến đánh bắt hải sản và cấy trồng lúa nước. Bởi vậy, tháng là một

đơn vị thời gian được rất nhiều các nhà làm lịch quan tâm.

Lịch Dương ra đời sau lịch Âm, phỏng theo chu kì tuần trăng mà đặt tháng.

Qua nhiều lần cải cách nó ngày càng xa rời tuần trăng, ngày nay nó không phản ánh

gì về tuần trăng nữa. Tháng dương đơn thuần chỉ là việc chia năm dương ra làm 12

phần, mà lại chia không đều nhau, có tháng 28, 29, 30 và 31 ngày, không dựa trên

một cơ sở khoa học nào [18, tr. 43].

26

Năm

Trái đất quanh xung quanh Mặt trời theo một quỹ đạo hình elip trên mặt phẳng

hoàng đạo với tốc độ không đều và có chu kì là 365.256361 ngày (tức là 365 ngày 6

giờ 9 phút 9.5 giây). Chu kì này được gọi là năm vũ trụ, năm vũ trụ chính là khoảng thời gian cần thiết để từ một điểm cố định mặt trời quay được 3600.

Mục đích quan trọng nhất của việc làm lịch là phải phản ánh được thời vụ để

chỉ đạo được sản xuất cho nông nghiệp, nên nó cần phải phù hợp với thời tiết và khí

hậu, sự thay đổi của các mùa trong năm, mà điều đó thì không được phản ánh đầy

đủ nhờ năm thời tiết.

Năm thời tiết, còn gọi là năm Xuân phân hay là năm Mặt trời thực, là khoảng

thời gian giữa hai lần liên tiếp Mặt trời đi qua điểm Giữa xuân hay Xuân phân, đây

cũng là chu kì của bốn mùa. Nhưng năm Mặt trời thực không có độ dài cố định, mà thay đổi hàng năm vì vị trí điểm Xuân phân bị dịch chuyển do tuế sai* nên ta phải

tính năm mặt trời thực trung bình, nó có độ dài là 365.24220 ngày (365 ngày 5 giờ

*Hướng trục quay của Trái đất không cố định trong không gian mà thực hiện

48 phút 45.97 giây), như vậy năm thời tiết ngắn hơn năm vũ trụ một chút.

một di chuyển chậm gọi là tuế sai, do tuế sai nên trục Trái đất quanh xung quanh

cực Hoàng đạo với chu kì khoảng 26000 năm (Hiện nay trục trái đất hướng về phía

sao Bắc cực nhưng 13000 năm sau sẽ chỉ về hướng sao Vega). Kết quả là giao điểm

của xích đạo trời với hoàng đạo tức điểm xuân phân dịch chuyển khoảng 50 giây

mỗi năm về hướng Tây dọc theo hoàng đạo. Tuế sai xảy ra do lực hấp dẫn của mặt

trời và mặt trăng tác dụng lên phần lồi ra ở xích đạo của trái đất [1, tr. 32].

Năm Dương lịch phải có số nguyên ngày nên năm thường có 365 ngày, năm

nhuận có 366 ngày, sao cho năm trung bình xấp xỉ tốt nhất năm thời tiết. Lịch tiết

khí luôn lấy năm thời tiết làm năm của lịch. Lịch âm lấy năm là 12 tháng âm, nên có

354 hoặc 355 ngày, lệch với năm thời tiết khoảng 11 ngày nên không phản ánh

được thời tiết khí hậu.

27

1.2.2. Cơ sở thực tế của việc làm lịch

Như chúng ta đã biết lịch là một thành tựu nhờ sự phát triển của thiên văn và

các ngành khoa học kĩ thuật khác. Lịch cũng thể hiện sự hiểu biết của con người về

các hiện tượng thiên nhiên gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Thời

xưa, khi thiên văn và toán học chưa phát triển thì người ta cũng nhận thức được

rằng thời gian và không gian có liên quan mật thiết đến các lao động và sản xuất.

Cách đây 2000 năm người Trung Quốc cổ đại đã đặt ra 24 tiết, đó là một sáng tạo vĩ

đại của những cư dân làm nông nghiệp ở châu Á. Họ đã căn cứ vào sự chuyển động

của trái đất xung quanh mặt trời để đặt ra 24 tiết. Họ đem chia quỹ đạo của trái đất

xung quanh mặt trời ra làm 24 phần bằng nhau, mỗi phần là một loại tiết.

Những cảm nhận về chu trình thời gian, sự cảm nhận về sự thay đổi của thời

tiết, sự vận động của các mùa trong năm mà áp dụng vào sản xuất. Những kinh

nghiệm này được đúc rút và truyền miệng trong dân gian thành những câu tục ngữ,

thành ngữ.

Người xưa không có lịch để xem, không có một cơ sở khoa học hay toán học

nào để tính được ngày, tháng, cách duy nhất mà họ dựa vào đó là cảm nhận về các

hiện tượng thiên nhiên.

Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng hay Gió nam đưa xuân sang hè.

Họ cảm nhận được chu trình tuần tự của thời gian, hết năm này qua năm

khác, hết tháng này đến tháng khác, nó cứ tuần tự nhau mà đến. Hoặc họ có thể nhìn

trăng mà đoán định được thời gian trong tháng:

Mồng một lưỡi trai

Mồng hai lá lúa

Mồng ba câu liêm

Mồng bốn lưỡi liềm…

Đó là sự cảm nhận thô sơ nhất của con người về sự tuần tự của các pha Mặt

trăng trong một tháng, khi khoa học kĩ thuật phát triển người ta biết được rằng ứng

với mỗi hình tượng đó là bốn pha trong chu trình Mặt trăng.

28

Hoặc nhờ những hiện tượng thiên nhiên, người ta biết được hiện tượng đó là

của tháng nào:

Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng.

Ngày tháng mười chưa cười đã tối.

Rét tháng giêng nằm nghiêng mà chịu.

Hay nhờ những mưa, gió mà họ biết được giờ:

Không mưa qua Ngọ, không gió quá Mùi.

Kinh nghiệm dân gian đã nhận biết được rằng, mưa từ sáng thì sẽ không bao

giờ mưa kéo dài qua 11 – 1 giờ chiều – chính Ngọ. Gió không bao giờ quá giờ Mùi

(khoảng 1 đến 3 giờ chiều).

Ở Châu Á và nước ta thì sản xuất nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng.

Thời xưa, từ lúc gieo hạt đến lúc gặt hái, người nông dân lúc nào cũng lo lắng cho

mùa vụ của mình. Vì vậy, những kinh nghiệm để áp dụng vào nông nghiệp được lưu

lại và truyền từ đời này sang đời khác, đặc biệt là những kinh nghiệm về thời tiết.

Tháng ba tháng hội đền Hùng, cuốc đất trồng sắn gieo vừng kèm theo,

Tháng ba là tháng mở hội đền Hùng ở Phú Thọ, thời điểm này nếu trồng sắn và gieo

vừng là thích hợp nhất.

Thiếu tháng tư khó nuôi tằm, thiếu tháng năm khó làm ruộng, Tháng tư âm

lịch mà thiếu ngày thì năm ấy nghề ươm tơ nuôi tằm kém phát triển, tháng năm mà

thiếu ngày thì làm ruộng thiếu năng suất. Đó là kinh nghiệm sản xuất của người

nông dân qua các tháng đủ, tháng thiếu của Âm - Dương lịch.

Không chỉ dựa vào các hiện tượng thiên nhiên, thời tiết mà người xưa còn

biết trong các vì sao trên trời để áp dụng vào nông nghiệp và cuộc sống.

Nhác trông sao Đẩu về Đông

Chị em ra sức cho xong ruộng cày

Lấm lem tay cắm chân dài

Nay trồng cây mọc, cũng ngày hữu thu

Khuyên người đừng có ngao du

Một năm no ấm vẫn trù từ đây [10, tr. 31].

29

Tua rua là tên gọi dân dã trong tiếng Việt của cụm sao phân tán M45 thuộc

chòm sao Kim Ngưu. Ở Việt Nam, chòm sao này thường thấy được vào lúc đầu

tháng 6 dương lịch. Đây là nhóm sao tương đối phổ biến và xuất hiện vào tiết khí

Mang chủng, nên nhà lịch học Lê Thành Lân đề xuất gọi tiết khí Mang chủng là

Tua rua. Theo Âm - Dương lịch thì tiết khí này thường nằm trong tháng Năm, nên

Tua rua còn là biểu tượng tiết khí tháng Năm âm lịch. Sao Tua rua còn được nông

dân đồng bằng Bắc Bộ gọi là Sao Mạ vì xuất hiện trên bầu trời vào thời vụ gieo mạ

lúa mùa chính vụ.

Tua rua đi rắc mạ mùa

Tiểu thử đi bừa cấy ruộng nông sâu.

Như vậy, từ những nhận thức về thời gian, thiên nhiên có mối liên hệ với sản

xuất và đời sống và từ nhu cầu sản xuất nông nghiệp mà người ta đã làm ra nhiều

loại lịch khác nhau, điển hình đó là lịch tiết khí.

Lịch tiết khí như trên đã nói là loại lịch được tính trên sự chuyển động biểu kiến

của mặt trời trên hoàng đạo và nó ứng với năm thời tiết, có độ dài là 365.24 ngày.

Theo lịch tiết khí, người ta chia một năm thành 24 tiết khí: Lập xuân, Vũ

thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng,

Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương

giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn.

Như vậy, xuất phát từ sản xuất nông nghiệp mà con người có được những kinh

nghiệm về thiên nhiên, thời tiết, mùa vụ đó chính là những cơ sở thực tế cổ xưa nhất để

con người làm nên lịch phục vụ chính cuộc sống của mình.

Ngoài nhu cầu từ sản xuất nông nghiệp, từ những kinh nghiệm về thời tiết

mà người ta định ra lịch còn có rất nhiều các cơ sở khác nhau.

Thưở xa xưa, do trình độ nhận thức của con người còn chưa thể hiểu nổi

những hiện tượng thiên nhiên. Thiên nhiên cho con người sự sống, ánh sáng, thức

ăn, không gian để sống…Nhưng lại dồn bao nhiêu tai họa đe dọa cuộc sống của con

người như hạn hán, bão lụt, mất mùa, sấm sét, dịch bệnh, thú dữ... Khi cuộc sống

phát triển cao hơn, xã hội có giai cấp, những con người ở giai cấp dưới, những

30

người nghèo đói cũng không thể hiểu nổi tại sao lại có những tầng lớp người khác

nhau, kẻ đàn áp, kẻ bóc lột lại được hưởng phú quý. Còn người nghèo đói, khổ sở

lại luôn bị nghèo đói khổ đau, con người lại gây ra chiến tranh cho nhau để bao

cảnh tang thương, chết chóc xảy ra. Không giải thích được vì sao lại như vậy, con

người lại quy tại tạo hóa. Tạo hóa theo quan niệm thời nay là mọi thiên thể trong vũ

trụ, là môi trường thiên nhiên xã hội nhưng thời xưa nó là những lực lượng siêu

nhiên, lực lượng thần thánh, là ông trời. Ông trời vừa là thiên thần lại vừa là ác quỷ,

trời ban phúc cho ai người ấy được hưởng, trời trao quyền cai trị cho ai người ấy

được cai trị người khác, trời trừng phạt ai người ấy phải chịu. Do vậy, vì bản năng

sinh tồn, con người phải vươn lên làm chủ cuộc sống của mình, điều khiển thiên

nhiên để tồn tại và duy trì nòi giống. Từ đó mà xuất hiện những loại hình tôn giáo,

những thuật bói toán, chọn ngày tốt xấu và tư tưởng tìm điều lành, tránh điều dữ.

Thực tế là có ngày thì làm mọi việc đều thuận lợi, nhiều điều may mắn tự

nhiên đưa đến, ngược lại có những ngày làm việc vất vả, khó nhọc mà chẳng được

gì, thậm chí còn gặp tai nạn bất ngờ. Người ta muốn hỏi: vì sao vậy? Phép duy vật

biện chứng thì cho rằng đó chỉ là quy luật tất nhiên và ngẫu nhiên chi phối mà thôi.

Lý luận thì là như vậy, nhưng người ta lại muốn biết làm sao để tránh được những

yếu tố ngẫu nhiên xấu và đón được những yếu tố ngẫu nhiên tốt. Ví như: cưới vợ

tuổi nào thì hợp với mình và hạnh phúc, hoặc cưới vợ ngày nào thì tương lai duyên

ưa, phận đẹp. Làm nhà nên chọn tuổi nào, ngày nào để con cháu được sum vầy, gia

đình làm ăn yên ổn, giàu sang, phú quý. Vì thế người Kinh mới có câu “Lấy vợ xem

tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”.

Như trên đã nói lịch của con người ra đời dựa trên cơ sở sản xuất nông

nghiệp nên người xưa coi trọng việc xem ngày tốt trong lao động và đời sống xã

hội. Chẳng hạn những ngày Canh trường, Cát nhật nên cày ruộng, ngày Tẩm cốc

nên ngâm thóc giống, ngày Hạ ương nên gieo mạ…Các ngày Hành thoàn cấm đi

thuyền, ngày Thủy lĩnh cấm đào giếng, ngày Thiên cầu hạ thực cấm cúng tế…

Tục ngữ Việt Nam có câu:

Bốc mả kiêng ngày trùng tang

Trồng khoai lang kiêng ngày gió bấc.

31

Từ thời nhà Đường ở Trung Hoa cổ đại, việc định ngày tốt xấu còn phân

thành việc trong nhà và việc ở ngoài. Đối với việc trong nhà thì chọn ngày Nhu

(ngày can Âm như: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý, còn đối với những việc ở ngoài thì

chọn ngày Cương (ngày thuộc can Dương như: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm).

Việc định ngày cũng đã truyền sang Việt Nam, tạo thành một dân tục.

Như vậy, tục chọn ngày tốt xấu theo lịch tiết khí, theo kinh nghiệm dân gian

đã có ở xã hội Á Đông từ xa xưa. Đây là một nét sinh hoạt văn hóa tinh thần có

chiều dày lịch sử với tính cách là phương tiện sinh hoạt tâm lý trong quá trình tiếp

cận với giới tự nhiên. Đã tạo ra vốn kinh nghiệm dân gian giúp con người đương đại

chiêm nghiệm qua hoạt động sống hàng ngày.

Từ những nhu cầu về sản xuất, nhu cầu trong sinh hoạt cuộc sống thường

ngày cùng với sự phát triển của thiên văn, khoa học xã hội mà con người làm nên

các loại lịch như lịch tiết khí, lịch vạn niên, âm dương đối lịch…Đó là sản phẩm

văn hóa tinh thần cổ của người phương Đông, những dữ kiện nêu lên từng ngày của

lịch là biểu kiến của người xưa khó có thể xem xét dưới bình diện khoa học và phân

tích duy vật biện chứng. Song đó là những cơ sở thực tế quan trọng để hình thành

nên các loại lịch ngày nay.

1.2.3. Cơ sở tính toán Âm - Dƣơng lịch Việt Nam

Lịch có ba đơn vị căn bản: năm, tháng, ngày. Năm dựa theo sự tuần hoàn của

Trái đất quanh Mặt trời, tháng dựa theo sự tuần hoàn của Mặt trăng quanh Trái đất,

ngày dựa vào sự tuần hoàn của Trái đất quanh trục của chính nó. Ba sự chuyển động

này độc lập và không ăn khớp với nhau. Muốn chúng đừng quá trật khớp với nhau

thì nhà làm lịch phải lâu lâu điều chỉnh lại. Đó là vấn đề căn bản của lịch pháp.

Với vấn đề này thì mỗi nền văn hóa có một cách giải quyết khác: Người

Châu Âu giải quyết một cách "thô bạo" là bỏ hẳn chu kỳ trăng. Mồng 1 Âu châu

không phải là đêm không trăng nữa và 15 không còn là trăng tròn. Những người

sống theo thủy triều (người dân chài, người đi biển) không còn dựa vào ngày trong

tháng được nữa để tính ngày nước lên cao nhất. Tuy nhiên, đối với đa số dân chúng

thì chuyện này không quan trọng lắm. Còn vấn đề làm sao cho ngày ăn khớp với

năm thì giải quyết bằng cách cứ khoảng bốn năm có thêm một ngày (29/2).

32

Người Trung Hoa thì giải quyết bằng cách vài năm lại có thêm một tháng

nhuận để hai bên âm - dương ăn khớp trở lại, vì một năm có hơn 365 ngày mà 12

tháng (âm) chỉ có hơn 354 ngày. Nhược điểm của cách giải quyết này là ngày tháng

không còn đo chính xác được các mùa, vì mỗi năm bắt đầu ở một thời điểm khác

nhau và có năm dài năm ngắn.

Người xưa lập ra lịch thì không có những dụng cụ thiên văn tối tân và đồng

hồ chính xác, mà chỉ có cái thước và đôi mắt. Tuy nhiên, với những phương tiện sơ

sài đó, họ cũng đánh dấu được rất chính xác những mốc căn bản để tính ngày,

tháng, năm.

Để đếm ngày, họ có thể tính từ lúc mặt trời lặn hay mặt trời mọc. Lịch Hồi

giáo tính theo cách này. Nhưng vì mặt trời mọc lặn khác nhau tùy theo mùa, nên

không tiện dùng làm mốc thời gian. Mốc tốt hơn là điểm giữa trưa, khi mà bóng mặt

trời ngắn nhất. Điểm này có thể đo dễ dàng bằng một cây gậy cắm xuống đất. Điểm

này gọi là Ngọ.

Ngày có thể tính là bắt đầu từ giữa trưa, nhưng như vậy sẽ bất tiện trong việc

ghi chép công việc, nên cả Âu châu lẫn Á Đông tính ngày từ giữa đêm, trung điểm

giữa hai Ngọ.

Tháng thì tính từ đêm không trăng, khi trăng ở chính giữa Trái đất và Mặt

trời nên quay mặt tối về Trái đất. Thỉnh thoảng, điểm này có thể đo được rất

chính xác: đó là khi có nhật thực. Còn không thì phải dùng tính toán. Điểm này

gọi là điểm sóc.

Năm thì có hai điểm mốc có thể đo được chính xác là Hạ chí và Đông chí,

trong đó Đông chí đo dễ chính xác hơn. Vì trục Trái đất nghiêng so với quỹ đạo trái

đất quanh Mặt trời, nên vào mùa đông thì nam cực chĩa về phía Mặt trời, người ở

bắc bán cầu nhìn thấy Mặt trời xuống thấp về phía nam. Đông chí là điểm khi mà

mặt trời thấp nhất trong năm, tức là điểm mà nam cực chĩa về mặt trời nhiều nhất.

Để đo điểm Đông chí, người xưa chỉ cần cắm một cây gậy xuống đất (hay xây một

cái tháp), ghi xuống chiều dài của bóng lúc nó ngắn nhất (tức là lúc giữa trưa). Làm

33

như vậy vài ngày trước và sau Đông chí, rồi dùng một phép nội suy nào đó để tính

ra thời điểm Đông chí một cách chính xác (xem hình). Càng gần Đông chí, mặt trời

giữa trưa càng thấp và bóng giữa trưa càng dài. Để ý là phương pháp này không cần

đồng hồ, mặt trời tự nó là cái đồng hồ!

Cách tính Đông chí là của Zu Chongzhi (429-500 sau CN), tên chữ Hán là

Tổ Xung Chi, cách tính này như sau: trục x là thời gian, trục y là chiều dài của bóng

gậy lúc giữa trưa của một ngày (bóng ngắn nhất trong ngày đó), mỗi điểm là một

ngày. (a) Vẽ đường chéo nối hai điểm, (b) vẽ đường ngang từ một điểm bên kia cho

tới đường chéo a, (c) trung điểm đường ngang là Đông chí.

Nên phân biệt ngày ngắn nhất và điểm Đông chí. Điểm Đông chí là một

điểm chung cho tất cả địa cầu (trong bài này, Đông chí được hiểu là Đông chí của

bắc bán cầu), nên khi tính bằng giờ của một địa điểm nào đó (như Hà Nội) nó có thể

xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày hay đêm. Ngày chứa điểm Đông chí là ngày ngắn

nhất (mặt trời mọc trễ và lặn sớm nhất) trong năm.

Nói tóm lại, có ba cái mốc thời gian căn bản để tính lịch: điểm ngọ (giữa trưa)

để tính ngày, điểm sóc để tính tháng, và điểm Đông chí để tính năm.

Đó là quy tắc của người Trung Hoa xưa để tính lịch; đó cũng là những quy

tắc tính Âm - Dương lịch Việt Nam nhưng khác nhau ở múi giờ tham chiếu nên hơi

khác nhau một chút.

Ngày đầu tháng là ngày Sóc (không trăng)

Năm bình thường có 12 tháng, năm nhuận có 13 tháng.

Ngày đông chí luôn rơi vào tháng 11.

34

Trong năm nhuận tháng không có trung khí là tháng nhuận. Tháng này

đánh số trùng với tháng trước (thêm chữ nhuận). Nếu trong năm nhuận có hai

tháng không có trung khí thì tháng đầu tiên sau Đông chí được coi là tháng nhuận. Tính toán dựa trên kinh tuyến pháp định (ở Việt Nam là 1050 đông và ở

Trung Quốc là 1200 đông).

Theo quan điểm tính toán thì lịch Âm - Dương Á Đông đã trải qua ba cải

cách quan trọng: vào năm 104 TCN (đời Hán) quy tắc tháng nhuận là tháng Âm

không chứa Trung khí bắt đầu được áp dụng và điểm Sóc cũng như điểm khí (Tiết

khí và trung khí) và được tính trung bình. Năm 619 sau CN (đời Đường) các nhà

làm lịch bắt đầu tính được ngày Sóc. Và tới năm 1645 sau CN (nhà Thanh) thì bắt

đầu tính được điểm khí thực – Giá trị trung bình hay giá thực ở đây là ám chỉ việc

người xưa lúc đầu coi chuyển động quỹ đạo của mặt trăng, hay trái đất là chuyển

động đều sau đó mới tính đến chuyển động thực với tốc độ thay đổi.

Ngày mồng 1 Âm

Ngày được bắt đầu từ nửa đêm đến nửa đêm tiếp theo (từ 0 giờ đến 24 giờ),

dù điểm sóc rơi vào bất cứ giờ nào trong ngày thì cả ngày đó kể từ 0 giờ là ngày

Sóc, tức là ngày mùng 1 âm. Sóc là ngày không trăng, giao hội chỉ xảy ra trong một

tích tắc vì vậy tích tắc đó rơi vào ngày nào thì ngày đó là ngày sóc.

Tháng Âm lịch

Khoảng thời gian giữa hai điểm Sóc kế tiếp nhau gọi là tháng giao hội, trong

lịch Âm Dương Á Đông thì các tháng Giao hội (với độ dài trung bình là 29.53

ngày) được xấp xỉ bằng chuỗi tháng 29 hoặc 30 ngày và các tháng này được gọi là

tháng âm. Tháng âm 29 ngày được gọi là tháng thiếu và tháng âm 30 ngày được gọi

là tháng đủ, độ dài tháng âm chính bằng số ngày giữa hai điểm sóc kế tiếp nhau.

Năm Âm lịch

Năm Dương lịch dài 365 hoặc 366 ngày, trong khi đó năm Âm lịch chỉ có

354 hoặc 355, ngắn hơn năm Dương lịch khoảng 11 ngày nên để cho phù hợp với

thời tiết cứ sau vài ba năm người ta lại chèn thêm một tháng nhuận theo quy tắc

trên. Như vậy, năm Âm lịch bắt đầu từ Tết Nguyên đán và kết thúc vào ngày trước

tết Nguyên Đán kế tiếp có 12 hoặc 13 tháng âm. Trong năm thường có 12 tháng có

35

354.3671 ngày hoặc 355 ngày, còn năm nhuận có 13 tháng (lịch âm) thì có 383.384

ngày hoặc 385 ngày. Trong lịch Âm - Dương Á Đông năm Xuân phân được đánh

dấu từ điểm Đông chí này đến điểm Đông chí khác chứa 24 tiết khí và lịch tiết khí

này tục gọi là lịch nhà nông, năm Âm lịch không phải là Lịch nhà nông vì không

thích hợp cho dự báo thời tiết mặc dù nhiều người vẫn gán nhầm tên này cho nó.

Tháng đủ, tháng thiếu

Từ Sóc (tức ngày mồng 1) tháng trước vượt qua 30 ngày để đến Sóc tháng

sau – tháng đó là tháng đủ; nếu chỉ cần 29 ngày đã đến sóc tháng sau – tháng đó là

tháng thiếu. Quan sát mặt trời mà xác định tháng thiếu, tháng đủ thì không dự báo

được những tháng, năm về sau. Ngày nay, người ta dùng công cụ toán học để tính

ngày sóc thực, đó là thời điểm giao hội thực giữa Mặt trời và Mặt trăng.

Cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã kết luận: “Nếu hai ngày sóc liền một Can,

hoặc hai số can chi có cùng một đơn vị thì tháng trước có 30 ngày, nghĩa là chỉ cần

xem tên Can các ngày sóc cũng biết tháng đủ tháng thiếu. Quy tắc là nếu cùng can

thì tháng trước đủ, nếu đổi can thì tháng trước thiếu” [10, tr. 31].

Ví dụ: ngày mùng 1 âm tháng giêng là ngày Ất Hợi.

Ngày mùng 1 âm tháng hai là ngày Giáp Thìn.

Ngày mùng 1 âm tháng ba là ngày Giáp Tuất.

Ất Hợi và Giáp Tuất không cùng can nên tháng giêng là tháng thiếu. Giáp

Thìn và Giáp Tuất cùng can Giáp nên tháng hai là tháng đủ.

1.3. Phân loại lịch

Có nhiều cách phân loại khác nhau, dựa trên cơ sở thiên văn người ta chia

lịch thành 3 loại cơ bản: Dương lịch, Âm lịch, Âm - Dương lịch.

Dương lịch (còn gọi là lịch Thái dương, lịch Mặt trời): là loại lịch căn cứ vào

sự vận động của mặt trời trên Hoàng đạo. Có năm lịch xấp xỉ với năm Mặt trời

(365. 2422 ngày) bằng cách lấy năm thường là 365 ngày và năm nhuận là 366 ngày.

Đơn vị tháng trong Dương lịch không phản ánh tuần trăng mà chỉ là sự sắp xếp có

tính quy ước mà thôi.

36

Âm lịch (còn gọi là lịch Thái âm, lịch Mặt trăng): Chủ trương xếp tháng theo

sát chu kỳ giao hội (29.530588 ngày), nên đặt tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu 29

ngày. Nhưng năm Âm lịch 12 tháng (354 hoặc 355 ngày), ngắn hơn năm Thời tiết

khoảng 11 ngày, nếu lấy 13 tháng (384 hoặc 385) lại dài hơn năm Thời tiết khoảng

20 ngày. Do vây, nó đành lấy năm có 12 tháng Mặt trăng, bỏ qua yếu tố thời tiết.

Âm - Dương lịch: Là lịch cố gắng dung hoà 2 loại Âm lịch và Dương lịch.

Trước hết nó là Âm lịch, lấy tháng theo chu kỳ tuần Trăng, năm có 12 tháng và cứ

vài năm lại gia thêm 1 tháng nhuận để độ dài trung bình năm sát với năm Thời tiết.

Tiểu kết chương 1

Như vậy, lịch không phải là thời gian mà là thước đo thời gian. Lịch còn là

một nét thuần phong mĩ tục của người Việt Nam. Nó không chỉ là một công cụ để xem

ngày, tháng, lễ, Tết…Mà còn lịch còn được in thêm những tranh vẽ dân gian, những

ông Phúc, Lộc, Thọ, tranh phong cảnh, tĩnh vật, thư pháp… đem lại một góc nhìn rất

riêng, rất dân tộc, rất truyền thống trong mỗi nhà.

Việc cần phải xác định đúng thời vụ để tiến hành các hoạt động trồng trọt vô

cùng cần thiết đối với cư dân làm nông nghiệp. Nhu cầu về ghi chép lịch sử, lưu lại

những sự việc đã qua. Rồi từ việc chọn ngày tốt, xấu, chọn ngày đẹp để đón điều

lành, tránh điều dữ của con người. Xuất phát từ những hoạt động kinh tế - xã hội

của nhân loại mà lịch ra đời.

Lịch được hình thành từ nhiều cơ sở khác nhau. Cơ sở cổ xưa nhất để tính

lịch là dựa vào các hiện tượng thiên nhiên. Đây chính là cách tính lịch hậu vật. Các

cư dân cổ ở Trung Quốc, Việt Nam thường tính lịch theo cách này và hiện nay vẫn

còn lưu giữ trong dân gian. Khí hậu thời tiết nắng mưa, nóng lạnh, gió, bão... đều

tuân theo quy luật vận chuyển của vũ trụ, cụ thể là chuyển động của hệ mặt trời. Vật

hậu như thiên nhiên, cây cỏ, côn trùng, thú vật và mọi sinh vật khác, kể cả con

người và các vi sinh vật, vi trùng các loại phát triển hay tàn lụi một phần lớn cũng lệ

thuộc theo quy luật khí hậu thời tiết của môi trường. Chính nhờ những thay đổi của

cây cỏ, của các hiện tượng thiên nhiên mà con người đoán định lịch. Cùng với việc

37

chọn và tính ngày lành, tháng tốt thì cách tính lịch hậu vật là cơ sở thực tiễn để làm

nên lịch hiện nay.

Khi ngành thiên văn học ra đời và phát triển thì ngoài cơ sở thực tiễn của

lịch, cơ sở thiên văn rất quan trọng để làm nên các lịch chính xác ngày nay. Bằng

việc quan sát sự chuyển động của Trái đất, Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao trong

vũ trụ. Các nhà khoa học đã đưa ra được những cơ sở để tính toán các đơn vị lịch và

làm nên lịch hiện đại. Thiên văn là cơ sở quan trọng và khoa học để hình thành lịch

của nhân loại.

38

CHƢƠNG 2. LỊCH VÀ KẾT CẤU LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN

2.1. Sơ lƣợc giới thiệu về tộc ngƣời Thái ở Việt Nam

Sinh sống lâu đời trên đất Việt Nam, kế thừa nền văn minh cổ truyền của ông

cha, người Thái đã có một đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn hóa chung của

dân tộc Việt Nam. Theo các nguồn sử liệu còn ghi lại thì người Thái có mặt ở Việt

Nam vào khoảng thế kỉ thứ VII, địa bàn cư trú của họ hiện nay chủ yếu ở Tây Bắc

và miền Tây hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.

Theo các những ghi chép trong các tập sử thi của người Thái thì họ thiên di

từ Tây Nam, Vân Nam – Trung Quốc vào Tây Bắc Việt Nam với nhiều đợt từ thế kỉ

thứ VII đến thế kỉ XIV, trong đó có hai đợt thiên di lớn vào các thế kỉ IX và XI.

Cũng có ý kiến cho rằng, một bộ phận người Thái Trắng ở Phù Yên và Thái Đen ở

Mường Thanh là những cư dân bản địa, tổ tiên của họ là những cư dân Tày – Thái

cổ. Vào đầu thiên niên kỉ I TCN, tổ tiên của người Tày – Thái đã tham gia vào việc

xây dựng quốc gia cổ đại Âu Lạc của Thục An Dương Vương sau đó một bộ phận

mới di cư sang phía tây, tách khỏi bộ phận gốc là người Tày hiện nay. Còn bộ phận

người Thái Đen thì có mặt đầu tiên ở Mường Lò (Văn Chấn, Yên Bái), mà theo

Quam tô mương thì hai cụ Tạo Xuông và Tạo Ngần đã thiên di từ Vân Nam

(Mường Ôm, Mường Ai) sang Mường Lò Luông và xây dựng bản mường ở đây. Vì

thế trừ người Thái Yên Châu, tất cả đồng bào Thái Tây Bắc đều coi Mường Lò là

“quê cha đất tổ”, khi chết thì phải đưa linh hồn về đây rồi mới lên mường trời.

Đến thế kỉ XII, thủ lĩnh Lạng Chượng, cháu của Tạo Xuông đưa quân từ

Mường Lò tràn vào các miền thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã và sông Nậm U

đánh chiếm và làm chủ Mường Thanh. Trong thời kì này, trung tâm của người Thái

Đen ở Mường Muổi Thuận Châu cũng phát triển quy tụ được hai thế lực người

Thái ở Mường Lay và Mường Xang.

Bắt đầu từ thế kỉ XV- XVI, ở vùng Tây Bắc đã có 16 châu mường nên được

gọi là “Mười sáu châu Thái” (Xíp hốc chu Tay ). Sau Hiệp ước Pháp – Thanh năm

1884, 6 châu Thái cũ cắt về Vân Nam, Trung Quốc nên chỉ còn 10 châu thuộc Tây

Bắc Việt Nam, cái tên “Mười châu Thái – Xíp chu Tay” cùng xuất hiện.

39

Từ năm 1908 đến năm 1911, do sự tách nhập và sắp xếp lại giữa các châu

mường nên hai tỉnh Sơn La và Lai Châu có 12 châu mường (Xíp xoong chụ Tay),

với nghĩa mang màu sắc văn hóa Thái. Trong đó Mường Mụa (Mai Sơn) do Cầm

Văn Oai (Bun Oai) được Pháp cho làm chức Quản Đạo, chỉ huy lính Thái, nhưng

không phải là quy tụ lại 12 châu Thái như xưa. Đến năm 1933, tên gọi 12 châu Thái

mất hẳn.

Về tên gọi người Thái tự gọi mình là Phu Tay, Côn Tay đều có nghĩa là

người, và chia thành hai ngành Tay Đăm (Thái Đen) và Tay Khao hoặc Tay Đon

(Thái Trắng).

Theo số liệu thống kê năm 1999, tộc người Thái ở Việt Nam có 1.328.725

người, địa bàn cư trú của họ trải dài suốt từ miền Tây Bắc, Hòa Bình đến miền tây

hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An. Gần đây, người Thái còn có mặt tại một số tỉnh

Tây Nguyên và Nam Bộ. Ngoài ra, còn có khoảng 20.000 người Thái gốc Việt Nam

sinh sống tại Hoa Kì và Pháp… [31, tr. 4].

Như vậy, địa bàn cư trú của người Thái không chỉ rộng khắp đất nước mà

còn ở rất nhiều nơi trên thế giới. Là một dân tộc lớn thứ hai trong nhóm ngôn ngữ

Tày – Thái thuộc ngữ hệ Thái – Kadai nên họ được các nhà nghiên cứu chính sách,

các nhà khoa học trong nước và nước ngoài đặc biệt quan tâm. Điển hình là

“Chương trình Thái học” đã thu hút được rất nhiều các nhà khoa học tham gia

không những của Việt Nam mà còn cả các nhà khoa học nước ngoài như Thái Lan,

Nhật, Pháp, Anh...

Bức tranh phân bố các ngành Thái Trắng, Thái Đen ở Việt Nam

Các cộng đồng người Thái ở nước ta có hai ngành: Thái Đen và Thái Trắng

gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau:

Thái Trắng

Ngành Thái Trắng ở Việt Nam có thể chia ra làm hai nhóm địa phương.

Nhóm thứ nhất: cư trú ở huyện Mường La, Quỳnh Nhai của tỉnh Sơn La. Huyện

Tủa Chùa, Tuần Giáo tỉnh Điện Biên, huyện Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ và

40

một phần huyện Sìn Hồ thuộc tỉnh Lai Châu. Nhóm này có các đặc điểm về ngôn

ngữ và văn hóa khá thống nhất.

Nhóm thứ hai: cư trú ở các huyện Phù Yên, Mộc Châu tỉnh Sơn La. Huyện Mai

Châu, Đà Bắc của tỉnh Hòa Bình, Văn Chấn của tỉnh Yên Bái, một phần của các huyện

Mường Tè, Phong Thổ, Bình Lư, Than Uyên của tỉnh Lai Châu và huyện Văn Bàn của

tỉnh Lào Cai. Nhóm này chịu ảnh hưởng của nhiều luồng văn hóa của các tộc người khác

nhau nên sự thống nhất về văn hóa chỉ là trên những nét đại thể. Về ngôn ngữ thì có hai

vùng thổ ngữ khá phân biệt: Vùng thổ ngữ Mộc Châu và Phù Yên.

Người Thái ở Mường Lay tự nhận mình có nguồn gốc ở Xípxoongpanna, thiên

di từ Trung Quốc sang. Họ đã đến và lấy đất của các tộc người có tên là Uni, Pên và

đặt tên đất đó là Mường Lay (Lay là đuổi đi). Từ đây, người Thái mở rộng đất cư

trú của mình sang các vùng đất Mường Tè, Phong Thổ, Mai Châu, Đà Bắc (Hòa

Bình).

Người Thái Trắng ở Mộc Châu vốn di cư từ Lào sang Việt Nam khoảng thế

kỉ XIV, người Thái Trắng ở Phù Yên có thể bao gồm một nhóm Thái cổ sống ở đây

từ lâu, sau đó được bổ sung thêm các nhóm thiên di từ Bắc xuống và từ Lào sang.

Ở Tây Bắc Việt Nam người Thái Trắng có 4 mường lớn: Mường Tiến hay

Mường So thuộc huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Mường Tấc thuộc huyện Phù

Yên, tỉnh Sơn La và một phần đất thuộc huyện Tân Sơn của tỉnh Phú Thọ ngày nay.

Mường Xang hay Sang thuộc huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La và cuối cùng là Mường

Chà của tỉnh Điện Biên, Mường Lay của tỉnh Lai Châu. Ngoài ra còn có các mường

khác như: Mường Hạ, Mường Mùn của Mai Châu và một phần của huyện Đà Bắc,

Hòa Bình [8, tr. 12].

Ngành Thái Đen

Vào khoảng thế kỉ XI ngành Thái Đen đã có mặt ở Tây Bắc Việt Nam, theo

“Quam tô mương” (Kể chuyện bản mường) thì hai nhân vật khai phá đầu tiên là

Tạo Xuông và Tạo Ngần. Nơi dừng chân đầu tiên của họ là vùng Mường Min (Gia

Hội, Văn Chấn, Yên Bái ngày nay) rồi vào Mường Lò (cũng thuộc Yên Bái). Họ đã

khai phá đất hoang thành đồng ruộng và xây dựng bản mường ổn định: “…. Tạo

41

Xuông Tạo Ngần xuống đến Mường trần gian bên góc trời. Rồi về đến Mường Ôm

Mường Ai, Mường Lò ngoài trời. Cụ Tạo Xuông, Tạo Ngần mới chia sáu quả bầu,

sáu trụ cột đồng đi mở ở mường ngoài. Chia cho Mường Kinh, Mường Lào, Mường

Dôn, Mường Cơi, Mường Lự, Mường Do hai quả bầu, hai trụ cột đồng. Tạo Xuông,

Tạo Ngần xuống dựng Mường Lò Luông. Cùng theo các họ Lò, Lường, Quàng,

Tòng, Lèo những họ này tôn họ Lò làm chủ. Xây dựng xong Mường Lò, Tạo Ngần

về mường Bỏ Té, còn Tạo Xuông ở lại lấy vợ và sinh con tên là Tạo Lò. Tạo cho

khun Lường làm mo, tạo Lò làm chúa. Vì không quen thổ địa nên hai cụ Tạo Xuông

và Tạo Ngần trở về Mường Ôm, Mường Ai quê cũ. Giao cho Tạo Lò xây dựng

mường Lò…” [16, tr. 25]. Từ Mường Lò người Thái Đen tiếp tục di chuyển khắp

nơi. Họ tới vùng lòng chảo Mường Than, Mường Khim, Mường Cang thuộc huyện

Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Mường Kim, Mường Tháo, thuộc huyện Văn Bàn và các

vùng khác thuộc Tây Nam tỉnh Lào Cai. Một bộ phận tới Mường Hồng, Mường

Hằng, thuộc huyện Trấn Yên rồi ngược lên Mường Nặm, Mường Piu thuộc huyện

Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Một hướng đi vào cánh đồng Quang Huy của huyện Phù

Yên để cộng cư với người Thái Trắng.

Khoảng đầu thế kỉ XII, những đoàn chinh chiến của Mường Lò bắt đầu làm

cuộc thiên di lớn. Kết quả là họ đã lập nên một loạt mường nổi tiếng như Mường

Chiến, Mường La, Mường Muổi, Mường Mụa, Mường Quài, Mường Thanh dọc

theo quốc lộ 6 ngày nay. Sau đó họ di cư khắp miền Tây Bắc và định cư ở các cùng

khác nhau.

Người Thái Đen ở Tây Bắc có 6 mường lớn: Mường Lò thuộc huyện Văn

Chấn, tỉnh Yên Bái, đây vốn được coi là “quê cha đất tổ” của người Thái Đen ở Tây

bắc Việt Nam. Mường Vạt thuộc huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Mường Mụa thuộc

huyện Mai Sơn của tỉnh Sơn La. Mường La thuộc huyện Mường La, tỉnh Sơn La.

Mường Muổi thuộc huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Mường Thanh thuộc huyện

Điện Biên (tỉnh Lai Châu cũ).

Về người Thái ở miền Tây Thanh Hóa và Nghệ An

42

Ở miền núi Bắc Trung Bộ, người Thái chỉ cư trú ở hai tỉnh Thanh Hóa và

Nghệ An. Ở Thanh Hóa người Thái tập trung ở các huyện Quan Hóa, Quan Sơn, Bá

Thước, Mường Lát, Lang Chánh, Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh. Ở tỉnh

Nghệ An các huyện đông người Thái: Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Kì Sơn,

Tương Dương, Con Cuông, Tân Kì, Nghĩa Đàn. Mỗi một huyện như vậy trước đây

có nhiều đơn vị mang dáng dấp tổ chức hành chính cơ sở mà người Thái gọi là các

mường. Đặc điểm chung dễ nhận thấy ở đây là sự phân ngành Thái trắng, Thái đen

không rõ ràng như ở Tây Bắc [8, tr. 14].

Người Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An tự gọi tên theo tên các mường họ sinh

sống. Ví dụ như Mường Ca Da thuộc Quan Hóa, Mường Khòong thuộc Bá Thước,

Mường Đèng thuộc Lang Chánh, Mường Chiềng Vạn thuộc huyện Thường Xuân

thì theo tên các mường đó người Thái tự gọi mình là Tày Ca Gia, Tày Khoong, Tày

Đèng…Cũng như vậy thì ở Nghệ An có các mường như Mường Noọc, Mường Quạ,

Mường Xén…

Dù ở các nhóm khác nhau những người Thái lại tự xếp mình vào các nhóm

địa phương mỗi khi ra khỏi bản mường của mình. Ở Thanh Hóa có các nhóm như

Tày Jo, Tay, Tày Mương trong các nhóm này thì Tay Jo, Tay Mương đông hơn cả.

Nhóm Tày Jo cư trú tập trung ở các huyện Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh

giáp với địa bàn người Thái ở Nghệ An.

Ở Nghệ An có các nhóm Tày Mường, Tày Thanh, Tày Mười và vấn đề tên

gọi của nhóm này còn phức tạp hơn. Riêng nhóm Tày Mười còn có tên gọi là Hàng

tổng và nhóm Tày Thanh có tên gọi là Man Thanh.

Trong hai ngành Thái Đen và Thái Trắng thì Thái Đen là một khối thống

nhất hơn về nhiều mặt, địa bàn cư trú của họ liền nhau một dải từ Mường Lò (Văn

Trấn, Yên Bái) đến Mường Theng (Điện Biên) chiếm hầu hết tỉnh Sơn La, phía

Nam tỉnh Lai Châu và Tây Bắc tỉnh Yên Bái. Trong khi đó, nhóm Thái Trắng lại

chia thành nhiều nhóm địa phương nhỏ hơn, địa bàn cư trú không liền nhau.

Tuy rằng người Thái ở Việt Nam nói riêng và ở Tây Bắc nói chung phân

thành nhiều nhóm địa phương khác nhau nhưng họ có cùng một ngôn ngữ thống

43

nhất, có chung một tâm lý biểu hiện về các mặt văn hóa vật chất và tinh thần và có

chung một loại hình cơ cấu kinh tế và xã hội cổ truyền.

Là cư dân nông nghiệp, người Thái thường sinh sống ở gần nguồn nước như

ven sông, ven suối. Họ xây dựng các bản làng và định cư khá bền vững ở các thung

lũng lớn, trù phú dưới chân đồi với cuộc sống trồng lúa nước, phát nương, làm rẫy,

săn bắn. Phụ nữ Thái rất khéo léo với các nghề thủ công như dệt, đan, thêu thùa,

nhuộm vải…

Người Thái có nhiều phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp, văn hóa đa

dạng. Nhờ có văn tự, đồng bào Thái còn lưu giữ được rất nhiều sách, truyện ghi lại

trên giấy bản, lá cọ. Đó là những cuốn sách sử chép tay dày hàng trăm trang, những

bộ luật hay tập quán pháp tương đối hoàn chỉnh, phản ảnh tình hình xã hội đương

thời. Những truyện thơ tuy khuyết danh nhưng có giá trị nghệ thuật cao, những tập

dân ca những bài hát đồng dao, những sách răn dạy, những tập ghi chép các hình

thức tôn giáo…

Lịch hình thành từ những hoạt động sản xuất nông nghiệp cổ xưa. Nó được

hoàn thiện và mang tính khoa học nhờ sự phát triển của thiên văn và toán học. Như

vậy, cư dân nông nghiệp nào cũng phải cần đến lịch trong hoạt động sản xuất của

mình, phôi thai của lịch là từ những cư dân làm nông nghiệp ở đồng bằng Hoàng Hà

rộng lớn ở Trung Hoa. Ở Việt Nam, người Việt, người Mường và người Thái đều là

những cư dân có truyền thống trồng lúa nước vì vậy họ đều có lịch riêng của mình.

Tục ngữ Thái ở Tây Bắc có câu: “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc”

Người Thái ở Việt Nam là cư dân nông nghiệp, trong đó canh tác lúa nước là

chính, nương rẫy chỉ là phổ biến ở một số bộ phận cư dân. Với bộ nông cụ làm

ruộng như cày, bừa, mai, xẻng, các biện pháp kĩ thuật liên hoàn, làm đất mạ và gieo

cấy, chăm sóc, thu hoạch. Đặc biệt là hệ thống thủy lợi “dẫn thủy nhập điền”

mương, phai, lái, lin và cọn nước cùng với các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan như

cầu mưa, cầu mùa. Qua nhiều thế hệ, người Thái đã đúc kết và tích lũy nhiều kinh

nghiệm trong sản xuất.

Tại các xã vùng cao, vùng sâu, người Thái sinh sống chủ yếu bằng canh tác

nương rẫy. Đó là lối canh tác “phát đốt” theo chu kì vòng quay khép kín từ 4 – 5

44

năm. Rẫy được phân loại theo địa hình thế đất (rẫy dốc, rẫy bằng) theo kĩ thuật sử

dụng và thời gian canh tác (rẫy vụ một, rẫy vụ hai). Bộ công cụ làm rẫy gồm nhiều

loại với nhiều chức năng khác nhau. Công cụ phát có dao, rìu, móc, khều, công cụ

gieo hạt gồm có gậy chọc lỗ bịt sắt hoặc không bịt, công cụ làm cỏ có nạo, quốc,

công cụ gặt có nhíp.

Ngoài ruộng nương, người Thái còn có các hoạt động kinh tế khác như chăn

nuôi trâu, bò, lợn gà, cá,…săn bắt muông thú, hái lượm lâm thổ sản, rau măng, đánh

cá (ở các sông, suối).

Có thể nói rằng, người Thái là một tộc người rất giỏi về canh tác ruộng nước,

họ đã có kinh nghiệm lâu đời về sản xuất, trồng trọt để truyền từ đời này qua đời

khác. Vốn là tộc người mà một bộ phận lớn có nguồn gốc từ Vân Nam, Trung Quốc

thiên di sang Việt Nam, lại có văn tự riêng nên cho đến ngày nay tộc người này vẫn

còn lưu giữ được lịch và cách tính lịch cổ xưa. Hơn nữa, gắn bó với cây lúa nước và

trồng trọt nông nghiệp ở các lòng chảo lớn họ phải có lịch riêng để áp dụng vào

nông lịch và các dịp lễ hội của tộc người mình.

2.2. Cơ sở của việc làm lịch Thái

Theo ông Cà Văn Chung, người Thái Đen gọi lịch là “Mự”, lịch Thái là “Mự

Tay”. Vì thế, các cuốn sách cổ liên quan đến lịch thường có tên là “Đu mự”, “Pặp

mự”…

Lịch là một trong những giá trị văn hóa còn tồn tại đến ngày nay cùng với

lịch sử tộc người Thái. Những người có công đầu tiên lưu giữ lịch và cách tính lịch

là những ông Mo của bản, người Thái có câu: “Họ Lường làm mo, họ Lò làm tạo”.

Những người làm Mo thường mang tính chất thế tập, cha truyền con nối và đời đời

làm mo vì thế bí quyết về lịch và cách xem lịch thường chỉ có những thầy Mo mới

biết. Khi xã hội chưa phát triển, những người muốn xem ngày, chọn ngày thì phải

đến hỏi ông Mo để ông ta xem và tính ngày cho. Phần lớn, những giá trị của lịch

Thái còn lưu truyền đến ngày nay là do truyền khẩu. Trải qua bao năm tháng dưới

tác động của nhiều yếu tố khác nhau như lịch sử, kinh tế, văn hóa và ảnh hưởng bởi

các loại lịch khác như Dương lịch, Âm – Dương lịch…nhưng lịch Thái vẫn giữ

45

được những nét riêng biệt của nó, đồng thời cũng sử dụng những yếu tố thích hợp

của các lịch khác vào lịch của mình.

Có một câu hỏi đặt ra rằng, người Thái dùng lịch riêng của mình từ bao giờ,

hay nguồn gốc của nó là từ đâu? Hiện nay, các ông Mo trong bản cũng không biết

lịch có bao giờ, chỉ biết khi lớn lên nó đã có rồi. Tuy nhiên, khi khảo sát các nguồn

tư liệu cổ, sử thi cổ của người Thái ta biết ngay từ cổ xưa, người Thái đã biết sử

dụng lịch riêng. Trong Quam tô mương (Kể chuyện bản mường) có nói đến việc

cách đây trên nghìn năm thời Tạo Xuông, Tạo Ngần trong quá trình thiên di đến

vùng đất mới đã có người chuyên lo tính ngày tốt xấu, đã có sổ xem ngày lành

tháng tốt và xem bói, loại sổ để xem bói và tính ngày tốt xấu ấy là Đu mự. Đến đời

Tạo Lò, là cháu của Tạo Xuông sau khi xây dựng Mường Lò đã tiến hành quá trình

mở mang bờ cõi ra các vùng Tây Bắc đã mang theo cả ông Mo, ông Nghè và sổ

“Đu mự” để phục vụ cho việc tính ngày tháng trong mọi công việc “…Lạng

Chượng mới tập hợp lấy con các cụ già, các ông Mo, ông Nghè đi tìm mường tận

Khâu Pụk, Khâu Ca, về đến tận Mường Min. Ông về bói nếu không trở về sẽ không

thành, nếu đi tiếp thì không tốt, mới bói tiếp một lần nữa. Ông mới lấy cây “ưởng”

về làm kiếm chém trâu, lấy mảnh cây về làm bàn, mảnh cây nhỏ về làm bát đựng

canh. Mới cúng đến Tạo Xuông, Tạo Ngần, được ăn các cụ mới phù hộ cho tốt.

Ngày lành tháng tốt, Lạng Chượng hành quân đến vùng Mường Lùng, vượt qua

Khâu Pạ, bước qua núi đá tai mèo đi êm, xuống núi Khâu Xam Xíp, đến Mường

Chiến, Tạo Chiến mới gả con gái cho Lạng Chượng làm vợ…” [16, tr. 25]. Nếu đọc

trong phần đầu của Quam tô mương ta thấy có rất nhiều đoạn khác nhau nói về việc

Lạng Chượng dùng lịch để chọn ngày lành tháng tốt, nhất là những ngày Lạng

Chượng đem quân đi mở mang bờ cõi ở các vùng Quảng Tâm, Quảng My và

Mường Muổi (Thuận Châu) đến vùng đất của Khun Ăm Poi. Như vậy, qua các

nguồn tư liệu cổ ta biết được, xưa kia tổ tiên của người Thái đã biết dùng lịch trong

đời sống hàng ngày.

Hiện nay, ở Sơn La người Thái ở các huyện Thuận Châu, Sông Mã, Mường

La, Mai Sơn và khu vực thành phố Sơn La đang dùng rất phổ biến lịch Thái trong

46

đời sống hàng ngày. Hầu hết mọi người đều biết dùng và vận dụng vào mọi khía

cạnh sinh hoạt. Ở mỗi vùng, mỗi bản đều có các ông mo hoặc po mự để lo việc xem

ngày tốt, xấu cho những ai có nhu cầu như các ngày cưới vợ, gả chồng, dựng nhà hoặc

lên nhà mới… Các ông mo thường có cuốn sổ ghi các ngày lành tháng tốt để làm căn

cứ cho việc tính toán và chọn ngày, chọn giờ, đồng thời họ cũng soạn ra những nội

dung lịch hàng năm để cung cấp cho nhân dân trong vùng. Các vùng khác trong tỉnh,

những người cao tuổi cũng biết lịch Thái, nhưng nó không được sử dụng rộng rãi

trong cộng đồng như các huyện nói trên.

Ngoài ra lịch Thái còn được dùng phổ biến ở các vùng Tuần Giáo, Điện Biên

của tỉnh Điện Biên, vùng Mường Khim, Mường Than của Lai Châu và Mường Lò

của Yên Bái. Lịch của họ giống hoàn toàn với lịch của người Thái ở Sơn La. Ở

cộng đồng người Thái trong khu vực Nam Á và Đông Nam Á như Thay Mao, Thay

Lự ở Trung Quốc, Thay Dong, Thay Nhay ở Mianma, Thay Khửn của Thái Lan

cũng đang sử dụng loại lịch này.

2.2.1. Yếu tố nhân sinh quan, tôn giáo, tín ngƣỡng và ngũ hành trong

việc hình thành nên lịch Thái

Tôn giáo và tín ngưỡng

Xưa nay, người Thái vẫn tin tưởng và thờ lực lượng siêu nhiên mà thuật ngữ

Thái gọi là PHI. Thuật ngữ chỉ một khái niệm về cõi tâm linh, thông thường người

ta chỉ hiểu theo nghía sơ giải theo cốt lõi của nó nên gọi là MA. Khái niệm tương

đương như thế đúng nhưng không trọn vẹn. Xuất phát từ cách giải thích của người

Thái về PHI, chúng tôi muốn phân khái niệm này thành bốn mục để hiểu rõ:

Quan niệm, nghi lễ, nghi thức xoay quanh cái gọi là hồn (linh hồn) –

KHUÔN (PHI KHUÔN)

Về cái gọi là MỘT (PHI MỘT) phân biệt MỘT và MO

BẢN và MƯỜNG trong lực lượng siêu nhiên

Các “Đấng sáng tạo” và cái gọi là MƯỜNG THEN.

Theo tín ngường này, ngoài cái gọi là hồn (linh hồn) với MỘT (PHI MỘT) là

những siêu nhiên cá thể của mỗi con người, còn tất cả những cái gọi là Phi thì đều

47

ngụ ở một thế giới riêng có tên gọi là MƯỜNG PHI (MƯỜNG MA). Nó đối lập với

thế giới của sự sống – MƯỜNG CÔN (MƯỜNG NGƯỜI). Để dễ hình dung, chúng

ta có thể vì cái Mường Ma như một bản âm hay mặt tối, còn Mường Người như bản

dương hay mặt sáng của sự sống con người và muôn vật trên trái đất. Hai mặt của

Mường đó lại liên hệ với nhau nhờ có một lực lượng siêu hình là hồn (linh hồn) của

mỗi một cá thể con người, mỗi vật và hiện tượng. Đặc biệt với người Thái lại có cái

Một (Phi Một) là một lực lượng siêu nhiên bảo vệ cho sự tồn tại của linh hồn trong

mỗi cá thể con người, vật và hiện tượng.

Theo cách giải thích đó thì Mường Ma được quan niệm như một thế giới

vĩnh hằng, bất biến. Ngược lại, Mường Người thì tồn tại trong sự biến động theo

từng thế hệ con người. Quan niệm như thế được thể hiện trong ba câu ghi trong

cuốn sách gọi là Lam Tang (dẫn linh hồn nhập Mường Ma)

“…Đời nối đời như rìu nối cây;

(chua tam pan sương khoan tam mạy)

Bập nhát sâu lại tới nhát cùng;

(Xút hó hị pay thơng hó tạu)

Hết đời già chuyển tới đời trẻ

(Xút chua thảu pảy thơng phủ nóm)”

Hồn (Linh hồn)

Cũng khó có thể giải thích được vì sao cho đến nay người Thái đạt tới trình

độ phát triển cao về xã hội nhưng vẫn bảo lưu ít, nhiều những quan điểm và cách

giải thích sự sống và cái chết theo tâm linh. Tuy cũng như mọi dân tộc khác, họ cho

rằng có sự sống là do có Linh hồn tồn tại bên thể xác nhưng quan niệm và cách giải

thích thì hoàn toàn mang màu sắc riêng. Thể xác là con người, còn Linh hồn là cái

bóng. Ma hoặc người nhập ma có thể làm hại chính cái bóng đó mà làm cho người

giật mình, ốm đau, chết chóc. Vậy muốn cứu tai qua nạn khỏi thì phải cứu chính cái

bóng ấy tiếp tục phù hộ cho thể xác. Do quan niệm như thế nên tiếng Thái mới có

thuật ngữ “Hồn bóng” (Khuôn ngau).

48

Mỗi cá thể co người có 30 hồn ở phía trước và 50 hồn ở phía sau. Đó là các

hồn của từng bộ phận cơ thể, trong đó có hồn chủ là hồn bao trùm gọi là chính hồn

thì ngụ ở chỏm tóc ngay đỉnh đầu. Bởi thế, tiếng Thái mới gọi chỏm xoáy của tóc

trên đầu là “đỉnh hồn” (chom khuôn). Quan niệm như vậy đã nói lên một ý nghĩa là

cơ thể con người là một thực thể vừa phân tán lại vừa tập trung, trong đó có cái

riêng là bộ phận và cái chung là tổng thể được quy về một đỉnh chóp – nhiều ít suy

cho cùng chỉ có một. Từ cách giải thích theo nghĩa tâm linh ấy nên người Thái mới

có tục kiêng hoặc giữ phần đầu; không xoa đầu người lớn mà động tác này chỉ có

thể được thực hiện ở trẻ nhỏ; không dùng vật, nhất là đũa và đòn gánh nước đập

đầu, kể cả trường hợp cha mẹ bực tức phải đánh con cái…Tất cả những động tác ấy

phải kiêng kị nên thành ngữ nói “bên trái đầu thái hồn”. Không kể vô tình hay hữu

ý, kẻ phạm vào điều kiêng kị thì phải chịu mức phí tổn trong nghi thức gọi là “chữa

hồn” (peng khuôn). Trong nghi thức đó, nhẹ - bên nguyên phải mổ gà đặt mâm,

rượu mời người biết đến đọc xướng (tam), nặng – mổ lợn đặt mâm rượu cho bà

hoặc ông Một đến xướng khấn theo bài bản để linh hồn của người bị xúc phạm trở

lại yên ngôi…Người Thái cho rằng, khi ta ngủ, hồn không ngủ mà thường hay đi

chơi trong “thế giới huyền hoặc”. Khi ấy nếu hồn có gặp điều gì đó thì sẽ ngay lập

tức báo mộng. Ở người Thái thì hình thành thói quen phân những giấc mơ ấy

thành loại tốt – xấu, lành – dữ, bình thường – bất bình thường… Chẳng hạn, cách

họ giải thích trong mức đơn giản, dễ hiểu là nằm mơ thấy vui như cưới, hát, tiệc

tùng, dựng nhà mới…là hồn báo điềm gở rất dễ xảy ra những chuyện không hay

về sức khỏe và đường đời. Ngược lại, nằm mơ thấy buồn như khóc, đói rách, chết

chóc lại là điềm báo may mắn, tốt lành. Hai là sự cảm nhận qua những cơn giật

mình. Nói chung, hễ giật mình thì có nghĩa là hồn bật khỏi thể xác rồi lại chập

vào. Nếu trường hợp giật mình vì cú sốc quá mạnh thì gặp trường hợp “ma hồn

tan” (phi khuôn phụng), tương đương với khái niệm của người Kinh gọi là “hồn

xiêu phách lạc”. Ba là cảm nhận qua thủ thuật bói khi ốm đau, điềm báo là hồn

không thể ở bên xác mà bị ma bắt giữ hoặc tự ý đi chơi vơ vẩn trong “cõi xa hoa,

49

cám giỗ” lạc đường về…Bốn là, cảm nhận qua thói quen nghĩ rằng vì đi đường xa

hoặc về nơi rừng sâu núi thẳm vắng bóng người nên hồn bị lạc, e rằng hồn chưa

hoặc không biết đường trở lại với mình.

Niềm tin vào hồn (linh hồn) như thế đã dẫn đến sự ra đời của nghi thức và

nghi lễ. Nói đến tín ngưỡng và tôn giáo Thái hầu như mọi hình thức tâm linh ít

nhiều đều liên quan đến hồn. Trong đó, nếu chỉ nói riêng về nó thì có thế đúc kết

thành ba nghi thức, nghi lễ. Một là, các loại nghi thức và nghi lễ mang tên “sửa

hồn” (peng khuôn). Hai là nghi thức gọi là “gọi hồn lạc” (hiệk khuôn lông). Ba là,

nghi lễ lớn nhất trên đời người gọi là cúng hồn (xên khuôn) [37, tr. 398].

Quan niệm về Ngũ hành của người Thái Đen

Thiên văn thời cổ thường gắn liền với thần thánh. Tuy nhiên người Trung

Hoa đã khái quát cao hơn, khi gắn thiên văn với những tư tưởng mang tính triết học,

mà Ngũ hành là một minh chứng.

Tư tưởng cấu tạo vật chất của thế giới từ 5 yếu tố không phải là chỉ của

riêng người Trung Hoa. Thần thoại Hy Lạp kể rằng thế giới được sinh ra từ Vực

thẳm Khaox (Chaos - Hỗn mang) thể hiện thành 5 nguyên lý: Đất Gaia, Tối tăm

Vĩnh cửu Erèbe, Đêm tối Nix, Địa ngục Tartar, và Tình yêu Erox. Triết gia

Aristốt – bộ óc bách khoa toàn thư của triết học cổ Hi Lạp cho rằng 5 nguyên tố

cơ bản của vũ trụ là Nước, Lửa, Đất, Không khí và Ánh sáng [44, tr. 206]. Lúc

đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể, với các tính chất không khí, ánh sáng... Nhưng có

lẽ không có 5 yếu tố nào lại có tính triết lý cao như Ngũ hành: Kim - Mộc - Thủy

- Hỏa - Thổ của Trung Hoa. Bộ 5 này được hình thành có lẽ từ 5 ngón tay của

con người, cũng tựa như cơ số 10 trong hệ đếm.

Thuyết này xuất hiện từ đời nhà Tần (200 TCN), được củng cố phát triển

trong thời Tây Hán. Lúc đầu 5 yếu tố là cấu tạo cụ thể với tính chất cụ thể:

Kim: kim loại, cứng rắn, lạnh, cương mãnh, bền chắc.

Mộc: gỗ, cây, sống, tăng trưởng, dẻo dai, chịu đựng.

Thủy: nước, mềm mại, nhu thuận, sâu hiểm.

50

Hỏa: lửa, nóng, sáng, linh hoạt, sáng tạo.

Thổ: đất, đầy đặn, chịu đựng, nguồn của sinh sôi.

Nhưng rồi chúng được triết lí hóa trở thành Ngũ hành – 5 nguyên lí cơ bản

của vật chất, gắn kết mọi trạng thái triết lí từ vật chất đến tinh thần.

Hành Kim: màu Trắng phương Tây mùa thu Mũi Phế (phổi)

Hành Mộc: màu Xanh phương Đông mùa xuân Mắt Can (gan)

Hành Thủy: màu Đen phương Bắc mùa đông Tai Thận

Hành Hỏa: màu Đỏ phương Nam mùa hạ Lưỡi Tâm (tim)

Hành Thổ: màu Vàng phương Trung ương (không) Miệng Tỳ

Từ hai hệ đếm Can chi và Ngũ hành người ta phát triển thành hai quy luật

tương tác biến dịch quan trọng là tương sinh, tương khắc trở thành nền tư duy cho

nhiều học thuyết khác nhau. Sinh và khắc trong Ngũ hành tuy không là căn cứ để

tính thời gian nhưng là hệ quả của can, chi có trong năm, tháng, giờ. Can, chi được

dụng một cách phổ biến trong các lịch Âm dương. Can, chi có tính âm dương và

được ngũ hành hóa, từ đó có những đặc điểm tương sinh, tương khắc, tương hòa.

Tương Sinh: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy,

Thủy sinh Mộc.

Tương Khắc: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc

Kim, Kim khắc Mộc.

Và người Trung Hoa dùng Ngũ hành để đặt tên cho các hành tinh mà họ

quan sát được, theo thứ tự từ mặt trời ra ngoài là Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh,

Mộc tinh, Thổ tinh.

Với người Thái, thuyết Ngũ hành được họ tiếp nhận và phát triển từ xa xưa.

Người Thái gọi hành là "nen". Có 5 nen là: Nen Căm ( ), Nen Nặm ( ),

Nen Mạy ( ), Nen Phay ( ), Nen Đin ( ). Tương đương: Kim,

Thuỷ, Mộc, Hoả, Thổ [16, tr. 26].

Giống như tử vi của người Việt, người Thái cũng quan niệm rằng những

người nào mà sinh vào các nen hợp nhau, nếu lấy nhau thì sẽ hạnh phúc, gia đình

51

phát triển, thịnh vượng. Ngược lại, nếu kị nhau thì sẽ không hạnh phúc, hay cãi

nhau, không phát triển được.

Họ gán hành cho các năm như: Cáp, Hặp là Mạy; Hai, Mâng là Phay; Pấc,

Cắt là Đin; Khốt, Huộng là Căm; Tấu, Cá là Nặm.

Họ cũng gán hành cho các mùa: Mùa xuân thì Mạy (Mộc) mạnh; Mùa hè thì

Phay (Hỏa) mạnh; Mùa thu thì Căm (Kim) mạnh; Mùa đông thì Nặm (Thủy) mạnh.

Như vậy nhân sinh quan và quan điểm về thuyết ngũ hành của người Thái là

một trong những yếu tố quan trọng làm nên lịch Thái. Việc tiến hành nhiều nghi

thức, tế lễ trời đất và nghi lễ vòng đời trong 1 năm khiến cộng đồng người Thái cần

lịch để chọn ngày trong đời sống hơn bao giờ hết. Bên cạnh đó, sự phát triển cao về

văn hóa và có chữ viết riêng của tộc người mình nên người Thái Sơn La có bản lịch

riêng của mình cũng là điều dễ hiểu.

2.2.2. Cách tính lịch cổ xƣa của ngƣời Thái

So với lịch và cách tính lịch của người Việt thì lịch của người Thái chênh

nhau hơn 6 tháng, nếu muốn biết tháng của lịch Thái tính như thế nào chỉ cần lấy

tháng Âm – Dương lịch cộng hoặc trừ đi 6 (Nếu tháng Âm dương ≤ 6 thì cộng với

6, tháng Âm – Dương > 6 thì trừ 6). Tuy nhiên, cơ sở của việc làm lịch như thế nào

thì hiện nay vẫn chưa có nhiều sổ sách nói đến, trong khuôn khổ của luận văn người

viết chỉ nêu lên một số cơ sở và cách tính lịch của người Thái ở Sơn La. Cũng giống

như Âm – Dương lịch, lịch của người Thái hiện nay có dùng hệ đếm Can, Chi để

tính lịch, nhưng trong sổ sách cũ cũng như những người cao tuổi cho biết đều sử

dụng hệ đếm mà không biết tên gọi của nó là gì. Nó có nhiều tên gọi khác nhau và

chưa thống nhất, có người gọi "mự me mự lụk", có người gọi "mự phạ mự đin",

người thì cho rằng chỉ có "mự" (10 ngày) và "chơ" (12 giờ), kết hợp mự với chơ

theo từng cặp thì được hệ đếm 60 đơn vị…

52

Còn ở Thái Lan thì họ lại sử dụng từ Sok (ศก) và Pi ( ), nhưng ở một số

tài liệu thì có sử dụng cả từ Can (คาน) và Chi ( ) để chỉ hệ đếm của họ1. Chúng

tôi sẽ đề cập đến những cơ sở cho việc tính lịch của người Thái đen sau đây.

Tuy nhiên, trước khi có những cách tính lịch theo chu kì trăng, theo Can Chi

và Ngũ hành thì người Thái cũng có cách tính lịch đơn giản và cổ xưa nhất. Chúng

tôi gọi đó là cách tính lịch cổ điển hay là cách tính lịch hậu vật (tức là dựa vào sự

thay đổi của tự nhiên như: hoa lá, cỏ cây để định ra thời gian và lịch làm ăn gieo

trồng) mà người Kinh (Việt), tộc người thân thuộc với người Mường, còn những

mảng của lịch hậu vật như:

Bao giờ đom đóm bay ra

Hoa gạo rụng xuống ta tra hạt vừng [21, tr. 97].

Với người Mường họ theo dõi khi nào cây khế nở hoa vào tháng 7 lịch

Mường Bi (khoảng tháng 4 âm lịch) thì họ gieo mạ. Đến khoảng tháng 9 Mường Bi

khi cây von trổ hoa để báo hiệu mùa vụ đến và mùa vụ hết.

Người Thái ở Tây Bắc cũng có cách tính lịch cổ điển như vậy, sống giữa núi

rừng Tây Bắc thì cây rừng, con suối quá trở nên thân thuộc với họ, chu kì sinh

trưởng hàng năm của thực vật cũng là cái để họ tính được lịch.

Người Thái là cư dân trồng lúa nước rất giỏi. Chẳng thế mà họ lại có bốn

cánh đồng nổi tiếng là bốn vựa lúa của miền Tây Bắc. Họ rất coi trọng lịch để làm

nông vụ, khi chưa có lịch chính thức họ tự tính được lịch nhờ thiên nhiên. Phần này

tôi sẽ giải thích ở phần Nông lịch.

Tính tháng bằng hiện tượng thiên nhiên như:

Tháng giêng: Đào, mai chín rụng rời

Chuối thời đương độ đâm hoa

Hay:

Tháng năm, sáu: mận, mơ, đào, mai nở

1 Theo ông Cà Văn Chung, Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Sơn La. Tư liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

Gái trai vui nhộn khuông làng.

53

Hoa ban, một loại hoa gắn bó với con người Tây Bắc, cũng là biểu tượng của

Tây Bắc không chỉ là loài hoa đẹp, là một món ăn ngon mà còn là một cách tính lịch

và áp dụng vào sản xuất.

Hạt ban rụng đốt nương

Hạt ban rơi nảy mầm thì gieo.

*

Cà kộ kêu bụng lép

Ỷ điêng kêu khàn tiếng, bụng no.

Đó là cách tính lịch cổ điển nhất của người Thái, họ dựa vào các hiện tượng

tự nhiên để đoán định thời gian, thời tiết và đó cũng là nền tảng quan trọng để hình

thành nên lịch Thái.

2.2.3. Lịch theo Mặt trăng

Đối với cư dân cổ xưa kia kể cả ở người Việt và những tộc người thiểu số thì

trăng có vai trò vô cùng quan trọng đối với họ cả trong sản xuất cũng như sinh hoạt

hàng ngày. Trông trăng để họ biết được thời tiết sẽ như thế nào: “Trăng quầng thì hạn,

trăng tán thì mưa” để canh tác nông nghiệp. Ánh trăng có vai trò quan trọng trong sinh

hoạt hàng ngày, nhất là khi con người chưa tạo ra điện sinh hoạt, vào những đêm sáng

trăng cư dân nông nghiệp còn ra đồng tát nước, gặt lúa, đi cấy mà dân ca Thanh Hóa đã

có bài Đi cấy để nói lên ý nghĩa đó:

Lên chùa bẻ một cành sen

Ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng…

Trăng có ý nghĩa quan trọng nên người Á Đông đã lấy chu kì của trăng trong

một tháng để làm nên lịch của mình. Tương tự như vậy, người Thái cũng dùng

Trăng để tính lịch của mình. Lịch Thái là một loại lịch căn cứ vào sự thay đổi của

mặt trăng, mỗi chu kì thay đổi của Mặt trăng là 1 tháng. Giống như trong chữ Hán

từ Nguyệt để chỉ trăng nhưng cũng có nghĩa là tháng thì trong tiếng Thái Mặt trăng

gọi là “bươn” cũng có nghĩa là tháng, nếu nói một tháng có nghĩa là một trăng.

Trong tiếng Lào và Thái Lan thì họ gọi tháng là “đươn” cũng có nghĩa là mặt trăng.

Người Thái Sơn La từ xa xưa cũng cho rằng một năm có 12 tháng: bươn Chiêng,

54

bươn Nhi, bươn Xam, bươn Xí, bươn Hả, bươn Hốc, bươn Chết, bươn Pét, bươn

Cẩu, bươn Xíp, bươn Xíp ết, bươn Xíp xong. Ở Thái Lan gọi tên các tháng là:

มกราคม (mokkarakom), ก ม า น (kumkhaphan), ม นาคม (minakhom), เมษายน

(mesajon), ฤษ าคม (pruetsakhakhom), ม นายน (mithunajon), กรกฎาคม

(karakadakhom), ส หาคม (singhakhom), ก นยายน (kanyayon), ลาคม (tulakhom),

ฤศ กายน (pruetsachikayon), น าคม (thanwakhom)2. Ở Lào gọi các tháng là:

(đươn măngkon), (đươn kumpa), (đươn mina),

(đươn mêxa), (đươn pưcsapa), (đươn mithuna),

(đươn colakot), (đươn singha), (đươn cănnha),

(đươn tula), (đươn pachic), (đươn thănva)3.

Tuy rằng, người Thái xưa không tính được một chu kì Mặt trăng quay xung

quanh Trái đất dài bao nhiêu ngày và có bốn pha: Sóc, Thượng huyền, Vọng và Hạ

huyền nhưng trong lịch của họ cũng có tháng thiếu, tháng đủ. Tháng thiếu (đắp

xiểu) có 29 ngày và tháng đủ (đắp no cũng có 30 ngày. Người Thái ở Sơn La thì

dùng hệ đếm thập phân để đếm ngày trong tháng từ 1 đến 29 hoặc 30, Tên gọi các

ngày là: Căm nưng, Xong căm, Xam căm….. đến Xao cẩu hoặc Xam xíp căm. Ngày

đầu tháng là ngày bắt đầu có Trăng, cuối tháng là ngày không Trăng (gọi là bươn

đắp). Theo tôi thì cách đếm 30 ngày này đã có từ xa xưa, vì người Thái có ca dao về

Trăng tròn, Trăng khuyết như trong những câu ca dao về Lé hai – Xem trăng của

người Thái có nói:

“Kăm nưng bươn nhắng lắc

Song kăm bươn pên phắc mák kham

Sam kăm bươn nhắng hiếng

Sí kăm Xả tuôn

3 Theo tài liệu của ông Cà Văn Chung, Sở Khoa học và công nghệ tỉnh Sơn La. Tư liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

Hả kăm Táy kháo kăn đé

55

Hốc kăm lếch tó nhé nả khuống

Chết khăm bươn táo nang

Pét kăm bươn hế nhạu

Kảu kăm bươn chót

Síp kăm hên bươn tẳng kang phạ

Síp ết, síp song bươn khảu mạk ha mốn

Síp sam, síp sí bươn sốn phả sia đăm

Síp hả bươn mốn chộc

Síp hốc bươn mốn chẹn

Síp chết kin mết pết to – bươn ók

Síp pét tẹt non –bươn khửn

Síp kảu thảu kỉn lảu mết hay – bươn ók

Sáo sa sáo nhá khuống, bươn ók

Síp hả kăm bươn tốc

Síp hốc kăm bươn háng

Sam síp kăm bươn khảu hém.

Tạm dịch:

Mồng một trăng ở xa hay Mồng một trăng ấp

Mồng hai trăng hình quả me

Mồng ba trăng còn nghiêng

Mồng bốn Xá reo cười đón trăng

Mồng năm Thái gọi nhau xem trăng tháng mới

Mồng sáu trẻ nô đùa dưới sân

Mồng bảy trăng sửa mình soi hướng

Mồng tám vành trăng khuyết

Mồng chín vành trăng tròn

Mồng mười thấy trăng đứng ở đỉnh đầu

Mười một, mười hai trăng vào khuôn sắp tròn

Mười ba, mười bốn xua hết bóng đen trăng tỏ

56

Mười lăm, trăng tròn miệng cối

Mười sáu, trăng tròn vành vạnh

Mười bảy, ăn hết vịt trăng lên

Mười tám, giấc ngủ nồng, trăng mọc

Mười chín, già uống hết chum rượu, trăng lên

Hai mươi, gái dệt vải tan khống, trăng mọc

Mười lăm trăng lặn

Mười sáu trăng treo

Ba mươi trăng chuyển sang vào đầu tháng mới [26, tr. 220 – 221]

Như vậy, dù không tính được ra Mặt trăng với những pha theo đúng chu kì

thiên văn nhưng bằng cái nhìn tinh tế và sự quan sát tỉ mỉ người Thái đã chỉ ra được

một chu kì của Mặt trăng trong một tháng khá chính xác. Cũng giống như người

Việt có cách nhìn về sự thay đổi của trăng trong một tháng như: “Mồng một lưỡi

trai, mồng hai lá lúa…”. Đối với người Thái, những thay đổi của Mặt trăng trong

vòng một tháng được họ so sánh với những hình ảnh hết sức quen thuộc: nhận thức

được sự xuất hiện của trăng đầu tháng là bắt đầu một tháng mới thì “…người Xá reo

cười đón trăng…người Thái gọi nhau xem trăng tháng mới”. Rồi tuần tự trăng dần

dần hiện lên, đến ngày mười ba, mười bốn thì “…xua hết bóng đen, trăng tỏ, trăng

tròn miệng cối, trăng tròn vành vạnh…”, đúng là như vậy vì ngày mười ba và mười

bốn trăng đã hơi tròn tròn, không còn khuyết nữa, đến ngày mười lăm thì tròn hẳn

nhưng phải đợi đến mười sáu trăng mới sáng nhất. Rồi những ngày sau đó, trăng lên

muộn hơn có khi họ đã đi ngủ rồi trăng mới lên và đến ngày ba mươi thì đã hết

tháng và chuyển sang tháng mới.

Hiện nay tháng của lịch Thái đang chênh lệch so với tháng Âm- Dương lịch

Việt Nam 6 tháng. Trong các tác phẩm cổ và ca dao của người Thái đã dùng tháng

để chỉ khí hậu thời tiết, chẳng hạn: Bươn Chiêng phôn líu li, Bươn Nhi ti phôn ti

báu, Bươn Xam nặm dam ta, Bươn Xí năm hí con, Bươn Hả phôn xắng láu, Bươn

Hốc pha lăng lẹng cứm nao, Bươn Chết lôm chệt lôm chu, Bươn Pét đét lẹng hương

lôm on, Bươn Cẩu phạ xảu hương mốn mua, Bươn Xíp bok píp hưa náư đông, Bươn

57

Xíp ết nặm nong, Bươn Xíp xong năm mả. (Có thể tạm dịch như sau: Tháng Giêng

mưa rả rích, tháng Hai nơi mưa nơi không, Tháng Ba nước đầy bến, Tháng Tư nước rỉ phai, Tháng Năm mưa giã từ bông lau4, Tháng Sáu sấm suông lạnh cóng,

Tháng bảy gió cuộn gió lùa, Tháng Tám giá hanh khô, Tháng Chín trời sầu gió lạnh, Tháng Mười hoa "píp5" rộ rừng ngàn, Tháng Mười một mưa lũ, tháng Mười

hai nước tràn [4, tr. 63 – 64].

Hoặc:

Giêng, Hai, Ba tháng cỏ;

Bốn, năm, sáu tháng rét.

Bảy, tám, chín tháng lửa

Mười, mười một, mười hai tháng nước.

Qua nghiên cứu các câu ca dao trên, các hiện tượng về thời tiết tương đối sát

với thực tế và sát với lịch Âm – Dương. Điều này chứng tỏ người Thái đã dùng lịch

như người Việt hiện nay (tức là Âm lịch có tháng nhuận) từ rất xa xưa. Nếu dùng Âm

lịch thuần thuý thì lịch không thể phản ánh được thời tiết.

Điều này được chứng minh trong nghiên cứu của Cầm Trọng, ở phần Khí

hậu và thổ nhưỡng của Tây Bắc, ông đã đưa ra từng kiểu khí hậu cho từng mùa

khác nhau.

“Mùa nóng, mùa mưa ở Tây Bắc bắt đầu từ tháng 5, 6 đến tháng 10 dương

lịch và là tháng 10 đến tháng ba trong lịch Thái với đặc điểm nổi bật là thời tiết oi

bức, mưa to, kéo dài, độ ẩm cao…” [5, tr. 84 – 85]. Thì trong lịch và thời tiết mà

người Thái nghiệm thấy được đúng như vậy: với hoa píp nở rộ báo hiệu một mùa hè

vào tháng 10 và mưa lũ, mưa nước tràn vào tháng 11, 12, đó là đỉnh cao của mùa

mưa và gây ngập lụt nên nước mới đầy bến và tràn phai…

Bước sang những tháng 8, 9 lịch Âm – Dương tức tháng 1, 2, 3 lịch Thái tuy

lượng mưa đã giảm dần nhưng vẫn có những đợt mưa ngâu. Vì thế người Thái bảo

mùa đó là mưa rả rích, nơi mưa nơi không. 4 Có bản chép là: “Sấm khan nhắn bông lau”. 5 Hoa Píp: hoa màu vàng ăn được, nở vào đầu mùa hè.

58

Tháng 9, 10, 11 cho đến tháng 3 Âm – Dương lịch là mùa đông rét mướt của

người Việt là vào khoảng 4, 5, 6, 7, 8 lịch Thái, đối với người Thái đó là những

tháng mà mưa đã bắt đầu ít đi, rồi mưa giã từ bông lau để vào mùa đông. Mùa đông

đến với những sấm suông lạnh cóng đầu mùa, những đợt gió mùa đông bắc tràn về

làm cho khí trời hanh khô và mùa đông ảm đạm với tháng chín trời sầu gió lạnh…

Có thể nói rằng với những hình ảnh so sánh đầy gần gũi và thân thiết với đời sống

hàng ngày, người Thái đã miêu tả được khí hậu, thời tiết rất giống như người Việt. Điều

đó chứng tỏ rằng chỉ nhờ quan sát các hiện tượng mưa, gió và các sự vật xung quanh

người Thái đã tạo nên một cơ sở thực tế quan trọng trong lịch của riêng mình.

Như vậy, Mặt trăng và chu kì của Mặt trăng quay quanh trái đất không những

là cơ sở quan trọng trong việc hình thành nên lịch của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam

mà còn được họ vận dụng trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày.

2.2.4. Lịch theo hệ đếm Can, Chi

a. Sơ lược giới thiều về hệ đếm Can, Chi

Nói đến hệ đếm Can, Chi chúng ta không thể phủ nhận được rằng nó có

nguồn gốc từ Trung Hoa, đó là một trong những phát minh vĩ đại của người Trung

Hoa cổ đại. Can, Chi chủ yếu dùng trong lịch pháp nhưng nó cũng có cơ sở từ quan

sát thiên văn. Có lẽ do nằm ở vĩ độ cao ngày Hạ chí mặt trời không thẳng đứng trên

đỉnh đầu, cùng với việc canh tác nông nghiệp ít liên quan đến mặt trời hơn, nên

Lịch pháp Trung hoa dựa vào Mặt trăng là chính. Việc dùng Can, Chi tính ngày

tháng đã xuất hiện vào cuối đời Thương (thế kỉ XII trước CN), việc gán tên con vật

vào thì phải đến đầu công nguyên mới thực hiện.

Hệ Can (cán – thân cây) là cốt cán của trời đất nên gọi là Thiên Can gồm:

Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Bản thân các từ của Can và Chi đều là quá trình sinh trưởng và phát triển của

Cây cối:

 Giáp là giai đoạn nảy mầm

 Ất là cây mới mọc

 Bính là giai đoạn cây đã vươn lên

59

 Đinh là giai đoạn trưởng thành khỏe mạnh

 Mậu là giai đoạn cây phát triển mạnh

 Kỉ là giai đoạn cây vươn thẳng lên cao

 Canh là giai đoạn cây có thay đổi

 Tân là giai đoạn cây ra hoa, kết quả

 Nhâm là giai đoạn cây có quả, có hạt chứa đựng mầm sống cho thế hệ sau

 Quý là giai đoạn hạt chờ dịp để nảy mầm phát triển thành cây mới.

Can cũng có Âm dương, Ngũ hành theo mùa. Trong đó: Giáp + Ất là là hành

Mộc, Bính + Đinh là Hỏa, Mậu + Kỷ là Thổ, Canh + Tân là Kim, Nhâm + Quý là

Thủy, cứ 1 âm 1 dương đổi nhau.

Hệ Chi (cành cây) liên quan tới đất nên gọi là Địa Chi bao gồm: Tí, Sửu,

Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Lúc đầu hệ chi được gắn với

12 giai đoạn phát sinh và phát triển của thực vật.

- Tý là hạt giống hút nước và các chất trong đất nảy mầm, khởi đầu cho

một sự sống.

- Sửu là cây vừa nảy mầm trong đất, đang cong queo, chuẩn bị đội đất

vươn lên

- Dần là sự phát triển, cây đón sức ấm của mặt trời mà vươn lên

- Mão là rậm, cây tăng trưởng tốt

- Thìn là chấn động, dương khí sinh ra đã quá nhiều, cây phát triển tốt

- Tị là dậy, âm khí tiêu biến nhiều, cây phát triển thịnh vượng.

- Ngọ là dương khí tràn đầy, âm khí bắt đầu nảy nở, cây đã trưởng thành

- Mùi: có qủa chín có vị ngọt. Một số nước gọi mùi là vị

- Thân, cây đã phát triển trưởng thành

- Dậu là co lại

- Tuất là sự diệt, cây cỏ úa đi

- Hợi: chết đi. Âm khí phát triển làm chết dương khí của cây.

Như vậy, nguyên thủy các Chi không phải là các con vật như mọi người vẫn

nghĩ. Đến khoảng đầu Công nguyên, người Trung Hoa gán các chi với các con vật.

60

Nguồn gốc của việc gán con vật không hoàn toàn rõ ràng. Có thuyết cho rằng nó gắn

với truyền thuyết Phật giáo, thứ tự của 12 con vật là những loài đã đến từ biệt khi

Phật Thích ca nhập Niết Bàn, và mới gọi là các con giáp, lần lượt là:

Tí: Thử: Chuột

Sửu: Ngưu: Trâu

Dần: Hổ: Cọp

Mão: Thố: Thỏ*

Thìn: Long: Rồng

Tỵ: Xà: Rắn

Ngọ: Mã: Ngựa

Mùi: Dương Dê

Thân: Hầu Khỉ

Dậu: Kê Gà

Tuất: Khuyển Chó

Hợi: Trư Lợn

*Riêng chi Mão thì ở Việt Nam là mèo chứ không phải thỏ

Về sau, hệ Chi được dùng để chỉ giờ, phân chia thời gian trong ngày, nên

12 chi được gắn với tên 12 con vật gần gũi với con người. Chi Ngọ đứng ở vị trí

giữa, trong lịch pháp ứng với thời điểm giữa trưa. Ngọ môn mang hàm nghĩa là

Sung mãn, trọn vẹn. Cơ sở của cách đặt tên này có thể do quan sát lâu ngày, người

ta thấy mỗi loài động vật trong những giờ nhất định đã chịu ảnh hưởng của điều

kiện môi trường mà có những biểu hiện trạng thái khác nhau [3, tr. 22 – 23 – 24].

Có nhận xét cũng thú vị dựa vào số móng của các con vật, cứ một chẵn đi

kèm với một lẻ. Khi đó Can gọi là Hoa, Chi gọi là Giáp, nên Can Chi còn gọi là

Hoa Giáp. 12 Chi có ý nghĩa rất quan trọng trong tính Lịch pháp (thực chất là Âm-

dương lịch) và thời tiết. Trong 1 năm chia ra 12 tháng, có 24 ngày tiết khí, cứ 1

tháng 2 ngày.

61

Cùng với Ngũ hành, Can Chi hay Hoa Giáp đã tạo thành một tư tưởng khép

kín về chu kỳ vận động của Vũ trụ, với chu kỳ 60. Các thước đo thời gian đều được

gắn với Can Chi. Một ngày chia làm 12 giờ, một năm 12 tháng; 12 năm là một chu

kỳ ngắn, 60 năm là một vòng “Lục thập Hoa giáp”, 3600 năm là một chu kỳ lớn của

Vũ trụ. Khi viết năm, họ chỉ dùng Can Chi, nên phải thêm triều đại cai trị tương ứng

mới đủ. Không chỉ thế, phương vị trên bầu trời cũng được chia ra 12 cung, khi xác

định vị trí ngôi sao thì nói nó nằm trong cung nào.

b. Hệ đếm Can,Chi của người Thái Đen

Trong lịch Thái cũng có hệ đếm Can, Chi giống như của lịch Âm - Dương Á

Đông, mặc dù có một chút thay đổi nhưng cơ sở của nó vẫn là Can, Chi trong Âm -

Dương lịch. Theo cách đếm cổ truyền thì họ không dùng Can, Chi. Dần dần trong

quá trình tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa và văn hóa của người Việt họ đã bổ sung

thêm hệ đếm Can, Chi vào cách tính lịch của mình.

Thiên Can: Người Thái cũng sử dụng 10 Can tương đương với 10 Can trong

hệ đếm Can, Chi của Á Đông. Đó là:

(Cáp), (Hặp), (Hai), (Mâng), (Pấc), (Cắt),

(Khốt), (Tấu), (Cá). Tương đương với: Giáp, Ất, Bính, (Huộng),

Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Địa Chi: Người Thái cũng sử dụng 12 Chi tương đương với 12 Chi trong hệ

đếm Can Chi của Á Đông. Đó là:

(Mẩu), (Chảư), (Pẩu), (Nhi), (Xi), (Xảư),

(Xngạ), (Xăn), (Hậu), (Cạư). Tương đương (Một), (Mệt),

với: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi [17, tr. 26].

Người Thái cũng sử dụng 12 con vật tượng trưng cho 12 Chi của hệ đếm.

Đó là: Chuột, Trâu, Hổ, Ong, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn.

Hầu hết các con vật đều giống với lịch Á Đông (trừ Ong thay cho Mèo của

Âm dương lịch Việt Nam và thỏ trong Can Chi của Trung Quốc và một số nước

khác. Riêng về tên các con vật trong hệ Can, Chi khi nghiên cứu lịch và nông lịch

62

của một số tộc người khác ở Việt Nam, chúng tôi thấy không chỉ có người Thái mà

người Lô Lô cũng có tháng con Ong thay cho tháng con Mèo và con Thỏ [5, tr. 42].

Tuy nhiên, trong hệ đếm Can Chi hiện đại của người Thái hiện nay thì họ đã dùng

chi Mão (con mèo) mà không dùng con Ong nữa, chỉ những người già mới tính

tháng con Ong. Qua điều tra thực địa, chúng tôi biết đó là do người Thái sửa đổi

cho giống lịch của người Việt nên bây giờ hệ đếm Can Chi không khác nhau nữa.

Ở 5 nhóm Thái (Dong, Mao, Lự, Nháy, Khửn) cũng đang sử dụng hệ đếm

này với tên gọi gần giống với Thái Sơn La, chỉ khác do phát âm theo tiếng địa

phương (chẳng hạn: Chảư thành Chảy, Huộng thành Luộng, Hộng, Ụng, Hai thành

Rai, Lai, Ai…). Riêng người Thay (ไทย - dân tộc đa số của Thái Lan) thì có cách gọi

tên hoàn toàn khác, tên gọi 10 Can là: Chasok, Saptasok, Attasok, Nofasok,

Samrittisok, Eksok, Thosok, Trisok, Cattawasok, Bencasok. 12 Chi là: Chuất, Chulu,

Khan, Tho, Marong, Maxeng, Mamia, Mame, Vok, Raca, Cho, Kun (Xem phụ lục 1

và 2).

Đặc biệt, ở người Thái đen Việt Nam có ký hiệu riêng cho 12 chi. Qua

kết quả điều tra chưa đầy đủ, các ký hiệu này chúng tôi chưa thấy có ở người Thái

nước ngoài cũng như các nước Á Đông có sử dụng lịch theo hệ đếm Can Chi. Đồng

thời cũng chưa thấy giống bất cứ ký tự của dân tộc nào khác. Ký hiệu như sau:

1. (Chảư); 2. Pẩu); 3. (Nhi); 4. (Mẩu); 5. (Xi);

6. (Xảư); 7. (Xngạ); 8. (Một); 9. (Xăn); 10. (Hậu);

11. (Mệt); 12. (Cạư)

Ứng dụng Can, Chi trong lịch Thái:

Thông thường nhất, người Thái dùng Chi để chỉ giờ, dùng Can để chỉ ngày,

dùng hệ đếm thập phân để chỉ tháng và hệ Can Chi để chỉ năm. Mỗi người, mỗi nhà

đều nắm chắc để tiến hành mọi công việc trong sản xuất và đời sống hàng ngày. Mự

vên tông là ngày cúng tổ tiên, ông bà, bố mẹ đã mất (gọi là phi hươn), mỗi dòng họ

63

sẽ có một ngày vên tông tính theo Can, cứ 10 ngày sẽ cúng một lần (gọi là pạt

tông)… Mự pót là ngày hợp, không kiêng kỵ, tính theo Can, ngày đó là phải tránh

các ngày sinh của mình (vên ok), ngày mất cha mẹ (mự cẩu côn), ngày thiêu cha mẹ

(mự xeng pháy phạ) v.v…

Tuy vậy, người Thái vẫn dùng hệ đếm Can Chi để chỉ cả giờ, ngày, tháng,

năm như một số nước Á Đông. Nhưng những người bình thường không tự tính toán

được mà chỉ có các ông mo hoặc po mự căn cứ vào sổ sách mới tính toán được. Khi

cần mọi người dân phải đến các ông này để xin (gọi là ha mự). Mỗi bản hoặc mỗi

vùng đều có những người có sổ sách và biết tính toán, đây là do nhu cầu tự nhiên.

Sổ sách của các ông này thường là một bộ gồm một số cuốn sách cổ, được gọi là Sổ

Chong bang và một số quyển khác như Đu mự, Po mự…nhưng quan trọng nhất vẫn

là sổ Chong bang.

2.3. Kết cấu của lịch Thái

Cũng như các loại lịch khác ở trên thế giới và Việt Nam, lịch của người Thái

cũng có kết cấu tương tự, nó cũng có các đơn vị lịch là: giờ, ngày, tháng, năm.

2.3.1. Giờ (Chơ)

Giờ trong lịch Thái cũng tính giống như trong giờ cổ truyền trong Âm dương

lịch của Á Đông, giờ cổ truyền còn gọi là giờ âm (giờ kép).

1 giờ cổ truyền = 2 giờ đồng hồ (giờ đơn).

1 ngày đêm có 12 giờ cổ truyền.

Giờ cổ truyền được gọi theo tên địa chi: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ,

Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Để phân biệt giờ địa chi của các ngày liền nhau

(khoảng 5 ngày) thì người ta phối hợp Can với chi làm 60 giờ hoa giáp, 60 giờ = 5

ngày x 12 giờ.

Giờ là một đơn vị thời gian nhỏ nhất mà lịch các dân tộc khác cũng có như

người Mường, người Việt. Để thống nhất với các dân tộc khác, rất phù hợp với hiện

nay, người Thái cũng chia 1 ngày thành 12 giờ.

64

Bảng 2.1: Giờ của ngƣời Thái Đen ở Tây Bắc Việt Nam

Mự Mự Mai Tô Chơ

Cáp Chảu Tô nu (con 11 - 1

chuột)

Hặp Pẩu Tô quải (con 1 - 3

. trâu)

Hãi Chỉ Tô xưa (con 3 – 5

hổ)

Mỡng Mẩu Tô mẽo (con 5 – 7

mèo)

Pấc Xi Tô luông (con 7 – 9

rồng)

Cắt Xảu Tô ngũ (con 9 – 11

rắn)

Khốt X – ngạ Tô mạ (con 11 - 13

ngựa)

Huộng Một Tô bẻ (con 13 – 15

dê)

Táu Xăn Tô lĩnh (con 15 – 17

khỉ)

Cá Hậu Tô cáy (con 17 – 19

gà)

Mệt Tô ma (con 19 – 21

chó)

Cạu Tô mu (con 21 – 24

*Nguồn: [17, tr. 35].

lợn)

65

Người Thái căn cứ vào các công việc trong sinh hoạt hàng ngày để tính giờ

như sau:

 Giờ trước giờ gà gáy, chơ Chảu (giờ Tý).

 Giờ gà gáy, chơ Pẩu (giờ Sửu).

 Giờ tang tảng sáng, chơ Chỉ (giờ Dần).

 Giờ buổi sáng, chơ Mẩu (giờ Mão).

 Giờ ăn trưa, chơ Xi (giờ Thìn).

 Giờ đi rừng, chơ Xảu (giờ Tỵ).

 Giờ buổi trưa, chơ Xngạ (giờ Ngọ).

 Giờ buổi chiều, chơ Một (giờ Mùi).

 Giờ chiều tối, chơ Xàn (giờ Thân).

 Giờ tối, chơ Hậu (giờ Dậu).

 Giờ buổi tối, chơ Mệt (giờ Tuất).

 Giờ đêm khuya, chơ Cạu (giờ Hợi).

So với giờ trong lịch Thái thì giờ của người Mường Bi có nhiều khác biệt,

mỗi ngày lịch mường Bi có 16 giờ, mỗi giờ bằng 1 giờ rưỡi giờ dương lịch và tương

đương ¾ giờ âm lịch, tuy rằng ở mỗi một vùng của người Mường lại có một chút sự

thay đổi về giờ nhưng nó khác hoàn toàn so với giờ cổ truyền và giờ trong lịch Thái.

Có thể, lịch mường Bi vẫn còn lưu giữ những yếu tố của một loại lịch của người

Việt cổ. Còn giờ trong lịch Thái, do ảnh hưởng và tiếp xúc với lịch Trung Hoa, lịch

của người Việt nên nó không có gì khác cả.

2.3.2. Ngày

Lịch của người Thái xưa không tính theo ngày âm lịch cổ truyền, mà họ tính

theo ngày can, chi. Hiện nay, họ cũng đã áp dụng tính theo ngày âm lịch.

Ngày can, chi được tính từ sự tổng hợp của tổ 10 Thiên can và 12 Địa chi tạo

thành 60 hoa giáp. Các ngày lần lượt kế tiếp từ hoa giáp này sang hoa giáp khác. Cứ

60 ngày, chu kì đó lại được lặp lại.

Thông dụng ngày xưa và ở vùng nông thôn hiện nay vẫn đếm ngày theo thứ

tự can chi, ghép với nhau. Ngày can, chi của lịch Thái cũng tính liên tục, không tính

tháng, tính năm.

66

Trong mỗi câu cửa miệng thành thói quen của mỗi người Thái vẫn gọi ngày

theo 10 ngày một, ba lần mười là một tháng. Tháng nào thiếu thì để giành cho tháng

sau một ngày – tên gọi của ngày đó như sau:

 Mự Cáp - ngày Giáp.

 Mự Hặp - ngày Ất.

 Mự Hai - ngày Bính.

 Mự Mang – ngày Đinh.

 Mự Pấc – ngày Mậu.

 Mự Cắt – ngày Kỷ.

 Mự Khốt – ngày Canh.

 Mự Huộng – ngày Tân.

 Mự Táu – ngày Nhâm.

 Mự Cá – ngày Quí.

Ghép hai vế can, chi thì trở thành 60 ngày thì quay lại một vòng, 60 ngày

chia làm hai tháng, phương pháp ghép như âm lịch của người Việt.

Mỗi ngày có một con tương ứng (Can) cũng như ngày âm lịch, nhưng ngày

Mão của âm lịch thì người Thái gọi là “mự Tó” ngày con ong, cho phù hợp với

miền núi, hiện nay ở nhiều vùng nhất là thị trấn, thị xã tiếp giáp với vùng người

Kinh thì đã gọi ngày mão là con mèo.

Cứ 10 ngày một, tùy theo từng họ mà chọn lấy một ngày để cúng ông tổ tiên

của mình, người Thái gọi đó là “Mự ven tông”.

Ngày ghép can chi như sau:

* Giáp Tý (Cáp Chaử) * Ất Sửu (Hặp Pẩu) * Bính Dần (Hãi Nhĩ)

* Đinh Mão (Mỡng Mẩu) * Mậu Thìn (Pấc Xi) * Kỷ Tỵ (Cắt Xaử)

* Canh Ngọ (Khốt Xngạ) * Tân Mùi (Huộng Một) * Nhâm Thân (Táu Xăn)

* Quý Dậu (Cá Hậu) * Giáp Tuất (Cáp Mệt) * Ất Hợi (Hặp Caự)

* Bính Tý (Hãi Chaử) * Đinh Sửu (Mỡng Pẩu) * Mậu Dần (Pấc Nhĩ)

* Kỷ Mão (Cắt Mẩu) * Canh Thìn (Khốt Xi) * Tân Tỵ (Huộng Xaử)

* Nhâm Ngọ (Táu Xngạ) * Quý Mùi (Cá Một) * Giáp Thân (Cáp Xăn)

67

* Ất Dậu (Hặp Hậu) * Bính Tuất (Hãi Mệt) * Đinh Hợi (Mỡng Caự)

* Mậu Tý (Pấc Chaử) * Kỷ Sửu (Cắt Pẩu) * Canh Dần (Khốt Nhĩ)

* Tân Mão (Huộng Mẩu) * Nhâm Thìn (Táu Xi) * Quý Tỵ (Cá Xaử)

* Giáp Ngọ (Cáp Xngạ) * Ất Mùi (Hặp Một) * Bính Thân (Hãi Xăn)

* Đinh Dậu (Mỡng Hậu) * Mậu Tuất (Pấc Mệt) * Kỷ Hợi (Cát Caự)

* Canh Tý (Khốt Chaử) * Tân Sửu (Huộng Pẩu) * Nhâm Dần (Táu Nhĩ)

* Quý Mão (Cá Mẩu) * Giáp Thìn (Cáp Xi) * Ất Tỵ (Hặp Saử)

* Bính Ngọ (Hãi Xngạ) * Đinh Mùi (Mỡng Một) * Mậu Thân (Pấc Xăn)

* Kỷ Dậu (Cắt Hậu) * Canh Tuất (Khốt Mệt) * Tân Hợi (Huộng Caự)

* Nhâm Tý (Táu Chaử) * Quý Sửu (Cá Pẩu) * Giáp Dần (Cáp Nhĩ)

* Ất Mão (Hặp Mẩu) * Bính Thìn (Hãi Xi) * Đinh Tỵ (Mỡng Xaử)

* Mậu Ngọ (Pấc Xngạ) * Kỷ Mùi (Cắt Một) * Canh Thân (Khốt Xăn)

* Tân Dậu (Huộng Hậu) * Nhâm Tuất (Táu Mệt) * Quý Hợi (Há Cạu)6.

Người Thái xem ngày để chọn ngày tốt lành để làm ăn: xem ngày cấy lúa,

ngày bắt các con vật về chăn nuôi, ngày làm đệm…

2.3.3. Tháng

Cả người Thái và người Mường đều quan sát sự chuyển động của mặt trăng

để định ra tháng và dựa vào đặc tính của trăng trong chu kì để phân định thành thời

gian nhỏ hơn. Cách tính tháng trong lịch của người Thái thống nhất với âm lịch và

dương lịch, chia 1 năm làm 12 tháng, nhưng tháng của người Thái so với âm lịch thì

chênh nhau 6 tháng, vì sao lại như vậy?

Hiện nay chưa có tài liệu nào giải thích về việc này. Qua tiếp xúc với một số

nhà nghiên cứu nằm trong Mạng lưới bảo tồn tri thức bản địa ở Sơn La tôi biết họ

giải thích như sau:

Theo ông Lò Văn Lả và nhà thơ Vương Trung (nay đã mất): cho rằng tháng

Một Thái (bươn Chiêng) là tháng giữa mùa mưa, đó là tháng đã cấy xong ruộng,

6 Theo Ông Lò Văn Lả, Cán bộ Đài phát thanh và Truyền hình tỉnh Sơn La. Tư liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

người nông dân đã được nghỉ ngơi và ăn mừng, nên cho tháng đó là tháng đầu năm

68

mới. Nhưng thực ra năm mới người Thái là tháng Bảy, trùng với tháng Giêng Âm -

Dương lịch Việt Nam.

Cách giải thích khác theo ông Cà Văn Chung cho rằng: Ngày xưa, người

Thái cũng như nhiều dân tộc Á Đông khác đều dùng Âm lịch thuần tuý, nghĩa là lịch

theo Mặt trăng hoàn toàn, mỗi năm có 12 tháng (tuần trăng), mỗi tháng có 29 hoặc

30 ngày. Độ dài của năm Âm lich thuần tuý là 354 – 355 ngày. Trong khi đó năm

Mặt trời (hay còn gọi là năm Dương lịch hay năm Thời tiết) có độ dài là 365 – 366

ngày. Như vậy, năm Âm lịch ngắn hơn năm Dương khoảng 11 ngày. Sau 3 năm Âm

lịch sẽ nhanh hơn Dương lịch 1 tháng, 9 năm nhanh hơn 1 mùa… Nên ngày đầu

năm năm nay là mùa xuân, thì 9 năm sau sẽ là mùa đông, và 9 năm sau nữa sẽ là

mùa thu, rồi mùa hạ… Cứ như thế ngày đầu năm sẽ “lang thang” khắp các tháng

trong năm. Và vì thế nó không phù hợp với quy luật thời tiết và không thể xác định

được thời vụ sản xuất. Để khắc phục điều đó, các nhà làm lịch phương Đông đã

phải cải tiến lại Âm lịch để nó phù hợp với quy luật thời tiết. Đó là sau một thời

gian nhất định, người ta sẽ thêm cho Âm lịch 1 tháng để nó “chờ” Dương lịch.

Tháng thêm vào gọi là tháng nhuận, năm có tháng nhuận gọi là năm nhuận. Lịch

cải tiến đó gọi là Âm dương lịch. Người Thái cũng chuyển sang dùng lịch Cải tiến

như nhiều dân tộc khác. Nhưng thời điểm chuyển sang lịch mới thì tháng người

Thái vẫn còn đang “lang thang” ở giữa mù mưa, cách Âm dương lịch 6 tháng và cứ

thế theo vòng quay của Âm dương lịch cho đến ngày nay.

Có tác giả lại cho rằng, người Thái đón năm mới vào tháng 7 Dương lịch,

tương đương với tháng Giêng trong lịch Thái, nghĩa là tháng thứ nhất của người

Thái được tính vào mùa hè. Rõ ràng lịch truyền thống của người Thái chênh với

lịch thông dụng 6 tháng. Tại sao lại như vậy? Có thể người Thái lấy ngày Hạ chí

(21/6) là ngày chuẩn của năm Thiên văn. Như vậy, việc đón năm mới vào tháng 7 là

người ta chọn tiết Hạ chí làm tiết đầu năm, thể hiện sự am hiểu về thiên văn – lịch

pháp của người xưa [9, tr. 14 – 16].

Người Thái quan sát chu kì của mặt trăng để tính ra tháng, khi mặt trời và

mặt trăng ở cùng một phía với trái đất, trên cùng một mặt phẳng, là lúc mặt trời và

mặt trăng giao hội với nhau, người Thái quy định đó là ngày mồng 1 âm đầu tháng

69

không nhìn thấy trăng. Tháng của lịch Thái không gọi tên theo thứ tự can chi như

lịch Âm dương.

Trong lịch Thái, riêng về tháng thì không có con tương ứng để gọi ví theo

như ngày, năm – tên gọi của các tháng như sau:

Bươn chiêng – tháng giêng – tháng bảy âm lịch. 

Bươn nhì – tháng hai – tháng tám âm lịch. 

 Bươn xam – tháng ba – chín…

 Bươn xỉ - tháng tư – mười.

 Bươn hả - tháng năm – mười một.

 Bươn hốc – tháng sáu – mười hai.

 Bươn chết – tháng bảy – giêng.

 Bươn pét – tháng tám – hai.

 Bươm cảu – tháng chín – ba

 Bươn xíp – tháng mười – tư.

 Bươn xíp ết – tháng một – năm.

 Bươn xíp xong – tháng chạp – sáu.

2.3.4. Năm

Trong lịch Thái, năm cũng tính theo năm âm lịch và dương lịch, vòng tuần

hoàn là 60 năm quay lại một vòng, con vật tương ứng của năm như âm lịch

nhưng năm mão có tên gọi là năm con ong. Về tên gọi con ong thì như đã nói

trong lịch của người Lô Lô cũng tên gọi của tháng là con ong được được thay

cho tên mão. Tháng 3 trong lịch của người Lô Lô được gọi là Soong rông –

tháng con ong (mua) [5, tr. 259].

 Chảu – tô nu – con chuột.

 Pẩu – tô quải – con trâu.

 Nhỉ - tô xưa – con hổ.

 Mẩu – tô tó – con ong (mão).

 Xỉ - tô luông – con rồng.

70

Xảu – tô ngủ - con rắn. 

Xo ngạ - tô mạ - con ngựa. 

Một – tô bẻ - con dê. 

Xăn – tô lính – con khỉ. 

Hậu – tô cáy – con gà. 

Cạu – tô mu – con lợn. 

Tiểu kết chương 2

Như vậy, lịch của người Thái đen ở Sơn La cũng được hình thành từ lâu đời,

điều đó được thể hiện trong các sử thi về lịch sử tộc người Thái. Lịch Thái cũng

được hình thành từ cơ sở thực tiễn và cơ sở thiên văn. Bằng việc quan sát các hiện

tượng thiên nhiên, cây cỏ xung quanh mình mà người Thái có cách tính lịch cổ điển

nhất, đó là lịch hậu vật giống như người Việt và người Mường ở Việt Nam. Ở đây

nói cơ sở thiên văn của lịch Thái không có nghĩa là người Thái đen đã quan sát bầu

trời bằng các phương tiện thiên văn hiện đại để tính toán lịch. Mà cơ sở thiên văn ở

đây là thể hiện sự quan sát rất tỉ mỉ chuyển động của mặt trăng một tháng để tính

lịch của người Thái đen ở Sơn La. Cũng giống như lịch Âm thuần túy, lịch Thái dựa

hẳn vào tuần trăng để tính lịch. Trong lịch Thái không vận dụng sự chuyển động

của mặt trời để tính lịch ăn khớp với thời tiết. Đó cũng là đặc trưng chung của lịch

Âm dương của người Việt, lịch tre của người Mường.

Trong lịch Thái cũng có các hệ đếm Can Chi, học thuyết Ngũ hành. Đó là

do ảnh hưởng từ lịch của Trung Hoa trong quá trình giao lưu và tiếp xúc văn

hóa. Hệ đếm Can Chi, thuyết Ngũ hành được người Thái dùng để tính giờ, ngày

và năm. Riêng tháng thì người Thái không chỉ dùng hệ đếm Can Chi mà còn dựa

vào tuần trăng để tính.

Điểm đặc biệt nhất trong cách tính lịch của người Thái Đen là tháng của họ

chênh với tháng trong lịch Âm - Dương của người Việt 6 tháng. Đó là nét đặc sắc

thể hiện sự am hiểu về lịch xưa của người Thái.

71

CHƢƠNG 3. CÁCH TÍCH LỊCH VÀ SỬ DỤNG LỊCH CỦA NGƢỜI

THÁI ĐEN

3.1. Một số nguyên tắc để ứng dụng lịch

Sống trong điều kiện thiên nhiên khá phong phú và trong một xã hội đã bỏ xa

những tổ chức sơ khai của loài người, người Thái xưa đã có cách giải thích những

hiện tượng khách quan của trời đất và con người. Từ thời xa xưa, người Thái đã có

quan niệm mọi vật trong tự nhiên, vũ trụ đề được cấu tạo từ các yếu tố vật chất và có

mối liên hệ với nhau: “…Con người không biết gì, ăn sống ở trần. Mọi con đỉa biết

nói, mọi con vắt biết kêu, mọi ống nứa ống tre trong rừng biết kêu ầm ỹ. Con người và

mọi động vật đều như nhau cả thôi…” [16, tr. 26]. Như vậy, ngay từ thời cổ xưa, người

Thái đã có quan niệm: tất cả mọi vật chất cụ thể được tạo nên trong thế giới này đều

được cấu tạo giống nhau, đều do Then Luông sinh ra.

Thuyết ngũ hành về căn bản cũng là một cách biểu thị luật mâu thuẫn đã

giới thiệu trong thuyết âm dương, nhưng bổ sung và làm cho thuyết âm dương

hoàn bị hơn.

Ngũ hành là : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Người xưa cho rằng mọi vật trong

vũ trụ đều chỉ cho 5 chất phối hợp với nhau mà tạo nên.

Theo tính chất thì:

Thuỷ là lỏng, là nước thì đi xuống, thấm xuống.

Hoả là lửa thì bùng cháy, bốc lên.

Mộc là gỗ, là cây thì mọc lên cong hay thẳng.

Kim là kim loại, thuận chiều hay đổi thay.

Thổ là đất thì để trồng trọt, gây giống được.

Tinh thần cơ bản của thuyết ngũ hành bao gồm hai phương diện giúp đỡ

nhau gọi là tương sinh và chống lại nhau gọi là tương khắc. Trên cơ sở sinh và khắc

lại thêm hiện tượng chế hoá, tương thừa, tương vũ. Tương sinh, tương khắc, chế

hoá, tương thừa, tương vũ biểu thị mọi sự biến hoá phức tạp của sự vật.

Quan điểm của người Thái cũng giống như vậy, họ dùng quy luật vật chất

khách quan để ứng dụng vào lịch, đây là quy luật tự nhiên.

 Cẳm ók nặm (vàng sinh nước).

72

Nặm ók mạy (nước sinh cây). 

Mạy ók phảy (cây sinh lửa). 

Phảy ók đin (lửa sinh đất). 

Đin ók cẳm (đất sinh vàng). 

Quy luật đó cũng giống như Ngũ hành của người Á Đông: Kim sinh thủy,

Thủy sinh mộc. Mộc sinh hỏa, Hỏa sinh thổ, Thổ sinh kim.

Quy định từng mùa và bốn vật chất đều có những yếu mạnh khác nhau:

 Mùa xuân thì cây mạnh.

 Mùa hè thì lửa mạnh.

 Mùa thu thì vàng mạnh.

 Mùa đông thì nước mạnh.

Ứng dụng với can

 Cáp Hặp lỏ mạy = Giáp, Ất là cây.

 Hai, Mâng lỏ phảy = Bính, Đinh là lửa.

 Pấc, Cắt lỏ đin = Mậu, Kỉ là đất.

 Khốt, Buộng lỏ cắn = Canh, Tân là vàng.

 Táu, Cá lỏ nặm = Nhâm, Quý là nước.

Ứng dụng với chi là:

 Xăn, Chảu, Xi lỏ nặm = Thân, Tý, Thìn là nước.

 Nhi, Xgạ, Mệt lỏ phảy = Dần, Ngọ, Tuất là lửa.

 Xảu, Hậu, Pấu lỏ căm = Tỵ, Dậu, Sửu là vàng.

 Cạu, Một lỏ đin = Hợi, Mùi là đất.

Nguyên tắc ứng dụng là: vận dụng thuyết ngũ hành.

 Cẳm đắp mạy = vàng dập cây.

 Mạy đắp đin = cây dập đất.

 Đin đắp nặm = đất dập nước.

 Nặm đắp phảy = nước dập lửa.

 Phảy đắp cẳm = lửa dập vàng [17, tr. 38].

73

3.2. Cách tính lịch và sử dụng lịch của ngƣời Thái Đen

Không chỉ ứng dụng lịch để xem bói và tính các cung ngũ hành xem có

tương sinh, tương khắc hay không mà người Thái còn sử dụng lịch trong đời sống

sinh hoạt hàng ngày. Ngày xưa người Thái sử dụng lịch rất ngặt nghèo, làm bất cứ

việc gì đều phải xem giờ, ngày, tháng, năm đúng giờ tốt, ngày tốt, tháng tốt và năm

tốt mới làm công việc đó, và với mỗi loại công việc thì người Thái có từng cách

cách tính khác nhau.

3.2.1. Xem lịch để làm nhà mới

Đối với người Việt Nam và người Thái thì căn nhà để ở có vị trí vô cùng

quan trọng trong đời sống hàng ngày và trong cả một đời người. Thời xưa, người ta

chỉ cần xem cái nhà, ruộng vườn và trâu bò là biết người ấy có giàu không, chẳng

thế mà người Việt có rất nhiều câu gắn bó với cái nhà như “gia sản”, “dinh cơ”, “cơ

ngơi”...Đối với người đàn ông Việt trong xã hội xưa thì “Tạu trâu, cưới vợ, làm

nhà” là ba công việc quan trọng trong đời họ, vì vậy khi quyết định làm những việc

này không chỉ phụ thuộc vào yếu tố vật chất mà còn phải xem tuổi xem năm đó có

thích hợp làm những việc đó không. Người Việt khi làm nhà còn phải xem phong

thủy chọn hướng nhà cho phù hợp với tuổi của gia chủ, phù hợp với thế đất và

hướng gió…

Với người Thái cũng vậy, một đời người làm nhà nhiều lần nhưng quan

trọng nhất là làm nhà lần đầu tiên. Vợ chồng mới cưới nhau ra ở riêng chẳng hạn,

những lần làm nhà sau cũng phải xem kĩ nhưng không quan trọng bằng lần làm

đầu tiên.

Trước hết, họ phải xem tuổi làm nhà cũng giống như người Kinh, họ phải

nhờ thầy bói hoặc thầy mo xem tuổi của gia chủ xem năm đó có hợp không: “Lấy vợ

xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Người đàn ông Thái khi làm nhà hoặc bất

cứ công việc gì mà cần phải xem ngày, xem tuổi, họ nhờ đến thầy mo – ông “Po mự”

xem giúp. Lễ vật họ mang đến nhờ các ông mo chỉ là con gà hoặc chai mật ong để cảm

ơn chứ không phải là quà cáp, tiền bạc gì nhiều.

Xem năm cho một người để làm nhà, có quy định như sau:

Tổn cuổi cẳm (tính tới năm đẻ): 1, 13, 25, 37, 49, 61

74

Mun khun nọi : 2, 14, 26, 38, 50, 62

Chọi tốc tắm : 3, 15, 27, 39, 51, 63

Nhăm lay kẻo : 4, 16, 28, 40, 52, 64

Heo mong : 5, 17, 29, 41, 53, 65

Chòng pót : 6, 18, 30, 42, 54, 66

Nhọt pha xát : 7, 19, 31, 31, 43, 56, 67

Tát hưởm mun : 8, 20, 32, 44, 56, 68

Thum lang hạy : 9, 21, 33, 45, 57, 69

Xảy chếp lai : 10, 22, 34, 46, 58, 70

Ngủa quoai lót : 11, 23, 35, 47, 59, 71

Nhọt bun xuôi : 12, 24, 36, 48, 60, 72

Muốn làm nhà tốt trước hết phải xem năm tuổi như trên, lịch xem tuổi theo

chu kì mười hai năm: 1.Tổn tuổi cẳm, 2. Mun khun nọi, 3. Chọi tốc tắm… Trong

mười hai chu kì ấy thì làm nhà tốt nhất là các tuổi Tổn Tuổi cẳm, Nhăm lay kẻo,

Nhọt phạ xát.

Tổn cuổi cẳm là năm sinh, là sự trường sinh, giàu có, với tuổi 13 – 25 – 37–

49. Thông thường là tuổi năm mươi không làm nhà nữa, mà nhường cho trách

nhiệm đó cho con, vì vậy người Thái có câu: Hả xíp pi báu hăng cọ khó - Năm

mươi tuổi không giầu thì chỉ nghèo (nghĩa là đã đến tuổi năm mươi thì phải chấp

nhận số phân, không thay đổi được nữa).

Nhăm lay kẻo là bậc thang danh vọng, lên chức lên quyền, làm ăn phát tài,

ứng với các tuổi 16 – 28 – 40 – 52.

Nhọt phạ xát là tuổi mà làm nhà sánh với nhà trời thiên đường, giàu có,

đẹp đẽ, tồn tại vĩnh cửu, năm này ứng với các năm tuổi 19 – 31 - 43 – 55. Thực

tế chỉ có người giàu, người có chức quyền mới làm nhà năm này. Dân thường

không dám làm vì sợ thiên đình trị về tội, nghèo dám vượt mặt xây nhà to và đẹp

như thiên đình.

Trong lịch Thái, muốn xem tuổi đẹp nhất để làm nhà thì thầy mo phải giở sổ

Chong bang, vì nó có một trang hình vẽ minh họa tuổi làm nhà. Trong đó tuổi Tổn

75

tuổi cẳm là đẹp nhất thì được minh họa bằng một hình có nhiều cây cối mọc tốt um

tùm và ra hoa, kết trái.

Ngoài xem tuổi thì người ta còn xem ngày, giờ, tháng tốt mới làm…giống

như là chọn ngày đẹp để khởi công vậy.

Không làm nhà mới, không “xú khuân”, “ khửn xửa” (tháng ở đây là tháng

lịch Thái) vào các ngày.

Tháng 12: kiêng ngày 1 – 5 - 14 – 23, ngày Pẩu (Sửu), Xảu (Tỵ)

Tháng 11: kiêng ngày 5 – 14 – 23 ngày Hậu (Dậu), Chảu (Tý).

Tháng 10: kiêng ngày 5 – 14 – 23 ngày Mẩu (Mão), Cạu (Hợi).

Tháng 9: kiêng ngày 1 – 5 - 14 – 23, ngày Nhi (Dần) và Một (Chó).

Tháng 8: kiêng ngày 5 – 11 – 14 – 23, ngày Xi (Thìn) và ngày Xngạ (Ngựa).

Tháng 7 ngày: 5 – 10 – 14 – 23, ngày Xăn (Thân), Cạu (Hợi).

Tháng 6 ngày: 1- 3 – 5 - 14 – 16 - 23, ngày Cạu (Hợi) và Mệt (Tuất).

Tháng 5 ngày: 5 – 14 – 23, ngày Xngạ (Ngọ), Cạu (Hợi), Chảu (Tý).

Tháng 4 ngày 4 – 5 – 14 – 23, ngày Cậu (Dậu) và Xảu (Tý)

Tháng 3 ngày: 1 – 3 - 5 – 8 – 14 – 23, ngày Xi (Thìn).

Tháng 2 ngày: 6 – 5 – 11 – 14 – 23, ngày Cạu (Hợi), Mẩu (Mão).

Tháng giêng ngày 5 – 14 -23, ngày Pẩu (Sửu), Xi (Dần).

Người Việt có câu: “Mùng 5 – 14 – 23, Đi chơi cũng thiệt nữa là đi

buôn”. Nguyên nhân vì sao họ lại có ngày kiêng kị này thì đến nay có rất nhiều

quan điểm giải thích: có quan điểm cho rằng vì ngày 5 ,14 , 23 là ngày mà ngày xưa

vua chúa thường xuất hành đi "Kinh lý" , nên người dân không nên đi ra đường , vì

ra đường nếu gặp đoàn tùy tùng của vua chúa dù có " lễ phép" như thế nào thì cũng

bị họ hoạch họe, bắt nạt, bắt phạt và có thể bị bắt giam ...Hay có người lại cho rằng:

vòng tuần hoàn sinh học trong cơ thể con người hoạt động tạm ngưng theo chu kỳ 9

ngày tạm ngưng vài phút ( 5+9=14+9=23). Chính vì vòng tuần hoàn sinh học tạm

ngưng hoạt động vài phút đó mà con người chúng ta hay bị lơ đễnh, mất tập trung

trong công việc, nên thường xảy ra những sự cố, sự việc không mong muốn...Đáng

chú ý là trong những ngày kiêng kị của người Thái cũng có những ngày kiêng kị

76

giống như thế, có thể điều đó ảnh hưởng từ kiêng kị của người Việt. Ngày xưa,

người Thái chỉ kiêng các ngày 7 ngày 3 (Người Việt có câu: Chớ đi ngày bảy, chớ

về ngày ba). Họ thích ngày chẵn hơn ngày lẻ. Còn kiêng thì tuỳ từng người. Đi

đường kiêng ngày sinh (theo can), lên nhà mới kiêng ngày cúng tổ tiên (vên tông),

(Vên ók báu lông, vên tông báu khửn). Gieo trồng thì kiêng ngày "Cắt" (ngày Kỷ).

Còn những ngày đại sự thì phải đi nhờ thầy (như đã nói ở phần lịch Thái). Nhưng

cũng phải tránh ngày bố mẹ mất (mự hua đỏn) và ngày thiêu xác cha mẹ (mự xanh

phay phạ). Còn ngày 5, 14, 23 là gần đây mới có (chưa phổ biến lắm). Đó là do giao

thoa văn hoá với người Việt. Những ngày này là ngày nguyệt kỵ, nguồn gốc của nó

là ngày vua chúa thời xưa đi du ngoạn, dân chúng không ai được nhìn mặt vua. Nên

những ngày đó không ai dám ra đường. Dần dà trở thành ngày kiêng trong tháng.

Cần chú ý ngày chung nhất trong tháng kiêng làm nhà mới là 5, 14, 23.

Trong mười hai ngày thuộc chi thì chỉ có ngày mùi không kiêng, nhưng ngày Quý

Mùi, Kỷ Mùi là kiêng không làm nhà mới.

Riêng làm nhà người Thái còn kiêng thêm các ngày sau:

Tháng giêng ngày 1 và ngày mùng 6 tháng sáu.

Tháng hai ngày 6 và ngày 7 tháng bảy.

Tháng ba ngày 8 và ngày 8 tháng tám.

Tháng tư ngày 10 và ngày 9 tháng chín.

Tháng 5 ngày 11 và ngày 20 tháng mười.

Tháng 3 – 6 – 9 kiêng ngày Hặp Pẩu (Ất Sửu), Cắp Mệt (Giáp Tuất), Cá Một

(Quý Mùi), Tẩu Xi (Nhâm Thìn), Huộng Pẩu (Tân Sửu), Khốt Mệt (Canh Tuất) và

Cắt Một (Kỷ Mùi).

Với người Thái ngày tốt nhất để làm nhà mới là: tháng giêng, tháng 7, tháng

4, tháng 10 ngày Cáp Xngạ (Giáp Ngọ) Hai Chảu (Bính Tý), Mẩng Mẩu (Đinh

Mão), Cắt Pẩu (Kỉ Sửu), Huộng Một (Tân Mùi), Táu Chảu (Nhâm Tý) và Cá Mâu

(Quí Mão).

77

Tháng 2, tháng 5, tháng 8, tháng 11 các ngày: Hai Nhi (Bính Dần), Hặp Cạu

(Ất Hợi), Cáp Xăn (Giáp Thân), Táu Nhi (Nhâm Dần), Huộng Cạu (Tân Hợi), Khốt

Xăn (Canh Thân).

Khi xem làm nhà cũng cần xem: "Pọm lang pọm hưỡn" đó là những hình vẽ

có hình ngôi nhà con trâu dưới gầm sàn, theo chu kỳ 60 ngày, 60 năm. Trong chu kỳ

60 ấy chỉ có các ngày, năm làm tốt nhất là: Giáp Tý, Ất Sửu, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Nhâm

Thân, Quý Dậu, Tân Tỵ, Ất Dậu, Bính Thân, Đinh Dậu, Canh Tý, Ất Tỵ, Bính Ngọ,

Mậu Thân, Nhâm Tý, Giáp Thìn, Đinh Tỵ là làm được.

Ngày kiêng nhất là Canh Ngọ, thứ hai là Ất Hợi, còn những ngày khác tạm được.

Trong 60 hình vẽ đó có một ngôi nhà, hai là hình ba người, ba là hình ba con

trâu, tiếng Thái gọi là “pọm lang pọm hưỡn" (nghĩa là đủ người trên sàn nhà, đủ

trâu làm ăn dưới gầm sàn), con trâu là đầu cơ nghiệp. Trong 60 hình vẽ đó chỉ có 17

hình có đủ ba người, ba con trâu đứng là ngày đã nói ở trên. Ngày kiêng nhất là

ngày hình vẽ ba người quay đầu xuống (nghĩa là người chết hết), không có con trâu

nào, đó là ngày Canh Ngọ, Ất Hợi chỉ còn một người sống, gầm sàn không có gì.

Con người là chỉ số phận người trong gia đình, sống hay chết, ốm đâu hay khỏe

mạnh. Con trâu biểu hiện về làm ăn, nếu đủ ba con trâu là làm ăn phát đạt, không có

trâu là làm ăn không ra gì, có trâu chết, trâu đứng là làm ăn chưa phát đạt.

Xem xong chu kỳ này rồi phải đối chiếu với ngày tháng kiêng trong tháng

đó, ngày kiêng kỵ của gia đình. Nếu trùng với ngày, tháng kiêng là không được.

Nếu trùng với ngày tháng làm nhà tốt nhất thì hay. Xem xong ngày tháng rồi mới

chọn lấy giờ tốt trong ngày.

Khi dựng cột làm nhà mới phải tránh động phải “a nhạt":“A nhạt” là gì

thì chưa có người nào giải nghĩa được, mà chỉ nói nó một ngôi sao trên trời cần phải

kiêng khi làm nhà mới, lên nhà mới.

Tháng một, hai, ba “a nhạt" ở phía đông. Tháng 4, 5, 6, ở hướng bắc. Tháng

7, 8, 9, ở hướng tây. Tháng 10, 11, 12, ở hướng nam. Khi dựng cột nhà không được

quay về hướng “a nhạt” để dựng lên. Khi lên nhà mới không được quay mặt về phía

có “a nhạt” [15, tr. 404].

78

3.2.2. Xem tuổi để lấy vợ, gả chồng

Như trên đã nói các công việc làm nhà, lấy vợ đó là những công việc quan

trọng liên quan đến cuộc sống và hạnh phúc cả một đời người.

Cũng giống như người Việt và một số dân tộc khác, người Thái cũng xem

tuổi để lấy vợ và gả chồng cho con cái họ. Nếu người Việt so tuổi cô dâu và chú rể

xem có hợp nhau không thì người Thái cũng vậy, theo họ những người có nen hợp

nhau ví dụ như: Nen Căm ( ), Nen Nặm ( ), Nen Mạy ( )… Quy luật

hợp nhau thì giống như tương sinh và tương khắc trong Ngũ hành. Với người Thái,

các nen hợp nhau thì cuộc sống vợ chồng sẽ được hạnh phúc, đông con cháu, làm

ăn phát đạt…

Ngoài ra họ còn bói theo Can, chi như:

Tuổi nào mà địa chi hợp (1 âm – 1 dương) là lục hợp mà người Việt hay gọi

là những người có cung Nhị hợp cùng nhau:

Tý – Sửu hợp Thổ

Dần – Hợi hợp Mộc

Mão – Tuất hợp Hỏa

Thìn – Dậu hợp Kim

Tỵ - Thân hợp Thủy

Ngọ - Mùi Thái dương, thái âm.

Tam hợp thì giống với người Việt:

Thân – Tý – Thìn là Thủy cục

Hợi – Mão – Mùi là mộc cục.

Dần – Ngọ - Tuất là hỏa cục.

Tỵ - Dậu - Sửu là kim cục.

Ngoài ra còn các tuổi không hợp nhau nữa…Không chỉ xem tuổi, người Thái

còn xem ngày, ngày cưới, ngày đưa dâu…

Ngày lấy vợ tốt nhất trong tháng là: 4 – 19.

Ngày không lấy vợ lấy chồng:

Tháng giêng: ngày Hậu (Dậu), Xi (Thìn), Cạu (Hợi).

79

Tháng hai: ngày Hậu (Dậu), Xi (Thìn), Một (Mùi).

Tháng ba: ngày ngày Hậu (Dậu), Xi (Thìn), Một (Mùi), Xngạ (Ngọ).

Tháng tư: ngày Xăn (Thân), Xngạ (Ngọ), Hậu (Dậu).

Tháng năm: ngày Xăn, Nhỉ, Mẩu, Hậu, Mệt.

Tháng sáu: ngày Xăn, Hậu, Xi.

Tháng bảy ngày: Xăn, Mệt, Nhỉ.

Tháng tám ngày: Hậu, Cảu, Xảu, Một, Xăn.

Tháng chín: ngày Xăn, Cạu, Nhỉ, Xngạ, Chảu.

Tháng 10 ngày: Xăn, Nhỉ, Chảu, Xi.

Tháng 11 ngày: Một, Hậu, Chảu, Pẩu.

Tháng 12 ngày: Chảu, Nhỉ.

Bảng xem ngày đưa cô dâu về nhà chồng:

Việc chọn ngày để đưa cô dâu và chú rể (lúc này đã là hai vợ chồng) trở về

nhà sau ba năm ở rể là việc được xem trọng, vì nó ảnh hưởng đến hạnh phúc lứa đôi

và tương lai con cái sau này.

Bảng xem ngày tốt xấu là một bức tranh vẽ bốn con trâu tượng trưng cho bốn

mùa Xuân, hạ, thu, đông. Xung quanh những con trâu này, có ghi những kí hiệu

ngày tốt, xấu. Ngày tốt thì ở phía trên lưng trâu, chọn ngày này vợ chồng sẽ được

hạnh phúc, giàu có. Còn chọn những ngày ở đầu, bụng và đuôi thì hai vợ chồng làm

ăn không ra gì. Ví dụ, mùa xuân ngày tốt là các ngày Xăn (Thân), ngày Mệt (Tuất).

Ngày xấu là các ngày Chảu (Tý), Xngạ (Ngọ), Chỉ (Dần), Một (Mùi), Cạu (Hợi)…

Ngày xưa, khi lấy vợ lấy chồng người Thái chỉ chú trọng xem ngày lành,

tháng tốt tiến hành hôn lễ, ngày cô dâu về nhà chồng sau khi hai vợ chồng đã hết

thời hạn ở rể. Ngày nay người Thái còn quan tâm đến các tuổi, các nen hợp nhau

nữa, phong tục đó là do ảnh hưởng và du nhập từ người Kinh mà có. Ngoài cách

tính lịch vào các việc quan trọng trên, người Thái còn áp dụng vào các công việc

thường ngày khác.

3.2.2. Cách tính lịch theo ngày vào một số công việc khác

Người Thái áp dụng lịch vào một số việc thường ngày khác như đi săn, đi

buôn, đi chơi, đi thăm người ốm…

80

Ngày đi kiếm ăn như đi buôn, đi săn tốt nhất là các ngày: Táu Nhi (Nhâm

Dần), Mảng Mẩu (Đinh Mão), Cắp Mệt (Giáp Tuất), Khốt Mệt (Canh Tuất),

HậpHậu (Ất Dậu), Cáp Xăn (Giáp Thân).

Tính ngày làm ăn:

Ngoài những ngày làm ăn, kiếm ăn tốt như trên người Thái còn có cách xem

khác, đó là xem “ca lã hả”, đây là cách xem phổ biến mà mọi con trai mọi nhà đều

có, xem trước khi ra khỏi nhà đi kiếm ăn, đi săn bắn, thăm anh em, có nơi còn xem

để tổ chức đám cưới, làm nhà mới. Cụ thể hình dung như sau: kẻ một hình vuông,

mỗi bên chia làm năm ô bằng nhau, trong mỗi ô có ký hiệu đánh vào, theo hình

chéo đông bắc – tây nam, hình một một gạch, hai gạch, bốn chấm, hai gạch chéo.

Số bốn chấm là tốt đều, săn bắn được con nhỏ, tiếng Thái nói là: “báu 

chẳm cọ chí” (không chấm cũng nướng) không được nhiều cũng được ít.

Hai gạch song song là rất tốt, săn được con to, đi đường bình an, buôn 

bán được to.

Một gạch đơn là: đi săn được con to, có thể bị nạn nếu không cẩn 

thận, đi đường, buôn bán được thì to, nếu không cẩn thận thì lỗ vốn.

Gạch chéo là không tốt, đi săn bị nạn, buôn bán không được 

Ô vuông trắng không là không được gì. 

“Ca la hả” này chia ngày ra làm năm giờ: buổi sáng sớm, buổi sáng, buổi

trưa, buổi chiều, buổi tối. Về ngày chỉ tính 5 ngày, ngày 6, 11, 16, 21, 26 trở lại

ngày một, các ngày khác tính theo thứ tự tiếp theo.

Bảng xem này rất dễ nhớ, dễ xem, có gia đình vẽ lên vách nhà, cột nhà,

vỏ bao dao hoặc báng súng...

Theo bà con ở ven Sông Mã nói đây là cách tính lịch ở bên Lào mang sang.

Với ngày làm ăn:

Người xem sổ sách thì tính theo tháng 12 chu kỳ, ngày 60 chu kỳ để tính

ngày tháng làm ăn mà quan trọng đầu tiên là ngày làm ruộng, làm nương. Đối với

người Việt, họ rất xem trọng những ngày làm nông mà ta vẫn thường gọi là nông

lịch dân gian như chọn những ngày tốt. Những ngày tốt theo can chi đối với một số

công việc rất cụ thể mà người xưa coi trọng là “Đại sự chí cốt ích lợi sinh tồn”:

81

Những ngày tốt cày bừa:

Có 5 nhóm ngày tốt cho việc cày sâu bừa kỹ, lần lượt như sau:

* Nhóm 1 gồm 8 ngày:

Giáp Tuất – Ất Sửu/Đinh Mão/Kỷ Tỵ – Canh Ngọ – Tân Mùi/Quý Dậu/Ất

Hợi (ký hiệu/cách 1 ngày can chi).

* Nhóm 2 gồm 11 ngày:

Bính Tý – Đinh Sửu – Mậu Dần- Kỷ Mão/Tân Tỵ – Nhâm Ngọ – Quý Mùi –

Giáp Thân – Ất Dậu – Bính Tuất, Đinh Hợi.

* Nhóm 3 gồm 9 ngày:

Kỷ Sửu/Tân Mão – Nhâm Thìn – Quý Tỵ – Giáp Ngọ – Ất Mùi- Bính

Thân/Mậu Tuất – Kỷ Hợi.

* Nhóm 4 gồm 8 ngày:

Canh Tý – Tân Sửu – Nhâm Dần – Quý Mão – Giáp Thìn/Bính Ngọ/Mậu

Thân – Kỷ Dậu.

* Nhóm 5 gồm 9 ngày:

Quý Sửu – Giáp Dần/Bính Thìn – Đinh Tỵ – Mậu Ngọ – Kỷ Mùi – Canh

Thân – Tân Dậu/Quý Hợi.

Những ngày tốt ngâm giống:

Có 6 ngày là Giáp Tuất, Ất Hợi, Nhâm Ngọ, Ất Dậu, Nhâm Thìn và Ất Mão.

Những ngày tốt gieo mạ:

Có 11 ngày là Tân Mùi, Quý Dậu, Nhâm Ngọ, Canh Dần, Giáp Ngọ, Giáp

Thìn, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Ất Mão, Tân Dậu.

Những ngày tốt cấy lúa:

Có 11 ngày là Canh Ngọ, Nhâm Thân, Quý Dậu, Kỷ Mão, Tân Tỵ, Nhâm

Ngọ, Quý Mùi, Giáp Ngọ, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Dậu.

Những ngày tốt trồng bầu, bí, mướp:

Có 6 ngày là Giáp Tý, Ất Sửu, Tân Tỵ, Canh Tý, Nhâm Dần và Ất Mão.

Những ngày tốt trồng rau:

Có 4 ngày là Nhâm Tuất, Mậu Dần, Canh Dần, Tân Mão.

82

Những ngày tốt trồng gừng:

Có 5 ngày là Giáp Tý, Ất Sửu, Tân Mùi, Nhâm Thân và Tân Mão.

Những ngày tốt trồng đậu (đỗ):

Có 7 ngày là Canh Tý, Nhâm Tuất, Nhâm Thân, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Tân

Mão và Mậu Thân.

Những ngày tốt gặt hái:

Có 11 ngày là Giáp Tý, Nhâm Thân, Quý Dậu, Ất Mão, Tân Tỵ, Nhâm Ngọ,

Quý Mùi, Canh Ngọ, Quý Mão, Giáp Thìn và Ất Dậu7.

Ngoài ra còn có việc chọn ngày tốt để bắt chó, bắt lợn về nuôi, ngày làm

chuồng trâu, bò…

Còn với người Thái, họ kiêng gieo trồng vào các ngày “Cắt” (ngày Kỉ), tương tự

như người Việt kiêng gieo trồng vào các ngày Tí, vì sợ chuột sẽ ăn hạt giống.

Người Thái kiêng bắt đầu làm ruộng làm nương vào các ngày của từng tháng

như sau:

Tháng giêng ngày Tý, Tỵ thì chim ăn -

Tháng hai ngày Ngọ, Sửu chim ăn. -

Tháng ba ngày Dần, Tỵ chim ăn. -

Tháng tư ngày Ngọ, Mão chuột ăn -

Tháng năm ngày Thìn, Dậu chim ăn -

Tháng sáu ngày Tuất, Tỵ chuột ăn -

Tháng bảy ngày Ngọ, Hợi nai ăn. -

Tháng tám ngày Mùi, Tý ma ăn -

Tháng chín ngày Thìn, Tý bị vàng lá -

Tháng mười ngày Dần, Dậu mối ăn -

Tháng mười một ngày Tuất, Dần chim ăn. -

Tháng mười hai ngày Hợi, Thìn kiến ăn. -

Ngày làm chuồng lợn: ngày Giáp Tý, Mậu Thìn, Nhâm Thân, Quý Hợi.

Còn người Việt kiêng làm chuồng trâu vào những ngày sau: Giáp Tý, Ất Tỵ, 7 Theo ông Lê Minh Hưng, Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương – CRPAOA. Tư liệu thực địa của tác giả tháng 4 năm 2010.

83

Canh Ngọ, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Canh Thìn, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Canh

Tý và Canh Dần.

Ngày làm chuồng gà: Ất Sửu, Mậu Tuất.

Ngày đi làm ăn tốt nhất trong tháng, tức là những ngày xuất hành ra khỏi nhà

để đi làm:

Tháng giêng ngày Ngọ, Thân, Dậu. -

Tháng 2 ngày Dần, Mão, Dậu. -

Tháng 3 ngày Tuất, Dậu, Ngọ -

Tháng 4 ngày Tý, Hợi, Dậu, Mùi -

Tháng 5 ngày Mão, Dậu, Thìn, Tý. -

Tháng 6 ngày Tý, Mão, Thìn, Dần. -

Tháng 7 ngày Dần, Ngọ, Tỵ, Thìn, Dậu. -

Tháng 8 ngày Dần, Dậu, Ngọ. -

Tháng 9 ngày Tuất, Hợi, Thìn, Tỵ. -

Tháng 10 ngày Dần, Hợi, Ngọ, Dậu, Mùi. -

Tháng 11 ngày Dần, Hợi, Mùi, Tỵ, Dậu. -

Tháng 12 ngày Dần, Mùi, Thìn, Thân, Mão. -

Trong đó ta thấy 9 ngày Dậu, 7 ngày Dần, 5 ngày Ngọ, 5 ngày Thìn, 4

ngày Mão, 4 ngày Mùi, 4 ngày Hợi, 3 ngày Tỵ, 3 ngày Tý, 2 ngày Thân, 2 ngày

Tuất, Có lẽ ngày tốt trong tháng để đi làm ăn là Dậu, Dần, Ngọ, Thìn.

Xem ngày sấm chớp trong năm mới để lo liệu sản xuất, bất cứ tháng nào

cũng vậy:

- Ngày Tý: lúa tốt bời bời, người đau ốm nhiều

- Ngày Sửu: lúa tốt, người tốt

- Ngảy Dần: lúa tốt một nửa

- Ngày Mão: lúa tốt, người, lợn, gà không tốt.

- Ngày Thìn: lúa bị vàng lá, người không tốt nhiều

- Ngày Tỵ: lúa, người, lợn, gà đều tốt

- Ngày Ngọ: lúa, người, lợn, gà rất tốt.

84

- Ngày Mùi: lúa lên tốt nhưng lại bị vàng lá, người bị ốm đau nhiều.

- Ngày Thân: lúa không tốt bị sâu bệnh nhiều.

- Ngày Dậu: lúa, người đều tốt, không có con phá hoại.

- Ngày Tuất: lúa tốt, nhưng người lại ốm đau nhiều.

- Ngày Hợi: lúa không tốt, nhưng người lại tốt.

3.2.4. Một số cách tính ngày cho những công việc khác

Xem ngày giờ mất của: 

Mất ngày Tý, giờ Tý: người mặt đen lấy hoặc người mặt trắng lấy. -

- - Dần: người mặt không được. -

- - Mão: người lười lấy còn được. -

- - Thìn: người con trai lấy, con gái bỏ chồng -

mất thật.

- - Tỵ: thấy người lấy, còn được không mất. -

- - Ngọ: người trong nhà lấy, còn được không mất. -

- - Mùi: người mặt rỗ lấy, còn được. -

- - Thân: người con trai ở gần lấy, còn đựơc. -

- - Dậu: người mặt đen lấy trộm, còn được. -

- - Tuất: của to còn được, người mặt đen lấy. -

- - Hợi: người mặt đen lấy, còn được. -

 Xem ngày đánh giặc: (dệt xớc đom phén phạ)

Ngày Tý giờ Thìn: một người đánh thắng trăm người. -

Ngày Sửu, giờ Tuất: một người đánh thắng trăm người. -

Ngày Dần giờ Tỵ: một người đánh thắng năm trăm người. -

Ngày Mão giờ Tỵ, giờ ngọ: một người đánh thắng 500 người. -

Ngày Thìn giờ Mùi: một người đánh thắng 500 người. -

Ngày Tỵ đi giờ Thìn: một người thắng trăm người. -

Ngày Ngọ đi giờ Mão: một người thắng một trăm người. -

Ngày Mùi đi giờ Thìn: một người thắng một trăm. -

Ngày Thân đi giờ Tỵ: một người thắng bảy trăm -

85

Ngày Dậu đi giờ Tỵ, ngọ: một người thắng bảy trăm -

-

Ngày Tuất giờ Mùi: một người thắng một trăm. Ngày Hợi giờ Thân: một người thắng một trăm.8 -

Ngoài ra còn xem từng ngày đi có bị chiếu ngôi sao tướng nào không,

ngày như thế nào là đánh thắng giặc còn nhiều bài giải thích chưa kể ra hết được.

 Xem giờ gà mái gáy: (Gà mái gáy theo người Việt thì đó là một điều

không tốt nên thường gọi là “gà mái gáy gở”), còn đối với người Thái, họ lại có

cách xem độc đáo khác:

Gáy giờ Tý, Sửu, Dần thì tốt, vừa lòng. -

Gáy giờ Mão: có việc quan -

Gáy giờ Thìn: có khách đến nhà -

Gáy giờ Tỵ: được uống rượu, ăn thịt. -

Gáy giờ Ngọ, giờ Mùi: có việc đến bản thân. -

Gáy giờ Thân: có việc đến bản thân. -

Gáy giờ Dậu có người kiện. -

Gáy giờ Tuất: phòng lửa thật tốt. -

Gáy giờ Hợi rất xấu. -

Ta thường quen với việc xem các hiện tượng trên cơ thể mình khác thường là

điềm báo một cái gì đó như nóng ruột hay “sốt ruột” là có ai đang mong chờ, hắt

hơi, nháy mắt là có ai đang nhắc tới hoặc đang nói xấu…nóng tai là có người đang

mong hoặc nhắc tới. Đối với người Thái, họ cũng có cách tính đó nhưng là các hiện

tượng khác như:

 Ngày nóng mặt:

- Ngày Tý: được vui đón. - Ngày Sửu: có việc.

- Ngày Dần: có khách đến. - Ngày Mão: được uống rượu, ăn thịt.

- Ngày Thìn: Có khách đến. - Ngày Tỵ: có người đến.

8 Theo tài liệu chữ Thái cổ của ông Lường Văn Hiết, thầy Mo bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố Sơn La. Tư liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

- Ngày Ngọ có người đến. - Ngày Mùi: có việc trong lòng không yên tâm

86

- Ngày Thân: không biết được gì.

- Ngày Dậu: nhìn thấy vật lạ thiêng.

- Ngày Tuất: có hiện tương không lành mạnh trong người.

- Ngày Hợi: không việc gì.

 Ngày váng tai: (mự pĩnh hu)

Ngày Tý: có lời đến không biết tốt xấu. -

Ngày Sửu: hại trước tốt sau. -

Ngày Dần mất của. -

Ngày Mão: người ta nghĩ đến hoặc có khách đến chơi. -

Ngày Thìn: có khách đến nhà. -

Ngày Tỵ: có việc đến. -

Ngày Ngọ: được của. -

Ngày Mùi: chửi nhau. -

Ngày Thân: được vui đón. -

Ngày Dậu: tốt. -

Ngày Tuất: hồn về nhà. -

Ngày Hợi: tốt -

 Ngày sặc nuốt nước bọt: (xa mặc nặm xĩ lãi)

Ngày Tý được uống rượu, ăn thịt. -

Ngày Sửu: được uống rượu, ăn thịt. -

Ngày Dần anh em có việc đến thăm. -

Ngày Mão: có việc đến. -

Ngày Thìn: có việc đến. -

Ngày Tỵ: có lời nhắn đến hoặc có việc đến. -

Ngày Ngọ được vui đón. -

Ngày Mùi sẽ được gì. -

Ngày Thân tốt. -

Ngày Dậu: mất của -

Ngày Tuất có việc -

87

Ngày Hợi: tốt lành. -

3.2.5. Cách xem số phận con ngƣời

Mỗi người Việt đều có một lá số tử vi của riêng mình, trong đó ghi rõ giờ,

tháng, năm sinh, lá số tử vi ấy do những thầy số, thầy bói toán làm nên hoặc cũng

do những người am hiểu tử vi, bói toán, những người tinh thông nho học lập ra lúc

mới sinh. Lá số tử vi ấy đi theo con người suốt cuộc đời người, nó không chỉ là ghi

lại ngày, tháng, năm sinh mà còn phỏng đoán số phận của con người đó.

Người Thái không có lá số tử vi cho mỗi người nhưng họ biết cách xem số

phận một con người rất độc đáo. Họ có nhiều cách xem khác nhau cũng như người

Kinh xem tướng, xem ngày sinh, xem đường chỉ tay…

3.2.5.1. Tính theo giờ, ngày, tháng, năm sinh

 Nguyên tắc là: Năm là thịt, tháng là xương, ngày là da, giờ là máu.

 Năm, tháng, ngày, giờ sinh đều tương ứng với 12 ngày thuộc hệ chi.

Ví dụ: một người sinh vào năm con ngựa, tháng con dê, ngày con chuột, giờ

con rắn chẳng hạn. Ta thấy thịt rất to, xương thì vừa, da rất ít, máu cũng rất ít. Có

thể phỏng đoán: da không phủ được xương và cũng không phủ nổi thịt, máu không

nuôi nổi thịt, xương. Người này làm ăn vất vả, làm không đủ nuôi sống bản thân.

Nếu người nào đó sinh năm, tháng, ngày, giờ cùng một con thì rất tốt, con người

sung sướng.

3.2.5.2. Xem năm, tháng, ngày, giờ theo giả thiết định sẵn

Ví dụ: sinh năm con chuột, tháng con chuột, ngày con chuột và giờ cũng

là con chuột thì lời giải như sau:

Năm con chuột (Tý): sinh ra 20 tuổi thì sung sướng, không ốm đau, có khi

trắc trở một lần. Được 50 tuổi thì có thể làm trái người ta. Được 60 tuổi bị hạn một kỳ,

được 80 tuổi, tháng 10, giờ trưa thì chết hẳn, được ăn sức con 4 người.

Một số phỏng đoán cho người tuổi Tý như:

Canh Tý: Người tuổi này đón nhiều con dâu vào tay, lên hết đỉnh núi

mới già, sống đến già không chết.

88

Nhâm Tý: sinh tuổi này khổ, suốt đời mong mỏi khắc khoải cố chờ con ,

về già đuối sức thì mất.

Giáp Tý: Tuổi này số trời cho xuống làm quan, sống hạnh phúc.

Người sinh năm Sửu: phần lớn những người tuổi này sinh ra đến 20 tuổi thì

tốt đẹp. 30 tuổi bị kẻ khác hận thù. 60 tuổi bị chết hụt. 81 tuổi, tháng Mười, giờ trưa

thì chết hẳn. Có 7 người con có hiếu…

Năm Hợi: sinh ra đến 10 tuổi thì bị chết hụt. Đến 20 tuổi bị chết hụt lần nữa.

Đến 60 lại bị chết hụt lần nữa. Năm 88 tuổi, tháng Mười, giờ chập tối mồng 2 thì

chết hẳn. Có 4 người con có hiếu.

Theo người Thái thì những năm kỵ, chết hụt, nếu cúng bái trước sẽ qua khỏi.

Trong lịch Thái về năm, tháng, giờ thì chỉ lấy chu kỳ 12 hệ chi, nhưng ngày thì tính

chu kỳ 60 ngày.

3.2.5.3. Phỏng đoán số phận con ngƣời qua trọng lƣợng theo ngày, tháng,

năm sinh

Đây là cách đoán số phận con người qua trọng lượng trẻ sơ sinh. Lúc đứa trẻ

vừa sinh ra bố mẹ, ông bà đứa trẻ sẽ nhớ giờ, ngày, tháng, năm sinh để ông Mo tính

ra “cân nặng” (cân nặng ở đây không phải là lúc đứa trẻ sinh ra nặng bao nhiêu mà

tính sinh giờ nào, tháng nào), sau đó phỏng đoán.

Trong phương pháp này có ghi:

- Giờ cao nhất là 1,6 lạng là giờ tý, thấp nhất là giờ sửu, tuất, hợi. Giờ sửu là

0.6 lạng, giờ dần là 0.7 lạng, giờ tuất cũng là 0.6, giờ hợi 0.6 lạng.

- Ngày cao nhất là 1,8 lạng, ngày 18. Ít nhất là 0,5 lạng là ngày 1, 19

- Tháng cao nhất là tháng 3 Âm dương lịch tương đương với tháng 9 lịch

Thái là 1,8 lạng, ít nhất là 0,5 lạng là tháng 5, 12 Âm lịch tương đương với tháng

11, tháng 6 lịch Thái.

Số lời giải có từ 2,2 cho đến 7,1 lạng .

Hai lạng hai: Thân lạnh xương rét, một thân một mình kham khổ, làm không

đủ ăn, phải đi ăn xin, chân tay cả đời không được nghỉ.

89

Hai lạng ba: Tướng này phúc không cao, làm việc gì cũng khó, phải đi nhiều

nơi để kiếm sống.

- …

Bảy lạng mốt: Làm quan lớn, làm gì cũng may mắn, thông minh nhiều chữ

nghĩa, mọi người nể nang.

Ví dụ: Một người sinh vào giờ Tý: 1,6 lạng

- tháng giêng: 0,6 lạng

sinh ngày 18: 1,8 lạng

---------------

4 lạng

Lời giải: Đời người sinh ra ăn mặc đầy đủ, mọi việc đều nằm trong óc, qua

sương gió gian nan về sau đời người cũng được ăn ở yên vui.

3.2.5.4. Xem cẩu cong hõng phữm

Đây chỉ xem tháng và ngày theo chu kỳ 12 của chi. Có 12 lời giải khác nhau

của: cẩu coong, hõng phữm, phữm lót, phữm lải, xủ pặc, hặp xảy, hặp tai, khuẩm

đay, xảy chẩu, xảy xin, tãi pao, xẽo pao.

Ví dụ: sinh tháng 6, ngày tý là tãi pao: đây là người biết xem giấy tờ các loại,

nghĩa là học giỏi.

Mự cẩu coong: Ngày chết đến cùng hoạn nạn, ngày ốm đến cùng đệm chăn.

Mự hõng phữm: Ngày ốm không đến cùng đệm chăn.

Mự xẽo pao: Khoác túi hoa đi khắp bản, đeo kiếm vằn đi khắp mường.

Trên đây là cách tính lịch và áp dụng vào các công việc trong cuộc sống như:

làm nhà, cưới vợ, làm ăn…Đó cũng chính là cách dùng lịch của họ.

Ngoài các cách xem trên thì còn một cách xem khác dựa trên hình vẽ và phần

giải thích cho từng tuổi trong sổ Chong bang. Phần này gồm 60 hình vẽ khác nhau

tượng trưng cho các tuổi của con người khác nhau. Ở mỗi tuổi sẽ minh họa bằng các

hình vẽ người hoặc các hình rồng, hoa khác, đó là cách đoán định tương lai về sau

cho mỗi người ứng với tuổi đó. Ví dụ, người sinh năm Canh Ngọ vẽ hình một viên

90

quan bên bầu rượu thì người này về sau được làm quan, hưởng cuộc sống an nhàn.

Với người sinh năm Kỷ Mùi, Canh Thân là những hình vẽ cây cột treo nhiều heo

(cờ ma): những người khi mất sẽ có đám ma to riêng tuổi Kỉ Mùi thì có người nằm

bên dưới cờ tức là ốm nặng rồi chết. Những hình vẽ có người gồng gánh là người có

số phận thường phải vất vả buôn bán làm ăn như tuổi Mậu Thìn….

Tiểu kết chương 3

Không chỉ dùng lịch để tính thời gian mà người Thái đen còn dùng lịch để áp

dụng vào một số công việc trong đời sống thường ngày. Cũng giống như người Việt,

người Thái cần dùng lịch chọn ngày lành, tháng tốt để tiến hành các công việc quan

trọng như dựng nhà, cưới vợ, gả chồng…Trong cách phỏng đoán số phận của con

người, lịch Thái không những chỉ dựa trên các yếu tố ngày, tháng, năm sinh để phỏng

đoán bằng nhiều cách khác nhau mà còn có những hình ảnh sinh động để minh họa

cho cuộc đời của một con người.

Người Thái đen còn áp dụng lịch trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Nó

không chỉ được áp dụng để tính nông lịch mà còn được tính trong các hoạt động

kinh tế và xã hội. Lịch con được áp dụng để đoán trước các sự việc qua các biểu

hiện sinh học của con người như hắt hơi, máy mắt, váng tai (ù tai), sặc nước

bọt…Đó cũng là một trong những nét đặc sắc của lịch Thái.

Như vậy, lịch gắn bó chặt chẽ với những sinh hoạt cộng đồng của người Thái

đen ở Sơn La. Có thể thấy rằng, mọi khía cạnh của cuộc sống đều được dùng đến lịch,

nó có một vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng ở đây.

91

CHƢƠNG 4. LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở SƠN LA

HIỆN NAY

4.1. Lịch và nông lịch truyền thống

4.1.1. Sử dụng lịch truyền thống

Ngày xưa, khi lịch chưa phổ biến như hiện nay, người biết và am hiểu về lịch

Thái rất ít và lúc đó các loại lịch của người Kinh cũng chưa có ở vùng người Thái.

Muốn dùng lịch người Thái phải nhờ đến ông mo trong bản xem ngày giúp các việc

quan trọng như làm nhà, cưới xin, xem tuổi. Đối với các công việc như đi săn, đi

làm ăn, ngày thả trâu vào thung lũng và ngày lùa trâu ra thì người dân nắm rõ hơn

bằng phương pháp xem “ca lã hả”, đó là các công việc thường ngày có thể tự tính

được. Người Thái khi tiến hành một công việc hệ trọng nào đấy thường quan tâm

đến một số ngày như vên ók (ngày sinh), vên tông (ngày cúng tổ), mự hua đỏn (ngày

bố mẹ mất), mự xeng pháy phạ (ngày thiêu xác bố mẹ)… Những ngày này người ta

thường tính theo ngày can, nghĩa là mười ngày một lần sẽ có những ngày đó.

Riêng mự vên tông (ngày cúng tổ tiên): Mỗi một dòng họ sẽ quy định lấy

một ngày nhất định để làm ngày cúng tổ của mình. Vào ngày này, người ta sẽ có

mâm cơm đặt lên góc thờ (cọ lọ hóng) và đọc bài khấn tổ tiên đại ý là mời các cụ tổ

tiên đến ăn cơm và phù hộ cho con cháu khoẻ mạnh làm ăn phát triển. Mâm cơm

cúng không cần cầu kỳ, hôm đó gia đình có gì ăn thì cúng thứ đó. Kể cả không có

thịt cá cũng không sao. Tất nhiên đến ngày đó nếu có điều kiện thì gia đình thường

có bữa cơm tươi hơn. Nhưng ngày đó không ai được ăn trước khi cúng, thậm chí

nếm cũng không được. Sau khi cúng xong, mọi người mới được ăn. Ngày hôm đó

phải thay nước “bẳng nặm tông” (ống nước để thờ tổ).

Ngày xưa người ta kiêng không lên nhà mới, không đi mừng nhà mới người

khác, không đi bắt thuỷ sản vào các ngày đó.

Vên ók nhá lông, Vên tông nhá khửn

(Ngày sinh không xuống, ngày giỗ không lên)

Vên ók nhá pay đông, Vên tông nhá pay xỏn.

(Ngày sinh không vào rừng sâu, ngày giỗ không đi xúc cá)

92

Có một số công việc mà chỉ có người xưa mới xem như xem ngày lành,

tháng tốt để đi đánh giặc, chắc những ngày này chỉ có các cụ như cụ Lạng Chượng

mới cần xem. Còn ngày nay hòa bình không có giặc, không chiến tranh nữa nên

không được xem nhiều.

Người Thái đen xưa hay dùng lịch Thái để tránh làm các việc mà ngày nay

không còn nữa, ví dụ như việc cúng bà mụ trong nhà, cúng tìm hồn, đi thăm đám

ma – người Thái gọi là đi khóc người chết. Tháng 12 (lịch Thái) thì kiêng cúng bà

mụ vào ngày Mệt (Tuất), tháng 11 ngày Hậu (Dậu), tháng 10 vào ngày Xăn (Thân),

tháng 9 vào ngày Một, tháng 7 là các ngày Mệt, ngày Mẩu (xưa là con ong nay là

ngày con mèo)…

Nếu người Việt có câu: “Sinh dữ tử lành” là chọn ngày để đi các công việc

liên quan đến sinh, tử như họ kiêng không đi thăm các bà mẹ mới sinh con vào đầu

tháng vì sợ đen đủi, còn đi đám hiếu thì không sao.

Với người Thái xưa kiêng không đi khóc người chết vào các ngày sau: tháng

12, 11, 10, 9, 8 thì kiêng vào 2 ngày: ngày Mẩu (Mão) và ngày Nhi (Dần), tháng 6

kiêng các ngày Xảu, Nhi, Chảu. Tháng 3 kiêng ngày Nhi, ngày Một. Qua đó, ta thấy

người Thái kiêng phổ biến trong các ngày Nhi và Mẩu (Mão và Dần).

Ngoài ra người Thái còn xem một số ngày xem để biết ngày nào đó, trong

nhà có chuyện gì như khách đến chơi hoặc có ai bị ốm…

Là cư dân ở miền núi nên người Thái thường chăn nuôi đại gia súc. Xưa

người Thái nuôi rất nhiều trâu, nhà giàu thì có đến hơn chục con trâu, thêm mấy con

bò, đó là những tài sản quý nên họ rất chú trọng chăm sóc chúng. Họ không chăn

thả theo kiểu cắt cỏ hoặc chăn từng con riêng lẻ như người Việt được vì số trâu bò

quá nhiều. Cách họ thả trâu bò cũng thật độc đáo, họ đeo mõ cho trâu, bò nhờ tiếng

mõ mà phát hiện ra nó ở chỗ nào trong rừng sâu. Đuổi đàn gia súc vào rừng ăn rồi

trong mấy ngày lại cho người vào đuổi chúng về nhà. Nhưng họ không thả trâu vào

lũng tùy tiện mà phải chọn ngày. Muốn chọn ngày nào thì họ xem sổ Chong bang,

trong đó có hình tròn được chia ra làm 12 phần tượng trưng cho 12 tháng trong

năm, mỗi phần nhỏ có vẽ từ 1 đến 3 con trâu. Tháng nào mà có nhiều trâu quay vào

93

tâm của hình tròn (3 con cùng quay vào) thì đó là ngày tốt để lùa trâu vào lũng,

tháng nào có 3 con trâu quay ngược lại thì đó là ngày tốt để lùa trâu ra, tháng nào

mà vẽ hai con trâu quay mông vào nhau là ngày xấu, không nên mang trâu đi thả

hoặc mang về nhà. Hình nào có hai con cùng một hướng là tạm được, một con thì

không nên làm.

Cách xem ngày đi thả trâu giờ không còn ai xem nữa, vì hiện nay số lượng

trâu bò mỗi nhà không còn nhiều, chỉ có 1 hoặc 2 con nên thường cho trẻ con đi thả

hoặc đuổi vào rừng cho ăn rồi tối trâu bò tự về nhà.

Cách sử dụng lịch truyền thống thì tôi đã trình bày một phần ở Chương 4 và

phần trên. Hiện nay, một số công việc như chọn ngày thả trâu, chọn ngày đi săn, đi

đánh giặc…không còn được dùng nhiều nữa, nhưng có một số sinh hoạt mà người

ta cần dùng đến lịch như chọn ngày cúng tổ tiên, chọn ngày đi thăm người ốm, chọn

ngày đưa cô dâu về nhà chồng…

4.1.2. Lịch và cách sử dụng lịch của ngƣời Thái hiện nay

Cùng với vận mệnh đất nước, cộng đồng người Thái ở Tây Bắc và ở Việt

Nam cũng đi qua hai cuộc chiến tranh. Rồi đất nước thống nhất, bước qua thời kì

kinh tế tập thể khó khăn sau đó bước vào thời kì đổi mới. Giao lưu về kinh tế và

hàng hóa được thông thương. Đời sống của người Thái có nhiều thay đổi lớn, có

những giá trị truyền thống đã mất đi nhưng cũng có những giá trị vẫn còn giữ được

đến ngày nay. Trong sinh hoạt hàng giờ đây rất phổ biến lịch Dương, lịch Âm -

Dương được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: lịch tờ treo tường, lịch

block, lịch sổ, lịch quyển, lịch để bàn…rất đa dạng và phong phú. Trong bối cảnh

đó, lịch Thái không những không mất đi những giá trị vốn có của nó mà còn được

phát triển mạnh mẽ hơn. Trước những 1990, có một số nhà nghiên cứu trong Mạng

lưới bảo tồn tri trức bản địa như ông Hà Long, ông Lò Văn Lả thực hiện việc biên

soạn lịch Thái và đưa vào sử dụng, nhưng do chưa có kinh nghiệm nên lịch bị sai

sót. Đến năm 1990, ông Cà Văn Chung và cán bộ Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh

Sơn La biên soạn và đưa lịch Thái vào sử dụng trong đời sống hàng ngày. Lịch Thái

được in kèm với lịch Âm - Dương Việt Nam, Dương lịch để bà con tiện tra cứu và

94

sử dụng. Như vậy là ở Sơn La người Thái đen dùng 1 loại lịch tờ mà có 3 lịch kết

hợp đó là lịch Thái, lịch Âm - Dương và lịch Dương (Xem phụ lục ở phần sau).

Hiện nay, ông Cà Văn Chung cùng các cán bộ ở Sở Khoa học và công nghệ tỉnh

Sơn La còn nghiên cứu và tạo ra phần mềm tra cứu lịch Thái với Âm – Dương lịch

trên máy tính, phần mềm này rất tiện ích cho những người sử dụng thông thạo máy

tính trong việc tra ngày tốt để làm việc. Trong cuộc sống hiện đại, người Thái

không chỉ còn là những người làm nông thuần túy nữa, giáo dục phát triển, người

Thái đi học và phát triển tri thức của mình, họ làm nhiều ngành, nhiều nghề khác

nhau. Là cán bộ nhà nước, công nhân, giáo viên, doanh nhân…với những người làm

công việc đó thì tất nhiên họ phải dùng lịch Dương trong công việc nhà nước và

giao dịch, đó là điều tất yếu trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Trong lịch Thái hiện

đại, không chỉ có chữ Thái cổ mà còn có chữ Thái phiên âm cho dễ đọc. Vì thế, nó

không chỉ được người già đón nhận mà cả lớp thanh niên trẻ cũng yêu thích và sử

dụng. Trong công việc giao dịch thì dùng lịch Dương theo nhà nước quy định.

Trong các công việc truyền thống như chọn ngày cưới, đi thăm người ốm thì dùng

lịch Thái. Bà Quàng Thị Miến, Chủ tịch Hội phụ nữ xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn

La cho biết: “Những công việc liên quan đến nhà nước như công tác phụ nữ trong

xã thì dùng lịch dương, nhưng hàng tháng tôi vẫn xem lịch Thái để biết ngày cúng

ông bà, ngày đi thăm người ốm”. Trong quá trình điền dã ở Sơn La, tôi đã tìm hiểu

và biết rằng tỉ lệ những hộ gia đình dùng lịch Thái chiếm một số lượng lớn. Theo số

liệu tôi thống kê được, thì số hộ dùng lịch Thái kết hợp với nông lịch là 100%, số

hộ dùng lịch Thái kết hợp với hai loại lịch hiện đại là 70%. Nhà nào cũng dùng lịch

Thái kết hợp với nông lịch. Hàng năm, Sở khoa học và công nghệ Sơn La in và bán

lịch cho bà con nên việc mua lịch cũng khá dễ dàng.

4.2. Sức sống của nông lịch Thái

Xác định mùa vụ trong năm là một điều không thể thiếu được, đó là một

khâu quan trọng trong cả một năm sản xuất.

Lập Thu mới cấy lúa mùa

Khác nào hương khói lên chùa cầu con

95

Người Thái phân loại ruộng thành nhiều hạng tốt xấu khác nhau để đặt giống

lúa cho thích hợp. Hệ thống thủy lợi: mương, phai, lái, lin đã đạt trình độ cao ở

vùng thung lũng. Giống như người Việt thì người Thái làm ruộng lỡ vụ cấy không

khác gì người thất tình – day dứt, bực dọc, bi thảm:

“Lòng bồn chồn tựa làm ruộng muộn mùa

Tựa gieo mạ hôm nay phải cấy mai, kia”

Cho nên người ra đã đặt ra những câu tục ngữ để nhớ: “làm ăn có tháng,

làm nhà có ngày” [35, tr. 105 – 106] để luôn xác định thời vụ gần khớp thời tiết.

4.2.1. Nông lịch truyền thống của ngƣời Thái ở Sơn La

Ngày xưa chưa có cơ quan nhà nước chỉ đạo về sản xuất, người dân tự xác

định thời vụ cho cây trồng. Sau hòa bình lập lại năm 1954, Ty Nông nghiệp là cơ

quan xây dựng các quy trình sản xuất cho các loại cây trồng, trong đó có thời vụ.

Đến năm 1979, sau khi thành lập Uỷ ban Khoa học kỹ thuật tỉnh thì mới chính thức

có cơ quan xuất bản lịch chỉ đạo sản xuất, gọi là Nông lịch. Từ đó hàng năm, Nông

lịch gửi tới các địa phương và các cơ quan liên quan. Nội dung chủ yếu gồm 4 phần

chính: (1) Lịch hàng năm; (2) Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn của từng tháng trong

năm; (3) Chỉ đạo thời vụ sản xuất cho từng tháng; (4) Lịch phòng bệnh, dược liệu.

Ngoài ra, còn có cả một số nội dung phổ biến kỹ thuật như cách trồng, nuôi một số

loại cây con mới, cách phòng một số bệnh phổ biến... Đến năm 1990 thì đưa lịch

Thái vào phần lịch hàng năm (chữ phiên âm), năm 2007 thì đưa cả phần chữ Thái.

Trước khi có nông lịch chính thức thì người Thái xưa cũng có nông lịch cho sản

xuất mùa vụ bằng những kinh nghiệm tích lũy được qua hàng ngàn năm.

Trong các sách về lịch (sổ Chong bang hay Đu mự) tuy không nói đến mùa

vụ trồng cấy nhưng có lịch chọn ngày trồng cấy như phần trên đã trình bày, Tuy

nhiên trong dân gian nông dân đều nắm chắc kinh nghiệm sản xuất được thể hiện

qua ca dao, tục ngữ.

Để xác định đúng mùa vụ thì trước hết cần tính được thời gian trong năm,

người Thái tính tháng gần khớp với các hiện tượng thời tiết như: “Bươn Chiêng

96

phôn líu li, Bươn Nhi ti phôn ti báu, Bươn Xam nặm dam ta…” nghĩa là: “Tháng

Giêng mưa rả rích, tháng Hai nơi mưa nơi không, Tháng Ba nước đầy bến…”.

Hoặc kinh nghiệm đoán thời tiết qua các hiện tượng thiên nhiên:

Phạ chí đét đao chôm, phạ chí phôn đao dỏn.

Trời sắp nắng sao chìm, trời sắp mưa sao nổi.

Phả têm phạ hứ phôn

Đao têm bôn hự đét

Mây đầy trời thì mưa

Sao đầy trời thì nắng.

Phạ đăng cón báu hón phôn.

(Sấm chớp trước không mưa)

Phạ chí phôn au lốm lốm má ảng

Trời sắp mưa thường khoe gió trước .

Mau ók hữ phôn, mau hôn hữ đét.

(Mối ra thì mưa, mối lui thì nắng).

Hoặc: Mối ra lỗ - mưa

Mối đùn lỗ - nắng.

Họ cũng có những câu so sánh hết sức thú vị về hiện tượng thiên nhiên và

con người như:

Phạ chí chôn chôn phả,

Lả chí hạng chôn quám

Trời sắp mưa, mây dồn

Người sắp bỏ hay chê.

Phôn báu khảm si, khảm sảu

Đét báu khảm kạư, khảm mệt.

Mưa không quá Thìn, Tị

Nắng không quá Tuất, Hợi.

Bươn tữ cúp đếck nặm nõng.

Bươn tữ cúp tõng phạ lạnh.

97

(Trăng đội nón sắt thì lũ lụt

Trăng đội nón đồng thì hanh khô).

Họn ẩu phôn, lỗm dên đét.

(Trời oi bức sắp mưa, trời gió mát sắp nắng)

Phạ lương lanh Tãy Thanh dák khẩu

Tãy chẩu dák mẵn

Tãy Chiễng Chăn khí puỗn chaư lạ

Tãy Huổi Phạ kin nó lẫu phâu.

(Trời vàng đỏ người Mường Thanh bị đói

Người mường mình không có củ mà ăn

Người Chiềng Chăn buồn chán

Người Huổi Phạ ăn măng lau thui (thay cơm).

Cũng như người Việt xưa, người Thái ở Tây Bắc sống nhờ nông nghiệp thế

nên ruộng đồng, nương, nghề làm ruộng, làm nương với họ:

Nghề làm ruộng, nương thì:

Mắt nhắm lòng không ngủ

Tự chủ lo trăm bề

Gà chưa gáy, bảo gáy

Trời chưa sáng, bảo sáng.

Không những vất vả là thế mà với họ thời vụ vô cùng quan trọng, muốn

trồng cây lúa được tốt họ phải có kinh nghiệm chọn đất, chọn mạ (chọn giống để

trồng), thứ quan trọng nhất là nước (nước mưa – nước trời).

Nặm mã nã to lậu, khẩu bản nghĩn xiêng hua

Nặm mã nã hĩ hãi, tễnh lai lo dák khẩu.

(Nước đến ruộng bằng kho, vào bản nghe tiếng cười

Nước về ruộng ít ỏi, mọi người lo đói kém)

Nhưng nước mưa ở trên trời, là của Trời, muốn có phải biết lợi dụng nó

đúng lúc thì mới có lợi.

Ngẫn cẵm khong phi phạ

98

Khẩu nặm khong phi then

Phaư hãnh khen mẵn đảy.

Tiền bạc của chúa Trời

Gạo nước của chúa Then

Ai khỏe tay thì được.

Việc chọn đất, chọn giống sao cho thích hợp. Đất rất quý và mỗi loại đất ứng

với một loại cây trồng:

Tẳng hươn pung sau hẹ ha lúng ta

Dệt ná khớng ha chựa khảu púk

Làm nhà dựng cột gốc cần bên ngoại

Làm ruộng lo chọn giống.

Đất đen như châu báu

Đất màu như vàng ngọc

Không biết dùng thành miếng đất hoang

Hay phân loại ruộng, phân loại đất:

Đất đen trồng dưa

Đất đỏ trồng bầu.

*

Ruộng sâu mỏ thóc

Gái già kho của.

Rồi đến khâu chọn giống vô cùng quan trọng:

Làm ruộng lo mạ

Làm nhà lo gianh

*

Ruộng chờ mạ thì tốt

Mạ chờ ruộng thì không nên.

Có ruộng, có giống, có nước muốn có lúa gạo ngon thì cần phải làm đúng

ngày, đúng tháng (đúng thời vụ), sớm quá hay muộn quá đều không được. Xác định

99

thời vụ đúng là một công việc quan trọng của nhà nông ngay cả khi đã có nông lịch

của các cơ quan chức năng.

Dệt kin mĩ bươn, dệt hươn mĩ mự

(Làm ăn có tháng, làm nhà có ngày)

Làm đúng thời vụ là rất quan trọng, có tính chất quyết định tới mùa màng:

Chậu lai pộp nhả, tốk lả pộp phôn.

(Sớm quá thì lắm cỏ, muộn quá thì thừa nước)

Hua pi đăm xáư pá nhả cọ đảy kin

Lả pi đăm xáư búak quãi cọ báu đảy kin.

(Đầu năm trồng vào bãi cỏ cũng được ăn

Cuối năm trồng vào vũng trâu cũng không được ăn).

Vũng trâu ở đây có nghĩa là đất rất tốt.

Thậm chí nếu muộn quá thì cũng không được thu hoạch:

Dệt ná tậu bươn xam, Đảy phướng báu đảy khảu

Kin lảu tậu cáy khăn, Đảy lảu báu đảy nón

(Làm ruộng tận tháng ba, được rơm không được thóc

Uống rượu tận gà gáy, được rượu không được ngủ).

Như vậy, người Thái tính thời vụ, tức nông lịch, dựa trên yếu tố chính:

Căn cứ theo lịch:

Thời vụ căn cứ theo lịch ở đây khá chính xác, lịch trong truyền thống của họ

được tính theo mặt trăng.

Bươn sam, ná hám háy,

Hay hám bai,

Suôn chám đang hám hắc.

Tháng ba, ruộng đang cấy

Nương đang cào,

Vườn chàm đang thời cắt.

Bươn xíp năm hay khẩu, bươn cẩu năm hay lý.

(Tháng Mười gieo nương ngô, tháng Chín gieo nương lúa).

100

Bươn xíp cả tốc na lo.

Tháng mười, giảnh mạ cấy ruộng sớm.

Bươn xam khí mạ ha khẩu mán báu mí.

Bươn xí khắm cãn ha khẩu viển báu đảy.

(Tháng Ba cưỡi ngựa tìm đòng lúa không có

Tháng Tư cầm đòn gánh tìm lúa phơi ngoài đồng không được).

Ý của hai câu này là, đến tháng Ba (lịch Thái) lúa đã trổ bông hết, tháng Tư

lúa đã được thu hết về nhà. Biết điều đó để chọn thời gian gieo trồng cho đúng, nếu

không thì không được ăn cơm lúa mới.

Tháng chín gieo nương ngô

Tháng mười gieo nương lúa.

*

Tháng ba cây lúa thành ống sáo

Cuối tháng tư lúa gặt về xếp đống.

Căn cứ theo các hiện tượng tự nhiên để xác định thời vụ:

Mák tum xúk bán cả, mák hả xúk đăm ná

Mák mạ xúk năm hay.

(Quả đum đũm (mâm xôi) chín gieo mạ, quả “hả” chín cấy lúa

Quả “mạ” chín gieo (lúa) nương).

Quả đum đũm hay là quả mâm xôi là một loại quả phổ biến ở Tây Bắc, quả

thường chín vào tháng mười một lịch Thái (tháng Sáu dương lịch), là tháng bắt đầu

mùa mưa, đã xuất hiện các cơn lũ (bươn Xíp ết nặm nóng – Tháng Mười một nước

lũ), đó là tháng có thể gieo mạ.

“Mák hả”, quả của cây thân gỗ to, cũng như các ây cùng loại, quả thường

chín vào tháng Mười hai lịchThái (tháng Bảy dương lịch). Đó là một trong hai

tháng mưa nhiều nhất trong năm (Bươn Xíp xong nặm mả - Tháng Mười hai nước

nổi). Đó là tháng đã đủ nước để cấy lúa.

Còn “mák mạ” thì chín sớm hơn hai loại quả trên, nó chín vài khoảng cuối

tháng Chín, đầu tháng Mười lịch Thái (tháng 5 dương lịch). Là tháng đã xuất hiện

101

những cơn mưa rào, có thể gieo trồng các loại giống cây trên nương mà không sợ

hạn hán.

Ban kháng hứ chọk

Ban ngọk hưa chắng năm hay.

(Quả ban rơi xuống thì đốt nương

Quả ban nảy mầm thì gieo (lúa) nương)

Hoa ban thường nở vào tháng Bảy lịch Thái (dịp Tết – tháng Hai dương

lịch), sau đó hoa tàn và kết quả, đến tháng Chín (tháng Tư dương lịch) thì quả đã

già và hạt rụng xuống. Đây là tháng khô hanh, chuẩn bị đến mùa mưa, nên là thời

điểm đốt nương tốt nhất, nếu sớm quá thì cây chưa khô, và cỏ sẽ mọc lại. Nếu muộn

quá, sẽ gặp mưa, đốt không cháy hết. Quả ban rụng xuống nếu gặp cơn mưa thì sẽ

mọc mầm, cũng là thời kỳ gieo trồng thuận lợi nhất.

Mán ca tẳng hữ lao hay đông

Mán ca phông pay lao hay lấu.

(Hoa giềng rừng nở thì phát nương mới

Hoa giềng rừng tàn thì phát nương cũ).

Trên vùng Tây Bắc có một loại cây rừng giống cây giềng gọi là mán ca

(nên tạm dịch là cây giềng rừng), vào dịp tháng Bảy lịch Thái thì lên các chùm hoa,

ăn rất ngon. Đây cũng là một đặc sản ẩm thực Tây Bắc. Khi có hoa này cũng là dịp

để đi phát nương mới (ngày nay, người ta không đi phát nương mới nữa). Đến tháng

tám, khi hoa tàn thì người ta sẽ đi phát nương cũ để chuẩn bị đất gieo trồng. Sở dĩ

nương mới phải phát trước là vì phát nương mới là người ta đi chặt cây rừng lớn

nên cần có thời gian cho cây khô thì mới đốt được, còn nương cũ thì chỉ có cỏ và

cây nhỏ nên khô nhanh nên phát sau.

Hoặc cũng có câu tương tự như trên nhưng là loài hoa khác:

Cây sẹ ra hoa phát rừng già làm nương

Hoa sẹ lụi phát rừng non làm rẫy.

102

Như vậy, nông lịch mà tính theo cách cổ điển nhất của người Thái là tính

tháng theo mặt trăng để tính ra thời vụ, hoặc từ các hiện tượng thiên nhiên mà làm

nương, tra lúa, tra hạt cho đúng thời vụ.

Nông lịch và các cây trồng trong truyền thống của người Thái khác nhiều so với

bây giờ, đó là xu hướng chung trong sự phát triển mạnh mẽ khoa học kĩ thuật.

Với ruộng nước thì người Thái vẫn trồng lúa truyền thống từ xưa đến nay,

riêng với nương thì có nhiều thay đổi. Người Thái thường trồng khoai sọ, sắn, khoai

lang…Thêm những cây như vừng, lạc và trồng bông để lấy sợi dệt vải. Hay như

như tác giả Cầm Trọng thì: “lối làm ăn của người Thái xưa có thể có những loại

nương chuyên canh đồng thời xen canh như sau:

Nương lúa thường trồng xen vừng, lạc, dưa bở, bầu bí, khoai sọ

Nương ngô trồng xen đậu nho nhe, bí bầu

Nương kê trồng xen vừng, lạc, lúa miến và dành một khoảnh trồng lạc

Nương bông trồng xen dưa

Nương chàm có hai loại: chàm và hỏm

Ngày nay có nương sắn trồng xen ngô gối vụ” [34, tr. 113].

Bảng 4.1: Nông lịch truyền thống của ngƣời Thái đen ở Sơn La

CÔNG VIỆC TRONG CÁC THÁNG

Tháng Tháng Công việc trong tháng

Thái DL

Chiêng Tám Chăm sóc lúa mùa và các cây trồng vụ hè thu. Kết thúc cấy

mùa muộn vào giữa tháng; trồng bí xanh, đậu vụ thu đông. Nuôi

cá ruộng mùa, chăm sóc cá ao, hồ.

Nhi Chín Trồng rau cải, chăm sóc lúa mùa. Thu hoạch ngô và các cây

trồng khác trên nương. Bảo vệ chăm sóc cá ruộng. Mở cửa

rừng khai thác tre gỗ (hết mùa mọt).

Xam Mười Trồng cây vụ đông, chăm sóc cây vụ thu. Thu hoạch lúa

nương và lúa mùa sớm. Phơi cỏ khô dự trữ cho trâu bò. Thu

103

hoạch các loại cá ao hồ và cá ruộng. Chăm sóc cá giống lưu cho

năm sau. Cúng cơm mới. Tiến hành Lễ hội Hạn khuống và các

lễ hội mùa thu.

Xí M.Một Thu hoạch lúa ruộng, gieo mạchiêm. Thu hoạch ngô, đậu vụ

thu trồng sớm. Trồng rau vụ đông. Thu rơm, rạ, làm thức ăn

cho trâu bò. Thu hoạch cá thịt, cá ruộng. Phòng chống rét cho

cá giống qua đông. Khai thác lâm sản. Cúng cơm mới.

Hả M.Hai Cấy lúa chiêm, gieo mạ xuân sớm. Trồng bắp cải, bí xanh và các

loại rau vụ đông xuân. Thu hoạch ngô, đậu vụ thu. Phòng chống đói

rét cho gia súc, gia cầm, giữ cá giống qua đông. Chuẩn bị phát dọn

nương rẫy. Tiếp tục khai thác lâm sản.

Hốc Giêng Cấy xong lúa chiêm đầu tháng. Gieo mạ xuân chính vụ. Thu

hoạch và chăm sóc các loại rau đậu vụ thu đông. Phát nương

mới (lao hay), phòng chống cháy rừng. Phòng chống đói, rét

cho gia súc, gia cầm. Dự trữ thức ăn cho đàn trâu bò. Tiếp tục

khai thác lâm sản.

Chết Hai Gieo mạ xuân muộn vào các đợt ấm. Phòng chống rét cho mạ

và lúa mới cấy. Thu hoạch rau đậu vụ đông. Phát dọn nương rẫy

(lộc hay), chuẩn bị đất trồng cây trên nương. Tăng cường chăm

sóc nuôi dưỡng đàn gia súc, gia cầm. Kết thúc khai thác lâm sản

(đến mùa mọt).

Tiến hành lễ hội Xên bản, Xên mường. Các lễ hội mùa xuân.

Pét Ba Kết thúc cấy xuân muộn. Trồng đậu đỗ vụ xuân, trồng mướp,

trồng gấc. Tập trung gieo trồng cây trên nương: Ngô, đậu, đỗ,

sắn, dong riềng... Chăm sóc nuôi dưỡng đàn gia súc. Ương nuôi

cá giống, nuôi cá thịt đầu vụ. Tiếp tục phát dọn nương rẫy.

Phòng, chống hạn cho lúa chiêm xuân.

Cẩu Tư Chăm sóc lúa chiêm xuân. Trồng rau vụ hè thu: Bí đỏ, rau

ngót... Kết thúc trồng ngô, bắt đầu trồng lúa nương vào cuối

104

tháng; tập trung gieo trồng đậu, lạc, vừng.

Trồng các loại cây ăn quả. Chăm sóc nuôi dưỡng đàn gia súc, gia

cầm. Thả cá giống ra nuôi ruộng vụ chiêm xuân. Phòng chống

gió lốc, mưa đá.

Xíp Năm Gieo xong lúa nương, trồng xong bông cỏ, cải xanh, cải bẹ. Gieo

mạ mùa sớm (với các giống nếp đặc sản tan nhe, nếp thơm, nếp

cẩm dài ngày). Chăm sóc nuôi dưỡng đàn gia súc, gia cầm. Chăm

sóc cá thịt ao, hồ. Phòng chống lũ bão, thiên tai.

Xíp ết Sáu Thu hoạch lúa chiêm xuân, phơi sấy sau thu hoạch. Gieo mạ

vụ mùa chính vụ và cấy lúa mùa sớm; chăm sóc mạ mùa và lúa

mùa cấy sớm. Chăm sóc cây trên nương, trồng xong bông. Thu

hoạch xoài, vải. Chăm sóc nuôi dưỡng đàn gia súc, chú trọng

trâu bò cày kéo. Thu hoạch tỉa và nhân giống cá rô phi. Cúng

cơm mới.

Xíp xong Bảy Tập trung cấy mùa chính vụ, tiếp tục gieo cấy lúa mùa muộn

bằng các giống ngắn ngày. Bắt đầu trồng ngô, đậu vụ thu. Chăm

sóc lúa mùa sớm, lúa nương, đậu đỗ trên nương. Trồng cải xanh,

hành hoa, cải củ. Thu hoạch nhãn và trồng cây ăn quả vụ thu.

Nguồn: [30, tr. 7].

Chống nắng, chống nóng cho gia súc, gia cầm.

Ngoài ra, người Thái còn có một số câu ca dao, tục ngữ nói về hiện tượng

thiên nhiên gắn liền với công việc và lễ hội trong năm.

Bươn hả nả kong nháu báu lăng

Chóng kăm tạo So – Lá ók hết.

Tháng năm mặt chiêng đồng im tiếng,

Bàn thờ Tạo So – La mọc nấm.

Tháng năm lịch Thái (khoảng tháng 12 lịch Âm), trời rất rét. Ngày xưa,

người Thái cho rằng tháng đó là tháng kiêng của mường Trời (Mường Theng), nên

mới không bao giờ có sấm, chớp. Tạo So -La: Vùng Thái trắng có 2 mường lớn là

105

Mường So (Phong Thổ này nay) và Mường Là (đã chuyển sang Trung Quốc từ năm

1884 theo thỏa thuận giữa Pháp và Trung Quốc). Các mường Thái vào tháng năm

đều không gõ trống chiêng và không thờ cúng, nên bàn thờ các Tạo mới không có

khói hương. Thời điểm đó, người Thái chưa tiến hành các nghi lễ cúng tổ tiên và tổ

chức các lễ hội. Phải ba tháng sau đó, vào tháng tám lịch Thái – tháng hai âm lịch,

thì người Thái mới bắt đầu tiến hành các lễ hội mang tính cộng đồng như Xên bản, Xên mường9…

Bươn chết, bươn pét: bók kệt kái bók khắng

Ban pún sọi náu đông kem kính,

Sao báo ọn muôn mụa chốm hặp kón chiêng.

Tháng bảy, tháng tám: Hoa kệt nở cùng hoa găng.

Ban trắng xóa trên cành,

Gái, trai hội tụ chơi còn mừng xuân.

Tháng bảy, tháng tám lịch Thái là vào tháng giêng, tháng hai lịch âm. Lúc

đó, người Thái đã thu hoạch xong mùa màng, họ bắt đầu tổ chức lễ Xên bản, Xên

mường. Đó là thời điểm mà bản làng người Thái Đen tổ chức các lễ hội mùa xuân, nghỉ ngơi để bắt đầu một mùa mới10.

Đối với người Thái, việc đưa cô dâu về nhà chồng là một việc quan trọng.

Họ phải xem ngày thật cẩn thận. Và ngày này cũng được chuẩn bị trước, đó cũng là

lời dặn dò của mẹ đối với con gái. Cô gái phải về nhà chồng vì tháng đó là tháng

tốt. Người Thái đen kiêng tiến hành lễ cưới vào tháng năm và tháng sáu.

Bươn kau, bươn síp: Bók khắt kạu khái bók tong đanh,

Bươn sống pết tô khương mứa phủ, bươn sống chụ na mạk mứa phua.

Tháng chín, tháng mười: hoa khắt kạu nở cùng hoa vông.

Tháng đưa dâu, tiễn rể về nhà.

Đó là nông lịch trong truyền thống, hiện nay thì nông lịch và cây trồng của

9 Theo lời của ông Quàng Huyên, Cán bộ Mạng lưới bảo tồn tri thức bản địa. Tư liệu thực địa tác giả tháng 3 năm 2010. 10 Theo lời nhà thơ Vương Trung (nay đã mất). Tư liệu thực địa tác giả tháng 3 năm 2010.

người Thái đã khác rất nhiều.

106

4.2.2. Nông lịch của ngƣời Thái hiện nay

Khi có lịch và nông lịch chính thức của nhà nước trực tiếp hướng dẫn bà con

nông dân làm nông nghiệp. Ngay cả khi đã có nông lịch bằng chữ Thái nhưng người

nông dân vẫn không bỏ nông lịch bằng kinh nghiệm dân gian thể hiện qua các câu

tục ngữ, ca dao mà tôi đã trình bày ở trên.

Nông lịch của người Thái ở Tây Bắc hiện nay rất rõ ràng, mỗi tháng có sự

kết hợp giữa ba loại: lịch âm dương, lịch Dương và lịch Thái, cụ thể từng ngày, ghi

rõ từng tiết trong tháng, ví dụ tiết tiểu hàn vào 05 – 01 tức là vào 21 – 11 âm

lịch...kèm theo đó là từng công việc cụ thể trong tháng,

 Trồng trọt:

Đốn chè, kinh nghiệm dân gian của người Thái thì không đốn chè khi có

sương muối, bón phân, ủ gốc chè. Chăm sóc vườn ươm hom.

Giữ ẩm cho dâu cành mới trồng.

Thu hoạch mía, băm vùi lá mía tại nương.

Tủ gốc cho cà phê, chăm sóc cà phê ươm bầu giống. Trồng cây hồng (khí có

điều kiện tưới nước), cưa đốn vườn cà phê bị già cỗi.

Cấy xong lúa chiêm trước ngày 15/1. Cấy trà xuân sớm, Xuân trung vào

những ngày nắng ấm cuối tháng. Gieo mạ dược vào cuối tháng 1 ở những vùng

nóng đối với trà Xuân muộn.

Chú ý phòng chống rét cho mạ và lúa chiêm Xuân mới cấy

Thu hoạch các loại rau, đậu vụ thu đông

Trồng khoai tây giống vụ Xuân sớm trước 10/ 1; gieo hạt rau mùi, xà lách,

rau cải cúc. Trồng bí đỏ vụ xuân, đậu cô ve, dưa chuột, bầu canh, cà rốt, cà bát, cà

tím, cà pháo.

Chăm sóc rau đậu vụ đông

Bắt, giết bọ xít nhãn trưởng thành qua đông.

 Chăn nuôi:

Phòng chống đói, rét cho gia súc, gia cầm trong những ngày rét đậm, có

sương muối, không thả trâu bò ra ngoài hoặc có thả nhưng đi muộn về sớm. Sưởi

107

ấm cho đàn gia súc non. Thường xuyên kiểm tra và điều trị kịp thời các bệnh về

đường hô hấp, sưng cước chân trâu, bò. Đề phòng dịch cúm gia cầm, dịch tai xanh ở

lợn, dịch lở mồm long móng, gia súc tái phát.

Tận thu phế phụ phẩm nông nghiệp, ngọn mía làm thức ăn cho đàn trâu, bò.

Bảo quản, dự trữ thức ăn hợp lí cho đàn trâu bò. Chăm sóc bảo quản cỏ giống để

phục hồi và phát triển đồng cỏ chăn nuôi bò sữa.

Chống rét cho đàn ong, cho ăn bổ sung vào những ngày nắng ấm, khai thác

mật hoa cỏ Lào.

 Thủy sản:

Thu hoạch cá thịt, nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ, chuẩn bị cá chép đẻ.

Chăm sóc giống cá lưu, tu sửa cải tạo ao chuẩn bị ương nuôi cá chép bột.

Chăm sóc cá chép lồng

 Lâm nghiệp:

Gieo ươm các loại cây giống lâm nghiệp

Tủ ấm, giữ ấm cho măng tre Điền trúc, lục trúc qua đông.

Khai thác lâm sản theo thiết kế được phê duyệt

Hướng dẫn phát dọn nương rẫy, phòng chống cháy rừng.

Thiết kế xây dựng cơ bản lâm sinh.

 Thủy lợi, phòng chống bão, nước sinh hoạt.

Tu bổ, nạo vét sửa chữa kênh mương, hệ thống nước sinh hoạt nhất là các công

trình bị mưa lũ năm 2009 phá hủy, quản lý khai thác các công trình cấp nước sinh hoạt,

nước tưới tiêu phục vụ sản xuất và các vườn ươm giống cây trồng.

Đôn đốc, đẩy nhanh thi công các công trình thủy lợi, công trình nước sạch vệ

sịnh môi trường nông thôn.

Tiếp tục đôn đốc triển khai kế hoạch phát động phong trào toàn dân làm

thủy lợi [30, tr. 3].

Như vậy, nông lịch của người Thái hiện nay đã khác xưa rất nhiều, các công

việc trong tháng như trồng gì, nuôi gì được đưa ra tỉ mỉ; bên cạnh đó còn được kết

hợp chặt chẽ với thời tiết rất thuận lợi cho bà con sử dụng.

108

Các loại cây trồng và vật nuôi cũng đã thay đổi, phong phú hơn rất nhiều:

bây giờ người Thái không còn trồng kê, vừng, đậu nho nhe trên một diện tích nương

rộng nữa, mà thêm vào các cây: khoai tây, sắn, ngô. Họ cũng trồng nhiều loại rau

hơn chứ không chỉ có rau cải như xưa, như rau mùi, xà lách, cà rốt, cà pháo…

Xưa người Thái chỉ trồng bông và cây chàm để phục vụ cho nhu cầu cuộc

sống là may mặc thì nay họ trồng thêm các cây công nghiệp dài ngày cho giá trị

năng suất cao như cà phê, cao su, chè…Cà phê được trồng nhiều ở Thuận Châu, chè

trồng nhiều ở Mộc Châu.

Các cây ăn quả cũng phong phú hơn với mận, đào và cam, quýt vốn là những

đặc sản nổi tiếng.

Chăn nuôi phát triển mạnh, không chỉ có nuôi bò, trâu, lợn mà còn nuôi thêm

bò sữa. Sữa Mộc Châu đang trở thành thương hiệu cho người tiêu dùng…

Mặc dù nông lịch ngày nay của người Thái đã khác xưa nhưng cơ sở của nó

vẫn là từ đặc điểm thổ nhưỡng, khí hậu vùng Tây Bắc và phù hợp với truyền thống

canh tác của người Thái nên được bà con đón nhận và sử dụng rộng rãi.

Tiểu kết chương 4

Đối với cư dân làm nông nghiệp như người Thái ở Sơn La thì việc xác định

đúng mùa vụ để trồng trọt là một việc quan trọng. Lịch với họ không chỉ quan trọng

và cần thiết trong việc áp dụng vào các công việc thường ngày mà áp dụng vào sản

xuất là cần thiết hơn cả. Nông lịch của người Thái đen ở Sơn La trong truyền thống

và hiện đại có nhiều nét khác biệt. Cơ cấu cây trồng thay đổi, đặc biệt là sự tiến bộ

của khoa học, kĩ thuật nên nông lịch hiện đại đã nhiều điểm tiến bộ.

Lịch và nông lịch trước những tác động của sự phát triển của khoa học, kĩ

thuật hiện đại. Lịch đã có một diện mạo hoàn toàn mới trên cơ sở kế thừa những

giá trị cũ và tiếp thu những giá trị mới. Điều đáng nói là, trước những biến đổi

mạnh mẽ của kinh tế thị trường, của giao lưu văn hóa thì lịch Thái vẫn giữ được

những nét đặc sắc vốn có. Không những thế, nó còn được lưu giữ và bảo tồn cho

đến ngày nay.

109

CHƢƠNG 5. LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN TRONG SỰ

SO SÁNH VỚI LỊCH VÀ NÔNG LỊCH CỦA NGƢỜI THÁI TRẮNG Ở MAI

CHÂU, HÒA BÌNH

5.1. Ngƣời Thái ở Mai Châu, Hòa Bình

Mai Châu là một trong chín huyện miền núi của tỉnh Hòa Bình, cách Hà Nội

144km. Phía Bắc giáp huyện Đà Bắc, phía Đông giáp huyện Tân Lạc, Hòa Bình, phía

Tây giáp huyện Mộc Châu, Sơn La, phía Nam giáp huyện Quan Hóa, Thanh Hóa.

Huyện Mai Châu được thành lập ngày 15 tháng 1 năm 1957, được tách ra từ

huyện Mai Đà cũ với diện tích 611 km2. Trước đây, Mai Châu còn được gọi là

Mường Mùn, Mường Mai. Thế kỷ XV – XVIII Mai Châu còn có tên là Châu Ma.

Đất Mai Châu xưa là cửa ngõ lên vùng Tây Bắc của tổ quốc, là con đường thông nối

hai vùng đất sông Mã, sông Đà, đồng thời cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa giữa

các huyện của tỉnh Hòa Bình với các tỉnh lân cận.

Người Thái ở Hòa Bình sinh sống chủ yếu ở huyện Mai Châu, chiếm 91.95%

tổng số người Thái trong toàn tỉnh. Ngoài người Thái chiếm số lượng đông nhất còn

có các dân tộc khác cùng sinh sống như người Mường, người Dao, người Hmông,

người Kinh và người Hoa.

Về lịch sử tộc người thì người Thái Mai Châu có nguồn gốc từ một nhóm

Thái Trắng ở nơi đầu sông Hồng, vùng đất Mường Hước Phước Khà thuộc huyện

Bắc Hà của tỉnh Lào Cai ngày nay. Tổ tiên của họ dọc theo sông Hồng rẽ sang sông

Đà rồi tới lập nghiệp ở vùng Mộc Châu (Sơn La), Mường Khoòng (Thanh Hóa) và

Mai Châu (Hòa Bình) cách đây khoảng 600 năm. Đây cũng là thời gian các nhóm

Thái ở vùng biên giới Việt – Hoa biến động và tìm cách tràn xuống vùng Tây Bắc,

trong đó có Hòa Bình, rồi tràn sang Trung Lào và Hạ Lào. Người dẫn dân đến

Mường Mùn (Mai Châu) lập nghiệp là Lang Bôn. Lang Bôn là con vợ lẽ của Tạo

Khà, vì được chia đất quá hẹp nên ông bỏ xuống vùng Bạch Hạc. Được một thời

gian cảm thấy không sống được, ông lại cùng dân bản ngược sông Đà đi tìm đất

sống. Tới bản Tẩu, Lang Bôn thấy dấu vết người xưa ở đó nên ông cùng đoàn người

dừng lại.

110

Tổ tiên người Thái đến sinh sống ở Mai Châu còn được thể hiện trong câu

chuyện sau: Nhà tạo nọ có ba anh em, khi xưa ở vùng Bắc Hà do thiếu đất và do đất

có nhiều cỏ gianh quá, không trồng trọt được nên họ đã rủ nhau xuôi theo sông

Hồng đi tìm vùng đất lập mường mới. Ba người đi dọc bờ sông thì thấy toàn người

Mường sinh sống, xuống vùng đồng bằng thì thấy người Kinh đã định cư ở đó nên

họ lại ngược lên Thác Bờ. Tới đây, người anh cả chia tay hai em lấy thuyền độc

mộc đi tìm đất. Hai người em tới bãi Sang, chỗ suối Rút rẽ vào thì thấy một đàn sáo

bay từ hướng Mường Mùn ra, cho là điềm lành nên họ rẽ vào Mường Mùn. Đến Bó

Luông, hai người thấy một nguồn nước có thể đắp phai, xẻ mương làm ruộng được

nhưng thấy ruộng quá hẹp nên họ chưa ưng nên lại đi tiếp. Đến Chiềng Châu thấy

có đất rộng, người em thứ hai bèn dừng chân lại và khấn xin tổ tiên ở lại. Người em

út vẫn chưa vừa ý nên xin anh cho đi xa hơn. Tiếp tục xuôi xuống chỗ có đồng ruộng

dừng lại và đặt tên đất ở đó là Mường Lầu, Mường Khoòng . Tiếng Thái “lầu” là ta,

khoòng là luật lệ. Mường Lầu, Mường Khoòng có nghĩa là đất của chúng ta, chúng ta

cùng theo luật với Mường Mùn ở Mai Châu. Điều đó có nghĩa là các nhóm Thái khác,

các chúa Đất Mai Châu từ khi lập nghiệp cho đến sau này tuân thủ luật lệ triều đình và

cùng các tộc người khác tham gia vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương [25,

tr. 160 – 161].

Theo tư liệu điền dã của tác giả tại Mai Châu vào tháng 10 năm 2013 thì ở

người Thái ở đây giải thích nguồn gốc của họ như sau: Người Thái di cư từ phương

Bắc đến Mường Mùn (Mai Châu) vào khoảng thế kỉ XIII. Theo gia phả họ Khà

Khun Luông (tức họ Hà Công). Ông Mừn Nào Lồng làm tạo Mường Khà (chúa đất

Mường Khà). Nơi đây có Mường Khà Luông, Mường Khà Nỏi (Mường Khà Lớn,

Mường Khà Bé), thuộc thượng nguồn sông Hồng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Ông

Mừn Nào Lồng có hai bà vợ: bà vợ hai sinh con trước đặt tên là Lang Bun, bà vợ cả

sinh con sau đặt tên là Lang Băm. Hai người con trai lớn lên, cha cho Lang Bun cai

trị Mường Khà Luông, cho Lang Băm cai trị Mường Khà Nỏi. Lang Băm chê đất

mường mình được cai trị bé, bèn xin cha lương thực, phương tiện và một số dân đi

tìm vùng đất mới. Được người cha đồng ý, Lang Băm dẫn đoàn người xuôi theo

111

dòng sông Hồng bằng thuyền, trên đường đi họ đã dừng lại tại Lạch Nạc, Hạc Pạc,

Nặm Khi, rồi xuôi xuống ngã ba sông Việt Trì (Phú Thọ), ngược lên sông Thao

không được mới trở lại, rồi ngược lên sông Đà và họ đã tạm trú ở Pạc Ngăm Tằm Ó

(thành phố Hòa Bình ngày nay), tiếp tục ngược sông Đà lên đến Ta Chò (Suối Rút

ngày nay). Khi đoàn đang dừng nghỉ, bỗng thấy một đàn chim sáo đen bay từ hướng

Mường Mùn ra, ông Lang Băm nghĩ và cho rằng: có chim sáo ắt là vùng đất có nước.

Ông quyết định cùng đoàn người đi bộ, theo hướng mà đàn chim sáo vừa bay ra, vượt

núi Pù Khà (thuộc xã Phúc Sạn ngày nay), vượt qua Kèo Ải (thuộc xã Tòng Đậu bây

giờ). Quả không sai, trước mắt đoàn người hiện ra thung lũng khá rộng và bằng phẳng,

lại có con suối chạy dọc theo thung lũng, đất đai màu mỡ, ông cùng đoàn người quyết

định dừng lại lại bản dựng mường tại Chiềng Chu (Chiềng Châu bây giờ). Ông Lang

Băm mất, con trai ông là Lang Bôn thay cha cai trị Mường Mùn (Mai Châu). Vai trò

lãnh đạo dân Mường Mùn của dòng họ Hà Công tồn tại đến năm 1955.

Như vậy, dù theo ý kiến, quan điểm nào thì tựu chung lại nguồn gốc của

người Thái ở Mai Châu là từ vùng thượng nguồn sông Hồng, trong quá trình đi tìm

vùng đất mới đã đến Mường Mùn (Mai Châu ngày nay) và định cư tại đây.

5.2. Lịch và cách tính lịch của ngƣời Thái Mai Châu

Ông Khà Văn Tiến – Nguyên trưởng phòng Văn hóa huyện Mai Châu cho

biết trước đây, người Thái cũng có bản lịch riêng của mình, gồm rất nhiều quyển

sách xem ngày như “Cẩu coong”, “Sổ Đu mự”…Ông nội của ông Khà Văn Tiến là

thầy Mo, giữ tất cả những cuốn sách lịch đó. Tuy nhiên, đến những năm 1950 –

1953, khi cải cách ruộng đất thì tất cả những cuốn sách đó đã bị đốt hết.

So với người Thái Đen ở Sơn La, người Thái Trắng ở Mai Châu không có một

hệ thống lịch và cách xem lịch đầy đủ, họ cũng không có sổ Chong bang để xem lịch

hàng ngày. Tuy nhiên, một số người già ở Mai Châu và đặc biệt là ông Khà Văn Tiến

còn nhớ và lưu giữ được một số nét cơ bản nhất của cuốn lịch này.

5.2.1. Lịch theo hệ đếm Can – Chi

Người Thái Trắng Mai Châu cũng dựa vào hệ đếm Can – Chi để tính lịch, hệ

đếm này cũng giống như người Việt, người Thái đen ở Sơn La học từ cách tính của

người Hán.

112

Dựa vào 10 thiên can (họ quan niệm do trời sắp đặt): Giáp - Ất – Bính –

Đinh – Mậu – Kỷ - Canh – Tân – Nhâm – Quý.

Dịch ra tiếng Thái: Cáp – Đắp – Hại – Mựng – Pấc – Cắt – Khốt – Hôồng –

Tấu – Cá.

12 địa chi trên trần gian: Tý – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ - Ngọ - Mùi –

Thân – Dậu – Tuất – Hợi.

Dịch ra cách gọi tiếng Thái: Chảu – Pẩu – Nhị - Mẩu – Xi – Xău – Xá Ngạ -

Một – Xăn – Hậu – Mệt – Cạu.

Dịch ra tên 12 con giáp bằng tiếng Thái Trắng:

Chảu - Tô Nu (con Chuột)

Pẩu - Tô Khoại (con Trâu)

Nhị - Tô Xơ (con Hổ)

Mẩu – Tô Tó (con Ong)

Xi – Tô Lôộng (con Rồng)

Xẳu là Tô Ngụ (con Rắn)

Xá Ngạ - Tô Mạ (con Ngựa)

Một – Tô Bẻ (con Dê)

Xăn – Tô Lịnh (con Khỉ)

Hậu – Tô Cáy (con Gà)

Mệt – Tô Ma (con Chó)

Cặu –Tô Mu (con Lợn)

Ta có thể thấy, cách gọi con thứ tư Mẩu – Tô Tó (con Ong) người Thái

Trắng giống người Thái Đen gọi năm Mão là con Ong trong khi người Việt và

người Hán gọi đó là con Mèo (Mão).

Cách gọi tên thứ hai ở hàng can thì người Thái Trắng Mai Châu và người

Thái Đen ở Sơn La khác nhau:

Người Thái Trắng gọi Ất là đắp, chữ đắp có nghĩa là tận, hết nên người Thái

Mai Châu kiêng không đưa ma, không làm các việc quan trọng vào ngày này.

113

Người Thái Sơn La, Điện Biên gọi Ất là Hặp, Hặp có nghĩa là đón, đỡ lấy

nên đối với họ ngày này là ngày tốt và thích hợp để làm mọi việc.

5.2.2. Lịch theo sao Đoi và mặt Trăng

Cũng giống như người Thái Đen ở Sơn La, người Thái Mai Châu cũng dựa

vào mặt trăng để tính lịch. Tuy nhiên, điều đặc biệt ở đây là không chỉ dựa vào mặt

trăng mà còn dựa vào sao Đoi (tiếng Thái Trắng là Tua Đoi) để tính lịch và áp dụng

lịch vào cuộc sống.

Ông Khà Văn Tiến cho biết, Tua Đoi hay Sao Đoi là gì người Thái không ai

biết, chỉ biết nó là chùm sao “bảy con” hình gầu sòng (bảy ngôi sao) trên trời mà họ

dựa vào sự chuyển động của nó quanh mặt trăng để tính lịch. Cách tính lịch bằng

sao Đoi này khác với người Thái Sơn La nhưng lại giống cách tính lịch Mường Bi

(lịch Đoi)…Ngày sao Đoi qua mặt trăng được gọi là ngày Đoi khảm (đi qua trăng),

ngày này không làm được việc gì, nếu làm thì sẽ chảy máu (nghĩa là ngày xấu), có

việc gì làm trước hoặc sau vài ngày là được. Tùy từng tháng, tháng nhìn rõ Đoi nhất

là tháng 9, tháng 10. Tháng giêng đi qua trăng vào ngày mùng 6, kiêng kị ngày

mùng 7, tháng 2 đi qua 2 lần mùng 4, 28, tháng 3 là ngày 26, tháng 4 ngày 22,

tháng 5 ngày 20, tháng sáu ngày 18, tháng 9 ngày 16, tháng 10 ngày 14,tháng 11

ngày 12, tháng 12 là ngày mùng 8. Người Thái Mai Châu kiêng kị tất cả các công

việc vào ngày Đoi khảm.

5.3. Các đơn vị trong lịch của ngƣời Thái Trắng Mai Châu

5.3.1. Giờ (Chờ)

Giờ ở đây là giờ 12 con giáp, lúc bình thường không mấy ai quan tâm đến giờ

con giáp, nhưng công việc cưới hỏi, làm nhà và đưa ma chọn được năm tháng và ngày

thích hợp thì chọn được giờ mở đầu công việc cũng phải suy tính kĩ.

Nếu làm nhà vào ngày Nhâm Tuất, Giáp Tuất thì không được cất cột đầu tiên

vào ngày Mậu Thìn vì ngày và giờ xung khắc nhau.

Làm lễ cưới vào ngày Quý Dậu và Ất Dậu thì con rể không trình diện bố mẹ

vào giờ Đinh Mão vì ngày và giờ xung khắc nhau.

114

Đưa ma vào ngày Bính Dần, Mậu Dần thì không đưa được giờ Nhâm Thân

(từ 15h đến 16h).

Cách tính giờ trong một ngày:

Một ngày đêm chia thành 12 con giáp, mỗi con giáp tính gộp 2 giờ đồng hồ.

Bao giờ cũng tính từ 11h, giờ Giáp Tý.

Giờ Giáp Tý – Chờ Cáp Chảu: 11h – 1h

Giờ Ất Sửu – Chờ Đắp Pẩu: từ 1h đến 3h

Giờ Bính Dần – Chờ Hại Nhị: từ 3h đến 5h

Giờ Đinh Mão – Chờ Mựng Mẩu: từ 5h đến 7h

Giờ Mậu Thìn – Chợ Pẩu Xi: từ 7h đến 9h

Giờ Kỷ Tỵ - Chờ Cắt Xảu: từ 9h đến 11h

Giờ Canh Ngọ - Chờ Khốt Xá Ngạ: từ 11h đến 13h

Giờ Tân Mùi - Chờ Hôồng Một: từ 13h đến 15h

Giờ Nhâm Thân – Chờ Tấu Xăn: từ 15h đến 17h

Giờ Quý Dậu – Chờ Cá Hậu: từ 17h đến 19h

Giờ Giáp Tuất – Chờ Cáp Mệt: từ 19h đến 21h Giờ Ất Hợi – Chờ Đắp Cạu: từ 21h đến 23h11

5.3.2. Ngày (Mự)

Giống như người Thái Đen, người Thái Trắng cũng ghép can chi để tính ra

các ngày trong tháng.

Riêng người Thái Trắng Mai Châu có quan niệm về ngày đặc biệt như sau:

Hổ là một loài thú dữ trong rừng, phần lớn thức ăn là các con thú từ thỏ tới ngựa,

trâu thậm chí hổ còn ăn thịt người nên hổ được xếp vào loại ma rừng. Vì vậy người

Thái không cúng giỗ ngày Dần, cúng giỗ ngày này sợ ma hổ tranh ăn, cướp uống.

Không cúng các lễ linh thiêng như Cúng Khọ lọ hoóng (giỗ tổ), cúng hớn nọi, hớn

11 Tài liệu chép tay của ông Khà Văn Tiến, Mai Hạ, Mai Châu, Hòa Bình. 12 Theo bà Lục Thị Hằng, Bản Lác 1, Thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.

nghé (cúng bố mẹ vợ), cúng thổ công, bản mường. Nhưng nếu mùng 1 Tết là ngày Dần thì vẫn phải cúng bởi ngày đó đã được chu kỳ 60 con giáp sắp đặt12.

115

Ngày Ất (Mự Đắp) là ngày tận, ngày hết, ngày 29 nếu là tháng thiếu, tháng

có 30 ngày là tháng đủ thì gọi là Đắp bơn, nghĩa là ngày cùng tháng tận. Nếu ngày

Ất vào giữa tháng thì cũng không dùng. Dân gian Thái có câu:

Mự bắp bấu phăng phi

Mự nhị bấu cúng đẳm

Nghĩa là: Ngày Ất không chôn ma

Ngày Dần không cúng giỗ

5.3.3. Tháng (Bơn)

Một năm có 12 tháng, tương ứng với 12 con giáp trong bản lịch, tháng Giêng

(theo quan niệm người Thái là tháng tốt) bao giờ cũng là tháng Dần nhưng khác

nhau hàng can:

Tháng Giêng năm 2007 là tháng Nhâm Dần

Tháng Giêng năm 2008 là tháng Giáp Dần

Tháng Giêng năm 2009 là tháng Bính Dần

Tháng Giêng năm 2010 là tháng Mậu D ần

Tháng Giêng năm 2011 là tháng Canh Dần

Cho đến tháng Giêng năm 2012 thì trở lại tháng Nhâm Dần và cứ thế tiếp

theo rồi 60 năm mới lặp lại.

Theo người Thái Trắng, tháng ba lịch Thái là tháng “Cốp Khết O Căn” nghĩa

là ếch ngóe ăn hỏi, cưới xin, người Thái niệm rằng con người mình không nên tranh

cướp ngày lành, tháng tốt của ếch ngóe nên họ không cưới xin vào tháng này.

Tháng 4, 5, 6, 7 mùa mưa lũ, gió bão người Thái có câu:

Nặm mả, nhả hí

Nghĩa là: Nước to, cỏ rậm.

Hoặc có câu: Kụn đi bấu cạ

Mạ đi bấu khí

Nghĩa là: Người tốt không đi buôn

Ngựa tốt không đem cưỡi

116

Thời điểm mưa lũ hạn chế đi chơi, mua bán nếu đi thì không gặp thuận lợi

thậm chí mất mát và tai nạn, không mang lại kết quả gì, phải thật cần thiết mới đi.

Giai đoạn này, họ thường tích thóc lúa và chăn nuôi gia cầm và làm thêm nghề phụ.

Đàn ông thường đan chài lưới, đồ đựng, cót phơi. Đàn bà dệt vải sợi và chăn nuôi

đến tháng 8, tháng 9 âm thì thu hoạch lúa mùa.

5.3.4. Năm (Pi)

Năm trong lịch của người Thái Trắng giống như lịch của người Việt và

người Thái Đen, tính theo năm âm lịch và năm dương lịch, vòng tuần hoàn là 60

năm quay lại một vòng, con vật tương ứng như năm âm lịch.

Năm Tý là Pi Chảư

Năm Sửu là Pi Pẩu

Năm Dần là Pi Nhị

Năm Mão là Pi Mẩu

Năm Thìn là Pi Xi

Năm Tỵ là Pi Xảư

Năm Ngọ là Pi Xá Ngạ

Năm Mùi là Pi Một

Năm Thân là Pi Xăn

Năm Dậu là Pi Hậu

Năm Tuất là Pi Mệt

Năm Hợi là Pi Căụ

Người Thái Trắng quan niệm rằng mỗi năm qua đi, trẻ thì thêm một tuổi lớn,

già thì hưởng thêm một tuổi thọ. Ở người Kinh cũng có quan niệm này nhưng còn

có thêm Trai: Đinh – Nhâm – Quý – Giáp thì tài

Gái: Đinh – Nhâm – Quý – Giáp thì hai lần đò

Cũng như thế người Trung Quốc cho rằng:

Nàn dần sù giàng nảo tsàng tsàng

Ní dần sù giàng xiếu không phàng

117

Nghĩa là:

Trai: Năm Mùi thì giàu sang vui vẻ

Gái: Năm Mùi thì coi nhà trống không

5.4. Cách sử dụng lịch trong đời sống hàng ngày

5.4.1. Phƣơng pháp tính ngày tốt xấu theo lịch Cẩu Coong – Háp Hạng –

Tsảng Moong

Người Thái quan niệm: Cẩu nghĩa là chín (Chín mười); Coong nghĩa là đống.

Ghép hai từ vào có nghĩa là chín đống.

Háp nghĩa là gánh (gánh vác); Hạng nghĩa là bỏ dở - dở dang;

Tsang nghĩa là bên cạnh; Moong nghĩa là vắng vẻ, hưu quạnh.

Dựa vào 10 thiên can và 12 địa chi để lập bản lịch âm – lịch cẩu coong – lịch

hạp hạng cũng tính như xung khắc.

Ví dụ: Tý là cẩu coong

Sửu là hoọng phận

Dần là phận đok

Mão là phận đai…

12 tên trong lịch ngày cẩu coong được gieo vào tên 12 con giáp nhưng gọi

lùi lại. Cụ thể: Tháng giêng cẩu coong là ngày Tý

Tháng hai cẩu coong là ngày Hợi

Tháng ba cẩu coong là ngày Tuất…

Đồng bào Thái Trắng Mai Châu không áp dụng lịch cẩu coong cho việc làm nhà mới, thường áp dụng cách tính này cho việc làm chặng cá13 và săn bắn. Sở dĩ

ngày này tốt cho việc làm chặng cá vì ý của nó là để hứng lấy các loại cá to, nhỏ.

Dựng một cái chặng cá để hứng cá xuôi ra sông vào những ngày này sẽ được chín

đống cả - tức là được nhiều. Vì thế, làm chặng cá thường chọn ngày cẩu coong là

13 Chặng có mô hình chữ Y, hai chạc chữ Y là để cản kín dòng chảy, chân chữ Y là thân chặng để hứng cá có hình máng chìm.

ngày khởi đầu. Quan trọng nhất là ngày đầu tiên, còn những ngày tiếp theo thì ngày

118

nào làm cũng được miễn là không kết thúc công việc vào ngày hạp hạng tức là ngày

bỏ dở.

Ba ngày họong phận, phận đok, phận đai: là ba ngày tương đối tốt cho việc

ăn hỏi, cưới xin, làm nhà.

Sủ pặp là ngày sum vui, ngày này rất tốt cho việc ăn hỏi, cưới xin, làm

nhà. Ngày sủ pặp cũng được coi là ngày lành để tiến hành các hoạt động cúng

giỗ hàng năm.

Hạp tsảy là ngày mình đón đỡ lấy ốm đau đồng nghĩa với ngày sát thương.

Ngày này không ăn hỏi, cưới xin, không làm nhà, không thăm người ốm. Không

cúng giỗ, không khởi đầu chăn nuôi.

Hặp tai: cũng là đón lấy chết chóc, là ngày sát chủ. Tuyệt đối, không ăn hỏi,

cưới xin, không làm nhà, không thăm người ốm, nếu đi thăm thì bản thân sẽ ốm

thay người đang ốm.

Khẳm đay là ngày úp thang. Ngày khẳm đay cũng tương đối tốt cho việc làm

nhà nhưng phải cẩn thận.

Ngày xay chẩu là ngày đẩy thân mình. Đây cũng là ngày xấu chung cho cộng

đồng. Không nên chọn ngày này để làm các công việc quan trọng.

Ngày xay xin: là ngày đẩy ốm đau, xấu xa. Ngày này tốt cho mọi công việc.

Nhất là cúng giỗ, gọi hồn, ăn hỏi, cưới xin, làm nhà.

Ngày tái páo: có tính tự chủ khi làm, không ai ngăn cản được ý nghĩ của

mình đã sắp đặt.

Ngày xiếu páo: (Xiếu là ám chỉ người ta) làm công việc gì của mình cũng

không bị các yếu tố từ bên ngoài gây ảnh hưởng đến.

5.4.2. Lịch Háp hạng (Ấn định các ngày dở dang ở các tháng trong năm)

Mỗi khi làm công việc lớn nhỏ như làm chuồng trại cho gia súc, gia cầm cho đến

gieo trồng, chài lưới, bắt cá và các việc đại sự như ăn hỏi, cưới, làm nhà thì mỗi người,

mỗi gia đình đều phải chọn ngày thích hợp cho từng công việc. Bởi vì những ngày xấu

thì cần tránh. Việc chọn ngày thích hợp, nhất thiết phải dùng đồng thời kết hợp ba

phương pháp: lịch cẩu coong, lịch háp hạng và lịch tsang moong (lịch xung khắc).

119

Háp theo nghĩa đen là gánh vác. Hạng có nghĩa là bỏ dở (dở dang), lúc

đồng làm công việc gì đó có ý định làm cho xong nhưng đang làm thì chán rồi bỏ.

Lịch Háp hạng được ấn định tính như ngày trong lịch cẩu coong, trong năm

12 tháng, trung bình mỗi tháng có 2 ngày háp hạng. Cũng có ngày háp hạng lại trùng với ngày tốt trong lịch cẩu coong như ngày sủ pặp, xay xin14.

5.4.3. Cách tính tuổi lấy vợ, lấy chồng (Lịch tsảng moong)

Mặc dù hiện ngay người Thái Mai Châu không còn sử dụng bản lịch này

nhiều trong cuộc sống hàng ngày, sống gần gũi với các tộc người khác nên phần

lớn họ sử dụng lịch của người Việt. Tuy nhiên, khi tính tuổi nam nữ xung khắc

nhau để kết hôn và chọn ngày lành tháng tốt để tổ chức cưới hỏi thì người Thái

thường xuyên dùng lịch này. Thông thường, dưới 20 tuổi, người ta chưa đề cập

đến việc tính tuổi xung khắc. Việc tính tuổi xung khắc chủ yếu dựa vào tuổi theo

12 con giáp.

Tuổi Tý xung khắc với tuổi Ngọ; Tuổi Sửu xung khắc với tuổi Mùi; Tuổi

Dần xung khắc với tuổi Thân; Tuổi Mão xung khắc tuổi Dậu; Tuổi Thìn xung khắc

với tuổi Tuất; Tuổi Tỵ xung khắc tuổi Hợi.

Người Thái kiêng không ăn hỏi, cưới vào ngày xấu trong lịch Cẩu Coong,

Háp hạng. Kiêng không cưới vào các tháng 3, 4, 5, 6, 7 âm lịch hàng năm. Kiêng

không cưới vào ngày Hặp tsay, Hạp tai, Xay chẩu. Ngày Tỵ, Tuất từ tháng 12 năm

trước đến tháng 1, 2 năm sau. Tháng 8 kiêng ngày Thân, ngày Mão. Tháng 9,10, 11

kiêng ngày Thìn, Dậu.

5.4.4. Xem lịch làm nhà mới

Làm nhà là công việc đại sự của mỗi gia đình, nên phải đầu tư nhiều công sức,

tiền của và thời gian. Trong nếp nhà sàn Thái, cùng lúc có 3 hoặc 4 thế hệ cùng chung

sống nên ngôi nhà phải rất vững chãi. Chính vì vậy, việc chọn ngày giờ dựng nhà và

lên nhà mới là điều quan trọng và phải xem xét kĩ lưỡng.

Người Thái chọn ngày dựng nhà và lên nhà mới trong cùng 1 ngày. Dù chưa

14 Tài liệu chép tay của ông Khà Văn Tiến, Mai Hạ, Mai Châu, Hòa Bình.

xong thì cũng lấy giờ lên nhà mới rồi mới làm tiếp phần còn lại của ngôi nhà. Giờ

120

cất vì nhà đầu tiên thường từ 3h30 đến 4h00, không lên nhà mới vào giờ xung khắc

ngày dựng. Ví dụ: dựng nhà ngày Sửu thì không lên nhà mới vào giờ Mùi. Dựng

nhà ngày Mão thì không lên nhà mới vào giờ Dậu. Không làm nhà ngày mất, ngày

tang ma và ngày đưa ma của người trụ cột trong gia đình. Kiêng không làm nhà vào

ngày Cẩu Coong, Háp hạng, Hặp tsảy, Hặp tai và ngày Xay Chẩu. Kiêng không làm

nhà vào các tháng “Cốp kin bơn, ma xôông kin ta vịn” (Kiêng làm nhà vào ngày

nguyệt thực, ngày nhật thực). Người Thái kiêng không làm nhà hướng đông, hướng

đầu nguồn sống suối. Vì mặt trời nóng cực mạnh, dòng sông suối chảy xiết, sức

người không đá nổi.

5.4.5. Xem lịch bằng bảng “Ta – u”

Ngoài cách xem ngày tốt xấu theo lịch Cẩu coong và Háp hạng thì người

Thái Mai Châu có cách xem ngày tốt xấu để đi săn, đi buôn, đi thăm người ốm, đi

gặp gỡ anh em xa bằng cách xem bảng “Ta – u”, hay tiếng Thái là cách lấy “Ta –

u”. “Ta – u” là ô hình vuông, mỗi bên chia làm năm ô bằng ngau, trong mỗi ô có kí

hiệu đánh vào, theo hình chéo đông bắc – tây nam, hình 1 gạch, 2 gạch, 4 chấm và

hình có gạch chéo.

Bốn chấm là tốt, săn bắn sẽ được con nhỏ.

Hai gạch song song là rất tốt, săn được con to, đi đường bình an. Đi thăm

người thân sẽ gặp ở nhà.

Một gạch đơn là: đi săn được con to nhưng có thể bị nạn nên phải cẩn thận.

Gạch chéo là không tốt, đi săn bị nạn, đi buôn bị lỗ.

Ô vuông trắng là không được gì.

“Ta – u” của người Thái Trắng giống với cách xem “ca la hả” của người

Thái Đen nhưng tên gọi khác nhau. Nội dung, cách xem thì hai tộc người này giống

nhau. Cách xem lịch này cả hai tộc người học của người Lào, bảng xem “Ta – u”

bằng sừng mà ông Khà Văn Tiến hiện nay còn giữ là do ông nội của ông Tiến mang

từ Sầm Nưa, Lào về.

121

5.5. Nông lịch của ngƣời Thái Mai Châu

Xưa kia, trong canh tác nông nghiệp người Thái Trắng Mai Châu tin tưởng

tuyệt đối vào nhân vật được gọi là “Làng Thoi” hay “ông Thoi”. Thoi là người giữ

mọi quy tắc xem lịch, nên ai muốn hỏi ngày làm gì phải đến hỏi Thoi.

Người Thái muốn trồng lúa, làm nương đều phải hỏi ông Thoi (ông Thoi cai

quản mường Trời, mường Trần gian) muốn làm gì phải hỏi ông này. Chuẩn bị vào

mùa thì người ta đến hỏi “Ông Thoi ơi, muốn cày cấy thì làm vào ngày nào để được

mùa. Ông Thoi bảo rằng con chim khảng khói nó kêu thì người làm nương chuẩn bị

thuổng cuốc, người làm ruộng chuẩn bị cày bừa. Phát nương, phát rẫy ngày mùng

1 luôn được ăn lúa, cấy lúa mùng 3 là được “khảu kin” (lúa ăn người) theo nghĩa

đen là lúa chất đống cao hơn người, được mùa”.

Theo anh Lợi, cán bộ văn hóa xã Chiềng Châu cho biết, ông ngoại của anh

trước đây làm thầy bói cũng nói đến nhân vật nắm giữ lịch thường gọi là “Thoi”.

Trong sổ của ông ngoại anh chép lại có đoạn viết “Người Thái kiêng làm công việc

nông nghiệp vào ngày Đoi khảm”.

Ngày nay, người Thái Mai Châu không còn sử dụng nông lịch truyền thống

nữa, thay vào đó họ dùng nông lịch hiện đại do nhà nước đặt ra để phù hợp với khí

hậu và các giống cây trồng mới hiện nay. Trong khi người Thái Sơn La sử dụng

nông lịch do Sở Khoa học công nghệ Sơn La kết hợp giữa nông lịch hiện đại và

nông lịch truyền thống tạo ra thì người Thái Mai Châu đã không còn sử dụng nông

lịch cũ nữa.

5.6. So sánh lịch của ngƣời Thái Đen và Thái Trắng

Như trên đã nói, lịch của người Thái Trắng Mai Châu còn lưu giữ đến nay

không còn đầy đủ, phong phú như lịch của người Thái Đen Sơn La cho nên so sánh

sự khác nhau và giống nhau giữa hai loại lịch này chỉ là cơ bản.

122

Bảng 5.1: Sự giống và khác nhau giữa lịch của ngƣời Thái Đen và Thái

Trắng

Nội dung so sánh Giống nhau Khác nhau

1. Nguồn gốc Cùng bắt nguồn từ lịch Lịch của người Thái Trắng Mai

của người Hán kết hợp Châu còn có thêm sự kết hợp với

với lịch của người Việt. lịch Đoi của người Mường.

2.Cơ sở làm lịch Cùng dựa trên sự thay Lịch người Thái Trắng Mai Châu

đổi của thiên nhiên, sự dựa trên sự chuyển động của sao

chuyển động của Mặt Đoi và Mặt trăng để làm nên lịch.

trăng, hệ đếm Can Chi.

3.Kết cấu lịch Lịch có 4 đơn vị cơ bản Khác nhau ở tên gọi, người Thái

là Giờ, Ngày, Tháng, Trắng gọi giờ là “chờ”, tháng là

Năm. “bơn” thì người Thái Đen là “chơ”,

“bươn”. Khác nhau ở tên gọi một

số con giáp. Nhưng sự khác nhau

này là do ngôn ngữ vùng.

Tháng trong lịch của người Thái

Đen chênh 6 tháng so với âm lịch

còn lịch của người Thái Trắng hiện

nay thì giống với lịch âm của người

Việt.

4.Ứng dụng lịch - Cùng sử dụng lịch trong Người Thái Đen Sơn La có hệ

trong đời sống việc xem ngày tốt, xấu, thống xem lịch phong phú hơn như

xem ngày làm nhà, ngày hệ thống sổ Choong bang, Pọm

cưới, ngày săn bắn, đi lang pọm hưỡn đặc biệt cách xem

thăm người ốm… phỏng đoán số phận con người mà

- Cùng có bảng xem ngày lịch của người Thái Trắng Mai

học của người Lào để đi Châu nay không còn giữ lại hệ

123

săn, đi thăm anh em, bạn thống đó nữa.

bè.

5.Hệ thống nông Trong khi người Thái Đen Sơn La

lịch có hệ thống nông lịch truyền thống

và hiện đại đầy đủ thì người Thái

Trắng Mai Châu nay không còn sử

dụng nông lịch truyền thống.

Người Thái Mai Châu sử dụng

nông lịch hiện đại của nhà nước để

canh tác nông nghiệp.

124

Tiểu kết chương 5

Cũng giống như người Thái Đen, người Thái Trắng đã có lịch và sử dụng

lịch từ lâu đời tuy nhiên những cuốn lịch đó đến nay không còn được lưu giữ đầy đủ

nữa. Ở sự phát triển cao về văn hóa, chữ viết và hình thức canh tác lúa nước thung

lũng đã thúc đẩy cho sự ra đời của lịch Thái. Bằng việc quan sát mặt Trăng, sao Đoi

và các hiện tượng thiên nhiên, học tập hệ đếm Can, Chi của người Hán và cách xem

lịch của người Lào người Thái Trắng Mai Châu cũng có một hệ thống lịch đầy đủ

như các nhóm Thái ở địa phương khác với kết cấu lịch có các đơn vị giờ, ngày,

tháng, năm đầy đủ.

Mai Châu trong những năm gần đây trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng

của Hòa Bình nói riêng và vùng Tây Bắc nói chung, vì thế việc giao lưu văn hóa với

các luồng văn hóa từ bên ngoài vào đã làm cho vùng đất này có rất nhiều thay đổi.

Đại đa số người Thái ở đây đã cố gắng lưu giữ những nét văn hóa của riêng tộc

người mình nhằm mục đích phục vụ du lịch chứ không hoàn toàn không phải vì sợ

mất bản sắc riêng vốn có. Họ xây nhà sàn đẹp và thậm chí có gia đình còn bỏ một

khoản tiền lớn để xây những bảo tàng riêng về văn hóa Thái nhằm thu hút khách

nước ngoài nhưng tịnh hề trong các bảo tàng đó, không hề có bóng dáng tên gọi một

loại lịch riêng của người Thái Trắng. Mặc dù họ biết tộc người mình có một loại

lịch riêng mà xưa kia tổ tiên người Thái đã sử dụng như họ sử dụng lịch hiện đại.

125

KẾT LUẬN

Nghiên cứu về lịch và cách tính lịch cũng như nghiên cứu về sức sống, sự

biến đổi của lịchThái ở Việt Nam nói chung và của người Thái Đen ở Tây Bắc nói

riêng trong truyền thống và hiện đại có thể rút ra một số kết luận sau:

1. Lịch Thái là một di sản văn hóa độc đáo của tộc người Thái Đen, đó là

một trong những cách tính lịch cổ điển và tiêu biểu nhất của các tộc người ở Việt

Nam. Với phương pháp tiếp cận Nhân học / Dân tộc học, đề tài nghiên cứu tìm hiểu

kết cấu, cách tính lịch độc đáo và sức sống của lịch Thái, phản ánh những giá trị văn

hóa đặc sắc của người Thái qua lịch.

2. Để hình thành lịch phải dựa trên rất nhiều cơ sở. Lịch Thái được hình thành,

phát triển và hoàn thiện cũng dựa trên cơ sở thiên văn và cơ sở thực tiễn. Giống như

các loại lịch chung trên thế giới, lịch Thái có nguồn gốc và cách tính cổ điển nhất là

dựa vào các hiện tượng thiên nhiên. Nó cũng được hình thành từ nhu cầu phải nắm rõ

thời vụ để tiến hành hoạt động trồng trọt và chăn nuôi của những cư dân làm nông

nghiệp. Lịch Thái cũng giống như lịch Âm cổ truyền đều dựa trên sự chuyển động

của mặt trăng để tính thời gian trong một tháng, đó là cơ sở thiên văn quan trọng của

lịch loại này. Các yếu tố Thiên – Địa – Nhân cũng góp phần quan trọng cấu tạo nên

lịch của người Thái. Trong lịch Thái cũng dùng hệ Can Chi, Ngũ hành để tính lịch.

Đó là một biểu hiện ảnh hưởng của lịch Trung Hoa đến lịch của người Việt Nam nói

chung và lịch của người Thái nói riêng. Vì vậy, về cơ bản thì lịch của người Thái ở

Tây Bắc Việt Nam gần giống với lịch Âm - Dương lịch thuần túy và trong quá trình

phát triển nó cũng tiếp nhận nhiều yếu tố khác nhau để hoàn thiện hơn.

3. Qua việc phân tích các cơ sở hình thành, kết cấu của lịch nói chung và lịch

Thái nói riêng ta thấy:

Mặc dù tiếp nhận nhiều yếu tố của lịch Trung Hoa nhưng cơ sở của lịch Thái

vẫn là sự sáng tạo của cư dân Thái giỏi nghề nông, vẫn mang những nét riêng phù

hợp với cuộc sống của cư dân nông nghiệp vùng Tây Bắc.

Lịch Thái có nhiều điểm giống như lịch tre của người Mường, Âm - Dương

lịch của người Việt, với cách tính chênh lệch 6 tháng là một nét đặc sắc của lịch

Thái. Do vậy, xưa người Thái không ăn Tết Nguyên đán như người Việt mà họ ăn

tết riêng, thường là sau khi thu hoạch mùa màng. Ngày nay, dù người Thái đã ăn tết

126

Nguyên Đán nhưng sự chênh lệch về cách tính lịch thì vẫn được duy trì. Đó là một

trong những đặc điểm nổi bật nhất của lịch Thái đương đại.

4. Cùng với sự vận động của thời gian, lịch Thái cũng trải qua các thời kì khác

nhau và có nhiều biến đổi. Sự biến đổi đó thể hiện trên nhiều mặt: Kết cấu lịch, cách

vận dụng lịch trong các công việc trọng đại và thường ngày. Trước năm 1954, hầu hết

các vùng người Thái Đen chỉ sử dụng thuần túy lịch Thái mà không có sự xuất hiện của

lịch Dương. Lúc đó, những người biết xem ngày như các ông Mo, các thầy bói có vai

trò rất quan trọng. Hầu hết các công việc thường ngày, các lễ hội truyền thống đều tính

theo lịch Thái. Từ năm 1954 đến nay, cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, lịch

Dương thống nhất được dùng chung cho cả nước. Trong đó có cả vùng người Thái Sơn

La nói riêng và Tây Bắc nói chung.

5. Bước sang thế kỉ XXI, trước sự biến đổi mạnh mẽ của đời sống hiện đại,

văn hóa người Thái nói chung và lịch Thái nói riêng cũng có nhiều biến đổi. Tuy

nhiên, trước bối cảnh đó, đó lịch Thái không hề bị mất đi những giá trị đặc sắc mà

còn phát triển mạnh mẽ hơn nhờ sự tác động của các yếu tố kinh tế và khoa học kĩ

thuật. Lịch và nông lịch của người Thái hiện nay không còn nằm trong những trang

sách cổ của các ông mo nữa, nó đã có một diện mạo mới. Lịch Block, lịch treo

tường và nông lịch bằng chữ Thái và chữ Thái phiên âm được in là sự đánh dấu sự

phát triển của lịch Thái trong mấy năm gần đây. Năm 2006, Sở Khoa học và Công

nghệ đã biên soạn cuốn Lịch Sơn La 200 năm (dày 830 trang, chia làm 2 tập) do ông

Cà Văn Chung chủ biên. Ông Chung cũng đã đưa lịch Thái vào máy tính, hiện nay

có thể tra cứu ngày tháng năm giữa các loại lịch trong 400 năm (1800 đến 2199).

Sắp tới ông Cà Văn Chung sẽ nghiên cứu để tạo ra phần mềm xem lịch Thái trên

điện thoại di động.

Người Thái có quyền tự hào rằng, họ là tộc người có văn tự riêng nên có các

nguồn sử liệu đáng tin cậy về quá trình tộc người, về tổ tiên của họ. Người Thái cũng

tự hào là họ có một loại lịch riêng của tộc người mình, đó là một điều có ý nghĩa trong

việc giữ gìn và phát triển tri thức bản địa. Bởi lịch không chỉ là một sáng tạo khoa học,

thể hiện sự tinh thông toán học, thiên văn và còn là một di sản văn hóa của loài người.

127

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Tiến Bình (2003), Lịch Việt Nam thế kỷ XX – XXI (1901 - 2100), Nxb. Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

2. Ban Khoa học kĩ thuật Hòa Bình (1975), Nông lịch tỉnh Hòa Bình 1975, Hòa Bình.

3. Nguyễn Văn Chung (2001), Lịch Âm – dương Việt Nam (1900 – 2010), Nxb.

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

4. Cầm Cường (1977), Tìm hiểu văn hóa dân tộc Thái ở Việt Nam, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

5. Khổng Diễn, Trần Bình (2007), Dân tộc Lô Lô ở Việt Nam, Nxb. Thông tấn,

Hà Nội.

6. Lường Văn Đôi (2005), Sổ Đu mự, bản dịch tiếng Thái, Sơn La.

7. Vũ Trường Giang (2007), Lịch của người Thái ở miền núi Thanh Hóa, Tạp chí

Văn học Nghệ thuật, số 2, tr. 12 - 15.

8. Lê Sỹ Giáo (2000), Về sự phân ngành các nhóm Thái ở Việt Nam, Tạp chí Dân

tộc học, số 1, tr 12 -14.

9. Lê Sỹ Giáo (2014), Thời gian đón năm mới của các dân tộc tại sao lại không

giống nhau, Tạp chí Bảo tàng và Nhân học, số 1, tr. 14 - 16.

10. Hoàng Xuân Hãn (1982), Lịch và lịch Việt Nam, Tập san Khoa học xã hội (số

đặc biệt), Pari.

11. Nguyễn Văn Hòa (2012), Người Thái đen tính lịch và xem ngày giờ lành, Nxb.

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

12. Hội Phổ biến khoa học kĩ thuật tỉnh Sơn La (1965), Sổ tay nông nghiệp Sơn La,

Sơn La.

13. Quốc Khanh (2008), Chiêm tinh học là gì, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

14. Lò Văn Lả (1992), Giới thiệu lịch Thái (phần I), Kỷ yếu Hội thảo Thái học lần

thứ I (25 – 26/11/ 1990), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 401 - 404

15. Lò Văn Lả (1998), Giới thiệu lịch Thái (phần II), Văn hóa và lịch sử người

Thái ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, tr. 398 – 400.

16. Lò Văn Lả (2005), Quăm tô mương (Kể chuyện bản mường), Tài liệu tiếng

Thái, Sơn La.

17. Lò Văn Lả (2007), Sổ Chong Bang, Tài liệu tiếng Thái, Sơn La.

18. Lê Thành Lân (1995), Lịch hai thế kỷ (1802 – 2010) và cách lịch vĩnh cửu,

Nxb. Thuận Hóa, Huế.

19. Vi Trọng Liên (2001), Vài nét về người Thái ở Sơn La, Nxb. Văn hóa dân tộc,

Hà Nội.

20. Hoàng Lương (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc

Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

21. Kiều Bá Mộc (1988), Lịch Mường Bi – Một di sản văn hóa độc đáo, Nguyễn

Từ Chi (1988), Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi, Ủy ban nhân

dân huyện Tân Lạc, Sở Văn hóa Thông tin Hà Sơn Bình.

22. Hà Văn Năm, Cầm Thương (sưu tầm và biên dịch) (1978), Tục ngữ Thái, Nxb.

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

23. Nông Văn Nảo (2011), Lịch và những kiêng kị của người Thái Mường So, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

24. Nha Khí tượng Việt Nam (1985), Lịch và thời gian, Nxb. Phổ thông, Hà Nội.

25. Nguyễn Thị Thanh Nga (2007), Văn hóa truyền thống một số tộc người ở Hòa

Bình, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

26. Hoàng Trần Nghịch (2005) (sưu tầm và biên dịch), Lời có vần ông cha truyền

lại, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

27. Hoàng Trần Nghịch, Tòng Kim Ân (1990), Từ điển Việt – Thái, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

28. Lê Quý Ngưu (2004), Lịch Vạn niên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

29. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb.Văn học, Hà Nội.

30. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sơn La, Lịch Khoa học năm 2010.

31. Thông tấn xã Việt Nam (2008), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam – The Thai

people in the North – West of Vietnam, Hà Nội.

32. Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng (1999), Luật tục Thái ở Việt Nam: tập quán pháp,

Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

33. Phương Thu (2004), Ca dao tục ngữ Việt Nam, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

34. Nguyễn Đình Thư (2001), Tìm hiểu và ứng dụng thuyết Ngũ hành, Nxb. Văn

hóa dân tộc, Hà Nội.

35. Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội,

Hà Nội.

36. Cầm Trọng (2005), Những hiểu biết về người Thái ở Việt Nam, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

37. Cầm Trọng, Phan Hữu Dật (1995), Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân

tộc, Hà Nội.

38. Hoàng Tuấn (2000), Nguyên lý chọn ngày theo lịch Can Chi, Nxb. Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

39. Nguyễn Anh Tuấn (2007), Lũ muộn, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

40. Trần Đình Tuấn (1977), Lịch tiết khí và các lễ tục dân gian, Nxb. Thuận Hóa, Huế.

41. Đặng Nghiêm Vạn, Khà Văn Tiến, Tòng Kim Ân (1977), Tư liệu về lịch sử và

xã hội dân tộc Thái ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

42. Đặng Nghiêm Vạn (1974), Bước đầu tìm hiều về lịch sử phân bố dân tộc ở

miền núi Nghệ An, Tạp chí Dân tộc học, số 3, tr 10 - 11.

43. Tân Việt, Thiều Phong (1999), Bàn về lịch Vạn niên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

44. Nguyễn Hữu Vui (2000), Đại cương lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

45. Nguyễn Xiển (1986), Vì sao nên dùng dương lịch, Nxb. Phổ Thông, Hà Nội.

46. Bùi Dương Hải (2007), Quan sát thiên văn, website http://www.thienvan.org.vn

47. Đoan Hùng (2008), Lịch ta lịch tàu và sự khác biệt, website

http://www.thongluan.org/vn/modules.

48. Trần Gia Phụng (2006), Mồng 1 Tết năm nay, ngày 17 hay 18/ 02/ 2007? Website

http://www.thongluan.org/vn/modules.

* Danh sách người cấp tin:

1. Cô Hà Thị Bó, 32 tuổi, Cán bộ Tỉnh đoàn Sơn La.

2. Bà Hà Thị Bông, 49 tuổi, tổ 8, phường Chiềng Lề, thành phố Sơn La.

3. Ông Lò Văn Binh, 52 tuổi, bản Lả Mường, phường Chiềng Xôm, thành phố Sơn La.

4. Ông Cà Văn Chung, 52 tuổi, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sơn La,.

5. Ông Lường Văn Đôi, 80 tuổi, bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố Sơn La.

6. Bà Lục Thị Hằng, 50 tuổi, Bản Lác 1, thị trấn Mai Châu, tỉnh Hòa Bình

7. Ông Lường Văn Hiết, 75 tuổi, bản Bó, phường Chiềng An, thành phố Sơn La.

8. Ông Bùi Việt Hùng, 47 tuổi, Cán bộ Phòng Văn hóa thông tin, huyện Tân Lạc,

tỉnh Hòa Bình.

9. Ông Quàng Huyên, 70 tuổi, bản Cọ, phường Chiềng An, thành phố Sơn La.

10. Ông Lò Văn Lả, 70 tuổi, Cán bộ Đài Phát thanh và truyền hình tỉnh Sơn La (đã

nghỉ hưu), địa chỉ hiện nay: tổ 7, phường Tô Hiệu, thành phố Sơn La.

11. Ông Hà Long, 72 tuổi, tổ 2, phường Quyết Thắng, thành phố Sơn La.

12. Anh Hà Quang Lợi, 30 tuổi, Cán bộ văn hóa xã Chiềng Châu, Mai Châu,

Hòa Bình.

13. Bà Quàng Thị Miến, 47 tuổi, Chủ tịch hội phụ nữ xã Chiềng Xôm, thành phố

Sơn La.

15. Ông Lường Văn Yệu, 50 tuổi, cán bộ Phòng Quản lý, Sở Khoa học và công

14. Ông Đinh Xuân Piu, 42 tuổi, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.

nghệ tỉnh Sơn La.

16. Ông Khà Văn Tiến, 70 tuổi, Nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện Mai Châu,

tỉnh Hòa Bình.

PHỤ LỤC

0 1 0 2

-

3

g n á h t

ả i g

c á t

a ủ c

a ị

đ c ự h t u ệ i l

ƣ T

,

a L n ơ S h n

ỉ t n â d n â h n n a b y Ủ

: n ồ u g N

.

a L n ơ S ố h p h n à h t

ồ đ n ả B

.

1 H

Hình 2. 10 CAN CỦA LỊCH CỔ TRUYỀN

Thái VN Cáp

Thay Zong Cáp

Thay Khửn Cáp

Thay Lự Cáp

Thay Nháy Cáp

Thay Mao Cáp

Thai Lan Chasok

Tr. Quốc Chỉa

T T 1

Việt Nam Giáp

Hặp

Đắp

Đắp

Đắp

Lặp

Lặp

Saptasok

2

Ất

Hai

Rai

Rai

Ai

Ai

Attasok

Pính

Lai

3

Bính

Mâng

Mương

Mâng

Mâng

Mâng

Mâng

Nofasok

Tinh

4

Đinh

Pấc

Pấc

Pấc

Pấc

Pấc

Pấc

Samrittisok

5

Mậu

Cắt

Cắt

Cắt

Cắt

6

Kỷ

Cắt

Cắt

Eksok

Chỉ

Khốt

Cốt

Cốt

Cốt

Khốt

Khút

Câng

7

Canh

Thosok

Huộng

Luộng

Hộng

Lộng

Ụng

Ụng

Trisok

Sân

8

Tân

Tấu

Tấu

Tấu

Tấu

Tấu

Tấu

Cattawasok

Zân

9

Nhâm

Bencasok

Cẩu

10

Quý

Nguồn: Lò Văn Lả (2007), Sổ Chong Bang, Tài liệu tiếng Thái, Sơn La

Hình 3. 12 CHI LỊCH CỔ TRUYỀN

TT

Con vật Tƣơng trƣng Chuột

Ký hiệu Thái

Thay Zong Chảy

Thay Khửn Chảy

Thay Lự Chảy

Thay Nháy Chê-y

Thay Mao Chê-y

Trung Quốc Chíu

Thái Lan Chuất

1

Việt Nám Tý

Thái VN Chảư

Trâu

Pẩu

Pảo

Pảo

Pảo

Pảo

Pảo

Chô

Chulu

2

Sửu

Hổ

Nhi

Zi

Zi

Zi

Zi

Zi

Zân

Khan

3

Dần

Mẩu

Thỏ

Mảo

Mảo

Mảo

Mảo

Mảo

Mau

Tho

4

Mão

Rồng

Xi

Xi

Xi

Xi

Xi

Xi

Chân

Marong

5

Thìn

Rắn

Xảư

Xảy

Xảy

Xảy

Xê-y

Xê-y

Maxeng

6

Tỵ

TT

Con vật

Ký hiệu

Thái

Thay

Thay

Thay

Thay

Thay

Thái

Trung

Việt

Thái

Tƣơng trƣng Ngựa

VN Xngạ

Zuôn Xngạ

Khửn Xukngak

Lự Xukngak

Nhay Xingak

Mao Xingak

Quốc U

Lan Mamia

7

Nám Ngọ

Một

Một

Mệt

Mụt

Mệt

8

Vi

Mùi

Mame

Mệt

Khỉ

Xăn

Xăn

Xăn

Xăn

Xăn

Sân

9

Thân

Vok

Xen

Hậu

Lậu

Rậu

Lậu

Ạo

Ậu

10

Dậu

Raca

Chó

Mệt

Xết

Xết

Xết

Mệt

Mệt

Si

11

Tuất

Cho

Lợn

Cạư

Cạy

Cạy

Cay

Kê-y

Kê-y

Hai

12

Hợi

Kun

Nguồn: Lò Văn Lả (2007), Sổ Chong Bang, Tài liệu tiếng Thái, Sơn La.

Hình 4. Bảng tra cứu tên năm giữa Dƣơng lịch với Lịch cổ truyền Thái

và Phật lịch của Thawi Swangpanyangkun – Thailand

Nguồn: Theo ông Cà Văn Chung, Sở Khoa học và Công Nghệ Sơn La. Tư liệu thực

địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

Hình 5. Lịch hiện đại kết hợp với lịch Thái truyền thống. Nguồn: Sở Khoa học

và Công nghệ tỉnh Sơn La. Tƣ liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

Hình 6. Nông lịch hiện đại. Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sơn La.

Tƣ liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

Hình 7. Phụ nữ Thái Đen Sơn La. Tƣ liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010

Hình 8. Bản Cọ, phƣờng Chiềng An, thành phố Sơn La.

Tƣ liệu thực địa tác giả tháng 10 năm 2013

Hình 9. Một bản định cƣ của ngƣời Thái tại huyện Thuận Châu,

tỉnh Sơn La. Tƣ liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

Hình 10. Ngƣời Thái vào vụ mới. Tƣ liệu thực địa của tác giả tháng

3 năm 2010.

Hình 11. Lễ cúng tổ tiên trong đám cƣới của ngƣời Thái Đen. Tƣ

liệu thực địa của tác giả tháng 3 năm 2010.

Hình 12. Bảng xem “ Ta – u” của ngƣời Thái ở Mai Châu, Hòa Bình.

Tƣ liệu thực địa tháng 10 năm 2013.

Hình 13,14. Một số hiện vật về ngƣời Thái Trắng, Mai Châu trƣng bày tại Bảo tàng tƣ

nhân thị trấn Mai Châu, Hòa Bình. Tƣ liệu thực địa của tác giả tháng 10 năm 2013

Hình 15. Hình vẽ Mặt trăng trong lịch cổ của ngƣời Thái Đen. Nguồn: Sổ Chong bang

Hình 16. Bảng chọn ngày tốt xấu để thả trâu. Nguồn: Sổ Chong bang

Hình 17. Phỏng đoán số phận con ngƣời theo năm sinh. Nguồn: Sổ Chong bang

Hình 18. Bảng chọn ngày tốt xấu để làm nhà mới. Nguồn: Sổ Chong bang

Hình 19. Bảng chọn tuổi để làm nhà. Nguồn: Sổ Chong bang

Hình 20. Hệ thống bảng xem Cẩu coong hong phưm. Nguồn: Sổ Chong bang