ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ LAN ANH

CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TỈNH BẮC NINH (1997 - 2017) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ LAN ANH CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TỈNH BẮC NINH (1997 - 2017) Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8 22 90 13 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: TS. Nghiêm Thị Hải Yến THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết

quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và trích dẫn nguồn tài liệu rõ ràng.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019

Người thực hiện

Nguyễn Thị Lan Anh

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình sau đại học và viết luận văn thạc sĩ, trước tiên, tôi

xin được gửi lời tri ân tới các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử - trường Đại học Sư

phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường ĐHSP - ĐH

Thái Nguyên.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến TS. Nghiêm Thị Hải Yến - người đã trực tiếp

hướng dẫn, định hướng chuyên môn, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong

quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội

- nghề nghiệp của tỉnh Bắc Ninh: Hội Đông y; Hội Khuyến học; Hội Doanh nghiệp

nhỏ và vừa; Hội Sinh vật cảnh; Hội Văn học - nghệ thuật; Hội Nhà báo Bắc Ninh…

đã cung cấp thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận văn.

Xin cảm ơn gia đình và người thân đã luôn động viên, khuyến khích tôi trong

suốt quá trình học tập.

Luận văn là kết quả bước đầu của quá trình nghiên cứu khoa học của tôi, nên

không khỏi có những hạn chế do đó, tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp của

các thầy cô.

Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019

Tác giả

Nguyễn Thị Lan Anh

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii

MỤC LỤC .......................................................................................................... iii

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH BẮC NINH .................................................... iv

DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN ............................................... iv

DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................. v

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 2

3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................. 5

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................... 6

5. Những đóng góp của đề tài .............................................................................. 7

6. Kết cấu của Luận văn ...................................................................................... 7

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC TỔ CHỨC

XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TRƯỚC NĂM 1997 ........................................... 8

1.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh .......................................................................... 8

1.1.1. Điều kiện tự nhiên ..................................................................................... 8

1.1.2. Vài nét về kinh tế tỉnh Bắc Ninh ............................................................. 10

1.1.3. Tình hình xã hội tỉnh Bắc Ninh ............................................................... 12

1.2. Sự ra đời và hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh

trước năm 1997 .................................................................................................. 15

1.2.1. Khái niệm về tổ chức XH - NN ............................................................... 15

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp ....................................................................................................... 18

1.2.3. Sự ra đời và hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh

trước năm 1997 .................................................................................................. 18

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................... 22

iii

Chương 2: HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ

NGHIỆP TỈNH BẮC NINH (1997 - 2017) .................................................... 23

2.1. Hoạt động của các tổ chức XH - NN trong lĩnh vực kinh tế - khoa học

công nghệ ........................................................................................................... 23

2.1.1. Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa .......................................................... 23

2.1.2. Hội làm vườn ........................................................................................... 30

2.1.3. Hội Sinh vật cảnh .................................................................................... 36

2.2. Hoạt động của các tổ chức XH - NN trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục

và y tế ................................................................................................................. 42

2.2.1. Hội văn học - nghệ thuật.......................................................................... 42

2.2.2. Hội nhà báo .............................................................................................. 52

2.2.3. Hội Luật gia ............................................................................................. 57

2.2.4. Hội khuyến học ........................................................................................ 61

2.2.5. Hội cựu giáo chức .................................................................................... 66

2.2.6. Hội Đông Y ............................................................................................. 72

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................... 78

Chương 3: NHẬN XÉT VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ

NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH (1997 - 2017) ................................................ 79

3.1. Đóng góp của các tổ chức XH - NN đối với phát triển KT - XH của

tỉnh Bắc Ninh trong thời kỳ đổi mới ................................................................. 79

3.1.1. Các tổ chức XH - NN thể hiện rõ vai trò tư vấn, đề xuất về chính

sách, pháp luật phù hợp với lĩnh vực chuyên môn nhằm hoàn thiện hơn

nữa về văn bản dành cho doanh nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường........... 79

3.1.2. Hoạt động hiệu quả của các tổ chức XH - NN góp phần thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế của tỉnh, nâng cao đời sống của nhân dân, mở rộng

quan hệ kinh tế đối ngoại với các đối tác trong và ngoài nước ......................... 80

3.1.3. Các tổ chức XH -NN tỉnh Bắc Ninh góp phần xây dựng môi trường

văn hóa, giáo dục văn minh, hiện đại ................................................................ 85

iv

3.2.Thực trạng quản lí và hoạt động của các tổ chức của các tổ chức XH -

NN ở tỉnh Bắc Ninh ........................................................................................... 89

3.2.1. Quản lí và tổ chức của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh ............... 89

3.2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với hoạt động của các tổ chức XH - NN ở

tỉnh Bắc Ninh ..................................................................................................... 92

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................... 97

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 98

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 101

PHỤ LỤC

v

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH BẮC NINH

iv

DANH MỤC VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

: Chữ thập đỏ CTĐ

: Cựu giáo chức CGC

: Doanh nghiệp nhỏ và vừa DNN&V

: Kinh tế - xã hội KT - XH

: Uỷ ban nhân dân UBND

: Văn học - nghệ thuật VHNT

: Xã hội - nghề nghiệp XH - NN

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế Bắc Ninh (1997 - 2017) ..................................................... 10

Bảng 1.2: Cơ cấu dân số Bắc Ninh theo ngành kinh tế .............................................. 13

Bảng 2.1: Quỹ từ thiện của Hiệp hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh ................................... 29

Bảng 2.2: Số hội viên Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh (1997 - 2017) .......................... 31

Bảng 2.3: Số lượng hội viên Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh (1997 - 2017) ................... 52

Bảng 2.4: Số lượng học bổng trao hàng năm của Hội Khuyến học Bắc Ninh ........... 63

Bảng 2.5: Số lượng học bổng, quà của Hội Khuyến học Tỉnh trao tặng (2011 -

2017) .......................................................................................................... 63

Bảng 2.6: Số lượng hội viên Hội CGC được chúc thọ ............................................... 67

Bảng 2.7: Số lượng bệnh nhân chữa bệnh bằng thuốc đông y ................................... 73

v

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bước vào những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam ở trong tình trạng khủng

hoảng về kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Năm 1986, dưới sự

lãnh đạo của Đảng, đất nước ta thực hiện đổi mới: Cải cách về chính trị, xây dựng

nhà nước pháp quyền và xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Với điều kiện phát

triển mới, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (XH- NN) phát triển mạnh mẽ cả về số

lượng,quy mô và tổ chức. Các tổ chức này ngày càng thể hiện rõ vai trò và hoạt động

có hiệu quả trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Tỉnh Bắc Ninh được tái thành lập năm 1997, đây là mảnh đất giàu truyền

thống lịch sử - văn hóa, có tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện nhiệm vụ

chung trong công cuộc đổi mới đất nước, phát huy những thế mạnh của địa phương,

Bắc Ninh có những bước phát triển đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Bắc Ninh

được mệnh danh là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc và của

cả nước.

Trong giai đoạn hiện nay, Bắc Ninh tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện

đại hóa, “phấn đấu xây dựng tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc trung

ương vào những năm 20 của thế kỷ XXI theo hướng văn minh, hiện đại” [77, tr.24].

Để đạt được mục tiêu đó có sự góp sức không nhỏ của các tổ chức XH- NN trong

hoạt động kinh tế -xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Vậy, các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc

Ninh hoạt động như thế nào? Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tồn tại và

phát triển? ở Bắc Ninh, quy mô và tổ chức XH - NN có điểm gì khác so với các tỉnh

lân cận không?... Đây là vấn đề cho đến nay vẫn chưa nhận được sự quan tâm tìm

hiểu sâu sắc của các nhà nghiên cứu.

Xuất phát từ thực tiễn trên, làm sáng rõ về quá trình hình thành và phát triển

của các tổ chức XH -NN tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2017 là một việc làm

cần thiết nhằm góp phần cung cấp thêm nguồn tài liệu tham khảo cho lịch sử kinh tế -

xã hội tỉnh Bắc Ninh. Qua đó, tác giả muốn khẳng định vai trò của các tổ chức XH -

NN trong sinh hoạt chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế của tỉnh, nhằm xây dựng Bắc

Ninh đạt chuẩn tỉnh văn minh, hiện đại.

1

Với những lý do, tác giả quyết định chọn hướng nghiên cứu: “Các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp tỉnh Bắc Ninh (1997 - 2017)” để thực hiện luận văn thạc sĩ.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra,trước hết tôi tiến hành khảo cứu

các công trình khoa học đã được công bố liên quan trực tiếp đến nội dung và hướng

nghiên cứu của luận văn. Trên cơ sở tìm hiểu nguồn tài liệu, tôi đã tiếp cận với các

công trình sau:

Năm 1987, nhà xuất bản Sự Thật đã in ấn và phát hành cuốn sách do đồng chí

Trường Chinh chủ biên với tiêu đề: Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời

đại. Nội dung cuốn sách cung cấp cho người đọc những tư duy về đổi mới đặc biệt là

đổi mới kinh tế (xây dựng kinh tế nhiều thành phần) và sự xuất hiện của các hình

thức tổ chức xã hội mới trong nền kinh tế thị trường.

Cũng trong năm 1987, nhà xuất bản Nông nghiệp đã giới thiệu với bạn đọc

cuốn sách: Những vấn đề cơ bản của thời kì quá độ của tác giả Đoàn Trọng Tuyến.

Với trên 200 trang in người đọc được cung cấp những nhận thức cơ bản về kinh tế, xã

hội của thời kì quá độ ở Việt Nam trong giai đoạn tiến lên chủ nghĩa xã hội; Tác giả

đã tổng kết về thành quả kinh tế Việt Nam đạt được trong những năm đầu thực hiện

đổi mới. Với sự phân tích của nhà kinh tế học, người đọc vững tin về sự đổi mới của

Việt Nam.

Sau năm 1987, có khá nhiều công trình viết về kinh tế, xã hội Việt Nam trong

thời kỳ quá độ. Tuy nhiên, những công trình viết riêng về các tổ chức XH- NN không

có. Đề cập đến hoạt động và vai trò của các tổ chức XH-NN nói chung chủ yếu được

trình bày qua nội dung của một số bài báo được đăng tải trên các tạp chí. Ví như,tạp

chí Xây dựng pháp luật điện tử năm 2008 đăng bài Vai trò tham gia xây dựng pháp

luật của các tổ chức XH - NN của tác giả Nguyễn Phước Thọ; Tạp chí Kinh tế và phát

triển số 208 ra tháng 10/2014 có đăng bài “Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp đối với sự phát triển kinh tế sau 30 năm đổi mới…nội dung các bài báo đã

phân tích và đánh giá về vai trò hỗ trợ của các tổ chức XH -NN trong các lĩnh vực

chuyên môn như tư vấn pháp luật, thúc đẩy phát triển kinh tế, an sinh xã hội…Nhìn

chung đăng tải dưới hình thức bài báo, một số vấn đề các tác giả đưa ra bàn luận,

2

nhận xét thể hiện dưới lăng kính cá nhân, chưa thực sự toàn diện vì trên thực tế các tổ

XH-NN vận động, phát triển khác nhau trong từng hoàn cảnh thuận lợi và khó khăn

tương ứng.

Điểm báo Bắc Ninh từ năm 1997 đến 2017, số bài báo phản ánh về hoạt động

của các tổ chức XH -NN có thể kể đến như:

Bài viết “Hoạt động của Hội Làm vườn đôi điều ghi nhận” của tác giả Đào

Văn Hoàng, đăng trên báo Bắc Ninh hàng ngày số 258 (ngày 18/08/1997), đã phân

tích một số thành tựu của Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh.

Tác giả Nguyễn Bá Sinh đề cập đến “Báo Bắc Ninh sự ra đời, quá trình

trưởng thành và phát triển”, đăng trên báo Bắc Ninh hàng ngày số 93, ngày

04/03/2000. Bài viết đã trình bày sự ra đời, hình thành, phát triển của Hội Nhà báo

Bắc Ninh, đồng thời nêu nên vai trò của Hội Nhà báo Bắc Ninh.

“Chăn nuôi Bắc Ninh thực trạng và giải pháp” của nhà báo Đăng Tuấn đăng

trên báo Bắc Ninh hàng ngày, số 180 (ngày 01/06/2015). Tác giả đã phân tích tình

hình phát triển của ngành chăn nuôi Bắc Ninh, đồng thời phân tích những khó khăn

mà ngành chăn nuôi đang gặp phải, từ đó nêu một số biện pháp để khắc phục những

khó khăn đó.

“Mấy vấn đề cần giải quyết trong phát triển kinh tế trang trại” của tác giả

Thái Uyên, đã đề cập đến một số giải pháp để phát triển kinh tế trang trại ở Bắc

Ninh.Bài viết được dăng tải trên báo Bắc Ninh hàng ngày số 196 (ngày 13/06/2016)

“Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển” là nhan đề bài viết của tác giả

Hải Yến, được báo Bắc Ninh đăng tải số ra tháng 4/2017. Bài viết bước đầu phân tích

và đánh giá về thực trạng hoạt động của Hội Khuyến học Bắc Ninh.

Tác giả Trung Nguyên viết về sự “Phát triển trang trại nông nghiệp ứng dụng

công nghệ cao”. Nội dung bài báo phân tích tính hiệu quả của kinh tế trang trại đạt

hiệu suất cao nhờ ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất của trang trại. Những

độc giả quan tâm tìm đọc trên báo Bắc Ninh số tháng 6/2017.

“Nghề báo trong tôi” - bài viết của tác giả Khánh Linh đăng tải trên báo Bắc

Ninh số tháng 8 /2017.Nội dung bài viết là sự chia sẻ của chính nhà báo với bạn đọc

về những thuận lợi và khó khăn trong nghề. Qua đó, người đọc cũng thấy rõ tinh thần

3

hỗ trợ, giúp đỡ của Hội nhà báo Bắc Ninh trong công việc, cuộc sống đối với hội

viên. Sự đồng cảm và luôn sát cánh bên các hội viên đã phản ánh đúng chức năng và

nhiệm vụ của Hội nhà báo tỉnh Bắc Ninh.

Cũng trong năm 2017, bài báo “Điểm sáng trong công tác khuyến học” của

tác giả Hoài Phương, khẳng định về hoạt động và vai trò của công tác khuyến học đối

với xã hội của Hội khuyến học tỉnh Bắc Ninh. Để phục vụ cho công tác tuyên truyền

ngay từ năm 2016, Hội khuyến học tỉnh Bắc Ninh đã thường xuyên tổ chức Hội thảo

khoa học và đã in kỷ yếu về hoạt động của Hội từ năm 2000 đến năm 2016. Hoạt

động này vẫn được duy trì hàng năm .

Ngoài việc khai thác nguồn dữ liệu trên báo, những thông tin chung về thực

trạng hoạt động của các tổ chức XH-NN ở tỉnh Bắc Ninh, tôi tham khảo những tài

liệu đã được Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh xuất bản như : “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh

(1926 - 2008)”; “Lịch sử Báo Bắc Ninh sơ thảo (1962 - 2005)”; “VHNT Bắc Ninh 20

năm xây dựng và phát triển 1997 -2018”….

Hoạt động của các tổ chức XH- NN trong phát triển nền kinh tế đất nước

không phải là hiện tượng mới, song đối tượng này không có nhiều ấn phẩm của các

nhà nghiên cứu. Dừng ở mức độ chung mang tính khái quát về lí luận và có đề cập ít

nhiều đến thực tiễn là một phần nội dung của đề tài cấp Bộ: Các tổ chức XH - NN và

hiệp hội kinh tế với việc xây dựng chính sách và pháp luật trong nền kinh tế thị

trường ở Việt Nam do tác giả Võ Đình Toàn công tác tại Bộ tư pháp viện khoa học

chủ biên năm 2007.

Nghiên cứu về “Các tổ chức XH - NN ở thành phố Thái Nguyên từ năm 1986

đến năm 2016” là chủ đề luận văn thạc sĩ của học viên Nguyễn Thị Chung,trường

Đại học sư phạm Thái Nguyên. Tác giả đã chọn nghiên cứu về các tổ chức XH - NN

trên địa bàn thành phố thuộc khu vực trung du miền núi phía Bắc Việt Nam. Trên cơ

sở khai thác tài liệu địa phương, tác giả đã bước đầu tái hiện hoạt động của các tổ

chức XN- NN ở Thành phố Thái Nguyên, tác giả đã nhận xét về vai trò của các tổ

chức này trong bối cảnh hoạt động kinh tế - xã hội của thành phố. Hạn chế của tác giả

mà tôi nhận thấy là tài liệu điền dã địa phương ít; Không làm rõ được thực trạng hoạt

động của các tổ chức XH - NN; Đánh giá vai trò của các tổ chức XH - NN của thành

phố Thái Nguyên vẫn còn phiến diện mang ý nghĩ chủ quan của tác giả.

4

Nhìn chung, trên cơ sở tìm hiểu về các công trình khoa học, các ấn phẩm đã

được công bố có nội dung liên quan đến vấn đề luận văn lựa chọn nghiên cứu, tôi

thấy rằng:

Thứ nhất, tính đến thời điểm hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu

chuyên biệt về quá trình hình thành, hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Thứ hai, số tài liệu tham khảo đã được in ấn, xuất bản không nhiều, nội dung

tản mạn vì thế để hoàn thành luận văn, tác giả xác định khai chủ yếu tài liệu lưu trữ

tại tỉnh Bắc Ninh và tài liệu điền dã do tác giả trực tiếp thực hiện.

3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của tỉnh Bắc Ninh1 giai

đoạn (1997 - 2017).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Do Bắc Ninh là tỉnh nhỏ nhất nước nên đề tài nghiên cứu về

các tổ chức XH - NN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (Tỉnh Bắc Ninh gồm có: thành phố

Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, huyện Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ, Thuận Thành, Tiên

Du, Yên Phong).

- Về thời gian: Từ năm 1997 đến năm 2017 (Năm 1997 là mốc thời gian tái lập

tỉnh Bắc Ninh).

3.3. Nhiệm vụ của đề tài

- Phân tích thực trạng hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh giai

đoạn (1997 - 2017).

- Đánh giá kết quả, vai trò và những vấn đề đặt ra trong hoạt động của các tổ

chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh.

- Đưa ra một số gợi ý góp phần cải thiện, thúc đẩy hiệu quả hoạt động của các

tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.

1Trong văn bản nhà nước có ghi: Tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp và tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Sự khác biệt chỉ nhấn mạnh về tính đặc thù nghề nghiệp, về cơ chế hoạt động giống nhau. Do vậy, trong luận văn chúng tôi đề cập chung là tổ chức xã hội – nghề nghiệp.

5

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu

- Nguồn tài liệu thành văn: Các công trình khoa học như sách, báo, tạp chí,

luận văn, luận án… đã được công bố liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn.

- Nguồn tài liệu lưu trữ: Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII,

VIII, IX, X, XI; Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước về KT - XH. Văn

kiện, nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh trong thời kì 1997 - 2017 được

lưu trữ tại văn phòng Tỉnh ủy; Các báo cáo của các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh

được lưu trữ tại văn phòng của các tổ chức XH - NN.

- Tài liệu điền dã: Kết quả thực địa và phỏng vấn nhân chứng thuộc một số tổ

chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh của tác giả.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chủ đạo trong

quá trình nghiên cứu đề tài:

Phương pháp lịch sử: Trong quá trình nghiên cứu về các tổ chức XH - NN của

tỉnh Bắc Ninh, tác giả đã sử dụng phương pháp lịch sử nhằm phân tích, đánh giá về

các tổ chức XH - NN của tỉnh Bắc Ninh theo logic thời gian.

Phương pháp logic: Tác giả nghiên cứu tổng quát về hoạt động các tổ chức

XH - NN tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 - 2017, để khẳng định nguyên nhân ra đời,

quy luật vận động, phát triển khách quan của các tổ chức XH - NN của tỉnh Bắc Ninh

trong cơ chế phát triển kinh tế thị trường XHCN. Trên cơ sở phân tích thực tiễn dựa

trên nguồn tài liệu khoa học, tác giả khẳng định những thành tựu, chỉ ra những hạn

chế và đề xuất những bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng và phát triển các

tổ chức XH -NN.

Phương pháp điền dã:

- Tác giả đã lập phiếu điều tra, lấy ý kiến của các thành viên thuộc các tổ chức

XH- NN ở tỉnh Bắc Ninh nhằm thu thập các thông tin về hoạt động, về hiệu quả các

kế hoạch đã triển khai ở các tổ chức XH - NN….

- Thực hiện phỏng vấn nhân chứng.

Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả còn kết hợp các phương pháp

khác như: Phương pháp tổng hợp và xử lý tài liệu thống kê, phương pháp phân

6

tích để thấy được quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức XH - NN; Mối

liên hệ giữa các tổ chức XH - NN với các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh.

5. Những đóng góp của đề tài

- Luận văn làm rõ được thực tế hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc

Ninh giai đoạn (1997 - 2017).

- Luận văn làm rõ được vai trò, đóng góp cũng như chỉ ra các vấn đề đặt ra đối

với hoạt động của các tổ chức XH - NN ở Bắc Ninh.

- Luận văn đề xuất các biện pháp cải thiện, thúc đẩy hiệu quả hoạt động của các tổ

chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn tới.

6. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục

theo trường quy, nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp

trước năm 1997.

Chương 2. Hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

(1997 - 2017).

Chương 3. Nhận xét về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

(1997 - 2017).

7

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC TỔ CHỨC

XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TRƯỚC NĂM 1997

1.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh

1.1.1. Điều kiện tự nhiên

Bắc Ninh là tỉnh nằm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. So với các tỉnh

thành trong cả nước, Bắc Ninh có diện tích nhỏ 823 km2. Nhìn trên bản đồ, phạm vi

của tỉnh Bắc Ninh thuộc tọa độ từ 200 58’B đến 210 16’ vĩ độ bắc và từ 1050 54’Đ đến

106o19’Đ kinh độ đông. Các tỉnh giáp gianh với Bắc Ninh gồm có: phía Bắc là tỉnh

Bắc Giang, phía Đông và Đông Nam giáp với tỉnh Hải Dương, phía Nam liền kề với

tỉnh Hưng Yên, phía Tây nối liền với thành phố Hà Nội. Hiện nay, Bắc Ninh có 8 đơn

vị hành chính trực thuộc: thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn và 6 huyện (Yên Phong,

Quế Võ, Tiên Du, Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài).

Khí hậu của tỉnh Bắc Ninh thuộc dạng cận nhiệt đới ẩm. Một năm có 4 mùa rõ

rệt (xuân, hạ, thu, đông). Do sự chênh lệch về nhiệt độ giữa mùa hè nóng ẩm và mùa

đông khô lạnh nên hiện tượng mưa kéo dài diễn ra hàng năm. Lượng mưa trong mùa

mưa chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm [45].

Là một tỉnh thuộc đồng bằng nên địa hình của tỉnh Bắc Ninh khá bằng phẳng,

có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua

các dòng chảy nước mặt đổ về sông Cầu, sông Đuống và sông Thái Bình. Mức độ

chênh lệch địa hình trên toàn tỉnh không lớn. Vùng đồng bằng chiếm phần lớn diện

tích toàn tỉnh có độ cao phổ biến từ 3 - 7m so với mực nước biển và một số vùng thấp

trũng ven đê thuộc các huyện: Gia Bình, Lương Tài, Quế Võ. Địa hình trung du đồi

núi chiếm tỷ lệ rất nhỏ khoảng 0,53% so với tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh được

phân bố rải rác thuộc thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, huyện Quế Võ, “các đỉnh

núi cao phổ biến từ 60 - 100m, đỉnh cao nhất là núi Bàn Cờ (thành phố Bắc Ninh)

cao khoảng 171m, tiến đến là núi Bu (huyện Quế Võ) cao khoảng hơn 103m, núi Phật

Tích (huyện Tiên Du) cao khoảng 84m và núi Thiên Thai (huyện Gia Bình) cao

khoảng 71m”[45].

8

Chảy qua vùng đất Bắc Ninh có các con sông lớn như sông Đuống, sông Cầu

sông Thái Bình. Dòng chảy cùng với các nhánh chi lưu của nó đã tạo thuận lợi cho

công tác tưới tiêu trong nông nghiệp.Hàng năm, sau mùa mưa lũ đồng bằng được bồi

đắp bởi lượng lớn đất phù sa màu mỡ. Như vậy, với địa hình và khí hậu nóng ẩm nên

từ rất sớm ở Bắc Ninh có điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp.

Bắc Ninh không phải là tỉnh có thế mạnh về tài nguyên khoáng sản. Ở tỉnh chỉ

khai thác và sản xuất một số nguyên vật liệu phục vụ cho các ngành công nghiệp. Có

thể kể đến việc khai thác đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu

tấn ở Quế Võ và Tiên Du; đất sét làm gạch chịu lửa ở thị xã Bắc Ninh, đá cát kết với

trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh; đá sa thạch ở Vũ Ninh - Bắc Ninh

có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên Phong với trữ

lượng 60.000 - 200.000 tấn [45].

Bắc Ninh ở vị trí thuận lợi về giao thông đường bộ và đường không. Các tuyến

đường huyết mạch: Quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 18, quốc lộ 38, đường sắt Hà Nội- Lạng

Sơn, Hà Nội- Quảng Ninh nối liền Bắc Ninh với các trung tâm kinh tế, văn hóa và

thương mại của khu vực phía Bắc Việt Nam, với cảng hàng không quốc tế Nội Bài và

liên thông với hệ thống các trục đường quốc lộ đến với mọi miền trong cả nước.

Chính vì vậy, Bắc Ninh rất thuận lợi trong giao lưu và phát triển nội thương cũng như

khả năng xuất khẩu hàng hóa ra thị trường khu vực và thế giới.

Với những nhân tố thuận lợi trên, Bắc Ninh trở thành thành phố vệ tinh quan

trọng cho Hà Nội và là một điểm nhấn trong tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội -

Hải Phòng - Quảng Ninh. Nơi đây, vừa là thị trường tiêu thụ, vừa là khu vực cung

cấp nguồn nhân lực, sản phẩm nông sản, vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ…

cho các tỉnh thành trong vùng đồng bằng Sông Hồng và các vùng lân cận. Cùng với

việc khai thác lợi thế của các làng nghề thủ công truyền thống, Bắc Ninh đang có

nhiều chính sách thu hút đầu tư, mở rộng về quy mô sản xuất, đa dạng hóa và nâng

cao chất lượng sản phẩm tạo thành các khu công nghiệp tập trung, cụm công nghiệp

vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề nhằm cung cấp các sản phẩm đáp ứng nhu

cầu tiêu dùng tại chỗ, trong nước và xuất khẩu. Song song với việc phát triển công

nghiệp, Bắc Ninh cũng chú trọng phát triển ngành kinh tế nông nghiệp theo hướng

9

chuyên canh. Tỉnh đang từng bước đưa chăn nuôi trở thành một ngành chính tạo

nguồn nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản, góp phần làm thay

đổi diện mạo nông thôn theo hướng hiện đại hóa.

1.1.2. Vài nét về kinh tế tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh - miền đất trù phú tiềm ẩn nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển

kinh tế. Ở Bắc Ninh, trước năm 1997 tỉ lệ kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn

trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp

hóa, hiện đại hóa và đặc biệt chú trọng tăng cường đầu tư cho phát triển kết cấu hạ

tầng kinh tế - xã hội là mục tiêu toàn tỉnh hướng tới.

Dựa trên nguồn tài liệu Niên giám thống kê lưu trữ của tỉnh Bắc Ninh, tôi đã

lập bảng thống kê sau:

Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế Bắc Ninh (1997 - 2017)

Năm Công nghiệp - xây dựng Nông nghiệp Dịch vụ

1997 23,8% 45,1% 31,1%

2010 64,8% 11% 24,2%

2017 75,2% 3% 21,8%

[Nguồn: 45]

So sánh các số liệu thống kê trong bảng 1.1.về cơ cấu kinh tế Bắc Ninh, chúng

ta nhận thấy trong 20 năm tỉ trọng % giữa các lĩnh vực kinh tế công nghiệp, kinh tế

nông nghiệp và kinh tế dịch vụ có sự thay đổi rõ rệt. Rõ ràng, Bắc Ninh bước đầu

thành công trong quá trình chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Bắc Ninh được tái lập năm 1997, nhưng Bắc Ninh đã đạt được những bước

tiến khả quan trên. Trước hết, là do Tỉnh ủy Bắc Ninh đã vận dụng linh hoạt chỉ đạo

phát triển kinh tế của Chính phủ, triển khai sáng tạo, thích ứng với điều kiện thực tiễn

của Bắc Ninh. Để phát triển công nghiệp, Bắc Ninh lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên thu

hút vốn FDI theo định hướng sử dụng công nghệ cao, công nghệ hiện đại, thân thiện

với môi trường, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, khoáng sản, đất đai; Đẩy

mạnh công nghiệp phụ trợ; Tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng: giao thông, điện,

nước, xử lí rác thải; Chú trọng các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính,

ngân hàng, bảo hiểm, công nghệ thông tin, viễn thông…. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Bắc

10

Ninh chú ý đến thực hiện các cơ chế chính sách ưu tiên, ưu đãi thu hút vốn đầu tư

nước ngoài vào các ngành, lĩnh vực mũi nhọn của tỉnh; Đa dạng hóa các hình thức

đầu tư…ngoài ra, tỉnh tăng cường quản lí đối với hoạt động đầu tư sau cấp phép, tăng

cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đối hoạt động của các nhà đầu tư trên địa

bàn. Vì vậy, tỉnh kịp thời có biện pháp giải quyết tình huống linh hoạt, phát huy có

hiệu quả và kết hợp hài hòa giữa nguồn lực trong và ngoài tỉnh, đây là những nhân tố

thúc đẩy nhanh tiến trình tăng trưởng kinh tế.

Năm 2017, trong công tác tổng kết cuối năm, những kết quả tỉnh Bắc Ninh đạt

được như sau:

Quy mô kinh tế tiếp tục mở rộng, vị thế của Bắc Ninh ngày càng nâng cao so

với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Tổng sản phẩm (GRDP) năm 2017 chiếm

3,11% GDP, xếp thứ 4 trên 63 tỉnh, thành phố trong nước; tốc độ tăng trưởng GRDP

đạt 19.12 % (kế hoạch đề ra tăng 9,0 - 9,2%). Bắc Ninh là tỉnh có tốc độ tăng trưởng

kinh tế nhanh nhất Việt Nam [45].

Sản xuất công nghiệp tăng trưởng cao, giá trị sản xuất công nghiệp ước

đạt 1.049 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành) [45]. Nếu xếp thứ hạng, Bắc Ninh có giá trị

sản xuất công nghiệp đứng thứ 2 trong nước, sau thành phố Hồ Chí Minh.

Công tác thu hút đầu tư được đẩy mạnh với cơ chế, giải pháp thông thoáng.

Năm 2017, Bắc Ninh có160 dự án FDI mới và điều chỉnh tăng vốn cho 115 dự án với

tổng vốn đăng ký sau điều chỉnh đạt 3,5 tỷ USD [45].

Hoạt động ngoại thương tạo kỳ tích mới với kim ngạch xuất khẩu lần đầu tiên

cán mốc gần 30 tỷ USD, chiếm 14,9% xuất khẩu cả nước. Kim ngạch nhập khẩu ước

đạt 29,85 tỷ USD, vượt 47,5% kế hoạch đề ra và tăng 59,5% và giữ vững vị trí thứ

2 toàn quốc.

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh ước 21.597,7 tỷ đồng, đạt

131,5% dự toán năm, tăng 20,1% so với năm 2016 (tương ứng tăng 3.585 tỷ đồng);

trong đó thu nội địa là 16.137 tỷ đồng, vượt chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh

lần thứ XIX đề ra (đến năm 2020, thu nội địa đạt 14.930 tỷ đồng) [45].

Mặc dù diện tích đất nông nghiệp giảm, sản xuất còn gặp nhiều khó khăn

nhưng năng xuất, sản lượng cây trồng tăng đáng kể: Năng suất lúa ước đạt 60 tạ/ha;

11

sản lượng lương thực có hạt ước đạt 60 tấn; giá trị trồng trọt ước đạt 73,9 triệu

đồng/ha năm 2010. Cơ cấu cây trồng gắn với luân canh hợp lý, nhiều vùng sản xuất

hàng hóa tập trung cho thu nhập gần 200 triệu đồng/ha như: lúa, khoai tây, rau xanh,

hoa, cây cảnh…

Quan hệ sản xuất ở nông thôn có chuyển biến tích cực, bước đầu xuất hiện mô

hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp đô thị, doanh nghiệp nông

nghiệp, kinh tế trang trại. Việc chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa

tăng nhanh, dịch vụ nông nghiệp phát triển, “dồn điền đổi thửa” gắn với quy hoạch hạ

tầng vùng sản xuất được coi trọng, chăn nuôi bước đầu chuyển sang chăn nuôi tập

trung. Hình thành mô hình chuỗi giá trị trong nông nghiệp với tổ hợp sản xuất giống,

thức ăn chăn nuôi, chế biến thực phẩm, tạo liên kết doanh nghiệp hỗ trợ nông dân sản

xuất, tiêu thụ hàng hóa.

Hai mươi năm thực hiện đổi mới, tỉnh Bắc Ninh đã có những thành tựu quan

trọng trong chuyển đổi và phát triển kinh tế. Đảng bộ Bắc Ninh đã vận dụng đúng đắn,

linh hoạt đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước vào hoàn cảnh của

Bắc Ninh, đồng thời phát huy được những tiềm năng vốn có của tỉnh trong điều kiện

mới. Tỉnh Bắc Ninh trong chiến lược phát triển giai đoạn 2020 -2030 và tầm nhìn 2030-

2050 khẳng định sẽ điều chỉnh nâng dần tỷ trọng vốn FDI trong ngành dịch vụ có giá trị

gia tăng cao; Phấn đấu đưa kinh tế Bắc Ninh phát triển hài hòa và toàn diện.

1.1.3. Tình hình xã hội tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, nên sinh sống trên địa bàn

Bắc Ninh có 3 dân tộc chiếm số đông là: Dân tộc kinh chiếm 99,67% dân số toàn

tỉnh; Dân tộc Tày 0,14% và dân tộc Nùng chiếm 0,08%.

Về dân số, năm 2017, dân số Bắc Ninh là 1.153.600 người, chỉ chiếm 1,21%

dân số cả nước và đứng thứ 39/63 tỉnh, thành phố, trong đó nam 568.055 người và nữ

586.605 người; khu vực thành thị 330.219 người, chiếm 28% dân số toàn tỉnh và khu

vực nông thôn 824.441 người, chiếm 72% [45]. Mật độ dân số Bắc Ninh năm 2017

đã lên tới 1,262 người/km², gần gấp 5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước và là

địa phương có mật độ dân số cao thứ 3 trong số 63 tỉnh, thành phố, chỉ thấp hơn mật

độ dân số của Hà Nội và của thành phố Hồ Chí Minh.

12

Bắc Ninh có dân số trẻ với nhóm tuổi lao động “từ 15 đến 60 là 665.236 người,

chiếm 64,93% tổng dân số. Nhóm tuổi dưới 15 có 258.780 người, chiếm 25,26% tổng

dân số còn nhóm người trên 60 tuổi có 100.456 người, tức chiếm 9,8%” [72].

Sau hơn 20 tái lập tỉnh nhất là 10 năm trở lại đây, do ảnh hưởng của công

nghiệp hóa, dân số, lao động tỉnh Bắc Ninh có những biến động thể hiện ở tỉ lệ dân số

lao động trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau.

Bảng 1.2: Cơ cấu dân số Bắc Ninh theo ngành kinh tế

Ngành kinh tế 1997 2017

Công nghiệp 20,3% 69 %

Nông nghiệp 70,6 % 20,3 %

Dịch vụ 9,1 % 10,7 %

(Nguồn: Tác giả xử lý từ [45])

Nhìn vào bảng số liệu, chúng ta thấy năm 1997, phần lớn lao động ở tỉnh Bắc

Ninh tập trung ở ngành nông nghiệp (70,6%), nhưng đến năm 2017 tỉ lệ lao động

trong nông nghiệp giảm, tỉ lệ lao động trong công nghiệp có xu hướng tăng nhanh (69

%). Lực lượng lao động trong lĩnh vực dịch vụ tăng chậm. Như vậy, cơ cấu lao động

Bắc Ninh có sự thay đổi tích cực và có xu hướng chuyển dịch theo quá trình công

nghiệp hóa.

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, đời sống của nhân dân Bắc Ninh có sự thay đổi

rõ rệt. Tỉnh đặc biệt quan tâm thực hiện chính sách giải quyết việc làm nhằm xóa đói,

giảm nghèo , nâng cao thu nhập cho người lao động. Quy mô kinh tế tăng nhanh, cơ sở

kinh tế được mở rộng, từ 1997-2017 toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 390.444

lượt lao động, trong đó xuất khẩu 1.700 lao động; bình quân mỗi năm giải quyết việc

làm mới cho 19.522 lao động. Đến tháng 6/2017, toàn tỉnh có 649.877 lao động đang

làm việc trong các ngành kinh tế, gấp 1,3 lần năm 1997 (tương ứng tăng 145.512

người); bình quân mỗi năm tăng 1,4%, cao hơn mức tăng 1,3%/năm của dân số.

Chính sách an sinh xã hội được các cấp, các ngành, các địa phương cùng với

sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư đã góp phần ổn định

cuộc sống của các đối tượng chính sách, cải thiện mức sống của người dân. Hàng

năm, thẻ bảo hiểm y tế được tỉnh cấp cho 100% người có công với cách mạng, đối

13

tượng chính sách, hộ nghèo, người già không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc

biệt khó khăn. Mỗi năm, vào các ngày lễ, dịp Tết các cơ quan chức năng của tỉnh đã

tặng hàng chục nghìn xuất quà cho người khó khăn với tổng trị giá hàng chục tỷ

đồng. Trong 20 năm, toàn tỉnh đã tặng trên 27 nghìn sổ tiết kiệm, xây 600 nhà tình

nghĩa với tổng kinh phí gần 20 tỷ đồng.

Công tác hỗ trợ người nghèo trong tỉnh được thực hiện thông qua hoạt động

của Quỹ Vì người nghèo. Mỗi năm, quỹ quyên góp được hàng chục tỷ đồng để trợ

giúp người nghèo phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo tổng dư nợ tín dụng đến

31/5/2017 cho hộ nghèo, cận nghèo là 768 tỷ đồng (trong đó hộ nghèo là 360 tỷ

đồng). Vì thế, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 10,35% năm 1997 (theo tiêu chí giai

đoạn 1997-2000) đã giảm xuống còn 3,53% năm 2015 (theo chuẩn nghèo đa chiều).

Nhờ thực hiện tốt chủ trương chính sách đối với những lao động có thu nhập thấp nên

tỉnh Bắc Ninh có được hệ số chênh lệch giàu nghèo (Gini) luôn ở ngưỡng an toàn

trình quá trình đổi mới.

Thực hiện quá trình đổi mới, việc mở rộng quy mô giáo dục, nâng cao chất

lượng đào tạo nhằm góp phần nâng cao dân trí, tay nghề và trình độ cho người lao

động được Ủy ban nhân dân Tỉnh quan tâm và giám sát thực hiện theo năm. Từ năm

1997 đến năm 2017, mạng lưới trường lớp được phát triển mạnh, chất lượng giáo dục

toàn diện có nhiều tiến bộ, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý được chăm lo xây dựng,

cơ sở vật chất nhà trường tiếp tục được cải thiện và từng bước đạt chuẩn quốc gia theo

từng giai đoạn. Năm học 2016-2017, toàn tỉnh có 161 trường mầm non, tăng 26 trường

so với năm 1997; 155 trường tiểu học, tăng 20 trường; 135 trường THCS, tăng 8

trường và 38 trường THPT, tăng 17 trường; tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp đạt 98,%, cao

nhất trong 63 tỉnh, thành phố. Kết thúc năm học 2016-2017, toàn tỉnh có 306.248 học

sinh các cấp, tăng 48.429 học sinh so với năm 1997 (bình quân mỗi năm tăng 1,1%).

Chất lượng giáo dục thực chất ở các cấp học và trình độ đào tạo có nhiều chuyển biến,

đội ngũ giáo viên tiếp tục được kiện toàn, số giáo viên đạt chuẩn ở tất cả các cấp học

tăng lên. Đến hết năm học 2016-2017, toàn tỉnh có gần 16.700 cán bộ quản lý và giáo

viên trong biên chế; trong đó có 15.140 giáo viên các cấp, gấp 1,9 lần năm 1997, bình

quân mỗi năm tăng 3,3%; trình độ đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 54,5%.

14

Hệ thống các trường đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề tăng cả về số lượng,

qui mô học sinh, chất lượng và hình thức đào tạo. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 26

trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, góp phần chuyển biến tích cực trong đào tạo

nguồn nhân lực ở địa phương. Mạng lưới cơ sở dạy nghề được quy hoạch và mở

rộng từ 9 cơ sở năm 1997 lên 37 cơ sở (không tính trường nghề) năm 2017 với

100% các huyện đều có trung tâm dạy nghề và 125 xã/phường/thị trấn có trung tâm

học tập cộng đồng. Loại hình đào tạo được xã hội hóa với nhiều hình thức, có sự

liên kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp

trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Bắc Ninh đẩy mạnh hoạt động văn hóa, thể thao và du

lịch góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân và quảng bá hình ảnh tỉnh

Bắc Ninh “Văn hiến - Năng động - Phát triển”. Hệ thống thiết chế văn hóa được đầu

tư mở rộng, nâng cấp; di sản văn hóa được bảo tồn đã phát huy hiệu quả, đáp ứng nhu

cầu hưởng thụ, sáng tạo văn hóa của nhân dân ở cộng đồng dân cư; Phong trào “Toàn

dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu đã

góp phần thay đổi nếp sống văn minh và xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh,

cơ quan, đơn vị và doanh nghiệp văn hóa. Hoạt động thể dục thể thao có bước tiến

mới với nhiều loại hình đa dạng và đạt kết quả tích cực. Hoạt động thể dục thể thao

quần chúng được duy trì và phát triển ngày càng sâu rộng, đa dạng và phong phú.

Những đổi thay trong kinh tế, xã hội ở tỉnh Bắc Ninh từ khi tái lập tỉnh cho

đến năm 2017 đã phản ánh những nét mới, bước đầu thành công của quá trình thực

hiện cải cách, đổi mới của Đảng. Đây cũng chính là điều kiện mới, môi trường mới

cho sự đa dạng của các hình thức tổ chức, quản lí tham gia vào hoạt động kinh tế, xã

hội mà hoạt động của nó góp phần không nhỏ vào những thành tựu đạt được của tỉnh

Bắc Ninh trong hai mươi năm qua và trong những năm tới.

1.2. Sự ra đời và hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh trước

năm 1997

1.2.1. Khái niệm về tổ chức XH - NN

Lâu nay, khi đề cập đến các loại hình tổ chức chính trị, xã hội đang tồn tại và

hoạt động đời sống chính trị, xã hội ở nước ta không ít người nhầm lẫn về loại hình

15

hoạt động và các chức năng của chúng. Tại điều 76, luật dân sự năm 2015 ghi rõ có 5

loại hình tổ chức xã hội đang hoạt động trong hệ thống chính trị Việt Nam: Tổ chức

chính trị; Tổ chức chính trị - xã hội; Tổ chức chính trị XH- NN; Tổ chức xã hội; Tổ

chức XH - NN.

Về mặt văn bản, có sự phân biệt giữa tổ chức chính trị XH - NN và tổ chức

XH - NN. Từ hoạt động thực tiễn tại các địa phương, hai loại hình này có nhiều nét

tương đồng. Vì thế, đề cập đến tổ chức xã hội - nghề nghiệp là bao gồm hai loại hình

tổ chức trên.

Tổ chức XH -NN được hiểu là: “Tổ chức tự nguyện của công dân,tổ chức cùng

ngành nghề, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên,

không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền,lợi ích hợp pháp của hội viên; hỗ trợ nhau có hoạt

động hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ” [46; tr.2].

Trong hệ thống chính trị của nước ta , tổ chức XH- NN là bộ phận trong khối

các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân

trong thể chế “ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ”. Ở một góc độ

khác tổ chức xã hội nghề nghiệp là một bộ phận cấu thành các tổ chức xã hội dân sự,

cùng với nhà nước và thị trường vừa hỗ trợ, vừa chế ước lẫn nhau tạo thành ba trụ cột

vận hành mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội quốc gia.

Hiểu theo văn bản, tổ chức XN - NN gồm có hai loại hình:

Thứ nhất, các tổ chức xã hội xác lập một nghề nghiệp riêng biệt được nhà

nước thừa nhận, thành viên là những người có chức danh nghề nghiệp của tổ chức đó

do nhà nước quy định, hoạt động nghề nghiệp được tiến hành theo pháp luật chuyên

biệt và đặt dưới sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền như Hội nhà báo, Hội luật

gia…. Muốn trở thành thành viên của tổ chức XH - NN này phải hoạt động nghề

nghiệp do nhà nước quy định. Hoạt động mang tính tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ

của từng tổ chức do tổ chức đó quyết định, hoạt động không mang tính quyền lực nhà

nước, đảm bảo tính nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.

Thứ hai, các tổ chức xã hội thành lập theo dấu hiệu nghề nghiệp, thành viên

của tổ chức là cá nhân, tổ chức yêu thích ngành nghề đó, tự nguyện tham gia, ví dụ:

Hội làm vườn, Hiệp hội cà phê, Hiệp hội thủy sản,…. Hoạt động nghề nghiệp của các

16

hội nghề nghiệp không xác định riêng biệt, không có chức danh nghề nghiệp của tổ

chức cho thành viên. Việc đăng ký hoạt động của các hội nghề nghiệp được tiến hành

theo quy định chung về quản lý hội. Các tổ chức được hình thành trên nguyên tắc tự

nguyện của những thành viên cùng chung một lợi ích hay cùng giai cấp, cùng nghề

nghiệp, sở thích,…: Thành lập theo sáng kiến của cá nhân hoặc tổ chức, gọi là thành

viên sáng lập. Tổ chức có quyền đặt ra các tiêu chuẩn, điều kiện của thành viên để kết

nạp hoặc khai trừ thành viên. Công dân được quyền tự do lựa chọn và quyết định

tham gia hay không tham gia vào một tổ chức XH - NN nào đó. Việc kết nạp hay

khai trừ các thành viên của tổ chức XH - NN hoàn toàn do tổ chức xã hội đó và

những người muốn tham gia quyết định. Nhà nước không can thiệp và không sử dụng

quyền lực để chi phối hoạt động đó. Các tổ chức nhân danh chính tổ chức mình để

tham gia hoạt động quản lý Nhà nước, chỉ trong trường hợp đặc biệt do pháp luật quy

định tổ chức XH - NN mới hoạt động nhân danh Nhà nước. Nhà nước thừa nhận và

bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức XH - NN bằng việc cho phép tổ chức XH - NN

được thành lập đồng thời các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chúng. Khi thực hiện các

quyền và nghĩa vụ này, các tổ chức XH - NN nhân danh tổ chức mình.

Các tổ chức XH - NN hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

các thành viên: Thông qua điều lệ hoạt động của XH - NN, thông qua hoạt động

tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với các thành viên, các tổ chức

XH - NN hướng tới mục đích nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân. Khi có hành vi

xâm hại đến quyền và lợi ích của các thành viên hay của những người khác, các tổ

chức XH - NN tạo ra dư luận xã hội rộng rãi để phản đối những hành vi vi phạm đó

đồng thời yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khôi phục các quyền

và lợi ích đã bị xâm hại.

Xét về cơ sở pháp lí thành lập tổ chức XH - NN ; Xét chức năng và vai trò của

các tổ chức XH- NN đối với nhu cầu dân chủ hóa và thị trường hóa nền kinh tế - xã

hội ở nước ta hiện nay thì quá trình nhận thức của Đảng và chính sách của nhà nước

về các tổ chức XH - NN cho thấy không có sự khác biệt nào giữa hai loại hình này về

quản lí của nhà nước bởi hoạt động của các tổ chức này đều nằm trong khuôn khổ

pháp luật của nhà nước.

17

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp

Các tổ chức XH - NN hoạt động phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có các

yếu tố ảnh hưởng sau:

Đầu tiên phải kể đến là chính sách của Nhà nước, đây là yếu tố quyết định đến

hoạt động của các tổ chức XH - NN, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trực

tiếp đến sự thành lập, quy định và điều lệ của hội. Chính sách Nhà nước là cơ sở tạo

điều kiện cho hội phát triển.

Trong quá trình hoạt động, các tổ chức XH - NN còn phụ thuộc cơ sở hạ tầng

và tài chính của hội. Hội phát triển hay chậm phát triển do kinh tế của đất nước và địa

phương. Các hội do Nhà nước thành lập và quản lý được Nhà nước đầu tư cơ sở vật

chất và kinh phí hoạt động. Ngoài ra còn do hội viên tự nguyện đóng góp. Quy chế

chi tiêu do hội tự quyết định.

Nguồn nhân lực: nếu nguồn nhân lực dồi dào sẽ là tiền đề cho hội hoạt động

có hiệu quả và ngược lại nguồn nhân lực ít thì hội hoạt động sẽ gặp khó khăn. Nguồn

nhân lực của hội theo đặc trưng nghề nghiệp, nguồn tham gia các hoạt động xã hội,

địa phương nơi hội thành lập.

Cách thức quản lý: Hoạt động của các tổ chức XH - NN phụ thuộc vào năng

lực quản lý Chủ tịch, Ban chấp hành và hội viên tham gia thành lập hội.

1.2.3. Sự ra đời và hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh trước

năm 1997

Để phục vụ công cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) và chống Mỹ

cứu nước (1954 - 1975), Đảng và Nhà nước đã thành lập một số tổ chức XH - NN

như: Hội Đông y, Hội Nhà báo Việt Nam,…. Năm 1957, Chủ tịch nước Việt Nam

dân chủ cộng hòa ra Luật số 102-SL/L004 quy định về quyền lập hội và Nghị định số

258TTg ngày 14/6/1957 của Thủ tướng chính phủ quy định chi tiết, thi hành luật nói

trên thì các tổ chức XH - NN xuất hiện ngày càng nhiều trên phạm vi cả nước, như:

Hội Doanh nghiệp Việt Nam, Hội Làm vườn Việt Nam….

Thời gian đầu, hội viên của các tổ chức XH - NN tham gia hội với mục đích

phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc kháng chiến, vì vậy số lượng hội viên còn ít, điều lệ,

văn phòng đại diện chưa có trụ sở rõ ràng. Trong và sau những năm 50 của thế kỷ

18

XX, quy định về quyền thành lập hội được ban hành thì các tổ chức XH - NN của

tỉnh Bắc Ninh đã chính thức được thành lập: Hội Đông y (1958), Hội Nhà báo

(1959), Hội VH - NT (1980), Hội Làm vườn (1989).

Hội Đông y tỉnh Bắc Ninh được thành lập sớm nhất, theo quyết định số 87/QĐ

- UB năm 1958, của UBND tỉnh Bắc Ninh đã quyết định cho phép thành lập Hội

Đông y Bắc Ninh. Hội Đông y Bắc Ninh là tổ chức XH - NN của những người hành

nghề Đông y, Đông dược, hoạt động trong lĩnh vực khám bệnh bằng đông y trên

phạm vi tỉnh Bắc Ninh.

Ban đầu khi mới thành lập, Hội Đông y Bắc Ninh có 33 hội viên. Đến năm

1963, khi hợp nhất 2 tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc, số lượng hội viên

tăng lên 69 người [53; tr.324]. Với nhiệm vụ hàng đầu của tỉnh Hà Bắc lúc bấy giờ là

chống Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vì vậy Hội Đông y Hà Bắc

không chỉ thực hiện nhiệm vụ chữa và khám bệnh cho nhân dân bằng phương pháp

đông y mà còn tham gia sản xuất cùng nhân dân, vì miền Nam ruột thịt. Hội Đông y

Hà Bắc góp phần phát triển kinh tế địa phương và sự nghiệp thống nhất đất nước.

Từ năm 1997, Hội Đông y Bắc Ninh chú trọng đến công tác đào tạo, phát triển

và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho hội viên để đáp ứng yêu cầu, nhiệm

vụ trong tình hình mới. Hội thường xuyên khuyến khích các tổ chức, cá nhân trồng cây

thuốc nam, cũng như khám chữa bệnh bằng phương pháp đông y.

Hội Nhà báo Bắc Ninh được thành lập theo quyết định số 07/QĐ - UB năm

1959 của UBND tỉnh Bắc Ninh. Lúc đó Hội có 9 hội viên, sau khi sáp nhập với Bắc

Giang, Hội có 23 hội viên [49; tr 87]. Các hội viên viết bài cho 2 tờ báo chính là:

Kháng địch và tin Bắc Ninh ra hàng tuần (sau này là tờ báo Hà Bắc). Các số báo đã

nêu cao tinh thần sản xuất và sẵn sàng chiến đấu đập tan hành động gây chiến của đế

quốc Mỹ, đồng thời nêu tin thắng trận ở cả 2 miền để cổ vũ và động viên nhân dân

hăng hái sản xuất, sẵn sàng chiến đấu. Hòa bình lập lại, các số báo chuyển sang tuyên

truyền đường lối chủ trương của Đảng và xây dựng đất nước, đặc biệt là công cuộc

đổi mới của Đảng 1986.

Từ năm 1997, Hội Nhà báo Bắc Ninh tiếp tục phát triển hội, đồng thời có

những bài viết sâu rộng công tác vận động, tập hợp, củng cố, xây dựng khối đại đoàn

19

kết dân tộc, kịp thời thông tin về tình hình đời sống nhân dân, góp phần tích cực vào

sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc.

Để tập hợp mọi người làm công tác nhân đạo, năm 1965, Hội CTĐ Hà Bắc

được thành lập theo quyết định của UBND tỉnh Hà Bắc. Hoạt động chủ yếu của Hội

CTĐ tỉnh Hà Bắc trong giai đoạn này là phục vụ chiến đấu, tham gia cứu chữa

thương binh bệnh binh và nhân dân trong chiến tranh, chăm lo cho những gia đình

thương binh, liệt sĩ, người khuyết tật, người Mẹ Việt Nam anh hùng, những người có

hoàn cảnh khó khăn.

Khi tái lập tỉnh vào năm 1997, Hội CTĐ đã phát huy vai trò nòng cốt trong

hoạt động nhân đạo, với mục tiêu tất cả vì người nghèo, người dễ bị tổn thương trong

xã hội, góp phần tích cực vào an sinh xã hội, nhân đạo của Đảng và Nhà nước. Hội

CTĐ Bắc Ninh tiếp tục xây dựng các cấp hội ngày càng vững mạnh, chuyên nghiệp,

đủ khả năng ứng phó với thách thức, tình huống trong công tác nhân đạo.

Để đáp ứng nhu cầu văn hóa, tinh thần cho nhân dân, Hội VH - NT tỉnh Hà

Bắc được thành lập theo quyết định số 58/QĐ/TC của UBND tỉnh Hà Bắc ngày 30

tháng 01 năm 1980. Hội viên của Hội đã trở thành những chiến sĩ trên mặt trận tư

tưởng văn hóa của Đảng, góp phần không nhỏ vào công tác tuyên truyền xây dựng

tỉnh Hà Bắc, đồng thời đáp ứng nhu cầu hưởng thụ VH - NT của nhân dân Hà Bắc.

Tiếp bước truyền thống cha ông trong thời đại mới, Hội VH - NT Bắc Ninh tiếp

tục phát triển về số lượng và chất lượng. Những hội viên văn nghệ sĩ Bắc Ninh đã lao

động miệt mài để có những tác phẩm VH - NT cống hiến cho sự nghiệp VH - NT của

cả nước. Văn nghệ sĩ Bắc Ninh xứng đáng là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn

hóa của Đảng, góp phần quan trọng vào công tác tuyên truyền, xây dựng và phát triển

tỉnh Bắc Ninh, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân trong tỉnh.

Năm 1986, Đảng tiến hành đổi mới đất nước, trong đó trọng tâm là đổi mới

kinh tế. Vì vậy mà Đảng khuyến khích các loại hình “Hội” phát triển. Thực hiện chủ

trương của Đảng, tỉnh Hà Bắc đã thành lập Hội Làm vườn vào năm 1989. Hội Làm

vườn tỉnh Hà Bắc ra đời đã góp phần vào sự phát triển kinh tế của tỉnh Hà Bắc.

Năm 1997, Hội Làm vườn Bắc Ninh đã phát huy vai trò của mình trong phát

triển kinh tế VAC, kinh tế trang trại đạt hiệu quả cao, góp phần tạo thêm việc làm cho

20

nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh, tăng thu nhập và thực hiện xóa đói, giảm nghèo; bảo vệ

môi trường, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sản xuất và công nghiệp hóa - hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới ở Bắc Ninh theo hướng văn minh

và giàu đẹp.

Như vậy, từ thập niên 50 cho đến thập niên 80 của thế kỷ trên địa bàn tỉnh Hà

Bắc ( Bắc Ninh) đã có một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập. Hoạt

động của các tổ chức chủ yếu nghiêng về lĩnh vực chính trị. Chức năng trong hoạt

động kinh tế mờ nhạt do đặc điểm kinh tế - xã hội Việt Nam ở giai đoạn đó tác động.

21

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Bắc Ninh là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ Việt Nam. Do có vị trí địa lý thuận

lợi; Điều kiện tự nhiên và tài nguyên tiềm ẩn là tiền đề quan trọng cho Bắc Ninh khai

thác và xây dựng kinh tế - xã hội trong giai đoạn đổi mới.

Năm 1997 do tách tỉnh nên Bắc Ninh non trẻ gặp nhiều khó khăn trong phát

triển kinh tế và xã hội. Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã chủ động, sáng tạo vận dụng chủ

trương của Đảng và chính sách của Nhà nước phù hợp với hoàn cảnh của Bắc Ninh

để tạo nên bước đột phá trong phát triển KT - XH của tỉnh. Đây là điều kiện thúc đẩy

sự hình thành các tổ chức XH - NN lớn về quy mô, nhiều về số lượng trên địa bàn

của tỉnh Bắc Ninh.

Trước năm 1997, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã có một số tổ chức xã hội -

nghề nghiệp ra đời, đó là Hội Đông y, Hội Nhà báo, Hội VH - NT, Hội Làm

vườn…Do Việt Nam trong một thời gian dài thực hiện kinh tế kế hoạch hóa quan liêu

bao cấp nên các tổ chức XH- NN hoạt động chủ yếu theo định hướng hoạt động

phong trào chung của Đảng, Nhà nước, chưa thể hiện được vai trò trong lĩnh vực kinh

tế cũng như có những kiến nghị, đóng góp cho việc xây dựng chính sách của Đảng.

22

Chương 2

HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP

TỈNH BẮC NINH (1997 - 2017)

2.1. Hoạt động của các tổ chức XH - NN trong lĩnh vực kinh tế - khoa học

công nghệ

Thực hiện những chủ trương Đảng và chính sách của Nhà nước về phát huy

vai trò của các tổ chức XN- NN trong phát triển kinh tế - xã hội đã tạo nên sự phát

triển mạnh mẽ chưa từng có về số lượng và quy mô của các tổ chức XH - NN. Từ lực

lượng đông đảo và đa dạng, các tổ chức XH-NN đã bước đầu phát huy được vai trò

trong sự phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả nước nói chung.

2.1.1. Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa

Hiệp hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh là một tổ chức XH - NN tự nguyện của các

cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế đóng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Mục

đích của Hội nhằm tập hợp, phối hợp, trao đổi liên kết, hợp tác giúp đỡ sản xuất giữa

các thành viên trong kinh doanh, dịch vụ theo pháp luật Nhà nước.

Hiệp hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh được thành lập và chính đi vào hoạt động từ

năm 2007 theo quyết định số 611 của UBND tỉnh Bắc Ninh. Như vậy, Hiệp hội

DNN&V trực thuộc lãnh đạo, quản lý của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh

Bắc Ninh. Hiệp hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh cũng là thành viên của Hiệp hội Doanh

nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.

Khi mới thành lập, hiệp hội có108 hội viên sáng lập, đến năm 2017 số lượng

thanh viên sinh hoạt trong Hiệp hội là 600.Mạng lưới hoạt động của Hiệp hội được

mở rộng ở các cấp huyện ở thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, huyện Tiên Du,

huyện Gia Bình, huyện Yên Phong, huyện Lương Tài.

Lĩnh vực kinh tế có đông thành viên Hiệp hội quan tâm đó là đi sâu, khai thác

phát triển kinh tế gắn với nghề truyền thống. Trong lịch sử phát triển, thế mạnh của

Bắc Ninh có các nghề truyền thống thủ công, mĩ nghệ như làm gốm, đúc đồng, làm

giấy, nghề dệt….. những nghề này trong điều kiện mới nhu cầu người tiêu dùng lớn

và do có vị trí địa lí thuận lợi, liền kề với Hà Nội - thị trường đầu mối của cả nước

nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động kinh doanh rất thuận lợi.

23

Trong những năm qua, Hiệp hội DNN&V rất quan tâm đến bồi dưỡng nâng cao

chất lượng đội ngũ. Hiệp hội đã tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu cho giám đốc

doanh nghiệp và kế toán trưởng doanh nghiệp. Kết hợp với Học viện Tài chính quốc

gia, mỗi năm Hiệp hôi thực hiện bồi dưỡng cho các giám đốc doanh nghiệp kiến thức

chuyên ngành, nâng cao năng lực quản lí. Thời gian bồi dưỡng thường vào dịp hè, bồi

dưỡng không tập trung trong thời hạn 3 tháng. Ngoài ra, Hiệp hội phối hợp với Ban tài

chính của Tỉnh bồi dưỡng cho các kế toán trưởng doanh nghiệp theo khung chương

trình của Bộ Tài chính với thời gian tập huấn trung bình khoảng 2,5 tháng.

Gắn kết giữa các doanh nghiệp với thị trường, Hiệp hội liên kết với nhiều đối

tác tổ chức hội nghị, hội thảo hàng năm. Theo tài liệu lưu trữ của Hiệp hội, chúng tôi

được biết từ năm 2007 - 2017, Ban chấp hành Hiệp hội đã tổ chức được 30 Hội nghị

thông qua các Nghị quyết về công tác hoạt động và phát triển doanh nghiệp, tập trung

hoàn thiện tổ chức Hội, “thực hiện chức năng nhiệm vụ theo điều lệ, kiểm điểm đánh

giá hoạt động của Hiệp hội định kỳ 06 tháng và hàng năm, đề ra phương hướng hoạt

động hàng năm, giải quyết các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của Hiệp hội

và các Hội cấp huyện, thực hiện công tác thi đua khen thưởng và kỷ luật, cho ý kiến

các vấn đề theo quy chế hoạt động của Ban chấp hành” [38, tr 7]. Hoạt động của Ban

chấp hành đã bám sát quy định của điều lệ, đường lối chính sách của Đảng và Nhà

nước để chỉ đạo kịp thời các hoạt động của Hiệp hội, tập thể Ban chấp hành đoàn kết,

thống nhất và luôn động viên nhau phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của từng cá

nhân ủy viên Ban chấp hành.

Cũng trong thời gian qua, Ban thường vụ tổ chức 24 Hội nghị tập trung giải

quyết quy chế hoạt động của Ban thường vụ, do vậy đã có những quyết sách đúng

đắn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của Hiệp hội. Thường trực Hiệp hội thực

hiện nhiệm vụ lãnh đạo và điều hành thường xuyên tại văn phòng Hiệp hội. “Thường

trực Hiệp hội sinh hoạt định kỳ hàng tháng và bất thường để dự thảo các định hướng

hoạt động và nhiệm vụ công tác để báo cáo Thường vụ và Ban chấp hành” [38, tr 7].

Hoạt động của Thường trực Hiệp hội đảm bảo sự lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời các

định hướng hoạt động hàng tháng và các công việc phát sinh đã góp phần quan trọng

vào thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Hiệp hội hàng năm.

24

Thông qua các hội nghị, hội thảo cũng như một số cuộc tọa đàm, Hiệp hội

tổng hợp ý kiến từ doanh nghiệp về những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện

cơ chế, chính sách pháp luật của Nhà nước có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh

doanh để phản ánh kịp thời đến các cấp, các ngành xem xét và có hướng giải quyết

kịp thời.

Hiệp hội phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Công thương, Sở Tài

nguyên và các cơ quan ban ngành khác trong tỉnh nhằm đề nghị sự trợ giúp và tạo

điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận với các nguồn lực và các chính sách, các ưu đãi

với doanh nghiệp. Việc là, trên giúp cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao

năng lực sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.

Để đảm bảo thông tin thông suốt, giúp các thành viên cập nhật và xử lí thông

tin chính xác trong quá trình kinh doanh, các ban chuyên môn và văn phòng Hiệp hội

đã xây dựng trang thông tin của Hiệp hội tại địa chỉ: htt://www.

Bacninhsmea.com.vn. Ban biên tập tin do Chủ tịch Hiệp hội giám sát và chỉ đạo.

Việc ứng dụng công nghệ trong thông tin liên lạc giúp cho Hiệp hội triển khai kịp

thời chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế nhiều thành

phần, định hướng xã hội chủ nghĩa đến Hội cấp huyện và Hội tập thể; Văn phòng

Hiệp hội cung cấp kịp thời đường lối , chính sách pháp luật có liên quan đến doanh

nghiệp, trao đổi thông tin, dịch vụ hỗ trợ Hội viên và tăng cường liên kết giao thương

giữa các doanh nghiệp; Định hướng mới của Hội là động viên hội viên đầu tư vào

ngành kinh doanh dịch vụ và phục vụ người nước ngoài làm việc và sinh sống tại

thành phố Bắc Ninh, góp phần tích cực xây dựng các khu đô thị mới.

Những năm gần đây, không chỉ bó hẹp phục vụ thị trường trong nước, Hiệp

hội đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm thị trường cho các doanh nghiệp làng nghề qua các

chuyến tham quan, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm để mở rộng thị trường tại tỉnh

Quảng Tây - Trung Quốc, Phú Quốc - Kiên Giang, Hà Nội, Lạng Sơn,…. Thường

xuyên theo dõi diễn biến thị trường. Do vậy, khi thị trường Trung Quốc gặp khó

khăn, Ban lãnh đạo Hội định hướng các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất và thu hồi

vốn. Khi thị trường Trung Quốc và các nước trong khu vực sôi động trở lại đã kịp

thời động viên doanh nghiệp mở rộng thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp

luôn luôn ổn định và phát triển.

25

Sau năm 2012 do lạm phát và suy giảm kinh tế, nhiều doanh nghiệp sản xuất

giấy và bao bì gặp khó khăn, lãnh đạo Hội kịp thời động viên giúp đỡ doanh nghiệp,

hội viên mạnh dạn đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đầu tư mới.

Các doanh nghiệp trong cụm công nghiệp Phú Lâm đã góp vốn thành lập Công ty cổ

phần môi trường xanh Kinh Bắc để xử lý nước thải cho cụm công nghiệp.

Đối với các doanh nghiệp làng nghề Đại Bái việc đổi mới công nghệ, tìm kiếm

thị trường và tổ chức sản xuất một số linh kiện cung cấp cho một số doanh nghiệp

làm công nghiệp phụ trợ là việc làm cần thiết. Công nghiệp may mặc và công nghiệp

xây dựng được quan tâm vì vậy Hội đã cùng các doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn

đầu tư, đổi mới công nghệ và tổ chức các hoạt động giúp các doanh nghiệp trong

huyện đầu tư theo hướng đa ngành. Hoạt động của các doanh nghiệp trên không chỉ

tăng trưởng về thu nhập kinh tế mà còn giải quyết việc làm cho nhiều lao động trên

địa bàn.

Khảo sát để đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp được Hiệp

hội thực hiện định kì theo năm. Quá trình khảo sát được thực hiện trực tiếp tơi 150

doanh nghiệp. Phiếu khảo sát được xây dựng chi tiết với các tiêu chí cụ thể. Qua khảo

sát, Hiệp hội nhận được nhiều thông tin, tập hợp những khó khăn vướng mắc của

doanh nghiệp gửi Ủy ban nhân dân tỉnh và sở ngành có liên quan cùng hợp tác tìm

biện pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.

Những khó khăn của các doanh nghiệp thường là vốn, mặt bằng sản xuất,

nguồn nhân lực, chính sách thuế, về tiếp cận với vay tín dụng, nợ đọng xây dựng cơ

bản, ứng dụng công nghệ thông tin, cấp giấy phép xây dựng, về hạ tầng và dịch vụ

công…Hiệp hội đã triển khai chương trình kết nối ngân hàng doanh nghiệp trên địa

bàn thị xã Từ Sơn, huyện Tiên Du, huyện Thuận Thành bằng hình thức phỏng vấn

trực tiếp nhằm tập hợp ý kiến doanh nghiệp phản ánh với ngân hàng Nhà nước để có

giải pháp tháo gỡ khó khăn. Hiệp hội đề xuất với Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh làm

việc trực tiếp với một số doanh nghiệp đang gặp khó khăn về mặt bằng sản xuất.

Thông qua các buổi làm việc trực tiếp đã giải quyết kịp thời các kiến nghị của doanh

nghiệp. Các kiến nghị phản ánh của Hiệp hội được Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban

nhân dân huyện, thị xã, thành phố và các Sở ngành giải quyết kịp thời.

26

Hiệp hội cũng đã phối hợp với Viện nghiên cứu phát triển KT - XH tỉnh tiến

hành khảo sát trực tiếp 30 doanh nghiệp và gửi phiếu khảo sát đến 300 doanh nghiệp

làm cơ sở cho xây dựng báo cáo “Nhận diện những nút thắt trong cải thiện môi

trường kinh doanh”. Báo cáo Chủ tịch UBND tỉnh quyết định thành lập tổ công tác

hỗ trợ doanh nghiệp do Chủ tịch UBND tỉnh làm tổ trưởng.

Ngoài việc thực hiện chức năng gắn kết và tìm cách tháo gỡ khó khăn cho các

doanh nghiệp, Hiệp hội cùng với các thành viên đã có những ý kiến đóng góp cho sửa

đổi Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước về hoạt động và xây dựng kinh tế thị trường

nhiều thành phần. Ý kiến của các doanh nghiệp trong Hiệp hội được trình bày theo

văn bản và gửi về Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Hiệp hội DNN&V Việt Nam.

Hoạt động của Hiệp hội ngày càng đa dạng về hình thức. Ví như:

-Thành lập Hội đồng tư vấn của Hiệp hội gồm lãnh đạo các Sở, ngành tham

gia Ban chấp hành Hiệp hội và các Giám đốc doanh nghiệp là ủy viên Ban chấp hành

có kinh nghiệm thực tiễn định kỳ Thường trực tại văn phòng Hiệp hội để giải quyết

khó khăn cho doanh nghiệp, tư vấn cho doanh nghiệp đầu tư phát triển ngành dịch vụ,

đổi mới thiết bị công nghệ, xây dựng các quy chế phối hợp nhằm tạo thuận lợi cho

doanh nghiệp.

- Hiệp hội phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Bắc Ninh tổ

chức chương trình kết nối Ngân hàng Doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn về vốn.

Hiệp hội DNN&V tỉnh còn ký quy chế phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư; Ban

Dân vận Tỉnh ủy; Viện nghiên cứu phát triển KT - XH; Ngân hàng Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn; Viễn thông Bắc Ninh trong việc hỗ trợ giúp doanh nghiệp đẩy

mạnh sản xuất kinh doanh và xây dựng thương hiệu doanh nghiệp.

- Năm 2016, Hiệp hội phối hợp với Viện nghiên cứu phát triển KT - XH tỉnh

xây dựng, “triển khai đề án “Bác sĩ doanh nghiệp” với nguồn kinh phí của tổ chức

nước ngoài và vốn đóng góp ủng hộ của doanh nghiệp trị giá trên 700 triệu đồng,

triển khai các hoạt động hỗ trợ các Hội cấp huyện nhằm cung cấp dịch vụ tư vấn

chuyên nghiệp trong tiên đoán rủi ro, nắm bắt cơ hội kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của doanh nghiệp” [38, tr 4]. Tiếp nhận và phối hợp với các Sở, ngành

giải quyết 150 ý kiến phản ánh của doanh nghiệp. Đây là mô hình tiêu biểu trong hỗ

27

trợ doanh nghiệp được nhiều tỉnh quan tâm, học tập kinh nghiệm. Từ mô hình này đã

thúc đẩy phương châm “thân thiện, lắng nghe, thấu cảm, tận tâm” trong ứng xử của

chính quyền đối với cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

- Xây dựng đề án “Nâng cao tính hợp lý, minh bạch trong giải quyết thủ tục

hành chính trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” được UBND tỉnh giao chủ trì. Hiệp hội còn

kịp thời thăm hỏi và trợ cấp cho Hội viên khi gặp thiên tai, hỏa hoạn. “Động viên

các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh để tạo công ăn việc làm cho lao động

phổ thông không đủ điều kiện vào làm tại các Khu, Cụm công nghiệp, lao động nhàn

rỗi trong nông nghiệp (hàng năm các doanh nghiệp nhân doanh sử dụng trên

150.000 lao động với mức thu nhập khoảng 4,5 triệu đồng/tháng)” [38, tr 5] . Góp

phần đáng kể vào công tác đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế.

- Hiệp hội khuyến khích và hỗ trợ hoạt động văn nghệ, thể thao trong các

doanh nghiệp, động viên các doanh nghiệp tham gia Liên hoan nghệ thuật công nhân,

doanh nhân, doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh lần thứ nhất và các Hội diễn nghệ thuật

doanh nhân, doanh nghiệp toàn quốc năm 2012 và 2014.

Liên hoan nghệ thuật công nhân, doanh nhân tỉnh Bắc Ninh lần thứ Nhất “năm

2014 thu hút được trên 500 công nhân, doanh nhân của 5 Hội cấp huyện và 3 doanh

nghiệp tham gia với gần 100 tiết mục” [38, tr 7]. Liên hoan trao giải đặc biệt cho Hội

DNN&V huyện Gia Bình.

Hội diễn nghệ thuật Doanh nhân, Doanh nghiệp toàn quốc năm 2012 tại tỉnh

Ninh Bình, Hội DNN&V thị xã Từ Sơn được giao tổ chức đội văn nghệ, kết quả đạt

Giải xuất sắc toàn đoàn.

Hội diễn nghệ thuật Doanh nhân, Doanh nghiệp toàn quốc năm 2014 tại Thành

phố Hồ Chí Minh, Hiệp hội tổ chức đội văn nghệ, kết quả đạt giải Nhất toàn đoàn.

-Hoạt động từ thiện xã hội của Hiệp hội hằng năm được Hiệp hội quan tâm

động viên các doanh nghiệp hưởng ứng và tích cực tham gia các hoạt động xã hội của

địa phương, như: Ủng hộ quỹ vì người nghèo, ủng hộ đồng bào lũ lụt, ủng hộ trang trí

công viên, ủng hộ quỹ đền ơn đáp nghĩa, tặng quà cho người khiếm thị, tặng áo ấm

cho người cao tuổi, tặng học bổng cho học sinh nghèo vượt khó, tặng chiếu cho bệnh

viện, tặng quà cho người khuyết tật, trẻ mồ côi, tặng quà cho chiến sĩ Quần đảo

28

Trường Sa, hỗ trợ bằng tiền cho Qũy bảo trợ người tàn tật, quỹ chất độc da cam,

Bệnh viện Phong, Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh, xây 97 ngôi nhà cho người nghèo và

phụng dưỡng suốt đời cho 9 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Bảng 2.1: Quỹ từ thiện của Hiệp hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh

Nội dung ủng hộ 2007 - 2012 2012 - 2017

Quỹ vì người nghèo 1.690 triệu đồng 2.100 triệu đồng

Ủng hộ đồng bào lũ lụt 1.120 triệu đồng 1.250 triệu đồng

Trang trí công viên 440 triệu đồng 500 triệu đồng

Quỹ khuyến học 103 triệu đồng 120 triệu đồng

Quỹ chất độc màu da cam 68 triệu đồng 100 triệu đồng

Quỹ bảo trợ người tàn tật 212 triệu đồng 325 triệu đồng

Nguồn: Tác giả thống kê từ [22], [38]

Cùng với hoạt động từ thiện, Hiệp hội DNN&V còn thường xuyên động viên

các doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ với nhà nước, chăm lo đời sống cho người

lao động và thực hiện tốt luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội và các luật khác liên

quan đến người lao động.

Tổng kết thi đua và khen thưởng trong 20 năm hoạt động của Hiệp hội đã thực

hiện khá tốt. Mục đích khen thưởng nhằm động viên cộng đồng doanh nghiệp phấn

khởi đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Hiệp hội thường trao Bằng khen cho các doanh

nghiệp, doanh nhân nhân dịp Kỷ niệm ngày doanh nhân Việt Nam 13/10 hàng năm.

Hiệp hội đã triển khai các phong trào thi đua trong doanh nghiệp tập trung vào

một số nội dung như: Phong trào doanh nhân, doanh nghiệp tổ chức kinh doanh đạt

hiệu quả, chung tay xây dựng Nông thôn mới, phong trào thi đua lập thành tích chào

mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện quan trọng, phong trào an sinh xã hội. Kết

quả, giai đoạn 2007 - 2017 Hiệp hội DNN&V Việt Nam đã tặng 98 Bằng khen cho

doanh nhân, doanh nghiệp và Tặng cờ Đơn vị thi đua xuất sắc.

Thông qua bình xét thi đua, những cá nhân có thành tích, có nhiều đóng góp

cho các doanh nghiệp được tham dự các Hội nghị, được tham quan trong và ngoài

nước như: Hội nghị, diễn đàn liên kết khu vực phía Bắc; Tham quan, trao đổi kinh

nghiệm về phát triển công nghiệp phụ trợ và phát triển du lịch với Hiệp hội Thái Lan

tại vương quốc Thái Lan. Qua trao đổi hai đoàn đã thống nhất thường xuyên trao đổi

29

thông tin về xúc tiến thương mại, đầu tư các lĩnh vực có thế mạnh của mỗi bên nhằm

xây dựng mối quan hệ hợp tác bền vững, góp phần vào sự nghiệp phát triển cộng

đồng kinh tế ASEAN bền vững năm 2015 ; Tham dự Diễn đàn hợp tác - liên kết -

phát triển của các Hiệp hội DNN&V các tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc tại Thái

Nguyên, Tuyên Quang, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Thái Bình…

Như vậy, trong những năm qua Hiệp hội DNN&V có vai trò quan trọng trong

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh.

Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát

triển kinh tế tư nhân, kinh tế nhiều thành phần và hội nhập kinh tế quốc tế. trong

những năm gần đây số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới ngày càng nhiều.

Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang có xu hướng hoạt động tốt, hoạt động kinh

doanh đúng pháp luật, có hiệu quả, khai thác được tiềm năng thế mạnh của địa

phương như: Nguồn vốn, lao động, tay nghề, bậc thợ,… nhất là những vùng có làng

nghề truyền thống và một số doanh nghiệp đã tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm

cho các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp tập trung đẩy mạnh sản xuất kinh

doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu ngân sách, tích cực góp

phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập kinh tế quốc tế; cải thiện đời sống người lao động góp phần xóa đói giảm nghèo

và xây dựng nông thôn mới.

Trong những năm qua mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng Hiệp hội DNN&V

đã đoàn kết, năng động, sáng tạo, vì sự phát triển bền vững của doanh nghiệp và hội

nhập, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, xứng đáng là đội tiên

phong trong xây dựng và phát triển kinh tế của quê hương đất nước.

2.1.2. Hội làm vườn

Hội Làm vườn tỉnh Hà Bắc được thành lập tại quyết định số 239 ngày

23/03/1989 của chủ tịch UBND tỉnh Hà Bắc. Đến năm 1997, tách tỉnh Hà Bắc thành

Bắc Ninh và Bắc Giang thì Hội Làm vườn cũng tách thành Hội Làm vườn Bắc Ninh

và Hội Làm vườn Bắc Giang.

Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh là tổ chức XH - NN, có tính đặc thù. “Hội mang

tính chất kinh tế - xã hội của quần chúng giúp đỡ nhau phát triển kinh tế VAC, kinh tế

trang trại góp phần phát triển nền nông nghiệp hữu cơ bền vững, cải thiện môi

30

trường sinh thái và bảo vệ tài nguyên, xây dựng nông thôn mới theo hướng công

nghiệp hóa - hiện đại hóa” [65, tr.1].

Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh tập hợp những cá nhân, tổ chức ở tỉnh Bắc Ninh

trực tiếp làm kinh tế VAC hoặc liên quan đến kinh tế VAC.

Hội có nhiệm vụ: Tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách pháp

luật của Đảng và Nhà nước có liên quan đến phát triển kinh tế VAC; Xây dựng và

phát triển tổ chức Hội ngày càng vững mạnh, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật

vào sản xuất VAC; Cung cấp các dịch vụ khoa học - kỹ thuật về giống cây trồng, vật

nuôi cho cán bộ, hội viên; Phổ biến, tuyên truyền, huấn luyện cho hội viên và nông

dân thực hành, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp theo hướng ViêtGAP ; Mở rộng

quan hệ hợp tác với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài tỉnh có liên quan để trao

đổi kinh nghiệm; Tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện về kinh tế kỹ thuật thuộc

lĩnh vực và phạm vi hoạt động của Hội theo quy định pháp luật.

Công tác xây dựng và phát triển Hội đặc biệt chú trọng. Vì vậy, hội viên

không ngừng tăng lên.

Bảng 2.2: Số hội viên Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh (1997 - 2017)

Số chủ Hợp tác xã sản xuất Công ty sản xuất và Số hội Năm Chi hội trang thương mại và dịch dịch vụ các sản viên trại vụ VAC phẩm nông nghiệp

1997 478 2.980 1.981 2 1

2017 580 18.000 3.250 48 34

(Nguồn: Tác giả thống kê [5], [33])

Qua bảng số liệu chúng ta thấy: Trong 20 năm, trung bình mỗi năm tăng

khoảng 5 chi hội, 750 hội viên, trong đó số chủ trang trại tăng khoảng 66 trang trại,

số Hợp tác xã thương mại và dịch vụ VAC tăng 46 hợp tác xã so với ngày đầu tách

Hội, Công ty sản xuất và dịch vụ các sản phẩm nông nghiệp tăng 33 công ty, với số

vốn đầu tư trên 98 tỷ đồng, tạo việc làm cho trên 11.400 lao động. Thu nhập hằng

năm từ kinh tế VAC đạt 65% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tỉnh, điển hình là

huyện Lương Tài, Thuận Thành, Quế Võ.

31

Trong các năm qua, Hội Làm vườn đã phối hợp với các cơ quan, ban ngành,

các công ty tổ chức trung bình mỗi năm 147 lớp tập huấn, cho các cán bộ hội viên

Hội Làm vườn, các chủ trang trại trên địa bàn tỉnh về các kỹ thuật mới trong sản xuất

VAC, đặc biệt các lớp tập huấn kỹ thuật sản xuất VAC theo tiêu chuẩn ViệtGAP ở

tỉnh, các huyện, thị xã và thành phố. “Nhằm tuyên truyền kỹ thuật sản xuất đến cán

bộ, các hội viên, chủ trang trại trên địa bàn tỉnh” [33, tr.5]. Ngoài ra, các hội viên

còn được phổ biến chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và hạ tầng nông thôn,

ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, liên doanh, liên kết trong sản xuất và chế biến

tiêu thụ sản phẩm, công ty phân bón giới thiệu sản phẩm chất lượng cao.…. Hội cũng

phối hợp với Chi cục phát triển nông thôn tổ chức các lớp tập huấn về xây dựng nông

thôn mới và thành lập hợp tác xã sản xuất VAC. Hội cũng phối hợp với Sở Công

thương tỉnh Bắc Ninh tổ chức lớp tập huấn cho hội viên về tiết kiệm điện và sản xuất

sạch…. Nội dung bồi dưỡng từ các lớp tập huấn đã góp phần nâng cao nhận thức cho

các cán bộ, hội viên, đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất VAC giỏi.

Đẩy mạnh hợp tác, giao lưu trao đổi kinh nghiệm với các tỉnh bạn, Hội Làm

vườn đã phối hợp với các ngành, hàng năm tổ chức khoảng 46 chuyến tham quan học

tập kinh nghiệm các mô hình phát triển kinh tế mới trong và ngoài tỉnh cho khoảng

hơn 1.000 lượt hội viên. Hội cũng đã tổ chức cho các cán bộ tỉnh Hội, huyện Hội và

các chủ trang trại tham gia giao lưu Câu lạc bộ trang trại vùng núi phía Bắc, gồm:

Thái Nguyên, Yên Bái, Sơn La, Tuyên Quang….

Nhằm nâng cao trình độ cho các thành viên, mỗi năm Trung tâm dịch vụ VAC

tiến hành đánh giá kết quả công tác đào tạo nghề, đồng thời xây dựng kế hoạch triển

khai công tác dạy nghề năm sau. Cụ thể: Tỉnh Hội kết hợp với Sở lao động, Thương

binh xã hội, Chi cục Phát triển nông thôn để xây dựng chương trình đào tạo nghề

ngắn hạn cho nông dân. Nhờ vậy, đã có 4 lớp dạy nghề sản xuất VAC cho các hội

viên ở huyện, thị xã, thành phố về kỹ thuật chăn nuôi gia cầm và kỹ thuật trồng cây

ăn quả đạt hiệu quả cao. Các huyện, thị xã, thành phố phối hợp với các ngành tổ chức

các lớp dạy nghề cho các hội viên về sản xuất VAC.

Bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, Hội từ khi thành lập (1997) đến nay

(2017), mỗi năm đều tổ chức các đợt tuyên truyền chính trị, tư tưởng cho các cán

32

bộ, các hội viên. Hướng tới kỷ niệm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, kỷ

niệm ngày giải phóng miền Nam,ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày Quốc

khánh, Hội phát động thi đua. Mỗi kỳ Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội…Hội tiến

hành tuyên truyền những chủ chương, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống để hội

viên hiểu rõ về chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Qua đó, tạo được niềm tin, phấn khởi trong cán bộ, hội viên tin tưởng vào sự lãnh

đạo của Đảng và Nhà nước.

Thúc đẩy phong trào thi đua, Hội đã vận dụng nhiều hình thức tuyên truyền

khác nhau. Việc phối hợp với Đài Phát thanh và truyền hình tỉnh phát các điển hình

tiên tiến sản xuất VAC giỏi vào thứ 3 và thứ 5 hàng tuần là kênh thông tin nhanh

nhất, phổ biến nhất mà người dân có thế tiếp cận. Ngoài ra, “Hội còn phối hợp với

Báo Bắc Ninh tuyên truyền các hội viên sản xuất VAC giỏi trên báo Bắc Ninh. Hội

cũng phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam, VTC 16 để đưa các hoạt động của Hội

Làm vườn Bắc Ninh và các Báo Nhân dân, báo Nông nghiệp, báo Kinh tế nông thôn

đưa tin về sản xuất VAC điển hình của Bắc Ninh” [33, tr 5].

Cùng với công tác tuyên truyền, Hội đã đề xuất thực hiện và giám sát các dự

án, mô hình nuôi trồng mới. Ví như:

- Tỉnh Hội đã xây dựng mô hình trồng bưởi ruột đỏ tại xã Hoài Thượng -

huyện Thuận Thành, bước đầu triển khai theo kế hoạch đề ra.

- Hội Làm vườn “phối hợp với các ngành, địa phương trực tiếp chỉ đạo hướng

dẫn 4 trang trại sản xuất lớn xây dựng dự án mở rộng theo chuỗi ViệtGAP (năm

2016), theo chính sách ưu đãi của tỉnh với nguồn kinh phí 10 tỷ, đã được UBND tỉnh

phê duyệt, đã giải ngân được 3 dự án với số tiền 6,6 tỷ” [33, tr.3]. Nhóm thực hiện

dự án là ông Nguyễn Đăng Cường (thôn Đồng Đông, xã Đại Đồng Thành, huyện

Thuận Thành); ông Nguyễn Văn Đẩu (xã Nghĩa Đạo, huyện Thuận Thành); Lê Đắc

Vinh (xã Cảnh Hưng, huyện Tiên Du).

- Năm 2005, tỉnh Hội đã hướng dẫn một số doanh nghiệp nông nghiệp, chủ

trang trại (là thành viên của Hội) xây dựng dự án mở rộng quy mô ứng dụng công

nghệ cao. “dự án mở rộng quy mô nuôi lợn nái ngoại ở huyện Lương Tài đã hoàn

thành hồ sơ và được tỉnh Hội gửi Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thẩm định

33

trình cấp có thẩm quyền phê duyệt với kinh phí 3 tỷ đồng đã giải ngân, 01 dự án mở

rộng sản xuất chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học ở Cảnh Hưng, Tiên Du đã phê

duyệt được giải ngân 3 tỷ” [11, tr 4].

- Hội tiếp tục hoàn thiện, thực hiện đề án “quỹ hỗ trợ phát triển kinh tế trang

trại” và mô hình “vườn mẫu trình diễn cây ăn quả chất lượng cao” để trình cấp có

thẩm quyền phê duyệt. Tiếp tục theo dõi, chỉ đạo hộ sản xuất mô hình trồng ổi

Mailaixia không hạt tại huyện Gia Bình vào năm 2017.

- Thực hiện chương trình thi đua VAC giỏi, Hội Làm vườn tỉnh đã xây dựng

chương trình kế hoạch, mục tiêu thi đua giữa các huyện, thành phố, thị xã để thực

hiện. Các cấp Hội đã tích cực tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên tích cực tham

gia hưởng ứng, nhiều chủ trang trại đã xây dựng mô hình sản xuất công nghệ cao theo

tiêu chuẩn VietGAP, thâm canh cây trồng, vật nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao.

Nhờ có sự chỉ đạo của Hội, đến nay ( 2017) “cả tỉnh Bắc Ninh có 3.250 trang

trại và gia trại, với vốn đầu tư trên 10.000 tỷ đồng và 10.000 ha, thu hút lao động

trên 60.000 người, cho sản xuất gần 150.000 tấn, trong đó: lợn thịt 80.000 - 90.000

tấn, gia cầm 20.000 - 25.000 tấn, thủy sản 36.000 - 40.000 tấn” [33, tr 3].Tổng giá trị

của trang trại ước tính đạt trên sấp sỉ 4.000 tỷ = 60% giá trị sản xuất toàn ngành nông

nghiệp tỉnh Bắc Ninh.

Bình quân thu nhập của các trang trại trong toàn tỉnh Bắc Ninh là: “trang trại

thủy sản đạt 1 tỷ, trang trại chăn nuôi đạt 3,2 tỷ, trang trại VAC đạt 900 triệu. Trong

đó: huyện Tiên Du có trang tại thủy sản đạt 3,1 tỷ, trang trại chăn nuôi đạt 7,1 tỷ,

trang trại VAC đạt 1,2 tỷ; huyện Yên Phong có 340 trang trại và gia trại 1 năm cho

sản lượng 8.000 tấn lợn hơi, 400 tấn gia cầm, 3,3 tấn thủy sản” [33, tr 6].

Bên cạnh thành tích trên,ngành chăn nuôi cũng có những thời điểm khó khăn

do giá cả bấp bênh, tiêu thụ giảm mạnh. Thường trực tỉnh Hội chỉ đạo Hội Làm vườn

các huyện, thị xã và thành phố, “Hội Làm vườn các cấp tăng cường động viên, xuống

trực tiếp các trang trại để nắm bắt tình hình báo cáo, đề nghị các cơ quan chức năng

giúp đỡ, hỗ trợ kinh phí để giảm bớt khó khăn cho người chăn nuôi” [18, tr 3].

Thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền đến các doanh nghiệp chế biến, các

hộ tiêu thụ lớn về thịt (đặc biệt các khu công nghiệp, các đơn vị lực lượng vũ trang)

34

để đẩy mạnh tiêu thụ, sử dụng sản phẩm thịt trong nước nhằm chia sẻ bớt khó khăn

với người chăn nuôi. Khuyến khích các doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ lợn

thịt với các trang trại chăn nuôi, với giá cả hợp lý.

Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn tỉnh tổ chức điều tra thống kê kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, để đề

xuất chính sách tháo gỡ những khó khăn cho các trang trại. Nhờ vậy, các thành viên

trong Hội làm vườn rất tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hội.

- Mô hình trang trại trồng cây ăn quả được triển khai tới các huyện, xã. Diễn

hình như huyện Gia Bình đã quy hoạch và ứng dụng công nghệ cao theo hướng

VietGAP vào sản xuất nông nghiệp. Diện tích trồng cây ăn quả chuyên canh theo

hướng VietGAP trải rộng 15ha, trong đó xã Giang Sơn trồng cam canh, bưởi diễn;

xã Cao Đức trồng chuối tiêu, chuối tây. Huyện đã xây dựng và hình thành vùng

chuyên canh sản xuất rau an toàn trên diện tích 5,7 ha, có giấy chứng nhận

VietGAP với các loại cây trồng như: măng tây xanh tại các xã Thái Bảo, Vạn Ninh,

bí đỏ tại hợp tác xã Nhân Hữu, xã Nhân Thắng, sản xuất rau củ quả tại hợp tác xã

Ngăm Mạc, xã Lãng Ngâm.

Hướng tới liên doanh, liên kết với nước ngoài, trong hoạt động chăn nuôi của

Hội các thành viên là chủ các trang trại chủ trương đưa chăn nuôi ra xa khu dân cư.

Kết hợp với các chuyên gia Thái Lan đẩy mạnh mô hình trang trại chăn nuôi công

nghệ cao.

Đại diện cho xu hướng trên là công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Ninh đã liên

kết với tập đoàn Cổ phần Group của Thái Lan xây dựng trang trại tại thôn Ngăm

Mạc, xã Lãng Ngâm với diện tích 3,5 ha. Hệ thống chuồng trại xây dựng khép kín

theo công nghệ hiện đại của Thái Lan. Trang trại đã và đang nuôi 3.000 con lợn thịt

theo phương thức liên doanh, liên kết theo chuỗi sản xuất, bao tiêu sản phẩm khép

kín, đảm bảo an toàn bệnh dịch. Tính đến năm 2017, trang trại chăn nuôi hoạt động

được gần 4 năm, bình quân mỗi năm nuôi 2.800 đầu lợn, doanh thu gần 980 triệu

đồng/năm.

Những thành viên điển hình của Hội trong hoạt động VAC còn có doanh

nghiệp tư nhân Hùng Phát đầu tư thuê đất bãi ngoài đê với diện tích 20 ha tại thôn

35

Huề Đông, xã Đại Lai để sản xuất nông nghiệp. Theo mô hình kinh doanh tổng hợp

nên doanh nhân dành trên 6 ha nuôi trồng thủy sản và điều hòa sinh thái; 13 ha trồng

cây các loại chuối, rau màu; 1 ha liên kết với tập đoàn Cổ phần Group (Thái Lan)

nuôi lợn thịt. Hiện nay, doanh nhân đã cải tạo xong mặt bằng, đầu tư xây dựng 1 khu

chuồng trại và chăn nuôi 2.000 đầu lợn mỗi năm, doanh thu đạt 840 triệu đồng/năm.

Dự kiến trong thời gian tới sẽ mở rộng từ 1 - 2 khu chuồng trại chăn nuôi.

Cũng theo mô hình này, hộ ông Nguyễn Chí Hải ở thôn Đông Bình, thị trấn

Gia Bình thuê 12 ha đất bãi ngoài đê của xã Vạn Ninh đầu tư xây dựng 9.600 m2

chuồng trại để chăn nuôi thịt, kết hợp làm VAC tổng hợp. Từ năm 2015, ông Hải đã

liên kết, liên doanh với công ty Dabaco Việt Nam nuôi trên 3.000 con lợn thịt, với

doanh thu đạt bình quân trên 100 triệu đồng/năm.

Từ kết quả hoạt động của Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua,

Hội đã tạo được niềm tin đối với người dân và đối với các cấp lãnh đạo từ tỉnh đến cơ

sở, góp phần tích cực thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của

tỉnh Bắc Ninh.

Thành tích đạt được của Hội cũng là kết quả của công tác tuyên truyền và vận

động các chủ trang trại, các hội viên tìm hiểu về Luật Hợp tác xã và hướng dẫn hội

viên những thủ tục cần thiết để thành lập Hợp tác xã theo luật Hợp tác xã năm 2012;

Hướng dẫn cho hội viên về Quyết định số 4/2016/QĐ - UBND ngày 21 tháng

12 năm 2016 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành Quy định hỗ trợ phát triển

sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2016 - 2020 trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh.

Công tác của Hội và phong trào phát triển kinh tế VAC tỉnh Bắc Ninh đã có

nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao vai trò, uy tín của Hội trong việc đóng

góp tích cực vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và

sản xuất nông nghiệp theo hướng hữu cơ bền vững. Sản xuất VAC thực sự là mũi

nhọn, là nòng cốt trong sản xuất nông nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao được các

cấp Đảng, chính quyền và bà con nông dân ghi nhận.

2.1.3. Hội Sinh vật cảnh

Bắc Ninh là một trong những tỉnh có bước phát triển nhanh và bền vững so với

các tỉnh thành trong cả nước. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân không

36

ngừng được cải thiện. Nhu cầu về cái đẹp, về sinh vật cảnh đang là xu hướng thời

thượng đối với một bộ phận lớn dân cư không chỉ ở Bắc Ninh mà các tỉnh thành khác

cũng vậy. Chúng ta nhận thấy, các khu vui chơi công cộng, các khu di tích lịch sử,

văn hóa và ngay cả các tư gia có thu nhập cao cũng thích bố trí sinh vật cảnh.

Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh là một tổ chức XH - NN, “Hội là tổ chức của

những người lao động trong lĩnh vực bảo tồn, tôn tạo và phát triển văn hóa nghệ

thuật, khoa học - kỹ thuật, sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ về sinh vật cảnh, góp

phần xây dựng văn hóa, cảnh quan, sinh thái môi trường” [66, tr.2]. Hội được thành

lập theo Quyết định số 860/UBND năm 1997 của UBND tỉnh Bắc Ninh. Mục đích

của Hội nhằm tập hợp, đoàn kết hội viên, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội

viên, hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần bảo vệ, phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh, của đất nước.

Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh có nhiệm vụ: Tuyên truyền, giáo dục quan

điểm, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước đối với sự phát triển

sinh vật cảnh; Xây dựng và phát triển Hội ngày càng vững mạnh; Phổ biến, tuyên

truyền, huấn luyện cho các hội viên và nhân dân bảo vệ môi trường sinh thái, lối sống

hòa đồng với thiên nhiên và sinh vật cảnh; Tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện

các lĩnh vực liên quan đến lĩnh vực và phạm vi của Hội; Mở rộng quan hệ hợp tác với

các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh Bắc Ninh để học tập và trao đổi kinh nghiệm

về sinh vật cảnh.

Các hội viên Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh với lòng đam mê sinh vật cảnh

đã tự nguyện xin gia nhập và sinh hoạt tại tổ chức Hội. Hội viên các cấp tích cực

trong việc xây dựng, phát triển Hội, tuyên truyền tôn chỉ, mục đích, điều lệ Hội nhằm

mở rộng ảnh hưởng, uy tín của Hội. Vì vậy, số hội viên không ngừng tăng lên.

Năm 1997, Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh mới được thành lập, lúc đó chỉ có

275 hội viên, đến năm 2002 có 465 hội viên, năm 2007 có 2.676 hội viên, năm 2012

có 3.116 hội viên, đến nay năm 2017 toàn tỉnh có 5.178 hội viên, gồm: Quế Võ: 510

hội viên, Lương Tài: 1.110 hội viên, Tiên Du: 545 hội viên, Yên Phong: 520 hội viên,

Thuận Thành: 312 hội viên, Gia Bình: 617 hội viên, thành phố Bắc Ninh: 360 hội

viên, thị xã Từ Sơn: 600 hội viên, vườn cây bảo tàng, thư viện: 20 hội viên, các Câu

lạc bộ chim: 544 hội viên, Chi hội hoa lan: 40 hội viên, có 107/126 xã, phường có tổ

chức Hội Sinh vật cảnh [36; tr.5].

37

Tỉnh Hội luôn tạo điều kiện thuận lợi cho hội viên trong các hoạt động sinh vật

cảnh, nhất là trong các công trình nghiên cứu, sáng tạo, phát minh và tạo tác phẩm

sinh vật cảnh. Do vậy, tư tưởng, tâm trạng của Hội viên luôn ổn định, chấp hành tốt

mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các

phong trào do địa phương phát động. Đời sống của hội viên ngày càng nâng cao, định

hướng theo nghề sinh vật cảnh lâu dài.

Các nghệ nhân sinh vật cảnh luôn là lực lượng nòng cốt trong việc tuyên

truyền, dạy nghề ở các cấp hội cơ sở. Năm 1997, Hội Sinh vật cảnh huyện Yên phong

đã phối hợp với Trung tâm dạy nghề huyện mở 1 lớp kỹ thuật tạo tác và bài trí cây

cảnh cho hội viên sinh vật cảnh xã Thụy Hòa với hơn 30 hội viên. Năm 2005 - 2017,

mỗi năm Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh đều tổ chức lớp học về bài trí cây cảnh.

Hàng năm, Hội Sinh vật cảnh của tỉnh cũng tổ chức hội thảo về chăm sóc và tạo dáng

cây cảnh. Đến năm 2015, Hội đã bắt đầu tập huấn về nuôi thả chim Bồ câu.

Ngoài việc học tập, nghiên cứu qua sách báo, Hội đã tổ chức cho các hội viên

đi thăm quan, học hỏi kinh nghiệm trực tiếp tại các nhà vườn, các cuộc triển lãm sinh

vật cảnh các tỉnh bạn. Mỗi năm Hội Sinh vật cảnh đều tổ chức cho các nghệ nhân gặp

gỡ với các nghệ nhân của Hải Phòng, Thanh Hóa, Ninh Bình, Đà Nẵng… nhằm giao

lưu, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao kiến thức. Đây cũng là dịp để các hội viên thương

mại sinh vật cảnh, tạo tình đoàn kết, gắn bó giữa các hội viên trong tỉnh nói chung và

ngoài tỉnh nói riêng ngày một bền chặt hơn.

Một trong những nhiệm vụ của Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh là tuyên

truyền, phổ biến chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà Nước

đến toàn bộ hội viên và nhân dân trong tỉnh. Tỉnh Hội và các cấp Hội hoạt động theo

đúng pháp luật và Điều lệ của Trung ương Hội Sinh vật cảnh Việt Nam.

Căn cứ nhiệm vụ chính trị được giao, Tỉnh Hội thường xuyên tổ chức sơ kết,

tổng kết để đánh giá đúng tình hình tổ chức và hoạt động của các cấp Hội, phát hiện

những kinh nghiệm tốt, những mặt còn yếu kém; xây dựng và thực hiện các biện

pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của tổ chức Hội; Đồng thời tăng cường

công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của Hội, kịp thời xử lý

vi phạm để giúp Hội hoạt động có hiệu quả.

38

Từ khi thành lập, mỗi năm Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh đều tổ chức triển

lãm sinh vật cảnh vào dịp đầu xuân để nhân dân trong tỉnh và du khách có dịp về du

xuân, thưởng ngoạn. Ngoài ra, Hội còn tổ chức triển lãm sinh vật cảnh nhân dịp kỷ

niệm các ngày lễ lớn của tỉnh Bắc Ninh và của cả nước. Với nội dung: Trưng bày,

giới thiệu sản phẩm sinh vật cảnh; Thi các tác phẩm sinh vật cảnh trong và ngoài

tỉnh… vật liệu là cây cảnh, đá cảnh, non bộ, gỗ lũ của các nghệ nhân, các nhà vườn

luôn thu hút sự chú ý và thán phục của người xem.

Mỗi năm, “Người Kinh Bắc và các du khách gần xa trong và ngoài tỉnh lại có

dịp chiêm ngưỡng, thưởng thức trên 3.000 tác phẩm sinh vật cảnh suất sắc của

khoảng 80 nghệ nhân, nhà vườn, 370 tác giả tiêu biểu trong, ngoài tỉnh về tham dự”

[36, tr 4]. Các tác phẩm triển lãm năm sau về số lượng nhiều hơn, về chất lượng cao

hơn năm trước.

Trong những ngày đầu xuân, Hội Sinh vật cảnh ở các địa phương đã phối hợp

với các ban, ngành, đoàn thể tổ chức trưng bày sinh vật cảnh trong các ngày lễ, tết,

hội làng như Hội Sinh vật cảnh phường Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn) hàng năm triển lãm

vào ngày mùng 5 đến mùng 10 tháng giêng ; Hội Sinh vật cảnh thị trấn Lim trưng bày

triển lãm vào ngày hội Lim 13 tháng giêng hàng năm, Hội Sinh vật cảnh xã Yên Phụ

(huyện Yên Phong); Hội Sinh vật cảnh huyện Thuận Thành tổ chức triển lãm và

trưng bày khoảng 200 tác phẩm sinh vật cảnh tại lễ hội đền thờ Kinh Dương Vương

và thi triển lãm thương hiệu gà Hồ truyền thống; Huyện Lương Tài, năm 2017, Hội

Sinh vật cảnh xã Minh Tân đã trưng bày trên 150 tác phẩm sinh vật cảnh để đón nhận

danh hiệu xây dựng nông thôn mới toàn xã.

Sau mỗi lần tổ chức triển lãm sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh, thường vụ Hội đã

họp để rút kinh nghiệm về ưu, khuyết điểm và đề ra các giải pháp triển lãm sinh vật

cảnh cho lần sau. Hội Sinh vật cảnh các huyện, thị xã, thành phố đều tích cực làm

công tác chăm sóc, tạo các tác phẩm để tiến tới có nhiều tác phẩm đẹp để giao lưu

triển lãm trong và ngoài tỉnh khi được Tỉnh hội giao.

Năm 2016, Chi hội hoa lan được thành lập, nhưng Chi hội hoa lan ở các

huyện, thị xã, thành phố thường xuyên tổ chức các buổi “Café hoa lan” để các

thành viên giao lưu, trao đổi kinh nghiệm chăm sóc, nhân giống các loài hoa; tham

39

gia triển lãm sinh vật cảnh đầu xuân, trưng bày và thi hoa lan tại nhiều tỉnh, thành

phố trên cả nước.

Ngày 14/03/2017, UBND tỉnh Bắc Ninh họp và giao cho Hội Sinh vật cảnh

tỉnh phối hợp triển lãm sinh vật cảnh với triển lãm hoa Anh Đào Nhật Bản tại Bắc

Ninh. Hội Sinh vật cảnh đã lấy thành phố Bắc Ninh làm nòng cốt, vận chuyển 50 tác

phẩm sinh vật cảnh xuất sắc của các nghệ nhân, nhà vườn tại thành phố Bắc Ninh

trưng bày đan xen với triển lãm hoa Anh Đào từ ngày 20 đến ngày 25/03/2017.

“Người dân Bắc Ninh và các quan khách trong và ngoài tỉnh, khách quốc tế lại có

dịp đến chiêm ngưỡng, thưởng thức 5.000 cành, 20 cây hoa Anh Đào Nhật Bản và 50

tác phẩm sinh vật cảnh suất sắc tại trung tâm văn hóa Kinh Bắc, thành phố Bắc

Ninh, tỉnh Bắc Ninh” [36, tr. 5]. Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh đã hoàn thành xuất

sắc nhiệm vụ, đã quảng bá tới du khách trong nước và bạn bè quốc tế về quê hương

và con người Bắc Ninh ngày nay.

Tỉnh Bắc Ninh không chỉ tập trung phát triển kinh tế - xã hội mà còn hướng

đến xây dựng hình ảnh xanh, sạch, đẹp, bình yên, thân thiện và trở thành điểm hấp

dẫn, ấn tượng với người dân và du khách. Do đó, thả chim Bồ câu là một trong những

hoạt động văn hóa tiêu biểu cần được phát huy và duy trì để trở thành nét đặc trưng

thể hiện sự thân thiện và bình yên xứ Kinh Bắc. Vì vậy, Hội Sinh vật cảnh tích cực

chăm sóc, bảo vệ, từng bước nhân rộng đàn chim Bồ câu và mô hình thả chim hòa

bình tại các địa phương.

Tháng 5 năm 2015, Hội sinh vật cảnh huyện Yên Phong tổ chức thi chim

chào mào hót đấu chuyên nghiệp mở rộng lần thứ Nhất. “Có 393 lồng của 393 tác

giả khu vực miền Bắc tham dự, thu hút hàng nghìn lượt người xem. Ban tổ chức đã

trao 20 giải trị giá 42.000.000 đồng, trong đó có 01 giải nhất trị giá 30.000.000

đồng” [36, tr 3].

“Thực hiện công văn số 3818/CV-UBND ngày 30 tháng 10 năm 2017 của

UBND tỉnh về việc chấp thuận đề án nuôi thả chim bồ câu tại các địa điểm công

cộng trên địa bàn thành phố” [36, tr.5]. Câu lạc bộ chim Bồ Câu Hòa Bình đã tiến

hành xây dựng hoàn thiện được 03 điểm nuôi chim Bồ Câu là: Công viên Nguyễn

Văn Cừ, tượng đài Lý Thái Tổ - Bảo tàng tỉnh, Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ -

40

Cung văn hóa thiếu nhi, trong đó đã nuôi thả được 02 điểm chuồng là tượng đài Lý

Thái Tổ - Bảo tàng tỉnh, Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ - Cung văn hóa thiếu

nhi. Các nghệ nhân có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc và huấn luyện để chim Bồ

câu bay ra các địa điểm công cộng.

Năm 2016 và 2017, tại các địa phương đã diễn ra các cuộc thi chim Bồ câu

bay, như: Ở phường Đình Bảng trong dịp Lễ hội Đền Đô, hội thi chim Cu gáy ở đồi

Lim. Hội Sinh vật cảnh xã Đại Bái, huyện Gia Bình đã phối hợp với chi Hội Sinh vật

cảnh thôn Đại Bái tổ chức Hội thi Chim họa mi hót. Tại buổi thi các tổ chức hội, các

cá nhân chơi chim họa mi hót và các nghệ nhân Sinh vật cảnh trong huyện và một số

tỉnh lân cận về dự thi, tham gia triển lãm cũng như học tập kinh nghiệm hay về các kỹ

thuật nuôi và chăm sóc chim cảnh đẹp có giá trị kinh tế và nghệ thuật cao.

Năm 2017, Hội Sinh vật cảnh huyện Quế Võ đã họp và triển khai xây dựng 02

chuồng chim Bồ câu tại khuôn viên Tượng đài Trung tâm Thị trấn Phố Mới (ngay

cạnh Trung tâm sinh vật cảnh của huyện), để chuẩn bị cho việc nuôi thả chim trong

thời gian tới.

Nhận thức được tầm quan trọng trong việc giữ gìn không gian xanh, các thảm

thực vật đối với con người, “các cấp Hội đã tích cực trồng cây xanh tại các công sở,

trường học, các khu di tích tại địa phương, trao tặng nhiều cây tại đình, chùa, nghĩa

trang liệt sĩ để làm đẹp cho cảnh quan môi trường” [20,tr 4].

Trong những năm gần đây, kinh tế Bắc Ninh có bước phát triển, vì vậy nhu

cầu trang trí sinh vật cảnh của công sở và các hộ gia đình có phần tăng lên. Do đó,

phong trào sinh vật cảnh phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng, tạo việc làm và

thu nhập cho nhiều lao động. Doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh ở lĩnh vực

này mỗi năm mang đến cho các hộ dân hàng trăm triệu đồng. Qua đó khích lệ phong

trào phát triển trong hội viên, đồng thời tạo thu nhập ổn định, nâng cao đời sống cho

người dân.

Các hộ dân tiêu biểu có nguồn thu nhập lớn từ kinh doanh sinh vật cảnh là:

Ông Trần Xuân Lộc - chủ nhiệm Câu lạc bộ Sinh vật cảnh Sông Cầu, ở thành phố

Bắc Ninh đang sở hữu vườn cây cảnh trị giá hàng chục tỷ đồng; ông Đoàn Đình

Chinh - Hội viên Hội Sinh vật cảnh huyện Lương Tài đầu tư chăm sóc 500 chậu hoa

41

hồng cổ; Ông Trần Viết Dung huyện Lương Tài đầu tư dịch vụ chuyên về hoa cây

cảnh, chậu cảnh rất phát triển; Ông Dương Văn Thuận - Hội viên Hội Sinh vật cảnh

huyện Quế Võ mở chợ cây đã thành phiên vào ngày mùng 6, 16, 26 hàng tháng để

anh em chơi cây cảnh giao lưu, giúp đỡ nhau trao đổi kinh nghiệm.

Bên cạnh hoạt động kinh doanh, đối với hoạt động cộng đồng các hội viên đã

thường xuyên quyên góp vật chất để làm từ thiện tùy theo tâm của mỗi hội viên. Các

quỹ hội viên đóng góp như: Ủng hộ đồng bào vùng bị lũ lụt; Quỹ dành cho học sinh

nghèo vượt khó; Quỹ vì người nghèo…. “Tại Hội chợ triển lãm xuân 2017, Hội Hoa

Lan Bắc Ninh đã tổ chức đấu giá 15 tác phẩm của hội viên để gây quỹ hoạt động

Hội và ủng hộ các hoạt động từ thiện trong và ngoài tỉnh” [36, tr 6].

Hội Sinh vật cảnh Bắc Ninh từ khi thành lập cho đến nay đã thực hiện tốt chức

năng và nhiệm vụ của Hội. Các thành viên của Hội vì cùng yêu thích sinh vật cảnh đã

đến với nhau, phối hợp với nhau trong kinh doanh và mở rộng ảnh hưởng của mình

tới các tỉnh bạn, tới một số nước láng giềng trong khu vực. Thành tích và đóng góp

của Hội Sinh vật cảnh đối phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh trong quá trình đổi

2.2. Hoạt động của các tổ chức XH - NN trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và y tế

2.2.1. Hội văn học - nghệ thuật

Ngày 01/01/1997, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh được thành lập trên

cơ sở được tách ra từ Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Hà Bắc. Hội là nơi gặp gỡ của

những người hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật của tỉnh Bắc Ninh.

Mục đích của Hội là cộng tác và giúp đỡ nhau trong hoạt động nghề nghiệp,

sáng tạo nên những tác phẩm có giá trị phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, đáp

ứng nhu cầu thưởng thức văn học, nghệ thuật ngày càng cao của đông đảo quần

chúng nhân dân; Xây dựng nền văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh tiên tiến, đậm đà

truyền thống văn hóa địa phương và bản sắc dân tộc Việt Nam. Văn học, nghệ thuật

là mặt trận văn hóa tinh thần góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Hoạt động của hội có sức cảm hóa đối với các độc giả. Tình cảm quê hương và

nhiệt tình sáng tác đã hòa quyện, cuốn hút nhiều bạn đọc trong tỉnh. Hội tổ chức

nhiều hoạt động văn học, nghệ thuật và qua đó có thêm nhiều tác giả mới được phát

42

hiện, bổ sung vào đội ngũ hội viên. Năm 1997, số hội viên là 65 người, hoạt động

trong 6 chi hội: Âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, văn học, sân khấu và kiến trúc. Đến

năm 2017 số hội viên lên đến 315 người (trong đó có 69 người là hội viên các Hội

chuyên ngành ở trung ương) [50; tr.7], hoạt động ở 7 chuyên ngành: Văn học, âm

nhạc, ảnh, kiến trúc, mỹ thuật, sân khấu, văn nghệ dân gian và một chi hội Nhà báo.

Hội đã đăng kí hoạt động của Tạp chí Người Kinh Bắc. Ban biên tập hội có 16 hội

viên, trong đó có 4 nhà báo chuyên nghiệp được Bộ thông tin - truyền thông cấp thẻ

Nhà báo. Đồng thời thành lập được các phân hội VHNT ở các huyện: Thuận Thành,

Quế Võ, Gia Bình, Lương Tài, Từ Sơn, Yên Phong và Tiên Du từ năm 2007 - 2010.

Năm 2015, thành lập phân hội thành phố Bắc Ninh. Phối hợp với các Hội chuyên

ngành ở Trung ương thành lập Chi bộ Kiến trúc sư Việt Nam tỉnh Bắc Ninh và các

chi hội Âm nhạc, Mỹ thuật, Sân khấu, Nhiếp ảnh, Văn nghệ dân gian Việt Nam tại

Bắc Ninh.

Hoạt động của Ban Công tác hội viên có nhiều cố gắng. Sự liên kết giữa hội

viên và Văn phòng Hội, giữa các chi hội chuyên ngành thường xuyên và chặt chẽ

hơn. Nhiều hoạt động đã có sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ giữa các chi hội như giữa

Chi hội Sân khấu với Chi hội Âm nhạc; giữa Chi hội Nhiếp ảnh với Chi hội Mỹ thuật,

Chi hội Kiến trúc.

Hội VHNT tỉnh luôn quan tâm tổ chức bồi dưỡng nâng cao nhận thức chính

trị, cập nhật các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho hội

viên, như: “Tổ chức học tập, nghiên cứu Nghị quyết TW5 (khóa VIII) về “Tiếp tục

xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; Nghị quyết số 23

của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển VHNT trong thời kỳ mới”, Nghị

quyết số 33 Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây

dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững

đất nước”; Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của

Đảng; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX; Kết luận số 130 của Ban

Thường vụ Tỉnh ủy về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23 - NQ/TW của Bộ Chính

trị về xây dựng và phát triển VHNT trong thời kỳ mới”[50; tr. 5].

43

Hàng tháng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy định hướng công tác chính trị, tư tưởng

đối với hoạt động VHNT: Tổ chức giao ban báo chí, văn hóa, văn nghệ; định kỳ tổ

chức các buổi làm việc với Ban Chấp hành thường trực Hội để trao đổi, định hướng

những vấn đề nổi cộm phát sinh trên lĩnh vực VHNT.

Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh đã thực hiện tốt chức năng là cơ quan

quản lý nhà nước về VHNT trên địa bàn, phối hợp chặt chẽ với Hội VHNT tỉnh trong

tổ chức các hoạt động VHNT, tham mưu với UBND tỉnh một số chính sách liên quan

đến hoạt động và chế độ cho đội ngũ những người làm công tác VHNT.

Trong 20 năm qua, Hội VHNT tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức nhiều hoạt động

trong lĩnh vực VHNT, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước. Hội viên tích cực chống tư tưởng “Diễn biến hòa bình”, “Tự diễn biến”,

“Tự chuyển hóa” và “Suy thoái” trong cán bộ, đảng viên và văn nghệ sĩ. Hội viên

luôn gương mẫu trong lối sống, nhiệt huyết trong sáng tác đảm bảo tính chân - thiện -

mỹ góp phần xây dựng Bắc Ninh phát triển bền vững.

Hội đã phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch mở 11 trại sáng tác tập trung cho 165 lượt hội viên thuộc các chuyên ngành văn

học, nghệ thuật tại các địa điểm: Đại Lải, Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu, Đà Nẵng.

Trong 20 năm, “hội đã cử 42 hội viên đi học lớp đào tạo viết văn tại Trường

đào tạo Nguyễn Du; mỗi năm tổ chức từ 2 đến 3 trại sáng tác VHNT của tỉnh trên

các lĩnh vực, số hội viên được cử đi dự trại sáng tác bình quân mỗi năm từ 50 đến

60 hội viên (Trại sáng tác theo chuyên đề; Trại sáng tác hội viên cao tuổi”[50, tr

19]; Trại sáng tác riêng cho một số chuyên ngành), tổng số tổ chức được 56 Trại

sáng tác trong 20 năm (bao gồm Trại sáng tác bồi dưỡng tài năng VHNT trẻ). Hội

cũng đã cử 34 hội viên ở các chuyên ngành thơ, văn xuôi, nhiếp ảnh tham gia các

Trại sáng tác Liên hiệp tổ chức. Lãnh đạo và cán bộ Hội tham dự các lớp bồi dưỡng

lý luận phê bình; 16 hội viên tiêu biểu ở các chi hội văn xuôi, thơ, văn học dân gian

được cử tham dự lớp bồi dưỡng lý luận do Hội đồng lý luận Phê bình VHNT Trung

ương tổ chức.

Trải nghiệm thực tế để sáng tác là một trong những hoạt động thường xuyên

của Hội. Trong 20 năm, Hội đã tổ chức 36 đợt đi thực tế cho hơn 300 hội viên với các

44

chuyên đề: Tìm hiểu văn hóa các vùng miền trong khu vực; Chủ đề Biển Đảo quê

hương và các lĩnh vực khác; Hội cũng đã chủ trì hoặc liên kết tổ chức hội thảo về các

lĩnh vực: Văn nghệ dân gian; âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh,… nhằm tăng cường giao

lưu, mở rộng trao đổi học thuật giữa các thành viên của Hội với các tỉnh bạn .

Hướng tới mở rộng địa bàn hoạt động, đẩy mạnh giao lưu văn học nghệ thuật

trong khu vực và vươn tầm quốc tế, Hội đã phối hợp Viện Văn học Việt Nam chủ

động đăng cai tổ chức 4 Hội thảo cấp khu vực với các Hội VHNT: Hội thảo khu vực

Đồng bằng sông Hồng; Khu vực Tây Bắc;Khu vực nhóm hợp tác phát triển Văn học

nghệ thuật (gọi tắt là VN8). Tham dự hội thảo có các văn nghệ sĩ thuộc các tỉnh như

Hòa Bình, Tuyên Quang, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Quảng Trị, Tây Ninh,

Phú Yên và Kiên Giang về với đất Bắc Ninh.

Bên cạnh đó, Hội cũng đẩy mạnh liên kết tổ chức các Trại sáng tác với các

Hội VHNT trong khu vực như: Trại sáng tác Người cao tuổi, Năng khiếu trẻ với tỉnh

Hòa Bình; Âm nhạc với tỉnh Bắc Giang và kết nghĩa với các tỉnh Phú Thọ, Hải

Phòng, Hà Nội, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh,….

Qua đó giúp cho văn nghệ sĩ có điều kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm để bổ sung

cho hành trang sáng tác và cách nhìn đa dạng hơn về các lĩnh vực VHNT.

Phong trào sáng tác luôn được UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo, duy trì và phát

triển bằng nhiều hình thức: Phát động sáng tác, tổ chức các cuộc thi, tổ chức các

chuyến đi thực tế, đầu tư hỗ trợ sáng tác… Phong trào sáng tác quần chúng cũng

được đẩy mạnh ở các cơ quan, đơn vị, địa phương như: Văn học, mỹ thuật trong các

nhà trường, câu lạc bộ thơ ở các địa phương … trở thành phong trào VHNT quần

chúng khá mạnh, góp phần làm cho hoạt động VHNT của tỉnh thêm phong phú, đa

dạng. Trong những năm qua Hội đã tổ chức 15 cuộc thi: Du lịch Văn hiến Kinh Bắc;

Văn học (về đề tài xây dựng nông thôn mới); Nhiếp ảnh với đề tài “Nét đẹp miền

Quan họ”; Mỹ thuật về Kiến trúc đô thị; Âm nhạc sáng tác ca khúc về Bắc Ninh đổi

mới và phát triển; Ngoài ra còn có cuộc thi sáng tác VHNT cho “Cây bút tuổi hồng”

nhằm phát hiện, bồi dưỡng những tài năng trẻ về VHNT.

Trong 20 năm (1997 - 2017), Hội VHNT tỉnh đầu tư xuất bản nhiều đầu sách,

tiêu biểu trong đó là cuốn: Văn nghệ Dân gian Bắc Ninh (gồm 3 tập); Kiến trúc Bắc

45

Ninh; Tuyển tập chân dung hội viên; Thơ “Miền Kinh Bắc”, Nhạc “Miền lúng liếng”;

Du lịch văn hiến Kinh Bắc; “Di tích và lễ hội tiêu biểu tỉnh Bắc Ninh tập 1”; Tuyển

tập truyện ngắn Bắc Ninh 2007 - 2017; Ân tình người Bắc Ninh với Bác Hồ; Tìm

hiểu bản sắc văn hóa con người Bắc Ninh - Kinh Bắc, VHNT Bắc Ninh 20 năm xây

dựng và phát triển… Số lượng ấn phẩm phong phú đa dạng đã minh chứng vai trò và

thành tích hoạt động của Hội văn học, nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh.

Hoạt động đáng chú ý của Hội là tổ chức Ngày thơ Việt Nam đã thu hút nhiều

nhà thơ, người làm thơ, yêu thơ trong tỉnh tham gia, tạo được không khí tươi vui, đưa

Ngày thơ trở thành ngày hội của những người yêu thơ trong tỉnh. Đặc biệt, chương

trình Ngày thơ Việt Nam lần thứ XV được tổ chức long trọng tại khu vực tượng đài

Lý Thái Tổ chào mừng 185 thành lập tỉnh và 20 năm tái lập tỉnh Bắc Ninh. Chương

trình còn được sự phối hợp tham gia của các Phân hội VHNT cấp huyện; Câu lạc bộ

Thơ Việt Nam; Phường Thị Cầu, thành phố Bắc Ninh đã để lại nhiều dấu ấn trong

công chúng và những người yêu thơ.

Ngày Thơ Việt Nam ngoài tổ chức ở tỉnh còn được phối hợp hưởng ứng Ngày

thơ Việt Nam tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội do Hội Nhà văn Việt Nam tổ

chức, qua đó đã quảng bá được hình ảnh của Bắc Ninh và phong trào hoạt động của

Hội VHNT tỉnh Bắc Ninh đến đông đảo văn nghệ sĩ, công chúng trong cả nước.

Năm 2015, phối hợp hưởng ứng với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Chương

trình liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương, đón gần 400 Văn nghệ sĩ ở 30 nước

về tham dự. Lần đầu tiên, sau gần 20 năm tái lập tỉnh, giới Văn nghệ sĩ Bắc Ninh tổ

chức sự kiện Quốc tế về lĩnh vực VHNT, đã nâng tầm vị thế, đồng thời góp phần

quảng bá hình ảnh nền văn hiến của tỉnh và VHNT đến bạn bè quốc tế.

Hội đã đăng cai tổ chức một số liên hoan, triển lãm mang tầm khu vực và thế

giới, như: “Liên hoan Thơ Châu Á - Thái Bình Dương năm 2015 với gần 400 nhà

thơ, dịch giả, nghiên cứu của 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực Châu Á -

Thái Bình Dương tham gia; đăng cai Liên hoan Âm nhạc khu vực phía Bắc năm

2015”[50, tr.19], Triển lãm Mỹ Thuật khu vực đồng bằng sông Hồng năm 2013; Ảnh

nghệ thuật khu vực đồng bằng sông Hồng năm 2014.

46

Đồng thời tổ chức các liên hoan, triển lãm cấp tỉnh và phục vụ nhiệm vụ chính

trị của tỉnh như: Liên hoan Âm nhạc chào mừng thành công Đại hội Đảng bộ tỉnh lần

thứ XIX; Liên hoan Âm nhạc chào mừng 185 năm thành lập tỉnh và 20 năm tái lập

tỉnh Bắc Ninh; Triển lãm Mỹ thuật, Ảnh nghệ thuật và Kiến trúc chào mừng 185 năm

thành lập tỉnh và 20 năm tái lập tỉnh Bắc Ninh; Triển lãm Ảnh nghệ thuật “Nét đẹp

miền Quan họ”.

Tạp chí Người Kinh Bắc là một trong ba cơ quan Báo chí của tỉnh được Bộ

Thông tin và Truyền thông cấp giấy phép hoạt động dài hạn. Nội dung tạp chí là các

bài viết bám sát nhiệm vụ chính trị của tỉnh . Bình quân mỗi số Tạp chí giới thiệu từ 5 -

7 truyện ngắn; 2 - 3 tác phẩm khảo cứu, nghiên cứu nền văn hiến Kinh Bắc; hàng chục

bài thơ, ảnh, mỹ thuật, kiến trúc, âm nhạc,… Các tác phẩm tập trung ca ngợi sự đổi

mới của quê hương, đất nước, đồng thời giữ gìn bản sắc văn hiến cách mạng của Bắc

Ninh…. Tạp chí phản ánh sự sinh động, rực rỡ sắc màu đời sống xã hội của Bắc Ninh

qua lăng kính VHNT ở từng lĩnh vực, là món ăn tinh thần không thể thiếu trong giai

đoạn hiện nay. Ban biên tập tạp chí thường xuyên cải tiến về nội dung và hình thức đáp

ứng yêu cầu phát triển của Tỉnh. Nếu trước đây hai tháng ra một số tạp chí thì từ tháng

1-2016, mỗi tháng ra một số tạp chí với số lượng 100/ quyển. Tạp chí là kênh thông tin

quan trọng, được phát hành rộng rãi đến các cấp trên toàn tỉnh Bắc Ninh.

Với thành tích của mình, tạp chí Người Kinh Bắc được ban chỉ đạo cấp tỉnh

trao giải Nhất lĩnh vực quảng bá các tác phẩm VHNT và báo chí về chủ đề “Học tập

và làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh” đợt 1, giai đoạn 2015 - 2017.

Ngoài ra, có 66 Giải thưởng của các tác giả có tác phẩm in trên tạp chí về đề tài “Học

tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” qua 4 đợt xét Giải

thưởng từ năm 2016 - 2017. Trong đó, 9 tác phẩm được Ban Tuyên giáo Trung ương

trao Giải thưởng.

Công tác thi đua khen thưởng của Hội được chú trọng và thực hiện thường

xuyên, lấy chất lượng tác phẩm là then chốt, kết hợp với sự tham gia các hoạt động

của Hội để đánh giá, bình xét thi đua khen thưởng.

Tập thể Hội luôn được Liên hiệp Các Hội VHNT Việt Nam, UBND tỉnh tặng

Bằng khen (Bằng khen của Liên hiệp; Cờ xuất sắc;Bằng khen của Chủ tịch UBND

47

tỉnh và Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh tặng theo chuyên đề,...); Bằng khen của

Hội Nhà văn Việt Nam; Bằng khen của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

Năm 2017, tập thể Hội VHNT tỉnh Bắc Ninh đã được Liên hiệp các Hội

VHNT Việt Nam và UBND tỉnh tặng cờ dẫn đầu trong khối phong trào thi đua và

nhiều Bằng khen, giấy khen.

Trong thời gian qua, đã có 85 hội viên được Liên hiệp các Hội VHNT Việt

Nam tặng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp VHNT. Hội VHNT tặng giấy khen cho nhiều

tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động.

Được UBND tỉnh quan tâm, trong nhiệm kỳ Hội đã tổ chức được nhiều cuộc

thi sáng tác về VHNT, như: Du lịch Văn hiến Bắc Ninh - Kinh Bắc; Ảnh “Nét đẹp

miền Quan họ”; Âm nhạc “Bắc Ninh trên đường đổi mới và phát triển”; Văn học

“Xây dựng nông thôn mới”. Qua đó, Ban chấp hành Hội đã xét và trao nhiều Giải

thưởng cho các tác phẩm đạt giải thưởng. Năm 2017, xây dựng được cơ chế Xét Giải

thưởng VHNT “Cây bút tuổi hồng” giành cho các học sinh ở các trường học trên địa

bàn tỉnh, nhằm phát hiện bồi dưỡng năng khiếu trẻ về VHNT. Hội đã xét và trao 26

Giải thưởng cho đội ngũ “Cây bút tuổi hồng”. Giới thiệu 8 tác giả có tác phẩm xét

Giải thưởng “Cây bút tuổi hồng” lần thứ 8 do Hội Nhà văn Việt Nam, Trung ương

Đoàn và Báo Thiếu Niên Tiền Phong tổ chức.

Trong nội khối, từ năm 2016, công tác thi đua - khen thưởng được đổi mới

và quan tâm đến chi hội, phân hội. Vì vậy, đã có 2 Chi hội, 1 Phân hội được Liên

hiệp Các hội VHNT Việt Nam tặng Bằng khen. Hoạt động của các chi hội tiêu

biểu như sau:

Chi hội Văn xuôi: Trong những năm qua, Chi hội Văn học đã tích cực hoạt

động. Chất lượng sáng tác được nâng lên. Tác phẩm của các hội viên đã được mở

rộng đề tài, đa dạng về thể loại, mang được hơi thở của cuộc sống, sự phát triển về

mọi mặt của quê hương Bắc Ninh. Sáng tác của các tác giả mạnh dạn hơn về ý tưởng,

tư duy, vững vàng hơn về bút pháp. “Nhiều tác phẩm phản ánh về những thành tựu

của Bắc Ninh sau 20 năm tái lập tỉnh, về chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng

nông thôn mới, về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

khá sâu sắc”[50, tr.35]. Điều đó khẳng định sức sáng tạo, tinh thần lao động nghiêm

48

túc, đầy trách nhiệm của đội ngũ văn nghệ sĩ tỉnh Bắc Ninh. Đặc biệt, có sự xuất hiện

một số cây bút trẻ đầy triển vọng ở trường THPT Chuyên Bắc Ninh, trường THPT

Nguyễn Đăng Đạo,… Các nhà văn cũng đã đạt 16 Giải thưởng VHNT tỉnh Bắc Ninh

lần thứ Nhất và nhiều Giải thưởng ở các tạp chí văn nghệ trong cả nước.

Chi hội Thơ: Là một trong những Chi hội có đông số hội viên , 5 năm qua các

nhà thơ Bắc Ninh đã bám sát những đổi thay của cuộc sống, sáng tác đa dạng về các

thể thơ. Các nhà thơ đã xuất bản được nhiều tập thơ hay, phản ánh sinh động các lĩnh

vực của đời sống xã hội, đem đến cho độc giả và công chúng yêu thơ những áng thơ

hay, giàu cảm xúc. Hiện nay, chi hội đã có 14 tuyển tập thơ đạt giải tại Giải thưởng

VHNT tỉnh Bắc Ninh lần thứ Nhất. Và nhiều hội viên giành được các giải thưởng ở

các Cuộc thi Báo, tạp chí Văn nghệ trong cả nước.

Chi hội Văn nghệ dân gian: Văn nghệ dân gian là thế mạnh của Bắc Ninh.

Các hội viên đã xuất bản trên 200 tác phẩm nghiên cứu về văn hóa truyền thống của

vùng Kinh Bắc như: Dân ca quan họ; lễ và hội Bắc Ninh…. Công sức của các thành

viên đã được đánh dấu bằng Giải thưởng VHNT tỉnh Bắc Ninh lần thứ Nhất và một

số công trình được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tặng Bằng khen năm 2017.

Chi hội Âm nhạc: Các nhạc sĩ của tỉnh hầu hết được đào tạo cơ bản về

chuyên môn, nhiệt tình sáng tác và đã khẳng định được năng lực sáng tác của

mình bằng chất lượng tác phẩm. Nhiều tác phẩm đã được giới thiệu trên các tạp

chí âm nhạc Trung ương, báo chí địa phương và tạp chí Người Kinh Bắc, nhiều ca

khúc được dàn dựng biểu diễn phục vụ các ngày lễ lớn, các cuộc thi văn nghệ của

tỉnh, khu vực và toàn quốc.

Âm nhạc Bắc Ninh hoạt động sôi nổi và có chất lượng. Hằng năm, chi hội có

đại diện tham gia Liên hoan Âm nhạc khu vực và đoạt nhiều giải thưởng như: Giải B

Liên hoan Âm nhạc khu vực miền Trung; “Năm 2014 đạt 01 giải A, 01 giải B tại

Liên hoan Âm nhạc khu vực phía Bắc và đạt nhiều giải cao của Liên hiệp các Hội

VHNT Việt Nam và Hội nhạc sĩ Việt Nam tổ chức”[50, tr 44].

Chi hội đã phối hợp với Đài Phát thanh truyền hình tỉnh, giới thiệu một số ca

khúc mới sáng tác trên sóng phát thanh và truyền hình. Hầu hết, tác phẩm của các

nhạc sĩ được đông đảo nhân dân ái mộ.

49

Chi hội Mỹ thuật: Các họa sĩ Bắc Ninh luôn tích cực sáng tạo, khắc họa đậm

nét đời sống, nét văn hóa và con người Bắc Ninh - Kinh Bắc cũng như bản sắc văn

hóa của các vùng, miền khác trong cả nước. Tại Triển lãm khu vực hàng năm, đều có

sự tham gia của các họa sĩ Bắc Ninh. Chủ đề và tác phẩm mỹ thuật của các họa sĩ tỉnh

Bắc Ninh được nhìn nhận là sáng tạo, nhiều ý tưởng mới mang hơi thở của cuộc sống

đương đại.

Thành tích của chi hội được thể hiện ở số lượng tác phẩm được công bố.

Trong những năm qua, các họa sĩ, nhà điêu khắc trong Chi hội đã sáng tác gần 300

tác phẩm. Các tác phẩm được trưng bày trong các kỳ triển lãm khu vực và được là

ứng viên xét Giải thưởng hằng năm của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt

Nam, Hội Mỹ thuật Việt Nam. Nhiều tác phẩm của Bắc Ninh được chọn để triển lãm

tại thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó, 8 tác phẩm đoạt giải thưởng

VHNT tỉnh Bắc Ninh lần thứ Nhất.

Chi hội Nhiếp ảnh: Được xác định là mũi nhọn trong các hoạt động văn học,

nghệ thuật. Cùng với thời gian, chi hội Nhiếp ảnh được củng cố cả về tổ chức và hoạt

động. Với lòng đam mê và trách nhiệm, các nghệ sĩ đã bám sát địa bàn và những sự

kiện trọng đại trên cả nước nên đã cho ra đời nhiều tác phẩm đẹp, phản ánh sinh động

đời sống văn hóa, lao động, xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.

Hội VHNT tổ chức cuộc thi ảnh nghệ thuật “Nét đẹp miền Quan họ” đã thu

hút đông đảo các nghệ sĩ nhiếp ảnh trong tỉnh và những người yêu mến loại hình

nghệ thuật nhiếp ảnh tham gia. Cùng với các cuộc triển lãm tại tỉnh, Nhiếp ảnh Bắc

Ninh tham gia đầy đủ các cuộc triển lãm khu vực đồng bằng sông Hồng và một số

cuộc triển lãm ảnh toàn quốc và quốc tế. “Có 8 tác phẩm đoạt Giải thưởng VHNT

tỉnh Bắc Ninh lần thứ Nhất; 01 tác giả được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du

lịch tặng Bằng khen”[50, tr.27].

Bên cạnh đó, Hội VHNT tỉnh đã tạo điều kiện cho Chi hội đi thực tế sáng tác ở

các địa phương, như: Sơn La, Yên Bái, Cao Bằng và tham dự các trại sáng tác do Hội

Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức.

Chi hội Sân khấu: Hoạt động sân khấu chuyên nghiệp và không chuyên

nghiệp trên địa bàn tỉnh tiếp tục sôi động, tạo điều kiện cho các nghệ sĩ thể hiện tài

50

năng nghệ thuật của mình. Trong 20 năm, đội ngũ nghệ sĩ sân khấu trong tỉnh đã khắc

phục nhiều khó khăn đã có hàng trăm buổi biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị của

tỉnh, như: Đại hội Đảng các cấp, các cuộc bầu cử Đại biểu Quốc hội và Hội đồng

nhân dân các cấp; tại các ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn của quê hương, đất nước, tại các

lễ hội. Trong những năm qua nhiều nghệ sĩ đã đạt giải cao tại các cuộc Liên hoan,

Hội diễn chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp cấp tỉnh, khu vực và toàn quốc. Chi

hội có 9 tác giả với 24 tác phẩm (kịch, chèo, hoạt cảnh) được công bố và đạt giải. Có

11 đạo diễn với 20 tiết mục và vở diễn giành huy chương bạc; 15 học viên giành 26

huy chương bạc. Tham gia Giải thưởng VHNT tỉnh Bắc Ninh lần thứ Nhất đoạt 01

giải nhất, 02 giải nhì, 02 giải ba và 05 giải khuyến khích. Bên cạnh thành tựu đó còn

có 07 nghệ sĩ được Nhà nước trao tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú; 01 nghệ sĩ ưu tú được

phong tặng nghệ sĩ nhân dân.

Chi hội kiến trúc: Trong những năm qua , bám sát định hướng của tỉnh là xây

dựng Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào những năm 2020 theo

hướng văn minh, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa, hội viên Chi hội kiến trúc đã phát

huy tinh thần chủ động, sáng tạo tham gia tích cực và có hiệu quả vào các đồ án quy

hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị của các địa phương trong tỉnh.

Hoạt động của Chi hội kiến trúc đã góp phần thúc đẩy đô thị Bắc Ninh phát

triển đúng hướng, vừa đảm bảo tính hiện đại vừa giữ gìn không gian kiến trúc cổ

góp phần xây dựng đô thị Bắc Ninh văn minh, hiện đại, giàu bản sắc. Một trong

những hoạt động trên đó là các thành viên chi hội đã tham gia thực hiện đồ án “Quy

hoạch đô thị lõi Bắc Ninh; Quy hoạch vùng tỉnh Bắc Ninh; Quy hoạch phân khu

chức năng các huyện, thị xã, thành phố; đồ án thiết kế Cung Quy hoạch Kiến trúc

Bắc Ninh; Trung tâm văn hóa - thể thao thành phố Bắc Ninh và nhiều khu đô thị

khác”[50, tr 29].

Từ hoạt động của các chi hội, chúng ta nhận thấy Hội VHNT tỉnh Bắc Ninh

có quy mô, tổ chức hoạt động chặt chẽ. Hội đã thực hiên tốt nhiệm vụ tuyên truyền

trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Hội có vai trò quan

trọng trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới ở Bắc Ninh hiện nay.

51

2.2.2. Hội nhà báo

Hội Nhà báo Bắc Ninh được tách ra từ Hội Nhà Báo Hà Bắc vào năm 1997.

Hội trực thuộc lãnh đạo của UBND tỉnh Bắc Ninh và Trung ương Hội Nhà báo Việt

Nam. Hoạt động của Hội tuân theo pháp luật của Nhà nước và điều lệ của Hội.

Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh tập hợp, đoàn kết, động viên các nhà báo phát huy

khả năng sáng tạo, góp phần xây dựng báo chí Bắc Ninh thực sự là tiếng nói của Ðảng,

Nhà nước, của các tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân. Hội Nhà báo có nhiệm vụ

đẩy mạnh hợp tác và tham gia các tổ chức báo chí dân chủ, tiến bộ của các nước, khu

vực và quốc tế. Hoạt động của Hội góp phần tuyên truyền đường lối, chính sách đối

ngoại của Ðảng và Nhà nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội Nhà báo tỉnh đã xây dựng kế hoạch hoạt

động theo quý, theo năm tập trung hướng vào sự nghiệp đổi mới phát triển báo chí;

tham gia quản lý hoạt động báo chí; nâng cao chất lượng hoạt động, bồi dưỡng chính

trị nghiệp vụ cho những người làm báo; quản lý và phát triển hội viên….

Phối kết hợp với các cơ quan liên quan, trường đại học Khoa học xã hội và

nhân văn, Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh duy trì ổn định lớp đại học báo chí

văn bằng 2 tại Bắc Ninh nhằm đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ cho các phóng

viên, biên tập viên, cán bộ công nhân viên thuộc khối cơ quan báo chí ,đài phát thanh

cấp tỉnh, huyện, xã.

Hàng năm, số hội viên của Hội được bổ sung trên tinh thần tự nguyện tham gia

của các nhà báo. Số lượng hội viên của Hội trong trong tỉnh được thể hiện qua bảng

thống kê sau:

Bảng 2.3: Số lượng hội viên Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh (1997 - 2017)

Số hội viên Số chi hội và câu lạc bộ Năm

1997 1 11

2002 3 46

2007 5 86

2012 6 132

2017 8 177

(Nguồn: Tác giả thống kê từ [37], [49])

52

Qua bảng thống kê trên, chúng ta thấy số hội viên Hội nhà báo không ngừng

nhà tăng lên về số lượng. Bên cạnh việc quan tâm kết nạp hội viên mới, Hội đẩy

mạnh công tác giáo dục phẩm chất và năng lực chuyên môn của nhà báo. Trong 20

năm qua, hoạt động trong lĩnh vực báo chí dù đối mặt với nhiều tình huống nguy nan

song không có trường hợp hội viên vi phạm Quy định đạo đức nghề nghiệp của người

làm báo Việt Nam.

Các nhà báo của Hội luôn bám sát mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội trên

địa bàn tỉnh. Các chi hội, câu lạc bộ báo chí đã thường xuyên liên hệ, duy trì mối

quan hệ mật thiết với Hội và các cơ quan báo chí tỉnh, chủ động trong các mặt công

tác, tập hợp, đoàn kết hội viên trong sinh hoạt Hội, hoạt động nghiệp vụ, nhiều hội

viên, “ nhà báo đã có nhiều cố gắng, sáng tạo nhiều tác phẩm báo chí có chất lượng,

phong phú phục vụ bạn đọc, khán thính giả trong và ngoài tỉnh, góp phần thiết thực

vào công cuộc đổi mới báo chí địa phương” [49, tr.109].

Hội đã phối hợp với Báo Bắc Ninh, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh, tập

trung tuyên truyền phục vụ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI, XII của

Đảng; Cuộc bầu cử Đại biểu Quốc Hội và Hội đồng nhân dân các cấp các nhiệm kỳ;

tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, các phong trào thi đua chào mừng

các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước, của tỉnh; phản ánh kịp thời kết quả thực hiện

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh; triển khai thực hiện

các Nghị quyết của Trung ương, Đảng bộ tỉnh; Phát hiện và phản ánh tâm tư, nguyện

vọng của quần chúng, những vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội; tích cực tham gia

và kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, lãng phí và sự suy

thoái đạo đức, lối sống; thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, giữ vững ổn định

chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và phong trào xây dựng nông thôn mới…

Các sự kiện nổi bật quan trọng trong nước, quốc tế được các nhà báo phản ánh nhanh

nhạy, đúng định hướng chỉ đạo của Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội Nhà báo Việt

Nam, Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh và sự hướng dẫn của Ban Tuyên giáo

Tỉnh uỷ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp

vụ cho đội ngũ những người làm báo đã được Hội đặc biệt quan tâm thực hiện.Mỗi

53

năm Hội đã chủ trì phối hợp với các cơ quan báo chí của tỉnh đã tổ chức 03 lớp tập

huấn nghiệp vụ tuyên truyền về các chủ đề mang tính thời sự cấp bách cho các hội

viên. Ví như: Quán triệt, học tập triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội của Đảng

gắn với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh; triển khai thực hiện Chị thị

số 05 của Bộ Chính trị về “ đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh”; tổ chức học tập chuyên đề “ Những vấn đề cơ bản, cốt lõi về tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Phổ biến quán triệt, triển khai thực hiện

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII; Học tập, quán triệt Luật báo chí 2016;

đóng góp ý kiến xây dựng quy định đạo đức người làm báo Việt Nam…. Ngoài ra,

Hội đã làm tốt công tác phối hợp với Trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ Hội Nhà báo

Việt Nam cử hội viên, nhà báo tỉnh tham dự các lớp tập huấn nghiệp vụ do Trung tâm

tổ chức tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố trong khu vực.

Tiếp tục thực hiện việc “phát động sáng tác, quảng bá tác phẩm báo chí về

chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo kế hoạch của

Ban chỉ đạo cuộc vận động tỉnh, Hội đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan

báo chí tỉnh phát động, cổ vũ, động viên ý thức lao động sáng tạo của các hội viên,

nhà báo và những người làm báo trên địa bàn tỉnh” [37, tr.3], góp phần nâng cao

nhận thức của hội viên, nhà báo về quan điểm báo chí cách mạng, phong cách làm

báo, đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đội ngũ những người làm báo có

đạo đức trong sáng, nghiệp vụ giỏi phục vụ sự nghiệp phát triển báo chí của tỉnh,

đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương.

Từ năm 2015 - 2017, Hội nhà báo đã tổ chức biên tập, xuất bản, phát hành

định kỳ 18 số Đặc san “Người làm báo Bắc Ninh” (2 tháng/1 số) đảm bảo đúng kế

hoạch, không có sai sót về chính trị, tư tưởng. Hội đã xuất bản 20 số đặc biệt “ mừng

Đảng, mừng xuân, mừng quê hương Bắc Ninh đổi mới và phát triển”; “ chào mừng

ngày báo chí cách mạng Việt Nam”, cuốn Đặc san đã liên tục được đổi mới về hình

thức, nội dung, đảm bảo chất lượng, sát thực với yêu cầu nghề báo. Thông qua diễn

đàn Đặc san, các văn bản, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như những quyết

nghị của tỉnh Bắc Ninh thường xuyên được cập nhật. “Các bài viết có tính chất trao

đổi nghiệp vụ làm báo đã được đăng tải, phổ biến tới toàn thể hội viên, nhà báo và

54

các sở, ban, ngành, địa phương trong tỉnh, đồng thời Đặc san còn là nguồn tài liệu

trao đổi nghiệp vụ với các Hội Nhà báo các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước qua

đó đã góp phần khẳng định vị thế thế của Hội trong đời sống chính trị tại địa

phương” [49, tr.214].

Hướng tới kỷ niệm185 năm ngày thành lập tỉnh và 20 năm tái lập tỉnh Bắc

Ninh. Hội đã đề nghị và được UBND tỉnh cho phép biên tập, xuất bản, hoàn thành

cuốn sách “ Bắc Ninh với Biển đảo quê hương”.“Nội dung cuốn sách là tập hợp

những tác phẩm báo chí, ảnh, bài viết phản ánh về biển đảo, về Trường Sa, về những

cán bộ chiến sỹ quê Bắc Ninh đang ngày đêm bảo vệ biển đảo thiêng liêng của tổ

quốc do các hội viên, nhà báo đang công tác tại các cơ quan báo chí tỉnh thực hiện

khi được trực tiếp tham gia các đoàn công tác của tỉnh” [37, tr.4]. Thông qua việc

xuất bản, phát hành cuốn sách đã khẳng định sự quan tâm, hướng về biển đảo của

Đảng bộ, chính quyền, các tầng lớp cán bộ, nhân dân trong tỉnh. Hoạt động thực tiễn

của những người làm báo tỉnh tại các vùng biển đảo thiêng liêng của tổ quốc đã góp

phần nâng cao vị thế của Hội trong đời sống chính trị tại địa phương.

Hàng năm, Hội Nhà báo tỉnh đã tham dự Hội báo toàn quốc do Hội nhà báo

Việt Nam tổ chức, đồng thời tổ chức thành công Hội báo Xuân tỉnh Bắc Ninh, qua đó

đã tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Bắc Ninh, báo chí Bắc Ninh tới đông đảo độc giả

trong và ngoài nước khi có dịp du xuân tại Bắc Ninh. “Thông qua việc tổ chức Hội

báo xuân đã tạo nên một sinh hoạt văn hóa - báo chí lành mạnh trong dịp vui Tết đón

Xuân được lãnh đạo tỉnh, Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam, bạn đọc ghi nhận,

đánh giá cao. Đã thu hút được đông đảo độc giả trong và cả nước quan tâm” [37,

tr.5]. Kết thúc Hội báo xuân tỉnh và Hội báo toàn quốc, toàn bộ báo, ấn phẩm trưng

bày đã được Hội trao tặng cán bộ, chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nơi

biên giới, hải đảo và tặng các điểm bưu điện văn hóa xã ở vùng sâu, vùng xa trong

tỉnh nhằm thực hiện tốt hơn công tác đưa thông tin về cơ sở.

Hội đã thực hiện công tác phát động và tổ chức cho hội viên tham gia Giải báo

chí Quốc gia, Giải báo chí của các bộ, ngành Trung ương, địa phương tổ chức; tổng

kết Giải báo chí Ngô Gia Tự truyền thống của tỉnh. Năm 2015, Hội Nhà báo tỉnh đã

có tác giả có tác phẩm được lọt vào vòng xét chung khảo Hội thi báo toàn quốc.

55

Ngoài ra, tại Giải báo chí Đại đoàn kết toàn dân tộc do Trung ương Mặt trận tổ quốc

tổ chức và tại giải báo chí về tiết kiệm năng lượng do Bộ Công thương tổ chức Hội

Nhà báo tỉnh đã có tác giả đoạt giải nhì.

Thực hiện hỗ trợ sáng tạo tác phẩm báo chí chất lượng cao đúng đối tượng,

đúng mục đích là việc làm thiết thực nhằm khích lệ, động viên kịp thời những người

làm báo tỉnh, đồng thời tạo sự gắn bó giữa các Nhà báo, hội viên với tổ chức Hội. Hội

đã phối kết hợp với các cơ quan, đơn vị ngoài lĩnh vực báo chí nhằm đa dạng hóa các

hoạt động của Hội như: Phối kết hợp với Sở Khoa học và Công Nghệ tỉnh tổ chức

Hội Thảo “ Mạng xã hội với báo chí và người làm báo Bắc Ninh”; Hợp đồng tuyên

truyền với các ngành, địa phương đơn vị trong tỉnh trên Đặc san “Người làm báo Bắc

Ninh”. Những việc làm cụ thể trên đã mở ra một hướng mới trong công tác phối kết

hợp với các cơ quan liên quan nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động Hội.

Sự phối kết hợp giữa các chi hội, câu lạc bộ báo chí trực thuộc Hội được đẩy

mạnh. Hội Nhà báo tỉnh tổ chức hoạt động thiết thực như gặp mặt hội viên, tổ chức

các cuộc hội thảo, tập huấn nghiệp vụ, hoạt động văn nghệ, thể thao chào mừng ngày

Báo chí Việt Nam (21/6); Ngày truyền thống Báo Bắc Ninh; Ngày thành lập Phát

thanh và Truyền hình tỉnh với nội dung phong phú, thiết thực. Hội đã tổ chức cho hội

viên đi thực tế, giao lưu trao đổi nghiệp vụ với các Hội nhà báo các tỉnh Phú Thọ,

Vĩnh Phúc, Thái Nguyên…

Kế tục truyền thống kinh nghiệm của những tờ báo tiền thân và báo Hà Bắc

trước đây, “qua hơn 20 năm xây dựng Báo Bắc Ninh đã trưởng thành nhiều mặt, đội

ngũ Hội viên ngày càng tăng, trưởng thành, giàu bản lĩnh, sáng tạo, năng động bám

cơ sở; có nhiều bài viết có chất lượng và có tác dụng tốt trong định hướng dư luận và

đời sống xã hội” [37, tr.6]. Hội viên hội nhà báo Bắc Ninh đã phản ánh khách quan

và trung thực những nhân tố mới, con người mới, việc làm mới, gắn với thực tiễn

sinh động và phong phú trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh,

quốc phòng. Hội nhà báo Bắc Ninh đã đem lại hiệu quả nhiều mặt, khẳng định được

mối quan hệ khăng khít giữa Đảng và nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cầu

nối giữa Dân với Đảng, khơi dậy được niềm tin của đông đảo bạn đọc. Hội nhà báo

Bắc Ninh xứng đáng với phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà Nước trao tặng: Huân

56

chương lao động hạng Nhì năm 1997 và năm 2012; Huân chương lao động hạng Nhất

năm 2002; Trong 4 năm liên tiếp ( 1998 -2001) Hội dẫn đầu trong phong trào quần

chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc khối hành chính sự nghiệp Tỉnh. Thành tích thi đua

của Hội được khẳng định khi được Hội nhà báo Việt Nam tặng cờ Tập thể Hội xuất

sắc năm 2006 và năm 2016; Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen vì đã có thành tích

xuất sắc về nghiệp vụ và xây dựng Hội giai đoạn (2011 - 2016); Ngoài ra, Hội còn

được nhận nhiều Bằng khen của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh, của các bộ, ngành, đoàn thể

Trung ương tặng tập thể và cá nhân về thành tích tuyên truyền. Kết quả trên chứng

minh Hội nhà báo tỉnh Bắc Ninh đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, tinh

thần của Tỉnh. Hội đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình.

2.2.3. Hội Luật gia

Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh được thành lập vào tháng 6 năm 2001. Hội là

thành viên thành viên của Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật tỉnh Bắc Ninh và của

Hội Luật gia Việt Nam.

“Hội Luật gia Bắc Ninh đoàn kết, tập hợp rộng rãi các luật gia đã và đang làm

công tác pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị -

XH - NN, tổ chức kinh tế, tổ chức văn hóa, tổ chức giáo dục, đơn vị vũ trang nhân

dân, công an nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh; tự nguyện hoạt động vì sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân, góp phần xây dựng nền

khoa học pháp lý, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” [61; tr.1].

Hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, dân chủ, bình

đẳng, công khai minh bạch, tự đảm bảo kinh phí hoạt động từ nguồn hỗ trợ của nhà

nước và các nguồn thu hợp pháp khác, không vì mục đích lợi nhuận, tuân thủ Hiến

pháp, pháp luật. Điều lệ Hội đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh có nhiệm vụ đóng góp ý kiến vào các dự án

luật, các văn bản quy phạm pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tham gia các

Hội đồng tư vấn giải quyết khiếu nại của UBND tỉnh Bắc Ninh; Hội tham gia một

số hoạt động quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật, trợ giúp pháp lý, phản

biện và giám định xã hội theo đề nghị của cơ quan nhà nước; Hội bảo vệ quyền và

57

lợi ích hợp pháp của hội viên, giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp

luật và Điều lệ Hội.

Năm 2001, thời điểm mới thành lập số lượng hội viên tham gia Hội có 28

người. Sau đại hội lần thứ nhất tháng 8- 2004, Hội đã mở rộng chi nhánh và có 3 cơ

sở Hội cấp huyện, số lượng hội viên tham gia có 400 người. Sau chỉ thị số 23/CT -

BTV Tỉnh ủy ngày 13-09-2012, Hội Luật gia các cấp trong tỉnh luôn được sự quan

tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, UBND các huyện, thành phố, thị xã công tác

xây dựng tổ chức hội, phát triển. Tháng 10 - 2012, Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh được

công nhận là Hội đặc thù, có chủ tịch Hội chuyên trách, được bổ sung biên chế, có

kinh phí hoạt động thường xuyên. Trong những năm qua, Hội Luật gia cấp tỉnh và

Hội Luật gia cấp cơ sở được kiện toàn, phát triển, tổ chức chức chặt chẽ, số lượng hội

viên đông đảo.

Đến tháng 7 - 2015, tổ chức Hội cấp Huyện có 8/8 huyện, thành phố, thị xã, 07

chi Hội trực thuộc Hội Luật gia tỉnh và 64 chi Hội Luật gia cấp huyện. Hội viên Hội

Luật gia luôn phát triển về số lượng và chất lượng, toàn tỉnh hiện nay (2017) có 870

Luật gia [31; tr.3].

Tham gia vào hoạt động chính trị tỉnh, các hội viên Hội Luật gia đã đóng góp

ý kiến cho trên 110 dự thảo luật, văn bản dưới Luật có nội dung quan trọng, như:

“Dự thảo Hiến pháp 2013 và dự thảo Luật Đất đai 2013, Bộ Luật dân sự (sửa đổi),

Bộ Luật hình sự (sửa đổi), Luật Hôn nhân gia đình (sửa đổi), Luật tổ chức Chính phủ

(sửa đổi), Luật tổ chức chính quyền địa phương; Luật xử lý vi phạm hành chính; Luật

quy hoạch; Luật trợ giúp pháp lý (sửa đổi),…” [31, tr.5]. Những ý kiến tham gia có

chất lượng, chiều sâu, thể hiện tính chuyên môn cao của những người làm luật. Nội

dung ý kiến đóng góp xây dựng pháp luật của các cấp Hội được tổng hợp báo cáo tại

Hội Luật gia Việt Nam, Đoàn đại biểu Quốc hội và đệ trình lên Ủy ban thường vụ

Quốc Hội.

Đối với công tác thẩm định văn bản của các địa phương, “các Luật gia đã

đóng góp vào trên 350 lượt dự thảo văn bản Quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân

dân” [31, tr.3], UBND tỉnh đã ban hành góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản

lý hành chính trên địa bàn toàn tỉnh.

58

Từ năm 2015 đến nay, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc

Ninh, theo chức năng và nhiệm vụ Hội Luật gia tỉnh đã tham gia phản biện các văn bản

quy phạm pháp luật của địa phương ban hành trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và đời

sống xã hội. Cụ thể Hội đã tham gia phản biện các văn bản như: Quy hoạch thiết chế văn

hóa của Tỉnh, quy định về quy chế hợp tác xã, quy chế xét tặng danh hiệu nghệ nhân

trong tỉnh,…. Ý kiến phản biện để góp phần nâng cao chất lượng ban hành văn bản của

địa phương đúng với trình tự thủ tục, nội dung, thẩm quyền của địa phương.

Công tác tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được Hội xác định là

nhiệm vụ quan trọng đưa pháp luật vào cuộc sống nhân dân ở cơ sở. Công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần bám sát nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, gắn việc

tuyên truyền văn bản pháp luật mới với nhiệm vụ chính trị ở địa phương ví như: Đại

hội Đảng bộ các cấp; Những ngày kỷ niệm lớn của đất nước. Trong quá trình hoạt

động, từ năm 2001 đến năm 2017, Hội Luật gia tỉnh và Hội Luật gia các cấp đã tổ

chức tuyên truyền pháp luật khoảng 956 lượt dưới hình thức tổ chức tuyên truyền tại

cơ sở hoặc cổ động, cấp phát tờ rơi về pháp luật tới từng người dân và các hộ gia

đình. Nội dung tuyên truyền đã phổ biến kịp thời văn bản pháp luật mới, như: Hiến

pháp 2013, Luật Đất đai 2013, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật phòng chống tham

nhũng, Luật Hôn nhân gia đình, Luật hòa giải ở cơ sở 2014 và những văn bản pháp

luật khác phù hợp với tình hình của từng địa phương, đáp ứng kịp thời nhu cầu tìm

hiểu pháp luật của cán bộ và nhân dân. Riêng “Hội Luật gia tỉnh 17 năm qua đã thực

hiện 179 buổi tuyên truyền pháp luật cho hơn 8000 người tham dự” [31, tr.5]. Thông

qua tuyên truyền pháp luật, Hội còn cấp phát tờ rơi về pháp luật và tư vấn tại chỗ

những vướng mắc về pháp luật theo yêu cầu của địa phương và tập trung vào văn bản

pháp luật mới, trong đó có luật trưng cầu ý dân cũng được nhân dân ở cơ sở quan

tâm. Bên cạnh đó, Hội Luật gia tỉnh còn phối hợp với trại giam tỉnh Bắc Ninh tuyên

truyền cho phạm nhân sắp hết hạn tù tái hòa nhập cộng đồng theo chương trình của

Hội Luật gia Việt Nam. Trong hai năm 2015, 2016 Hội đã tổ chức tuyên truyền 8 đợt

cho hơn 430 người tham dự. Ngoài ra, Hội Luật gia cấp huyện đã phối kết hợp với

các ngành liên quan tổ chức hàng chục buổi sinh hoạt chuyên đề gắn với tuyên truyền

pháp luật cho nhân dân ở cơ sở.

59

Trong công tác tuyên truyền, Hội đã triển khai cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến

pháp mới Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” năm 2013. Hội viên Hội Luật gia

tỉnh đã tham gia 100%, các bài thi đều đảm bảo chất lượng.

Trong quá trình thực hiện công tác tuyên truyền Hội bám sát chỉ thị số 32/CT-

TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tuyên truyền phổ biến giáo

dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ Đảng viên và nhân

dân ở xã phường, thị trấn; Từ quyết định 1133/QĐ-TTg thực hiện xã hội hóa công tác

phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý giai đoạn 2012 - 2016, Hội Luật gia

tỉnh tiếp tục thực hiện công tác này theo quyết định số 705/QĐ-TTg ngày 25/05/2017

của Thủ tướng Chính phủ và kế hoạch số 215/KH-HLG ngày 10/08/2017 của Hội

Luật gia Việt Nam. Hội tiếp tục triển khai đề án xã hội hóa công tác phổ biến giáo

dục pháp luật hướng đến năm 2021.

Cùng với việc tuyên truyền các văn bản pháp luật mới, Hội Luật gia các cấp

trong tỉnh đã triển khai có hiệu quả Ngày pháp luật Việt Nam theo quy định của pháp

luật phổ biến giáo dục pháp luật 2012. Chi hội Luật gia tòa án, Viện kiểm sát tỉnh và

Tòa án, Viện kiểm sát cấp huyện luôn gắn tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân

dân thông qua các phiên tòa xét xử án điểm, xét xử lưu động, mang lại hiệu quả trong

đấu tranh phòng ngừa vi phạm pháp luật và phòng chống tội phạm.

Hoạt động tư vấn pháp luật là một nhiệm vụ được Hội Luật gia . Trung tâm Tư

vấn pháp luật của Hội được kiện toàn, đồng chí Phó Chủ tịch Hội cũng là giám đốc

trung tâm, giúp việc cho giám đốc có 3 tư vấn viên được bổ nhiệm. Công tác tư vấn

của Hội được mở rộng, ngoài việc tư vấn tại trụ sở, trung tâm còn kết hợp tư vấn

trong các cuộc tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở, những vướng mắc

của nhân dân được giải đáp kịp thời. “Trung tâm tư vấn của Hội cùng các hội viên

Hội Luật gia tỉnh ở các ngành: Tư pháp, Kiểm soát, Tòa án, Thanh tra, Thi hành án,

Văn phòng tiếp công dân của tỉnh đã tư vấn trên 2500 trường hợp trong các lĩnh vực

hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai, nhà ở,….” [31, tr 4].

Công tác hòa giải trong vụ việc ở cơ sở xã phường, thị trấn có vai trò quan

trọng của các hội viên Hội Luật gia. Các hội viên tham gia giải quyết các vụ việc liên

60

quan đến lĩnh vực tranh chấp Dân sự, Hôn nhân gia đình. Hội viên Hội Luật là những

cán bộ của Tòa án, Viện Kiểm sát, Tư pháp đã phối hợp với các tổ hòa giải cơ sở giải

quyết có hiệu quả các vụ việc theo pháp luật. Nội dung và kết quả xử lí vụ việc thỏa

đáng đảm bảo đoàn kết trong cộng đồng dân cư, hạn chế vi phạm pháp luật, không để

việc nhỏ thành việc lớn góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nhân dân, bảo

đảm trật tự an toàn xã hội.

Nhìn chung, Hội Luật gia đã tích cực tham gia đóng góp hoàn thiện văn bản

pháp luật của Trung ương, của tỉnh. Hội cũng tích cực thực hiện phổ biến, giáo dục

và tư vấn pháp luật, tham gia cải cách tư pháp, xây dựng Đảng, chính quyền và phản

biện xã hội. Qua đó, góp phần vào ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự trên địa

bàn và xây dựng tỉnh Bắc Ninh giàu đẹp văn minh.

2.2.4. Hội khuyến học

Sau 3 năm tái lập tỉnh, ngày 10/07/2000, Uỷ ban nhân dân tỉnh ký quyết định

số 69/2000/QĐ - UBND về việc thành lập Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh. Hội là tổ

chức xã hội, tập hợp các lực lượng xã hội và công dân Việt Nam tâm huyết với sự

nghiệp giáo dục, khuyến học, khuyến tài, góp phần xây dựng Bắc Ninh thành một xã

hội học tập, nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài và phát triển KT - XH của tỉnh

Bắc Ninh.

Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh hoạt động theo quy định của pháp luật và Điều

lệ Hội. Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết hội viên và lực lượng xã hội đẩy mạnh các

hoạt động khuyến học, khuyến tài thực hiện công bằng xã hội và tạo cơ hội cho mọi

công dân được học tập thường xuyên, học suốt đời nâng cao trình độ chuyên môn,

nghề nghiệp góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát

triển KT - XH đất nước. Hội cũng liên kết, phối hợp với các tổ chức, các lực lượng xã

hội, các cơ sở giáo dục triển khai các hoạt động khuyến học khuyến tài, xây dựng xã

hội học tập theo tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo trên phạm

vi cả nước.

Hội Khuyến học còn khuyến khích người lao động có sáng kiến đóng góp hiệu

quả cho sự nghiệp xây dựng và phát triển KT - XH của đất nước; hỗ trợ học bổng cho

61

học sinh nghèo, phần thưởng cho học sinh giỏi có thành tích cao trong học tập và tu

dưỡng,phát triển các hình thức học tập để hỗ trợ và khuyến khích việc học tập của thế

hệ trẻ và người đã trưởng thành theo quy định của pháp luật, kiến nghị với các cơ

quan nhà nước có thẩm quyền hoạch định chính sách tạo động lực cho các hoạt động

khuyến học của Hội. Hội cũng thúc đẩy quan hệ, hợp tác với các tổ chức trong và

ngoài nước để trao đổi kinh nghiệm và học tập lẫn nhau về đào tạo, nghiên cứu khoa

học, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, hội thảo, hội nghị, tham quan học tập, tư vấn

và cung ứng dịch vụ đào tạo.

Trong quá trình hoạt động, Hội được phép nhận các nguồn tài trợ hợp pháp

của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và được

gây quỹ trên cơ sở hội phí của hội viên.

Đến năm 2017, hội có 297.994 hội viên chiếm 25,8% dân số gấp hơn 10 lần so

với ngày thành lập. Đồng thời với việc tăng nhanh về số lượng hội viên, các cấp hội

cũng chuyển biến nhanh về chất lượng và nội dung hoạt động. Mười bảy năm, Hội

Khuyến học các cấp liên tục, kiên trì tập trung nhiều nguồn lực, công sức, tổ chức

nhiều hoạt động hỗ trợ các nhà trường và ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng

giáo dục và đưa phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập tỉnh

đứng trong tốp 10 toàn quốc. Như vậy trong những năm qua, Hội Khuyến học Bắc

Ninh đã nỗ lực hoạt động và đạt nhiều thành tích.

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm là hội phối hợp với các tổ chức, các lực

lượng xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm trao tặng 6766 lượt học sinh, với

tổng số tiền: 5.130.900.000 đồng. Hội đã trao tặng nhiều phần quà có giá trị đến với

những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, như: Tặng xe lăn cho học sinh khuyết tật;

tặng xe đạp, quần áo, thuốc bổ cho học sinh nghèo; Tặng quà tết cho học sinh mồ côi,

trao tặng học bổng cho học sinh nghèo vượt khó học giỏi, học sinh đỗ thủ khoa được

vinh danh trên đất học Kinh Bắc. Hoạt động của Hội được hiển thị qua các số liệu

thống kê sau:

62

Bảng 2.4: Số lượng học bổng trao hàng năm của Hội Khuyến học Bắc Ninh

Số học Quỹ khuyến học Bình quân/ STT Năm Tổng số tiền bổng toàn tỉnh người

735 1 2013 735.000.000đ 35.494.000.000đ 32.267đ

878 2 2014 1.139.500.000đ 36.000.000.000đ 32.142đ

941 3 2015 1.021.000.000đ 39.337.000.000đ 35.122đ

849 4 2016 883.200.000đ 39.800.000.000đ 35.222đ

5 2017 1.110 1.272.000.000 đ. 59.781.000.000đ 52.652đ

(Nguồn: Tác giả thống kê từ [27] và [39])

Bảng 2.5: Số lượng học bổng, quà của Hội Khuyến học Tỉnh

trao tặng (2011 - 2017)

Số học sinh nhận Thành tiền Năm học bổng (tiền mặt) Số học sinh nhận quà (đồng) 1 triệu đồng/ suất

-Trao 759 thẻ bảo hiểm Phúc học 2011 770 suất 1.529.000.000 đường (1em/1 chiếc/ thẻ)

2012 562 suất 562.000.000

- Trao 25xe lăn (1em/1 chiếc/ 2,5 triệu)

2013 735 suất - Trao 500 áo sơ mi (1em/ 1 áo/100 847.500.000

nghìn)

-Trao 500 áo sơ mi (1 em/ 1 áo/ 100

nghìn) 1.139.500.000 2014 878 suất

- Trao 45 xe đạp (1 em/1 chiếc /1 triệu)

- Trao 192 suất quà nhân dịp tết Ất Mùi 1.021.000.000 2015 941 suất (1 em/ suất/ 400 nghìn)

- Trao 229 suất quà nhân Tết Bính Thân 237.600.000 2016 144 suất (1 em/ suất/ 400 nghìn)

- Trao 256 suất quà nhân dịp tết Đinh 227.400.000 2017 123 suất Dậu (1 em/ suất/400 nghìn)

(Nguồn: Tác giả thống kê từ [27] và [39])

63

Những hoạt động này đã góp phần mang lại sự công bằng trong trong học tập,

tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có cơ hội

đi học thúc đẩy phát huy truyền thống hiếu học của tỉnh Bắc Ninh.

Xây dựng xã hội hài hòa, xã hội học tập theo chủ trương của Đảng, Hội

Khuyến học các cấp đã phối hợp với ngành giáo dục, đào tạo đẩy mạnh phát triển hệ

thống Trung tâm học tập cộng đồng ở các xã, phường, thị trấn. Đến nay, toàn tỉnh có

126 xã, phường, thị trấn đã thành lập trung tâm học tập cộng đồng đạt 100% với nội

dung chất lượng ngày càng linh hoạt, tiến bộ mang lại hiệu quả thiết thực trong việc

truyền đạt kiến thức khoa học kỹ thuật mới trong nhân dân.

Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo là

quốc sách hàng đầu, “Hội Khuyến học các cấp giữ vai trò hết sức quan trọng góp

phần “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài”. Mười bẩy năm qua

các mô hình “Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu học”, cơ quan, đơn vị, cộng đồng

khuyến học đã thực sự khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học của nhân dân tỉnh

Bắc Ninh” [39, tr.6]. Xây dựng phong trào học tập toàn dân ở Bắc Ninh là sự sáng

tạo độc đáo của Hội Khuyến học, mang đậm nét truyền thống lấy tư tưởng học tập

suốt đời của chủ tịch Hồ Chí Minh làm nền tảng, kết hợp với xu thế của thời đại để

thực hiện chủ trương của Đảng “Xây dựng cả nước trở thành một xã hội học tập”.

Từ khi thành lập Hội Khuyến học tỉnh đã 2 lần tổ chức Hội nghị biểu dương

“Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu học”, “Cơ quan, đơn vị, trường học, cộng đồng

khuyến học”; 2 lần tổ chức Đại hội thi đua khuyến học, phối hợp với Sở giáo dục -

đào tạo tổ chức sơ kết 5 năm, 10 năm hoạt động của trung tâm học tập cộng đồng.

“Năm 2014, trên cơ sở “Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu học”, cơ quan, đơn vị,

trường học, cộng đồng khuyến học, chỉ đạo chuyển mô hình thành “Gia đình học

tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”. Đến năm 2015 triển khai tổng kết

thí điểm mô hình “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập” [39,

tr.4]. Hội nghị đã vinh danh những gương mặt tiêu biểu trong phong trào. Khen ngợi,

nêu gương là biện pháp khuyến khích, động viên toàn dân làm giáo dục, toàn dân

tham gia khuyến học và học tập suốt đời.

Thành quả đó là kết quả của sự kết tinh của nhiều yếu tố, trước hết là truyền

thống hiếu học, khuyến học của quê hương Kinh Bắc nơi sản sinh ra “Một giỏ ông đồ”,

64

“Một bồ ông Cống”, “Một đống Trạng Nguyên”, “Một thuyền Bảng Nhãn”. Nơi có

những chiếc nôi khoa bảng như: Kim Chân (Bắc Ninh), Vọng Nguyệt, Tam Giang

(Yên Phong), Tam Sơn, Hương Mạc (Từ Sơn), Chi Lăng (Quế Võ), Liên Bão (Tiên

Du), Lâm Thao (Lương Tài), Đại Lai, Đông Cứu (Gia Bình), An Bình (Thuận

Thành),… đã đi vào lịch sử nền giáo dục nước nhà. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia,

nguyên khí mạnh thì thế nước mạnh và hưng thịnh” vì thế, ngay sau cách mạng tháng

Tám, Bác Hồ đã chỉ ra ba thứ giặc cần tiêu diệt là: “Giặc đói, giặt dốt và giặc ngoại

xâm”, phong trào diệt giặc dốt hình thành từ đó. Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí

Minh, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương khơi dậy, phát huy truyền thống hiếu học

của dân tộc, động viên toàn dân học tập, vai trò của giáo dục càng trở thành yếu tố then

chốt quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Hội Khuyến học là cầu nối, tham mưu tổ chức thực hiện nhiệm vụ quan trọng

này trong những năm qua. Hội chủ động xây dựng các chương trình phối hợp với Sở

giáo dục và đào tạo tỉnh, công đoàn, Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Báo Bắc Ninh,… tập

trung vào các nội dung: Tuyên truyền, vận động xây dựng tổ chức Hội, phát triển hội

viên, tổ chức các hoạt động hỗ trợ giáo dục trong và ngoài nhà trường, nhân rộng

phong trào Tiếng trống khuyến học ở Phú Mẫn - Yên Phong thành “Tiếng trống

khuyến học” trên địa bàn toàn tỉnh, chỉ đạo Hội Khuyến học các cấp vận động xây

dựng “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Đơn vị học tập”, “Cộng đồng học tập”

vận động xây dựng quỹ khuyến học. Nhiều Hội Khuyến học đã chủ động xây dựng

mô hình đề án thành lập quỹ khuyến học huyện như: Quỹ khuyến học Phạm Văn Trà,

quỹ khuyến học Nguyễn Cao của huyện Quế Võ, quỹ khuyến học Lê Văn Thịnh của

huyện Gia Bình, quỹ khuyến học dòng họ Dương (Bắc Ninh), quỹ khuyến học công

ty Khai Sơn của huyện Thuận Thành,…. Nhờ có quỹ khuyến học, hoạt động của hội

đã có chiều sâu, đem lại hiệu quả thiết thực.

Công tác tuyên truyền về chủ trương đường lối phát triển khuyến học, khuyến

tài xây dựng xã hội học tập được đề cập trên nhiều nguồn thông tin đại chúng. Việc

nêu gương tập thể và cá nhân tiêu biểu trong phong trào học tập, trong phong trào

khuyến học, khuyến tài được đăng tải trên báo Bắc Ninh, đài phát thanh và truyền

hình tỉnh cũng như đài phát thanh ở các địa phương.

65

Nhân kỷ niệm 15 năm ngày thành lập Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh, Hội

Khuyến học đã tổ chức cuộc thi sáng tác văn học về phong trào khuyến học, khuyến

tài đồng thời in tập thơ, văn “Nhịp cầu khuyến học” đã góp phần quan trọng nâng cao

nhận thức cho mọi người dân về tầm quan trọng của khuyến học, khuyến tài và ý thức

tham gia xây dựng phong trào học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập. Năm 2016,

Hội đã triển khai đại trà các mô hình học tập và đánh giá công nhận danh hiệu “Gia

đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Đơn vị học tập”, “Cộng đồng học tập”.

Bài học kinh nghiệm lớn nhất, quan trọng nhất xuyên suốt 17 năm qua của Hội

là “Hội Khuyến học các cấp phải thường xuyên chủ động tích cực tham mưu cho các

cấp ủy, chính quyền, quy tụ được các lực lượng xã hội năng động, sáng tạo trong

công tác, kiên trì chỉ đạo và đúc rút được các việc làm hay, động viên ken thưởng kịp

thời” [39, tr 7]. Hội Khuyến học tỉnh đã được nhận nhiều Bằng khen của Uỷ ban

nhân dân tỉnh, nhiều Bằng khen của trung ương Hội và 7 cờ thi đua xuất sắc của

Trung ương Hội. Năm 2011, Hội được Thủ tướng chính phủ tặng Bằng khen. Năm

2013, đã được Nhà nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba.

Mười bảy năm chưa phải là dài, nhưng thời gian cũng đủ để Hội Khuyến học

tỉnh Bắc Ninh trưởng thành và lớn mạnh. Bên cạnh những thành tựu đạt được, Hội

cũng đã có những bài học kinh nghiệm để tiếp cận nhanh hơn, lập thành tích cao hơn

trong công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng quê hương Bắc Ninh giàu đẹp, văn

minh, đậm đà bản sắc dân tộc.

2.2.5. Hội cựu giáo chức

Hội CGC tỉnh Bắc Ninh được thành lập ngày 19-11-2004 theo Quyết định số

182/2004/QĐ - UB của UBND tỉnh Bắc Ninh. Hội CGC tỉnh Bắc Ninh là tổ chức XH

- NN của những người trước đây đã là nhà giáo, cán bộ, nhân viên trong tất cả các

trường học, các cơ sở và cơ quan giáo dục đào tạo. Hội thành lập nhằm bảo vệ quyền

lợi và lợi ích hợp pháp của hội viên, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng,

năng lực trí tuệ và phẩm chất tốt đẹp của nhà giáo, tiếp tục góp phần thực hiện chiến

lược phát triển giáo dục và đào tạo phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì

mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. “Hội CGC

tỉnh Bắc Ninh là thành viên của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Bắc Ninh. Hội chịu

66

sự quản lý nhà nước của Sở Giáo dục và đào tạo, các sở, ngành có liên quan và được

sự bảo trợ của Công đoàn ngành Giáo dục tỉnh Bắc Ninh” [57, tr 2].

Hội có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết đội ngũ CGC trong tỉnh, phát huy tiềm

năng trí tuệ hội viên tham gia hoạt động giáo dục - đào tạo. Hội đề xuất kiến nghị

Hội CGC tỉnh Bắc Ninh đã trải qua 3 nhiệm kỳ Đại hội: 2005 - 2009; 2009 -

2014; 2014 - 2019. Hiện tại, Hội có 13 chi hội trực thuộc ở cấp huyện, thị xã, thành

phố và ở các trường Trung học, Cao đẳng, Đại học trên địa bàn tỉnh. Khi mới thành

lập (năm 2004) Hội có 3.138 hội viên, đến năm 2017, tổng số hội viên là 7.119 người

chiếm tỷ lệ trên 97% số cán bộ, giáo viên đã nghỉ hưu, trung bình mỗi năm kết nạp

được khoảng 300 hội viên [34; tr.4].

Nề nếp sinh hoạt của Ban Chấp hành, Ban thường vụ, thường trực Hội các cấp

và toàn thể hội viên các chi hội tiếp tục được duy trì theo đúng quy định của Điều lệ.

Sinh hoạt ở nhiều Hội, chi hội được đổi mới theo hướng thiết thực, phù hợp với tâm

tư, tình cảm Nhiệm vụ chăm lo đời sống tinh thần, vật chất của hội viên được duy trì

thường xuyên đạt kết quả tốt, góp phần động viên hội viên sống vui, khỏe, mẫu mực,

nhân ái có quan hệ tốt với đồng nghiệp và cộng đồng.

Việc tổ chức chúc thọ, mừng thọ cho các hội viên cao tuổi gồm những hội

viên 70 tuổi, 75 tuổi, 80 tuổi, 85 tuổi, 90 tuổi,… là một nét đẹp văn hóa được duy

trì nhiều năm.

Bảng 2.6: Số lượng hội viên Hội CGC được chúc thọ

Số lượng hội viên được chúc thọ Năm

2005 98

2010 203

2015 477

2017 698

(Nguồn: Tác giả thống kê [13], [23], [34])

Nhìn vào bảng trên chúng ta thấy số lượng hội viên Hội CGC được chúc thọ

ngày càng tăng. Riêng trong năm 2017, có 698 hội viên được chúc thọ, mừng thọ,

trong đó các huyện, thị xã, thành phố và các chi hội tổ chức thăm, chúc thọ các hội

viên cao tuổi với số lượng cao là: thành phố Bắc Ninh có 112 hội viên, Lương Tài có

67

95 hội viên, Tiên Du có 82 hội viên, cao đẳng Thống Kê có 6 hội viên, trường chính

trị Nguyễn Văn Cừ có 5 hội viên.

Hoạt động thăm hỏi, động viên, giúp đỡ khi hội viên gặp ốm đau, hoạn nạn

cũng được duy trì tốt đẹp những năm qua đã làm đẹp thêm tình người, tình đồng

nghiệp trong mỗi Hội, Chi hội, mỗi suất quà là 1 000 000 đồng/người. Các đơn vị tổ

chức tốt hoạt động này là thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn, huyện Thuận Thành,

trường cao đẳng Thống Kê, trường cao đẳng sư phạm Bắc Ninh. Việc trợ cấp, giúp

đỡ cho hội viên có hoàn cảnh khó khăn được các cấp Hội quan tâm. Tính trung bình

mỗi năm có khoảng 80 hội viên có hoàn cảnh khó khăn được trợ cấp với số tiền là 4

000 000 đồng/năm/1 hội viên. Các Chi hội thực hiện tốt là: huyện Thuận Thành,

huyện Lương Tài, thành phố Bắc Ninh, huyện Yên Phong, huyện Tiên Du.

Thực hiện “Quy định tổ chức tang lễ khi hội viên Hội CGC qua đời” được ký

kết giữa Sở giáo dục - đào tạo, công đoàn giáo dục tỉnh và Hội CGC tỉnh, các cấp hội

tiếp tục tổ chức tang lễ cho hội viên qua đời một cách chu đáo, trang trọng, nghĩa tình

và thăm viếng thân nhân của hội viên kịp thời, chu đáo. Việc thăm viếng mỗi một hội

viên qua đời hoặc thân nhân của hội viên là:1.200.000 đồng/1 người.

Để tạo nguồn lực cho việc tổ chức chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho

hội viên, “các cấp Hội tiếp tục coi trọng công tác động viên, tạo sự đồng thuận trong

hội viên và vận động các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội ủng hộ kinh phí xây dựng quỹ

tình nghĩa Hội CGC” [34, tr.5]. Các huyện có tổng quỹ cao nhất năm 2017 là: Quế

Võ 388 triệu đồng, Yên Phong 310 triệu đồng, Tiên Du 211 triệu đồng. Các huyện có

bình quân quỹ đầu người cao là: Lương Tài 600 000 đồng/người, các Hội CGC cơ sở

có quỹ bình quân đầu người cao là: Phú Lương (Lương Tài) 1 500 000 đồng/ người,

Mộ Đạo (Quế Võ) 1 500 000 đồng/người [34; tr.7].

Các hoạt động để nâng cao đời sống tinh thần cho hội viên thông qua các Câu

lạc bộ: thơ ca, dân ca, chèo, quan họ, thể dục thể thao, khiêu vũ, dưỡng sinh và tổ

chức tham quan du lịch. Toàn tỉnh có 8 câu lạc bộ thơ nhà giáo Việt Nam của Hội

huyện, thị xã, thành phố hoạt động, câu lạc bộ thơ của tỉnh Hội được củng cố. Huyện

Tiên Du có câu lạc bộ quan họ của huyện Hội và 9 câu lạc bộ quan họ của các hội cơ

sở có các đội văn nghệ tham gia tập luyện và giao lưu, 13 câu lạc bộ thể dục thể thao,

68

dưỡng sinh. Huyện Lương Tài có 100% các Hội CGC cơ sở có các đội văn nghệ tham

gia tập luyện và giao lưu, huyện Quế Võ có 33 câu lạc bộ văn nghệ, thể dục thể

thao,… Các câu lạc bộ thơ, văn nghệ, thể dục thể thao của các cấp Hội diễn ra sôi

nổi, thiết thực, huy động được hơn 60% hội viên trong tỉnh tham gia tập luyện thi đấu

và giao lưu.

Hoạt động tham quan du lịch, đặc biệt là loại hình du lịch tâm linh và du lịch

danh lam thắng cảnh kết hợp với giao lưu học hỏi kinh nghiệm Hội bạn được chú

trọng, như: Hội CGC tỉnh tổ chức Ban Chấp hành Hội và chủ tịch các Hội, các Chi

hội trực thuộc tổ chức giao lưu với Hội CGC Bắc Giang và các huyện Tân Yên, Yên

Thế; du lịch Sầm Sơn - Thanh Hóa, Hội CGC Yên Phong tổ chức tham quan du lịch

ở Quảng Bình và viếng mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hội CGC Quế Võ tổ chức

tham quan Ba Vàng và giao lưu với Hội CGC Quảng Ninh, Chi hội trường Cao

đẳng Thống kê tổ chức tham quan du lịch Đền Hùng và Tây Thiên, Hội CGC Từ

Sơn tham quan Kiếp Bạc và giao lưu với Hội CGC Hải Dương, Chi hội trường Cao

đẳng sư phạm Bắc Ninh tham quan Đền Đô, Phật Tích, Đền thờ Lê Văn Thịnh và

Lệ Chi Viên, ….

Trong 13 năm qua, các cấp Hội tiếp tục động viên, khuyến khích và tổ chức

hội viên tham gia các hoạt động chính trị - xã hội, như: Hội CGC tỉnh đã có văn bản

“Hướng dẫn thực hiện tham gia xây dựng chính quyền của Hội CGC các cấp tỉnh Bắc

Ninh”, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là: Tham gia các hoạt động bầu cử Hội đồng

nhân dân các cấp và bầu cử Quốc hội các khóa. Văn bản đã được các cấp quán triệt

và triển khai thực hiện tích cực đến các hoạt động; Tuyên truyền sự thành công của

Đại hội Đảng các cấp, tuyên truyền cho các nội dung và hoạt động bầu cử, tham gia

tích cực và có trách nhiệm các hội nghị hiệp thương để lựa chọn các ứng cử viên, vận

động nhân dân tham gia bầu cử đông đủ.

Các cấp Hội và hội viên tiếp tục tham gia nhiệt tình và có trách nhiệm vào các

phong trào và các cuộc vận động ở địa phương như: Cuộc vận động xây dựng nông

thôn mới, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương,… và phong trào

toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, tham gia và tuyên truyền phong

trào lớn ở địa phương, gương mẫu cùng gia đình chấp hành tốt các chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương.

69

Trong quá trình hoạt động, Hội CGC tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức phát động các

đợt thi đua và xây dựng kế hoạch tổ chức các hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn

của đất nước, của tỉnh Bắc Ninh, chào mừng các kỳ Đại hội Đảng các cấp. Ở cấp

huyện, thị xã, thành phố cũng phát động các đợt thi đua nhân ngày kỷ niệm thành lập

Hội, tham gia tích cực các hoạt động của các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp

và bầu cử Quốc hội khóa XII, XIII, XIV, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

hội viên.

Từ năm 2004 đến năm 2017, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Hội, các cấp ủy

Đảng, chính quyền, ngành giáo dục và các đoàn thể xã hội, Hội CGC tỉnh Bắc Ninh

đã đoàn kết, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Hội.

Hội CGC đã hướng dẫn, chỉ đạo các Hội và Chi hội trực thuộc tổ chức triển

khai đến các cơ sở và hội viên để phát động các phong trào thi đua tại các đơn vị,

tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các đoàn thể, các tổ chức chính trị, các cá nhân tới

hoạt động của Hội tại địa bàn dân cư. Phối hợp với cơ quan giáo dục - đào tạo, Sở

giáo dục, phòng giáo dục và các trường học, các Trung tâm giáo dục thường xuyên,

Trung tâm học tập cộng đồng để tạo điều kiện tốt nhất cho hội viên hoạt động, phát

huy năng lực, kiến thức, lòng nhiệt tình, trách nhiệm nghề nghiệp của mình, tiếp tục

cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, như: “nhận dạy kèm học sinh yếu, học

sinh cá biệt, tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi,…. Viết bài tham luận đề tài khoa học

của Sở giáo dục - đào tạo” [34, tr.5].

Hội đã xây dựng Quỹ tình nghĩa Hội CGC, đặc biệt Hội CGC các cấp đã tham

gia tích cực, trách nhiệm vào các sinh hoạt chính trị, phong trào “Toàn dân đoàn kết

xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, phong trào và các cuộc vận động ở địa

phương như: “xây dựng nông thôn mới, tham gia có trách nhiệm về việc thực hiện

các tiêu chí: phát triển giáo dục, xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng cơ sở vật

chất, xóa đói giảm nghèo và toàn dân xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư như

việc cưới, việc tang thực hiện theo đúng văn bản quy định của tỉnh, các nội dung quy

định của địa phương” [34, tr.4]. Điển hình có Hội CGC Tiên Du, Lương Tài, Yên

Phong, thành phố Bắc Ninh, đặc biệt xã Tân Chi (huyện Tiên Du) đã xây dựng thư

viện với hơn 10.000 đầu sách. Thôn Chi Hồ, các thành viên của Hội đã có 2 bộ máy

70

vi tính kết nối internet phục vụ nhân dân đến đọc truy cập các chương trình thời sự,

chính trị nhằm nâng cao dân trí.

Là tổ chức XH - NN có tính chất đặc thù, các cấp hội đủ xác định được trách

nhiệm tích cực, chủ động tham gia đóng góp xây dựng sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

Các cấp Hội đã thực hiện yêu cầu: “giữ mối quan hệ gắn bó với cơ quan giáo dục

đồng cấp, đồng thời chủ động phối hợp thực hiện tốt nhiều hoạt động góp phần xây

dựng sự nghiệp giáo dục - đào tạo” [34, tr.2].

Thông qua mô hình Ban Liên kết giáo dục các cấp huyện và xã để tham mưu

cho cấp ủy, chính quyền, đóng góp cho các phòng giáo dục - đào tạo, các nhà trường

làm cầu nối giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm nâng cao chất lượng giáo dục -

đào tạo, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, xây dựng trường học thân thiện,

học sinh tích cực. Hội CGC Lương Tài đã tham mưu, kiến nghị với UBND huyện xây

dựng trường Mầm non A (An Thịnh), vận động nhân dân và các doanh nghiệp xây

dựng nhà ăn bán trú cho trường tiểu học Phú Lương,…. Các cấp hội của huyện Yên

Phong, Lương Tài, Tiên Du, Quế Võ làm nòng cốt để phát động và duy trì “Tiếng

trống khuyến học buổi tối” ở các địa phương nhằm quản lý học sinh ngoài giờ lên

lớp, nâng cao chất lượng giáo dục và giáo dục tinh thần cần cù, tự giác trong học

tập” [34, tr.6]. Phong trào này đặc biệt có chiều sâu ở Yên Phong với 69/74 thôn,

làng và Tiên Du có 51/56 thôn duy trì được “Tiếng trống khuyến học ban đêm”.

Hiện nay, hội viên Hội CGC tham gia quản lý và giảng dạy tại các trường

ngoài công lập, giữ vững mô hình và nâng cao ở loại hình trường này, điển hình

như Trường trung học phổ thông Nguyễn Du, tham gia giảng dạy tại Trung tâm

giáo dục thường xuyên, mở lớp bồi dưỡng học sinh miễn phí,…. Nổi bật, năm 2017,

có 48 hội viên Chi hội CGC đã trực tiếp tham gia giảng dạy ở 12 trường ngoài công

lập của tỉnh. “Những hội viên có đủ năng lực chuyên môn và điều kiện sức khỏe

đăng kí tham gia biên soạn tài liệu, giáo án tại các trung tâm học tập cộng đồng, tổ

chức hội thảo khoa học về “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng

sống cho học sinh phổ thông tỉnh Bắc Ninh”, nhiều hội viên góp ý với “Dự thảo

chương trình giáo dục phổ thông tổng thể”, tư vấn giáo dục đạo đức, kỹ năng sống

cho học sinh” [34, tr.6].

71

Hội viên Hội CGC tiếp tục tham gia tích cực vào việc xây dựng xã hội học tập

và công tác khuyến học, khuyến tài. Hầu hết các phó Chủ tịch Hội Khuyến học các

cấp (tỉnh, huyện, xã) đều do các hội viên Hội CGC đảm nhiệm. Các hoạt động của

Hội Khuyến học, đặc biệt là việc tổ chức Đại hội Hội Khuyến học các cấp được tiến

hành đều được các hội viên Hội CGC tham gia nhiệt tình và có trách nhiệm.

Hội CGC các cấp phối hợp với Hội Khuyến học, Hội Người cao tuổi cùng cấp

vận động đông đảo hội viên tham gia phong trào xây dựng “Gia đình hiếu học”,

“Dòng họ hiếu học”, “Gia đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập”,

trong đó bản thân và gia đình hội viên gương mẫu trong động viên, giáo dục con cháu

tự giác, cần cù trong học tập. Nhiều gia đình hội viên Hội CGC có 100% con đều có

bằng đại học, trong đó có bằng thạc sĩ, tiến sĩ.

Hội CGC các cấp hưởng ứng tích cực công tác xây dựng Qũy khuyến học và

công tác khuyến tài. Bản thân các hội viên Hội CGC đã gương mẫu làm nòng cốt để

xây dựng Qũy khuyến học các dòng họ và các thôn. Với tỷ lệ trên 70% hội viên

(trong đó Thuận Thành 100%) tham gia Hội Khuyến học. Hội CGC là thành phần

đông đảo trong vận động xây dựng Quỹ khuyến học. Bản thân nhiều Hội CGC các xã

trong tỉnh cũng có Quỹ khuyến học riêng. Điển hình là Hội CGC Tân Chi (Tiên Du),

Hội CGC xã Lâm Thao, xã Lai Hạ, xã Phú Hòa (huyện Lương Tài) đều có Qũy

khuyến học hàng chục triệu đồng.

Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, như các hội viên hầu hết

đều tuổi cao nhưng những hoạt động trên của Hội CGC Bắc Ninh cho thấy Hội đã

bước đầu thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp trong việc chăm lo

đời sống vật chất và tinh thần cho hội viên, thúc đẩy phong trào học tập suốt đời và

xây dựng xã hội học tập. Đây là một lớp người già có tri thức, kinh nghiệm tiếp tục

đóng góp thiết thực cho công cuộc “Đổi mới căn bản giáo dục Việt Nam” nói chung

và tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

2.2.6. Hội Đông Y

Ra đời từ năm 1958 với tên gọi Phân hội Đông y Bắc Ninh, sau đó sáp nhập

với phân hội Đông y Bắc Giang gọi là Hội Đông y Hà Bắc, năm 1997 Hội Đông y

Bắc Ninh chính thức hoạt động trở lại. Đây là tổ chức XH - NN của những người

hoạt động trong lĩnh vực khám chữa bệnh bằng đông y.

72

Tham gia Hội là những người hành nghề đông y, đông dược tự nguyện đem

hết khả năng, kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn của mình cống hiến cho sự

nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Hội phối hợp với sở y tế Bắc Ninh để kế

thừa, phát huy, phát triển nền đông y tỉnh Bắc Ninh.

Hội Đông y tỉnh Bắc Ninh hoạt động theo quy định của pháp luật và chịu sự

quản lý của Nhà nước, của Hội Đông y Việt Nam, của UBND tỉnh Bắc Ninh và các

cơ quan liên quan đến hoạt động của Hội.

Nhiệm vụ của Hội là tạo điều kiện cho hội viên khám chữa bệnh theo quy định

của pháp luật và Điều lệ của Hội; Hội luôn khuyến khích hội viên của mình sưu tầm,

kế thừa các bài thuốc gia truyền theo quy định để sử dụng.

Được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác Y học cổ truyền,

đặc biệt là Thông tư của Bộ y tế về hướng dẫn cấp giấy chứng nhận lương y. Được sự

quan tâm hỗ trợ của Đảng, chính quyền và các Ban , ngành, đoàn thể địa phương, sự

tín nhiệm của cán bộ và nhân dân trong toàn tỉnh nên tỷ lệ khám, chữa bệnh Đông y

ngày càng tăng.

Bảng 2.7: Số lượng bệnh nhân chữa bệnh bằng thuốc đông y

Bệnh nhân chữa bệnh bằng phương Bệnh nhân điều trị không Năm pháp Đông y (lượt bệnh nhân) dùng thuốc (lượt bệnh nhân)

1997 320 520

2002 90.830 13.320

2007 156.110 24.523

2012 288.216 30.161

2015 328.300 40.112

2017 385.210 60.235

(Nguồn: Tác giả thống kê từ [4], [9], [19] và [32])

Sự phối hợp giữa ngành y tế và Hội Đông y, sự gắn kết giữa y tế công lập và y

tế tư nhân; sự gắn kết giữa y học hiện đại và y học cổ truyền ngày càng chặt chẽ tạo

động lực cho công tác y học cổ truyền phát triển vững mạnh.

Cán bộ hội viên Hội Đông y các cấp tận tụy với ngành nghề, luôn có ý thức

nâng cao trình độ chuyên môn, y đức trong sáng và nhiệt tình công tác Hội. Đội ngũ

hội viên ngày càng phát triển về trình độ.

73

Ngay từ khi mới ra đời, mạng lưới của Hội đã phủ kín trong toàn tỉnh, xã nào

cũng có hội viên đông y. Các huyện, thị hội ban đầu chỉ có 3-4 lương y, sau tập hợp

và tăng dần cả về số lượng và chất lượng đến nay (2017), toàn tỉnh đã có 565 hội

viên. Đây là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ khám chữa bệnh bằng phương

pháp y học cổ truyền tại các cơ sở. Tổ chức hội được thành lập ở tất cả 8 huyện, thị

xã, thành phố; cấp liên xã, phường với 51 chi hội trực thuộc. Các hoạt động: Chẩn trị,

khám chữa bệnh; tuyên truyền, hướng dẫn sử dụng các bài thuốc nam; phổ biến kiến

thức về những cây thuốc quý; xã hội hóa y học cổ truyền… được duy trì hiệu quả,

tiêu biểu là các huyện hội: Thuận Thành, Yên Phong, Lương Tài; chi hội: Bệnh viện

Y học cổ truyền, Bệnh viện Đa khoa tỉnh; các hội đông y cấp xã: Đông Thọ (Yên

Phong), Phú Hòa (Lương Tài). Hoạt động tích cực của các cấp hội đã góp phần vào

việc giảm tải bệnh nhân cho y tế tuyến trên, đỡ tốn kém kinh phí cho người bệnh, tạo

sự bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Hằng năm, vào dịp rằm tháng giêng âm lịch, Hội Đông y đều tổ chức lễ dâng

hương tưởng niệm Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông tại Hương Sơn - Hà Tĩnh, nhằm

khơi dậy truyền thống “Tôn sư trọng đạo”, nhắc nhở hội viên, học viên học tập tấm

gương về y đức, y thuật của Hải Thượng Lãn Ông, rèn luyện đạo đức trong sáng về

nghề nghiệp, thương yêu bệnh nhân như người thân, đồng thời Hội cũng tổ chức đi

thăm hoạt động Hội Đông y Thừa Thiên Huế để giao lưu và học hỏi kinh nghiệm.

Ngoài ra, Hội Đông y Bắc Ninh kỷ niệm ngày thành lập Hội, ngày thầy thuốc Việt

Nam, kết hợp với hội nghị tổng kết năm để đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm

sau, nhằm đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm về các mặt hoạt động công tác Hội, từ

đó rút ra bài học cần khắc phục.

Hội đã triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đông y Việt

Nam và tổng kết thi đua khen thưởng vào tháng 12. Hội cũng đã tuyên truyền, vận

động 100% cán bộ hội viên tham gia bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp và

đại biểu Quốc hội các nhiệm kỳ khóa XI, XII, XIII.

Tỉnh Hội chỉ đạo các cơ sở tiếp tục phát động phong trào học tập theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện lời dạy của Bác “lương y như từ mẫu”.

74

Hàng năm, Hội đã ra các công văn chỉ đạo hội cơ sở về công tác tổ chức Hội

và các nhiệm vụ cần thiết để thực hiện Chỉ thị 24/CT - TW về phát triển nền Đông y

và Hội Đông y Việt Nam trong tình hình mới; Kế hoạch hành động của Chính phủ về

phát triển y học cổ truyền Việt Nam đến năm 2020; Quyết định số 1274/QĐ - UBND

ngày 19/10/2011 của UBND tỉnh về “phê duyệt kế hoạch phát triển y, dược học cổ

truyền tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020”. Hướng dẫn của Trung ương hội Đông y Việt

Nam thực hiện kế hoạch hành động của chính phủ.

Thường vụ Tỉnh Hội tập hợp đầy đủ danh sách 525 hội viên hiện tại, số hội

viên đang hành nghề được cấp phép và chưa được cấp phép để có định hướng lập kế

hoạch đào tạo đề nghị cấp giấy phép hành nghề cho hội viên.

Song song với hoạt động khám chữa bệnh, Hội Đông y còn rất tích cực tham

gia vào công tác kế thừa, nghiên cứu khoa học, đào tạo bồi dưỡng chuyên môn. Với

mục đích nâng cao kiến thức học thuật, tay nghề, xây dựng đội ngũ hội viên giỏi về y

thuật, sáng về y đức, Tỉnh hội duy trì đều đặn lớp bồi dưỡng đông y cơ bản 9 tháng

với số học viên thường xuyên trên 20 người/lớp. Mỗi năm, hội đều tổ chức nhiều đợt

tập huấn với các chuyên đề phong phú về đông y. Cuốn tập san “Đông y Bắc Ninh”

xuất bản đều đặn là địa chỉ để các hội viên trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, giáo dục,

phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật, các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà

nước trong hành nghề Y học cổ truyền.

Hội động viên các lương y cống hiến những kinh nghiệm hay, bài thuốc quý,

thu thập được hơn 600 bài về nhi khoa, ngoại khoa, phụ khoa, nội khoa, ngũ quan và

thần kinh. Những bài thuốc này đã được đưa vào các đầu sách tham khảo và áp dụng

thực tiễn trong phòng chống dịch bệnh. Các đề tài đã được Tỉnh Hội nghiệm thu như:

Chữa liệt dây thần kinh VII của lương y Lê Nho Ngoạn (Thuận Thành); Thừa kế kinh

nghiệm chẩn mạch của lương y Ngô Quý Thạch (Yên Phong); Kinh nghiệm điều trị

kinh đới thai sản của lương y Nguyễn Văn Hiện (Lương Tài). Những hội viên:

Nguyễn Văn Tuy, Lê Nho Ngoạn, Nguyễn Văn Kiên, Ngô Quý Thạch, Nguyễn Văn

Hiện, Trần Văn Quảng, Trịnh Ngọc Tố, Đại Đạo… được nhiều bệnh nhân đặc biệt là

những bệnh nhân nghèo nhớ đến với nhiều niềm cảm kích và biết ơn.

75

Về hoạt động từ thiện, trong hai nhiệm kỳ (1997-2007), hội đã khám và cấp

thuốc miễn phí cho gần 30.000 lượt người; riêng trong 2 năm 2009-2010 toàn hội

thực hiện khám và cấp thuốc miễn phí cho hơn 12.000 lượt người với giá trị gần 140

triệu đồng. Từ năm 2009-2013, toàn hội đã khám, chữa bệnh cho 1.142.570 lượt bệnh

nhân, trong đó có 182.840 bệnh nhân điều trị không dùng thuốc . Qua cuộc phỏng

vấn của tác giả với bác sĩ Hạ Bá Dũng, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Đông y cho

biết: “Những năm 2009-2010, hội còn khó khăn mọi bề. Cơ sở vật chất hầu như

không có, trụ sở làm việc ở nhờ vô cùng chật chội, nhân lực ít ỏi nên các hoạt động

cũng rất khiêm tốn. Rồi anh em động viên nhau cố gắng khắc phục từng bước một.

Cứ làm và làm rồi sẽ được ghi nhận…”.

Từ tháng 11-2011 trong điều kiện khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện làm

việc, nhưng Phòng chẩn trị Đông y tại Trạm Y tế phường Tiền An đã triển khai khám

chữa bệnh trung bình mỗi tháng cơ sở thực hiện điều trị cho hàng trăm lượt bệnh

nhân trong và ngoài tỉnh được người bệnh và nhân dân đánh giá cao. Trụ sở mới hiện

nay của Hội Đông y được chuyển về số 215 đường Ngô Gia Tự (thành phố Bắc

Ninh) đã khang trang hơn rất nhiều. Đây là điều kiện thuận lợi để hội phát triển

chuyên môn.

Hàng năm, Hội Đông y tỉnh tổ chức khám và tư vấn sức khỏe miễn phí cho

các đối tượng chính sách xã hội trên địa bàn Tỉnh tại trụ sở Hội Đông y tỉnh, trung

bình là 2000 lượt bệnh nhân/năm.

Trong 20 năm hoạt động, Hội Đông y đều tổ chức nghiên cứu khoa học. Hằng

năm đều có đề tài nghiên cứu cấp Tỉnh và cấp cơ sở.

Hội Đông y các cấp đã phối hợp với ngành y tế, đẩy mạnh phát triển y học cổ

truyền, “tham gia trồng và chăm sóc vườn cây thuốc nam mẫu tại các trạm y tế với số

vườn cây thuốc nam tại trạm là 110/126 xã trên tổng số diện tích vườn thuốc là

26.400 m2” [32, tr.4].

Các hội viên hành nghề tại gia đình cũng góp phần lớn vào việc xã hội hóa y

học cổ truyền, trồng, sử dụng và hướng dẫn nhân dân ở địa phương mình dùng thuốc

nam điều trị một số bệnh thông thường.

76

Bằng sự nỗ lực, vượt mọi khó khăn, đến nay hội đã và đang dần khẳng định

vai trò, vị trí của mình trong việc gìn giữ và phát huy tinh hoa y học cổ truyền, góp

phần không nhỏ trong sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân

dân. Vì thế, năm 2000 và 2014, Hội được Chính phủ tặng cờ thi đua, năm 2015 và

2016, được UBND tỉnh tặng Bằng Khen..

Thật khó có thể kể hết những đóng góp của hội, của những cán bộ đã gắn bó

với công tác hội phục vụ cho sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân tỉnh nhà và cũng

thật khó có thể liệt kê đầy đủ những khó khăn mà hội đã từng trải qua nhưng rõ ràng

hoạt động của Hội Đông y những năm qua thể hiện rõ quyết tâm trong công tác khám

chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân và bảo tồn tinh hoa y học cổ truyền. Từ

những thành quả ấy, từng hội viên của Hội Đông y đều luôn nêu cao ý thức, trách

nhiệm của mình trong việc trau dồi y đức, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn,

sát cánh với ngành Y tế tham gia cứu chữa, chăm sóc người bệnh ngay tại cơ sở.

77

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Việt Nam đạt được nhiều

thành tựu to lớn. Đất nước vượt qua khủng hoảng, đang trên con đường công nghiệp

hóa, hiện đại hóa. Những thành tựu đó đã khẳng định đường lối đổi mới là đúng, phù

hợp với thực tiễn của Việt Nam.

So với các tỉnh khác trong cả nước, Bắc Ninh là tỉnh có nhiều điều kiện thuận

lợi để phát triển kinh tế, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã vận dụng sáng tạo đường lối đổi

mới của Đảng vào hoàn cảnh, tình hình của Bắc Ninh, đã tạo điều kiện cho sự ra đời

và phát triển của các tổ chức XH - NN.

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát huy vai trò của các tổ

chức XH - NN trong phát triển KT - XH, đồng thời đáp ứng nhu cầu đông đảo nhân

dân tỉnh Bắc Ninh, các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh đã được thành lập với số

lượng ngày càng đông đảo. Hoạt động của các tổ chức XH - NN trên địa bàn chịu sự

chỉ đạo và giám sát trực tiếp của các cơ quan chuyên môn của Tỉnh.

Vì mới tách tỉnh (1997) các tổ chức XH - NN của tỉnh Bắc Ninh được thành

lập ở những mốc thời gian sớm muộn khác nhau nên công tác lưu trữ chưa hoàn

thiện. Do vậy, tác giả rất khó nghiên cứu một đối tượng XH- NN riêng lẻ. Trên cơ sở

khai thác nguồn tài liệu, hoạt động của các tổ chức XH - NN tác giả trình bày theo

lĩnh vực: Hoạt động của các tổ chức XH - NN trong lĩnh vực kinh tế - khoa học công

nghệ; Các tổ chức XH - NN trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục và y tế.

Hoạt động của các tổ chức XH - NN góp phần quan trọng phát triển kinh tế

của tỉnh Bắc Ninh, giúp cho Bắc Ninh trở thành tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế

nhanh nhất Việt Nam trong năm 2017. Bắc Ninh dẫn đầu cả nước về chính sách an

sinh, phúc lợi xã hội. Công tác giáo dục, dạy nghề, giải quyết việc làm, nâng cao đời

sống nhân dân được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm. Bắc Ninh được

mệnh danh là tỉnh năng động nhất Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước.

78

Chương 3

NHẬN XÉT VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP

Ở TỈNH BẮC NINH (1997 - 2017)

3.1. Đóng góp của các tổ chức XH - NN đối với phát triển KT - XH của tỉnh Bắc

Ninh trong thời kỳ đổi mới

Trong thời kì đổi mới, cùng với những phát triển trong kinh tế là sự phát triển

trong lĩnh vực xã hội. Từ hoạt động thực tiễn của các tổ chức XH- NN ở tỉnh Bắc

Ninh, chúng tôi nhận thấy vai trò của các tổ chức này đối phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh thể hiện qua các khía cạnh sau:

3.1.1. Các tổ chức XH - NN thể hiện rõ vai trò tư vấn, đề xuất về chính sách, pháp

luật phù hợp với lĩnh vực chuyên môn nhằm hoàn thiện hơn nữa về văn bản dành

cho doanh nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường

Quyền tham gia góp ý của các tổ chức XH - NN được ghi nhận trong Luật ban

hành văn bản quy phạm pháp luật tại các điều 26, 30,39, 40 hoặc trong Luật ban hành

văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân có ở các

điều 4,23,30,33,37,41,45.

Ở Bắc Ninh,các tổ chức XH - NN thường được mời tham gia hoặc chủ động tổ

chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để tập hợp ý kiến trong công tác xây dựng văn bản

quy phạm pháp luật đối với các dự án luật quan trọng. Ví dụ, Hội Luật gia, Hiệp hội

DNN&V được mời tham gia soạn thảo văn bản Quy hoạch thiết chế văn hóa của tỉnh;

Quy định về quy chế hợp tác xã; Quy chế xét tặng nghệ nhân trong tỉnh; Quy định

phân công, phân cấp quản lý đầu tư xây dựng trên địa bàn tỉnh…. Những ý kiến đó đã

góp phần bảo vệ lợi ích hội viên và ổn định KT - XH của tỉnh Bắc Ninh

Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh còn thực hiện giám sát văn bản quy phạm

pháp luật để phát hiện ra những bất cập, từ đó kiến nghị với các cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền sửa đổi, bổ sung như: Hiệp hội DNN&V đã lấy ý kiến bổ sung Luật

doanh nghiệp; Luật quy hoạch; Luật hỗ trợ DNN&V…..

Trong hoạt động, Hội Luật gia đã giữ vai trò tư vấn pháp luật. Hội đã tổ chức

các hội nghị tuyên truyền cho hàng nghìn lượt người về những văn bản mới, góp

phần nâng cao nhận thức pháp luật của người dân.

79

Trong những năm gần đây, cùng với quá trình đô thị hóa vấn đề dân số và

chính sách đối với người dân là một trong những vấn đề Tỉnh ủy tỉnh Bắc Ninh quan

tâm giải quyết. Ví như: Chính sách thu hút người lao động phù hợp để hạn chế việc

nhập cư ồ ạt nhưng vẫn đảm bảo nguồn lao động đáp ứng cho nhu cầu phát triển công

nghiệp; Xây dựng chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn lao động chất lượng cao từ

các địa phương khác; Kế hoạch phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng văn hóa xã hội như:

Nhà ở cho công nhân thuê, trường học cho con em công nhân và các trung tâm

thương mại, khu vui chơi giải trí, nhà thi đấu thể thao, sân vận động, công viên cây

xanh…Trước những yêu cầu mới đặt ra, vai trò đóng góp ý kiến cho việc xây dựng

chính sách đãi ngộ đối với người lao động có sự tham gia của các thành viên Hội

Luật gia; Về vấn đề dân trí những ý kiến của Hội Nhà báo, Hội cựu giáo chức, Hội

khuyến học đã tư vấn cho Ủy ban nhân dân tỉnh những biện pháp khắc phục về quản

lí và xây dựng cộng đồng xã hội học tập….Nhìn chung, các tổ chức XH- NN trong

quá trình hoạt động luôn thực hiện tốt vai trò thực thi theo Luật và góp ý bổ sung

hoàn thiện Luật. Từ vấn đề trên cho thấy các tổ chức XH -NN hoạt động trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh là cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp, người lao động, nhà chuyên

môn với Nhà nước.

3.1.2. Hoạt động hiệu quả của các tổ chức XH - NN góp phần thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế của tỉnh, nâng cao đời sống của nhân dân, mở rộng quan hệ kinh tế

đối ngoại với các đối tác trong và ngoài nước

Từ nghiên cứu thực tiễn, chúng tôi nhận thấy hoạt động hiệu quả của tổ chức

XH - NN thể hiện rất rõ.

Một là, các tổ chức XH -NN đã cung cấp hàng hóa dịch vụ để qua đó định

hướng dẫn dắt, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động chuyên môn nâng cao năng

lực hoạt động phù hợp với yêu cầu của thị trường, pháp luật và sự phát triển kinh tế

của tỉnh.

Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh thường cung cấp cho hội viên những

thông tin về pháp luật, thị trường, khoa học công nghệ qua các thông tin, điện tử, hội

thảo, tọa đàm, báo chí, các hoạt động xúc tiến thương mại hay đào tạo tư vấn,….

80

Minh chứng cho vấn đề trên ta nhìn vào hoạt động thực tiễn của Hội làm

vườn. Hội đã chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến các hội viên, phát triển kinh

tế theo hướng VAC, như mô hình trồng cam canh, bưởi diễn ở xã Giang Sơn (huyện

Gia Bình), mô hình VAC của ông Bùi Quang Kiệm xã Bồng Lai (huyện Quế Võ), mô

hình thâm canh sinh học của ông Nguyễn Đức Vinh xã Yên Giả (huyện Quế Võ), mô

hình nuôi gà giống của ông Nguyễn Văn Ái xã Hòa Tiến (huyện Yên Phong), mô

hình trồng ổi Malaixia ở huyện Gia Bình,…. Những mô hình đó đã áp dụng khoa học

kỹ thuật vào sản xuất và mang lại hiệu quả kinh tế cao, cho thu nhập trung bình hàng

trăm triệu đồng mỗi năm.

Để ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật vào sản xuất, hàng năm Hội Làm

vườn cũng mở các lớp hướng dẫn và chuyển giao kỹ thuật đến các hội viên, tập huấn

kỹ thuật VAC theo tiêu chuẩn Viet Gap. Thông qua các buổi tập huấn, hội thảo, hội

viên nắm bắt được kỹ thuật chăm sóc cây ăn quả, cây lúa, kỹ thuật chăn nuôi, đồng

thời tuyên truyền và cung cấp thông tin về chính sách của Nhà nước, các đối tác để

tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế của hội viên.

Hoạt động của Hiệp hội DNN&V cho thấy, Hội đã tổ chức các buổi tập

huấn, hội thảo về kinh doanh, tìm hiểu thị trường, cung cấp thông tin cho doanh

nghiệp, tổ chức lớp huấn luyện kỹ năng cơ bản về đổi mới và chuyển giao công nghệ,

có những buổi hội thảo chuyên đề cho từng lĩnh vực của doanh nghiệp để hội viên

nắm bắt được thời cơ và lường trước được những thách thức, từ đó giúp doanh

nghiệp phát triển. Nhiều DNN&V trong tỉnh Bắc Ninh có mức tăng trưởng cao, nộp

vào ngân sách Nhà nước lớn, tạo việc làm cho người lao động, như: Công ty trách

nhiệm hữu hạn Giấy và Bao bì Phú Giang, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hải Quân,

Công ty trách nhiệm hữu hạn Trung Kiên, Hợp tác xã mây tre đan Toàn Phong, Công

ty cổ phần đầu tư, xây dựng Hòa Hợp,….

Hiệp hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh là cầu nối của cộng đồng doanh nghiệp tỉnh

Bắc Ninh, bảo vệ hợp pháp cho các doanh nghiệp.

Hai là, Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh bước đầu đã có hoạt động liên

kết, hợp tác giữa các hội viên để quản lý, điều tiết nhằm khắc phục bất ổn của thị

trường, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hội viên và nền kinh tế.

81

Hiệp hội DNN&V đã khuyến cáo cho các thành viên Công ty gỗ Đồng Kỵ

thực hiện nghiêm túc quy chế sản xuất các sản phẩm đồ gỗ không nên găm hàng khi

sốt giá và không nên bán tháo khi giá giảm mạnh, cũng không nên sản xuất những

mặt hàng kém chất lượng mà thiếu đi sự tinh xảo trong sản phẩm, mà gây nên thiệt

hại cho doanh nghiệp. Các sản phẩm gỗ Đồng Kỵ thường xuất khẩu trong nước và thị

trường Trung Quốc. Nhưng khi Trung Quốc không nhập nữa thì đồ gỗ Đồng Kỵ gặp

khó khăn, Hiệp hội DNN&V đã hỗ trợ các cơ sở sản xuất với lãi xuất hợp lý để các

cơ sở có thể duy trì và phát triển.

Một điển hình tiêu biểu của Hiệp hội DNN&V là Công ty Đồ gỗ Hướng Mai

(Đồng Kỵ, Bắc Ninh) do bà Vũ Thị Mai làm tổng giám đốc. Đây là mô hình của việc

hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Công ty Đồ

gỗ Hướng Mai với 3 xưởng sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ, diện tích 2000 m2. Ngoài ra,

Công ty còn mở trung tâm thương mại Hướng Mai Center 9 tầng, với diện tích

10.000 m2, chuyên trưng bày các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ nhằm phục vụ khách hàng

trong nước và quốc tế. Công ty tạo việc làm cho khoảng 500 lao động, với mức lương

từ 8 triệu đồng - 10 triệu đồng/tháng. Sản phẩm của công ty đã được xuất khẩu sang

thị trường các nước: Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Mĩ và các nước

Tây Âu. Công ty Đồ gỗ Hướng Mai đã áp dụng mô hình điều hành và quản lý hiện

đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất và kinh doanh, chú trọng đầu tư các

hoạt động quảng bá thương hiệu, đặc biệt thăm dò và xúc tiến thương mại thị trường

nước ngoài. Hàng năm doanh thu của công ty lên đến hàng chục tỷ đồng.

Hiện nay, Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh cũng đang hướng hội viên xây dựng

mô hình trang trại nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và mô hình hợp tác xã liên

kết các trang trại, qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Điển hình là một

số hợp tác xã như: Măng tây xanh Thái Bảo (huyện Gia Bình), dịch vụ tổng hợp

Xuân Tùng (huyện Gia Bình), mô hình VAC Xuân Hòa (huyện Quế Võ),…. Các hội

viên đã được tỉnh hỗ trợ kinh phí để xây dựng nhãn hiệu sản phẩm, phát triển sản

phẩm có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài tỉnh. Đặc biệt, mô hình trang trại

thông minh DELOCO (huyện Thuận Thành) theo tiêu chuẩn công nghệ Ixraen và

Nhật Bản, toàn bộ sản phẩm do trang trại sản xuất đều có mã truy xuất nguồn gốc

(QR code) để kiểm tra xuất xứ, quy trình.

82

Như vậy, với vai trò liên kết hội viên, điều tiết hoạt động kinh doanh của hội

viên theo biến động của thị trường đã khẳng định sự nhanh nhạy của ban lãnh đạo các

tổ chức XH -NN, qua đó nâng cao hiệu quả của các hội viên và sự phát triển đúng

định hướng, phát triển bền vững của Hội.

Ba là, hoạt động của các tổ chức XH -NN tỉnh Bắc Ninh đã tạo dựng quan hệ

kinh tế đối ngoại với các đối tác trong và ngoài nước

Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh là thành viên của tổ chức kinh tế trong và

ngoài nước với ngành nghề tương ứng. Việc thực hiện xúc tiến thương mại thông qua

các hoạt độn hội thảo, triển lãm, tham quan, hội chợ để quảng bá thương hiệu hoặc

tham gia xử lý các vụ kiện, tranh chấp thương mại.

Ví dụ, Hiệp hội DNN&V đã tổ chức tham quan học tập kinh nghiệm sản xuất

của các nước láng giềng như: Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc hoặc các thành phố

phía Bắc như: Thái Nguyên, Hà Nội, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Thái Bình,…. Thông

qua các chuyến đi đó, Hội viên được học tập các mô hình, đồng thời tìm hiểu đối tác

và phát triển các mối quan hệ trong nước và quốc tế.

Hay, Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh không chỉ tổ chức triển lãm mà còn

tham gia triển lãm và giao lưu học tập tại các tỉnh bạn như: Bắc Giang, Hưng Yên,

Quảng Ninh, Hà Nội, Hải Dương,….

Bắc Ninh với chính sách kinh tế mở nên các loại hình kinh tế phát triển

nhanh về quy mô và đóng góp lớn cho kinh tế của tỉnh. Một điều dễ nhận thấy là

Bắc Ninh thu hút được nhiều tập đoàn kinh tế lớn, công nghệ hiện đại, sản phẩm

có sức cạnh tranh cao, như: CANON, SAMSUNG, PEPSICO, NOKIA,... Nhờ vậy,

quy mô nền kinh tế tăng nhanh và đưa Bắc Ninh trở thành trung tâm công nghiệp

điện tử của cả nước.

Nhìn toàn diện sự phát triển của Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2017, chúng

ta thấy trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh đã trải qua các giai đoạn

khác nhau: Giai đoạn 1997-2000 định hình cho mô hình phát triển kinh tế; Giai đoạn

2001-2005 là giai đoạn kêu gọi đầu tư để kiến thiết kinh tế và xây dựng hạ tầng cơ sở.

Năm 2005, GRDP đã đạt 8.331 tỷ đồng, gấp 2,5 lần năm 2000 và gấp 4,1 lần năm

1997, nhưng quy mô kinh tế vẫn còn rất nhỏ; Giai đoạn 2006-2010, sau khi hạ tầng

83

các KCN tập trung đã được hình thành đồng bộ, các cụm công nghiệp làng nghề cũng

được xây dựng và đi vào hoạt động, lúc này các tập đoàn kinh tế lớn của Nhật Bản,

Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Châu Âu, Mỹ,.. đã lựa chọn Bắc Ninh là điểm đến

tiềm năng để đầu tư; Giai đoạn 2010 đến nay, Bắc Ninh hướng tới xây dựng cơ cấu

kinh tế tỉnh phát triển hài hòa, duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững.

Xuất phát điểm từ một tỉnh mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông

nghiệp, các cơ sở sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp hiện đại hầu như không

đáng kể. Đến nay, Bắc Ninh tự hào với thành tựu mà tỉnh đạt được.

Về công nghiệp, trên địa bàn tỉnh đã có 15 khu công nghiệp tập trung; hơn 18

khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề với hàng trăm nhà máy có

công nghệ sản xuất hiện đại đã và đang hoạt động. Công nghiệp Bắc Ninh từ vị trí

thứ 19 (2004) vượt lên vị trí thứ 9 trong toàn quốc. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt

1,250 tỷ USD, tăng bình quân 67,2%/năm. Sản phẩm của ngành công nghiệp không

chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của thị trường trong nước mà còn tăng

khối lượng và chủng loại sản phẩm xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ đáng kể để tiếp

tục đầu tư phát triển.

Ngành tiểu thủ công nghiệp rất phát triển với nhiều làng nghề truyền thống và

được ví là “ Vùng đất trăm nghề”, một số sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường

trong nước và thế giới như đồ gỗ mỹ nghệ (Đồng Kỵ - Từ Sơn), đúc đồng (Đại Bái -

Gia Bình)…

Về nông nghiệp, việc chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa tăng

nhanh, dịch vụ nông nghiệp phát triển, “dồn điền đổi thửa” gắn với quy hoạch hạ tầng

vùng sản xuất được coi trọng. Chăn nuôi phát triển khá, đàn gia súc, gia cầm tăng

đáng kể, bước đầu chuyển sang chăn nuôi tập trung, giá trị sản xuất khu vực chăn

nuôi tăng bình quân 4,6%/năm; nuôi trồng thủy sản tăng bình quân 11,4%/năm; trồng

rừng tập trung, trồng cây phân tán, cải tạo vườn tạp được duy trì và phát triển. Hình

thành mô hình chuỗi giá trị trong nông nghiệp với tổ hợp sản xuất giống, thức ăn

chăn nuôi, chế biến thực phẩm, tạo liên kết doanh nghiệp hỗ trợ nông dân sản xuất,

tiêu thụ hàng hóa.

Cơ cấu kinh tế Bắc Ninh chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Tỷ trọng của ngành công nghiệp, xây dựng năm 2010 ước đạt 64,8%,

84

dịch vụ 24,2%, nông nghiệp đạt 11%. Đầu tư cho phát triển được đẩy mạnh, góp

phần tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong 5

năm ước thực hiện đạt trên 64.000 tỷ đồng, tăng bình quân 33,6%, hàng năm đều đạt

trên 50% GDP.

Kinh tế Bắc Ninh luôn duy trì tăng trưởng ở mức hai con số và giai đoạn sau

cao hơn giai đoạn trước. Giai đoạn 1997- 2000 tăng 12,6%/năm; giai đoạn 2001-2005

tăng 14,5%/năm; giai đoạn 2006- 2010 tăng 15,5% và giai đoạn 2011-2015 tăng

15,5%/năm.

Quy mô kinh tế tăng nhanh, nên GRDP bình quân đầu người đạt cao so với

bình quân cả nước và các tỉnh, thành phố trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nếu như

năm 1997, GRDP bình quân đầu người mới đạt 2,2 triệu đồng/năm, thấp hơn mức 4

triệu đồng bình quân chung cả nước và xếp thứ 4 (sau các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Nam

và Ninh Bình), đến năm 2016 đã đạt 107,6 triệu đồng, gấp 2,3 lần bình quân chung cả

nước và xếp thứ nhất trong vùng. Như vậy, cùng với quá trình phát triển kinh tế, thu

nhập và đời sống vật chất của người dân Bắc Ninh có sự thay đổi rõ rệt. Nhân dân

trong tỉnh tin tưởng vào chính sách đổi mới của Đảng, sự lãnh đạo của chính quyền

tỉnh trong công cuộc đổi mới.

Tóm lại, từ hiện thực phát triển kinh tế của tỉnh Bắc Ninh, chúng ta nhận thấy

có sự đóng góp không nhỏ trong hoạt động kinh tế thị trường của các tổ chức XH -

NN. Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh đã phát huy vai trò của mình trong việc

phát triển kinh tế thể hiện qua các chức năng: Cầu nối - dịch vụ - liên kết và đối

ngoại. Trong đó, sự thay đổi rõ nhất là vai trò tham gia xây dựng và thực hiện môi

trường pháp lý, chính sách và hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ, nâng cao

năng lực hoạt động của các thành viên.

3.1.3. Các tổ chức XH -NN tỉnh Bắc Ninh góp phần xây dựng môi trường văn hóa,

giáo dục văn minh, hiện đại

Năm 2014, Đảng ra Nghị quyết số 33 - NQ/TW về “Xây dựng và phát triển

văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác

định mục tiêu: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,

hướng đến chân - thiện - mĩ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa

85

học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, sức mạnh nội

sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc tổ quốc vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Từ Nghị quyết Đảng, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh xác định các tổ chức XH - NN

có vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa - giáo dục của tỉnh.

Từ năm 1997 - 2017, Hội VH - NT tỉnh Bắc Ninh đã có hàng nghìn tác phẩm

văn học, tạp chí được xuất bản, hàng trăm tác phẩm âm nhạc, vở diễn nghệ thuật,

nhiếp ảnh, mỹ thuật,… được sáng tác, xuất bản, trưng bày, triển lãm và đến với quần

chúng nhân dân trong và ngoài tỉnh. Nhiều tác phẩm đã đạt giải trong các cuộc thi

toàn quốc tạo nên được dư luận tốt trong xã hội.

Những tác phẩm của Hội VH -NT ngày càng đa dạng về thể loại, phong phú

về nội dung, đổi mới về phong cách, chất liệu. Nội dung các tác phẩm đã phản ánh

đúng, chân thực và sinh động cuộc sống người dân, sự nghiệp đổi mới đất nước, của

tỉnh Bắc Ninh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung các tác phẩm cũng đồng

thời ca ngợi thành tựu phát triển KT - XH của tỉnh Bắc Ninh, của con người Bắc

Ninh, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước,…. Về cơ bản, các tác phẩm đã đáp ứng

được yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của tỉnh Bắc Ninh và nhu cầu hưởng thụ văn hóa

nghệ thuật của nhân dân.

Hoạt động sân khấu, nghệ thuật, kiến trúc có nhiều tiến bộ trong sự kết hợp

tinh tế và nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại (như dân ca quan họ Bắc

Ninh), cùng với việc dàn dựng sân khấu, nâng cao chất lượng kịch bản thì nội dung

của các tác phẩm đã quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề xã hội, phản ánh và đi sâu

khai thác mọi khía cạnh của cuộc sống.

Các nghệ sĩ, các dịch vụ chuyên nghiệp của Hội VH - NT tỉnh Bắc Ninh

thường tham gia các buổi hoan, hội diễn toàn quốc,… và đã đạt nhiều thành tích cao.

Phong trào sáng tác thơ ca, văn xuôi, văn học dân gian cũng được phát triển rộng

khắp ở các ngành, các địa phương, các cơ quan, địa vị, doanh nghiệp. Hoạt động sáng

tác phong phú, đa dạng, khai thác thế mạnh văn hóa của từng vùng, từng địa phương

trong tỉnh Bắc Ninh. Tỉnh hội thường xuyên động viên hội viên và quần chúng sáng

tạo, truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống của quê hương quan họ, đồng thời

nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

86

Song song với việc sáng tác các tác phẩm nghệ thuật, các hoạt động của các

mô hình câu lạc bộ dân ca quan họ Bắc Ninh cũng được thành lập ở các thôn, xã, thị

trấn, câu lạc bộ thơ của học sinh, sinh viên, của quần chúng đã góp phần tuyên truyền

đường lối, chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là công

tác xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Bắc Ninh, xây dựng đời sống văn hóa mới.

Bắc Ninh thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế

thì VH - NT phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân

văn, dân chủ; VH - NT có mục tiêu vì con người và cho con người. Đây là sứ mệnh

cao quý và trách nhiệm của người nghệ sĩ tỉnh Bắc Ninh - những người sáng tác nên

những tác phẩm VH - NT. Họ là những chiến sĩ tiên phong xây dựng, phát triển nền

văn hóa Bắc Ninh đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng

trong thời kì đổi mới.

Đảng và Nhà nước coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”, giáo dục có vai trò

nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, góp phần phát triển kinh tế

đất nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là trong bối

cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Vì thế, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến

công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.

Ở tỉnh Bắc Ninh, Đảng bộ Bắc Ninh đã phối hợp với các ban ngành, đoàn thể,

với ngành giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, với Hội Khuyến học của

tỉnh đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh và đạt kết quả tích cực.

Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh luôn giữ vai trò quan trọng, nòng cốt trong hoạt

động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Chính vì vậy mà phong trào

học tập của tỉnh Bắc Ninh đã có những bước phát triển sâu rộng, đạt hiệu quả cao trong

phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí cho người dân, đào tạo nguồn

nhân lực chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài cho tỉnh Bắc Ninh cũng như đất nước.

Năm 2017, Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh có hệ thống tổ chức khuyến học

hoàn chỉnh tại 100% xã, phường, thị trấn, với 3.673 ban khuyến học, 593 đơn vị học

tập. Điều đó cho thấy mạng lưới phủ rộng của Hội Khuyến học trên địa bàn tỉnh Bắc

Ninh. Qua đó, thấy rõ trách nhiệm và vai trò Hội trong công tác khuyến học, khuyến

tài, xây dựng xã hội học tập khắp nơi trong tỉnh.

87

Thông qua mạng lưới của mình, Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh cũng góp

phần tuyên truyền sâu rộng đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về công tác

khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ

Chí Minh về học tập thường xuyên, học tập suốt đời.

Trong hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, Hội Khuyến

học tỉnh Bắc Ninh đã hỗ trợ học sinh nghèo gặp khó khăn, chống nguy cơ bỏ học, khen

thưởng, động viên cán bộ giáo viên và học sinh có thành tích xuất sắc trong năm học.

Riêng trong năm 2017, Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh đã huy động tổng số quỹ là:

59.781 triệu đồng, trợ cấp học bổng cho 1.110 suất. Hàng năm, Hội Khuyến học còn

trao nhiều phần quà cho học sinh khuyết tật, học sinh có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em

mồ côi, học sinh nghèo vượt khó,…. Những hoạt động thiết thực đó của Hội Khuyến

học đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp “trồng người” của tỉnh Bắc Ninh.

Một trong những hoạt động của Hội Khuyến học là phong trào xây dựng gia

đình hiếu học, dòng họ hiếu học, cộng đồng học tập, đây là những mô hình độc đáo

của phong trào học tập suốt đời. Từ năm 2014 - 2017, Hội Khuyến học đã đẩy mạnh

phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng. Vì vậy, số gia đình

hiếu học, dòng họ hiếu học ngày một tăng. Năm 2017, theo số liệu chúng tôi tổng hợp

từ phiếu điều tra, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã có 126.797 gia đình học tập và 2.575

dòng họ hiếu học.

Như vậy, Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh đã vận động nhân dân tích cực học

tập, nâng cao dân trí và nghề nghiệp chuyên môn, để phục vụ cho xã hội, nâng cao

chất lượng cuộc sống, trở thành những con người có ích cho gia đình, cộng đồng và

xã hội.

Góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới, nâng cao chất lượng giáo dục cộng

đồng, chúng ta không thể không đề cập đến vai trò của Hội CGC ở tỉnh Bắc Ninh.

Thành viên của Hội là những nhà giáo sau những năm tháng cống hiến sức trẻ cho

ngành giáo dục đến độ tuổi được nghỉ chế độ theo quy định của Nhà nước.Tuy không

còn đứng trên bục giảng tại các cơ sở đào tạo, nhưng với những kinh nghiệm cùng

tâm tư, lòng yêu nghề họ góp phần không nhỏ cho sự nghiệp giáo dục tỉnh nhà.

88

Hội CGC tích cực giải quyết những vấn đề khó khăn của ngành giáo dục,đào

tạo tỉnh Bắc Ninh. Hội viên Hội CGC có nhiều người là nhà quản lý giỏi, giáo viên

giỏi, tâm huyết với nghề. Họ còn có sức khỏe nên muốn cống hiến cho ngành, cho

quê hương, đất nước. Mỗi năm, Hội CGC đã nghiên cứu tình hình trên địa bàn tỉnh

Bắc Ninh, xác nhận những ưu điểm và tồn tại, tham góp ý kiến cho Sở giáo dục,

phòng giáo dục những giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh.

Hội CGC tỉnh Bắc Ninh đã góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành

mạnh, duy trì “Tiếng trống khuyến học ban đêm” để giúp học sinh có tinh thần tự

giác học tập. Ngoài ra, một số hội viên Hội CGC tiếp tục tham gia giảng dạy ở một số

trường dân lập. Hội cũng phối hợp với Hội Khuyến học xây dựng xã hội học tập và

công tác khuyến học, khuyến tài, tham gia xây dựng “gia đình hiếu học”, “dòng họ

hiếu học”, “cộng đồng học tập”. Phương châm của Hội là mỗi hội viên Hội CGC là

tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Ngoài ra, Hội CGC còn vận động nhân dân

xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài.

Hội CGC tỉnh Bắc Ninh với tinh thần “về hưu nhưng đâu có hưu” nên thành

viên của Hội có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo ở tỉnh Bắc Ninh;

Thực hiện tốt mục tiêu phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, năng lực, trí

tuệ, phẩm chất tốt đẹp của nhà giáo, góp phần thực hiện chiến lược phát triển giáo

dục, đào tạo, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và đặc biệt

là đóng góp trong đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục tỉnh Bắc Ninh.

3.2.Thực trạng quản lí và hoạt động của các tổ chức của các tổ chức XH - NN ở

tỉnh Bắc Ninh

3.2.1. Quản lí và tổ chức của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp là tổ chức quần chúng, mang nặng tính nghề

nghiệp. Tính nghề nghiệp của tổ chức được thể hiện chủ yếu ở đối tượng tham gia và

lĩnh vực hoạt động. Trước đây, trong nền kinh tế hoạch hóa tập trung, Nhà nước là

chủ thể kinh tế, các cơ quan nhà nước là chủ quản đối với các đơn vị kinh tế, do đó

không có cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển đúng thực chất của các tổ chức

XH - NN với tư cách là tổ chức tự nguyện đại diện cho lợi ích chung của các đơn vị,

89

cá nhân tham gia hoạt động kinh tế là thành viên. Từ khi thực hiện đổi mới, đổi mới

kinh tế của nước ta với bản chất kinh tế thị trường và trong điều kiện mở rộng hợp

tác, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các tổ

chức XH-NN với vị trí và vai trò của nó ngày càng được khẳng định.

Tiếp cận với các văn bản của Nhà nước và của tỉnh Bắc Ninh, tôi được biết

trong nền kinh tế hiện đại chú trọng phát triển đến sự phát triển hài hòa, cân đối ba

khu vực: Nhà nước - thị trường - Tổ chức xã hội, trong đó nhà nước là các tổ chức

công quyền hoạt động trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp; Thị trường

bao gồm các đơn vị kinh doanh; Tổ chức xã hội gồm các tổ chức có tính phi nhà nước

do dân lập ra và tự quản. Như vậy, quản lí nhà nước (quản lí của cơ quan công quyền)

và quản lí của xã hội (tự quản) trong nền kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, từ thực tiễn nghiên cứu về các tổ chức XH- NN ở tỉnh Bắc Ninh,

vấn đề quản lí và hoạt động của các tổ chức XH-NN chưa có sự tách bạch rõ nét phân

quyền quản lí như trên. Điều này, phản ánh nền kinh tế thị trường ở nước ta đang

trong quá trình xây dựng trên cơ sở thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung

nên việc đổi mới quản lí, đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức XH - NN cần

bổ sung và thích ứng dần.

Về kết cấu của các tổ chức XH- NN ở tỉnh Bắc Ninh theo mô típ trung bao

gồm: Ban lãnh đạo hội (Chủ tịch, phó chủ tịch); Ban chuyên môn. Số lượng thành

viên được mở rộng theo mục tiêu và kế hoạch phát triển hội ( vấn đề này đã được tác

giả đề cập chi tiết ở chương 2).

Vấn đề ngân sách hoạt động của tổ chức XH - NN tôi nhận thấy có sự

khác biệt:

Thứ nhất, Những tổ chức XH-NN có tính đặc thù gắn với hoạt động chính trị, tư

tưởng của Tỉnh, Nhà nước như Hội Luật gia, Hội Nhà báo hay Hội Văn học nghệ thuật.

Hàng năm , tổ chức nhận ngân sách từ hai nguồn. Nguồn thứ nhất, do Nhà nước cấp để

chi trả cho cán bộ quản lí Hội (Chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm); Nguồn ngân sách thứ hai

do Hội tự huy động vốn và làm chủ, chi trả cho các hoạt động của Hội.

Thứ hai, Những tổ chức XH-NN được thành lập, hoạt động trong lĩnh vực

khác không được hưởng nguồn ngân sách từ Nhà nước. Cơ chế hoạt động tự quản

trong thu, chi. (Hội doanh nghiệp NN &V, hội làm vườn…)

90

Nghị định của Chính phủ số 163/2016/NĐ-CP, tại điều 10 ghi rõ “ Kinh phí

hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã

hội - nghề nghiệp được thực hiện theo nguyên tắc tự bảo đảm. Trường hợp các tổ

chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp được

cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao nhiệm vụ thì được ngân sách nhà nước hỗ trợ

kinh phí để thực hiện; Kinh phí hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp,

tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được bố trí trong dự toán ngân sách của

từng cấp ngân sách trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân quyết định; Việc lập dự toán,

thực hiện dự toán, quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ được thực hiện

theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, quy định tại Nghị định này và pháp luật

có liên quan”. Nguồn ngân sách của Nhà nước hàng năm chi cho các tổ chức xã hội

nói chung chiếm 1-1,7 GDP. Phần lớn ngân sách chi cho nhân sự và hoạt động của

các tổ chức chính trị - xã hội. Những tổ chức này thuộc quản lí của Mặt trận tổ quốc

Việt Nam. Đối với các tổ chức XH- NN, nguồn ngân sách được trích một phần rất

nhỏ từ đó dưới hình thức chi trả phụ cấp kiêm nhiệm cho người quản lí theo định mức

lương của Bộ tài chính ban hành. Phỏng vấn cán bộ quản lí Hội nhà báo ông Nguyễn

Bá Sinh và ông Nguyễn Văn Hoạt chủ tịch Hội Luật gia tôi được biết mức trợ cấp

chức vụ Hội mỗi tháng khoảng 1.390.000 đồng đếm 2.000.000 đồng theo hệ số

lương,ngoài lương cơ bản.(theo quyết định Số: 285/2014/QĐ-UBND Bắc Ninh, kí

ngày ngày 26 tháng 6 năm 2014).

Như vậy, việc tổ chức và quản lí đối với các tổ chức XH - NN đang hoạt động

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trong cả nước nói chung đang là vấn đề xã hội

rất quan tâm. Bởi, giữa thực tế và văn bản của nhà nước, của tỉnh có nhiều điều chưa

thỏa đáng đối với trách nhiệm, vai trò, hiệu quả đóng góp của các tổ chức này đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Đánh giá về vai trò của các tổ chức xã hội, XH -NN, Đại hội X của Đảng đã

ghi nhận: “ Các tổ chức chính trị - xã hội, XH -NN, tôn giáo và các tổ chức xã hội

khác có nhiều hình thức hoạt động đa dạng, phong phú đã góp phần tích cực vào

phát triển kinh tế - xã hội” . Do vậy, để đảm bảo tính xã hội hóa cao, sự cạnh tranh

công bằng trong nền kinh tế thị trường về cơ chế tài chính cần có cơ chế phân bổ theo

91

hướng giảm bớt tính hành chính hóa, tập trung nhiều hơn vào hiệu quả hoạt động của

tổ chức. Bãi bỏ ngân sách cấp cho các tổ chức XH -NN có tính đặc thù. Đây cũng là

một phần nội dung được bàn thảo trong cuộc Tọa đàm trực tiếp giữa đại biểu quốc

hội chuyên trách với đại diện các tổ chức xã hội về: Vai trò và đóng góp của các tổ

chức xã hội, XH - NN do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 15- 9- 2018.

3.2.2. Một số vấn đề đặt ra đối với hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh

Bắc Ninh

Từ nhìn nhận về vai trò của các tổ chức XH - NN và phân tích thực trạng trong

quản lí và tổ chức các tổ chức XH - NN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh tôi nhận thấy:

Thứ nhất, mặc dù có những tiến bộ trong phát huy vai trò cầu nối kinh tế về cơ

bản họ chưa coi đó là nhu cầu thiết yếu, là phương thức cơ bản cho sự tồn tại và phát

triển của các tổ chức XH - NN trong điều kiện nền kinh tế thị trường và xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh mới chỉ

quan tâm đến những vấn đề chung về nghề nghiệp của Hội mình mà chưa thực sự

quan tâm đến việc kiến nghị với các cơ quan Nhà nước xử lý, giải quyết các vụ việc

liên quan đến lợi ích của từng hội viên. Bên cạnh đó, các kiến nghị của các Hội

thường không được các cơ quan Nhà nước chú ý và quan tâm giải quyết kịp thời,

thiếu cơ chế đòn bẩy gây áp lực một cách hữu hiệu cho nên những kiến nghị đó vô

hình đã trở thành “vô thưởng, vô phạt”. Hầu hết, những ý kiến của các tổ chức XH -

NN tỉnh Bắc Ninh chưa được các cơ quan Nhà nước trong tỉnh ghi nhận và trân trọng

nên thực tế ít có giá trị.

Trong hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ của các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc

Ninh còn đơn giản, nghèo nàn, số lượng thông tin ít, chất lượng chưa cao, chưa tạo

động lực để hội viên gắn bó với Hội của mình. Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh

thường thông qua các hoạt động dịch vụ là cung cấp thông tin về chính sách của

Đảng và Nhà nước đối với Hội nghề nghiệp của mình, thông tin thị trường, tư vấn

kinh doanh cho hội viên, xuất bản các tạp chí, sách báo viết về Hội, đào tạo và nâng

cao tay nghề cho hội viên, tổ chức các buổi đi khảo sát thị trường,…. Các thông tin

mà các tổ chức XH - NN cung cấp còn nghèo nàn, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc

cung cấp tin tức mà chưa có sự phân tích, đánh giá và dự báo, công tác đào tạo hội

92

viên chưa được thường xuyên và chuyên nghiệp. Một số tổ chức XH - NN đã thực

hiện dịch vụ giới thiệu khách hàng cho hội viên nhưng hiệu quả chưa cao.

Thứ hai, việc liên kết các hội viên trong tổ chức hội nhằm khắc phục khó

khăn, giải quyết bất cập thị trường còn mờ nhạt, phổ biến vẫn là tình trạng mạnh ai

người ấy làm.

Hầu hết các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh chưa thực sự sẵn sàng và đủ

năng lực để đối mặt với những vấn đề khó khăn của thị trường. Theo kết quả điều tra

Hiệp hội DNN&V năm 2018, có đến 60% số hội viên cho rằng Hiệp hội chưa thực

hiện được vai trò của mình trong việc giải quyết các tranh chấp nội bộ của hội viên và

giải quyết các bất cập của thị trường.

Ngoài những khó khăn trên, các tổ chức XH - NN còn phải đối mặt với những

khó khăn về thể chế xã hội, như:

Hiện nay, những quy định pháp luật chưa tạo ra một cơ chế hiệu quả cho các

tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh thực hiện các chính sách pháp luật, quyền tư vấn,

giám sát hay tham gia xây dựng, phát triển KT - XH.

Việc Nhà nước chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang

nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đã nảy

sinh nhiều vấn đề mới, không chỉ quản lí Nhà nước mà phía các tổ chức XH - NN đều

tiếp cận những vấn đề mới mẻ. Chính vì vậy mà các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh

chưa chuyển đổi kịp thời với xu thế phát triển của thời đại và đòi hỏi thực tiễn của

cuộc sống.

Đa số các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh chậm đổi mới hoạt động, làm việc

còn ỷ lại vào Nhà nước, chưa có sự năng động trước tình hình thực tế. Một số tổ chức

XH - NN tỉnh Bắc Ninh còn thiếu những hội viên giỏi trong các lĩnh vực liên quan để

làm việc có hiệu quả với các tổ chức, các cơ quan trong và ngoài tỉnh.

Theo kết quả phiếu điều tra Hiệp hội DNN&V thì có đến 70% số phiếu cho

rằng Hiệp hội chưa thực sự linh hoạt trong cơ chế thị trường hiện nay và còn nặng về

thủ tục hành chính.

Do yêu cầu bức thiết hiện nay, việc nghiên cứu ban hành Luật về hội để tạo cơ

sở pháp lý về quản lý Nhà nước đối với hội và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động

93

của các tổ chức XH - NN là một việc quan trọng. Bên cạnh đó, các tổ chức XH - NN

tỉnh Bắc Ninh cần phải tìm giải pháp để đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động,

để khắc phục tình trạng “thủ tục hành chính”, lệ thuộc vào Nhà nước, tạo sự liên kết

giữa các hội viên, thành viên, bảo vệ quyền và lợi ích của các hội viên, thực hiện tốt

nhiệm vụ của Hội mình.

Từ hoạt động của các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh, tôi cho rằng nguyên

nhân của những hạn chế đó là do:

- Sự nhận thức của Nhà nước về vai trò của các tổ chức XH - NN chưa đúng

mức, tính độc lập của hội chưa rõ nét, thực chất các tổ chức XH - NN chỉ coi là một

công cụ tuyên truyền để thực hiện các chủ trương chính sách thấy được lợi ích kinh

tế, hoạt động Nhà nước thông qua sinh hoạt, giao lưu tiếp xúc với hội viên trong hội,

còn nhiều người chỉ tham gia hội theo phong trào, coi hội của mình chỉ là câu lạc bộ

để giao lưu hơn là thấy quyền lợi và trách nhiệm của mình.

- Các tổ chức XH - NN có nội dung và phương thức hoạt động chưa tương

xứng với vai trò, vị trí của tổ chức mình trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập

quốc tế và xây dựng Nhà nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Một số hội hoạt động chỉ

mạng tính hình thức và Nhà nước hóa; Khả năng tự quản, tự chủ, tự chịu trách nhiệm

còn thấp. Nhiều hội, nhất là Hội Luật gia , khi tổ chức và hoạt động còn phụ thuộc

vào ban chấp hành, chủ yếu làm nhiệm vụ tham vấn, tư vấn, trợ giúp, quan tâm đến

quyền lợi hội viên, cũng có nhiều hội viên sinh hoạt không thường xuyên, thậm chí cả

thời gian dài không sinh hoạt.

- Hầu hết các tổ chức XH - NN đang khó khăn trong vấn đề thu hút nhân sự

giỏi, trẻ.Vì làm việc trong các tổ chức XH - NN ít hoặc hầu như không có cơ hội

thăng tiến. Một số tổ chức XH - NN có ban chấp hành là những người đang làm việc

trong cơ quan nhà nước kiêm nhiệm hoặc về hưu, như: Hội Khuyến học, Hội Nhà

báo…. Nhiều hội viên trong ban chấp hành hội không coi công tác hội là một nghề

nên tính chuyên nghiệp chưa cao.Ngoài ra, khi bầu ban chấp hành thì tổ chức bỏ

phiếu chỉ mang tính chất hình thức, chưa thực sự dân chủ, do đó chưa chọn được

người có tâm, có tài, có tầm để thúc đẩy sự phát triển của hội. Theo kết quả điều tra

Hiệp hội DNN&V năm 2018, có 60% ý kiến cho rằng năng lực lãnh đạo của ban chấp

hành còn hạn chế.

94

- Nguồn kinh phí để hoạt động của các hội còn hạn chế và không ổn định.

Theo kết quả điều tra Hội Khuyến học và Hiệp hội DNN&V năm 2018, có 80% ý

kiến cho rằng nguồn kinh phí hoạt động là do nhân dân, các nhà hảo tâm và hội viên

đóng góp, còn nguồn tài trợ của Nhà nước rất ít và hạn chế.

- Công tác quản lý của Nhà nước đối với hội có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn

nhiều bất cập. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hội thiếu về số lượng. Các

quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động cũng như những điều kiện đảm bảo

để các tổ chức XH - NN tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, phản biện,

giám sát còn chưa đồng bộ, chưa được quy định cụ thể, cho nên việc lấy ý kiến của

các tổ chức XH - NN còn ở hình thức, mang tính chất làm cho đủ thủ tục và làm cho

có. Các cơ quan Nhà nước hiện nay vừa chưa thực hiện sự quan tâm đến hoạt động và

vai trò của hội, nhưng lại can thiệp quá sâu vào bộ máy của hội, nhất là về nhân sự.

Chính sách khuyến khích, hỗ trợ hội tham gia vào công tác xã hội còn thiếu đồng bộ,

việc phối hợp phân công, phân cấp quản lý hội chưa được xác định rõ.

Như vậy, một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay đó là sự thiếu đồng bộ

giữa văn bản pháp luật của Nhà nước, của tỉnh Bắc Ninh với quá trình hoạt động và

phát huy hiệu quả vai trò của các tổ chức XH - NN trong thực tế. Việt Nam đang

trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên tất yếu có những vấn đề nảy sinh đòi

hỏi Đảng, Nhà nước và lãnh đạo các địa phương cần có phương án khắc phục. Từ

nghiên về hoạt động của Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 - 2017,

tôi đưa ra một vài tham góp ý kiến sau:

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần đổi mới nhận thức về bản chất, vị trí, vai trò

của các tổ chức XH - NN mà chủ yếu là nâng cao tính độc lập, dân chủ của các tổ

chức XH - NN hiện nay, thực hiện đúng phương châm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước

quản lý, nhân dân làm chủ”. Các tổ chức XH - NN hiện nay không chỉ là công cụ

tuyên truyền hay vận động nhân dân thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và

Nhà nước mà còn là phương thức thực hiện các quyền dân chủ và lợi ích người lao

động. Các tổ chức XH - NN có một vai trò và vị trí riêng trong việc cung cấp hàng

hóa, dịch vụ và điều tiết hành vi của tổ chức và cá nhân trong xã hội cùng với thị

trường và Nhà nước.

95

Thứ hai, để quản lý tốt hơn hoạt động của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc

Ninh, nên có cơ chế quản lý và những chính sách pháp luật phù hợp với hoạt động

của từng hội, nhất là việc nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp

luật về các hội, ban hành luật về hội. Ban hành các quy định pháp luật về cơ chế và

các điều kiện đảm bảo để tổ chức XH - NN tham gia xây dựng, phản biện, giám sát

và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ ba, ngoài nguồn kinh phí từ sự đóng góp của hội viên và các nhà hảo tâm,

các nhà tài trợ, các doanh nghiệp,…trong bối cảnh hiện nay Nhà nước hoặc tỉnh nên

có những gói kinh phí hỗ trợ nguồn kinh phí cho các hội ( có thể không kéo dài), từ

đó sẽ tạo điều kiện cho hội hoạt động hiệu quả hơn.

Thứ tư, các cơ quan Nhà nước tỉnh Bắc Ninh cần tăng cường công tác giám sát

hoạt động của các tổ chức XH - NN trong tỉnh, đồng thời tham gia tập huấn nghiệp vụ

quản lý Nhà nước đối với các tổ chức XH - NN. Trong quá trình điền dã, tôi nhận thấy

công tác lưu trữ các văn bản, nghị quyết tại văn phòng của các hội cần phải khoa học

hơn để phục vụ công tác kiểm tra, đánh giá, xếp loại các hội theo từng năm, từng quý.

Thứ năm, để các tổ chức XH - NN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh phát triển và

phát huy được vai trò của mình thì các hội cần làm tốt công tác phát triển hội viên,

đặc biệt là ở các thôn, xã. Đây là việc quan trọng, hội viên chính là nhân tố của hội.

Hội cần xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, có kinh

nghiệm đồng thời, họ là những người giỏi chuyên môn, nghiệp vụ, nhiệt tình và có

tinh thần trách nhiệm cao.

Thứ sáu, các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh cần phải có những chính sách ưu

đãi để thu hút những cán bộ trẻ, nhiệt tình, có năng lực chuyên môn, bố trí cán bộ

chuyên trách làm công tác hội. Như vậy, các tổ chức XH - NN sẽ phát huy tốt hơn

trách nhiệm và đóng góp nhiều hơn trong phát triển KT - XH của tỉnh Bắc Ninh nói

riêng và cả nước nói chung.

96

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Qua nghiên cứu về các tổ chức XH - NN được đề cập ở chương 1, chương 2,

trong chương 3, tôi có một số nhận xét sau:

1. Từ hoạt động thực tế của các tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh, chúng ta

thấy các tổ chức XH - NN có vai trò đa dạng, phong phú. Họ là những người cung

cấp thông tin thị trường, cung cấp dịch vụ, tư vấn phản biện, giám định xã hội, phát

triển KT - XH, nâng cao dân trí, bảo vệ hội viên, xóa đói, giảm nghèo; Ngoài ra, các

tổ chức XH - NN ở tỉnh Bắc Ninh cũng tích cực tham gia các hoạt động VH - NT,

giáo dục, y tế, làm công tác từ thiện,….

2. Do Nhà nước cũng như tỉnh Bắc Ninh chưa có cơ sở pháp lý chung quy

định rõ ràng trách nhiệm và cơ chế hoạt động của các tổ chức XH - NN nên trong quá

trình hoạt động, các hội trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đã coi mục đích , nhiệm vụ trong

Điều lệ của Hội mình là cơ sở để hoạt động. Nhưng, Điều lệ của các hội chưa phải là

văn bản pháp luật có tính áp dụng chung cho tất cả các tổ chức XH - NN trên địa bàn

tỉnh Bắc Ninh. Đây là hạn chế cần phải giải quyết để các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc

Ninh có môi trường pháp lí hợp pháp, phát triển.

3. Muốn giải quyết khó khăn trên, trước hết Nhà nước hoặc UBND tỉnh Bắc

Ninh cần ban hành Luật về Hội (có thể Luật riêng của tỉnh Bắc Ninh), đồng thời Ban

chấp hành Hội cũng cần phải đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động. Có như

vậy mới tạo điều kiện cho các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh ngày càng phát triển

và đóng góp cho sự phát triển KT - XH của tỉnh Bắc Ninh.

97

KẾT LUẬN

Năm 1986, Đảng cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới đất nước,

chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần. Trong điều kiện cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế đã thay

đổi, hình thức tổ chức và sinh hoạt của các đoàn thể quần chúng phải đổi mới theo,

linh hoạt và đa dạng, thu hút ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân, đáp ứng nhu

cầu về nghề nghiệp và đời sống.

Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ, lại là tỉnh mới tái lập vào năm 1997, nhưng

tỉnh đã thực hiện đúng đắn, vận dụng linh hoạt đường lối của Đảng cộng sản Việt

Nam vào hoàn cảnh của tỉnh Bắc Ninh, không ngừng xây dựng và phát triển các tổ

chức XH - NN. Năm 1997, Bắc Ninh chỉ có 6 tổ chức XH - NN, đến nay (năm 2017)

đã có khoảng 15 tổ chức (trong đó có 11 tổ chức hoạt động từ 5 năm trở nên).

Các tổ chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh hình thành và phát triển là một quy luật

tất yếu của lịch sử, đặc biệt trong tiến trình hội nhập quốc tế như hiện nay. Các tổ

chức XH - NN hình thành ngày càng nhiều, đã và đang trở thành một bộ phận quan

trọng trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Hoạt động của các tổ

chức XH - NN tỉnh Bắc Ninh đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội,

tạo thêm việc làm cho người lao động, đô thị hóa nông thôn, nâng cao dân trí.

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các tổ chức XH - NN của tỉnh Bắc Ninh

cũng gặp không ít khó khăn:

Khó khăn thứ nhất đó là sự minh bạch về mặt pháp chế. Về mục tiêu hoạt động

gắn với sự vận động của quy luật kinh tế thị trường nhưng về mặt quản lí và định

hướng tư tưởng lại chịu ảnh hưởng bởi cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch trước đây.

Sự nhận thức về lợi ích chung, lợi ích riêng và trách nhiệm của các hội viên

trong tham gia các hoạt động của hội. Mối quan hệ điều hoà, phối hợp giữa các hội

thành viên còn lỏng lẻo, thiếu hiệu quả, chưa có sự chỉ đạo và gắn kết chặt chẽ. Nội

dung và phương thức hoạt động của một số hội, liên hiệp hội còn nghèo nàn, lúng

túng, có biểu hiện xơ cứng; công tác điều hành, phối hợp thiếu năng động, sáng tạo,

chưa theo kịp xu thế phát triển. Đội ngũ cán bộ hoạt động trong các tổ chức hội vừa

thiếu, vừa yếu; nhiều cán bộ là những người lớn tuổi, đã về hưu, tuy có tâm huyết,

98

trình độ, trách nhiệm và nhiệt tình nhưng lại bị hạn chế về sức khoẻ, thiếu kỹ năng

hoạt động xã hội, rất khó thu hút cán bộ trẻ tham gia hoạt động hội, nhất là ở những

hội ít có điều kiện thu nhập về kinh tế.

Nguyên nhân là nhận thức về vai trò, vị trí của các hội chưa theo kịp yêu cầu

mới của đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các cơ quan quản lý nhà nước

vẫn còn lúng túng trong việc quản lý cũng như hướng dẫn các tổ chức hoạt động có

hiệu quả. Nhiều tổ chức chưa thực sự đổi mới, chưa xác định được những nội dung

hoạt động thích hợp với vị thế của mình và tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt

động của nhiều tổ chức hiện còn bị hành chính hoá điều này ảnh hưởng không nhỏ

đến hiệu quả công việc và uy tín lâu dài của các tổ chức XH - NN.

Xuất phát từ đặc điểm của mình, các tổ chức XH - NN đã chú trọng thực hiện

vai trò tập hợp, đoàn kết, phối hợp và tuyên truyền, vận động các thành viên, hội viên

làm tròn trách nhiệm, nghĩa vụ đối với tỉnh, tham gia xây dựng cơ chế, chính sách,

pháp luật và giám sát, phản biện xã hội đối với cơ chế, chính sách, pháp luật về phát

triển xã hội và quản lý phát triển xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp

pháp của hội viên, đoàn viên, cộng đồng; cung ứng các dịch vụ công phục vụ cộng

đồng; và góp phần mở rộng hợp tác quốc tế, thực hiện đối ngoại nhân dân, phát triển

tình hữu nghị, sự hiểu biết và hợp tác giữa các dân tộc.

Nhìn nhận những thành tựu đạt được của các tổ chức XH -NN của tỉnh Bắc

Ninh đạt được trong 20 năm cho thấy đây mới chỉ là bước đầu vì thực sự những đóng

góp đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng to lớn, số lượng đông đảo các thành viên,

hội viên của các tổ chức này, chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển xã hội và

quản lý phát triển xã hội tỉnh trong tình hình hiện nay.

Trong những năm tới, các tổ chức XH -NN ở tỉnh Bắc Ninh có điều kiện phát

triển mạnh vì:

Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa tạo ra sự thúc đẩy mạnh mẽ với cải cách nền hành chính. Kinh tế thị trường ở

Việt Nam hiện nay đang phát triển ở giai đoạn sơ khai, các quan hệ kinh tế cần có

pháp luật điều chỉnh rộng , thích ứng với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Pháp

luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay giữ vai trò ghi nhận và trật

99

tự hóa các quan hệ kinh tế đã hình thành và có xu hướng phổ biến, mặt khác phải

đảm bảo sự thông thoáng cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sự phát triển

kinh tế xã hội. Nếu xét ở khía cạnh này rõ ràng quá trình xây dựng pháp luật kinh tế,

xã hội phải là quá trình cần sự tham gia trực tiếp của các cộng đồng doanh nghiêp,

của các tổ chức XH -NN, bởi không một nhà hoạch định chính sách kinh tế, xã hôi

nào có thể am hiểu mọi vấn đề, trong khi chính những tổ chức XH- NN là thành phần

quan trọng thường xuyên cọ sát với thực tiễn nên hơn ai hết họ chính là người biết rõ

những thuận lợi, khó khăn trong chính sách hiện hành và nhu cầu cầu xây dựng chính

sách mới.

Năm 2019, Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh xác định tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị

quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015 - 2020, Kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững, đẩy

mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá thúc đẩy

phát triển dịch vụ thương mại theo hướng văn minh, hiện đại; tập trung mọi nguồn

lực đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển các ngành công

nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ; quan tâm tới nông nghiệp, nông dân và

nông thôn, chú trọng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất hàng hóa, đẩy

mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển đô thị, phát triển kinh

tế làng nghề; tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, nâng

cao năng lực cạnh tranh…. Bắc Ninh luôn đi đầu trong cả nước trong công cuộc đổi

mới. Những đổi thay và sự vận dụng linh hoạt của Ban lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh trong

chính sách trong đầu tư, quản lí và phát triển kinh tế, xã hội là môi trường tốt cho các

tổ chức XH - NN của tỉnh Bắc Ninh phát triển và đổi mới mình đáp ứng yêu cầu mới

của thời đại.

100

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Chữ thập đỏ tỉnh Bắc Ninh khóa I, nhiệm kỳ

1997 - 2001, trình Đại hội đại biểu khóa II, nhiệm kỳ 2001 - 2006, Hội Chữ thập

đỏ tỉnh Bắc Ninh (2001), số 09/BC - CTĐ.

2. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh khóa I (1997 -

2002), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa II (2002 - 2007),Hội

Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh (2002), số 16/BC - SVC.

3. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh khóa I (1997 - 2002),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa II (2002 - 2007),Hội Nhà báo

tỉnh Bắc Ninh (2002), số 17/BC - HNB.

4. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Đông y tỉnh Bắc Ninh khóa I (1997 - 2002),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa II (2002 - 2007), Hội Đông y

tỉnh Bắc Ninh (2002), số 32/ BC - HĐY.

5. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh khóa I (1997 - 2002),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa II (2002 - 2007),Hội Làm

vườn tỉnh Bắc Ninh (2002), số 38/ BC - HLV.

6. Báo cáo tổng kết của Ban Chấp hành Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh khóa I (2001 -

2005), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa II (2005 - 2010), Hội

Luật gia tỉnh Bắc Ninh (2005), số 24/ BC - HLG.

7. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Chữ thập đỏ tỉnh Bắc Ninh khóa II, nhiệm kỳ

2001 - 2006, trình Đại hội đại biểu khóa III, nhiệm kỳ 2006 - 2011,Hội Chữ thập

đỏ tỉnh Bắc Ninh (2006), số 15/BC - CTĐ.

8. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh trình Đại hội Khuyến

học tỉnh lần thứ II, nhiệm kỳ lần I (2001 - 2006),Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh

(2006), số 57/ BC - HKH.

9. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Đông y tỉnh Bắc Ninh khóa II (2002 - 2007),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa III (2007 - 2012), Hội Đông y

tỉnh Bắc Ninh (2007), số 17/ BC - HĐY.

10. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh khóa II (2002 - 2007),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa III (2007 - 2012), Hội Nhà

báo tỉnh Bắc Ninh (2007), số 29/BC - HNB.

101

11. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh khóa II (2002 - 2007),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa III (2007 - 2012),Hội Làm

vườn tỉnh Bắc Ninh (2007), số 59 / BC - HLV.

12. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh khóa II (2002 -

2007), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa III (2007 - 2012),Hội

Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh (2007), số 75/BC - SVC.

13. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Cựu giáo chức tỉnh Bắc Ninh lần I (2005 -

2009), trình Đại hội lần II, nhiệm kỳ (2009 - 2014), Hội Cựu giáo chức tỉnh Bắc

Ninh (2009), số 23/BC - CGC.

14. Báo cáo tổng kết của Ban Chấp hành Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh khóa II (2005 -

2010), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa III (2010 - 2015), Hội

Luật gia tỉnh Bắc Ninh (2010), số 17/ BC - HLG.

15. Báo cáo tổng kết hoạt động VH - NT tỉnh Bắc Ninh khóa II (2005 - 2010),

phương hướng, nhiệm vụ, các giải pháp khóa III, nhiệm kỳ (2013 - 2017),Hội VH

- NT tỉnh Bắc Ninh (2010), số 27/BC - VHNT.

16. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Chữ thập đỏ tỉnh Bắc Ninh khóa III, nhiệm kỳ

2006 - 2011, trình Đại hội đại biểu khóa IV, nhiệm kỳ 2011 - 2016, Hội Chữ thập

đỏ tỉnh Bắc Ninh (2011), , số 23/BC - CTĐ.

17. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh trình Đại hội Khuyến

học tỉnh lần thứ III, nhiệm kỳ lần II (2006 - 2011), Hội Khuyến học tỉnh Bắc

Ninh (2011), số 36/ BC - HKH.

18. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh khóa III (2007 -

2012), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa IV (2012 - 2017), Hội

Làm vườn tỉnh Bắc Ninh (2012), số 32/ BC - HLV.

19. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Đông y tỉnh Bắc Ninh khóa III (2007 - 2012),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa IV (2012 - 2017), Hội Đông y

tỉnh Bắc Ninh (2012), số 35/ BC - HĐY.

20. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh khóa III (2007 -

2012), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa IV (2012 - 2017),Hội

Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh (2012), số 70/BC - SVC.

102

21. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh khóa III (2007 - 2012),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa IV (2012 - 2017), Hội Nhà báo

tỉnh Bắc Ninh (2012), số 110/BC - HNB.

22. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ lần I (2007 - 2012), phương hướng, nhiệm vụ nhiệm

kỳ lần II (2012 - 2017), Hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh (2012), số 150/BC -

BNSMEA.

23. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Cựu giáo chức tỉnh Bắc Ninh lần II (2009 -

2014), trình Đại hội lần III, nhiệm kỳ (2014 - 2019), Hội Cựu giáo chức tỉnh Bắc

Ninh (2014), số 19/BC - CGC.

24. Báo cáo tổng kết của Ban Chấp hành Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh khóa III (2010 -

2015), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa IV (2015 - 2020), Hội

Luật gia tỉnh Bắc Ninh (2015), số 36/ BC - HLG.

25. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Chữ thập đỏ tỉnh Bắc Ninh khóa IV, nhiệm kỳ

2011 - 2016, trình Đại hội đại biểu khóa V, nhiệm kỳ 2016 - 2021,Hội Chữ thập

đỏ tỉnh Bắc Ninh (2016), số 12/BC - CTĐ.

26. Báo cáo tổng kết công tác thi đua khen thưởng năm 2016, phương hướng, nhiệm

vụ năm 2017, Hội Cựu giáo chức tỉnh Bắc Ninh (2016), số 23/BC - CGC.

27. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh trình Đại hội Khuyến

học tỉnh lần thứ IV, nhiệm kỳ lần III (2011 - 2016), Hội Khuyến học tỉnh Bắc

Ninh (2016), số 27/ BC - HKH

28. Báo cáo tổng kết năm 2016, phương hướng, nhiệm vụ năm 2017, Hội Luật gia

tỉnh Bắc Ninh (2016), số 41/ BC - HLG.

29. Báo cáo tổng kết năm 2017, phương hướng, nhiệm vụ năm 2018, Hội Chữ thập

đỏ tỉnh Bắc Ninh (2017), số 29/BC - CTĐ.

30. Báo cáo tổng kết hoạt động VH - NT tỉnh Bắc Ninh năm 2017, phương hướng,

nhiệm vụ, các giải pháp năm 2018, Hội VH - NT tỉnh Bắc Ninh (2017), số 29/BC

- VHNT

31. Báo cáo tổng kết năm 2017, phương hướng, nhiệm vụ năm 2018, Hội Luật gia

tỉnh Bắc Ninh (2017), số 39/ BC - HLG.

103

32. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Đông y tỉnh Bắc Ninh khóa IV (2012 - 2017),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa V (2017 - 2022), Hội Đông y

tỉnh Bắc Ninh (2017), số 46/ BC - HĐY.

33. Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh khóa IV (2012 - 2017),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa V (2017 - 2022),Hội Làm

vườn tỉnh Bắc Ninh (2017), số 47/ BC - HLV.

34. Báo cáo tổng kết công tác thi đua khen thưởng năm 2017, phương hướng, nhiệm

vụ năm 2018 ,Hội Cựu giáo chức tỉnh Bắc Ninh (2017), số 52/BC - CGC.

35. Báo cáo tổng kết thi đua, khen thưởng năm 2017, phương hướng, nhiệm vụ năm

2018, Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh (2017), số 60/ BC - HLV.

36. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh khóa IV (2012 -

2017), phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa V (2017 - 2022), Hội

Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh (2017), số 83/BC - SVC.

37. Báo cáo của Ban chấp hành Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh khóa IV (2012 - 2017),

phương hướng, nhiệm vụ của Ban chấp hành khóa V (2017 - 2022), Hội Nhà báo

tỉnh Bắc Ninh (2017), số 89/BC - HNB.

38. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ lần II (2012 - 2017), phương hướng, nhiệm vụ nhiệm

kỳ lần III (2017 - 2022), Hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh (2017), số 112/BC -

BNSMEA.

39. Báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2017 và phương hướng,

nhiệm vụ năm 2018, Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh (2017), số 117/ BC - HKH.

40. Báo cáo tổng kết công tác thi đua khen thưởng năm 2017, phương hướng, nhiệm

vụ năm 2018, Hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh (2017), số 136 /BC - BNSMEA.

41. Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại, Nxb

Sự thật, Hà Nội.

42. Chính phủ (2003), Nghị định của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và

quản lý hội, số 88/2003/NĐ - CP.

43. Chính phủ (2010), Nghị định quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, số

45/2010/NĐ - CP.

44. Nguyễn Thị Chung (2018), Các tổ chức XH - NN ở thành phố Thái Nguyên từ

năm 1986 đến năm 2016 ,Luận văn thạc sĩ trường Đại học sư phạm Thái Nguyên.

104

45. Cục thống kê Bắc Ninh (2017), Niên giám thống kê Bắc Ninh 1997- 2017, Bắc Ninh.

46. Hồ Quế Hậu (2014), Vai trò của các tổ chức XH - NN đối với sự phát triển kinh

tế sau 30 năm đổi mới, Tạp chí kinh tế và phát triển, trang 4, số 208.

47. Đào Văn Hoàng (1997), Hoạt động của Hội Làm vườn đôi điều ghi nhận, Bào

Bắc Ninh hàng ngày, trang 6, số 258 (ngày 18/08/1997).

48. Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh (2016), Kỷ yếu Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh

(2000 - 2016), Báo Bắc Ninh.

49. Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh (2007), Lịch sử Báo Bắc Ninh, Hội Nhà báo Bắc Ninh.

50. Hội VH - NT tỉnh Bắc Ninh (2017), VH - NT tỉnh Bắc Ninh 20 năm xây dựng và

phát triển (1997 - 2017), Nxb Hội Nhà văn.

51. Khánh Linh (2017), Nghề báo trong tôi, Báo Bắc Ninh hàng tháng, trang 6, tháng

8/ 2017.

52. Lịch sử Đảng bộ Bắc Ninh (1975 - 2000), tập 3, Tỉnh ủy Bắc Ninh (2005), Ban

tuyên giáo tỉnh Bắc Ninh.

53. Lịch sử Đảng bộ Bắc Ninh (1926 - 2008), Ban chấp hành Đảng bộ Bắc Ninh

(2010), Nxb Chính trị Quốc gia.

54. Nguyễn Đình Long (2008), Thực trạng và giải pháp về tổ chức và hoạt động của

các hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam, Viện chính sách và chiến

lược phát triển nông thôn, Hà Nội.

55. Trung Nguyên (2017), Phát triển trang trại nông nghiệp ứng dụng công nghệ

cao, báo Bắc Ninh hàng tháng, tháng 6/2017.

56. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh,UBND

tỉnh Bắc Ninh (1997), số 860/QĐ - UBND

57. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Cựu giáo chức tỉnh Bắc Ninh, UBND

tỉnh Bắc Ninh (1999), số 888/QĐ - UBND.

58. Quyết định về việc thành lập Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh,UBND tỉnh Bắc

Ninh (2000), số 69/2000/QĐ - UBND.

59. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Nhà báo tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh

Bắc Ninh (2000), số 107/QĐ - UBND.

105

60. Quyết định của UBND tỉnh về việc cho phép thành lập Hội Luật gia Việt Nam

tỉnh Bắc Ninh và công nhận Ban chấp hành và Ban thường vụ lâm thời của Hội,

UBND tỉnh Bắc Ninh (2001), số 54/QĐ - UBND.

61. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh,UBND tỉnh

Bắc Ninh (2005), số 548/QĐ - UBND.

62. Quyết định của Ban Chấp hành Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành quy

chế của Ban chấp hành Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh, Hội Luật gia tỉnh Bắc Ninh

(2010), số 05/QĐ - BCH.

63. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Đông y tỉnh Bắc Ninh,UBND tỉnh Bắc

Ninh (2011), số 126/QĐ - UBND.

64. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hiệp hội DNN&V tỉnh Bắc Ninh, UBND

tỉnh Bắc Ninh (2012), số 611/QĐ - UBND.

65. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Làm vườn tỉnh Bắc Ninh, UBND tỉnh

Bắc Ninh (2013), số 1897/QĐ - UBND.

66. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh, UBND

tỉnh Bắc Ninh (2014), số 80/QĐ - UBND.

67. Quyết định về việc phê duyệt Điều lệ Hội Khuyến học tỉnh Bắc Ninh,UBND tỉnh

Bắc Ninh (2014), số 924/QĐ - UBND.

68. Hoài Phương (2017), Điểm sáng công tác khuyến học, Báo Bắc Ninh hàng tháng,

trang 9, tháng 3/2017.

69. Nguyễn Bá Sinh (2000), Báo Bắc Ninh sự ra đời, quá trình trưởng thành và phát

triển, Báo Bắc Ninh, trang 5, số 93, ngày 04/03/2000.

70. Nguyễn Phước Thọ (2008), Vai trò tham gia xây dựng pháp luật của các tổ chức

XH-NN,

htt://xaydungphapluat.chinhphu.vn/portal/pape/portal/xydungphapluat/tinchi

71. Nguyễn Đình Thuận (1993), Tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển đường lối

đổi mới của Đảng, Tạp chí lịch sử Đảng, số 4.

72. Võ Đình Toàn (2007), Các tổ chức XH - NN và hiệp hội kinh tế với việc xây dựng

chính sách và pháp luật trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Đề tài khoa học

cấp bộ của Bộ Tư pháp viện khoa học, số 7536.

106

73. Khắc Tuấn (2015), Chăn nuôi Bắc Ninh thực trạng và giải pháp, Báo Bắc Ninh,

trang 6, số 180, ngày 01/06/2015.

74. Đoàn Trọng Tuyến (1987), “Những vấn đề kinh tế Việt Nam bước vào kế hoạch

5 năm (1986 - 1990)”, Những vấn đề cơ bản của thời kỳ quá độ,Nxb Nông

nghiệp.

75. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2005), Văn kiện Đại hội Đảng bộ Bắc Ninh lần thứ XVII

(2005 - 2010), Ban tuyên giáo tỉnh Bắc Ninh.

76. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2010), Văn kiện Đại hội Đảng bộ Bắc Ninh lần thứ XVIII

(2010 - 2015), Ban tuyên giáo tỉnh Bắc Ninh.

77. Tỉnh ủy Bắc Ninh (2015), Văn kiện Đại hội Đảng bộ Bắc Ninh lần thứ XIX (2015

- 2020), Ban tuyên giáo tỉnh Bắc Ninh.

78. Thái Uyên (2016), Mấy vấn đề cần giải quyết trong phát triển kinh tế trang trại,

Báo Bắc Ninh hàng ngày, trang 4, số 196, ngày 13/06/2016.

79. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

80. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng cộng sản Việt Nam

(2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

81. Hải Yến (2017), Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, Báo Bắc Ninh

hàng ngày, trang 8, số 196, ngày 13/06/2016.

107

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

THÔNG TIN CÁC TỔ CHỨC XH - NN TỈNH BẮC NINH (1997 - 2017)

SỐ ĐIỆN STT TÊN HỘI CHỦ TỊCH ĐỊA CHỈ THOẠI

Số 5, Lý Thái Tổ, Hội Cựu giáo Nguyễn Gia Vân 0222 3822351 1 thành phố Bắc Ninh chức

Số 62, đường Hai Bà Hiệp Hội

Nguyễn Nhân Trưng, phường suối Doanh 0222 387559 2 Nghiệp Vừa Phượng hoa, thành phố Bắc

Ninh và Nhỏ

Nguyễn Hạnh Số 34, Lê Văn Thịnh, 0222 3822601 3 Hội Đông Y Chung thành phố Bắc Ninh

Hội Khuyến Số 5, Lý Thái Tổ, Lê Nho Nùng 0222 3822381 4 Học thành phố Bắc Ninh

Số 122, đường Ngô Hội Làm Nguyễn Xuân Hồng Gia Tự, thành phố Bắc 0222 3822775 5 Vườn Ninh

Số 8, đường Phù Đổng

Thiên Vương, phường 6 Hội Luật gia Nguyễn Văn Hoạt 0222 3810656 suối hoa, thành phố

Bắc Ninh

Đường Nguyên Phi Ỷ

7 Hội Nhà báo Nguyễn Bá Sinh Lan, phường suối hoa, 0222 3827037

thành phố Bắc Ninh

Số 62, Hai Bà Trưng, Hội Sinh vật 8 Phạm Ngọc Tạo phường Suối hoa, 0222 3810413 cảnh thành phố Bắc Ninh

Hội Văn học - Số 5, Lý Thái Tổ, 9 Nguyễn Công Hảo 0222 3820940 nghệ thuật thành phố Bắc Ninh

PHỤ LỤC 2: DANH SÁCH ĐIỀU TRA

1. Danh sách điều tra hội viên Hiệp hội DNN&V

STT

HỘI VIÊN

ĐỊA CHỈ

SỐ ĐIỆN THOẠI

Giám đốc công ty TNHH thương

Nguyễn Thị Anh

mại sản xuất và trang trí nội thất Bảo

0988990585

1

Ngọc (huyện Thuận Thành)

Giám đốc công ty TNHH Xây dựng

Nguyễn Bá Hành

0904248166

2

Đồng Tâm (huyện Gia Bình)

Giám đốc HTX Mây tre đan xuất

Nguyễn Thị Thinh

0973981435

3

khẩu Toàn Phong (huyện Gia Bình)

Giám đốc công ty Tất Thắng (thị xã

Nguyễn Tất Thụ

0913523600

4

Từ Sơn)

Giám đốc công ty cơ khí thương mại

Nguyễn Bá Toàn

02223867759

5

Ninh Nam (huyện Lương Tài)

2. Danh sách điều tra hội viên Hội Khuyến học

STT HỘI VIÊN ĐỊA CHỈ SỐ ĐIỆN THOẠI

Bùi Văn Hoàn Xã Bồng Lai - Quế Võ 0374600261 1

Nguyễn Văn Thiềng Thị trấn Phố Mới - Quế Võ 0976234567 2

Nguyễn Mậu Ánh Xã Phương Liễu - Quế Võ 0367890765 3

Phường Vân Dương - Phùng Thị Thiệp 0986564569 4 thành phố Bắc Ninh

Nguyễn Thị Xuân Xã Nhân Thắng - Gia Bình 0945787899 5

PHỤ LỤC 3: MẪU PHIẾU ĐIỀU TRA

PHIẾU ĐIỀU TRA

Tôi là học viên hệ Thạc sĩ, khoa Lịch Sử, trường Đại học sư phạm- Đại học

Thái Nguyên. Tôi đang thực hiện đề tài: Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tỉnh Bắc

Ninh (1997 - 2017). Tôi xây dựng phiếu điều tra nhằm thu thập thông tin để hoàn

thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình.

Ông (bà) xin vui lòng trả lời một số câu hỏi sau:

1. Họ và tên:………………………………………………..

2. Giới tính:………………….

3. Là thành viên của Hội…………………………………………………

4. Theo Ông (bà), Hội ……………………………………………..có vai trò:

-  Là cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước

-  Bảo vệ lợi ích chính đáng của hội viên

-  Trao đổi thông tin, tìm hiểu thị trường và kinh nghiệm quản lý

-  Liên kết giữa các hội viên để nâng cao hiệu quả hoạt động

-  Góp phần phát triển kinh tế đối ngoại

-  Tạo việc làm cho nhân dân, xóa đói giảm nghèo.

-  Góp phần phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí

5. Trong quá trình hoạt động, Hội gặp phải những khó khăn gì?

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

6. Để giúp Hội hoạt động hiệu quả hơn, phát triển hơn, Hội cần có các giải

pháp gì?

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

.............................................................................................................................

Xin chân thành cảm ơn Ông (bà)!

Bắc Ninh, ngày…...tháng…..năm

Ký tên

PHỤ LỤC 4 : MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ TỔ CHỨC XH - NN TỈNH BẮC NINH

Hình 1: Trang trại nuôi lợn thịt của ông Ngô Văn Tốn

(Hạp Hĩnh - thành phố Bắc Ninh)

(Tác giả chụp 12/12/2018)

Hình 2:Hoạt động gặp “bác sĩ” để chuẩn bệnh doanh nghiệp của Hiệp hội DNN&V.

(Tác giả chụp 23/12/2018)

Hình3: Hội Đông y Bắc Ninh khám bệnh cho thương binh.

(Hội Đông y Bắc Ninh cung cấp)

Hình 4: Hội khuyến học Bắc Ninh với khuyến học, khuyến tài.

(Hội Khuyến học Bắc Ninh cung cấp)

Hình 5: Các tác phẩm dự thi Hội Sinh vật cảnh Bắc Ninh lần thứ XVII (2019)

(Tác giả chụp ngày 23/02/2019)

Hình 6: Hội thi thả chim Bồ câu của Hội Sinh vật cảnh tỉnh Bắc Ninh(2019)

(Tác giả chụp ngày 26/02/2019)