ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ CHUNG CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2016 LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ CHUNG CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2016

Ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM Mã ngành: 8.22.90.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. NGHIÊM THỊ HẢI YẾN THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: “Các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp ở thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016” dưới sự

hướng dẫn của TS. Nghiêm Thị Hải Yến là kết quả nghiên cứu của cá nhân

tôi, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực chưa được công bố.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Chung

i

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.

Nghiêm Thị Hải Yến đã trực tiếp hướng dẫn khoa học và tận tình giúp đỡ tôi

hoàn thành luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo Trường Đại học Sư

phạm - Đại học Thái Nguyên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt

quá trình học tập, nghiên cứu.

Tôi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, ban, ngành đoàn thể thành phố

Thái Nguyên; UBND thành phố Thái Nguyên; Hội Đông y; Hội Chữ thập đỏ;

Hội Khuyến học; Hội Doanh nghiệp; Hội Làm vườn; Hội Sinh vật cảnh; Hội

Văn học nghệ thuật; Hội Luật gia thành phố… đã cung cấp số liệu thực tế

cũng như những thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các đồng nghiệp, bạn bè cùng

toàn thể gia đình, người thân đã động viên tôi trong thời gian nghiên cứu

đề tài.

Thái Nguyên, tháng 9 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Chung

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii

MỤC LỤC ........................................................................................................iii

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT ........................................................ iv

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................. 2

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài. ............................... 4

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 4

5. Đóng góp của Luận văn ................................................................................. 5

6. Cấu trúc của Luận văn. .................................................................................. 5

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN VÀ

CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TRƯỚC NĂM 1986 ............ 7

1.1. Vài nét về thành phố Thái Nguyên ............................................................. 7

1.2. Kinh tế, xã hội thành phố Thái Nguyên trước năm 1986 ......................... 14

1.2.1. Kinh tế ................................................................................................... 14

1.2.2. Tình hình xã hội ..................................................................................... 18

1.3. Sự ra đời và thực trạng hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp ở thành phố Thái Nguyên .................................................................... 20

Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 25

Chương 2: HOẠT ĐỘNGCỦA CÁC CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI -

NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986

ĐẾN NĂM 2016 ............................................................................................. 26

2.1. Đường lối đổi mới kinh tế - xã hội của Đảng và kế hoạch hành

động của thành phố Thái Nguyên .................................................................... 26

2.2. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế ........ 36

2.2.1. Hội Doanh nghiệp .................................................................................. 36

iii

2.2.2. Hội Làm vườn ........................................................................................ 41

2.2.3. Hội Sinh vật cảnh .................................................................................. 44

2.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực lĩnh vực văn hóa -

giáo dục ............................................................................................................ 46

2.3.1. Hội Văn học - nghệ thuật ....................................................................... 46

2.3.2. Hội khuyến học ...................................................................................... 49

2.3.3. Hội Luật gia ........................................................................................... 54

2.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế ............. 57

2.4.1. Hội Đông y ............................................................................................ 57

2.4.2. Hội Chữ thập đỏ..................................................................................... 60

Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 65

Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI -

NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN ................................. 67

3.1. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh

tế - xã hội ở thành phố Thái Nguyên ............................................................... 68

3.1.1. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên là

cầu nối giữa doanh nghiệp, người lao động, nhà chuyên môn với Nhà

nước trong việc tham gia xây dựng chính sách và pháp luật nhằm phát

triển kinh tế ...................................................................................................... 68

3.1.2. Hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trên địa bàn

thành phố Thái Nguyên phù hợp với yêu cầu của thị trường, pháp luật

của nhà nước nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo .................................... 69

3.1.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp bước đầu đã có hoạt động liên

kết, hợp tác giữa các hội viên để quản lý, điều tiết nhằm khắc phục

những bất cập của thị trường, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động

của các hội viên và cả nền kinh tế ................................................................... 71

3.1.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò thúc đẩy hợp tác

quốc tế góp phần phát triển kinh tế đối ngoại ................................................. 72

iv

3.2. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển văn

hóa - giáo dục ở thành phố Thái Nguyên. ....................................................... 73

3.3. Một số hạn chế và giải pháp nhằm phát triển của các tổ chức xã hội

nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên ........................................... 77

3.3.1. Về hạn chế ............................................................................................. 77

3.3.2. Một số giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên .................................. 81

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 84

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 88

PHỤ LỤC

v

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

Viết là Đọc là

Ban chấp hành BCH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HĐN

Giáo dục và đào tạo GD&ĐT

Hội đồng Nhân dân HĐND

Phổ thông cơ sở PTCS

Phổ thông trung học PTTH

Tư bản chủ nghĩa TBCN

Ủy ban Hành chính UBHC

Ủy ban Nhân dân UBND

Ủy viên ban chấp hành UVBCH

Xã hội chủ nghĩa XHCN

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện chủ trương đổi mới hệ

thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền, các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp ở nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và quy mô tổ

chức. Đảng và Nhà nước ta khẳng định: Tổ chức xã hội là bộ phận quan trọng

cấu thành hệ thống chính trị Việt Nam hiện đại, các tổ chức xã hội được hình

thành trên nguyên tắc tự nguyện, tự quản của người lao động; Tổ chức và hoạt

động theo điều lệ hoặc theo quy định của nhà nước, nhân danh tổ chức khi

tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng

của các thành viên. Theo nguyên tắc hình thức tổ chức và hoạt động, các tổ

chức xã hội được chia thành các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức tự

quản, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức quần chúng [40;tr.2].

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là loại hình tổ chức xã hội được hình

thành theo quy định của nhà nước. Hoạt động của các tổ chức xã hội nghề

nghiệp đặt dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy

nhiên, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng là tổ chức hoạt động mang tính chất

tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ chức do tổ chức đó quyết định hoạt

động không mang tính quyền lực nhà nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện

khi hình thành tổ chức.

Hiện nay, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp xuất hiện nhiều ở các tỉnh

thành trong cả nước và đã có những đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh

tế đất nước. Là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, Thái Nguyên đã

có bước phát triển mạnh mẽ, ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội, trở thành

một trong những tỉnh vững mạnh của khu vực trung du miền núi phía Bắc. Để

đạt được những thành tựu đó không thể phủ nhận vai trò của các tổ chức xã

hội nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.

Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên đã tổ chức và hoạt động ra sao, có vai trò

1

như thế nào? Đó là những vấn đề cần phải được nghiên cứu, đánh giá một cách

khách quan và rút ra những bài học kinh nghiệm để các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp thành phố tiếp tục phát triển, đi lên, đóng góp nhiều hơn cho công cuộc

xây dựng đất nước nói chung và thành phố Thái Nguyên nói riêng.

Với những lí do trên, tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề “Các tổ chức xã hội

- nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016” làm

đề tài Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Từ khi thành lập cho đến nay, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành

phố Thái Nguyên có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước và của

tỉnh Thái Nguyên, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh. Trong quá thực hiện luận văn tôi đã tìm hiểu và tiếp cận một

số công trình khoa học liên quan trực tiếp đến hoạt động của tổ chức xã hội

nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên:

Đầu tiên là hai công trình với tiêu đề “Bắc Thái 40 năm đấu tranh và

xây dựng” do Sở văn hóa - thông tin, xuất bản năm 1985; "Kỷ yếu 40 năm

thành phố Thái Nguyên (1962 - 2002)", xuất bản năm 2002. Nội dung của hai

công trình đã đề cập đến điều kiện tự nhiên - xã hội, tiềm năng phát triển của

thành phố Thái Nguyên; Khái quát tình hình kinh tế - xã hội; Khái quát sơ

lược về vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thành phố Thái Nguyên

trước và trong thời kỳ đổi mới.

Tác giả Đoàn Trọng Truyến với bài viết "Những vấn đề kinh tế của Việt

Nam bước vào kế hoạch 5 năm (1986-1990)" trong cuốn "Những vấn đề kinh tế

cơ bản của thời kỳ quá độ"- Nxb Nông nghiệp, Hà Nội 1987, đề cập đến những

thành tựu cơ bản mà đất nước đã đạt được trong những năm 1981-1985 và chủ

trương, phương hướng có tính chiến lược trong những năm đầu đổi mới.

Tác giả Nguyễn Đình Thuận trong bài viết “Tìm hiểu quá trình hình

thành, phát triển đường lối đổi mới của Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, xuất

2

bản năm 1993, đã đề cập đến bối cảnh đất nước và chủ trương của Đảng về

đổi mới kinh tế, chính trị.

Năm 1987, đồng chí Trường Chinh đã viết và cho xuất bản cuốn sách

với tiêu đề: "Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại". Nội

dung cuốn sách khẳng định tính đúng đắn và những thành tựu đạt được, chỉ ra

những sai lầm, khuyết điểm của mô hình kinh tế cũ, từ đó thấy rõ cần thiết

phải đổi mới, nhất là đổi mới tư duy kinh tế.

Ấn phẩm: “Vai trò tham gia xây dựng pháp luật của các tổ chức xã hội

nghề nghiệp”, của tác giả Nguyễn Phước Thọ, xuất bản năm 2008 đề cập tới

vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc tham gia xây dựng các

văn bản pháp luật cho nhà nước, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật và hoàn

thiện hệ thống pháp luật.

Cũng trong năm 2008, bài viết “Thực trạng và giải pháp về tổ chức

hoạt động của các hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam”, do

Nguyễn Đình Long - Chủ biên đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển

nông nghiệp nông thôn Việt Nam trong thời kỳ mới.

Năm 2003, Hội Chữ thập đỏ tỉnh Thái Nguyên giới thiệu cuốn sách

“Sáng mãi những tấm lòng nhân đạo”. Cuốn sách phản ánh những việc làm

nhân đạo, từ thiện tiêu biểu ở các địa phương, đơn vị của các cá nhân, tập thể

được dư luận công nhận và hoan nghênh.

Qua quá trình tìm tài liệu nghiên cứu cho đề tài, tôi nhận thấy:

Tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, đã có một số tài liệu đề cập đến các

tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên, những tài liệu tìm hiểu về

các tổ chức này ở thành phố Thái Nguyên không nhiều. Trong một số bài viết

đăng trên báo địa phương nội dung chỉ mang tính chất cung cấp thông tin,

chưa đi sâu tìm hiểu về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Từ năm 1986 cho đến nay, ở thành phố Thái Nguyên, tôi chưa thấy có

một công trình nghiên cứu nào trình bày một cách hệ thống, toàn diện về các

3

tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Điều này khiến tôi quyết tâm nghiên cứu chủ đề

mà mình đã chọn mặc dù nguồn tài liệu còn hạn chế.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài.

3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành

phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến 2016.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về thời gian: Giai đoạn 1986 - 2016 (Tuy nhiên, để giải quyết một

trong những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra trong chương 1 luận văn,

chúng tôi có khái quát tình hình kinh tế xã hội Thái Nguyên từ năm 1954 đến

năm 1986).

- Về không gian: Địa bàn thành phố Thái Nguyên

- Về loại hình nghiên cứu: Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp (chúng tôi

lựa chọn một số trường hợp tiêu biểu).

3.3. Nhiệm vụ của đề tài

- Đề tài làm rõ sự hình thành và hoạt động của các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016.

- Nhận xét về những thành tựu; hạn chế và khó khăn trong hoạt động

của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.

- Đánh giá vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên.

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu

- Nguồn tại liệu thành văn: Các công trình khoa học như sách, báo, tạp

chí, luận văn, luận án... đã được công bố liên quan đến nội dung nghiên cứu

của luận văn.

- Nguồn tài liệu lưu trữ: Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

III, IV, V, VI, VII, VIII, IX; các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước

4

về kinh tế - xã hội. Văn kiện, nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ tỉnh, Thành

uỷ, Uỷ ban Nhân dân thành phố Thái Nguyên trong thời kỳ 1975-2016, trong

đó chủ yếu là thời kỳ 1986-2016 được lưu trữ tại kho lưu trữ Văn phòng Tỉnh

uỷ; Trung tâm Lưu trữ Uỷ ban Nhân dân tỉnh; Sở Văn hoá -Thông tin; Phòng

Lịch sử - Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ; Phòng Thống kê thành phố; Văn phòng

Thành uỷ; Văn phòng Uỷ ban Nhân dân Thành phố.

- Tài liệu điền dã.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu lịch sử và phương pháp logic là những

phương pháp chủ đạo được thực hiện xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu

đề tài. Phương pháp tổng hợp được thực hiện trong quá trình thu thập thông

tin. Phương pháp điền dã: quan sát cảnh quan, phỏng vấn nhân chứng... được

sử dụng tại thực địa.

Phương pháp phân tích, so sánh... giúp tác giả hoàn thành mục đích và

nhiệm vụ nghiên cứu đã đặt của luận văn.

5. Đóng góp của Luận văn

- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và hệ

thống về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn là kênh thông tin góp phần đề xuất

những giải pháp nhằm phát huy thế mạnh của các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp ở thành phố Thái Nguyên trong giai đoạn tiếp theo.

- Luận văn cung cấp thêm nguồn tài liệu phục vụ việc nghiên cứu lịch

sử Thái Nguyên trong thời kỳ đổi mới, làm tài liệu phục vụ giáo dục truyền

thống và giảng dạy, học tập lịch sử địa phương.

6. Cấu trúc của Luận văn.

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn

được cấu trúc thành 3 chương.

5

Chương 1: Khái quát về thành phố Thái Nguyên và các tổ chức xã hội

- nghề nghiệp trước năm 1986.

Chương 2: Hoạt động của các tổ chức xã - hội nghề nghiệp ở thành

phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016.

Chương 3: Một số nhận xét về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở

thành phố Thái Nguyên.

6

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN VÀ CÁC TỔ CHỨC

XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP TRƯỚC NĂM 1986

1.1. Vài nét về thành phố Thái Nguyên

Thái Nguyên là tỉnh trung du miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ;

phía bắc tiếp giáp tỉnh Bắc Kạn, phía tây giáp các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên

Quang, phía đông giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía Nam tiếp giáp

thủ đô Hà Nội. Tỉnh Thái Nguyên nằm trong khoảng 21°33'51'' vĩ Bắc đến

105°52'46'' KĐ; với diện tích tự nhiên là 3.562,82 km2. Với hai thành phố trực

thuộc tỉnh là: thành phố Sông Công và thành phố Thái Nguyên [27;tr.5].

Thành phố Thái Nguyên có diện tích tự nhiên là 223km2. Đây là trung

tâm hành chính, kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Thái Nguyên và

của cả vùng Việt Bắc; phía bắc giáp huyện Đồng Hỷ và huyện Phú Lương,

phía đông giáp thành phố Sông Công, phía tây giáp huyện Đại Từ, phía Nam

giáp huyện Phú Bình. Thành phố Thái Nguyên là đầu mối giao thông giữa các

tỉnh miền xuôi nhất là thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam

như: Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc

Giang. Với vị trí địa lý như trên, thành phố Thái Nguyên có nhiều lợi

thế để phát triển kinh tế xã hội không chỉ trong hiện tại mà cả tương lai, nhất

là trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và trở thành một đô thị trung tâm

của khu vực trung du miền núi phía Bắc [26;tr.10].

Thành phố Thái Nguyên nằm trong tọa độ từ vĩ tuyến 210 đến 22027’ vĩ

độ Bắc và 105025’ đến 106014’ kinh độ Đông. Do vậy, thành phố Thái

Nguyên được coi như miền “đồng bằng” riêng của tỉnh Thái Nguyên. Ruộng

đất được hình thành bởi sự bồi tụ phù sa của hai con sông: sông Cầu và sông

Công nhưng vẫn mang dáng dấp đặc trưng của vùng trung du với kiểu ruộng

bậc thềm phù sa và bậc thang nhân tạo; Ở trung tâm thành phố bằng phẳng

nhưng càng về phía Tây bắc thành phố càng có nhiều đồi núi cao [27;tr.8].

7

Địa hình trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đô thị, công

nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và đặc biệt là phát triển nông nghiệp; phù hợp

với kinh tế trang trại kết hợp giữa đồi rừng, cây ăn quả và các loại cây công

nghiệp khác như chè, các loại cây lấy gỗ.

Cũng do đặc điểm địa hình nên khí hậu của thành phố có những nét

riêng biệt. Thành phố có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, được chia làm

bốn mùa rõ rệt: Xuân, hạ, thu, đông và nằm trong vùng ấm của tỉnh, có lượng

mưa trung bình khá lớn. Nhiệt độ bình quân năm là 23°c, độ ẩm trung bình

năm là 82%. Như vậy, khí hậu thành phố Thái Nguyên tương đối thuận lợi

cho việc phát triển một hệ sinh thái đa dạng và bền vững, thuận lợi cho phát

triển ngành nông-lâm nghiệp và là nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành

công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Cây chè, đây là cây công nghiệp

quan trọng nhất vì có giá trị kinh tế ổn định, chỉ đứng sau cây lúa. Chè Thái

Nguyên và đặc biệt là chè Tân Cương (vùng phía Tây thành phố) là đặc sản

nổi tiếng từ lâu, đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia như Nhật Bản, Đài

Loan, Ấn Độ...

Các nguồn tài nguyên, thiên nhiên ở thành phố Thái Nguyên vô vùng

phong phú và đa dạng. Đất canh tác trong khu vực Thành phố có hai loại chủ

yếu. Loại Feralft màu vàng, thích hợp với trồng cây chè và các loại cây ăn quả.

Loại đất này phẩn lớn tập trung ở các xã Lương Sơn, Thịnh Đức, Thịnh Đán,

Thành Công (nay thuộc thị xã Sông Công), Tích Lương, Phúc Xuân, Đồng

Quang, Cam Giá, Gia Sàng. Đất phù sa do sự bồi đắp thường xuyên của sông

Công và sông Cầu, phần lớn nằm ở xã Tân Cương và các xã Quang Vinh, Cao

Ngạn, Túc Duyên, Cam Giá. Loại đất này ở độ phì nhiêu tương đối cao so với

các vùng trong tỉnh, rất thuận lợi cho việc trồng lúa, các loại rau, hoa màu.

Thành phố Thái Nguyên có 2 sông lớn chảy qua, đó là sông Cầu và

sông Công giữ vị trí quan trọng cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt.

Thành phố có 2 công trình thuỷ nông là đập Thác Huống và đập hồ Núi Cốc

8

cung cấp nước tưới cho gần 50 ngàn ha cây trồng (lúa, cây hoa mầu và các

cây công nghiệp khác như chè, lạc...), cùng với hàng trăm công trình trung

tiểu thuỷ lợi phục vụ sản xuất công nghiệp và nước sinh hoạt cho 100 ngàn

dân ở trung tâm thành phố.

Ở Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai trong cả nước, than mỡ

trữ lượng trên 15 triệu tấn, than đá trữ lượng khoảng 90 triệu tấn: mỏ than

Khánh Hoà, Quán Triều thuộc xã Phúc Hà có trữ lượng than khá lớn… Tiềm

năng sắt tạo điều kiện thuận lợi cho thành phố trong việc phát triển các ngành

công nghiệp luyện kim, khai khoáng... để trở thành một trong các trung tâm

luyện kim lớn của cả nước.

Thành phố Thái Nguyên có Quốc lộ số 3 chạy qua, nối Hà Nội với Bắc

Kạn, Cao Bằng; Quốc lộ 1B đi Lạng Sơn; Quốc lộ 13 và 16 đi Phú Thọ, Hà

Giang, Tuyên Quang; Quốc lộ 37 đi Bắc Giang. Nối liền với trung tâm thành

phố là các tuyến đường đi các huyện, thị trong tỉnh. Ngoài ra, Thành phố còn

có tuyến đường sắt Thái Nguyên - Hà Nội; Lưu Xá (Thái Nguyên) - Kép (Bắc

Giang) - Uông Bí (Quảng Ninh), rất thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế.

Là cầu nối giữa Thủ đô Hà Nội với các tỉnh trong khu Việt Bắc, thành

phố Thái Nguyên có điều kiện hết sức thuận lợi để mở rộng giao lưu kinh tế,

văn hoá với các huyện, thị trong tỉnh; với nhiều tỉnh, thành phố trong khu vực

miền núi phía Bắc; với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng.

Với địa hình, đất đai và tài nguyên, khoáng sản như vậy, thành phố

Thái Nguyên không những có điều kiện thuận lợi để phát triển các loại cây

lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp mà còn có nhiều thuận lợi cho việc

phát triển công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp, giao thông vận tải và thông tin

liên lạc.

Ngoài ra, thành phố Thái Nguyên còn có điều kiện để phát triển du lịch.

Thành phố Thái Nguyên có rất nhiều di tích lịch sử, văn hoá phản ánh khá

đầy đủ quá trình phát triển của thành phố. Đền thờ các danh nhân thời Lý

9

(Đền Xương Rồng), đền thờ Mẫu (Quán Triều), Chùa Phù Liễn, Chùa Đồng

Mỗ...là những kiến trúc cổ độc đáo. Thành Nhà Mạc, Bến Tượng, Tích

Lương... là những di tích thời Nhà Mạc; Tiêu biểu ở thế kỷ XX có 2 quần thể

di tích lịch sử khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 và khởi nghĩa giành chính

quyền trong cách mạng tháng 8/1945 dưới sự chí huy của đồng chí Võ

Nguyên Giáp.

Thái Nguyên là trung tâm văn hoá - thể thao của vùng Việt Bắc nên từ

khi thành lập, Đảng bộ và UBND thành phố rất quan tâm đến đầu tư xây dựng

cơ sở hạ tầng, nhiều công trình văn hoá thể thao có quy mô lớn và hiện đại

như: Bảo tàng Việt Bắc (nay là bảo tàng Văn hoá dân tộc Việt Nam), bảo tàng

Quân khu I, bảo tàng Thái Nguyên, nhà Văn hoá công nhân Gang Thép, nhà

thi đấu thể thao, sân vận động trung tâm, sân vận động khu Nam có sức chứa

hàng vạn chỗ ngồi...

Thái Nguyên có điều kiện thuận lợi phát triển văn hoá, giáo dục. Thành

phố Thái Nguyên là trung tâm đào tạo lớn thứ 3 của cả nước (sau thủ đô Hà

Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Trên địa bàn Thành phố có 18 trường đại

học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, 11 trường phổ thông

trung học, 60 trường trung học cơ sở và tiểu học, 36 trường mẫu giáo.

Trải qua một thời gian dài, tên gọi và địa giới hành chính của thành phố

Thái Nguyên có nhiều thay đổi. Thời nhà Đường (từ thế kỷ VIII đến thế kỷ

IX), thành phố Thái Nguyên nằm trong đất châu Long và châu Vũ Nga. Thời

nhà Lý, Thái Nguyên thuộc châu Vũ Lặc (thế kỷ XI). Thời Trần, Thái

Nguyên là trấn. Đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Thủ phủ trấn Thái Nguyên

được chuyển đến đặt tại làng Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc đất

phường Trưng Vương và một phần nhỏ thuộc phường Túc Duyên). Năm

Minh Mạng thứ 12 (1831), trấn Thái Nguyên được đổi là tỉnh Thái Nguyên.

Thời thuộc Pháp, "Quá trình xây dựng các cơ quan cai trị, dịch vụ của thực

dân Pháp và chính quyền tay sai, cùng với sự tăng dân số (viên chức, thợ thủ

10

công, dân buôn bán)....đã dần dần hình thành thị xã Thái Nguyên vào những

năm cuối thế kỷ XIX’’ [ 10;tr.95].

Từ tháng 8 năm 1956, Khu Tự trị Việt Bắc được thành lập (gồm 6 tỉnh:

Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang) Thái

Nguyên trở thành Thủ phủ Khu Tự trị Việt Bắc.

Ngày 19/10/1962, theo Quyết định số 114/CP của Hội đồng Chính phủ,

thị xã Thái Nguyên trở thành thành phố Thái Nguyên trực thuộc tỉnh Thái

Nguyên, có 4 khu phố (Hoàng Văn Thụ, Trưng Vương, Phan Đình Phùng, Quan

Triều); hai thị trấn (Núi Voi và Trại Cau); 6 xã (Đồng Quang, Gia Sàng, Cam

Giá, Quang Vinh, Đồng Bẩm, Túc Duyên); tổng diện tích hơn 100km² [25;tr.l3].

Trải qua nhiều lần điều chỉnh hành chính, ngày nay thành phố Thái

Nguyên có 32 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc (gồm 21 phường: Cam

Giá, Chùa Hang, Đồng Bẩm, Đồng Quang, Gia Sàng, Hoàng Văn Thụ,

Hương Sơn, Phan Đình Phùng, Phú Xá, Quan Triều, Quang Trung, Quang

Vinh, Tân Lập, Tân Long, Tân Thành, Tân Thịnh, Thịnh Đán, Tích Lương,

Trung Thành, Trưng Vương, Túc Duyên và 11 xã: Cao Ngạn, Đồng Liên,

Huống Thượng, Linh Sơn, Phúc Hà, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Quyết Thắng,

Sơn Cẩm, Tân Cương, Thịnh Đức và 11 xã: Cao Ngạn, Đồng Liên, Huống

Thượng, Linh Sơn, Phúc Hà, Phúc Trìu, Phúc Xuân, Quyết Thắng, Sơn

Cẩm, Tân Cương, Thịnh Đức).

Là một miền đất giàu tài nguyên, lại nằm ở vị trí địa lí đặc biệt thuận

lợi, là vùng đất trung gian giữa khu vực miền núi phía Bắc với đồng bằng Bắc

Bộ nên từ xa xưa, thành phố Thái Nguyên đã thu hút, hội nhập cư dân ở nhiều

vùng đến làm ăn, sinh sống. Theo Niên giám thống kê 2010, dân số (bao gồm

cả thường trú và quy đổi) toàn Thành phố là 330.707 người trong đó, dân

số nội thị là 288.077 người chiếm 77,43% tổng dân số toàn thành phố, dân số

trong độ tuổi lao động luôn chiếm trên 50% dân số, đa số có trình độ phổ

thông trung học, nhiều người tốt nghiệp đại học, trung học chuyên nghiệp và

11

dạy nghề. Thành phố Thái Nguyên có bình quân thu nhập đầu người cao so

với các thành phố khác trong cả nước. GDP bình quân đầu người đạt 30 triệu

đồng. Với đà phát triển đó, trong tương lai, thành phố sẽ có những tiến bộ

vượt bậc về chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội theo hướng ổn định và bền

vững, xứng đáng là trung tâm của vùng Việt Bắc.

Do đặc điểm địa lý, thành phố Thái Nguyên trở thành điểm hội tụ của

các tộc người. Đông nhất là dân tộc Việt, với nhiều bộ phận hợp thành (dân

bản địa và những người dân di cư từ các tỉnh đồng bằng lên kiếm sống...).

Tiếp đến là dân tộc Tày, Nùng, Sán Dìu, Dao... Các dân tộc đều dễ hoà nhập,

luôn gắn bó, đoàn kết trong chiến đấu bảo vệ quê hương và phát triển kinh kế-

xã hội.

Do cư dân được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên thành phố

Thái Nguyên có nền văn hoá dân tộc mang nhiều mầu sắc phong phú và đa

dạng. Bên cạnh những phong tục, tập quán, những sinh hoạt văn hoá đậm đà

bản sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số Sán Dìu, Tày, Nùng, còn có làn

điệu chèo, những cảnh hát hội của đồng bào Bắc Bộ khá đặc sắc.

Cũng như các huyện, thị khác trong tỉnh, thành phố Thái Nguyên có 2

tôn giáo chính là đạo Phật (Phật giáo) và đạo Công giáo (Thiên Chúa giáo).

Đạo Phật ở thành phố Thái Nguyên có các hội: Hội Thiện duyên, hội

Thiện phúc, tổ chức khá chặt chẽ. Thành phố có nhiều chùa nổi tiếng như:

chùa Phù Liễn, chùa Đồng Mỗ, Chùa Hang được xây dựng từ những thế kỷ

trước; chùa Đán và chùa Làng Cả.

Đạo Công giáo, Thành phố có 2 xứ đạo (Xứ Thành phố và xứ Tân

Cương). Các sinh hoạt tôn giáo của quần chúng tín đồ phát triển mạnh. Bà

con giáo dân là người lao động, có tinh thần yêu nước và cách mạng, đặt niềm

tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ. Những hoạt động của họ có nhiều

đóng góp cho việc phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Tuy nhiên, lợi dụng

lòng tin của giáo dân, kẻ xấu trong chức sắc tôn giáo đã có hành vi xúi giục

12

giáo dân không tôn trọng pháp luật, nên có lúc, có nơi giáo dân có nhiều hành

vi đối lập với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng

không nhỏ đến đời sống sản xuất và trật tự xã hội...

Trong những năm gần đây, thành phố Thái Nguyên tập trung các

nguồn lực để hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa,

phát triển mạng lưới đô thị và điểm dân cư tập trung theo hướng hiện đại.

Đặc biệt là các khu đô thị mới 2 bên bờ sông Cầu, sẽ là điểm nhấn để phát

triển thành phố bên bờ sông đang dần trở thành hiện thực. Hiện nay, thành

phố đang có chủ trương xây dựng các khu đô thị mới phường Túc Duyên;

Dự án Kè chống lũ sông Cầu đang tiếp tục triển khai giai đoạn 2 kéo dài từ

Túc Duyên đến đập thác Huống. Tới đây, dự án đường Bắc Sơn, đường

Minh Cầu nối đường Bắc Sơn và Khu dân cư số 1 Hoàng Văn Thụ sau khi

hoàn thành sẽ tạo thêm một con đường nội thị rộng đẹp cùng một khu dân cư

mới, góp phần xóa bỏ tình trạng làng trong phố; Dự án Khu đô thị Xương

Rồng với tổng diện tích trên 45 ha được quy hoạch và xây dựng theo kiến

trúc hiện đại, độc đáo, với 9,5 ha diện tích lòng hồ được thiết kế nằm giữa

khu đô thị vừa có chức năng điều hòa sinh thái, vừa tạo cảnh quan cho khu

đô thị và khu vực phía Bắc thành phố. Bao quanh hồ là khách sạn, nhà hàng,

trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, cây xanh các biệt thự đơn, biệt

thự đôi, khu dân cư, …được bố trí hài hòa cùng với một kết cấu hạ tầng kỹ

thuật đồng bộ sẽ là điểm nhấn quan trọng, làm thay đổi diện mạo thành phố.

Với mục tiêu xây dựng thành phố Thái Nguyên thành trung tâm đào tạo đa

ngành, đa lĩnh vực của quốc gia; trung tâm kinh tế - dịch vụ- du lịch, trung

tâm y tế chăm sóc sức khỏe chất lượng cao gắn với nghiên cứu khoa học của

vùng Trung du miền núi Phía Bắc.

Như vậy, so với các huyện, thị khác trong tỉnh, thành phố Thái Nguyên

có nhiều thuận lợi hơn để cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hình thành và

phát triển.

13

1.2. Kinh tế, xã hội thành phố Thái Nguyên trước năm 1986

1.2.1. Kinh tế

Sau khi thống nhất đất nước, thành phố Thái Nguyên bước vào một

thời kỳ mới, với hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo

vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thái Nguyên cơ bản đã phát triển

thành một thành phố công nghiệp, bao gồm cả công nghiệp nặng, công nghiệp

nhẹ, với các ngành luyện kim, cơ khí chế tạo, khai thác khoáng sản, sản xuất

giấy, bánh kẹo, may mặc, chế biến nông-lâm sản... Cơ cấu kinh tế của thành

phố có nhiều chuyến biến quan trọng.

Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp

So với một số thành phố khác trong cả nước, thành phố Thái Nguyên

có ưu thế phát triển công nghiệp. Sự ra đời của thành phố gắn liền với sự ra

đời của Khu công nghiệp Gang Thép Thái Nguyên- đứa con đầu lòng của

ngành công nghiệp luyện kim Việt Nam. Những ngành công nghiệp chủ đạo

và được coi là thế mạnh của thành phố gồm có: công nghiệp luyện kim (chủ

yếu ở phía Nam thành phố); công nghiệp khai khoáng (phát triển ở một số

điểm phía Bắc, chủ yếu là khai thác than và các khoáng sản vật liệu xây

dựng); công nghiệp dệt, may, thêu ren, đồ mộc và công nghiệp chế biến lương

thực, thực phẩm, đồ uống.

Năm 1962, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu-thủ công nghiệp của thành

phố đạt 2 triệu đồng, đến năm 1976, giá trị tổng sản lượng tiểu-thủ công

nghiệp thành phố đạt 5,71 triệu đồng.

Tại Đại hội Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lần thứ I (22-25/5/1963),

xác định nhiệm vụ của Thành phố: “Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thủ

công nghiệp và nông nghiệp, thì vấn đề sản xuất công nghiệp và thủ công

nghiệp là hàng đầu, trong đó lấy sản xuất hàng tiêu dùng là chủ yếu, chủ yếu

phát triển những cơ sở chế biến thực phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu

hàng ngày của nhân dân thành phố và trong tỉnh; đồng thời phục vụ cho xây

dựng, kiến thiết và bước đầu phục vụ cho xuất khẩu.... ” [29;tr.104].

14

Từ năm 1977, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền

Thành phố, các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp gặp nhiều

khó khăn như bị nước ngoài cắt viện trợ, rút chuyên gia; Thiếu nguyên vật

liệu sản xuất, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm để giữ vững và phát triển sản

xuất. Công ty Gang Thép Thái Nguyên đã nghiên cứu và đúc thành công các

loại trục cán thép 530mm, 680mm, 840mm có chất lượng tốt... hoàn thành

toàn diện vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1979 trước 5 ngày, đạt giá trị

tổng sản lượng 101,51% [34;tr.81 -82].

Hợp tác xã mành cọ Thống Nhất sản xuất được 600m2 mành cọ xuất

khẩu; Hợp tác xã cơ khí Bắc Nam sản xuất được 10.000 mũi cày, 10.000 cào

cỏ lúa... phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hợp tác xã Cộng Lực, từ nguồn sắt

thép phế liệu đã sản xuất ra 6.000 cột bê tông xây dựng nhà ở, tiếp tục giữ

vững danh hiệu "Đơn vị tiêu biểu xuất sắc toàn diện của ngành tiểu - thủ công

nghiệp Thành phố năm 1979".

Trong 3 năm (1983-1985), giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu - thủ

công nghiệp của Thành phố tăng nhanh. Trong đó, các mặt hàng truyền thống,

như sắt tráng men tăng 157%, các loại mành, thảm tăng 47%, thuỷ tinh tăng

107,3%... Các mặt hàng mới như: khăn mặt, xô màn, vải giả da, đồ nhựa, bìa

các tông cót ép, xích xe đạp đã ra đời. Đáng chú ý là thủ công nghiệp ở

phường, xã được đẩy mạnh, với những ngành nghề thủ công đa dạng. Giá trị

sản lượng công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp năm 1984 đạt 60,7 triệu đồng

[34;tr.115]. Đến năm 1985, Thành phố đã có 10/13 phường có cơ sở sản xuất

quốc doanh và trên 200 tổ hợp lao động, gần 1000 lao động sản xuất tại nhà

giao nộp sản phẩm cho phường [34;tr.117]. Tỷ trọng giá trị hàng thủ công của

Thành phố tăng từ 35% năm 1984, lên 50% năm 1986. Hàng thủ công nghiệp

xuất khẩu được giữ vững và tăng lên 113,5%.

Nông nghiệp

Nông nghiệp được coi là mặt trận được chính quyền thành phố quan

tâm phát triển. Tuy nhiên, những năm qua sản xuất nông nghiệp chưa thoát

15

khỏi tính chất sản xuất nhỏ, lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên; tình

trạng quảng canh, độc canh còn phổ biến. Trong khi đó, việc đầu tư xây dựng

cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu tập trung đồng bộ, công cụ lao động còn thiếu

trong khi khả năng địa phương có thể giải quyết được. Việc thay đổi hình

thức khoán trong nông nghiệp có làm, nhưng không triệt để về định mức và

hạch toán không rõ; "Do sản xuất tập trung quan liêu bao cấp, phân phối theo

kiểu bình quân, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất không tương xứng,

biện pháp quản lý có nhiều tiêu cực, dẫn đến sản xuất trì trệ, suy thoái, người

lao động không có trách nhiệm gắn bó với sản phẩm cuối cùng..." [49;tr.2].

Các hợp tác xã chưa xác định được kế hoạch sản xuất kinh doanh tổng hợp,

cây trồng không đa dạng, chủ yếu vẫn là trồng lúa. Năng suất, sản lượng lúa

mới đạt từ 90% đến 92,5% kế hoạch. Cây mầu và cây rau chưa được chú

trọng, nên diện tích, năng suất và sản lượng giảm. "Các điều kiện, nhất là

thuỷ lợi và phân bón, bảo vệ câv trồng và gia súc chưa đủ đảm bảo cho sản

xuất nông nghiệp phát triển ổn định và vững chắc" [1;tr. 141].

Đến năm 1985, diện tích đất nông nghiệp của thành phố giảm xuống

6.809 ha (so với năm 1983 là 8.488 ha) nhưng sản lượng lương thực lại tăng

từ 10.0630 tấn (năm 1983), lên 13.834 tấn (năm 1985), riêng thóc vượt 150

tấn so với chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX đề ra [34;tr.120].

Do có sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật nên đã tạo ra nhiều giống lúa

mới có năng suất cao được đưa vào gieo trồng như hợp tác xã Đại Đồng, Tân

Long, Quan Triều, Quang Vinh...đã đạt năng suất bình quân từ 60 đến 70 tạ/

ha/vụ. Ngoài lúa, việc thâm canh các cây lương thực như: ngô, khoai, sắn

bước đầu được chú ý và cho năng suất ngày càng cao.

Cùng với việc đẩy mạnh phát triển các loại cây lương thực, thành phố

cũng chú trọng mở rộng diện tích cây công nghiệp để phục vụ cho nhu cầu

tiêu dùng của nhân dân như cây chè, cây đỗ, cây thuốc lá. Năm 1985, diện

tích cây công nghiệp là 4.975 ha. Nhưng cây công nghiệp chưa phát triển

tương xứng với tiềm năng hiện có. Ví dụ như cây chè là một trong những mặt

16

hàng nổi tiếng và có thế mạnh của thành phố, nhưng do khó khăn trong khâu

tiêu thụ sản phẩm và công tác quản lý của Nhà nước; việc đầu tư và chăm sóc

của người dân còn hạn chế nên năng suất chất lượng thấp. Năm 1985, năng

suất chè của Thành phố mới chỉ chỉ đạt 4,14 tạ/ha.

Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban bí thư về khoán sản phẩm trong nông

nghiệp, người nông dân được tự chủ trên đồng ruộng nên nhu cầu về sức kéo

phục vụ sản xuất ngày càng tăng. Do đó, đàn trâu, bò được quan tâm chăm

sóc nhiều hơn. Năm 1983, số lượng đàn trâu, bò là 28576 con đến năm 1985

tăng lên 34231 con. Nhằm giải quyết nhu cầu thực phẩm cho thành phố, việc

mở rộng đàn gia cầm được đẩy mạnh nhưng chủ yếu là chăn nuôi gà, vịt, mỗi

năm cung cấp cho thị trường từ 130.000 đến 150.000 con.

Thương mại, dịch vụ

Do quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp chậm

được củng cố và hoàn thiện, trình độ quản lý kinh tế còn nhiều hạn chế, lỏng

lẻo nên nhiều hợp tác xã làm ăn thua lỗ. Các mặt hàng nông, lâm sản làm

nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như chè búp tươi, mía, thuốc lá, đỗ

tương… chưa bảo đảm ổn định. Thậm chí, nhiều cơ quan cùng tham gia kinh

doanh một mặt hàng, một loại sản phẩm, dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh

bán, gây rối loạn cho quản lý thị trường và giá cả làm ảnh hưởng không nhỏ

đến hoạt động thương mại và dịch vụ của thành phố.

Thị trường không ổn định, nhất là sau khi điều chỉnh về giá cả, tiền

lương, thành phố Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung xảy ra tình

trạng lạm phát, giá cả không những thiếu ổn định, mà còn biến động ngày

càng mạnh, nên không khuyến khích được sản xuất phát triển. Nguồn hàng

trao đổi với các tỉnh lân cận năm cao nhất (1985) cũng chỉ đạt 31% trong tổng

quỹ hàng hoá nội thương của Thành phố [l0;tr.16]. Mặt hàng xuất khẩu nghèo

nàn, giá trị thấp. Hàng hoá nhập vào cũng rất hạn chế. "Những hiện tượng cửa

quyền, gây phiền hà, tự do tuỳ tiện nâng giá, tiêu cực ở một bộ phận cán bộ

17

nhân viên trong các ngành nắm hàng, nắm tiền vẫn tiếp diễn, làm cho tình

hình đã khó khăn lại càng phức tạp thêm" [l0;tr17].

Thu ngân sách luôn luôn không đủ chi. Năm 1985, tổng thu của thành

phố 8.206.000 đồng, tổng chi lên tới 9.782.000 đồng, Tỉnh phải cấp thêm cho

thành phố 4.400.000 đồng để chi bù giá vào lương và trả lương cho cán bộ,

công nhân viên chức. Giá trị đồng tiền ngày một giảm; tình trạng thiếu tiền

mặt luôn luôn căng thẳng [1;tr7]..

Công tác quy hoạch, quản lý đô thị, quản lý nhà đất, quy hoạch bố trí dân

cư ở các phường, xã chậm được đổi mới. Việc lấn chiếm đất đai còn xảy ra.

Năm 1986, tình hình kinh tế của thành phố Thái Nguyên gặp rất nhiều

khó khăn. Sản xuất nông nghiệp, vụ chiêm xuân thì khô hạn kéo dài làm cho

hàng ngàn ha ruộng không có nước cấy; Đến vụ mùa thì lũ lụt lớn làm mất

trắng trên 4500 ha lúa và hoa mầu. Sản xuất công nghiệp đều ở trong tình

trạng thiếu nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, tiền vốn…nên sản xuất cầm chừng,

công nhân không có việc làm, thu nhập thấp.

1.2.2. Tình hình xã hội

Sau khi đất nước thống nhất, vấn đề việc làm cho người lao động luôn

được Thành phố quan tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của

các cấp bộ Đảng và chính quyền. Chủ trương phát triển kinh tế gia đình, kinh

tế phường, xã; mở rộng cơ sở sản xuất của thành phố hàng năm đã tạo công

ăn, việc làm cho hàng trăm lao động, góp phần ổn định trật tự xã hội và đời

sống nhân dân. Đầu thập niên 80, thành phố đã bố trí được việc làm cho trên

4.700 lao động chủ yếu trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp và công nghiệp.

Thập niên 80 của thế kỷ XIX, cũng là những năm đất nước lâm vào

tình trạng khủng hoảng; các tệ nạn phát triển nhiều; đời sống nhân dân gặp

nhiều khó khăn nhưng thành phố đã cố gắng, từng bước đưa công tác quản lý

xây dựng đô thị vào nề nếp, như quy hoạch khu dân cư, gắn nhiệm vụ kinh tế

với công tác xã hội. Nhờ đó, đời sống nhân dân đô thị ngày một ổn định, khu

18

dân cư được tổ chức lại. Thành phố cấp đất cho trên 4000 hộ gia đình. Đến

năm 1986, đã có 5091 nhà ở của nông dân được ngói hoá.

Về văn hoá - giáo dục

Sau ngày thành lập thành phố (19/10/1962), nhằm nâng cao dân trí,

phát triển giáo dục đào tạo các cấp, lãnh đạo thành phố chủ trương đầu tư xây

dựng hệ thống trường lớp. Năm học 1962-1963, số lớp học tăng 1,5; lần, học

sinh đến lớp tăng gần 1,3 lần so với năm học 1961-1962 [29;tr. 110].

Khi đất nước thống nhất, thành phố có thêm nhiều điều kiện thuận lợi

để phát triển sự nghiệp giáo dục. Tháng 9/1976, thành phố phát động cuộc

vận động "Toàn dân xây dựng trường sở", kết quả, cuối năm 1977, gần 200

phòng học kiên cố và bán kiên cố được xây dựng so với năm học trước, năm

học 1976-1977, số học sinh thành phố tăng 340 học sinh. Các ngành và cấp

học phát triển tương đối cân đối, nâng dần về chất lượng, đáp ứng ngày một

tốt hơn yêu cầu của nhân dân và của xã hội. Các mô hình trường vừa học vừa

làm trong các xí nghiệp công nghiệp được mở rộng.

Do kinh tế sa sút, thu ngân sách luôn luôn không đủ chi nên việc đầu tư

cho sự nghiệp giáo dục còn nhiều hạn chế: tốc độ xây dựng trường, lớp chưa

đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, học sinh vẫn phải học ca ba, đời sống

của giáo viên hết sức khó khăn. Công tác quản lý cơ sở vật chất chưa tốt, các

trang thiết bị như bàn, ghế, đồ dùng học tập trong các nhà trường còn thiếu;

chất lượng giáo dục chuyển biến chậm và chưa đồng đều, chưa phù hợp với

sự phát triển về kinh tế. Sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các cấp trong

công tác giáo dục chưa chặt chẽ và đồng bộ.

Về y tế

Bên cạnh phát triển hệ thống giáo dục, vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức

khỏe cho nhân dân được đẩy mạnh. Trong 5 năm từ 1981 đến 1985, ngành y

tế thành phố đã xây dựng được 3 bệnh viện, 5 phòng khám, 14 trạm y tế xã,

phường. Mỗi năm, ngành tổ chức khám, chữa bệnh cho 22 nghìn lượt người

nên nhiều bệnh dịch lớn đã được ngăn chặn và xử lý kịp thời.

19

Như vậy, trước năm 1986 mặc dù tình hình kinh tế, xã hội của thành

phố Thái Nguyên gặp rất nhiều khó khăn cần phải giải quyết. Nhưng thành

phố đã từng bước khắc phục và đưa nền kinh tế, xã hội phát triển ổn định trở

lại, đời sống nhân dân được cải thiện. Góp phần thúc đẩy sự hình thành và

phát triển các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.

1.3. Sự ra đời và thực trạng hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp ở thành phố Thái Nguyên

Tổ chức xã hội được hình thành trên các nguyên tắc tự nguyện, tự quản

của người lao động được tổ chức và hoạt động theo điều lệ hay theo các quy

định của nhà nước, nhân danh tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà

nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên.

Ðặc điểm của các tổ chức xã hội là:

Các tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của người lao động

vì những mục đích nhất định. Ðó là những tổ chức tập hợp những thành viên

của mình dựa vào những đặc điểm nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính ...

Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp những thành viên có cùng chung một dấu

hiệu, đặc điểm. Họ liên kết lại với nhau để tìm tiếng nói chung và bảo vệ

những lợi ích chính đáng của họ.

Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội

nhân danh tổ chức mình chứ không phải nhân danh nhà nước.

Các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo điều lệ do các thành

viên trong tổ chức xây dựng nên hoặc theo các quy định của nhà nước.

Mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức xã hội là mối quan hệ

bình đẳng chứ không phải là nguyên tắc " quyền lực - phục tùng" như trong

các cơ quan nhà nước.

Các tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chung là giáo dục ý thức

pháp luật cho các thành viên để họ sống và làm việc theo pháp luật. Ðồng

20

thời, hoạt động của các tổ chức xã hội còn nhằm đến mục đích là bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức

Theo nguyên tắc hình thức tổ chức và hoạt động, các tổ chức xã hội

được chia thành các tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp, các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp.

Tổ chức xã hội - nghề nghiệp là loại hình tổ chức xã hội do nhà nước

sáng kiến thành lập được hình thành theo quy định của nhà nước. Hoạt động

của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt dưới sự quản lý của các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng là tổ

chức hoạt động mang tính chất tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ

chức do tổ chức đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực nhà

nước, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện khi hình thành tổ chức.

Tổ chức chính trị xã hội- nghề nghiệp được thành lập theo sáng kiến

của nhà nước. Hình thành theo các quy định của nhà nước và được quản lý

chặt chẽ bởi cơ quan nhà nước. Hỗ trợ nhà nước giải quyết một số vấn đề xã

hội. Hoạt động tự quản, cơ cấu do nội bộ tổ chức quyết định, hoạt động không

mang tính quyền lực chính trị và hoàn toàn tự nguyện.

Trên cơ sở đó, thực hiện những chủ trương của Đảng và chính sách của

nhà nước về phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong việc

phát triển kinh tế, xã hội. Tỉnh Thái Nguyên nói chung và thành phố Thái

Nguyên nói riêng đã có những chính sách phù hợp để tạo điều kiện cho các tổ

chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập nhằm phát triển kinh tế, xây dựng

quê hương đất nước.

Thái Nguyên cơ bản đã phát triển thành một thành phố công nghiệp,

bao gồm cả công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, với các ngành luyện kim,

cơ khí chế tạo, khai thác khoáng sản, sản xuất giấy, bánh kẹo, may mặc,

chế biến nông-lâm sản... Cơ cấu kinh tế của Thành phố có nhiều chuyến

biến quan trọng.

21

Vấn đề việc làm cho người lao động luôn được Thành phố quan tâm, coi

đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cấp bộ Đảng và chính

quyền. Chủ trương phát triển kinh tế gia đình, kinh tế phường, xã; mở rộng cơ

sở sản xuất của Thành phố hàng năm đã tạo công ăn, việc làm cho hàng trăm

lao động, góp phẩn ốn định trật tự, xã hội và đời sống nhân dân.

Trong suốt thời gian dài, nhân dân ta phải liên tiếp phải tiến hành hai

cuộc kháng chiến lớn: Kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954) và

kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975). Cho nên, nhiệm vụ cách

mạng hàng đầu lúc này là phải giành độc lập dân tộc. Trong bối cảnh đó, ở

nước ta lúc này mới chỉ xuất hiện một vài tổ chức xã hội - nghề nghiệp: Hội

Chữ thập đỏ Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam, Hội

Nhà báo Việt Nam... Tuy nhiên, từ khi Luật số 102-SL/L004 ngày 20 tháng

05 năm 1957 quy định quyền lập hội của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa và nghị định số 258TTg ngày 14/6/1957 của Thủ tướng chính phủ

quy định chi tiết, thi hành luật nói trên thì các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở

nước ta xuất hiện ngày một nhiều: Hội Làm vườn Việt Nam, Hội Cựu thanh

niên xung phong, Hội doanh nghiệp Việt Nam…

Ban đầu, những thành viên tham gia vào các tổ chức này với mục đích

phục vụ nhân dân là chính, số hội viên tham gia vào hội còn hạn chế, chưa có

văn phòng đại diện, chưa có điều lệ, tôn chỉ và mục đích hoạt động cụ thể…

Tuy nhiên, từ sau khi Luật quy định về quyền lập hội được ban hành thì các tổ

chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên mới chính thức được

thành lập: Hội Đông y (25/10/1962); Hội Chữ thập đỏ (1965).

Trong đó, Hội Đông y thành phố Thái Nguyên được thành lập sớm

nhất: Căn cứ theo công văn số 665/ĐC-ĐS ngày 25- 10- 1962 của Bộ nội vụ

UBHC tỉnh đã ra quyết định cho phép thành lập Hội Đông y thành phố Thái

Nguyên. Đây là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của những người hành nghề

22

Đông y, Đông dược, hoạt động trong lĩnh vực khám chữa bệnh bằng đông y

trong phạm vi thành phố Thái Nguyên.

Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho tiền tuyến”,

“Tất cả vì sự thống nhất đất nước”. Vì vậy, việc xây dựng củng cố Hội Đông

y thành phố vững cả về tư tưởng, tổ chức và nghiệp vụ là việc làm có ý nghĩa

vô cùng quan trọng, góp phần vào sự nghiệp thống nhất đất nước nói chung

và nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế của địa phương nói riêng.

Với mong muốn tập hợp giúp đỡ lẫn nhau để hành nghề tốt hơn, chống

lại hoặc giảm thiểu những tác nhân bất lợi từ bên ngoài. Do vậy, ngay từ khi

thành lập hội đã rất chú trọng tới phát triển tổ chức hội, không phân biệt thành

phần dân tộc điều này đã tạo điều kiện cho hội viên sinh hoạt. Trong ban chấp

hành có đủ thành phần dân tộc như: Kinh, Hoa, Nùng, Thổ, Mán, Trại…

Riêng hai huyện Phú Bình và Đồng Hỷ được tiến lên thành chi hội. Với

phương châm củng cố là chủ yếu, phát triển là thứ yếu thì những địa phương

phát triển như Đồng Hỷ, Phú Bình đã được củng cố bằng cách học tập, bồi

dưỡng ý thức tập thể, trên cơ sở kiện toàn tổ chức lành mạnh và thuần khiết.

Về xây dựng phát triển hội: Trong 6 tháng đầu năm đã phát triển được

2 hội viện chính thức thuộc huyện Phú Bình cộng với 124 hội viên cũ đã tăng

lên 140 hội viên chính thức và có 29 hội viên mới xin ra nhập. Khai đăng ký

hành nghề được 88 vị.

Về tình hình học tập: Toàn giới Đông y đã tham gia học tập mọi chính

sách cùng với nhân dân như: Chính sách cải tạo, công thương nghiệp, chính

sách bầu cử quốc hội… Học tập tiếp thu công tác chuyên môn thì riêng huyện

Phú Bình đã học được từ Tạp chí Đông Y số 6, số 7 trong tổ chức.

Trong tổ chức thì chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm có 1 nhóm trưởng để lãnh

đạo hướng dẫn học tập, mỗi học viên có 1 quyển học bạ để ghi chép từng ngày

đi học. Mỗi tháng lại học thêm hai bài thuốc nam do ông Thái phổ biến, cho hội

viên đi học các lớp châm cứu do Nguyễn Tú Siêu và Trung ương hội mở.

23

Công tác tuyên truyền về sinh phòng bệnh: Thường xuyên nói chuyện

trong các cuộc họp với nhân dân, vận động nhân dân thực hiện 3 sạch nhất là

các lương y tự làm gương mẫu trong công tác vệ sinh phòng bệnh. Hệ thống y

tế có tiến bộ hơn. Phong trào xây dựng 3 công trình sinh hoạt (giếng nước,

nhà tắm, nhà vệ sinh), được chỉ đạo triển khai xuống từng gia đình. Nhiều

bệnh dịch lớn được ngăn chặn và xử lý kịp thời.

Đến năm 1965, UBHC tỉnh Bắc Thái chuẩn y việc thành lập Hội Chữ

thập đỏ thành phố Thái Nguyên. Đây là tổ chức xã hội nhân đạo của quần

chúng. Hội tập hợp tất cả mọi người, không phân biệt thành phần dân tộc, tôn

giáo, nam nữ để làm công tác nhân đạo. Hoạt động chủ yếu của hội ở giai

đoạn này chủ yếu là: Phục vụ chiến đấu, tham gia cứu chữa thương bệnh binh

và nhân dân bị thương trong chiến tranh; chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chăm

lo các gia đình thương binh, liệt sỹ, những người khuyết tật và các đối tượng

khó khăn khác.

24

Tiểu kết chương 1

Thành phố Thái Nguyên có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên

nhiên phong phú. Nơi đây là địa bàn sinh sống thuận lợi của nhiều tộc người.

Thành phố là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị quan trọng của vùng trung

du miền núi phía Bắc, với các sản phẩm có ý nghĩa chiến lược trong nền kinh

tế quốc dân như thép, điện, kim loại mầu, vật liệu xây dựng và công nghiệp

chế biến nông, lâm sản. Vì vậy, Thái Nguyên có điều kiện để xây dựng cơ sở

hạ tầng, phát triển kinh tế, xã hội.

Trước năm 1986, thành phố Thái Nguyên gặp nhiều khó khăn, thách

thức trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội. Với tinh thần chủ động, Đảng

bộ, chính quyền thành phố đã vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước khắc phục khó khăn, vượt qua khủng hoảng.

Nghiên cứu về giai đoạn trước năm 1986, chúng tôi nhận thấy: Các

tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên chưa nhiều, chỉ có

hai tổ chức là Hội Đông y và Hội Chữ thập đỏ được thành lập; Hoạt động

của hội bước đầu dừng lại ở việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân nên

những đóng góp của hội cho sự phát triển kinh tế của thành phố chưa thực

sự hiệu quả. Tuy vậy, những hoạt động bước đầu của hội có ý nghĩa quan

trọng cho sự phát triển của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở những giai

đoạn tiếp theo.

25

Chương 2

HOẠT ĐỘNGCỦA CÁC CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP

Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2016

2.1. Đường lối đổi mới kinh tế - xã hội của Đảng và kế hoạch hành động

của thành phố Thái Nguyên

Trên thế giới, từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và

công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống

của các quốc gia, dân tộc. Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng khoảng

sâu sắc. Đến đầu những năm 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ,

dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình

thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên

Xô và Mỹ đứng đầu tan rã. Mặc dù vậy những cuộc chiến tranh cục bộ, xung

đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp

tác phát triển. Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực

hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho

phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.

Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước

đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương

hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác

với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị

trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh. Các nước

đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh

giá cũ, chủ yếu dựa vào thế mạnh quân sự bằng các tiêu chí tổng hợp, trong

đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu. Vì thế, yêu cầu đổi

mới đất nước của Đảng lại được đặt ra một cách bức thiết.

Trong khi đó, ở khu vực châu Á, công cuộc cải cách kinh tế ở Trung

Quốc theo hướng thị trường - mở cửa đã thực hiện từ năm 1978 và đạt được

những thành tựu nổi bật, đưa Trung Quốc vượt qua khó khăn, khủng hoảng.

26

Chính điều này đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam quan tâm do có sự

tương đồng nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước. Bên

cạnh đó, sự thành công của Nhật Bản và các nước "công nghiệp mới" ở Đông

Á và khu vực là những bài học kinh nghiệm về cách thức, con đường phát

triển đối với những nước vốn xuất phát từ kinh tế nông nghiệp cổ truyền, có

các quan hệ xã hội theo kiểu Á Đông trong đó có Việt Nam. Đó là những

thành công của các chiến lược phát triển: phát huy mạnh nội lực, thị trường -

mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.

Như vậy, trước những thay đổi của tình hình thế giới, đòi hỏi Đảng và

Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.

Trong nước: Cách mạng XHCN đã đạt được những thành tựu và tiến

bộ đáng kể trên các mặt. Song, cách mạng Việt Nam gặp không ít khó

khăn, yếu kém.

Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến, tiến lên

CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, là một vấn đề hết sức khó khăn và

mới mẻ đối với nước ta. "Những thành tựu đã giành được chứng minh đường

lối chung và đường lối kinh tế trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ của

Đảng và Nhà nước là đúng đắn, và khẳng định tính chất khoa học và sáng tạo

của các chủ trương, biện pháp quản lý mới" [23;tr.84].

Tuy nhiên, do một số chủ quan, sai lầm trong cách nghĩ và cách làm,

làm cho sản xuất tăng chậm, hiệu quả đầu tư thấp, tài nguyên đất nước chưa

được khai thác triệt để. Các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nhìn chung chỉ

sử dụng một nửa công suất, năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm

kém. Kinh tế-xã hội khủng hoảng. Tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu

người hầu như không tăng. Siêu lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán đã

ảnh hướng xấu đến sự phát triển kinh tế. Đời sống khó khăn, lòng tin của cán

bộ và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng giảm sút. Các tệ nạn xã hội phát

triển. Nguyên nhân chủ yếu của những sai lầm đó là những khuyết điểm của

27

mô hình CNXH, đó là CNXH thời chiến kéo dài và phổ biến. Sự nôn nóng

tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội: Trong cải tạo, ta nôn nóng muốn cải tạo

nhanh, đồng nhất cải tạo với xóa bỏ, cũng với mong muốn xóa bỏ nhanh, dứt

điểm các thành phần kinh tế tư nhân và cá thể nên khi thực hiện đã đẫn đến

sai phạm “nguyên tắc tự nguyện”.

Trong công nghiệp hóa, chúng ta đẩy mạnh quá mức việc xây dựng

công nghiệp nặng, “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”, muốn hiện đại hóa

nền kinh tế vốn nhỏ bé, lạc hậu, phân tán của ta nhanh chóng trở thành nền

kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, nên đã đầu tư nhiều vốn, kỹ thuật, lao

động, xây dựng theo quy mô lớn nhiều cơ sở công nghiệp nặng trong điều

kiện đất nước còn nhiều khó khăn, chưa có sẵn những tiền đề cần thiết.

Trong xây dựng kinh tế, chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế hiện

vật, chủ yếu bằng hai thành phần quốc doanh và hợp tác xã, nhằm đáp ứng

việc thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo hiện vật, có cái nhìn không

đúng về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Bên cạnh đó, nền kinh tế hiện

vật lại đặt dưới sự quản lí kiểu hành chính, tập trung, quan liêu bao cấp của

Nhà nước. Sai lầm của chúng ta còn thể hiện ở việc đặt ra các kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội của Nhà nước với nhiều chỉ tiêu, mục tiêu quá lớn, quá

cao so với khả năng của đất nước, và ở việc mong muốn thực hiện nhanh

chóng nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước ta đang ở những chặng

đường đầu tiên.

Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó trước tiên là

những sai lầm trong chính sách kinh tế, là “bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy

nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng buông lỏng trong

quản lí kinh tế - xã hội…”[13;tr.231]. Đây là tư tưởng vừa "tả" khuynh, vừa

"hữu" khuynh, làm trầm trọng thêm tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội.

Trước tình hình đó, để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, đưa đất

nước vượt qua khủng hoảng, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng XHCN, đòi hỏi

28

Đảng và Nhà nước ta phải đổi mới. Nói cách khác, đổi mới là yêu cầu bức

thiết, là vấn đề sống còn đối với nước ta.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã đề ra đường lối đổi

mới toàn diện đất nước và cải cách kinh tế trên các lĩnh vực. Đường lối đổi

mới do Đại hội Đảng VI đề ra dựa trên những bài học được đúc kết từ những

thắng lợi đã đạt và cả những khuyết điểm sai lầm còn tồn tại trong những năm

qua. Nhằm mục đích ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước thoát

khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, thoát khói nghèo nàn, lạc hậu. "Nhiệm vụ

bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu

tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế-xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền

đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng

đường tiếp theo" [13;tr.42].

Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, kinh tế đất nước được chuyển

từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Chính sách và

cơ chế quản lý kinh tế được đổi mới theo hướng: Phát triển kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần; Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng

XHCN, có sự quản lý của Nhà nước; Nền kinh tế mở cửa, hướng ngoại; Dân

chủ hoá nền kinh tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền.

Cơ chế thị trường luôn gắn liền với việc phát triển nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần, nhưng nó có hai mặt (tích cực và tiêu cực), vì vậy cần nâng

cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, nhằm phát huy mặt tích cực và hạn

chế mặt tiêu cực, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển theo định hướng

XHCN.“Có thể nói chiến lược phát triển kinh tế-xã hội là quan điểm chủ

trương tư tưởng quản lý dài hạn của Đảng nhằm tập hợp lực lượng để xây

dựng đất nước theo hướng không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ cấu kinh tế-

xã hội" [22;tr.99].

Với cách tư duy mới, Đại hội Đảng VI phê phán những sai lầm nghiêm

trọng của cơ cấu kinh tế trước đó, chỉ ra những nguyên nhân của khủng hoảng

29

kinh tế-xã hội và điều chỉnh nền kinh tế theo 3 chương trình kinh tế lớn: sản

xuất lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; đồng thời phát

triển công nghiệp nặng có trọng điểm, ưu tiên hướng vào phục vụ cải tạo

nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. "Đổi mới là để giải quyết những nội

dung, mục tiêu và biện pháp chủ yếu của công nghiệp hoá XHCN trong thời

kỳ quá độ". [34;tr.54].

Cùng với những phát triển trong kinh tế là sự phát triển trong lĩnh vực

xã hội, Đảng ta khuyến khích sự phát triển các loại hình “hội”, nhiều tổ chức

xã hội - nghề nghiệp đã hình thành. Theo Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ

thuật Việt Nam (VUSTA) có: 80 hội, 61 liên hiệp hội địa phương, 600 trung

tâm và viện (400 trực thuộc Vusta, 200 thuộc các hội). [37;tr.21].

Quá trình phát triển nhận thức của Đảng ta và chính sách của nhà nước

về vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế: Công

cuộc đổi mới kinh tế nước ta chính thức khởi sự từ 1986, thực hiện quá trình

chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh

tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, đòi hỏi phát huy cao độ vai trò làm

chủ của quần chúng nhân dân thông qua các tổ chức đoàn thể của mình tham

gia vào công cuộc đổi mới kinh tế. Trong bối cảnh đó lần đầu tiên Nghị quyết

đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra”. Nghị quyết 08B-NQ/HNTW, ngày 27/3/1990 Hội nghị lần thứ

tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) về đổi mới công tác quần

chúng của đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân lần đầu tiên

đã khẳng định “ động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng thiết

thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với

nghĩa vụ công dân” và cho rằng “các hình thức tập hợp nhân dân phải đa

dạng”. Theo hương đó, nghị quyết đã chủ trương xây dựng “Các hội nghề

nghiệp, nhân đạo, hữu nghị… là những tổ chức tự nguyện của quần chúng

trong từng ngành nghề, từng mặt đời sống mang tính chất chính trị - xã hội

30

với những mức độ khác nhau, được thành lập theo luật định…Trong tổ chức

và hoạt động, các đoàn thể và tổ chức quần chúng thực hiện nguyên tắc tự

quản, tự lựa chọn cán bộ của mình”.

Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã đề ra chủ trương “ Đổi

mới kiện toàn hệ thống chính trị theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhà nước quản

lý, nhân dân làm chủ”. Trên cơ sở đó đề ra chủ trương “Trong điều kiện cơ

cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế đã thay đổi, hình thức tổ chức và sinh hoạt

của các đoàn thể quần chúng phải đổi mới, linh hoạt và đa dạng và đông đảo

thu hút ngày càng đông đảo cá tầng lớp nhân dân, đáp ứng nhu cầu về nghề

nghiệp và đời sống”.

Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) lần đầu tiên đã đưa ra khái

niệm “dân chủ” và xác định “ Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách

bảo đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết

định… Để thực hiện chủ trương của Đảng, Thủ tướng chính phủ đã ban hành

quyết định số: 22/2002/QĐ-TTg ngày 30 tháng 01 năm 2002 về “ Hoạt động tư

vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật

Việt Nam”. Tiếp theo đó Chính phủ đã ban hành nghị định số 88/2003/NĐ-CP

ngày 30 tháng 07 năm 2003 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý Hội.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng

khóa IX số 23-NQ/TW, Ngày 12 tháng 3 năm 2003 về phát huy sức mạnh đại

đoàn kết toàn dân tộc vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh” đã nêu ra yêu cầu “Sớm ban hành luật về hội quần chúng” nhằm

tạo cơ sở pháp lý để “Mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đa dạng hóa các

hình thức tập hợp nhân dân. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của

các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội và

các tổ chức nhân dân”.

Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

31

2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ “có cơ chế thu hút các hiệp hội, các tổ

chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào

việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn

thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế

phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với dự án,

dự thảo văn bản quy phạm pháp luật”.

Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã đưa ra vấn đề “phản biện

xã hội” và đã chủ trương “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các

đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng

04 năm 2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.

Nghị quyết số 25/ - NQ/TW ngày 03 tháng 06 năm 2013 Hội nghị

Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối

với công tác dân vận trong tình hình mới đã tiếp tục khẳng định chủ trương “

Phát triển các tổ chức quần chúng theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự

trang trải, tạo lực, trí tuệ sáng tạo theo nguyện vọng trên cơ sở pháp luật”.

Tóm lại, quá trình nhận thức của Đảng và chính sách của nhà nước về

các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cho thấy vị trí vai trò của các tổ chức xã hội

- nghề nghiệp đã không ngừng được nâng cao về quan điểm, nhận thức và

bước đầu đã có khuôn khổ pháp lý rõ ràng. Quá trình đó phản ánh hai nhân tố

tác động rõ rệt nhất, đó là: Nhu cầu dân chủ hóa và thị trường hóa nền kinh tế

- xã hội.

Quán triệt các nghị quyết của Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ, Đảng bộ

thành phố Thái Nguyên kịp thời đề ra nhiều chủ trương, biện pháp tổ chức chỉ

đạo thực hiện. Ngày 6/2/1987, Thường trực Thành uỷ họp đánh giá tình hình

và bàn biện pháp triển khai thực hiện Nghị quyết 01 về ba chương trình kinh

tế trong nhiệm vụ công tác của BCH Đảng bộ thành phố. Trên cơ sở đó, Hội

nghị quyết định thành lập các tiểu ban xây dựng đề án của từng chương trình.

32

Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XI (tổ chức từ ngày 29

đến ngày 30/3/1989), trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình thực tế, khẳng

định những thành tựu đạt được sau 3 năm đổi mới theo tinh thần Đại hội

Đảng VI, đã tạo tiền đề căn bản thuận lợi cho thành phố bước đi những năm

sau. Đại hội cũng chỉ ra những tồn tại yếu kém về nhiều mặt, trong đó có

kinh tế và thông qua phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm 2 năm (1989-

1990), chủ trương "Phải cấp bách đổi mới cơ chế quản lý và xây dựng các

chính sách nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng và

nhân tố mới trong mọi thành phần kinh tế, mở rộng quyền tự chủ của các cơ

sở, mở rộng liên doanh, liên kết. Tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm

nhằm thực hiện cho được 3 chương trình kinh tế: lương thực-thực phẩm,

hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" [46;tr.3]. Đồng thời, tiếp tục triển khai

thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng

"Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp".

Dựa trên tinh thần Chỉ thị 154/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,

ngày 15/5/1991, Thành phố cho phép các hợp tác xã tiểu-thủ công nghiệp,

dịch vụ lựa chọn mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức kinh doanh.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành TW Đảng tại Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VII (6/1991), trên cơ sở những thành tựu đạt được và căn cứ vào

tình hình hiện tại của đất nước, đã đề ra chủ trương thực hiện nhất quán chính

sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đại hội thông qua

Cương lĩnh "Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" và

thông qua nội dung cơ bản của Chiến lược "ổn định và phát triển kinh tế-xã

hội đến năm 2000".

Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại hội

Đảng bộ tỉnh Bắc Thái lần thứ VI (10/1991), chủ trương phấn đấu hình thành

bằng được cơ cấu kinh tế nông-lâm-công nghiệp-dịch vụ; ở từng huyện,

thành, thị sẽ tuỳ điều kiện hình thành cơ cấu kinh tế cho phù hợp, chủ trương

33

xây dựng “Các hội nghề nghiệp, nhân đạo, hữu nghị… là những tổ chức tự

nguyện của quần chúng trong từng ngành nghề, từng mặt đời sống mang tính

chất chính trị - xã hội với những mức độ khác nhau, được thành lập theo luật

định… Trong tổ chức và hoạt động, các đoàn thể và tổ chức quần chúng thực

hiện nguyên tắc tự quản, tự lựa chọn cán bộ của mình”.

Từ những thành tựu và hạn chế trong những năm đầu thực hiện đường

lối đổi mới của Đảng, Đại hội Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lần thứ XII,

họp từ ngày 20 đến ngày 22/1/1992, đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cho 4 năm

(1992-1995), là: "ổn định và phát triển kinh tế-xã hội với cơ cấu kinh tế nhiều

thành phần. Hình thành rõ nét cơ cấu kinh tế công nghiệp-nông nghiệp-thương

mại và dịch vụ. Xây dựng một số vùng kinh tế, ngành kinh tế trọng điểm, tạo ra

nhiều sản phẩm mũi nhọn, đáp ứng nhu cầu thiết yếu trên địa bàn và vươn ra

thị trường ngoài nước. Đẩy mạnh quv hoạch và xây dựng đô thị, giữ vững an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện đổi mới và chỉnh đốn Đảng,

nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước, đổi mới hoạt động của các đoàn thể

nhân dân. Từng bước xây dựng thành phố có kinh tế phát triển toàn diện; xứng

đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, xã hội của tỉnh" [52;tr.34-35].

Tại Đại hội toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) của Đảng đã xác định:

"Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta trở thành

một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp

lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất" [53;tr.18].

Thành phố Thái Nguyên, ngày 29/6/2001, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ

Thái Nguyên ra Nghị quyết số 02/NQ- TU “Về xây dựng và phát triển thành

phố Thái Nguyên giai đoạn 2001-2005, định hướng phát triển đến 2010”, chỉ

rõ: “Thành phố Thái Nguyên phải đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH; phát

triển nhanh, toàn diện, vững chắc, tiêu biểu cho sự phát triển của tỉnh; làm

động lực cho sự phát triển của các địa phương khác trong tỉnh và trở thành

34

trung tâm có uy tín của vùng Việt Bắc và là một trong những trung tâm vùng

quan trọng của cả nước” Định hướng đó hoàn toàn phù hợp với lợi thế và

tiềm năng của thành phố, cũng như phù hợp với định hướng chung của Đảng

và Nhà nước ta.

Để thực hiện tốt chủ trương, định hướng của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ,

Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIV (họp từ 14 đến 16/1/2000), đề ra chủ

trương lấy phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, phấn đấu đạt tốc độ tăng

trưởng kinh tế (GDP) bình quân 7%/năm, trong đó công nghiệp, xây dựng

tăng 8%/năm; thương mại-dịch vụ tăng 7%; nông, lâm nghiệp tăng 3,5%/năm.

Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu kinh tế là: Công nghiệp, xây dựng 50%-

thương mại, dịch vụ 40%; nông, lâm nghiệp 10% [55;tr.87-88].

Những Văn kiện, Nghị quyết và báo cáo trên đã thể hiện đường lối, chủ

trương đổi mới của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy và UBND thành phố Thái

Nguyên theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ 1986 đến 2016.

Trên cơ sở các chủ trương, đường lối của Trung ương, của tỉnh và của

Đảng bộ thành phố, thành phố Thái Nguyên không những đã từng bước đưa

nền kinh tế phát triển đi lên, mà còn phát triển một cách toàn diện: Tốc độ

tăng trưởng GDP bình quân của thành phố Thái Nguyên đạt 9%/năm, sản xuất

công nghiệp tăng 19,5%/năm, nông - lâm nghiệp đạt 4,5%/năm, các ngành

dịch vụ đạt 9,4%/năm…. Đó là điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các tổ

chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên. Cho đến nay, thành phố

đã có 16 tổ chức xã hội - nghề nghiệp được thành lập: Hội Đông y

(25/10/1962); Hội Chữ thập đỏ (1965); Câu lạc bộ Hưu trí Thái Nguyên

(27/6/1986); Hội Làm vườn (20/01/1990); Hội Sinh vật cảnh (QĐ số 1897

ngày 27/6/1995); Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên (Số 946/QĐ-UBND

ngày 28/10/1999); Hội Khuyến học (Số 131/QĐ-UB ngày 29/01/2002); Hội

Người cao tuổi (766/QĐ-UBND ngày 02/7/2003); Hội Người khuyết tật (Số

2942/QĐ-UBND ngày 23/12/2005); Hội Cựu thanh niên xung phong

35

(03/02/2006); Hội Văn học nghệ thuật (Số 950/QD-UBND ngày 28/5/2007);

Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin (25/7/2008); Hội Doanh nghiệp (Số

1276/QĐ-UBND ngày 02/6/2010); Hội Hữu nghị Việt Nam-Lào (Số 52-

HHNVN-L ngày 01/6/2011); Hội Truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí

Minh Việt Nam (Số 2028/QĐ-UBND ngày 15/9/2014). Các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp ngày càng phát triển và tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau

như: lĩnh vực kinh tế; văn hóa - giáo dục; y tế….

2.2. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh tế

2.2.1. Hội Doanh nghiệp

Hội Doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội - nghề

nghiệp tự nguyện của các doanh nghiệp và doanh nhân thuộc mọi thành phần

kinh tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố Thái

Nguyên. Hội được thành lập theo Quyết định số 1273/QĐ-UBND ngày

02/6/2010 của Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên.

Hội đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên

nhằm mục đích đoàn kết hội viên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội

viên, hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả góp phần vào việc phát triển kinh tế -

xã hội của thành phố Thái Nguyên.

Nhiệm vụ chính của hội là phối hợp với cơ quan Nhà nước tổ chức các

diễn đàn, đối thoại, các cuộc tiếp xúc giữa doanh nghiệp, người sử dụng lao

động với các cơ quan Nhà nước để trao đổi thông tin về các vấn đề liên quan

đến doanh nghiệp trong kinh doanh; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính

đáng của doanh nghiệp và người sử dụng lao động trong các quan hệ kinh

doanh trong nước và quốc tế; Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động

các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, nâng cao trách nhiệm xã

hội, đạo đức và văn hoá kinh doanh; Xây dựng quan hệ lao động hoà hợp, bảo

vệ môi trường và tham gia các hoạt động xã hội khác phù hợp với mục tiêu

của Hiệp hội.

36

Bên cạnh đó, Hội tiến hành các hoạt động xây dựng, quảng bá và nâng

cao uy tín doanh nghiệp, doanh nhân, hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam; thúc

đẩy các dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp phát triển

quan hệ kinh doanh và đầu tư ở trong và ngoài nước.

Trong quá trình hoạt động, Hội giúp hội viên đăng ký và bảo hộ quyền

sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ Việt Nam và ở nước ngoài; Tổ chức

các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhằm phát triển doanh

nghiệp và kinh tế thành phố Thái Nguyên.

Trong những trường hợp cụ thể, Hội tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các

doanh nghiệp để phản ánh, đề xuất kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền các vấn đề về pháp luật, chính sách kinh tế - xã hội nhằm cải thiện môi

trường kinh doanh; Tham gia ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện các chiến

lược phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các hội

nghị, các đoàn đàm phán về kinh tế và thương mại phù hợp với quy định của

pháp luật; Tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi nước ngoài nhằm giới thiệu

hàng hoá, sản phẩm, thúc đẩy quan hệ với các tổ chức doanh nghiệp quốc tế,

nâng cao vị thế của thành phố Thái Nguyên.

Với những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn trên của Hội đã được

quy định rất rõ trong Điều lệ hoạt động. Từ khi thành lập cho đến nay hội

Doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp chính quyền,

của Hội Doanh nghiệp tỉnh và đặc biệt là UBND thành phố. Bởi vậy, trong

những năm qua các doanh nghiệp hội viên trên địa bàn thành phố, đã có nhiều

chuyển biến tích cực trong kinh doanh, có nhiều đóng góp cho sự phát triển

kinh tế của thành phố nói riêng và của tỉnh Thái Nguyên nói chung.

Do nắm bắt kịp thời được xu hướng phát triển của thị trường và đối tác

làm ăn, Hội cũng đã chuyển hướng và kết nối doanh nghiệp lớn với vai trò

dẫn dắt, giúp đỡ doanh nghiệp nhỏ cùng nhau phát triển. Cho nên, trong bối

cảnh nền kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp đã và

37

đang đứng trước nguy cơ bị phá sản thì Hội Doanh nghiệp thành phố Thái

Nguyên vẫn duy trì được sự phát triển ổn định của mình, bằng chứng là trong

những năm gần đây số chi hội trực thuộc, số hội viên mới được kết nạp không

ngừng tăng và không có hội viên nào bị phá sản.

Trong quá trình sản xuất kinh doanh, Hội luôn quan tâm giúp đỡ nhau

để hoàn thành tốt kế hoạch, chỉ tiêu đề ra. Thi đua thực hiện không nợ thuế,

không nợ bảo hiểm, không nợ lương công nhân.

Các doanh nghiệp cùng nhau đồng tâm hợp lực hỗ trợ nhau trong sản

xuất kinh doanh. Trong những năm qua, giao thương nội bộ đạt khoảng 260

tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp đã vượt mức chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Để thu hút nguồn vốn lao động dồi dào, Hội doanh nghiệp thành phố đã

phối hợp cùng Liên đoàn lao động tỉnh tham gia cùng các đơn vị khác tổ chức

thành công Ngày hội việc làm, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho sinh viên

mới ra trường và người lao động trên địa bàn thành phố. Ngày hội việc làm

giúp các doanh nghiệp thu hút được sức lao động phù hợp với điều kiện kinh

doanh sản xuất của doanh nghiệp mình.

Hội còn liên danh liên kết giữa các hội để cùng giúp đỡ nhau trong khó

khăn, lắng nghe và cùng nhau chia sẻ những thuận lợi khó khăn để cùng nhau

đồng hành phát triển, tạo dựng lên một sân chơi và sinh hoạt gắn kết giữa Hội

doanh nghiệp thành phố, Câu lạc bộ Cựu chiến binh Doanh nhân thành phố và

Hội nữ doanh nhân thành phố; Thường xuyên tổ chức các buổi kết nối giữa

ngân hàng và doanh nghiệp để giúp các doanh nghiệp hội viên tiếp cận nguồn

vốn ưu đãi được thường xuyên và nhanh gọn. Hội đã tổ chức kết nối giữa

Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố với 30 doanh

nghiệp trên địa bàn. Hội tổ chức gặp mặt lắng nghe, chia sẻ và tạo nguồn vốn

kinh doanh ưu đãi cho các doanh nghiệp. Hội doanh nghiệp thành phố luôn là

cầu nối giao thương nội bộ giữa các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh cũng như

trong cả nước.

38

Hội luôn quan tâm đến đời sống tinh thần của các Doanh nghiệp đặc

biệt là Doanh nghiệp có giám đốc là nữ giới, ngày Quốc tế phụ nữ mùng 8/3

hội đã tổ chức gặp mặt thân mật được hơn 20 chị em phụ nữ là giám đốc các

doanh nghiệp và chị em làm báo chí truyền hình. Họ là cộng tác viên luôn

đồng hành cùng Hội trên mọi mặt trận, thường xuyên gặp gỡ từng cụm doanh

nghiệp để lắng nghe chia sẻ những vướng mắc khó khăn của các doanh

nghiệp và cùng nhau tháo gỡ những khó khăn đó.

Mục đích, tạo điều kiện cho các chi hội doanh nghiệp địa phương phát

triển và đưa được sản phẩm, cây trồng của mình giới thiệu ra thị trường gần

dịp Tết Nguyên đán BCH hội Doanh nghiệp đã tổ chức đoàn thăm và làm

việc tại Chi hội Doanh nghiệp Phường Cam Giá, thăm làng nghề hoa đào

Cam Giá để tạo thương hiệu và giúp bà con quảng bá rộng rãi cây đào cảnh ra

thị trường. Hội thường xuyên tham gia vào các chương trình, sự kiện lớn của

thành phố: Lễ khai trương Đại lý nội thất Hoàn Mỹ Thái Nguyên - Công ty

THHH xây dựng Hoàng Gia Thái Nguyên.

BCH hội cũng như văn phòng hội thường xuyên triển khai hướng dẫn

quán triệt tới tất cả các doanh nghiệp tham gia điền vào phiếu khảo sát mà các

cơ quan thuế cũng như phiếu khảo sát nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

(PCI). Bởi vậy, Hội đã được chủ tịch UBND Tỉnh Thái Nguyên tặng bằng

khen “Hội Doanh nghiệp đã có thành tích xuất sắc trong công tác triển khai

thực hiện nâng cao năng lực cạnh tranh cấp Tỉnh (PCI) năm 2016”.

Hội Doanh nghiệp thành phố đã phối hợp với hiệp Hội Du lịch tỉnh

Thái Nguyên tổ chức cho 65 doanh nghiệp hội, viên tham quan, học tập kinh

nghiệm mô hình sản xuất kinh doanh du lịch tại Trung tâm thương mại Hoàng

Gia Thái Nguyên; Công Ty TNHH Đầu tư Thái Nguyên; đi Hồng Kông

Trung Quốc và 03 tỉnh Tây Nguyên. Chuyến đi được các doanh nghiệp đánh

giá rất cao. Đặc biệt, Hội đã phối hợp với khu du lịch FLAMIGO Đại Lải tổ

chức đưa đoàn hơn 30 doanh nghiệp, tham quan và ký kết hợp tác kinh doanh

tại khu du lịch Đại Lải.

39

Kỷ niệm ngày thành lập thành phố Thái Nguyên 19/10, các thành viên

Hội doanh nghiệp thành phố đã có 6 công trình được gắn biển “ Hội Doanh

nghiệp kỷ niệm 55 năm thành lập thành phố” và đóng góp cho lễ kỷ niệm hơn

10 tỷ đồng.

Hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước của UBND thành phố phát động.

Hội doanh nghiệp thành phố đã có 21 doanh nghiệp được khen thưởng. Và 02

doanh nghiệp được nhận cờ của Tỉnh, 01 doanh nghiệp được nhận cờ Chính phủ.

01 doanh nghiệp đã được huy chương bạc quốc tế sản phẩm chè Tại Mỹ. 01

doanh nghiệp được giải thưởng quốc gia “Doanh nghiệp vì người lao động”.

Thực hiện tốt phong trào nông thôn mới đầu năm vừa qua đã có 03

doanh nghiệp hội viên của Hội được UBND Tỉnh tặng bằng khen “ Đã có

đóng góp cho chương trình nông thôn mới năm 2016”

Hội doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên ngoài mục đích đoàn kết hội

viên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, hỗ trợ nhau hoạt động

góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Thì trong những năm qua,

hội rất quan tâm đến công tác xã hội như: Trong các dịp tết nguyên đán Hội

đã vận động, chỉ đạo các chi hội tặng quà cho các đối tượng chính sách, người

nghèo được 2.250 xuất mỗi xuất trị giá 300 nghìn đồng. Tổng trị giá là 675

triệu đồng; Tổ chức tặng quà tri ân các anh hùng liệt sĩ và thân nhân các anh

hùng liệt sỹ: Có 5 doanh nghiệp hội viên tặng quà cho các mẹ và thân nhân

các anh hùng liệt sĩ được 12,5 triệu đồng; thăm trực tiếp và tặng quà mẹ

Nguyễn Thị Tý mẹ Việt Nam anh hùng, tại xã Phúc Xuân.

Một số doanh nghiệp đã tài trợ cho các Hội có hội viên nghèo, khó

khăn, cô đơn không nơi nương tựa cần giúp đỡ như tham gia ủng hộ “ Qũy vì

hạnh phúc người Mù” và quỹ ủng hộ” Chữ thập đỏ thành phố”, hội TNXP

thành phố, hội Khuyến học, hội Khuyết tật… Xây nhà tình nghĩa làm từ thiện,

ủng hộ quỹ trái tim cho em khoảng trên 400 triệu đồng.

Để tưởng nhớ đến các đồng chí thanh niên xung phong đội 915 đã hy

sinh, Hội viên hội Doanh nghiệp đã tài trợ được hơn 30 tỷ để xây dựng tu tạo

lại khu tưởng niệm Thanh niên xung phong 915 tại Gia Sàng.

40

Từ những hoạt động thực tế trên cho thấy, từ năm 2010 - 2016 hội

Doanh nghiệp thành phố đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển

chung của thành phố đặc biệt là về kinh tế. Phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ

tiêu đề ra cũng như tham mưu cho lãnh đạo Chính quyền thành phố tháo gỡ

kịp thời những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải.

2.2.2. Hội Làm vườn

Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội - nghề nghiệp

mang tính chất kỹ thuật của quần chúng hoạt động tự nguyện, đoàn kết, hợp

tác giúp nhau làm nòng cốt phát triển kinh tế VAC (vườn, ao, chuồng) nhằm

đảm bảo dinh dưỡng cho gia đình, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, nâng

cao đời sống, tiến lên làm giàu từ sản xuất hàng hoá, góp phần xây dựng nền

nông nghiệp phát triển bền vững, cải thiện bảo vệ môi trường, tài nguyên đất

nước, xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên được thành lập ngày 20/11/1990 theo

quyết định của UBND thành phố Thái Nguyên.

Hội có các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, Hội tuyên truyền, giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng,

chính sách, luật pháp của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế VAC, kinh

tế gia đình, kinh tế trang trại, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền

vững. Vận động phong trào phát triển kinh tế theo mô hình VAC.

Thứ hai, Hội kiến nghị, góp ý với Đảng ủy và UBND về những chủ

trương, chính sách, biện pháp khuyến khích kinh tế VAC phát triển; Xây

dựng và phát triển Hội ngày càng vững mạnh.

Thứ ba, Hội động viên tinh thần nhiệt tình, khả năng lao động sáng tạo

của các hội viên, đoàn kết, hợp tác giúp nhau phát triển kinh tế VAC trên cơ

sở trao đổi kinh nghiệm, phổ biến, ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật

nhằm tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế các loại cây trồng, vật

nuôi. Tạo điều kiện để hội viên giúp nhau về vốn, lao động và cơ sở vật chất

41

kỹ thuật, xây dựng và phát triển nghề làm vườn vững mạnh, đáp ứng ngày

càng cao nhu cầu của thị trường;

Thứ tư, tuyên truyền, huấn luyện, tham gia đào tạo nghề, phổ biến kinh

nghiệm, chuyển giao công nghệ kỹ thuật làm kinh tế VAC. Cung cấp các dịch

vụ về khoa học kỹ thuật, cây, con giống, vật tư, công cụ, chế biến và tiêu thụ sản

phẩm. Xuất bản tài liệu huấn luyện, phổ biến kỹ thuật và quản lý kinh tế VAC;

Phổ biến, tuyên truyền, huấn luyện cho các hội viên và nông dân thực hành, sản

xuất ra các sản phẩm nông nghiệp sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn lương thực,

thực phẩm theo tiêu chuẩn ViêtGAP (thực hành nông nghiệp sạch thế giới).

Với quyền hạn và nhiệm vụ của hội như vậy, trong những năm qua Hội

đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của Hội Làm vườn tỉnh nói chung và

của thành phố nói riêng. Hội đã làm tốt công tác tuyên truyền các chủ trương,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của địa phương về phát triển

kinh tế, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo và tăng cường vai trò hoạt

động của tổ chức Hội làm vườn.

Về công tác phát triển sản xuất và chuyển giao khoa học kỹ thuật. Phát

triển kinh tế theo hướng VAC và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho

hội viên đã được cấp Hội làm vườn tổ chức, thực hiện.

Công tác phát triển sản xuất và chuyển giao khoa học kỹ thuật diễn ra

rông khắp ở 9 huyện, thành, thị Hội. Hội đã triển khai lớp tập huấn sản xuất

bưởi an toàn theo quy trình VietGAP, tại xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai cho 40

hội viên tham gia. Hội đã mở được 465 buổi tập huấn chuyển giao khoa học

kỹ thuật cho hội viên tham gia, nội dung chủ yếu là kỹ thuật sản xuất chè an

toàn, kỹ thuật chăm sóc lúa, kỹ thuật chăn nuôi gia súc gia cầm an toàn.

Một trong những vùng trồng chè lớn và nổi tiếng đó là vùng trồng chè

Tân Cương bằng việc xây dựng được thương hiệu về cây chè, hướng tới một

nền nông nghiệp sạch theo tiêu chuẩn VietGAP cho đến nay đã có những bứt

phá ngoạn mục. Các sản phẩm chè của Tân Cương không chỉ chiếm lĩnh thị

42

trường trong nước mà còn vươn ra thế giới. Đời sống của người dân được ấm

no. Tiêu biểu là Hợp tác xã chè Tân Hương của bà Đỗ Thị Hiệp là một điển

hình tiêu biểu. Với hơn 40 hội viên, diện tích 22 ha chè theo tiêu chuẩn UTZ

(chương trình và nhãn cho canh tác bền vững). Chè sạch Tân Hương là một

trong 69 địa chỉ được xác nhận là “Địa chỉ Xanh- Nông sản Sạch”. Chè Tân

Hương đã xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới tại các thị trường khó tính

như Nhật Bản, Hà Lan, Canada.

Thông qua các chương trình dự án, mô hình, hợp tác xã chuyển giao,

ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, Hội đã khơi dậy được tiềm năng,

thế mạnh trong nông nghiệp ở Tân Cương từ đó hình thành những hợp tác xã

với chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

Cùng với đó, Hội cũng rất quan tâm tới việc cải tạo phát triển vườn tạp

nhằm đưa kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại phát triển thành trang trại sản

xuất mang tính hàng hóa nên công tác dịch vụ phát triển Hội đã tiến hành

cung cấp: Các loại cây ăn quả giống mới, đem lại hiệu quả và có giá trị kinh

tế cao như: Chuối tây Thái Lan, hồng xiêm, chanh tứ quý, sấu ghép, bưởi

diễn, xoài tím…Tìm đầu ra và bao tiêu sản phẩm cho các Hội viên nông dân

như mật ong, sữa ong chúa, phấn hoa.

Được sự hướng dẫn của Hội Làm vườn và Hội nông dân Thành phố về

phương pháp, khoa học kỹ thuật, đã có ba mô hình sản xuất kinh doanh giỏi,

tiêu biểu: Trồng rau an toàn của gia đình anh Phan Thanh Lưu thuộc chi hội

Tổ 13, phường Quang Vinh mỗi năm cho thu nhập 300 triệu đồng; Mô hình

nuôi gà siêu trứng và mô hình nuôi ong lấy mật của gia đình anh Trần Văn

Nam ở xóm Núi Hột xã Linh Sơn mỗi năm cho thu nhập 700 triệu đồng. Đây

là hai trong số rất nhiều mô hình sản xuất tiêu biểu của hội.

Các cấp hội phối hợp với Hội nông dân cung ứng 186 tấn phân bón các

loại theo phương thức trả chậm cho hội viên, điển hình như Hội Làm vườn

Huyện Đồng Hỷ.

43

Ngoài ra, Hội luôn coi trọng và làm tốt công tác phong trào như hưởng

ứng Tết trồng cây theo gương bác Hồ, công tác đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ quỹ

Vì người nghèo, quỹ nạn nhân chất độc da cam, quỹ khuyến học…. giúp đỡ

các gia đình có hoàn cảnh khó khăn về giống, vốn, về khoa học kỹ thật trị giá

230 triệu đồng; Chủ động xây dựng các mô hình điểm, đem lại hiệu quả kinh

tế cao, được các hội viên trong và ngoài tỉnh đến tham quan, học tập kinh

nghiệm và nhân rộng.

Công tác dạy nghề cho lao động nông thôn cũng được Hội chú trọng.

Hàng năm, Trung tâm dạy nghề VAC mở các lớp dạy nghề trung cấp, sơ cấp

cho lao động nông thôn và tạo việc làm cho hội viên. Phong trào xây dựng mô

hình vườn, ao chuồng tình nghĩa, tương thân tương ái, tết trồng cây và ủng hộ

người nghèo được các cấp Hội thực hiện có hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp

phát triển kinh tế chung của thành phố.

2.2.3. Hội Sinh vật cảnh

Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhất là vào thời kì công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước. Đi đôi với phát triển kinh tế là việc giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc

sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần. Việc phát triển Hội Sinh vật cảnh

thành phố Thái Nguyên nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.

Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên là tổ chức quần chúng tập

hợp những người yêu thích Sinh vật cảnh, người sản xuất, kinh doanh, làm

dịch vụ Sinh vật cảnh, nghệ nhân hoạt động cho sự bảo vệ và phát triển của

Sinh vật cảnh trên địa bàn thành phố.

Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên được thành lập theo Quyết

định số 1897 ngày 27/6/1995 của UBND thành phố Thái Nguyên. Hội hoạt

động trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển của sinh vật cảnh trên phạm vi thành

phố Thái Nguyên. Hội chịu sự quản lí nhà nước của Ủy ban Nhân dân thành

phố Thái Nguyên liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Hội theo quy định của

pháp luật.

44

Nhiệm vụ của Hội Sinh vật cảnh là tuyên truyền, giáo dục quan điểm,

đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đối với việc bảo

vệ và phát triển sinh vật cảnh; vận động hội viên và nhân dân tham gia tích

cực thực hiện nhiệm vụ này trên địa bàn thành phố.

Phát triển và xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, động viên nhiệt tình và

khả năng lao động sáng tạo của hội viên, đoàn kết, giúp đỡ nhau, trao đổi kinh

nghiệm, phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ mĩ thuật nhằm

phát triển ngày càng phong phú và đa dạng với chất lượng cao các sản phẩm

Sinh vật cảnh mang lại đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, lợi ích kinh tế -

xã hội thiết thực cho hội viên.

Tổ chức các dịch vụ khoa học kĩ thuật, mĩ thuật và các cơ sở sản xuất -

kinh doanh dịch vụ cho hoạt động sinh vật cảnh theo đúng quy định của pháp

luật. Hội thành lập nhiều câu lạc bộ như: Câu lạc bộ Hoa lan Gió ngàn, Câu

lạc bộ gà Tân Châu 68 Thái Nguyên…

Triển lãm sinh vật cảnh là một trong chuỗi các hoạt động chào mừng

Festival Trà Thái Nguyên - Việt Nam lần thứ ba. Đây cũng là dịp để các nhà

vườn, câu lạc bộ, hội sinh vật cảnh trong và ngoài tỉnh trưng bày những sản

phẩm đẹp nhất, giao lưu, học hỏi và giới thiệu sản phẩm. Triển lãm thu hút sự

tham gia của hơn 50 đơn vị trong và ngoài tỉnh với khoảng 9.500 tác phẩm,

gồm cây cảnh nghệ thuật, cây cảnh tự nhiên, gỗ lũa, đá, lan, chim, thú, đá

cảnh, hoa cảnh, đồ gỗ mỹ nghệ … được trưng bày tại các tuyến đường Đội

Cấn, Nguyễn Du và Nha Trang, thành phố Thái Nguyên. Có hơn 300 tác

phẩm sinh vật cảnh nghệ thuật đặc sắc đã được Ban tổ chức lựa chọn để trưng

bày trên dải phân cách đường Đội Cấn.

Ngày 25/12/2013, xóm Gò Móc, xã Quyết Thắng (thành phố Thái

Nguyên) đã tổ chức đón Bằng công nhận Làng nghề sinh vật cảnh. Đây là địa

phương đầu tiên được đón nhận danh hiệu Làng nghề sinh vật cảnh. Các sản

phẩm sinh vật cảnh chính của xóm gồm: cây cảnh nghệ thuật, cây hoa, cây

45

bóng mát, chim cảnh, đá cảnh…Việc trồng và kinh doanh sinh vật cảnh đã

mang lại mức thu nhập cao cho nhiều hộ dân. Năm 2012, doanh thu từ nghề

sinh vật cảnh của xóm Gò Móc đạt trên 6 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho

hàng trăm lao động với thu nhập bình quân 3 triệu đồng/người/tháng.

Hiện nay, thành phố có trên 220.000 m2 trồng và trưng bày sinh vật

cảnh, thu hút hơn 800 lao động tham gia; trong đó có 17 doanh nghiệp và cơ

sở sản xuất kinh doanh sinh vật cảnh, tạo việc làm ổn định cho 320 lao động

với mức thu nhập từ 2,5 đến 12 triệu đồng/người/ tháng; tổng thu từ sinh vật

cảnh của toàn Hội trong 5 năm qua đạt hơn 38 tỉ đồng.

Hội phối hợp chặt chẽ cùng các cơ quan, ban, ngành chức năng, gắn

hoạt động của Hội với các phong trào thi đua tại địa phương; phấn đấu phát

triển mới từ 400 hội viên trở lên; thành lập mới 3 cơ sở hội; tổ chức tốt các

hội thi, trưng bày Sinh vật cảnh của Thành phố, của tỉnh; phấn đấu có 30 cán

bộ, hội viên trở lên được phong tặng danh hiệu nghệ nhân các cấp; 50 cán bộ,

hội viên trở lên được phong tặng danh hiệu bàn tay Vàng.

Có thể nhận thấy, hoạt động phong trào của Hội Sinh vật cảnh thành

phố Thái Nguyên đã và đang tạo sức hấp dẫn đến nhiều đối tượng trong xã

hội và có sức lan tỏa nhanh. Hội góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập

và gắn kết tôn vinh những giá trị văn hóa tinh thần trong cộng đồng xã hội,

góp phần phát triển nền kinh tế chung của thành phố, quảng bá hình ảnh đẹp

của đất nước đến bạn bè quốc tế.

2.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong lĩnh vực lĩnh vực văn hóa -

giáo dục

2.3.1. Hội Văn học - nghệ thuật

Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên được thành lập theo

Quyết định số: 950/QĐ-UBND ngày 28/5/2007 của UBND tỉnh Thái Nguyên.

Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội nghề

nghiệp sáng tạo nằm trong đội ngũ công tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước, tập

46

hợp những người sáng tác văn học, nghệ thuật tự nguyện góp phần xây dựng

đời sống văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc của nhân dân thành

phố Thái Nguyên.

Hội Văn học nghệ thuật thành phố là cái nôi bồi dưỡng các tác giả văn

thơ trẻ họ đã sáng tác nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, những tác

phẩm nghiên cứu, phê bình văn học nghệ thuật phản ánh cuộc sống xã hội của

địa phương. Phục vụ các nhiệm vụ chính trị của thành phố Thái Nguyên.

Nghị quyết số 23 của Bộ chính trị (Khóa X) đã đề ra chủ trương xây

dựng nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam tiên tiến, đậm đà bẳn sắc văn hóa dân

tộc; xây dựng nhân cách con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, hội nhập

quốc tế, xây dựng bảo vệ tổ quốc, trong nhiều năm qua, Hội văn học nghệ

thuật thành phố đã xây dựng triển khai nhiều chương trình hành động, phối

hợp tổ chức nhiều sự kiện văn hóa lớn trên địa bàn thành phố.

Sau tết âm lịch truyền thống, vào ngày rằm tháng giêng hàng năm Hội

tham gia phối hợp với các đơn vị như Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt

Nam, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, cùng các đơn vị hoạt động trên lĩnh vực

văn hóa trên địa bàn duy trì tổ chức Lễ hội thơ Nguyên Tiêu. Lễ Hội thơ đã

trở thành một nét đẹp văn hóa với quy mô lớn cùng với nhiều cơ quan ban

ngành tham gia. Hội đã cùng với Bảo tàng phối hợp tổ chức nhiều sự kiện văn

hóa khác, đưa các chương trình nghệ thuật được dàn dựng công phu, đa dạng,

nhiều mầu sắc, được trình diễn vào không gian sân khấu ngoài trời của Bảo

tàng, trước đông đảo quần chúng nhân dân, nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn

của đất nước, những sự kiện quan trọng của tỉnh và thành phố trong năm.

Đặc biệt, ngày 18 tháng 10 năm 2009, tại Quảng trường 20/8 thành phố

Thái Nguyên (nay là Quảng trường Võ Nguyên Giáp). Hội đã tổ chức thành

công chương trình Đêm nhạc hát về Thái Nguyên, tôn vinh những giá trị tinh

thần, những sản phẩm sáng tạo của các nhạc sĩ là người Thái Nguyên viết về

Thái Nguyên nhân dịp chào mừng thành phố Thái Nguyên 47 năm tuổi.

47

Năm 2010, Hội tổ chức thành công cuộc triển lãm tranh và ảnh nghệ

thuật của hơn 60 tác giả, là họa sĩ, nghệ sĩ Thái Nguyên. Bên cạnh đó, còn có

sự tham gia của các hội viên Câu lạc bộ mĩ thuật thủ đô Hà Nội. Cuộc triển

lãm trưng bày hơn 100 tác phẩm hội họa và nhiếp ảnh với nội dung và đề tài

phong phú, phản ánh chân thực đời sống lao động và học tập của người Thái

Nguyên trong công cuộc đổi mới của đất nước.

Năm 2015, Hội văn học nghệ thuật thành phố đã tổ chức thành công

Đại hội Hội Văn học nghệ thuật lần thứ hai, nhiệm kỳ 2015 - 2020. Sau thành

công của hội nghị, nhiều hội viên đã tham gia triển lãm toàn quốc, khu vực và

các triển lãm chuyên đề như: Chi hội Mỹ thuật đã gửi tranh tham gia triển lãm

khu vực III (Tây Bắc - Việt Bắc) đầu tháng 8/2015 tại tỉnh Sơn La.

Ngoài ra, hoạt động của chi hội Nhiếp ảnh cũng thu hút rất nhiều hội

viên tham gia như: Triển lãm ảnh nghệ thuật khu vực Việt Bắc - Tây Bắc do

Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức tại thành phố Cao Bằng vào tháng

10/2015; Triển lãm Ảnh nghệ thuật toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội Việt

Nam, tháng 12/2015 với nhiều tác phẩm tiêu biểu như ảnh: “Nụ cười ngày

Xuân”; “Ruộng bậc thang”; “Phong cảnh Núi Cốc”.

Chào mừng ngày Mỹ thuật Việt Nam, sáng ngày 20/11/2015, Hội Văn

học nghệ thuật đã tổ chức Triển lãm Mỹ thuật Thái Nguyên tại Bảo tàng Văn

hóa các dân tộc Việt Nam đã thu hút 18 hội viên tham gia và mang đến triển

lãm 22 tác phẩm: Bức tranh “Quê tôi” - Tác giả Hoàng Báu; “Sen mùa hạ” -

Tác giả Chu Hải Anh…

Hội Văn học nghệ thuật cùng với Bảo tàng tổ chức các chương trình sự

kiện văn hóa lớn như: Tổ chức 5 năm bảo tồn, phát huy vốn di sản văn hóa

Việt Nam và hội nhập quốc tế; Tham gia lễ hội văn hóa trà và văn hóa

ASEAN; Tham gia tổ chức các hoạt động của Festival Trà Thái Nguyên -

Việt Nam; Trưng bày triển lãm ảnh nghệ thuật “ Thái Nguyên - Xứ Trà”. Tại

cuộc triển lãm này đã chọn được 235 tác phẩm của 20 tác giả với 100 tác

48

phẩm được trưng bầy với nội dung và đề tài vô cùng phong phú, phản ánh

chân thực đời sống lao động của người Thái Nguyên trong công cuộc hội

nhập và đổi mới đất nước.

Ngoài ra, Hội cũng thường xuyên tổ chức cho các hội viên đi thực tế

sáng tác tại các tỉnh phía Bắc để lấy tư liệu làm cơ sở cho các tác phẩm ra đời

như: Văn, thơ, nhạc, họa; Tham gia các kỳ triển lãm toàn quốc như triển lãm

tại Lạng Sơn (8/2012) của 19 hội viên với 35 tác phẩm; Triển lãm tại lễ hội

Lồng tồng - Định Hóa, tham dự trại sáng tác của hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt

Nam tại Sơn La, Lai Châu…

Để chào mừng 55 năm ngày thành lập thành phố Thái Nguyên, hội đã

tổ chức một chương trình triển lãm mỹ thuật, ảnh nghệ thuật và ra mắt giới

thiệu tập thơ của tác giả La Giang.

Trong quá trình hoạt động của hội, kể từ khi thành lập cho đến nay, Hội

luôn nhận được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền thành phố.

Hàng năm, Hội nhận được cấp 60.000.000 đ từ nguồn ngân sách của thành phố.

Phát huy những thành tích đã đạt được, trong những năm tới Hội Văn

học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh

hoạt động văn học nghệ thuật hướng tới mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

2.3.2. Hội khuyến học

Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên được thành lập theo Quyết

định số 131/QĐ - UB ngày 29/01/2002 của Chủ tịch UBND thành phố Thái

Nguyên. Hiện nay, Hội có 70.898 hội viên tham gia. Chủ tịch của hội là ông

Nguyễn Đức Tiến. Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên là tổ chức xã hội,

tập hợp các lực lượng xã hội và công dân Việt Nam trên địa bàn thành phố

tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, khuyến học, khuyến tài, góp phần xây dựng

xã hội học tập nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phục vụ sự nghiệp

phát triển kinh tế, xã hội của thành phố Thái Nguyên.

49

Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên luôn đẩy mạnh tuyên truyền sâu

rộng tôn chỉ mục đích hoạt động của Hội trong xã hội, vận động các tổ chức, các

lực lượng xã hội và công dân Việt Nam tham gia thực hiện công tác khuyến học,

khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ

đối nội, đối ngoại có liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

Hội; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Hội và hội viên theo đúng tôn chỉ, mục

đích của Hội; Nâng cao năng lực hoạt động khuyến học, khuyến tài.

Hội cũng có hoạt đông tư vấn, phản biện, và giám định xã hội đối với

các chủ trương, chương trình, dự án giáo dục và các văn bản quy phạm pháp

luật có nội dung liên quan đến Hội theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước.

Trong quá trình hoạt động, Hội được phép nhận các nguồn tài trợ hợp

pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp

luật và được gây quỹ trên cơ sở hội phí của hội viên.

Nhiệm vụ chủ yếu của Hội Khuyến học là liên kết, phối hợp với các tổ

chức, các lực lượng xã hội, các cơ sở giáo dục triển khai các hoạt động

khuyến học, khuyến tài theo tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục

và đào tạo trên phạm vi thành phố; Hỗ trợ học bổng cho học sinh nghèo, phần

thưởng cho học sinh giỏi có thành tích cao trong học tập và tu dưỡng.

Từ khi thành lập cho đến nay, Hội Khuyến học thành phố với phương

châm thúc đẩy tinh thần hiếu học của toàn thể nhân dân. Hội tổ chức tuyên

truyền các chỉ thị, quyết định về đề án đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời,

đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng “Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu

học”, “Cộng đồng khuyến học”.

Trong những năm qua, hội đã tham gia tích cực vào công tác tuyên

truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

Hội đã phối hợp với Trường Chính trị của tỉnh mở các khóa bồi dưỡng nghiệp

vụ cho 60 cán bộ Hội là Chủ tịch Hội Khuyến học các xã, phường và một số

dòng họ trong 10 ngày về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập.

50

Hội đã biên soạn và ấn hành 5 loại sổ tay hướng dẫn xây dựng các mô

hình học tập gồm: Sổ tay hướng dẫn xây dựng các Cộng đồng học tập ở tổ

dân phố; Sổ tay hướng dẫn xây dựng đơn vị học tập ở các nhà trường; Sổ tay

hướng dẫn xây dựng đơn vị học tập tại các cơ quan; Sổ tay hướng dẫn xây

dựng đơn vị học tập ở các dòng họ; Sổ tay hướng dẫn xây dựng đơn vị học

tập ở các trường Cao Đẳng, Đại học.

Năm 2013, Hội thực hiện công văn số 559/UBND ngày 04/4/2013 về việc

thực hiện chương trình khuyến học. Ngày 16/8/2013 tại Hội trường phòng

GD&ĐT thành phố, Hội khuyến học thành phố tổ chức chương trình “Thắp

sáng niềm tin, tiếp sức em đến trường” nhằm trợ giúp những học sinh có hoàn

cảnh khó khăn, tạo điều kiện cho các em phấn đấu vươn lên trong học tập.

Qua chương trình “Thắp sáng niềm tin, tiếp sức em đến trường” các tổ

chức xã hội, các doanh nghiệp, các nhà hảo tâm đã có những phần thưởng

động viên các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn có thành tích vươn lên

trong học tập.

Năm 2014, Hội tiếp tục triển khai thực hiện đề án “Đẩy mạnh phong

trào học tập suốt đời trong gia đình dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”; Vận

động các lực lượng xã hội tiến hành Chương trình “Thắp sáng niềm tin tiếp

sức tới trường vì em hiếu học”. Thành hội đã làm tờ trình và được UBND

thành phố đồng ý giao cho Hội khuyến học thành phố chủ trì phối hợp với các

ban, ngành, đoàn thể và các địa phương tổ chức tốt Chương trình nhằm hỗ trợ

các em học sinh gia đình nghèo đang gặp nhiều khó khăn và có nguy cơ phải

bỏ học.

Để hỗ trợ các em học sinh nghèo vươn lên trong học tập, Hội Khuyến

học cùng với phòng GD&ĐT thành phố Thái Nguyên đã vận động các lực

lượng xã hội cùng phối hợp, chung tay tặng học bổng, đồ dùng giúp đỡ các

em có điều kiện tiếp tục đến trường học tập cụ thể: Phòng Lao động - Thương

binh Xã hội thành phố trích quỹ “Bảo trợ trẻ em” ủng hộ 80 triệu bằng 160

51

xuất học bổng; Hội Chữ Thập đỏ Thành phố ủng hộ 26 triệu; Công ty Điện tử

Dũng Thành ủng hộ 20 chiếc xe đạp với tổng giá trị hơn 20 triệu đồng; Công

ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG ủng hộ: 5 triệu đồng; Hội doanh nghiệp

thành phố và Công ty Quảng cáo sự kiện Việt Bắc đã vận động ủng hộ 5 triệu

đồng; Công Ty Bảo Việt Thái Nguyên ủng hộ 2,5 triệu đồng [48;tr.3].

Tại Đại hội lần thứ 3, nhiệm kỳ 2014 - 2019, Hội Khuyến học thành

phố khẳng định trong nhiệm kỳ vừa qua, Hội đã có sự phát triển mạnh mẽ,

sâu rộng: 100% các phường, xã thành lập được Hội Khuyến học với trên 70

nghìn hội viên; Phong trào xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học,

cụm dân cư khuyến học đã phát triển rộng khắp, thu hút đông đảo các tầng

lớp nhân dân tham gia; Trong 5 năm qua, Hội đã huy động được gần 10 tỷ

đồng xây dựng Quỹ Khuyến học, tăng gấp 2 lần so với nhiệm kỳ trước; Các

cấp Hội đã trao trên 5.200 suất học bổng với số tiền 1,6 tỷ đồng cho học sinh

nghèo hiếu học; khen thưởng trên 76.200 lượt học sinh giỏi với số tiền 8 tỷ

đồng; khen thưởng cho trên 7 nghìn lượt thầy cô giáo dạy giỏi với số tiền hơn

1 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các Trung tâm học tập cộng đồng cũng đã mở được

trên 1 nghìn lớp tập huấn chuyên đề với trên 68 nghìn lượt người tham gia.

Năm 2014, Hội khuyến học thành phố có trên 39 nghìn gia đình đạt danh hiệu

gia đình hiếu học, tăng 1,5 lần so với nhiệm kỳ trước.

Cũng trong năm 2014, Hội khuyến học Thành phố Thái Nguyên tổ

chức hội nghị cán bộ chủ chốt Hội khuyến học cơ sở trong toàn Thành phố

nhằm xây dựng, củng cố và phát triển hội ở 28/28 phường, xã; Hội triển

khai thực hiện quyết định 281/QĐ-TTG của Thủ Tướng Chính phủ, quyết

định 1139/QĐ của UBND về “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong

gia đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”; Lập hồ sơ đề nghị cấp học

bổng “Thắp sáng niềm tin” của Hội Khoa học Việt Nam cho những học

sinh nghèo trúng tuyển đại học, cao đẳng năm 2014; Thực hiện tốt tháng 9

khuyến học.

52

Năm 2015, Hội Khuyến học đã tổ chức trao tặng kỷ niệm chương “Vì

sự nghiệp Khuyến học” của trung ương Hội Khuyến học Việt Nam cho 14

đồng chí có nhiều cống hiến cho công tác khuyến học liên tục trong 5 năm, đã

trao tặng giấy khen cho 20 tập thể và 23 cán bộ Hội Khuyến học thành phố có

thành tích xuất sắc trong năm 2015; Trao quà cho 70 giáo viên đạt thành tích

giáo viên giỏi cấp tỉnh, trao học bổng cho 256 em học sinh nghèo vượt khó

tổng trị giá 138.000.000 đồng nhằm khuyến khích, động viên tinh thần hiếu

học trong toàn thể các em học sinh.

Năm 2016, Hội Khuyến học thành phố tổ chức Lễ kỷ niệm 15 năm

ngày thành lập Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên và biểu dương gia

đình hiếu học, dòng họ hiếu học, cộng đồng khuyến học, cán bộ khuyến học

xuất sắc tiêu biểu (2013 - 2016).

Trong suốt 15 năm qua, phong trào khuyến học, khuyến tài của thành

phố Thái Nguyên đã phát triển mạnh mẽ mang lại hiệu quả thiết thực, tạo

thành phong trào thi đua sâu rộng trong nhân dân. Hiện nay, thành phố có 27

Hội khuyến học cơ sở; 100% tổ dân phố/xóm có chi hội Khuyến học, 128 ban

Khuyến học và 38 dòng họ với trên 69.000 hội viên tham gia sinh hoạt; có 27

Trung tâm học tập cộng đồng. Phong trào xây dựng gia đình hiếu học, dòng

họ hiếu học, cộng đồng khuyến học phát triển với trên 40.000 gia đình, 22

dòng họ và 479 cộng đồng khuyến học. Hội đã huy động được trên 10 tỷ đồng

vào Quỹ hoạt động để trao hàng trăm suất học bổng cho học sinh nghèo; khen

thưởng hàng trăm giáo viên, học sinh giỏi có thành tích xuất sắc trong công

tác dạy và học. Với thành tích xuất sắc trong 15 năm hoạt động, Hội đã được

các cấp, ngành trao tặng gần 240 bằng khen, giấy khen và kỷ niệm chương vì

công tác xây dựng xã hội học tập.

Thực hiện Quyết định số 281/QĐ-TTg ngày 20/2/2014 của Thủ tướng

Chính phủ phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia

đình, dòng họ, cộng đồng đến năm 2020”, Hội Khuyến học phối hợp với

53

UBND thành phố Thái Nguyên đã: Xây dựng và thí điểm các mô hình “Gia

đình học tập”, “Dòng họ học tập”, “Cộng đồng học tập” và “Đơn vị học tập”

trong toàn thành phố; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về xã hội học tập, mô

hình học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và cộng đồng; phát động phong

trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ và cộng đồng; duy trì, củng cố

và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng,

góp phần đẩy mạnh phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng

đồng trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.

Mục tiêu phấn đấu của Hội đến năm 2020: 100% cán bộ, hội viên của

Hội Khuyến học được tập huấn nâng cao nhận thức về xã hội học tập và các

mô hình học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng; 70% gia đình

được công nhận Danh hiệu “Gia đình học tập”; 50% dòng họ được công nhận

danh hiệu “Dòng họ học tập”; 60% cộng đồng (thôn, làng, tổ dân phố và

tương đương) đạt danh hiệu “Cộng đồng học tập”; 50% các tổ chức, cơ quan,

trường học, đơn vị, doanh nghiệp đạt danh hiệu “Đơn vị học tập”.

2.3.3. Hội Luật gia

Hội Luật gia Thành phố Thái Nguyên là tổ chức Chính trị - xã hội - nghề

nghiệp đặc thù, đoàn kết, tập hợp rộng rãi các luật gia đã và đang làm công tác

pháp luật trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội -

nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức văn hóa, tổ chức giáo dục,

đơn vị vũ trang nhân dân, công an nhân dân trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên.

Hội Luật gia Thành phố Thái Nguyên được thành lập theo Quyết định

Số 946/QĐ-UBND ngày 28/10/1999 của UBND thành phố Thái Nguyên. Là

thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật, Ủy ban Mặt trận Tổ

quốc Thành phố Thái Nguyên; có mối quan hệ phối hợp với các Sở, Ban,

ngành, đoàn thể, cấp ủy và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, quan hệ hợp

tác với các tổ chức kinh tế, xã hội, nghề nghiệp, các tổ chức phi Chính phủ

phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Hội và pháp luật Việt Nam.

54

Hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, dân chủ,

bình đẳng, công khai minh bạch, tự đảm bảo kinh phí hoạt động từ nguồn hỗ

trợ của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác, không vì mục đích lợi

nhuận, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Hội được cấp có thẩm quyền

phê duyệt.

Hội có nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, Hội đóng góp ý kiến vào các dự án luật, các văn bản qui

phạm pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tham gia các Hội đồng tư vấn

giải quyết khiếu nại của UBND.

Thứ hai, Hội tham gia một số hoạt động quản lý nhà nước theo quy

định của pháp luật như: tuyên truyền phổ biến pháp luật, trợ giúp pháp lý,

phản biện và giám định xã hội theo đề nghị của các cơ quan nhà nước.

Thứ ba, Hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên, giải quyết

khiếu nại, tố cáo theo qui định của pháp luật và Điều lệ Hội.

Hội Luật gia thành phố từ khi thành lập cho đến nay luôn quan tâm tới

công tác phát triển tổ chức hội và công tác xây dựng pháp 1uật. Căn cứ

Chương trình công tác của HĐND, UBND thành phố Thái Nguyên và của

Hội Luật gia tỉnh, Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên đã xây dựng chương

trình hoạt động cụ thể để các cấp Hội Luật gia tại địa phương tổ chức triển

khai thực hiện. Hội Luật gia thành phố đã tích cực tham gia ý kiến vào việc

xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của địa phương và được xác định là

một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Hội và các Chi hội.

Chi hội Sở Tư pháp đã phối hợp với Văn phòng UBND thành phố Thái

Nguyên xây dựng chương trình ban hành văn bản Quy phạm pháp luật của

UBND thành phố Thái Nguyên và Đề án "Nâng cao chất lượng văn bản quy

phạm pháp luật thành phố Thái Nguyên”. Đề án đang được triển khai trong

giai đoạn đầu, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng ban hành

văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn thành phố trong thời gian tới.

55

Trong thời gian hoạt động, Hội đã thực hiện tốt công tác thẩm định

tham gia ý kiến vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo 100% văn

bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND trước khi ban hành. Hội đã

trực tiếp tham gia ý kiến vào 07 dự thảo luật theo yêu cầu của HĐND thành

phố như: Luật cảnh vệ; Luật quy hoạch; Xử lý tài sản công; Luật thủy lợi;

Luật thủy sản.

Ngoài ra, Hội còn tham gia công tác cải cách tư pháp giám sát thực

hiện pháp luật; giám sát, phản biện xã hội và hòa giải ở cơ sở; công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và công tác tư vấn pháp luật trên địa bàn

thành phố cũng như các chi hội viên.

Từ khi thành lập cho đến nay, các cấp hội căn cứ vào chức năng nhiệm

vụ của cơ quan, đơn vị để chủ động xây dựng kế hoạch phổ biến giáo dục

pháp luật cho phù hợp phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị của địa phương và

đáp ứng những điều mà nhân dân đang cần quan tâm. Hội tiếp tục tổ chức

triển khai có hiệu quả các văn bản của Ban Bí thư Trung ương Đảng về phổ

biến, giáo dục pháp luật như: Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003; Kết

luận số 04-KL/TW ngày 19/4/2011; Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; các

Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phổ biến giáo dục pháp luật.

Hội luôn xác định công tác tư vấn pháp luật là một nội dung quan trọng

của Hội đáp ứng yêu cầu phát triển về kinh tế - xã hội. Hội đã chỉ đạo trung

tâm tư vấn pháp luật của thành hội cộng tác chặt chẽ với Trung tâm trợ giúp

pháp lý nhà nước của tỉnh để tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho nhân dân,

nhất là các đối tượng yếu thế trong xã hội như: đối tượng HIV, phạm nhân đã

được đặc xá bằng nhiều hình thức như lưu động, tư vấn tại trụ sở, kết quả đã

có 508 vụ việc được tư vấn; Tư vấn pháp luật: 362 vụ việc; Tham gia tố tụng

134 vụ việc; Thực hiện đại diện ngoài tố tụng: 12 vụ việc; Trợ giúp pháp lý

lưu động đạt 27 điểm và đạt kết quả tốt [4;tr.5].

Đối với Công tác hoà giải, các hội viên hiện đang sinh hoạt tại các cấp

hội đều rất tích cực tham gia tư vấn pháp luật cho người dân, giúp họ hiểu vấn

56

đề và hiểu rõ quy định của pháp luật....thông qua đó hoà giải để giải quyết các

mâu thuẫn tranh chấp của người dân trong các mối quan hệ pháp luật phát

sinh, các cấp hội đã tham gia hòa giải được 21 cuộc.

Thành viên của Hội tham gia Đoàn giám sát về thực hiện công tác quản

lý nhà nước về an toàn thực phẩm và khiếu nại, tố cáo trên địa bàn thành phố.

Các tổ chức Hội đã triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ phản biện và giám

sát xã hội, đẩy mạnh công tác giám sát thi hành pháp luật và xây dựng chính

quyền các cấp. Chi hội Sở Tư pháp đã xây dựng, trình UBND thành phố Kế

hoạch về kiểm tra và theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp luật theo Nghị

định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/07/2013 của Chính phủ về theo dõi thi hành

pháp luật trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.

Hội đã cùng chính quyền địa phương giải quyết đơn thư khiếu nại

những vụ việc khiếu kiện hành chính của công dân, đóng góp nhiều ý kiến

thiết thực nhằm đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người khiếu nại, tham

mưu cho UBND các cấp giải quyết một số vấn đề bức xúc về quản lý đất đai

và xây dựng đô thị.

Như vậy, từ khi Hội Luật gia thành phố được thành lập cho đến nay

Hội luôn phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tiếp tục đổi mới phương thức

hoạt động, hướng về cơ sở, xây dựng và phát triển tổ chức Hội ngày càng

vững mạnh; xây dựng đội ngũ Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên: Giỏi về

chuyên môn nghiệp vụ, vững vàng về chính trị, tư tưởng, tận tụy với nghề, vì

dân, vì công lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong giai đoạn mới,

Hội cũng tích cực góp phần vào sự nghiệp phát huy dân chủ; xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

2.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế

2.4.1. Hội Đông y

Hội Đông y thành phố Thái Nguyên được thành lập ngày 25/10/1965.

Đây là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của những người hoạt động trong lĩnh

57

vực khám chữa bệnh bằng đông y trên cơ sở kế thừa và phát triển y học cổ

truyền của dân tộc.

Tham gia hội là những người tự nguyện đem khả năng, kiến thức và

kinh nghiệm chuyên môn của mình cống hiến cho sự nghiệp chăm sóc bảo vệ

sức khỏe nhân dân.

Hội hoạt động trong phạm vi thành phố Thái Nguyên và chịu sự quản

lý nhà nước, của UBND thành phố Thái Nguyên và các cơ quan có liên quan

đến lĩnh vực hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật.

Nhiệm vụ của hội là tạo điều kiện cho hội viên khám chữa bệnh theo

quy định của pháp luật và Điều lệ hội; Hội khuyến khích việc sưu tầm, kế

thừa các bài thuốc gia truyền theo quy định để sử dụng.

Gần 30 năm sau ngày thành lập, Hội ngày càng phát triển và đạt được

nhiều thành tựu nổi bật. Quy mô tổ chức, hoạt động của Hội không ngừng được

mở rộng. Theo điều lệ của hội Đông y trung ương ở thành phố có phân hội, ở

huyện có chi hội và ở xã có tổ để hội viên sinh hoạt. Số hội viên dần dần phát

triển, đông nhất là ở huyện Phú Bình có 54 hội viên, Đồng Hỷ có 35 hội viên, ít

nhất như Võ Nhai có 7 hội viên, và Định Hóa có 12 hội viên. Những người

được gia nhập Hội đều theo uy định của ty y tế và Mặt trận tổ quốc tỉnh, huyện,

Ủy ban hành chính thành phố hoặc Hội đông y Trung ương công nhận.

Trong quá trình hoạt động, Hội được sự giúp đỡ của ty y tế; Mặt trận và

sự quan tâm của UBND tỉnh nên việc tổ chức hội đã chặt chẽ, có nhiều triển

vọng phát triển.

Trong những năm gần đây, Hội Đông y được sự quan tâm chỉ đạo

của Thành ủy - UBND thành phố, của Trung tâm Y tế thành phố và Hội

Đông y Tỉnh Thái Nguyên nên công tác khám chữa bệnh của Hội ngày

càng được mở rộng.

Năm 2014, Hội có 68 phòng khám chữa bệnh và có nhiều cơ sở khám

chữa bệnh bằng thuốc Đông y tại trạm y tế phường xã. Theo số liệu thống kê,

năm 2014 Hội đã khám chữa bệnh cho 101.588 bệnh nhân.

58

Hội cũng đã khám chữa bệnh từ thiện cho các bệnh nhân nghèo có hoàn

cảnh khó khăn, người có công với cách mạng. Ví dụ như tại phường Phan

Đình Phùng, phường Quang Trung là 3027 bệnh nhân với số tiền trị giá

801.330.000đ; ủng hộ nhân đạo cho 1859 người với số tiền là 127.000.000đ.

Hàng năm, Hội cũng thường tổ chức hội thảo nhằm trao đổi kinh

nghiệm, nuôi cấy bảo tồn các cây thuốc quý, những bài thuốc hay có giá trị tại

các xã, phường như phường Quang Vinh, phường Tân Lập. Buổi thảo luận tại

phường Quang Vinh, Hội đã giới thiệu 14 bài thuốc, cây thuốc trong tổng số

43 bài thuốc hay như thuốc chữa Thống phong, chữa Viêm tai giữa, chữa hóc

xương… Ngoài ra, hội còn giới thiệu thêm một số cây thuốc quý như: Cây

dâu, cây trám, cây chua meo, cây bơn, cây bạc thau, cây đậu đen…đặc biệt là

phương pháp chữa bệnh bằng bấm huyệt, day ấn vùng phản xạ dưới bàn chân

của lương y Nguyễn Thị Mão đã được cấp giấy chứng nhận “Bài thuốc hay,

cây thuốc quý”.

Trong năm 2016, Hội đã phát động phong trào thi đua “ Học tập thân

thế, sự nghiệp Đại Y tôn Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác và Đại danh Y

Thiền sư Tuệ Tĩnh”. Bên cạnh đó, Hội đã tuyên truyền, triển khai thực hiện

Chỉ thị 24/CT-BBT Trung ương về xây dựng hội Đông y Việt Nam và nền

Đông y Việt Nam trong tình hình mới. Đông thời thực hiện Nghị định số

45/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và quản lý Hội, chấp hành

mọi chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ. Hội gắn Cuộc

vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

gắn liền với việc tổ chức thực hiện công tác Hội Đông y.

Hội vận động hội viên và nhân dân trồng cây thuốc quý tại vườn như:

Cây gối hạc, trinh nữ hoàng cung, thất diệp nhất tri hoa, cây khôi nhung, nấm

lim xanh, xạ đen. Tiêu biểu là mô hình trồng nấm lim xanh của hội viên Trần

Danh Tài ở xã Hóa Trung - Đồng Hỷ - Thái Nguyên. Viện Quân y đã phát

hiện nấm lim xanh có hơn 400 hoạt chất có lợi cho cơ thể con người, có thành

59

phần dược chất và vitamin cao gấp nhiều lần nấm linh chi thông thường. Tác

dụng tăng cường sức đề kháng, giảm mệt mỏi, giảm mỡ máu, điều hòa đường

huyết, vì thế trồng nấm lim xanh đem lại giá trị kinh tế cao.

Nhằm khuyến khích các hội viên phát triển, hàng năm hội cũng đã tiến

hành bình xét khen thưởng cho các Hội Đông y xã, phường và các cá nhân có

thành tích xuất sắc trong hoạt động và đóng góp nhiều bài thuốc hay, có giá

trị áp dụng thực tiễn một cách hiệu quả.

Hội Đông y thành phố từ khi thành lập cho đến nay hội luôn chấp hành

tốt chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Được sự quan

tâm của Thành ủy, UBND, UBMTTQ thành phố, đặc biệt là hỗ trợ kinh phí

hoạt động và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm

việc cho Hội Đông y nên công tác khám chữa bệnh ngày càng hiệu quả, nhân

dân tin tưởng vào khám chữa bệnh bằng đông y.

2.4.2. Hội Chữ thập đỏ

Nhân đạo, sẻ chia, tương thân, tương ái là một trong những giá trị văn

hóa, đạo lý truyền thống của con người Việt Nam, thấm sâu trong các gia

đình, dòng họ, xóm làng, cộng đồng xã hội từ thế hệ này đến thế hệ khác.

Tinh thần “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương

nhau cùng”, “thương người như thể thương thân” luôn là một sức mạnh to

lớn trong nhân dân ta. Những bản sắc tốt đẹp và nhân văn sâu sắc này được

chúng ta gìn giữ và phát huy mạnh mẽ trong thời đại ngày nay.

Hội Chữ thập đỏ thành phố Thái Nguyên được thành lập năm 1965.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành uỷ - HĐND- UBND thành phố và sự

hướng dẫn, chỉ đạo của Hội CTĐ tỉnh Thái Nguyên. Đây là tổ chức xã hội

hoạt động nhân đạo. Mục đích của Hội là nhân đạo, hòa bình, hữu nghị, góp

phần xây dựng thành phố Thái Nguyên giàu mạnh.

Hội có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn

bản pháp luật về hoạt động chữ thập đỏ, hoạt động nhân đạo và các văn bản

60

pháp luật có liên quan như phổ biến kiến thức, cung cấp thông tin, tập huấn

nghiệp vụ công tác Hội cho cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, thanh thiếu

niên Chữ thập đỏ.

Hội vận động cán bộ, hội viên, tình nguyện viên, thanh, thiếu niên Chữ

thập đỏ và các tầng lớp nhân dân tham gia hoạt động chữ thập đỏ về cứu trợ

khẩn cấp và trợ giúp nhân đạo; tham gia phòng ngừa, ứng phó thảm họa; chăm

sóc sức khỏe dựa vào cộng đồng; sơ cấp cứu ban đầu; vận động hiến máu nhân

đạo, hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác; tìm kiếm tin tức thân nhân thất

lạc do chiến tranh, thiên tai, thảm họa; tuyên truyền các giá trị nhân đạo.

Hội cũng tham gia giám sát và phản biện xã hội các vấn đề liên quan

đến hoạt động nhân đạo. Tham mưu trình Chính phủ vận động, trợ giúp

nhân dân nước khác khi thiên tai, thảm họa xảy ra, gây hậu quả nghiêm

trọng; tham gia cứu trợ quốc tế; Thực hiện các nhiệm vụ liên quan khác do

Nhà nước giao.

Hội Chữ thập đỏ thành phố từ khi thành lập cho đến nay luôn nhận

được sự quan tâm chỉ đạo của Hội Chữ thập đỏ tỉnh Thái Nguyên, Thành ủy-

HĐND- UBND- UBMTTQ thành phố Thái Nguyên và của các ban, ngành,

đoàn thể; sự ủng hộ của các Doanh nghiệp, nhà hảo tâm và đông đảo quần

chúng nhân dân. Các phong trào hoạt động nhân đạo của Hội Chữ thập đỏ đã

góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố, những đóng

góp đó đã được các cấp ủy Đảng chính quyền và nhân dân ghi nhận.

Trong quá trình hoạt động, Hội Chữ thập đỏ thành phố đã xây dựng

hoàn chỉnh hệ thống tổ chức Hội cơ sở. 100% đơn vị Hội cơ sở đã phát triển

được các chi Hội Chữ thập đỏ tổ dân phố, trường học và chi Hội Chữ thập đỏ

trong cơ quan khối dân chính Đảng, làm tốt công tác quản lý và phát triển Hội

viên, tình nguyện viên Chữ thập đỏ.

Hàng năm Hội tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Hội

cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động của các đội thanh niên Chữ thập đỏ xung

kích và phát triển các đội tình nguyện viên.

61

Hiện nay, thành phố Thái Nguyên còn 27 đơn vị Hội Chữ thập đỏ

phường, xã trực thuộc trong đó Hội Chữ thập đỏ phường là 21, xã là 8. Số Chi

hội là 532 Chi hội; Tổng số hội viên là 15.433; Tổng số Tình nguyện viên là

440; Tổng số Thanh thiếu niên Chữ thập đỏ trong và ngoài trường học là

20.536; Duy trì hoạt động hiệu quả 25 Đội, chốt, câu lạc bộ tình nguyện viên

Chữ thập đỏ [28;tr.10]

Trong những năm qua, Công tác xã hội nhân đạo được triển khai có

chiều sâu, có tính lan tỏa rộng, thu hút ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức, nhà

hảo tâm tham gia cụ thể:

Trong phong trào “Tết vì người nghèo và nạn nhân chất độc da cam”,

toàn Hội đã vận động được trên 4163 tập thể, các nhân tích cực tham gia ủng hộ

12651 xuất quà trị giá trên 3,7 tỷ đồng, hỗ trợ 11 con bò giống trị giá 143 triệu

đồng, tặng sổ tiết kiệm trị giá 73 triệu đồng, tặng gần 1000 bánh trưng trị giá 30

triệu đồng cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn và các đối tương ở

các Trung tâm như: Trung tâm Bảo trợ xã hội, Trung tâm điều dưỡng và phục

hồi chức năng thần kinh, khu điều trị phong Phú Bình…. Với tổng giá trị trên 7

tỷ đồng [27;tr.8]. Phong trào đã trở thành hoạt động hàng năm của Hội Chữ thập

đỏ, được các cấp uỷ Đảng chính quyền, nhân dân ghi nhận và đánh giá cao.

Năm 2013, Hội Chữ thập đỏ đã ủng hộ cuộc vận động xây dựng công

trình nhân đạo "Trung tâm chăm sóc nạn nhân chất độc da cam và sơ cấp cứu

của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam" tại Thị xã Sầm Sơn tỉnh Thanh Hoá 25 triệu

đồng. Xây 5 bể chứa được mỗi bể 5m3 trị giá 30 triệu đồng tại xã Phú Đô,

huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên [27;tr.4].

Những năm gần đây, Hội thực thực hiện cuộc vận động "Mỗi tổ chức, mỗi

cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo". Các thành viên của Hội đã đến với 386

địa chỉ nhân đạo. Số tiền hỗ trợ 2,5 tỷ đồng được chi cho xây nhà mới và sửa

chữa nhà đã xuống cấp (204 nhà); Hỗ trợ lương thực hàng tháng cho 96 đối

tượng. Ngoài ra, còn tặng xe đạp, xe lăn, sổ tiết kiệm, thẻ BHYT cho 86 đối

tượng người nghèo, gia đình chính sách, trẻ em mô côi, khuyết tật [44;tr.28].

62

Một trong những thành công của Hội là tham gia chỉ huy phòng chống

thiên tai và tìm kiếm cứu nạn của thành phố.

Hội đã đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người dân về

thảm hoạ, hướng dẫn kỹ năng phòng tránh và ứng phó khi có thảm họa xảy ra.

Hội thành lập các đội tình nguyện viên, thanh niên xung kích Chữ thập đỏ

như lập 02 chốt Sơ cấp cứu, cứu hộ cứu nạn trên sông tại đầu cầu Gia Bẩy, xã

Đồng Bẩm và đầu cầu treo Bến Oánh, phường Túc Duyên thành phố Thái

Nguyên. Với tinh thần trách nhiệm cao các tình nguyện viên Chữ thập đỏ tại

các chốt sơ cấp cứu đường bộ, đường sông và đội xe ôm an toàn Chữ thập đỏ

đã kịp thời sơ cấp cứu ban đầu, đưa đi cấp cứu 205 trường hợp người bị nạn,

tai nạn giao thông, đuối nước.

Để chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác sơ cấp cứu, Hội đã phối hợp

với Trung tâm Y tế, trạm y tế các xã, phường tổ chức 17 đợt khám, tư vấn, cấp

thuốc miễn phí cho trên 10 nghìn đối tượng là các mẹ Việt Nam anh hùng, cán

bộ tiền khởi nghĩa, nạn nhân chất độc da cam, thương bệnh binh, người nghèo,

người cao tuổi trên địa bàn thành phố với ngân sách trên 900 triệu đồng.

Hội cũng thường xuyên tuyên truyền vận động hiến máu tình nguyện,

tổ chức phát động, tuyên truyền, vận động hàng ngàn lượt người hưởng ứng

tham gia chiến dịch hiến máu tình nguyện như: “Lễ hội Xuân Hồng”, “Ngày

toàn dân hiến máu tình nguyện 7/4”, “Những giọt máu hồng hè”. Các chiến

dịch thu hút hàng nghìn cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các

em sinh viên các trường đại học, cao đẳng tham gia hiến máu. Thông qua các

đợt vận động, các bệnh viện đã được cung cấp đủ số máu phục vụ kịp thời

cho công tác cứu chữa bệnh. Số đơn vị máu an toàn thu được gần 2.000 đơn

vị máu, với tổng trị giá trên 273 triệu đồng. Góp phần rất lớn cho các bệnh

viện chữa bệnh cứu người [28;tr.25].

Để góp phần khơi dậy các thanh thiếu niên có lòng tương thân tương ái,

sống vị tha, hòa đồng, biết cảm thông và chia sẻ với những mảnh đời bất

hạnh, không may mắn trong cuộc sống Hội đặc biệt quan tâm đến công tác

thanh thiếu niên Chữ thập đỏ: Toàn thành phố hiện nay có 20.536 thanh thiếu

63

niên Chữ thập đỏ là lực lượng nòng cốt của công tác nhân đạo trong trường

học. Thông qua các hoạt động của Hội đã góp phần giáo dục đạo đức, học tập,

lao động của tuổi trẻ.

Tại các trường học, hoạt động quyên góp giúp bạn nghèo vượt khó;

giúp bạn đến trường; nuôi lợn nhựa tiết kiệm giúp bạn nghèo vượt khó; tặng

quà và giúp ngày công lao động cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng; chăm sóc

giúp đỡ những người già cô đơn….được triển khai trong năm học.

Vào ngày khai giảng, bế giảng năm học, các ngày lễ tết như tết thiếu

nhi 1/6, tết trung thu nhằm động viên tinh thần học tập tốt của các em học

sinh, Hội Chữ thập đỏ thành phố, Hội Chữ thập đỏ cơ sở, trường Tiểu học và

THCS phối hợp trao tặng trên 2.000 xuất quà, trị giá trên 700 triệu đồng.

Hội Chữ thập đỏ thành phố duy trì phát hành bản tin “Nhân đạo Thái

Nguyên” với số lượng phát hành 500 bản/quý nhằm chỉ đạo triển khai Nghị

quyết Đại hội Chữ thập đỏ tỉnh Thái Nguyên lần thứ VII tới các cấp hội; phản

ánh các hoạt động nhân đạo, tăng cường công tác tuyên truyền những chủ

trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến những kinh nghiệm hay,

những điển hình tiến tiến, định hướng nghiệp vụ công tác trên các lĩnh vực

công tác của Hội đến các cơ sở Hội, phục vụ công tác tuyên truyền, hướng

dẫn nghiệp vụ cho Hội chữ thập đỏ cơ sở.

Với những kết quả đạt được Hội chữ thập đỏ thành phố đã nhận được:

Bằng khen của Chủ tịch UBND thành phố Thái Nguyên và danh hiệu thi đua

“Tập thể lao động xuất sắc” năm 2014 .

Từ khi thành lập cho đến nay, công tác Hội và phong trào Chữ thập đỏ

có bước phát triển toàn diện. Hội đã khẳng định được vai trò nòng cốt, vai trò

cầu nối, vai trò điều phối trong các hoạt động nhân đạo. Tổ chức Hội được

củng cố, kiện toàn; đội ngũ cán bộ Hội được tăng cường cả về số lượng và

chất lượng. Hoạt động của Hội ngày càng có hiệu quả, thu hút được sự tham

gia của nhiều tổ chức và quần chúng nhân dân, góp phần tích cực vào thực

hiện chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, tham gia xây dựng nông

thôn mới, tham gia phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

64

Tiểu kết chương 2

Qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), đất nước ta đã đạt được những

thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội

và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nước ta đã bước đầu vượt qua khủng

hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển là nước có thu nhập trung

bình và đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập

quốc tế.

Những thành tựu đạt được đã tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục

đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát

triển của lịch sử; vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.

So với các huyện, thị khác trong tỉnh và so với các tỉnh miền núi phía

Bắc, thành phố Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi để ổn định, phát

triển kinh tế. Điều này, Đảng bộ Thành phố Thái Nguyên đã vận dụng đúng

đắn, sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp với xu thế phát triển

chung của đất nước. Các vấn đề lao động, việc làm, thu nhập của nhân dân

Thành phố ngày một ổn định. Sự nghiệp giáo dục được giữ vững và phát

triển; tiềm năng văn hoá được phát huy; hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư

xây dựng mới. Trên cơ sở đó, đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của

các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên.

Thực hiện những chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước về

phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong sự phát triển kinh

tế xã hội đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ chưa từng có về số lượng và quy

mô của các Hội. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp tham gia vào công tác

tuyên truyền, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của nhà nước về thi đua yêu nước: Hội Doanh nghiệp; Hội Người cao tuổi;

Hội Khuyến học; Hội Văn học nghệ thuật; Hội Làm vườn; Hội Luật gia; Hội

Nạn nhân chất độc da cam/Dioxin; Hội Cựu thanh niên xung phong; Hội Hữu

65

nghị Việt Nam - Lào; Hội Đông y; Hội Chữ thập đỏ; Hội Người Khuyết tật;

Hội luật gia; Hội Người mù; Câu Lạc bộ hưu trí Thái Nguyên. Các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp của thành phố Thái Nguyên luôn tuân thủ theo đúng điều lệ

đã được phê duyệt và các quy định của pháp luật. Đặc biệt, các tổ chức xã hội

- nghề nghiệp tích cực tham gia các chương trình phát triển kinh tế xã hội của

địa phương như thực hiện xóa đói giảm nghèo, xây dựng quỹ từ thiện nhân

đạo… Với những hoạt động đó của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã góp

phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng an

ninh của thành phố.

66

Chương 3

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP

Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

Thực hiện những chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước về

phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong sự phát triển kinh

tế xã hội đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ chưa từng có về số lượng và quy

mô của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Nếu như trong hơn 40 năm từ năm

1954 đến 1998 chỉ có 192 hội hoạt động trên phạm vi toàn quốc, thì đến năm

2008 đã tăng lên 320 hội. Ở các địa phương cũng có tới hàng ngàn hội hoạt

động trên các lĩnh vực khác nhau [35; tr54].

Theo báo cáo Tình hình và kết quả công tác quản lý nhà nước về hội

của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên tính tới thời điểm năm 2016 trên địa

bàn tỉnh Thái Nguyên có tổng số 1311 hội. Trong đó hội có phạm vi hoạt

động trong tỉnh là 62 hội, Hội có phạm vi hoạt động trong thành phố là 16

hội: Hội Doanh nghiệp; Hội Người cao tuổi; Hội Khuyến học; Hội Văn học

nghệ thuật; Hội Làm vườn; Hội Luật gia; Hội Nạn nhân chất độc da

cam/Dioxin; Hội Cựu thanh niên xung phong; Hội Hữu nghị Việt Nam - Lào;

Hội Đông y; Hội Chữ thập đỏ; Hội Người Khuyết tật; Hội luật gia; Hội Người

mù; Câu Lạc bộ hưu trí Thái Nguyên. Hiện nay, các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp ở thành phố Thái Nguyên ngày càng hoàn thiện về cơ cấu tổ chức và

có vai trò nổi bật trong các lĩnh vực như phát triển kinh tế như: Hội Làm

vườn; Hội Sinh vật cảnh; Hội Doanh nghiệp. Trong lĩnh vực văn hóa - giáo

dục: Hội văn học nghệ thuật; Hội Khuyến học; Hội Luật gia. Trong lĩnh vực y

tế: Hội đông y; Hội chữ thập đỏ. Nhìn chung các tổ chức xã hội - nghề nghiệp

hoạt động trong tất cả các lĩnh vực. Từ lực lượng đông đảo và đa dạng của

mình các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã bước đầu phát huy được vai trò

trong sự phát triển kinh tế đất nước.

67

3.1. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế -

xã hội ở thành phố Thái Nguyên

3.1.1. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên là cầu nối

giữa doanh nghiệp, người lao động, nhà chuyên môn với Nhà nước trong việc

tham gia xây dựng chính sách và pháp luật nhằm phát triển kinh tế

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thường được mời tham gia hoặc chủ

động tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để tập hợp ý kiến tham gia vào công

tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đối với các dự án luật quan trọng.

Chẳng hạn, khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của thành phố, Ban

soạn thảo không chỉ lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan quản lý nhà nước,

các đối tượng trực tiếp chịu sự điều chỉnh của văn bản, mà còn tổ chức lấy ý

kiến tham gia rộng rãi của Tỉnh hội, thành hội, các chi hội.

Trên cơ sở đó, các hội cũng làm tốt vai trò của mình như tham gia công

tác xây dựng pháp luật, tuyên truyền giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật. Một

số tổ chức xã hội - nghề nghiệp như: Hội luật gia; Hội doanh nghiệp thành

phố được mời tham gia làm thành viên của nhiều ban soạn thảo luật Doanh

nghiệp, luật hợp tác xã, luật lao động để tổng hợp báo cáo tình hình và đưa ra

những kiến nghị của hội với Ủy ban nhân dân thành phố và các Sở, ban

ngành hữu quan nhằm góp phần ổn định tình hình thị trường, bảo vệ lợi ích

của các hội viên.

Các tổ chức xã hội nghề nghiệp còn thực hiện giám sát văn bản quy

phạm pháp luật nhằm phát hiện những bất hợp lý để kiến nghị với cơ quan

nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, có những sửa đổi bổ sung cần thiết.

Đáng chú ý là Hội luật gia đã làm tốt công tác tư vấn pháp luật: Hội

luôn xác định công tác tư vấn pháp luật là một nội dung quan trọng hội. Hội

đã chỉ đạo trung tâm tư vấn pháp luật của hội thành phố cộng tác chặt chẽ với

trung tâm trợ giúp pháp lý của tỉnh hội để tư vấn pháp luật trợ giúp pháp lý

cho nhân dân; nhất là các đối tượng yếu thế trong xã hội, như đối tượng HIV,

68

phạm nhân đã được đặc xá bằng nhiều hình thức như lưu động, tư vấn tại trụ

sở đạt kết quả tốt.

Bên cạnh đó hội còn tham gia vào công tác hòa giải, các hội viên đang

sinh hoạt tại các cấp hội đều rất tích cực tham gia tư vấn pháp luật cho người

dân, giúp họ hiểu vấn đề và hiểu rõ quy định của pháp luật…thông qua đó hòa

giải để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp của người dân trong các mối

quan hệ pháp luật phát sinh.

3.1.2. Hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trên địa bàn thành

phố Thái Nguyên phù hợp với yêu cầu của thị trường, pháp luật của nhà

nước nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo

Các hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ mà các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp thường cung cấp cho hội viên là: cung cấp thông tin về pháp luật, thị

trường, khoa học công nghệ thông qua các thông tin điện tử, hội thảo, tọa

đàm, tờ in, báo, tạp chí; hoạt động đào tạo tư vấn, hoạt động xúc tiến thương

mại, đầu tư…

Hội làm vườn đã phát triển kinh tế theo hướng VAC và chuyển giao

tiến bộ khoa học kỹ thuật cho hội viên đã được các cấp Hội làm vườn tổ chức,

thực hiện. Hội đã triển khai ba mô hình trồng bưởi diễn, bưởi da xanh, bưởi

hoàng trạch và cam Vinh: Mô hình trồng bưởi diễn và cam Vinh của gia đình

Bà Nguyễn Thị Thoa (Xóm Làng Mới, xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ, Thái

Nguyên), mang lại hiệu quả kinh tế cao, cho thu nhập hàng trăm triệu đồng

mỗi mùa; Mô hình trồng bưởi da xanh tại huyện Võ Nhai, dưới sự giúp đỡ

của Hội làm vườn thành phố và Hội làm vườn huyện, đã triển khai trồng mới

10 ha cây bưởi Diễn trên địa bàn 2 xã Dân Tiến và Tràng Xá thuộc huyện Võ

Nhai, hiện nay toàn huyện đã có 200 ha bưởi/500 hộ tham gia trồng; Mô hình

trồng bưởi Hoàng trạch, bưởi diễn, bưởi da xanh với hơn 100ha bưởi ở các

xã: Khôi Kỳ, Phú Cường, Mỹ Yên, Ký Phú, Cát Nê và Yên Lãng cho doanh

thu mỗi năm hàng tỷ đồng.

69

Việc phát triển sản xuất và chuyển giao khoa học kỹ thuật diễn ra rộng

khắp ở 9 huyện. Hội đã triển khai lớp tập huấn sản xuất bưởi an toàn theo quy

trình VietGAP, tại xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai. Hội đã mở 465 buổi tập huấn

chuyển giao khoa học kỹ thuật cho 24425 lượt hội viên tham gia nội dung chủ

yếu là kỹ thuật sản xuất chè an toàn, kỹ thuật chăm sóc lúa, kỹ thuật chăn nuôi

gia súc gia cầm an toàn. Hội cũng cung cấp thông tin thương mại kịp thời cho

hội viên như phối hợp với các cơ quan nhà nước, các đối tác để tổ chức hội

nghị, hội thảo bàn các biện pháp hữu hiệu để kiểm soát chất lượng, tạo nguồn

nguyên liệu, tăng cường sản xuất và xuất khẩu, tổ chức hội chợ thương mại

hàng năm để giới thiệu sản phẩm. Hàng năm đều có chương trình đào tạo, tập

huấn kỹ năng nghiệp vụ hoạt động và quản lý cho các hội viên.

Theo kết quả điều tra của khối các hiệp hội ngành nông sản năm 2008, có

64% ý kiến cho rằng hội đã thực hiện khá tốt việc giúp doanh nghiệp trao đổi

thông tin, tìm hiểu thị trường và kinh nghiệm quản lý kinh doanh [35;tr.59].

Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2015, triển khai kế hoạch hoạt động

năm 2016. Hội Doanh nghiệp thành phố đã làm tốt công tác tổ chức, xây

dựng hội doanh nghiệp thành phố. Trong năm, đã có gần 100 lượt doanh

nghiệp hội viên hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm đạt doanh số hơn 100 tỷ đồng; nhiều

doanh nghiệp có mức tăng trưởng cao, nộp ngân sách Nhà nước lớn, tạo nhiều

việc làm cho người lao động, đưa vào khai thác nhiều dự án quan trọng như:

Tập đoàn An Khánh, Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG, Công ty

Cổ phần Thương mại Thái Hưng, Công ty TNHH Đầu tư Thái Nguyên…Vai

trò cầu nối giữa doanh nghiệp với chính quyền tiếp tục được Hiệp hội phát

huy, điển hình là tham mưu, đề xuất UBND thành phố phát động phong trào

thi đua “3 đồng hành, 5 hỗ trợ doanh nghiệp”, tuyên truyền nâng cao nhận

thức của cộng đồng doanh nghiệp về chỉ số cạnh tranh. Công tác nhân đạo, từ

thiện, vì an sinh xã hội được các doanh nghiệp hội viên tích cực tham gia ủng

hộ với tổng kinh phí lên tới hàng tỷ đồng.

70

3.1.3. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp bước đầu đã có hoạt động liên kết,

hợp tác giữa các hội viên để quản lý, điều tiết nhằm khắc phục những bất

cập của thị trường, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hội

viên và cả nền kinh tế

Hội làm vườn khuyến cáo các hội viên phải chủ động chăm lo phát

triển vùng chè Tân Cương và nghiêm túc thực hiện Quy chế Phối hợp trong

sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Như mô hình trồng chè gia đình anh

Trần Văn Thắng chủ cơ sở chè Tân Cương, ở xóm Hồng Thái 2, chè được

trồng và chăm bón theo quy trình VietGAP. Với khoảng 9.000 m2 đất trồng

chè, gia đình anh Thắng chủ yếu chế biến chè cao cấp như chè móc câu, chè

nõn, chè đinh, giá bán khoảng từ 500 nghìn đồng đến 2.000.000 đồng/kg chè,

gia đình lúc nào cũng có từ 15 đến 20 công nhân. Những năm gần đây, gia

đình anh chú trọng đầu tư thiết bị chế biến chè và nhà xưởng, hệ thống bơm

tưới tiêu tự động. Đến nay cơ sở của gia đình anh có đầy đủ khu nhà xưởng

chế biến chè rộng 700m2 với các thiết bị chế biến và bảo quản chè như máy

sao chè, vò chè, máy lấy hương chè, máy lạnh để bảo quản chè. Thu nhập từ

sản phẩm chè của gia đình anh ước đạt khoảng 2 tỷ đồng. Ngoài trồng và chế

biến chè, gia đình anh Thắng còn tham gia làm du lịch cộng đồng, đón khách

đến trải nghiệm, tham quan vườn chè.

Một điển hình tiêu biểu là HTX chè Tân Hương của bà Đỗ Thị Hiệp

với việc hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản

phẩm. Với hơn 40 hội viên, diện tích 22ha chè theo tiêu chuẩn UTZ(1), chè

sạch Tân Hương là một trong 69 địa chỉ được xác nhận là “Địa chỉ Xanh -

Nông sản Sạch”. Chè Tân Hương đã xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới tại

các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hà Lan, Canada. Trung bình thu nhập

các hội viên HTX đạt hơn 360 triệu/năm/ha. Nhiều gia đình có diện tích cao

trên 5ha có thu nhập cả tỷ đồng. Hội đã vận động các Công ty thương mại

thành viên hỗ trợ cho vay vốn với lãi suất hợp lý để các hội viên có điều kiện

mở rộng quy mô sản xuất, phát triển kinh tế.

71

Theo quy định của pháp luật, các ngành hàng phải đăng ký với cơ quan

quản lý nhà nước về loại hình kinh doanh, sản xuất hàng hóa. Các cơ quan liên

quan như: Sở y tế và Chi cục vệ sinh an toàn thực thẩm, bảo vệ người tiêu

dùng được giao quyền cấp giấy chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa và chứng

thực các chứng từ cần thiết khác trong kinh doanh. Ví dụ như Hội làm vườn

Tổ chức quy hoạch và hướng dẫn hội viên trồng rau sạch, an toàn theo tiêu

chuẩn ViêtGAP, nhằm bảo đảm thị trường tiêu thụ với giá hợp lý, có lợi cho

người sản xuất và kinh doanh. Đặc biệt, khách hàng truy xuất được chính xác

3.1.4. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp có vai trò thúc đẩy hợp tác quốc tế

(1) Là một chương trình phát triển bền vững cho cà phê, cacao và chè,

góp phần phát triển kinh tế đối ngoại

hợp tác cùng các thương hiệu hiện có. Chương trình tạo điều kiện cho nông

dân nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả của họ mà vẫn quan

tâm đến con người và môi trường.

nguồn gốc sản phẩm hàng hóa.

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thường tham gia làm thành viên của

các tổ chức quốc tế ngành nghề tương ứng, thực hiện thường xuyên các hoạt

động xúc tiến thương mại ở nước ngoài thông qua các hình thức như: tham

quan học tập kinh nghiệm, hội thảo quốc tế, tham gia triển lãm, hội chợ để

quảng bá thương hiệu và tham gia xử lý các vụ kiện, tranh chấp thương mại.

Hội Doanh nghiệp, phối hợp với hiệp Hội du lịch tỉnh Thái Nguyên tổ

chức cho 65 doanh nghiệp hội viên tham quan, học tập kinh nghiệm mô hình

sản xuất kinh doanh cũng như du lịch tại 03 tỉnh Tây Nguyên, khu du lịch

FLAMIGO Đại Lải, Trung tâm thương mại Hoàng Gia Thái Nguyên và Công

ty trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thái Nguyên, chuyến thăm quan được các

doanh nghiệp đánh giá rất cao.

Tóm lại, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã từng bước có sự chuyển

biến rõ rệt trong việc phát huy vai trò của mình trong việc phát triển kinh tế sau

72

30 năm đổi mới trên cả 4 chức năng: Cầu nối - dịch vụ - liên kết và đối ngoại.

Trong đó hai lĩnh vực có sự thay đổi rõ nhất là việc thực thi vai trò tham gia

xây dựng và thực hiện môi trường pháp lý, chính sách và hoạt động cung cấp

hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ, nâng cao năng lực hoạt động của các thành viên.

3.2. Vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong phát triển văn hóa

- giáo dục ở thành phố Thái Nguyên.

Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng

yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã xác định mục tiêu: Xây dựng nền

văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện -

mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa

thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh

quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác

định: Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất

tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu

đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Ngày 24/3/2015, Ban Bí thư Trung

ương Đảng ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa

cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”, trong đó cũng xác định: Giáo dục lý

tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ là nhiệm vụ chiến

lược, lâu dài, quan trọng, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích đáng.

Trên cơ sở đó, Đảng bộ thành phố Thái Nguyên xác định các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp có vai trò quan trọng trong việc phát triển văn hóa - giáo dục.

Trong quá trình hoạt động, hội văn học nghệ thuật đã có gần 300 tác

phẩm văn học được xuất bản, hàng trăm tác phẩm âm nhạc, vở diễn nghệ

73

thuật, hàng ngàn tác phẩm nhiếp ảnh, mỹ thuật… được sáng tác, trưng bày,

triển lãm và đến với quần chúng nhân dân. Nhiều tác phẩm đạt giải trong các

cuộc thi, liên hoan, triển lãm ở trong nước và trưng bày ở quốc tế đã tạo được

dư luận tốt trong xã hội.

Các tác phẩm văn học nghệ thuật ngày càng phát triển đa dạng về loại

hình, phong phú về nội dung, đổi mới trong phong cách, chất liệu; tập trung

phản ánh hiện thực sinh động, chân thật và sâu sắc sự nghiệp đổi mới toàn

diện của đất nước, của tỉnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ

vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc; ca ngợi những thành tựu phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước, của quê hương, con người Thái Nguyên;

phản ánh gương những tập thể, cá nhân trên mọi mặt của đời sống xã hội; cổ

vũ các phong trào thi đua yêu nước… cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính

trị và nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của các tầng lớp nhân dân. Hoạt

động sân khấu, nghệ thuật biểu diễn có nhiều tiến bộ với sự kết hợp nhuần

nhuyễn, tinh tế giữa truyền thống và hiện đại; cùng với việc dàn dựng, phục

hồi, nâng cao các vở diễn, có sự quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề xã hội,

thể hiện đa dạng mọi khía cạnh của cuộc sống.

Các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp và các diễn viên tham gia các kỳ

liên hoan, hội diễn sân khấu toàn quốc, các cuộc thi tài năng trẻ, dàn nhạc dân

tộc… đạt được 12 huy chương các loại. Phong trào sáng tác thơ ca, văn nghệ

quần chúng phát triển rộng khắp ở các ngành, địa phương, các cơ quan, đơn

vị, doanh nghiệp. Toàn thành phố hiện có trên 30 câu lạc bộ thuộc 6 loại hình

khác nhau được tổ chức và duy trì hoạt động thường xuyên, đã thu hút hàng

ngàn người tham gia. Hoạt động của các câu lạc bộ phong phú, đa dạng, khai

thác và phát huy thế mạnh văn hóa của từng địa phương, cơ sở, động viên

quần chúng sáng tạo, truyền bá các giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao đời

sống tinh thần của nhân dân.

74

Cùng với việc sáng tác các tác phẩm nghệ thuật, hoạt động của các mô

hình câu lạc bộ thi hát và biểu diễn nghệ thuật chèo truyền thống, mô hình câu

lạc bộ đàn và hát dân ca, mô hình câu lạc bộ gia đình văn nghệ, câu lạc bộ văn

hóa học sinh, sinh viên, câu lạc bộ thơ; các cuộc liên hoan, hội diễn văn nghệ

quần chúng, các đội tuyên truyền lưu động đã chú trọng tuyên truyền chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nhất là về

xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ chủ quyền biên

giới, biển đảo.

Văn học nghệ thuật, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và

hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh

thần nhân văn, dân chủ; quan điểm chỉ đạo ấy của Bộ Chính trị Ban chấp hành

Trung ương Đảng càng khẳng định mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát

triển văn hóa, văn học nghệ thuật là vì con người, cho con người. Bởi vậysứ

mệnh cao quý, trách nhiệm quan trọng ấy đặt trên vai lực lượng nòng cốt – đội

ngũ văn nghệ sĩ – những người tạo ra tinh hoa của văn hóa. Phát huy tính độc

lập, sáng tạo, đổi mới, đa chiều… đặt trong trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ

công dân, khi mỗi văn nghệ sĩ thực sự trở thành người chiến sĩ xây dựng và

phát triển nền văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, văn học nghệ thuật sẽ

ngày càng có những biến đổi sâu sắc hơn nữa với những giá trị cao đẹp chân -

thiện - mỹ, phục vụ đắc lực sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới.

Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về

học tập suốt đời, nhầm nâng cao dân trí phát triển nguồn nhân lực, đào tạo

nhân tài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nhất là

trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, công

tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học luôn được Đảng và Nhà

nước quan tâm chỉ đạo thực hiện.

Dưới sự lãnh, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối hợp

của các ban, ngành, đoàn thể, ngành giáo dục và đào tạo trong địa bàn thành

75

phố Thái Nguyên đã phối hợp với hội khuyến học các cấp đẩy mạnh hoạt

động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn tỉnh đạt

được nhiều kết quả tích cực.

Hội khuyến học luôn thể hiện vai trò nòng cốt trong việc phối hợp với

ngành giáo dục và đào tạo và các ban, ngành, đoàn thể đẩy mạnh các hoạt

động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở cơ sở, nhờ đó phong

trào khuyến học của thành phố Thái Nguyên đã có những bước phát triển sâu

rộng, từng bước đạt hiệu quả góp phần tích cực vào phát triển sự nghiệp giáo

dục và đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng

nhân tài cho tỉnh.

Hội khuyến học thành phố đã tham gia hoạt động khuyến học, khuyến

tài, xây dựng xã hội học tập. Đến năm 2014, thành phố đã có hệ thống tổ

chức khuyến học hoàn chỉnh tại 100% xã, phường, thành phố, 476 ban

khuyến học. Mạng lưới trên không những khẳng định về sự phát triển nhanh,

toàn diện, sâu rộng của tổ chức khuyến học, đồng thời đã và đang khẳng định

sự đóng góp có hiệu quả vào vào công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng

xã hội học tập khắp nơi trong tỉnh.

Thông qua mạng lưới rộng khắp của mình, hội khuyến học đã góp

phần tuyên truyền sâu rộng đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về

công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, thực hiện tư tưởng

Hồ Chí Minh về học tập thường xuyên, học tập suốt đời, làm cho xã hội nhận

thức đầy đủ về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc xây dựng xã hội học học

tập ở nước ta hiện nay; xác định xây dựng xã hội học tập là nhiệm vụ của toàn

Đảng, toàn dân, là một trong những mục tiêu cơ bản trong việc đổi mới căn

bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo nước ta, từ đó cùng phối hợp, hỗ trợ

ngành giáo dục và đào tạo triển khai ngày càng có hiệu quả công tác xây dựng

xã hội học tập trên địa bàn tỉnh.

Hội khuyến học các cấp đã có vai trò quan trọng và đóng góp tích cực

cho việc vận động hỗ trợ học sinh nghèo gặp khó khăn, chống nguy cơ bỏ

76

học, khen thưởng, động viên học sinh xuất sắc. Trong 5 năm qua, từ năm

2009 đến năm 2014, Hội khuyến học thành phố huy động được 300 triệu

đồng, lập quỹ khuyến học, khuyến tài 120 triệu đồng, trợ cấp học bổng 416

suất. Hàng năm, Hội Khuyến học tích cực vận động quỹ khuyến học, khuyến

tài trao giải thưởng cho học sinh đạt thành tích xuất sắc trong học tập, hỗ trợ

học bổng, học phẩm, phương tiện xe đạp… cho học sinh nghèo, gặp khó khăn

với tổng số tiền hơn 100 triệu đồng.

Phong trào xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học, cộng đồng

khuyến học là một mô hình độc đáo của phong trào học tập suốt đời. Đây là

một nhân tố cần thiết, quan trọng để phát huy phong trào khuyến học, khuyến

tài đặc biệt là xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập theo tư tưởng học tập

suốt đời của Bác Hồ. Trong thời gian qua, hội khuyến học thành phố đã có

nhiều giải pháp tích cực triển khai công tác “Đẩy mạnh phong trào học tập

suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng”. Tỉ lệ gia đình học tập tăng lên

hàng năm. Đến năm 2014, thành phố có 130.368 gia đình học tập.

Hội khuyến học các cấp đã vận động nhân dân tích cực học tập nâng

cao dân trí, nghề nghiệp chuyên môn nhằm tăng năng lực sản xuất, chất lượng

công việc, chất lượng cuộc sống. Gắn việc phát triển phong trào khuyến học,

khuyến tài với xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, học đôi với hành và

xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở.

3.3. Một số hạn chế và giải pháp nhằm phát triển của các tổ chức xã hội

nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên

3.3.1. Về hạn chế

Tuy đã có những tiến bộ bước đầu trong việc phát huy vai trò của mình

trong phát triển kinh tế, nhưng nhìn chung, hoạt động của các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp còn nhiều bất cập, còn nhiều vấn đề mà các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp mong muốn được quan tâm như: được khẳng định vị trí, vai trò trong

các văn bản pháp lý; được sự quan tâm của các cấp, các ngành; được nâng cao

77

năng lực tổ chức; nguồn lực hoạt động... Đặc biệt, các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp mong muốn được tạo điều kiện nhiều hơn nữa để tham gia vào các

quá trình xây dựng chính sách, giám sát, đánh giá việc thực hiện luật pháp và

phản biện xã hội. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn, thách thức đang đặt ra đối với

các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên hiện nay đó là:

Vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp, người lao động, nhà chuyên môn

với Nhà nước trong việc tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện môi trường

pháp luật và chính sách của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp chưa thật tích

cực, chủ động và hiệu quả.

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp chưa coi hoạt động này như là một

nhu cầu tất yếu, một phương thức cơ bản cho tồn tại và phát triển của tổ chức

trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa. Các hội chỉ mới quan tâm đến những vấn đề chung

của ngành nghề mà chưa thực hiện được việc kiến nghị các cơ quan nhà nước

xử lý, giải quyết các vụ việc cụ thể của từng hội viên. Mặt khác, các kiến nghị

của các hội thường không được các cơ quan nhà nước quan tâm giải quyết kịp

thời, thiếu cơ chế đòn bẩy gây áp lực một cách hữu hiệu cho nên những kiến

nghị đó nhiều khi trở thành “vô thưởng, vô phạt”, nhiều khi trở thành “đánh

vào chỗ trống”, chưa được trân trọng và ghi nhận, ít có giá trị trên thực tế.

Hoạt động cung cấp hàng hóa dịch vụ để qua đó định hướng, dẫn dắt,

hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động chuyên môn nâng cao năng lực hoạt

động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp còn đơn giản, nghèo nàn, chất

lượng chưa cao, chưa tạo động lực để hội viên gắn bó với hội.

Các hoạt động dịch vụ của các tổ chức xã hội - nghề nghiêp thường là

cung cấp thông tin thị trường, tư vấn kinh doanh, xuất bản ấn phẩm, đào tạo,

tổ chức đoàn đi khảo sát thị trường… Dịch vụ thông tin còn nghèo nàn, chủ

yếu tin chưa có phân tích và dự báo, công tác đào tạo chưa thường xuyên và

thiếu chuyên nghiệp. Một vài tổ chức hội có thực hiện dịch vụ giới thiệu

khách hàng cho hội viên, nhưng khả năng thành công rất thấp.

78

Vai trò của tổ chức xã hội nghề nghiệp trong việc liên kết các hội viên,

thống nhất, điều tiết hành động để khắc phục các bất cập thị trường còn rất

mờ nhạt, tình trạng mạnh ai nấy làm là phổ biến.

Các Hội chưa sẵn sàng và chưa có đủ năng lực đối mặt với những vấn đề

của thị trường. Theo kết quả điều tra của khối các hiệp hội ngành hàng nông sản

năm 2008, có đến 2/3 số hội viên cho rằng hiệp hội chưa thực hiện được vai trò

của mình trong việc hòa giải các tranh chấp nội bộ hội viên [35;tr.67].

Bên cạnh đó, về mặt thể chế xã hội, có một số vấn đề khó khăn đối với

hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp như:

Những quy định pháp luật hiện hành chưa tạo được một cơ chế pháp lý

hữu hiệu cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp thực hiện quyền tư vấn và đóng

góp xây dựng chính sách, giám sát, tham gia xây dựng kinh tế - xã hội.

Việc chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế

quốc tế nảy sinh nhiều vấn đề mới, cả phía quản lý nhà nước và các tổ chức

xã hội - nghề nghiệp đều tiếp cận những vấn đề mới mẻ. Nhận thức về vai trò

của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với phát triển xã hội dân sự trong

điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam chưa

chuyển kịp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống và xu thế thời đại.

Nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp còn chậm đổi mới hoạt động, thụ

động, ỷ lại vào Nhà nước, làm theo cách hành chính (hoặc nhà nước hóa),

lúng túng trước những vấn đề mới và mối quan hệ mới. Một số tổ chức xã hội

- nghề nghiệp còn thiếu các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực liên quan để có

thể làm việc hiệu quả với các cơ quan, tổ chức và đối tác tương ứng của Việt

Nam và nước ngoài.

Do yêu cầu bức thiết hiện nay, việc nghiên cứu ban hành Luật về hội để

có cơ sở pháp lý cao về quản lý nhà nước đối với hội và tạo điều kiện thuận

lợi cho hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp là một việc làm quan

trọng. Đồng thời, các tổ chức hội phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt

79

động, khắc phục tình trạng “nhà nước hóa”, “hành chính hóa”, thực sự gắn bó

với hội viên, thành viên, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp

của hội viên và thực hiện được các nhiệm vụ.

Qua thực tế tìm hiểu, tôi nhận thấy nguyên nhân của những những hạn

chế tồn tại trên là do:

Nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức chưa tương xứng

với vị trí, vai trò mới của các tổ chức trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị

trường, mở cửa hội nhập, và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Một số hội đang bị hình thức hóa, hành chính hóa, nhà nước hóa; khả

năng tự quản, tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn thấp.

Có những hội trong một thời gian dài không có hoạt động gì đáng kể,

thậm chí sinh hoạt ban chấp hành hội cũng không được thường xuyên như

điều lệ.

Khó khăn trong vấn đề nhân sự là thu hút cán bộ nhân viên giỏi, trẻ vì

công tác ở các cơ quan hội thì ít có cơ hội thăng tiến nghề nghiệp. Hầu hết

cán bộ lãnh đạo hội là những cán bộ về hưu, hoặc điều hành kiêm nhiệm hiệp

hội. Nhiều cán bộ hội không coi công tác hội là một nghề do đó tính chuyên

nghiệp trong công tác chưa cao.

Việc tổ chức bỏ phiếu bầu lãnh đạo các hội chỉ mang tính hình thức, chưa

phát huy cao độ tính dân chủ và do đó chưa lựa chọn được người có thực tâm,

thực tài làm công tác hội để có tiếng nói độc lập và mạnh mẽ. Theo kết quả điều

tra trong các hiệp hội ngành hàng nông sản năm 2008, có đến 49,2% ý kiến cho

rằng năng lực của ban lãnh đạo hiệp hội còn hạn chế [35;tr.75].

Nguồn kinh phí hoạt động rất khó khăn và không ổn định. Theo kết quả

(1) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tổ chức quốc gia tập

điều tra các hiệp hội doanh nghiệp trên địa bàn toàn quốc của VCCI(1) năm

hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, người sử dụng lao động và các

hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm mục đích phát triển, bảo vệ và hỗ trợ

80

các doanh nghiệp, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và khoa

học - công nghệ giữa Việt Nam với các nước.

2003 có đến 61% nguồn kinh phí của hiệp hội là từ huy động nội lực qua

hội phí và dịch vụ cũng rất hạn chế do hoạt động đơn giản, nghèo nàn. Các

nguồn tài trợ từ Nhà nước, các nhà hảo tâm và từ nước ngoài còn hạn chế. Một

số hội như Hội Truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí Minh Việt Nam, Hội

Hữu nghị Việt Nam - Lào, Hội Người tàn tật chưa bố trí được văn phòng hội

nên hoạt động còn chưa được tập trung, kinh phí hoạt động rất hạn chế.

Một số xã, phường chưa thật sự quan tâm tới công tác quản lý tổ chức

và hoạt động Hội, mối liên hệ giữa chính quyền và các tổ chức hội chưa có sự

phối hợp chặt chẽ.

Công tác báo cáo thông tin của một số tổ chức Hội còn chậm, chưa đầy

đủ gây khó khăn trong việc nắm bắt tình hình và quản lý Hội.

Tình trạng các cơ quan nhà nước không quan tâm đến hoạt động của

hội nhưng lại can thiệp quá sâu vào công tác nhân sự của hội còn phổ biến.

Chính sách khuyến khích, hỗ trợ hội tham gia vào công tác xã hội còn

thiếu đồng bộ, việc phối hợp phân công, phân cấp quản lý hội chưa được xác

định rõ.

3.3.2. Một số giải pháp để tiếp tục phát huy vai trò của các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên

Nghiên cứu về thực trạng của “Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở

thành phố Thái Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016”, tôi nhận thấy để phát

huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên

trong điều kiện mới thì cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, để quản lý tốt hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở

thành phố Thái Nguyên, cần phải có cơ chế quản lý và chính sách pháp luật

phù hợp với hoạt động của từng Hội. Đặc biệt là hoàn thiện hệ thống văn bản

quy phạm pháp luật về hội, ban hành luật về hội. Ban hành các quy định của

pháp luật về cơ chế và các điều kiện bảo đảm để tổ chức xã hội - nghề nghiệp

81

tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thi hành các văn bản quy phạm

pháp luật.

Hai là, cần phải duy trì, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của

các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và tổ chức hội đến các vùng nông thôn, trong

cơ quan hành chính sự nghiệp, các doanh nghiệp đảm bảo đúng điều lệ, tôn

chỉ mục đích của hội.

Ba là, thực hiện việc kiểm tra thường xuyên việc thu, chi từ ngân sách

của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Để đảm bảo hoạt động của hội, nguồn

kinh phí phải được bổ sung thường xuyên như được thành phố hỗ trợ kinh

phí, sự đóng góp, tài trợ của các hội viên....

Bốn là, cần tăng cường công tác giám sát hoạt động của các hội và

tham gia tập huấn nghiệp vụ quản lý nhà nước đối với các tổ chức xã hội -

nghề nghiệp. Trong quá trình điền dã tôi thấy công tác lưu trữ văn bản, nghị

quyết cần phải khoa học để phục vụ công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động của

hội theo từng năm.

Năm là, đổi mới nhận thức về bản chất, vị trí, vai trò của các tổ chức xã

hội - nghề nghiệp để nâng cao hơn nữa tính độc lập, tính dân chủ, tính lợi ích

của tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong khuôn khổ thể chế “Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp không

đơn giản chỉ là “một cánh tay nối dài của Nhà nước”, là một công cụ tuyên

truyền vận động thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước”

mà còn là phương thức thực hiện quyền dân chủ và lợi ích của người lao

động, là một thể chế kinh tế - xã hội có vai trò vị trí riêng trong việc cung cấp

hàng hóa dịch vụ và điều tiết hành vi của tổ chức và cá nhân trong xã hội

cùng với thị trường và Nhà nước.

Sáu là, làm tốt công tác phát triển hội viên, đặc biệt là ở các xã,

phường. Để thực sự cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp phát huy được hết

vai trò của mình thì công tác phát triển hội viên là việc làm vô cùng quan

82

trọng. Trước hết là xây dựng đội ngũ cán bộ phải có phẩm chất đạo đức tốt,

có năng lực và kinh nghiệm. Tiếp đến là hội viên phải giỏi về chuyên môn

nghiệp vụ, nhiệt tình và có tinh thần trách nhiệm.

Bẩy là, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần có chính sách thu hút cán

bộ trẻ, bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác hội. Có như vậy thì các tổ chức

xã hội - nghề nghiệp mới thực sự phát huy hết vai trò phát triển kinh tế, xã hội

của mình.

83

Tiểu kết chương 3

Trên cơ sở nghiên cứu về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của thành

phố Thái Nguyên, trong nội dung chương 3, chúng tôi đưa ra một số nhận xét.

Những nhận xét chính là kết quả chúng tôi nhận thấy khi chuyên sâu nghiên

cứu về vấn đề này.

1. Từ hoạt động thực tiễn cho thấy, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở

thành phố Thái Nguyên có vai trò rất đa dạng như: đại diện cho các đối tượng

cần sự trợ giúp, cung cấp dịch vụ, cung cấp thông tin, tư vấn, phản biện và

giám định xã hội, phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, bảo vệ hội viên; Ngoài

ra, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cũng tích cực tham gia vào các hoạt động

văn hóa, giáo dục, y tế, các hoạt động từ thiện nhân đạo khác….

2. Do chưa có cơ sở pháp lý chung quy định rõ ràng trách nhiệm và cơ

chế hoạt động của các Hội nên trong quá trình hoạt động một số tổ chức xã

hội - nghề nghiệp coi những nhiệm vụ trong Điều lệ là điều kiện có tính pháp

lý để triển khai hoạt động. Song Điều lệ không phải là văn bản quy phạm

pháp luật có tính áp dụng chung vì vậy không thể áp dụng cho tất cả các tổ

chức xã hội - nghề nghiệp. Đó là hạn chế cần phải giải quyết cho các tổ chức

xã hội - nghề nghiệp phát triển.

3. Nhằm khắc phục những hạn chế trên, chúng tôi thiết nghĩ Nhà nước

cần ban hành Luật về lập Hội; các tổ chức xã hội - nghề nghiệp cần phải đổi

mới về nội dung và phương thức hoạt động. Như vậy, việc phát huy hơn nữa

vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong những năm tiếp theo sẽ đạt

hiệu quả cao hơn.

84

KẾT LUẬN

Thành phố Thái Nguyên là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế

của vùng Việt Bắc, có vị trí địa lý, chính trị quan trọng. Thành phố có hệ

thống giao thông thuận lợi gồm cả đường bộ, đường thủy và đường sắt. Do

vậy, Thái Nguyên là thành phố có vai trò gắn kết cả vùng trung du miền núi

phía Bắc với vùng đồng bằng Bắc bộ.

Là cái nôi của ngành công nghiệp Việt Nam, Thái Nguyên được biết đến

là thành phố mũi nhọn của cả nước trong phát triển công nghiệp luyện kim và

khai khoáng, với trữ lượng Florit đứng đầu thế giới, vonfram đứng thứ 2 thế

giới, than đứng thứ 2 cả nước, ngoài ra còn có sắt, thiếc, chì, kẽm, vàng, đồng,

titan… và các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng đều có trữ lượng cao.

Thành phố Thái Nguyên đi đầu cả nước về công nghệ khai thác và chế

biến khoáng sản với nhiều nhà máy có quy mô lớn áp dụng công nghệ tiên tiến

hàng đầu thế giới. Bên cạnh đó, với nguồn tài nguyên sẵn có, Thái Nguyên

cũng đầu tư, phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông - lâm sản theo

hướng nông nghiệp đô thị, đặc biệt vùng chè nổi tiếng Tân Cương được Nhà

nước bảo hộ chỉ dẫn địa lí, là đặc sản riêng của thành phố Thái Nguyên.

Như vậy, thành phố Thái Nguyên có những điều kiện thuận lợi để phát

triển kinh tế - xã hội. Thực tế, sự phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố quan

trọng cho sự ra đời và phát triển của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp ở thành

phố Thái Nguyên.

Trước năm 1986, nền kinh tế của tỉnh Thái Nguyên nói chung và của

thành phố nói riêng chịu ảnh hưởng của nền kinh tế tập trung quan liêu, bao

cấp nên các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên chưa có

điều kiện để hình thành và phát triển toàn diện.

Sau năm 1986, dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng. Đảng bộ

thành phố Thái Nguyên đã tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội

VI và đạt được những thành tựu to lớn. Thành phố đã có bước phát triển vượt

85

bậc về kinh tế - xã hội. Hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị thành phố được đầu

tư, nâng cấp ngày càng đồng bộ, theo hướng hiện đại. Các lĩnh vực văn hoá -

xã hội ngày càng phát triển. Quốc phòng - an ninh được giữ vững. Vì vậy, các

tổ chức xã hội - nghề nghiệp tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Cho đến

nay, trên địa bàn thành phố có 16 Hội, các Hội hoạt động ngày càng phong phú

nên số hội viên tham gia ngày càng nhiều.

Thực hiện kết luận số 64-KL/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng

khóa XI về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ

Trung ương đến cơ sở; quản lý, quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động

của các Hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt

động và tuân thủ pháp luật. Những năm gần đây, các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên được sự quan tâm, động viên

của Thành ủy, HĐND, UBND thành phố, chính quyền địa phương. Sự chỉ

đạo định hướng về chuyên môn nghiệp vụ, lòng nhiệt tình tâm huyết với

công tác Hội của đội ngũ cán bộ, hội viên các cấp, các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp luôn đoàn kết, đổi mới, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn;

hoàn thành tốt kế hoạch đề ra góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát

triển kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh của thành phố như: Hội Chữ thập

đỏ, Hội Doanh nghiệp, Hội Luật gia….

Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp luôn thực hiện tốt đường lối, chủ

trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền giáo dục,

tập hợp đông đảo hội viên để giúp đỡ lẫn nhau, phát huy tính tích cực của hội

viên phát triển chuyên nghề của mình, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng

của hội viên, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.

Mặc dù, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên có

nhiều thuận lợi và đạt được nhiều thành tựu trong quá trình hoạt động song hiện

tại các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái Nguyên cũng có những

khó khăn hạn chế nhất định như: Những khó khăn đó liên quan đến quy định về

86

luật lập Hội, ngân sách hoạt động và cơ sở vật chất của các Hội…. Tôi thiết

nghĩ, Nhà nước sớm ban hành Luật về Hội, đặc biệt là phát huy tính chủ động,

sáng tạo như tự chủ về kinh phí, tự chủ về cơ sở vật chất nhưng vẫn đảm bảo

thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

Qua nghiên cứu về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở thành phố Thái

Nguyên từ năm 1986 đến năm 2016, tôi nhận thấy, các tổ chức xã hội - nghề

nghiệp ở thành phố Thái Nguyên dù hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau

nhưng luôn phát huy tốt vai trò, nhiệm vụ của mình, ngày càng có những đóng

góp quan trọng trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố

Thái Nguyên.

87

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tổng kết việc thực hiện chỉ thị 100/CT -TW của Ban Bí thư

Trung ương Đảng và phương hướng, biện pháp củng cố quan hệ sản

xuất, hoàn thiện và mở rộng cơ chế khoán sản phẩm trong hợp tác xã

sản xuất nông nghiệp, (1987), Thành uỷ Thái Nguyên.

2. Báo cáo tổng kết năm 2013 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước

đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),

UBND thành phố Thái Nguyên.

3. Báo cáo Tổng kết công tác Hội năm 2014 của Hội Đông y thành phố

Thái Nguyên.

4. Báo cáo tổng kết năm 2014 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước

đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),

UBND thành phố Thái Nguyên.

5. Báo cáo Tổng kết công tác Hội năm 2015của Hội Đông y thành phố

Thái Nguyên.

6. Báo cáo tổng kết năm 2015 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước

đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),

UBND thành phố Thái Nguyên.

7. Báo cáo Tổng kết công tác Hội năm 2016 của Hội Đông y thành phố

Thái Nguyên.

8. Báo cáo tổng kết năm 2016 về Tăng cường công tác quản lý nhà nước

đối với các tổ chức hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên (2013),

UBND thành phố Thái Nguyên.

9. Báo cáo Hội nghị triển khai Đề án phát triển nghề công tác xã hội trong

giáo dục Đại học giai đoạn 2013-2020 (2013), HN.

10. Bắc Thái 40 năm đấu tranh và xây dựng 1945-1985 (1985), sở Văn hoá -

Thông tin.

11. Công tác quản lý Nhà nước về các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, (2012),

UBND tỉnh Thái Nguyên.

88

12. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên (2003), Niên giám Thống kê tỉnh Thái

Nguyên 1998-2002, Nxb Thống kê, HN.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự thật, HN.

14. Điều lệ của Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên, 1990.

15. Điều lệ của Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên, 1995.

16. Điều lệ của Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên, 1999.

17. Điều lệ của Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên, 2002.

18. Điều lệ của Hội Doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên, 2010.

19. Điều lệ của Hội Đông y thành phố Thái Nguyên, 2013.

20. Điều lệ của Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên, 2007.

21. Điều lệ Hội chữ thập đỏ thành phố Thái Nguyên, 2007.

22. Đoàn Trọng Truyến (1987), "Những vấn đề kinh tế của Việt Nam bước

vào kế hoạch 5 năm (1986-1990)", Những vấn đề cơ bản của thời kỳ quá

độ, Nxb Nông nghiệp.

23. Đỗ Hoàng Toàn (1987), "Mấy vấn đề cơ bản về chiến lược chuyển đổi

cơ cấu kinh tế-xã hội", Những vấn đề cơ bản của thời kỳ quá độ, Nxb

Nông nghiệp, HN.

24. Hội Chữ thập đỏ Phường Đồng Quang 20 năm xây dựng và trưởng thành

1994 - 2014, (2014), Hội Chữ thập đỏ Thái Nguyên.

25. Kỷ yếu 40 năm thành phố Thái Nguyên (1962-2002), (2002), Thành Uỷ

Thái Nguyên.

26. La Giang (2017), Dòng chảy, Nxb Hội nhà văn.

27. Lê Ngọc Duệ (Cb - 2013), Bản tin Nhân đạo Thái Nguyên, số 13.

28. Lê Ngọc Duệ (Cb - 2013), Bản tin Nhân đạo Thái Nguyên, số 18.

29. Lịch sử Đảng bộ thành phố Thái Nguyên, tập I (1930-1975), (1991),

Thành Uỷ Thái Nguyên.

30. Luật nhân đạo Quốc tế và Những vấn đề cơ bản của Hội Chữ thập đỏ

Việt Nam,(2010), Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.

31. Mai Ngọc Thư (2017), Tình người, Nxb Hội nhà văn.

89

32. “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, (2012), Đảng

cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 12-NQ/TW.

33. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý

hội (2010).

34. Nguyễn Đình Thuận (1993), "Tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển

đường lối đổi mới của Đảng", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4.

35. Nguyễn Đình Long (2008), Thực trạng và giải pháp về tổ chức và hoạt

động của các hiệp hội ngành hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam, Viện

chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, HN.

36. Nguyễn Phước Thọ (2008), Vai trò tham gia xây dựng pháp luật của các

tổ chức xã hội nghề nghiệp,

http://xaydunngphapluat.chinhphu.vn/portal/page/portal/xydungphapluat

/tinchi

37. Phạm Bích San (2014), “Vai trò của các tổ chức xã hội trong việc xây

dựng chính sách phát triển dịch vụ công tác xã hội trong lĩnh vực hôn

nhân, gia đình, Cục bảo trợ xã hội, HN.

38. Quyết định thành lập Hội Làm vườn thành phố Thái Nguyên, 1990.

39. Quyết định thành lập Hội Sinh vật cảnh thành phố Thái Nguyên, 1995.

40. Quyết định thành lập Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên, 1999.

41. Quyết định thành lập Hội Khuyến học thành phố Thái Nguyên, 2002.

42. Quyết định thành lập Hội Văn học nghệ thuật thành phố Thái Nguyên, 2007.

43. Quyết định thành lập Hội Doanh nghiệp thành phố Thái Nguyên, 2010.

44. Sáng mãi những tấm lòng nhân đạo, (2003), Hội Chữ thập đỏ tỉnh

Thái Nguyên.

45. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội trên địa

bàn thành phố Thái Nguyên (2006), UBND thành phố Thái Nguyên.

46. Thông báo kết luận của Ban Thường vụ Thành uỷ về kết quả thực hiện

Nghị quyết 124 của Ban Thường vụ Thành uỷ, Nghị quyết 16 Bộ Chính

trị và những chủ trương tiếp tục thực hiện trong thời gian tới, (1987),

Thành Uỷ Thái Nguyên.

90

47. Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị Khóa X về

Xây dựng và phát triển Văn học nghệ thuật, Hội nhà văn TN.

48. Tổng kết công tác Hội và Phong trào Chữ thập đỏ thành phố Thái

Nguyên, nhiệm kỳ 2011 - 2016, Hội Chữ thập đỏ TN.

49. Trịnh Trúc Lâm (Cb,1998), Địa lý tỉnh Thái Nguyên, sở Khoa học công

nghệ - Môi trường tỉnh Thái Nguyên.

50. Trần Đức Thuần (2002), Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ

Quốc tế, Luật nhân đao quốc tế, Hội CTĐ Việt Nam.

51. Trần Văn Tá (2013), Vai trò của hội nghề nghiệp trong lĩnh vực kế toán

- kiểm toán, http://vacpa.org.vn/index

52. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lẩn thứ XI,

(1992), Thành uỷ Thái Nguyên.

53. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lẩn thứ VIII, (1996), Nxb Chính trị

Quốc gia, HN.

54. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, (1996), Nxb Chính trị

Quốc gia, HN.

55. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Thái Nguyên lẩn thứ XIV,

(2000), Thành uỷ Thái Nguyên.

56. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, (2001), Nxb Chính trị

Quốc gia, HN.

57. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, (2006), Nxb Chính trị

Quốc gia, HN.

58. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,(2011), Nxb Chính trị

Quốc gia, HN.

59. Vĩnh Quang Lê (cb,1998), Ngành ngành làm việc thiện, Nxb Chính trị

Quốc gia, HN.

91

PHỤ LỤC

(Nguồn: Tác giả xây dựng lược đồ)

Phụ lục 2

BẢNG TỔNG HỢP CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP

Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

TT Tên hội

Địa chỉ trụ sở

Chủ tịch Hội

Điện thoại liên hệ.

Tổng số hội viên

Số QĐ, ngày, tháng, năm thành lập

Tổng số kinh phí Nhà nước cấp hàng năm

1

574

100.000.000đ

Đinh Quang Ấn

0915176547

27/6/1986

Số 10, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên

Câu lạc bộ Hưu trí Thái Nguyên

128.600.000đ

Trần Văn Nhị

2

25/10/1962

288

0918291951

Hội Đông y

370

112.000.000đ

0986659445

3

Phạm Thị Bích

Hội Người mù

QĐ số 465 ngày 21/3/2006

Hội Chữ thập đỏ

1965

15433

424.600.000đ

Nguyễn Xuân Phong

0912338083

4

5

30377

267.500.000đ

Hội Người cao tuổi

Đồng Ngọc Linh

0913075588

766/QĐ- UBND ngày 02/7/2003

25/7/2008

1882

210.000.000đ

0914833753

6

Nguyễn Văn Phúc

Hội Nạn nhân chất độc Da cam/Dioxin

Hội Khuyến học

70898

157.000.000đ

0913027615

7

Số 131/QĐ- UB ngày 29/01/2002

Nguyễn Đức Tiến

03/02/2006

105.000.000đ

01685906839

965

8

Trần Văn Minh

Hội Cựu thanh niên xung phong

Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Số 10, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 3, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN

Địa chỉ trụ sở

TT Tên hội

Chủ tịch Hội

Điện thoại liên hệ.

Tổng số hội viên

Tổng số kinh phí Nhà nước cấp hàng năm

346.000.000đ

0913526886

Phạm Văn Quang

147

9

Hội Doanh nghiệp

Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN

0983885217

352

10

Phạm Gia Lộc

Hội Người khuyết tật

SN 363, tổ 1, phường Đồng Quang, TPTN

Số QĐ, ngày, tháng, năm thành lập Số 1276/QĐ- UBND ngày 02/6/2010 Số 2942/QĐ- UBND ngày 23/12/2005

0912138966

11

20/01/1990

957

15.000.000đ

Trương Xuân Thịnh

Hội Làm vườn

12

816

Đinh Văn Thể

QĐ số 1897 ngày 27/6/1995

Chú Hải PCT 0915209637

Hội Sinh vật cảnh

60.000.000đ Hoàng Báu

0982108547

13

79

Hội Văn học nghệ thuật

Số 950/QD- UBND ngày 28/5/2007

Khối Đoàn thể TP, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên Tầng 5, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN Tầng 6, Khối HCSN, Ngõ 277, tổ 17, đường Cách mạng tháng Tám, phường Túc Duyên, TPTN

0915122001

Trần Kim Dung

14

356

SN 59, đường Minh Cầu, phường Phan Đình Phùng, TPTN

Hội hữu nghị Việt Nam-Lào

Số 52- HHNVN-L ngày 01/6/2011

60.000.000đ

0982177055

Nguyễn Xuân Thắng

15

413

SN 53, tổ 18, phường Đồng Quang, TPTN

Số 2028/QĐ- UBND ngày 15/9/2014

Hội Truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí Minh Việt Nam

30.000.000đ

0919916017

Phạm Văn Tuấn

16

130

Số 946/QĐ- UBND ngày 28/10/1999

Hội Luật gia thành phố Thái Nguyên

phòng Tư pháp, UBND TPTN, số 10, Đường Nguyễn Du, TP Thái Nguyên

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ tài liệu)

Phụ lục 3

MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI

- NGHỀ NGHIỆP Ở THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN

1. Hội Doanh nghiệp.

(Lấy từ trang website: www.baothainguyen.vn )

2. Hội Làm vườn

Mô hình trồng cam Vinh của gia đình bà Nguyễn Thị Thoa- Tân Long -

Đồng Hỷ - Thái Nguyên

(Tác giả chụp ngày 10/11/2017)

Đồi chè gia đình ông Lê Quang Nghìn, xóm Tân Thái 2, xã Tân Cương,

T.P Thái Nguyên

(Tác giả chụp ngày 15/4/2017)

Mô hình trồng rau sạch - phường Túc Duyên - T.P Thái Nguyên

(Tác giả chụp ngày 23/7/2018)

Mô hình nuôi ong lấy mật của gia đình ông Trần Văn Nam - phường

Chùa Hang - T.P Thái Nguyên.

(Tác giả chụp ngày 23/7/2018)

3. Hội Sinh vật cảnh

Ban Tổ chức trao giấy chứng nhận tham gia Triển lãm - Thi sinh vật

cảnh TPTN năm 2017 cho các đoàn tham dự

(Lấy từ trang website: Baothainguyen.org.vn)

4. Hội Văn học nghệ thuật

Những tác phẩm tại Triển lãm Mĩ thuật chào mừng Festival Trà Thái

Nguyên (20/11/2015)

(Tác giả chụp ngày 15/07/2018 - phòng truyền thống Hội VHNT- T.P Thái Nguyên)

5. Hội Khuyến học

Trao Giấy khen cho các tập thể đã có nhiều đóng góp trong công tác Khuyến học - Khuyến tài, Xây dựng xã hội học tập thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2013 - 2016 (Tác giả chụp ngày 11/07/2018)

Đồng chí Lê Quang Tiến, Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố trao tặng 13 chiếc xe đạp cho các em học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có thành tích học tập xuất sắc. (Tác giả chụp ngày 11/07/2018)

6. Hội Đông y

Mô hình trồng Nấm lim xanh của gia đình ông Trần Danh Tài - phường Chùa Hang - T.P Thái Nguyên (Tác giả chụp ngày 25/04/2018)

7. Hội Chữ thập đỏ

(Tác giả chụp ngày 13/07/2018)