BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ THÙY

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG CHO

NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI

ĐẤT TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BÌNH PHƢỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

…………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN THỊ THÙY

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG CHO

NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI

ĐẤT TỪ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BÌNH PHƢỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

MÃ SỐ: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. HUỲNH VĂN THỚI

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu trong

luận văn do tôi thu thập là xác thực và rõ ràng và luận văn này chưa công bố trong

bất kì công trình nghiên cứu nào.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trước Học viện và pháp

luật.

TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2019

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Thùy

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG CHO NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC

THU HỒI ĐẤT…………………………………………………………………….8

1.1. Tổng quan về bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất….....………………….8

1.1.1 Khái niệm thu hồi đất……………………………………………...………...8

1.1.2. Tác động của người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất………...……9

1.1.3. Chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất……………………...…..10

1.2. Khái quát thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất khi

Nhà nƣớc thu hồi đất………………………………………............……………..16

1.2.1.Khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà

nước thu hồi đất……………………………………………………………….….16

1.2.2.Đặc điểm của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………………..17

1.2.3.Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………………..19

1.2.4.Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất………………………………………………………...…...21

1.2.5.Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất…………………………………………….....23

1.3.Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất khi Nhà

nƣớc thu hồi đất…………………………………............……………………......25

1.3.1.Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất khi Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………..25

1.3.2.Tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà

nước thu hồi đất……………………………………………………………..……28

1.3.3.Xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

về thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi

đất………………………………………………………...………………………30

1.3.4. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật bồi thường cho người

sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất…………………………………………....32

1.3.5. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo và xử lý vi phạm trong thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất………34

Tiểu kết chƣơng 1 ………………………………………………………...……..37

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG

CHO NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH

BÌNH PHƢỚC……………………………………………………………….........38

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phƣớc tác động đến thực

hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất khi Nhà nƣớc thu hồi

đất………………………………………………………………………………….38

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên……………………………………………….......…….38

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội …………………………………………...........39

2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất khi

Nhà nƣớc thu hồi đất………………………………………………………..........41

2.2.1. Về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất………………………………………..……...41

2.2.2. Về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất……………………………………………………...……...44

2.2.3. Về xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất………………………...

2.2.4. Về giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật khi Nhà nước thu

hồi đất...…………………………………………………………………………..50

2.2.5. Về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo trong thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất……………………...…54

2.3. Đánh giá chung thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất

khi Nhà nƣớc thu hồi đất tại tỉnh Bình Phƣớc…………………….........………56

2.3.1. Những kết quả đạt được………………………………………………...…56

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân……………………………………………...…...58

Tiểu kết chƣơng 2 ………………………………………………………...…........66

CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG CHO NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ

NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH BÌNH PHƢỚC……………………...…….67

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất

khi Nhà nƣớc thu hồi đất tại tỉnh Bình Phƣớc………………....……………….67

3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng

đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất tại tỉnh Bình Phƣớc…………………..….............72

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật…………………………...……72

3.2.2. Hoàn thiện công tác chỉ đạo tổ chức và phát triển nhân lực để đảm bảo thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu

hồi………………………………………………………………………………...80

3.2.3. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại,

khiếu kiện và xử lý vi phạm……………………………...………………………81

3.2.4. Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thực thi pháp luật về

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất……………………...…83

3.2.5. Coi trọng công tác tiếp công dân, vận động tuyên truyền phổ biến pháp luật

cho người dân………………………………………………………………….....84

Tiểu kết chƣơng 3 …………………………………………………………...........86

KẾT LUẬN……………..……………………………………………………...….87

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………......90

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thu hồi đất là một trong những cơ chế chuyển dịch quyền sử dụng đất theo

pháp luật đất đai hiện hành. Cơ chế này áp dụng khi rơi vào một trong các trường

hợp quy định tại Điều 61, 62, 63, 64 của Luật Đất đai năm 2013. Trong đó, thu hồi

đất để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công

cộng và vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội là chủ yếu. Trong các mục đích thu

hồi đất trên thì việc thu hồi đất để phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội

đang diễn ra mạnh mẽ ở hầu hết các địa phương trong cả nước để phục vụ cho mục

tiêu đưa đất nước ta trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để thực hiện

mục tiêu chung đó cũng như thực hiện mục tiêu theo Quyết định số 196/2006/QĐ-

TTg về Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước

thời kì 2006 – 2020 đã đề ra “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, cơ cấu lao động, phát triển đô thị theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại

hoá. Xây dựng Bình Phước trở thành tỉnh có kinh tế phát triển toàn diện, xã hội văn

minh, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh, quốc phòng được giữ vững; phấn

đấu trở thành tỉnh phát triển mạnh trong khu vực và cả nước”. Để đạt được mục

đích đó thì thời gian qua trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã tiến hành các dự án phát

triển kinh tế - xã hội có tính chiến lược quan trọng và nhu cầu sử dụng đất là không

tránh khỏi. Nhưng hiện nay quỹ đất trống trên địa bàn tỉnh Bình Phước không đủ để

thực hiện cho các mục đích trên và việc thu hồi một phần diện tích đất để tiến hành

các dự án trên là bắt buộc. Song song với việc thực hiện cơ chế thu hồi đất bắt buộc

thì việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất bị thu hồi là hệ lụy mà

Nhà nước cần giải quyết. Trong thời gian qua ở tỉnh Bình Phước đã có những quan

tâm đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm giải quyết bồi thường thỏa đáng,

ổn định đời sống và tạo điều kiện về việc làm cho người sử dụng đất bị thu hồi trên

cơ sở các quy định của pháp luật ở cấp trung ương và các quy định do Ủy ban nhân

dân tỉnh Bình Phước ban hành. Mặc dù vậy, những quy định này khi áp dụng vào

1

thực tế còn nhiều bất cập, hạn chế đặc biệt liên quan đến việc chính sách bồi thường

cho người sử dụng đất bị thu hồi hiện nay vẫn còn một số bất cập nhất định cũng

như thực tiễn áp dụng pháp luật. Hệ quả là tiến độ giải phóng mặt bằng để thực hiện

các dự án bị chậm lại và ảnh hưởng đến các chủ đầu tư còn về phía người sử dụng

đất bị thu hồi không chịu bàn giao đất và đặc biệt là phát sinh khiếu nại, khiếu kiện

liên quan đến thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Xuất phát từ vấn đề lợi ích

giữa các bên trong thu hồi đất mà đặc biệt quyền của người sử dụng đất bị thu hồi

được pháp luật quy định như thế nào bởi đây là chủ thể bị động trong thu hồi đất và

mất đi tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai. Chính vì thế, việc nghiên cứu vấn đề thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ở tỉnh

Bình Phước nói riêng là vấn đề cấp thiết hiện nay một mặt vừa thúc đẩy quá trình

giải phóng mặt bằng diễn ra nhanh chóng vừa giúp cho người sử dụng đất bị thu hồi

sớm có cuộc sống ổn định sau khi thu hồi đất. Bên cạnh đó, việc giải quyết thỏa

đáng các quyền cho người sử dụng đất bị thu hồi còn tạo niềm tin của nhân dân vào

chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xuất phát từ thực trạng

đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng

đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất từ thực tiễn tại tỉnh Bình Phƣớc” làm đề tài luận

văn tốt nghiệp thông qua đề tài vừa nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và pháp

lý cũng như trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng về thực hiện pháp luật bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước, để đề

xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện về quyền được bồi thường của người sử

dụng đất nói chung và một số giải pháp gợi mở cho chính quyền tỉnh Bình Phước.

2. Tình hình nghiên cứu

Những công trình nghiên cứu liên quan đến quyền được bồi thường của người

sử dụng đất bị thu hồi hiện nay khá nhiều đề tài nghiên cứu, cụ thể một số công

trình nghiên cứu sau:

Luận văn Thạc sĩ Quyền của người sử dụng đất bị thu hồi ở tỉnh Trà Vinh,

Lương Hoàng Sang - Học viện Hành chính Quốc Gia

2

Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực

tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Lê Thị Yến - Đại học

Quốc gia Hà Nội

Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

qua thực tiễn áp dụng tại Trà Vinh, Lâm Văn Tốt - Đại học Trà Vinh

Luận văn Thạc sĩ Quản lý bồi thường, hỗ trợ và tái định cư với đối tượng bị

thu hồi đất trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Đặng Thị Phương Thủy

- Đại học Thương Mại Hà Nội

Luận văn Thạc sĩ Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án thuộc huyện Thanh Trì, thành

phố Hà Nội, Tạ Thị Hà - Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội

Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực

tiễn thành phố Hà Nội, Bùi Quang Hậu - Học viện khoa học Xã hội

Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất từ thực tiễn thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, Nguyễn Thị Châu - Học viện

khoa học Xã hội

Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quãng Ngãi, Nguyễn Công Huy - Trường Đại học

Nông nghiệp Hà Nội

Luận văn Thạc sĩ Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Bùi Thanh Song - Trường đại

học Kinh tế Quốc dân

Luận văn Thạc sĩ Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện công tác bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư trên địa

bàn thành phố Nam Định – tỉnh Nam Định, Ngô Thanh Hà - Đại học Quốc gia Hà

Nội

Luận văn Thạc sĩ Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, Cao Đại Nghĩa - Đại

học Quốc gia Hà Nội

3

Trong các đề tài trên thì đề tài mà tác giả chọn gần nhất với Luận văn của tác

giả Ngô Thanh Hà. Tuy nhiên, Luận văn Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện

công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng đối với các dự án

đầu tư trên địa bàn thành phố Nam Định – tỉnh Nam Định nghiên cứu chung hết tất

cả về thực trạng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại

trên địa bàn thành phố Nam Định – tỉnh Nam Định. Đề tài luận văn mà tác giả có

những điểm khác nhất định đối với đề tài trên, cụ thể đề tài của tác giả không

nghiên cứu hết tất cả vấn đề thực trạng pháp luật về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư mà đề tài của tác chỉ chỉ tập trung nghiên cứu sâu về thực hiện pháp luật

trong vấn đề bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất và phạm vi

nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Bình Phước.

Đối với đề tài luận văn của tác giả Đặng Thị Phương Thủy, Tạ Thị Hà nghiên

cứu chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng hướng tiếp cận của hai đề tài đó

trên phương diện quản lý công, trong quản lý đất đai không nghiên cứu trên phương

diện Luật học.

Đối với luận văn của tác giả Lâm Văn Tốt, Lương Hoàng Sang, Bùi Quang

Hậu, Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Công Huy, Bùi Thanh Song, Ngô Thanh Hà, Cao

Đại Nghĩa nghiên cứu về các quy định chung của pháp luật về cả bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư ở góc độ Luật kinh tế và về phạm vi nghiên cứu cụ thể các địa phương

nhất định chưa tập trung nghiên cứu sâu về quyền được bồi thường của người sử

dụng đất đất bị thu. Do đó, đề tài của tác giả trước hết về phạm vi nghiên cứu không

trùng với đề tài của các tác giả trên cũng như hướng tiếp cận trong đề tài của tác giả

là quyền được bồi thường của người sử dụng đất theo hướng tiếp cận của Luật Hiến

pháp và Luật Hành chính.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Mục tiêu:

- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp lý về bồi thường cho người

sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

4

- Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước tác giả đề xuất một số giải pháp

nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà

nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

Nhiệm vụ:

+Phân tích các quy định pháp luật liên quan về thu hồi đất và bồi thường cho

người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

+ Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu:

+ Các quy định của pháp luật có liên quan về thu hồi đất, thực hiện pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

+ Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người

sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất và cơ sở khoa học đề xuất giải pháp hoàn

thiện.

+ Thực tiễn thực hiện thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

Phạm vi nghiên cứu:

+ Không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bình Phước.

+ Thời gian: Từ năm 2014 đến nay

+ Đối tượng: Đề tài dừng lại ở việc nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nhằm mục đích quốc

phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội quy định tại Điều 61, 62 Luật Đất đai

2013.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác- Lênin (phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử), tư

5

tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng. Bện cạnh đó, để hoàn thành đề tài

nghiên cứu người viết còn sử dụng các phương pháp:

+ Phương pháp phân tích: Đây là phương pháp mà tác giả sử dụng xuyên

suốt trong đề tài để phân tích làm rõ cơ sở lý luận, các quy định pháp luật cũng như

phân tích để đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

+ Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp so sánh để so sánh các

quy định pháp luật hiện hành với các quy định pháp luật trước đây về thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, cũng như

so sánh với một số địa phương khác.

+ Phương pháp thống kê: Với phương pháp này tác giả sử dụng để thống kê

các số liệu sử dụng trong đề tài để làm căn cứ phân tích và đánh giá thực tiễn thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại

tỉnh Bình Phước trong Chương 2.

6. Ý nghĩa và đóng góp của đề tài

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện về thực hiện pháp luật về

bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ở góc độ pháp lý nói

chung một số giải pháp cụ thể áp dụng cho tỉnh Bình Phước. Bên cạnh đó, với hệ

thống cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật bồi thường cho người sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất trong đề tài ứng dụng trong việc giảng dạy, nguồn tài liệu

tham khảo cho các đề tài có liên quan sau này.

7. Kết cấu của đề tài

Bên cạnh phần mục lục, mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì nội dung

luận văn được kết cấu thành ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của thực hiện pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

6

Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Bình Phước.

7

CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ

CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG CHO

NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Tổng quan về bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất

1.1.1 Khái niệm thu hồi đất

Thuật ngữ thu hồi đất được sử dụng từ khi Việt Nam xác lập chế độ sở hữu

toàn dân đối với đất đai và cụ thể được sử dụng trong Luật Đất đai 1987 đến giai

đoạn hiện nay trước đó thì trong Luật cải cách ruộng đất 1953 chưa xuất hiện thuật

ngữ thu hồi đất mà chỉ dừng lại ở các thuật ngữ tịch thu, trung thu, trưng mua. Mặc

dù thuật ngữ thu hồi đất được quy định trong các văn bản Luật Đất đai 1987, 1993,

2003, 2013 nhưng khái niệm thu hồi đất lần đầu tiền được quy định trong Luật Đất

đai 2003 (Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai 2003). Khái niệm thu hồi đất được tiếp tục

khẳng định lại ở Luật Đất đai 2013, nhưng có phần khác so với Luật Đất đai 2003,

cụ thể tại Khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định “Nhà nước thu hồi đất là

việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao

quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất

đai”. Với quy định về thu hồi đất trong Luật Đất đai 2013 thì đối tượng trong thu

hồi đất ở đây bao gồm quyền sử dụng đất và đất. Trong đó, Nhà nước thu hồi lại

quyền sử dụng đất trong trường hợp chủ thể này đang sử dụng đất hợp pháp và khi

rơi vào các trường hợp luật định Nhà nước sẽ ra quyết định thu hồi lại đất. Còn đối

với đối tượng thu hồi là đất ở đây là trong trường hợp chủ thể này không có quyền

sử dụng đất mà do sử dụng đất do vi phạm pháp luật. Từ cơ sở lý luận trên thì vấn

đề đặt ra khi nhà nước thu hồi lại “đất” thì nếu chiếu theo khái niệm được quy định

trong Luật Đất đai 2013 hiện hành thì chỉ dừng lại ở việc thu hồi lại đất do người sử

dụng vi phạm pháp luật đất đai còn đối với các trường hợp đất mà nhà nước đã giao

những chủ thể khác quản lý theo quy định của pháp luật thì có thuộc phạm vi thu

hồi theo khái niệm không. Mặc dù trong khái niệm thu hồi đất theo Luật Đất đai

8

2013 chỉ dừng ở thu hồi lại “đất” do người sử dụng vi phạm pháp luật đất đai

nhưng theo quy định của pháp luật hiện nay vẫn có những trường hợp nhà nước thu

hồi lại đất đã giao cho chủ thể khác quản lý, cụ thể tại Điểm b Khoản 1 điều 66 Luật

Đất đai 2013 có quy định về thẩm quyền thu hồi đất trong đó quy định Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh có thẩm quyền thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã

phường thị trấn, hay trong trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai

2013 có quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất

đối với đất được Nhà nước giao để quản lý. Như vậy, có thể thấy những loại đất mà

Nhà nước đã giao để quản lý trong trường hợp này là hợp pháp không phải do vi

phạm pháp luật. Do đó, khái niệm thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai 2013

hiện hành là chưa đầy đủ và từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm thu hồi

đất như sau:

“ Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định thu hồi lại quyền sử dụng đất

của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất được nhà nước

giao để quản lý, của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai”.

1.1.2. Tác động của người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất

Quyền sử dụng đất là một trong những loại tài sản quan trọng của người sử

dụng đất. Pháp luật đất đai cho phép người sử dụng đất được quyền định đoạt đối

với quyển sử dụng đất của mình. Nếu việc chuyển quyền sử dụng đất hoàn toàn dựa

trên ý chí tự nguyện của người sử dụng đất làm chấm dứt đi quyền sử dụng đất của

chính mình thì việc nhà nước thu hồi đất cũng là cơ chế chấm dứt quyền của người

sử dụng đất nhưng không phụ thuộc vào ý chí của người sử dụng đất. Do đó, với

việc chấm dứt đi quyền sử dụng đất không phụ thuộc vào ý chí của chính mình thì

tâm lý của người sử dụng đất thường xuất phát theo hướng tích cực (đồng ý với việc

thu hồi đất) hoặc tiêu cực (không đồng ý với việc thu hồi đất), cụ thể:

Thứ nhất, hướng tích cực người sử dụng đất đồng ý với việc thu hồi đất, theo

hướng này thì người sử dụng đất nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của việc thu hồi

đất. Bên cạnh đó, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của nhà nước đảm bảo

cho những thiệt hại của người sử dụng đất bị thu hồi. Một hướng đồng tình với việc

9

thu hồi đất nữa là người sử dụng đất được hưởng lợi từ chính việc nhà nước thu hồi

đất nên họ sẵn sàng chấp nhận việc thu hồi đất mặc dù chính sách bồi thường họ

cảm thấy chưa thỏa đáng. Như vậy, người sử dụng đất đồng tình với việc thu hồi đất

theo hướng này do họ hài lòng với chính sách bồi thường của nhà nước hoặc vì

được hưởng lợi từ việc nhà nước thu đất.

Thứ hai, hướng tiêu cực người sử dụng đất không đồng ý với việc thu hồi đất.

Tác động từ người sử dụng đất theo hướng này xuất phát từ việc chưa nhận thức

được tầm quan trọng của việc nhà nước thu hồi đất. Người sử dụng đất không muốn

cuộc sống hiện tại bị thay đổi hoặc kế sinh nhai bị ảnh hưởng sau khi nhà nước thu

hồi đất hoặc không đồng ý với chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dẫn đến

việc người sử dụng đất không chịu nhận bồi thường thường và không chịu bàn giao

đất cho nhà nước ảnh hướng đến tiến độ thu hồi đất.

1.1.3. Chính sách bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Trải qua từng thời kì mà quyền của người sử dụng đất bị thu hồi ngày càng

được quan tâm nhưng trước khi Hiến pháp 2013 ra đời thì chính sách bồi thường

cho người sử dụng đất bị thu hồi đã được ghi nhận nhưng chỉ dừng lại trong văn bản

luật và các văn bản dưới luật mà chưa được ghi nhận trong Hiến pháp trong khi đó

việc thu hồi đất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền của những người sử dụng đất bị thu

hồi. Xuất phát từ tầm quan trọng đó cũng như nước ta đang ra sức xây dựng một

Nhà nước Pháp quyền thì vấn đề quyền con người càng được quan tâm. Chính vì

thế, lần đầu tiên chính sách bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi được ghi

nhận trong Hiến pháp (Điều 54 Hiến pháp 2013) điều này thể hiện được sự quan

tâm của nhà nước về bồi thường cho người sử dụng đất được đề cao cũng như sự

quan tâm của Nhà nước trong việc tạo cơ sở để xây dựng các chính sách bồi thường

cụ thể của người sử dụng đất bị thu hồi trong các văn bản quy phạm pháp luật khác.

Theo quy định pháp luật hiện hành thì chính sách bồi thường cho người sử dụng đất

bị thu hồi bên cạnh được ghi nhận trong Hiến pháp 2013 còn được cụ thể hóa trong

Luật Đất đai 2013 và các văn bản dưới luật như: Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

10

2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định 84/2013/NĐ-CP

ngày 25/7/2013 của Chính phủ quy định về phát triển và quản lý Nhà ở tái định cư;

Thông tư số 07/2014/TT-BXD ngày 20/5/2014 của Bộ Xây dựng hướng dẫn một số

nội dung của Nghị định số 84/2013/NĐ-CP ngày 25/7/2013 của Chính phủ quy định

về phát triển và quản lý nhà ở tái định cư; Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày

30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Nghị định 01/2017/NĐ-CP về sửa đổi, bổ

sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai. Bên cạnh các văn bản

quy phạm pháp luật ở cấp Trung ương thì quyền của người sử dụng đất còn được

quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương ban hành.

Người sử dụng đất bị thu hồi hiện nay theo quy định pháp luật đất đai hiện

hành được hưởng chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định, cụ thể:

Thứ nhất, được bồi thường về đất

Khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất được nhà nước bồi thường

theo quy định của pháp luật trong đó đảm bảo được những nguyên tắc:

+ Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi

thường quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai 2013 thì được bồi thường;

Theo quy định pháp luật hiện hành người sử dụng đất bị thu hồi sẽ được bồi

thường về đất nếu đủ điều kiện được bồi thường quy định trong đó phải thỏa mãn

điều kiện cơ bản sau:

Người có đất bị thu hồi phải là người sử dụng đất hợp pháp, tùy thuộc vào

từng giai đoạn khác nhau mà việc xác định người sử dụng đất hợp pháp theo Luật

đất đai ở từng giai đoạn và trong đó người sử dụng đất hợp pháp phải là người được

phép sử dụng đất dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật đất

đai. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành thì một số trường hợp

ngoại lệ thu hồi đất mà người đang sử dụng đất trên thực tế họ không có số giấy tờ

hoặc không đủ điều kiện để cấp thì vẫn được Nhà nước bồi thường về đất, ví dụ: tại

Khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai quy định bồi thường đối với đất nông nghiệp đã sử

11

dụng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà người sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân

trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ

điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và

tài sản khác gắn liền với đất.

Bên cạnh điều kiện người sử dụng đất có giấy tờ chứng minh là người sử dụng

đất hợp pháp thì điều kiện nữa là đất mà họ đang sử dụng phải không rơi vào một

trong các trường sau: Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất; thuê

dưới hình thức trả tiền hằng năm; được miễn tiền sử dụng đất; tiền sử dụng đất có

nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Trong đó, cũng ngoại lệ một số trường hợp vẫn

được Nhà nước bồi thường về đất, ví dụ: Đối với trường hợp giao đất không thu tiền

theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 Luật đất đai đối với hộ gia đình, cá nhân trực

tiếp sản xuất nông nghiệp được giao đất nông nghiệp trong hạn mức tại Điều 129

của Luật Đất đai năm 2013

Thứ hai, được bồi thường về tài sản

Theo quy định pháp luật đất đai hiện hành thì khi Nhà nước thu hồi đất mà tài

sản bị thiệt hại sẽ được bồi thường, trong đó bao gồm những loại tài sản: nhà ở,

công trình xây dựng, cây trồng, vật nuôi, … Theo quy định tại Khoản 1 Điều 88

Luật Đất đai 2013 khi bồi thường về tài sản phải đảm bảo nguyên tắc “Khi Nhà

nước thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài

sản thì được bồi thường”. Trong thu hồi đất do tài sản là đối tượng chịu ảnh hưởng

bởi việc thu hồi đất do đó tài sản hợp pháp ở đây được bồi thường phụ thuộc vào

tính chất pháp lý của đất bị thu hồi. Khi nhà nước thu hồi đất có những trường hợp:

được bồi thường về cả đất và tài sản; không được bồi thường về đất nhưng được bồi

thường về tài sản; không được bồi thường về đất cũng không được bồi thường về tài

sản. Do vậy, khi bồi thường đối với tài sản hợp pháp gắn liền với đất phải không rơi

vào những trường hợp không được bồi thường về tài sản khi Nhà nước thu hồi đất

theo quy định tại Điều 92 Luật Đất đai 2013. Bên cạnh nguyên tắc chung thì còn tùy

thuộc từng loại tài sản mà nguyên tắc bồi thường sẽ khác nhau, cụ thể:

12

Thứ nhất, đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt, công trình xây dựng

khác mà phần còn lại không bị thiệt hại không đủ để ở, sử dụng theo tiêu chuẩn do

pháp luật quy định sẽ được bồi thường toàn bộ nhà ở, công trình xây dựng. Trường

hợp, phần còn lại đủ để ở hoặc sử dụng thì Nhà nước bồi thường đối với phần thiệt

hại thực tế (Điều 89 Luật Đất đai 2013).

Thứ hai, đối với cây trồng, vật nuôi tại thời điểm thu hồi đã đến thời kì thu

hoạch thì không được bồi thường, nếu việc thu hoạch tại thời điểm thu hồi đất sớm

hơn thì được bồi thường thiệt hại thực tế do thu hoạch sớm (Điều 90 Luật Đất đai

2013).

Thứ ba, đối với những cây trồng, vật nuôi có thể di chuyển được thì không

được bồi thường mà chỉ được bồi thường đối với những thiệt hại thực tế xảy ra

trong quá trình di chuyển tài sản (Điều 90 Luật Đất đai 2013).

Bên cạnh quyền được bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất thì Người sử

dụng đất còn được Nhà nước bồi thường những khoản thiệt hại khác như: chi phí

đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất bị thu hồi

không được bồi thường về đất nhưng trong quá trình sử dụng đất họ đã đầu tư vào

đất để sử dụng nhưng tại thời điểm thu hồi đất còn chưa thu hồi hết nếu có đầy đủ

các minh chứng chứng minh đã đầu tư vào đất (quy định tại Điều 76 Luật Đất đai

2013, Điều 3 Nghị định 47/2014/NĐ-CP); các khoản thiệt hại do việc ngưng hoạt

động sản xuất do việc thu hồi đất (khoản 2 Điều 88 Luật Đất đai 2013); Các khoản

chi phí di chuyển khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 91 Luật Đất đai 2013)…..

Thứ ba, được hỗ trợ, tái định cư

Xét về bản chất của hỗ trợ, tái định cư nhằm giúp cho người sử dụng đất ổn

định cuộc sống sau khi thu hồi đất. Tùy vào từng trường hợp thu hồi đất cụ thể mà

người sử dụng đất bị thu hồi có thể nhận được những khoản hỗ trợ khác nhau hay

được bố trí tái định cư.

Theo quy định Luật Đất đai hiện hành thì người sử dụng đất bị thu hồi được

nhận các khoản hỗ trợ bao gồm hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ tái định cư, cụ thể:

13

+ Hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất. Đây là khoản hỗ trợ cho người sử dụng

đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở bị thu hồi nếu thảo mãn

các điều kiện được nhận các khoản hỗ trợ theo quy định của pháp luật, trong đó:

 Hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất khi thu hồi đất nông nghiệp: đây là khoản

hỗ trợ dành cho các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 19 Nghị định

47/2014/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung bởi Khoản 5 Điều 4 Nghị định 01/2017/NĐ-

CP) và phải thỏa mãn các điều kiện để nhận hỗ trợ theo quy định tại Khoản 2 Điều

19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi (Khoản 5 Điều 4 Nghị

định 01/2017/NĐ-CP). Khi thỏa mãn các điều kiện theo quy định trên thì người sử

dụng đất sẽ được nhận khoản hỗ trợ này và có thể nhận hỗ trợ bằng tiền (áp dụng

khi Nhà nước bồi thường bằng tiền đối với quyền sử dụng đất bị thu hồi) được tính

bằng tiền tương đương 30kg gạo trong một tháng theo thời giá trung bình tại thời

điểm hỗ trợ của địa phương và tùy thuộc vào diện tích thu hồi mà thời gian hỗ trợ

có thể kéo dài từ 12 đến 36 tháng tùy vào từng trường hợp cụ thể (Khoản 3 Điều 19

Nghị định 47/2014/NĐ-CP). Ngược lại nếu người sử dụng đất bị thu hồi được bồi

thường đất bằng đất có cùng mục đích sử dụng thì được nhận khoản hỗ trợ ổn định

đời sống sản xuất bằng “cây trồng, giống vật nuôi cho sản xuất nông nghiệp, các

dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt,

chăn nuôi” (Khoản 4 Điều 19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP).

 Hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất khi thu hồi đất phi nông nghiệp không phải

là đất ở. Khoản hỗ trợ này dành cho người sử dụng đất bị thu hồi mà bị ngừng sản

xuất, kinh doanh khi Nhà nước thu hồi đất thì được hỗ trợ ổn định sản xuất. Nếu

nhận bồi thường đất bằng tiền thì người sử dụng đất bị thu hồi có thể nhận khoản hỗ

trợ này bằng “tiền với mức cao nhất bằng 30% một năm thu nhập sau thuế, theo

mức thu nhập bình quân của 03 năm liền kề trước đó[…]báo cáo kết quả hoạt động

sản xuất kinh doanh cuối mỗi năm đã gửi cơ quan thuế” (Điểm b Khoản 4 Điều 19

Nghị định 47/2014/NĐ-CP). Trường hợp nhận bồi thường bằng đất có cùng mục

đích sử dụng thì người có đất bị thu hồi được nhận khoản hỗ trợ ổn định đời sống

14

sản xuất bằng “kỹ thuật nghiệp vụ đối với sản xuất, kinh doanh dịch vụ công thương

nghiệp” (Điểm a Khoản 2 Điều 19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP).

+ Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Hỗ trợ này đối với

trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông

nghiệp; thu hồi đất ở kết hợp kinh doanh dịch vụ của hộ gia đình, cá nhân mà phải

di chuyển chỗ ở

+ Hỗ trợ tái định cư. Khoản hỗ trợ tái định cư là khoản hỗ trợ cho người sử

dụng đất bị thu hồi mà phải di chuyển chổ ở, cụ thể đối với trường hợp khi Nhà

nước thu hồi đất ở mà người sử dụng bị thu hồi không còn đất ở, nhà ở nào khác

trong phạm vi xã, phường, thị trấn nếu thỏa mãn điều kiện khi Nhà nước thu hồi đất

mà số tiền bồi thường về đất nhỏ hơn suất tái định cư tối thiểu nếu nhận bồi thường

bằng đất ở, nhà ở tái định cư hoặc khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất

bị thu hồi tự lo chỗ ở mới. Theo quy định pháp luật thì người sử dụng đất được nhận

hỗ trợ tái định bằng tiền và tùy thuộc vào hình thức tái định cư mà khoản tiền hỗ trợ

được tính khác nhau

Thứ tư, được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Quyền được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phát sinh khi người sử dụng

đất bị thu hồi phải di chuyển chỗ ở cụ thể là sau khi thu hồi đất ở mà không còn đất

ở, nhà ở nào khác trong phạm vi xã, phường, thị trấn. Hiện nay, theo quy định pháp

luật hiện hành nguời sử dụng đất bị thu hồi được tái định cư dưới các hình thức:

+ Tái định cư tập trung. Hình thức tái định cư tập trung là khi Nhà nước thu

hồi đất mà người sử dụng đất ở bị thu hồi được bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái

định cư và họ được nhà nước bố trí chỗ ở mới tại các khu tái định cư đã được tạo

lập trước. Hình thức tái định cư này giúp cho người sử dụng đất bị thu hồi có điều

kiện về kinh tế có thể tạo lập lại chỗ ở mới sau khi thu hồi, bởi nếu số tiền bồi

thường về đất mà tự lo chỗ ở mới có thể sẽ gặp khó khăn bởi số tiền bồi thường về

đất trong một số trường hợp không đủ để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở

mới với giá trên thị trường. Trong khi đó, nếu người sử dụng đất tái định cư dưới

hình thức tập trung mà số tiền bồi thường về đất có sự chênh lệch theo hướng thấp

15

hơn so với đất ở, nhà ở tại khu tái định cư sẽ được Nhà nước hỗ trợ tái định cư đối

với phần chênh lệch đó.

+ Tái định cư phân tán. Đây là hình thức tái định cư theo yêu cầu của người

sử dụng đất bị thu hồi. Khi Nhà nước thu hồi đất mà người sử dụng đất ở không có

nhu cầu nhận bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái định cư thì Nhà nước sẽ chi trả bồi

thường về đất bằng tiền để họ tự lo chỗ ở mới. Hình thức tái định cư phân tán có sẽ

tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng đất có thể tự do lựa chọn nơi ở mới để có

thể thuận tiện cho các sinh hoạt trong cuộc sống mà không cần di chuyển đến các

khu tái định cư. Bên cạnh đó, việc người sử dụng đất tự lo chỗ ở sẽ giảm nhẹ một

phần gánh nặng cho Nhà nước tập trong việc xây dựng các dự án khu tái định cư.

+ Tái định cư tại chỗ. Đây là hình thức tái định cư trên thửa đất còn lại sau khi

Nhà nước thu hồi. Theo quy định tại Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT về việc quy

định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì điều kiện

để tái định cư dưới hình thức tại chỗ khi thửa đất có nhà ở bị thu hồi còn diện tích

đất nông nghiệp không được công nhận là đất ở và đủ điều kiện để tách thửa theo

quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có đất bị thu hồi thì người có đất bị thu

hồi được phép chuyển mục đích sử dụng phần diện tích đất nông nghiệp thành đất ở

để tái định cư. Hình thức tái định cư này giúp cho người sử dụng đất bị thu hồi sinh

sống tại nơi ở cũ mà không phải chịu ảnh hưởng bởi những thay đổi của cuộc sống

nếu phải di chuyển chỗ ở, ví dụ về thói quen sinh hoạt, phong tục, văn hóa tại địa

phương, kế sinh nhai hằng ngày……..

1.2. Khái quát thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất

khi Nhà nƣớc thu hồi đất

1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi đất

Thực hiện pháp luật là một trong những khâu quan trọng để đưa những quy

định của pháp luật vào trong cuộc sống. Thông qua việc tổ chức thực hiện pháp luật

góp phần quan trọng để đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật bởi trong quá trình

thực hiện pháp luật sẽ thấy được những bất cập hoặc tính khả thi của của quy định

16

pháp luật khi áp dụng trong thực tế để có hướng hoàn thiện pháp luật. Dưới góc độ

lý luận thì “Thực hiện pháp luật là hành vi thực tế, hợp pháp có mục đích của các

chủ thể pháp luật nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi

vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp

luật” [21, tr.396]. Từ khái niệm trên thì hoạt động thực hiện pháp luật được tiến

hành thống qua những hành vi cụ thể (hành động hoặc không hành động) của các

chủ thể pháp luật bao gồm các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền và những cá nhân,

cơ quan tổ chức khác nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật.

Như vậy, có thể thấy thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi đất hoạt động của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, người

sử dụng đất và những chủ thể khác có liên quan thực hiện nhằm mục đích cụ thể

hóa các quy định của pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi vào

trong thực tế.

1.2.2. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất khi Nhà nước thu hồi đất

Thứ nhất, thể hiện nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân

Đất đai ở Việt Nam hiện nay được xác lập dưới chế độ sở hữu toàn dân do

Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước tiến hành thực hiện nội dung quyền sở

hữu toàn dân. Trong đó, Nhà nước thu hồi đất là một trong những nội dung thể hiện

quyền định đoạt đối với đất đai và hệ lụy là vấn đề bồi thường cho người sử dụng

đất được đặt ra. Nhà nước là chủ thể tiến hành đại diện cho chủ sở hữu đối với đất

đai trực tiếp thực hiện việc chi trả bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Do

đó, thông qua hoạt động bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi khi nhà nước

thu hồi đất là một trong những nội dung quan trọng Nhà nước đang cụ thể hóa nội

dung của quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai.

Thứ hai, là hoạt động gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước

Theo quy định tại Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 thì “Đất đai thuộc sở hữu

toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao

quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Nhà nước là

17

chủ thể thống nhất quản lý đối với đất đai. Hoạt động quản lý của Nhà nước gắn

liền với các hoạt động quy định tại Điều 22 Luật Đất đai năm 2013. Trong các hoạt

động quản lý nhà nước về đất đai tại Khoản 6 Điều 22 Luật Đất đai năm 2013 có

quy định hoạt động“Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất”.

Trên cơ sở đó nhà nước tiến hành ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có liên

quan để quy định việc bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi và tổ chức thực

hiện các quy định pháp đó vào trong thực tế.

Thứ ba, thực hiện pháp luật bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi là

hoạt động đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị thu hồi

Quyền sử dụng đất là một trong những quyền tài sản có giá trị của người sử

dụng đất. Quyền sử dụng đất chỉ phát sinh khi Nhà nước trao quyền sử dụng đất

thông qua những hình thức do pháp luật quy định và được đăng kí theo quy định

của pháp luật. Theo quy định pháp luật đất đai trong quá trình sử dụng đất thì quyền

và nghĩa vụ của người sử dụng đất được nhà nước đảm bảo thực hiện. Trong đó,

quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất là một trong những

quyền có vai trò quan trọng đối với người sử dụng đất để đảm bảo những thiệt hại

mà người sử dụng đất phải gánh chịu cũng như đảm bảo được cuộc sống sau khi

nhà nước thu hồi đất. Do đó, thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất bị thu hồi nghiêm túc sẽ góp phần đảm bảo được quyền lợi của người sử dụng

đất khi nhà nước thu hồi đất.

Thứ tư, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước

Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng trong thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Việc áp dụng pháp luật về

bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi được tiến hành với cơ quan có thẩm

quyền và mang tính bắt buộc đối với người sử dụng đất bị thu hồi. Người sử dụng

đất bị thu hồi có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền về việc bồi thường song song đó người sử dụng đất có thể thực hiện các

quyền khiếu nại, khiếu kiến theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình trước những quyết định về bồi thường của cơ quan nhà nước có

18

thẩm quyền nếu có căn cứ cho rằng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của

mình.

1.2.3. Nguyên tắc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi đất

Nguyên tắc trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

khi nhà nước thu hồi đất được hiểu là những phương hướng chỉ đạo, là nền tảng

pháp lý xuyên suốt thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu

hồi. Pháp luật đất đai hiện nay chưa có điều khoản cụ thể nào quy định về nguyên

tắc trên, nhưng trên tinh thần các quy định của pháp luật đất đai có thể thấy trong

thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi cần tuân thủ một

số nguyên tắc nhất định, cụ thể:

Thứ nhất, nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân dó Nhà nước đại diện cho

chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với đất đai.

Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở chỗ đất đai ở Việt Nam hiện nay được xây

dựng dưới chế độ sở hữu toàn dân và mỗi người dân không tự thực hiện quyền chủ

sở hữu đối với đất đai mà phải thông qua là chủ thể đại diện là Nhà nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Nhà nước với vai trò là chủ thể của quyền sở

hữu toàn dân, thống nhất quản lý đối với đất đai và trong số những quyền đại diện

cho chủ sở hữu toàn dân quy định tại Điều 13, nội dung quản lý đất đai và Điều 22

Luật Đất đai 2013 có quy định Nhà nước có quyền “ Quản lý việc bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư khi thu hồi đất”. Với vai trò trên thì Nhà nước thông qua những cơ

quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản

quy phạm pháp luật liên quan đến bồi thường, và trong đó phải làm sao để người sử

dụng đất được hưởng đầy đủ các chính sách bồi thường khi nhà nước thu hồi đất và

đảm bảo được quyền của người sử dụng đất trong quá trình sử dụng đất, tạo được sự

tin tưởng của nhân dân khi nhà nước thu hồi đất.

Thứ hai, tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong bồi thường cho người sử dụng

đất bị thu hồi

19

Nội dung nguyên tắc này thể hiện ở việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định

của pháp luật có liên quan đến bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Nếu

việc ban hành các quy định pháp luật về chính sách bồi thường đúng đắn, có tính

khả thi phù hợp với tình hình thực tế thì không đồng nghĩa với việc đảm bảo được

quyền của người sử dụng đất mà còn phụ thuộc vào việc áp dụng nghiêm chỉnh các

quy định này trên thực tế. Nguyên tắc này nếu vi phạm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền lợi của người sử dụng đất dẫn đến tình trạng khiếu nại, khiếu kiện kéo dài,

vượt cấp làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự xã hội, mất lòng tin của nhân dân đối

với Đảng, Nhà nước.

Thứ ba, đảm bảo sự công bằng, công khai minh bạch và dân chủ trong thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

Nội dung nguyên tắc công bằng, dân chủ và khách quan trong đăng kí quyền

sử dụng đất thể hiện khi Nhà nước bồi thường cho người sử dụng đất phải đảm

bảo sự công bằng giữa các chủ thể là Nhà nước với người sử dụng đất với chủ đầu

tư, giữa những người sử dụng đất với nhau. Việc thực hiện chính sách bồi thường

cho người sử dụng đất phải được tiến hành công khai và đảm bảo cho các chủ thể

có liên quan được biết và được lấy ý kiến, có xem xét đến ý kiến đó.

Đây là nguyên tắc nếu nhìn vào thì rất dễ để thực hiện nhưng cũng là nguyên

tắc có thể khó đảm bảo trong quá trình thực hiện pháp luật. Yếu tố công bằng,

công khai minh bạch và dân chủ xét đến cùng cũng chỉ xuất phát từ yếu tố chủ

quan của các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình xây dựng và thực hiện các

quy định pháp luật về đăng kí quyền sử dụng đất, đặc biệt ở việc xây dựng các

quy định pháp luật nếu không đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp

của những người sử dụng đất bị thu hồi.

Thứ tư, đảm bảo quyền khiếu nại, khiếu kiện và giải quyết khiếu nại, khiếu

kiện trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước

thu hồi đất

Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng

đất khi nhà nước thu hồi đất. Hoạt động thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư

20

được thực hiện thông qua hệ thống cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền

trong cơ quan nhà nước. Bên cạnh đó, việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất bị thu hồi ít nhiều phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người

mặc dù pháp luật có quy định đầy đủ nhưng cũng không thể tránh khỏi những

trường hợp có sai phạm ảnh hưởng đến quyền của người sử dụng đất bị thu hồi.

Do đó, một trong những cơ chế để có thể đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị

thu hồi cũng như hạn chế đến mức tối đa sai phạm của cơ quan, cá nhân có thẩm

quyền trong thực hiện pháp luật về bồi thường thì cần đảm bảo cho người sử dụng

đất thực hiện quyền khiếu nại, khiếu kiện và đảm bảo mọi khiếu nại, khiếu kiện

được giải quyết kịp thời.

1.2.4. Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi đất

Vấn đề thu hồi đất là tất yếu trong giai đoạn hiện nay để sử dụng vào mục

đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.

Chính vì vậy, để quá trình thu hồi đất diễn ra nhanh chóng thì việc thực hiện pháp

luật về bồi thường cho người sử dụng đất có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đảm

bảo về quyền lợi của người sử dụng đất bị thu hồi mà còn có ý nghĩa đối với nhà

nước và chủ đầu tư, cụ thể:

Thứ nhất, đối với người sử dụng đất bị thu hồi. Đất đai là loại tài sản có giá trị

lớn, mặc dù người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu, nhưng họ được Nhà nước

giao đất để sử dụng, và quyền sử dụng đối với đất đai được người sử dụng đất xem

như tài sản lớn của họ, khi Nhà nước thu hồi lại đất họ mất đi tư liệu sản xuất quan

trọng ảnh hưởng lớn về mặt kinh tế, mất chỗ ở, thậm chí còn bị thiệt hại về tài sản

gắn liền với đất. Nhưng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì mục đích phát triển kinh

tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, họ sẵn sàng giao đi mảnh đất mình

đang sử dụng để phục vụ cho các mục đích trên. Do đó, việc thực hiện pháp luật bồi

thường cho những chủ thể có đất bị thu hồi trước hết coi như là sự đền trả lại những

thiệt hại cho người có đất bị thu hồi, việc bồi thường này giúp ích cho họ có thể

đảm bảo được cuộc sống, ổn định sản xuất sau khi thu hồi đất. Với số tiền được bồi

21

thường hay việc bồi thường bằng đất của Nhà nước họ có thể có tư liệu để sản xuất

trở lại hoặc có thể chuyển đổi nghề nghiệp và tạo lập một cuộc sống mới.

Thứ hai, đối với Nhà nước. Quy định việc thực thi pháp luật về bồi thường

đúng theo quy định pháp luật đảm bảo được quyền lợi của người sử dụng đất bị thu

hồi trước hết giúp cho quá trình hoạt động quản lý đất đai của Nhà nước đạt hiệu

quả cao, bởi đây là chủ thể đại diện toàn dân quản lý đối với đất đai thông qua quy

hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên, trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất bao

giờ cũng gắn liền với việc thu hồi đất. Như vậy, với việc bồi thường hợp lý giúp cho

quá trình thu hồi đất để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất diễn ra đúng với

mục đích mà Nhà nước đã đặt ra. Ngoài ra, với việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy

định bồi thường giúp cho quá trình giải phóng mặt bằng diễn ra nhanh chóng tạo

quỹ đất trống để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích

công cộng và mục đích phát triển kinh tế. Một khi các công trình, dự án hoàn thành

đi vào hoạt động sẽ mang đến lợi ích cho Nhà nước: Việc bồi thường thỏa đáng khi

thu hồi đất phục vụ cho mục đích quốc phòng góp phần giúp Nhà nước ta đạt được

những mục tiêu về mục đích quốc phòng đã đặt ra góp phần giữ vững nền an ninh

quốc gia. Bên cạnh việc bồi thường kèm theo các chính sách về hỗ trợ, tái định cư

thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước ta đối với người có đất bị thu hồi, tạo được

sự tin tưởng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Các dự án kinh tế khi hoàn

thành đi vào hoạt động trước hết sẽ giúp Nhà nước giải quyết về việc làm cho người

lao động trong nước nâng cao mức sống của người dân, các dự án mang lại nguồn

thu cho ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, việc thu hồi đất tạo quỹ đất trống xây dựng

đồng bộ cở sở hạ tầng cùng với chính sách ưu đãi về đầu tư thu hút các nhà đầu tư

vào các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn tạo ra sự phát triển kinh tế đồng bộ giữa

các địa phương. Từ đó, thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển, giúp Nhà nước đạt

được những mục tiêu phát triển kinh tế đã đề ra. Bên cạnh đó, còn đảm bảo trật tự

trong xã hội, bởi việc bồi thường thỏa đáng sẽ làm giảm vấn đề khiếu nại, khiếu

kiện của người có đất bị thu hồi, các dự án kinh tế khi đi vào hoạt động sẽ giúp cho

22

người có đất bị thu hồi có công ăn việc làm ổn định là giảm các vấn đề về tệ nạn xã

hội.

Thứ ba, đối với chủ đầu tư. Đây là chủ thể đạt được lợi ích về mặt kinh tế so

với các chủ thể khác trong thu hồi đất, nhưng không thể phủ nhận vai trò của chủ

thể này trong việc thúc đẩy quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất diễn ra trên thực tế. Để

thực hiện dự án kinh tế chủ đầu tư nhận đất từ Nhà nước hoặc tự thỏa thuận với

người sử dụng đất. Tuy nhiên, việc thỏa thuận với người sử dụng đất không phải lúc

nào cũng dễ dàng bởi một số người yêu cầu giá thỏa thuận quá cao gây khó khăn

cho chủ đầu tư. Do đó, phần lớn các chủ đầu tư đều trông chờ vào việc giao đất từ

Nhà nước. Chính vì thế, với việc thực hiện pháp luật bồi thường thỏa đáng thúc đẩy

quá trình thu hồi đất của Nhà nước diễn ra nhanh và chủ đầu tư sớm nhận đất từ

Nhà nước để thực hiện nhanh các dự án kinh tế.

1.2.5. Những yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất

Trong quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị

thu hồi chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau có thể ảnh hưởng rất lớn đến

quyên lợi của người sử dụng đất bị thu hồi. Thực hiện pháp luật về bồi thường khi

nhà nước thu hồi đất là một trong những khâu quan trọng nhằm thực hiện hóa các

quy định pháp luật về bồi thường cho người sử dụng bị thu hồi nên trước hết chịu

ảnh hưởng trực tiếp bởi hai yếu tố cơ bản là các quy định pháp luật (pháp luật

đóng vai trò là yếu tố khách quan) và yếu tố con người bởi thực hiện pháp luật xét

đến cùng cũng thông qua những cá nhân cụ thể có thẩm quyền (yếu tố con người

đóng vai trò yếu tố chủ quan). Bên cạnh đó, việc thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi còn chịu ảnh ảnh hưởng bởi những yếu tố

khác, cụ thể:

Thứ nhất, yếu tố pháp luật

Việc thu hồi đất là tất yếu tuy nhiên vấn đề giải quyết quyền lợi cho người có

đất bị thu hồi rất quan trọng bởi việc thu hồi đất ở đây họ hoàn toàn không có lỗi

nhưng vì lợi ích chung họ sẵn sàng giao đất. Chính vì vậy, họ cần được giải quyết

23

chính đáng về việc bồi thường cũng như các chính sách khác để ổn định cuộc sống

ngoài ra giải quyết tốt quyền của người sử dụng đất bị thu hồi giúp ổn định trật tự

xã hội tạo được lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Hiện nay, chính

sách bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi phụ thuộc vào các quy định pháp

luật do Nhà nước ban hành. Do đó, với những quy định pháp luật phù hợp góp

phần rất quan trọng để tổ chức thực hiện các quy định đó có hiệu quả trên thực tế

và sẽ đảm bảo được quyền lợi của người sử dụng đất bị thu hồi ngược lại quyền

của người sử dụng đất bị thu hồi sẽ bị ảnh hưởng rất lớn.

Thứ hai, yếu tố về con người

Quyền của người sử dụng đất bị thu hồi được đảm bảo trước hết bởi hệ thống

các quy định pháp luật phù hợp và áp dụng có hiệu quả các quy định đó. Tuy nhiên,

để đạt được hiệu quả thì yếu tố con người cũng đóng vai trò rất quan trọng ngay cả

trong giai đoạn ban hành các quy định pháp luật, thực hiện các quy định pháp luật.

Trong đó, ở giai đoạn ban hành các quy định pháp luật rất quan trọng bởi đó là cơ

sở pháp lý trong việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị

thu hồi sau này và xét đến cùng thì những quy định này phụ thuộc vào ý chí của con

người do đó những quy định pháp luật khi ban hành ra có thể phù hợp hoặc không

phù hợp. Bên cạnh có một hệ thống pháp luật hoàn thiện thì vấn đề áp dụng các quy

định vào thực tế có hiệu quả hay không phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ, công chức

những người có thẩm quyền áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết quyền

của người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Trong giai đoạn áp dụng pháp luật

phụ thuộc vào hai yếu tố có thể do ý chí chủ quan những người làm nhiệm vụ cố

tình thực hiện sai hoặc cũng do yếu tố về năng lực những người làm nhiệm vụ

không nắm bắt được hết các quy định pháp luật dẫn đến áp dụng không có hiệu quả

các quy định pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền của người sử dụng đất bị thu hồi.

Bên cạnh đó, yếu tố con người cũng xuất phát từ ý thức pháp luật của người sử

dụng đất bị thu hồi chưa nắm được các quy định của pháp luật hoặc cố tình gây cản

trở trong việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất bị thu hồi.

24

Thứ ba, yếu tố khác. Bên cạnh yếu tố pháp luật và yếu tố con người thì yếu tố

lịch sử là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Yếu tố lịch sử xuất phát từ đặc thù đất đai

ở Việt Nam trải qua từng giai đoạn khác nhau trong lịch sử mà chế độ sở hữu đối

với đất đai cũng khác nhau. Trước hiến pháp 1980 thì đất đai ở Việt Nam xác lập

dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau nhưng khi hiến pháp 1980 ra đời thì đất đai

ở Việt Nam xác lập duy nhất dưới hình thức sở hữu toàn dân và các Luật đất đai lần

lượt ra đời ở Việt Nam và vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được đặt

ra và là một trong những điều kiện để nhà nước bồi thường khi thu hồi đất hiện nay.

Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều lý do mà người sử dụng hiện nay khi nhà nước thu

hồi đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng như việc xác định điều

kiện đủ để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng để bồi thường gặp rất nhiều khó

khăn xuất phát từ các quy định pháp luật đất đai trước đây để lại.

1.3. Nội dung thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất

khi Nhà nƣớc thu hồi đất

1.3.1. Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất

Để các quy định pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi của

nhà nước đi vào thực tế thì bên cạnh yếu tố pháp luật, đội ngũ cán bộ, công chức tổ

chức thực hiện pháp luật thì vấn đề quan trọng là ý thức chấp hành pháp luật của

chủ thể pháp luật cụ thể ở đây là những người sử dụng đất bị thu hồi. Hiện nay,

pháp luật đất đai hiện hành thì các quy định về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp

luật về bồi thường cho người sử dụng đất chưa quy định cụ thể mà chỉ dừng lại ở

mức độ vận động thuyết phục người sử dụng đất chấp hành các quyết định trong

quá trình thu hồi đất, ví dụ Điểm a Khoản 2 Điều 70 Luật Đất đai năm 2013 quy

định “Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định kiểm đếm bắt buộc sau khi

Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu

hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết

phục” hay Điểm a Khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Người có đất

25

thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã,

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm

vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục”. Mặc dù pháp luật

đất đai không quy định chi tiết nhưng các hoạt động về tuyên truyền phổ biến giáo

dục pháp luật về việc thực hiện các quy định pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất bị thu hồi vẫn được tổ chức thực hiện theo quy định chung của pháp luật

về phổ biến giáo dục pháp luật, cụ thể hiện nay Luật phổ biến giáo dục pháp luật

năm 2012 do quốc hội ban hành là hành lang pháp lý cho việc tổ chức phổ biến

giáo dục pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi.

Theo quy định tại Điều 10 của Luật phổ biến giáo dục pháp luật quy định về

nội dung phổ biến giáo dục pháp luật thì tại khoản 1 Điều 10 quy định “Quy định

của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là các quy định của pháp

luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai,

xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh, giao

thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ

quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban

hành.” Như vậy, lĩnh vực đất đai là một trong những lĩnh vực được quan tâm cần

tiến hành hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật và hiện nay thì vấn đề thu hồi đất

cũng như việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất bị thu hồi là

vấn đề đáng quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, hoạt động phổ biến

giáo dục trong lĩnh vực này là vấn đề có ý nghĩa rất quan trong góp phần giúp người

sử dụng đất bị thu hồi hiểu rõ quy định pháp luật về thu hồi đất cũng như những quy

định pháp luật về chính sách bồi thường hiện nay. Trên tinh thần của Luật phổ biến

giáo dục pháp luật năm 2012 thì hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất có một số đặc trưng sau:

Thứ nhất, về thẩm quyền tiến hành phổ biến giáo dục pháp luật. Hoạt động

phổ biến giáo dục pháp luật được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước, cá nhân có

thẩm quyền từ trung ương đến địa phương, cụ thể tại Chương III của Luật phổ biến

giáo dục pháp luật có quy định về trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang bộ thuộc

26

chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; kiểm toán nhà nước; Hội

đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân; Đại biểu quốc hội; Đại biểu Hội đồng nhân dân

các cấp….Ngoài ra, thẩm quyền tiến hành phổ biến giáo dục pháp luật còn mở rộng

cho Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; tổ

chức hành nghề về pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp về pháp luật, cơ sở đào tạo

luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp…..

Thứ hai, về hình thức phổ biến giáo dục pháp luật. Theo quy định của Luật

phổ biến giáo dục pháp luật năm 2012 thì hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật

được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau được quy định tại các điều

11,12,13,14,15, ví dụ một số hình thức phổ biến giáo dục pháp luật quy định tại

Điều 11: “Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung

cấp thông tin, tài liệu pháp luật; Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng,

loa truyền thanh, internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo;

đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng

tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư; Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; Thông qua

công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan trong bộ máy

nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở”.

Thứ ba, về đối tượng được phổ biến giáo dục pháp luật. Trong việc thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi thì đối tượng cần được

phổ biến trước hết là các cơ quan, cá nhân có trách nhiệm làm nhiệm vụ bồi thường

vì đây là chủ thể trực tiếp áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường đến người

sử dụng đất bị thu hồi để có thể nắm vững và áp dụng một cách đầy đủ và có hiệu

quả các quy định pháp luật để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người

sử dụng đất bị thu hồi. Ngoài ra, chủ thể cần được phổ biến giáo dục pháp luật về

bồi thường khi nhà nước thu hồi đất đó là chính những người sử dụng đất bị thu hồi

bởi đây là chủ thể rất nhạy cảm trong vấn đề thu hồi đất vì họ chính là người gánh

chịu thiệt hại trong quá trình thu hồi đất nên vấn đề làm sao để người sử dụng đất

hiểu được tầm quan trọng của việc thu hồi đất cũng như các chính sách pháp luật về

27

bồi thường để người sử dụng đất bị thu hồi hiểu và chấp hành đúng các quy định

pháp luật.

Thứ tư, về nội dung phổ biến giáo dục pháp luật. Nội dung chủ yếu của hoạt

động phổ biến giáo dục pháp luật về thực hiện pháp luật bồi thường cho người sử

dụng đất bị thu hồi là các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền, trình tự

thủ tục cũng như các quy định của pháp luật về thu hồi đất, chính sách bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư cũng như các quy định pháp luật về kiểm tra, giám sát, khiếu nai,

khiếu kiện, tố cáo và giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo trong quá trình thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi nhằm mục đích trước

hết để bảo vệ quyền cho người sử dụng đất bị thu hồi và tránh được những hành vi

vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất bị thu hồi.

1.3.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi đất

Pháp luật do Nhà nước ban hành để thực hiện trong thực tế thì thông qua khâu

tổ chức và thực hiện pháp luật. Hiện nay, việc tổ chức và thực hiện pháp luật được

tiến hành dưới các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp

luật, áp dụng pháp luật. Trong đó, hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất được thực hiện thông các

hoạt động sau:

Thứ nhất, sử dụng pháp luật

Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp

luật thực hiện quyền, tự do pháp lý của mình (những hành vi mà pháp luật cho phép

chủ thể tiến hành) [21, tr.397].Như vậy, việc sử dụng pháp luật được thực hiện bởi

tất các chủ thể pháp luật trong quá trình bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Việc

sử dụng pháp luật dưới hình thức sử dụng pháp luật thì các chủ thể được thực hiện

các quyền mà pháp luật cho phép được thực hiện trong quá trình thu hồi đất bồi

thường, hỗ trợ tái định cư. Do đó, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn thì các cơ

quan, cá nhân có thẩm quyền thực thi những quyền hạn mà pháp luật giao cho và

28

đồng thời phải đảm bảo cho người sử dụng đất bị thu hồi được thực hiện đầy đủ các

quyền của mình trong quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Ví dụ: người sử dụng đất được quyền đóng góp

ý kiến đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi cơ quan có thẩm quyền

tổ chức lấy ý kiến; được sử dụng pháp luật để thực hiện các quyền khiếu nại, khiếu

kiện khi quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trong quá trình thu hồi, bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư.

Thứ hai, thi hành pháp luật

Thi hành pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể

pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực [21,

tr.397]. Tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi

dưới hình thức thi hành pháp luật là hoạt động bắt buộc các chủ thể pháp luật phải

nghiêm chỉnh chấp hành những nghĩa vụ mà pháp luật buộc phải thực hiện khi thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Các cơ quan, cá

nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải có trách

nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc cũng như có biện pháp để tổ

chức và đảm bảo cho người sử dụng đất thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Ví dụ:

Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong nhiệm vụ quyền hạn pháp luật cho phép có

trách nhiệm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể chi tiết các quy

định pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi; hay trong quá trình

thực hiện pháp luật về bồi thường thì người sử dụng đất phải có nghĩa vụ chấp

hành các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: quyết định phê

duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; quyết định thu hồi đất…

Thứ ba, tuân thủ pháp luật

Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể

pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm [21,

tr.397]. Thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi dưới

hình thức tuân thủ pháp luật là một trong những hình thức thực hiện pháp luật mà

cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, người sử dụng đất không thực hiện những hành vi

29

mà pháp luật cấm trong quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng bị thu hồi. Ví dụ:cơ quan, cá nhân có thẩm quyền phải tuân thủ các quy định

về trình tự, thủ tục trong thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; hay người sử

dụng đất không được xây dựng tài sản trên đất khi đã có thông báo thu hồi đất…

Thứ tư, áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước thông

qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ

thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các

quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ

hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể [21, tr.397]. Đây được xem là hình

thức thực hiện pháp luật chủ yếu trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người

sử dụng đất bị thu hồi. Trên cơ sở các quy định pháp luật về đăng kí quyền sử dụng

đất thông qua các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ cụ thể hóa thông qua

hoạt động áp dụng pháp luật để ban hành ra các quyết định cá biệt cụ thể để làm

phát sinh các hệ pháp luật trong biệt, ví dụ: Ủy ban nhân dân ban hành quyết định

phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; cơ quan có thẩm quyền áp

dụng các quy định pháp luật để giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của người sử dụng

đất…

1.3.3. Xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức về thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước

thu hồi đất

Việc xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức về thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước

thu hồi đất là nội dung cần thiết. Hiện nay, theo quy định pháp luật đất đai hiện

hành việc tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất hiện

nay được thực hiện thông qua hệ thống các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong

cơ quan hành chính nhà nước và tổ chức dịch vụ công về đất đai, cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan hành chính

nhà nước. Theo quy định pháp luật đất đai hiện hành vai trò của các cơ quan, cá

30

nhân có thẩm quyền trong cơ quan hành chính có vai trò quan trọng chủ yếu trong

quá trình tổ chức thực hiện pháp luật thông qua vai trò của những chủ thể sau:

+ Vai trò của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, là cơ quan quản lý có thẩm

quyền chung ở cấp trung ương Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý

chung về bồi thường cho người sử dụng đất thông qua hoạt động ban hành các văn

bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật

Đất đai và các Luật khác có liên quan đến bồi thường cho người sử dụng đất bị

thu hồi.

+ Vai trò của Cơ quan chuyên môn thuộc Chính phủ. Trong phạm vi chức

năng nhiệm vụ quản lý theo nghành lĩnh vực các cơ quan chuyên môn của Chính

phủ có trách nhiệm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền

để chi tiết Nghị định của Chính phủ về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu

hồi để làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện pháp luật được thống nhất. Chẳng

hạn, Bộ Tài nguyên Môi trường là cơ quan chủ yếu giúp Chính phủ trong quản lý

nhà nước về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

+ Ủy ban nhân dân các cấp, là cơ quan hành chính ở địa phương là chủ thể

trực tiếp triển khai các quy định pháp luật về bồi thường. Ủy ban nhân dân các cấp

trong phạm vi quyền hạn của mình trước hết ban hành các văn bản quy phạm

pháp luật để cụ thể hóa các quy định mà văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung

ương giao về cho địa phương quy định. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền

ban hành quyết định để quy định các khoản bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa

bàn thuộc phạm vi quản lý của mình; quyết định giá đất tính tiền bồi thường cho

người sử dụng đất bị thu hồi; ban hành các quyết định phê duyệt phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền

ban hành các quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định đo đạc kiểm đếm bắt

buộc, quyết định thu hồi đất và tổ chức thực hiện…

+ Vai trò của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân. Trong phạm

vi trách nhiệm các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân có trách nhiệm

tham mưu giúp Ủy ban nhân dân trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về bồi

31

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, các cơ quan

chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân còn tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi, ví vụ: Sở Tài nguyên môn trường,

Phòng tài nguyên môi trường có trách nhiệm thẩm định phương án bồi thường, hỗ

trợ tái định cư thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân cùng cấp (Điều 13

Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT)…..

Thứ hai, tổ chức dịch vụ công về đất đai. Tổ chức phát triển quỹ đất là một

trong những tổ chức dịch vụ công về đất đai được giao nhiệm vụ hỗ trợ trong việc

tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu

hồi đất. Theo quy định tài Điều 1 Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BTNMT-

BNV-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên trường, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng

Bộ Tài chính quy định thì “Trung tâm phát triển quỹ đất là đơn vị sự nghiệp công

lập trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, có chức năng tạo lập, phát triển, quản

lý, khai thác quỹ đất; tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; nhận

chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; tổ chức

thực hiện việc đấu giá quyền sử dụng đất và thực hiện các dịch vụ khác trong lĩnh

vực đất đai.”

Bên cạnh việc tổ chức bộ máy tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất bị thu hồi thì một trong những nội dung quan trọng cần chú trọng

tập trung là đào tạo để nâng cao chuyên môn và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công

chức, viên chức là những người trực tiếp tiến hành thực thi các quy định pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi.

1.3.4. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật bồi thường cho

người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất

Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những hoạt động giúp hạn chế được những

sai phạm trong quá trình thu hồi đất, cụ thể:

+ Thứ nhất, cơ chế giám sát. Cơ chế giám sát việc thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất được tiến hành thông qua

32

hệ thống cơ quan quyền lực. Đây là cơ chế mà các cơ quan quyền lực đại diện cho

nhân dân nhằm giám sát việc tuân thủ pháp luật các quy định pháp luật về bồi

thường. Các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực thi pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất có trách nhiệm báo cáo và chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền

lực về kết quả thực hiện pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Ngoài cơ

chế giám sát từ các cơ quan quyền lực thì nhân dân cũng có thể tham gia vào cơ chế

giám sát bằng những hoạt động thiết thực như được tham gia và đóng góp ý nghĩa

một số nội nội dung về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi, chẳng hạn theo

quy định tại Điều 69 Luật Đất đai quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất vì mục

đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội thì người sử dụng đất có quyền

được đóng góp ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trước khi cơ

quan có thẩm quyền tổ chức thẩm định và quyết định phê duyệt.

+ Thứ hai, cơ chế thanh tra. Cơ chế thanh tra việc thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi hiện nay được tiến hành bởi hệ thống cơ

quan thực hiện chức năng thanh tra. Hoạt động thanh tra về thực hiện pháp luật về

bồi thường là hoạt động mang tính chất chuyên ngành đòi hỏi chủ thể tiến hành

thanh tra phải có trình độ chuyên môn để có thể phát hiện những sai phạm. Hoạt

động thanh tra cần được thực hiện đúng thẩm quyền và trình tự thủ tục của pháp

luật thanh tra hiện hành. Thông qua kết luận thanh tra sẽ là một trong những căn cứ

để tiến hành xử lý những trường hợp sai phạm trong quá trình thực hiện pháp luật

cũng như đảm bảo được yếu tố khách quan trong quá trình thực hiện pháp luật về

bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi.

+ Thứ ba, cơ chế kiểm tra. Nếu cơ chế thanh tra, giám sát được tiến hành bởi

những cơ quan, cá nhân có thẩm quyền từ bên ngoài tác động đến thì cơ chế kiểm

tra được tiến hành bởi chính các cơ quan, cá nhân trực tiếp tổ chức thực hiện pháp

luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Bên cạnh cơ chế giám sát,

thanh tra thì các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thực hiện pháp luật có trách nhiệm

tự kiểm tra các khâu trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường về

trình tự, thủ tục, thẩm quyền và áp dụng các quy định của pháp luật để trong quá

33

trình bồi thường cho người sử dụng đất. Mục đích của việc kiểm tra là để có thể tự

phát hiện những sai phạm của chính mình trong quá trình thực hiện các quy định

của pháp luật và kịp thời khắc phục để đảm bảo được quyền của người sử dụng đất

bị thu hồi.

1.3.5. Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo và xử lý vi phạm trong thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất

Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất bị thu hồi xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan vẫn

có những quyết định hành chính, hành vi hành chính vi phạm các quy định pháp

luật liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư làm ảnh hưởng đến quyền lợi của

người sử dụng đất bị thu hồi. Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

thì người sử dụng đất bị thu hồi có quyền khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện cụ thể theo

quy định pháp luật Đất đai thì “Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ

liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc

hành vi hành chính về quản lý đất đai” (Điều 204 Luật Đất đai 2013); “Cá nhân có

quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai” (Điều 205 Luật Đất

đai 2013). Do đó, cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm giải

quyết khiếu nại, tố cáo và khiếu kiện để đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị

thu hồi, cụ thể:

Thứ nhất, giải quyết khiếu nại, tố cáo

Đối tượng giải quyết khiếu nại là các quyền lợi ích hợp pháp của người sử

dụng đất bị thu hồi bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính

của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành

chính trong quá trình thu hồi đất xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người

sử dụng đất bị thu hồi. Khi có khiếu nại của người sử dụng đất bị thu hồi về các

quyết định, hành vi trong bồi thường thì cơ quan, cá nhân có thẩm quyền có trách

nhiệm xem xét giải quyết khiếu nại theo trình tự, thủ tục do Luật khiếu nại năm

2011 và các văn quy phạm pháp luật khác có liên quan, cụ thể tại Khoản 1 Điều 5

Luật khiếu nại năm 2011 quy định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chức

34

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời,

đúng pháp luật các khiếu nại, xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp

cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm cho quyết định giải quyết

khiếu nại được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về

quyết định của mình”.

Nếu khiếu nại chỉ dừng lại việc bảo vệ lợi ích của chính mình thì tố cáo không

chỉ dừng lại việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mình mà còn bảo vệ lợi ích của nhà

nước, công dân, cơ quan tổ chức khác. Theo quy định pháp luật tố cáo thì “Tố

cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức,

cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ

chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước,

quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” (Khoản 1 Điều 2 Luật Tố

cáo 2011). Theo đó, thì cơ quan, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật

tố cáo phải có trách nhiệm giải quyết tố cáo theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố cáo

quy định.

Thứ hai, gải quyết khiếu kiện

Giải quyết khiếu kiện trên cơ sở có khiếu kiện các quyết định, hành vi của cơ

quan, cá nhân có thẩm quyền về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Bên

cạnh quyền khiếu nại, tố cáo thì người sử dụng đất bị thu hồi có thể thực hiện quyền

khiếu kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính để bảo vệ quyền lợi hợp

pháp của mình bị xâm phạm. Theo quy định của Luật tố tụng hành chính 2015 thì

đối tượng khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại

Điều 30. Khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất bị thu hồi có quyền khiếu

kiện là các quyết định hành chính, hành vi hành chính cơ quan, cá nhân có thẩm

quyền ban hành hoặc thực hiện khi thực hiện nhiệm vụ xâm phạm đến lợi ích hợp

pháp của người sử dụng đất bị thu hồi. Theo quy định Luật tố tụng hành chính 2015

thì đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính không cần phải qua giai

đoạn khiếu nại trước khi khởi kiện tại tòa án, do đó khi có căn cứ cho rằng các

quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm đến lợi ích của mình thì

35

người sử dụng đất bị thu hồi có quyền khởi kiện vụ án hành chính ra tòa án nếu:

không thực hiện quyền khiếu nại lần đầu; khi thực hiện quyền khiếu nại lần đầu mà

không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc hết thời hạn giải quyết

khiếu nại lần đầu mà không được giải quyết; khi thực hiện khiếu nại lần hai mà

không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại lần 2 hoặc hết thời gian giải quyết

khiếu nại lần 2 mà không được giải quyết. Khi thực hiện quyền khiếu kiện mà

người sử dụng đất bị thu hồi không đồng ý bản án hành chính sơ thẩm của tòa án thì

có quyền kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm nếu bản án hành chính sơ thẩm chưa

có hiệu lực pháp luật; có quyền đề nghị bằng văn đến những người có thẩm quyền

kháng nghị theo quy định của Luật tố tụng hành chính để xem xét kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật.

36

Tiểu kết chƣơng 1

Với vai trò là chương quy định những vấn đề lý luận chung và pháp lý về

thực hiện pháp luật bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Vì

vậy, trong nội dung chương này tác giả tập trung làm rõ một số nội dung sau:

Thứ nhất, làm rõ một số khái niệm về thu hồi đất; khái niệm thực hiện pháp

luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất trên cơ sở các

quy định của pháp luật.

Thứ hai, phân tích làm rõ đặc điểm của thực hiện pháp luật về bồi thường

cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất; nguyên tắc thực hiện pháp luật về

bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất; chính sách bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất cũng như tác động của người sử dụng đất khi Nhà nước

thu hồi đất.

Thứ ba, phân tích làm rõ nội dung của hoạt động thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất như: tuyên truyền phổ biến

giáo dục pháp luật; xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức về thực hiện pháp luật; giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp

luật; giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp

luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Thứ tư, phân tích các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về bồi thường

cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất.

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và pháp lý về thực hiện pháp luật

bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Chương 1 là cơ sở để

tác giả phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất khi Nhà nước thu hồi đất ở chương 2.

37

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG CHO NGƢỜI

SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH BÌNH PHƢỚC

2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Phƣớc tác động đến

thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất khi Nhà nƣớc thu hồi

đất

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

Bình Phước là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Nam Bộ (ĐNB), mới được

thành lập, trên cơ sở tách ra từ tỉnh Sông Bé cũ (từ 01/01/1997). Có diện tích tự

nhiên là 688.280 ha, bằng 2 diện tích cả nước và bằng khoảng 30 diện tích vùng

ĐNB. Với dân số năm 2004 là 794.838 người, gần bằng 1 dân số toàn quốc, mật độ dân số là khoảng 117 người/km2. Về hành chính, tỉnh Bình Phước được chia

thành 07 huyện, 01 thị xã; với 94 đơn vị cấp xã (82 xã, 8 thị trấn và 4 phường).

Về ranh giới hành chính, giáp với 5 tỉnh bạn: Lâm Đồng, Đăk Nông, Tây

Ninh, Đồng Nai, Bình Dương; Đặc biệt có đường biên giới với Campuchia dài khoảng 240 km. Có tọa độ địa lý: từ 106o24 đến 107o25 kinh độ Đông và từ 11o7 đến 12 o19 vĩ độ Bắc.

Theo thông báo số 99/TB ngày 2/7/2003 của Văn phòng Chính phủ, Bình

Phước là một trong bảy tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (KTTĐPN).

Bình Phước đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp của vùng, với

những sản phẩm chiến lược có t suất hàng hóa cao dẫn đầu toàn quốc như: cao su,

tiêu, điều… Vị trí tỉnh Bình Phước cho thấy một số lợi thế và hạn chế sau đây đến

phát triển kinh tế – xã hội và tình hình sử dụng tài nguyên đất đai:

+ Bình Phước nằm trong vùng ĐNB nói chung và vùng KTTĐPN nói riêng, là

trung tâm kinh tế, khoa học kỹ thuật vào loại lớn nhất cả nước. Hệ thống giao thông

chính của Bình Phước là một phần của mạng lưới giao thông liên vùng quan trọng

của quốc gia. Từ Bình Phước có thể đi lại, vận chuyển hàng hóa đến tất cả các vùng

38

kinh tế trong cả nước, là điều kiện cho phép đẩy nhanh quá trình khai thác sử dụng

đất và mở cửa hòa nhập với sự phát triển kinh tế bên ngoài.

+ Bình Phước nằm trong vùng có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho phát

triển nông nghiệp, vớí khí hậu nhiệt đới ôn hòa, địa hình miền núi nhưng ít dốc, tài

nguyên đất có chất lượng rất cao. Chính điều kiện đó đã hình thành những vùng sản

xuất tập trung một số cây trồng có sản phẩm hàng hóa và xuất khẩu cao vào loại

hàng đầu của toàn quốc như: cao su, tiêu, điều, chăn nuôi đại gia súc…

+ So với các tỉnh khác trong vùng KTTĐPN, Bình Phước là tỉnh có vị trí kém

thuận lợi hơn, xa các trung tâm kinh tế lớn, xa bến cảng, sân bay. Vì vậy, từ nay đến

năm 2010 sức hút đầu tư từ bên ngoài cho phát triển công nghiệp chưa có khả năng

tăng cao.

2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Bình Phước là tỉnh miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng Kinh tế trọng điểm

phía Nam, có vị trí chiến lược rất quan trọng, là cầu nối giữa khu vực miền Đông

Nam Bộ với các tỉnh Tây Nguyên và Campuchia thông qua hệ thống quốc lộ 13,

quốc lộ 14 và các tuyến tỉnh lộ đã được đầu tư rất thuận tiện. Bình Phước cũng có

điều kiện giao thông thuận lợi đến sân bay Tân Sơn Nhất và các cảng nước sâu như

cảng Đồng Nai, Sài Gòn, Thị Vải ...

So với 13 tỉnh trong Khu vực tam giác phát triển CLV, Bình Phước có điều

kiện thuận lợi hơn về phát triển kinh tế như: Quỹ đất rộng, đất đai màu mỡ; khí hậu

ôn hòa và ít có bão lụt. Cùng với 13 khu công nghiệp với tổng diện tích quy hoạch

là 4.686 ha, Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Hoa Lư giáp Campuchia với diện tích quy

hoạch 28.364 ha, trong đó 3.580 ha khu trung tâm đã đưa vào hoạt động, có tuyến

du lịch quốc tế qua cửa khẩu Hoa Lư: Bình Phước (Việt Nam) – Kratie, Stungtreng

(Campuchia) – Champasak (Lào) – Upon Thani (Thái Lan)… Cùng với việc ưu tiên

phát triển hạ tầng các KCN, đáp ứng được điều kiện cơ sở hạ tầng cho nhu cầu đầu

tư, sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, Bình Phước đã đầu tư nâng cấp hệ

thống điện, đáp ứng nhu cầu điện cho sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân

dân. Các dự án điện đã được triển khai trong thời gian gần đây phải kể đến dự án

39

cấp điện cho KCN Minh Hưng - Sikico; KCN - Dân cư Becamex Bình Phước, xây

dựng đường điện vào nhà máy xi măng Minh Tâm, điều chỉnh dự án thủy điện Đức

Thành trên sông Đồng Nai… Bình Phước cũng đã tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp Nhật Bản, Ấn Độ, Singapor và các doanh nghiệp Việt Nam nghiên cứu lập

báo cáo khả thi dự án điện năng lượng mặt trời… Bên cạnh đó, triển khai thực hiện

đồng bộ các giải pháp huy động các nguồn lực cho đầu tư xây dựng hạ tầng giao

thông, đặc biệt là các dự án PPP (BOT, BT). Tỉnh cũng đã hoàn thành một số dự án

trọng điểm như: dự án BOT QL 13 đoạn An Lộc – Chiu Riu giai đoạn 1, Dự án

BOT nâng cấp, mở rộng ĐT.741 đoạn Bầu Trư - Đồng Xoài giai đoạn 1, dự án nâng

cấp mở rộng đường Hồ Chí Minh đoạn cầu 38 - Đồng Xoài... tạo bước tiến lớn về

kết cấu hạ tầng giao thông. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư thuận

lợi nhất trong triển khai dự án, đặc biệt là các dư án trọng điểm, Bình Phước cũng

tập trung vào các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình

thực hiện dự án. Đặc biệt, BÌnh Phước cũng tập trung đẩy nhanh tiến độ các dự án

như: dự án Becamex Bình Phước, đường Đồng Phú - Bình Dương, đường ĐT 741,

đường Minh Hưng - Đồng Nơ, dự án Khu du lịch sinh thái Bà Rá, dự án Khu du

lịch sinh thái kết hợp phim trường trảng cỏ Bù Lạch. Đồng thời, tập trung xây dựng

hạ tầng các KCN, triển khai thực hiện KCN trong khu kinh tế cửa khẩu Hoa Lư và

xây dựng cảng ICD... Trong thời gian tới, Bình Phước sẽ tập trung ưu tiên thu hút

đầu tư vào những dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; dự án chế biến nông,

lâm sản thuộc thế mạnh của địa phương như: sản xuất các sản phẩm từ cao su, điều,

tiêu, cây ăn trái; chế biến thực phẩm từ gia súc, gia cầm; các dự án công nghiệp, đặc

biệt là công nghiệp hỗ trợ làm nguyên liệu đầu vào cho các dự án đầu tư tại các tỉnh

trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, dự án sản xuất điện năng lượng mặt trời.

Bình Phước cũng khuyến khích thu hút các dự án đầu tư xã hội hóa trong các lĩnh

vực y tế, giáo dục, môi trường, thể dục thể thao.

Bình Phước là nơi định cư và sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, trong đó

dân tộc ít người chiếm 17,9 , đa số là người Khmer và Xtiêng , một số ít Hoa,

Nùng, Tày,...vì vậy Bình Phước có nhiều nét văn hóa của người Xtiêng. Là tỉnh có

40

nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và là nơi tập trung nhiều dân tộc thiểu số có

trình độ dân trí, kỹ thuật sản xuất còn thấp, nên mặc dù có nguồn tài nguyên thiên

nhiên khá phong phú, Bình Phước vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.

2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất

khi Nhà nƣớc thu hồi đất

2.2.1. Về tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về bồi thường cho người

sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất

Nhận thức rõ vai trò của hoạt động truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho

người sử dụng đất bị thu hồi cũng như để triển khai việc tổ chức thực hiện các quy

định của pháp luật Đất đai về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi chính

quyền tỉnh Bình Phước đã có những văn bản chủ trương về việc truyền truyền, phổ

biến giáo dục pháp luật, cụ thể:

Thứ nhất, ở góc độ chung theo chỉ thị số 06/CT/UBND ngày 28/2/2014 của

Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước về việc triển khai thi hành Luật Đất đai trong đó

có xác định vai trò của hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, cụ thể:

Một là, trước khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, Sở Tài

nguyên và Môi trường phối hợp với Sở Tư pháp xây dựng và triển khai chương

trình phổ biến giáo dục pháp luật đất đai và nâng cao nhận thức chính sách, pháp

luật đât đai cho cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư.

Hai là, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã chỉ đạo các phòng, ban, cơ quan

phát thanh tổ chức việc phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai cho cơ quan, tổ chức,

cá nhân tại địa phương.

Ba là, Ban tuyên giáo tỉnh ủy tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về đất đai để pháp luật đi vào cuộc sống.

Bốn là, Sở thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan thông tấn và báo

chí ở địa phương có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai bằng nhiều

hình thức đến từng tổ chức, từng người dân.

Năm là, Đài phát thanh truyền hình tỉnh, báo Bình Phước có trách nhiệm

tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật Đất đai và các văn bản dưới luật; mở

41

chuyên trang, chuyên mục để giới thiệu về những nội dung đổi mới quan trọng của

Luật Đất đai.

Sáu là, Đề nghị Mặt trận tổ quốc Việt Nam tỉnh và các tổ chức thành viên

của Mặt trận như Hội nông dân, hội liên hiệp phụ nữ, tỉnh đoàn và các tổ chức đoàn

thể khác xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình phổ biến pháp luật về đất đai

đến các hội viên, đoàn viên.

Thứ hai, để cụ thể hóa những hoạt động tuyền truyền, phố biến giáo dục

pháp luật chính quyền tỉnh Bình Phước đã ban hành những văn bản để tổ chức thực

hiện cụ thể:

Một là, ngày 14/2/2014 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã ban hành quyết

định số 306/QĐ-UBND quyết định về việc ban hành kế hoạch phổ biến, giáo dục

pháp luật trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Trong nội dung kế hoạch tập trung tổ chức

phổ biến, giới thiệu các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013, Luật

Đất đai được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ

họp thứ 6 thông qua ngày 29/11/2013. Việc tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật rộng rãi đến nhiều đối tượng khác nhau như: cán bộ, công chức, viên

chức; các tầng lớp nhân dân trong việc chấp hành các quy định của Hiến pháp, Luật

Đất đai. Việc tổ chức thực hiện pháp luật được tổ chức dười nhiều hình thức khác

nhau nhằm tạo điều kiện để người dân có thể tiếp thu dễ dàng các quy định của

Hiến pháp, Luật Đất đai cụ thể thông qua các hình thức:

+ Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp

thông tin, tài liệu pháp luật.

+ Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet,

pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật

trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu

dân cư.

+ Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.

42

+ Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công

dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các sở, ban,

ngành, đoàn thể của tỉnh và U ban nhân dân các huyện, thị xã; thông qua hoạt động

trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở.

+ Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính

trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ

sở.

+ Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các trường học.

+ Thông qua việc triển khai thực hiện mô hình “Ngày pháp luật” trên địa bàn

tỉnh theo Quyết định số 2881/QĐ-UBND ngày 15/12/2010 của Chủ tịch U ban

nhân dân tỉnh.

Hai là, trong công tác thực tế về hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi chính quyền tỉnh Bình

Phước đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và vận động Nhân

dân chấp hành pháp luật trong việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng dự án BOT

đường Đồng Phú - Bình Dương trên địa bàn huyện Đồng Phú góp phần thúc đẩy

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ngày 30/5/2017, Ủy ban nhân dân huyện

Đồng Phú ban hành Quyết định số 1530/QĐ-UBND “Về thành lập tổ tuyên truyền

phương án đền bù, vận động, giải phóng mặt bằng thu hồi đất, giao cho dự án BOT

đường Đồng Phú - Bình Dương”.

Tổ tuyên truyền chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức phổ biến

pháp luật với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với từng đối tượng như:

Tuyên truyền miệng, tổ chức họp dân, qua băng rôn, tờ rơi, ma két, băng đĩa phát

trên Đài Truyền hình và Truyền thanh huyện, các hệ thống loa truyền thanh các xã,

thị trấn… Tổ truyền truyền đã phối hợp với UBND các xã (Tân Phước, Tân Hưng,

Tân Hòa, Tân Lợi, Tân Lập và Đồng Tâm) đã tổ chức đối thoại trực tiếp được 379

lượt người để phổ biến các văn bản liên quan đến công tác kiểm tra hiện trạng đất

với tổng số 312 thửa, hỗ trợ cho 01 tổ chức và 38 hộ gia đình, cá nhân với tổng diện tích gần 936.600m2 đất.

43

Nội dung tuyên truyền tập trung: Luật Đất đai năm 2013, Nghị định số

47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ “Quy định về bồi thường, hỗ trợ và

tái định cư khi Nhà nước thu hồi”; Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT, ngày

30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường “Quy định chi tiết về bồi thường, hỗ

trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi”; Quyết định số 13/2015/QĐ-UBND, ngày

08/6/2018 của UBND tỉnh “Quy định chính sách, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ

tái định cư khi Nhà nước thu hồi trên địa bàn tỉnh”; Quyết định số 848/QĐ-UBND,

ngày 14/4/2016 của UBND tỉnh “Về phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi dự án

đầu tư xây dựng đường Đồng Phú - Bình Dương theo hình thức xây dựng - kinh

doanh - chuyển giao giai đoạn I” và một số văn bản liên quan đến dự án.

Các cấp ủy đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị - xã hội từ huyện đến cơ

sở quan tâm chỉ đạo, phối hợp có hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

và vận động Nhân dân chấp hành pháp luật trong việc thu hồi đất, giải phóng mặt

bằng dự án BOT đường Đồng Phú - Bình Dương. Phần lớn Nhân dân trong vùng dự

án đã hiểu được tầm quan trọng của việc triển khai dự án đối với việc phát triển

kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội của địa phương

2.2.2. Về tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi đất

Những quy định pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất hiện nay được

quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung ương như Luật Đất đai

và các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ trưởng có liên quan. Nhưng

văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung ương trong vấn đề bồi thường cho người sử

dụng đất hiện vẫn còn những quy định ở mức độ chung và có những quy định giao

về cho địa phương quy định sao cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương.

Trên tinh thần đó, trong thời gian qua đặc biệt khi Luật Đất đai năm 2013 ra đời

thay thế cho Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai

2003 thì những quy định về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi cũng thay

đổi theo đó. Để phù hợp với tình hình ở tỉnh Bình Phước trong thời gian qua chính

quyền tỉnh Bình phước đã triển khai nhiều hoạt động để tổ chức thi hành các quy

44

định của Luật Đất đai năm 2013 trong đó có những quy định của pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất, cụ thể:

Thứ nhất, ở góc độ chung về các hoạt động thi hành Luật Đất đai. Trên tinh

thần để đảm bảo các điều kiện cho việc tổ chức thi hành Luật Đất đai ngày

28/2/2014 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã ban hành chỉ thị số 06/CT-

UBND về việc triển khai thi hành Luật Đất đai. Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh đã

yêu cầu thủ trưởng các Sở, ban, ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã

tập trung tổ chức triển khai một số nhiệm vụ để triển khai tổ chức thi hành Luật đất

đai năm 2013, trong đó về lĩnh vực bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi,

chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã chỉ đạo triển khai một số quy định pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi, trong đó:

+ Sở Tài nguyên và môi trường phối hợp với Sở Tư pháp xây dựng và triển

khai chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai cho cơ quan, tổ chức, hộ

gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư.

+ Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với Sở Tư pháp, các Sở, ban

ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã có trách nhiệm: nghiên

cứu, góp ý đối với các dự thảo các Nghị định của Chính phủ về quy định thi hành

chi tiết một số điều của Luật Đất đai; phương pháp xác định giá đất, khung giá đất,

bảng giá đất, giá đất cụ thể, tư vấn định giá đất; Nghị định của Chính phủ về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

+ Tiến hành ra soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đất đai do Hội đồng

nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành từ trước năm 2013 để sửa đổi,

bổ sung cho phù hợp với Luật Đất đai hiện hành và các Nghị định hướng dẫn thi

hành.

+ Kiểm tra việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai thuộc

thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh được giao trong Luật Đất đai và các Nghị

định của Chính phủ.

+ Kiện toàn tổ chức bộ máy và đẩy mạnh cải cách hành chính trong quản lý

đất đai: trên cơ sở hướng dẫn của các Bộ, ngành trung ương, giao Sở Tài nguyên và

45

Môi trường chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính tham mưu Ủy ban nhân

dân tỉnh kiện toàn tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác quản lý đất đai. Trong đó,

tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh kiện toàn về chức năng nhiệm vụ và cơ chế hoạt

động của Chi cục quản lý đất đai, Văn phòng đăng kí quyền sử dụng đất, Tổ chức

phát triển quỹ đất.

+ Thực hiện đúng quy định của Luật Đất đai về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư đối với các trường hợp thu hồi đất để thực hiện các dự án quốc phòng, an

ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã

hội ở địa phương.

Thứ hai, để chi tiết việc tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người

sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Phước thì chính quyền

địa phương tỉnh Bình Phước đã triển khai việc ban hành các văn bản quy phạm pháp

luật thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định để chi tiết việc thực hiện bồi thường và

giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trong bồi thường, cụ thể:

+ Ủy ban nhân tỉnh đã ban hành quyết định số 13/2015/QĐ-UBND ngày

08/6/2015 quy định về chính sách, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Phước.

+ Quyết định số 18/2018/QĐ-UBND ngày 30/3/2018 quy định về chính sách

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình

Phước.

Thứ ba, trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật chính quyền tỉnh Bình Phước

đã tiến hành tổ chức thực hiện chi trả tiền bồi thường cho các hộ gia đình, cá nhân

có đất bị thu hồi tại các dự án trên địa bàn tỉnh Bình Phước, cụ thể:

Một là, trong năm 2015 đã tiến hành giải phóng mặt bằng và chi trả tiền bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi tại các dự án:

+ Dự án đường số 1, phường Tân thiện và đường số 3, phường Tân Đồng và

dự án mở rộng trường Tiểu học Tân Thiện và dự án xây dựng nghĩa trang Đồng

Xoài 2, xã Tân Thành.

46

+ Dự án hệ thống kênh thoát nước nội đồng thuộc công trình HTTL hồ Đồng

Xoài, huyện Đồng Phú;dự án xây dựng đường Phú Riềng Đỏ nối dài lên Khu công

nghiệp Bắc Đồng Phú; dự án xây dựng đường Đồng Phú - Bình Dương và dự án

xây dựng công trình Quốc phòng QK1 thuộc ấp Tân Hà, xã Tân Tiến.

+ Dự án lát gạch vỉa hè QL14 và cây xanh (giai đoạn 2) đoạn qua thị trấn

Đức Phong; dự án Trung tâm Thương mại Dịch vụ Bom Bo; dự án mở rộng trường

mẫu giáo Đức Phong; dự án GPMB đường từ Ngã ba vườn chuối QL14 đến Trảng

cỏ Bù Lạch; dự án quy hoạch Trung tâm hành chính xã ĐakNhau; dự án mở rộng

Trường PTTH Lương Thế Vinh xã Bom Bo; dự án đường vào Trường bắn tại xã

Đoàn Kết.

+ Dự án đường N3 tại khu phố 6, thị trấn Chơn Thành; dự án Khu dân cư, đô

thị và dịch vụ Suối Đôi; dự án GPMB đường trục chính TTHC huyện và dự án

đường dây 500Kv Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông.

Hai là, trong năm 2016 đã tiến hành giải phóng mặt bằng và chi trả tiền bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi tại các dự án:

+ Dự án xây dựng đường điện vào Nhà máy xi măng Minh Tâm; dự án BT,

GPMB Khu hành chính Tân Hiệp 1 thuộc địa bàn xã Tân Hiệp, huyện Hớn Quản;

dự án BT-GPMB đường trục chính Bắc - Nam nối dài giai đoạn 1 địa bàn xã Tân

Khai, huyện Hớn Quản; dự án BT, GPMB Khu văn hóa thể dục thể thao huyện Hớn

Quản; dự án xây dựng Nhà máy xi măng Minh Tâm thuộc địa bàn xã An Phú, xã

Minh Tâm, huyện Hớn Quản và dự án BT, GPMB Khu công nghiệp Minh Hưng

Sikicô thuộc địa bàn xã Đồng Nơ, huyện Hớn Quản.

+ Dự án GPMB đường Lê hồng phong; dự án GPMB Trường tiểu học Lê

Văn tám và dự án GPMB vùng đệm nhà máy xi măng Bình phước.

+ Dự án thi công mở rộng QL13 đoạn từ sân bóng chuyền đến Điện lực Lộc

Ninh; dự án khu mỏ đá vôi phục vụ sản xuất dây chuyền 2 - Nhà máy xi măng Bình

Phước; dự án mở rộng QL13; dự án GPMB mỏ đá Thanh Lương – Công ty CP xi

măng Hà Tiên 1

47

+ Dự án xây dựng nhà văn hóa xã Hưng Phước, thực hiện đo đạc giải thửa và

chôn mốc phạm vi giải phóng mặt bằng đường Vành đai (từ Bùng binh đến đường

Hoàng Văn Thụ).

Ba là, trong năm 2017 đã tiến hành giải phóng mặt bằng và chi trả tiền bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi tại các dự án:

+ Thực hiện GPMB 10 dự án: dự án chuyển tiếp (Dự án Nhà máy xử lý nước

thải phường Tân Xuân; dự án Công viên cây xanh xã Tiến Hưng; dự án Chợ Tân

Thành; dự án Đường số 30 và đường Nguyễn Chánh; Dự án Mương thoát nước khu

Công nghiệp Đồng Xoài II; Dự án Đường số 1 - Phường Tân Thiện - Dự án Đường

số 3 - phường Tân Đồng; Dự án Nghĩa trang nhân dân Đồng Xoài II) và 01 dự án

mới (Dự án Trung tâm thương mại Đồng Xoài (đã thực hiện thu hồi 0,33ha).

+ Dự án BOT đường Đồng Phú - Bình Dương; Dự án Tái định cư và quỹ đất

dự trữ (70m);Dự án BOT ĐT.741 Bàu Trư - Đồng Xoài và Dự án xây dựng đường

Phú Riềng Đỏ nối dài.

+ Dự án xây dựng Bãi chôn lắp chất thải rắn tại thôn 1, xã Đoàn Kết; Dự án

TTHC xã Đăk Nhau; Dự án lát gạch vỉa hè QL 14, đoạn qua địa bàn thị trấn Đức

Phong; Dự án xây dựng Chợ Bù Na, xã Nghĩa Trung; Dự án Nâng cấp, mở rộng

đường từ Ngã ba Vườn chuối đến khu vực Trảng cỏ Bù Lạch; Dự án xây dựng Khu

tái định cư thôn 3, xã Minh Hưng; Dự án mở rộng trường THCS và THPT Lương

Thế Vinh và Dự án Xây dựng đường D1 nối dài từ đường Lê Quý Đôn đến đường

Lý thường Kiệt.

+ Dự án xây dựng đường N3 tại thị trấn Chơn Thành; Dự án đường dây

500KV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông; Dự án trạm biến áp 110KV khu CN Minh

Hưng và đường dây đấu nối; Dự án xây dựng đường Trục chính và Dự án khu tái

định cư và nhà ở công nhân 38,44 ha.

+ Dự án (Nhà máy xi măng Minh Tâm giai đoạn 1; Dự án khu công nghiệp

Minh Hưng – Sikico; Dự án khai thác mỏ đá vôi Thanh Lương; Dự án Nâng cấp

đường Giao thông nông thôn đi tổ 6 ấp Phố Lố, xã An Phú; Dự án Giải phóng mặt

bằng Khu giáo dục và Khu tái định cư thuộc quy hoạch Trung tâm hành chính xã

48

Tân Hiệp; Dự án đường trục chính Bắc - Nam (giai đoạn 3), Trung tâm Văn hóa -

Thể dục Thể thao huyện Hớn Quản và đường Đông - Tây 9; Dự án bồi thường giải

phóng mặt bằng đường trục chính Bắc - Nam (giai đoạn 1) và Dự án đường dây

220KV Bình Long – Tây Ninh.

+ Dự án nạo vét kênh suối và các điểm ngập úng trên địa bàn thị xã Bình

Long; Dự án nâng cấp mở rộng đường Đoàn Thị Điểm nối dài và Dự án Nâng cấp,

mở rộng đường ĐT 752 đoạn từ Trần Phú đến ngã ba xe Tăn).

+ Dự án Khu khai thác mỏ đá vôi Thanh Lương; Dự án mở rộng nâng cấp

quốc lộ 13 đoạn từ Cầu Xa Ngâu đến ngã 3 liên ngành; Dự án mở rộng, nâng cấp

đường Lộc Tấn - Hoàng Dịu; Dự án Khu di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt Căn cứ

Bộ chỉ huy quân giải phóng Miền Nam - Tà Thiết (phần xây dựng hàng rào phía

nam đường ĐT754B, thuộc ấp Tà Thiết, xã Lộc Thịnh); Dự án Khu di tích lịch sử

Quốc gia Tà Thiết và Dự án GPMB đường điện 220KV đi Tây Ninh.

+ Dự án Mở rộng đường Lộc Tấn - Bù Đốp đoạn từ Đường N1 đến bến xe

huyện; Công trình xây dựng đồn Biên phòng Bù Đốp; Dự án sữa chữa, nâng cấp hệ

thống thủy lợi M26 xã Phước Thiện; công trình nâng cấp, mở rộng đường ĐT 759B

đoạn từ bến xe đi trung tâm xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp.

Bốn là, trong năm 2018 đã tiến hành giải phóng mặt bằng và chi trả tiền bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi tại các dự án:

+ Dự án khu công nghiệp và dân cư BecaMex – Bình Phước.

+ Dự án Xây dựng kè và nạo vét hồ Suối Cam.

+ Dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn qua huyện Chơn Thành.

+ Dự án xây dựng trung tâm hành chính huyện Phú Riềng giai đoạn 1.

+ Dự án đường vào khu B - Khu công nghiệp Bắc Bình Phú.

+ Dự án trường mẫu Giáo và khu dân cư Bù Nho.

+ Dự án Trung tâm thương mại và dịch vụ Suối Đôi, thị trấn Chơn Thành.

+ Dự án đường tuần tra Biên Giới.

49

2.2.3. Về xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức về thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi Nhà

nước thu hồi đất

Để đảm bảo cho quá trình thu hồi đất diễn ra nhanh chóng và đảm bảo việc tổ

chức bồi thường cho người sử dụng đất đòi hỏi việc xây dựng tổ chức và đào tạo

đội ngũ cán bộ , công chức, viên chức thực hiện cho công tác này là rất cần thiết.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật thì công tác bồi thường cho người sử dụng

đất có sự phối hợp từ nhiều cơ quan tổ chức có liên quan, bên cạnh thẩm quyền

quyết định thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư thuộc

thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thì vai trò của trung tâm phát

triển quỹ đất rất quan trọng đây là một trong những chủ thể trực tiếp được pháp luật

giao trách nhiệm trong công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái đinh cư. Theo

quy định tại Điều 1 Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC của

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Tài

chính quy định “Trung tâm phát triển quỹ đất là đơn vị sự nghiệp công lập trực

thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, có chức năng tạo lập, phát triển, quản lý, khai

thác quỹ đất; tổ chức thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; nhận chuyển

nhượng quyền sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; tổ chức thực hiện

việc đấu giá quyền sử dụng đất và thực hiện các dịch vụ khác trong lĩnh vực đất

đai. Trung tâm phát triển quỹ đất có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng; được

Nhà nước bố trí văn phòng, trang thiết bị làm việc và được mở tài khoản để hoạt

động theo quy định của pháp luật” và cũng theo quy định tại Khoản 1, 2, 9 Điều 2

của Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC về nhiệm thì trung

tâm phát triển quỹ đất có nhiệm vụ “Lập kế hoạch tổ chức thực hiện việc thu hồi

đất theo kế hoạch sử dụng đất hàng năm của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh để bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Lập, tổ chức thực hiện phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thực hiện các dịch vụ trong

việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; đấu giá quyền sử

dụng đất; dịch vụ tư vấn xác định giá đất, trừ các trường hợp Nhà nước định giá

50

đất; cung cấp thông tin về địa điểm đầu tư, giá đất và quỹ đất cho các tổ chức, cá

nhân theo yêu cầu”.

Để đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất bị thu hồi Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã có quyết định số 2890/QĐ-

UBND ngày 22/12/2015 quyết định thành lập trung tâm tổ chức pháp triển quỹ đất

tỉnh Bình Phước. Theo quyết định số 2890/QĐ-UBND thì:

Thứ nhất, về địa vị pháp lý:

+ Trung tâm tổ chức phát triển quỹ đất tỉnh Bình Phước do Ủy ban nhân dân

tỉnh Bình Phước thành lập trực thuộc Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Bình

Phước trên cơ sở hợp nhất nguyên trạng Trung tâm phát triển quỹ đất các huyện, thị

xã hiện có và chuyển một phần chức năng, nhiệm vụ, nhân sự, hồ sơ, tài liệu, trang

thiết bị làm việc có liên quan từ quỹ phát triển đất tỉnh và một số nhiệm vụ do Sở

Tài nguyên và Môi trường thực hiện.

+ Trung tâm tổ chức phát triển quỹ đất tỉnh Bình Phước là đơn vị sự nghiệp

công lập có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động, có tư cách pháp nhân, có

trụ sở và con dấu riêng, được mở tài khoản tại kho bạc nhà nước và các tổ chức tín

dụng để hoạt động theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, về cơ cấu tổ chức và nhân sự:

Trung tâm tổ chức phát triển quỹ đất bao gồm:

- Lãnh đạo trung tâm: Trung tâm gồm 01 Giám đốc và không quá 02 phó

Giám đốc giúp việc cho Giám đốc. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Giám đốc, phó

Giám đốc trung tâm được thực hiện theo quy định của pháp luật và phân cấp thẩm

quyền quản lý công chức, viên chức trong quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập đã

được Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành.

- Cơ cấu, tổ chức của Trung tâm gồm:

+ Phòng Hành chính tổng hợp

+ Phòng Kế hoạch – Tài vụ

+ Phòng bồi thường và giải phóng mặt bằng

+ Phòng quản lý và phát triển quỹ đất

51

+ Phòng kỹ thuật và thông tin đất đai

+ Các chi nhánh trực thuộc trung tâm được thành lập ở một số huyện, thị xã

sau đây: Chi nhánh trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Bình Long; thị xã Đồng

Xoài; huyện Chơn Thành; huyện Bù Đăng; huyện Bù Đớp; huyện Hớn Quản; huyện

Đồng Phú; huyện Lộc Ninh.

- Nhân sự của trung tâm: Hiện tại, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh có 08

Chi nhánh trực thuộc trên địa bàn 08 huyện, thị xã với tổng số biên chế được giao

năm 2017 là 47 biên chế (giảm 02 biên chế so với năm 2016), 02 hợp đồng lao động

theo nghị định 68 và 37 hợp đồng lao động ngoài biên chế. Số lượng cán bộ viên

chức và người lao động có trình độ chuyên môn Đại học: 56 người, trình dộ cao

đẳng: 08 người, trình độ trung cấp: 12 người; đã qua đào tạo về cao cấp chính trị: 03

người, trung cấp chính trị: 01 người.

Bên cạnh quyết định thành lập Trung tâm tổ chức phát triễn quỹ đất để đảm

bảo cho việc thự thi pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi thì Ủy

ban nhân dân tỉnh Bình Phước cũng có những quy định về cơ chế phối hợp của các

cơ quan khác với Trung tâm tổ chức pháp luật trong quá trình thực hiện pháp luật.

Theo đó, ngày 20/01/2017 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã ban hành quyết

định số 05/2017/QĐ-UBND về quy chế phối hợp giữa Trung tâm tổ chức phát triển

quỹ đất, Chi nhánh trung tâm phát triển quỹ đất với Phòng Tài Nguyên và Môi

trường, Ủy ban nhân dân cấp huyện và các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc

tổ chức thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm phát triển quỹ đất trên

đia bàn tỉnh Bình Phước.

2.2.4. Về giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật khi Nhà

nước thu hồi đất

Cơ chế giám sát, thanh tra, kiểm tra trong quá trình thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi đất là một trong những cơ chế đảm bảo cho

quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Trên cơ sở triển khai Luật Đất đai thời gian

qua chính quyền tỉnh Bình Phước đã quan tâm đến công tác thanh tra trong lĩnh vực

đất đai. Theo thống kê của ngành thanh tra thì từ năm 2014 đến 2018 thanh tra tỉnh,

52

thanh tra sở đã tiến hành các cuộc thanh tra trong lĩnh vực tài nguyên và môi

trường, cụ thể:

Bảng 2.1. Thống kê các cuộc thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài nguyên và

môi trường trên địa bàn tỉnh Bình Phước từ năm 2014 đến năm 2018.

Tổng số vụ thanh Trong lĩnh vực Lĩnh vực khác

tra, kiểm tra quản lý đất đai Năm

10 4 6 2014

5 2 3 2015

13 8 5 2016

9 3 6 2017

13 9 4 2018

(Nguồn: Tổng hợp các báo cáo của Thanh tra tỉnh Bình Phước từ năm 2014 đến

2018)

Bên cạnh việc tiến hành các cuộc thanh tra thuộc thẩm quyền thì cơ quan

thanh tra Bình Phước còn tiến hành phối hợp tham gia vào các Đoàn thành tra, kiểm

tra do các đơn vị khác chủ trì trong lĩnh vực đất đai, cụ thể:

+ Tham gia Đoàn Thanh tra công tác quy hoạch, quản lý và giao đất tái định

canh, tái định cư tại huyện Lộc Ninh cho các hộ dân thuộc Dự án Hồ thủy lợi Phước

Hòa, tỉnh Bình Phước theo Quyết định số 2151/QĐ-UBND ngày 13/11/2013 của

Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước.

+ Tham gia Đoàn công tác của Bộ Tài nguyên và Môi trường theo Công văn

số 1673/UBND-TD ngày 02/6/2014 của UBND tỉnh Bình Phước.

+ Tham gia Đoàn thanh tra việc chấp hành pháp luật đối với một số dự án

phân lô tái định cư trên địa bàn thị xã Đồng Xoài theo Quyết định số 1360/QĐ-

UBND ngày 14/6/2016 của UBND tỉnh.

+ Tham gia Đoàn thanh tra việc chấp hành pháp luật đất đai tại tỉnh Bình

Phước theo Quyết định số 218/QĐ-TCQLĐĐ ngày 06/7/2016 của Tổng Cục Quản

lý đất đai.

53

+ Tham gia Đoàn thanh tra việc chấp hành pháp luật đất đai về bảo vệ môi

trường và bảo tồn đa dạng sinh học trên địa bàn các tỉnh (trong đó có tỉnh Bình

Phước) theo Quyết định số 1356/QĐ-TCMT ngày 12/9/2016 của Tổng Cục Môi

trường.

+ Tham gia Đoàn thanh tra dự án Trung tâm Thương mại Bù Nho do Thanh

tra tỉnh chủ trì.

2.2.5. Về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo trong thực hiện pháp luật

về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất

Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong việc thực

hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi chính quyền tỉnh

Bình Phước đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền về

công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiến hành tiếp công dân và

giải quyết các khiếu nại, tố cáo của người dân trong lĩnh vực đất đai, trong đó có

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bồi thường cho người sử dụng đất bị thu

hồi, cụ thể:

Thứ nhất, để làm cơ sở pháp lý cho việc tiếp công dân và giải quyết khiếu nại,

tố cáo thì bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung ương thì chính

quyền tỉnh Bình Phước đã ban hành một số văn bản thuộc thẩm quyền như: quyết

định số 55/2013/QĐ-UBND ngày 16/12/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình

Phước quyết định ban hành quy định tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết tranh chấp

quyền sử dụng đất, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh Bình Phước; quyết

định số 09/2015/QĐ-UBND ngày 22/5/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước

quyết định ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của ban tiếp công dân tỉnh Bình

Phước.

Thứ hai, trong công tác tiếp công dân thời gian qua chính quyền tỉnh Bình

Phước đã tiếp công dân để giải quyết những yêu cầu của người dân trong lĩnh vực

đất đai, trong đó có tiếp và giải quyết các ý kiến của người dân về thu hồi, bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư, cụ thể theo báo cáo của thanh tra tỉnh Bình Phước về

công tác tiếp công dân qua các năm:

54

Bảng 2.2. Thống kê số lượt tiếp công dân trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn

tỉnh Bình Phước từ năm 2014 đến năm 2018

Tổng số lƣợt Tổng số ngƣời Số lƣợt đông Số lƣợt công

đƣợc tiếp đƣợc tiếp ngƣời dân đến nhiều

lần Năm

144 147 0 0 2014

137 142 0 0 2015

174 183 0 0 2016

161 192 2 (với 24 hộ 0 2017

gia đình)

216 231 2 1 2018

(Nguồn: Báo cáo của Thanh tra tỉnh Bình Phước qua các năm từ năm 2014 đến

năm 2018)

Thứ ba, trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thời gian qua

chính quyền tỉnh Bình Phước đã tiếp nhận và xử lý các khiếu khiếu nại, tố cáo của

người dân đúng thẩm quyền, cụ thể:

55

Bảng 2.3. Tình hình khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị, đề nghị và giải

quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị, đề nghị trong lĩnh vực đất đai trên địa

bàn tỉnh Bình Phước từ 2014 đến năm 2018.

Tổng số đơn Số đơn KN,TC, Số đơn đã Số đơn chƣa giải

KN,TC, phản phản ánh, kiến giải quyết quyết KN, TC,

ánh, kiến nghị, nghị, đề nghị thụ KN,TC, phản phản ánh, kiến

đề nghị lý đúng thẩm ánh, kiến nghị , đề nghị

quyền nghị, đề nghị

Năm

72 (09 đơn từ kì 37 15 52 2014

trước chuyển qua)

75 (03 đơn từ kì 47 10 57 2015

trước chuyển qua)

76 (07 đơn từ kì 33 3 36 2016

trước chuyển qua)

58 (06 đơn từ kì 26 9 35 2017

trước chuyển qua)

56 (05 đơn từ kì 23 33 56 2018

trước chuyển qua)

(Nguồn: Báo cáo của Thanh tra tỉnh Bình Phước qua các năm từ 2014 đến năm

2018)

2.3. Đánh giá chung thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng

đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất tại tỉnh Bình Phƣớc

2.3.1. Những kết quả đạt được

Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

bị thu hồi trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời gian qua đã đạt được một số kết

quả nhất định, cụ thể:

56

Thứ nhất, trong hoạt động triển khai các quy định của pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi thì chính quyền tỉnh Bình Phước đã thực

hiện tốt khâu ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền để chi

tiết những nhiệm vụ mà văn bản quy phạm pháp luật ở cấp trung ương giao về cho

địa phương để làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất bị thu hồi được đầy đủ và cụ thể hơn.

Thứ hai, trong tổ chức bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi thì Ủy

ban nhân dân đã ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương

án, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức có đất bị thu

hồi tại các dự án có thu hồi đất được triển khai trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Bên

cạnh đó, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường hỗ trợ tái định cư đã tiến hành chi trả tiền

bồi thường, hỗ trợ và tiến hành tái định cư cho các hộ gia đình, cá nhân tên địa bàn

tỉnh theo đúng quy định của pháp luật.

Thứ ba, trong công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thì chính

quyền tỉnh Bình Phước đã chủ động có những chỉ đạo các cơ quan, tổ chức có liên

quan trong việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về đất đai (trong đó có

thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư) trước khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu

lực. Tổ chức việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đất đai trong các

chương trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh.

Thứ tư, trong công tác tiếp dân thì lãnh đạo chính quyền tỉnh Bình Phước đã

tổ chức thực hiện quán triệt cán bộ, công chức làm công tác tiếp thực hiện đúng các

quy định của pháp luật; kịp thời triển khai, hướng dẫn thực hiện đúng các văn bản

pháp luật mới ban hành. Luôn giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ thanh tra đảm

nhận công tác tiếp dân và giải đáp các thắc mắc yêu cầu của người dân trong lĩnh

vực thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Qua thực trạng công tác tiếp dân cũng

có thể hạn chế được tình trạng tụ tập gây rối mất trật tự.

Thứ năm, trong khâu tổ chức chỉ đạo thực hiện pháp luật về bồi thường cho

người sử dụng đất bị thu hồi chính quyền tỉnh Bình Phước tổ chức thành lập Trung

tâm phát triển quỹ đất tỉnh Bình Phước để hỗ trợ cho công tác bồi thường và về

57

nhân sự đảm bảo tốt cho công tác làm nhiệm vụ thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư. Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước đã có những quy định phối hợp

làm việc giữa Trung tâm tổ chức pháp triển quỹ đất với các cơ quan tổ chức khác có

liên quan để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư trên địa bàn tỉnh Bình Phước.

Thứ sáu trong khâu thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong

thực thi pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi chính quyền tỉnh

Bình Phước cũng đã tổ chức các cuộc thanh tra thuộc thẩm quyền để kiểm tra, thanh

tra việc chấp hành pháp luật đất đai (trong đó có thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư). Mặc dù số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị, đề nghị

của người dân trong lĩnh vực đất đai vẫn còn ở mức khá cao nhưng chính quyền

tỉnh Bình Phước đã thực hiện tốt việc thụ lý và giải quyết phần lớn các khiếu kiện,

tố cáo thuộc thẩm quyền về cơ bản đã giải quyết được những bức xúc của người dân

trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Ngoài ra, trong quá trình

tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, cán bộ Thanh tra Sở luôn chấp hành

đúng trình tự, thủ tục, thời hạn theo quy định. Đồng thời, luôn khẩn trương, cố gắng

giải quyết nhanh vụ việc được giao nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong

công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất bị thu hồi

Qua thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị

thu hồi trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian qua thì bên cạnh những kết quả đạt

được thì vẫn còn một số hạn chế nhất định, cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật quy định về chính sách bồi thường cho người sử

dụng đất hiện nay vẫn còn những bất cập, hạn chế nhất định, cụ thể:

Một là, các quy định pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất hiện hành

chưa xác định được hết các thiệt hại mà người sử dụng đất bị thu hồi chịu ảnh

hưởng. Theo quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử

58

dụng đất bị thu hồi được xác định trong giai đoạn Nhà nước thu hồi đất trong đó xác

định các thiệt hại được bồi thường bao gồm: đất; tài sản hợp pháp gắn liền với đất;

chi phí đầu tư vào đất còn lại; các khoản thiệt hại do ngừng sản xuất, kinh doanh; di

chuyển. Các khoản hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi

nghề và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ tái định cư; hỗ trợ khác. Tuy nhiên, pháp luật chỉ

xác định các khoản thiệt hại trong quá trình thu hồi đất mà chưa xác định những

thiệt hại trước và sau khi thu hồi đất cũng như chưa phản ánh hết những thiệt hại

cũng như chưa phân định rõ được đâu là đối tượng được bồi thường đâu là hỗ trợ

bởi bản chất của bồi thường và hỗ trợ là khác nhau

Hai là, chưa xác định được giữa đối tượng được bồi thường với hỗ trợ cũng

như chưa xác định được các thiệt hại trong thu hồi đất. Mặc dù pháp luật xác định

các khoản người sử dụng đất bị thu hồi được bồi thường, hỗ trợ nhưng thực tế áp

dụng vẫn chưa phân định được đâu là thiệt hại phải bồi thường, đâu là khoản hỗ trợ

bởi bản chất của bồi thường là bồi thường tương xứng với thiệt hại mà người sử

dụng đất đã gánh chịu còn bản chất của hỗ trợ là bên cạnh được bồi thường thì hỗ

trợ ở đây là hỗ trợ thêm mức hỗ trợ có thể không tương xứng với mức bồi thường

hoặc có thể tùy thuộc điều kiện ở từng địa phương như thế nào mà sẽ có các khoản

hỗ trợ khác.

Ba là, nguyên tắc bồi thường về đất còn mang tính hình thức. Khi Nhà nước

thu hồi đất thì người người sử dụng đất ưu tiên bồi thường bằng đất nếu không có

đất để bồi thường thì bồi thường bằng tiền đối với giá trị quyền sử dụng đất bị thu

hồi. Theo nguyên tắc trên thì việc bồi thường bằng đất được ưu tiên trước hết,

nhưng có thể thấy trong trường hợp bồi thường đối với đất ở theo quy định hiện

hành thì nếu số tiền bồi thường về đất nhỏ hơn một suất tái định cư tối thiểu bằng

đất ở, nhà ở tại khu tái định cư thì người sử dụng đất bị thu hồi được hỗ trợ phần

chênh lệch đó. Nhưng quy định này chỉ dừng lại khi bồi thường đối với đất ở còn

khi thu hồi đối với các loại đất khác thì không được hỗ trợ. Giả sử trường hợp khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở mà

được bồi thường bằng đất nhưng số tiền bồi thường về đất nhỏ hơn số tiền sử dụng

59

đất đối với diện tích đất được bồi thường thì người sử dụng đất bị thu hồi không

được nhận khoản hỗ trợ chênh lệch này.

Bốn là, hạn chế về giá tính tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Mặc dù pháp

luật đất đai hiện hành quy định khi thu hồi đất ưu tiên bồi thường bằng đất cũng như

các khoản hỗ trợ tùy theo hình thức bồi thường về đất hay bồi thường bằng tiền mà

hình thức hỗ trợ có thể bằng tiền hay hỗ trợ bằng hiện vật, đào tạo chuyển đổi việc

làm. Tuy nhiên, hiện nay do hạn chế về quỹ đất để bồi thường thì hầu hết các địa

phương trong cả nước khi Nhà nước thu hồi đất thì người sử dụng đất bị thu hồi

được bồi thường bằng tiền là chủ yếu. Hiện nay liên quan đến giá tính tiền bồi

thường, hỗ trợ còn một số hạn chế nhất định dẫn đến ảnh hưởng đến quyền của

người sử dụng đất bị thu hồi, cụ thể:

+ Về giá đất tính tiền bồi thường: giá đất tính tiền bồi thường về đất khi Nhà

nước thu hồi đất được xác định theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. Trong đó, việc xác định giá đất cụ

thể phải đảm bảo các nguyên tắc và áp dụng các phương pháp định giá do pháp luật

quy định. Về nguyên tắc xác định giá đất tính tiền bồi thường theo Điều 112 Luật

Đất đai 2013 thì có nguyên tắc phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại

đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng

đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng

đất. Tuy nhiên, hiện nay giá đất tính tiền bồi thường thường thấp hơn so với giá thị

trường bởi “giá đất chuyển nhượng trên thị trường thông qua các giao dịch thành

công trong các hợp đồng chuyển nhượng được lưu giữ tại cơ quan thuế, cơ quan tài

nguyên môi trường không phải là giá đất thực tế chuyển nhượng” [15, tr.140]. Điều

này xuất phát từ các quy định pháp luật về thuế, có thể thấy theo quy định của pháp

luật về thuế thu nhập cá nhân thì “thu nhập tính thuế chuyển quyền sử dụng đất

được xác định bằng giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trừ (-) giá vốn và các chi

phí hợp lý liên quan. Trong đó, giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác

định như sau: giá chuyển nhượng là giá thực tế ghi trên hợp đồng chuyển nhượng

tại thời điểm chuyển nhượng. Trường hợp không xác định được giá thực tế hoặc giá

60

ghi trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

quy định tại thời điểm chuyển nhượng thì giá chuyển nhượng được xác định căn cứ

theo Bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định.” (Khoản 1, 2 Điều 18

Nghị định 65/2013/NĐ-CP). Do đó, các bên trong giao dịch thường có xu hướng

khai báo giá trong hợp đồng theo hướng thấp hơn so với giá thực tế chuyển nhượng

nhằm giảm mức thuế phải nộp từ đó dẫn đến giá đất thực tế khác xa với giá mà Nhà

nước định giá đất khi áp dụng phương pháp so sánh trực tiếp để định giá đất làm

cho giá đất do Nhà nước ban hành thường thấp hơn so với giá thị trường.

+ Về chủ thể lập, thẩm định, quyết định giá đất cụ thể: theo quy định pháp

luật hiện hành thì giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định và trước

khi trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thì phương án giá đất cụ thể thẩm

định phải được thẩm định thông qua hội đồng thẩm định và theo quy định hiện hành

thì Hội đồng thẩm định do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập bao gồm:

“Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch Hội đồng; đại diện lãnh đạo Sở

Tài chính làm thường trực Hội đồng; đại diện lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi

trường và Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi có đất; tổ chức có chức năng tư vấn xác

định giá đất hoặc chuyên gia về giá đất và các thành viên khác do Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh quyết định.” (Khoản 3 Điều 16 Nghị định 44/2014/NĐ-CP). Như vậy, có

thể thấy chủ thể quyết định giá đất cụ thể và chủ thể thẩm định đều là các cơ quan

hành chính nhà nước, mặc dù có chủ thể độc lập là tổ chức tư vấn giá đất nhưng ít

nhiều cũng chịu sự chi phối về mặt quản lý của chính quyền địa phương hay về yếu

tố kinh tế thì các cơ quan có thẩm quyền định giá đất trong một số trường hợp là

khách hàng của tổ chức định giá đất. Từ những yếu tố trên có thể việc lập, thẩm

định, phê duyệt giá đất do cơ quan hành chính thực hiện mà không có cơ sở đảm

bảo cho người sử dụng đất tham gia cũng như giám sát vào quá trình này.

+ Trường hợp tư vấn xác định giá đất cụ thể tính tiền bồi thường: Theo quy

định thì khi lập phương án xác định giá đất cụ thể tính tiền bồi thường thì cơ quan

có thẩm quyền có thể thuê tổ chức có chức năng định giá đất tư vấn định giá đất và

giá đất do tổ chức này định giá là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết

61

định giá đất. Trong số các trường hợp thực hiện tư vấn định giá đất quy định tại

Khoản 1 Điều 115 Luật Đất đai 2013 thì tư vấn xác định giá đất được thực hiện

trong các trường hợp giải quyết khiếu nại về giá đất theo yêu cầu của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền, các bên có liên quan. Trường hợp người sử dụng đất bị thu hồi

không đồng ý với giá đất tính tiền bồi thường và có khiếu nại thì việc xác định lại

giá và nếu cần phải thuê tổ chức tư vấn định giá đất thì có thể thấy chủ thể có thẩm

quyền yêu cầu tổ chức định giá trong trường hợp này là xuất phát từ phía cơ quan

nhà nước mà không phải là người khiếu nại. Giả sử trong trường hợp khi khiếu nại

thì người sử dụng đất có thuê tổ chức tư vấn giá đất thì theo quy định hiện hành

chưa có quy định nào để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét đối với giá đất mà

người sử dụng đất đã thuê tổ chức chức định giá, bởi theo quy định thì việc thuê tổ

chức định giá đất phải được Sở Tài nguyên và Môi trường lập kế hoạch trình Ủy

ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thực hiện.

+ Các luật xác định thời điểm xác định giá đất tính tiền bồi thường là chưa

phù hợp: theo quy định pháp luật thì giá đất tính tiền bồi thường được xác định theo

giá đất cụ thể tại thời điểm quyết định thu hồi đất, nhưng thời điểm quyết định thu

hồi đất chưa xác định là thời điểm nào. Trong khi đó, thời điểm này phải được xác

định trước khi phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và ra quyết định

thu hồi đất, bởi trong phương án bồi thường trước khi thẩm định phải được lấy ý

kiến người sử dụng đất và trong đó phải thể hiện rõ giá đất tính tiền bồi thường. Bên

cạnh đó, theo quy định tại Điều 28 Thông tư 36/2014/TT-BTNMT thì việc định giá

đất cụ thể phải có kế hoạch trong kế hoạch định giá phải ấn định thời gian dự kiến

định giá. Do đó, giá đất cụ thể sẽ được định giá trước khi quyết định thu hồi đất

trong khi đó từ thời điểm này nếu trễ nhất cũng bắt đầu từ thời điểm có thông báo

thu hồi đất như vậy có thể thấy từ thời điểm thông báo thu hồi đất đến thời điểm ra

quyết định thu hồi đất cách khoản thời gian cụ thể “Trước khi có quyết định thu hồi

đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông

nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người có

đất thu hồi biết.” (Khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai 2013). Như vậy, việc định giá đất

62

cụ thể trong trường hợp này sẽ không đảm bảo được nguyên tắc giá đất tính tiền bồi

thường phù hợp với giá thị trường, bởi giá đất thị trường có thể thay đổi liên tục và

thường theo hướng tăng.

Năm là, chưa cân bằng lợi ích giữa các chủ thể trong thu hồi đất. Các chủ

thể chủ yếu trong quá trình thu hồi đất là Nhà nước, chủ đầu tư và người sử dụng

đất bị thu hồi ngoài ra còn có những chủ thể khác chịu ảnh hưởng bởi việc thu hồi

đất. Trong đó, lợi ích của các bên tham gia vào quá trình thu hồi đất là khác nhau

đối với Nhà nước lợi ích hướng đến là lợi ích chung của toàn xã hội, chủ đầu tư

tham gia với mục đích lợi nhuận là chính trong khi đó người sử dụng đất bị thu hồi

hưởng được những lợi ích mà các dự án này mang lại. Tuy nhiên, không biết những

lợi ích mà các dự án này có thể mang lại như thế nào nhưng trước hết chủ thể chịu

ảnh hưởng trước mắt là người sử dụng đất bị thu hồi. Để cân bằng lợi ích giữa các

bên đặc biệt là lợi ích của người sử dụng đất bị thu hồi thì pháp luật có những quy

định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nhưng những chính

sách bồi thường này chỉ mang tính chất bồi thường những thiệt hại trước mắt còn

những thiệt hại về sau mà người sử dụng đất phải gánh chịu thì hiện nay pháp luật

chưa có quy định hoặc có quy định nhưng không có điều kiện áp dụng trên thực tế.

Thứ hai, hạn chế về hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.

Mặc dù hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Phước đã có kế hoạch trong việc phổ

biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động phổ biến giáo dục

pháp luật mang tính chung chung nên việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp

luật trong trường hợp về việc bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi thường

lồng ghép vào các hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật đất đai nên hiệu quả của

việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu

hồi chưa thật sự đạt được hiệu quả. Nhìn chung việc tuyên truyền, phổ biến giáo

dục pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi chỉ cụ thể đến từng

người dân có đất bị thu hồi thông qua hoạt động lấy ý kiến của người dân về

phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với từng dự án mà người dân có đất bị

63

thu hồi mà trước đó thì hầu như hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

trong lĩnh vực này còn khá mờ nhạt.

Thứ ba, trong công tác tiếp dân, hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi, công tác tiếp dân định kỳ

của lãnh đạo đôi lúc chưa bố trí được thời gian phù hợp vì những lý do khách quan

trong công tác chuyên môn; đối với công tác tiếp dân thường xuyên cho tới nay biên

chế Thanh tra Sở chỉ có 07 người phụ trách nhiều lĩnh vực khác nhau và thường

xuyên phải đi thẩm tra, xác minh nên đôi khi cũng chưa đáp ứng đầy đủ thời gian

tiếp dân thường xuyên tại trụ sở cơ quan. Ngoài ra, phương tiện đi lại và thiết bị kỹ

thuật hỗ trợ cho việc thẩm tra, xác minh đơn còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, chất

lượng giải quyết đơn thư chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn.

Thứ tư, về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bồi thường cho

người sử dụng đất bị thu hồi. Trong việc báo cáo, kết luận và xem xét, quyết định

giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo: Đơn thuộc thẩm quyền cấp tỉnh giải

quyết khi đã có Quyết định giải quyết nhưng việc thực thi Quyết định chưa nghiêm,

có nhiều Quyết định được ban hành nhiều năm nhưng vẫn chưa tổ chức cưỡng chế,

thi hành. Ngoài ra, trình độ hiểu biết pháp luật trong một bộ phận nhân dân còn hạn

chế, nên có một số trường hợp nội dung khiếu nại đã được giải quyết đúng chính

sách, đúng pháp luật nhưng người dân vẫn tiếp tục khiếu nại, kể cả những vụ việc

đã được Tòa án nhân dân giải quyết và những vụ việc đã có quyết định có hiệu lực

pháp luật.

2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện quyền của người sử dụng

đất bị thu hồi xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan:

Nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân này trước hết xuất phát từ giai đoạn xây dựng các chính sách

pháp luật về quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Mặc dù quyền của người sử

dụng đất bị thu hồi do pháp luật quy định nhưng pháp luật xét đến cùng cũng là ý

chí của những nhà làm luật do đó một số quy định pháp luật về quyền của người sử

64

dụng đất bị thu hồi còn hạn chế chưa phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, nguyên

nhân chủ quan còn xuất phát từ phía những chủ thể có thẩm quyền trong việc áp

dụng các quy định pháp luật về quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Một số

nguyên nhân xuất phát từ phía chủ thể có thẩm quyền là do thiếu sót cũng như hạn

chế về chuyên môn trong quá trình xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất, ví dụ: trong định giá đất cụ thể tính tiền bồi thường

một số trường hợp xác định dựa trên ý chí chủ quan chưa áp dụng đầy đủ các

phương pháp trong định giá đất hay việc khảo sát, đo đạc kiểm đếm tài sản để làm

căn cứ bồi thường chưa đầy đủ còn nhiều thiếu xót dẫn đến việc bồi thường không

thỏa đáng.

Nguyên nhân khách quan

Nguyên nhân khách quan chính là do chính sách pháp luật hiện hành về

quyền của người sử dụng đất còn nhiều hạn chế, bởi việc thực hiện quyền của người

sử dụng đất phải dựa trên cơ sở các quy định pháp luật. Trong đó, có những quy

định về quyền của người sử dụng đất bị thu hồi không có điều kiện áp dụng trên

thực tế hoặc khi áp dụng gặp rất nhiều khó khăn, các quy định pháp luật còn mâu

thuẫn chồng chéo dẫn đến việc áp dụng pháp luật trên thực tế gặp nhiều khó khăn ví

dụ: quy định giá đất tính tiền bồi thường phải đảm bảo phù hợp với giá thị trường

nhưng hiện nay cách định giá đất trên thị trường rất khó mặc dù áp dụng đầy đủ các

quy định pháp luật trong định giá đất nhưng giá đất tính tiền bồi thường hiện nay

vẫn thấp hơn so với giá thị trường. Bên cạnh đó, do chính sách pháp luật đất đai ở

Việt Nam qua các thời kì khác nhau, đất đai có nguồn gốc rất đa dạng dẫn đến nhiều

khó khăn trong thực hiện quyền của người sử dụng đất bị thu hồi trong đó chủ yếu

là quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, ví dụ: người đang sử dụng đất trên

thực tế nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà

ở và tài sản khác gắn liền với đất và nguồn gốc sử dụng đất không rõ ràng dẫn đến

việc xác định điều kiện bồi thường, mục đích đất, giá đất tính tiền bồi thường gặp

nhiều khó khăn chưa kể đến tại thời điểm thu hồi đất có phát sinh tranh chấp với

những người sử dụng đất khác.

65

Tiểu kết chƣơng 2

Qua thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu

hồi trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời gian qua cho thấy thực tiễn thực hiện pháp

luật bên cạnh đạt được một số kết quả thì cũng còn có những hạn nhất định. Qua

việc phân tích những hạn chế trong đó hạn chế trước hết là các quy định pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi hiện nay chưa đầy đủ, bất cập; hạn

chế trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; trong công tác tiếp

dân, hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật; công tác giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi. Trên

cơ sở phân tích những vấn đề lý luận chung cũng như trạng thực hiện pháp luật về

bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi ở tỉnh Bình Phước trong chương 1 và

chương 2 sẽ là căn cứ để đưa ra định hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện

trong việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi trong

chương 3.

66

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT

VỀ BỒI THƢỜNG CHO NGƢỜI SỬ DỤNG ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC THU

HỒI ĐẤT TẠI TỈNH BÌNH PHƢỚC

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng

đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất tại tỉnh Bình Phƣớc

Thu hồi đất là điều cần thiết để đảm bảo cho đất đai sử dụng có hiệu quả trên

cơ sở quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đảm bảo cho các mục tiêu quốc phòng, an

ninh, phát triển kinh tế -xã hội. Tuy nhiên, thu hồi đất đảm bảo lợi ích của các bên

trong thu hồi đất là điều quan trọng, trong đó việc bồi thường cho người sử dụng đất

là một trong những vấn đề nóng hiện nay bởi đây là chủ thể chịu ảnh hưởng nhiều

nhất trong thu hồi đất. Do đó, việc hoàn thiện về vấn đề thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi là vấn đề cần thiết và định

hướng hoàn thiện pháp luật xuất phát từ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách

pháp luật hiện hành của Nhà nước cũng như cơ sở thực tiễn trong thực hiện pháp

luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi hiện nay, cụ thể:

Định hướng hoàn thiện trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng

Trong quan điểm chỉ đạo về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai

trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020

nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, trong nghị quyết số

19-NQ/TW hội nghị lần thứ sáu của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI việc

định hướng hoàn thiện quyền của người sử dụng đất bị thu hồi cần tiếp tục đổi mới

theo hướng:

Về đổi mới về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

Nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất hằng năm đã được

xét duyệt. Quy định rõ ràng và cụ thể hơn các trường hợp Nhà nước thực hiện việc

thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc

gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội. Đối với các dự án sản

67

xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì hộ gia đình, cá nhân đang

sử dụng được chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất với nhà

đầu tư để thực hiện dự án.

Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thuộc trách nhiệm của U

ban nhân dân các cấp và có sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Kiện toàn, nâng

cao năng lực của tổ chức có chức năng phát triển quỹ đất để bảo đảm thực thi nhiệm

vụ bồi thường giải phóng mặt bằng, đấu giá quyền sử dụng đất.

Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm

dân chủ, công khai, khách quan, công bằng và đúng quy định của pháp luật. Người

sử dụng đất được bồi thường theo mục đích đất đang sử dụng hợp pháp. Tổ chức

thực hiện có hiệu quả phương án đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất và

bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực có đất bị thu hồi. Nghiên cứu phương

thức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ để bảo đảm ổn định đời sống lâu dài cho người

có đất bị thu hồi.

Hoàn thiện cơ chế tạo quỹ đất, huy động các nguồn vốn xây dựng các khu

dân cư có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ để bố trí chỗ ở mới cho người có

đất bị thu hồi trước khi bồi thường, giải tỏa. Khu dân cư được xây dựng phù hợp với

điều kiện, phong tục, tập quán của từng vùng, miền.

Về giá đất

Giá đất do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm định

giá, bảo đảm nguyên tắc phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Chính phủ quy định phương pháp định giá đất và khung giá đất làm căn cứ

để U ban nhân dân cấp tỉnh ban hành bảng giá đất. Bổ sung quy định về điều chỉnh

khung giá đất, bảng giá đất bảo đảm linh hoạt, phù hợp với từng loại đất, các đối

tượng sử dụng đất và các trường hợp giao đất, cho thuê đất. Có cơ chế để xử lý

chênh lệch giá đất tại khu vực giáp ranh giữa các địa phương.

Kiện toàn cơ quan định giá đất của Nhà nước, nâng cao năng lực đội ngũ cán

bộ làm công tác định giá đất và thẩm định giá đất. Cơ quan tham mưu xây dựng giá

68

đất và cơ quan thẩm định giá đất là hai cơ quan độc lập; làm rõ trách nhiệm cơ quan

giải quyết khiếu nại về giá đất trong bồi thường giải phóng mặt bằng.

Làm tốt công tác theo dõi, cập nhật biến động giá đất trên thị trường; từng

bước xây dựng cơ sở dữ liệu về giá đất tới từng thửa đất. Có cơ chế giám sát các cơ

quan chức năng và tổ chức định giá đất độc lập trong việc định giá đất. Khuyến

khích phát triển các tổ chức tư vấn định giá đất độc lập.

Về thanh tra, giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai

Các cơ quan có thẩm quyền phải tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các

tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định của pháp luật về khiếu

nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; công bố công khai kết quả giải

quyết.

Củng cố, kiện toàn hệ thống thanh tra đất đai, toà án các cấp; nâng cao năng lực đội

ngũ cán bộ xét xử đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ

cho đội ngũ thanh tra viên, cán bộ xét xử, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về

đất đai. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chế tài xử lý đủ mạnh đối với các trường hợp vi

phạm.

Định hướng hoàn thiện trên cơ sở pháp luật hiện hành về thực hiện pháp

luật bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất

Chính sách pháp luật là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Do vậy, việc định hướng hoàn thiện việc

thực hiện pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trước hết phải trên cơ sở

pháp luật hiện hành đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị thu hồi như thế nào.

Theo Hiến pháp năm 2013 cũng như Luật Đất đai hiện hành thì đất đai ở Việt Nam

hiện nay được xác lập dưới chế độ sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện cho chủ

sở hữu toàn dân và Nhà nước thống nhất quản lý đất đai. Nhà nước trao quyền sử

dụng đất thông qua việc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Người

sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo

quy định của luật. Quyền của người sử dụng đất được pháp luật bảo hộ và bị thu hồi

trong trường hợp cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển

69

kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh

bạch và được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định pháp luật. Trên cơ sở đó

để đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị thu hồi trước hết phải có các quy định

cụ thể quy định chi tiết về điều kiện thực hiện các dự án có thu hồi đất trong đó chú

trọng các dự án phát triển kinh tế - xã hội, đây là các dự án sau khi thực hiện sẽ có

sự chênh lệch lớn về lợi ích kinh tế và có nhu cầu sử dụng đất lớn hiện nay do đó

cần xác định các dự án này thật sự hướng đến lợi ích chung của quốc gia, lợi ích

công cộng tránh tình trạng lợi dụng thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội để

tiến hành thu hồi đất tràn lan ảnh hưởng đến quyền của những người đang sử dụng

đất. Trong trường hợp cần thiết phải thu hồi đất thì vấn đề bảo vệ quyền của người

sử dụng đất là rất cần thiết trong đó tập trung vào các quyền bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư phải thỏa đáng để tương xứng với những gì mà người sử dụng đất bị mất

mát (nơi ở, tư liệu sản xuất). Tuy nhiên, để đạt được điều đó thì trong quá trình thu

hồi đất cần có được sự đồng thuận của người sử dụng đất bị thu hồi và vấn đề công

khai, minh bạch và được đóng góp ý kiến của người sử dụng đất bị thu hồi là điều

không thiếu và nếu đảm bảo được các quyền này của người sử dụng đất sẽ hạn chế

đến mức thấp nhất tình trạng khiếu nại, khiếu kiện cũng như đảm bảo ổn định xã hội

khi Nhà nước thu hồi đất.

Trong quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị

thu hồi khi nhà nước thu hồi đất thì bên cạnh hoàn thiện pháp luật về mặt nội dung

làm căn cứ cho việc chi trả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì việc hoàn thiện các

quy định pháp luật về đất đai khác như thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện, xử lý

trách nhiệm của những chủ thể vi phạm …là rất cần thiết. Với việc hoàn thiện các

quy định pháp luật đó thứ nhất sẽ là căn cứ để người sử dụng đất bị thu hồi có cơ sở

pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình khi các cơ quan có thẩm quyền trong quá

trình thực hiện pháp luật cũng như có căn cứ pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền

phải giải quyết những yêu cầu của người sử dụng đất và xử lý nghiêm những chủ

thể vi phạm.

70

Định hướng hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn trong việc thực hiện quyền

của người sử dụng đất

Bên cạnh những định hướng chung của Đảng, pháp luật của Nhà nước thì

việc định hướng hoàn thiện quyền của người sử dụng đất còn phải xuất phát từ thực

tiễn trong việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi.

Hiện nay, các quy định pháp luật về quyền của người sử dụng đất bị thu hồi có

những quy định còn mang tính nguyên tắc áp dụng chưa phù hợp với điều kiện ở

các địa phương. Trong đó, các quyền về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì pháp luật

hiện hành đang quy định theo hướng đóng, trong đó quy định các khoản bồi thường,

hỗ trợ cụ thể. Tuy nhiên, quy định theo hướng này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ

quan có thẩm quyền trong việc chi trả cho người sử dụng đất bị thu hồi, nhưng sẽ

không lường hết được các thiệt hại khác trong thực tế mà người sử dụng đất bị thu

hồi bởi các quy định pháp luật cũng được ban hành trên thực tiễn áp dụng được đúc

kết thành các quy định pháp luật nhưng tùy thuộc vào từng thời điểm khác nhau mà

việc xác định thiệt hại sẽ khác nhau. Do đó, hoàn thiện pháp luật về các quyền của

người sử dụng đất bị thu hồi theo hướng phù hợp với thực tế tránh các quy định

mang tính nguyên tắc mà thay vào đó là các quy định mang tính khả thi khi áp dụng

sẽ đảm bảo được quyền lợi chính đáng của người sử dụng đất bị thu hồi và cũng hạn

chế được việc khiếu nại, khiếu kiện của người dân. Chính sách pháp luật về quyền

được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần được quy định theo hướng mở trong đó bên

cạnh các khoản thiệt hại chính cần có quy định bồi thường đối với các thiệt khác

nếu có minh chứng chứng minh các thiệt hại đó.

Định hướng hoàn thiện trên cơ sở cân bằng lợi ích các bên trong thu hồi

đất

Việc cân bằng lợi ích giữa các bên trong thu hồi đất là điều khó có thể đạt

chính xác cụ thể. Tuy nhiên, ở mức độ nào đó thì lợi ích cân bằng này phải ở mức

tạm chấp nhận được để tạo được sự đồng thuận giữa các bên trong thu hồi đất.

Trong thu hồi đất không nên để lợi ích chỉ hướng đến một nhóm chủ thể nào cả đặc

biệt trong đó cần chú ý đến lợi ích của chủ thể chịu ảnh hưởng trong thu hồi đất. Do

71

đó, để hoàn thiện việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị

thu hồi thì một trọng những yếu tố nữa đó là phải trên cơ sở cân bằng được lợi ích

giữa các bên trong thu hồi đất cần phải xác định đúng bản chất các thiệt hại, các giai

đoạn phát sinh thiệt hại trong thu hồi đất và đặc biệt có chính sách tối ưu trong vấn

đề tạo đời sống ổn định cho người sử dụng đất sau khi thu hồi theo hướng tốt hơn

hoặc bằng so với trước khi thu hồi đất.

3.2. Giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử

dụng đất khi Nhà nƣớc thu hồi đất tại tỉnh Bình Phƣớc

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung cũng như thông qua thực

trạng thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi

đất trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong những năm qua và những hạn chế tồn tại

trong chương 1, chương 2, tác giả luận văn đưa ra một số giải pháp cụ thể góp phần

hoàn thiện hơn trong quá trình thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất, cụ thể:

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật

Pháp luật là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến quyền của người

sử dụng đất bị thu hồi. Với một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp sẽ là hành

lang pháp lý cho việc đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Nhưng thực

tiễn khi áp dụng pháp luật còn một số hạn chế. Do đó, cần hoàn thiện một số quy

định pháp luật hiện hành về quyền của người sử dụng đất bị thu hồi, cụ thể:

Về cân bằng lợi ích của các bên trong thu hồi đất:

Cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, chủ đầu tư, người sử dụng đất bị thu hồi là

điều cần thiết để tạo sự đồng thuận trong quá trình thu hồi đất. Tuy nhiên, hiện nay

vấn đề cân bằng lợi ích giữa các bên trong thu hồi đất còn một số hạn chế nhất định

trong đó chủ thể chịu ảnh hưởng nhiều nhất vẫn là người sử dụng đất bị thu hồi, trên

cơ sở phân tích những hạn chế trong chương 2 tác giả luận văn đề xuất một số giải

pháp cụ thể:

Thứ nhất, khi phê lập kế hoạch sử dụng đất hằng năm cấp huyện cần xem xét

kĩ các dự án có nhu cầu sử dụng đất trong đó cần tập trung xem xét năng lực của

72

chủ đầu tư tránh tình trạng sau khi giao đất chủ đầu tư không đủ năng lực thực hiện

dẫn đến các dự án treo gây lãng phí đất đai.

Thứ hai, cần có sự thay đổi trong việc xác định bồi thường theo hướng mở.

Trong đó, bên cạnh xác định các khoản bồi thường chính là quyền sử dụng đất bị

thu hồi, tài sản, chi phí đầu tư vào đất còn lại, thiệt hại do ngưng sản xuất kinh

doanh, chi phí di chuyển như hiện nay thì cần có quy định các thiệt hại thực tế phát

sinh trong thu hồi đất thì người sử dụng đất bị thu hồi cũng được bồi thường. Khi

đó, đối với các thiệt hại thực tế này được bồi thường theo hướng người sử dụng đất

phải có đầy đủ những minh chứng chứng minh thiệt hại xảy ra thì có quyền yêu cầu

Nhà nước bồi thường theo thực tế.

Thứ ba, trong thu hồi đất những khoản bồi thường, hỗ trợ cần xác định đúng

bản chất để chi trả cho người sử dụng đất. Trong đó, nếu là thiệt hại xảy ra thì cần

được bồi tương xứng những thiệt hại đó còn khoản hỗ trợ chỉ là phần hỗ trợ thêm

tùy thuộc vào thực tế tại địa phương. Chẳng hạn “trong thời gian chờ được tái định

cư mà người sử dụng đất phải thuê nhà ở thì đây thiệt hại cần được nhà nước bồi

thường theo thực tế số tiền mà người sử dụng đất đã bỏ ra để thuê nhà chứ không

phải là khoản hỗ trợ thêm như cách xác định từ thực tiễn ở tỉnh Trà Vinh trong các

dự án thu hồi đất.”

Thứ tư, xác định các thiệt hại mà người sử dụng đất bị thu hồi gánh chịu trong

các giai đoạn thu hồi đất. Như đã phân tích ở chương 2 thì hạn chế của các quy định

pháp luật đất đai hiện hành về quyền của người sử dụng đất đặc biệt là các quyền về

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chủ yếu xác định trong giai đoạn Nhà nước thu hồi

đất còn các giai đoạn trước và sau thu hồi đất chưa xác định. Do đó, pháp luật cần

có thay đổi trong vấn đề này, cụ thể:

Trước thu hồi đất: Trước thu hồi đất thì người sử dụng đất bị giới hạn bởi kế

hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện. Theo quy định hết thời hạn 03 năm kể

từ khi phần diện tích đất bị thu hồi trong kế hoạch được điều chỉnh lại mà phần diện

tích này không rơi vào kế hoạch thì người sử dụng đất được tự do thực hiện quyền

của người sử dụng đất. Trong khoản thời gian này có thể phát sinh những thiệt hại

73

mà người sử dụng đất bị thu hồi có thể phải gánh chịu nhưng rõ ràng thiệt hại này

không phát sinh từ phía người sử dụng đất mà phát sinh từ phía Nhà nước hay do

chủ đầu tư dẫn đến phải điều chỉnh lại kế hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên, thiệt hại

trong giai đoạn này thì pháp luật có quy định liên quan đến bồi thường trong trường

hợp này. Do đó, theo quan điểm tác giả “Khi có kế hoạch sử dụng đất hàng năm

cấp huyện được phê duyệt nhưng sau thời gian có sự thay đổi dẫn đến diện tích đất

dự kiến thu hồi không rơi vào diện phải thu hồi thì người sử dụng đât nếu chứng

minh được những thiệt hại xảy ra trong giai đoạn này thì có quyền yêu cầu bồi

thường”. Như vậy, sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền

trong lập kế hoạch sử dụng đất cũng như xét duyệt các dự án có sử dụng đất nằm

trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện.

Sau thu hồi đất: Những khoản bồi thường, hỗ trợ hiện nay do pháp luật quy

định chủ yếu hướng đến trong giai đoạn thu hồi đất. Nhưng sau thu hồi đất thì người

sử dụng đất bị thu hồi cũng chịu nhiều ảnh hưởng, có những ảnh hưởng xuất phát từ

người thu hồi đất cũng có những trường hợp xuất phát từ việc Nhà nước thu hồi đất.

Nhưng nếu bắt buộc Nhà nước phải bồi thường tất cả những khoản phát sinh về sau

là không thể. Do đó, theo tác giả luận văn cần có cơ chế nhằm giúp người sử dụng

đất bị thu hồi ổn định cuộc sống sau thu hồi đất tốt hơn hoặc bằng so với cuộc sống

trước khi thu hồi đất theo hướng:

+ Chính sách hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm hiện hành

cần nâng lên thành trách nhiệm của Nhà nước không chỉ dừng lại là khoản hỗ trợ.

Trong đó, từng địa phương cần phát huy được vai trò của Sở Lao động, Thương

binh và Xã hội, Ủy ban nhân dân cấp huyện trong việc lập phương án đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Bên cạnh đó, địa phương cần có những

chính sách giải quyết việc làm đối với những người sử dụng đất bị thu hồi, con,

cháu của những người này bằng việc chủ động gắn kết với các công ty, xí nghiệp tại

địa phương trong việc giải quyết việc làm nếu những người này có nhu cầu vào làm

việc hay ưu tiên con, cháu của những người họ có trình độ vào làm việc tại tổ chức

đơn vị sự nghiệp ở địa phương.

74

+ Đối với phần diện tích đất của người sử dụng đất bị thu hồi có thể chia sẻ lợi

ích với chủ đầu tư bằng các hình thức góp vốn quyền sử dụng đất. Đối với trường

hợp thu hồi đất phi nông nghiệp sản xuất kinh doanh thì nên ưu tiên bồi thường

bằng đất phi nông nghiệp tại các dự án đầu tư.

Về nguyên tắc bồi thường về đất:

“Khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc

giao đất mới có cùng mục đích sử dụng nếu không có đất bồi thường thì được bồi

thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm có quyết định

thu hồi đất”. Với nguyên tắc này thì có thể hiểu khi thu hồi đất thì Nhà nước ưu tiên

bồi thường bằng việc giao đất có cùng mục đích, chỉ khi nào không có đất để bồi

thường thì mới áp dụng hình thức bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất. Nhưng

trên thực tế khi Nhà nước thu hồi đất thì người có đất bị thu hồi chủ yếu nhận bồi

thường bằng tiền, bởi quỹ đất tại các địa phương sử dụng vào việc bồi thường ngày

càng hạn hẹp. Bên cạnh đó, hiện nay khi Nhà nước thu hồi đất ở thì hình thức bồi

thường bằng đất không được ưu tiên, Nhà nước chỉ bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái

định cư chỉ áp đối với người có đất bị thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở; phần đất ở

còn lại sau khi thu hồi không đủ để ở và không còn chỗ ở nào khác trong địa bàn xã,

phường, thị trấn và việc quy định bồi thường đối với đất ở như vậy là hoàn toàn hợp

lý, bởi nếu khi thu hồi đất ở mà ưu tiên cho việc bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái

định cư cho tất cả những người có đất ở bị thu hồi có thể sẽ không đủ diện tích đất ở

để bồi thường. Do đó, với quy định bồi thường đất ở, nhà ở tái định cư hiện nay

nhằm đảm bảo cho người có đất bị thu hồi mà không còn chỗ ở có thể tạo lập chỗ ở

mới sau khi thu hồi đất. Từ đó, cho thấy nguyên tắc ưu tiên bồi thường bằng đất

không còn phù hợp với thực tế hiện nay, theo người viết nguyên tắc này cần được

sửa đổi theo hướng vẫn giữ nguyên hai hình thức bồi thường đất hiện nay nhưng

không ưu tiên cho hình thức bồi thường bằng đất thay vào đó nên quy định theo

hướng Nhà nước có quyền lựa chon một trong hai hình thức để bồi thường cho

người có đất bị thu hồi, cụ thể: “Khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích nào thì

được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng hoặc bồi thường

75

bằng giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá đất tại thời điểm thanh toán tiền bồi

thường”.

Về giá đất tính tiền bồi thường:

Giá đất tính tiền bồi thường là vấn đề đang được quan tâm nhất hiện nay khi

Nhà nước thu hồi đất. Mặc dù pháp luật đất đai hiện hành có những tiến bộ nhất

định trong việc xác định giá đất tính tiền bồi thường so với Luật Đất đai trước đây.

Tuy nhiên, những quy định về giá đất tính tiền hiện nay còn một số hạn chế và trên

cơ sở lý luận cũng như thực tiễn về giá đất tính tiền bồi thường tác giả đề xuất một

số giải pháp liên quan đến giá đất bồi thường như sau:

Thứ nhất, theo quy định pháp luật giá đất tính tiền là giá đất cụ thể tại thời

điểm quyết định thu hồi đất. Thời điểm xác định giá đất cụ thể theo quy định trên là

không thể bởi giá đất cụ thể đã được quyết định trước đó và đã thể hiện trong

phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Do đó, thời điểm xác định giá đất tính

tiền bồi thường theo quy định là không phù hợp nên theo quan điểm tác giả chỉ cần

quy định “giá đất tính tiền bồi thường theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh quy định” và miễn sao giá đất bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi phù

hợp với giá thị trường thì đã tạo được sự đồng thuận trong bồi thường.

Thứ hai, theo tác giả nên sửa đổi quy định về tính thuế thu nhập khi chuyển

quyền sử dụng đất. Theo đó nên xác định “giá tính thuế thu nhập chuyển quyền sử

dụng đất theo giá đất do Nhà nước quy định” thay vì như quy định hiện hành. Với

việc quy định giá tính thuế theo giá đất do Nhà nước quy định một mặt sẽ hạn chế

các bên thỏa thuận giá ảo ghi trên các hợp đồng chuyển nhượng gì dù ghi thấp hay

cao hơn thì giá tính thuế vẫn theo giá Nhà nước quy định. Khi các bên ghi giá thực

tế chuyển nhượng thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành khảo sát, lập giá đất sẽ

có căn cứ xác định giá trên thị trường đã chuyển nhượng. Mặt khác với việc quy

định giá tính thuế theo giá do Nhà nước quy định sẽ đề cao tinh thần trách nhiệm

của các cơ quan nhà nước trong khảo sát, lập giá đất sao cho phù hợp với thị trường

để tránh thất thoát khoản thu thuế cho Nhà nước. Với quy định thay đổi giá tính

thuế không những giúp cho giá đất do Nhà nước ban hành phù hợp với giá thị

76

trường hơn còn hạn chế tình trạng các bên thỏa thuận giá ảo ghi trên hợp đồng, một

số trường hợp dẫn đến tranh chấp ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên trong hợp

đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Thứ ba, nên thống nhất giữa giá đất tính tiền bồi thường với giá tính đất tính

tiền hỗ trợ, và giá đất tính tiền sử dụng đất tại khu tái định cư. Như đã phân tích

trong phần những hạn chế về quyền của người sử dụng đất bị thu hồi thì giá đất tính

tiền hỗ trợ trong một số trường hợp thì vẫn xác định theo giá đất theo bảng giá đất

do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành 05 năm một lần và đối với giá đất tính tiền

sử dụng đất tại khu tái định cư hiện nay cũng không theo giá đất cụ thể hay bảng giá

đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành mà là giá khác do Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh quy định. Trên tinh thần đảm bảo quyền của người sử dụng đất bị thu hồi theo

tác giả luận văn nên quy định theo hướng “giá đất tính tiền sử dụng đất, tiền hỗ trợ,

tiền sử dụng đất tại khu tái định cư xác định theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh quy định”. Như vậy, một mặt tạo ra sự thống nhất giữa giá đất tính tiền

bồi thường với hỗ trợ và mặc khác số tiền bồi thường về đất bị thu hồi so với giá đất

tại khu tái định cư không có sự chênh lệch lớn.

Thứ tư, theo quy định pháp luật đất đai hiện hành thì chứng thư định giá đất

của các tổ chức có chức năng định giá đất được xem là căn cứ để cơ quan có thẩm

quyển xem xét quyết định giá đất cụ thể trong trường hợp khi xác định giá đất cụ

thể có thuê tổ chức định giá đất. Nhưng theo quy định thì chứng thư này chỉ có giá

trị khi xuất phát từ phía chủ thể quyết định giá đất cụ thể thuê định giá mà chưa có

quy định nào cho phép các chứng thư định giá đất do người sử dụng đất bị thu hồi

thuê định giá buộc chủ thể có thẩm quyền định giá đất cụ thể phải xem xét quyết

định ngay cả khi có khiếu nại và người sử dụng đất có căn cứ cho rằng giá đất tính

tiền bồi thường là thấp hơn giá thị trường. Do đó, theo quan điểm tác giả pháp luật

cần có quy định theo hướng “trong trường hợp người sử dụng đất bị thu hồi không

đồng ý với giá đất cụ thể tính tiền bồi thường thì có quyền thuê tổ chức định giá đất

định lại giá và chứng thư định giá đất do người sử dụng đất bị thu hồi thuê định giá

77

là một trong những căn cứ để Nhà nước xem xét giải quyết khiếu nại về giá đất tính

tiền bồi thường”.

Về các quy định bồi thường, hỗ trợ, tái định cư:

Thứ nhất, sửa đổi quy định về bồi thường đối với đất nông nghiệp của hộ gia

đình, cá nhân. Trong bồi thường về đất thì nguyên tắc bồi thường bằng đất có cùng

mục đích sử dụng được ưu tiên nhưng với quỹ đất hiện nay để bồi thường rất hạn

chế hoặc có thì cũng không đủ để bồi thường và nếu bồi thường bằng đất sẽ dẫn đến

trường hợp so sánh giữa những người sử dụng đất. Đất nước ta mặc dù trong giai

đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng phần lớn người dân sinh sống chủ yếu là

nông nghiệp để đảm bảo nguồn lương lực quốc gia. Do đó, theo tác giả cần sửa đổi

những quy định trong bồi thường đất nông nghiệp đặc biệt là đất trồng lúa, cụ thể:

Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp mà hộ gia đình, cá nhân không

trực tiếp sản xuất sản xuất nông nghiệp thì bồi thường bằng tiền.

Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp mà hộ gia đình, cá nhân trực tiếp

sản xuất nông nghiệp thì:

+ Trường hợp hộ gia đình, cá nhân còn đất nông nghiệp để sản xuất thì bồi

thường bằng tiền, nếu tại địa phương còn quỹ đất nông nghiệp trống thì được xem

xét bồi thường bằng đất.

+ Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp mà người sử dụng đất không

còn đất nông nghiệp để sản xuất thì được ưu tiên bồi thường bằng đất, nếu người sử

dụng đất không có nhu cầu nhận bồi thường bằng đất thì bồi thường bằng

tiền.Trường hợp quỹ đất không đủ để đảm bảo bồi thường cho người sử dụng đất bị

thu hồi thì bồi thường theo hướng: trước hết cho những người sử dụng đất bị thu hồi

thỏa thuận để ưu tiên cho người có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp nhận bồi

thường bằng tiền. Nếu không thỏa thuận được thì Ủy ban nhân dân cấp huyện xem

xét điều kiện thực tế của những người sử dụng đất bị thu hồi mà quyết định bồi

thường bằng đất hay bằng tiền cho từng trường hợp cụ thể.

Thứ hai, quy định thống nhất giữa trường hợp bồi thường đối với đất giao

không đúng thẩm quyền với trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,

78

quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Như nội dung đã phân tích ở

chương 2 thì hiện nay thời điểm đất giao không đúng thẩm quyền giữa trường hợp

bồi thường và trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu

nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không thống nhất dẫn đến một số trường

hợp người sử dụng đất giao không đúng thẩm quyền bị thu hồi đất thì theo quy định

cấp giấy thì được cấp giấy còn theo quy định bồi thường đất giao không đúng thẩm

quyền thì không được bồi thường. Do đó, theo tác giả cần có sự thống nhất trong

trường hợp này theo đó “thời điểm giao đất không đúng thẩm quyền trước thời

điểm 01/7/2004” bởi từ khi Luật Đất đai năm 2003 ra đời đã quy định cụ thể về

thẩm quyền giao đất, cho thuê đất.

Thứ ba, bổ sung quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh các

khoản hỗ trợ theo quy định pháp luật hiện hành, theo tác giả luận văn cần bổ sung

một số chính sách hỗ trợ cũng như quy định rõ hơn một số khoản hỗ trợ cho người

sử dụng đất bị thu hồi:

Đối với hỗ trợ về đất thì hiện nay nếu đối với người sử dụng đất ở nếu nhận

bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái định cư mà số tiền bồi thường về đất nhỏ hơn suất

tái định cư tối thiểu thì được hỗ trợ phần chênh lệch đó. Tuy nhiên, đối với khi thu

hồi đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp không là đất ở của hộ gia đình, cá nhân

thì cũng cần có quy định tương tự nếu như được bồi thường bằng tiền mà số tiền bồi

thường về đất thấp hơn suất đất mà Nhà nước bồi thường thì hộ gia đình, cá nhân

được hỗ trợ thêm khoản chênh lệch đó.

Cần quy định rõ hơn đối với khoản hỗ trợ tái định cư. Theo quy định thì hỗ

trợ tái định cư trong trường hợp người sử dụng đất ở bị thu hồi thuộc trường hợp

phải di chuyển chỗ ở. Trong đó, nếu người sử dụng đất bị thu hồi chọn nhận bồi

thường bằng đất ở, nhà ở tái định cư thì chỉ nhận khoản hỗ trợ khi số tiền bồi

thường về đất thấp hơn suất tái định cư tối thiểu. Còn trường hợp nhận bồi thường

bằng tiền tự lo chỗ ở thì theo quy định, bên cạnh được nhận tiền bồi thường về đất

còn được nhận thêm khoản tiền hỗ trợ, nếu theo quy định này thì chỉ cần người sử

dụng đất ở bị thu hồi mà phải di chuyển chỗ ở thì sẽ được nhận không cần biết số

79

tiền bồi thường về đất bằng hay thấp hơn so với suất tái định cư tối thiểu giống như

trường hợp nhận bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái định cư. Do vậy, theo tác giả cần

quy định cụ thể đối với khoản hỗ trợ tái định cư cần quy định cụ thể theo hướng

“Nếu người sử dụng đất ở bị thu hồi mà thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở thì

điều kiện nhận hỗ trợ tái định cư là nếu số tiền bồi thường về đất nhỏ hơn suất tái

định cư tối thiểu chung cho cả hai trường hợp nhận bồi thường bằng đất ở, nhà ở

tái định cư hay nhận bồi thường bằng tiền”.

3.2.2. Hoàn thiện công tác chỉ đạo tổ chức và phát triển nhân lực để đảm

bảo thực hiện pháp luật về bồi thƣờng cho ngƣời sử dụng đất khi Nhà nƣớc

thu hồi

Một hệ thống pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất hoàn thiện

nhưng việc áp dụng các quy định đó vào thực tiễn có đạt hiệu quả hay không phụ

thuộc rất nhiều vào đội ngũ cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp

luật và trách nhiệm là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả của việc áp

dụng pháp luật. Trong đó, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể do cố ý

làm trái với quy định của pháp luật có thể do hạn chế về trình độ chuyên môn. Do

đó, theo tác giả trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực cần thực hiện tốt một số giải

pháp sau:

Tăng cường vai trò của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong khâu tổ chức

đội ngũ làm nhiệm vụ, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chỉ đạo việc thực hiện

quyết liệt công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong phạm vi nhiệm vụ quyền

hạn được pháp luật giao. Trong đó, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi

nhiệm vụ cần ban hành những văn bản quy định về cơ cấu tổ chức chặt chẽ và cơ

chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như trách nhiệm của các bên

có liên quan. Ngoài ra, tập trung vào việc tuyển dụng người có chuyên môn vào làm

việc đúng vị trí của công việc, tổ chức đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ đối với

những công chức, viên chức đang thực thi nhiệm vụ.

Nâng cao trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong từng giai đoạn của

quá trình thu hồi đất có thể ảnh hưởng đến quyền của người sử dụng đất bị thu hồi.

80

Trong thu hồi đất trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó có những giai đoạn

ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của người sử dụng đất vì thế cần xác định trách

nhiệm của những chủ thể này để làm căn cứ chịu trách nhiệm về sau, cụ thể trách

nhiệm của chủ thể có thẩm quyền trong giai đoạn: lập, thẩm định, phê duyệt kế

hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện; đo đạc, kiểm kê đất đai, tài sản trên đất

để lập phương án, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; lập, thẩm định, phê duyệt giá đất

cụ thể để tính tiền bồi thường; giai đoạn lập, thẩm định, phê duyệt phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư; giai đoạn quyết định thu hồi đất; chi trả tiền bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư.

Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn của cá nhân làm nhiệm vụ

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trước hết cần bố trí những người có trình độ chuyên

môn vào làm đúng với vị trí việc làm, đối với những người làm công tác bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư chưa qua đào tạo cần được đào tạo và thường xuyên tổ

chức các lớp tập huấn về chuyên môn, kĩ năng trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư.

Xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện pháp luật

về quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Khi phát hiện các trường hợp vi phạm

pháp luật thì theo tính chất, mức độ vi phạm mà có biện pháp xử lý k luật, nếu

mức độ nghiệm trọng thì truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định hiện hành. Bên

cạnh đó, cần có quy định bồi thường thiệt hại đối với những trường hợp cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật gây ra cho người sử dụng đất bị thu

hồi.

3.2.3. Tăng cƣờng công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và giải quyết

khiếu nại, khiếu kiện và xử lý vi phạm

Khiếu nại, khiếu kiện là cách thức mà người sử dụng đất bị thu hồi bảo vệ

quyền lợi của mình trong quá trình Nhà nước thu hồi đất. Để đảm bảo quyền của

người sử dụng đất bị thu hồi thì việc giải quyết nại, khiếu kiện về đất đai phải được

giải quyết nhanh chóng trong đó tập trung vào giải quyết kịp thời các tranh chấp

giữa những người sử dụng đất trong quá trình sử dụng để khi Nhà nước thu hồi đất

81

có căn cứ bồi thường. Ngoài ra, giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện giữa người sử

dụng đất với cơ quan nhà nước trong quá trình thu hồi đất có các quyết định, hành

vi làm ảnh hưởng đến quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Để giải quyết nhanh

chóng, kịp thời các khiếu nại, khiếu kiện về đất đai của người sử dụng đất bị thu hồi

theo tác giả cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:

Hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về giải quyết khiếu nại, khiếu

kiện. Đây là một trong những giải pháp quan trọng bởi việc giải quyết khiếu nại,

khiếu kiện có nhanh chóng, kịp thời hay không cũng không thể đứng trên các quy

định của pháp luật. Việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện đất đai cũng theo trình tự,

thủ tục do pháp luật khiếu nại, pháp luật về tố tụng hành chính quy định. Do đó, cần

có sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành về khiếu nại, khiếu kiện trong đó tập

trung về thời hạn, trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại, quyền và nghĩa vụ

của người khiếu nại, khiếu kiện.

Nâng cao trình độ, tinh thần trách nhiệm của những chủ thể có thẩm quyền

giải quyết khiếu nại không để những yếu tố khác chi phối đến quá trình giải quyết

khiếu nại. Một số khiếu nại, khiếu kiện xuất phát từ một bên là cơ quan nhà nước

với một bên người sử dụng đất do đó trong quá trình giải quyết khiếu nại, khiếu

kiện vì sự nể nang, tình cảm hay sợ trách nhiệm… mà cố tình không giải quyết hay

kéo dài thời gian giải quyết, ngoài ra còn một số trường hợp hạn chế về trình độ dẫn

đến việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện thiếu tính khách quan, kéo dài.

Thực hiện tốt thủ tục đối thoại trong giải quyết khiếu nại, khiếu kiện để tạo

được sự đồng thuận giữa các bên trong việc giải quyết tranh chấp để rút ngắn thời

gian. Thủ tục đối thoại trong khiếu nại, khiếu kiện là cơ hội để cơ quan, cá nhân có

thẩm quyền xem xét lại các quyết định, hành vi của mình có phù hợp không để kịp

thời điều chỉnh cũng như giải thích cho người khiếu nại, khiếu kiện hiểu được nội

dung của vấn đề để đi đến sự đồng thuận giữa các bên. Do đó, trong đối thoại các

bên cần thiện chí và cơ quan có thẩm quyền phải tạo mọi điều kiện để người khiếu

kiện, khiếu nại thực hiện đối thoại.

82

Làm tốt công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà

ở và tài sản khác gắn liền với đất cho những trường hợp chưa được cấp để làm căn

cứ giải quyết các tranh chấp đất đai. Việc giải quyết dứt điểm việc cấp giấy cho

người sử dụng đất sẽ đảm bảo cho việc bồi thường đúng đối tượng, giúp cho quá

trình thu hồi đất diễn ra nhanh, giải quyết được một số vấn đề liên quan đến nội

dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Chẳng hạn, khi thu hồi đất mà người sử dụng

đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến khi thu hồi đất có

trường hợp tranh chấp với những người sử dụng đất khác làm kéo dài thời gian thu

hồi đất hay việc không có giấy tờ dẫn đến việc xác định mục đích sử dụng đất để

tính tiền bồi thường, diện tích bồi thường, tái định cư… Do đó, giải quyết trước một

bước về việc cấp giấy chứng nhận sẽ đảm bảo được quyền của người sử dụng đất bị

thu hồi.

3.2.4. Đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thực thi pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Công khai, minh bạch trong quá trình thực thi pháp luật về quyền của người

sử dụng đất là một trong những vấn đề quan trọng một mặt để nhân dân giám sát

quá trình hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền, mặt khác tạo sự đồng thuận cao

từ phía người sử dụng đất bị thu hồi. Do đó, theo tác giả luận văn pháp luật cần có

quy định cụ thể về vấn đề công khai, minh bạch trong quá trình thực thi pháp luật về

quyền của người sử dụng đất bị thu hồi theo hướng:

Thứ nhất, pháp luật cần có quy định công khai, minh bạch trong các giai đoạn

có thể ảnh hưởng đến quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Trong đó, đặc biệt là

công khai, minh bạch trong một số giai đoạn sau: giai đoạn xét duyệt các dự án có

sử dụng đất theo kế hoạch sử dụng đất hằng năm của cấp huyện; khảo sát, đo đạc

đất đai, kiểm đếm tài sản; lập, thẩm định, phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;

chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ. Ngoài ra, có quy định trong việc giám sát của nhân

dân vào quá trình thực thi quyền của người sử dụng đất bị thu hồi. Việc giám sát

của nhân dân không chỉ thể hiện ở việc biết thông tin mà còn thể hiện ở việc được

83

đóng góp ý kiến và ý kiến đó được cơ quan có thẩm quyền thực thi pháp luật xem

xét tiếp thu.

Thứ hai, trong giai đoạn xác định giá đất cụ thể cần có quy định để những

người sử dụng đất tham gia vào quá trình định giá đất cụ thể theo hướng khi thẩm

định giá đất cụ thể phải tiến hành họp công khai khi thẩm định và có những người

sử dụng đất bị thu hồi tham gia và tại phiên họp đó nếu người sử dụng đất bị thu hồi

có căn cứ chứng minh được giá đất đưa ra trong phương án đó không phù hợp thì cơ

quan có thẩm quyền trong quá trình lập giá đất phải xem xét lại. Giải pháp này xuất

phát từ việc giá đất cụ thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến giá bồi thường cho người sử

dụng đất bị thu hồi và công khai, minh bạch được ở giai đoạn này sẽ hạn chế được

việc khiếu nại, khiếu kiện của người người sử dụng đất bị thu hồi.

Thứ ba, đối với những nội dung mà theo quy định pháp luật phải lấy ý kiến

của người sử dụng đất bị thu hồi, cần có quy định cơ quan có thẩm quyền phải xem

xét xử lý ý kiến đó và có phản hồi bằng văn bản hay thông qua tổ chức họp những

người có ý kiến để công khai việc xử lý ý kiến đó, trong đó phải thể hiện rõ mức độ

tiếp thu ý kiến đóng góp đó đến đâu trường hợp không đồng ý với ý kiến đóng góp

thì phải có lý do cụ thể giải thích cho người đã đóng góp ý kiến.

Thứ tư, trong các hình thức thể hiện thông tin, lấy ý kiến theo quy định hiện

hành thì tập trung vào những hình thức nào mà người sử dụng đất bị thu hồi dễ hiểu,

dễ tiếp cận. Bên cạnh, công bố thông tin, lấy ý kiến qua trang thông tin điện tử thì

cần tập trung vào hình thức tổ chức các cuộc họp dân để tổ chức lấy ý kiến và công

bố các thông tin tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, điểm sinh hoạt dân cư.

3.2.5.Coi trọng công tác tiếp công dân, vận động tuyên truyền phổ biến pháp

luật cho người dân

Một hệ thống các quy định pháp luật hoàn thiện, tinh thần trách nhiệm cao của

những người thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là chưa đủ mà còn

phải xuất phát từ phía những người sử dụng đất bị thu hồi. Đề hoàn thiện thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất theo tác giả

việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và công tác tiếp dân cũng rất quan

84

trọng nhằm nâng cao nhận thức của người dân trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư rất quan trọng. Trước hết, giúp người dân hiểu bản chất việc Nhà nước thu

hồi đất bên cạnh đó là những quyền và nghĩa vụ của mình như thế nào trong thu hồi

đất. Một trong những quyền cơ bản đó là quyền được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

và việc am hiểu các quy định của pháp luật sẽ giúp người dân biết được khi Nhà

nước thu hồi đất mình được bồi thường những gì, mức bồi thường ra sao, các chính

sách hỗ trợ, tái định cư mình được hưởng để có thể phát hiện những trường hợp

quyền lợi của mình bị ảnh hưởng và kịp thời khiếu nại, khiếu kiện để bảo vệ quyền

lơi của mình. Do đó, theo tác giải để nâng cao nhận thức của người dân cần thực

hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau ví

dụ: thông qua cổng thông tin điện tử, đài phát thanh, tư vấn trực tuyến, họp dân…,

trong đó tùy thuộc vào đặc thù ở từng địa phương mà tập trung vào những hình thức

nào mà người dân dễ tiếp cận, dễ hiểu ví dụ: ở những địa phương trình độ công

nghệ thông tin của người dân còn hạn chế thì hình thức họp dân trực tiếp để phổ

biến các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được xem là hiệu quả

để nâng cao nhận thức của ngươi dân. Bên cạnh đó, cần có có một số biện pháp biện

pháp khen thưởng đối với những người sử dụng đất bị thu hồi bàn giao đất sớm và

có những hành động tích cực trong việc vận động những người sử dụng đất bị thu

hồi khác hiểu được các quy định về thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để sớm

ban giao đất.

85

Tiểu kết chƣơng 3

Trên cơ sở phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường cho người

sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình Phước và phân tích

những hạn chế chung trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất bị thu hồi ở chương 2 tác gỉa đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện.

Trong nhóm các giải pháp trên thì giải pháp trước hết là hoàn thiện hệ thống chính

sách pháp luật về bồi thường hỗ trợ, tái định cư. Trong đó, tập trung hoàn thiện quy

định pháp luật về giá tính tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; quy định về bồi

thường đối với đất, đặc biệt là đất nông nghiệp; tập trung vào chính giữa đào tạo,

chuyển đổi và tìm kiếm việc làm cho người sử dụng đất bị thu hồi. Bên cạnh giải

pháp về hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật thì việc hoàn thiện thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất còn phải

thực hiện tốt một số giải pháp về hoàn thiện công tác chỉ đạo tổ chức và phát triển

nhân lực để đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi

Nhà nước thu hồi; tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và giải quyết

khiếu nại, khiếu kiện và xử lý vi phạm; đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch

hóa quá trình thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất; coi trọng công tác tiếp công dân, vận động tuyên truyền phổ biến pháp luật

cho người dân.

86

KẾT LUẬN

Để hoàn thiện qúa trình thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng

đất bị thu hồi nói chung cũng như ở tỉnh Bình Phước trong nội dung luận văn tác

giả đã cố gắng hoàn thành những mục đích và nhiệm vụ của đề tài “Thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất từ thực

tiễn tại tỉnh Bình Phước” trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận chung về

quyền của người sử dụng đất bị thu hồi và thực tiễn thực hiện pháp luật ở tỉnh Bình

Phước để đề ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện trong thực hiện pháp luật về

bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất, cụ thể:

Luận văn đã hệ thống được cơ sở lý luận chung về bồi thường cho người sử

dụng đất bị thu hồi. Vấn đề bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi ngày càng

được Đảng, Nhà nước quan tâm, cụ thể lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp

năm 2013, quy định quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ, nhà nước thu hồi đất

trong trường hợp cần thiết vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã

hội và việc thu hồi đất được Nhà nước bồi thường. Bên cạnh Hiến pháp năm 2013

thì quyền của người sử dụng đất còn được quy định trong Luật Đất đai năm 2013 và

hệ thống văn bản quy phạm pháp luật dưới luật hướng dẫn thi hành. Trong đó, tác

giả đã làm rõ một số vấn đề liên quan đến khái niệm thu hồi đất, bồi thường, thực

hiện pháp luật; đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật về bồi

thường cho người sử dụng đất; phân tích làm rõ nội dung trong thực hiện pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất như: tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật;

tổ chức thực hiện pháp luật; xây dựng tổ chức bộ máy và đào tạo đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức; giám sát, thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại, khiếu

kiện, tố cáo và xử lý vi phạm trong thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử

dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất. Ngoài ra tác giả còn phân tích một số yếu tố ảnh

hưởng đến quyền của người sử dụng đất bị thu hồi bao gồm các yếu tố liên đến

chính trị, pháp luật, kinh tế, con người.

Trên cơ sở thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất

hiện nay bên cạnh một số kết quả đạt được góp phần bảo vệ được quyền của người

87

sử dụng đất bị thu hồi thì vẫn còn một số hạn chế nhất định trong quá trình thực

hiện pháp luật như sau:

Thứ nhất, các quy định pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu

hồi hiện nay chưa đầy đủ, bất cập:

+ Các quy định pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất hiện hành

chưa xác định được hết các thiệt hại mà người sử dụng đất bị thu hồi chịu ảnh

hưởng.

+ Chưa xác định được giữa đối tượng được bồi thường với hỗ trợ cũng như

chưa xác định được các thiệt hại trong thu hồi đất.

+ Nguyên tắc bồi thường về đất còn mang tính hình thức.

+ Hạn chế về giá tính tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

+ Chưa cân bằng lợi ích giữa các chủ thể trong thu hồi đất.

Thứ hai, hạn chế trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật;

Thứ ba, hạn chế trong công tác tiếp dân, hoạt động thanh tra, kiểm tra việc

thực hiện pháp luật;

Thứ tư, hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bồi

thường cho người sử dụng đất bị thu hồi.

Trên cơ sở những vấn đề lý luận và phân tích thực trạng thực hiện pháp luật

về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi tác giả luận văn đề xuất một số giải

pháp góp phần hoàn thiện trên những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách

pháp luật của Nhà nước và từ cơ sở thực tiễn. Theo đó, để hoàn thiện quyền của

người sử dụng đất bị thu hồi thì một số giải pháp tối ưu hiện nay là: hoàn thiện hệ

thống pháp luật theo hướng sửa đổi những quy định còn hạn chế, chưa phù hợp, bổ

sung những quy định mới phù hợp với thực tế hiện nay để làm cơ sở pháp lý trong

việc thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất bị thu hồi; bên cạnh

giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật thì việc hoàn thiện thực hiện

pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất còn phải

thực hiện tốt một số giải pháp về hoàn thiện công tác chỉ đạo tổ chức và phát triển

nhân lực để đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường cho người sử dụng đất khi

88

Nhà nước thu hồi; tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra và giải quyết

khiếu nại, khiếu kiện và xử lý vi phạm; đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch

hóa quá trình thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất; coi trọng công tác tiếp công dân, vận động tuyên truyền phổ biến pháp luật

cho người dân.

89

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31 tháng

10 năm 2012 Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời

kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020

nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

2. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường (2014), Thông tư số 36/2014/TT-

BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy

định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng; điều chỉnh bảng giá đất;

định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất.

3. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-

BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy

định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

4. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường (2015), Thông tư số 02/2015/TT-

BTNMT ngày 27/01/2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết

một số điều của Nghị định 43/2014/NĐ-CP và Nghị định 44/2014/NĐ-CP

của Chính phủ.

5. Nguyễn Thị Châu (2016), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai, Luận văn Thạc

sĩ, Học viện khoa học Xã hội.

6. Chính phủ (1994), Nghị định số 90/CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 của Chính

phủ quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng

vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

7. Chính phủ (1998), Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 1998

của Chính phủ quy định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất sử

dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.

8. Chính phủ (2013), Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính

phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật sử

đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân.

90

9. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013.

10. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính

phủ quy định về giá đất.

11. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của

Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi

đất.

12. Chính phủ (2017), Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của

Chính phủ quy định sửa đổi, bổ sung một Nghị định quy định chi tiết thi

hành Luật Đất đai.

13. Ngô Thanh Hà (2016), Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện công tác

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giải phóng mặt bằng đối với các dự án

đầu tư trên địa bàn thành phố Nam Định – tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc

sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội

14. Tạ Thị Hà (2011), Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án thuộc huyện Thanh

Trì, thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Nông nghiệp Hà

Nội.

15. Bùi Quang Hậu (2016), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ, Học viện khoa học Xã

hội.

16. Hội đồng Chính phủ (1959), Nghị định số 151/TTg ngày 14 tháng 01 năm

1959 của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ về tạm thời về trưng mua,

trưng dụng ruộng đất.

17. Nguyễn Công Huy (2016) Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Quãng Ngãi, Luận văn Thạc sĩ

Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội.

18. Ngân hàng thế giới (2011), Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và chuyển dịch đất

đai tự nguyện ở Việt Nam, Hà Nội.

91

19. Cao Đại Nghĩa (2016), Thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, Luận

văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

20. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013.

21. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2003.

22. Quốc hội (2013), Luật Khiếu nại năm 2011.

23. Quốc hội (2013), Luật Tố cáo năm 2011.

24. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013.

25. Quốc hội (2013), Luật Tố tụng Hành chính năm 2015.

26. Lương Hoàng Sang (2018), Quyền của người sử dụng đất bị thu hồi ở tỉnh

Trà Vinh, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc Gia.

27. Bùi Thanh Song (2014), Hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, Luận văn

Thạc sĩ, Trường đại học Kinh tế Quốc dân.

28. Thanh tra tỉnh Bình Phước (2014), Báo cáo số 51/BC-TTr ngày 02/12/2014

của Thanh tra tỉnh Bình Phước ngày về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm

2014 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2015, Bình Phước.

29. Thanh tra tỉnh Bình Phước (2015), Báo cáo số 99/BC-TTr ngày 17/11/2015

của Thanh tra tỉnh Bình Phước ngày về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm

2015 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2016, Bình Phước.

30. Thanh tra tỉnh Bình Phước (2016), Báo cáo số 67/BC-TTr ngày 05/12/2016

của Thanh tra tỉnh Bình Phước ngày về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm

2016 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2017, Bình Phước.

31. Thanh tra tỉnh Bình Phước (2017), Báo cáo số 82/BC-TTr ngày 02/11/2017

của Thanh tra tỉnh Bình Phước ngày về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm

2017 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2018, Bình Phước.

32. Thanh tra tỉnh Bình Phước (2018), Báo cáo số 51/BC-TTr ngày 14/11/2018

của Thanh tra tỉnh Bình Phước ngày về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm

2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019, Bình Phước.

92

33. Đặng Thị Phương Thủy (2015), Quản lý bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

với đối tượng bị thu hồi đất trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội,

Luận văn Thạc sĩ, Đại học Thương Mại Hà Nội

34. Lâm Văn Tốt (2016), Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất qua thực tiễn áp dụng tại Trà Vinh, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Trà

Vinh.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,

Nxb. Công an nhân dân, năm 2014.

36. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. Công an nhân

dân, năm 2009.

37. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Đất đai,

Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, năm 2018.

38. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2013), Quyết định số 55/2013/QĐ-

UBND ngày 16/12/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước quyết định

ban hành quy định tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết tranh chấp quyền sử

dụng đất, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh Bình Phước, Bình

Phước.

39. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2014), Chỉ thị số 06/CT-UBND ngày

ngày 28 tháng 2 năm 2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước về việc

triển khai thi hành Luật Đất đai, Bình Phước.

40. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2015), Quyết định số 09/2015/QĐ-

UBND ngày 22/5/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước quyết định

ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của ban tiếp công dân tỉnh Bình

Phước, Bình Phước.

41. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2015), Quyết định số 13/2015/QĐ-

UBND ngày ngày 08 tháng 6 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình

Phước về việc ban hành quy định về chính sách, trình tự, thử tục bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bình

Phước, Bình Phước.

93

42. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2015), Quyết định số 2890/2015/QĐ-

UBND ngày ngày 22 tháng 12 năm 2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình

Phước Quyết định thành lập Trung tâm phát triển quỹ đất tinh Bình Phước,

Bình Phước.

43. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2017), Quyết định số 05/2017/QĐ-

UBND ngày 20/01/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước ban hành

quy chế phối hợp giữa Trung tâm phát triển quỹ đất, chi nhánh trung tâm

phát triển quỹ đất với Phòng Tài Nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân

cấp huyện và các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc tổ chức thực hiện

một số chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm phát triển quỹ đất trên địa bàn

tỉnh Bình Phước, Bình Phước.

44. Phạm Văn Võ (2012), Chế độ pháp lý về sở hữu và quyền tài sản đối với

đất đai, Nxb Lao động, TP. Hồ Chí Minh.

45. Lê Thị Yến (2010), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua

thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Luận văn

Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội

94