ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ CHUNG CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2016 LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ CHUNG CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2016
Ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã ngành: 8.22.90.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. NGHIÊM THỊ HẢI YẾN THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: “Các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp ở thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016” dưới sự
hướng dẫn của TS. Nghiêm Thị Hải Yến là kết quả nghiên cứu của cá nhân
tôi, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực chưa được công bố.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Chung
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.
Nghiêm Thị Hải Yến đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Sư
phạm - Đại học Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, ban, ngành đoàn thể thành phố
Thái Nguyên; UBND thành phố Thái Nguyên; Hội Đông y; Hội Chữ thập đỏ;
Hội Khuyến học; Hội Doanh nghiệp; Hội Làm vườn; Hội Sinh vật cảnh; Hội
Văn học nghệ thuật; Hội Luật gia thành phố… đã cung cấp số liệu thực tế
cũng như những thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các đồng nghiệp, bạn bè cùng
toàn thể gia đình, người thân đã động viên tôi trong thời gian nghiên cứu
đề tài.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Chung
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ........................................................ iv
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài. ............................... 4
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 4
5. Đóng góp của Luận văn ................................................................................. 5
6. Cấu trúc của Luận văn. .................................................................................. 5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN VÀ
CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TRƯỚC NĂM 1986 ............ 7
1.1. Vài nét về thành phố Thái Nguyên ............................................................. 7
1.2. Kinh tế, xã hội thành phố Thái Nguyên trước năm 1986 ......................... 14
1.2.1. Kinh tế ................................................................................................... 14
1.2.2. Tình hình xã hội ..................................................................................... 18
1.3. Sự ra đời và thực trạng hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp ở thành phố Thái Nguyên .................................................................... 20
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 25
Chương 2: HOẠT ĐỘNGCỦA CÁC CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI -
NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 2016 ............................................................................................. 26
2.1. Đường lối đổi mới kinh tế - xã hội của Đảng và kế hoạch hành
động của thành phố Thái Nguyên .................................................................... 26
2.2. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ........ 36
2.2.1. Hội Doanh nghiệp .................................................................................. 36
iii
2.2.2. Hội Làm vườn ........................................................................................ 41
2.2.3. Hội Sinh vật cảnh .................................................................................. 44
2.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực lĩnh vực văn hóa -
giáo dục ............................................................................................................ 46
2.3.1. Hội Văn học - nghệ thuật ....................................................................... 46
2.3.2. Hội khuyến học ...................................................................................... 49
2.3.3. Hội Luật gia ........................................................................................... 54
2.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế ............. 57
2.4.1. Hội Đông y ............................................................................................ 57
2.4.2. Hội Chữ thập đỏ..................................................................................... 60
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 65
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI -
NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN ................................. 67
3.1. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh
tế - xã hội ở thành phố Thái Nguyên ............................................................... 68
3.1.1. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên là
cầu nối giữa doanh nghiệp, người lao động, nhà chuyên môn với Nhà
nước trong việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật nhằm phát
triển kinh tế ...................................................................................................... 68
3.1.2. Hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trên địa bàn
thành phố Thái Nguyên phù hợp với yêu cầu của thị trường, pháp luật
của nhà nước nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo .................................... 69
3.1.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp bước đầu đã có hoạt động liên
kết, hợp tác giữa các hội viên để quản lý, điều tiết nhằm khắc phục
những bất cập của thị trường, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các hội viên và cả nền kinh tế ................................................................... 71
3.1.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò thúc đẩy hợp tác
quốc tế góp phần phát triển kinh tế đối ngoại ................................................. 72
iv
3.2. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển văn
hóa - giáo dục ở thành phố Thái Nguyên. ....................................................... 73
3.3. Một số hạn chế và giải pháp nhằm phát triển của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên ........................................... 77
3.3.1. Về hạn chế ............................................................................................. 77
3.3.2. Một số giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên .................................. 81
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 84
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 88
PHỤ LỤC
v
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Viết là Đọc là
Ban chấp hành BCH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐN
Giáo dục và đào tạo GD&ĐT
Hội đồng Nhân dân HĐND
Phổ thông cơ sở PTCS
Phổ thông trung học PTTH
Tư bản chủ nghĩa TBCN
Ủy ban Hành chính UBHC
Ủy ban Nhân dân UBND
Ủy viên ban chấp hành UVBCH
Xã hội chủ nghĩa XHCN
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chủ trương đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp ở nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô tổ
chức. Đảng và Nhà nước ta khẳng định: Tổ chức xã hội là bộ phận quan trọng
cấu thành hệ thống chính trị Việt Nam hiện đại, các tổ chức xã hội được hình
thành trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản của người lao động; Tổ chức và hoạt
động theo điều lệ hoặc theo quy định của nhà nước, nhân danh tổ chức khi
tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng
của các thành viên. Theo nguyên tắc hình thức tổ chức và hoạt động, các tổ
chức xã hội được chia thành các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức tự
quản, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức quần chúng [40;tr.2].
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là loại hình tổ chức xã hội được hình
thành theo quy định của nhà nước. Hoạt động của các tổ chức xã hội nghề
nghiệp đặt dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy
nhiên, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng là tổ chức hoạt động mang tính chất
tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ chức do tổ chức đó quyết định hoạt
động không mang tính quyền lực nhà nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện
khi hình thành tổ chức.
Hiện nay, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp xuất hiện nhiều ở các tỉnh
thành trong cả nước và đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh
tế đất nước. Là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, Thái Nguyên đã
có bước phát triển mạnh mẽ, ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội, trở thành
một trong những tỉnh vững mạnh của khu vực trung du miền núi phía Bắc. Để
đạt được những thành tựu đó không thể phủ nhận vai trò của các tổ chức xã
hội nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.
Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên đã tổ chức và hoạt động ra sao, có vai trò
1
như thế nào? Đó là những vấn đề cần phải được nghiên cứu, đánh giá một cách
khách quan và rút ra những bài học kinh nghiệm để các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp thành phố tiếp tục phát triển, đi lên, đóng góp nhiều hơn cho công cuộc
xây dựng đất nước nói chung và thành phố Thái Nguyên nói riêng.
Với những lí do trên, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề “Các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016” làm
đề tài Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ khi thành lập cho đến nay, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành
phố Thái Nguyên có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước và của
tỉnh Thái Nguyên, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Trong quá thực hiện luận văn tôi đã tìm hiểu và tiếp cận một
số công trình khoa học liên quan trực tiếp đến hoạt động của tổ chức xã hội
nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên:
Đầu tiên là hai công trình với tiêu đề “Bắc Thái 40 năm đấu tranh và
xây dựng” do Sở văn hóa - thông tin, xuất bản năm 1985; "Kỷ yếu 40 năm
thành phố Thái Nguyên (1962 - 2002)", xuất bản năm 2002. Nội dung của hai
công trình đã đề cập đến điều kiện tự nhiên - xã hội, tiềm năng phát triển của
thành phố Thái Nguyên; Khái quát tình hình kinh tế - xã hội; Khái quát sơ
lược về vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thành phố Thái Nguyên
trước và trong thời kỳ đổi mới.
Tác giả Đoàn Trọng Truyến với bài viết "Những vấn đề kinh tế của Việt
Nam bước vào kế hoạch 5 năm (1986-1990)" trong cuốn "Những vấn đề kinh tế
cơ bản của thời kỳ quá độ"- Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 1987, đề cập đến những
thành tựu cơ bản mà đất nước đã đạt được trong những năm 1981-1985 và chủ
trương, phương hướng có tính chiến lược trong những năm đầu đổi mới.
Tác giả Nguyễn Đình Thuận trong bài viết “Tìm hiểu quá trình hình
thành, phát triển đường lối đổi mới của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, xuất
2
bản năm 1993, đã đề cập đến bối cảnh đất nước và chủ trương của Đảng về
đổi mới kinh tế, chính trị.
Năm 1987, đồng chí Trường Chinh đã viết và cho xuất bản cuốn sách
với tiêu đề: "Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại". Nội
dung cuốn sách khẳng định tính đúng đắn và những thành tựu đạt được, chỉ ra
những sai lầm, khuyết điểm của mô hình kinh tế cũ, từ đó thấy rõ cần thiết
phải đổi mới, nhất là đổi mới tư duy kinh tế.
Ấn phẩm: “Vai trò tham gia xây dựng pháp luật của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp”, của tác giả Nguyễn Phước Thọ, xuất bản năm 2008 đề cập tới
vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc tham gia xây dựng các
văn bản pháp luật cho nhà nước, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn
thiện hệ thống pháp luật.
Cũng trong năm 2008, bài viết “Thực trạng và giải pháp về tổ chức
hoạt động của các hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam”, do
Nguyễn Đình Long - Chủ biên đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển
nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong thời kỳ mới.
Năm 2003, Hội Chữ thập đỏ tỉnh Thái Nguyên giới thiệu cuốn sách
“Sáng mãi những tấm lòng nhân đạo”. Cuốn sách phản ánh những việc làm
nhân đạo, từ thiện tiêu biểu ở các địa phương, đơn vị của các cá nhân, tập thể
được dư luận công nhận và hoan nghênh.
Qua quá trình tìm tài liệu nghiên cứu cho đề tài, tôi nhận thấy:
Tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, đã có một số tài liệu đề cập đến các
tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, những tài liệu tìm hiểu về
các tổ chức này ở thành phố Thái Nguyên không nhiều. Trong một số bài viết
đăng trên báo địa phương nội dung chỉ mang tính chất cung cấp thông tin,
chưa đi sâu tìm hiểu về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Từ năm 1986 cho đến nay, ở thành phố Thái Nguyên, tôi chưa thấy có
một công trình nghiên cứu nào trình bày một cách hệ thống, toàn diện về các
3
tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Điều này khiến tôi quyết tâm nghiên cứu chủ đề
mà mình đã chọn mặc dù nguồn tài liệu còn hạn chế.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài.
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành
phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến 2016.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Giai đoạn 1986 - 2016 (Tuy nhiên, để giải quyết một
trong những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra trong chương 1 luận văn,
chúng tôi có khái quát tình hình kinh tế xã hội Thái Nguyên từ năm 1954 đến
năm 1986).
- Về không gian: Địa bàn thành phố Thái Nguyên
- Về loại hình nghiên cứu: Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (chúng tôi
lựa chọn một số trường hợp tiêu biểu).
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Đề tài làm rõ sự hình thành và hoạt động của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016.
- Nhận xét về những thành tựu; hạn chế và khó khăn trong hoạt động
của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.
- Đánh giá vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tại liệu thành văn: Các công trình khoa học như sách, báo, tạp
chí, luận văn, luận án... đã được công bố liên quan đến nội dung nghiên cứu
của luận văn.
- Nguồn tài liệu lưu trữ: Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
III, IV, V, VI, VII, VIII, IX; các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước
4
về kinh tế - xã hội. Văn kiện, nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ tỉnh, Thành
uỷ, Uỷ ban Nhân dân thành phố Thái Nguyên trong thời kỳ 1975-2016, trong
đó chủ yếu là thời kỳ 1986-2016 được lưu trữ tại kho lưu trữ Văn phòng Tỉnh
uỷ; Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban Nhân dân tỉnh; Sở Văn hoá -Thông tin; Phòng
Lịch sử - Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ; Phòng Thống kê thành phố; Văn phòng
Thành uỷ; Văn phòng Uỷ ban Nhân dân Thành phố.
- Tài liệu điền dã.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp logic là những
phương pháp chủ đạo được thực hiện xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu
đề tài. Phương pháp tổng hợp được thực hiện trong quá trình thu thập thông
tin. Phương pháp điền dã: quan sát cảnh quan, phỏng vấn nhân chứng... được
sử dụng tại thực địa.
Phương pháp phân tích, so sánh... giúp tác giả hoàn thành mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt của luận văn.
5. Đóng góp của Luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và hệ
thống về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là kênh thông tin góp phần đề xuất
những giải pháp nhằm phát huy thế mạnh của các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp ở thành phố Thái Nguyên trong giai đoạn tiếp theo.
- Luận văn cung cấp thêm nguồn tài liệu phục vụ việc nghiên cứu lịch
sử Thái Nguyên trong thời kỳ đổi mới, làm tài liệu phục vụ giáo dục truyền
thống và giảng dạy, học tập lịch sử địa phương.
6. Cấu trúc của Luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
được cấu trúc thành 3 chương.
5
Chương 1: Khái quát về thành phố Thái Nguyên và các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp trước năm 1986.
Chương 2: Hoạt động của các tổ chức xã - hội nghề nghiệp ở thành
phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016.
Chương 3: Một số nhận xét về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở
thành phố Thái Nguyên.
6
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN VÀ CÁC TỔ CHỨC
XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TRƯỚC NĂM 1986
1.1. Vài nét về thành phố Thái Nguyên
Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ;
phía bắc tiếp giáp tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên
Quang, phía đông giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía Nam tiếp giáp
thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên nằm trong khoảng 21°33'51'' vĩ Bắc đến
105°52'46'' KĐ; với diện tích tự nhiên là 3.562,82 km2. Với hai thành phố trực
thuộc tỉnh là: thành phố Sông Công và thành phố Thái Nguyên [27;tr.5].
Thành phố Thái Nguyên có diện tích tự nhiên là 223km2. Đây là trung
tâm hành chính, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Thái Nguyên và
của cả vùng Việt Bắc; phía bắc giáp huyện Đồng Hỷ và huyện Phú Lương,
phía đông giáp thành phố Sông Công, phía tây giáp huyện Đại Từ, phía Nam
giáp huyện Phú Bình. Thành phố Thái Nguyên là đầu mối giao thông giữa các
tỉnh miền xuôi nhất là thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam
như: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc
Giang. Với vị trí địa lý như trên, thành phố Thái Nguyên có nhiều lợi
thế để phát triển kinh tế xã hội không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai, nhất
là trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và trở thành một đô thị trung tâm
của khu vực trung du miền núi phía Bắc [26;tr.10].
Thành phố Thái Nguyên nằm trong tọa độ từ vĩ tuyến 210 đến 22027’ vĩ
độ Bắc và 105025’ đến 106014’ kinh độ Đông. Do vậy, thành phố Thái
Nguyên được coi như miền “đồng bằng” riêng của tỉnh Thái Nguyên. Ruộng
đất được hình thành bởi sự bồi tụ phù sa của hai con sông: sông Cầu và sông
Công nhưng vẫn mang dáng dấp đặc trưng của vùng trung du với kiểu ruộng
bậc thềm phù sa và bậc thang nhân tạo; Ở trung tâm thành phố bằng phẳng
nhưng càng về phía Tây bắc thành phố càng có nhiều đồi núi cao [27;tr.8].
7
Địa hình trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đô thị, công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đặc biệt là phát triển nông nghiệp; phù hợp
với kinh tế trang trại kết hợp giữa đồi rừng, cây ăn quả và các loại cây công
nghiệp khác như chè, các loại cây lấy gỗ.
Cũng do đặc điểm địa hình nên khí hậu của thành phố có những nét
riêng biệt. Thành phố có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, được chia làm
bốn mùa rõ rệt: Xuân, hạ, thu, đông và nằm trong vùng ấm của tỉnh, có lượng
mưa trung bình khá lớn. Nhiệt độ bình quân năm là 23°c, độ ẩm trung bình
năm là 82%. Như vậy, khí hậu thành phố Thái Nguyên tương đối thuận lợi
cho việc phát triển một hệ sinh thái đa dạng và bền vững, thuận lợi cho phát
triển ngành nông-lâm nghiệp và là nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành
công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Cây chè, đây là cây công nghiệp
quan trọng nhất vì có giá trị kinh tế ổn định, chỉ đứng sau cây lúa. Chè Thái
Nguyên và đặc biệt là chè Tân Cương (vùng phía Tây thành phố) là đặc sản
nổi tiếng từ lâu, đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Nhật Bản, Đài
Loan, Ấn Độ...
Các nguồn tài nguyên, thiên nhiên ở thành phố Thái Nguyên vô vùng
phong phú và đa dạng. Đất canh tác trong khu vực Thành phố có hai loại chủ
yếu. Loại Feralft màu vàng, thích hợp với trồng cây chè và các loại cây ăn quả.
Loại đất này phẩn lớn tập trung ở các xã Lương Sơn, Thịnh Đức, Thịnh Đán,
Thành Công (nay thuộc thị xã Sông Công), Tích Lương, Phúc Xuân, Đồng
Quang, Cam Giá, Gia Sàng. Đất phù sa do sự bồi đắp thường xuyên của sông
Công và sông Cầu, phần lớn nằm ở xã Tân Cương và các xã Quang Vinh, Cao
Ngạn, Túc Duyên, Cam Giá. Loại đất này ở độ phì nhiêu tương đối cao so với
các vùng trong tỉnh, rất thuận lợi cho việc trồng lúa, các loại rau, hoa màu.
Thành phố Thái Nguyên có 2 sông lớn chảy qua, đó là sông Cầu và
sông Công giữ vị trí quan trọng cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt.
Thành phố có 2 công trình thuỷ nông là đập Thác Huống và đập hồ Núi Cốc
8
cung cấp nước tưới cho gần 50 ngàn ha cây trồng (lúa, cây hoa mầu và các
cây công nghiệp khác như chè, lạc...), cùng với hàng trăm công trình trung
tiểu thuỷ lợi phục vụ sản xuất công nghiệp và nước sinh hoạt cho 100 ngàn
dân ở trung tâm thành phố.
Ở Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai trong cả nước, than mỡ
trữ lượng trên 15 triệu tấn, than đá trữ lượng khoảng 90 triệu tấn: mỏ than
Khánh Hoà, Quán Triều thuộc xã Phúc Hà có trữ lượng than khá lớn… Tiềm
năng sắt tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố trong việc phát triển các ngành
công nghiệp luyện kim, khai khoáng... để trở thành một trong các trung tâm
luyện kim lớn của cả nước.
Thành phố Thái Nguyên có Quốc lộ số 3 chạy qua, nối Hà Nội với Bắc
Kạn, Cao Bằng; Quốc lộ 1B đi Lạng Sơn; Quốc lộ 13 và 16 đi Phú Thọ, Hà
Giang, Tuyên Quang; Quốc lộ 37 đi Bắc Giang. Nối liền với trung tâm thành
phố là các tuyến đường đi các huyện, thị trong tỉnh. Ngoài ra, Thành phố còn
có tuyến đường sắt Thái Nguyên - Hà Nội; Lưu Xá (Thái Nguyên) - Kép (Bắc
Giang) - Uông Bí (Quảng Ninh), rất thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế.
Là cầu nối giữa Thủ đô Hà Nội với các tỉnh trong khu Việt Bắc, thành
phố Thái Nguyên có điều kiện hết sức thuận lợi để mở rộng giao lưu kinh tế,
văn hoá với các huyện, thị trong tỉnh; với nhiều tỉnh, thành phố trong khu vực
miền núi phía Bắc; với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng.
Với địa hình, đất đai và tài nguyên, khoáng sản như vậy, thành phố
Thái Nguyên không những có điều kiện thuận lợi để phát triển các loại cây
lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp mà còn có nhiều thuận lợi cho việc
phát triển công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp, giao thông vận tải và thông tin
liên lạc.
Ngoài ra, thành phố Thái Nguyên còn có điều kiện để phát triển du lịch.
Thành phố Thái Nguyên có rất nhiều di tích lịch sử, văn hoá phản ánh khá
đầy đủ quá trình phát triển của thành phố. Đền thờ các danh nhân thời Lý
9
(Đền Xương Rồng), đền thờ Mẫu (Quán Triều), Chùa Phù Liễn, Chùa Đồng
Mỗ...là những kiến trúc cổ độc đáo. Thành Nhà Mạc, Bến Tượng, Tích
Lương... là những di tích thời Nhà Mạc; Tiêu biểu ở thế kỷ XX có 2 quần thể
di tích lịch sử khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 và khởi nghĩa giành chính
quyền trong cách mạng tháng 8/1945 dưới sự chí huy của đồng chí Võ
Nguyên Giáp.
Thái Nguyên là trung tâm văn hoá - thể thao của vùng Việt Bắc nên từ
khi thành lập, Đảng bộ và UBND thành phố rất quan tâm đến đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, nhiều công trình văn hoá thể thao có quy mô lớn và hiện đại
như: Bảo tàng Việt Bắc (nay là bảo tàng Văn hoá dân tộc Việt Nam), bảo tàng
Quân khu I, bảo tàng Thái Nguyên, nhà Văn hoá công nhân Gang Thép, nhà
thi đấu thể thao, sân vận động trung tâm, sân vận động khu Nam có sức chứa
hàng vạn chỗ ngồi...
Thái Nguyên có điều kiện thuận lợi phát triển văn hoá, giáo dục. Thành
phố Thái Nguyên là trung tâm đào tạo lớn thứ 3 của cả nước (sau thủ đô Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Trên địa bàn Thành phố có 18 trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, 11 trường phổ thông
trung học, 60 trường trung học cơ sở và tiểu học, 36 trường mẫu giáo.
Trải qua một thời gian dài, tên gọi và địa giới hành chính của thành phố
Thái Nguyên có nhiều thay đổi. Thời nhà Đường (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ
IX), thành phố Thái Nguyên nằm trong đất châu Long và châu Vũ Nga. Thời
nhà Lý, Thái Nguyên thuộc châu Vũ Lặc (thế kỷ XI). Thời Trần, Thái
Nguyên là trấn. Đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Thủ phủ trấn Thái Nguyên
được chuyển đến đặt tại làng Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc đất
phường Trưng Vương và một phần nhỏ thuộc phường Túc Duyên). Năm
Minh Mạng thứ 12 (1831), trấn Thái Nguyên được đổi là tỉnh Thái Nguyên.
Thời thuộc Pháp, "Quá trình xây dựng các cơ quan cai trị, dịch vụ của thực
dân Pháp và chính quyền tay sai, cùng với sự tăng dân số (viên chức, thợ thủ
10
công, dân buôn bán)....đã dần dần hình thành thị xã Thái Nguyên vào những
năm cuối thế kỷ XIX’’ [ 10;tr.95].
Từ tháng 8 năm 1956, Khu Tự trị Việt Bắc được thành lập (gồm 6 tỉnh:
Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) Thái
Nguyên trở thành Thủ phủ Khu Tự trị Việt Bắc.
Ngày 19/10/1962, theo Quyết định số 114/CP của Hội đồng Chính phủ,
thị xã Thái Nguyên trở thành thành phố Thái Nguyên trực thuộc tỉnh Thái
Nguyên, có 4 khu phố (Hoàng Văn Thụ, Trưng Vương, Phan Đình Phùng, Quan
Triều); hai thị trấn (Núi Voi và Trại Cau); 6 xã (Đồng Quang, Gia Sàng, Cam
Giá, Quang Vinh, Đồng Bẩm, Túc Duyên); tổng diện tích hơn 100km² [25;tr.l3].
Trải qua nhiều lần điều chỉnh hành chính, ngày nay thành phố Thái
Nguyên có 32 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc (gồm 21 phường: Cam
Giá, Chùa Hang, Đồng Bẩm, Đồng Quang, Gia Sàng, Hoàng Văn Thụ,
Hương Sơn, Phan Đình Phùng, Phú Xá, Quan Triều, Quang Trung, Quang
Vinh, Tân Lập, Tân Long, Tân Thành, Tân Thịnh, Thịnh Đán, Tích Lương,
Trung Thành, Trưng Vương, Túc Duyên và 11 xã: Cao Ngạn, Đồng Liên,
Huống Thượng, Linh Sơn, Phúc Hà, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Quyết Thắng,
Sơn Cẩm, Tân Cương, Thịnh Đức và 11 xã: Cao Ngạn, Đồng Liên, Huống
Thượng, Linh Sơn, Phúc Hà, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Quyết Thắng, Sơn
Cẩm, Tân Cương, Thịnh Đức).
Là một miền đất giàu tài nguyên, lại nằm ở vị trí địa lí đặc biệt thuận
lợi, là vùng đất trung gian giữa khu vực miền núi phía Bắc với đồng bằng Bắc
Bộ nên từ xa xưa, thành phố Thái Nguyên đã thu hút, hội nhập cư dân ở nhiều
vùng đến làm ăn, sinh sống. Theo Niên giám thống kê 2010, dân số (bao gồm
cả thường trú và quy đổi) toàn Thành phố là 330.707 người trong đó, dân
số nội thị là 288.077 người chiếm 77,43% tổng dân số toàn thành phố, dân số
trong độ tuổi lao động luôn chiếm trên 50% dân số, đa số có trình độ phổ
thông trung học, nhiều người tốt nghiệp đại học, trung học chuyên nghiệp và
11
dạy nghề. Thành phố Thái Nguyên có bình quân thu nhập đầu người cao so
với các thành phố khác trong cả nước. GDP bình quân đầu người đạt 30 triệu
đồng. Với đà phát triển đó, trong tương lai, thành phố sẽ có những tiến bộ
vượt bậc về chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội theo hướng ổn định và bền
vững, xứng đáng là trung tâm của vùng Việt Bắc.
Do đặc điểm địa lý, thành phố Thái Nguyên trở thành điểm hội tụ của
các tộc người. Đông nhất là dân tộc Việt, với nhiều bộ phận hợp thành (dân
bản địa và những người dân di cư từ các tỉnh đồng bằng lên kiếm sống...).
Tiếp đến là dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao... Các dân tộc đều dễ hoà nhập,
luôn gắn bó, đoàn kết trong chiến đấu bảo vệ quê hương và phát triển kinh kế-
xã hội.
Do cư dân được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên thành phố
Thái Nguyên có nền văn hoá dân tộc mang nhiều mầu sắc phong phú và đa
dạng. Bên cạnh những phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hoá đậm đà
bản sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số Sán Dìu, Tày, Nùng, còn có làn
điệu chèo, những cảnh hát hội của đồng bào Bắc Bộ khá đặc sắc.
Cũng như các huyện, thị khác trong tỉnh, thành phố Thái Nguyên có 2
tôn giáo chính là đạo Phật (Phật giáo) và đạo Công giáo (Thiên Chúa giáo).
Đạo Phật ở thành phố Thái Nguyên có các hội: Hội Thiện duyên, hội
Thiện phúc, tổ chức khá chặt chẽ. Thành phố có nhiều chùa nổi tiếng như:
chùa Phù Liễn, chùa Đồng Mỗ, Chùa Hang được xây dựng từ những thế kỷ
trước; chùa Đán và chùa Làng Cả.
Đạo Công giáo, Thành phố có 2 xứ đạo (Xứ Thành phố và xứ Tân
Cương). Các sinh hoạt tôn giáo của quần chúng tín đồ phát triển mạnh. Bà
con giáo dân là người lao động, có tinh thần yêu nước và cách mạng, đặt niềm
tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ. Những hoạt động của họ có nhiều
đóng góp cho việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Tuy nhiên, lợi dụng
lòng tin của giáo dân, kẻ xấu trong chức sắc tôn giáo đã có hành vi xúi giục
12
giáo dân không tôn trọng pháp luật, nên có lúc, có nơi giáo dân có nhiều hành
vi đối lập với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống sản xuất và trật tự xã hội...
Trong những năm gần đây, thành phố Thái Nguyên tập trung các
nguồn lực để hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa,
phát triển mạng lưới đô thị và điểm dân cư tập trung theo hướng hiện đại.
Đặc biệt là các khu đô thị mới 2 bên bờ sông Cầu, sẽ là điểm nhấn để phát
triển thành phố bên bờ sông đang dần trở thành hiện thực. Hiện nay, thành
phố đang có chủ trương xây dựng các khu đô thị mới phường Túc Duyên;
Dự án Kè chống lũ sông Cầu đang tiếp tục triển khai giai đoạn 2 kéo dài từ
Túc Duyên đến đập thác Huống. Tới đây, dự án đường Bắc Sơn, đường
Minh Cầu nối đường Bắc Sơn và Khu dân cư số 1 Hoàng Văn Thụ sau khi
hoàn thành sẽ tạo thêm một con đường nội thị rộng đẹp cùng một khu dân cư
mới, góp phần xóa bỏ tình trạng làng trong phố; Dự án Khu đô thị Xương
Rồng với tổng diện tích trên 45 ha được quy hoạch và xây dựng theo kiến
trúc hiện đại, độc đáo, với 9,5 ha diện tích lòng hồ được thiết kế nằm giữa
khu đô thị vừa có chức năng điều hòa sinh thái, vừa tạo cảnh quan cho khu
đô thị và khu vực phía Bắc thành phố. Bao quanh hồ là khách sạn, nhà hàng,
trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, cây xanh các biệt thự đơn, biệt
thự đôi, khu dân cư, …được bố trí hài hòa cùng với một kết cấu hạ tầng kỹ
thuật đồng bộ sẽ là điểm nhấn quan trọng, làm thay đổi diện mạo thành phố.
Với mục tiêu xây dựng thành phố Thái Nguyên thành trung tâm đào tạo đa
ngành, đa lĩnh vực của quốc gia; trung tâm kinh tế - dịch vụ- du lịch, trung
tâm y tế chăm sóc sức khỏe chất lượng cao gắn với nghiên cứu khoa học của
vùng Trung du miền núi Phía Bắc.
Như vậy, so với các huyện, thị khác trong tỉnh, thành phố Thái Nguyên
có nhiều thuận lợi hơn để cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hình thành và
phát triển.
13
1.2. Kinh tế, xã hội thành phố Thái Nguyên trước năm 1986
1.2.1. Kinh tế
Sau khi thống nhất đất nước, thành phố Thái Nguyên bước vào một
thời kỳ mới, với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thái Nguyên cơ bản đã phát triển
thành một thành phố công nghiệp, bao gồm cả công nghiệp nặng, công nghiệp
nhẹ, với các ngành luyện kim, cơ khí chế tạo, khai thác khoáng sản, sản xuất
giấy, bánh kẹo, may mặc, chế biến nông-lâm sản... Cơ cấu kinh tế của thành
phố có nhiều chuyến biến quan trọng.
Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp
So với một số thành phố khác trong cả nước, thành phố Thái Nguyên
có ưu thế phát triển công nghiệp. Sự ra đời của thành phố gắn liền với sự ra
đời của Khu công nghiệp Gang Thép Thái Nguyên- đứa con đầu lòng của
ngành công nghiệp luyện kim Việt Nam. Những ngành công nghiệp chủ đạo
và được coi là thế mạnh của thành phố gồm có: công nghiệp luyện kim (chủ
yếu ở phía Nam thành phố); công nghiệp khai khoáng (phát triển ở một số
điểm phía Bắc, chủ yếu là khai thác than và các khoáng sản vật liệu xây
dựng); công nghiệp dệt, may, thêu ren, đồ mộc và công nghiệp chế biến lương
thực, thực phẩm, đồ uống.
Năm 1962, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp của thành
phố đạt 2 triệu đồng, đến năm 1976, giá trị tổng sản lượng tiểu-thủ công
nghiệp thành phố đạt 5,71 triệu đồng.
Tại Đại hội Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lần thứ I (22-25/5/1963),
xác định nhiệm vụ của Thành phố: “Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thủ
công nghiệp và nông nghiệp, thì vấn đề sản xuất công nghiệp và thủ công
nghiệp là hàng đầu, trong đó lấy sản xuất hàng tiêu dùng là chủ yếu, chủ yếu
phát triển những cơ sở chế biến thực phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
hàng ngày của nhân dân thành phố và trong tỉnh; đồng thời phục vụ cho xây
dựng, kiến thiết và bước đầu phục vụ cho xuất khẩu.... ” [29;tr.104].
14
Từ năm 1977, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền
Thành phố, các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp gặp nhiều
khó khăn như bị nước ngoài cắt viện trợ, rút chuyên gia; Thiếu nguyên vật
liệu sản xuất, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm để giữ vững và phát triển sản
xuất. Công ty Gang Thép Thái Nguyên đã nghiên cứu và đúc thành công các
loại trục cán thép 530mm, 680mm, 840mm có chất lượng tốt... hoàn thành
toàn diện vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1979 trước 5 ngày, đạt giá trị
tổng sản lượng 101,51% [34;tr.81 -82].
Hợp tác xã mành cọ Thống Nhất sản xuất được 600m2 mành cọ xuất
khẩu; Hợp tác xã cơ khí Bắc Nam sản xuất được 10.000 mũi cày, 10.000 cào
cỏ lúa... phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hợp tác xã Cộng Lực, từ nguồn sắt
thép phế liệu đã sản xuất ra 6.000 cột bê tông xây dựng nhà ở, tiếp tục giữ
vững danh hiệu "Đơn vị tiêu biểu xuất sắc toàn diện của ngành tiểu - thủ công
nghiệp Thành phố năm 1979".
Trong 3 năm (1983-1985), giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu - thủ
công nghiệp của Thành phố tăng nhanh. Trong đó, các mặt hàng truyền thống,
như sắt tráng men tăng 157%, các loại mành, thảm tăng 47%, thuỷ tinh tăng
107,3%... Các mặt hàng mới như: khăn mặt, xô màn, vải giả da, đồ nhựa, bìa
các tông cót ép, xích xe đạp đã ra đời. Đáng chú ý là thủ công nghiệp ở
phường, xã được đẩy mạnh, với những ngành nghề thủ công đa dạng. Giá trị
sản lượng công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp năm 1984 đạt 60,7 triệu đồng
[34;tr.115]. Đến năm 1985, Thành phố đã có 10/13 phường có cơ sở sản xuất
quốc doanh và trên 200 tổ hợp lao động, gần 1000 lao động sản xuất tại nhà
giao nộp sản phẩm cho phường [34;tr.117]. Tỷ trọng giá trị hàng thủ công của
Thành phố tăng từ 35% năm 1984, lên 50% năm 1986. Hàng thủ công nghiệp
xuất khẩu được giữ vững và tăng lên 113,5%.
Nông nghiệp
Nông nghiệp được coi là mặt trận được chính quyền thành phố quan
tâm phát triển. Tuy nhiên, những năm qua sản xuất nông nghiệp chưa thoát
15
khỏi tính chất sản xuất nhỏ, lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên; tình
trạng quảng canh, độc canh còn phổ biến. Trong khi đó, việc đầu tư xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu tập trung đồng bộ, công cụ lao động còn thiếu
trong khi khả năng địa phương có thể giải quyết được. Việc thay đổi hình
thức khoán trong nông nghiệp có làm, nhưng không triệt để về định mức và
hạch toán không rõ; "Do sản xuất tập trung quan liêu bao cấp, phân phối theo
kiểu bình quân, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không tương xứng,
biện pháp quản lý có nhiều tiêu cực, dẫn đến sản xuất trì trệ, suy thoái, người
lao động không có trách nhiệm gắn bó với sản phẩm cuối cùng..." [49;tr.2].
Các hợp tác xã chưa xác định được kế hoạch sản xuất kinh doanh tổng hợp,
cây trồng không đa dạng, chủ yếu vẫn là trồng lúa. Năng suất, sản lượng lúa
mới đạt từ 90% đến 92,5% kế hoạch. Cây mầu và cây rau chưa được chú
trọng, nên diện tích, năng suất và sản lượng giảm. "Các điều kiện, nhất là
thuỷ lợi và phân bón, bảo vệ câv trồng và gia súc chưa đủ đảm bảo cho sản
xuất nông nghiệp phát triển ổn định và vững chắc" [1;tr. 141].
Đến năm 1985, diện tích đất nông nghiệp của thành phố giảm xuống
6.809 ha (so với năm 1983 là 8.488 ha) nhưng sản lượng lương thực lại tăng
từ 10.0630 tấn (năm 1983), lên 13.834 tấn (năm 1985), riêng thóc vượt 150
tấn so với chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX đề ra [34;tr.120].
Do có sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật nên đã tạo ra nhiều giống lúa
mới có năng suất cao được đưa vào gieo trồng như hợp tác xã Đại Đồng, Tân
Long, Quan Triều, Quang Vinh...đã đạt năng suất bình quân từ 60 đến 70 tạ/
ha/vụ. Ngoài lúa, việc thâm canh các cây lương thực như: ngô, khoai, sắn
bước đầu được chú ý và cho năng suất ngày càng cao.
Cùng với việc đẩy mạnh phát triển các loại cây lương thực, thành phố
cũng chú trọng mở rộng diện tích cây công nghiệp để phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng của nhân dân như cây chè, cây đỗ, cây thuốc lá. Năm 1985, diện
tích cây công nghiệp là 4.975 ha. Nhưng cây công nghiệp chưa phát triển
tương xứng với tiềm năng hiện có. Ví dụ như cây chè là một trong những mặt
16
hàng nổi tiếng và có thế mạnh của thành phố, nhưng do khó khăn trong khâu
tiêu thụ sản phẩm và công tác quản lý của Nhà nước; việc đầu tư và chăm sóc
của người dân còn hạn chế nên năng suất chất lượng thấp. Năm 1985, năng
suất chè của Thành phố mới chỉ chỉ đạt 4,14 tạ/ha.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban bí thư về khoán sản phẩm trong nông
nghiệp, người nông dân được tự chủ trên đồng ruộng nên nhu cầu về sức kéo
phục vụ sản xuất ngày càng tăng. Do đó, đàn trâu, bò được quan tâm chăm
sóc nhiều hơn. Năm 1983, số lượng đàn trâu, bò là 28576 con đến năm 1985
tăng lên 34231 con. Nhằm giải quyết nhu cầu thực phẩm cho thành phố, việc
mở rộng đàn gia cầm được đẩy mạnh nhưng chủ yếu là chăn nuôi gà, vịt, mỗi
năm cung cấp cho thị trường từ 130.000 đến 150.000 con.
Thương mại, dịch vụ
Do quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp chậm
được củng cố và hoàn thiện, trình độ quản lý kinh tế còn nhiều hạn chế, lỏng
lẻo nên nhiều hợp tác xã làm ăn thua lỗ. Các mặt hàng nông, lâm sản làm
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như chè búp tươi, mía, thuốc lá, đỗ
tương… chưa bảo đảm ổn định. Thậm chí, nhiều cơ quan cùng tham gia kinh
doanh một mặt hàng, một loại sản phẩm, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh
bán, gây rối loạn cho quản lý thị trường và giá cả làm ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động thương mại và dịch vụ của thành phố.
Thị trường không ổn định, nhất là sau khi điều chỉnh về giá cả, tiền
lương, thành phố Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung xảy ra tình
trạng lạm phát, giá cả không những thiếu ổn định, mà còn biến động ngày
càng mạnh, nên không khuyến khích được sản xuất phát triển. Nguồn hàng
trao đổi với các tỉnh lân cận năm cao nhất (1985) cũng chỉ đạt 31% trong tổng
quỹ hàng hoá nội thương của Thành phố [l0;tr.16]. Mặt hàng xuất khẩu nghèo
nàn, giá trị thấp. Hàng hoá nhập vào cũng rất hạn chế. "Những hiện tượng cửa
quyền, gây phiền hà, tự do tuỳ tiện nâng giá, tiêu cực ở một bộ phận cán bộ
17
nhân viên trong các ngành nắm hàng, nắm tiền vẫn tiếp diễn, làm cho tình
hình đã khó khăn lại càng phức tạp thêm" [l0;tr17].
Thu ngân sách luôn luôn không đủ chi. Năm 1985, tổng thu của thành
phố 8.206.000 đồng, tổng chi lên tới 9.782.000 đồng, Tỉnh phải cấp thêm cho
thành phố 4.400.000 đồng để chi bù giá vào lương và trả lương cho cán bộ,
công nhân viên chức. Giá trị đồng tiền ngày một giảm; tình trạng thiếu tiền
mặt luôn luôn căng thẳng [1;tr7]..
Công tác quy hoạch, quản lý đô thị, quản lý nhà đất, quy hoạch bố trí dân
cư ở các phường, xã chậm được đổi mới. Việc lấn chiếm đất đai còn xảy ra.
Năm 1986, tình hình kinh tế của thành phố Thái Nguyên gặp rất nhiều
khó khăn. Sản xuất nông nghiệp, vụ chiêm xuân thì khô hạn kéo dài làm cho
hàng ngàn ha ruộng không có nước cấy; Đến vụ mùa thì lũ lụt lớn làm mất
trắng trên 4500 ha lúa và hoa mầu. Sản xuất công nghiệp đều ở trong tình
trạng thiếu nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, tiền vốn…nên sản xuất cầm chừng,
công nhân không có việc làm, thu nhập thấp.
1.2.2. Tình hình xã hội
Sau khi đất nước thống nhất, vấn đề việc làm cho người lao động luôn
được Thành phố quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
các cấp bộ Đảng và chính quyền. Chủ trương phát triển kinh tế gia đình, kinh
tế phường, xã; mở rộng cơ sở sản xuất của thành phố hàng năm đã tạo công
ăn, việc làm cho hàng trăm lao động, góp phần ổn định trật tự xã hội và đời
sống nhân dân. Đầu thập niên 80, thành phố đã bố trí được việc làm cho trên
4.700 lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp và công nghiệp.
Thập niên 80 của thế kỷ XIX, cũng là những năm đất nước lâm vào
tình trạng khủng hoảng; các tệ nạn phát triển nhiều; đời sống nhân dân gặp
nhiều khó khăn nhưng thành phố đã cố gắng, từng bước đưa công tác quản lý
xây dựng đô thị vào nề nếp, như quy hoạch khu dân cư, gắn nhiệm vụ kinh tế
với công tác xã hội. Nhờ đó, đời sống nhân dân đô thị ngày một ổn định, khu
18
dân cư được tổ chức lại. Thành phố cấp đất cho trên 4000 hộ gia đình. Đến
năm 1986, đã có 5091 nhà ở của nông dân được ngói hoá.
Về văn hoá - giáo dục
Sau ngày thành lập thành phố (19/10/1962), nhằm nâng cao dân trí,
phát triển giáo dục đào tạo các cấp, lãnh đạo thành phố chủ trương đầu tư xây
dựng hệ thống trường lớp. Năm học 1962-1963, số lớp học tăng 1,5; lần, học
sinh đến lớp tăng gần 1,3 lần so với năm học 1961-1962 [29;tr. 110].
Khi đất nước thống nhất, thành phố có thêm nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển sự nghiệp giáo dục. Tháng 9/1976, thành phố phát động cuộc
vận động "Toàn dân xây dựng trường sở", kết quả, cuối năm 1977, gần 200
phòng học kiên cố và bán kiên cố được xây dựng so với năm học trước, năm
học 1976-1977, số học sinh thành phố tăng 340 học sinh. Các ngành và cấp
học phát triển tương đối cân đối, nâng dần về chất lượng, đáp ứng ngày một
tốt hơn yêu cầu của nhân dân và của xã hội. Các mô hình trường vừa học vừa
làm trong các xí nghiệp công nghiệp được mở rộng.
Do kinh tế sa sút, thu ngân sách luôn luôn không đủ chi nên việc đầu tư
cho sự nghiệp giáo dục còn nhiều hạn chế: tốc độ xây dựng trường, lớp chưa
đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, học sinh vẫn phải học ca ba, đời sống
của giáo viên hết sức khó khăn. Công tác quản lý cơ sở vật chất chưa tốt, các
trang thiết bị như bàn, ghế, đồ dùng học tập trong các nhà trường còn thiếu;
chất lượng giáo dục chuyển biến chậm và chưa đồng đều, chưa phù hợp với
sự phát triển về kinh tế. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các cấp trong
công tác giáo dục chưa chặt chẽ và đồng bộ.
Về y tế
Bên cạnh phát triển hệ thống giáo dục, vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe cho nhân dân được đẩy mạnh. Trong 5 năm từ 1981 đến 1985, ngành y
tế thành phố đã xây dựng được 3 bệnh viện, 5 phòng khám, 14 trạm y tế xã,
phường. Mỗi năm, ngành tổ chức khám, chữa bệnh cho 22 nghìn lượt người
nên nhiều bệnh dịch lớn đã được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
19
Như vậy, trước năm 1986 mặc dù tình hình kinh tế, xã hội của thành
phố Thái Nguyên gặp rất nhiều khó khăn cần phải giải quyết. Nhưng thành
phố đã từng bước khắc phục và đưa nền kinh tế, xã hội phát triển ổn định trở
lại, đời sống nhân dân được cải thiện. Góp phần thúc đẩy sự hình thành và
phát triển các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.
1.3. Sự ra đời và thực trạng hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp ở thành phố Thái Nguyên
Tổ chức xã hội được hình thành trên các nguyên tắc tự nguyện, tự quản
của người lao động được tổ chức và hoạt động theo điều lệ hay theo các quy
định của nhà nước, nhân danh tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên.
Ðặc điểm của các tổ chức xã hội là:
Các tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của người lao động
vì những mục đích nhất định. Ðó là những tổ chức tập hợp những thành viên
của mình dựa vào những đặc điểm nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính ...
Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp những thành viên có cùng chung một dấu
hiệu, đặc điểm. Họ liên kết lại với nhau để tìm tiếng nói chung và bảo vệ
những lợi ích chính đáng của họ.
Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội
nhân danh tổ chức mình chứ không phải nhân danh nhà nước.
Các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo điều lệ do các thành
viên trong tổ chức xây dựng nên hoặc theo các quy định của nhà nước.
Mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức xã hội là mối quan hệ
bình đẳng chứ không phải là nguyên tắc " quyền lực - phục tùng" như trong
các cơ quan nhà nước.
Các tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chung là giáo dục ý thức
pháp luật cho các thành viên để họ sống và làm việc theo pháp luật. Ðồng
20
thời, hoạt động của các tổ chức xã hội còn nhằm đến mục đích là bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức
Theo nguyên tắc hình thức tổ chức và hoạt động, các tổ chức xã hội
được chia thành các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp.
Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là loại hình tổ chức xã hội do nhà nước
sáng kiến thành lập được hình thành theo quy định của nhà nước. Hoạt động
của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt dưới sự quản lý của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng là tổ
chức hoạt động mang tính chất tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ
chức do tổ chức đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực nhà
nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.
Tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp được thành lập theo sáng kiến
của nhà nước. Hình thành theo các quy định của nhà nước và được quản lý
chặt chẽ bởi cơ quan nhà nước. Hỗ trợ nhà nước giải quyết một số vấn đề xã
hội. Hoạt động tự quản, cơ cấu do nội bộ tổ chức quyết định, hoạt động không
mang tính quyền lực chính trị và hoàn toàn tự nguyện.
Trên cơ sở đó, thực hiện những chủ trương của Đảng và chính sách của
nhà nước về phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong việc
phát triển kinh tế, xã hội. Tỉnh Thái Nguyên nói chung và thành phố Thái
Nguyên nói riêng đã có những chính sách phù hợp để tạo điều kiện cho các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm phát triển kinh tế, xây dựng
quê hương đất nước.
Thái Nguyên cơ bản đã phát triển thành một thành phố công nghiệp,
bao gồm cả công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, với các ngành luyện kim,
cơ khí chế tạo, khai thác khoáng sản, sản xuất giấy, bánh kẹo, may mặc,
chế biến nông-lâm sản... Cơ cấu kinh tế của Thành phố có nhiều chuyến
biến quan trọng.
21
Vấn đề việc làm cho người lao động luôn được Thành phố quan tâm, coi
đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp bộ Đảng và chính
quyền. Chủ trương phát triển kinh tế gia đình, kinh tế phường, xã; mở rộng cơ
sở sản xuất của Thành phố hàng năm đã tạo công ăn, việc làm cho hàng trăm
lao động, góp phẩn ốn định trật tự, xã hội và đời sống nhân dân.
Trong suốt thời gian dài, nhân dân ta phải liên tiếp phải tiến hành hai
cuộc kháng chiến lớn: Kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954) và
kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975). Cho nên, nhiệm vụ cách
mạng hàng đầu lúc này là phải giành độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, ở
nước ta lúc này mới chỉ xuất hiện một vài tổ chức xã hội - nghề nghiệp: Hội
Chữ thập đỏ Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội
Nhà báo Việt Nam... Tuy nhiên, từ khi Luật số 102-SL/L004 ngày 20 tháng
05 năm 1957 quy định quyền lập hội của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa và nghị định số 258TTg ngày 14/6/1957 của Thủ tướng chính phủ
quy định chi tiết, thi hành luật nói trên thì các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở
nước ta xuất hiện ngày một nhiều: Hội Làm vườn Việt Nam, Hội Cựu thanh
niên xung phong, Hội doanh nghiệp Việt Nam…
Ban đầu, những thành viên tham gia vào các tổ chức này với mục đích
phục vụ nhân dân là chính, số hội viên tham gia vào hội còn hạn chế, chưa có
văn phòng đại diện, chưa có điều lệ, tôn chỉ và mục đích hoạt động cụ thể…
Tuy nhiên, từ sau khi Luật quy định về quyền lập hội được ban hành thì các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên mới chính thức được
thành lập: Hội Đông y (25/10/1962); Hội Chữ thập đỏ (1965).
Trong đó, Hội Đông y thành phố Thái Nguyên được thành lập sớm
nhất: Căn cứ theo công văn số 665/ĐC-ĐS ngày 25- 10- 1962 của Bộ nội vụ
UBHC tỉnh đã ra quyết định cho phép thành lập Hội Đông y thành phố Thái
Nguyên. Đây là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của những người hành nghề
22
Đông y, Đông dược, hoạt động trong lĩnh vực khám chữa bệnh bằng đông y
trong phạm vi thành phố Thái Nguyên.
Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến”,
“Tất cả vì sự thống nhất đất nước”. Vì vậy, việc xây dựng củng cố Hội Đông
y thành phố vững cả về tư tưởng, tổ chức và nghiệp vụ là việc làm có ý nghĩa
vô cùng quan trọng, góp phần vào sự nghiệp thống nhất đất nước nói chung
và nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế của địa phương nói riêng.
Với mong muốn tập hợp giúp đỡ lẫn nhau để hành nghề tốt hơn, chống
lại hoặc giảm thiểu những tác nhân bất lợi từ bên ngoài. Do vậy, ngay từ khi
thành lập hội đã rất chú trọng tới phát triển tổ chức hội, không phân biệt thành
phần dân tộc điều này đã tạo điều kiện cho hội viên sinh hoạt. Trong ban chấp
hành có đủ thành phần dân tộc như: Kinh, Hoa, Nùng, Thổ, Mán, Trại…
Riêng hai huyện Phú Bình và Đồng Hỷ được tiến lên thành chi hội. Với
phương châm củng cố là chủ yếu, phát triển là thứ yếu thì những địa phương
phát triển như Đồng Hỷ, Phú Bình đã được củng cố bằng cách học tập, bồi
dưỡng ý thức tập thể, trên cơ sở kiện toàn tổ chức lành mạnh và thuần khiết.
Về xây dựng phát triển hội: Trong 6 tháng đầu năm đã phát triển được
2 hội viện chính thức thuộc huyện Phú Bình cộng với 124 hội viên cũ đã tăng
lên 140 hội viên chính thức và có 29 hội viên mới xin ra nhập. Khai đăng ký
hành nghề được 88 vị.
Về tình hình học tập: Toàn giới Đông y đã tham gia học tập mọi chính
sách cùng với nhân dân như: Chính sách cải tạo, công thương nghiệp, chính
sách bầu cử quốc hội… Học tập tiếp thu công tác chuyên môn thì riêng huyện
Phú Bình đã học được từ Tạp chí Đông Y số 6, số 7 trong tổ chức.
Trong tổ chức thì chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 1 nhóm trưởng để lãnh
đạo hướng dẫn học tập, mỗi học viên có 1 quyển học bạ để ghi chép từng ngày
đi học. Mỗi tháng lại học thêm hai bài thuốc nam do ông Thái phổ biến, cho hội
viên đi học các lớp châm cứu do Nguyễn Tú Siêu và Trung ương hội mở.
23
Công tác tuyên truyền về sinh phòng bệnh: Thường xuyên nói chuyện
trong các cuộc họp với nhân dân, vận động nhân dân thực hiện 3 sạch nhất là
các lương y tự làm gương mẫu trong công tác vệ sinh phòng bệnh. Hệ thống y
tế có tiến bộ hơn. Phong trào xây dựng 3 công trình sinh hoạt (giếng nước,
nhà tắm, nhà vệ sinh), được chỉ đạo triển khai xuống từng gia đình. Nhiều
bệnh dịch lớn được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Đến năm 1965, UBHC tỉnh Bắc Thái chuẩn y việc thành lập Hội Chữ
thập đỏ thành phố Thái Nguyên. Đây là tổ chức xã hội nhân đạo của quần
chúng. Hội tập hợp tất cả mọi người, không phân biệt thành phần dân tộc, tôn
giáo, nam nữ để làm công tác nhân đạo. Hoạt động chủ yếu của hội ở giai
đoạn này chủ yếu là: Phục vụ chiến đấu, tham gia cứu chữa thương bệnh binh
và nhân dân bị thương trong chiến tranh; chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chăm
lo các gia đình thương binh, liệt sỹ, những người khuyết tật và các đối tượng
khó khăn khác.
24
Tiểu kết chương 1
Thành phố Thái Nguyên có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên
nhiên phong phú. Nơi đây là địa bàn sinh sống thuận lợi của nhiều tộc người.
Thành phố là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị quan trọng của vùng trung
du miền núi phía Bắc, với các sản phẩm có ý nghĩa chiến lược trong nền kinh
tế quốc dân như thép, điện, kim loại mầu, vật liệu xây dựng và công nghiệp
chế biến nông, lâm sản. Vì vậy, Thái Nguyên có điều kiện để xây dựng cơ sở
hạ tầng, phát triển kinh tế, xã hội.
Trước năm 1986, thành phố Thái Nguyên gặp nhiều khó khăn, thách
thức trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Với tinh thần chủ động, Đảng
bộ, chính quyền thành phố đã vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước khắc phục khó khăn, vượt qua khủng hoảng.
Nghiên cứu về giai đoạn trước năm 1986, chúng tôi nhận thấy: Các
tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên chưa nhiều, chỉ có
hai tổ chức là Hội Đông y và Hội Chữ thập đỏ được thành lập; Hoạt động
của hội bước đầu dừng lại ở việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân nên
những đóng góp của hội cho sự phát triển kinh tế của thành phố chưa thực
sự hiệu quả. Tuy vậy, những hoạt động bước đầu của hội có ý nghĩa quan
trọng cho sự phát triển của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở những giai
đoạn tiếp theo.
25
Chương 2
HOẠT ĐỘNGCỦA CÁC CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2016
2.1. Đường lối đổi mới kinh tế - xã hội của Đảng và kế hoạch hành động
của thành phố Thái Nguyên
Trên thế giới, từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống
của các quốc gia, dân tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng khoảng
sâu sắc. Đến đầu những năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ,
dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình
thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên
Xô và Mỹ đứng đầu tan rã. Mặc dù vậy những cuộc chiến tranh cục bộ, xung
đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp
tác phát triển. Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực
hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.
Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước
đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác
với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị
trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Các nước
đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh
giá cũ, chủ yếu dựa vào thế mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong
đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Vì thế, yêu cầu đổi
mới đất nước của Đảng lại được đặt ra một cách bức thiết.
Trong khi đó, ở khu vực châu Á, công cuộc cải cách kinh tế ở Trung
Quốc theo hướng thị trường - mở cửa đã thực hiện từ năm 1978 và đạt được
những thành tựu nổi bật, đưa Trung Quốc vượt qua khó khăn, khủng hoảng.
26
Chính điều này đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam quan tâm do có sự
tương đồng nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước. Bên
cạnh đó, sự thành công của Nhật Bản và các nước "công nghiệp mới" ở Đông
Á và khu vực là những bài học kinh nghiệm về cách thức, con đường phát
triển đối với những nước vốn xuất phát từ kinh tế nông nghiệp cổ truyền, có
các quan hệ xã hội theo kiểu Á Đông trong đó có Việt Nam. Đó là những
thành công của các chiến lược phát triển: phát huy mạnh nội lực, thị trường -
mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
Như vậy, trước những thay đổi của tình hình thế giới, đòi hỏi Đảng và
Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.
Trong nước: Cách mạng XHCN đã đạt được những thành tựu và tiến
bộ đáng kể trên các mặt. Song, cách mạng Việt Nam gặp không ít khó
khăn, yếu kém.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến, tiến lên
CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, là một vấn đề hết sức khó khăn và
mới mẻ đối với nước ta. "Những thành tựu đã giành được chứng minh đường
lối chung và đường lối kinh tế trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ của
Đảng và Nhà nước là đúng đắn, và khẳng định tính chất khoa học và sáng tạo
của các chủ trương, biện pháp quản lý mới" [23;tr.84].
Tuy nhiên, do một số chủ quan, sai lầm trong cách nghĩ và cách làm,
làm cho sản xuất tăng chậm, hiệu quả đầu tư thấp, tài nguyên đất nước chưa
được khai thác triệt để. Các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nhìn chung chỉ
sử dụng một nửa công suất, năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm
kém. Kinh tế-xã hội khủng hoảng. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu
người hầu như không tăng. Siêu lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán đã
ảnh hướng xấu đến sự phát triển kinh tế. Đời sống khó khăn, lòng tin của cán
bộ và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng giảm sút. Các tệ nạn xã hội phát
triển. Nguyên nhân chủ yếu của những sai lầm đó là những khuyết điểm của
27
mô hình CNXH, đó là CNXH thời chiến kéo dài và phổ biến. Sự nôn nóng
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội: Trong cải tạo, ta nôn nóng muốn cải tạo
nhanh, đồng nhất cải tạo với xóa bỏ, cũng với mong muốn xóa bỏ nhanh, dứt
điểm các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể nên khi thực hiện đã đẫn đến
sai phạm “nguyên tắc tự nguyện”.
Trong công nghiệp hóa, chúng ta đẩy mạnh quá mức việc xây dựng
công nghiệp nặng, “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”, muốn hiện đại hóa
nền kinh tế vốn nhỏ bé, lạc hậu, phân tán của ta nhanh chóng trở thành nền
kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, nên đã đầu tư nhiều vốn, kỹ thuật, lao
động, xây dựng theo quy mô lớn nhiều cơ sở công nghiệp nặng trong điều
kiện đất nước còn nhiều khó khăn, chưa có sẵn những tiền đề cần thiết.
Trong xây dựng kinh tế, chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hiện
vật, chủ yếu bằng hai thành phần quốc doanh và hợp tác xã, nhằm đáp ứng
việc thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo hiện vật, có cái nhìn không
đúng về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Bên cạnh đó, nền kinh tế hiện
vật lại đặt dưới sự quản lí kiểu hành chính, tập trung, quan liêu bao cấp của
Nhà nước. Sai lầm của chúng ta còn thể hiện ở việc đặt ra các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của Nhà nước với nhiều chỉ tiêu, mục tiêu quá lớn, quá
cao so với khả năng của đất nước, và ở việc mong muốn thực hiện nhanh
chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta đang ở những chặng
đường đầu tiên.
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó trước tiên là
những sai lầm trong chính sách kinh tế, là “bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng buông lỏng trong
quản lí kinh tế - xã hội…”[13;tr.231]. Đây là tư tưởng vừa "tả" khuynh, vừa
"hữu" khuynh, làm trầm trọng thêm tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội.
Trước tình hình đó, để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, đưa đất
nước vượt qua khủng hoảng, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng XHCN, đòi hỏi
28
Đảng và Nhà nước ta phải đổi mới. Nói cách khác, đổi mới là yêu cầu bức
thiết, là vấn đề sống còn đối với nước ta.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước và cải cách kinh tế trên các lĩnh vực. Đường lối đổi
mới do Đại hội Đảng VI đề ra dựa trên những bài học được đúc kết từ những
thắng lợi đã đạt và cả những khuyết điểm sai lầm còn tồn tại trong những năm
qua. Nhằm mục đích ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, thoát khói nghèo nàn, lạc hậu. "Nhiệm vụ
bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu
tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế-xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền
đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo" [13;tr.42].
Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, kinh tế đất nước được chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Chính sách và
cơ chế quản lý kinh tế được đổi mới theo hướng: Phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần; Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng
XHCN, có sự quản lý của Nhà nước; Nền kinh tế mở cửa, hướng ngoại; Dân
chủ hoá nền kinh tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Cơ chế thị trường luôn gắn liền với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, nhưng nó có hai mặt (tích cực và tiêu cực), vì vậy cần nâng
cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, nhằm phát huy mặt tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển theo định hướng
XHCN.“Có thể nói chiến lược phát triển kinh tế-xã hội là quan điểm chủ
trương tư tưởng quản lý dài hạn của Đảng nhằm tập hợp lực lượng để xây
dựng đất nước theo hướng không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ cấu kinh tế-
xã hội" [22;tr.99].
Với cách tư duy mới, Đại hội Đảng VI phê phán những sai lầm nghiêm
trọng của cơ cấu kinh tế trước đó, chỉ ra những nguyên nhân của khủng hoảng
29
kinh tế-xã hội và điều chỉnh nền kinh tế theo 3 chương trình kinh tế lớn: sản
xuất lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đồng thời phát
triển công nghiệp nặng có trọng điểm, ưu tiên hướng vào phục vụ cải tạo
nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. "Đổi mới là để giải quyết những nội
dung, mục tiêu và biện pháp chủ yếu của công nghiệp hoá XHCN trong thời
kỳ quá độ". [34;tr.54].
Cùng với những phát triển trong kinh tế là sự phát triển trong lĩnh vực
xã hội, Đảng ta khuyến khích sự phát triển các loại hình “hội”, nhiều tổ chức
xã hội - nghề nghiệp đã hình thành. Theo Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam (VUSTA) có: 80 hội, 61 liên hiệp hội địa phương, 600 trung
tâm và viện (400 trực thuộc Vusta, 200 thuộc các hội). [37;tr.21].
Quá trình phát triển nhận thức của Đảng ta và chính sách của nhà nước
về vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế: Công
cuộc đổi mới kinh tế nước ta chính thức khởi sự từ 1986, thực hiện quá trình
chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, đòi hỏi phát huy cao độ vai trò làm
chủ của quần chúng nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của mình tham
gia vào công cuộc đổi mới kinh tế. Trong bối cảnh đó lần đầu tiên Nghị quyết
đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra”. Nghị quyết 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về đổi mới công tác quần
chúng của đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân lần đầu tiên
đã khẳng định “ động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng thiết
thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với
nghĩa vụ công dân” và cho rằng “các hình thức tập hợp nhân dân phải đa
dạng”. Theo hương đó, nghị quyết đã chủ trương xây dựng “Các hội nghề
nghiệp, nhân đạo, hữu nghị… là những tổ chức tự nguyện của quần chúng
trong từng ngành nghề, từng mặt đời sống mang tính chất chính trị - xã hội
30
với những mức độ khác nhau, được thành lập theo luật định…Trong tổ chức
và hoạt động, các đoàn thể và tổ chức quần chúng thực hiện nguyên tắc tự
quản, tự lựa chọn cán bộ của mình”.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã đề ra chủ trương “ Đổi
mới kiện toàn hệ thống chính trị theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ”. Trên cơ sở đó đề ra chủ trương “Trong điều kiện cơ
cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi, hình thức tổ chức và sinh hoạt
của các đoàn thể quần chúng phải đổi mới, linh hoạt và đa dạng và đông đảo
thu hút ngày càng đông đảo cá tầng lớp nhân dân, đáp ứng nhu cầu về nghề
nghiệp và đời sống”.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) lần đầu tiên đã đưa ra khái
niệm “dân chủ” và xác định “ Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách
bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết
định… Để thực hiện chủ trương của Đảng, Thủ tướng chính phủ đã ban hành
quyết định số: 22/2002/QĐ-TTg ngày 30 tháng 01 năm 2002 về “ Hoạt động tư
vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam”. Tiếp theo đó Chính phủ đã ban hành nghị định số 88/2003/NĐ-CP
ngày 30 tháng 07 năm 2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX số 23-NQ/TW, Ngày 12 tháng 3 năm 2003 về phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” đã nêu ra yêu cầu “Sớm ban hành luật về hội quần chúng” nhằm
tạo cơ sở pháp lý để “Mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đa dạng hóa các
hình thức tập hợp nhân dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của
các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và
các tổ chức nhân dân”.
Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
31
2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ “có cơ chế thu hút các hiệp hội, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào
việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn
thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế
phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với dự án,
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật”.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã đưa ra vấn đề “phản biện
xã hội” và đã chủ trương “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các
đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng
04 năm 2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
Nghị quyết số 25/ - NQ/TW ngày 03 tháng 06 năm 2013 Hội nghị
Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác dân vận trong tình hình mới đã tiếp tục khẳng định chủ trương “
Phát triển các tổ chức quần chúng theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự
trang trải, tạo lực, trí tuệ sáng tạo theo nguyện vọng trên cơ sở pháp luật”.
Tóm lại, quá trình nhận thức của Đảng và chính sách của nhà nước về
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cho thấy vị trí vai trò của các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp đã không ngừng được nâng cao về quan điểm, nhận thức và
bước đầu đã có khuôn khổ pháp lý rõ ràng. Quá trình đó phản ánh hai nhân tố
tác động rõ rệt nhất, đó là: Nhu cầu dân chủ hóa và thị trường hóa nền kinh tế
- xã hội.
Quán triệt các nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ, Đảng bộ
thành phố Thái Nguyên kịp thời đề ra nhiều chủ trương, biện pháp tổ chức chỉ
đạo thực hiện. Ngày 6/2/1987, Thường trực Thành uỷ họp đánh giá tình hình
và bàn biện pháp triển khai thực hiện Nghị quyết 01 về ba chương trình kinh
tế trong nhiệm vụ công tác của BCH Đảng bộ thành phố. Trên cơ sở đó, Hội
nghị quyết định thành lập các tiểu ban xây dựng đề án của từng chương trình.
32
Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XI (tổ chức từ ngày 29
đến ngày 30/3/1989), trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tế, khẳng
định những thành tựu đạt được sau 3 năm đổi mới theo tinh thần Đại hội
Đảng VI, đã tạo tiền đề căn bản thuận lợi cho thành phố bước đi những năm
sau. Đại hội cũng chỉ ra những tồn tại yếu kém về nhiều mặt, trong đó có
kinh tế và thông qua phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm 2 năm (1989-
1990), chủ trương "Phải cấp bách đổi mới cơ chế quản lý và xây dựng các
chính sách nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng và
nhân tố mới trong mọi thành phần kinh tế, mở rộng quyền tự chủ của các cơ
sở, mở rộng liên doanh, liên kết. Tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm
nhằm thực hiện cho được 3 chương trình kinh tế: lương thực-thực phẩm,
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" [46;tr.3]. Đồng thời, tiếp tục triển khai
thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
"Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp".
Dựa trên tinh thần Chỉ thị 154/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
ngày 15/5/1991, Thành phố cho phép các hợp tác xã tiểu-thủ công nghiệp,
dịch vụ lựa chọn mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức kinh doanh.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII (6/1991), trên cơ sở những thành tựu đạt được và căn cứ vào
tình hình hiện tại của đất nước, đã đề ra chủ trương thực hiện nhất quán chính
sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đại hội thông qua
Cương lĩnh "Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" và
thông qua nội dung cơ bản của Chiến lược "ổn định và phát triển kinh tế-xã
hội đến năm 2000".
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại hội
Đảng bộ tỉnh Bắc Thái lần thứ VI (10/1991), chủ trương phấn đấu hình thành
bằng được cơ cấu kinh tế nông-lâm-công nghiệp-dịch vụ; ở từng huyện,
thành, thị sẽ tuỳ điều kiện hình thành cơ cấu kinh tế cho phù hợp, chủ trương
33
xây dựng “Các hội nghề nghiệp, nhân đạo, hữu nghị… là những tổ chức tự
nguyện của quần chúng trong từng ngành nghề, từng mặt đời sống mang tính
chất chính trị - xã hội với những mức độ khác nhau, được thành lập theo luật
định… Trong tổ chức và hoạt động, các đoàn thể và tổ chức quần chúng thực
hiện nguyên tắc tự quản, tự lựa chọn cán bộ của mình”.
Từ những thành tựu và hạn chế trong những năm đầu thực hiện đường
lối đổi mới của Đảng, Đại hội Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lần thứ XII,
họp từ ngày 20 đến ngày 22/1/1992, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cho 4 năm
(1992-1995), là: "ổn định và phát triển kinh tế-xã hội với cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần. Hình thành rõ nét cơ cấu kinh tế công nghiệp-nông nghiệp-thương
mại và dịch vụ. Xây dựng một số vùng kinh tế, ngành kinh tế trọng điểm, tạo ra
nhiều sản phẩm mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu thiết yếu trên địa bàn và vươn ra
thị trường ngoài nước. Đẩy mạnh quv hoạch và xây dựng đô thị, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, đổi mới hoạt động của các đoàn thể
nhân dân. Từng bước xây dựng thành phố có kinh tế phát triển toàn diện; xứng
đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh" [52;tr.34-35].
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) của Đảng đã xác định:
"Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất" [53;tr.18].
Thành phố Thái Nguyên, ngày 29/6/2001, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Thái Nguyên ra Nghị quyết số 02/NQ- TU “Về xây dựng và phát triển thành
phố Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005, định hướng phát triển đến 2010”, chỉ
rõ: “Thành phố Thái Nguyên phải đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH; phát
triển nhanh, toàn diện, vững chắc, tiêu biểu cho sự phát triển của tỉnh; làm
động lực cho sự phát triển của các địa phương khác trong tỉnh và trở thành
34
trung tâm có uy tín của vùng Việt Bắc và là một trong những trung tâm vùng
quan trọng của cả nước” Định hướng đó hoàn toàn phù hợp với lợi thế và
tiềm năng của thành phố, cũng như phù hợp với định hướng chung của Đảng
và Nhà nước ta.
Để thực hiện tốt chủ trương, định hướng của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ,
Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV (họp từ 14 đến 16/1/2000), đề ra chủ
trương lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GDP) bình quân 7%/năm, trong đó công nghiệp, xây dựng
tăng 8%/năm; thương mại-dịch vụ tăng 7%; nông, lâm nghiệp tăng 3,5%/năm.
Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế là: Công nghiệp, xây dựng 50%-
thương mại, dịch vụ 40%; nông, lâm nghiệp 10% [55;tr.87-88].
Những Văn kiện, Nghị quyết và báo cáo trên đã thể hiện đường lối, chủ
trương đổi mới của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy và UBND thành phố Thái
Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ 1986 đến 2016.
Trên cơ sở các chủ trương, đường lối của Trung ương, của tỉnh và của
Đảng bộ thành phố, thành phố Thái Nguyên không những đã từng bước đưa
nền kinh tế phát triển đi lên, mà còn phát triển một cách toàn diện: Tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân của thành phố Thái Nguyên đạt 9%/năm, sản xuất
công nghiệp tăng 19,5%/năm, nông - lâm nghiệp đạt 4,5%/năm, các ngành
dịch vụ đạt 9,4%/năm…. Đó là điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên. Cho đến nay, thành phố
đã có 16 tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập: Hội Đông y
(25/10/1962); Hội Chữ thập đỏ (1965); Câu lạc bộ Hưu trí Thái Nguyên
(27/6/1986); Hội Làm vườn (20/01/1990); Hội Sinh vật cảnh (QĐ số 1897
ngày 27/6/1995); Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên (Số 946/QĐ-UBND
ngày 28/10/1999); Hội Khuyến học (Số 131/QĐ-UB ngày 29/01/2002); Hội
Người cao tuổi (766/QĐ-UBND ngày 02/7/2003); Hội Người khuyết tật (Số
2942/QĐ-UBND ngày 23/12/2005); Hội Cựu thanh niên xung phong
35
(03/02/2006); Hội Văn học nghệ thuật (Số 950/QD-UBND ngày 28/5/2007);
Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin (25/7/2008); Hội Doanh nghiệp (Số
1276/QĐ-UBND ngày 02/6/2010); Hội Hữu nghị Việt Nam-Lào (Số 52-
HHNVN-L ngày 01/6/2011); Hội Truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí
Minh Việt Nam (Số 2028/QĐ-UBND ngày 15/9/2014). Các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp ngày càng phát triển và tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau
như: lĩnh vực kinh tế; văn hóa - giáo dục; y tế….
2.2. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế
2.2.1. Hội Doanh nghiệp
Hội Doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội - nghề
nghiệp tự nguyện của các doanh nghiệp và doanh nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố Thái
Nguyên. Hội được thành lập theo Quyết định số 1273/QĐ-UBND ngày
02/6/2010 của Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên.
Hội đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên
nhằm mục đích đoàn kết hội viên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội
viên, hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả góp phần vào việc phát triển kinh tế -
xã hội của thành phố Thái Nguyên.
Nhiệm vụ chính của hội là phối hợp với cơ quan Nhà nước tổ chức các
diễn đàn, đối thoại, các cuộc tiếp xúc giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao
động với các cơ quan Nhà nước để trao đổi thông tin về các vấn đề liên quan
đến doanh nghiệp trong kinh doanh; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của doanh nghiệp và người sử dụng lao động trong các quan hệ kinh
doanh trong nước và quốc tế; Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động
các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, nâng cao trách nhiệm xã
hội, đạo đức và văn hoá kinh doanh; Xây dựng quan hệ lao động hoà hợp, bảo
vệ môi trường và tham gia các hoạt động xã hội khác phù hợp với mục tiêu
của Hiệp hội.
36
Bên cạnh đó, Hội tiến hành các hoạt động xây dựng, quảng bá và nâng
cao uy tín doanh nghiệp, doanh nhân, hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam; thúc
đẩy các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
quan hệ kinh doanh và đầu tư ở trong và ngoài nước.
Trong quá trình hoạt động, Hội giúp hội viên đăng ký và bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ Việt Nam và ở nước ngoài; Tổ chức
các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhằm phát triển doanh
nghiệp và kinh tế thành phố Thái Nguyên.
Trong những trường hợp cụ thể, Hội tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các
doanh nghiệp để phản ánh, đề xuất kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền các vấn đề về pháp luật, chính sách kinh tế - xã hội nhằm cải thiện môi
trường kinh doanh; Tham gia ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện các chiến
lược phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các hội
nghị, các đoàn đàm phán về kinh tế và thương mại phù hợp với quy định của
pháp luật; Tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi nước ngoài nhằm giới thiệu
hàng hoá, sản phẩm, thúc đẩy quan hệ với các tổ chức doanh nghiệp quốc tế,
nâng cao vị thế của thành phố Thái Nguyên.
Với những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn trên của Hội đã được
quy định rất rõ trong Điều lệ hoạt động. Từ khi thành lập cho đến nay hội
Doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp chính quyền,
của Hội Doanh nghiệp tỉnh và đặc biệt là UBND thành phố. Bởi vậy, trong
những năm qua các doanh nghiệp hội viên trên địa bàn thành phố, đã có nhiều
chuyển biến tích cực trong kinh doanh, có nhiều đóng góp cho sự phát triển
kinh tế của thành phố nói riêng và của tỉnh Thái Nguyên nói chung.
Do nắm bắt kịp thời được xu hướng phát triển của thị trường và đối tác
làm ăn, Hội cũng đã chuyển hướng và kết nối doanh nghiệp lớn với vai trò
dẫn dắt, giúp đỡ doanh nghiệp nhỏ cùng nhau phát triển. Cho nên, trong bối
cảnh nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã và
37
đang đứng trước nguy cơ bị phá sản thì Hội Doanh nghiệp thành phố Thái
Nguyên vẫn duy trì được sự phát triển ổn định của mình, bằng chứng là trong
những năm gần đây số chi hội trực thuộc, số hội viên mới được kết nạp không
ngừng tăng và không có hội viên nào bị phá sản.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Hội luôn quan tâm giúp đỡ nhau
để hoàn thành tốt kế hoạch, chỉ tiêu đề ra. Thi đua thực hiện không nợ thuế,
không nợ bảo hiểm, không nợ lương công nhân.
Các doanh nghiệp cùng nhau đồng tâm hợp lực hỗ trợ nhau trong sản
xuất kinh doanh. Trong những năm qua, giao thương nội bộ đạt khoảng 260
tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp đã vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Để thu hút nguồn vốn lao động dồi dào, Hội doanh nghiệp thành phố đã
phối hợp cùng Liên đoàn lao động tỉnh tham gia cùng các đơn vị khác tổ chức
thành công Ngày hội việc làm, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên
mới ra trường và người lao động trên địa bàn thành phố. Ngày hội việc làm
giúp các doanh nghiệp thu hút được sức lao động phù hợp với điều kiện kinh
doanh sản xuất của doanh nghiệp mình.
Hội còn liên danh liên kết giữa các hội để cùng giúp đỡ nhau trong khó
khăn, lắng nghe và cùng nhau chia sẻ những thuận lợi khó khăn để cùng nhau
đồng hành phát triển, tạo dựng lên một sân chơi và sinh hoạt gắn kết giữa Hội
doanh nghiệp thành phố, Câu lạc bộ Cựu chiến binh Doanh nhân thành phố và
Hội nữ doanh nhân thành phố; Thường xuyên tổ chức các buổi kết nối giữa
ngân hàng và doanh nghiệp để giúp các doanh nghiệp hội viên tiếp cận nguồn
vốn ưu đãi được thường xuyên và nhanh gọn. Hội đã tổ chức kết nối giữa
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố với 30 doanh
nghiệp trên địa bàn. Hội tổ chức gặp mặt lắng nghe, chia sẻ và tạo nguồn vốn
kinh doanh ưu đãi cho các doanh nghiệp. Hội doanh nghiệp thành phố luôn là
cầu nối giao thương nội bộ giữa các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh cũng như
trong cả nước.
38
Hội luôn quan tâm đến đời sống tinh thần của các Doanh nghiệp đặc
biệt là Doanh nghiệp có giám đốc là nữ giới, ngày Quốc tế phụ nữ mùng 8/3
hội đã tổ chức gặp mặt thân mật được hơn 20 chị em phụ nữ là giám đốc các
doanh nghiệp và chị em làm báo chí truyền hình. Họ là cộng tác viên luôn
đồng hành cùng Hội trên mọi mặt trận, thường xuyên gặp gỡ từng cụm doanh
nghiệp để lắng nghe chia sẻ những vướng mắc khó khăn của các doanh
nghiệp và cùng nhau tháo gỡ những khó khăn đó.
Mục đích, tạo điều kiện cho các chi hội doanh nghiệp địa phương phát
triển và đưa được sản phẩm, cây trồng của mình giới thiệu ra thị trường gần
dịp Tết Nguyên đán BCH hội Doanh nghiệp đã tổ chức đoàn thăm và làm
việc tại Chi hội Doanh nghiệp Phường Cam Giá, thăm làng nghề hoa đào
Cam Giá để tạo thương hiệu và giúp bà con quảng bá rộng rãi cây đào cảnh ra
thị trường. Hội thường xuyên tham gia vào các chương trình, sự kiện lớn của
thành phố: Lễ khai trương Đại lý nội thất Hoàn Mỹ Thái Nguyên - Công ty
THHH xây dựng Hoàng Gia Thái Nguyên.
BCH hội cũng như văn phòng hội thường xuyên triển khai hướng dẫn
quán triệt tới tất cả các doanh nghiệp tham gia điền vào phiếu khảo sát mà các
cơ quan thuế cũng như phiếu khảo sát nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
(PCI). Bởi vậy, Hội đã được chủ tịch UBND Tỉnh Thái Nguyên tặng bằng
khen “Hội Doanh nghiệp đã có thành tích xuất sắc trong công tác triển khai
thực hiện nâng cao năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh (PCI) năm 2016”.
Hội Doanh nghiệp thành phố đã phối hợp với hiệp Hội Du lịch tỉnh
Thái Nguyên tổ chức cho 65 doanh nghiệp hội, viên tham quan, học tập kinh
nghiệm mô hình sản xuất kinh doanh du lịch tại Trung tâm thương mại Hoàng
Gia Thái Nguyên; Công Ty TNHH Đầu tư Thái Nguyên; đi Hồng Kông
Trung Quốc và 03 tỉnh Tây Nguyên. Chuyến đi được các doanh nghiệp đánh
giá rất cao. Đặc biệt, Hội đã phối hợp với khu du lịch FLAMIGO Đại Lải tổ
chức đưa đoàn hơn 30 doanh nghiệp, tham quan và ký kết hợp tác kinh doanh
tại khu du lịch Đại Lải.
39
Kỷ niệm ngày thành lập thành phố Thái Nguyên 19/10, các thành viên
Hội doanh nghiệp thành phố đã có 6 công trình được gắn biển “ Hội Doanh
nghiệp kỷ niệm 55 năm thành lập thành phố” và đóng góp cho lễ kỷ niệm hơn
10 tỷ đồng.
Hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước của UBND thành phố phát động.
Hội doanh nghiệp thành phố đã có 21 doanh nghiệp được khen thưởng. Và 02
doanh nghiệp được nhận cờ của Tỉnh, 01 doanh nghiệp được nhận cờ Chính phủ.
01 doanh nghiệp đã được huy chương bạc quốc tế sản phẩm chè Tại Mỹ. 01
doanh nghiệp được giải thưởng quốc gia “Doanh nghiệp vì người lao động”.
Thực hiện tốt phong trào nông thôn mới đầu năm vừa qua đã có 03
doanh nghiệp hội viên của Hội được UBND Tỉnh tặng bằng khen “ Đã có
đóng góp cho chương trình nông thôn mới năm 2016”
Hội doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên ngoài mục đích đoàn kết hội
viên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, hỗ trợ nhau hoạt động
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Thì trong những năm qua,
hội rất quan tâm đến công tác xã hội như: Trong các dịp tết nguyên đán Hội
đã vận động, chỉ đạo các chi hội tặng quà cho các đối tượng chính sách, người
nghèo được 2.250 xuất mỗi xuất trị giá 300 nghìn đồng. Tổng trị giá là 675
triệu đồng; Tổ chức tặng quà tri ân các anh hùng liệt sĩ và thân nhân các anh
hùng liệt sỹ: Có 5 doanh nghiệp hội viên tặng quà cho các mẹ và thân nhân
các anh hùng liệt sĩ được 12,5 triệu đồng; thăm trực tiếp và tặng quà mẹ
Nguyễn Thị Tý mẹ Việt Nam anh hùng, tại xã Phúc Xuân.
Một số doanh nghiệp đã tài trợ cho các Hội có hội viên nghèo, khó
khăn, cô đơn không nơi nương tựa cần giúp đỡ như tham gia ủng hộ “ Qũy vì
hạnh phúc người Mù” và quỹ ủng hộ” Chữ thập đỏ thành phố”, hội TNXP
thành phố, hội Khuyến học, hội Khuyết tật… Xây nhà tình nghĩa làm từ thiện,
ủng hộ quỹ trái tim cho em khoảng trên 400 triệu đồng.
Để tưởng nhớ đến các đồng chí thanh niên xung phong đội 915 đã hy
sinh, Hội viên hội Doanh nghiệp đã tài trợ được hơn 30 tỷ để xây dựng tu tạo
lại khu tưởng niệm Thanh niên xung phong 915 tại Gia Sàng.
40
Từ những hoạt động thực tế trên cho thấy, từ năm 2010 - 2016 hội
Doanh nghiệp thành phố đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển
chung của thành phố đặc biệt là về kinh tế. Phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ
tiêu đề ra cũng như tham mưu cho lãnh đạo Chính quyền thành phố tháo gỡ
kịp thời những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải.
2.2.2. Hội Làm vườn
Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội - nghề nghiệp
mang tính chất kỹ thuật của quần chúng hoạt động tự nguyện, đoàn kết, hợp
tác giúp nhau làm nòng cốt phát triển kinh tế VAC (vườn, ao, chuồng) nhằm
đảm bảo dinh dưỡng cho gia đình, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, nâng
cao đời sống, tiến lên làm giàu từ sản xuất hàng hoá, góp phần xây dựng nền
nông nghiệp phát triển bền vững, cải thiện bảo vệ môi trường, tài nguyên đất
nước, xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên được thành lập ngày 20/11/1990 theo
quyết định của UBND thành phố Thái Nguyên.
Hội có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, Hội tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, luật pháp của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế VAC, kinh
tế gia đình, kinh tế trang trại, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền
vững. Vận động phong trào phát triển kinh tế theo mô hình VAC.
Thứ hai, Hội kiến nghị, góp ý với Đảng ủy và UBND về những chủ
trương, chính sách, biện pháp khuyến khích kinh tế VAC phát triển; Xây
dựng và phát triển Hội ngày càng vững mạnh.
Thứ ba, Hội động viên tinh thần nhiệt tình, khả năng lao động sáng tạo
của các hội viên, đoàn kết, hợp tác giúp nhau phát triển kinh tế VAC trên cơ
sở trao đổi kinh nghiệm, phổ biến, ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật
nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế các loại cây trồng, vật
nuôi. Tạo điều kiện để hội viên giúp nhau về vốn, lao động và cơ sở vật chất
41
kỹ thuật, xây dựng và phát triển nghề làm vườn vững mạnh, đáp ứng ngày
càng cao nhu cầu của thị trường;
Thứ tư, tuyên truyền, huấn luyện, tham gia đào tạo nghề, phổ biến kinh
nghiệm, chuyển giao công nghệ kỹ thuật làm kinh tế VAC. Cung cấp các dịch
vụ về khoa học kỹ thuật, cây, con giống, vật tư, công cụ, chế biến và tiêu thụ sản
phẩm. Xuất bản tài liệu huấn luyện, phổ biến kỹ thuật và quản lý kinh tế VAC;
Phổ biến, tuyên truyền, huấn luyện cho các hội viên và nông dân thực hành, sản
xuất ra các sản phẩm nông nghiệp sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn lương thực,
thực phẩm theo tiêu chuẩn ViêtGAP (thực hành nông nghiệp sạch thế giới).
Với quyền hạn và nhiệm vụ của hội như vậy, trong những năm qua Hội
đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội Làm vườn tỉnh nói chung và
của thành phố nói riêng. Hội đã làm tốt công tác tuyên truyền các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của địa phương về phát triển
kinh tế, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo và tăng cường vai trò hoạt
động của tổ chức Hội làm vườn.
Về công tác phát triển sản xuất và chuyển giao khoa học kỹ thuật. Phát
triển kinh tế theo hướng VAC và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho
hội viên đã được cấp Hội làm vườn tổ chức, thực hiện.
Công tác phát triển sản xuất và chuyển giao khoa học kỹ thuật diễn ra
rông khắp ở 9 huyện, thành, thị Hội. Hội đã triển khai lớp tập huấn sản xuất
bưởi an toàn theo quy trình VietGAP, tại xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai cho 40
hội viên tham gia. Hội đã mở được 465 buổi tập huấn chuyển giao khoa học
kỹ thuật cho hội viên tham gia, nội dung chủ yếu là kỹ thuật sản xuất chè an
toàn, kỹ thuật chăm sóc lúa, kỹ thuật chăn nuôi gia súc gia cầm an toàn.
Một trong những vùng trồng chè lớn và nổi tiếng đó là vùng trồng chè
Tân Cương bằng việc xây dựng được thương hiệu về cây chè, hướng tới một
nền nông nghiệp sạch theo tiêu chuẩn VietGAP cho đến nay đã có những bứt
phá ngoạn mục. Các sản phẩm chè của Tân Cương không chỉ chiếm lĩnh thị
42
trường trong nước mà còn vươn ra thế giới. Đời sống của người dân được ấm
no. Tiêu biểu là Hợp tác xã chè Tân Hương của bà Đỗ Thị Hiệp là một điển
hình tiêu biểu. Với hơn 40 hội viên, diện tích 22 ha chè theo tiêu chuẩn UTZ
(chương trình và nhãn cho canh tác bền vững). Chè sạch Tân Hương là một
trong 69 địa chỉ được xác nhận là “Địa chỉ Xanh- Nông sản Sạch”. Chè Tân
Hương đã xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới tại các thị trường khó tính
như Nhật Bản, Hà Lan, Canada.
Thông qua các chương trình dự án, mô hình, hợp tác xã chuyển giao,
ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, Hội đã khơi dậy được tiềm năng,
thế mạnh trong nông nghiệp ở Tân Cương từ đó hình thành những hợp tác xã
với chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Cùng với đó, Hội cũng rất quan tâm tới việc cải tạo phát triển vườn tạp
nhằm đưa kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại phát triển thành trang trại sản
xuất mang tính hàng hóa nên công tác dịch vụ phát triển Hội đã tiến hành
cung cấp: Các loại cây ăn quả giống mới, đem lại hiệu quả và có giá trị kinh
tế cao như: Chuối tây Thái Lan, hồng xiêm, chanh tứ quý, sấu ghép, bưởi
diễn, xoài tím…Tìm đầu ra và bao tiêu sản phẩm cho các Hội viên nông dân
như mật ong, sữa ong chúa, phấn hoa.
Được sự hướng dẫn của Hội Làm vườn và Hội nông dân Thành phố về
phương pháp, khoa học kỹ thuật, đã có ba mô hình sản xuất kinh doanh giỏi,
tiêu biểu: Trồng rau an toàn của gia đình anh Phan Thanh Lưu thuộc chi hội
Tổ 13, phường Quang Vinh mỗi năm cho thu nhập 300 triệu đồng; Mô hình
nuôi gà siêu trứng và mô hình nuôi ong lấy mật của gia đình anh Trần Văn
Nam ở xóm Núi Hột xã Linh Sơn mỗi năm cho thu nhập 700 triệu đồng. Đây
là hai trong số rất nhiều mô hình sản xuất tiêu biểu của hội.
Các cấp hội phối hợp với Hội nông dân cung ứng 186 tấn phân bón các
loại theo phương thức trả chậm cho hội viên, điển hình như Hội Làm vườn
Huyện Đồng Hỷ.
43
Ngoài ra, Hội luôn coi trọng và làm tốt công tác phong trào như hưởng
ứng Tết trồng cây theo gương bác Hồ, công tác đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ quỹ
Vì người nghèo, quỹ nạn nhân chất độc da cam, quỹ khuyến học…. giúp đỡ
các gia đình có hoàn cảnh khó khăn về giống, vốn, về khoa học kỹ thật trị giá
230 triệu đồng; Chủ động xây dựng các mô hình điểm, đem lại hiệu quả kinh
tế cao, được các hội viên trong và ngoài tỉnh đến tham quan, học tập kinh
nghiệm và nhân rộng.
Công tác dạy nghề cho lao động nông thôn cũng được Hội chú trọng.
Hàng năm, Trung tâm dạy nghề VAC mở các lớp dạy nghề trung cấp, sơ cấp
cho lao động nông thôn và tạo việc làm cho hội viên. Phong trào xây dựng mô
hình vườn, ao chuồng tình nghĩa, tương thân tương ái, tết trồng cây và ủng hộ
người nghèo được các cấp Hội thực hiện có hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp
phát triển kinh tế chung của thành phố.
2.2.3. Hội Sinh vật cảnh
Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là vào thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đi đôi với phát triển kinh tế là việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc
sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần. Việc phát triển Hội Sinh vật cảnh
thành phố Thái Nguyên nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên là tổ chức quần chúng tập
hợp những người yêu thích Sinh vật cảnh, người sản xuất, kinh doanh, làm
dịch vụ Sinh vật cảnh, nghệ nhân hoạt động cho sự bảo vệ và phát triển của
Sinh vật cảnh trên địa bàn thành phố.
Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên được thành lập theo Quyết
định số 1897 ngày 27/6/1995 của UBND thành phố Thái Nguyên. Hội hoạt
động trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển của sinh vật cảnh trên phạm vi thành
phố Thái Nguyên. Hội chịu sự quản lí nhà nước của Ủy ban Nhân dân thành
phố Thái Nguyên liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Hội theo quy định của
pháp luật.
44
Nhiệm vụ của Hội Sinh vật cảnh là tuyên truyền, giáo dục quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đối với việc bảo
vệ và phát triển sinh vật cảnh; vận động hội viên và nhân dân tham gia tích
cực thực hiện nhiệm vụ này trên địa bàn thành phố.
Phát triển và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, động viên nhiệt tình và
khả năng lao động sáng tạo của hội viên, đoàn kết, giúp đỡ nhau, trao đổi kinh
nghiệm, phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mĩ thuật nhằm
phát triển ngày càng phong phú và đa dạng với chất lượng cao các sản phẩm
Sinh vật cảnh mang lại đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, lợi ích kinh tế -
xã hội thiết thực cho hội viên.
Tổ chức các dịch vụ khoa học kĩ thuật, mĩ thuật và các cơ sở sản xuất -
kinh doanh dịch vụ cho hoạt động sinh vật cảnh theo đúng quy định của pháp
luật. Hội thành lập nhiều câu lạc bộ như: Câu lạc bộ Hoa lan Gió ngàn, Câu
lạc bộ gà Tân Châu 68 Thái Nguyên…
Triển lãm sinh vật cảnh là một trong chuỗi các hoạt động chào mừng
Festival Trà Thái Nguyên - Việt Nam lần thứ ba. Đây cũng là dịp để các nhà
vườn, câu lạc bộ, hội sinh vật cảnh trong và ngoài tỉnh trưng bày những sản
phẩm đẹp nhất, giao lưu, học hỏi và giới thiệu sản phẩm. Triển lãm thu hút sự
tham gia của hơn 50 đơn vị trong và ngoài tỉnh với khoảng 9.500 tác phẩm,
gồm cây cảnh nghệ thuật, cây cảnh tự nhiên, gỗ lũa, đá, lan, chim, thú, đá
cảnh, hoa cảnh, đồ gỗ mỹ nghệ … được trưng bày tại các tuyến đường Đội
Cấn, Nguyễn Du và Nha Trang, thành phố Thái Nguyên. Có hơn 300 tác
phẩm sinh vật cảnh nghệ thuật đặc sắc đã được Ban tổ chức lựa chọn để trưng
bày trên dải phân cách đường Đội Cấn.
Ngày 25/12/2013, xóm Gò Móc, xã Quyết Thắng (thành phố Thái
Nguyên) đã tổ chức đón Bằng công nhận Làng nghề sinh vật cảnh. Đây là địa
phương đầu tiên được đón nhận danh hiệu Làng nghề sinh vật cảnh. Các sản
phẩm sinh vật cảnh chính của xóm gồm: cây cảnh nghệ thuật, cây hoa, cây
45
bóng mát, chim cảnh, đá cảnh…Việc trồng và kinh doanh sinh vật cảnh đã
mang lại mức thu nhập cao cho nhiều hộ dân. Năm 2012, doanh thu từ nghề
sinh vật cảnh của xóm Gò Móc đạt trên 6 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho
hàng trăm lao động với thu nhập bình quân 3 triệu đồng/người/tháng.
Hiện nay, thành phố có trên 220.000 m2 trồng và trưng bày sinh vật
cảnh, thu hút hơn 800 lao động tham gia; trong đó có 17 doanh nghiệp và cơ
sở sản xuất kinh doanh sinh vật cảnh, tạo việc làm ổn định cho 320 lao động
với mức thu nhập từ 2,5 đến 12 triệu đồng/người/ tháng; tổng thu từ sinh vật
cảnh của toàn Hội trong 5 năm qua đạt hơn 38 tỉ đồng.
Hội phối hợp chặt chẽ cùng các cơ quan, ban, ngành chức năng, gắn
hoạt động của Hội với các phong trào thi đua tại địa phương; phấn đấu phát
triển mới từ 400 hội viên trở lên; thành lập mới 3 cơ sở hội; tổ chức tốt các
hội thi, trưng bày Sinh vật cảnh của Thành phố, của tỉnh; phấn đấu có 30 cán
bộ, hội viên trở lên được phong tặng danh hiệu nghệ nhân các cấp; 50 cán bộ,
hội viên trở lên được phong tặng danh hiệu bàn tay Vàng.
Có thể nhận thấy, hoạt động phong trào của Hội Sinh vật cảnh thành
phố Thái Nguyên đã và đang tạo sức hấp dẫn đến nhiều đối tượng trong xã
hội và có sức lan tỏa nhanh. Hội góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập
và gắn kết tôn vinh những giá trị văn hóa tinh thần trong cộng đồng xã hội,
góp phần phát triển nền kinh tế chung của thành phố, quảng bá hình ảnh đẹp
của đất nước đến bạn bè quốc tế.
2.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực lĩnh vực văn hóa -
giáo dục
2.3.1. Hội Văn học - nghệ thuật
Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên được thành lập theo
Quyết định số: 950/QĐ-UBND ngày 28/5/2007 của UBND tỉnh Thái Nguyên.
Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội nghề
nghiệp sáng tạo nằm trong đội ngũ công tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước, tập
46
hợp những người sáng tác văn học, nghệ thuật tự nguyện góp phần xây dựng
đời sống văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc của nhân dân thành
phố Thái Nguyên.
Hội Văn học nghệ thuật thành phố là cái nôi bồi dưỡng các tác giả văn
thơ trẻ họ đã sáng tác nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, những tác
phẩm nghiên cứu, phê bình văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống xã hội của
địa phương. Phục vụ các nhiệm vụ chính trị của thành phố Thái Nguyên.
Nghị quyết số 23 của Bộ chính trị (Khóa X) đã đề ra chủ trương xây
dựng nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam tiên tiến, đậm đà bẳn sắc văn hóa dân
tộc; xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập
quốc tế, xây dựng bảo vệ tổ quốc, trong nhiều năm qua, Hội văn học nghệ
thuật thành phố đã xây dựng triển khai nhiều chương trình hành động, phối
hợp tổ chức nhiều sự kiện văn hóa lớn trên địa bàn thành phố.
Sau tết âm lịch truyền thống, vào ngày rằm tháng giêng hàng năm Hội
tham gia phối hợp với các đơn vị như Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt
Nam, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, cùng các đơn vị hoạt động trên lĩnh vực
văn hóa trên địa bàn duy trì tổ chức Lễ hội thơ Nguyên Tiêu. Lễ Hội thơ đã
trở thành một nét đẹp văn hóa với quy mô lớn cùng với nhiều cơ quan ban
ngành tham gia. Hội đã cùng với Bảo tàng phối hợp tổ chức nhiều sự kiện văn
hóa khác, đưa các chương trình nghệ thuật được dàn dựng công phu, đa dạng,
nhiều mầu sắc, được trình diễn vào không gian sân khấu ngoài trời của Bảo
tàng, trước đông đảo quần chúng nhân dân, nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn
của đất nước, những sự kiện quan trọng của tỉnh và thành phố trong năm.
Đặc biệt, ngày 18 tháng 10 năm 2009, tại Quảng trường 20/8 thành phố
Thái Nguyên (nay là Quảng trường Võ Nguyên Giáp). Hội đã tổ chức thành
công chương trình Đêm nhạc hát về Thái Nguyên, tôn vinh những giá trị tinh
thần, những sản phẩm sáng tạo của các nhạc sĩ là người Thái Nguyên viết về
Thái Nguyên nhân dịp chào mừng thành phố Thái Nguyên 47 năm tuổi.
47
Năm 2010, Hội tổ chức thành công cuộc triển lãm tranh và ảnh nghệ
thuật của hơn 60 tác giả, là họa sĩ, nghệ sĩ Thái Nguyên. Bên cạnh đó, còn có
sự tham gia của các hội viên Câu lạc bộ mĩ thuật thủ đô Hà Nội. Cuộc triển
lãm trưng bày hơn 100 tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh với nội dung và đề tài
phong phú, phản ánh chân thực đời sống lao động và học tập của người Thái
Nguyên trong công cuộc đổi mới của đất nước.
Năm 2015, Hội văn học nghệ thuật thành phố đã tổ chức thành công
Đại hội Hội Văn học nghệ thuật lần thứ hai, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Sau thành
công của hội nghị, nhiều hội viên đã tham gia triển lãm toàn quốc, khu vực và
các triển lãm chuyên đề như: Chi hội Mỹ thuật đã gửi tranh tham gia triển lãm
khu vực III (Tây Bắc - Việt Bắc) đầu tháng 8/2015 tại tỉnh Sơn La.
Ngoài ra, hoạt động của chi hội Nhiếp ảnh cũng thu hút rất nhiều hội
viên tham gia như: Triển lãm ảnh nghệ thuật khu vực Việt Bắc - Tây Bắc do
Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức tại thành phố Cao Bằng vào tháng
10/2015; Triển lãm Ảnh nghệ thuật toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội Việt
Nam, tháng 12/2015 với nhiều tác phẩm tiêu biểu như ảnh: “Nụ cười ngày
Xuân”; “Ruộng bậc thang”; “Phong cảnh Núi Cốc”.
Chào mừng ngày Mỹ thuật Việt Nam, sáng ngày 20/11/2015, Hội Văn
học nghệ thuật đã tổ chức Triển lãm Mỹ thuật Thái Nguyên tại Bảo tàng Văn
hóa các dân tộc Việt Nam đã thu hút 18 hội viên tham gia và mang đến triển
lãm 22 tác phẩm: Bức tranh “Quê tôi” - Tác giả Hoàng Báu; “Sen mùa hạ” -
Tác giả Chu Hải Anh…
Hội Văn học nghệ thuật cùng với Bảo tàng tổ chức các chương trình sự
kiện văn hóa lớn như: Tổ chức 5 năm bảo tồn, phát huy vốn di sản văn hóa
Việt Nam và hội nhập quốc tế; Tham gia lễ hội văn hóa trà và văn hóa
ASEAN; Tham gia tổ chức các hoạt động của Festival Trà Thái Nguyên -
Việt Nam; Trưng bày triển lãm ảnh nghệ thuật “ Thái Nguyên - Xứ Trà”. Tại
cuộc triển lãm này đã chọn được 235 tác phẩm của 20 tác giả với 100 tác
48
phẩm được trưng bầy với nội dung và đề tài vô cùng phong phú, phản ánh
chân thực đời sống lao động của người Thái Nguyên trong công cuộc hội
nhập và đổi mới đất nước.
Ngoài ra, Hội cũng thường xuyên tổ chức cho các hội viên đi thực tế
sáng tác tại các tỉnh phía Bắc để lấy tư liệu làm cơ sở cho các tác phẩm ra đời
như: Văn, thơ, nhạc, họa; Tham gia các kỳ triển lãm toàn quốc như triển lãm
tại Lạng Sơn (8/2012) của 19 hội viên với 35 tác phẩm; Triển lãm tại lễ hội
Lồng tồng - Định Hóa, tham dự trại sáng tác của hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt
Nam tại Sơn La, Lai Châu…
Để chào mừng 55 năm ngày thành lập thành phố Thái Nguyên, hội đã
tổ chức một chương trình triển lãm mỹ thuật, ảnh nghệ thuật và ra mắt giới
thiệu tập thơ của tác giả La Giang.
Trong quá trình hoạt động của hội, kể từ khi thành lập cho đến nay, Hội
luôn nhận được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố.
Hàng năm, Hội nhận được cấp 60.000.000 đ từ nguồn ngân sách của thành phố.
Phát huy những thành tích đã đạt được, trong những năm tới Hội Văn
học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh
hoạt động văn học nghệ thuật hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
2.3.2. Hội khuyến học
Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên được thành lập theo Quyết
định số 131/QĐ - UB ngày 29/01/2002 của Chủ tịch UBND thành phố Thái
Nguyên. Hiện nay, Hội có 70.898 hội viên tham gia. Chủ tịch của hội là ông
Nguyễn Đức Tiến. Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội,
tập hợp các lực lượng xã hội và công dân Việt Nam trên địa bàn thành phố
tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, khuyến học, khuyến tài, góp phần xây dựng
xã hội học tập nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Thái Nguyên.
49
Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên luôn đẩy mạnh tuyên truyền sâu
rộng tôn chỉ mục đích hoạt động của Hội trong xã hội, vận động các tổ chức, các
lực lượng xã hội và công dân Việt Nam tham gia thực hiện công tác khuyến học,
khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ
đối nội, đối ngoại có liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Hội và hội viên theo đúng tôn chỉ, mục
đích của Hội; Nâng cao năng lực hoạt động khuyến học, khuyến tài.
Hội cũng có hoạt đông tư vấn, phản biện, và giám định xã hội đối với
các chủ trương, chương trình, dự án giáo dục và các văn bản quy phạm pháp
luật có nội dung liên quan đến Hội theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước.
Trong quá trình hoạt động, Hội được phép nhận các nguồn tài trợ hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp
luật và được gây quỹ trên cơ sở hội phí của hội viên.
Nhiệm vụ chủ yếu của Hội Khuyến học là liên kết, phối hợp với các tổ
chức, các lực lượng xã hội, các cơ sở giáo dục triển khai các hoạt động
khuyến học, khuyến tài theo tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục
và đào tạo trên phạm vi thành phố; Hỗ trợ học bổng cho học sinh nghèo, phần
thưởng cho học sinh giỏi có thành tích cao trong học tập và tu dưỡng.
Từ khi thành lập cho đến nay, Hội Khuyến học thành phố với phương
châm thúc đẩy tinh thần hiếu học của toàn thể nhân dân. Hội tổ chức tuyên
truyền các chỉ thị, quyết định về đề án đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời,
đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng “Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu
học”, “Cộng đồng khuyến học”.
Trong những năm qua, hội đã tham gia tích cực vào công tác tuyên
truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Hội đã phối hợp với Trường Chính trị của tỉnh mở các khóa bồi dưỡng nghiệp
vụ cho 60 cán bộ Hội là Chủ tịch Hội Khuyến học các xã, phường và một số
dòng họ trong 10 ngày về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.
50
Hội đã biên soạn và ấn hành 5 loại sổ tay hướng dẫn xây dựng các mô
hình học tập gồm: Sổ tay hướng dẫn xây dựng các Cộng đồng học tập ở tổ
dân phố; Sổ tay hướng dẫn xây dựng đơn vị học tập ở các nhà trường; Sổ tay
hướng dẫn xây dựng đơn vị học tập tại các cơ quan; Sổ tay hướng dẫn xây
dựng đơn vị học tập ở các dòng họ; Sổ tay hướng dẫn xây dựng đơn vị học
tập ở các trường Cao Đẳng, Đại học.
Năm 2013, Hội thực hiện công văn số 559/UBND ngày 04/4/2013 về việc
thực hiện chương trình khuyến học. Ngày 16/8/2013 tại Hội trường phòng
GD&ĐT thành phố, Hội khuyến học thành phố tổ chức chương trình “Thắp
sáng niềm tin, tiếp sức em đến trường” nhằm trợ giúp những học sinh có hoàn
cảnh khó khăn, tạo điều kiện cho các em phấn đấu vươn lên trong học tập.
Qua chương trình “Thắp sáng niềm tin, tiếp sức em đến trường” các tổ
chức xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm đã có những phần thưởng
động viên các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn có thành tích vươn lên
trong học tập.
Năm 2014, Hội tiếp tục triển khai thực hiện đề án “Đẩy mạnh phong
trào học tập suốt đời trong gia đình dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”; Vận
động các lực lượng xã hội tiến hành Chương trình “Thắp sáng niềm tin tiếp
sức tới trường vì em hiếu học”. Thành hội đã làm tờ trình và được UBND
thành phố đồng ý giao cho Hội khuyến học thành phố chủ trì phối hợp với các
ban, ngành, đoàn thể và các địa phương tổ chức tốt Chương trình nhằm hỗ trợ
các em học sinh gia đình nghèo đang gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ phải
bỏ học.
Để hỗ trợ các em học sinh nghèo vươn lên trong học tập, Hội Khuyến
học cùng với phòng GD&ĐT thành phố Thái Nguyên đã vận động các lực
lượng xã hội cùng phối hợp, chung tay tặng học bổng, đồ dùng giúp đỡ các
em có điều kiện tiếp tục đến trường học tập cụ thể: Phòng Lao động - Thương
binh Xã hội thành phố trích quỹ “Bảo trợ trẻ em” ủng hộ 80 triệu bằng 160
51
xuất học bổng; Hội Chữ Thập đỏ Thành phố ủng hộ 26 triệu; Công ty Điện tử
Dũng Thành ủng hộ 20 chiếc xe đạp với tổng giá trị hơn 20 triệu đồng; Công
ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG ủng hộ: 5 triệu đồng; Hội doanh nghiệp
thành phố và Công ty Quảng cáo sự kiện Việt Bắc đã vận động ủng hộ 5 triệu
đồng; Công Ty Bảo Việt Thái Nguyên ủng hộ 2,5 triệu đồng [48;tr.3].
Tại Đại hội lần thứ 3, nhiệm kỳ 2014 - 2019, Hội Khuyến học thành
phố khẳng định trong nhiệm kỳ vừa qua, Hội đã có sự phát triển mạnh mẽ,
sâu rộng: 100% các phường, xã thành lập được Hội Khuyến học với trên 70
nghìn hội viên; Phong trào xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học,
cụm dân cư khuyến học đã phát triển rộng khắp, thu hút đông đảo các tầng
lớp nhân dân tham gia; Trong 5 năm qua, Hội đã huy động được gần 10 tỷ
đồng xây dựng Quỹ Khuyến học, tăng gấp 2 lần so với nhiệm kỳ trước; Các
cấp Hội đã trao trên 5.200 suất học bổng với số tiền 1,6 tỷ đồng cho học sinh
nghèo hiếu học; khen thưởng trên 76.200 lượt học sinh giỏi với số tiền 8 tỷ
đồng; khen thưởng cho trên 7 nghìn lượt thầy cô giáo dạy giỏi với số tiền hơn
1 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các Trung tâm học tập cộng đồng cũng đã mở được
trên 1 nghìn lớp tập huấn chuyên đề với trên 68 nghìn lượt người tham gia.
Năm 2014, Hội khuyến học thành phố có trên 39 nghìn gia đình đạt danh hiệu
gia đình hiếu học, tăng 1,5 lần so với nhiệm kỳ trước.
Cũng trong năm 2014, Hội khuyến học Thành phố Thái Nguyên tổ
chức hội nghị cán bộ chủ chốt Hội khuyến học cơ sở trong toàn Thành phố
nhằm xây dựng, củng cố và phát triển hội ở 28/28 phường, xã; Hội triển
khai thực hiện quyết định 281/QĐ-TTG của Thủ Tướng Chính phủ, quyết
định 1139/QĐ của UBND về “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong
gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”; Lập hồ sơ đề nghị cấp học
bổng “Thắp sáng niềm tin” của Hội Khoa học Việt Nam cho những học
sinh nghèo trúng tuyển đại học, cao đẳng năm 2014; Thực hiện tốt tháng 9
khuyến học.
52
Năm 2015, Hội Khuyến học đã tổ chức trao tặng kỷ niệm chương “Vì
sự nghiệp Khuyến học” của trung ương Hội Khuyến học Việt Nam cho 14
đồng chí có nhiều cống hiến cho công tác khuyến học liên tục trong 5 năm, đã
trao tặng giấy khen cho 20 tập thể và 23 cán bộ Hội Khuyến học thành phố có
thành tích xuất sắc trong năm 2015; Trao quà cho 70 giáo viên đạt thành tích
giáo viên giỏi cấp tỉnh, trao học bổng cho 256 em học sinh nghèo vượt khó
tổng trị giá 138.000.000 đồng nhằm khuyến khích, động viên tinh thần hiếu
học trong toàn thể các em học sinh.
Năm 2016, Hội Khuyến học thành phố tổ chức Lễ kỷ niệm 15 năm
ngày thành lập Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên và biểu dương gia
đình hiếu học, dòng họ hiếu học, cộng đồng khuyến học, cán bộ khuyến học
xuất sắc tiêu biểu (2013 - 2016).
Trong suốt 15 năm qua, phong trào khuyến học, khuyến tài của thành
phố Thái Nguyên đã phát triển mạnh mẽ mang lại hiệu quả thiết thực, tạo
thành phong trào thi đua sâu rộng trong nhân dân. Hiện nay, thành phố có 27
Hội khuyến học cơ sở; 100% tổ dân phố/xóm có chi hội Khuyến học, 128 ban
Khuyến học và 38 dòng họ với trên 69.000 hội viên tham gia sinh hoạt; có 27
Trung tâm học tập cộng đồng. Phong trào xây dựng gia đình hiếu học, dòng
họ hiếu học, cộng đồng khuyến học phát triển với trên 40.000 gia đình, 22
dòng họ và 479 cộng đồng khuyến học. Hội đã huy động được trên 10 tỷ đồng
vào Quỹ hoạt động để trao hàng trăm suất học bổng cho học sinh nghèo; khen
thưởng hàng trăm giáo viên, học sinh giỏi có thành tích xuất sắc trong công
tác dạy và học. Với thành tích xuất sắc trong 15 năm hoạt động, Hội đã được
các cấp, ngành trao tặng gần 240 bằng khen, giấy khen và kỷ niệm chương vì
công tác xây dựng xã hội học tập.
Thực hiện Quyết định số 281/QĐ-TTg ngày 20/2/2014 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia
đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”, Hội Khuyến học phối hợp với
53
UBND thành phố Thái Nguyên đã: Xây dựng và thí điểm các mô hình “Gia
đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập” và “Đơn vị học tập”
trong toàn thành phố; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về xã hội học tập, mô
hình học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và cộng đồng; phát động phong
trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và cộng đồng; duy trì, củng cố
và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng,
góp phần đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng
đồng trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
Mục tiêu phấn đấu của Hội đến năm 2020: 100% cán bộ, hội viên của
Hội Khuyến học được tập huấn nâng cao nhận thức về xã hội học tập và các
mô hình học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng; 70% gia đình
được công nhận Danh hiệu “Gia đình học tập”; 50% dòng họ được công nhận
danh hiệu “Dòng họ học tập”; 60% cộng đồng (thôn, làng, tổ dân phố và
tương đương) đạt danh hiệu “Cộng đồng học tập”; 50% các tổ chức, cơ quan,
trường học, đơn vị, doanh nghiệp đạt danh hiệu “Đơn vị học tập”.
2.3.3. Hội Luật gia
Hội Luật gia Thành phố Thái Nguyên là tổ chức Chính trị - xã hội - nghề
nghiệp đặc thù, đoàn kết, tập hợp rộng rãi các luật gia đã và đang làm công tác
pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức văn hóa, tổ chức giáo dục,
đơn vị vũ trang nhân dân, công an nhân dân trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.
Hội Luật gia Thành phố Thái Nguyên được thành lập theo Quyết định
Số 946/QĐ-UBND ngày 28/10/1999 của UBND thành phố Thái Nguyên. Là
thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật, Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Thành phố Thái Nguyên; có mối quan hệ phối hợp với các Sở, Ban,
ngành, đoàn thể, cấp ủy và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, quan hệ hợp
tác với các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ
phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Hội và pháp luật Việt Nam.
54
Hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, dân chủ,
bình đẳng, công khai minh bạch, tự đảm bảo kinh phí hoạt động từ nguồn hỗ
trợ của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác, không vì mục đích lợi
nhuận, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Hội được cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
Hội có nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, Hội đóng góp ý kiến vào các dự án luật, các văn bản qui
phạm pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tham gia các Hội đồng tư vấn
giải quyết khiếu nại của UBND.
Thứ hai, Hội tham gia một số hoạt động quản lý nhà nước theo quy
định của pháp luật như: tuyên truyền phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý,
phản biện và giám định xã hội theo đề nghị của các cơ quan nhà nước.
Thứ ba, Hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, giải quyết
khiếu nại, tố cáo theo qui định của pháp luật và Điều lệ Hội.
Hội Luật gia thành phố từ khi thành lập cho đến nay luôn quan tâm tới
công tác phát triển tổ chức hội và công tác xây dựng pháp 1uật. Căn cứ
Chương trình công tác của HĐND, UBND thành phố Thái Nguyên và của
Hội Luật gia tỉnh, Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên đã xây dựng chương
trình hoạt động cụ thể để các cấp Hội Luật gia tại địa phương tổ chức triển
khai thực hiện. Hội Luật gia thành phố đã tích cực tham gia ý kiến vào việc
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương và được xác định là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Hội và các Chi hội.
Chi hội Sở Tư pháp đã phối hợp với Văn phòng UBND thành phố Thái
Nguyên xây dựng chương trình ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của
UBND thành phố Thái Nguyên và Đề án "Nâng cao chất lượng văn bản quy
phạm pháp luật thành phố Thái Nguyên”. Đề án đang được triển khai trong
giai đoạn đầu, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng ban hành
văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn thành phố trong thời gian tới.
55
Trong thời gian hoạt động, Hội đã thực hiện tốt công tác thẩm định
tham gia ý kiến vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo 100% văn
bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND trước khi ban hành. Hội đã
trực tiếp tham gia ý kiến vào 07 dự thảo luật theo yêu cầu của HĐND thành
phố như: Luật cảnh vệ; Luật quy hoạch; Xử lý tài sản công; Luật thủy lợi;
Luật thủy sản.
Ngoài ra, Hội còn tham gia công tác cải cách tư pháp giám sát thực
hiện pháp luật; giám sát, phản biện xã hội và hòa giải ở cơ sở; công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và công tác tư vấn pháp luật trên địa bàn
thành phố cũng như các chi hội viên.
Từ khi thành lập cho đến nay, các cấp hội căn cứ vào chức năng nhiệm
vụ của cơ quan, đơn vị để chủ động xây dựng kế hoạch phổ biến giáo dục
pháp luật cho phù hợp phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của địa phương và
đáp ứng những điều mà nhân dân đang cần quan tâm. Hội tiếp tục tổ chức
triển khai có hiệu quả các văn bản của Ban Bí thư Trung ương Đảng về phổ
biến, giáo dục pháp luật như: Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003; Kết
luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011; Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; các
Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phổ biến giáo dục pháp luật.
Hội luôn xác định công tác tư vấn pháp luật là một nội dung quan trọng
của Hội đáp ứng yêu cầu phát triển về kinh tế - xã hội. Hội đã chỉ đạo trung
tâm tư vấn pháp luật của thành hội cộng tác chặt chẽ với Trung tâm trợ giúp
pháp lý nhà nước của tỉnh để tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nhân dân,
nhất là các đối tượng yếu thế trong xã hội như: đối tượng HIV, phạm nhân đã
được đặc xá bằng nhiều hình thức như lưu động, tư vấn tại trụ sở, kết quả đã
có 508 vụ việc được tư vấn; Tư vấn pháp luật: 362 vụ việc; Tham gia tố tụng
134 vụ việc; Thực hiện đại diện ngoài tố tụng: 12 vụ việc; Trợ giúp pháp lý
lưu động đạt 27 điểm và đạt kết quả tốt [4;tr.5].
Đối với Công tác hoà giải, các hội viên hiện đang sinh hoạt tại các cấp
hội đều rất tích cực tham gia tư vấn pháp luật cho người dân, giúp họ hiểu vấn
56
đề và hiểu rõ quy định của pháp luật....thông qua đó hoà giải để giải quyết các
mâu thuẫn tranh chấp của người dân trong các mối quan hệ pháp luật phát
sinh, các cấp hội đã tham gia hòa giải được 21 cuộc.
Thành viên của Hội tham gia Đoàn giám sát về thực hiện công tác quản
lý nhà nước về an toàn thực phẩm và khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố.
Các tổ chức Hội đã triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ phản biện và giám
sát xã hội, đẩy mạnh công tác giám sát thi hành pháp luật và xây dựng chính
quyền các cấp. Chi hội Sở Tư pháp đã xây dựng, trình UBND thành phố Kế
hoạch về kiểm tra và theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị
định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/07/2013 của Chính phủ về theo dõi thi hành
pháp luật trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
Hội đã cùng chính quyền địa phương giải quyết đơn thư khiếu nại
những vụ việc khiếu kiện hành chính của công dân, đóng góp nhiều ý kiến
thiết thực nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người khiếu nại, tham
mưu cho UBND các cấp giải quyết một số vấn đề bức xúc về quản lý đất đai
và xây dựng đô thị.
Như vậy, từ khi Hội Luật gia thành phố được thành lập cho đến nay
Hội luôn phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tiếp tục đổi mới phương thức
hoạt động, hướng về cơ sở, xây dựng và phát triển tổ chức Hội ngày càng
vững mạnh; xây dựng đội ngũ Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên: Giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, tận tụy với nghề, vì
dân, vì công lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong giai đoạn mới,
Hội cũng tích cực góp phần vào sự nghiệp phát huy dân chủ; xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
2.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế
2.4.1. Hội Đông y
Hội Đông y thành phố Thái Nguyên được thành lập ngày 25/10/1965.
Đây là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của những người hoạt động trong lĩnh
57
vực khám chữa bệnh bằng đông y trên cơ sở kế thừa và phát triển y học cổ
truyền của dân tộc.
Tham gia hội là những người tự nguyện đem khả năng, kiến thức và
kinh nghiệm chuyên môn của mình cống hiến cho sự nghiệp chăm sóc bảo vệ
sức khỏe nhân dân.
Hội hoạt động trong phạm vi thành phố Thái Nguyên và chịu sự quản
lý nhà nước, của UBND thành phố Thái Nguyên và các cơ quan có liên quan
đến lĩnh vực hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ của hội là tạo điều kiện cho hội viên khám chữa bệnh theo
quy định của pháp luật và Điều lệ hội; Hội khuyến khích việc sưu tầm, kế
thừa các bài thuốc gia truyền theo quy định để sử dụng.
Gần 30 năm sau ngày thành lập, Hội ngày càng phát triển và đạt được
nhiều thành tựu nổi bật. Quy mô tổ chức, hoạt động của Hội không ngừng được
mở rộng. Theo điều lệ của hội Đông y trung ương ở thành phố có phân hội, ở
huyện có chi hội và ở xã có tổ để hội viên sinh hoạt. Số hội viên dần dần phát
triển, đông nhất là ở huyện Phú Bình có 54 hội viên, Đồng Hỷ có 35 hội viên, ít
nhất như Võ Nhai có 7 hội viên, và Định Hóa có 12 hội viên. Những người
được gia nhập Hội đều theo uy định của ty y tế và Mặt trận tổ quốc tỉnh, huyện,
Ủy ban hành chính thành phố hoặc Hội đông y Trung ương công nhận.
Trong quá trình hoạt động, Hội được sự giúp đỡ của ty y tế; Mặt trận và
sự quan tâm của UBND tỉnh nên việc tổ chức hội đã chặt chẽ, có nhiều triển
vọng phát triển.
Trong những năm gần đây, Hội Đông y được sự quan tâm chỉ đạo
của Thành ủy - UBND thành phố, của Trung tâm Y tế thành phố và Hội
Đông y Tỉnh Thái Nguyên nên công tác khám chữa bệnh của Hội ngày
càng được mở rộng.
Năm 2014, Hội có 68 phòng khám chữa bệnh và có nhiều cơ sở khám
chữa bệnh bằng thuốc Đông y tại trạm y tế phường xã. Theo số liệu thống kê,
năm 2014 Hội đã khám chữa bệnh cho 101.588 bệnh nhân.
58
Hội cũng đã khám chữa bệnh từ thiện cho các bệnh nhân nghèo có hoàn
cảnh khó khăn, người có công với cách mạng. Ví dụ như tại phường Phan
Đình Phùng, phường Quang Trung là 3027 bệnh nhân với số tiền trị giá
801.330.000đ; ủng hộ nhân đạo cho 1859 người với số tiền là 127.000.000đ.
Hàng năm, Hội cũng thường tổ chức hội thảo nhằm trao đổi kinh
nghiệm, nuôi cấy bảo tồn các cây thuốc quý, những bài thuốc hay có giá trị tại
các xã, phường như phường Quang Vinh, phường Tân Lập. Buổi thảo luận tại
phường Quang Vinh, Hội đã giới thiệu 14 bài thuốc, cây thuốc trong tổng số
43 bài thuốc hay như thuốc chữa Thống phong, chữa Viêm tai giữa, chữa hóc
xương… Ngoài ra, hội còn giới thiệu thêm một số cây thuốc quý như: Cây
dâu, cây trám, cây chua meo, cây bơn, cây bạc thau, cây đậu đen…đặc biệt là
phương pháp chữa bệnh bằng bấm huyệt, day ấn vùng phản xạ dưới bàn chân
của lương y Nguyễn Thị Mão đã được cấp giấy chứng nhận “Bài thuốc hay,
cây thuốc quý”.
Trong năm 2016, Hội đã phát động phong trào thi đua “ Học tập thân
thế, sự nghiệp Đại Y tôn Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác và Đại danh Y
Thiền sư Tuệ Tĩnh”. Bên cạnh đó, Hội đã tuyên truyền, triển khai thực hiện
Chỉ thị 24/CT-BBT Trung ương về xây dựng hội Đông y Việt Nam và nền
Đông y Việt Nam trong tình hình mới. Đông thời thực hiện Nghị định số
45/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và quản lý Hội, chấp hành
mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ. Hội gắn Cuộc
vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
gắn liền với việc tổ chức thực hiện công tác Hội Đông y.
Hội vận động hội viên và nhân dân trồng cây thuốc quý tại vườn như:
Cây gối hạc, trinh nữ hoàng cung, thất diệp nhất tri hoa, cây khôi nhung, nấm
lim xanh, xạ đen. Tiêu biểu là mô hình trồng nấm lim xanh của hội viên Trần
Danh Tài ở xã Hóa Trung - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. Viện Quân y đã phát
hiện nấm lim xanh có hơn 400 hoạt chất có lợi cho cơ thể con người, có thành
59
phần dược chất và vitamin cao gấp nhiều lần nấm linh chi thông thường. Tác
dụng tăng cường sức đề kháng, giảm mệt mỏi, giảm mỡ máu, điều hòa đường
huyết, vì thế trồng nấm lim xanh đem lại giá trị kinh tế cao.
Nhằm khuyến khích các hội viên phát triển, hàng năm hội cũng đã tiến
hành bình xét khen thưởng cho các Hội Đông y xã, phường và các cá nhân có
thành tích xuất sắc trong hoạt động và đóng góp nhiều bài thuốc hay, có giá
trị áp dụng thực tiễn một cách hiệu quả.
Hội Đông y thành phố từ khi thành lập cho đến nay hội luôn chấp hành
tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Được sự quan
tâm của Thành ủy, UBND, UBMTTQ thành phố, đặc biệt là hỗ trợ kinh phí
hoạt động và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm
việc cho Hội Đông y nên công tác khám chữa bệnh ngày càng hiệu quả, nhân
dân tin tưởng vào khám chữa bệnh bằng đông y.
2.4.2. Hội Chữ thập đỏ
Nhân đạo, sẻ chia, tương thân, tương ái là một trong những giá trị văn
hóa, đạo lý truyền thống của con người Việt Nam, thấm sâu trong các gia
đình, dòng họ, xóm làng, cộng đồng xã hội từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Tinh thần “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương
nhau cùng”, “thương người như thể thương thân” luôn là một sức mạnh to
lớn trong nhân dân ta. Những bản sắc tốt đẹp và nhân văn sâu sắc này được
chúng ta gìn giữ và phát huy mạnh mẽ trong thời đại ngày nay.
Hội Chữ thập đỏ thành phố Thái Nguyên được thành lập năm 1965.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ - HĐND- UBND thành phố và sự
hướng dẫn, chỉ đạo của Hội CTĐ tỉnh Thái Nguyên. Đây là tổ chức xã hội
hoạt động nhân đạo. Mục đích của Hội là nhân đạo, hòa bình, hữu nghị, góp
phần xây dựng thành phố Thái Nguyên giàu mạnh.
Hội có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn
bản pháp luật về hoạt động chữ thập đỏ, hoạt động nhân đạo và các văn bản
60
pháp luật có liên quan như phổ biến kiến thức, cung cấp thông tin, tập huấn
nghiệp vụ công tác Hội cho cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, thanh thiếu
niên Chữ thập đỏ.
Hội vận động cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, thanh, thiếu niên Chữ
thập đỏ và các tầng lớp nhân dân tham gia hoạt động chữ thập đỏ về cứu trợ
khẩn cấp và trợ giúp nhân đạo; tham gia phòng ngừa, ứng phó thảm họa; chăm
sóc sức khỏe dựa vào cộng đồng; sơ cấp cứu ban đầu; vận động hiến máu nhân
đạo, hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác; tìm kiếm tin tức thân nhân thất
lạc do chiến tranh, thiên tai, thảm họa; tuyên truyền các giá trị nhân đạo.
Hội cũng tham gia giám sát và phản biện xã hội các vấn đề liên quan
đến hoạt động nhân đạo. Tham mưu trình Chính phủ vận động, trợ giúp
nhân dân nước khác khi thiên tai, thảm họa xảy ra, gây hậu quả nghiêm
trọng; tham gia cứu trợ quốc tế; Thực hiện các nhiệm vụ liên quan khác do
Nhà nước giao.
Hội Chữ thập đỏ thành phố từ khi thành lập cho đến nay luôn nhận
được sự quan tâm chỉ đạo của Hội Chữ thập đỏ tỉnh Thái Nguyên, Thành ủy-
HĐND- UBND- UBMTTQ thành phố Thái Nguyên và của các ban, ngành,
đoàn thể; sự ủng hộ của các Doanh nghiệp, nhà hảo tâm và đông đảo quần
chúng nhân dân. Các phong trào hoạt động nhân đạo của Hội Chữ thập đỏ đã
góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố, những đóng
góp đó đã được các cấp ủy Đảng chính quyền và nhân dân ghi nhận.
Trong quá trình hoạt động, Hội Chữ thập đỏ thành phố đã xây dựng
hoàn chỉnh hệ thống tổ chức Hội cơ sở. 100% đơn vị Hội cơ sở đã phát triển
được các chi Hội Chữ thập đỏ tổ dân phố, trường học và chi Hội Chữ thập đỏ
trong cơ quan khối dân chính Đảng, làm tốt công tác quản lý và phát triển Hội
viên, tình nguyện viên Chữ thập đỏ.
Hàng năm Hội tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Hội
cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động của các đội thanh niên Chữ thập đỏ xung
kích và phát triển các đội tình nguyện viên.
61
Hiện nay, thành phố Thái Nguyên còn 27 đơn vị Hội Chữ thập đỏ
phường, xã trực thuộc trong đó Hội Chữ thập đỏ phường là 21, xã là 8. Số Chi
hội là 532 Chi hội; Tổng số hội viên là 15.433; Tổng số Tình nguyện viên là
440; Tổng số Thanh thiếu niên Chữ thập đỏ trong và ngoài trường học là
20.536; Duy trì hoạt động hiệu quả 25 Đội, chốt, câu lạc bộ tình nguyện viên
Chữ thập đỏ [28;tr.10]
Trong những năm qua, Công tác xã hội nhân đạo được triển khai có
chiều sâu, có tính lan tỏa rộng, thu hút ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức, nhà
hảo tâm tham gia cụ thể:
Trong phong trào “Tết vì người nghèo và nạn nhân chất độc da cam”,
toàn Hội đã vận động được trên 4163 tập thể, các nhân tích cực tham gia ủng hộ
12651 xuất quà trị giá trên 3,7 tỷ đồng, hỗ trợ 11 con bò giống trị giá 143 triệu
đồng, tặng sổ tiết kiệm trị giá 73 triệu đồng, tặng gần 1000 bánh trưng trị giá 30
triệu đồng cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và các đối tương ở
các Trung tâm như: Trung tâm Bảo trợ xã hội, Trung tâm điều dưỡng và phục
hồi chức năng thần kinh, khu điều trị phong Phú Bình…. Với tổng giá trị trên 7
tỷ đồng [27;tr.8]. Phong trào đã trở thành hoạt động hàng năm của Hội Chữ thập
đỏ, được các cấp uỷ Đảng chính quyền, nhân dân ghi nhận và đánh giá cao.
Năm 2013, Hội Chữ thập đỏ đã ủng hộ cuộc vận động xây dựng công
trình nhân đạo "Trung tâm chăm sóc nạn nhân chất độc da cam và sơ cấp cứu
của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam" tại Thị xã Sầm Sơn tỉnh Thanh Hoá 25 triệu
đồng. Xây 5 bể chứa được mỗi bể 5m3 trị giá 30 triệu đồng tại xã Phú Đô,
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên [27;tr.4].
Những năm gần đây, Hội thực thực hiện cuộc vận động "Mỗi tổ chức, mỗi
cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo". Các thành viên của Hội đã đến với 386
địa chỉ nhân đạo. Số tiền hỗ trợ 2,5 tỷ đồng được chi cho xây nhà mới và sửa
chữa nhà đã xuống cấp (204 nhà); Hỗ trợ lương thực hàng tháng cho 96 đối
tượng. Ngoài ra, còn tặng xe đạp, xe lăn, sổ tiết kiệm, thẻ BHYT cho 86 đối
tượng người nghèo, gia đình chính sách, trẻ em mô côi, khuyết tật [44;tr.28].
62
Một trong những thành công của Hội là tham gia chỉ huy phòng chống
thiên tai và tìm kiếm cứu nạn của thành phố.
Hội đã đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về
thảm hoạ, hướng dẫn kỹ năng phòng tránh và ứng phó khi có thảm họa xảy ra.
Hội thành lập các đội tình nguyện viên, thanh niên xung kích Chữ thập đỏ
như lập 02 chốt Sơ cấp cứu, cứu hộ cứu nạn trên sông tại đầu cầu Gia Bẩy, xã
Đồng Bẩm và đầu cầu treo Bến Oánh, phường Túc Duyên thành phố Thái
Nguyên. Với tinh thần trách nhiệm cao các tình nguyện viên Chữ thập đỏ tại
các chốt sơ cấp cứu đường bộ, đường sông và đội xe ôm an toàn Chữ thập đỏ
đã kịp thời sơ cấp cứu ban đầu, đưa đi cấp cứu 205 trường hợp người bị nạn,
tai nạn giao thông, đuối nước.
Để chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác sơ cấp cứu, Hội đã phối hợp
với Trung tâm Y tế, trạm y tế các xã, phường tổ chức 17 đợt khám, tư vấn, cấp
thuốc miễn phí cho trên 10 nghìn đối tượng là các mẹ Việt Nam anh hùng, cán
bộ tiền khởi nghĩa, nạn nhân chất độc da cam, thương bệnh binh, người nghèo,
người cao tuổi trên địa bàn thành phố với ngân sách trên 900 triệu đồng.
Hội cũng thường xuyên tuyên truyền vận động hiến máu tình nguyện,
tổ chức phát động, tuyên truyền, vận động hàng ngàn lượt người hưởng ứng
tham gia chiến dịch hiến máu tình nguyện như: “Lễ hội Xuân Hồng”, “Ngày
toàn dân hiến máu tình nguyện 7/4”, “Những giọt máu hồng hè”. Các chiến
dịch thu hút hàng nghìn cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các
em sinh viên các trường đại học, cao đẳng tham gia hiến máu. Thông qua các
đợt vận động, các bệnh viện đã được cung cấp đủ số máu phục vụ kịp thời
cho công tác cứu chữa bệnh. Số đơn vị máu an toàn thu được gần 2.000 đơn
vị máu, với tổng trị giá trên 273 triệu đồng. Góp phần rất lớn cho các bệnh
viện chữa bệnh cứu người [28;tr.25].
Để góp phần khơi dậy các thanh thiếu niên có lòng tương thân tương ái,
sống vị tha, hòa đồng, biết cảm thông và chia sẻ với những mảnh đời bất
hạnh, không may mắn trong cuộc sống Hội đặc biệt quan tâm đến công tác
thanh thiếu niên Chữ thập đỏ: Toàn thành phố hiện nay có 20.536 thanh thiếu
63
niên Chữ thập đỏ là lực lượng nòng cốt của công tác nhân đạo trong trường
học. Thông qua các hoạt động của Hội đã góp phần giáo dục đạo đức, học tập,
lao động của tuổi trẻ.
Tại các trường học, hoạt động quyên góp giúp bạn nghèo vượt khó;
giúp bạn đến trường; nuôi lợn nhựa tiết kiệm giúp bạn nghèo vượt khó; tặng
quà và giúp ngày công lao động cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng; chăm sóc
giúp đỡ những người già cô đơn….được triển khai trong năm học.
Vào ngày khai giảng, bế giảng năm học, các ngày lễ tết như tết thiếu
nhi 1/6, tết trung thu nhằm động viên tinh thần học tập tốt của các em học
sinh, Hội Chữ thập đỏ thành phố, Hội Chữ thập đỏ cơ sở, trường Tiểu học và
THCS phối hợp trao tặng trên 2.000 xuất quà, trị giá trên 700 triệu đồng.
Hội Chữ thập đỏ thành phố duy trì phát hành bản tin “Nhân đạo Thái
Nguyên” với số lượng phát hành 500 bản/quý nhằm chỉ đạo triển khai Nghị
quyết Đại hội Chữ thập đỏ tỉnh Thái Nguyên lần thứ VII tới các cấp hội; phản
ánh các hoạt động nhân đạo, tăng cường công tác tuyên truyền những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến những kinh nghiệm hay,
những điển hình tiến tiến, định hướng nghiệp vụ công tác trên các lĩnh vực
công tác của Hội đến các cơ sở Hội, phục vụ công tác tuyên truyền, hướng
dẫn nghiệp vụ cho Hội chữ thập đỏ cơ sở.
Với những kết quả đạt được Hội chữ thập đỏ thành phố đã nhận được:
Bằng khen của Chủ tịch UBND thành phố Thái Nguyên và danh hiệu thi đua
“Tập thể lao động xuất sắc” năm 2014 .
Từ khi thành lập cho đến nay, công tác Hội và phong trào Chữ thập đỏ
có bước phát triển toàn diện. Hội đã khẳng định được vai trò nòng cốt, vai trò
cầu nối, vai trò điều phối trong các hoạt động nhân đạo. Tổ chức Hội được
củng cố, kiện toàn; đội ngũ cán bộ Hội được tăng cường cả về số lượng và
chất lượng. Hoạt động của Hội ngày càng có hiệu quả, thu hút được sự tham
gia của nhiều tổ chức và quần chúng nhân dân, góp phần tích cực vào thực
hiện chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, tham gia xây dựng nông
thôn mới, tham gia phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
64
Tiểu kết chương 2
Qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nước ta đã bước đầu vượt qua khủng
hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển là nước có thu nhập trung
bình và đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế.
Những thành tựu đạt được đã tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục
đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát
triển của lịch sử; vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
So với các huyện, thị khác trong tỉnh và so với các tỉnh miền núi phía
Bắc, thành phố Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi để ổn định, phát
triển kinh tế. Điều này, Đảng bộ Thành phố Thái Nguyên đã vận dụng đúng
đắn, sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp với xu thế phát triển
chung của đất nước. Các vấn đề lao động, việc làm, thu nhập của nhân dân
Thành phố ngày một ổn định. Sự nghiệp giáo dục được giữ vững và phát
triển; tiềm năng văn hoá được phát huy; hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư
xây dựng mới. Trên cơ sở đó, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.
Thực hiện những chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước về
phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong sự phát triển kinh
tế xã hội đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ chưa từng có về số lượng và quy
mô của các Hội. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia vào công tác
tuyên truyền, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước về thi đua yêu nước: Hội Doanh nghiệp; Hội Người cao tuổi;
Hội Khuyến học; Hội Văn học nghệ thuật; Hội Làm vườn; Hội Luật gia; Hội
Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin; Hội Cựu thanh niên xung phong; Hội Hữu
65
nghị Việt Nam - Lào; Hội Đông y; Hội Chữ thập đỏ; Hội Người Khuyết tật;
Hội luật gia; Hội Người mù; Câu Lạc bộ hưu trí Thái Nguyên. Các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của thành phố Thái Nguyên luôn tuân thủ theo đúng điều lệ
đã được phê duyệt và các quy định của pháp luật. Đặc biệt, các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã hội của
địa phương như thực hiện xóa đói giảm nghèo, xây dựng quỹ từ thiện nhân
đạo… Với những hoạt động đó của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an
ninh của thành phố.
66
Chương 3
MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
Thực hiện những chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước về
phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong sự phát triển kinh
tế xã hội đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ chưa từng có về số lượng và quy
mô của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Nếu như trong hơn 40 năm từ năm
1954 đến 1998 chỉ có 192 hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, thì đến năm
2008 đã tăng lên 320 hội. Ở các địa phương cũng có tới hàng ngàn hội hoạt
động trên các lĩnh vực khác nhau [35; tr54].
Theo báo cáo Tình hình và kết quả công tác quản lý nhà nước về hội
của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên tính tới thời điểm năm 2016 trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên có tổng số 1311 hội. Trong đó hội có phạm vi hoạt
động trong tỉnh là 62 hội, Hội có phạm vi hoạt động trong thành phố là 16
hội: Hội Doanh nghiệp; Hội Người cao tuổi; Hội Khuyến học; Hội Văn học
nghệ thuật; Hội Làm vườn; Hội Luật gia; Hội Nạn nhân chất độc da
cam/Dioxin; Hội Cựu thanh niên xung phong; Hội Hữu nghị Việt Nam - Lào;
Hội Đông y; Hội Chữ thập đỏ; Hội Người Khuyết tật; Hội luật gia; Hội Người
mù; Câu Lạc bộ hưu trí Thái Nguyên. Hiện nay, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp ở thành phố Thái Nguyên ngày càng hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và
có vai trò nổi bật trong các lĩnh vực như phát triển kinh tế như: Hội Làm
vườn; Hội Sinh vật cảnh; Hội Doanh nghiệp. Trong lĩnh vực văn hóa - giáo
dục: Hội văn học nghệ thuật; Hội Khuyến học; Hội Luật gia. Trong lĩnh vực y
tế: Hội đông y; Hội chữ thập đỏ. Nhìn chung các tổ chức xã hội - nghề nghiệp
hoạt động trong tất cả các lĩnh vực. Từ lực lượng đông đảo và đa dạng của
mình các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã bước đầu phát huy được vai trò
trong sự phát triển kinh tế đất nước.
67
3.1. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế -
xã hội ở thành phố Thái Nguyên
3.1.1. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên là cầu nối
giữa doanh nghiệp, người lao động, nhà chuyên môn với Nhà nước trong việc
tham gia xây dựng chính sách và pháp luật nhằm phát triển kinh tế
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thường được mời tham gia hoặc chủ
động tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để tập hợp ý kiến tham gia vào công
tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đối với các dự án luật quan trọng.
Chẳng hạn, khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của thành phố, Ban
soạn thảo không chỉ lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan quản lý nhà nước,
các đối tượng trực tiếp chịu sự điều chỉnh của văn bản, mà còn tổ chức lấy ý
kiến tham gia rộng rãi của Tỉnh hội, thành hội, các chi hội.
Trên cơ sở đó, các hội cũng làm tốt vai trò của mình như tham gia công
tác xây dựng pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật. Một
số tổ chức xã hội - nghề nghiệp như: Hội luật gia; Hội doanh nghiệp thành
phố được mời tham gia làm thành viên của nhiều ban soạn thảo luật Doanh
nghiệp, luật hợp tác xã, luật lao động để tổng hợp báo cáo tình hình và đưa ra
những kiến nghị của hội với Ủy ban nhân dân thành phố và các Sở, ban
ngành hữu quan nhằm góp phần ổn định tình hình thị trường, bảo vệ lợi ích
của các hội viên.
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp còn thực hiện giám sát văn bản quy
phạm pháp luật nhằm phát hiện những bất hợp lý để kiến nghị với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, có những sửa đổi bổ sung cần thiết.
Đáng chú ý là Hội luật gia đã làm tốt công tác tư vấn pháp luật: Hội
luôn xác định công tác tư vấn pháp luật là một nội dung quan trọng hội. Hội
đã chỉ đạo trung tâm tư vấn pháp luật của hội thành phố cộng tác chặt chẽ với
trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh hội để tư vấn pháp luật trợ giúp pháp lý
cho nhân dân; nhất là các đối tượng yếu thế trong xã hội, như đối tượng HIV,
68
phạm nhân đã được đặc xá bằng nhiều hình thức như lưu động, tư vấn tại trụ
sở đạt kết quả tốt.
Bên cạnh đó hội còn tham gia vào công tác hòa giải, các hội viên đang
sinh hoạt tại các cấp hội đều rất tích cực tham gia tư vấn pháp luật cho người
dân, giúp họ hiểu vấn đề và hiểu rõ quy định của pháp luật…thông qua đó hòa
giải để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp của người dân trong các mối
quan hệ pháp luật phát sinh.
3.1.2. Hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trên địa bàn thành
phố Thái Nguyên phù hợp với yêu cầu của thị trường, pháp luật của nhà
nước nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo
Các hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ mà các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp thường cung cấp cho hội viên là: cung cấp thông tin về pháp luật, thị
trường, khoa học công nghệ thông qua các thông tin điện tử, hội thảo, tọa
đàm, tờ in, báo, tạp chí; hoạt động đào tạo tư vấn, hoạt động xúc tiến thương
mại, đầu tư…
Hội làm vườn đã phát triển kinh tế theo hướng VAC và chuyển giao
tiến bộ khoa học kỹ thuật cho hội viên đã được các cấp Hội làm vườn tổ chức,
thực hiện. Hội đã triển khai ba mô hình trồng bưởi diễn, bưởi da xanh, bưởi
hoàng trạch và cam Vinh: Mô hình trồng bưởi diễn và cam Vinh của gia đình
Bà Nguyễn Thị Thoa (Xóm Làng Mới, xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ, Thái
Nguyên), mang lại hiệu quả kinh tế cao, cho thu nhập hàng trăm triệu đồng
mỗi mùa; Mô hình trồng bưởi da xanh tại huyện Võ Nhai, dưới sự giúp đỡ
của Hội làm vườn thành phố và Hội làm vườn huyện, đã triển khai trồng mới
10 ha cây bưởi Diễn trên địa bàn 2 xã Dân Tiến và Tràng Xá thuộc huyện Võ
Nhai, hiện nay toàn huyện đã có 200 ha bưởi/500 hộ tham gia trồng; Mô hình
trồng bưởi Hoàng trạch, bưởi diễn, bưởi da xanh với hơn 100ha bưởi ở các
xã: Khôi Kỳ, Phú Cường, Mỹ Yên, Ký Phú, Cát Nê và Yên Lãng cho doanh
thu mỗi năm hàng tỷ đồng.
69
Việc phát triển sản xuất và chuyển giao khoa học kỹ thuật diễn ra rộng
khắp ở 9 huyện. Hội đã triển khai lớp tập huấn sản xuất bưởi an toàn theo quy
trình VietGAP, tại xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai. Hội đã mở 465 buổi tập huấn
chuyển giao khoa học kỹ thuật cho 24425 lượt hội viên tham gia nội dung chủ
yếu là kỹ thuật sản xuất chè an toàn, kỹ thuật chăm sóc lúa, kỹ thuật chăn nuôi
gia súc gia cầm an toàn. Hội cũng cung cấp thông tin thương mại kịp thời cho
hội viên như phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đối tác để tổ chức hội
nghị, hội thảo bàn các biện pháp hữu hiệu để kiểm soát chất lượng, tạo nguồn
nguyên liệu, tăng cường sản xuất và xuất khẩu, tổ chức hội chợ thương mại
hàng năm để giới thiệu sản phẩm. Hàng năm đều có chương trình đào tạo, tập
huấn kỹ năng nghiệp vụ hoạt động và quản lý cho các hội viên.
Theo kết quả điều tra của khối các hiệp hội ngành nông sản năm 2008, có
64% ý kiến cho rằng hội đã thực hiện khá tốt việc giúp doanh nghiệp trao đổi
thông tin, tìm hiểu thị trường và kinh nghiệm quản lý kinh doanh [35;tr.59].
Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2015, triển khai kế hoạch hoạt động
năm 2016. Hội Doanh nghiệp thành phố đã làm tốt công tác tổ chức, xây
dựng hội doanh nghiệp thành phố. Trong năm, đã có gần 100 lượt doanh
nghiệp hội viên hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đạt doanh số hơn 100 tỷ đồng; nhiều
doanh nghiệp có mức tăng trưởng cao, nộp ngân sách Nhà nước lớn, tạo nhiều
việc làm cho người lao động, đưa vào khai thác nhiều dự án quan trọng như:
Tập đoàn An Khánh, Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG, Công ty
Cổ phần Thương mại Thái Hưng, Công ty TNHH Đầu tư Thái Nguyên…Vai
trò cầu nối giữa doanh nghiệp với chính quyền tiếp tục được Hiệp hội phát
huy, điển hình là tham mưu, đề xuất UBND thành phố phát động phong trào
thi đua “3 đồng hành, 5 hỗ trợ doanh nghiệp”, tuyên truyền nâng cao nhận
thức của cộng đồng doanh nghiệp về chỉ số cạnh tranh. Công tác nhân đạo, từ
thiện, vì an sinh xã hội được các doanh nghiệp hội viên tích cực tham gia ủng
hộ với tổng kinh phí lên tới hàng tỷ đồng.
70
3.1.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp bước đầu đã có hoạt động liên kết,
hợp tác giữa các hội viên để quản lý, điều tiết nhằm khắc phục những bất
cập của thị trường, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hội
viên và cả nền kinh tế
Hội làm vườn khuyến cáo các hội viên phải chủ động chăm lo phát
triển vùng chè Tân Cương và nghiêm túc thực hiện Quy chế Phối hợp trong
sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Như mô hình trồng chè gia đình anh
Trần Văn Thắng chủ cơ sở chè Tân Cương, ở xóm Hồng Thái 2, chè được
trồng và chăm bón theo quy trình VietGAP. Với khoảng 9.000 m2 đất trồng
chè, gia đình anh Thắng chủ yếu chế biến chè cao cấp như chè móc câu, chè
nõn, chè đinh, giá bán khoảng từ 500 nghìn đồng đến 2.000.000 đồng/kg chè,
gia đình lúc nào cũng có từ 15 đến 20 công nhân. Những năm gần đây, gia
đình anh chú trọng đầu tư thiết bị chế biến chè và nhà xưởng, hệ thống bơm
tưới tiêu tự động. Đến nay cơ sở của gia đình anh có đầy đủ khu nhà xưởng
chế biến chè rộng 700m2 với các thiết bị chế biến và bảo quản chè như máy
sao chè, vò chè, máy lấy hương chè, máy lạnh để bảo quản chè. Thu nhập từ
sản phẩm chè của gia đình anh ước đạt khoảng 2 tỷ đồng. Ngoài trồng và chế
biến chè, gia đình anh Thắng còn tham gia làm du lịch cộng đồng, đón khách
đến trải nghiệm, tham quan vườn chè.
Một điển hình tiêu biểu là HTX chè Tân Hương của bà Đỗ Thị Hiệp
với việc hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản
phẩm. Với hơn 40 hội viên, diện tích 22ha chè theo tiêu chuẩn UTZ(1), chè
sạch Tân Hương là một trong 69 địa chỉ được xác nhận là “Địa chỉ Xanh -
Nông sản Sạch”. Chè Tân Hương đã xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới tại
các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hà Lan, Canada. Trung bình thu nhập
các hội viên HTX đạt hơn 360 triệu/năm/ha. Nhiều gia đình có diện tích cao
trên 5ha có thu nhập cả tỷ đồng. Hội đã vận động các Công ty thương mại
thành viên hỗ trợ cho vay vốn với lãi suất hợp lý để các hội viên có điều kiện
mở rộng quy mô sản xuất, phát triển kinh tế.
71
Theo quy định của pháp luật, các ngành hàng phải đăng ký với cơ quan
quản lý nhà nước về loại hình kinh doanh, sản xuất hàng hóa. Các cơ quan liên
quan như: Sở y tế và Chi cục vệ sinh an toàn thực thẩm, bảo vệ người tiêu
dùng được giao quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa và chứng
thực các chứng từ cần thiết khác trong kinh doanh. Ví dụ như Hội làm vườn
Tổ chức quy hoạch và hướng dẫn hội viên trồng rau sạch, an toàn theo tiêu
chuẩn ViêtGAP, nhằm bảo đảm thị trường tiêu thụ với giá hợp lý, có lợi cho
người sản xuất và kinh doanh. Đặc biệt, khách hàng truy xuất được chính xác
3.1.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò thúc đẩy hợp tác quốc tế
(1) Là một chương trình phát triển bền vững cho cà phê, cacao và chè,
góp phần phát triển kinh tế đối ngoại
hợp tác cùng các thương hiệu hiện có. Chương trình tạo điều kiện cho nông
dân nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả của họ mà vẫn quan
tâm đến con người và môi trường.
nguồn gốc sản phẩm hàng hóa.
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thường tham gia làm thành viên của
các tổ chức quốc tế ngành nghề tương ứng, thực hiện thường xuyên các hoạt
động xúc tiến thương mại ở nước ngoài thông qua các hình thức như: tham
quan học tập kinh nghiệm, hội thảo quốc tế, tham gia triển lãm, hội chợ để
quảng bá thương hiệu và tham gia xử lý các vụ kiện, tranh chấp thương mại.
Hội Doanh nghiệp, phối hợp với hiệp Hội du lịch tỉnh Thái Nguyên tổ
chức cho 65 doanh nghiệp hội viên tham quan, học tập kinh nghiệm mô hình
sản xuất kinh doanh cũng như du lịch tại 03 tỉnh Tây Nguyên, khu du lịch
FLAMIGO Đại Lải, Trung tâm thương mại Hoàng Gia Thái Nguyên và Công
ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thái Nguyên, chuyến thăm quan được các
doanh nghiệp đánh giá rất cao.
Tóm lại, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã từng bước có sự chuyển
biến rõ rệt trong việc phát huy vai trò của mình trong việc phát triển kinh tế sau
72
30 năm đổi mới trên cả 4 chức năng: Cầu nối - dịch vụ - liên kết và đối ngoại.
Trong đó hai lĩnh vực có sự thay đổi rõ nhất là việc thực thi vai trò tham gia
xây dựng và thực hiện môi trường pháp lý, chính sách và hoạt động cung cấp
hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ, nâng cao năng lực hoạt động của các thành viên.
3.2. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển văn hóa
- giáo dục ở thành phố Thái Nguyên.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác định mục tiêu: Xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện -
mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa
thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh
quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác
định: Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Ngày 24/3/2015, Ban Bí thư Trung
ương Đảng ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa
cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”, trong đó cũng xác định: Giáo dục lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ chiến
lược, lâu dài, quan trọng, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng.
Trên cơ sở đó, Đảng bộ thành phố Thái Nguyên xác định các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa - giáo dục.
Trong quá trình hoạt động, hội văn học nghệ thuật đã có gần 300 tác
phẩm văn học được xuất bản, hàng trăm tác phẩm âm nhạc, vở diễn nghệ
73
thuật, hàng ngàn tác phẩm nhiếp ảnh, mỹ thuật… được sáng tác, trưng bày,
triển lãm và đến với quần chúng nhân dân. Nhiều tác phẩm đạt giải trong các
cuộc thi, liên hoan, triển lãm ở trong nước và trưng bày ở quốc tế đã tạo được
dư luận tốt trong xã hội.
Các tác phẩm văn học nghệ thuật ngày càng phát triển đa dạng về loại
hình, phong phú về nội dung, đổi mới trong phong cách, chất liệu; tập trung
phản ánh hiện thực sinh động, chân thật và sâu sắc sự nghiệp đổi mới toàn
diện của đất nước, của tỉnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc; ca ngợi những thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, của quê hương, con người Thái Nguyên;
phản ánh gương những tập thể, cá nhân trên mọi mặt của đời sống xã hội; cổ
vũ các phong trào thi đua yêu nước… cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính
trị và nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của các tầng lớp nhân dân. Hoạt
động sân khấu, nghệ thuật biểu diễn có nhiều tiến bộ với sự kết hợp nhuần
nhuyễn, tinh tế giữa truyền thống và hiện đại; cùng với việc dàn dựng, phục
hồi, nâng cao các vở diễn, có sự quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề xã hội,
thể hiện đa dạng mọi khía cạnh của cuộc sống.
Các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và các diễn viên tham gia các kỳ
liên hoan, hội diễn sân khấu toàn quốc, các cuộc thi tài năng trẻ, dàn nhạc dân
tộc… đạt được 12 huy chương các loại. Phong trào sáng tác thơ ca, văn nghệ
quần chúng phát triển rộng khắp ở các ngành, địa phương, các cơ quan, đơn
vị, doanh nghiệp. Toàn thành phố hiện có trên 30 câu lạc bộ thuộc 6 loại hình
khác nhau được tổ chức và duy trì hoạt động thường xuyên, đã thu hút hàng
ngàn người tham gia. Hoạt động của các câu lạc bộ phong phú, đa dạng, khai
thác và phát huy thế mạnh văn hóa của từng địa phương, cơ sở, động viên
quần chúng sáng tạo, truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao đời
sống tinh thần của nhân dân.
74
Cùng với việc sáng tác các tác phẩm nghệ thuật, hoạt động của các mô
hình câu lạc bộ thi hát và biểu diễn nghệ thuật chèo truyền thống, mô hình câu
lạc bộ đàn và hát dân ca, mô hình câu lạc bộ gia đình văn nghệ, câu lạc bộ văn
hóa học sinh, sinh viên, câu lạc bộ thơ; các cuộc liên hoan, hội diễn văn nghệ
quần chúng, các đội tuyên truyền lưu động đã chú trọng tuyên truyền chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là về
xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ chủ quyền biên
giới, biển đảo.
Văn học nghệ thuật, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và
hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh
thần nhân văn, dân chủ; quan điểm chỉ đạo ấy của Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng càng khẳng định mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa, văn học nghệ thuật là vì con người, cho con người. Bởi vậysứ
mệnh cao quý, trách nhiệm quan trọng ấy đặt trên vai lực lượng nòng cốt – đội
ngũ văn nghệ sĩ – những người tạo ra tinh hoa của văn hóa. Phát huy tính độc
lập, sáng tạo, đổi mới, đa chiều… đặt trong trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ
công dân, khi mỗi văn nghệ sĩ thực sự trở thành người chiến sĩ xây dựng và
phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn học nghệ thuật sẽ
ngày càng có những biến đổi sâu sắc hơn nữa với những giá trị cao đẹp chân -
thiện - mỹ, phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về
học tập suốt đời, nhầm nâng cao dân trí phát triển nguồn nhân lực, đào tạo
nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhất là
trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, công
tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm chỉ đạo thực hiện.
Dưới sự lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp
của các ban, ngành, đoàn thể, ngành giáo dục và đào tạo trong địa bàn thành
75
phố Thái Nguyên đã phối hợp với hội khuyến học các cấp đẩy mạnh hoạt
động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn tỉnh đạt
được nhiều kết quả tích cực.
Hội khuyến học luôn thể hiện vai trò nòng cốt trong việc phối hợp với
ngành giáo dục và đào tạo và các ban, ngành, đoàn thể đẩy mạnh các hoạt
động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở cơ sở, nhờ đó phong
trào khuyến học của thành phố Thái Nguyên đã có những bước phát triển sâu
rộng, từng bước đạt hiệu quả góp phần tích cực vào phát triển sự nghiệp giáo
dục và đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài cho tỉnh.
Hội khuyến học thành phố đã tham gia hoạt động khuyến học, khuyến
tài, xây dựng xã hội học tập. Đến năm 2014, thành phố đã có hệ thống tổ
chức khuyến học hoàn chỉnh tại 100% xã, phường, thành phố, 476 ban
khuyến học. Mạng lưới trên không những khẳng định về sự phát triển nhanh,
toàn diện, sâu rộng của tổ chức khuyến học, đồng thời đã và đang khẳng định
sự đóng góp có hiệu quả vào vào công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng
xã hội học tập khắp nơi trong tỉnh.
Thông qua mạng lưới rộng khắp của mình, hội khuyến học đã góp
phần tuyên truyền sâu rộng đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về
công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, thực hiện tư tưởng
Hồ Chí Minh về học tập thường xuyên, học tập suốt đời, làm cho xã hội nhận
thức đầy đủ về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc xây dựng xã hội học học
tập ở nước ta hiện nay; xác định xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, là một trong những mục tiêu cơ bản trong việc đổi mới căn
bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo nước ta, từ đó cùng phối hợp, hỗ trợ
ngành giáo dục và đào tạo triển khai ngày càng có hiệu quả công tác xây dựng
xã hội học tập trên địa bàn tỉnh.
Hội khuyến học các cấp đã có vai trò quan trọng và đóng góp tích cực
cho việc vận động hỗ trợ học sinh nghèo gặp khó khăn, chống nguy cơ bỏ
76
học, khen thưởng, động viên học sinh xuất sắc. Trong 5 năm qua, từ năm
2009 đến năm 2014, Hội khuyến học thành phố huy động được 300 triệu
đồng, lập quỹ khuyến học, khuyến tài 120 triệu đồng, trợ cấp học bổng 416
suất. Hàng năm, Hội Khuyến học tích cực vận động quỹ khuyến học, khuyến
tài trao giải thưởng cho học sinh đạt thành tích xuất sắc trong học tập, hỗ trợ
học bổng, học phẩm, phương tiện xe đạp… cho học sinh nghèo, gặp khó khăn
với tổng số tiền hơn 100 triệu đồng.
Phong trào xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học, cộng đồng
khuyến học là một mô hình độc đáo của phong trào học tập suốt đời. Đây là
một nhân tố cần thiết, quan trọng để phát huy phong trào khuyến học, khuyến
tài đặc biệt là xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập theo tư tưởng học tập
suốt đời của Bác Hồ. Trong thời gian qua, hội khuyến học thành phố đã có
nhiều giải pháp tích cực triển khai công tác “Đẩy mạnh phong trào học tập
suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng”. Tỉ lệ gia đình học tập tăng lên
hàng năm. Đến năm 2014, thành phố có 130.368 gia đình học tập.
Hội khuyến học các cấp đã vận động nhân dân tích cực học tập nâng
cao dân trí, nghề nghiệp chuyên môn nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng
công việc, chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát triển phong trào khuyến học,
khuyến tài với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đôi với hành và
xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.
3.3. Một số hạn chế và giải pháp nhằm phát triển của các tổ chức xã hội
nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
3.3.1. Về hạn chế
Tuy đã có những tiến bộ bước đầu trong việc phát huy vai trò của mình
trong phát triển kinh tế, nhưng nhìn chung, hoạt động của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp còn nhiều bất cập, còn nhiều vấn đề mà các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp mong muốn được quan tâm như: được khẳng định vị trí, vai trò trong
các văn bản pháp lý; được sự quan tâm của các cấp, các ngành; được nâng cao
77
năng lực tổ chức; nguồn lực hoạt động... Đặc biệt, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp mong muốn được tạo điều kiện nhiều hơn nữa để tham gia vào các
quá trình xây dựng chính sách, giám sát, đánh giá việc thực hiện luật pháp và
phản biện xã hội. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn, thách thức đang đặt ra đối với
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên hiện nay đó là:
Vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp, người lao động, nhà chuyên môn
với Nhà nước trong việc tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện môi trường
pháp luật và chính sách của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp chưa thật tích
cực, chủ động và hiệu quả.
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp chưa coi hoạt động này như là một
nhu cầu tất yếu, một phương thức cơ bản cho tồn tại và phát triển của tổ chức
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Các hội chỉ mới quan tâm đến những vấn đề chung
của ngành nghề mà chưa thực hiện được việc kiến nghị các cơ quan nhà nước
xử lý, giải quyết các vụ việc cụ thể của từng hội viên. Mặt khác, các kiến nghị
của các hội thường không được các cơ quan nhà nước quan tâm giải quyết kịp
thời, thiếu cơ chế đòn bẩy gây áp lực một cách hữu hiệu cho nên những kiến
nghị đó nhiều khi trở thành “vô thưởng, vô phạt”, nhiều khi trở thành “đánh
vào chỗ trống”, chưa được trân trọng và ghi nhận, ít có giá trị trên thực tế.
Hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ để qua đó định hướng, dẫn dắt,
hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động chuyên môn nâng cao năng lực hoạt
động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp còn đơn giản, nghèo nàn, chất
lượng chưa cao, chưa tạo động lực để hội viên gắn bó với hội.
Các hoạt động dịch vụ của các tổ chức xã hội - nghề nghiêp thường là
cung cấp thông tin thị trường, tư vấn kinh doanh, xuất bản ấn phẩm, đào tạo,
tổ chức đoàn đi khảo sát thị trường… Dịch vụ thông tin còn nghèo nàn, chủ
yếu tin chưa có phân tích và dự báo, công tác đào tạo chưa thường xuyên và
thiếu chuyên nghiệp. Một vài tổ chức hội có thực hiện dịch vụ giới thiệu
khách hàng cho hội viên, nhưng khả năng thành công rất thấp.
78
Vai trò của tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc liên kết các hội viên,
thống nhất, điều tiết hành động để khắc phục các bất cập thị trường còn rất
mờ nhạt, tình trạng mạnh ai nấy làm là phổ biến.
Các Hội chưa sẵn sàng và chưa có đủ năng lực đối mặt với những vấn đề
của thị trường. Theo kết quả điều tra của khối các hiệp hội ngành hàng nông sản
năm 2008, có đến 2/3 số hội viên cho rằng hiệp hội chưa thực hiện được vai trò
của mình trong việc hòa giải các tranh chấp nội bộ hội viên [35;tr.67].
Bên cạnh đó, về mặt thể chế xã hội, có một số vấn đề khó khăn đối với
hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp như:
Những quy định pháp luật hiện hành chưa tạo được một cơ chế pháp lý
hữu hiệu cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện quyền tư vấn và đóng
góp xây dựng chính sách, giám sát, tham gia xây dựng kinh tế - xã hội.
Việc chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế nảy sinh nhiều vấn đề mới, cả phía quản lý nhà nước và các tổ chức
xã hội - nghề nghiệp đều tiếp cận những vấn đề mới mẻ. Nhận thức về vai trò
của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với phát triển xã hội dân sự trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam chưa
chuyển kịp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và xu thế thời đại.
Nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp còn chậm đổi mới hoạt động, thụ
động, ỷ lại vào Nhà nước, làm theo cách hành chính (hoặc nhà nước hóa),
lúng túng trước những vấn đề mới và mối quan hệ mới. Một số tổ chức xã hội
- nghề nghiệp còn thiếu các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực liên quan để có
thể làm việc hiệu quả với các cơ quan, tổ chức và đối tác tương ứng của Việt
Nam và nước ngoài.
Do yêu cầu bức thiết hiện nay, việc nghiên cứu ban hành Luật về hội để
có cơ sở pháp lý cao về quản lý nhà nước đối với hội và tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một việc làm quan
trọng. Đồng thời, các tổ chức hội phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt
79
động, khắc phục tình trạng “nhà nước hóa”, “hành chính hóa”, thực sự gắn bó
với hội viên, thành viên, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của hội viên và thực hiện được các nhiệm vụ.
Qua thực tế tìm hiểu, tôi nhận thấy nguyên nhân của những những hạn
chế tồn tại trên là do:
Nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức chưa tương xứng
với vị trí, vai trò mới của các tổ chức trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường, mở cửa hội nhập, và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Một số hội đang bị hình thức hóa, hành chính hóa, nhà nước hóa; khả
năng tự quản, tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn thấp.
Có những hội trong một thời gian dài không có hoạt động gì đáng kể,
thậm chí sinh hoạt ban chấp hành hội cũng không được thường xuyên như
điều lệ.
Khó khăn trong vấn đề nhân sự là thu hút cán bộ nhân viên giỏi, trẻ vì
công tác ở các cơ quan hội thì ít có cơ hội thăng tiến nghề nghiệp. Hầu hết
cán bộ lãnh đạo hội là những cán bộ về hưu, hoặc điều hành kiêm nhiệm hiệp
hội. Nhiều cán bộ hội không coi công tác hội là một nghề do đó tính chuyên
nghiệp trong công tác chưa cao.
Việc tổ chức bỏ phiếu bầu lãnh đạo các hội chỉ mang tính hình thức, chưa
phát huy cao độ tính dân chủ và do đó chưa lựa chọn được người có thực tâm,
thực tài làm công tác hội để có tiếng nói độc lập và mạnh mẽ. Theo kết quả điều
tra trong các hiệp hội ngành hàng nông sản năm 2008, có đến 49,2% ý kiến cho
rằng năng lực của ban lãnh đạo hiệp hội còn hạn chế [35;tr.75].
Nguồn kinh phí hoạt động rất khó khăn và không ổn định. Theo kết quả
(1) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tổ chức quốc gia tập
điều tra các hiệp hội doanh nghiệp trên địa bàn toàn quốc của VCCI(1) năm
hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, người sử dụng lao động và các
hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển, bảo vệ và hỗ trợ
80
các doanh nghiệp, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và khoa
học - công nghệ giữa Việt Nam với các nước.
2003 có đến 61% nguồn kinh phí của hiệp hội là từ huy động nội lực qua
hội phí và dịch vụ cũng rất hạn chế do hoạt động đơn giản, nghèo nàn. Các
nguồn tài trợ từ Nhà nước, các nhà hảo tâm và từ nước ngoài còn hạn chế. Một
số hội như Hội Truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí Minh Việt Nam, Hội
Hữu nghị Việt Nam - Lào, Hội Người tàn tật chưa bố trí được văn phòng hội
nên hoạt động còn chưa được tập trung, kinh phí hoạt động rất hạn chế.
Một số xã, phường chưa thật sự quan tâm tới công tác quản lý tổ chức
và hoạt động Hội, mối liên hệ giữa chính quyền và các tổ chức hội chưa có sự
phối hợp chặt chẽ.
Công tác báo cáo thông tin của một số tổ chức Hội còn chậm, chưa đầy
đủ gây khó khăn trong việc nắm bắt tình hình và quản lý Hội.
Tình trạng các cơ quan nhà nước không quan tâm đến hoạt động của
hội nhưng lại can thiệp quá sâu vào công tác nhân sự của hội còn phổ biến.
Chính sách khuyến khích, hỗ trợ hội tham gia vào công tác xã hội còn
thiếu đồng bộ, việc phối hợp phân công, phân cấp quản lý hội chưa được xác
định rõ.
3.3.2. Một số giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên
Nghiên cứu về thực trạng của “Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở
thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016”, tôi nhận thấy để phát
huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên
trong điều kiện mới thì cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, để quản lý tốt hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở
thành phố Thái Nguyên, cần phải có cơ chế quản lý và chính sách pháp luật
phù hợp với hoạt động của từng Hội. Đặc biệt là hoàn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về hội, ban hành luật về hội. Ban hành các quy định của
pháp luật về cơ chế và các điều kiện bảo đảm để tổ chức xã hội - nghề nghiệp
81
tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thi hành các văn bản quy phạm
pháp luật.
Hai là, cần phải duy trì, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của
các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức hội đến các vùng nông thôn, trong
cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp đảm bảo đúng điều lệ, tôn
chỉ mục đích của hội.
Ba là, thực hiện việc kiểm tra thường xuyên việc thu, chi từ ngân sách
của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Để đảm bảo hoạt động của hội, nguồn
kinh phí phải được bổ sung thường xuyên như được thành phố hỗ trợ kinh
phí, sự đóng góp, tài trợ của các hội viên....
Bốn là, cần tăng cường công tác giám sát hoạt động của các hội và
tham gia tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp. Trong quá trình điền dã tôi thấy công tác lưu trữ văn bản, nghị
quyết cần phải khoa học để phục vụ công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động của
hội theo từng năm.
Năm là, đổi mới nhận thức về bản chất, vị trí, vai trò của các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp để nâng cao hơn nữa tính độc lập, tính dân chủ, tính lợi ích
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong khuôn khổ thể chế “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp không
đơn giản chỉ là “một cánh tay nối dài của Nhà nước”, là một công cụ tuyên
truyền vận động thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước”
mà còn là phương thức thực hiện quyền dân chủ và lợi ích của người lao
động, là một thể chế kinh tế - xã hội có vai trò vị trí riêng trong việc cung cấp
hàng hóa dịch vụ và điều tiết hành vi của tổ chức và cá nhân trong xã hội
cùng với thị trường và Nhà nước.
Sáu là, làm tốt công tác phát triển hội viên, đặc biệt là ở các xã,
phường. Để thực sự cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp phát huy được hết
vai trò của mình thì công tác phát triển hội viên là việc làm vô cùng quan
82
trọng. Trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ phải có phẩm chất đạo đức tốt,
có năng lực và kinh nghiệm. Tiếp đến là hội viên phải giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm.
Bẩy là, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần có chính sách thu hút cán
bộ trẻ, bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác hội. Có như vậy thì các tổ chức
xã hội - nghề nghiệp mới thực sự phát huy hết vai trò phát triển kinh tế, xã hội
của mình.
83
Tiểu kết chương 3
Trên cơ sở nghiên cứu về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thành
phố Thái Nguyên, trong nội dung chương 3, chúng tôi đưa ra một số nhận xét.
Những nhận xét chính là kết quả chúng tôi nhận thấy khi chuyên sâu nghiên
cứu về vấn đề này.
1. Từ hoạt động thực tiễn cho thấy, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở
thành phố Thái Nguyên có vai trò rất đa dạng như: đại diện cho các đối tượng
cần sự trợ giúp, cung cấp dịch vụ, cung cấp thông tin, tư vấn, phản biện và
giám định xã hội, phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, bảo vệ hội viên; Ngoài
ra, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cũng tích cực tham gia vào các hoạt động
văn hóa, giáo dục, y tế, các hoạt động từ thiện nhân đạo khác….
2. Do chưa có cơ sở pháp lý chung quy định rõ ràng trách nhiệm và cơ
chế hoạt động của các Hội nên trong quá trình hoạt động một số tổ chức xã
hội - nghề nghiệp coi những nhiệm vụ trong Điều lệ là điều kiện có tính pháp
lý để triển khai hoạt động. Song Điều lệ không phải là văn bản quy phạm
pháp luật có tính áp dụng chung vì vậy không thể áp dụng cho tất cả các tổ
chức xã hội - nghề nghiệp. Đó là hạn chế cần phải giải quyết cho các tổ chức
xã hội - nghề nghiệp phát triển.
3. Nhằm khắc phục những hạn chế trên, chúng tôi thiết nghĩ Nhà nước
cần ban hành Luật về lập Hội; các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần phải đổi
mới về nội dung và phương thức hoạt động. Như vậy, việc phát huy hơn nữa
vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong những năm tiếp theo sẽ đạt
hiệu quả cao hơn.
84
KẾT LUẬN
Thành phố Thái Nguyên là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế
của vùng Việt Bắc, có vị trí địa lý, chính trị quan trọng. Thành phố có hệ
thống giao thông thuận lợi gồm cả đường bộ, đường thủy và đường sắt. Do
vậy, Thái Nguyên là thành phố có vai trò gắn kết cả vùng trung du miền núi
phía Bắc với vùng đồng bằng Bắc bộ.
Là cái nôi của ngành công nghiệp Việt Nam, Thái Nguyên được biết đến
là thành phố mũi nhọn của cả nước trong phát triển công nghiệp luyện kim và
khai khoáng, với trữ lượng Florit đứng đầu thế giới, vonfram đứng thứ 2 thế
giới, than đứng thứ 2 cả nước, ngoài ra còn có sắt, thiếc, chì, kẽm, vàng, đồng,
titan… và các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng đều có trữ lượng cao.
Thành phố Thái Nguyên đi đầu cả nước về công nghệ khai thác và chế
biến khoáng sản với nhiều nhà máy có quy mô lớn áp dụng công nghệ tiên tiến
hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó, với nguồn tài nguyên sẵn có, Thái Nguyên
cũng đầu tư, phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông - lâm sản theo
hướng nông nghiệp đô thị, đặc biệt vùng chè nổi tiếng Tân Cương được Nhà
nước bảo hộ chỉ dẫn địa lí, là đặc sản riêng của thành phố Thái Nguyên.
Như vậy, thành phố Thái Nguyên có những điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế - xã hội. Thực tế, sự phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố quan
trọng cho sự ra đời và phát triển của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp ở thành
phố Thái Nguyên.
Trước năm 1986, nền kinh tế của tỉnh Thái Nguyên nói chung và của
thành phố nói riêng chịu ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp nên các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên chưa có
điều kiện để hình thành và phát triển toàn diện.
Sau năm 1986, dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng. Đảng bộ
thành phố Thái Nguyên đã tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội
VI và đạt được những thành tựu to lớn. Thành phố đã có bước phát triển vượt
85
bậc về kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị thành phố được đầu
tư, nâng cấp ngày càng đồng bộ, theo hướng hiện đại. Các lĩnh vực văn hoá -
xã hội ngày càng phát triển. Quốc phòng - an ninh được giữ vững. Vì vậy, các
tổ chức xã hội - nghề nghiệp tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Cho đến
nay, trên địa bàn thành phố có 16 Hội, các Hội hoạt động ngày càng phong phú
nên số hội viên tham gia ngày càng nhiều.
Thực hiện kết luận số 64-KL/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cơ sở; quản lý, quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động
của các Hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt
động và tuân thủ pháp luật. Những năm gần đây, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên được sự quan tâm, động viên
của Thành ủy, HĐND, UBND thành phố, chính quyền địa phương. Sự chỉ
đạo định hướng về chuyên môn nghiệp vụ, lòng nhiệt tình tâm huyết với
công tác Hội của đội ngũ cán bộ, hội viên các cấp, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp luôn đoàn kết, đổi mới, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn;
hoàn thành tốt kế hoạch đề ra góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh của thành phố như: Hội Chữ thập
đỏ, Hội Doanh nghiệp, Hội Luật gia….
Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp luôn thực hiện tốt đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền giáo dục,
tập hợp đông đảo hội viên để giúp đỡ lẫn nhau, phát huy tính tích cực của hội
viên phát triển chuyên nghề của mình, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng
của hội viên, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Mặc dù, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên có
nhiều thuận lợi và đạt được nhiều thành tựu trong quá trình hoạt động song hiện
tại các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên cũng có những
khó khăn hạn chế nhất định như: Những khó khăn đó liên quan đến quy định về
86
luật lập Hội, ngân sách hoạt động và cơ sở vật chất của các Hội…. Tôi thiết
nghĩ, Nhà nước sớm ban hành Luật về Hội, đặc biệt là phát huy tính chủ động,
sáng tạo như tự chủ về kinh phí, tự chủ về cơ sở vật chất nhưng vẫn đảm bảo
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
Qua nghiên cứu về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái
Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016, tôi nhận thấy, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp ở thành phố Thái Nguyên dù hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau
nhưng luôn phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ của mình, ngày càng có những đóng
góp quan trọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố
Thái Nguyên.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tổng kết việc thực hiện chỉ thị 100/CT -TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng và phương hướng, biện pháp củng cố quan hệ sản
xuất, hoàn thiện và mở rộng cơ chế khoán sản phẩm trong hợp tác xã
sản xuất nông nghiệp, (1987), Thành uỷ Thái Nguyên.
2. Báo cáo tổng kết năm 2013 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước
đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),
UBND thành phố Thái Nguyên.
3. Báo cáo Tổng kết công tác Hội năm 2014 của Hội Đông y thành phố
Thái Nguyên.
4. Báo cáo tổng kết năm 2014 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước
đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),
UBND thành phố Thái Nguyên.
5. Báo cáo Tổng kết công tác Hội năm 2015của Hội Đông y thành phố
Thái Nguyên.
6. Báo cáo tổng kết năm 2015 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước
đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),
UBND thành phố Thái Nguyên.
7. Báo cáo Tổng kết công tác Hội năm 2016 của Hội Đông y thành phố
Thái Nguyên.
8. Báo cáo tổng kết năm 2016 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước
đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),
UBND thành phố Thái Nguyên.
9. Báo cáo Hội nghị triển khai Đề án phát triển nghề công tác xã hội trong
giáo dục Đại học giai đoạn 2013-2020 (2013), HN.
10. Bắc Thái 40 năm đấu tranh và xây dựng 1945-1985 (1985), sở Văn hoá -
Thông tin.
11. Công tác quản lý Nhà nước về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, (2012),
UBND tỉnh Thái Nguyên.
88
12. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên (2003), Niên giám Thống kê tỉnh Thái
Nguyên 1998-2002, Nxb Thống kê, HN.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, HN.
14. Điều lệ của Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên, 1990.
15. Điều lệ của Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên, 1995.
16. Điều lệ của Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên, 1999.
17. Điều lệ của Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên, 2002.
18. Điều lệ của Hội Doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên, 2010.
19. Điều lệ của Hội Đông y thành phố Thái Nguyên, 2013.
20. Điều lệ của Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên, 2007.
21. Điều lệ Hội chữ thập đỏ thành phố Thái Nguyên, 2007.
22. Đoàn Trọng Truyến (1987), "Những vấn đề kinh tế của Việt Nam bước
vào kế hoạch 5 năm (1986-1990)", Những vấn đề cơ bản của thời kỳ quá
độ, Nxb Nông nghiệp.
23. Đỗ Hoàng Toàn (1987), "Mấy vấn đề cơ bản về chiến lược chuyển đổi
cơ cấu kinh tế-xã hội", Những vấn đề cơ bản của thời kỳ quá độ, Nxb
Nông nghiệp, HN.
24. Hội Chữ thập đỏ Phường Đồng Quang 20 năm xây dựng và trưởng thành
1994 - 2014, (2014), Hội Chữ thập đỏ Thái Nguyên.
25. Kỷ yếu 40 năm thành phố Thái Nguyên (1962-2002), (2002), Thành Uỷ
Thái Nguyên.
26. La Giang (2017), Dòng chảy, Nxb Hội nhà văn.
27. Lê Ngọc Duệ (Cb - 2013), Bản tin Nhân đạo Thái Nguyên, số 13.
28. Lê Ngọc Duệ (Cb - 2013), Bản tin Nhân đạo Thái Nguyên, số 18.
29. Lịch sử Đảng bộ thành phố Thái Nguyên, tập I (1930-1975), (1991),
Thành Uỷ Thái Nguyên.
30. Luật nhân đạo Quốc tế và Những vấn đề cơ bản của Hội Chữ thập đỏ
Việt Nam,(2010), Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.
31. Mai Ngọc Thư (2017), Tình người, Nxb Hội nhà văn.
89
32. “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, (2012), Đảng
cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 12-NQ/TW.
33. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý
hội (2010).
34. Nguyễn Đình Thuận (1993), "Tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển
đường lối đổi mới của Đảng", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4.
35. Nguyễn Đình Long (2008), Thực trạng và giải pháp về tổ chức và hoạt
động của các hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam, Viện
chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, HN.
36. Nguyễn Phước Thọ (2008), Vai trò tham gia xây dựng pháp luật của các
tổ chức xã hội nghề nghiệp,
http://xaydunngphapluat.chinhphu.vn/portal/page/portal/xydungphapluat
/tinchi
37. Phạm Bích San (2014), “Vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây
dựng chính sách phát triển dịch vụ công tác xã hội trong lĩnh vực hôn
nhân, gia đình, Cục bảo trợ xã hội, HN.
38. Quyết định thành lập Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên, 1990.
39. Quyết định thành lập Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên, 1995.
40. Quyết định thành lập Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên, 1999.
41. Quyết định thành lập Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên, 2002.
42. Quyết định thành lập Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên, 2007.
43. Quyết định thành lập Hội Doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên, 2010.
44. Sáng mãi những tấm lòng nhân đạo, (2003), Hội Chữ thập đỏ tỉnh
Thái Nguyên.
45. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội trên địa
bàn thành phố Thái Nguyên (2006), UBND thành phố Thái Nguyên.
46. Thông báo kết luận của Ban Thường vụ Thành uỷ về kết quả thực hiện
Nghị quyết 124 của Ban Thường vụ Thành uỷ, Nghị quyết 16 Bộ Chính
trị và những chủ trương tiếp tục thực hiện trong thời gian tới, (1987),
Thành Uỷ Thái Nguyên.
90
47. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị Khóa X về
Xây dựng và phát triển Văn học nghệ thuật, Hội nhà văn TN.
48. Tổng kết công tác Hội và Phong trào Chữ thập đỏ thành phố Thái
Nguyên, nhiệm kỳ 2011 - 2016, Hội Chữ thập đỏ TN.
49. Trịnh Trúc Lâm (Cb,1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên, sở Khoa học công
nghệ - Môi trường tỉnh Thái Nguyên.
50. Trần Đức Thuần (2002), Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ
Quốc tế, Luật nhân đao quốc tế, Hội CTĐ Việt Nam.
51. Trần Văn Tá (2013), Vai trò của hội nghề nghiệp trong lĩnh vực kế toán
- kiểm toán, http://vacpa.org.vn/index
52. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lẩn thứ XI,
(1992), Thành uỷ Thái Nguyên.
53. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ VIII, (1996), Nxb Chính trị
Quốc gia, HN.
54. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, (1996), Nxb Chính trị
Quốc gia, HN.
55. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lẩn thứ XIV,
(2000), Thành uỷ Thái Nguyên.
56. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, (2001), Nxb Chính trị
Quốc gia, HN.
57. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, (2006), Nxb Chính trị
Quốc gia, HN.
58. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,(2011), Nxb Chính trị
Quốc gia, HN.
59. Vĩnh Quang Lê (cb,1998), Ngành ngành làm việc thiện, Nxb Chính trị
Quốc gia, HN.
91
PHỤ LỤC
(Nguồn: Tác giả xây dựng lược đồ)
Phụ lục 2
BẢNG TỔNG HỢP CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
TT Tên hội
Địa chỉ trụ sở
Chủ tịch Hội
Điện thoại liên hệ.
Tổng số hội viên
Số QĐ, ngày, tháng, năm thành lập
Tổng số kinh phí Nhà nước cấp hàng năm
1
574
100.000.000đ
Đinh Quang Ấn
0915176547
27/6/1986
Số 10, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên
Câu lạc bộ Hưu trí Thái Nguyên
128.600.000đ
Trần Văn Nhị
2
25/10/1962
288
0918291951
Hội Đông y
370
112.000.000đ
0986659445
3
Phạm Thị Bích
Hội Người mù
QĐ số 465 ngày 21/3/2006
Hội Chữ thập đỏ
1965
15433
424.600.000đ
Nguyễn Xuân Phong
0912338083
4
5
30377
267.500.000đ
Hội Người cao tuổi
Đồng Ngọc Linh
0913075588
766/QĐ- UBND ngày 02/7/2003
25/7/2008
1882
210.000.000đ
0914833753
6
Nguyễn Văn Phúc
Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin
Hội Khuyến học
70898
157.000.000đ
0913027615
7
Số 131/QĐ- UB ngày 29/01/2002
Nguyễn Đức Tiến
03/02/2006
105.000.000đ
01685906839
965
8
Trần Văn Minh
Hội Cựu thanh niên xung phong
Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Số 10, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 3, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN
Địa chỉ trụ sở
TT Tên hội
Chủ tịch Hội
Điện thoại liên hệ.
Tổng số hội viên
Tổng số kinh phí Nhà nước cấp hàng năm
346.000.000đ
0913526886
Phạm Văn Quang
147
9
Hội Doanh nghiệp
Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN
0983885217
352
0đ
10
Phạm Gia Lộc
Hội Người khuyết tật
SN 363, tổ 1, phường Đồng Quang, TPTN
Số QĐ, ngày, tháng, năm thành lập Số 1276/QĐ- UBND ngày 02/6/2010 Số 2942/QĐ- UBND ngày 23/12/2005
0912138966
11
20/01/1990
957
15.000.000đ
Trương Xuân Thịnh
Hội Làm vườn
12
816
0đ
Đinh Văn Thể
QĐ số 1897 ngày 27/6/1995
Chú Hải PCT 0915209637
Hội Sinh vật cảnh
60.000.000đ Hoàng Báu
0982108547
13
79
Hội Văn học nghệ thuật
Số 950/QD- UBND ngày 28/5/2007
Khối Đoàn thể TP, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 6, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN
0915122001
Trần Kim Dung
14
0đ
356
SN 59, đường Minh Cầu, phường Phan Đình Phùng, TPTN
Hội hữu nghị Việt Nam-Lào
Số 52- HHNVN-L ngày 01/6/2011
60.000.000đ
0982177055
Nguyễn Xuân Thắng
15
413
SN 53, tổ 18, phường Đồng Quang, TPTN
Số 2028/QĐ- UBND ngày 15/9/2014
Hội Truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí Minh Việt Nam
30.000.000đ
0919916017
Phạm Văn Tuấn
16
130
Số 946/QĐ- UBND ngày 28/10/1999
Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên
phòng Tư pháp, UBND TPTN, số 10, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên
(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ tài liệu)
Phụ lục 3
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI
- NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
1. Hội Doanh nghiệp.
(Lấy từ trang website: www.baothainguyen.vn )
2. Hội Làm vườn
Mô hình trồng cam Vinh của gia đình bà Nguyễn Thị Thoa- Tân Long -
Đồng Hỷ - Thái Nguyên
(Tác giả chụp ngày 10/11/2017)
Đồi chè gia đình ông Lê Quang Nghìn, xóm Tân Thái 2, xã Tân Cương,
T.P Thái Nguyên
(Tác giả chụp ngày 15/4/2017)
Mô hình trồng rau sạch - phường Túc Duyên - T.P Thái Nguyên
(Tác giả chụp ngày 23/7/2018)
Mô hình nuôi ong lấy mật của gia đình ông Trần Văn Nam - phường
Chùa Hang - T.P Thái Nguyên.
(Tác giả chụp ngày 23/7/2018)
3. Hội Sinh vật cảnh
Ban Tổ chức trao giấy chứng nhận tham gia Triển lãm - Thi sinh vật
cảnh TPTN năm 2017 cho các đoàn tham dự
(Lấy từ trang website: Baothainguyen.org.vn)
4. Hội Văn học nghệ thuật
Những tác phẩm tại Triển lãm Mĩ thuật chào mừng Festival Trà Thái
Nguyên (20/11/2015)
(Tác giả chụp ngày 15/07/2018 - phòng truyền thống Hội VHNT- T.P Thái Nguyên)
5. Hội Khuyến học
Trao Giấy khen cho các tập thể đã có nhiều đóng góp trong công tác Khuyến học - Khuyến tài, Xây dựng xã hội học tập thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2013 - 2016 (Tác giả chụp ngày 11/07/2018)
Đồng chí Lê Quang Tiến, Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố trao tặng 13 chiếc xe đạp cho các em học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có thành tích học tập xuất sắc. (Tác giả chụp ngày 11/07/2018)
6. Hội Đông y
Mô hình trồng Nấm lim xanh của gia đình ông Trần Danh Tài - phường Chùa Hang - T.P Thái Nguyên (Tác giả chụp ngày 25/04/2018)
7. Hội Chữ thập đỏ
(Tác giả chụp ngày 13/07/2018)