ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HÒA

PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI H¦U TRÝ B¾T BUéC

ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

PHẠM THỊ HÒA

PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI H¦U TRÝ B¾T BUéC

ë VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THANH HUYỀN

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính xác thực, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn

thành tất cả các môn học và đã thanh toán đầy đủ nghĩa vụ tài

chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

Tôi xin chân thành cảm ơn!

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Người cam đoan

Phạm Thị Hòa

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn thạc sĩ này trước hết em xin gửi đến quý thầy,

cô giáo trong khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội lời cảm ơn chân thành.

Đặc biệt, em xin gửi đến cô TS. Nguyễn Thanh Huyền, người đã tận

tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành Luận văn thạc sĩ này lời cảm ơn sâu

sắc nhất.

Vì kiến thức bản thân còn hạn chế, trong quá trình hoàn thiện Luận văn

này em không tránh khỏi những sai sót, kính mong nhận được những ý kiến

đóng góp từ thầy cô.

Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2019

Người cam đoan

Phạm Thị Hòa

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU .................................................... Error! Bookmark not defined.

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM

XÃ HỘI HƯU TRÍ BẮT BUỘC ......... Error! Bookmark not defined.

1.1. Khái quát chung pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

1.1.2. Vai trò bảo hiểm xã hội hưu trí trong hệ thống bảo hiểm xã hộiError! Bookmark not defined.

1.2. Một số vấn đề lý luận pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

1.3. Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí ở một số nước trên thế

giới và bài học kinh nghiệm với Việt NamError! Bookmark not defined.

1.3.1. Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí của một số quốc giaError! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................. Error! Bookmark not defined.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................30

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ BẮT BUỘC Ở

VIỆT NAM ...................................... Error! Bookmark not defined.

2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

2.1.1. Quy định tổ chức hình thành quỹ bảo hiểm hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

2.1.2. Quy định về chi trả bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

2.1.3. Bảo hiểm xã hội một lần .................. Error! Bookmark not defined.

2.1.4. Xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội ..................................................50

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí

bắt buộc ở Việt Nam ...........................Error! Bookmark not defined.

2.2.1. Thực trạng tham gia và thụ hưởng bảo hiểm hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

2.2.2. Thực trạng chi trả chế độ bảo hiểm hưu trí bắt buộcError! Bookmark not defined.

2.2.3. Thực trạng tổ chức quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội hưu

trí bắt buộc ...................................... Error! Bookmark not defined.

2.2.4. Công tác quản lý, lưu trữ hồ sơ, cải cách thủ tục hành chính gắn

liền nghiệp vụ cán bộ quản lý thực hiện.Error! Bookmark not defined.

2.2.5. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra,

giải quyết về tình trạng vi phạm pháp luậtError! Bookmark not defined.

2.3. Một số nhận xét về thực trạng pháp luật và tình hình thực

hiện pháp luật bảo hiểm hưu trí bắt buộc ở Việt NamError! Bookmark not defined.

2.3.1. Những kết quả đã đạt được............... Error! Bookmark not defined.

2.3.2. Những hạn chế, tồn tại ..................... Error! Bookmark not defined.

2.3.3. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế ........... Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................. Error! Bookmark not defined.

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIÊN PHÁP

LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ BẮT BUỘC Ở VIỆT

NAM .............................................. Error! Bookmark not defined.

3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm

xã hội hưu trí bắt buộc........................Error! Bookmark not defined.

3.1.1. Xây dựng quy định để hạn chế số lượng người lao động muốn

nhận chế độ hưu trí sớm ................... Error! Bookmark not defined.

3.1.2. Xây dựng quy định các khung bậc với những điều kiện tham gia

bảo hiểm xã hội cụ thể để hưởng bảo hiểmError! Bookmark not defined.

3.1.3. Thực hiện rà soát, sửa đổi và ban hành mới chính sách về mở

rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ........................................80

3.1.4. Tăng mức xử phạt hành chính đối với các trường hợp trốn đóng

BHXH và nợ BHXH ........................ Error! Bookmark not defined.

3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt NamError! Bookmark not defined.

3.2.1. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội

và bảo hiểm xã hội hưu trí ................ Error! Bookmark not defined.

3.2.2. Đa dạng hóa danh mục và xây dựng bộ máy quản lý đầu tư hợp

lý quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn ......... Error! Bookmark not defined.

3.2.3. Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ BHXH đi liền với cải cách thủ

tục hành chính ................................. Error! Bookmark not defined.

3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện chế độ bảo

hiểm xã hội hưu trí........................... Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................. Error! Bookmark not defined.

KẾT LUẬN ................................................ Error! Bookmark not defined.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................89

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Dạng viết tắt Dạng đầy đủ

ASXH An sinh xã hội

BC Báo cáo

BHHT Bảo hiểm hưu trí

BHXH Bảo hiểm xã hội

BHYT Bảo hiểm y tế

CT Chỉ thị

KNLĐ Khả năng lao động

NLĐ Người lao động

NQ Nghị quyết

NSDLĐ Người sử dụng lao động

QĐ Quyết định

QHLĐ Quan hệ lao động

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1 Mức đóng vào Quỹ hưu trí và tử tuất

37

Bảng 2.2

Tình hình tham gia BHXH bắt buộc

52

Bảng 2.3

Số thu vào quỹ hưu trí và tử tuất giai đoạn 2009-2017

53

Bảng 2.4

Đối tượng giải quyết hưởng chế độ hưu trí giai đoạn 2012-2017

54

Bảng 2.5

Số người nghỉ hưu do bị suy giảm KNLĐ từ 61% năm 2016

56

Bảng 2.6

Tình hình thu chi hưu trí giai đoạn 2009-2017

58

Bảng 2.7

Tình hình nợ BHXH giai đoạn 2013-2017

60

Bảng 2.8

Tình hình nợ BHXH chia theo nhóm đối tượng giai đoạn 2013-2017

61

Bảng 2.9

Lãi thu được từ hoạt động đầu tư giai đoạn 2015 – 2017

63

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, vấn đề an sinh xã hội

(ASXH) được xem là một trong những nền tảng vững chắc cho sự phát triển

kinh tế và ổn định xã hội ở mọi quốc gia trên thế giới. Với tư cách là một trụ

cột trong hệ thống chính sách ASXH, bảo hiểm xã hội (BHXH) thực sự đã trở

thành một công cụ đắc lực và hiệu quả giúp cho Nhà nước điều tiết xã hội

trong nền kinh tế thị trường, gắn kết giữa phát triển kinh tế với thực hiện công

bằng, tiến bộ và phát triển xã hội bền vững.

Nằm trong hệ thống các chế độ BHXH, bảo hiểm xã hội hưu trí là một

trong những chế độ quan trọng của BHXH nhằm bảo đảm quyền lợi cho người

lao động (NLĐ) khi hết tuổi lao động. Hầu hết NLĐ của các nước đều có nhu

cầu tham gia bảo hiểm xã hội hưu trí (BHXHHT). Vì thế, nó được các quốc gia

áp dụng từ rất sớm.

Ở Việt Nam, BHXHHT bắt buộc đã được Đảng và Nhà nước quan tâm

và đề cao từ rất lâu, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa

chính trị xã hội sâu sắc. Trải qua nhiều năm thực hiện, BHXHHT bắt buộc đã

được sửa đổi nhiều lần và ngày càng hoàn thiện phù hợp với tình hình đất

nước. BHXHHT bắt buộc cùng với các chế độ khác trong hệ thống các chế độ

yên tâm làm việc tạo thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội, từ đó đảm bảo

ASXH, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay,

những NLĐ trong độ tuổi nghỉ hưu ngày càng tăng, vì thế yêu cầu đặt ra là tổ

chức thực hiện BHXHHT bắt buộc như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất, đồng

thời phù hợp với điều kiện đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Do đó, việc hoàn thiện pháp luật và thực thi các quy định về BHXHHT

BHXH đã góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống của NLĐ giúp họ

1

bắt buộc là một vấn đề cấp thiết và phù hợp với nguyện vọng của đại đa số

NLĐ. Đây là nhu cầu chính đáng và thiết thực cần được Nhà nước và xã hội

quan tâm thực hiện.

Xuất phát từ nhu cầu nói trên, với mong muốn đóng góp một phần công

sức của bản thân vào việc đánh giá thực trạng pháp luật, đưa ra một số giải

pháp thực hiện đối với BHXHHT bắt buộc hiện nay, em đã lựa chọn đề tài:

“Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam” làm đề tài để

nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

BHXHHT bắt buộc là một chính sách quan trọng trong hệ thống pháp

sách BHXH nên đây là một vấn đề rất được quan tâm trong giai đoạn hiện

luật ASXH ở nước ta. BHHT bắt buộc với vai trò là một bộ phận của chính

nay. Bởi lẽ, nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống NLĐ khi về già. Trong bối

cảnh nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự

quản lý của Nhà nước, BHXHHT bắt buộc được xây dựng như một sự tương

trợ cộng đồng, giúp cho NLĐ giảm bớt những khó khăn, bảo đảm cuộc sống

vật chất và tinh thần khi về hưu an dưỡng lúc tuổi già.

Chính vì ý nghĩa quan trọng này mà BHXHHT bắt buộc được rất nhiều

người quan tâm và có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Cụ thể:

- Bài báo: “Những điểm mới về chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc của

người lao động” đăng trên Tạp chí luật học năm 2007, của TS. Đỗ Ngân

Bài viết của tác giả đã đưa ra được những thay đổi về việc đóng, chi trả

các chế độ BHXH bắt buộc trong đó có BHXHHT bắt buộc, đã nêu ra được

những thay đổi đáng chú ý như: điều kiện để được hưởng lương hưu hàng

tháng quy định chặt chẽ hơn, cách tính tiền lương hưu (hằng tháng hoặc 1 lần)

có sự thay đổi để đảm bảo NLĐ sẽ được hưởng chế độ hưu trí phù hợp với

Bình, Đại học Luật Hà Nội;

2

đóng góp trước đó của họ khi tham gia BHXH.

- Bài báo: “Một số ý kiến về pháp luật lao động đối với người lao động

cao tuổi Việt Nam” đăng trên Tạp chí LĐXH số 507 từ ngày 16-31/7/2015,

của TS. Nguyễn Thanh Huyền;

Bài viết của tác giả tập trung nêu lên vấn đề già hóa dân số hiện nay và

những quy định pháp luật về người cao tuổi trên cơ sở đó xác định rõ nội hàm

NLĐ cao tuổi và xây dựng các quy định pháp luật lao động phù hợp đối với

NLĐ cao tuổi với mục đích bảo vệ sức khỏe NLĐ cao tuổi và phát huy được

nguồn lực lao động với kinh nghiệm quý báu và trình độ chuyên môn cao khi

Việt Nam đang bước nhanh vào kỷ nguyên “dân số già”.

trên tạp chí Lao động – Xã hội tháng 7/2019, của TS. Nguyễn Thanh Huyền;

- Bài báo: “Chế độ bảo hiểm hưu trí và một số vấn đề pháp lý đặt ra” đăng

Bài viết của tác giả đã đặt ra những vấn đề pháp lý cơ bản của

BHXHHT bắt buộc từ đó áp dụng như thế nào cho hiệu quả trong thực tế.

- Khóa luận tốt nghiệp: "Những điểm mới về chế độ bảo hiểm hưu trí

của Luật bảo hiểm xã hội 2006" năm 2007 của Nguyễn Thị Hiên, Trường đại

học luật Hà Nội;

Bài viết của tác giả đã hướng tới và chỉ ra được những điểm mới của

BHXHHT bắt buộc theo Luật BHXH 2006. Nghiên cứu này đưa ra được

nhưng so sánh cũng như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới từ đó áp

dụng thực tiễn vào nước ta để đề xuất ra những giải pháp áp dụng trong thực

- Luận văn thạc sĩ: “Phân tích tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã

hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam” năm 2012 của Nguyễn Hữu Thọ, Trường

Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội;

Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về BHXHHT bắt

buộc theo Luật BHXH 2006. Từ đó, phân tích tình hình thực hiện BHHT bắt

tế.

những vấn đề còn hạn chế và nguyên nhân của nó.Từ đó, đề xuất những giải

3

buộc ở Việt Nam qua đó phản ánh những kết quả đạt được, đồng thời chỉ rõ

pháp, kiến nghị để nhằm hoàn hiện công tác thực hiện BHXHHT bắt buộc ở

nước ta.

- Luận văn thạc sĩ: “Chế độ hưu trí trong quy định luật bảo hiểm xã hội

và thực trạng tại thành phố hà nội” năm 2015 của Nguyễn Thế Mừng, Khoa

luật – Đại học quốc gia Hà Nội;

Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về nội dung, vai trò của

BHXHHT bắt buộc 2006 và đưa ra những điểm mới của BHXH 2014. Ngoài

ra, luận văn còn đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật về BHXHHT

bắt buộc hiện hành, chỉ ra những điểm hạn chế và nguyên nhân của sự bất cập

nước ta hiện nay từ thực tế trên địa bàn thành phố Hà Nội.

để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện các quy định về BHXHHT bắt buộc ở

- Luận văn thạc sĩ: “Chế độ bảo hiểm hưu trí theo quy định luật bảo

hiểm xã hội năm 2014” năm 2016 của Nguyễn Thị Thu Hằng, Viện Đại học

Mở Hà Nội.

Đề tài đưa ra một số phương hướng nghiên cứu chuyên sâu về các quy

định của pháp luật về BHXHHT bắt buộc theo quy định của Luật BHXH

2014, thực trạng thực hiện những quy định đó, từ đó đánh giá tổng thể những

điểm đạt được và hạn chế của Luật BHXH 2014 về BHXHHT bắt buộc. Qua

nghiên cứu này đề tài đưa ra những kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định

của BHXHHT bắt buộc cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

Trên đây là một số nghiên cứu gần đây về BHXHHT bắt buộc, nhìn

chung các nghiên cứu có nhiều nhưng chủ yếu được nghiên cứu theo quy định

của Luật BHXH 2006 nên chưa thể hiện được tổng thể các vấn đề về BHXHHT

bắt buộc theo quy định của Luật BHXH 2014. Mặt khác, có những nghiên cứu

về Luật BHXH 2014 nhưng đó là thời điểm chưa có hiệu lực thi hành nên phần

quả áp dụng BHHT bắt buộc trong cuộc sống.

4

thực trạng áp dụng luật và đề xuất những giải pháp để hoàn thiện Luật còn hạn

chế hoặc đã có hiệu lực nhưng năm 2018 BHXHHT bắt buộc có nhiều thay đổi

đã có hiệu lực thi hành và chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về

những quy định đó.

Với vai trò của BHXHHT bắt buộc cũng như tính cấp thiết của vấn đề,

luận văn "Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam" đưa ra

một số phương hướng nghiên cứu chuyên sâu về các quy định của pháp luật

về BHXHHT bắt buộc theo quy định của Luật BHXH 2014 và những quy

định mới được sửa đổi bổ sung 2018, thực trạng thực hiện những quy định đó,

từ đó đánh giá tổng thể những điểm đạt được và hạn chế của Luật BHXH

nghị về việc hoàn thiện các quy định của BHXHHT bắt buộc cũng như đưa ra

2014 về BHXHHT bắt buộc. Qua nghiên cứu này, luận văn đưa ra những kiến

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng BHXHHT bắt buộc trong

cuộc sống trên cơ sở áp dụng kinh nghiệm của các nước trên thế giới.

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu chung

Tìm hiểu quy định pháp luật về BHXHHT bắt buộc và thực tiễn áp

dụng những quy định đó tại Việt Nam. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm

hoàn thiện pháp luật BHXHHT bắt buộc và giúp cơ quan BHXH nâng cao

hiệu quả thực hiện pháp luật BHHT bắt buộc tại các địa bàn của Việt Nam.

3.2. Mục tiêu cụ thể

- Đánh giá thực trạng pháp luật về BHXHHT bắt buộc hiện nay và thực

trạng thực hiện BHXHHT bắt buộc tại Việt Nam, từ đó chỉ ra những kết quả

đạt được, đồng thời chỉ rõ những vấn đề còn hạn chế và nguyên nhân của nó;

- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật BHXHHT bắt buộc bắt buộc ở nước ta.

- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về BHXHHT bắt buộc;

5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Ở nước ta, BHXHHT bắt buộc luôn là chế độ nòng cốt trong hệ thống

BHXH và nó liên tục được sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện. Từ khi

xuất hiện đến nay, BHXHHT bắt buộc đã góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống

của hàng triệu NLĐ khi hết tuổi lao động, góp phần ổn định xã hội và thực hiện

công bằng xã hội. Tuy nhiên, qua nhiều năm thực hiện pháp luật BHXHHT bắt

buộc nhận thấy vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập về chính sách và quá trình

vận hành trong thực tế. Do đó, luận văn hướng đến đối tượng nghiên cứu là các

quy định của pháp luật về BHXHHT bắt buộc và thực trạng thực hiện các quy

định này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung pháp luật về

BHHT bắt buộc và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, cụ thể gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, tìm hiểu một số vấn đề lý luận chung về BHXHHT bắt buộc

và pháp luật BHXHHT bắt buộc, phân tích các quy định pháp luật BHXHHT

bắt buộc ở Việt Nam;

Thứ hai, đánh giá pháp luật và thực trạng thực hiện các quy định của

BHXHHT bắt buộc tại Việt Nam;

Thứ ba, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật BHXHHT bắt buộc tại Việt Nam.

Luật BHXH 2014 có hiệu lực cho đến 2017.

- Phạm vi về không gian: Tình hình thực hiện BHXHHT bắt buộc trên

phạm vi cả nước.

- Phạm vi về thời gian: Số liệu được thu thập trong các giai đoạn từ khi

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này đã được sử dụng những

phương pháp sau:

6

Phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch

sử làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu trong xuyên xuốt 3 chương.

Trong đó, sử dụng phương pháp tiếp cận về sự vận động và phát triển

của nền kinh tế thị trường trong điều kiện mới trên cơ sở vận dụng phương

pháp luận chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương,

đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về chế độ BHHT bắt buộc.

Phương pháp phân tích, tổng hợp

Từ những thông tin đã thu thập được luận văn sử dụng phương pháp

phân tích, tổng hợp để đánh giá các thông tin, sử dụng những thông tin phù

Phương pháp này được sử dụng để đánh giá các vấn đề lý luận về

hợp để đưa vào các nội dung của luận văn.

BHXHHT bắt buộc và BHXHHT bắt buộc ở một số nước trên thế giới trong

Chương 1.

Kết hợp với những phương pháp khác, phương pháp phân tích, tổng

hợp trong chương 2, 3 được xem xét khi phân tích các vấn đề ở chương 2 và

đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, các biện pháp nhằm thực thi có

hiệu quả quy định pháp luật về BHXHHT bắt buộc trong giai đoạn hiện nay ở

chương 3.

Phương pháp so sánh lịch sử

Phương pháp so sánh luật học được sử dụng xuyên suốt đề tài để so

so sánh quy định giữa các nước trong Chương 1 và các quy định pháp luật về

BHXHHT bắt buộc trong các giai đoạn từ đó rút ra những hạn chế, vướng

mắc của pháp luật và thực thi pháp luật trong lĩnh vực này.

Phương pháp chuyên gia

Luận văn sử dụng những nhận định, đánh giá, nhận xét, phát biểu của đội

sánh nội dung quy định pháp luật về BHXHHT bắt buộc trong từng thời kỳ,

Chương 2 và định hướng giải pháp cho nghiên cứu tại Chương 3 luận văn.

7

ngũ những chuyên gia, cán bộ am hiểu sâu về lĩnh vực BHXHHT bắt buộc trong

6. Tính mới và những đóng góp của đề tài

Luận văn đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của BHXHHT bắt

buộc trong hệ thống BHXH, hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước, phân tích quy định của pháp luật hiện hành về chế độ

BHXHHT bắt buộc và nêu ra điểm mới so với luật cũ. Luận văn là công trình

nghiên cứu khá toàn diện về thực hiện BHXHHT bắt buộc tại Việt Nam sau

một thời gian dài trong cơ chế thị trường.

Từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện và nâng cao

chất lượng, hiệu quả công tác thực thi BHXHHT bắt buộc. Vì vậy, luận văn

kiến thức cho các cán bộ làm công tác lao động – xã hội nói chung, những

có thể làm tài liệu để nghiên cứu luật. Ngoài ra, luận văn còn có thể cung cấp

người làm công tác BHXH, đặc biệt là công tác BHXHHT bắt buộc nói riêng,

giúp họ thực thi chính sách và pháp luật về BHXHHT bắt buộc hiệu quả.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

đề tài gồm 3 phần chính sau

Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí

bắt buộc

Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo

hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam.

hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam.

8

Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

HƯU TRÍ BẮT BUỘC

1.1. Khái quát chung về pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt

buộc

Khái niệm BHXHHT bắt buộc không phải là một khái niệm mới, nó đã

được hình thành và sử dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới như các nước

Châu Âu và các châu lục khác. Tuỳ pháp luật hưu trí ở mỗi nước có một số

là giống nhau. Do đó, có nhiều ý kiến khi xoay quanh khái niệm này.

quy định khác nhau nhưng về mục đích, bản chất và những tiêu chuẩn cơ bản

Theo Tổ chức lao động Quốc tế (ILO) thì hưu trí là “một dạng trợ cấp

trong hệ thống trợ cấp bảo hiểm xã hội dành cho những người tuổi cao không

thể tiếp tục làm việc bình thường được nữa” [31, Điều 29]. Từ khái niệm này

chúng ta thấy quyền được hưởng lương hưu sẽ được xác lập khi con người đạt

đến một độ tuổi nhất định mà độ tuổi ấy được xác định là không thể làm việc

bình thường được nữa.

Ở các nước trên thế giới, tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội cũng như

mức độ phát triển, mỗi quốc gia xây dựng cho mình một chính sách riêng về

BHXHHT bắt buộc trên cơ sở công ước của ILO về BHXH và tùy theo thể

với đất nước mình.

Mặc dù có nhiều quan niệm nhưng nhìn chung theo nghĩa chung nhất thì

BHXHHT bắt buộc được hiểu là “chế độ BHXH đảm bảo thu nhập cho người

hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia quan hệ lao động nữa” [21, tr.181].

Dưới góc độ pháp luật, BHXHHT bắt buộc là “tổng hợp các quy phạm

chế chính trị, các nước đề ra các quy định của BHXHHT bắt buộc phù hợp

9

pháp luật quy định về các điều kiện và mức trợ cấp cho những người tham gia

BHXH, khi đã hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia lao động” [21,

tr.181].

Tại Việt Nam, BHXHHT bắt buộc là một trong những chế độ quan

trọng nhất được hình thành ngay từ khi BHXH ra đời. Qua thời gian,

BHXHHT bắt buộc không ngừng được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn

thiện, đặc biệt là sau khi Luật BHXH được Quốc hội ban hành ngày 29 tháng

6 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Chính

sách này đã góp phần bảo đảm nguồn thu nhập hỗ trợ cho cuộc sống của NLĐ

khi không còn khả năng lao động, góp phần bảo đảm ASXH.

Đến Luật BHXH 2014, về cơ bản BHXHHT bắt buộc bảo đảm tính kế

thừa của các quy định trước đây và có những thay đổi về đối tượng tham gia,

điều kiện về tuổi được nghỉ hưu, mức lương hưu hàng tháng hay về tỷ lệ giảm

trừ nghỉ hưu trước tuổi... Do vậy, BHXHHT bắt buộc nhìn chung đảm bảo

những quy định pháp luật, lợi ích của NLĐ, bảo đảm công bằng trong hưởng

thụ.

Đặc điểm của bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

BHXHHT bắt buộc là một chế độ của BHXH bên cạnh những đặc điểm

của BHXH nói chung là nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của

NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do hết tuổi lao động trên cơ sở đóng

thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội, ngoài ra BHXHHT bắt buộc còn có

những đặc điểm riêng như sau:

Thứ nhất, BHXHHT bắt buộc có sự tách biệt giữa đóng và hưởng. Sở

dĩ có sự tách biệt như vậy là vì đây là một chế độ nằm ngoài quá trình lao

động cho nên để được hưởng BHXHHT khi về hưu thì NLĐ phải đóng phí

vào quỹ BHXH, góp phần bảo đảm kinh tế cho NLĐ và gia đình họ, đồng

10

trong quá trình lao động. Trong suốt quá trình này, số tiền NLĐ đóng góp vào

quỹ BHXHHT dùng để chi trả lương hưu, trợ cấp tuổi già cho thế hệ trước.

Như vậy, có sự kế thừa giữa các thế hệ lao động trong việc hình thành quỹ

BHXHHT, qua đó thể hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít của bảo hiểm.

Thứ hai, BHXHHT bắt buộc có sự phụ thuộc chặt chẽ giữa NLĐ và

NSDLĐ. BHXHHT bắt buộc không chỉ là mối quan hệ giữa NLĐ và cơ quan

bảo hiểm bằng quyền lợi và nghĩa vụ của NLĐ mà còn là trách nhiệm của

NSDLĐ vì chính lợi ích của họ. NSDLĐ muốn ổn định và phát triển sản xuất

kinh doanh thì ngoài việc đầu tư cho thiết bị máy móc hiện đại còn phải chăm

lo tới đời sống NLĐ mà mình sử dụng, tạo cho họ việc làm, đảm bảo cuộc

Thứ ba, BHXHHT bắt buộc là một chế độ BHXH dài hạn nằm ngoài

sống cho họ khi hết tuổi lao động bằng việc đóng BHXH cho NLĐ.

quá trình lao động. Nếu như những chế độ trợ cấp khác của BHXH áp dụng

chung cho NLĐ đang làm việc thì đối tượng áp dụng của , BHXHHT bắt

buộc lại là những NLĐ không còn tham gia vào QHLĐ với những điều kiện

nhất định. Đặc trưng này thể hiện cả trong quá trình đóng và hưởng ,

BHXHHT bắt buộc. NLĐ tham gia đóng phí BHXH trong một thời gian dài,

suốt quá trình lao động và khi hết tuổi lao động hoặc không còn tham gia

QHLĐ nữa thì NLĐ sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí trong khoảng thời gian

tính từ lúc về hưu cho đến khi NLĐ chết. Quá trình hưởng này dài, ngắn bao

nhiêu tùy thuộc vào tuổi thọ của từng người và những người hưởng,

mà theo quy định được nghỉ làm việc và hưởng lương hưu

BHXHHT bắt buộc là những người đã kết thúc quá trình làm việc của mình

1.1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội hưu trí trong hệ thống bảo hiểm

xã hội

BHXH là trụ cột chính, là xương sống trong hệ thống ASXH, đem lại

chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của NLĐ, góp phần đảm bảo an toàn xã

11

hội. Là một bộ phận cấu thành BHXH, vì vậy cùng với các chế độ BHXH

khác, BHXHHT bắt buộc có vai trò quan trọng đối với NLĐ cũng như sự phát

triển bền vững của xã hội nói chung. Trên thực tế, những người tham gia vào

BHXH đều có mong muốn tham gia vào BHXHHT bắt buộc. Trong phần

đóng góp phí BHXH nói chung thì phần chủ yếu là đóng góp cho chế độ này.

Như vậy, hoạt động thu chi của BHXHHT bắt buộc có ảnh hưởng tới toàn bộ

hoạt động của hệ thống BHXH, ảnh hưởng tới sự ổn định của BHXH nói

riêng cũng như cả xã hội nói chung do đó có thể nhìn nhận vai trò của

BHXHHT bắt buộc ở những góc độ sau:

Trước hết, BHXHHT bắt buộc có vai trò quan trọng đối với NLĐ

chính đáng của NLĐ sau khi hoàn thành nghĩa vụ lao động với xã hội. Khoản

BHXHHT bắt buộc đã đảm bảo được việc thực hiện quyền và lợi ích

lương hưu mà họ nhận được là kết quả tích lũy trong suốt quá trình làm việc

đóng góp vào quỹ BHXH. Đây là khoản thu nhập chính đáng, là chỗ dựa chủ

yếu nhằm đảm bảo cuộc sống về cả vật chất lẫn tinh thần cho NLĐ trong

quãng đời còn lại sau quá trình lao động. Có thể khi về già, NLĐ cũng có

những khoản tích lũy, có chỗ dựa là con cháu song phần lớn là họ trông cậy

vào khoản lương hưu. Hơn nữa, người về hưu sẽ cảm thấy tự tin, yên tâm

trong cuộc sống khi họ được hưởng lương hưu, không bị mặc cảm là gánh

nặng của gia đình và xã hội.

Ngoài ra, nhờ tham gia BHXHHT bắt buộc mà NLĐ được cấp thẻ bảo

thu nhập được trích ra để đóng góp vào quỹ BHXH đã giúp cho NLĐ tiết

kiệm cho bản thân ngay từ trong quá trình lao động nên có thể nói rằng

BHXHHT bắt buộc chính là của “để dành” cho NLĐ.

BHXHHT bắt buộc được coi là chính sách mang tính nhân văn, nhân

đạo và tính xã hội rất cao. Chính sách BHXHHT bắt buộc của Việt Nam quy

hiểm y tế, chăm sóc sức khỏe, giúp họ chủ động và ổn định đời sống. Phần

12

định như hiện nay mặc dù chưa được hoàn hảo như một số nước phát triển,

nhưng chính sách này được xây dựng cũng đã hướng đến mục tiêu chăm sóc,

bảo vệ NLĐ, hỗ trợ một phần khó khăn, đảm bảo cuộc sống ổn định khi tuổi

già, cơ bản đáp ứng được cuộc sống tối thiểu của họ.

Thứ hai, vai trò của BHXHHT bắt buộc đối với NSDLĐ

Để hình thành nên quỹ BHXHHT bắt buộc còn có sự đóng góp của

NSDLĐ, sở dĩ NSDLĐ tham gia đóng góp còn vì chính lợi ích của họ. Ở đây,

NSDLĐ đã thực hiện chia sẻ gánh nặng để khi NLĐ mà họ thuê mướn nghỉ

hưu, thì họ không phải chi phí những khoản tiền lớn hỗ trợ cho NLĐ, mà

những chi phí này đã chuyển sang cơ quan BHXH.

BHXHHT bắt buộc thể hiện trách nhiệm của Nhà nước, của xã hội và

Thứ ba, vai trò của BHXHHT bắt buộc đối với xã hội

của NSDLĐ đối với những NLĐ đã đóng góp vào sự phát triển chung của đất

nước nay hết tuổi lao động. Chế độ này phản ánh rõ nét giá trị xã hội, tính

nhân văn, nhân đạo của dân tộc, là một trong những nội dung quan trọng của

chính sách ASXH quốc gia.

Cũng như các chế độ khác BHXHHT bắt buộc được hình thành do sự

đóng góp từ 3 bên đó là: NLĐ, NSDLĐ và sự hỗ trợ của Nhà nước. Qua đây

thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước, của NSDLĐ đối với NLĐ không

chỉ khi họ còn trẻ, khỏe mà cả khi họ đã già yếu không thể lao động được nữa.

Sự quan tâm này không chỉ là nghĩa vụ và trách nhiệm mà còn là đạo lý của

nhớ nguồn” tốt đẹp của dân tộc ta.

Như vậy, có thể thấy rằng BHXHHT bắt buộc có ý nghĩa vô cùng quan

trọng đối với NLĐ nói riêng và xã hội nói chung, góp phần phát triển bền

vững ASXH.

mỗi dân tộc, mỗi nền chính trị và xã hội gắn liền với truyền thống “uống nước

1.2. Một số vấn đề lý luận của pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt

13

buộc

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm hưu trí bắt buộc

Trong BHXHHT được phân thành BHXHHT bắt buộc và tự nguyện.

Theo đó, BHXHHT bắt buộc là “chế độ BHXH mà NLĐ và NSDLĐ bắt buộc

phải tham gia”.

Pháp luật về BHXHHT bắt buộc là hệ thống các quy định pháp luật do

nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh

trong việc đóng góp, quản lý, chi trả và hưởng BHXHHT bắt buộc.

Tính chất bắt buộc của BHXHHT được thể hiện ở chỗ:

Về đối tượng thì mọi NLĐ làm việc theo một thời hạn nhất định trở lên

hoặc làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn sẽ thuộc đối tượng

đóng BHXH bắt buộc. Với BHXHHT bắt buộc này thì cả NLĐ và NSDLĐ

đều bắt buộc phải tham gia.

Về mức phí đóng góp, trong phạm vi, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

các chủ thể có nghĩa vụ hàng tháng phải đóng một khoản tiền nhất định do pháp

luật quy định tương ứng tỷ lệ tiền lương của người lao động cho quỹ BHXH.

Về thời gian tham gia: thường là rất dài, kéo dài trong suốt những năm

tham gia quan hệ lao động của NLĐ và NSDLĐ.

Nguyên tắc của bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

BHXHHT bắt buộc là một trong những chế độ của BHXH nên cũng

năm 2014 có quy định [17]:

- Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng

BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.

- Mức đóng BHXH bắt buộc, BHTN được tính trên cơ sở tiền lương,

tiền công của NLĐ. Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức

thu nhập do NLĐ lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức

lương tối thiểu chung.

14

tuân theo các nguyên tắc chung của BHXH. Căn cứ theo Điều 5 Luật BHXH

- NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH bắt buộc vừa có thời gian đóng

BHXH tự nguyện được hưởng lương hưu và chế độ tử tuất trên cơ sở thời

gian đã đóng BHXH.

- Quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch,

được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành

phần của BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và BHTN.

- Việc thực hiện BHXH phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp

thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH.

Bên cạnh những nguyên tắc chung của BHXH ngoài ra BHXHHT bắt

- Nguyên tắc phân biệt hợp lý BHXHHT bắt buộc giữa lao động nam và

buộc còn tuân theo các nguyên tắc riêng biệt như sau [21, tr.184]:

lao động nữ.

Do điều kiện về độ tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ

khác nhau, lao động nữ thường được nghỉ hưu sớm hơn nam giới. Hơn nữa,

quan điểm ưu tiên phụ nữ còn là truyền thống tồn tại lâu đời trong cộng đồng

và được Nhà nước thừa nhận. Vì vậy, Luật BHXH nước ta quy định lao động

nữ được nghỉ hưu sớm hơn lao động nam 5 tuổi và cách tính lương hưu cũng

được quy định khác nhau để đảm bảo sự công bằng về quyền hưởng lương

hưu giữa lao động nam và lao động nữ.

- Nguyên tắc ưu đãi đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định

nghề có tính chất nặng nhọc, độc hại, ở những nơi xa xôi hẻo lánh hay trong

những lĩnh vực quan trọng như an ninh, quốc phòng… có sự khác nhau.

Những NLĐ phải làm việc trong điều kiện lao động không thuận lợi hoặc làm

những công việc mà tính quan trọng đối với an ninh đất nước có thể ảnh

hưởng đến cuộc sống bình thường của họ thì sẽ được hưởng chế độ ưu đãi đặc

Xuất phát từ lý do điều kiện làm việc của NLĐ trong một số ngành

15

biệt là được nghỉ hưu sớm hơn so với độ tuổi thông thường. Trong BHXHHT

bắt buộc, sự giảm độ tuổi này thể hiện ở việc luật pháp cho phép họ được nghỉ

hưu ở tuổi sớm hơn so với quy định chung nhưng không phải trừ đi tỷ lệ

lương hưu do thời gian nghỉ sớm đó

1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt

buộc

BHXHHT bắt buộc giữ vai trò quan trọng trong toàn hệ thống ASXH

của mỗi quốc gia, nó là chế độ dài hạn nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ khi

không còn tham gia vào QHLĐ nữa. BHXHHT bắt buộc cũng như các chế độ

BHXH khác được pháp luật điều chỉnh với các nội dung cơ bản về đối tượng

tham gia, mức đóng góp, điều kiện hưởng, chế độ hưởng và thời gian hưởng.

Cụ thể như sau:

Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

BHXHHT bắt buộc là một trong 9 chế độ mà hầu hết các quốc gia trên

thế giới đều thực hiện đối với NLĐ. Pháp luật BHXH của Việt Nam cũng như

của các nước khác cũng đã ghi nhận BHXHHT bắt buộc là chế độ bảo hiểm

bắt buộc trong hệ thống chính sách BHXH. Đây cũng là một trong những chế

độ bảo hiểm có thời gian thực hiện dài, với đối tượng tham gia rộng rãi.

Tùy vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia trong từng giai đoạn cụ thể

mà các quốc gia quy định với phạm vi áp dụng cụ thể. Thông thường pháp

bao quát toàn bộ NLĐ. Tuy nhiên, ở các quốc gia phát triển, một số nước có

thể quy định hình thức tham gia duy nhất là bắt buộc đối với mọi NLĐ.

Theo tiểu chuẩn về đối tượng tham gia vào hệ thống hưu trí trong một

quốc gia Công ước 102 của ILO quy định “đối tượng tham gia chế độ hưu trí

trong một quốc gia tối thiểu phải bằng 50% tổng số người làm công ăn lương

hoặc 20% dân số hoạt động kinh tế” [31, Điều 27].

luật các quốc gia quy định hệ thống BHXHHT bắt buộc và tự nguyện nhằm

16

Thông thường, đối tượng tham gia BHXHHT bắt buộc bao gồm cả NLĐ

và NSDLĐ. Ở hầu hết các quốc gia, phần đóng góp vào quỹ hưu trí của NSDLĐ

cao hơn NLĐ.

Ở một số quốc gia khác, có sự tham gia của Nhà nước vào BHXHHT

bắt buộc. Nhà nước có thể tham gia với tư cách là NSDLĐ hoặc với tư cách là

hỗ trợ một phần trong mức đóng góp hoặc hỗ trợ một phần trong các chính

sách về quản lý bộ máy, chính sách ưu đãi về thuế.

Tại Việt Nam, đối tượng tham gia BHXHHT bắt buộc được quy định

căn cứ theo Luật BHXH 2014. Bên cạnh những đối tượng là công dân Việt

Nam thì từ 01/01/2018 bổ sung thêm những quy định mới nhằm mở rộng đối

Nam cũng sẽ được quyền tham gia các chế độ BHXH bắt buộc áp dụng đối

tượng tham gia. Đặc biệt, NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt

với NLĐ có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép

hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp.

Mức đóng góp vào bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

Cũng như tất cả các chế độ bảo hiểm khác, để hình thành phải có sự

đóng góp của các bên tham gia. Trong thực tế mức thu cho chế độ này được

xác định riêng theo một tỷ lệ nào đó so với thu nhập hay tiền lương dùng để

tính BHXH. Đối với BHXHHT bắt buộc cho NLĐ làm công ăn lương thì thu

nhập này thường là tiền lương. Trong một số trường hợp mức thu cho

BHXHHT bắt buộc không xác định riêng mà được gộp chung vào một mức

Ở Việt Nam hiện nay trong phí BHXH có quy định tỷ lệ phần trăm

tham gia đóng góp BHXHHT bắt buộc cho NLĐ và NSDLĐ và được quy

định trong Luật BHXH 2014.

Điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

Để được hưởng một chế độ BHXH người hưởng bảo hiểm phải đảm

thu gọi là thu BHXH nói chung.

17

bảo một số điều kiện nhất định và tùy từng chế độ bảo hiểm cụ thể mà điều

kiện hưởng là khác nhau nhưng nhìn chung các quốc gia đều căn cứ vào mức

độ đóng góp của người tham gia bảo hiểm. Đối với BHXHHT bắt buộc, điều

kiện quan trọng để NLĐ được hưởng trợ cấp chính là tuổi đời và thời gian

đóng bảo hiểm. Do vậy, phải đến một độ tuổi và có một khoảng thời gian

đóng bảo hiểm nhất định NLĐ mới được nghỉ hưu và hưởng lương. Hiện nay

pháp luật ở các quốc gia hầu như không đưa ra quy định để được nhận trợ cấp

tuổi già thì phải ngừng QHLĐ bởi vì nhận trợ cấp tuổi già là quyền của NLĐ

khi đã nộp các khoản đóng góp trong một khoảng thời gian nhất định.

Về độ tuổi, BHXHHT bắt buộc là chế độ bảo hiểm dành cho những

động NLĐ mới được hưởng chế độ này. Trên thế giới, tùy theo điều kiện kinh tế

người đã già không còn tham gia QHLĐ nữa, vì vậy, chỉ đến khi hết tuổi lao

- xã hội cũng như tập quán của từng nước mà quy định tuổi nghỉ hưu của NLĐ là

khác nhau.

Ngoài ra, tùy thuộc vào cơ sở sinh học như tuổi thọ, thể lực, giới tính

của NLĐ. Ở mỗi quốc gia, tùy vào điều kiện riêng của mình mà quy định

những điều kiện hưởng là khác nhau. Có những nước quy định tuổi nghỉ hưu

của cả nam và nữ như nhau, có những nước lại khác nhau, thường là nữ có

tuổi nghỉ hưu sớm hơn, có một số nước quy định tuổi nghỉ hưu sớm, có nước

quy định tuổi nghỉ hưu muộn.

Theo Công ước số 128 của ILO thì tuổi được nghỉ hưu là không quá 65

quy định độ tuổi cao hơn [32, Điều 15]. Đây được coi là mức trần cho tuổi

được nghỉ hưu trên thế giới, có rất ít các quốc gia quy định tuổi dưỡng cấp

cao hơn 65. Tuy vậy, về phương diện xã hội, ILO cũng đưa ra một số tiêu trí

cụ thể để giảm độ tuổi được nghỉ hưu như là: sự phân biệt giới tính, phân biệt

theo loại hình công việc, giảm tuổi trong trường hợp thất nghiệp, giảm tuổi

tuổi, nhưng tuỳ theo điều kiện kinh tế chính trị xã hội của các quốc gia có thể

18

trong trường hợp làm việc lâu năm.

Hiện nay, nhìn chung trên thế giới tuổi thọ trung bình của người dân

tăng lên do hiện tượng dân số già đi nên một số nước đang có xu hướng tăng

tuổi nghỉ hưu của NLĐ hoặc thực hiện các chính sách nhằm khuyến khích

NLĐ tiếp tục làm việc. Tại Nhật Bản, tuổi thọ trung bình vốn đã khá cao so

với các quốc gia khác, nhưng gần đây tỷ lệ sinh đẻ ngày càng thấp đồng thời

tình trạng lão hóa dân số diễn biến nhanh, Nhật Bản đang phải đối phó với

vấn đề thiếu hụt nhân lực trầm trọng. Chính phủ nước này ước tính, đến năm

2065, số lượng công dân trên 65 tuổi sẽ tăng từ 27% lên 38% tổng dân số.

Với tình trạng thiếu hụt lao động đang trở thành vấn đề nan giải thì việc

thể tháo gỡ vấn đề này. Theo đề xuất mới của nước này, từ 65 đến 74 tuổi sẽ

nâng tuổi nghỉ hưu đang là giải pháp được nhiều người đưa ra với hy vọng có

được coi là "tiền cao tuổi", trên 75 tuổi là cao tuổi và những người trên 90

tuổi là "thượng thọ", các bác sĩ Nhật Bản cũng đề xuất Chính phủ thay đổi

quy định tuổi nghỉ hưu, theo đó, công dân trên 75 tuổi mới được coi là người

cao tuổi nhằm khuyến khích những người từ 65 tới 74 tuổi tiếp tục làm việc

và cống hiến [25].

Trong khi đó, một số nước khác thì áp dụng quy định hưu trí mềm dẻo

với các biện pháp ưu đãi khuyến khích NLĐ tiếp tục làm việc và nghỉ hưu

muộn hơn ví dụ tăng lương cho những người nghỉ hưu muộn hơn như ở Anh,

Mỹ, Canada [13, tr.118].

hưởng BHXHHT bắt buộc. Thời gian đóng BHHT là tổng số đơn vị thời gian

có đóng phí bảo hiểm để được hưởng chế độ này. Việc quy định thời gian

đóng phí BHXH nhằm xác định sự cống hiến về mặt lao động của mỗi người

với xã hội nói chung và phần đóng góp vào BHXH nói riêng. Thời gian đóng

BHXH là một trong những căn cứ để chi trả trợ cấp đối với NLĐ nhằm bảo

Cùng với độ tuổi, thời gian đóng BHXH là điều kiện quan trọng để

19

đảm sự công bằng, bình đẳng giữa những người tham gia BHXH, thực hiện

một trong những nguyên tắc cơ bản của BHXH.

Theo ILO, mức khuyến cáo cho các quốc gia là 15 năm trở lên cho chế

độ hưởng BHXHHT bắt buộc hàng tháng, đối với những trường hợp có mức

đóng thấp hơn có thể cho hưởng một lần [32, Điều 18]. Thực tế hầu hết các

quốc gia lựa chọn mức thời gian đóng góp cao hơn mức này.

Như vậy, trong các chế độ BHXH bắt buộc, đối với BHXHHT bắt buộc

hầu hết các nước đều quy định điều kiện để được hưởng chế độ phụ thuộc hai

yếu tố đó là độ tuổi xác định và số năm đóng BHXH.

Mức hưởng và thời gian hưởng bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

được nhận sau khi nghỉ hưu và phụ thuộc vào thời gian họ tham gia BHXH.

Mức hưởng BHXHHT bắt buộc là số tiền mà NLĐ tham gia BHXH

Thông thường, BHXHHT bắt buộc được chi trả định kỳ hàng tháng, nhưng

trong một số trường hợp cụ thể ví dụ chưa đủ khoảng thời gian tham gia BHXH

hoặc thời gian lao động tối thiểu quy định cũng có thể chi trả trợ cấp một hoặc

một số lần nhất định.

BHXHHT bắt buộc định kỳ được áp dụng đối với NLĐ đã có thời gian

tham gia BHXH theo quy định. Mức hưởng BHXHHT bắt buộc được quy

định theo một tỷ lệ nhất định so với thu nhập trước đó của NLĐ. Các trường

hợp có thời gian tham gia BHXH hoặc thời gian lao động thực tế ngắn sẽ bị

giảm mức trợ cấp. Mức giảm cũng phụ thuộc vào thâm niên đó.

nghỉ hưu cho đến khi qua đời. Thời gian hưởng trợ cấp không được xác định

trong các văn bản của ILO. Với mỗi người thời gian hưởng lương hưu thông

thường là khác nhau vì tuổi nghỉ hưu và tuổi thọ không giống nhau.

Theo nguyên tắc mức hưởng không được cao hơn mức lương mà NLĐ

nhận được trong quá trình lao động. Vì nếu mức hưởng này cao hơn hay bằng

Thời gian hưởng BHXHHT bắt buộc được hiểu là thời gian kể từ khi

20

số tiền lương thì mọi người đều có xu hướng nghỉ hưu để được hưởng trợ cấp

BHXH. Nhưng để đảm bảo nguyên tắc đóng hưởng và mục đích của

BHXHHT bắt buộc là nhằm ổn định đời sống của người về hưu nên mức

hưởng cũng phải đảm bảo được nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống của họ.

NLĐ khi đáp ứng được các yêu cầu, điều kiện hưởng BHXHHT bắt

buộc thì được hưởng lương hưu. Về cơ bản, BHXHHT bắt buộc bao gồm

lương hưu hàng tháng và lương hưu một lần. Công ước 128 cũng xác định rõ:

“Trợ cấp tuổi già phải là chế độ chi trả định kỳ, trừ một số trường hợp hy hữu

thì các quỹ phòng xa quốc gia thực hiện việc chi trả một lần nhưng hầu hết

đều không đặt được mục tiêu đảm bảo nhu cầu của người lao động khi không

Theo đó, có thể hiểu BHXHHT hàng tháng là chế độ được trả theo định

còn làm việc nữa” [32, Điều 17].

kỳ (tháng, quý). Mức hưởng của BHXHHT bắt buộc được xác định dựa trên

mức đóng, thời gian đóng, mức tiền lương khi còn đang làm việc. Về mặt

nguyên tắc, mức hưởng không bao giờ cao hơn mức lương trung bình lấy làm

căn cứ tính mức hưởng. Quy định của các nước đều không đặt ra giới hạn đối

với thời gian hưởng trợ cấp hưu trí, nghĩa là NLĐ sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí

khi đến chết. Còn BHXHHT một lần là chế độ chi trả một lần cho NLĐ khi họ

về hưu thường trong trường hợp họ không đủ điều kiện hưởng trợ cấp

BHXHHT bắt buộc hàng tháng.

Nguồn hình thành và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí

sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác.

Quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ và là một công cụ để thực hiện chức năng

tài chính BHXH và chính sách BHXH của Nhà nước.

Là một bộ phận cấu thành nằm trong quỹ BHXH, do đó quỹ BHXHHT

bắt buộc mang đầy đủ đặc điểm của một quỹ tài chính độc lập, được hình

Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung, được hình thành từ

21

thành từ sự đóng góp của các bên, quỹ được sử dụng để thực hiện chi trả

BHXHHT bắt buộc.

Nguồn hình thành quỹ là từ sự đóng góp của NSDLĐ, NLĐ, tiền sinh

lời từ hoạt động đầu tư quỹ, hỗ trợ của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp

khác theo các tỷ lệ quy định của pháp luật.

Thứ nhất, quỹ hình thành trên phần đóng góp của NSDLĐ, NLĐ và sự

đóng góp hoặc hỗ trợ của nhà nước trong một số trường hợp. Phần đóng góp này

gọi chung là phí BHXH và là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất của quỹ. Sự đóng

góp của các bên phụ thuộc vào chính sách BHXH, vào điều kiện kinh tế - xã hội

của mỗi nước và phụ thuộc vào việc các nước quy định các chế độ BHXH.

năng lao động trên cơ sở trích một phần từ tiền lương, mặt khác nó có ý nghĩa

NLĐ đóng BHXH để bảo hiểm cho chính mình khi không còn khả

ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi của họ một cách chặt chẽ.

NSDLĐ hàng tháng trích từ quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp để

đóng góp BHXH cho tổng số lao động mà họ thuê mướn. Sự đóng góp của

NSDLĐ do luật định, thể hiện trách nhiệm của họ đối với NLĐ.

Đối với Nhà nước, trong một số hệ thống BHXH Nhà nước có thể đóng

góp BHXH trực tiếp hoặc gián tiếp. Trường hợp Nhà nước tham gia trực tiếp

vì Nhà nước cũng là NSDLĐ là công chức, viên chức làm việc ở khu vực

quản lý nhà nước, khu vực sự nghiệp và được nhận lương từ ngân sách. Ngoài

ra, với tư cách quản lý nền kinh tế, quản lý xã hội, Nhà nước có trách nhiệm

thiết như điều hoà mâu thuẫn của hai bên thông qua hệ thống các chính sách

pháp luật. Không chỉ có như vậy Nhà nước còn hỗ trợ thêm vào quỹ BHXH

giúp cho hoạt động BHXH được ổn định.

Thứ hai, quỹ được hình thành dựa trên phần tăng thêm do nguồn

nhàn rỗi của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động đầu

đảm bảo giá trị của quỹ BHXH và hỗ trợ cho quỹ trong những trường hợp cần

22

tư để sinh lợi. Do tính chất của các rủi ro xã hội và các sự kiện xã hội phát

sinh không đồng đều theo thời gian và không gian, nên trong quá trình hoạt

động, có một bộ phận của quỹ chưa sử dụng đến. Phần nhàn rỗi được đầu

tư vào thị trường tài chính hoặc thị trường bất động sản hoặc các hoạt động

đầu tư khác để sinh lợi.

Thứ ba, phần thu từ tiền nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế,

do vi phạm pháp luật về BHXH là nguồn thu cho quỹ. Theo quy định của

pháp luật về BHXH ở nhiều nước, đến một thời hạn quy định nếu NSDLĐ

không nộp phí BHXH sẽ phải chịu một khoản tiền phạt bằng một tỷ lệ nào đó

trên tổng số tiền phải nộp, đồng thời vẫn phải nộp phần phí BHXH theo quy

Thứ tư, là các khoản thu khác như từ các cá nhân và các tổ chức từ

định. Như vậy, tiền nộp phạt cũng là bộ phận tạo ra nguồn thu cho quỹ.

thiện ủng hộ.

Các khoản thu hợp pháp khác như ủng hộ, đóng góp của cá nhân và tổ

chức trong và ngoài nước v.v. nhưng quan trọng nhất là thu từ hoạt động đầu

tư tăng trưởng quỹ trong khuôn khổ luật pháp cho phép.

Nhìn chung, hầu hết các nước đều theo cơ chế trên để hình thành quỹ

tài chính BHXH. Tuy nhiên, mỗi nước quy định tỷ lệ mức đóng góp vào hưu

trí khác nhau.

Hiện nay, sau nhiều năm sửa đổi theo quy định của Luật BHXH 2014 quỹ

BHXH được phân chia thành các quỹ thành phần sau: quỹ ốm đau và thai sản,

Trong đó quỹ hưu trí và tử tuất được sử dụng để chi trả chế độ cho cả đối tượng

tham gia bắt buộc và tham gia tự nguyện. Trước đây, hai quỹ này tách biệt.

Theo Điều 5 của Luật BHXH 2014, mức đóng BHXH bắt buộc được

tính trên cơ sở tiền lương tháng của NLĐ. Từ ngày 01/01/2018 trở đi, tiền

lương tháng tính đóng BHXH bắt buộc của người lao động là mức lương,

quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, quỹ hưu trí và tử tuất [17, Điều 83].

23

phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về

lao động [5, Điều 4, Khoản 3].

Căn cứ Điều 85, Điều 86 Luật BHXH 2014, Luật an toàn, vệ sinh lao

động 2015, Luật việc làm 2013, Nghị định 105/2014/NĐ-CP, Nghị định

44/2017/NĐ-CP mức đóng BHXH bắt buộc mới nhất của NLĐ và NSDLĐ

gồm các khoản sau: quỹ hưu trí, tử tuất; quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp; quỹ ốm đau, thai sản; quỹ bảo hiểm thất nghiệp; quỹ bảo hiểm y tế.

Trong đó, NLĐ sẽ đóng 8% vào quỹ hưu trí tử tuất, 1% quỹ bảo hiểm

thất nghiệp và 1,5% vào quỹ bảo hiểm y tế.Trong đó, NSDLĐ đóng 14% vào

quỹ hưu trí tử tuất, 0,5% quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, 3% quỹ ốm

Tổng mức BHXH bắt buộc phải đóng của cả NSDLĐ và NLĐ là 32%.

đau thai sản, 1% quỹ bảo hiểm thất nghiệp, 3% quỹ bảo hiểm y tế.

Pháp luật về xử lí vi phạm bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

Việc đảm bảo quyền lợi về BHXH cho NLĐ là yếu tố quan trọng quyết

định sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp đóng

BHXH cho NLĐ là thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm, thể hiện mối quan hệ hài

hòa, ổn định và tiến bộ giữa NSDLĐ và NLĐ.

Tuy vậy, trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật

BHXH có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của

NLĐ. Trong đó không thể không nhắc tới là trình trạng chậm đóng, trốn đóng,

hầu hết các tỉnh, thành trên cả nước với số nợ ngày càng lớn. Hơn nữa, vi

phạm pháp luật về BHXH không chỉ dừng lại ở hành vi trốn đóng BHXH mà

còn xảy ra tình trạng lạm dụng chế độ, chính sách BHXH để trục lợi ngày

càng phức tạp như lập hồ sơ giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ BHXH để hưởng

các chế độ BHXH trong đó có BHXHHT bắt buộc.

chây ỳ nợ đọng BHXH cho NLĐ ngày càng gia tăng xảy ra trên diện rộng ở

càng phức tạp Nghị định 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành

24

Trước tình trạng lạm dụng chế độ, chính sách BHXH để trục lợi ngày

chính trong lĩnh vực lao động, BHXH, đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước

ngoài theo hợp đồng được ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi của NLĐ và xử lý

các hành vi vi phạm.

1.3. Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí ở một số nước trên thế

giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

1.3.1. Pháp luật về bảo hiểm xã hội hưu trí của một số quốc gia

1.3.1.1. Pháp luật về bảo hiểm hưu trí của Trung Quốc [33]

ASXH là chế độ kinh tế xã hội cơ bản của một quốc gia. Đó vừa là vấn

đề lợi ích trực tiếp nhất, hiện thực nhất và được quần chúng nhân dân quan

sống nhân dân hạnh phúc và kinh tế tăng trưởng bền vững. Chính vì những ý

tâm vừa là nền tảng quan trọng cho sự ổn định lâu dài của đất nước, cho cuộc

nghĩa đó, nên ngay từ ngày đầu thành lập nước, bên cạnh việc khôi phục nền

kinh tế, Chính phủ Trung Quốc luôn chú ý tới vấn đề công bằng xã hội bằng việc

đưa ra “Điều lệ bảo hiểm lao động nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”, được

coi là cơ sở luật pháp đầu tiên cho sự hình thành một chế độ ASXH ở nước này.

Đặc biệt là từ sau khi Trung Quốc chuyển sang giai đoạn cải cách mở

cửa vào năm 1978, vai trò của hệ thống ASXH ngày càng nổi bật, trở thành

một bộ phận quan trọng xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.

Chính phủ nước này luôn coi trọng công tác cải cách và xây dựng hệ thống

ASXH trong đó đặc biệt là BHHT để phù hợp với trình độ phát triển kinh tế,

BHHT hiện hành tại Trung Quốc bao gồm BHHT bắt buộc và BHHT

tự nguyện. Trong đó, BHHT bắt buộc áp dụng đối với người làm công ăn lương

thuộc doanh nghiệp quốc doanh, sở hữu doanh nghiệp tư nhân và doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Quyền lợi BHHT cơ bản cho NLĐ được xác định bởi các yếu tố thời

nhanh chóng đạt được mục tiêu xây dựng xã hội toàn diện.

25

gian đóng góp tích lũy và tiền lương đánh giá đóng góp, tiền lương trung bình

của NLĐ của quận nơi người đó cư trú, tín dụng tài khoản cá nhân và tuổi thọ

của dân thành thị [33, Điều 15].

Theo đó, BHHT sẽ dựa trên sự kết hợp giữa cộng đồng xã hội thông

qua việc thiết lập quỹ cộng đồng để chia sẻ rủi ro và các tài khoản cá nhân.

Mức đóng hiện tại đối với cá nhân là khoảng 8% tiền lương, tiền công và của

NSDLĐ là 20% của tổng quỹ tiền lương. Ngoài ra, chính quyền các cấp có

thể cung cấp trợ cấp tài chính trong trường hợp quỹ này thiếu hụt. Cơ quan

BHXH tạo ra các tài khoản cá nhân về hưu trí cho mỗi NLĐ với mức là 11%

tiền lương, tiền công trong đó phần 8% đóng góp của NLĐ được chuyển trực

Phần đóng góp của NSDLĐ sau khi trích chuyển một phần vào tài khoản cá

tiếp vào tài khoản và phần 3% được trích từ phần đóng góp của NSDLĐ.

nhân được chuyển vào quỹ cộng đồng.

Theo quy định, một thành viên của BHHT cơ bản sẽ nhận được tiền trợ

cấp tuổi già cơ bản hàng tháng nếu thời gian đóng góp tích lũy của thành viên

không dưới 15 năm khi đến tuổi nghỉ hưu hợp pháp.

Nếu thời gian đóng góp tích lũy của một thành viên của BHHT cơ bản

là dưới 15 năm khi thành viên đến tuổi nghỉ hưu hợp pháp, thành viên đó có

thể nhận được BHHT cơ bản hàng tháng sau khi thành viên đó bổ sung khoản

đóng góp cho những gì cần thiết trong 15 năm. Thành viên có thể chọn

chuyển sang BHXH nông thôn mới về trợ cấp tuổi già hoặc BHXH của trợ

đồng Nhà nước [33, Điều 16].

Quỹ BHHT cơ bản của Trung Quốc là một phần quan trọng trong hệ

thống BHXH của đất nước này vì nó chiếm gần 70% trong BHXH quốc gia

năm 2017, theo số liệu từ Bộ Nhân lực và ASXH [30].

Điểm nổi bật của Trung Quốc trong chính sách BHXH là thực hiện BHHT

cấp tuổi già cho cư dân thành thị, và nhận lương hưu theo quy định của Hội

26

tại nông thôn. BHXH nông thôn mới của trợ cấp tuổi già sẽ là sự kết hợp của các

khoản đóng góp cá nhân, trợ cấp tập thể và trợ cấp chính phủ [33, Điều 20].

Chương trình thí điểm về BHHT sử dụng tài khoản cá nhân đang được triển

khai ở một số khu vực nông thôn dựa trên sự đóng góp của cá nhân, hỗ trợ

của chính quyền địa phương và khuyến khích bằng cơ chế của Nhà nước đã

đưa lại sự khác biệt trong hệ thống BHXH của quốc gia này.

1.3.1.2. Pháp luật về bảo hiểm hưu trí của Nhật Bản [36]

ASXH có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển bền

vững của mỗi quốc gia và được coi là công cụ để xây dựng một xã hội phát

triển. Trong nhiều thập niên qua, Nhật Bản là một trong những quốc gia điển

Chính sách ASXH ở Nhật Bản được xây dựng linh hoạt và là động lực

hình thực hiện thành công mô hình chính sách ASXH.

cho tăng trưởng kinh tế cũng như tiến bộ xã hội, tạo thành nét độc đáo của mô

hình nhà nước phúc lợi riêng biệt. Về cơ bản, đây là mô hình ASXH có tính

phổ cập, dựa vào nguyên tắc phân phối lại thu nhập, trong đó tất cả mọi người

dân đều được hưởng trợ giúp tối thiểu nhằm nâng cao mức sống và giảm phân

hóa giàu nghèo. Trong mô hình này, Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc

cung cấp ASXH thông qua hệ thống bảo hiểm và trợ cấp xã hội.

Về tổng thể, hệ thống ASXH của Nhật Bản được cấu thành bởi bốn

chính sách cơ bản [6]: chính sách BHXH, chính sách bảo hiểm việc làm,

chính sách bảo hiểm chăm sóc sức khỏe và chính sách trợ giúp xã hội.

bắt buộc cung cấp những phúc lợi nhất định cho người tham gia. Ở Nhật Bản,

BHXH luôn là nội dung chủ yếu của hệ thống ASXH.

Tại Nhật Bản có ba loại lương hưu công cộng và tất cả những người có

địa chỉ ở Nhật Bản đều phải tham gia. Hệ thống lương hưu để tham gia được

quyết định bởi cách làm việc của người đó. Bao gồm:

Trong đó, BHHT nằm trong chế độ chính sách BHXH, là một chế độ

27

Thứ nhất, bảo hiểm lương hưu quốc gia (hay còn gọi là lương hưu cơ bản)

Hệ thống hưu trí quốc gia Nhật Bản là chương trình dành cho tất cả các

cư dân đăng ký trong độ tuổi từ 20 đến 60, bao gồm cả công dân Nhật Bản và

người nước ngoài cư trú hợp pháp [36, Điều 7].

Tất cả những người sinh sống ở Nhật từ 20-60 tuổi dù là công việc gì,

kể cả du học sinh hay lao động nước ngoài, trong đó có người Việt Nam

chúng ta sẽ phải đóng BHHT quốc gia. Số tiền đóng góp hàng tháng cho

lương hưu quốc gia từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 3 năm 2011 là 15.000

Yên. Đóng góp cho mỗi tháng phải được thanh toán vào cuối tháng sau. Đóng

góp có thể được thanh toán tại ngân hàng, bưu điện hoặc cửa hàng tiện lợi,

hệ thống hưu trí từ 25 năm trở lên sẽ được nhận lương hưu, mức lương hưu

chuyển khoản ngân hàng hoặc trực tuyến. Từ tuổi 65 trở đi, người đã tham gia

nhận được tuỳ theo số năm tham gia hệ thống [23].

Thứ hai, bảo hiểm hưu trí phúc lợi

Những người đã đăng ký BHHT phúc lợi được phân loại là người được

bảo hiểm thứ hai tham gia lương hưu quốc gia thông qua hệ thống BHHT

phúc lợi. Vì thế, ngoài lương hưu cơ bản là lợi ích của lương hưu quốc gia

bạn sẽ nhận được thêm khoản hưu trí phúc lợi. Do thời gian tạm trú của người

nước ngoài tại Nhật Bản ngắn hạn, nên cả BHHT quốc dân và BHHT phúc lợi

đều có chế độ truy lĩnh lương hưu một lần khi thôi bảo hiểm [36].

Thứ ba, hệ thống hỗ trợ lẫn nhau

quan chức chính quyền địa phương và giáo viên tại các trường tư thục là đoàn

viên, thành viên trong khoa tư nhân và trợ giúp lẫn nhau. Hiệp hội tương trợ

có "lợi ích ngắn hạn" và "lợi ích dài hạn". Lợi ích ngắn hạn mang lại lợi ích

tương tự như bảo hiểm y tế và lợi ích dài hạn mang lại lợi ích tương tự như

trợ cấp hưu trí [39].

Những người làm việc với tư cách là quan chức chính phủ quốc gia,

28

1.3.1.3. Pháp luật về bảo hiểm hưu trí của Đức [37]

CHLB Đức đang là một trong những quốc gia có chất lượng ASXH tốt

nhất thế giới. Hiện nay khoảng 90% dân số tham gia hệ thống ASXH ở Đức

[38]. Tại Đức có tổng cộng 16 quỹ hưu trí trong khu vực. Hội đồng quản trị

chính của BHHT Đức bao gồm tổng thống làm chủ tịch và hai giám đốc. Hội

đồng quản trị được lựa chọn bởi cơ quan tự quản danh dự. Các quyết định ảnh

hưởng đến tất cả các quỹ hưu trí được đưa ra bởi một ban giám đốc mở rộng

[34]. Các đóng góp ASXH được chia sẻ một cách bình đẳng bởi NLĐ và

NSDLĐ. Trong đó BHHT theo luật định được quy định như sau:

Thứ nhất, bộ phận BHHT bắt buộc áp dụng cho tất cả những NLĐ được

NSDLĐ đóng ngang nhau. Mức đóng được tính căn cứ vào số tiền phải trả cho

trả công, không giới hạn trần tham gia. Phí bảo hiểm tuổi già do NLĐ và

người về hưu và số người tham gia đóng BHXH, có tính thêm một khoản nhỏ để

phòng các biến động. Trong các năm gần đây, tổng mức đóng khoảng 18,6% với

9,3% là của NSDLĐ và 9,3% là của NLĐ. BHHT bắt buộc của Đức chỉ chi trả

theo chế độ định kỳ hàng tháng, không có chế độ hưu trí một lần [37].

Điều kiện hưởng BHHT hàng tháng gồm tuổi về hưu và thời gian đóng

BHXH. Tuổi nghỉ hưu chung đối với cả nam và nữ là từ 65 tuổi trở lên với 15

năm năm đóng BHXH. Quỹ bảo hiểm tuổi già theo luật định này đảm bảo

rằng NLĐ có thể duy trì mức sống phù hợp khi họ nghỉ hưu. Các khoản thanh

toán thường được thực hiện từ 65 tuổi. Tuổi nghỉ hưu sẽ tăng dần lên 67 trong

Về mức hưởng trợ cấp hưu trí nhận được phụ thuộc vào thu nhập của

bạn khi bạn đang làm việc và bạn đã làm việc bao nhiêu năm. Trung bình, số

tiền trợ cấp hưu trí của chế độ BHHT theo pháp luật lên đến 76% thu nhập

ròng trung bình trong suốt cuộc đời làm việc của người được bảo hiểm [35].

Thứ hai, bộ phận hưu trí bổ sung cũng như hưu trí bắt buộc áp dụng

20 năm tới [35, 37].

29

cho mọi đối tượng lao động. Cho đến năm 2005 gần 50% người được bảo

hiểm của khu vực tư nhân hưởng chế độ hưu trí bổ sung. Chế độ hưu trí bổ

sung được tính theo chế độ tài khoản cá nhân. Chế độ này có hiệu lực từ ngày

01/01/2002 dựa trên sự đóng góp của NLĐ cùng với sự giúp đỡ của Nhà

nước. Năm đầu mức đóng của NLĐ là 1% lương gộp, cứ hai năm tăng lên 1%

cho đến khi đạt được 4% vào năm 2008 thì được hưởng mức trợ cấp cao nhất

của Nhà nước dành cho đối tượng tham gia vào hệ thống tuổi già [37].

Thứ ba, bộ phận BHHT tự nguyện dành cho những người thực hiện

một hoạt động độc lập với điều kiện đã làm việc đó ít nhất 5 năm [41]. Theo

cách thức chung, tất cả những người trên 16 tuổi thường trú ở Đức và không

thể nhận được khoản thanh toán hưu trí từ hai quốc gia trở lên. Khi người

thuộc diện bắt buộc có thể tham gia BHHT trí tự nguyện. Mọi người đều có

nước ngoài trở về quê hương, bất kỳ quyền lợi lương hưu nào của Đức có thể

được gửi đến cho họ ở đó.

1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Thứ nhất, xây dựng BHXH toàn dân

Trải qua 30 năm cải cách và phát triển, đến nay hệ thống ASXH ở

Trung Quốc đã tương đối hoàn thiện đạt nhiều thành tựu. Khuôn khổ chủ yếu

của ASXH đã cơ bản được hình thành, đặc biệt BHXHHT bắt buộc đạt được

bước tiến đáng kể.

Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được và rút ra bài học kinh nghiệm

những điểm tương đồng có thể học tập kinh nghiệm của Trung Quốc bằng

cách thiết kế một cơ chế linh hoạt giữa BHXHHT bắt buộc và BHHT tự

nguyện từng bước mở rộng đối tượng của BHXHHT.

Nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng chế độ lương hưu mới cho người

nông dân, kết hợp giữa việc cá nhân đóng góp, tập thể và Chính phủ hỗ trợ.

từ những thiếu sót trong quá trình xây dựng BHXHHT bắt buộc Việt Nam có

sách ASXH khác như: cứu trợ xã hội, dưỡng lão gia đình, bảo hiểm đất đai

30

Thực hiện các giải pháp đồng bộ kết hợp BHXHHT bắt buộc với các chính

v.v… đảm bảo người già sống ở nông thôn có cuộc sống cơ bản.

Thứ hai, thực hiện đa dạng về nguồn lực tham gia

Nhật Bản thực hiện hệ thống chính sách ASXH đa tầng, trong đó Nhà

nước giữ vai trò nòng cốt và có biện pháp phù hợp nhằm thực hiện xã hội hóa

việc cung ứng các dịch vụ ASXH. Chính phủ Nhật Bản tiến hành cải cách hệ

thống ASXH như phát triển chính sách thị trường lao động nhằm đổi mới hệ

thống hưu trí, khuyến khích tạo việc làm và thu hút người lao động như lao

động từ 20 tuổi kể cả du học sinh cũng có thể tham gia BHXHHT bắt buộc...

Vì thế, chính sách ASXH đặc biệt là chính sách BHXHHT bắt buộc của Nhật

Thực tế ở nước ta, để hệ thống chính sách ASXH vận hành lâu dài, ổn

Bản nhận được phản ứng tích cực của người dân.

định, bảo đảm sự an toàn và phân phối lợi ích công bằng cho người dân, nước

ta có thể học tập kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc thực hiện thêm nhiều

chính sách thu hút sự tham gia của nhiều đối tác xã hội, nhất là sự tham gia

trực tiếp của NSDLĐ, NLĐ trong nước và đặc biệt là NLĐ nước ngoài với

những cơ chế mở. Nói cách khác, sự đa dạng về nguồn lực là một trong những

yếu tố để thực hiện thành công chính sách ASXH nói chung và BHXHHT bắt

buộc tại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay.

Thứ ba, thực hiện phát triển hệ thống chính sách BHXH hiện đại, hội

người nước ngoài

Hiện nay, tại Đức người nước ngoài hiện nay cũng được hưởng phúc

lợi xã hội như người dân Đức. Những người làm công, ăn lương thì cũng

đóng BHXH bắt buộc theo luật định. Những người hành nghề tự lập thì không

bắt buộc phải đóng bảo hiểm, nhưng cũng có thể tự nguyện đóng BHXH theo

luật định hoặc bảo hiểm tư nhân.

nhập quốc tế tạo sự công bằng giữa lao động trong nước và lao động là

31

CHLB Đức không chỉ đi theo nền kinh tế thị trường thuần túy, mà là

nền kinh tế thị trường xã hội, nên hệ thống phúc lợi, ASXH của quốc gia này

rất tốt là cơ hội để Việt Nam tham chiếu học tập. Nước ta nên triển khai thực

hiện các chính sách hội nhập quốc tế hướng tới bao phủ BHXHHT bắt buộc

toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, kết

hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng, công bằng, bình đẳng, chia sẻ và

bền vững.

Hiện nay, Luật BHXH đã có quy định từ năm 2022 sẽ đóng các chế độ

BHXH dài hạn gồm: hưu trí và tử tuất cho NLĐ nước ngoài. Bên cạnh quy định

này cần triển khai các phúc lợi hưu trí khác cho NLĐ cụ thể và rõ ràng hơn tạo

sự công bằng giữa lao động trong nước và lao động là người nước ngoài.

Thứ tư, thực hiện tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình

Đức là một trong các nước có tỷ lệ sinh thấp nhất châu Âu, và với khuynh

hướng này, dân số Đức trên 65 tuổi sẽ tăng gần gấp đôi vào năm 2035 [27]. Với

tình trạng dân số đang già hóa nhanh chóng, tuổi thọ của người Đức hiện là

78 với nam và 83 với nữ và còn tiếp tục tăng.

Thực tế tại nước ta hiện nay, vấn đề già hóa dân số cũng đang là một

vấn đề cấp bách. So sánh với các quốc gia có cùng mức tuổi thọ trung bình

của dân số, tuổi nghỉ hưu ở Việt Nam rõ ràng thấp hơn nhiều quốc gia vì vậy

việc xem xét nâng tuổi nghỉ hưu như tại Đức là một kinh nghiệm thực tế

chung ở nhiều nước trong khu vực.

32

chúng ta cần xem xét để áp dụng hợp lí vào giai đoạn hiện nay theo xu hướng

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã thông qua Công ước số 102 năm

1952 quy định những quy phạm tối thiểu về ASXH trong đó khuyến nghị các

quốc gia thành viên phải thực hiện ít nhất 3 chế độ được quy định trong công

ước, trong đó có chế độ BHXHHT bắt buộc.

Nhận thức được sự cấp thiết của vấn đề, chương 1 đã làm sáng tỏ khái

niệm về pháp luật BHXHHT bắt buộc, đặc điểm riêng có của BHXHHT bắt

buộc là một chế độ dài hạn nằm ngoài quá trình lao động gắn liền với NLĐ kể từ

lúc tham gia BHXH đến lúc họ về hưu và qua đời và nội dung cơ bản của pháp

hưởng, sự đóng góp hình thành lên quỹ BHXHHT bắt buộc. Đồng thời trên cơ

luật về BHXHHT bắt buộc như đối tượng tham gia, điều kiện hưởng, thời gian

sở lý luận đã làm rõ hơn vai trò to lớn của BHXHHT bắt buộc trong đời sống

kinh tế - xã hội, đối với NLĐ giúp họ an tâm khi làm việc, NSDLĐ hạn chế, chia

sẻ gánh nặng kinh tế để ổn định sản xuất.

Trong quá trình xây dựng và sửa đổi chính sách BHXHHT bắt buộc,

việc tham khảo, trao đổi ý kiến xây dựng hệ thống BHXHHT bắt buộc của

các quốc gia có lịch sử phát triển lâu đời về chính sách ASXH trong việc tổ

chức thực hiện chính sách BHXHHT bắt buộc cho NLĐ có vai trò quan trọng.

Nhận thức được tầm quan trọng này, chương 1 luận văn đã đưa ra một số mô

hình BHXHHT bắt buộc điển hình tại một số nước như Trung Quốc, Nhật

Bản, Đức từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam như thực hiện nâng tuổi nghỉ

thống chính sách BHXH hiện đại tạo sự công bằng giữa NLĐ trong nước và

nước ngoài …tất cả góp phần quan trọng vào nhiệm vụ bảo đảm ASXH, thúc

đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển bền vững đất nước trong quá

trình đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế. Những nghiên cứu tại chương 1

là cơ sở quan trọng để nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện

hưu, thực hiện đa dạng về nguồn lực tham gia như Nhật Bản, phát triển hệ

33

pháp luật BHXHHT bắt buộc trong chương 2 của luận văn.

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

2.1.1. Quy định về tổ chức hình thành quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí

bắt buộc

2.1.1.1. Đối tượng tham gia hình thành quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt

buộc

BHXHHT bắt buộc là một trong 9 chế độ mà hầu hết các quốc gia trên

của các nước khác cũng đã ghi nhận BHXHHT là chế độ bảo hiểm bắt buộc

thế giới đều thực hiện đối với NLĐ. Pháp luật BHXH của Việt Nam cũng như

trong hệ thống BHXH. Đây cũng là một trong những chế độ bảo hiểm có thời

gian thực hiện dài với đối tượng tham gia rộng rãi. Tùy từng giai đoạn và điều

kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà BHXHHT bắt buộc được xây dựng

khác nhau. Tại Việt Nam BHXHHT bắt buộc được quy định tại luật BHXH

2014 theo đó:

Đối tượng tham gia BHXHHT bắt buộc bao gồm người làm việc theo

HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa

vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12

tháng, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa NSDLĐ với người đại diện theo pháp

Từ 01/01/2018 người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 01 tháng

đến dưới 03 tháng cũng sẽ là đối tượng tham gia BHXHHT bắt buộc.

Đối với cán bộ, công chức, viên chức; công nhân quốc phòng, công

nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu; sĩ quan, quân

nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ; sĩ

luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động.

34

quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác

cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân; hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội

nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên

quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; người đi

làm việc ở nước ngoài theo HĐLĐ quy định tại Luật NLĐ Việt Nam đi làm

việc ở nước ngoài theo hợp đồng; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý

điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; người hoạt động không chuyên

trách ở xã, phường, thị trấn; NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại

Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép

hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia

Người SDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: Cơ quan nhà nước,

BHXH bắt buộc theo quy định của Chính phủ [17, Điều 2, Khoản 1].

đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính

trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề

nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế

hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh

cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động

theo HĐLĐ [17, Điều 2, Khoản 3].

So với Luật BHXH 2006, Luật BHXH 2014 đã bổ sung thêm 3 nhóm

đối tượng tham gia BHXH bắt buộc gồm: Người làm việc theo HĐLĐ có thời

hạn đủ từ 01 đến dưới 03 tháng. Với nhóm đối tượng này, bắt đầu từ ngày

hai là người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn bắt đầu

tham gia từ ngày 01/01/2016. Đối tượng thứ ba là NLĐ nước ngoài vào làm

việc tại Việt Nam có giấy phép hoạt động hoặc chứng chỉ hành nghề do cơ

quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp cũng sẽ tham gia đóng BHXH bắt đầu

từ ngày 01/01/2018.

01/01/2018 sẽ được chính thức tham gia đóng BHXH. Nhóm đối tượng thứ

35

Đối với chế độ BHXH bắt buộc cho NLĐ nước ngoài từ năm 2018 sẽ

có nhiều điểm mới quy định chi tiết tại Nghị định 143 hướng dẫn thi hành

Luật BHXH đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Theo Nghị

định, trước mắt, nhóm đối tượng này sẽ tham gia ba chế độ BHXH là ốm đau,

thai sản, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ ngày 01/01/2018.

Riêng quy định về BHXHHT bắt buộc và chế độ tử tuất có hiệu lực thi hành

bắt đầu từ ngày 01/01/2022. Mục đích của việc lùi thời gian thực hiện đóng

chế độ BHXH bắt buộc dài hạn với hai chế độ hưu trí và tử tuất đến năm 2022

là để đến thời điểm đó Việt Nam sớm hoàn tất hiệp định song phương về

BHXH với các nước, tránh đóng BHXH hai lần với các nước.

về chế độ BHXH bắt buộc đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam

Cụ thể hơn, Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHXH

có một số quy định đáng chú ý như sau:

Theo đó, NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam thuộc đối

tượng tham gia BHXH bắt buộc khi có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ

hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền của Việt

Nam cấp và có HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời hạn từ

đủ 01 năm trở lên với NSDLĐ tại Việt Nam.

NLĐ theo quy định trên không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt

buộc theo quy định tại Nghị định này khi thuộc một trong các trường hợp sau:

“Di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp” theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của

tiết thi hành một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước ngoài làm

việc tại Việt Nam, “Người lao động đã đủ tuổi nghỉ hưu” theo quy định tại

khoản 1 Điều 187 của Bộ Luật lao động.

So với Luật BHXH 2006 đây được coi là một điểm mới tại Luật BHXH

2014, quy định mới này sẽ tạo ra sự bình đẳng giữa lao động trong nước và

Nghị định số 11/2016/NĐ - CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ quy định chi

như NLĐ Việt Nam đang làm việc trên lãnh thổ Việt Nam. Thay vì trả hết

36

nước ngoài, bởi về cơ bản các chế độ và quyền hạn được quy định tương tự

lương cho lao động nước ngoài, NSDLĐ sẽ trích một phần trong đó để đóng

BHXH bắt buộc và không làm thay đổi tổng quỹ lương của doanh nghiệp.

Như vậy, qua phân tích trên có thể thấy đối tượng tham gia BHXHHT

bắt buộc theo Luật BHXH 2014 vừa có sự kế thừa, vừa mở rộng và cụ thể hơn

cho các đối tượng tham gia vào quỹ BHXHHT bắt buộc, đảm bảo ASXH bền

vững nhất là an sinh tuổi già, phấn đấu đạt mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã

đặt ra đối với BHXH tại Nghị quyết số 15-NQ/TW “đến năm 2020 có khoảng

50% lực lượng lao động tham gia BHXH” và hướng tới bao phủ BHXH toàn

dân theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW.

Quỹ hưu trí và tử tuất bao gồm khoản đóng góp của người tham gia

2.1.1.2. Mức đóng góp vào quỹ BHXHHT bắt buộc

BHHT bắt buộc gồm NSDLĐ, NLĐ, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư quỹ, hỗ

trợ của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác hình thành nên nguồn quỹ

BHXHHT bắt buộc.

Hiện nay, NSDLĐ và NLĐ căn cứ mức tiền lương, tiền công hàng

tháng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất để thực hiện hai chế độ dài hạn là hưu

trí và tử tuất. Mức đóng của NLĐ và NSDLĐ vào quỹ hưu trí và tử tuất được

thể hiện theo bảng sau:

Bảng 2.1. Mức đóng vào Quỹ hưu trí và tử tuất

Đơn vị tính: %

Năm

2007 - 2009

2010 - 2011

2012 -2013

2014 trở đi

NLĐ

5

7

8

6

NSDLĐ

11

13

14

12

Tổng cộng

16

20

22

18

(Nguồn: Điều 85, 86, 87 Luật BHXH 2014)

37

Theo bảng trên NLĐ sẽ đóng 8%, NSDLĐ đóng 14% vào quỹ hưu trí

và tử tuất. Trong đó tiền lương tháng làm căn cứ đóng vào quỹ hưu trí và tử

tuất đối với khối hành chính sự nghiệp là khoản tiền lương do Nhà nước quy

định theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ

cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này

tính trên mức lương cơ sở. Bao gồm cả hệ số chênh lệch bảo lưu theo quy

định của pháp luật về tiền lương.

Đối với khối doanh nghiệp: Tiền lương do đơn vị quyết định làm căn cứ

đóng quỹ hưu trí và tử tuất theo quy định từ ngày 01/01/2018 bao gồm mức

lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác là các khoản tiền ngoài mức

HĐLĐ được ghi nhận tại Điều 3 của Thông tư 23/2015/TT-BLĐTBXH.

lương, phụ cấp lương có liên quan đến thực hiện công việc hoặc chức danh trong

Trong đó, khoản bổ sung phải xác định được mức tiền cụ thể cùng với

mức lương thỏa thuận trong HĐLĐ và trả thường xuyên trong mỗi kỳ trả

lương theo khoản 2 Điều 30 Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH.

Các khoản bổ sung khác theo quy định không bao gồm tiền thưởng

theo quy định tại Điều 103 của Bộ Luật lao động, tiền ăn giữa ca, các khoản

hỗ trợ khi NLĐ có thân nhân bị chết, NLĐ có người thân kết hôn, sinh nhật

của NLĐ, trợ cấp cho NLĐ gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị tai nạn lao động,

bệnh nghề nghiệp và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác không liên quan đến thực

hiện công việc hoặc chức danh trong HĐLĐ.

mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để làm cơ sở tính lương hưu, trợ

cấp BHXH một lần dẫn tới có sự phân biệt giữa NLĐ hưởng tiền lương và

đóng BHXH theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định và người đóng

BHXH theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định.

Bên cạnh đó, từ ngày 01/01/2018, người làm việc theo HĐLĐ có thời

Pháp luật quy định tiền lương với hai khối như trên tạo ra sự chênh lệch

38

hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng tham gia đóng BHXH bắt buộc trong đó

có BHXHHT bắt buộc.

Cũng từ thời điểm trên, lao động là người nước ngoài theo khoản 2 -

Điều 2 Luật BHXH 2014 từ ngày 01/12/2018 đến ngày 31/12/2021, NLĐ

không phải đóng BHXHHT bắt buộc. Từ ngày 01/01/2022, NLĐ thuộc đối

tượng tham gia BHXH bắt buộc này có trách nhiệm đóng 8% mức tiền lương

tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất.

Đối với NSDLĐ từ ngày 01/01/2022, hàng tháng NSDLĐ đóng trên

quỹ tiền lương tháng đóng BHXH của NLĐ: 3% vào quỹ ốm đau, thai sản,

0,5% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, 14% vào quỹ hưu trí và

Như vậy, để đảm bảo đúng lộ trình kí kết hiệp định song phương về

tử tuất [12, Điều 13].

BHXH với các nước, luật BHXH 2014 đã quy định cụ thể hơn về mức

đóng đối với lao động nước ngoài phù hợp với mức lương tối thiểu trong

giai đoạn hiện nay.

2.1.2. Quy định về chi trả bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

2.1.2.1. Điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tuỳ thuộc vào tuổi đời, thời gian

đóng BHXH mà NLĐ được hưởng hưu trí hàng tháng hay hưu trí một lần. Ngoài

ra họ còn được hưởng các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật. Do đó, để

được hưởng mỗi chế độ NLĐ cần đáp ứng các điều kiện sau đây

Điều kiện được hưởng là tập hợp các quy định của pháp luật làm cơ sở

pháp lý để NLĐ được hưởng BHXHHT bắt buộc. Theo đó, đối với BHXHHT

bắt buộc, các điều kiện quan trọng để NLĐ được hưởng bảo hiểm là tuổi đời và

thời gian đóng bảo hiểm.

Về nguyên tắc, BHXHHT bắt buộc bảo hiểm dành cho những người

Thứ nhất, điều kiện hưởng lương hưu hàng tháng

39

già, không còn tham gia QHLĐ nữa, vì vậy mà chỉ đến khi hết tuổi lao động

NLĐ mới được hưởng chế độ này. Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội cũng

như tập quán của từng nước mà độ tuổi về hưu của NLĐ ở các quốc gia được

quy định khác nhau. Ngay tại một quốc gia ở các thời kỳ khác nhau cũng có

những quy định khác nhau về độ tuổi nghỉ hưu của NLĐ do sự thay đổi của

các điều kiện kinh tế - xã hội.

Ở nước ta, theo quy định của Luật BHXH năm 2014, điều kiện chung

để được hưởng BHXHHT bắt buộc hàng tháng đầy đủ là:

- NLĐ khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì được hưởng

lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây [17, Điều 54, Khoản 1]:

+ Tuổi nghỉ hưu được giảm tối đa 05 tuổi, cụ thể nam từ đủ 55 tuổi đến

+ Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi;

đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề hoặc

công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại,

nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐTBXH, Bộ Y tế ban hành hoặc có đủ 15

năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên;

- Đối với NLĐ có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà trong đó có đủ 15

năm làm công việc khai thác than trong hầm lò thì tuổi nghỉ hưu của NLĐ từ

đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi;

- Đối với NLĐ bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong

khi thực hiện nhiệm vụ được giao và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên thì

- Đối với những người làm việc trong lực lượng vũ trang, điều kiện về

tuổi nghỉ hưu được giảm ít nhất 05 năm so với những lao động ở khu vực dân

sự, cụ thể [17, Điều 54, Khoản 2]:

NLĐ được hưởng lương hưu khi có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên và

thuộc một trong các trường hợp sau đây

việc nghỉ hưu không phụ thuộc vào tuổi đời;

40

+ Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi. Ngoài ra Luật sĩ quan quân đội nhân

dân Việt Nam, Luật công an nhân dân, Luật cơ yếu có quy định khác về độ

tuổi đối với từng cấp hàm có thể hưởng lương hưu ở tuổi thấp hơn;

+ Nam từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi, nữ từ đủ 45 tuổi đến đủ 50 tuổi và

có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc

đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có đủ 15 năm làm việc ở nơi có

phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên;

+ Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi

thực hiện nhiệm vụ được giao thì việc nghỉ hưu không phụ thuộc vào tuổi đời.

- Đối với lao động nữ là người hoạt động chuyên trách hoặc không

đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi thì được hưởng

chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia BHXH khi nghỉ việc mà có từ

lương hưu [17, Điều 54, Khoản 3].

Hiện nay, tuổi thọ bình quân của NLĐ tại nước ta đã tăng lên 73 tuổi

nhưng tuổi nghỉ hưu giữ nguyên dẫn đến thời gian hưởng lương hưu kéo dài,

lên tới khoảng 20 năm [22]. Nên việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu đang là vấn đề

cần được quan tâm trong giai đoạn già hóa dân số hiện nay.

Tuy nhiên, việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là vấn đề hết sức nhạy cảm và

tác động sâu rộng tới tất cả các mặt của đời sống xã hội, do vậy để tạo sự

đồng thuận cao, cơ quan chủ trì phải tính toán hết sức khoa học và chặt chẽ,

trong quá trình triển khai cần có sự chuẩn bị về tâm lý cho NLĐ, NSDLĐ và

khi chính sách mới được ban hành sẽ mang lại những điều tốt hơn cho NLĐ.

Bên cạnh đó, Luật BHXH năm 2014 sửa đổi bổ sung từ 01/01/2018 có

quy định mới về tăng số năm đóng BHXH để được hưởng mức lương hưu tối

đa áp dụng cho lao động nữ nghỉ hưu năm 2018 có 25 năm đóng BHXH. Còn

lao động nam phải từ đủ 35 năm đóng BHXH mới được hưởng mức tối đa

cần có lộ trình phù hợp. Phải lường trước những tác động của chính sách, để

41

nếu nghỉ hưu vào năm 2022.

Theo BHXH Việt Nam, số lao động nữ bắt đầu hưởng lương hưu trong

giai đoạn từ năm 2018 - 2021 và có từ 20 năm đến 29 năm 6 tháng đóng

BHXH là khoảng trên 91.000 người gồm: 20.500 người nghỉ hưu vào năm

2018, 22.000 người vào năm 2019, 23.500 người vào năm 2020 và 25.100

người vào năm 2021 [26]. Khắc phục tình trạng này, tại Nghị quyết Kỳ họp

thứ 5 vừa qua, Quốc hội đã giao Chính phủ ban hành quy định thực hiện

chính sách điều chỉnh lương hưu đối với lao động nữ bắt đầu hưởng lương

hưu từ ngày 01/01/2018 đến 31/12/2021 bị tác động bất lợi hơn so với lao

động nam do thay đổi cách tính lương hưu. Theo đó, dự kiến nguồn kinh phí

Nhìn chung, quy định của pháp luật hiện hành về điều kiện nghỉ hưu cơ

chi cho việc hỗ trợ khoảng 80 tỷ đồng và lấy từ quỹ BHXH.

bản không có gì thay đổi nhiều so với các quy định trước. Điểm mới đối với

nội dung này là việc mở rộng điều kiện hưởng lương hưu đối với lao động

nữ hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở cấp xã chỉ cần có đủ

15 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy ở

một số ngành thuộc khu vực hành chính sự nghiệp như nghiên cứu khoa học,

quản lý nhà nước… tuy đến tuổi nghỉ hưu nhưng nhìn chung NLĐ đặc biệt

là lao động nữ vẫn đủ sức khỏe để làm việc, đang phát huy được kinh

nghiệm đã có cho công việc. Một trong số đó sau khi về hưu vẫn tiếp tục đi

làm, vừa hưởng lương theo hợp đồng, vừa hưởng BHXHHT bắt buộc. Nhìn

có những quy định phù hợp hơn, đáp ứng được nhu cầu của đa số NLĐ,

tránh lãng phí sức lao động và bội chi quỹ bảo hiểm.

Thứ hai, điều kiện hưởng lương hưu đối với trường hợp bị suy giảm KNLĐ

Thông thường, NLĐ được hưởng BHXHHT bắt buộc hàng tháng khi

hết tuổi lao động theo quy định và có thời gian đóng BHXH từ đủ 20 năm trở

nhận vấn đề thực tế này để qua đó nhà nước cần xem xét trong thời gian tới

42

lên. Tuy nhiên trong cuộc sống vì nhiều lý do khác nhau như ốm đau, bệnh

tật, tai nạn lao động làm NLĐ bị suy giảm sức khỏe, suy giảm KNLĐ khiến

họ không thể tham gia QHLĐ nữa, cần phải nghỉ việc trước tuổi. Trong

những trường hợp đó, tuy chưa đủ tuổi về hưu theo quy định nhưng nếu đảm

bảo một số điều kiện NLĐ vẫn được hưởng BHXHHT bắt buộc hàng tháng

song mức lương hưu hàng tháng của họ bao giờ cũng thấp hơn so với những

người nghỉ hưu đúng tuổi.

Theo quy định của Luật BHXH năm 2014, NLĐ khi nghỉ việc có đủ 20

năm đóng BHXH trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn nếu thuộc

một trong các trường hợp sau đây [17, Điều 51, Khoản 1]:

Theo đó, từ ngày 01/01/2016 nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi và bị suy

- Bị suy giảm KNLĐ từ 61% đến 80% và đảm bảo điều kiện về tuổi đời

giảm KNLĐ từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm

KNLĐ. Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi nam đủ

55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm

KNLĐ từ 61% trở lên.

- Bị suy giảm KNLĐ từ 81% trở lên và nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi.

- Bị suy giảm KNLĐ từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề

hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do

BLĐTBXH, Bộ Y tế ban hành.

Như vậy, Luật BHXH 2014 đã sửa đổi điều kiện về tuổi đời hưởng

dần mỗi năm 1 tuổi từ 01/01/2016 đến khi nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi trở

lên (trước là 50 tuổi và 45 tuổi), đối với người bị suy giảm KNLĐ từ 81% trở

lên tuổi nghỉ hưu là nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi.Quy định này là phù hợp

theo mức đóng góp và thụ hưởng của mỗi người.

2.1.2.2. Mức hưởng và thời gian hưởng chế độ BHXHHT bắt buộc

lương hưu đối với người bị suy giảm KNLĐ từ 61% trở lên theo hướng tăng

43

Mức lương hưu hằng tháng

Mức lương hưu hằng tháng của NLĐ được tính bằng tỷ lệ hưởng lương

hưu hằng tháng nhân với mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH trong đó:

- Tỷ lệ hưởng lương hưu phụ thuộc các yếu tố giới tính, độ tuổi, chức

danh nghề hoặc công việc, nơi làm việc, thời gian đã đóng BHXH. Từ ngày

01/01/2018 cách tính tỷ lệ % hưởng lương hưu của NLĐ cũng được điều chỉnh

theo hướng cân bằng giữa mức đóng và mức hưởng và được tính như sau:

+ NLĐ nghỉ hưu từ ngày 01/01/2016 đến trước ngày 01/01/2018, tỷ lệ

hưởng lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương

tháng đóng BHXH tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi

bằng 75% [17, Điều 56, Khoản 1].

năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ, mức tối đa

+ NLĐ nghỉ hưu từ ngày 01/01/2018 trở đi:

Đối với nam giới: Tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng

BHXH cho 16 năm đóng BHXH nếu nghỉ hưu vào năm 2018, nghỉ hưu vào năm

2019 là 17 năm, nghỉ hưu vào năm 2020 là 18 năm, nghỉ hưu vào năm 2021 là

19 năm, nghỉ hưu từ năm 2022 trở đi là 20 năm đóng BHXH. Sau đó, cứ thêm

mỗi năm đóng BHXH tính thêm 2%, mức tối đa là 75% [17, Điều 56, Khoản 2].

Đối với nữ giới: Tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng

BHXH cho 15 năm đóng BHXH. Sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH tính

thêm 2%, mức tối đa bằng 75% [17, Điều 56, Khoản 2].

mức tối đa là 75% thì lao động nữ có thời gian đóng BHXH thấp nhất phải

đủ 30 năm, trước năm 2018, chỉ cần có đủ 25 năm đóng BHXH là được

hưởng tỷ lệ tối đa 75%.

Tương tự với lao động nam từ năm 2018 quy định số năm đóng BHXH

để đạt tỷ lệ 75% tăng theo lộ trình từ đủ 16 năm cho đến đủ 20 năm đóng

Như vậy, từ năm 2018 trở đi, để được đạt tỷ lệ % hưởng lương hưu ở

- Mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu

44

BHXH vào năm 2022.

NLĐ có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do

NSDLĐ quyết định thì tính bình quân tiền lương tháng đóng BHXH của toàn

bộ thời gian đóng BHXH. Mức tiền lương đã đóng BHXH được điều chỉnh

trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của từng thời kỳ theo quy định của Chính phủ.

NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định

có toàn bộ thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương này thì tính bình quân

tiền lương tháng của số năm đóng BHXH trước khi nghỉ hưu. Số năm đóng

BHXH trước khi nghỉ hưu phụ thuộc vào thời điểm bắt đầu tham gia BHXH.

Đối với NLĐ tham gia đóng BHXH trước ngày 01/01/2016 thì tiền lương

được điều chỉnh theo mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng chế độ.

đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH

NLĐ bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01/01/2025 trở đi thì việc điều

chỉnh tiền lương đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân tiền lương

tháng đóng BHXH được điều chỉnh tương tự như NLĐ có toàn bộ thời gian

đóng BHXH theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định.

Đối với NLĐ vừa có thời gian đóng BHXH thuộc đối tượng thực hiện

chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, vừa có thời gian đóng BHXH theo

chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định thì mức bình quân tiền lương tháng

là mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH chung của các thời gian.

Có thể thấy rằng, mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để làm

sự phân biệt giữa NLĐ hưởng tiền lương và đóng BHXH theo chế độ tiền

lương do Nhà nước quy định và người đóng BHXH theo chế độ tiền lương do

NSDLĐ quyết định. Người làm trong khu vực nhà nước được tính lương hưu

bằng mức bình quân lương những năm cuối nên có lợi hơn vì lương tăng theo

thâm niên, làm lâu lương càng cao. Còn NLĐ khu vực ngoài nhà nước tính

cơ sở tính lương hưu, trợ cấp BHXH một lần theo pháp luật hiện hành còn có

45

lương hưu bình quân cả quá trình, nên mức đóng cao thì hưởng cao, mức

đóng thấp thì hưởng thấp.

Mặc dù, Luật BHXH năm 2014 đã có lộ trình thay đổi cách tính mức

bình quân tiền lương tháng đóng BHXH đối với NLĐ thuộc khu vực nhà

nước theo thời điểm tham gia BHXH nhằm tiến tới sự bình đẳng trong khu

vực công và tư từ 01/01/2025. Tuy nhiên từ nay đến khi kết thúc lộ trình,

không thể phủ nhận sự chênh lệch về mức lương hưu bình quân giữa hai khu

vực vẫn đang diễn ra, ảnh hưởng đến tâm lý NLĐ tham gia và cản trở việc

khuyến khích mở rộng đối tượng tham gia vì khu vực tiềm năng để có thể mở

rộng thêm người tham gia BHXH bắt buộc là khu vực ngoài nhà nước, nhưng

họ lại chưa được đối xử công bằng.

- Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu

Khi tham gia BHXHHT bắt buộc có thời gian đóng BHXH nhiều hơn

so với quy định số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, thì khi

nghỉ hưu ngoài lương hưu còn được hưởng trợ cấp một lần. Theo đó, khoản

trợ cấp một lần khi nghỉ hưu là khoản trợ cấp bổ sung cho lương hưu hàng

tháng cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền

lương đóng BHXH [17, Điều 58]. Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi cho

NLĐ và phù hợp với thâm niên đóng góp của họ vào quỹ BHXH.

Theo đó, trước ngày 01/01/2018 thì lao động nữ có thời gian đóng

thứ 31 trở đi được hưởng khoản trợ cấp này. Nhưng từ ngày 01/01/2018 trở đi

có sự thay đổi cụ thể quy định về thời gian đóng BHXH để đạt tỷ lệ tối đa

75% đối với lao động nữ là đủ 30 năm đóng BHXH, đối với lao động nam thì

quy định có lộ trình tăng dần số năm đóng BHXH để đạt tỷ lệ tối đa 75% từ

2018 trở đi mỗi năm tăng thêm 01 năm cho đến năm 2022 lao động nam phải

BHXH từ năm thứ 26 trở đi, lao động nam có thời gian đóng BHXH từ năm

46

có đủ 35 năm đóng BHXH mới được hưởng tỷ lệ tối đa 75%.

Đây là một biện pháp nhằm bảo đảm quyền lợi của người tham gia

bảo hiểm đồng thời cũng đảm bảo nguyên tắc phân phối theo lao động. Vì

trên thực tế, có nhiều người có thời gian đóng bảo hiểm rất dài vượt trên

mức hưởng là 75%.

Mức lương hưu đối với trường hợp bị suy giảm KNLĐ

Mức lương hưu hàng tháng trong trường hợp này cũng được tính dựa

trên mức tiền lương tháng đóng BHXH và thời gian đóng BHXH, vì vậy cách

tính lương hưu cũng tương tự như nghỉ hưu đúng tuổi. Tuy nhiên vì NLĐ

nghỉ hưu trước tuổi nên cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%

nghỉ hưu có tháng lẻ đến đủ 06 tháng thì mức giảm là 1%, từ trên 06 tháng thì

cho cả nam và nữ. Khi tính tỷ lệ hưởng lương hưu đối với trường hợp tuổi

không giảm tỷ lệ % [17, Điều 56, Khoản 3].

So với Luật BHXH 2006 thì Luật BHXH 2014 đã quy định rõ ràng

hơn đối với trường nghỉ hưu trước tuổi quy định thì sẽ giảm trừ tỷ lệ

hưởng lương hưu lên 2% (quy định cũ là 1%) cho mỗi năm nghỉ hưu trước

tuổi [16, Điều 52, Khoản 2]. Quy định như trên nhằm tránh tình trạng NLĐ muốn

nghỉ sớm gây ảnh hưởng đến sản xuất của các doanh nghiệp sử dụng lao động.

Như vậy, với quy định mới tiến bộ đã phần nào giúp cho những NLĐ

khi tham gia BHXH bắt buộc đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH mà tuổi

đời chưa đủ thì cũng sẽ được hưởng BHXHHT bắt buộc như đối với NLĐ

vì theo khuyến nghị của ILO, tỉ lệ giảm trừ này phải từ 5% đến 6% thì mới

hạn chế số người nghỉ hưu trước tuổi ở mỗi quốc gia.

khác. Tuy nhiên, trên thực tế tỷ lệ giảm trừ này so với các quốc gia còn thấp

2.1.3. Bảo hiểm xã hội một lần

Điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội một lần

Đối với NLĐ khi nghỉ việc không đủ điều kiện về tuổi đời, thời gian

47

đóng BHXH hoặc không đủ cả hai điều kiện trên để hưởng BHXHHT bắt

buộc hàng tháng thì tùy từng trường hợp họ được hưởng BHXH một lần,

được bảo lưu thời gian đóng BHXH để chờ cho đến khi đủ tuổi nghỉ hưu để

hưởng BHXHHT bắt buộc hàng tháng hoặc khi có điều kiện thì tiếp tục đóng

BHXH. Việc này không chỉ phụ thuộc vào tuổi đời, thời gian đóng BHXH

của NLĐ mà còn căn cứ vào nguyện vọng của chính bản thân họ.

Theo quy định Điều 60 Luật BHXH 2014, NLĐ mà có yêu cầu thì được

hưởng BHXH một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định mà chưa đủ thời gian đóng

BHXH để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng (chưa đủ 20 năm đóng BHXH

trách hoặc không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn) và không tiếp tục tham

hoặc 15 năm đóng BHXH đối với lao động nữ là người hoạt động chuyên

gia BHXH tự nguyện;

- Ra nước ngoài để định cư;

- NLĐ tham gia BHXH bắt buộc sau một năm nghỉ việc mà chưa đủ 20

năm đóng BHXH;

- Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng

như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã

chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế;

- Quân nhân khi phục viên, xuất ngũ, thôi việc mà không đủ điều kiện

để hưởng lương hưu.

quyết kịp thời cho cả những trường hợp không may bị bệnh tật hiểm nghèo

được nhận BHXH một lần để giải quyết những khó khăn trước mắt nếu không

có khoản tiền này thì NLĐ và gia đình họ sẽ rất khó khăn, bên cạnh đó cũng

góp phần giảm gánh nặng của NSNN, bản thân và gia đình NLĐ khi họ hết

tuổi lao động. Từ đó mở rộng hơn đối tượng được hưởng chế độ này, điều này

Như vậy, so với Luật BHXH năm 2006 thì đây là điểm tiến bộ giải

48

đã phần nào tác động tích cực đến tâm lý tham gia của NLĐ.

Bên cạnh đó, Luật BHXH 2014 cũng quy định theo hướng thắt chặt

hơn, đó là chỉ giải quyết với những NLĐ đã hết tuổi lao động mà không đủ

điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài định cư hợp pháp. Với những

NLĐ còn tuổi lao động có thể chuyển sang hình thức tham gia BHXH tự

nguyện đến khi đạt đủ số năm đóng BHXH để nhận lương hưu. Điều này thể

hiện tính ưu việt và nhân văn của Luật BHXH mới bởi bảo đảm NLĐ khi về

già sẽ có lương hưu để duy trì chất lượng cuộc sống.

Tuy nhiên, quy định NLĐ tham gia BHXH bắt buộc sau một năm nghỉ

việc mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH thuộc đối tượng hưởng BHXH một lần

diện bảo phủ của BHXH nói chung.

vẫn được cho là chưa phù hợp. Bởi đây là một trong những lí do làm giảm

Mức hưởng bảo hiểm xã hội một lần:

Khi đáp ứng các điều kiện được hưởng BHXH một lần NLĐ sẽ được

hưởng căn cứ tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm được tính như sau:

Bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH cho

những năm đóng trước năm 2014, bằng 02 tháng mức bình quân

tiền lương tháng đóng BHXH cho những năm đóng từ năm 2014 trở

đi. Trường hợp thời gian đóng BHXH chưa đủ một năm thì mức

hưởng BHXH bằng số tiền đã đóng, mức tối đa bằng 02 tháng mức

bình quân tiền lương tháng đóng BHXH [17, Điều 60, Khoản 2].

được điều chỉnh so với Luật BHXH năm 2006 theo hướng có lợi hơn cho

người hưởng bảo hiểm. Cụ thể, theo Điều 60 Luật BHXH năm 2014, mức

hưởng BHXH một lần được tính theo số năm đã đóng BHXH của NLĐ, cứ

mỗi năm đóng BHXH trước năm 2014 được tính bằng 1,5 tháng mức bình

quân tiền lương, cứ mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi tính bằng 02

Như vậy, mức hưởng BHXH một lần theo Luật BHXH năm 2014 đã

49

tháng mức bình quân tiền lương. Trường hợp thời gian đóng BHXH chưa đủ

một năm thì mức hưởng BHXH một lần bằng số tiền đã đóng, mức tối đa

bằng 02 tháng mức bình quân tiền lương. Đây cũng được xem là điểm mới

của Luật BHXH 2014 so với Luật BHXH 2006.

Mức hưởng BHXH một lần theo luật BHXH 2006 là mỗi năm đóng

BHXH tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương tiền công đóng BHXH.

Với mức hưởng này là quá thấp, không đảm bảo cân bằng giữa mức đóng và

mức hưởng bảo hiểm. Nếu trả như luật BHXH 2006 thì sẽ tạo sự chênh lệch

lớn giữa khoản trợ cấp bảo hiểm của người hưởng BHXHHT bắt buộc hàng

tháng và người hưởng BHXH một lần, trong khi đó mức độ đóng góp của họ

vào quỹ BHXH trong một số trường hợp không khác nhau nhiều. Do đó, luật

BHXH 2014 đã nâng mức hưởng BHXH một lần đối với những năm đóng

BHXH từ 2014 trở đi tạo sự cân bằng tương đối giữa mức đóng và mức

hưởng. Về mặt ASXH, việc tăng mức hưởng để đảm bảo quyền lợi cho người

tham gia, tuy nhiên trong thực tế, đây cũng là nguyên nhân nhiều NLĐ nhìn

thấy lợi ích trước mắt để hưởng BHXH một lần đóng ít, hưởng nhiều mà

không thực hiện bảo lưu thời gian tham gia.

2.1.4. Xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội

Theo quy định tại Điều 26 Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/08/2013

của Chính phủ về quy định đối với NSDLĐ có hành vi đóng BHXH, BHTN

15% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, BHTN tại thời điểm lập biển

bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng. Biện pháp

khắc phục hậu quả là buộc truy nộp số tiền BHXH bắt buộc, BHTN chưa

đóng, chậm đóng theo mức lãi suất của hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH trong

năm đối với hành vi vi phạm nêu trên.

không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH phạt tiền từ mức 12% đến

cho NLĐ nhưng để xét về lâu dài thì chưa có tính răn đe mạnh mẽ vì mức xử

50

Quy định này được ban hành bước đầu đảm bảo quyền lợi về BHXH

phạt hành chính so với một số doanh nghiệp là không lớn. Do vậy, từ

01/01/2018, quy định về xử lý hình sự đối với tội trốn đóng BHXH, BHYT,

BHTN cho NLĐ tại Điều 214, 215, 216 của Bộ luật Hình sự 2015 bắt đầu có

hiệu lực thi hành. Đây cũng là một chế tài mạnh mẽ để doanh nghiệp chấp

hành pháp luật về BHXH, BHYT.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về bảo hiểm hưu trí bắt buộc ở

Việt Nam

2.2.1. Thực trạng tham gia và thụ hưởng bảo hiểm hưu trí bắt buộc

Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chính sách BHXH

thống BHXH và đặc biệt đối tượng tham gia vào hệ thống BHXH bắt buộc

Việt Nam đã từng bước mở rộng diện bao phủ đối tượng tham gia vào hệ

chính là đối tượng tham gia vào BHXHHT bắt buộc.

Trong những năm qua BHXHHT bắt buộc đã góp phần đảm bảo ổn

định cuộc sống của hàng triệu NLĐ khi hết tuổi lao động, thông qua đó góp

phần ổn định xã hội và thực hiện công bằng xã hội. Năm 2014 là năm đánh

dấu bước quan trọng khi Luật BHXH được ban hành mới theo đó đối tượng

tham gia BHXHHT bắt buộc cũng được mở rộng sau khi Luật BHXH năm

2014 có hiệu lực. Thực hiện theo những quy định của pháp luật, các cơ quan

BHXH đã rất tích cực trong việc phát triển đối tượng tham gia và coi đây là

nhiệm vụ trọng tâm để phấn đấu góp phần đảm bảo chính sách ASXH. Số

nhanh.

Tỷ lệ tham gia BHXH bắt buộc được thể hiện cụ thể qua bảng số liệu sau:

51

lượng đối tượng tham gia loại hình BHXHHT bắt buộc hàng năm đều tăng

Bảng 2.2. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc

Đơn vị: người

Năm 2007

2008

2009

2010

2011

2012

2016

2017

8.172.50 2

8.539.46 7

8.901.17 0

9.441.24 6

10.104.49 7

10.436.86 8

12.862.20 1

13.591.49 2

Số ngườ i

(Nguồn: Báo cáo số 15/BC-BHXH, Báo cáo số 1284/BC-UBVĐXH14)

Tính đến hết năm 2017, tổng số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là

13.591.492 người, vượt kế hoạch đề ra là 13.443.392 người, tăng 5,67% so với

năm 2016 bao phủ khoảng 24,85% lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên và 28.2%

lực lượng lao động trong độ tuổi lao động, tăng 66,3% so với năm 2007 [18].

Theo báo cáo kết quả sơ bộ Tổng điều tra kinh tế tính đến năm 2017

cho thấy, cả nước có khoảng 505.000 doanh nghiệp đang hoạt động với 14

triệu lao động làm việc. Trong đó, năm 2016 có 306.884 đơn vị tham gia

BHXH bắt buộc, tăng 22.425 đơn vị so với năm 2015 tương ứng với 7,9%

[10]. Bình quân, một đơn vị tăng mới có 35 NLĐ tham gia BHXH. Ở khu vực

doanh nghiệp, số đơn vị tăng mới đa phần là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, tỷ

lệ doanh nghiệp đóng BHXH dưới 10 lao động chiếm 78,54% tổng số doanh

nghiệp đang tham gia BHXH, doanh nghiệp từ 10 đến dưới 50 lao động

trở lên chiếm 0,45% [18].

Cùng với sự tăng lên của đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thì số thu

BHXH bắt buộc tăng theo, đặc biệt là trong xu thế già hóa dân số như hiện

nay. Số thu BHXH bắt buộc năm 2017 đạt 197.450.474 triệu đồng, tăng

11,31% so với năm 2016. Tăng thu chủ yếu do tăng đối tượng tham gia, điều

chỉnh lương cơ sở, lương tối thiểu vùng và điều chỉnh mức lương, phụ cấp

chiếm 16,83%, từ 50 đến dưới 500 lao động chiếm 4,17% và từ 500 lao động

52

làm căn cứ đóng BHXH. Trong đó, thu tăng do đối tượng tham gia chiếm

60,4%, tăng do điều chỉnh lương cơ sở chiếm 9%, do điều chỉnh lương tối

thiểu vùng chiếm 15,8% và do điều chỉnh mức lương, phụ cấp làm căn cứ

đóng BHXH khoảng 14,9% [18].

Kéo theo đó số thu vào quỹ hưu trí và tử tuất cũng có những bước tăng

số lượng đáng kể. Chi tiết tình hình thu vào quỹ hưu trí và tử tuất trong những

năm qua tại bảng số liệu dưới đây:

Bảng 2.3. Số thu vào quỹ hưu trí và tử tuất giai đoạn 2009-2017

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Năm 2009

2010

2011 2012 2013

2014

2015

2016

2017

Số thu 29.990 40.540 50.734 74.383 88.305 110.462 125.675 147.802 168.364

(Nguồn: Báo cáo số 150/BC-CP)

Về đối tượng thụ hưởng, theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam,

năm 2017 cả nước đã giải quyết cho 144.822 người hưởng chế độ hưu trí tăng

19,82% so với năm 2016 và tăng 43% so với năm 2012 và tăng chủ yếu tập

trung nhóm bị suy giảm KNLĐ từ 81% trở lên nhằm tránh bị áp dụng công

thức tính lương hưu theo quy định mới của Luật BHXH.

Tuy nhiên, đây cũng là một áp lực đối với quỹ khi số người hưởng

BHXH một lần năm 2017 tăng 7.62% so với năm 2016 gấp 4,6 lần số người

hưởng lương hưu hằng tháng, điều này ảnh hưởng lớn đến nỗ lực mở rộng độ

Bảng số liệu dưới đây:

53

bao phủ và mục tiêu bảo đảm ASXH bền vững cho NLĐ. Chi tiết xem tại

Bảng 2.4. Đối tượng giải quyết hưởng chế độ hưu trí giai đoạn 2012-2017

Đơn vị tính: Người

Loại đối tượng Năm Hưu trí BHXH một lần Trợ cấp một lần

2012 101.200 601.020 72.371

2013 107.856 635.657 77.789

2014 115.902 605.783 76.893

2015 143.644 629.131 88.003

2016 120.870 619.716 81.275

(Nguồn: Phụ lục VIII, Báo cáo số 166/BC-CP)

2017 144.822 666.955 94.116

Nhìn chung, qua các số liệu thống kê tìm hiểu trên mặc dù đối tượng

tham gia tăng qua các năm nhưng về tổng thể độ bao phủ BHXH còn thấp.

Tính đến năm 2017 độ bao phủ BHXH chiếm khoảng 28.2% trong tổng số

48,2 triệu lao động trong độ tuổi, còn nếu so với tổng lực lượng lao động là

54,8 triệu người thì tỷ lệ này chỉ chiếm 24,85% con số này so với lao động

vẫn chưa lớn. Việc khai thác, phát triển đối tượng gặp khó khăn khi tiếp cận

các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Một phần là do tiềm lực và sức cạnh tranh

Một phần là do ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận các doanh nghiệp

còn chưa tốt. Cá biệt có trường hợp có đăng ký kinh doanh, có đăng ký thuế

nhưng cơ quan BHXH không tìm được doanh nghiệp dựa trên địa chỉ ghi

trong đăng ký kinh doanh.

của doanh nghiệp yếu, việc sản xuất kinh doanh thường xuyên gặp khó khăn.

2.2.2. Thực trạng chi trả chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

Ngay sau khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, cơ quan quản

54

lý Nhà nước đã ban hành tương đối đầy đủ văn bản hướng dẫn để việc tổ chức

triển khai BHXHHT bắt buộc trong thực tế đạt hiệu quả. Trên cơ sở những

quy định mới của Luật và các văn bản hướng dẫn, BHXH Việt Nam đã tập

trung hoàn thiện quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ

BHXH nói chung và BHXHHT bắt buộc nói riêng trong đó chú trọng đến cải

cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, tạo thuận lợi cho đối

tượng khi tham gia giao dịch với cơ quan BHXH.

Về công tác quản lý và chi trả BHXHHT bắt buộc của BHXH Việt

Nam hiện nay tương đối ổn định, chi trả kịp thời, đầy đủ, đúng quy trình, quy

định với nhiều hình thức chi trả tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt cho người

NLĐ mở tại ngân hàng, chi trả qua hệ thống bưu điện, trực tiếp bằng tiền mặt

hưởng ở các vùng miền khác nhau như: chi trả qua tài khoản cá nhân của

cho người hưởng.

Tuy nhiên, tỷ trọng người nhận lương hưu qua thẻ ATM vẫn còn thấp

do thói quen sử dụng tiền mặt của người dân và do hệ thống ngân hàng chưa

tuyên truyền phổ biến, chưa phát triển mạnh các hình thức thanh toán không

dùng tiền mặt trong phạm vi cả nước. Mặc dù triển khai nhiều hình thức chi

trả xong có thể thấy phương thức chi lương hưu qua hệ thống bưu điện vẫn

chiếm số lượng lớn. Chi tiết số đối tượng hưởng chế độ BHXH do nguồn ngân

sách đảm bảo năm 2017 ước thực hiện là 1.235.932 người, giảm 1,5% so với

năm 2016, số kinh phí chi là 44.896 tỷ đồng tăng 1,93% so với năm 2016. Năm

24.490 tỷ đồng cho 722.588 người hưởng lương hưu [Phụ lục IX, 11].

Tổng số chi từ nguồn quỹ BHXH đang thực hiện chi trả cho 1.834.878

người với 133.941 tỷ đồng tăng 14,05% so với năm 2016 [Phụ lục X, 11].

Qua đó, có thể thấy số người hưởng lương hưu và số tiền chi trả cho

đối tượng từ quỹ BHXH tăng, chứng tỏ số người tham gia vào hệ thống

2018 ước tính 1.212.292 người với số kinh phí là 45.581 tỷ đồng trong đó chi

55

BHXH tăng và năng lực tự đảm bảo ASXH của người dân ngày càng tăng lên.

Về chi trả BHXHHT bắt buộc cho trường hợp suy giảm KNLĐ, gần đây

do lo ngại thay đổi về chính sách tính lương hưu của người nghỉ hưu năm

2018 thấp hơn nhiều so với 2017 nên số người nghỉ "hưu non" năm 2017 đã

cao hơn khoảng 10% so với năm 2016.

Theo bảng số liệu nêu dưới đây có một vấn đề đặt ra đó là số người

nghỉ hưu sớm cũng đang là một vấn đề đáng lo ngại đối với chính sách

BHXH. Vì đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới mất cân đối

quỹ hưu trí và tử tuất dài hạn.

Bảng 2.5. Số người nghỉ hưu do bị suy giảm KNLĐ từ 61% năm 2016

Đơn vị: Người

Đóng BHXH tự nguyện Năm Đóng BHXH bắt buộc theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định Đóng BHXH bắt buộc theo chế độ tiền lương do người SDLĐ quyết định

Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ

(Nguồn: Công văn số 3841/BHXH-CSXH)

2016 2.734 1.653 9.763 5.318 57 25

Giai đoạn hiện nay Bộ Y tế chưa ban hành quy định, tiêu chuẩn để đánh

giá “mức độ suy giảm KNLĐ” mà áp dụng quy định tại Thông tư số

LĐTBXH quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích, bệnh tật và nghề

nghiệp được dùng chung cho tỷ lệ suy giảm KNLĐ áp dụng trong giám định y

khoa, vì vậy việc xác định tỷ lệ % trong giám định y khoa hiện nay là tỷ lệ tổn

thương cơ thể chứ không phải tỷ lệ suy giảm KNLĐ của NLĐ. Hơn nữa, công

tác giám định y khoa còn chưa chặt chẽ, nhiều trường hợp vẫn có thể lao động

28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 27/9/2013 của liên bộ: Bộ Y tế - Bộ

56

bình thường mặc dù giám định y khoa suy giảm KNLĐ 81% dẫn tới tiêu cực

trong khi giám định mức độ suy giảm KNLĐ.

Về chi trả BHXHHT bắt buộc cho trường hợp BHXH một lần, theo

Luật BHXH 2014, điều kiện hưởng BHXH một lần đang được cho là quy

định mở hơn có lợi cho NLĐ. Sau một năm không làm việc, không tham gia

BHXH là NLĐ có thể hưởng BHXH một lần với mức hưởng bằng 1,5 tháng

mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH cho những năm đóng trước năm

2014 và 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH cho những

năm đóng từ năm 2014 trở đi.

Nếu xem xét về tính lâu dài tính riêng năm 2017, tổng số người hưởng

khoảng 88,5% số người mới tham gia vào hệ thống BHXH là 753.235

BHXH một lần là 666.955 người, gấp 4,6 lần số người nghỉ hưu và bằng

người. Đây là tình trạng đáng báo động vì mục tiêu mở rộng diện bao phủ

BHXH của Đảng và Nhà nước khó đạt được trong khi đó ngày càng nhiều

người rời khỏi hệ thống BHXH khi đến năm 2018 con số đã tăng lên

723.264 người [Phụ lục VIII, 11].

2.2.3. Thực trạng tổ chức quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội

hưu trí bắt buộc

Quỹ BHXH là nội dung quan trọng trong hệ thống BHXH của mỗi

quốc gia. Ở Việt Nam quỹ BHXH được hình thành độc lập với NSNN nó ra

đời tồn tại phát triển gắn liền với mục đích bảo đảm ổn định cuộc sống cho

nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp

bằng tiền của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình

thành một quỹ tiền tệ tập trung.

BHHT là một bộ phận của BHXH bắt buộc do vậy khi số người tham

gia BHXH ngày càng tăng nên số thu vào quỹ hưu trí và tử tuất cũng tăng lên,

NLĐ và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập mà không

57

dẫn tới những người hưởng lương hưu trước năm 1995 do Nhà nước chi trả từ

nguồn ngân sách số lượng ngày càng giảm trong những năm gần đây giúp

giảm gánh nặng cho NSNN. Việc quản lý tập trung thống nhất nguồn quỹ hưu

trí hướng tới giải quyết kịp thời, đầy đủ quyền lợi của NLĐ khi về hưu, những

quy định về hoạt động đầu tư quỹ chặt chẽ, đảm bảo an toàn có sự giám sát

của Nhà nước là cơ sở cho quỹ hưu trí và tử tuất đảm bảo cân đối thu chi.

Về hoạt động thu chi, theo số liệu báo cáo của BHXH Việt Nam, tính đến

hết 31/12/2017 tổng số kết dư quỹ BHXH ước đạt 540.004 tỷ đồng, tăng 88.399

tỷ đồng tương ứng 19,6% so với năm 2016. Trong đó quỹ hưu trí và tử tuất hiện

có kết dư và được sử dụng đầu tư tăng trưởng. Tổng kết dư quỹ hưu trí và tử tuất

gia tăng kết dư quỹ bình quân trên 20%/năm. Ước tính năm 2017, số thu vào quỹ

đến hết năm 2017 khoảng 488.431 tỷ đồng. Trong giai đoạn 2009-2017, tốc độ

là 168.364 tỷ đồng, số chi là 110.583 tỷ đồng tăng 83.030 tỷ đồng so với năm

2016 [18]. Kết dư của quỹ hưu trí được sử dụng để đầu tư tăng trưởng theo quy

định, tạo nguồn cho chi phí quản lý bộ máy và bổ sung nguồn thu cho quỹ

BHXH. Chi tiết tình thu chi quỹ xem tại bảng số liệu dưới đây:

Bảng 2.6. Tình hình thu chi hưu trí giai đoạn 2009-2017

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Năm

Chỉ tiêu

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

Số thu 29.990 40.540 50.734 74.383 88.305 110.462 125.675 147.802 168.364

Số chi 24.522 30.939 38.397 51.122 63.009 71.740 84.992 96.735 110.583

81,8% 76,3% 75,7% 68,7% 71,4% 64,9% 67,6% 65,4% 65,7%

Tỷ lệ chi/ thu

(Nguồn: Báo cáo số 150/BC-CP, Báo cáo số 166 /BC-CP)

Một vấn đề cần quan tâm hiện nay nếu so với quỹ BHXH tự nguyện là

58

không có trường hợp nợ bảo hiểm vì đối tượng tham gia BHXH là NLĐ, hoàn

toàn dựa trên sự tự nguyện của NLĐ, NLĐ mà dừng tham gia BHXH tự

nguyện thì chỉ hai trường hợp xảy ra là tạm dừng đóng BHXH tự nguyện hoặc

được hưởng BHXH một lần. Không như quỹ BHXH bắt buộc, phụ thuộc đa

phần vào NSDLĐ. Chính vì vậy trên thực tế thì quỹ BHXH bắt buộc thường

gặp phải các trường hợp nợ đóng BHXH ảnh hưởng đến việc hưởng lương

hưu cũng như các chế độ khác của NLĐ.

Hiện nay, có những giai đoạn do nền kinh tế gặp khó khăn nên một số

doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh hoặc phải tạm dừng

hoạt động, giải thể, phá sản dẫn đến cắt giảm lao động, chậm đóng, nợ đọng

sử dụng nguồn tiền này làm vốn sản xuất, kinh doanh, trong khi đó công tác

BHXH, nhiều doanh nghiệp cố tình chây ỳ, nợ BHXH chấp nhận bị phạt để

khởi kiện các doanh nghiệp nợ tiền đóng BHXH đã được tăng cường nhưng

hiệu quả thu hồi tiền nợ chưa cao. Việc khởi kiện đơn vị NSDLĐ nợ BHXH

của tổ chức công đoàn còn lúng túng. Do đó dẫn tới tình trạng nợ BHXH vẫn

đang còn diễn biến phức tạp ở nhiều doanh nghiệp, nhiều địa phương và tỉ lệ

nợ vẫn còn cao. Mặc dù số tiền nợ BHXH trong những năm gần đây đã giảm

hơn do BHXH Việt Nam đã phối hợp với các Bộ, ngành đưa ra nhiều giải

pháp nhằm đôn đốc, thu hồi nợ đọng BHXH để đảm bảo quyền lợi của NLĐ

được giải quyết kịp thời nhưng tính đến hết năm 2017 tổng số nợ BHXH bắt

buộc là 5.737 tỷ đồng giảm 0,8% so với năm 2016 chỉ bằng 2,9% so với số

Theo Báo cáo số 15/BC-BHXH ngày 03/4/2018: Trong số các đơn vị

nợ, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh có trên 100 nghìn đơn vị, với

khoảng gần 2 triệu lao động nợ BHXH 3.712 tỷ đồng, chiếm 65% tổng số nợ

BHXH. Số nợ khó thu khoảng trên 1.667 tỷ đồng của hơn 10 nghìn doanh

nghiệp với khoảng 12 nghìn lao động gồm: Doanh nghiệp bỏ trụ sở hoạt

phải thu [Phụ lục VII, 11].

59

động, chủ sở hữu, chủ sử dụng lao động bỏ trốn, đơn vị đã phá sản. Trong đó,

nợ không thể thu hồi được là 476 tỷ đồng của 4 nghìn doanh nghiệp với

khoảng 5 nghìn lao động, do các doanh nghiệp đã và đang giải thể, phá sản và

doanh nghiệp có chủ là người nước ngoài bỏ trốn không còn khả năng thanh

toán do nhà xưởng đi thuê, tài sản đã được thế chấp tại các ngân hàng [18].

Có thể thấy, thực trạng thất thu BHXH thể hiện ở việc trốn đóng, nợ

đóng BHXH xảy ra ở hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu trong lĩnh

vực kinh doanh dịch vụ, xây dựng. Mặc dù vậy, năm 2017 vẫn là năm có tỷ lệ

nợ trên số phải thu thấp nhất từ trước đến nay và đã giảm cả về số tuyệt đối và

tương đối. Đây là chuyển biến tích cực và thể hiện nỗ lực rất lớn trong điều

2013-2017 cụ thể qua bảng số liệu sau:

kiện kinh tế - xã hội vẫn còn khó khăn. Chi tiết tình hình nợ BHXH giai đoạn

Bảng 2.7. Tình hình nợ BHXH giai đoạn 2013-2017

Đơn vị tính: Tỷ đồng,%

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Số nợ

Số nợ

Số nợ

Số nợ

Số nợ

Tỷ lệ % so với số phải thu

Tỷ lệ % so với số phải thu

Tỷ lệ % so với số phải thu

Tỷ lệ % so với số phải thu

Tỷ lệ % so với số phải thu

6.257 5.84%

6.628

4.82% 7.061 4,57% 6.551 3,64% 5,737 2,93%

(Nguồn: Phụ lục VII, Báo cáo số 166 /BC-CP)

doanh nghiệp đang hoạt động, nhưng hiện cơ quan BHXH mới chỉ quản lý thu

BHXH đối với trên 230.000 doanh nghiệp con số này so với thực tế là còn nhỏ.

Nợ đọng vẫn tập trung nhiều ở khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

chiếm 8,66% so với số phải thu, các hợp tác xã là 6,28% số phải thu và các

doanh nghiệp Nhà nước là 5,5% so với số phải thu trong năm 2016 [11].

60

Theo số liệu của BHXH Việt Nam thì hiện nay toàn quốc có trên 505.000

Bảng 2.8. Tình hình nợ BHXH chia theo nhóm đối tượng

giai đoạn 2013-2017

Đơn vị tính: Tỷ đồng,%

2015

2016

2017

Loại hình quản lý

Số nợ Tỷ lệ nợ Số nợ

Số nợ

Tỷ lệ nợ

Tỷ lệ nợ

Doanh nghiệp nhà nước

894.2 6.31% 926.4 5.50% 836.5 6.30%

1,043.6 2.25% 844.3 1.50% 795.6 1.13%

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 4,593.7 11.16% 4,390.5 8.66% 3,711.7 6.02%

Hợp tác xã

34.7

7.22%

33.3 6.28% 51.0

7.66%

(Nguồn: Phụ lục VII, Báo cáo số 166 /BC-CP)

Hiện nay, Luật BHXH năm 2014 đã giao cho công đoàn được quyền

khởi kiện những doanh nghiệp có hành vi chậm đóng, trốn đóng, nợ đóng

BHXH. Tuy vậy, các tổ chức công đoàn khởi kiện ra tòa thì gặp nhiều khó

khăn.. Theo số liệu thống kê của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, đến hết

năm 2017, các cấp công đoàn đã tiếp nhận 2.352 bộ hồ sơ doanh nghiệp nợ

BHXH do cơ quan BHXH chuyển sang. 20 Liên đoàn lao động tỉnh, thành

BHXH. Trong 187 vụ do công đoàn khởi kiện, tòa án nhân dân các cấp đã hòa

giải thành 28 vụ, trả lại 48 hồ sơ khởi kiện. Số còn lại không thụ lý hồ sơ với

các lý do nhiều lý do [24]. Có thể thấy con số khiếu nại về tình trạng này đang

ở mức cao đáng báo động.

Về hoạt động đầu tư từ quỹ, theo quy định của Luật BHXH 2014 hoạt

động đầu tư phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và thu hồi được vốn đầu tư. Theo

phố đã khởi kiện đến các cấp tòa án với tổng số 187 vụ doanh nghiệp nợ

61

đó, tổng số dư nợ đầu tư quỹ BHXH lũy kế đến cuối năm 2017 ước đạt

609.069,3 tỷ đồng, tăng 21,75% so với cùng kỳ năm 2016. Số tiền sinh lời từ

hoạt động đầu tư quỹ năm 2017 ước 37.500 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch Chính

phủ giao. Tỷ lệ tiền lãi thu được tính trên số dư nợ đầu tư bình quân đạt

7,25%/năm (trong bối cảnh chỉ số lạm phát năm 2017 là 3,53% và tăng trưởng

GDP là 6,81%) [18] và được sử dụng đúng quy định. Các hình thức đầu tư chủ

yếu bao gồm: Mua trái phiếu Chính phủ, gửi tiền, mua trái phiếu, kỳ phiếu,

chứng chỉ tiền gửi tại các ngân hàng thương mại có chất lượng hoạt động tốt

theo xếp loại tín nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho NSNN vay.

Từ ngày 31/12/2016, toàn bộ số đầu tư Cho Ngân sách Nhà nước vay

BTC ngày 30/12/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Theo báo cáo của BHXH

được chuyển đổi thành trái phiếu Chính phủ theo Quyết định số 2821/QĐ-

Việt Nam, năm 2017, BHXH Việt Nam đã thực hiện đầu tư theo hình thức

mua trái phiếu Chính Phủ, mua trái phiếu và gửi tiền vào các Ngân hàng

thương mại có chất lượng hoạt động lành mạnh theo xếp loại tín nhiệm của

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và bước đầu tham gia đấu thầu trái phiếu

Chính phủ tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Đây là bước tiến quan trọng

trong việc chuyển đổi hình thức đầu tư trái phiếu Chính phủ và trái phiếu

được Chính phủ bảo lãnh theo hướng chuyên nghiệp.

Về đầu tư trái phiếu Chính phủ: Danh mục đầu tư mua trái phiếu Chính

phủ đến 31/12/2017 ước đạt 479.800 tỷ đồng, đây là danh mục đầu tư lớn nhất,

mức bình quân thị trường tại thời điểm hiện nay. Là danh mục đầu tư an toàn,

không có rủi ro, tuy nhiên tỷ lệ lãi đầu tư bình quân có xu hướng giảm do trái

phiếu chính phủ phát hành các kỳ hạn giảm mạnh trong năm 2017.

Về đầu tư vào hệ thống Ngân hàng thương mại: BHXH Việt Nam đầu

tư vào 05 ngân hàng thương mại được Ngân hàng Nhà nước đánh giá hoạt

chiếm 81,73% tổng số dư đầu tư. Lợi nhuận đầu tư đạt 7,5%/năm [3] cao hơn

62

động ổn định, lành mạnh. BHXH Việt Nam chủ yếu đầu tư vào gửi tiền với

kỳ ngắn hạn, mua trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, số dư đầu tư tại

các ngân hàng thương mại đến 31/12/2017 ước đạt 111.269.3 tỷ đồng, chiếm

18,27% tổng số dư đầu tư. Các khoản đầu tư tại các ngân hàng nêu trên là

danh mục đầu tư ít rủi ro, có độ an toàn cao. Tuy nhiên tỷ lệ đầu tư vào các

ngân hàng thương mại giảm dần từ 25% tổng số dư đầu tư quỹ vào năm 2012

xuống còn 18,27% vào năm 2017 và BHXH Việt Nam chỉ ký hợp đồng đầu

tư với Hội sở chính của các ngân hàng thương mại là 8 đầu mối [3].

Bảng 2.9. Lãi thu được từ hoạt động đầu tư giai đoạn 2015 – 2017

Đơn vị tính: Tỷ đồng

Danh mục đầu tư

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Số đầu tư năm trước chuyển sang

369,529

435,129

500,258

Số đầu tư tăng trong năm

130,210

150,200

273,300

Số đầu tư giảm trong năm

64,610

85,071

164,488.7

Số lãi thu được trong năm

32,079

32,779

37,500

Tỷ lệ lãi đầu tư bình quân năm

7.97%

7.23%

7.25%

(Nguồn: Phụ lục XIII, Báo cáo số 166 /BC-CP)

Qua số liệu trên có thể thấy nhìn chung các hạng mục đầu tư mang lại

lợi ích cũng như nguồn thu cho quỹ thể hiện qua số lãi thu được qua các năm

năm (không bao gồm lãi phát sinh từ tài khoản không kỳ hạn) ước là 37.500

tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch tăng thêm 4.720 tỷ so với năm 2016 [11]. Tuy

nhiên mức số lãi vẫn nằm ở con số trung bình.

Như vậy cùng với sự chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang

cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cho nên đã có sự chuyển dịch về

gần đây đều tăng. Tổng số tiền lãi thu được từ hoạt động đầu tư quỹ trong

63

lao động cùng với chính sách mở rộng đối tượng tham gia BHXH ngày càng

tăng, góp phần vào tăng trưởng quỹ. Theo đánh giá chung, bên cạnh những điểm

tích cực vẫn còn những hạn chế dẫn đến nợ đọng BHXH còn cao gây nguya cơ

mất cân bằng quỹ trong dài hạn, hơn nữa chính sách về đầu tư quỹ BHXH theo

quy định tuy chặt chẽ, an toàn nhưng hiệu quả đầu tư lại chưa cao.

2.2.4. Công tác quản lý, lưu trữ hồ sơ, cải cách thủ tục hành chính

gắn liền nghiệp vụ cán bộ quản lý thực hiện

Việc quản lý đối tượng hưởng chế độ được duy trì thường xuyên với sự

kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan BHXH đã góp phần quản lý đối tượng hưởng

chính xác. Các đối tượng được hưởng đều có đủ hồ sơ lưu trữ tại BHXH.

chuyển biến tốt nhờ hệ thống mạng máy tính và phần mềm mới giúp việc luân

Trong những năm gần đây công tác quản lý - lưu trữ hồ sơ đã có nhiều

chuyển lưu trữ được thực hiện liên tục đạt hiệu quả cao đặc biệt BHXH Việt

Nam đã tổ chức thực hiện việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ

tục hành chính theo ba hình thức: Giao dịch điện tử, sử dụng dịch vụ bưu

chính công ích (doanh nghiệp không phải trả phí) và trực tiếp tại bộ phận một

cửa giúp đảm bảo đúng thời hạn quy định, phối hợp với Bưu điện thực hiện

tiếp nhận và trả kết quả trực tiếp tại các đơn vị.

Năm 2017 đã hoàn thành việc xây dựng Trung tâm dữ liệu ngành

BHXH tại Hà Nội với nhiệm vụ hiện tại là cung cấp năng lực xử lý tập trung

cho toàn bộ các ứng dụng nghiệp vụ cấp Trung ương, phục vụ triển khai phần

trung hóa xử lý các hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin khác phục vụ

công tác quản lý của Ngành. Qua đó, đã kịp thời xử lý tình trạng giải quyết

chậm, muộn hoặc để tồn đọng hồ sơ giao dịch của cá nhân, tổ chức. Ngoài

ra, việc giải quyết chế độ được áp dụng cơ chế “một cửa” liên thông, tạo

thuận lợi cho NSDLĐ và NLĐ khi nộp hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ. Tuy

mềm nghiệp vụ lõi trên phạm vi toàn quốc, cũng như nhằm thực hiện tập

64

nhiên, do phần mềm quản lý mới được áp dụng, một số cán bộ sắp đến tuổi

nghỉ hưu chưa sử dụng được thành thạo dẫn tới việc chia sẻ, kết nối thông

tin, dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương còn hạn chế làm cho công tác

ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý của ngành BHXH còn

gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, công tác cải cách thủ tục hành chính luôn được coi trọng

và thực hiện thường xuyên, góp phần giảm thiểu thời gian và kinh phí thực

hiện thủ tục cho doanh nghiệp và người dân. Mô hình cơ cấu tổ chức và chức

năng của BHXH được kiện toàn phù hợp với cơ chế quản lý hoạt động BHXH

giúp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao, tạo điều kiện cho việc cải

phục vụ tốt hơn đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH bắt buộc

cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm phát triển nhanh đối tượng và

trong đó có BHXHHT bắt buộc.

Hạ tầng công nghệ thông tin đã được tập trung đầu tư và cơ bản đáp

ứng yêu cầu quản lý. Công tác cải cách hành chính toàn ngành BHXH đạt

được nhiều kết quả đột phá, cung cấp được 14 dịch vụ công trực tuyến mức

độ 3 và mức độ 4. Cơ quan BHXH Việt Nam đã tăng 18 bậc so với năm 2016,

vươn lên vị trí thứ 2 trong bảng xếp hạng chung của 25 bộ, cơ quan ngang bộ,

cơ quan thuộc Chính phủ có dịch vụ công. Tuy nhiên, điều này cũng tạo lên

áp lực rất lớn đối với đội ngũ công chức, viên chức và người lao động của

ngành trong bối cảnh vừa phải thực hiện tinh giảm biên chế, vừa hoàn thiện

Do vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như thái độ phục vụ của

cán bộ BHXH thời gian qua đã được quan tâm và nâng cao đáng kể. Các cán

bộ thường xuyên được học tập, nâng cao nghiệp vụ kỹ năng cũng như xử lý

các tình huống thực tế thông qua các đợt tập huấn hay hội thi tại các cấp cơ

sở. Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực trong công tác cán bộ ở đâu đó

hệ thống và đáp ứng nhu cầu phục vụ đối với người dân.

65

chúng ta vẫn còn bắt gặp trường hợp các đối tượng này gây khó khăn cho

người tham gia BHXH, thậm chí có thái độ hách dịch, quan liêu, lợi dụng vai

trò nhiệm vụ của mình để nhũng nhiễu gây cản trở cho người dân đến làm thủ

tục nhất là trong cơ chế một cửa và trong các hoạt động giám định y khoa còn

nhiều khúc mắc.

2.2.5. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, thanh tra, kiểm tra,

giải quyết về tình trạng vi phạm pháp luật

Về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, bên cạnh công tác lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành chức năng thì công

tác truyền thông nói chung có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc

nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài và xuyên suốt quá trình phát triển của ngành.

đưa chính sách BHHT bắt buộc đi vào cuộc sống. Đây là một trong những

Vì vậy, để đạt được mục tiêu hướng tới 50% lao động tham gia BHXH mỗi

cán bộ làm công tác truyền thông tại các cơ quan đã không ngừng học tập,

trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng truyền tải các thông điệp

phù hợp đến từng đối tượng liên quan, tiếp tục đa dạng hóa các hình thức

truyền thông, chú trọng tuyên truyền trực tiếp tại cơ sở, đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ trong tình hình mới.

Nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHHT

bước đầu mang lại hiệu quả tích cực như: truyền tải thông tin qua các phương

tiện thông tin đại chúng, tổ chức phát hành miễn phí các loại ấn phẩm tuyên

tổ chức các hội nghị đối thoại trực tiếp với NLĐ, cơ quan, tổ chức trên địa

bàn, giúp cho NLĐ, cơ quan, doanh nghiệp được thuận tiện trong giao dịch,

tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.

Trong năm 2016, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH

đã chuyển biến tích cực theo hướng gắn với phát triển đối tượng. Hoạt động

truyền, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ doanh nghiệp làm BHXH, hoặc

66

tuyên truyền, phổ biến pháp luật đa dạng, thực chất và đi vào chiều sâu đã

nâng cao nhận thức của nhân dân và NLĐ, tạo điều kiện cho các bên tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách mới. Đặc

biệt, năm 2016 với 2.950 các hội nghị đối thoại chính sách được các doanh

nghiệp và NLĐ rất quan tâm và đánh giá cao.

Trang tin điện tử của BHXH Việt Nam đã đăng tải gần 3.000 tin, bài,

văn bản tăng 50% so với năm 2015, thu hút 12 triệu lượt truy cập. Ngành

BHXH đã phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí ở Trung ương và địa

phương đăng tải trên 9.000 tin, bài, phóng sự, các cuộc phỏng vấn, các phim

tài liệu, chuyên mục, chuyên đề, tọa đàm, giao lưu trực tuyến, đối thoại tư vấn

tuần [10]. Phối hợp tổ chức các lớp tập huấn trang bị kiến thức BHXH cho đối

trực tiếp, đặc biệt đã có 05 chuyên mục truyền hình phát sóng cố định hàng

tượng là lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã, bưu điện, trưởng khu phố, trưởng

ban nhân dân ấp, tổ trưởng tổ dân phố, tổ trưởng tổ nhân dân...

Nhìn chung công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về BHXH trong

đó có BHHT được thực hiện với nhiều hình thức và sâu rộng nhưng lại mới

chỉ tập trung hướng tới các đối tượng tiềm năng chưa hướng tới được những

đối tượng tiềm năng khác nhưng chưa thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc

hay các đối tượng thuộc khu vực dân trí chưa cao nhất là các bản xã nghèo

thuộc vùng cận biên giới. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền cần phải có thời

gian nên hiệu quả trực tiếp chưa cao trong khi đó đội tuyên truyền viên ở các

chưa thực sự nghiêm túc trong việc học hỏi, phát triển trau dồi cho bản thân.

Về công tác thanh tra, kiểm tra, hiện nay cơ quan BHXH đã và đang

tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chi trả BHXHHT bắt buộc theo

BHXH bắt buộc tại các điểm chi trả ở xã, phường do Bưu điện thực hiện, phối

hợp cùng Bưu điện thực hiện quản lý đối tượng chặt chẽ, đảm bảo thực hiện

cấp cơ sở còn mỏng và một số ít cán bộ đã chuẩn bị đến tuổi nghỉ hưu nên

67

chi đúng, chi đủ, chi đến tận tay đối tượng hưởng thụ theo quy định.

Bên cạnh đó, cơ quan BHXH đơn vị đã phối hợp với các cơ quan liên

ngành xây dựng kế hoạch kiểm tra việc thực hiện pháp luật BHXH trong đó

đôn đốc việc triển khai về việc thực hiện và xử phạt những vi phạm trong lĩnh

vực này. Cụ thể:

Năm 2016 cơ quan BHXH các cấp đã thực hiện 7.578 cuộc thanh tra,

kiểm tra tại 13.729 đơn vị sử dụng lao động, phối hợp thực hiện thanh tra,

kiểm tra liên ngành 2.452 cuộc tại 4.896 đơn vị sử dụng lao động. Kết quả đã

thu hồi về quỹ bảo hiểm xã hội số tiền trên 62 tỷ đồng bao gồm cả số thu hồi

được trong năm do vi phạm từ năm 2015, xử phạt vi phạm hành chính 104

đồng [10]. Năm 2017, toàn Ngành BHXH lập biên bản vi phạm hành chính

đơn vị sử dụng lao động với số tiền 2,1 tỷ đồng, trong đó đã thu được 1,5 tỷ

đối với 505 đơn vị SDLĐ với tỷ lệ thu hồi nợ đóng sau kết luận thanh tra,

kiểm tra đạt 52,7% [11].

Cùng với đó, nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng, trốn đóng BHXH bắt

buộc cho NLĐ, Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018

đã bổ sung 4 điều luật quy định tội danh riêng đối với những hành vi vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm bao gồm tội gian lận trong kinh doanh bảo

hiểm (Điều 213), tội gian lận BHXH, Bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214), tội

gian lận BHYT (Điều 215) và tội trốn đóng BHXH, BHYT, Bảo hiểm thất

nghiệp cho NLĐ (Điều 216).

chưa khởi tố vụ án nào dù cơ quan BHXH đã gửi gần 40 hồ sơ sang cơ

quan điều tra.

Cụ thể, theo thống kê của BHXH Việt Nam, đến nay đã có 15 BHXH

tỉnh, thành phố chuyển sang cơ quan điều tra đề nghị xử lý hình sự các hành

vi vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN với tổng số 43 hồ sơ.

Tuy nhiên sau hơn 1 năm thi hành, kể từ khi luật có hiệu lực, vẫn

68

Trong đó: 15 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 214, 1 hồ sơ đề nghị xử lý

theo Điều 215 và 27 hồ sơ đề nghị xử lý theo Điều 216. Kết quả 02 vụ việc đã

bị khởi tố nhưng theo tội danh khác: “Giả mạo trong công tác” và “Làm giả

tài liệu của cơ quan, tổ chức” 01 vụ việc chuyển sang xử lý vi phạm hành

chính do cơ quan điều tra xác định chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, 10 vụ

việc cơ quan điều tra không thụ lý với lý do hành vi vi phạm xảy ra trước thời

điểm Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực, 01 trường hợp công ty đã tự

nguyện trả hết nợ sau khi cơ quan BHXH chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra.

Các trường hợp còn lại cơ quan điều tra đang xem xét, nghiên cứu hồ sơ [29].

Báo cáo của BHXH Việt Nam cho thấy, từ năm 2016 đến nay, các hành

thức trục lợi quỹ BHXH của các cá nhân, đơn vị ngày càng tinh vi, khó phát

vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH vẫn diễn biến phức tạp, các hình

hiện... Tình trạng chậm đóng, trốn đóng BHXH xảy ra ở hầu hết các địa

phương, với mức độ ngày càng nhiều. Tính đến ngày 30/11/2018, tổng số tiền

nợ BHXH phải tính lãi từ một tháng trở lên của BHXH các tỉnh, thành phố là

6.172 tỷ đồng, bằng 3,1% so với kế hoạch thu năm 2018 [28].

Thực tế áp dụng được bộ Luật hình sự vào khởi tố hình sự còn hạn chế

bởi vì một mặt do những quy định của pháp luật vẫn chưa có văn bản hướng

dẫn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cũng như chưa có văn bản hướng

dẫn về hồ sơ, trình tự thực hiện chuyển hồ sơ vi phạm sang cơ quan điều tra

để xử lý. Mặt khác, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến NLĐ khi doanh nghiệp

ngừng sản xuất nên việc xử lý hình sự vẫn được xem xét một cách kỹ lưỡng.

2.3. Một số nhận xét về thực trạng pháp luật và tình hình thực hiện

pháp luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam

2.3.1. Những kết quả đã đạt được

Thứ nhất, nhận thức chủ trương, quan điểm, định hướng của Đảng và

Nhà nước BHHT được từng bước đổi mới gắn kết hơn với hệ thống ASXH đa

69

dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các

nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ. Chính sách BHHT hướng

tới thực hiện công bằng xã hội, góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế và phát triển bền vững đất nước.

Thứ hai, trách nhiệm của Nhà nước về tạo khung pháp lý bảo đảm

vận hành hệ thống BHHT hiệu quả được thể hiện rõ. Nhà nước đã từng

bước thể chế hóa hệ thống chính sách, pháp luật BHHT bắt buộc phù hợp

với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với đặc điểm, trình độ

phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn. Các văn bản

hướng dẫn thực hiện Luật BHXH năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao

cho việc triển khai thực hiện chính sách BHXH. Đặc biệt, với Bộ luật Hình

động tiếp tục được ban hành tương đối đầy đủ, kịp thời, tạo cơ sở pháp lý

sự năm 2015, lần đầu tiên, pháp luật Việt Nam có quy định xử lý hình sự

các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH tạo cơ sở pháp lý nghiêm khắc

hơn đối với các hành vi đang gây bức xúc xã hội.

Thứ ba, chính sách BHHT trong quá trình hội nhập đã tiếp cận dần các

chuẩn mực quốc tế, từng bước áp dụng các công ước quốc tế, đặc biệt là Công

ước 102, 128 của ILO về quy phạm ASXH tối thiểu, theo hướng các quyền cơ

bản của công dân, NLĐ được bảo đảm.

Thứ tư, chính sách BHXHHT bắt buộc đã và đang phát huy tác dụng

tích cực trong đời sống xã hội. Đối tượng tham gia BHHT tăng qua các năm

kể. Theo báo cáo, tính đến ngày 31/12/2017, giai đoạn 2009 - 2017 tổng kết

dư quỹ hưu trí, tử tuất khoảng trên 400 nghìn tỷ đồng, tốc độ gia tăng kết dư

quỹ này bình quân trên 20%/năm (năm 2017, số thu là 168.364 tỷ đồng, số chi

là 110.583 tỷ đồng, chiếm 65,7%). Nguồn chi ngân sách nhà nước cho chế độ

hưu trí, tử tuất trong tổng chi hưu trí, tử tuất giảm dần, nếu năm 2014 chi cho

giai đoạn 2009-2017 đến năm 2018 con số tuy giảm nhẹ nhưng không đáng

70

808.197 người thì đến năm 2017 giảm chỉ còn 736.838 người.

Thứ năm, công tác tuyên truyền về BHXHHT bắt buộc cùng những cải

cách trong thủ tục hành chính đã giúp việc quản lý được dễ dàng hơn, đem lại

hiệu quả cao. Cùng với đó, BHXH Việt Nam đã và đang tích cực thực hiện

chức năng thanh tra chuyên ngành. Qua thanh tra, cơ quan BHXH đã phát

hiện nhiều vi phạm pháp luật về BHXH và thu hồi được nhiều khoản nợ đọng,

góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ. Đây là bước quan trọng

để có thể tiến tới xử lý hình sự các đơn vị, cá nhân vi phạm Luật BHXH.

Sáu là, hoạt động đầu tư quỹ được thực hiện đảm bảo theo đúng

phương án đầu tư được Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam thông qua, tăng tỷ

theo đúng quy định của pháp luật.

trọng đầu tư trung và dài hạn, hoạt động đầu tư đảm bảo an toàn, chặt chẽ và

Bảy là, nợ BHXH so với năm 2015 đã giảm cả về tỷ lệ nợ trên số phải

thu và số tiền tuyệt đối do ngành BHXH đã tích cực thực hiện các giải pháp

đồng bộ để thu hồi nợ.

2.3.2. Những hạn chế, tồn tại

Một là, điều kiện tuổi hưởng lương hưu đối với nam đủ 60 tuổi, đối với

nữ đủ 55 tuổi được quy định từ năm 1960 đến nay vẫn chưa thay đổi, trong

khi tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam tăng và xu hướng già hóa

dân số nhanh. Tuổi nghỉ hưu của NLĐ Việt Nam hiện nay được quy định

tại Luật BHXH năm 2014, ngoài ra, Chính phủ còn quy định tuổi nghỉ hưu

đối với một số nhóm đối tượng. Trong điều kiện lao động bình thường, tuổi

nghỉ hưu đối với nam là đủ 60 tuổi, nữ là đủ 55 tuổi, nhưng thực tế tuổi

nghỉ hưu thấp hơn nhiều.

Hiện nay, số lượng người nghỉ hưu ở độ tuổi cao hơn thấp hơn nhiều so

với số người nghỉ hưu trước độ tuổi do suy giảm KNLĐ, thể hiện ở tuổi trung

cao hơn nhưng không quá 5 tuổi, tuổi nghỉ hưu thấp hơn từ 01 đến 05 tuổi

71

bình hưởng lương hưu hiện nay tuổi nghỉ hưu của NLĐ Việt Nam trung bình

chỉ là 54,2 (nam 55,6 và nữ 52,6). Điều này dẫn đến thời gian tham gia BHXH

ngắn (số năm đóng góp trung bình đối với nam là 28, nữ là 23), trong khi thời gian

hưởng hưu trí dài, (bình quân nam hưởng 22,6 năm, nữ hưởng 27 năm) [15]. Đây

chính là một trong các áp lực tạo ra gánh nặng cho quỹ BHXH.

Hai là, tỷ lệ tham gia BHXH còn thấp, độ bao phủ BHXH tăng chậm.

Mặc dù, về mặt chính sách BHXH đã bao phủ toàn bộ lực lượng lao động, tuy

nhiên việc phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc để hưởng chế độ

BHHT trên thực tế còn rất hạn chế, tốc độ phát triển còn chậm. Năm 2007 số

người tham gia là 8.172.502 người, đến năm 2017 là 13.591.492 người, chiếm

được các đối tượng hưởng lương nhưng không theo HĐLĐ, người quản lý

khoảng 28,2% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động và chưa bao phủ

điều hành không hưởng tiền lương hay các khu vực nghèo cận biên giới, các

doanh nghiệp siêu nhỏ thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.

Ba là, theo Luật BHXH năm 2014 quy định để hưởng lương hưu chưa

hợp lý. Theo quy định điều kiện thời gian tối thiểu 20 năm đóng BHXH để

được hưởng lương hưu là quá dài, hầu như các quốc gia thường quy định thấp

hơn, khoảng 10 năm. Bên cạnh đó, tỷ lệ tích lũy 2% cho 1 năm tăng thêm

đóng BHXH sau khi đủ điều kiện đóng để hưởng lương hưu và mức hưởng tối

đa 75% là khá cao trong khi quốc tế chỉ khoảng 1,5% cho mỗi năm tăng thêm

và hưởng tối đa khoảng 60%. Với các chính sách, chế độ BHXH hiện hành sẽ

việc đầu tư quỹ còn chặt chẽ chưa đem lại được hiệu quả cao.

Bốn là, vấn đề đặt ra hiện nay là tình trạng nợ BHXH vẫn đang còn

diễn biến phức tạp ở nhiều doanh nghiệp, nhiều địa phương và tỉ lệ nợ vẫn

còn cao. Nợ BHXH đã giảm hơn so với một số năm trước nhưng tỷ lệ nợ vẫn

còn cao ở các doanh nghiệp. Công tác khởi kiện các doanh nghiệp nợ tiền

dẫn đến nguy cơ mất cân đối quỹ hưu trí và tử tuất trong dài hạn, trong khi đó

72

đóng BHXH đã được tăng cường nhưng hiệu quả thu hồi tiền nợ BHXH chưa

cao. Việc khởi kiện đơn vị sử dụng lao động nợ BHXH của tổ chức công đoàn

còn lúng túng, chưa mạnh dạn đấu tranh tính đến hết năm 2017, tổng số nợ

BHXH bắt buộc là 5.735 tỷ đồng giảm 0,8% so với năm 2016 bằng 2,93% so

với số phải thu. Chế tài xử lý đối với hành vi trốn đóng, nợ đóng BHXH trong

cả thời gian dài chỉ dừng lại ở mức xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt

chưa thực sự cao, chưa đủ sức răn đe. Bộ Luật Hình sự 2015 đã bổ sung tội

trốn đóng BHXH có hiệu lực từ 01/01/2018. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện

phải theo từng giai đoạn, có lộ trình vì việc khởi tố hình sự tác động rất lớn đến

NLĐ trong doanh nghiệp. Bởi khi doanh nghiệp bị khởi tố hình sự thì đương

Năm là, chưa hạn chế được số người hưởng BHXH một lần hoặc nghỉ

nhiên doanh nghiệp ngừng trệ hoạt động sản xuất, khiến NLĐ mất việc làm.

hưu sớm do suy giảm KNLĐ. Hiện nay, điều kiện nghỉ hưu sớm còn rộng rãi

trong khi không kiểm soát tốt công tác giám định y khoa dẫn đến độ tuổi bình

quân nghỉ hưu thấp. Theo quy định của Luật BHXH năm 2014, mức suy giảm

KNLĐ là căn cứ, điều kiện để hưởng BHHT hàng tháng. Việc đánh giá chính

xác mức độ suy giảm KNLĐ đối với NLĐ là hết sức quan trọng, là căn cứ để

cơ quan BHXH giải quyết chế độ, đảm bảo quyền lợi cho NLĐ theo đúng quy

định của pháp luật về BHXH, đồng thời giúp Nhà nước quản lý và sử dụng

nguồn nhân lực có hiệu quả, quản lý và sử dụng quỹ BHXH để chi trả đúng

đối tượng, đảm bảo ASXH bền vững. Tuy nhiên, số lượng NLĐ nghỉ hưu

Số người hưởng BHXH một lần tiếp tục tăng so với các năm trước. Trong 10

năm từ năm 2007 đến năm 2016, trên cả nước có khoảng 5 triệu người hưởng

BHXH một lần. Đây cũng là nhân tố làm giảm tỷ lệ bao phủ BHXH. Nhằm

hạn chế tình trạng trên, Luật BHXH năm 2014 đã quy định chặt chẽ hơn về

điều kiện nghỉ hưu trước tuổi do suy giảm KNLĐ như: tăng tỷ lệ giảm trừ

trước tuổi do suy giảm KNLĐ những năm gần đây có chiều hướng gia tăng.

73

lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi lên 2% thay cho 1% theo quy định trước đó,

đối với lao động nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi có từ đủ 20 năm đóng BHXH

trở lên thì mức suy giảm KNLĐ phải từ 81% trở lên (trước năm 2016 quy

định từ 61% trở lên) [17, Điều 56]. Mặc dù quy định đã nâng lên như vậy,

nhưng số lao động này khi ra Hội đồng giám định y khoa đều có kết quả suy

giảm KNLĐ từ 61% hoặc 81% trở lên như mong muốn của NLĐ.

Sáu là, cách tính lương hưu còn chưa hợp lý dẫn đến còn có chênh

lệch khá lớn về tiền lương hưu, ảnh hưởng đến tâm lý của NLĐ. Từ

01/01/2018 Luật BHXH năm 2014 quy định thay đổi cách tính lương hưu

đối với lao động nữ đã làm phát sinh sự so sánh giữa lao động nữ với lao

ngày 01/01/2018. Do quy định công thức tính lương hưu của nam được áp

động nam, giữa lao động nữ nghỉ sau với lao động nữ nghỉ trước thời điểm

dụng nhưng có lộ trình thay đổi dần trong 05 năm còn của nữ thì áp dụng

ngay trong năm 2018 nên dẫn đến một số lao động nữ nghỉ hưu năm 2018

có tỷ lệ hưởng lương hưu thấp hơn so với người có cùng thời gian đóng

BHXH nghỉ hưu năm 2017 từ 1% đến 10%. Từ đó tạo ra tâm lý so sánh

giữa lao động nữ và lao động nam (lao động nam chỉ giảm từ 1% đến 2%),

giữa người nghỉ hưu trước và sau ngày 01/01/2018.

Bảy là, công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến pháp luật đã có

nhiều chuyển biến nhưng chưa tác động mạnh đến phát triển đối tượng nhất

là phát triển đối tượng ở vùng cận biên giới, xã nghèo, vẫn còn một bộ

thông tin về chính sách, pháp luật về BHXH. Nguyên nhân chính là do lực

lượng tuyên truyền viên, báo cáo viên về BHXH còn mỏng, kỹ năng tuyên

truyền chưa chuyên sâu, mặt khác, việc thay đổi từ nhận thức sang hành vi

thông qua công tác tuyên truyền cũng đòi hỏi có thời gian nhất định. Chưa

có những chuyên đề tuyên truyền riêng và ưu tiên tiếp cận đối với những

phận người dân, doanh nghiệp, tổ chức chưa được thường xuyên tiếp cận

74

nhóm lao động tiềm năng như người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ

1 đến dưới 3 tháng, hay các đối tượng tiềm năng nhưng chưa thuộc diện

tham gia BHXH bắt buộc.

Tám là, công tác nâng cao nghiệp vụ của cán bộ nhân viên đã được

chuyển biến tích cực tuy nhiên một số cán bộ vẫn chưa có trách nghiệm trong

việc học hỏi, nâng cao nghiệp vụ nhất là những cán bộ sắp về hưu. Một số

khác lợi dụng công vụ, chức quyền thực hiện những hành vi nhằm chuộc lợi

cho bản thân nhất là trong công tác giám định y khoa hưởng BHHT gây ảnh

hưởng nghiêm trọng.

2.3.3. Nguyên nhân tồn tại, hạn chế

hưởng chế độ theo quy định. Đối tượng tham gia BHHT bắt buộc rất rộng

BHHT bắt buộc là loại hình BHXH bắt buộc mà NLĐ phải tham gia để

hiện nay còn mở rộng cho lao động là người nước ngoài. Tuy vậy, hiện nay

công tác phát triển đối tượng tham gia BHHT bắt buộc còn gặp không ít khó

khăn. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có số người tham gia bảo BHHT

bắt buộc khá cao nhưng nếu so với thực tế lao động là còn khá thấp. Từ thực

trạng trên, có thể nhìn nhận một số yếu tố cơ bản đã dẫn đến việc triển khai

BHHT bắt buộc chưa được hiệu quả là do một số những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, thời gian qua công tác tuyên truyền, vận động, triển khai về

chính sách, lợi ích của BHXH chưa được triển khai sâu rộng, thiếu đồng bộ

nên phần lớn NLĐ và nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về nội dung, ý nghĩa,

thủ tục đăng ký khi tham gia loại hình BHXH này cho nên có không ít lao

động tự thỏa thuận với công ty nhận tiền trực tiếp thay vì đóng bảo hiểm.

Thứ hai, BHXHHT bắt buộc hiện nay quy định điều kiện về thời gian

tối thiểu đóng BHXH để hưởng lương hưu 20 năm còn khá dài làm cho một

bộ phận NLĐ không đủ khả năng để tích lũy đủ điều kiện hưởng lương hưu

tầm quan trọng của các chính sách BHXHHT bắt buộc cũng như quy trình,

dẫn đến số người nhận một lần có xu hướng gia tăng làm giảm diện bao phủ

75

trong khi điều kiện hưởng BHXH một lần được quy định một cách rộng rãi,

BHXH.

Thứ ba, xây dựng chính sách còn hạn chế, khả năng phân tích dự báo

chính sách còn bất cập, việc khảo sát, đánh giá tình hình triển khai đôi khi

phản ánh chưa đúng với thực tiễn, thiếu thống nhất nên chưa dự báo được

những tác động từ thực tế có thể xảy ra, gây dư luận không tốt trong xã hội.

Thứ tư, vẫn còn tồn tại một số trường hợp lạm dụng để trục lợi gây thất

thoát quỹ nhất là trong hoặt động giám định suy giảm KNLĐ. Công tác cải

cách hành chính, chuyển đổi tác phong phục vụ, chất lượng dịch vụ công đã

tạo thuận lợi đối với tổ chức, cá nhân khi tiếp cận với BHXH nhưng vẫn chưa

Thứ năm, việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đang được đẩy

đáp ứng với yêu cầu thực tiễn.

mạnh song vẫn chưa liên thông cơ sở dữ liệu trên toàn quốc nên gây khó khăn

trong việc quản lý đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH, ảnh hưởng

đến công tác cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu phiền hà cho NLĐ và

NSDLĐ trong tham gia và thụ hưởng BHXH. Nguyên nhân là do chưa có sự

đồng bộ vào hệ thống hạ tầng công nghệ, hệ thống phần mềm chuyên dùng,

76

sự phối hợp giữa các cấp, các ngành chưa chặt chẽ.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 của luận văn đã tập trung nghiên cứu những quy định của

Luật BHXH năm 2014 về BHXHHT bắt buộc và thực trạng thực thi những

quy định đó trong thực tế với các nội dung: Đối tượng tham gia, mức đóng

góp hình thành quỹ, điều kiện hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng, BHXH

một lần. Việc nghiên cứu những quy định hiện hành được so sánh với các quy

định trước đó để đưa ra những phân tích, đánh giá thực trạng quy định về

BHXHHT bắt buộc hiện nay. Có thể thấy rằng, chương 2 là một bản tổng hợp

thông tin tương đối đầy đủ những quy định về BHHT hiện hành theo Luật

trong công tác thu và phát triển đối tượng tham gia, giải quyết và chi trả

BHXH 2014 với những số liệu cụ thể để thấy được những điểm mới tiến bộ

BHXHHT bắt buộc, cân đối quỹ hưu trí và vướng mắc trong quy định của chính

sách. Nội dung chương 2 đã nêu rõ những kết quả đạt được trong thực tiễn tổ

chức thực hiện BHXHHT bắt buộc với số liệu cụ thể như số người tham gia

BHXH và số thu vào quỹ hưu trí ngày càng tăng, số người hưởng lương từ quỹ

BHXH ngày càng nhiều, quỹ hưu trí có kết dư để đầu tư tăng trưởng, tình trạng

nợ đọng, trốn đóng BHXH được hạn chế.…

Trên cơ sở nghiên cứu những quy định hiện hành, chương 2 cũng đưa

ra những nhận định tổng quan nhất về những thành tựu đạt được, những bất

cập hạn chế và nguyên nhân của nó từ chính sách pháp luật và thực tiễn như

như đối với lao động nam, quy định về tuổi nghỉ hưu hiện nay trong xu thế

già hóa dân số có tác động đến việc đảm bảo cân đối quỹ hưu trí, điều kiện

hưởng BHXH một lần còn quá rộng rãi hay công tác giám định trong suy

giảm KNLĐ còn vấn đề cần chú ý...

77

việc điều chỉnh công thức tính lương hưu của lao động nữ không theo lộ trình

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIÊN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG

CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI

HƯU TRÍ BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM

3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã

hội hưu trí bắt buộc

Luật BHXH 2014 được ban hành đã khắc phục được hầu hết các bất

cập, hạn chế của Luật BHXH 2006 về BHHT. Mặc dù, Luật BHXH 2014 mới

cạnh những thành tựu đạt được, pháp luật về BHXH cũng đã bộc lộ một số

đi vào thực hiện được một thời gian ngắn từ 01/01/2016 đến nay nhưng bên

bất cập liên quan đến tuổi nghỉ hưu, phát triển quỹ BHXHHT bắt buộc... Việc

thực thi chính sách BHXH nói chung và BHXHHT bắt buộc nói riêng còn

chưa triệt để, chưa nghiêm minh. Do đó, trong thời gian tới, cần thiết phải có

hướng sửa đổi, bổ sung những quy định còn bất hợp lý để phù hợp với tình

hình thực tế của đất nước để BHXH nói chung và BHXHHT bắt buộc nói

riêng ngày càng phát triển toàn diện hơn. Qua quá trình nghiên cứu, tôi đề

xuất một vài khuyến nghị hoàn thiện pháp luật về BHXHHT bắt buộc như

sau:

3.1.1. Xây dựng quy định để hạn chế số lượng người lao động muốn

Như đã phân tích, thiết kế chính sách hưu trí của Việt Nam hiện nay

chưa cân đối được theo nguyên tắc đóng - hưởng bởi vì trên thực tế số người

về hưu trước tuổi vẫn còn nhiều đây cũng là nguyên nhân chính làm giảm độ

tuổi nghỉ hưu trung bình của NLĐ. Với tình trạng như vậy, nếu không hạn chế

được số người về hưu sớm trong khi tuổi thọ trung bình của người dân tăng,

nhận chế độ hưu trí sớm

78

tuổi nghỉ hưu trung bình của NLĐ còn thấp đồng nghĩa với thời gian hưởng

lương hưu kéo dài ảnh hưởng rất lớn đến quỹ hưu trí.

Do vậy cần có chính sách về tăng tỷ lệ giảm trừ lương hưu để hạn chế

số lượng NLĐ muốn nhận chế độ hưu trí sớm. Có thể thực hiện theo khuyến

cáo của ILO để tỷ lệ giảm trừ lên đến 5% - 6% cho mỗi năm về hưu trước

tuổi. Mức tỷ lệ này tuy cao nhưng xét về lâu dài sẽ hạn chế được một số

trường hợp tiêu cực trong quá trình làm thủ tục về nghỉ hưu sớm.

Về tiêu chí xét nghỉ hưu sớm cần giám sát chặt chẽ việc thực hiện.

Những tiêu chí xét cho việc về hưu sớm đã đề ra thì phải thực hiện thật

nghiêm túc, chặt chẽ, đặc biệt là quy định về chứng nhận suy giảm KNLĐ.

xem thực sự có phải là NLĐ đó không đủ năng lực lao động hay không để ra

Nếu NLĐ đề nghị xem xét về hưu sớm do suy giảm KNLĐ thì cần xem xét

quyết định phù hợp.

Mặt khác cần quy định chặt chẽ hơn điều kiện hưởng và giảm lợi ích

khi nhận BHXH một lần như: Bỏ quy định hưởng BHXH một lần đối với

trường hợp NLĐ tham gia BHXH bắt buộc sau một năm nghỉ việc mà chưa

đủ 20 năm đóng BHXH. Để khuyến khích NLĐ tiếp tục tham gia BHXH để

hưởng lương hưu bằng các hình thức khác như bảo lưu để khi có điều kiện

tiếp tục tham gia hay chuyển sang hình thức BHXH tự nguyện để hưởng

chế độ BHHT.

3.1.2. Xây dựng quy định các khung bậc với những điều kiện tham

gia bảo hiểm xã hội cụ thể để hưởng bảo hiểm hưu trí theo hướng linh hoạt

cho các đối tượng

Như đã phân tích, hiện nay điều kiện tối thiểu về thời gian đóng BHXH

để hưởng lương hưu của chúng ta khá dài 20 năm nên một bộ phận NLĐ

không đủ điều kiện để tích lũy hoặc tâm lý chờ đợi lâu dẫn đến muốn nhận

BHXH một lần, điều này đồng nghĩa với việc họ rời khỏi hệ thống và làm

79

giảm diện bao phủ BHXH, ảnh hưởng đến mục tiêu ASXH bền vững của

Đảng và Nhà nước.

Vì vậy, có thể xem xét sửa đổi cơ chế chính sách BHXH theo hướng

được phép lựa chọn hưởng linh hoạt để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ. Điều

kiện hưởng chế độ hưu trí có thể sửa đổi theo hướng xây dựng các mức tham

gia đóng BHXH tối thiểu từ 20 năm, 15 năm, 10 năm với mức hưởng được

tính toán phù hợp cho NLĐ, tạo điều kiện cho NLĐ cao tuổi có số năm tham

gia BHXH thấp được tiếp cận và thụ hưởng quyền lợi BHXH. Quy định về

thời gian tham gia đóng BHXH này giúp cho NLĐ trong điều kiện không làm

việc ở tuổi sau 35 mới đóng BHXH được 10 hay 15 năm, không tiếp tục tham

hợp. Điều này sẽ phần nào hỗ trợ cũng như khuyến khích đặc biệt là những

gia QHLĐ nữa vẫn có cơ hội để hưởng chế độ khi về hưu với mức hưởng phù

người ở độ tuổi trên 40, 50 bắt đầu tham gia BHXH hoặc có thời gian gián

đoạn nhiều năm không có điều kiện tham gia khi hết tuổi lao động cũng có thể

đóng để được hưởng lương hưu hàng tháng.

Việc xây dựng chính sách BHXH theo hướng linh hoạt bao gồm việc

xây dựng gói BHXH ngắn hạn, dài hạn linh hoạt để NLĐ có nhiều sự lựa

chọn tham gia và thụ hưởng, đáp ứng nhu cầu không chỉ lâu dài và cả trước

mắt, không chỉ trong dài hạn mà cả trong ngắn hạn.

3.1.3. Thực hiện rà soát, sửa đổi và ban hành mới chính sách về mở

rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

nước Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều chính sách ưu việt của BHXH

vẫn chưa được một bộ phận NLĐ quan tâm… Luật BHXH năm 2014 đã quy

định việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH từ 01/01/2018, đây vừa là cơ

hội nhưng cũng là thách thức đối với ngành BHXH trong việc tổ chức thực

hiện công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH

BHXH là một trong những chính sách ASXH trụ cột của Đảng và Nhà

80

Những chính sách mở được áp dụng đã bao phủ hầu hết NLĐ thuộc

diện tham gia BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, trên thực tế những đối tượng có

khả năng tham gia BHXH bắt buộc như: Chủ hộ kinh doanh cá thể, người

quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền

lương, người có việc làm, được trả tiền công nhưng không theo HĐLĐ nhưng

chưa được quy định là những đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trong Luật

BHXH 2014, hay các đối tượng thuộc khu vực dân trí chưa cao nhất là các

bản xã nghèo thuộc vùng cận biên giới do chưa có những chính sách tuyên

truyền sâu rộng nên nhiều trường hợp họ còn bị NSDLĐ trốn đóng BHXH.

Do vậy, trong thời gian tới chúng ta nên sửa đổi quy định một cách chặt chẽ

quy định tham gia BHXH bắt buộc với các đối tượng nêu trên.

hơn để ngày càng nhiều đối tượng tham gia BHXH bắt buộc như ban hành

Việc ban hành chính sách cần phải được nghiên cứu hợp lý, cơ quan

BHXH phải phối hợp với các địa phương để khảo sát cũng như thống kê chính

xác số đối tượng tiềm năng này và có các biện pháp khuyến khích giúp người

dân hiểu được những lợi ích thiết thực và tin tưởng khi tham gia BHXH.

3.1.4. Tăng mức xử phạt hành chính đối với các trường hợp trốn

đóng BHXH và nợ BHXH

Mức xử phạt đối với việc trốn đóng, chậm đóng BHXH hiện nay tương

đối thấp nên chưa khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật về

BHXH. Nâng cao tính tuân thủ pháp luật có chế tài xử lý nghiêm và mức xử lý

còn giúp mở rộng diện bao phủ của hệ thống BHXH vốn đang rất hẹp do các

doanh nghiệp trốn đóng BHXH. Đồng thời, có biện pháp vừa thắt chặt vừa

khuyến khích để các doanh nghiệp đóng BHXH cho NLĐ theo mức lương thực

tế, thay vì mức lương tối thiểu như hiện nay, nhằm một mặt nâng nguồn thu của

quỹ BHXH, nâng cao tính bền vững của quỹ BHXH, mặt khác đảm bảo mức

vi phạm cao về BHXH không chỉ giúp hạn chế tình trạng nợ đóng BHXH mà

81

sống cho NLĐ khi đến tuổi nghỉ hưu, góp phần củng cố hệ thống ASXH.

3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

về bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam

3.2.1. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội

và bảo hiểm xã hội hưu trí

Luôn luôn xác định công tác thông tin tuyên truyền chính sách BHXH

của Đảng và Nhà nước đối với NLĐ là một trong những nhiệm vụ thường

xuyên, vì vậy phải được làm tốt cùng với các mặt công tác khác. Trong thời

gian vừa qua, công tác thông tin tuyên truyền đã được chú ý đẩy mạnh, tuy

nhiên công tác này chưa thật sự thường xuyên, nội dung chưa thật phong phú,

quan trọng của chế độ chính sách BHXH nói chung và chế độ hưu trí nói

chưa đủ liều lượng để NLĐ và NSDLĐ nhận thức đầy đủ về ý nghĩa và tầm

riêng trong thời kỳ đổi mới.

Trong giai đoạn vừa qua bên cạnh những ưu điểm đạt được thì công

tác tuyên truyền chính sách BHXH chưa thực sự cho thấy hiệu quả cao.

Việc chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương còn

hạn chế dẫn đến việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý của Ngành

BHXH còn gặp nhiều khó khăn, chưa nắm bắt được số lao động thuộc diện

tham gia BHXH bắt buộc.

Chính vì vậy, việc tuyên truyền, giải thích nhằm nâng cao nhận thức về

lợi ích BHHT cho NLĐ và NSDLĐ có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách

BHXH mà còn là nhiệm vụ chung của nhiều ngành, nhiều cấp và của toàn xã

hội cần được đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới để đảm bảo chính sách

BHXH được thông tin, tuyên truyền đến tất cả các đối tượng, ở các cấp, các

ngành, các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức quyền lợi và trách

nhiệm thực hiện đóng BHXH, góp phần làm lành mạnh QHLĐ, tăng thu hút

trong giai đoạn hiện nay. Thiết nghĩ, đây không chỉ là công việc của ngành

82

đầu tư và tạo nhiều việc làm.. Để đạt được mục tiêu, chúng ta cần triển khai

đồng bộ các hoạt động sau đây:

Thứ nhất, đa dạng về hình thức, phuơng pháp và nội dung, đảm bảo

tính đồng bộ khi triển khai, xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông trên toàn quốc,

cùng với đó tập trung xây dựng cho đội ngũ cộng tác viên có năng lực trình

độ để làm công tác hướng dẫn, tập huấn cho cộng tác viên ở cơ sở.

Thứ hai, phối hợp sự tham gia của nhiều tổ chức đoàn thể trong công

tác tuyên truyền, tạo hiệu ứng lan tỏa trong cộng đồng. Cơ quan BHXH phải

xây dựng được chương trình, cơ chế phối hợp đồng bộ, có hiệu quả giữa

BHXH tỉnh và cơ sở.

chương trình mục tiêu khác như: chương trình việc làm, chương trình xóa đói

Thứ ba, phối hợp chương trình tuyên truyền BHXHHT bắt buộc với các

giảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn khó khăn.

Thứ tư, thông tin rộng rãi tình hình nợ BHXH của các doanh nghiệp

trên các phương tiện thông tin đại chúng và tăng cường tuyên truyền về các

hành vi vi phạm pháp luật BHXH được hình sự hóa tại Bộ luật Hình sự.

3.2.2. Đa dạng hóa danh mục và xây dựng bộ máy quản lý đầu tư

hợp lý quỹ bảo hiểm xã hội dài hạn

Như đã phân tích, hoạt động đầu tư của quỹ BHXH, đặc biệt là quỹ

BHXH dài hạn trong thời gian qua dù an toàn nhưng ít hiệu quả. Việc đầu tư

quỹ BHXH Việt Nam bên cạnh việc tôn trọng nguyên tắc bảo toàn vốn, có

cần phải đồng thời đầu tư về nhân sự chuyên nghiệp để quỹ BHXH đóng vai

trò là một nhà đầu tư lớn, quan trọng trên thị trường tài chính.

Các hình thức đầu tư quỹ BHXH trong thời gian tới cần thay đổi theo

hướng đa dạng hóa danh mục, như ngoài việc ưu tiên đầu tư vào trái phiếu

chính phủ, nhất là trái phiếu chính phủ dài hạn thì cần mở rộng đầu tư sang

chiến lược đầu tư vào các sản phẩm tài chính dài hạn, có tính thanh khoản cao

83

các lĩnh vực có khả năng sinh lời cao như đầu tư vào thủy điện, BOT đường

bộ, từng bước và có lộ trình đầu tư một phần tiền nhàn rỗi của quỹ thông qua

ủy thác đầu tư tại thị trường trong nước và quốc tế bảo đảm an toàn, bền vững

thông qua việc nghiêm túc đánh giá các dự án đầu tư trước đó. Năm 2011,

BHXH Việt Nam đã thực hiện đầu tư 6000 tỷ đồng để xây dựng dự án Thủy

điện Lai Châu và ủy thác cho Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương

Việt Nam thực hiện quản lý khoản vay, năm 2017, tập đoàn điện lực Việt

Nam đã trả nợ và thanh toán trước hạn toàn bộ khoản vay. Lợi nhuận đầu tư

bình quân qua dự án Thủy điện Lai Châu là 9,2%/năm [Phụ lục XIII, 11].

Như vậy có thể xem đây là danh mục đầu tư có lợi nhuận cao và an toàn.

quỹ hợp lý để phục vụ công tác đánh giá, dự báo tài chính hiệu quả đem lại

Bên cạnh đó, cần xây dựng bộ máy thanh tra giám sát, quản lý đầu tư

kết quả đầu tư cao tránh thất thu quỹ.

3.2.3. Nâng cao nghiệp vụ của cán bộ BHXH đi liền với cải cách thủ

tục hành chính

Xây dựng, kiện toàn công tác tổ chức cán bộ làm công tác BHXH là

một vấn đề hết sức cần thiết và quan trọng. Để mọi thành viên trong xã hội,

đặc biệt là người thuộc diện tham gia BHXH nhận thức được đầy đủ mục

đích, ý nghĩa, quyền lợi khi tham gia BHXH, trước hết phải nâng cao năng

lực, tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác BHXH, coi công việc của

mình là một hoạt động dịch vụ nhằm phục vụ nhân dân.

BHXH, đảm bảo mỗi cán bộ là một tuyên truyền viên vừa vững về chuyên

môn nghiệp vụ, vừa tận tâm, tận tụy với sự nghiệp phát triển BHXH. Phải

thay đổi nhận thức của cán bộ ngành bảo hiểm khi tiếp xúc với người tham

gia, phải đặt mình ở vai trò là người làm dịch vụ, cung cấp dịch vụ, tiến tới

xóa bỏ hoàn toàn cơ chế “xin – cho” vẫn đang tồn tại ở đâu đó.

Do đó cơ quan BHXH cần nâng cao chất lượng cán bộ chuyên trách về

84

Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà

nước về BHXH, nhất là trong việc hoạch định chiến lược phát triển, xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật BHXH. Tăng cường sự phối hợp giữa các

cấp, các ngành và địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chính

sách BHXH, kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Nâng cao

tính tuân thủ pháp luật về BHXH thông qua thực hiện đồng bộ các biện pháp

hành chính, kinh tế, tư pháp để tăng số người tham gia BHXH đi đôi với chú

trọng tăng số người thụ hưởng quyền lợi BHXH, đặc biệt là BHXHHT bắt

buộc.

Cùng với đó, tiếp tục rà soát, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, bãi

nhận hồ sơ và trả kết quả đến các đơn vị sử dụng lao động. Hoàn thiện quy

bỏ kịp thời các thủ tục không cần thiết, công khai thủ tục, quy trình, cách tiếp

trình về giao dịch điện tử tiến tới thực hiện tất cả các thủ tục BHXH. Trước

mắt, đẩy nhanh tiến độ ứng dụng giao dịch điện tử trong thực hiện thủ tục

hành chính về BHXH để giảm thời gian giao dịch của các doanh nghiệp.

3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp

luật bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc

Công tác kiểm tra giám sát là việc làm cần thiết không thể thiếu được

với bất cứ hoạt động nào, lĩnh vực nào, do vậy trong quá trình triển khai thực

hiện BHXH cần áp dụng cơ chế phương pháp kiểm tra và giám sát công tác

thu, chi, giải quyết các chế độ BHXH trong đó có BHXHHT bắt buộc từ cấp

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp

luật về BHXH, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các vi phạm, hành vi trốn

đóng, nợ đóng, gian lận, trục lợi tiền BHXH, nhất là công tác quản lý trong

khám giám định y khoa. Hơn nữa, cần phải xây dựng các nội dung kiểm tra

đánh giá phù hợp để thực hiện tăng cường kiểm tra thực hiện chính sách

cơ sở một cách thường xuyên liên tục.

85

BHXH đối với các đối tượng thuộc diện tham gia tại các địa bàn trên cả nước.

Các kế hoạch cần cụ thể, rõ ràng và chi tiết. Cần có sự phối hợp giữa các đơn

vị thực hiện với tổ thanh tra, nhưng bên cạnh đó vẫn đảm bảo nguyên tắc bình

đẳng trong hoạt động để kết quả của việc thanh tra giám sát thu được một

cách khách quan nhất.

Thông qua việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, chúng ta có thể vừa rút

kinh nghiệm và nâng cao chất lượng, kiến nghị sửa đổi những quy định của

pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế, vừa góp phần thúc đẩy việc áp

dụng những quy định của pháp luật một cách nghiêm minh nhất trong BHXH

86

nói chung và chế độ hưu trí nói riêng.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

BHXHHT bắt buộc chiếm vị trí vô cùng quan trọng trong hệ thống

BHXH. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu, tôi thấy rằng quy định pháp luật

và việc thực hiện BHXHHT bắt buộc còn tồn tại nhiều bất cập.

Trước yêu cầu hội nhập quốc tế, NLĐ nước ngoài vào làm việc tại Việt

Nam cũng thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định, cùng với

việc Việt Nam đã và sẽ tham gia các hiệp định song phương và đa phương về

BHXH thì các quy định về BHXH nói chung, BHXHHT bắt buộc của Việt

Nam nói riêng cũng cần sớm phải sửa đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế và

xu thế hội nhập nhằm đảm bảo tính khả thi trong tổ chức thực hiện.

Chương 3 của đề tài đã đưa ra một số hướng giải pháp, kiến nghị về

pháp luật như thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình; xây dựng

quy định để hạn chế số lượng NLĐ muốn nhận chế độ hưu trí sớm; xây dựng

quy định các khung bậc với những điều kiện tham gia BHXH cụ thể để hưởng

BHXHHT bắt buộc theo hướng linh hoạt cho các đối tượng; thực hiện rà soát,

sửa đổi và ban hành mới chính sách về mở rộng đối tượng tham gia BHXH

bắt buộc và hoàn thiện quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực

BHXH. Song song với những kiến nghị hoàn thiện pháp luật chương 3 cũng

đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

tuyên truyền, đa dạng hóa danh mục và xây dựng bộ máy quản lý đầu tư quỹ

hiệu quả, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để hạn chế tình trạng trốn

nợ, nợ đọng BHXH, đặc biệt thực hiện đồng bộ với nâng cao nghiệp vụ của

cán bộ BHXH để BHXHHT bắt buộc sẽ được hoàn thiện và thể hiện đúng vai

trò của nó vì một nền an sinh vững chắc cho toàn xã hội.

87

BHXHHT bắt buộc trong thời gian tới như cần đẩy mạnh công tác thông tin

KẾT LUẬN

Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 với rất nhiều điểm

mới quan trọng theo hướng có lợi cho NLĐ. Luật quy định chi tiết hơn một số

chính sách về BHXHHT bắt buộc so với Luật BHXH năm 2006 và bổ sung

thêm nhiều chính sách mới. Pháp luật BHXH điều chỉnh về BHXHHT bắt buộc

đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng trong việc hình thành và phát triển chế độ

BHXH này.

Nhìn chung, trong những năm gần đây một số biện pháp tổ chức thực

hiện pháp luật mà cơ quan BHXH đã áp dụng mang lại sự đổi mới nhất định

trong việc thực hiện chính sách về BHXHHT bắt buộc, nhằm góp phần từng

bước ổn định tình hình ASXH, đáp ứng được quyền lợi của người dân.

Tuy nhiên, cùng với những kết quả đạt được BHXHHT bắt buộc trong

nền kinh tế thị trường đang đứng trước những thách thức cần phải được quan

tâm, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp nhằm chủ động đối phó với

những thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội đất nước trong tiến trình hội

nhập, già hóa dân số. Do vậy, những khuyến nghị sửa đổi, hoàn thiện pháp

luật BHXHHT bắt buộc được đề ra như: thực hiện điều chỉnh tăng tuổi nghỉ

hưu theo lộ trình; xây dựng quy định để hạn chế số lượng NLĐ muốn nhận

chế độ hưu trí sớm; xây dựng quy định các khung bậc với những điều kiện

tham gia BHXH cụ thể để hưởng BHXHHT bắt buộc theo hướng linh hoạt

mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và hoàn thiện quy định về xử lý

vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH.

Bên cạnh đó, đề tài cũng đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao

việc thực thi chế độ này trong thực tiễn như chú trọng đến việc tuyên truyền

pháp luật, nâng cao nghiệp vụ cán bộ, tăng cường công tác kiểm tra giám sát

cho các đối tượng; thực hiện rà soát, sửa đổi và ban hành mới chính sách về

88

BHXHHT bắt buộc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 19/5/2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, Hà Nội.

2.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Công văn số 3841/BHXH-CSXH ngày 30/8/2017 về việc cung cấp số liệu, Hà Nội.

3.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo số 15/BC-BHXH ngày 03/4/2018 về tình hình thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội năm 2017, Hà Nội.

4.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo số 75-BC/BCS ngày 25/6/2018 về kết quả 05 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, Hà Nội.

5.

Bộ lao động - thương binh và xã hội (2015), Thông tư số 47/2015/TT- BLĐTBXH ngày 16/11/ 2015 hướng dẫn thực hiện một số điều về hợp đồng, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của bộ luật lao động, Hà Nội.

6.

Nguyễn Văn Chiều (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

7.

8.

Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 quy định chi tiết một số điều của luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, Hà Nội.

9.

Chính phủ (2016), Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà Nội.

89

Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/08/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.

10. Chính phủ (2017), Báo cáo số 150/BC-CP ngày 21/4/2017 về tình hình

thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, quản lý và sử dụng quỹ

năm 2016, Hà Nội.

11. Chính phủ (2018), Báo cáo số 166/BC-CP ngày 10/5/2018 về tình hình

thực hiện chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, quản lý và sử dụng quỹ

năm 2017, Hà Nội.

12. Chính phủ (2018), Nghị định số 143/2018/NĐ-CP ngày 15/10/2018 về

việc hướng dẫn thi hành Luật BHXH đối với người nước ngoài làm việc

tại Việt Nam, Hà Nội.

của luật bảo hiểm xã hội 2006, Hà Nội.

13. Nguyễn Thị Hiên (2006), Những điểm mới về chế độ bảo hiểm hưu trí

14. Hội đồng Chính Phủ (1960), Nghị quyết không số ngày 27/04/1960 về

việc cải tiến chế độ lương và tăng lương năm 1960, Hà Nội.

15. Nguyễn Thanh Huyền (2019), “Chế độ bảo hiểm hưu trí và một số vấn

đề pháp lý đặt ra”, Tạp chí Lao động – Xã hội, tháng 7.

16. Quốc hội (2006), Luật Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.

17. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.

18. Quốc hội (2018), Báo cáo số 1284/BC-UBVĐXH14 ngày 14/5/2018

báo cáo thẩm tra báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện chính

sách, chế độ bảo hiểm xã hội, quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm xã hội

19. Lê Thị Hoài Thu (2014), Quyền an sinh xã hội và đảm bảo thực hiện

trong pháo luật Việt Nam, Nxb đại học Quốc gia Hà Nội.

20. Lê Thị Hoài Thu (2019), Giáo trình Pháp Luật an sinh xã hội, Nxb đại

học Quốc gia Hà Nội.

21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật an sinh xã hội,

năm 2017, Hà Nội.

90

Nxb công an nhân dân.

* Tài liệu Website tiếng Việt

22. Trần Đình Liệu, "Điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là cần thiết",

https://baotintuc.vn/van-de-quan-tam/dieu-chinh-tuoi-nghi-huu-la-can- thiet-20161027145709157.htm.

23. Lương hưu Việt Nam với Pháp, Mỹ, Nhật, http://tapchimattran.vn/the-

gioi/he-thong-an-sinh-xa-hoi-o-mot-so-quoc-gia-chau-a-va-viet-nam- 12028.html.

24. Tạ Nguyệt, “Khởi kiện nợ đọng bảo hiểm xã hội còn nhiều khó khăn”,

25. Nhật Bản trước thách thức thiếu hụt lao động,

http://m.danviet.vn/tin-tuc/khoi-kien-no-dong-bao-hiem-xa-hoi-con- nhieu-kho-khan-842608.html.

https://www.qdnd.vn/thoi-su-quoc-te/doi-song-quoc-te/nhat-ban-truoc- thach-thuc-thieu-hut-lao-dong-513972

26. Tăng lương hưu cho lao động nữ từ 01/01/2018,

http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/xa-hoi/2018-08-08/lao-dong- nu-nghi-huu-tu-1-1-2018-co-the-duoc-tang-luong-huu-toi-1231- 60750.aspx.

27. Tăng tuổi nghỉ hưu ở Đức, https://tuoitre.vn/duc-tranh-cai-xung-

quanh-de-xuat-nang-tuoi-nghi-huu-len-6769-1159603.html.

29. Lan Vũ, “xử lý các hành vi vi phạm lĩnh vực bảo hiểm”,

https://www.nhandan.com.vn/xahoi/item/38819802-can-som-co-van- ban-huong-dan-xu-ly-cac-hanh-vi-vi-pham-linh-vuc-bao-hiem.html.

28. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, https://hoanhap.vn/bai- viet/vi-pham-phap-luat-trong-linh-vuc-bhxh-ngay-cang-phuc-tap--tinh- vi-va-nguy-hiem-cho-xa-hoi-28468.

II. Tài liệu tiếng Anh

30. Cheng Siwei, Yu Hairong and Han Wei (2018), In Depth: China’s

91

Social Security Balancing Act, Aug 27.

31. ILO (1955), “C102 - Social Security (Minimum Standards) Convention”, Apr.

32. ILO (1969), “C128 - Invalidity, Old-Age and Survivors' Benefits Convention” Nov.

33. National People's Congress (2011), Social Insurance Law of the

People's Republic of China, July 1.

* Tài liệu Website tiếng Anh

34. Company profile, https://www.deutsche-

rentenversicherung.de/DRV/EN/Deutsche_Rentenversicherung/unterne hmensprofil.html.

35. German social security and claiming your benefits,

https://www.expatica.com/de/about/gov-law-admin/german-social- security-and-claiming-your-benefits-100923/

36. National Pension Act, April 16, 1959, Act No. 141” http://roppou.aichi-u.ac.jp/joubun/s34-141.htm

37. Refund of Retirement Contributions,

https://www.gtai.de/GTAI/Navigation/EN/Invest/Investment-guide/Employees- and-social-security/the-german-social-security-system.html.

38. Social Security in Germany”, https://www.internations.org/germany- expats/guide/29458-social-security-taxation/social-security-in- germany-15970.

39. Types of Public Pension and System to Join,

40. The German Social Security System,

https://www.howtogermany.com/pages/german-retirement.html.

41. The Public Retirement System - additional details”,

https://www.nenkin.go.jp/service/seidozenpan/shurui- seido/20140710.html

https://www.howtogermany.com/pages/retirement-refund.html.

92