BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHẾ ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT TRONG CÔNG TY
CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
Ngành: Luật Kinh tế
NGUYỄN HOÀNG LONG
Hà Nội – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần
theo Luật Doanh nghiệp năm 2014
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
Họ và tên học viên: Nguyền Hoàng Long
Người hướng dẫn: PGS,TS Hồ Thuý Ngọc
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ luật kinh tế "Chế định Ban kiểm soát
trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014" là công trình nghiên cứu
của riêng tôi được sự hướng dẫn khoa học của PGS,TS Hồ Thuý Ngọc. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình
thức nào trước đây. Ngoài ra, trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá
được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau của các tác giả, cơ quan tổ chức
khác đều được trích dẫn và chú thích nguồn gốc, có ghi trong phần tài liệu tham khảo.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2018
Người cam đoan
Nguyễn Hoàng Long
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc của mình, tôi xin cảm ơn PGS, TS Hồ Thuý Ngọc đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, lựa chọn đề tài, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn "Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp năm 2014".
Tôi xin cảm ơn các thầy cô của Khoa Luật trường Đại học Ngoại thương, các
thầy cô giảng dạy tại cơ sở Uông Bí đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu tại trường.
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn tôi luôn nhận được sự động
viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2018
Tác giả
Nguyến Hoàng Long
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ............................................................................... 5
4. Đối tượng nghiên cứu đề tài .............................................................................. 5
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài ................................................................................. 5
6. Phương pháp luận nghiên cứu đề tài ............................................................... 5
7. Bố cục luận văn .................................................................................................. 6
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014. 7
1.1 Khái quát chung về công ty cổ phần .............................................................. 7
1.1.1 Khái niệm công ty cổ phần ..................................................................... 7
1.1.2 Đặc điểm công ty cổ phần. ...................................................................... 9
1.1.3 Cơ cấu, tổ chức công ty cổ phần ........................................................... 12
1.2 Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. ......................................... 19
1.2.1 Ban kiểm soát và vị trí của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. ... 19
1.2.2 Chức năng của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. ....................... 21
CHƯƠNG 2.NỘI DUNG QUY ĐỊNH VỀ BAN KIỂM SOÁT TRONG CÔNG
TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014. ........................... 25
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về chế định Ban
kiểm soát trong công ty cổ phần. ............................................................................ 25
2.2 Thành lập, tổ chức Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. ......................... 31
2.3 Nhiệm vụ, quyền hạn Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. .................... 34
2.4 Thành viên Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. ..................................... 39
2.5 Thực tiễn áp dụng các quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
.................................................................................................................................... 45
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................ 58
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN. .............................. 59
3.1 Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về Ban kiểm soát trong
công ty cổ phần. ........................................................................................................ 59
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần. .......................................................................................................................... 61
Tiểu kết chương 3. ............................................................................................... 74
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 77
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Tên luận văn thạc sĩ Luật kinh tế: Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Luận văn đã đạt được những kết quả như sau:
- Luận văn nghiên cứu chủ yếu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định
Ban kiểm soát thông qua việc phân tích, tìm hiểu vị trí, vai trò, quyền lợi và trách
nhiệm của Ban kiểm soát trong Công ty cổ phần theo quy định Luật Doanh nghiệp
năm 2014.
- Luận văn cũng chỉ ra sự tiến bộ của pháp Luật Doanh nghiệp qua các thời kỳ
bằng việc nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về
chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần để chỉ ra những bất cập, hạn chế và
thiếu sót của chế định này với thực tiễn áp dụng các quy định về Ban kiểm soát trong
công ty cổ phần cùng vai trò là một trong những công cụ quan trọng nhất nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu tư.
- Luận văn nêu lên những ưu, nhược điểm của chế định Ban kiểm soát của công
ty cổ phần. Qua đó đề xuất một số ý kiến để hoàn thiện chế định này nhằm mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông, ngày càng hiệu quả và thực chất hơn
trong hoạt động kinh doanh.
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, Việt Nam là đất nước có nền
kinh tế đang phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ổn định, điều này tạo
điều kiện để khai thông tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội từ đó thu hút được
các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Song với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng
được củng cố và hoàn thiện hơn để tạo được hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động
kinh doanh của các chủ thể, xây dựng nên môi trường đầu tư thuận lợi, đáp ứng kịp
thời xu hướng kinh tế mới của thế giới. Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật
Doanh nghiệp,… cùng nhiều văn bản pháp luật khác đều được cập nhật, sửa đổi để
phù hợp với tình hình mới.
Sau cuộc đột phá về thể chế của văn bản mang tên “Luật Doanh nghiệp 1999”,
thì Luật Doanh nghiệp 2014 được coi là cuộc đột phá thể chế lần hai, thể hiện đúng
tinh thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp,
theo đó, những gì luật pháp không cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu
tư, kinh doanh. Luật Doanh nghiệp 2014 hướng tới sự phù hợp với thực tế kinh doanh
hiện tại của doanh nghiệp và tháo gỡ nhiều khó khăn, hạn chế, góp phần tạo điều
kiện mở ra một môi trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với xu hướng chung của
thế giới. Trên thực tế cũng phải thừa nhận, mặc dù được đánh giá là đạo luật tiến bộ
trong việc tạo điều kiện cho việc hình thành các loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên
các thiết chế để tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình vẫn là một thách thức lớn đối với các nhà lập pháp.
Khi chưa có Luật doanh nghiệp thì công ty cổ phần hoạt động theo Luật công
ty nhưng lúc Luật doanh nghiệp ra đời (tháng 12 năm 1999) thì công ty cổ phần được
xác định rõ ràng và đầy đủ hơn, là một trong những loại hình doanh nghiệp được quy
định trong Luật doanh nghiệp. Cũng từ đó mà công ty cổ phần phát triển mạnh và
ngày càng phát huy được những ưu thế của nó trong nền kinh tế. So với các loại hình
doanh nghiệp khác thì công ty cổ phần nhiều điểm mạnh trong việc huy động nguồn
2
vốn nhàn rỗi trong công chúng. Mặt khác với việc hình thành thị trường chứng khoán
ở nước ta thì công ty cổ phần là điều kiện quan trọng và tiên quyết cho hoạt động của
thị trường này. Từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Chế định công ty cổ phần được Luật Doanh nghiệp 2014 điều chỉnh với nhiều
quy định mới, trong đó, đáng chú ý là những quy định về sự tồn tại và sức ảnh hưởng
của Ban kiểm soát trong cơ cấu tổ chức, quản lý của công ty cổ phần. Theo quy định
tại Điều 165 Luật Doanh nghiệp 2014, có thể hiểu Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần là cơ quan có chức năng giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc trong việc quản lý và điều hành công ty; kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính
trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; thẩm
định tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo
tài chính và các hoạt động rà soát, giám sát hoạt động kinh doanh khác của công ty.
Như vậy, bản chất của Ban kiểm soát chính là đảm bảo sự thận trọng và minh bạch
trong hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần. Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép
công ty cổ phần lựa chọn việc có Ban kiểm soát hay không trong cơ cấu tổ chức,
quản lý công ty của mình. Theo đó, trừ trường hợp có quy định khác từ pháp luật
chứng khoán, công ty cổ phần có quyền không thành lập Ban kiểm soát trong trường
hợp: nếu lựa chọn mô hình tổ chức công ty bao gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trị, và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc (trong trường hợp này công ty phải đảm
bảo ít nhất 20% số thành viên hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban
kiểm toán nội bộ trực thuộc hội đồng quản trị để thực hiện chức năng kiểm soát hoạt
động của công ty). Hoặc công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ
chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty.
Quy định cho phép tự do lựa chọn mô hình quản trị đối với công ty cổ phần vừa
phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với thực tế đa dạng của doanh nghiệp về
quy mô, tính chất sở hữu và sự đa dạng của cách thức quản trị công ty như hiện nay
ở Việt Nam. Mặt khác, quy định mới này cũng phù hợp với thực tế hoạt động của
Ban kiểm soát trong công ty cổ phần hiện nay. Mặc dù về lý thuyết, việc tồn tại Ban
kiểm soát có vẻ mang đến nhiều lợi ích cho công ty, nhưng khi hoạt động, Ban kiểm
soát khó có thể thực hiện được hết chức năng, nhiệm vụ của mình. Hội đồng quản
3
trị, tổng giám đốc hoặc giám đốc thường tìm cách và đủ điều kiện để hạn chế vai trò
của Ban kiểm soát. Đó là chưa kể, có thể một phần do tâm lý “người nhà” nên rất
khó để cho các thành viên Ban kiểm soát hoạt động một cách công tâm. Để kiểm soát
được hoạt động của công ty cổ phần nhằm mục đích đem lại lợi ích cho tất cả cổ
đông cũng như nâng cao hoạt động của công ty thì cần phải có những quy định cụ
thể, đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của loại hình công ty cổ phần. Thực tiễn
cho thấy, hiện nay những quy định của pháp luật về công ty cổ phần ở Việt Nam còn
nhiều lỗ hổng lớn, còn nhiều kẽ hở, bất cập trong việc thi hành. Đặc biệt là trong cơ
cấu tổ chức, vận hành của công ty cổ phần. Ban kiểm soát trong công ty cổ phần
đóng một vai trò quan trọng là giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị, tổng giám
đốc, giám đốc nhằm ngăn chặn và phát hiện những trường hợp sai phạm, thiếu sót,
bất minh, bất hợp lý, xung đột lợi ích trong việc quản lý, điều hành công ty. Ban kiểm
soát còn đóng vai trò quan trọng trong việc đề xuất các biện pháp, giải pháp khắc
phục, cải tiến hoạt động quản lý, điều hành công ty đạt được hiệu quả cao nhất. Tuy
vậy, thực tế ở Việt Nam cho thấy Ban kiểm soát chưa thể hiện đầy đủ vai trò bảo vệ
cổ đông và nhà đầu tư, do đó rủi ro mà nhà đầu tư và cổ đông phải gánh chịu từ sự
hoạt động kém hiệu quả của Ban kiểm soát là rất lớn.
Chính vì những lý do nêu trên, căn cứ vào quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2014, cùng với kinh nghiệm tích luỹ được trong quá trình công tác của bản thân
mà tôi lựa chọn đề tài “Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệpnăm 2014” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế
của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở tiếp thu kết quả khoa học của các đề tài nghiên cứu trước đó, đồng
thời đặt vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ chặt chẽ với nhu cầu thực tiễn để kiến
nghị, sửa đổi và bổ sung chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần từ đó góp
phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của các nhà đầu tư. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu như:
4
- Trên thế giới có rất nhiều các công trình nghiên cứu về hoạt động của Ban
kiểm soát mà tiêu biểu là những bộ thông lệ tốt về quản trị của công ty như các
nguyên tắc quản trị Công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), hệ
thống Quản trị Doanh nghiệp Quốc tế (ICGN), Hội đồng các nhà đầu tư là Tổ chức
(CII) được vận dụng ở nhiều quốc gia.
- Nguyễn Thị Lan Hương, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học
27 (2011) "Về hoạt động giám sát của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần"đã đề
cập đến một số những tồn tại của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật
Doanh nghiệp 2005 từ đó đưa ra được những đề xuất, kiến nghị nhằm củng cố vị trí
độc lập của Ban kiểm soát.
- Các sách chuyên khảo của các tác giả như: Bùi Xuân Hải (2011) "Luật Doanh
nghiệp bảo vệ cổ đông – Pháp luật và thực tiễn"; Ngô Văn Quế (2011) "Công ty cổ
phần và thị trường tài chính"; Đoàn Văn Trường (1996) "Thành lập, tổ chức và điều
hành hoạt động công ty cổ phần";… Nội dung của sách tập trung làm rõ về Công ty
cổ phần. Ban kiểm soát là một bổ phận không nhỏ trong quản trị công ty cổ phần.
Các sách chuyên khảo kể tên trên đã phần nào phân tích, đánh giá chế định Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần ở các mức độ khác nhau.
- Các bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý của PGS.TS Bùi Xuân Hải: "So
sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với các mô hình điển
hình trên thế giới" (6/2006);"Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật
công ty Việt Nam" (4/2007);"Bảo vệ cổ đông: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong
Luật Doanh nghiệp 2005" (1/2009);...
Những công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận vấn đề dưới những góc độ pháp
lý khác nhau và đối tượng nghiên cứu của các tác giả cũng có sự khác biệt.Tổ chức
quản trị doanh nghiệp trong công ty cổ phần đã được rất nhiều các tác giả nghiên cứu
tuy nhiên các công trình nghiên cứu chưa thực sự chuyên sâu về chế định Ban kiểm
soát, nghiên cứu theo Luật Doanh nghiệp cũ chưa thực sự phù hợp với tình hình mới
hiện nay. Trong luận văn của mình tôi tiếp cận nghiên cứu vấn đề này thông qua chế
định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014.
5
Những tài liệu kể trên là nguồn tham khảo quan trọng để tôi hoàn thành luận văn của
mình. Có thể khẳng định rằng, chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá độc lập
về chức năng, nhiệm vụ và vai trò thực tế của chế định Ban kiểm soát trong Công ty
cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về địa vị
pháp lý của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về Ban kiểm soát trong pháp
luật về công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay để từ đó đề xuất các phương hướng, giải
pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần ở
nước ta.
4. Đối tượng nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu về các quy định pháp luật về quy chế
pháp lý Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014. Từ
đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về chế định Ban
kiểm soát trong công ty cổ phần với vai trò là một trong những công cụ quan trọng
nhất nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu tư.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn chỉ tập trung phân tích các quy định về Ban kiểm soát trong công ty
cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 tại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn
nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về chế định
Ban kiểm soát trong công ty cổ phần để chỉ ra được sự tiến bộ của pháp luật về chế
định này.
6. Phương pháp luận nghiên cứu đề tài
Để tiến hành nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê – nin trong mối tương quan với tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Kết hợp với các phương pháp khác nhau như
6
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp,... để đánh giá
và nghiên cứu những nội dung cơ bản của luận văn. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đề tài sử dụng phương pháp phân tích để
phân tích các quy chế pháp lý Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, từ đó chỉ rõ, lý
giải nội dung của các quy định đó. Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm tổng
hợp, kế thừa lại những kết quả của các công trình liên quan đến chế định Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần từ trước đến nay trên cơ sở kế thừa có chọn lọc.
- Phương pháp so sánh: Đề tài thực hiện việc so sánh các quy định về Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần hiện hành với các quy định trước đây để đưa ra quan điểm
của tác giả về các quy định liên quan đến chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần.
7. Bố cục luận văn
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn được
kết cấu làm ba phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chế định Ban kiểm soát trong công ty
cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Chương 2: Nội dung quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện chế định Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần.
7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014.
1.1 Khái quát chung về công ty cổ phần
1.1.1 Khái niệm công ty cổ phần
Công ty là một trong những phát minh quan trọng nhất của loài người, là một
bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Được ra đời, phát triển qua hàng trăm năm với vô
số định dạng và biến thể khác nhau, công ty trở thành một trong những thể chế tổ
chức phổ biến nhất trên thế giới, nó giúp cho nền kinh tế phát triển, nâng cao đời sống
của nhân dân. Khái niệm công ty trên thế giới chưa có sự đồng nhất, mỗi quốc gia lại
có khái niệm công ty khác nhau, ví dụ như:
Ở Pháp “công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay nhiều người thỏa thuận
với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của mình vào một hoạt động chung nhằm chia
lợi nhuận thu được qua hoạt động đó”.
Theo luật của Bang Georgia – Mỹ “một công ty là một pháp nhân được tạo ra
bởi luật định nhằm một mục đích chung nào đó nhưng có thời hạn về thời gian tồn
tại, về quyền hạn, về nghĩa vụ và các hoạt động được ấn định trong điều lệ”.
Theo luật của Bang Lousiana – Mỹ “một công ty là một thực thể được tạo ra
bởi luật định bao gồm một hoặc nhiều cá thể dưới một tên chung. Những thành viên
có thể kế nghiệp lẫn nhau, vì thế công ty là một khối thống nhất. Tuy nhiên sự thay
đổi của những cá thể trong công ty cho một mục đích cụ thể nào đó được xem xét
như một con người cụ thể”.
Từ những khái niệm trên, có thể đưa ra nhận định chung nhất về khái niệm công
ty như sau: “Công ty là sự liên kết của hai hay nhiều người (cá nhân hay pháp nhân)
bằng một sự kiện pháp lí trong đó các bên thoả thuận với nhau sử dụng tài sản hay
khả năng của họ nhằm tiến hành các hoạt động để đạt mục tiêu chung”.
(http://www.dankinhte.vn/khai-niem-cong-ty-la-gi/)
Công ty cổ phần là một loại hình công ty, được ra đời, tồn tại và phát triển trong
những điều kiện nhất định. Công ty cổ phần có khả năng huy động vốn nhanh, tận
8
dụng được nguồn vốn trong xã hội, tạo lợi nhuận từ nguồn vốn đó. Ra đời lần đầu
tiên ở Anh từ cuối thế kỉ XVI, công ty cổ phần đã nhanh chóng phát triển và trở thành
loại hình công ty phổ biến nhất trên thế giới với những ưu thế vượt trội của mình.
Công ty cổ phần đã trở thành loại hình kinh doanh phổ biến ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới và "được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài
người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc
gia phát triển" (Nguyễn Ngọc Bích, Luật doanh nghiệp: vốn và quản lý trong công ty
cổ phần, NXB Trẻ, Hà Nội 2004, tr.38.). Công ty cổ phần là nơi tạo nên thị trường
chứng khoán, phát hành cổ phiếu, trái phiếu có tiềm năng, là sân chơi kinh doanh
năng động, bình đẳng cho các nhà đầu tư.
Ở các nước khác nhau, công ty cổ phần có những tên gọi khác nhau.Ở Pháp là
công ty vô danh (anonymous Company), Ở Anh là công ty với trách nhiệm hữu hạn
(Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh doanh (Commercial Coporation),
và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ phần (Kabushiki Kaisha)… (Viện Kinh tế Thế
giới, Công ty cổ phần? Các nước phát triển – Quá trình thành lập, tổ chức quản lý,
NXB. KHXH, Hà Nội 1991, tr.5).
Điều 110 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định khái niệm công ty cổ phần
như sau:
"1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là 03 và không
hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 119 và khoản 1 Điều 126 của Luật này.
2. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
9
3. Công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn.”
Khái niệm công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 được xây dựng
dựa trên đặc điểm của loại hình công ty này. Từ khái niệm của Luật, công ty cổ phần
được hiểu là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, nghĩa là khi thành lập và trong
suốt quá trình hoạt động các thành viên trong công ty không quan tâm nhân thân
người góp vốn mà chỉ quan tâm đến số vốn góp của họ. Tư cách thành viên công ty
và quyền cổ đông trong việc quyết định cơ cấu, hoạt động công ty được quyết định
bởi số lượng cổ phiếu mà người đó nắm giữ. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân
độc lập, mang tính tổ chức cao, có cấu trúc phức tạp.
1.1.2 Đặc điểm công ty cổ phần.
* Đặc điểm chung:
Công ty cổ phần là một loại hình công ty được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh
nên nó có đặc điểm chung của công ty như:
- Công ty cổ phần là một tổ chức kinh tế;
- Công ty cổ phần có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định.
- Công ty cổ phần được kinh doanh của pháp luật nhằm mục đích thực hiện hoạt
động kinh doanh.
* Đặc điểm đặc trưng:
Bên cạnh những đặc điểm chung giống các loại hình doanh nghiệp khác, công
ty cổ phần còn có những đặc thù riêng, phân biệt với doanh nghiệp khác.
- Thứ nhất, về vốn điều lệ công ty cổ phần.
Theo khoản 29, điều 4, Luật doanh nghiệp 2014, vốn điều lệ của công ty cổ
phần là tổng giá trị mệnh giá các cổ phần mà các cổ đông đã thanh toán cho công ty.
Tức là vốn điều lệ phải là số vốn thực góp.
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, vốn điều lệ công ty
cổ phần chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là
mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh
10
mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng
cách mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Ví dụ: Công ty cổ phần A
có vốn điều lệ 60 tỷ đồng, chia thành các cổ phần, mỗi cổ phần có mệnh giá là 10.000
đồng/1 cổ phần thì số cổ phần của công ty là 6 triệu cổ phần.
Công ty cổ phần có hai loại cổ phần: Cổ phần phổ thông; Cổ phần ưu đãi (cổ
phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi hoàn lại, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu
đãi khác do điều lệ công ty quy định).
Những công ty cổ phần đăng ký kinh doanh ngành nghề mà pháp luật yêu cầu
về vốn tối thiểu khi thành lập doanh nghiệp (vốn pháp định) phải đáp ứng điều kiện
về vốn pháp định. Ví dụ: kinh doanh bảo hiểm, chứng khoán, tổ chức tín dụng, bất
động sản, kinh doanh vàng… Những ngành nghề đòi hỏi có vốn pháp định thì vốn
điều lệ không thể nhỏ hơn vốn pháp định.
- Thứ hai, về thành viên công ty cổ phần:
Thành viên của công ty cổ phần được gọi là cổ đông. Số lượng thành viên: chủ
thể sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của công ty gọi là cổ đông. Công ty cổ
phần có tối thiểu là 3 cổ đông sáng lập và không quy định về số lượng cổ đông tối đa.
Cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức:
+ Cá nhân: không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch, nếu không thuộc đối tượng
quy định tại Khoản 2 Điều 18 Luật doanh nghiệp 2014 đều có quyền thành lập, tham
gia thành lập công ty cổ phần; nếu không thuộc đối tượng quy định tại Khoản 3 Điều
18 Luật Doanh nghiệp 2014 thì có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần.
+ Tổ chức: tất cả các tổ chức là pháp nhân, bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam không phân biệt nơi đăng ký địa chỉ trụ sở chính nếu
không thuộc đối tượng bị cấm đều có quyền thành lập, tham gia thành lập công ty cổ
phần, có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần.
Các cổ đông của công ty cổ phần bao gồm:
+ Dựa trên vai trò đối với việc thành lập công ty cổ phần:
11
(i) Cổ đông sáng lập: là cổ đông tham gia xây dựng, thông qua và ký tên vào
bản điều lệ đầu tiên của công ty cổ phần. Công ty cổ phần mới thành lập phải có ít
nhất ba cổ đông sáng lập, công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước hoặc từ công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc được chia tách hợp nhất, sát
nhập từ công ty cổ phần khác không nhất thiết phải có cổ đông sáng lập.
(ii) Cổ đông góp vốn: là cổ đông đưa tài sản vào công ty trở thành chủ sở hữu
chung của công ty.
+ Dựa trên cổ phần mà họ sở hữu:
(i) Cổ đông phổ thông: là người sở hữu cổ phần phổ thông. Công ty cổ phần bắt
buộc phải có cổ đông phổ thông.
(ii) Cổ đông ưu đãi: là người sở hữu cổ phần ưu đãi. Công ty cổ phần có thể có
cổ đông ưu đãi: cổ đông ưu đãi cổ tức, cổ đông ưu đãi hoàn lại và cổ đông ưu đãi
khác do Điều lệ công ty quy định. Cổ đông ưu đãi cổ tức và cổ đông ưu đãi hoàn lại
không có quyền biểu quyết.
- Thứ ba, là tư cách pháp nhân của công ty cổ phần:
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần đáp ứng đủ bốn điều kiện của pháp nhân là:
+ Được thành lập hợp pháp, tiến hành làm thủ tục đăng ký doanh nghiệp tại
phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và đầu tư;
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, bộ máy chặt chẽ với cơ chế làm việc rõ ràng;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó. Có sự phân định rõ ràng giữa tài sản của cổ đông với tài sản công ty. Công ty chịu
trách nhiệm bằng tài sản của công ty;
+ Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.Người
đại diện công ty cổ phần ký trong hợp đồng, tham gia giao dịch với tư cách nhân danh
công ty, vì lợi ích công ty.
- Thứ tư, là chế độ trách nhiệm tài sản.
12
Chế độ trách nhiệm tài sản của cổ đông là chế độ trách nhiệm hữu hạn, tức là
cổ đông chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm
vi số vốn góp vào công ty mà không liên quan đến tài sản riêng. Công ty phải tự chịu
trách nhiệm một cách độc lập về các nghĩa vụ tài sản bằng toàn bộ tài sản của công
ty. Cổ đông không phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty ngoài
phạm vi giá trị cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Tuy nhiên, chế độ trách nhiệm hữu hạn
mà cổ đông được hưởng cũng kèm theo những ràng buộc nhất định nhằm bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba.
- Thứ năm, là huy động vốn.
Công ty cổ phần có nhiều hình thức huy động vốn hơn so với các tổ chức kinh
tế nói chung và các doanh nghiệp khác nói riêng. Các hình thức công ty huy động
vốn là: chào bán cổ phần riêng lẻ, phát hành các loại chứng khoán ra công chúng, bán
cổ phần cho cổ đông trong công ty và phát hành trái phiếu.
- Thứ sáu, là tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp:
Cổ phần của các cổ đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu
do công ty phát hành là một loại hàng hóa, giấy tờ có giá. Người có cổ phiếu có quyền
tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
1.1.3 Cơ cấu, tổ chức công ty cổ phần
Điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về cơ cấu, tổ chức công ty cổ
phần, công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong
hai mô hình sau đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
a) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là
tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban
kiểm soát;
b) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc
lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập
13
thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều
hành công ty.
Trường hợp chỉ có một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng
quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của
công ty; trường hợp Điều lệ không có quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng quản trị
là người đại diện theo pháp luật của công ty. Trường hợp có hơn một người đại diện
theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
đương nhiên là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Căn cứ theo quy định Điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014, cơ cấu tổ chức
quản lý công ty cổ phần bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị; Giám
đốc (Tổng giám đốc); đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có
cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm
soát. Như vậy về cơ bản, cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần theo quy định tại
Luật Doanh nghiệp bao gồm các bộ phận sau:
a. Đại hội đồng cổ đông:
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết (bao gồm cổ đông
phổ thông và cổ đông ưu đãi biểu quyết), là cơ quan quyết định cao nhất của công ty
cổ phần. Đại hội đồng cổ đông chỉ họp thường niên hoặc họp bất thường ít nhất một
lần trong năm. Đại hội đồng cổ đông là nơi tập trung những người có phần vốn góp
trong công ty, có quyền quyết định mọi vấn đề từ cơ cấu tổ chức đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty cổ phần.
Đại hội đồng cổ đông có những thẩm quyền sau đây:
- Thông qua định hướng phát triển của công ty;
- Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào
bán; quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên;
14
- Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng
giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công
ty không quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác;
- Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty;
- Thông qua báo cáo tài chính hằng năm;
- Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại;
- Xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt
hại cho công ty và cổ đông công ty;
- Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty;
- Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định tại Điều lệ.
Cổ đông là tổ chức có quyền cử một hoặc một số người đại diện theo uỷ quyền
thực hiện các quyền cổ đông của mình theo quy định của pháp luật; trường hợp có
nhiều hơn một người đại diện theo uỷ quyền được cử thì phải xác định cụ thể số cổ
phần và số phiếu bầu của mỗi người đại diện. Việc cử, chấm dứt hoặc thay đổi người
đại diện theo uỷ quyền phải được thông báo bằng văn bản đến công ty trong thời hạn
sớm nhất. Công ty phải gửi thông báo về người đại diện theo uỷ quyền đến cơ quan
đăng ký kinh doanh trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông
báo.
b. Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty cổ phần, có toàn quyền nhân danh
công ty quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ
những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông.
Hội đồng quản trị có không ít hơn ba thành viên, không quá mười một thành
viên, nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Thành viên Hội đồng quản trị
không nhất thiết phải là cổ đông của công ty.
Hội đồng quản trị có thẩm quyền sau đây:
15
- Quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh
hằng năm của công ty;
- Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại;
- Quyết định bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán
của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác;
- Quyết định giá bán cổ phần và trái phiếu của công ty;
- Quyết định mua lại cổ phần của cổ đông;
- Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn
theo quy định của pháp luật;
- Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ;
- Thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng
hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của
công ty, nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ hoặc giá trị khác. Trừ những
giao dịch thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị; bổ nhiệm, miễn
nhiệm, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và
người quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định; quyết định, tiền lương
và quyền lợi khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo ủy quyền tham
gia Hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông ở công ty khác, quyết định mức
thù lao và quyền lợi khác của những người đó;
- Giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong
điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty;
- Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty, quyết định
thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ
phần của doanh nghiệp khác;
16
- Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp Đại hội đồng cổ đông, triệu
tập họp Đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến để Đại hội đồng cổ đông thông qua
quyết định;
- Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Đại hội đồng cổ đông;
- Kiến nghị mức cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc
xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh;
- Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể, yêu cầu phá sản công ty;
- Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
c. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty:
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng
ngày của công ty. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty do Hội đồng quản trị bổ
nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác, chịu sự giám sát của Hội đồng
quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực
hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định
Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật thì Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Nhiệm kỳ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không quá năm; có thể được bổ
nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty không được đồng thời làm Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.
Giám đốc hoặc tổng giám đốc có quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công
ty mà không cần phải có quyết định của Hội đồng quản trị;
- Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị;
- Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;
- Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ của công ty;
17
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, trừ
các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị;
- Quyết định tiền lương và quyền lợi khác đối với người lao động trong công ty
kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
- Tuyển dụng lao động;
- Kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
- Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và nghị
quyết của Hội đồng quản trị.
d. Ban kiểm soát:
Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông
là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát.
Ban kiểm soát có từ ba đến năm thành viên nếu Điều lệ công ty không có quy
định khác; nhiệm kỳ của Ban kiểm soát không quá năm năm; thành viên Ban kiểm
soát có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Các thành viên Ban kiểm
soát bầu một người trong số họ làm Trưởng Ban kiểm soát. Quyền và nhiệm vụ của
Trưởng Ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Ban kiểm soát phải có hơn một
nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam và phải có ít nhất một thành viên là kế toán
viên hoặc kiểm toán viên.
Ban kiểm soát có quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Ban kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc trong việc quản lý và điều hành công ty;
- Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; tính hệ thống, nhất quán và phù hợp của
công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính;
- Thẩm định tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình hình kinh
doanh, báo cáo tài chính hằng năm và 06 tháng của công ty, báo cáo đánh giá công
18
tác quản lý của Hội đồng quản trị và trình báo cáo thẩm định tại cuộc họp thường
niên Đại hội đồng cổ đông;
- Rà soát, kiểm tra và đánh giá hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội
bộ, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro và cảnh báo sớm của công ty;
- Xem xét sổ kế toán, ghi chép kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công
việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc theo nghị
quyết của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông
sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06
tháng;
- Kiểm tra theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số
cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng;
- Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi,
bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, giám sát và điều hành hoạt động kinh doanh
của công ty;
- Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
vi phạm trách nhiệm của mình, thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng
quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp
khắc phục hậu quả;
- Có quyền tham dự và tham gia thảo luận tại các cuộc họp Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị và các cuộc họp khác của công ty;
- Có quyền sử dụng tư vấn độc lập, bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty để
thực hiện các nhiệm vụ được giao;
- Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình
báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông.
- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp
2014, Điều lệ công ty và nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.
19
1.2 Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
1.2.1 Ban kiểm soát và vị trí của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Khái niệm Ban kiểm soát không được định nghĩa trong Luật. Trong giới Luật
học, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm Ban kiểm soát. Có quan điểm cho
rằng, Ban kiểm soát trong công ty nói chung và trong công ty cổ phần nói riêng được
hiểu là một cơ quan quản trị nội bộ trong công ty. (Nguyễn Thị Lan Hương, Về hoạt
động giám sát của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, Tạp chí khoa học ĐHQGHN,
Luật học 27/2011, tr.246-251). Cũng có quan điểm cho rằng, Ban kiểm soát của một
công ty có nhiệm vụ giống như các cơ quan tư pháp trong mô hình tam quyền phân
lập nhằm giúp các cổ đông kiểm soát hoạt động quản trị và quản lý điều hành công
ty.
Thực tế cho thấy, Ban kiểm soát trong công ty cổ phần ở Việt Nam được "thiết
kế" là một cơ quan riêng trong cơ cấu Hội đồng quản trị nội bộ của Công ty cổ phần,
cơ quan này có nhiệm vụ chuyên trách giám sát và đánh giá Hội đồng quản trị và
những người quản lý điều hành nhân danh cổ đông vì lợi ích của cổ đông của Công
ty cổ phần.
Cách hiểu đơn giản nhất này có thể giúp chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò của
Ban Kiểm soát trong mối quan hệ với các bộ phận khác trong Công ty cổ phần như
Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, nhất là trong hoạt động của Công
ty cổ phần thì Ban Kiểm soát trong vai trò kiểm tra, giám sát và kiềm chế, đối trọng
với Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc để các hoạt động của Công ty được hoạt động
minh bạch vì lợi ích của các cổ đông Công ty.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Ban Kiểm soát, trong đó có hai
nguyên nhân chủ yếu đó là:
Thứ nhất, sự phức tạp trong quá trình quản lý công ty và quan hệ giữa các cổ
đông. Thực tế cho thấy trong Công ty cổ phần thì sự phức tạp trong quá trình quản
lý, đan xen giữa lợi ích của các cổ đông, người chủ sở hữu thực sự và người điều hành
các hoạt động hàng ngày của Công ty, vì trên thực tế mô hình các Công ty lớn thì chủ
sở hữu là các cổ đông và người quản lý công ty nhiều khi khác nhau về lợi ích, nhiều
20
công ty có thể thuê Giám đốc điều hành và trả lương theo một mức nhất định. Còn về
phía cổ đông do có nhiều thành phần cổ đông cũng như số lượng các cổ đông của
Công ty cổ phần, có những công ty cổ phần có hàng trăm cổ đông với các thành phần
khác nhau như trí thức, người buôn bán, người lao động…
Thứ hai, sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành trực tiếp Công ty cổ
phần. Sự tách bạch này để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các cổ đông, cơ quan thực
hiện là Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc nhiều lúc không vì lợi ích của các cổ đông
nên cần có sự tách bạch, giám sát để làm rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người
điều hành, trong nhiều trường hợp, người điều hành có thể không phải là chủ sở hữu
và ngược lại chủ sở hữu có thể không phải là người điều hành.Khi quy mô các Công
ty cổ phần nhỏ, số lượng cổ đông ít, có công ty cổ phần chỉ có 3 cổ đông thì thường
không có sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành trực tiếp, mà các cổ đông
thường đồng thời là người điều hành công ty, tức là Đại hội cổ đông sẽ đồng thời là
thành viên của Hội đồng quản trị. Ví dụ, hiện nay ở Việt Nam có nhiều Công ty cổ
phần chỉ có 3 cổ đông, 3 người này cũng là 3 thành viên Hội đồng quản trị, 1 người
là Chủ tịch Hội đồng quản trị và thường kiêm luôn Giám đốc, người kia là Phó chủ
tịch Hội đồng quản trị và còn 1 người nữa thường là cổ đông cho đủ số lượng để
thành lập mô hình công ty cổ phần và thường những Công ty này mô hình hoạt động
vẫn là các thành viên trong gia đình.Tuy nhiên, khi quy mô công ty lớn hơn, số lượng
cổ đông nhiều hơn, có những công ty có hàng chục cổ đông, cá biệt có những Công
ty cổ phần lớn trên thế giới có hàng ngàn cổ đông thì sự điều hành và quản lý công ty
trở nên phức tạp và do đó, cần có một đội ngũ quản trị chuyên nghiệp. Từ đây, người
điều hành trực tiếp công ty có thể không đồng thời là chủ sở hữu công ty nữa.
Từ hai nguyên nhân trên ta thấy được vị trí của Ban kiểm soát trong mối liên hệ
với các thiết chế khác như Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc
và các cổ đông trong công ty cổ phần:
- Trong mối liên hệ với Đại hội đồng cổ đông: Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần trực thuộc Đại hội đồng cổ đông, do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm
soát chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông trong việc thực hiện chức năng
21
kiểm tra, giám sát thực hiện các quy định của Nhà nước, Điều lệ, Nghị quyết, Quyết
định của Đại hội đồng cổ đông và Hội đồng quản trị.
- Trong mối quan hệ với Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc: Ban kiểm soát
hoạt động độc lập và bình đẳng với Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Có thể nói
Ban kiểm soát có vị trí đối trọng với Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Trong quá
trình làm việc với Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban kiểm soát phối hợp chặt
chẽ, không gây cản trở lẫn nhau. Ban kiểm soát có quyền tham dự các cuộc họp Hội
đồng quản trị và Họp giao Ban để qua đó Ban kiểm soát nắm được chủ trương, định
hướng phát triển, tình hình hoạt động trên mọi mặt của công ty để thuận lợi trong quá
trình triển khai nhiệm vụ được giao.
- Trong mối quan hệ với các cổ đông: Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông
bầu ra và đại diện cho quyền lợi của cổ đông trong quá trình thực hiện trách nhiệm
và nhiệm vụ của mình. Ban kiểm soát có trách nhiệm bảo mật thông tin, xem xét,
đánh giá tính hợp lý, hợp pháp trên cơ sở tài liệu đã được kiểm tra. Ban kiểm soát có
trách nhiệm báo cáo các cổ đông thông qua Đại hội đồng cổ đông một cách trung
thực, chính xác về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Ban kiểm soát cũng có trách
nhiệm tiếp nhận, xem xét giải quyết các đề xuất, kiến nghị của cổ đông theo đúng
trình tự, quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, góp phần đảm bảo quyền và lợi
ích của các cổ đông trong công ty cổ phần.
1.2.2 Chức năng của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Theo quy định tại Điều 165 Luật Doanh nghiệp năm 2014 chức năng của Ban
kiểm soát bao gồm: giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong
việc quản lý và điều hành công ty; Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và
mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; tính hệ thống, nhất
quán và phù hợp của công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính; Thẩm định
tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài
chính hằng năm và 06 tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội
đồng quản trị và trình báo cáo thẩm định tại cuộc họp thường niên Đại hội đồng cổ
đông; Rà soát, kiểm tra và đánh giá hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội
22
bộ, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro và cảnh báo sớm của công ty; Xem xét sổ kế toán,
ghi chép kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý, điều hành
hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc theo nghị quyết của Đại hội đồng
cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông; Kiến nghị Hội đồng quản
trị hoặc Đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức
quản lý, giám sát và điều hành hoạt động kinh doanh của công ty; Khi phát hiện có
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm quy định tại
Điều 160 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì phải thông báo ngay bằng văn bản
với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
và có giải pháp khắc phục hậu quả; Có quyền tham dự và tham gia thảo luận tại các
cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và các cuộc họp khác của công ty;
Có quyền sử dụng tư vấn độc lập, bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty để thực hiện
các nhiệm vụ được giao; Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản
trị trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát là một chức năng được thực
hiện một cách liên tục nhằm cung cấp cho Đại hội đồng cổ đông những thông tin
trong hoạt động quản lý và điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc. Qua đó hoạt động giám sát giúp Đại hội đồng cổ đông có căn cứ đánh
giá hiệu quả công tác điều hành quản lý công ty của Hội đồng quản trị và Ban Giám
đốc, đảm bảo việc điều hành là đúng và tuân thủ những quy định của pháp luật và các
nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông nhằm duy trì ổn định, phát triển công ty.
Ban kiểm soát đảm bảo các chủ thể quản lý và điều hành công ty tuân thủ các
chuẩn mực về tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản
lý, điều hành hoạt động của công ty, trong công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo
tài chính. Hoạt động của Ban kiểm soát khiến cho các chủ thể quản lý và điều hành
công ty phải thận trọng hơn khi thực hiện nhiệm vụ của mình, tất cả vì lợi ích của
công ty góp phần cho sự phát triển bền vững của công ty.
Bên cạnh chức năng giám sát, hoạt động thẩm định các báo cáo cũng là chức
năng quan trọng của Ban kiếm soát. Ban kiểm soát là bước kiểm tra cuối cùng trước
khi Đại hội đồng cổ đông thông qua. Vì vậy Ban kiểm soát phải thực sự khách quan,
23
có trình độ và bản lĩnh để đánh giá chính xác các báo cáo, giúp cổ đông định hướng
được mục tiêu trong hoạt động đầu tư của mình cũng như có cái nhìn chính xác về
hiệu quả trong quản lý và điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc.
24
Tiểu kết chương 1
Trong nội dung chương 1, tác giả khái quát được về công ty cổ phần và chế định
Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, cụ thể là phân tích về cơ cấu tổ chức công ty cổ
phần đặc biệt là làm rõ vị trí, vai trò, chức năng của Ban kiểm soát . Đây là cơ sở lý
luận cho Luận văn "Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014".
Theo đó, ở từng giai đoạn khác nhau vị trí và vai trò của Ban kiểm soát trong
công ty cổ phần cũng như những quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần là
khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động, từ yếu tố chính trị, kinh tế – xã hội
cũng như quan điểm, chủ trương của mỗi công ty cổ phần được cụ thể hoá tại quy
định nội bộ về quy chế pháp lý về Ban kiểm soát. Chế định Ban kiểm soát trong công
ty cổ phần Việt Nam là cơ sở pháp lý cần thiết và quan trọng để đảm bảo cho các
thành viên Ban kiểm soát xác lập được địa vị pháp lý của mình, thể hiện được vai trò
của mình trong quá trình hoạt động.
Trong nội dung chương 2, tác giả sẽ tiến hành phân tích, đánh giá về chế định
Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và thực tiễn
áp dụng chế định này trong thời điểm hiện nay.
25
CHƯƠNG 2.NỘI DUNG QUY ĐỊNH VỀ BAN KIỂM SOÁT TRONG CÔNG
TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014.
2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về chế định
Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
* Giai đoạn thứ nhất.
Ngày 21/12/1990, Luật Công ty ra đời, hình thức công ty cổ phần mới chính
thức được quy định cụ thể. Theo Điều 30 Luật Công ty 1990, công ty cổ phần có đặc
điểm sau:
- Số thành viên cổ đông công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất
là 7.
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều
cổ phiếu.
- Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng
lập viên, của thành viên Hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu ghi tên chỉ được
chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị, trừ trường hợp quy định
tại Điều 39 của Luật này.
Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được Ban
hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực
khác nhau nhưng được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần. Hoạt động của các
doanh nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác,
do đặc thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp này
còn phải tuân thủ theo quy định của các luật chuyên ngành. Chẳng hạn như trong Luật
các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998 tại Điều 12 quy định về các loại
hình tổ chức tín dụng có hình thức tổ chức tín dụng cổ phần của Nhà nước và nhân
dân, hay nói cách khác các Ngân hàng thương mại cổ phần chính là các công ty cổ
phần hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ.
26
Cơ cấu công ty cổ phần theo Luật công ty năm 1990 bao gồm: Đại hội đồng
cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc điều hành. Khái niệm Ban
kiểm soát lần đầu tiên được ra đời và ghi nhận trong Luật. Quy định về Ban kiểm soát
của công ty cổ phần được quy định trong Luật Công ty 1990 cụ thể ở các Điều 41,
42, 43:
“Điều 41.
Công ty có hai kiểm soát viên do Đại hội đồng bầu ra, trong đó ít nhất một kiểm
soát viên phải có chuyên môn về kế toán. Kiểm soát viên có nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
1- Kiểm tra sổ sách kế toán, tài sản, các bảng tổng kết năm chính của công ty
và triệu tập Đại hội đồng, khi xét thấy cần thiết;
2- Trình Đại hội đồng báo cáo thẩm tra các bảng tổng kết năm tài chính của
công ty;
3- Báo cáo về những sự kiện tài chính bất thường xảy ra; về những ưu, khuyết
điểm trong quản lý tài chính của Hội đồng quản trị.”
“Điều 42.
Kiểm soát viên được hưởng thù lao do Đại hội đồng quyết định và chịu trách
nhiệm trước Đại hội đồng về những sai phạm của mình trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ gây thiệt cho công ty.”
“Điều 43.
Kiểm soát viên không thể đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc
(Tổng Giám đốc) công ty; không thể là vợ, chồng của các thành viên Hội đồng quản
trị, Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty.”
Theo Luật Công ty năm 1990, Ban kiểm soát gồm hai thành viên do đại hội
đồng cổ đông bầu ra, trong đó có ít nhất một kiểm soát viên phải có chuyên môn về
kế toán. Ban kiểm soát thực hiện các công việc kiểm toán nội bộ công ty, họ nhận các
báo cáo do Giám đốc công ty chuẩn bị, kiểm tra sổ sách kế toán, trình Đại hội đồng
cổ đông khi có bất thường. Thành viên Ban kiểm soát được bổ nhiệm, bãi miễn bởi
27
Đại hội đồng cổ đông theo Khoản 3 Điều 37 Luật Công ty năm 1990. Qua đó có thể
thấy những quy định về Ban kiểm soát thời kì này còn khá sơ sài, đã bộc lộ nhiều bất
cập và lạc hậu so với cách thức tổ chức theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Ban kiểm soát chưa có được vai trò chủ động mà chỉ hoạt động một cách bị động.
* Giai đoạn thứ hai.
Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp số 13/1999/QH10
(Luật Doanh nghiệp 1999) để thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư
nhân. Có thể nói, Luật Doanh nghiệp 1999 là bước tiến lớn trong công cuộc cải cách
của đất nước. Luật Doanh nghiệp 1999 đã dành 45 điều để quy định chi tiết hơn về
công ty cổ phần và hoạt động của công ty cổ phần. Đặc biệt, Luật đã quy định cụ thể
hơn về quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp 1999
cũng đã phân định rõ trách nhiệm của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và
Ban Kiểm soát.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, Ban kiểm soát là chế định bắt buộc trong
công ty cổ phần có trên 11 cổ đông. Số lượng thành viên Ban kiểm soát từ ba đến
năm người, trong đó ít nhất một người phải có chuyên môn kế toán. Thành viên Hội
đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc); người có liên quan của thành viên Hội
đồng quản trị, của Giám đốc (Tổng giám đốc), kế toán trưởng của công ty đó không
được làm thành viên Ban kiểm soát. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm các
tội buôn lậu, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa
dối khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật cũng không được làm
thành viên Ban kiểm soát. Trưởng Ban kiểm soát được các thành viên Ban kiểm soát
bầu lên, người này phải là cổ đông của công ty. Quyền và nghĩa vụ của Trưởng Ban
kiểm soát do Điều lệ công ty quy định.
Quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát được quy định cụ thể tại Khoản 2 Điều
88 Luật Doanh nghiệp năm 1999, cụ thể như sau:
“2.Ban kiểm soát có các quyền và nhiệm vụ sau đây:
28
a) Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh,
trong ghi chép sổ kế toán và báo cáo tài chính;
b) Thẩm định báo cáo tài chính hàng năm của công ty; kiểm tra từng vấn đề cụ
thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc
theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông, theo yêu cầu của cổ đông, nhóm cổ đông
quy định tại khoản 2 Điều 53 của Luật này;
c) Thường xuyên thông báo với Hội đồng quản trị về kết quả hoạt động; tham
khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình các báo cáo, kết luận và kiến nghịlên
Đại hội đồng cổ đông;
d) Báo cáo Đại hội đồng cổ đông về tính chính xác, trung thực, hợp pháp của
việc ghi chép, lưu giữ chứng từ và lập sổ kế toán, báo cáo tài chính, các báo cáokhác
của công ty; tính trung thực, hợp pháp trong quản lý, điều hành hoạt độngkinh doanh
của công ty;
đ) Kiến nghị biện pháp bổ sung, sửa đổi, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều
hành hoạt động kinh doanh của công ty;
e) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
Việc kiểm tra quy định tại các điểm a và b khoản này không được cản trở hoạt
động bình thường của Hội đồng quản trị, không gây gián đoạn trong điều hành hoạt
động kinh doanh hàng ngày của công ty.”
Nhiệm kỳ Ban kiểm soát, chế độ làm việc và thù lao cho thành viên Ban kiểm
soát do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định. Ban kiểm
soát sẽ phải chịu trách nhiệm về những sai phạm gây thiệt hại cho công ty trong khi
thực hiện nhiệm vụ trước Đại hội đồng cổ đông.
So với Luật công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp 1999 đã có những quy định
cụ thể, rõ ràng hơn về quyền hạn và trách nhiệm của Ban kiểm soát. Ban kiểm soát
lúc này đã chủ động hơn trong việc thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Bên cạnh chức năng kiểm toán nội bộ, Ban kiểm soát đã tham gia kiến nghị cải tiến
cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
29
* Giai đoạn thứ ba.
Luật Doanh nghiệp năm 1999 được triển khai thực hiện, góp phần phát huy
được nội lực trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước. Tuy
nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 1999 vẫn còn những khiếm khuyết, tồn tại, thiếu tính
nhất quán. Trước sự thay đổi phát triển của đất nước, Luật Doanh nghiệp năm 2005
được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Chế định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp năm
2005 được quy định từ Điều 121 đến Điều 127. Theo đó, Công ty cổ phần có trên
mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ
phần của công ty phải có Ban kiểm soát (Điều 95); Ban kiểm soát phải có từ ba đến
năm thành viên trừ trường hợp điều lệ công ty có quy định khác; Nhiệm kỳ Ban kiểm
soát không quá năm năm, thành viên Ban kiểm soát csot hể được bầy lại với nhiệm
kỳ không hạn chế. Công việc chủ yếu của Ban kiểm soát mang tính nghề nghiệp do
đó họ phải có chuyên môn về quản lý tài chính, bởi vậy Luật quy định Ban kiểm soát
phải có ít nhất một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã nâng cao, tăng cường và quy định cụ thể hơn
vai trò, vị trí và trách nhiệm của Ban kiểm soát so với Luật Doanh nghiệp năm 1999.
Các chế định Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 cơ bản được hoàn
thiện, phù hợp với nhu cầu thực tiễn khách quan của nền kinh tế.
* Giai đoạn hiện nay.
Ngày 26/11/2014, Luật Doanh nghiệp năm 2014 chính thức được Quốc hội Ban
hành với mục tiêu cao nhất là đưa doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh rẻ
hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư để qua đó tăng cường thu hút và
huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở
kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật
Doanh nghiệp 2005, đồng thời khắc phục những điểm hạn chế, bất cập của quy định
hiện hành và thể chế hóa các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn, Luật Doanh nghiệp
2014 đã có những quy định mới nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi
hơn nữa cho doanh nghiệp.
30
Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần được quy định từ Điều 163 đến
Điều 169 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Chế định Ban kiểm soát theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014 so với Luật Doanh nghiệp năm 2005 có nhiều điểm tiến bộ hơn, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nói chung và loại hình công ty cổ phần
nói riêng. Chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần được Luật Doanh nghiệp
2014 điều chỉnh với nhiều quy định mới, trong đó, đáng chú ý là những quy định về
sự tồn tại và sức ảnh hưởng của Ban kiểm soát trong cơ cấu tổ chức, quản lý của công
ty cổ phần. Những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về chế định Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần bao gồm:
- Về quy định thành lập Ban kiểm soát, so với Luật Doanh nghiệp năm 2005,
bắt buộc công ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ
chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 cho phép công ty cổ phần được tự do lựa chọn theo hai mô hình: Ở
mô hình thứ nhất, gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và
các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt
buộc Ban kiểm soát. Còn ở mô hình thứ hai, gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên
Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội
đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực
hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty.
Pháp luật quy định cho phép tự do lựa chọn mô hình quản trị đối với công ty cổ
phần vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với thực tế đa dạng của doanh
nghiệp về quy mô, tính chất sở hữu và sự đa dạng của cách thức quản trị công ty như
hiện nay ở Việt Nam. Mặt khác, quy định mới này cũng phù hợp với thực tế hoạt
động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần hiện nay. Mặc dù về lý thuyết, việc
tồn tại Ban kiểm soát có vẻ mang đến nhiều lợi ích cho công ty, nhưng khi hoạt động,
Ban kiểm soát khó có thể thực hiện được hết chức năng, nhiệm vụ của mình. Hội
đồng quản trị, tổng giám đốc hoặc giám đốc thường tìm cách và đủ điều kiện để hạn
chế vai trò của Ban kiểm soát. Đó là chưa kể, có thể một phần do tâm lý “người nhà”
31
nên rất khó để cho các thành viên Ban kiểm soát hoạt động một cách công tâm. Do
vậy, giao quyền tự quyết có thành lập Ban kiểm soát hay không là hoàn toàn hợp lý
theo nguyện vọng, mong muốn và nhu cầu củacông ty cổ phần.
- Về quyền của Ban kiểm soát, so với Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh
nghiệp 2014 đã quy định bổ sung quyền của Ban kiểm soát như sau: Ban kiểm soát
có quyền tham gia các cuộc họp của Hội đồng thành viên, các cuộc tham vấn và trao
đổi chính thức và không chính thức của cơ quan đại diện chủ sở hữu với Hội đồng
thành viên; có quyền chất vấn Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên
và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty về các kế hoạch, dự án hay chương trình
đầu tư phát triển và các quyết định khác trong quản lý điều hành công ty.
- Về việc bầu thành Ban kiểm soát, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không còn
quy định việc bầu thành viên Ban kiểm soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn
phiếu, mà có thể chọn phương thức bầu bình thường.
- Về điều kiện đối với Trưởng Ban kiểm soát, Điều 163 về “Ban kiểm soát”,
Luật Doanh nghiệp quy định: “Trưởng Ban kiểm soát phải là kế toán viên hoặc kiểm
toán viên chuyên nghiệp và phải làm việc chuyên trách tại công ty, trừ trường hợp
Điều lệ công ty quy định tiêu chuẩn khác cao hơn.”
2.2 Thành lập, tổ chức Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Theo quy định Luật Doanh nghiệp năm 2014 tại khoản 1 Điều 134, công ty cổ
phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình sau:
- Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là
tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có Ban
kiểm soát;
- Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.
Trường hợp này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc
lập và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập
thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều
hành công ty.
32
Việc thành lập Ban kiểm soát trong công ty cổ phần dựa trên tiêu chí số lượng
về cổ đông hoặc số lượng cổ phần của công ty mà tổ chức sở hữu. Quy định này là
điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép công ty cổ phần có quyền lựa chọn
mô hình tổ chức quản lý của mình. Đối chiếu với Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì
cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần bắt buộc phải có Ban kiểm soát khi có trên mười
một cổ đông là cá nhân hoặc cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của
công ty. Quy định theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 đồng nghĩa với việc nếu số
lượng cổ đông là cá nhân từ mười một người trở xuống và không có tổ chức sở hữu
trên 50% số cổ phần thì không bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát, việc thành lập
Ban kiểm soát trong trường hợp này là do Đại hội đồng cổ đông quyết định căn cứ
vào nhu cầu và thực tế hoạt động của công ty.
Luật Doanh nghiệp 2014 cho chép công ty cổ phần lựa chọn việc có Ban kiểm
soát hay không trong cơ cấu tổ chức, quản lý công ty của mình. Theo đó, trừ trường
hợp có quy định khác từ pháp luật chứng khoán, công ty cổ phần có quyền không
thành lập Ban kiểm soát trong trường hợp: nếu lựa chọn mô hình tổ chức công ty bao
gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
(trong trường hợp này công ty phải đảm bảo ít nhất 20% số thành viên hội đồng quản
trị phải là thành viên độc lập và có ban kiểm toán nội bộ trực thuộc hội đồng quản trị
để thực hiện chức năng kiểm soát hoạt động của công ty). Hoặc công ty cổ phần có
dưới mười một cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần
của công ty.
Quy định cho phép tự do lựa chọn mô hình quản trị đối với công ty cổ phần vừa
phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với thực tế đa dạng của doanh nghiệp về
quy mô, tính chất sở hữu và sự đa dạng của cách thức quản trị công ty như hiện nay
ở Việt Nam. Mặt khác, quy định mới này cũng phù hợp với thực tế hoạt động của ban
kiểm soát trong công ty cổ phần hiện nay. Mặc dù về lý thuyết, việc tồn tại ban kiểm
soát có vẻ mang đến nhiều lợi ích cho công ty, nhưng khi hoạt động, Ban kiểm soát
khó có thể thực hiện được hết chức năng, nhiệm vụ của mình. Hội đồng quản trị,
Tổng giám đốc hoặc Giám đốc thường tìm cách và đủ điều kiện để hạn chế vai trò
của Ban kiểm soát. Đó là chưa kể, có thể một phần do tâm lý “người nhà” nên rất khó
33
để cho các thành viên ban kiểm soát hoạt động một cách công tâm. Do vậy, giao
quyền tự quyết có thành lập ban kiểm soát hay không là hoàn toàn hợp lý theo nguyện
vọng, mong muốn và nhu cầu của công ty cổ phần.
Quy định về việc thành lập Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật
Doanh nghiệp 2014 còn chưa rõ ràng, cụ thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau như:
Nếu số lượng cổ đông là tổ chức và số lượng cổ đông là cá nhân trên mười một nhưng
không có tổ chức nào nắm giữ 50% cổ phần công ty; hoặc số lượng cổ đông là cá
nhân dưới mười một người nhưng có cổ đông chiếm tỷ lệ cổ phần trên 50% tức là có
khả năng chi phối và điều hành hoạt động của công ty; hoặc khi thành lập, công ty cổ
phần không rơi vào những trường hợp luật định phải thành lập Ban kiểm soát nhưng
nếu trong quá trình hoạt động mà công ty hội đủ các điều kiện phải thành lập Ban
kiểm soát thì trình tự thủ tục và thời gian tiến hành như thế nào. Từ những trường
hợp kể trên ta thấy được quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về việc thành
lập Ban kiểm soát chưa quy định cụ thể, chi tiết vì vậy trong hoạt động thực tiễn khó
tránh khỏi việc cổ đông có ảnh hưởng (Sở hữu số cổ phần cao trong công ty) lợi dụng
kẽ hở của Luật để thao túng gây thiệt hại cho những cổ đông khác, ngoài ra quy định
về việc thành lập Ban kiểm soát còn làm cho các nhà đầu tư phải suy nghĩ rằng có sự
phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư là tổ chức và nhà đầu tư là cá nhân vì Luật quy định
thành lập Ban kiểm soát khi tổ chức nắm giữ trên 50% cổ phần còn cá nhân thì không
bắt buộc, trong khi đó cá nhân có thể dễ dàng thao túng gây ảnh hưởng đến công ty
nói chung và các cổ đông khác nói riêng bởi cá nhân thể hiện ý chí chủ quan của một
người nên quyết định của cá nhân thiếu tính khách quan còn tổ chức khi đưa ra một
quyết định cần có sự bàn bạc, thống nhất ý kiến của Ban lãnh đạo.
Về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát của công ty cổ phần được quy định tại
khoản 1 Điều 163 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Theo đó Ban kiểm soát có từ 03 đến
05 thành viên nhiệm kỳ của Kiểm soát viên không quá 05 năm và Kiểm soát viên có
thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Quy định này đã khắc phục được
quy định về cơ cấu Ban kiểm soát ở Luật Doanh nghiệp năm 2005. Luật Doanh nghiệp
năm 2005 tại khoản 1 Điều 121 quy định nếu Điều lệ công ty không có quy định khác
thì Ban kiểm soát có từ 03 đến 05 thành viên, tuy nhiên nếu điều lệ công ty có quy
34
định khác về số lượng thành viên Ban kiểm soát thì có được hay không. Quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã khắc phục được vấn đề đó. Theo quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2014 thì thành viên Ban kiểm soát tối thiểu là 03 người và tối đa
là 05 năm người, quy định rõ ràng về số lượng thành viên Ban kiểm soát. Nhiệm kỳ
của Ban kiểm soát là 05 năm và không hạn chế nhiệm kỳ làm thành viên Ban kiểm
soát, thời gian tại vị của thành viên Ban kiểm soát phụ thuộc vào hiệu quả công việc
và uy tín của họ đối với cổ đông.
Ban kiểm soát sẽ có một trưởng Ban kiểm soát. Các thành viên Ban kiểm soát
sẽ bầu một người trong số họ làm Trưởng Ban kiểm soát trên nguyên tắc đa số.
Trưởng Ban kiểm soát phải có chuyên môn kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên
nghiệp và phải làm việc chuyên trách tại công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy
định tiêu chuẩn khác cao hơn.
2.3 Nhiệm vụ, quyền hạn Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Điều 165 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Ban
kiểm soát, gồm:
- Ban kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc trong việc quản lý và điều hành công ty.
- Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; tính hệ thống, nhất quán và phù hợp của
công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính.
- Thẩm định tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình hình kinh
doanh, báo cáo tài chính hằng năm và 06 tháng của công ty, báo cáo đánh giá công
tác quản lý của Hội đồng quản trị và trình báo cáo thẩm định tại cuộc họp thường
niên Đại hội đồng cổ đông.
- Rà soát, kiểm tra và đánh giá hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội
bộ, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro và cảnh báo sớm của công ty.
- Xem xét sổ kế toán, ghi chép kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công
việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc theo nghị
35
quyết của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông
quy định tại khoản 2 Điều 114 của Luật này.
- Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 114
của Luật này, Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được yêu cầu. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra,
Ban kiểm soát phải báo cáo giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội
đồng quản trị và cổ đông hoặc nhóm cổ đông có yêu cầu.
Việc kiểm tra của Ban kiểm soát quy định tại khoản này không được cản trở
hoạt động bình thường của Hội đồng quản trị, không gây gián đoạn điều hành hoạt
động kinh doanh của công ty.
- Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông các biện pháp sửa đổi,
bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, giám sát và điều hành hoạt động kinh doanh
của công ty.
- Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
vi phạm quy định tại Điều 160 của Luật này thì phải thông báo ngay bằng văn bản
với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm
và có giải pháp khắc phục hậu quả.
- Có quyền tham dự và tham gia thảo luận tại các cuộc họp Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị và các cuộc họp khác của công ty.
- Có quyền sử dụng tư vấn độc lập, bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty để
thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị trước khi trình
báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông.
- Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này, Điều lệ
công ty và nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông.
Từ quy định cụ thể của Luật, ta có thể phân chia nhiệm vụ và quyền hạn của
Ban kiểm soát thành các nhóm như sau:
36
- Quyền kiểm tra, giám sát: Ban kiểm soát có trách nhiệm thẩm định báo cáo
tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo
đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị. Báo cáo của Ban kiểm soát là tài
liệu để so sánh các báo cáo tài chính của công ty từ đó giúp nhà đầu tư và các cơ quan
quản lý Nhà nước có cái nhìn tổng thể về hoạt động kinh doanh của công ty. Tuy
nhiên, các báo cáo thẩm tra của Ban kiểm soát thường là sự sao chép ít có thông tin
phản biện hay lập luận chỉ ra những mâu thuẫn trong báo cáo tài chính. Do đó, báo
cáo của Ban kiểm soát thường chỉ có giá trị lưu hành nội bộ chứ không có nhiều giá
trị.
Việc quy định Ban kiểm soát có quyền kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung
thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh trong tổ
chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính. Tuy nhiên trên thực tế người
điều hành công ty có nhiều lý do biện minh cho rằng khi thực hiện quyết định họ đã
đảm bảo cho quyết định của mình là hợp lý, hợp pháp, không vụ lợi và có mức độ
cẩn trọng cần thiết.
- Quyền được cung cấp đầy đủ, kịp thời các văn bẳn thuộc về chủ trương, chính
sách, các văn bản của Công ty và tiếp cận tài liệu có liên quan đến hoạt động Công
ty theo yêu cầu. Quyền được cung cấp thông tin của Ban kiểm soát được quy định tại
Điều 166 Luật Doanh nghiệp năm 2014, cụ thể như sau:
- Thông báo mời họp, phiếu lấy ý kiến thành viên Hội đồng quản trị và các tài
liệu kèm theo phải được gửi đến các Kiểm soát viên cùng thời điểm và theo phương
thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị.
- Các nghị quyết và biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị
phải được gửi đến cho các Kiểm soát viên cùng thời điểm và theo phương thức như
đối với cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị.
- Báo cáo của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trình Hội đồng quản trị hoặc tài
liệu khác do công ty phát hành được gửi đến các Kiểm soát viên cùng thời điểm và
theo phương thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị.
37
- Kiểm soát viên có quyền tiếp cận các hồ sơ, tài liệu của công ty lưu giữ tại trụ
sở chính, chi nhánh và địa điểm khác; có quyền đến các địa điểm làm việc của người
quản lý và nhân viên của công ty trong giờ làm việc.
- Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc, người quản lý khác phải cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời thông tin, tài liệu
về công tác quản lý, điều hành và hoạt động kinh doanh của công ty theo yêu cầu của
thành viên Ban kiểm soát hoặc Ban kiểm soát.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 so với Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã khắc phục
được những hạn chế về việc thực hiện quyền cung cấp thông tin của Ban kiểm soát.
Cụ thể, trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 tại khoản 1, 2 Điều 124 chưa quy định
về các tài liệu khác được gửi đến nào? Ban kiểm soát phải yêu cầu hay không? Thời
gian và phương thức gửi? Chế tài đối với việc không gửi, không cung cấp hoặc cung
cấp không đầy đủ, không đúng thời gian, không chính xác cản trở việc tiếp nhận thông
tin thì xử lý như thế nào? Quyền cung cấp các thông tin của Ban kiểm soát trong Luật
Doanh nghiệp năm 2014 đã khắc phục được những vấn đề kể trên, thể hiện cụ thể
hơn góp phần thuận lợi cho Ban kiểm soát thực hiện chức năng và nhiệm vụ của
mình. Đây là điểm mới quan trọng và cần thiết bởi các nghị quyết và biên bản họp
của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị sẽ giúp Ban kiểm soát nắm rõ được chủ
trương, đường lối hoạt động của công ty cho nên việc quy định phương thức và thời
điểm gửi các văn bản trên phải được thực hiện như đối với cổ đông, thành viên Hội
đồng quản trị. Pháp luật quy định điều này gió phần tăng cường hơn nữa địa vị pháp
lý của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, đồng thời tiếp tục nâng cao hoạt động
kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát trong công ty.
- Quyền được sử dụng tư vấn độc lập để thực hiện các nhiệm vụ được giao, tham
khảo ý kiến các uỷ viên Hội đồng quản trị về hoạt động của Ban kiểm soát cũng như
nội dung báo cáo của Ban kiểm soát trước khi trình lên Đại hội đồng cổ đông. So với
Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật hiện hành có điểm mới đó là quy định thêm việc
Ban kiểm soát được quyền sử dụng bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty để thực
hiện các nhiệm vụ được giao. Quy định mới này nhằm tiết kiệm chi phí cho công ty,
tận dụng được những nguồn lực sẵn có của công ty. Quyền được sử dụng tư vấn độc
38
lập giúp cho Ban kiểm soát khắc phục được điểm yếu của mình khi không phải thành
viên Ban kiểm soát nào cũng có đủ kỹ năng và chuyên môn thẩm định các báo cáo.
Quyền được sử dụng tư vấn độc lập đảm bảo cho Ban kiểm soát thực hiện tốt các
nhiệm vụ của mình.
- Quyền được tham dự họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và các cuộc
họp khác của công ty. Thông qua việc tham dự cuộc họp sẽ giúp Ban kiểm soát nắm
bắt được các nghị quyết, quyết định từ đó có cách nhìn nhận và đánh giá kịp thời về
tính hợp pháp và hợp lý của các quyết định này, qua đó sớm phát hiện những quyết
định có khả năng gây thiệt hại cho công ty. Quy định này phù hợp với thực tiễn, việc
có mặt Ban kiểm soát tại các cuộc họp quan trọng của công ty cổ phần sẽ góp phần
làm tăng chất lượng cuộc họp.
- Quyền yêu cầu, kiến nghị: Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị,
Giám đốc, Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty thì phải "thông
báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả". Tuy nhiên cơ chế để thực
thi quyền này như thế nào chưa được Luật hiện hành đề cập đến khi người vi phạm
không chấm dứt hành vi vi phạm cũng như không đưa ra giải pháp khắc phục hậu quả
hoặc thời gian để người vi phạm chấm dứt hành vi. Quy định này rất khó thực thi trên
thực tế.
Về lý thuyết khi phát hiện vi phạm, nếu Ban kiểm soát đã báo cáo Hội đồng
quản trị và yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục nhưng họ
không thực hiện thì Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị triệu tập họp
bất thường Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 136 Luật
Doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên quy định này khó thực hiện, không phải là giải
pháp tối ưu.
Ở Luật Doanh nghiệp năm 2005 ngoài quyền yêu cầu thành viên Hội đồng quản
trị, Giám đốc, Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty chấm dứt
hành vi vi phạm Điều 107 cho phép Ban kiểm soát yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài
xem xét, huỷ bỏ quyết định của Đại hồi đồng cổ đông trong thời hạn 90 ngày kể từ
39
ngày nhận biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy
ý kiến Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp trình tự và thủ tục triệu tập họp
Đại hội đồng cổ đôngkhông thực hiện đúng theo quy định của Luật Daonh nghiệp và
Điều lệ công ty hoặc trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm
pháp luật hoặc Điều lệ công ty trừ trường hợp "các quyết định được thông qua tại
cuộc hợp Đại hội đồng cổ đông với số cổ đông trực tiếp và uỷ quyền tham dự đại diện
100% tổng số cổ phần có quyền biể quyết là hợp pháp" (Khoản 4 Điều 104 Luật
doanh nghiệp năm 2005). Quy định này chứng tỏ tính độc lập trong hoạt động của
Ban kiểm soát tuy nhiên Luật Doanh nghiệp năm 2014 lại không còn quy định này,
tước đi quyền yêu cầu Toà án hoặc Trọng tài xem xét huỷ bỏ quyết định hoặc một
phần nội dung quyết định của Đại hội đồng cổ đông, điều này đã vô tình hạ thấp vị
thế của Ban kiểm soát.
Ban kiểm soát có quyền kiến nghị những giải pháp để từ đó nâng cao hiệu quả
hoạt động quản lý và điều hành công ty. Ban kiểm soát có quyền kiến nghị "các biện
pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, giám sát và điều hành hoạt
động kinh doanh của công ty",quy định này nâng cao vai trò của Ban kiểm soát trong
quá trình thực thi quyền và nhiệm vụ của mình.
Kết luận, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có nhiều điểm tiến bộ hơn so với
Luật Doanh nghiệp năm 2005 trong việc quy định quyền của Ban kiểm soát trong
công ty cổ phần. Tuy nhiên trong thức tế thi hành Ban kiểm soát thường không làm
tròn nhiệm vụ quyền hạn của mình. Nguyên nhân một phần là do Ban kiểm soát yếu
về nhân lực, năng lực do các thành viên Ban kiểm soát thường kiêm nhiệm, thiếu kiến
thức quản lý rủi ro về kế toán kiểm toán. Hiệu quả hoạt động của Ban kiểm soát chưa
cao do cơ chế như bị hạn chế quyền trong quá trình thực hiện hoạt động kiểm soát
của mình, việc phối hợp với các bộ phận liên quan còn yếu. Điều này dẫ đến hậu quả
vô cùng lớn trong công tác quản lý điều hành công ty, ảnh hưởng nghiêm trọng tới
năng suất, hiệu quả và sự phát triển công ty.
2.4 Thành viên Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
* Tiêu chuẩn trở thành thành viên Ban kiểm soát.
40
Theo quy định tại Điều 164 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thành viên Ban kiểm
soát công ty cổ phần phải thoả mãn được các điều kiện và tiêu chuẩn sau:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập
và quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định các tổ chức, cá nhân
sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam:
+ Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để
thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
+ Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức;
+ Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc
phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người
được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh
nghiệp;
+ Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những
người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp khác;
+ Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
+ Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết
định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc
đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất
định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo
quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.
Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập
doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh."
41
- Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc và người quản lý khác;
- Không được giữ các chức vụ quản lý công ty; không nhất thiết phải là cổ đông
hoặc người lao động của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác;
Ngoài ra, kiểm soát viên công ty cổ phần niêm yết, công ty do Nhà nước nắm
giữ trên 50% vốn điều lệ phải là kiểm toán viên hoặc kế toán viên.
Khoản 2 Điều 163 Luật Doanh nghiệp năm 2014, thành viên Ban kiểm soát sẽ
bầu một người bầu một người trong số họ làm Trưởng Ban kiểm soát theo nguyên tắc
đa số. Quyền và nghĩa vụ của Trưởng Ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định.
Ban kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam. Trưởng
Ban kiểm soát phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp và phải làm
việc chuyên trách tại công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định tiêu chuẩn
khác cao hơn. Luật Doanh nghiệp 2014 đã áp đặt quy dịnh cứng về tiêu chuẩn của
Trưởng Ban kiểm soát nhằm tăng cường kinh nghiệm về chuyên môn đến hoạt động
tài chính (một vấn đề quan trọng nhất của công ty), đồng thời yêu cầu Trưởng Ban
kiểm soát làm việc chuyên trách tại công ty để tập trung cho công việc, góp phần đảm
bảo hiệu quả công việc cao. Quy định về chất lượng Trưởng Ban kiểm soát nhằm
tăng cường hơn nữa về chuyên môn của Ban kiểm soát, đảm bảo cho Ban kiểm soát
thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình.
Về cơ bản Luật Doanh nghiệp năm 2014 kế thừa các điều kiện và tiêu chuẩn
về thành viên Ban kiểm soát được quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2005. Tuy
nhiên Luật Doanh nghiệp năm 2014 có điểm mới là không cấm thành viên Ban kiểm
soát là người lao động của công ty nên khả năng một người lao động đồng thời là cổ
đông sẽ được Đại hội đồng cổ đông bầu làm thành viên Ban kiểm soát. Trên thực tế,
thành viên Ban kiểm soát được bầu từ những người được cổ đông lớn đề cử và có
quan hệ thân quen với các thành viên Hội đồng quản trị bởi vậy hoạt động giám sát
dễ bị chi phối bởi quan hệ quan hệ phụ thuộc sẽ có khả năng làm giảm tính khách
quan trong hoạt động của Ban kiểm soát. Pháp luật cũng quy định "thành viên Ban
42
kiểm soát không được giữ chức vụ quản lý công ty" (Điều 164 Luật Doanh nghiệp
năm 2014). Quy định trên chưa hoàn toàn phù hợp bởi nếu thành viên Ban kiểm soát
không được giữ các chức vụ quản lý công ty nghĩa là thành viên Ban kiểm soát chỉ là
một người lao động bình thường, một nhân viên cấp thấp trong công ty. Trong vai trò
kiểm soát, họ cần độc lập với Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc, còn trong vai trò
người lao động, họ chịu sự quản lý của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc. Chính điều
này khiến Ban kiểm soát khó độc lập kiểm soát hoạt động trong công ty cổ phần bởi
sự mâu thuẫn giữa hai vai trò vừa giám sát hoạt động vừa chịu sự quản lý của những
người mình giám sát khiến cho Ban kiểm soát chịu nhiều áp lực.
* Biểu quyết bầu thành viên Ban kiểm soát.
Việc bầu thành viên Ban kiểm soát theo quy định tại điểm a khoản 2 và điểm b
khoản 4 Điều 114 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì chỉ có cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu
tháng hoặc một tỷ lệ khá nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty mới được quyền đề cử
một hoặc một số người làm ứng cử viên vào Ban kiểm soát, trường hợp số ứng cử
viên được đề cử thấp hơn số ứng cử viên mà họ được quyền đề cử theo quyết định
của Đại hội đồng cổ đông thì số ứng cử viên còn lại do Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát và các cổ đông khác đề cử.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 không quy định việc bầu thành viên Ban kiểm
soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu mà có thể chọn phương thức bầu
khác. Quy định cũ theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, thành viên Ban kiểm soát được
bầu theo phương thức bầu dồn phiếu, hình thức bầu dồn phiếu góp phần bảo vệ quyền
lợi của nhóm cổ đông thiểu số. Có nhiều quan điểm khác nhau về việc thay đổi quy
định bầu dồn phiếu như sau: quan điểm thứ nhất, đồng tình với sự thay đổi của luật
vì việc quy định bắt buộc bầu dồn phiếu có thể dẫn đến tình trạng các cổ đông lớn
của công ty lợi dụng để lựa chọn phương án có lợi cho mình thay vì lợi ích chung của
công ty cổ phần; quan điểm thứ hai, không đồng tình với sự thay đổi này bởi như vậy
sẽ tước bỏ một công cụ quan trọng để bảo vệ nhóm cổ đông thiểu số. Theo quan điểm
cá nhân, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, cần xem xét điều chỉnh quy định
43
việc bầu thành viên Ban kiểm soát để góp phần bảo vệ cổ đông thiểu số trong công
ty cổ phần.
* Miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Ban kiểm soát.
Luật Doanh nghiệp 2005 gộp chung miễn nhiệm, bãi nhiệm vào Điều 127, có
thể hiểu rằng việc miễn nhiệm và bãi nhiệm là một và dẫn đến các điều kiện kiểm
soát viên bị miễn nhiệm và bãi nhiệm là một. Quy định như vậy chưa phù hợp bởi
miễn nhiệm và bãi nhiệm là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Miễn nhiệm là cho
thôi chức vụ do không hoàn thành nhiệm vụ, do thiếu trách nhiệm, do nhu cầu của
nhiệm vụ hoặc theo đề nghị của người bị miễn nhiệm vì lí do sức khoẻ hoặc lí do
khác. Còn bã nhiệm là một chế tài kỷ luật buộc thôi giữ chức vụ do bầu trước khi hết
nhiệm kỳ đối với người đang được giao giữ chức vụ có hành vi vi phạm pháp luật
hay Điều lệ công ty. Do vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 các nhà làm luật đã tách
bạch rõ hai phạm trù miễn nhiệm và bãi nhiệm thể hiện qua quy định tại khoản 1,
khoản 2 Điều 169.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 169 Luật Doanh nghiệp 2014, thành viên Ban
kiểm soát bị miễn nhiệm trong các trường hợp:
- Không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện làm Kiểm soát viên theo quy định tại
Điều 164 của Luật này;
- Không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong 06 tháng liên tục, trừ
trường hợp bất khả kháng;
- Có đơn từ chức và được chấp thuận;
- Các trường hợp khác do Điều lệ công ty quy định.
Cũng tại Điều 169, khoản 2 quy định các trường hợp thành viên Ban kiểm soát
bị bãi nhiệm gồm:
- Không hoàn thành nhiệm vụ, công việc được phân công;
- Vi phạm nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần nghĩa vụ của Kiểm soát viên
quy định của Luật này và Điều lệ công ty;
- Theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
44
* Trách nhiệm của Kiểm soát viên
Quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014 kế thừa các quy định Luật Doanh nghiệp năm 2005. Điều 168 Luật Doanh
nghiệp 2014 quy định trách nhiệm mà kiểm sát viên phải tuân thủ khi thực hiện nhiệm
vụ của mình bao gồm: Tuân thủ đúng pháp luật, Điều lệ công ty, nghị quyết của Đại
hội đồng cổ đông và đạo đức nghề nghiệp trong thực hiện các quyền và nghĩa vụ được
giao; Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt
nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty; Trung thành với lợi ích của
công ty và cổ đông; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công
ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của
tổ chức, cá nhân khác; Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công
ty.
Trường hợp vi phạm quy định nêu trên gây thiệt hại cho công ty hoặc người
khác thì Kiểm soát viên phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới bồi thường thiệt
hại đó. Mọi thu nhập và lợi ích khác mà Kiểm soát viên có được phải hoàn trả cho
công ty. Trách nhiệm vật chất của kiểm soát viên khi vi phạm nghĩa vụ của mình đã
được Luật quy định rất cụ thể, tuỳ vào mức độ và sự tham gia của thành viên Ban
kiểm soát trong việc gây thiệt hại cho công ty mà có sự phân hoá trách nhiệm khác
nhau, đó có thể là trách nhiệm cá nhân hoặc trách nhiệm liên đới.
Trường hợp phát hiện có Kiểm soát viên vi phạm trong thực hiện quyền và nghĩa
vụ được giao thì Hội đồng quản trị phải thông báo bằng văn bản đến Ban kiểm soát;
yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc
phục hậu quả.
* Chế độ thù lao và lợi ích khác của Kiểm soát viên.
Điều 167 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về tiền lương và quyền lợi
khác của Kiểm soát viên. Theo đó, trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy
định khác, thì tiền lương và quyền lợi khác của Kiểm soát viên được thực hiện theo
quy định sau đây:
45
- Kiểm soát viên được trả tiền lương hoặc thù lao và được hưởng các quyền lợi
khác theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông quyết định
tổng mức lương, thù lao và ngân sách hoạt động hằng năm của Ban kiểm soát;
- Kiểm soát viên được thanh toán chi phí ăn, ở, đi lại, chi phí sử dụng dịch vụ
tư vấn độc lập với mức hợp lý. Tổng mức thù lao và chi phí này không vượt quá tổng
ngân sách hoạt động hằng năm của Ban kiểm soát đã được Đại hội đồng cổ đông chấp
thuận, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ đông có quyết định khác;
- Tiền lương và chi phí hoạt động của Ban kiểm soát được tính vào chi phí kinh
doanh của công ty theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, pháp
luật có liên quan và phải được lập thành mục riêng trong báo cáo tài chính hằng năm
của công ty.
Bên cạnh những quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của thành viên Ban kiểm
soát thì quy định về chế độ thù lao và quyền lợi khác mà Ban kiểm soát được hưởng
là điều hợp lý, chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần sẽ hoàn thiện hơn.
Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định chế độ thù lao của Ban kiểm soát theo
công việc, dựa trên số ngày làm việc, số lượng và tính chát công việc mà không quy
định về hiệu quả trong công việc. Quy định như vậy gián tiếp thừa nhận hoạt động
của Ban kiểm soát mang tính bán chuyên trách gây nên sự thiếu chuyên nghiệp, thành
viên Ban kiểm soát chưa nâng cao trình độ chuyên môn và chưa hết lòng với công
việc được giao. Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã khắc phục được thiếu sót và hạn chế
trên, Luật quy định thành viên Ban kiểm soát được trả lương hoặc thù lao cũng như
ngân sách hoạt động của Ban kiểm soát sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định mà
không cần căn cứ vào những tiêu chí cụ thể như Luật Doanh nghiệp 2005.
2.5 Thực tiễn áp dụng các quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Theo các chế định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh
nghiệp 2014, Ban kiểm soát có vị trí độc lập, chuyên trách có chức năng giám sát Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công
ty, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo
46
cáo tài chính cũng như thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính
hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng
quản trị. Về mô hình, Ban kiểm soát có thể ngang cấp với Hội đồng quản trị và trên
cả Ban lãnh đạo công ty song thực tế, Ban kiểm soát gặp rất nhiều khó khăn để thực
hiện được chức năng, nhiệm vụ của và đạt được vị thế của mình.
Thực tiễn áp dụng các quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần ở Việt
Nam cho thấy Ban kiểm soát chưa thể hiện đầy đủ vai trò bảo vệ cổ đông và các nhà
đầu tư. Trong thời gian qua, có rất nhiều việc làm sai của Hội đồng quản trị và Ban
Giám đốc ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của cổ đông nhưng không hề có tiếng
nói cảnh báo nào từ Ban kiểm soát cho đến khi bị phát hiện. Hoạt động của Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần còn nhiều vấn đề bất cập, chủ yếu gồm những vấn đề như
sau:
Ban kiểm soát chưa phát huy được vai trò của mình trong công ty cổ phần.
Các báo cáo của Ban kiểm soát thường chỉ mang tính hình thức, nội dung tương
tự như báo cáo của Hội đồng quản trị và Ban lãnh đạo công ty, không đánh giá khách
quan được tình hình hoạt động của công ty. Điều này dẫn tới hậu quả Ban kiểm soát
không nắm được hoạt động của công ty gây rủi ro cho các nhà đầu tư và cổ đông của
công ty.
Trong công ty cổ phần đặc biệt là các công ty đại chúng, vai trò của Ban kiểm
soát là rất quan trọng và cần thiết. Bên cạnh chức năng giám sát hoạt động của Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty, Ban kiểm soát còn đóng vai
trò quan trọng trong việc đề xuất các biện pháp, giải pháp khắc phục, cải tiến để hoạt
động quản lý, điều hành công ty đạt hiệu quả cao nhất. Trong một công ty hoạt động
minh bạch, Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc công ty sẽ nhận định vai trò của Ban
kiểm soát nhằm ngăn chặn và phát hiện những sai phạm, thiếu sót, bất hợp lý, xung
đột lợi ích trong việc quản lý, điều hành công ty. Tuy nhiên thực tế Ban kiểm soát
chưa thực hiện được hết quyền hành của mình mà mới chỉ thực hiện được những yêu
cầu, đề nghị của Hội đồng quản trị, chưa khẳng định được tính độc lập của mình.
47
Ngoài tâm lý “dĩ hòa vi quý” của các thành viên Ban kiểm soát, trong nhiều
trường hợp, các thành viên Ban kiểm soát còn có sự câu kết với Hội đồng quản trị và
Ban Giám đốc để hưởng lợi bất chính.Vai trò của Ban kiểm soát chưa được các văn
bản luật đề cao. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, văn bản do Ban kiểm soát
ban hành về việc kiểm tra, giám sát chỉ có ý nghĩa cảnh báo. Ngay cả khi phát hiện
hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý công ty của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc,
Ban kiểm soát chỉ có quyền yêu cầu các cá nhân liên quan chấm dứt hành vi vi phạm
và có giải pháp khắc phục hậu quả. Ban kiểm soát không có quyền sa thải người lao
động nếu họ sai phạm. Tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước, hoặc bên thứ ba chỉ quan
tâm đến người nào là đại diện theo pháp luật của công ty chứ không quan tâm ai là
thành viên hoặc trưởng Ban kiểm soát của công ty.
Ban kiểm soát được thành lập bởi Đại hội đồng cổ đông nhằm bảo vệ lợi ích
của cổ đông nhưng chính những cổ đông lại chưa hiểu được tầm quan trọng của Ban
kiểm soát. Hằng năm công ty cổ phần tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông ít nhất là
một lần, mỗi phiên họp diễn ra trong một đến hai ngày. Trong thời gian làm việc của
Đại hội đồng cổ đông phải hoàn thành rất nhiều việc, có trường hợp gấp rút về thời
gian Đại hội đồng cổ đông tiến hành bầu ra Ban kiểm soát một cách qua loa và trao
quyền cho Chủ tịch Hội đồng quản trị Ban hành quy chế hoạt động của Ban kiểm
soát. Ban kiểm soát là cơ quan kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị,
do đó Chủ tịch Hội đồng quản trị khi được trao quyền sẽ giới hạn quyền lực Ban kiểm
soát, mở rộng quyền của mình. Thậm chí nhiều công ty cổ phần còn để Hội đồng
quản trị bổ nhiệm Ban kiểm soát, lúc này lẽ dĩ nhiên thành viên được bổ nhiệm sẽ là
những người có lợi cho Hội đồng quản trị.
Ngoài ra, sự có mặt của Ban kiểm soát trong công ty thường bị xem như là một
phòng Ban chuyên môn cần phải có trong công ty do vậy Ban kiểm soát hoạt động
dưới sự điều hành của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Sự tồn tại
của Ban kiểm soát lúc này chỉ mang tính hình thức, thực hiện giám sát các phòng Ban
trong công ty chứ không phải giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc trong công ty. Vấn đề này cũng do quy định của luật, Ban kiểm
soát không được giữ chức vụ quản lý trong công ty. Điều này có nghĩa thành viên
48
Ban kiểm soát cũng chỉ là một nhân viên, một lao động bình thường trong công ty,
họ được Đại hội đồng cổ đông bầu vào Ban kiểm soát thì sẽ kiêm nhiệm thêm chức
trách này. Lúc này, thành viên Ban kiểm soát vừa là người lao động làm công ăn
lượng chịu sự điều hành và quản lý của người sử dụng lao động ở đây là Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty; vừa là người được cổ đông uỷ quyền
thực hiện chức năng giám sát việc sử dụng vốn của cổ đông, tách biệt hoàn toàn với
Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty. Do vậy, Ban kiểm soát
không thể công tâm, khách quan mà thực hiện đúng chức năng, vai trò của mình theo
quy định của pháp luật.
Ban kiểm soát bị lép vế, có quyền nhưng không thực hiện được, không dám
phản biện, tranh luận với Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty.
Mặt khác các số liệu mà Ban kiểm soát được cung cấp từ các phòng Ban trong công
ty thường phải thông qua sự cho phép của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc; những vấn đề phát hiện ra trong quá trình thẩm định báo cáo của Ban kiểm
soát cũng được trao đổi với Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trước
khi trình Đại hội đồng cổ đông. Đây là điều phi lý trong quy trình hoạt động của mình,
Ban kiểm soát phải báo cáo và tham khảo ý kiến của đối tượng được giám sát là Hội
đồng quản trị về kết quả giám sát. Vì vậy mà tại Đại hội đồng cổ đông vai trò của
Ban kiểm soát chỉ là đọc bản báo cáo hoàn chỉnh và tham dự đại hội trên hình thức
mà thôi.
Vấn đề quyền được cung cấp thông tin của Ban kiểm soát còn rất thụ đông. Chỉ
khi có yêu cầu thì Ban kiểm soát mới có quyền lấy thông tin, không phải bất cứ thông
tin nào yêu cầu Ban kiểm soát cũng được cung cấp. Như vậy, Ban kiểm soát không
thể nào theo dõi, giám sát được hết các hoạt động của người quản lý công ty.
Hơn nữa, Ban kiểm soát thường xuyên bị Hội đồng quản trịchi phối bởi thành
viên Hội đồn quản trị, đồng thời những cổ đông lớn, họ quyết định về địa vi, tiền
lương của thành viên Ban kiểm soát. Điều phi lý trong quy định hoạt động của mình,
Ban kiểm soát phải báo cáo và tham khảo ý kiến của đối tượng được giám sát là Hội
đồng quản trịvề kết quả giám sát. Bên cạnh đó, mặc dù các quy định pháp luật đã trao
cho Ban kiểm soát quyền được triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông khi Hội đồng quản
49
trịkhông triệu tập họp hoặc có vi phạm nghĩa vụ quản lý, nhưng trên thực tế ở Việt
Nam hiện nay, thực tế cho thấy rất hiểm trường hợp Ban kiểm soát thực thi quyền
này.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc Ban kiểm soát chưa thực sự phát huy
được vai trò, trách nhiệm của mình đối với các cổ đông. Hội đồng quản trịvà Ban
Giám đốc thường không ưa Ban kiểm soát vì nếu có họ, Hội đồng quản trịvà Ban
Giám đốc sẽ không thể quyết định các vấn đề mà luôn phải dè chừng Ban kiểm soát
với tư cách là cơ quan tư pháp. Vì thế, Hội đồng quản trịvà Ban Giám đốc luôn tìm
cách để tránh khỏi sự kiểm soát. Đây là nguyên nhân khiến hoạt động của Ban kiểm
soát không hiệu quả, không phát huy được vai trò của mình trong công ty cổ phần.
*Hoạt động của Ban kiểm soát chưa độc lập.
Theo Luật định, thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý
công ty. Nghĩa là thành viên Ban kiểm soát sẽ chỉ là một người lao động bình thường
trong công ty. Trong vai trò kiểm soát viên họ cần độc lập với Hội đồng quản trị, Ban
Giám đốc; còn trong vai trò người lao động họ chịu sự quản lý của Hội đồng quản trị,
Ban Giám đốc. Vì vậy, Ban kiểm soát thường xuyên bị Hội đồng quản trị chi phối
bởi họ quyết định cả về địa vị, tiền lương của thành viên Ban kiểm soát.Theo luật
định, thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý công ty. Nghĩa
là thành viên Ban kiểm soát sẽ chỉ là một người lao động bình thường, một nhân viên
cấp thấp trong công ty. Trong vai trò kiểm soát viên, họ cần độc lập với Hội đồng
quản trịvà Ban Giám đốc, còn trong vai trò người lao động, họ chịu sự quản lý của
Hội đồng quản trịvà Ban Giám đốc. Chính sự mâu thuẫn này khiến cho thành viên
Ban kiểm soát cùng lúc chịu nhiều áp lực và theo lẽ thường, họ sẽ lựa chọn vai trò
người lao động vì hàng tháng họ vẫn phải nhận tiền lương của công ty. Ban kiểm soát
phải phụ thuộc nhiều vào Hội đồng quản trịcho nên hoạt động kiểm tra, giám sát chưa
mang tính độc lập với Hội đồng quản trị. Chức năng, nhiệm vụ của Ban kiểm soát là
thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý, điều hành tức là sẽ có quyền hành
giám sát Hội đồng quản trịdo đó quy định Ban kiểm soát phải thường xuyên thông
báo và tham khảo ý kiến Hội đồng quản trịlà không phù hợp và ảnh hưởng đến tính
độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát.
50
Báo cáo của Ban kiểm soát thường được trình cho Đại hội cổ đông vào mỗi kỳ
họp. Thời gian giữa các kỳ họp lại quá xa và như vậy, báo cáo của Ban kiểm soát
không còn tính thời sự. Bên cạnh đó, các quy định hiện hành về chế độ kế toán, các
báo cáo hàng năm của Công ty cổ phần phải nộp cho cơ quan thuế chỉ gồm bản cân
đối kế toán; báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản
thuyết minh báo cáo tài chính. Trong quy định về công bố thông tin của công ty đại
chúng, nội dung công bố thông tin về báo cáo tài chính năm cũng chỉ bao gồm các tài
liệu trên.
Như vậy, báo cáo của Ban kiểm soát không phải là tài liệu bắt buộc phải nộp
cho cơ quan quản lý hoặc công bố thông tin theo quy định. Như đã nêu ở trên, báo
cáo của Ban kiểm soát là một tài liệu quan trọng, giúp nhà đầu tư và cơ quan quản lý
nhà nước có được cái nhìn toàn diện về doanh nghiệp từ góc độ mà các bản báo cáo
tài chính không đề cập đến. Thông tin trong báo cáo của Ban kiểm soát có tầm quan
trọng không kém các báo cáo tài chính. Do đó, cần phải xem xét việc yêu cầu Công
ty cổ phần, nhất là công ty đại chúng, phải công bố báo cáo của Ban kiểm soát cùng
với báo cáo tài chính.
Nếu toàn bộ quyền lực trong Công ty cổ phần đều tập trung vào Hội đồng quản
trị và Ban Giám đốc, thì không ai dám khẳng định rằng họ không lạm quyền và khi
đó cổ đông sẽ không được bảo vệ. Ban kiểm soát là một cơ chế phù hợp để cổ đông
tự bảo vệ mình. Muốn như thế, hoạt động của Ban kiểm soát cần được điều chỉnh bởi
một khung pháp lý rõ ràng hơn, đồng thời chính cổ đông phải hiểu rõ và sử dụng vai
trò của Ban kiểm soát một cách thông minh và phù hợp. Ngoài ra, khi được cổ đông
tin tưởng và trao quyền, Ban kiểm soát phải có đủ khả năng và dũng khí thực thi
nhiệm vụ, các báo cáo của Ban kiểm soát phải thể hiện được tính độc lập và chính
xác. Chỉ có như vậy quyền lợi của cổ đông mới được bảo vệ và xã hội mới tránh được
những thiệt hại từ sự sụp đổ của các Công ty cổ phần.
Hoạt động Ban kiểm soát thiếu tính chuyên nghiệp.
Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý, điều hành nói
chung tức là sẽ có quyền hành trong vấn đề giám sát Hội đồng quản trị. Do đó, quy
51
định Ban kiểm soát phải thường xuyên thông báo và tham khảo ý kiến Hội đồng quản
trị không phù hợp và ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát.
Ở không ít các công ty cổ phần, Ban kiểm soát chỉ đóng vai trò như bù nhìn,
được chính Hội đồng quản trịvà các cổ đông lớn dựng lên cho có và hoàn toàn bị vô
hiệu hoá, thậm chí còn được xem là lực lượng hẫu thuận, đứng sau tiếp tay cho những
hành vi vi phạm của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc công ty.
Một vấn đề thực tế nữa đó là kiểm soát viên của các công ty cổ phần thường là
kiêm nhiệm, trình độ chuyên môn không cao, thiếu nhiệt tình trong đấu tranh cho
công bằng, lẽ phải. Từ phương diện mô hình song song về quyền lực của Ban kiểm
soát và Hội đồng quản trị theo mô hình về cơ cấu quản lý trong công ty cổ phần có
Ban kiểm soát, giờ đây mô hình đó bị biến dạng như sau: sự tồn tại của Ban kiểm soát
trong nội bộ công ty cổ phần bị phụ thuộc rất nhiều yếu tố, tính độc lập bị hạn chế rất
nhiều, vị trí của Ban kiểm soát còn thấp hơn Hội đồng quản trị, chịu sự chi phối của
Hội đồng quản trị. Quy định về việc hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát
không được cản trở gây gián đoạn hoạt động bình thường của công ty có thể là một
công cụ để các cơ quan bị kiểm tra trong công ty dễ dàng từ chối yêu cầu của Ban
kiểm soát.
Hơn nữa, Ban kiểm soát không được trang bị một hệ thống thông tin quản lý
đặc thù cho công việc giám sát, họ chỉ dựa vào các báo cáo định kỳ của công ty và
chỉ tiếp cận những thông tin chung mà công ty cung cấp cho họ. Rất ít kiểm soát viên
làm việc toàn thời gian, phần lớn là bán thời gian, kiêm nhiệm thêm chức vụ khác
nên Ban kiểm soát chỉ làm việc định kỳ. Như vậy làm sao mà họ có thể dự đoán, nhận
ra những thiếu sót, sai phạm trong hoạt động quản lý điều hành công ty của Hội đồng
quản trịvà Ban Giám đốc.
Sự can thiệp của Nhà nước trong giám sát điều hành đối với các công ty cổ
phần hình thành sau quá trình cổ phần doanh nghiệp nhà nước.
Các doanh nghiệp là công ty con của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước sau
quá trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đều có Ban kiểm soát nhưng nhiều
năm liền các quyết định làm trái của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc công ty đưa ra
52
lại không được Ban kiểm soát phát hiện và công bố. Tình trạng lỗ/lãi tại những tổ
chức này cũng trở nên mập mờ, đồng tiền luận chuyển không được công khai, minh
bạch.
Tại các Tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp sau quá trình cổ
phần hoá Doanh nghiệp nhà nước đều có Ban kiểm soát, kiểm soát viên thường là
người được giới thiệu, đề cử. Ban kiểm soát sẽ là nơi được gài người của cơ quan nhà
nước muốn tham gia trong hoạt động của công ty, thành viên Ban kiểm soát ít thuộc
trường hợp bị hạn chế do có mối quan hệ với người quản lý, điều hành công ty. Quá
trình cổ phần hoá diễn ra nhằm thay đổi bộ mặt của công ty trên phương diện quản
lý, vấn đề tác động của cơ quan nhà nước trong công ty không hề thay đổi. Công ty
không còn vốn Nhà nước nhưng vẫn bị cơ quan Nhà nước chủ quản trước đây chi
phối, bắt phải xin ý kiến về nhân sự, về kế hoạch đầu tư, mở rộng công ty. Nhiều
công ty, thành viên Hội đồng quản trị thường do cơ quan nhà nước giới thiệu dù
không còn phải là người đại diện phần vốn góp của nhà nước trong công ty nữa điều
nay gây cản trở quá trình cơ cấu, thay đổi công ty. Thực trạng này là một nguyên
nhân dẫn đến sự yếu kém của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần hình thành sau
quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Cần đổi mới quy chế giám
sát quản lý các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, đổi mới hệ thống giám sát,
thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ mà bước đầu là đổi mới Ban kiểm soát,
khiến Ban kiểm soát thực sự là đại diện của chủ sở hữu, tức là đại diện của Nhà nức
để kiểm tra, giám sát, bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu phần vốn.
Việc tổ chức ra Ban kiểm soát bị ảnh hưởng bởi quản trị gia đình.
Một tỷ lệ lớn các doanh nghiệp ở Việt Nam là các công ty gia đình, công ty gia
đình là công ty có các thành viên trong một gia đình nắm mức sở hữu đủ để quyết
định cơ cấu thành viên Hội đồng quản trị. Thông thường, ở công ty gia đình, đại diện
của gia đình sẽ nắm giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc. Các thành viên của gia đình vừa là cổ đông, vừa là người quản lý, điều
hành công ty. Vì quyền sở hữu nắm trong tay một hoặc một vài thành viên trong gia
đình nên công ty gia đình có xu hướng cá nhân hoá, thống nhất quyền lực vào tay một
người chủ gia đình.
53
Tuy nhiên, các công ty cổ phần gia đình phải đối mặt với một thực tế đó là theo
số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ thành công dài hạn của các công ty gia đình là rất thấp.
Theo điều tra, chỉ có 5% các công ty gia đình quy mô lớn tiếp tục phát triển tốt sau
thế hệ thứ ba. Còn hầu hết các công ty gia đình bắt đầu với một người đặt nền móng,
sáng lập kiêm luôn việc quản trị, là chủ sở hữu toàn quyền và là người điều hành công
ty. Sáng lập viên của công ty gia đình thường giữ toàn quyền ra quyết định mọi vấn
đề của công ty. Nhìn chung, khi một công ty gia đình thành công rơi vào quyền kiểm
soát của con cháu người sáng lập công ty thì cũng là lúc công ty gia đình đi xuống.
Tới thời điểm thế hệ thứ ba tiếp quản công ty, bối cảnh doanh nghiệp đã được đặt sẵn
cho những vụ cãi lộn giữa các thành viên trong gia đình. Thay vì tập trung vào điều
hành doanh nghiệp, họ sẽ tranh giành các phần lợi nhuận và các vị trí lãnh đạo công
ty theo ý mình. Một nguyên nhân rất lớn dẫn đến sự yếu kém trong hoạt động của
công ty gia đình đó là thiếu vắng sự kiểm soát cần thiết đối với mô hình quản trị công
ty và toàn bộ cơ cấu tổ chức, hoạt động của công ty.
Công ty gia đình do số ít người kiểm soát, hoạt động kiểm soát lại không đủ
mạnh mẽ, người thực hiện hoạt động giám sát không phải chịu sức ép từ bên ngoài
và công ty thiếu cơ chế kiểm soát, phản biện hợp lý, có nguy cơ trì trệ về mặt tổ chức,
nguy cơ đưa ra chiến lược kinh doanh không phù hợp thực tiễn thị trường. Một công
ty gia đình phát triển sẽ ngày càng trở nên phức tạp, đòi hỏi phải có cơ cấu tổ chức
và quản trị chuẩn mực hơn. Khi công ty gia đình phát triển, mở rộng, nảy sinh nhu
cầu cần phải có một Hội đồng quản trị chuyên nghiệp có thể hoạch định chiến lược
và cần có một cơ chế kiểm soát hiệu quả hoạt động của bộ máy điều hành công ty.
Trách nhiệm pháp lý của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần chưa được
quy định cụ thể.
Quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 hiện hành không nêu rõ trách nhiệm mà
Ban kiểm soát phải chịu khi không làm tròn vai trò của mình. Luật chỉ đưa ra trách
nhiệm nếu kiểm soát viên vi phạm các vấn đề liên quan đến đạo đức nghề nghiệp.
Quy định về trách nhiệm pháp lý hiện hành đối với Ban kiểm soát gần như không
được thực thi trên thực tế tại các công ty cổ phần. Theo đó khi xảy ra các thiệt hại đối
54
với công ty, trách nhiệm pháp lý trước hết là Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám
đóc còn Ban kiểm soát gần như không được xem xét để chịu trách nhiệm.
Trách nhiệm pháp lý đối với Ban kiểm soát được quy định chung tại khoản 5
Điều 168 Luật Doanh nghiệp năm 2014. Theo đó, trường hợp vi phạm nghĩa vụ quy
định tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 gây thiệt hại cho công ty hoặc người khác thì
các thành viên Ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới bồi thường
thiệt hại đó. Mọi thu nhập và lợi ích khác mà thành viên Ban kiểm soát trực tiếp hoặc
gián tiếp có được do vi phạm nghĩa vụ đều thuộc sở hữu của công ty.
Quy định về trách nhiệm pháp lý đối với Ban kiểm soát nêu trên gần như không
được thực thi trên thực tế tại các công ty cổ phần. Theo đó khi xảy ra các thiệt hại đối
với công ty, trách nhiệm pháp lý trước hết và chủ yếu được hướng đến Hội đồng quản
trị, Ban Giám đốc công ty, còn đối với vai trò là cơ quan "giám sát" mang tính hình
thức, Ban kiểm soát gần như không được xem xét để chịu trách nhiệm.
Đa số các công ty cổ phần không xem trọng vai trò Ban kiểm soát mà chỉ thành
lập Ban kiểm soát tuân theo quy định của pháp luật. Hoạt động Ban kiểm soát chỉ
mang tính hình thức không có chất lượng. Từ những phân tích nêu trên về thực tiễn
chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014, có thể
kết luận được những bất cập chủ yếu sau: Ban kiểm soát chưa thực hiện được đúng
và đầy đủ vai trò của mình trong công ty cổ phần; hoạt động Ban kiểm soát chưa độc
lập, thiếu tính chuyên nghiệp; Ban kiểm soát chưa bảo vệ được quyền lợi của cổ đông
và các nhà đầu tư. Sự yếu kém trong hoạt độn của Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần có nhiều nguyên nhân, một số nguyên nhân có thể kể tới như: Thiếu nguồn nhân
lực, Ban kiểm soát không đủ nguồn nhân lực, phần lớn thành viên Ban kiểm soát làm
việc kiêm nhiệm hoặc bán thời gian, ngoài ra trình độ chuyên môn của họ không cao,
thiếu kinh nghiệm; Thiếu bộ máy giúp việc, ví dụ như lĩnh vực ngân hàng có quy
định cụ thể về chức năng kiểm toán nội bộ độc lập trực thuộc Ban kiểm soát còn thì
Ban kiểm soát trong công ty cổ phần hiện nay chưa cso quy định cụ thể nào về bộ
máy giúp việc; Thiếu công cụ, phương tiện làm việc, Ban kiểm soát không được trang
bị hệ thống quản lý thông tin đặc thù cho công việc của mình mà chỉ dựa vào báo cáo
định kỳ của công ty và chỉ tiếp cận với những thông tin chung mà công ty cung cấp.
55
Để làm rõ hơn về thực trạng áp dụng chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần, tác giả xin phân tích các quy định liên quan đến quy chế pháp lý về Ban kiểm
soát trong Quy chế hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty Cổ phần đầu tư, thương
mại và dịch vụ – Vinacomin (được viết tắt là V-ITASCO). Cụ thể:
Quy chế hoạt động Ban kiểm soát trong V-ITASCO được ra đời lần đầu tiên
năm 2005 và có sửa đổi bổ sung qua các năm nhằm phù hợp với tình hình thực tế và
áp dụng các quy định hiện hành của pháp luật.
Ban kiểm soát của V-ITASCO bao gồm 3 thành viên, trong đó có 1 thành viên
không thường trực (đây là đại diện của tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam), 2
thành viên còn lại là nhân viên của công ty, có trình độ chuyên môn ngành kế toán.
Tại V-ITASCO, Ban kiểm soát là một phòng Ban độc lập, không chịu sự quản lý điều
hành của Tổng giám đốc và Ban lãnh đạo công ty, nhưng các thành viên trong Ban
kiểm soát là nhân viên của công ty, hưởng lương như người lao động bình thường
trong công ty. Thành viên Ban kiểm soát không thể công tâm, khách quan thực hiện
đúng nhiệm vụ, chức năng của mình vì họ bị chi phối, tác động bởi người trả lương
hàng tháng cho họ ở đây lại là người mà họ thực hiện kiểm tra, giám sát dưới sự uỷ
thác của Đại hội đồng cổ đông.
Thực tế, V-ITASCO ra đời là công ty con của Tập đoàn Công nghiệp Than –
Khoáng sản Việt Nam (VINACOMIN). Thực hiện quá trình cổ phần hoá Doanh
nghiệp nhà nước, tập đoàn tiến hành thoái vốn dần khỏi V-ITASCO và cử người đại
diện phần vốn của Tập đoàn tại V-Itasco. Ban kiểm soát của V-ITASCO có một thành
viên không thường trực là người của tập đoàn, đây được xem như là hành động "gài
người của cơ quan nhà nước muốn tham gia trong hoạt động của công ty, thành viên
ít thuộc trường hợp hạn chế do có mối quan hệ với người quản lý, điều hành công ty.
Quá trình cổ phần hoá diễn ra nhằm thay đổi bộ mặt của công ty trên phương diện
quản lý, vấn đề tác động của cơ quan nhà nước trong công ty không hề thay đổi. Công
ty không còn vốn Nhà nước nhưng vẫn bị cơ quan Nhà nước chủ quản trước đây chi
phối, bắt phải xin ý kiến về nhân sự, về kế hoạch đầu tư, mở rộng công ty. Thực trạng
này là một nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của Ban kiểm soát trong công ty.
56
Với một thành viên không thường trực trong Ban kiểm soát, các thành viên Ban
kiểm soát không cùng thường xuyên làm việc với nhau, các cuộc họp Ban kiểm soát
hàng năm diễn ra không được đầy đủ và thường là chỉ họp trên hình thức. Cuộc họp
Ban kiểm soát kém chất lượng dẫn đến không có sự thống nhất ý kiến, chủ trương
giữa các thành viên Ban kiểm soát. Thực tế, tại công ty V-ITASCO Ban kiểm soát
chưa thực hiện được đúng và dủ chức năng, quyền hạn của mình như chức năng giám
sát hoạt động của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty; đề xuất
các biện pháp, giải pháp khắc phục, cải tiến để hoạt động quản lý, điều hành công ty
đạt hiệu quả cao nhất.
Theo quy chế hoạt động nội bộ của V-ITASCO, Ban kiểm soát thực hiện
nhiệm vụ tuân thủ theo Quy định của Luật Doanh nghiệp hiện hành, bên cạnh đó còn
phải thực hiện một số nhiệm vụ khác mà công ty quy định. Quy chế hoạt động của
Ban kiểm soát trong công ty đã quy định cụ thể đối tượng chịu sự giám sát của Ban
kiểm soát và nội dung cụ thể trong việc giám sát của Ban kiểm soát như: giám sát
Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty, giám sát
việc chấp hành các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị,... Có thể
nhận thấy, việc quy định như trên của V-ITASCO là một biện pháp cần thiết nhằm
cụ thể hoá các quy định pháp luật, đồng thời giúp cho Ban kiểm soát có căn cứ làm
việc rõ ràng, chủ động xây dựng kế hoạch, thực hiện nhiệm vụ được giao. Ngoài ra,
V-ITASCO còn quy định cụ thể về các nội dung liên quan nhằm hướng dẫn, giúp Ban
kiểm soát cũng như các thành viên trong Ban kiểm soát thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ như: trình tự thực hiện nhiệm vụ, nhiệm vụ của Trưởng Ban kiểm soát,
nhiệm vụ của thành viên Ban kiểm soát.
Các quy định về nghĩa vụ của Ban kiểm soát tốt, cụ thể như vậy nhưng trong
thực tế, Ban kiểm soát không thực hiện được đúng chức năng nhiệm vụ của mình.
Nguyên nhân xuất phát từ chất lượng của thành viên Ban kiểm soát, trình độ chuyên
môn không cao, thiếu nhiệt tình trong đấu tranh cho công bằng, lẽ phải.
Cũng như các quy định của công ty về nghĩa vụ của Ban kiểm soát, bên cạnh
việc quy định Ban kiểm soát có các quyền theo quy định của Luật Doanh nghiệp hiện
hành, công ty đã giao cho Ban kiểm soát một số quyền khác được Quy định cụ tại
57
Quy chế công như: quyền được sử dụng tư vấn độc lập, được đảm bảo công cụ hỗ trợ
và điều kiện cần thiết. Song thực tế Ban kiểm soát chưa thực hiện được quyền của
mình mà mới chỉ thục hiện theo yêu cầu, đề nghị của Hội đồng quản trị. Qua đó có
thể khẳng định Ban kiểm soát V-ITASCO hoạt động chưa độc lập, thiếu tính chủ
động.
Vai trò của Ban kiểm soát là vô cùng quan trọng trong việc kiểm tra thực hiện
các quy định của Nhà nước, của công ty với các bộ phận trong công ty, góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành của công ty và Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên
thực tế hoạt động Ban kiểm soát còn khá mờ nhạt, chưa làm tròn vai trò kiểm soát
của mình. Hiệu quả hoạt động Ban kiểm soát công ty chưa cao một phần bởi lí do
liên quan đến cơ chế, cụ thể: bị hạn chế quyền trong giá trị thực hiện hoạt động kiểm
soát của mình, việc phối hợp của các bộ phận liên quan còn yếu dẫn đến gặp nhiều
khó khăn,... Bên cạnh đó, còn có những lí do xuất phát từ chính những kiểm soát viên
như: tính trung thực, khách quan trong báo cáo kết quả kiểm soát, chưa làm hết trách
nhiệm kiểm soát của mình, thiếu ý thức, trình độ chuyên môn năng lực hạn chế,...
Điều này dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong công tác quản lí điều hành
công ty ảnh hưởng tới năng suất kinh doanh, và sự phát triển của công ty.
58
Tiểu kết chương 2
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có những quy định về việc thành lập Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần. Với chức năng nhiệm vụ được quy định trong Luật Doanh
nghiệp 2014 và Điều lệ của công ty cổ phần, Ban kiểm soát thực hiện việc giám sát
trong quản lý điều hành công ty, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và
mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công
tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo
cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị.
Tại chương 2, tác giả đã tiến hành phân tích những quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 về chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần cùng với đó là
phân tích thực tiễn áp dụng những quy định đó trong công ty cổ phần tại Việt Nam.
Qua đó nhận thấy, pháp luật Việt Nam đã có những quy định cơ bản về tổ chức, thành
lập và hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. Tuy nhiên, những quy
định còn nhiều điều chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường, với thông lệ quốc tế.
Thực tiễn hoạt động của chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần đã phần nào
gây trở ngại, ảnh hưởng đến sự phát triển của công ty cổ phần nói riêng và nền kinh
tế nói chung.
Để Ban kiểm soát trở thành trụ cột góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững
của công ty cổ phần, phát huy được vai trò và khẳng định địa vị pháp lý độc lập của
mình, hoạt động hiệu quả trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được luật
định thì việc sửa đổi, bổ sung những quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần
cần phải được thực hiện một cách toàn diện và cụ thể. Với những phân tích tại chương
2, tác giả sẽ đưa ra phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa chế định Ban
kiểm soát trong công ty cổ phần tại Việt Nam ở chương 3.
59
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.
3.1 Phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về Ban kiểm soát
trong công ty cổ phần.
Luật Doanh nghiệp 2014 được coi là cuộc đột phá thể chế thể hiện đúng tinh
thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp,
theo đó, những gì luật pháp không cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu
tư, kinh doanh. Luật Doanh nghiệp 2014 hướng tới sự phù hợp với thực tế kinh doanh
hiện tại của doanh nghiệp và tháo gỡ nhiều khó khăn, hạn chế, góp phần tạo điều kiện
mở ra một môi trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
Trên thực tế cũng phải thừa nhận, mặc dù được đánh giá là đạo luật tiến bộ trong việc
tạo điều kiện cho việc hình thành các loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên các các thiết
chế để tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình vẫn là một thách thức lớn đối với các nhà lập pháp.
Với những kết quả đã đạt được của Luật Doanh nghiệp năm 2014 trong việc
nâng cao hơn nữa hiệu quả của Ban kiểm soát, đảm bảo cho Ban kiểm soát trong công
ty cổ phần thực hiện được đúng chức năng, nhiệm vụ của mình bảo vệ được quyền
lợi cổ đông và nhà đầu tư. Từ đó tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, phát triển
lành mạnh là điều kiện thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam. Chức năng giám sát trong
công ty cổ phần là vấn đề được quan tâm trong giới nghiên cứu về luật công ty ở các
nước phát triển và công nghiệp hoá. Có thể nói rằng, mô hình Ban kiểm soát độc lập
từ Hội đồng quản trị và do Đại hội đồng cổ đông bầu trong các công ty cổ phần ở
Việt Nam là cấu trúc khá độc đáo và hiệu quả, nếu Ban kiểm soát làm việc thực sự
như được thiết kế trong luật. Tuy nhiên chế định Ban kiểm soát của công ty cổ phần
theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 còn nhiều bất cập, chưa thực sự phù hợp với yêu
cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, hiệu quả hoạt động của Ban kiểm soát trong
công ty cổ phần còn hạn chế như vẫn còn tâm lý xem thường vị trí của Ban kiểm soát;
phần lớn thành viên Ban kiểm soát là người lao động dưới quyền quản lý, điều hành
của chính những người mà họ giám sát (Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám
60
đốc). Vì vậy, vấn đề cần thiết phải hoàn thiện hơn nữa quy chế pháp lý về Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần Việt Nam là một trong những ưu tiên quan trọng.
Từ những phân tích trên, tác giả xin đưa ra những đề xuất định hướng hoàn thiện
hơn nữa chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần để nâng chất lượng, hiệu quả
của Ban kiểm soát như sau:
- Thứ nhất, thống nhất các quy định hiện hành về hoàn thiện chế định Ban kiểm
soát trong quản trị công ty cổ phần Việt Nam. Quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật
nhận thấy còn tồn tại nhiều quy định bất hợp lý, không phù hợp với thực tiễn. Điều
này hạn chế quyền chủ động của chủ thể kinh doanh không đáp ứng được yêu cầu to
lớn của nền kinh tế thị trường. Hệ thống pháp luật nước ta còn nhiều quy định chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế gây ra khó khăn trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế
giới do vậy cần tiến hành đổi mới hơn nữa để hoàn thiện quy chế pháp lý về Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần trên cơ sở kế thừa ưu điểm của các quy định trước và học
tập cho phù hợp vớ thực tiễn hội nhập hiện nay.Việc sửa đổi, bổ sung các quy định ở
các văn bản pháp luật về chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần là cơ sở cần
thiết và quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường nước ta đảm bảo quyền
tự do, bình đẳng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, kích thích tính năng động,
sáng tạo đồng thời đảm bảo phù hợp với các quy luật khách quan của cơ chế thị trường
hiện nay.Khi hoàn thiện pháp luật về quy chế pháp lý về Ban kiểm soát trong công ty
cổ phần nói riêng và Luật Doanh nghiệp nói chung cần thay đổi tư duy từ phương
pháp điều chỉnh mang nặng tính mệnh lệnh, quyền uy sang phương pháp điều chỉnh
bình đẳng, đảm bảo quyền tự do, quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
- Thứ hai, hoạt động của công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống quản
lý, điều hành của công ty. Trong đó Ban kiểm soát của công ty cổ phần là một trong
những bộ phận đóng vai trò quan trọng. Ban kiểm soát là cơ quan do Đại hội đồng cổ
đông bầu ra, có sứ mệnh kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật,
Điều lệ và các quy đinh của công ty, góp phần nâng cao công tác quản lý điều hành
của công ty, bảo vệ quyền lợi của cổ đông và nhà đầu tư. Ban kiểm soát trong công
ty cổ phần được quy định là cơ quan kiểm soát nội bộ của công ty, việc nâng cao tính
độc lập, chuyên nghiệp và hiệu quả của Ban kiểm soát là giải pháp cơ bản. Do đó việc
61
hoàn thiện chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần nhằm xây dựng cơ sở pháp
lý hoàn chỉnh tạo điều kiện cho các chủ sở hữu công ty và nhà quản lý vận dụng linh
hoạt vào điều kiện cụ thể để đạt được những mục tiêu đề ra. Các quy về Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần góp phần tăng cường năng lực quản lý công ty. Công ty
sẽ khó có thể phát huy được hiệu quả nếu được điều hành bởi một hệ thống quản lý
lỏng lẻo và yếu kém. Do đó, vai trò của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần có ảnh
hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của công ty, góp phần đảm bảo lợi ích của
các cổ đông trong công ty.
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định Ban kiểm soát trong công
ty cổ phần.
Hiệu quả xây dựng, ban hành và áp dụng các quy định pháp luật nói chung và
các quy định có liên quan đến chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần nói riêng
là chưa cao, còn nhiều hạn chế, tồn tại một số quy định chưa phù hợp với nhu cầu
thực tế. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do lối tư duy trong công tác xây dựng
pháp luật. Cần hoàn thiện hơn nữa chế định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần
phù hợp với đặc trưng của nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay. Luật Doanh
nghiệp 2014 có nhiều ưu thế hơn so với các văn bản pháp luật quy định về quy chế
pháp lý về Ban kiểm soát trước đây (Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp
1999). Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng Luật Doanh nghiệp 2014 cũng bộc lộ được
những điểm chưa phù hợp cần phải được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hơn nữa để trở
thành cơ sở pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần
nói riêng. Việc hoàn thiện chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần trong điều
kiện hiện nay đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của nước ta là
điều rất cần thiết. Sự hoàn thiện các quy định pháp luật về chế định Ban kiểm soát
trong công ty cổ phần luôn có tính tương đối, thích ứng với từng giai đoạn phát triển
của nền kinh tế. Do đó, việc xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật là một quá
trình lâu dài, liên tục. Với những lí do phân tích ở trên cùng với kinh nghiệm làm việc
của bản thân, tác giả xin được phép đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa
chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay.
* Giải pháp pháp lý.
62
Hiệu quả xây dựng, ban hành và áp dụng các quy định của pháp luật liên quan
đến mô hình quản trị công ty cổ phần là chưa cao, còn hạn chế, tồn tại một số điểm
chưa hợp lý. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vấn đề này là do lề lối và tư duy trong
công tác xây dựng pháp luật của nước ta hiện nay. Việc hoàn thiện quy chế pháp lý
về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần cần được thực hiện cho phù hợp hơn với nền
kinh tế thị trường hiện nay.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có nhiều ưu thế hơn so với các văn bản pháp luật
quy định về chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. Tuy nhiên, qua thực tiễn
áp dụng, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã bộc lộ nhiều điểm chưa phù hợp cần phải
được sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm tiếp tục đưa đạo luật này thực sự đi vào cuộc
sống, trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho các doanh nghiệp, trong đó có công ty
cổ phần. Do vậy, việc hoàn thành quy chế pháp lý về Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần trong điều kiện hiện nay đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta là vấn đề thiết yếu, cần thiết. Để góp phần hoàn thiện hơn nữa
chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, tôi xin đề xuất một số ý kiến cụ thể
như sau:
- Về thành lập Ban kiểm soát, Luật Doanh nghiệp 2014 đã thiết kế một khung
pháp lý tương đối đầy đủ và phù hợp để thành lập nên Ban kiểm soát với những điều
kiện thuận lợi để thực hiện vai trò, chức năng giám sát, kiểm toán một cách hiệu quả
nhất. Tuy nhiên vấn đề thành lập Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, nhất là công
ty đại chúng, công ty niêm yết ở Việt Nam dường như chỉ tuân thủ về mặt hình thức,
thành lập cho đủ số lượng yêu cầu của Luật. Vì vậy, để thành lập Ban kiểm soát chất
lượng hơn cần đưa ra các tiêu chuẩn, điều kiện nghiêm khắc hơn đặc biệt là về chuyên
môn nghiệp vụ và tính khách quan, độc lập trong quá trình thành lập Ban kiểm soát.
Bên cạnh đó cũng cần đưa ra chế tài trong trường hợp Ban kiểm soát được thành lập
không đúng với quy định, ví dụ như quy định việc thành lập Ban kiểm soát không
đúng với quy định sẽ dẫn đến vô hiệu, các đối tượng có liên quan phải liên đới chịu
trách nhiệm.
Các thành viên Ban kiểm soát nên được lựa chọn dựa trên kinh nghiệm và
chuyên môn của họ về lĩnh vực tài chính (kiểm toán, kế toán). Chỉ những người có
63
uy tín cá nhân và phẩm chất đạo đức tốt mới nên được chọn vào Ban kiểm soát. Điều
lệ và các quy chế nội bộ của công ty có thể có những yêu cầu thêm đối với thành viên
Ban kiểm soát, ví dụ như các thành viên Ban kiểm soát phải thành thạo về kế toán và
lập báo cáo tài chính.
Thông lệ về quản trị công ty (Tổ chức Tài chính quốc tế, Cẩm nang Quản trị
công ty, NXB Nông nghiệp, Hà Nội 2010) có một số khuyến nghị cụ thể khi thành
lập Ban kiểm soát trong công ty cổ phần như sau:
+ Không nên bầu các thành viên Ban kiểm soát ở cùng vị trí đó nhiều hơn 05
nhiệm kỳ liên tiếp ở cùng một công ty, bởi điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến
tính độc lập của họ;
+ Một người không nên đồng thời là thành viên Ban kiểm soát của 05 công ty
hoặc nhiều hơn ngoại trừ trường hợp các công ty có liên kết;
+ Thành viên Hội đồng quản trị của một công ty niêm yết không nên là thành
viên Ban kiểm soát của hơn 03 công ty niêm yết khác, trừ khi các công ty có sự liên
kết;
+ Nếu thành viên Hội đồng quản trị của một công ty đồng thời là thành viên
Ban kiểm soát của một công ty khác, trong trường hợp này, thành viên Hội đồng quản
trị của công ty thứ hai không được là thành viên Ban kiểm soát của công ty thứ nhất
(thành viên tương hỗ).
Xuất phát từ thực tế thành lập Ban kiểm soát tại các công ty cổ phần ở Việt
Nam, Luật Doanh nghiệp cần quy định rõ ràng, cụ thể hơn nữa nội dung này. Ví dụ:
quy định Đại hội đồng cổ đông là cơ quan duy nhất có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm thành viên Ban kiểm soát, theo đó Luật cần đưa ra chế tài trong trường hợp
Ban kiểm soát được thành lập không đúng với quy định này; quy chế hoạt động của
Ban kiểm soát phải được xây dựng và trình lên Đại hội đồng cổ đông biểu quyết thông
qua, việc quy định một tỷ lệ biểu quyết thông qua quy chế cũng cần quy định cụ thể
trong Luật.
- Về thẩm quyền của Ban kiểm soát, bên cạnh chức năng kiểm tra, giám sát hoạt
động của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc trong việc quản lý và điều hành công
64
ty, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo
cáo tài chính, cũng như thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính
hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác của Hội đồng quản trị,
cần xem xét bổ sung thêm thẩm quyền của Ban kiểm soát như: điều tra các vụ việc
sử dụng nguồn thông tin nội bộ, kiểm tra tính hợp lý của khoản thanh toán cho các
nhà thầu và các khoản phí nộp ngân sách, kiểm tra tính hợp lý của các khoản trích
trước và chi trả cổ tức, cũng như việc thực hiện các cam kết về tài chính của công ty,
kiểm tra tính phù hợp của việc sử dụng các quỹ của công ty, kiểm tra thời hạn nhận
tiền phát hành cổ phiếu, giám sát tính hợp lý của việc định giá các tài sản trong công
ty, yêu cầu và nhận thông tin liên quan đến các bên liên quan và giao dịch với các
bên liên quan, kiểm tra tình hình tài chính của công ty đặc biệt là về khả năng thanh
toán và tính thanh khoản của tài sản, về khả năng thanh toán các khoản nợ,… (Tổ
chức Tài chính quốc tế, Cẩm nang quản trị công ty, NXB Nông nghiệp, Hà Nội 2010).
Ngoài ra, cũng cần mở rộng thẩm quyền của Ban kiểm soát,cho phép Ban kiểm
soát có quyền tham gia vào các cuộc họp đánh giá, miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với
Ban Giám đốc và các thành viên Hội đồng quản trị.
- Về trách nhiệm pháp lý của Ban kiểm soát, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp hiện tại không nêu rõ trách nhiệm
mà Ban kiểm soát phải gánh chịu nếu như không làm tròn nhiệm vụ của mình. Do
đó, để nâng cao hơn nữa chất lượng của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, cần
quy định cụ thể, chi tiết về trách nhiệm pháp lý đối với kiểm soát viên khi họ không
làm tròn vai trò của mình cũng như trường hợp kiểm soát viên vi phạm nghĩa vụ gây
thiệt hạ cho công ty hoặc người khác. Ví dụ, có thể tham khảo các thông lệ về quản
trị công ty, tất cả các thành viên của Ban kiểm soát phải ký vào báo cáo của Ban kiểm
soát và người không ký vào báo cáo sẽ phải giải thích lý do hoặc chỉ ra ai là thành
viên từ chối ký báo cáo mà không giải thích được lý do từ chối. Hơn nữa, thành viên
Ban kiểm soát tham dự họp Đại hội đồng cổ đông nên dành cho cổ đông cơ hội để
hỏi và thảo luận kết quả thẩm tra của Ban kiểm soát.
65
- Về thành viên Ban kiểm soát, cần sửa đổi cơ chế giới thiệu và bầu thành viên
Ban kiểm soát. Để hạn chế, tránh sự phụ thuộc của thành viên Ban kiểm soát đối với
thành viên Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc công ty cần quy định rõ các thành
viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc công ty không được quyền cử, giới thiệu các
thành viên Ban kiểm soát. Bên cạnh đó cần đảm bảo điều kiện hoạt động cho các
thành viên Ban kiểm soát như lương và các khoản thù lao của Ban kiểm soát không
bị ảnh hưởng với quyết định của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Do vậy, nên
sửa đổi thành lương và các khoản thù lao của Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông
quyết định. Điều này nhằm tăng cường sự độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát.
Cũng cần sửa đổi quy định về số lượng thành viên Ban kiểm soát. Theo quy
định Luật Doanh nghiệp 2014 hiện hành, số lượng thành viên Ban kiểm soát do đại
diện chủ sở hữu quyết định căn cứ vào quy mô của công ty. Tuy nhiên, khoản 1 Điều
102 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định số lượng thành viên Ban kiểm soát tối
thiểu là 03 người và tối đa là 05 người. Quy định này chưa thực sự phù hợp, bởi có
nhiều công ty cổ phần quy mô lớn, hoạt động đầu tư kinh doanh trên nhiều lĩnh vực
khác nhau mà Ban kiểm soát tối đa chỉ có 05 người là ít so với nhu cầu không đảm
bảo thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của Ban kiểm soát. Với những công ty cổ
phần hoạt động đa ngành như vậy, Ban kiểm soát phải chuyên môn hoá, phải hoạt
động tích cực hiệu quả hơn nữa mới hoàn thành nhiệm vụ của mình. Để đạt được điều
đó cần có nguồn nhân lực với trình độ chuyên môn cao mà luật lại giới hạn số lượng
thành viên Ban kiểm soát như vậy là chưa thực sự phù hợp với thực tiễn.
Cần đặt ra các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể về thành viên Ban kiểm soát nhằm
đảm bảo hơn nữa hoạt động độc lập của cơ quan này. Luật Doanh nghiệp năm 2014
về cơ bản đã tạo cho Ban kiểm soát có vị trí độc lập trong quan hệ với Hội đồng quản
trị và Ban Giám đốc. Tuy nhiên, luật không cấm thành viên Ban kiểm soát là người
lao động của công ty nên khả năng một người vừa là lao động, vừa là cổ đông được
Đại hội đồng cổ đông bầu làm thành viên Ban kiểm soát. Thực tế, thành viên Ban
kiểm soát thường được bầu từ những người do cổ đông lớn đề cử, hoặc có quan hệ
với Hội đồng quản trịbởi vậy họ thường không giữ được sự khách quan khi thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của thành viên Ban kiểm soát. Bởi vậy, cần đặt ra tiêu chuẩn,
66
điều kiện của thành viên Ban kiểm soát từ khi ứng cử, đề cử đến hết nhiệm kỳ nhằm
đảm bảo vị trí độc lập của thành viên Ban kiểm soát. Có thể hiểu đơn giản, tại thời
điểm được bầu làm thành viên Ban kiểm soát, thành viên này không còn là người lao
động của công ty mà người này sẽ hoạt động độc lập với Hội đồng quản trị và Ban
giám đốc.
Quy định về thù lao Ban kiểm soát cần được rõ ràng, độc lập với việc đề xuất
của Hội đồng quản trị. Vấn đề thù lao là một trong những nguyên nhân thực tế ảnh
hưởng đến tính độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Thành viên Ban kiểm soát xét cho cùng là người lao động và việc kiểm soát lại những
người sử dụng lao động – người quyết định thu nhập của họ là điều khó làm. Chính
vì thế, cần có quy định để đảm bảo rằng thành viên Ban kiểm soát không bị chi phối,
lo lắng về vấn đề thù lao khi thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát của mình. Vì vậy,
cần bổ sung cơ chế công khai thù lao thành viên Ban kiểm soát cũng như cơ sở, cách
thức hưởng thù lao và các lợi ích khác của thành viên Ban kiểm soát. Quyết định về
vấn đề mức thù lao cho thành viên Ban kiểm soát cần có những cân nhắc khi trao cho
Hội đồng quản trị xem xét đề đạt trước khi trình Đại hội đồng cổ đông.
- Về nhiệm vụ của Ban kiểm soát trong việc thẩm định báo cáo, báo cáo giám
sát của Ban kiểm soát tại Đại hội đồng cổ đông thường mang tính hình thức, không
có giá trị như là kênh thông tin cho Đại hội đồng cổ đông. Các bản báo cáo của Ban
kiểm soát thường có nội dung tương tự với báo cáo của Hội đồng quản trị, Ban Giám
đốc công ty, nội dung chủ yếu là khen, đánh giá những thành tích trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty. Với những hạn chế, khuyết điểm trong việc thực hiện
kế hoạch kinh doanh, thực hiện điều lệ, nghị quyết của công ty thường được nói giảm,
nói tránh không thể hiện được tính khách quan. Do đó để đảm bảo cho báo cáo của
Ban kiểm soát phản ánh trung thực, khách quan tình hình hoạt động của công ty thì
cần thiết yêu cầu nội dung của bản báo cáo, đặc biệt cần có giải trình liên quan đến
xung đột lợi ích. Với việc yêu cầu nội dung báo cáo có thể giúp cho Ban kiểm soát
thuận lợi trong việc thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát và đưa ra kiến nghị phù
hợp. Có như vậy, báo cáo thẩm định của Ban kiểm soát mới có ý nghĩa trong việc
67
chấn chỉnh hoạt động của các thành viên Hội đồng quản trị và Ban giám đốc và lợi
ích của cổ đông và công ty.
Để kết quả trong hoạt động kiểm tra, giám sát của Ban kiểm soát được tôn trọng
và có ý nghĩa cảnh báo đói với Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc thiết
nghĩa nên bắt buộc các báo cáo của Ban kiểm soát phải cung cấp cho các cơ quan nhà
nước cũng như phải công khai đối với những công ty cổ phần có thành lập Ban kiểm
soát, điều này góp phần làm cho các công ty cổ phần phải nhanh chóng thành lập Ban
kiểm soát khi hội đủ điều kiện theo quy định của pháp luật doanh nghiệp. Để làm
được điều đó, cần có chế tài cụ thể và những biện pháp hữu hiệu để thực thi những
cảnh báo của Ban kiểm soát khi phát hiện những hành vi vi phạm của thành viên Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc mà Ban kiểm soát đã có văn bản thông
báo cho Hội đồng quản trị và yêu cầu người có hành vi vi phạm chất dứt hành vi mà
họ không thực hiện thì Ban kiểm soát được quyền triệu tập Đại hội đồng cổ đông để
xem xét miễn nhiệm các trường hợp này. Trình tự thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng
cổ đông của Ban kiểm soát quy định trong Luật Doanh nghiêp cũng phải đơn giản và
gọn nhẹ hơn so với thủ tục thông thường và Ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm về
việc triệu tập cuộc họp này. Bên cạnh đó, cũng cần mở rộng quyền cảnh báo của Ban
kiểm soát đến toàn bộ các phòng ban và những người quản lý khác trong công ty. Để
giám sát việc tuân thủ pháo luật của cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, Luật Doanh
nghiệp cũng nên quy định cho phép thành viên Ban kiểm soát đương nhiên có mặt tại
cuộc họp và Ban kiểm soát có quyền yêu cầu các cơ quan tài phán xem xét tính hợp
pháp các quyết định của Đại hội đồng cổ đông.
* Giải pháp bổ trợ khác.
- Tăng cường chuyên môn của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần:
Bên cạnh việc bổ sung các quy định pháp luật về chuyên môn bắt buộc đối với
thành viên Ban kiểm soát thì trước hết bản thân kiểm soát viên với vai trò giám sát
của mình cần thường xuyên rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn để có thể hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình. Để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của kiểm
soát viên, tác giả xin phép đưa ra một số giải pháp cụ thể như: Xây dựng cơ chế điều
68
động linh hoạt thay đổi vị trí công việc giữa Ban kiểm soát và các bộ phận trong công
ty nhằm mục đích giúp các thành viên Ban kiểm soát hiểu rõ hơn về việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong công ty; Tổ chức tập huấn, chuyên môn
nhiệp vụ cho các thành viên Ban kiểm soát và cử cán bộ tham gia các lớp học chuyên
môn về nghiệp vụ kiểm tra, giám sát theo chủ đề.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến để nâng cao nhận thức về vị trí,
vai trò của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Đây là nhiệm vụ cần thiết và quan trọng mang tính đồng bộ trong tổng thể các
giải pháp đối với công ty cổ phần trong bối cảnh yêu cầu về nâng cao hiệu quả, hiệu
lực của Ban kiểm soát. Hiện nay nhiều công ty cổ phần còn chưa coi trọng Ban kiểm
soát, nhiều nơi còn lờ đi sự tồn tại của Ban kiểm soát, không chủ động trong việc xây
dựng quy chế hoạt động của Ban kiểm soát. Hiện trạng trên rất khó để tạo điều kiện,
cơ sở, căn cứ cho Ban kiểm soát thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của mình.
Bên cạnh việc xây dựng khung pháp lý hoàn thiện về thành lập, tổ chức, hoạt động
của Ban kiểm soát, cần thiết phải thay đổi nhận thức của các thiết chế trong công ty
cổ phần về vai trò của Ban kiểm soát. Một số giải pháp định hướng nhằm nâng cao
nhận thức về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trị, Ban Giám đốc công ty cổ phần cần chủ động xây dựng và hoàn thiện các hệ
thống văn bản nội bộ của công ty trong đó có quy chế tổ chức và hoạt động của Ban
kiểm soát theo hướng quy định cụ thể, chi tiết hơn; và tích cực tham gia các khoá đào
tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ trong công tác kiểm tra, giám sát nội bộ công
ty để nâng cao nhận thức, hiểu biết về trình độ chuyên môn của Ban kiểm soát.
- Nâng cao nhận thức của cổ đông về vị trí quan trọng của Ban kiểm soát trong
giám sát công ty cổ phần.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 trao quyền cho cổ đông quyết định các vấn đề tại
Đại hội đồng cổ đông bằng nghị quyết hoặc trao quyền cho cổ đông hoặc nhóm cổ
đông biểu quyết thực hiện một số quyền nhất định như cử người tham gia ứng cử vào
Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và yêu cầu Ban kiểm soát xem xét các tài liệu của
công ty, các công việc quản lý điều hành của công ty. Có thể nhận thấy, hạn chế của
69
việc thực hiện yêu cầu xem xét từ phía Đại hội đồng cổ đông do một năm chỉ có thể
họp thường niên 01 lần và họp bất thường từ 01 đến 02 lần. Bởi vậy, việc trao quyền
cụ thể, thường xuyên cho Ban kiểm soát trong nhiệm kỳ thông qua việc ban hành quy
chế tổ chức và hoạt động là vô cùng quan trong. Trên thực tế, có nhiều trường hợp
Đại hội đồng cổ đông đã giao quyền soạn thảo Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban
kiểm soát cho Hội đồng quản trị dẫn đến tình trạng Hội đồng quản trị hạn chế quyền
của Ban kiểm soát hoặc Đại hội đồng cổ đông chấp thuận cho Hội đồng quản trị bổ
nhiệm thành viên Ban kiểm soát, điều này làm hạn chế tính độc lập của Ban kiểm
soát trong kiểm tra, giám sát. Ngoài ra, mặc dù Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy
định hạn chế những người được bầu làm thành viên Ban kiểm soát không phải là
người có quan hệ huyết thống, gia đình với thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc,
Tổng giám đốc và người quản lý khác để thâu tóm lợi ích và thông đồng trục lợi
nhưng không thể phủ nhận tình trạng cổ đông lớn sẽ có đại diện trong Ban kiểm soát
và người thân quen của các thành viên Hội đồng quản trị được bầu làm thành viên
Ban kiểm soát nhằm tăng sự ủng hộ và củng cố quyền lực. Bởi vậy, cổ đông khi tham
gia góp vốn vào công ty cổ phần cần thiết phải nhận thức được quyền của mình, đồng
thời thông qua thẩm quyền ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản
trị và Ban kiểm soát để hoàn chỉnh cơ chế giám sát nội bộ theo hướng củng cố vị trí
độc lập của Ban kiểm soát, quy định nghĩa vụ phối hợp hoạt động của Hội đồng quản
trị với Ban kiểm soát nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng quyền hạn của người quản
lý, điều hành.
- Một vấn đề nóng gần đây, trong mô hình mới xoá bỏ Ban kiểm soát chính thức
có hiệu lực từ năm 2015, doanh nghiệp niêm yết có thể áp dụng mô hình kiểm toán
độc lập, trong đó thay thế Ban Kiểm soát bằng việc bầu cử thành viên độc lập, trực
thuộc Hội đồng quản trị. Và trên thế giới, đặc biệt tại các nước châu Âu, hầu hết
doanh nghiệp đều không có phòng Ban kiểm soát trong bộ máy, Việt Nam là quốc
gia trong số ít vẫn thực hiện mô hình này. Thậm chí, không chỉ kiểm toán, đối với bộ
phận kế toán tại các nước tiên tiến này, doanh nghiệp còn áp dụng mô hình kế toán
quản trị, tức một phòng ban có thể thực hiện kiểm toán nội bộ, song song với nhiệm
vụ tham mưu chiến lược, phòng ngừa rủi ro cho doanh nghiệp. Có thể hiểu đơn giản
70
rằng, kế toán quản trị không còn đơn thuần là bộ phận kế toán như cách hiểu của
chúng ta (tức bookkeeping), mà sẽ là một business patner – nơi nguồn nhân lực đủ
trình độ chuyên môn, tín nhiệm để kiểm toán lại dòng tiền, BCTC, thu chi của Công
ty, phát hiện những vấn đề tồn đọng… từ đó đưa ra chiến lược quản trị rủi ro, tham
mưu kế hoạch kinh doanh cho ban điều hành. (Hiếu Nguyễn, Bỏ Ban Kiểm soát có
thể giảm tối thiểu 5% doanh thu thất thoát, tại sao nhiều doanh nghiệp vẫn chưa
làm?, Tri thức trẻ, tại địa chỉ: http://cafef.vn/bo-ban-kiem-soat-co-the-giam-toi-thieu-
5-doanh-thu-that-thoat-tai-sao-nhieu-doanh-nghiep-van-chua-lam-
20180828022133402.chn, truy cập ngày 28/08/2018).
Ví dụ cụ thể, doanh nghiệp Nhà nước Trung Quốc từ lâu đã đặt quan tâm đủ lớn
vào vai trò của kế toán quản trị, với những nét tương đồng trong kinh doanh, quản
trị… Còn Việt Nam trước đó theo mô hình kinh doanh của Liên Xô, dẫn đến vô hình
trung hình thành Ban kiểm soát. Để rồi đến nay, mặc dù cũng có quy định nhân sự
Ban kiểm soát phải có chứng chỉ hành nghề, song đó là chứng chỉ gì vẫn còn chưa rõ
ràng. Do đó, Ban kiểm soát thời gian qua chưa có phát huy được vai trò của mình,
tính độc lập không có, hoặc nếu có cũng không cao. Như vậy, việc đi đến quyết định
loại bỏ Ban Kiểm soát một mặt không ảnh hưởng đến kiểm soát của công ty, mà còn
tiết giảm được chi phí, tinh gọn bộ máy cũng như tập trung được về vai trò của Hội
đồng quản trị. Nhận thức được nhược điểm về mô hình quản trị công ty cổ phần khi
Ban kiểm soát là người “thổi còi” nhưng “thấp cổ bé họng”, một số công ty đã mạnh
dạn lựa chọn cho mình hướng đi mới. Đây cũng là lý do chung của nhiều đơn vị tiên
phong loại bỏ Ban kiểm soát để thay thế bằng thành viên Hội đồng quản trị độc lập,
kể tên có Vinamilk (VNM), Hoa Sen (HSG), Licogi (LCG), Cơ điện lạnh (REE),
Coteccons (CTD), Novaland (NVL)…
Song bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tiến hành chuyển đổi theo mô
hình mới. Lí do đầu tiên có lẽ là chưa đủ quan tâm, ngay cả hành lang pháp lý cũng
chưa rõ ràng dẫn đến doanh nghiệp ngại làm.Điển hình các tiểu ban thì do ai bổ nhiệm,
nhiệm vụ, quyền hạn thế nào; tiểu ban kiểm toán có làm nhiệm vụ như Ban kiểm soát
trong mô hình cũ hay không? Hơn nữa, nếu áp dụng mô hình một cấp thì bắt buộc ít
nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban Kiểm
71
toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị, đồng thời trưởng ban kiểm toán và trưởng
tiểu ban lương thưởng bắt buộc là thành viên độc lập. Như vậy, với trường hợp công
ty chỉ có từ 3-5 thành viên Hội đồng quản trị, làm sao có được nhân sự độc lập để làm
tiểu ban kiểm toán và các tiểu ban khác?
Xa hơn, sau khi loại bỏ Ban Kiểm soát và theo lộ trình tiến đến một bộ phận
kiểm toán độc lập – nơi không chỉ kiểm soát mà còn tham mưu chiến lược – hiện
phòng ban kiểm soát của doanh nghiệp chưa có tiếng nói nhiều trong việc đề xuất,
hay tham gia vào quá trình kinh doanh, điều hành.Để khắc phục điều này, bên cạnh
thời gian cần thiết, nguồn nhân lực vẫn là bài toán nan giải. Thực trạng hiện nay theo
ông Thanh, một nhân sự kiểm toán mà có đủ tín nhiệm để phát biểu thì phải có thâm
niên, tuy nhiên vị trí kiểm toán nội bộ lại đòi hỏi về độ nhạy với dòng chảy kinh tế,
tài chính, đáp ứng được nền tảng cuộc cách mạng 4.0 – đây chính là vấn đề. Song
song với đó, nguồn nhân lực trẻ chuyên môn cao tại Việt Nam cũng chưa có nhiều.Với
mô hình Ban Kiểm soát tồn tại độc lập, đóng vai trò là "cơ quan tư pháp", có nhiệm
vụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc công ty.Tuy
nhiên, Ban kiểm soát chỉ đóng vai trò quan trọng về mặt lý thuyết. Thành viên của
Ban kiểm soát là nhân viên bình thường trong công ty, không có chức vụ quản lý,
không được phép nắm giữ nhiều cổ phần, vậy tiếng nói của họ còn có sức nặng hay
không? Câu trả lời thực tế, đây chỉ là bộ phận bàn giấy “thấp cổ bé họng” và gần như
lép vế trước các quyết định quan trọng của công ty. Thực trạng rằng, nhiều vụ việc
liên quan đến hành động vụ lợi của Ban giám đốc đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lợi ích của cổ đông công ty, nhưng không hề có bất kỳ tiếng nói cảnh báo từ Ban
kiểm soát cho đến khi vụ việc bị phát giác muộn màng. Điển hình nhất là vụ việc
tham ô, lạm dụng chức quyền chiếm đoạt tài sản của một loạt cán bộ cấp cao Ocean
Bank, gây thiệt hại cho ngân hàng 1.500 tỷ đồng. Ban kiểm soát đã không hề có bất
kỳ phản ứng nào về sai phạm liên quan đến việc chi lãi ngoài của Ocean Bank, cho
tới khi cơ quan chức trách nhúng tay và phát hiện. Thậm chí, khi sự kiện bị phát giác,
Trưởng Ban kiểm soát có những tuyên bố một cách vô can: “Không thể phát hiện ra
sai phạm từ Báo cáo tài chính” hay “Tôi không được tham gia cuộc họp của Hội đồng
quản trị”. Trong mô hình mới, xoá bỏ Ban kiểm soát, điều khác biệt nằm ở người thực
72
hiện vai trò kiểm soát. Tiểu ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị được thay
thế. Thành viên của Tiểu ban này là thành viên độc lập của Hội đồng quản trị, người
có uy tín và chuyên môn, đặc biệt về kiểm soát và kiểm toán. Với hai vai trò trên, họ
vừa có sự độc lập nhất định đối với công ty, lại là người có tiếng nói và “sức nặng”
nhất định. (Tiểu Liên,'Cạch' Ban kiểm soát ra khỏi bộ máy, doanh nghiệp Việt tiến
hành đến đâu?,Kinh tế & Tiêu dùng (2017), tại địa chỉ:https://vietnambiz.vn/cach-
ban-kiem-soat-ra-khoi-bo-may-doanh-nghiep-viet-tien-hanh-den-dau-38291.html,
truy cập ngày 28/11/2017).
Trước những bất cập này cũng như tính cần thiết của việc có một bộ phận kiểm
toán nội bộ trong doanh nghiệp, các cơ quan chức năng cũng như đơn vị liên quan đã
tiến hành rất nhiều cuộc họp nhằm đưa ra giải pháp. Việt Nam đã thành lập một hiệp
hội VIOD - liên quan đến kiểm toán nội bộ - nơi chia sẻ, giao lưu cũng như thúc đẩy
mạng lưới kiểm toán nội bộ phát triển, phổ biến. Tuy nhiên, hiệp hội này vẫn chưa
nhận được quan tâm nhiều từ phía thị trường.
Hay giải quyết bài toán nhân sự, trong một hội thảo liên quan tại HoSE mới đây,
đặc biệt nhấn mạnh đến kỹ năng phỏng vấn cũng như kiểm định rủi ro gian lận trong
quá trình kiểm toán tại doanh nghiệp. Việt Nam có thói quen ngại chia sẻ, nhất là các
rủi ro, các điểm yếu, ai sẽ nói ra. Do đó, chuyên viên kiểm toán nội bộ cần chú trọng
tích lũy kiến thức, kỹ năng theo tiêu chuẩn hành nghề quốc tế để đáp ứng yêu cầu
hiệu quả hoạt động của bộ phận. Trong đó, việc loại bỏ Ban kiểm soát để thay thế
bằng thành viên Hội đồng quản trị là một phần trong công tác xây dựng hệ thống
quản trị nội bộ cho doanh nghiệp. Về vi mô trên từng doanh nghiệp, với những khúc
mắc về số lượng thành viên Hội đồn quản trị chưa đủ đáp ứng hay tính khách quan
khi chính người công ty kiểm toán cho đơn vị của mình, điều này không quá lo ngại.
Đặc biệt, đơn bị kiểm toán nội bộ (hiện là thành viên Hội đồng quản trị độc lập) hoàn
toàn độc lập với Ban Tổng Giám đốc hay thậm chí chính Công ty, mà đây là cơ quan
của cổ đông nhằm bảo vệ lợi ích cổ đông. Hơn nữa, những báo cáo kiểm toán nội bộ
muốn công bố hay không phải thông qua sự xem xét của Hội đồng quản trị, mục đích
duy nhất của kiểm toán nội bộ là tự rà soát lại hoạt động công ty, phát hiện vấn đề để
báo cáo cấp lãnh đạo, từ đó đưa ra chiến lược, định hướng kinh doanh.
73
74
Tiểu kết chương 3
Căn cứ vào những nghiên cứu, phân tích các quy định hiện hành của Luật Doanh
nghiệp năm 2014 về chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần tại Việt Nam và
xuất phát từ những bất cập của Luật Doanh nghiệp 2014 cùng với thực tiễn thi hành
chế định Ban kiểm soát theo Luật này, tác giả xin mạnh dạn đưa ra phương hướng,
giải pháp hoàn thiện hơn nữa về tổ chức, thành lập, thẩm quyền, trách nhiệm pháp lý
và thành viên Ban kiểm soát cùng với một số biện pháp bổ trợ khác góp phần hỗ trợ
cho Ban kiểm soát trong công ty cổ phần thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát của mình trên thực tế. Thông qua những kiến nghị được đưa ra tại chương
3, góp phần làm cho vị trí vai trò của Ban kiểm soát cũng như quyền và trách nhiệm
của thành viên Ban kiểm soát trong công ty cổ phần ngày càng được khẳng định.
75
KẾT LUẬN
Với chức năng, nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cổ đông,
của các nhà đầu tư đòi hỏi công ty cổ phần phải đảm bảo tính minh bạch rõ ràng trong
hoạt động, như vậy công ty mới phát triển bền vững, ngăn ngừa rủi ro đối với các
nguồn vốn đầu tư vào công ty. Cùng với sự kỳ vọng của cổ đông vào hoạt động Ban
kiểm soát trở thành một cơ chế hiệu quả để họ có thể tự bảo vệ mình thì hoạt động
của Ban kiểm soát phải được điều chỉnh về quy định với một khung pháp lý rõ ràng,
cụ thể hơn nữa. Để đạt được những mục tiêu đó, Luật Doanh nghiệp cần có những
quy định tiến bộ hơn về cơ cấu tổ chức và hoạt động giám sát công ty cổ phần thông
qua chế định Ban kiểm soát. Để chế định này phát huy được vai trò của nó đòi hỏi
phải có những sửa đổi trong thời gian tới. Luật Doanh nghiệp 2014 là một bước tiến
quan trọng trong việc xác định mô hình cấu trúc quản trị công ty mà trong đó, việc
xây dựng thiết chế về Ban kiểm soát là minh chứng cho thấy sự quyết tâm phát triển
doanh nghiệp Việt Nam tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, những chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ
phần theo Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định
cần được sửa đổi, bổ sung và khắc phục nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý và nâng
cao hơn nữa hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần.
Luận văn đã tiến hành nghiên cứu, phân tích về chế định Ban kiểm soát trong
công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014. Cụ thể là:
Tại chương 1, luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về
công ty cổ phần và Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. Tác giả đã nghiên cứu khái
niệm, đặc điểm, cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần và vị trí, vai trò của Ban kiểm
soát trong công ty cổ phần tại Việt Nam.
Tại chương 2, tác giả đã phân tích các quy định pháp luật về Ban kiểm soát
trong công ty cổ phần để từ đó có cách nhìn tổng quát về thực tiễn áp dụng những
quy định này trong các công ty cổ phần ở Việt Nam. Từ thực trạng áp dụng chế định
Ban kiểm soát, tác giả nhận thấy được những điểm còn chưa hợp lý, chưa phù hợp
của các quy định pháp luật trong thực tế.
76
Tại chương 3, trên cơ sở, phân tích, đánh giá một cách tổng quát về thực trạng
pháp luật về quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần ở chương 2, tác giả xin
phép được đưa ra một số đề xuất, giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về chế định
Ban kiểm soát trong công ty cổ phần ở Việt Nam, đồng thời nâng cao khả năng thực
thi của Luật Doanh nghiệp năm 2014 trên thực tế cho phù hợp hơn với nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Trong điều kiện nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ như ở Việt Nam
hiện nay, các quan hệ kinh tế luôn vận động phát triển thay đổi, các quy định pháp
luật về chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần cần được xây dựng và hoàn
thiện hơn nữa nhằm đảm bảo sự phù hợp với tình hình thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Với những nghiên cứu, phân tích đã trình bày trong luận văn của mình, tác giả hi
vọng đây sẽ là nghiên cứu khoa học có ích, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và góp phần
nâng cao hiệu của của chế định Ban kiểm soát trong công ty cổ phần nói riêng và nền
kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay nói chung.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật.
1. Luật Doanh nghiệp năm 2014.
2. Luật Doanh nghiệp năm 2005.
3. Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều luật của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
4. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều luật của Luật Doanh nghiệp năm 2005.
5. Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ quy định về đăng
ký doanh nghiệp.
II. Các công trình nghiên cứu
6. Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp: vốn và quản lý trong công ty cổ phần,
NXB Trẻ, Hà Nội 2004.
7. Lê Thị Châu, Quyền sở hữu tài sản của công ty, NXB. Lao động, Hà Nội, 1997.
8. Trần Ngọc Dũng, Hoàn thiện quy định về cơ chế giám sát hoạt động quản lý,
điều hành trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2014, Tạp chí Quản lý nhà
nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 5/2016.
9. Nguyễn Thị Lan Hương, Về hoạt động giám sát của Ban kiểm soát trong công ty
cổ phần, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 27/2011.
10. Trần Thành Long, Ban kiểm soát trong quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp
luật ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội năm 2013.
11. Lưu Thị Tuyết, Điểm mới của công ty cổ phần nhìn từ góc độ Luật Doanh nghiệp
năm 2014, Tạp chí Thanh tra số 8/2015.
12. Trần Thanh Tùng, Vai trò của Ban kiểm soát trong công ty cổ phân, Thời báo
kinh tế Sài Gòn, năm 2009.
13. Vũ Hữu Trí, Quy chế pháp lý về Ban kiểm soát trong quản trị công ty cổ phần
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
năm 2017.
78
14. Viện Kinh tế Thế giới,Công ty cổ phần? Các nước phát triển – Quá trình thành
lập, tổ chức quản lý, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1991.
15. Tổ chức Tài chính quốc tế, Cẩm nang quản trị công ty, NXB Nông nghiệp, Hà
Nội năm 2010.
16. Giáo trình Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009.
17. Giáo trình pháp Luật Doanh nghiệp, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2011.
18. Quy chế hoạt động của Ban kiểm soát công ty Cổ phần đầu tư, thương mại và
dịch vụ Vinacomin năm 2017.