BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
........./......... ........./.........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HẢO
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TẠI UỶ BAN NHÂN DÂN
QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
........./......... ........./.........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ HẢO
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TẠI UỶ BAN NHÂN DÂN
QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8380102
Người hướng dẫn luận văn: PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng
HÀ NỘI, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị trường Học viện Hành chính Quốc
gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Hảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN ............................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp đất đai ............................................ 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp đất đai ...................................... 7
1.1.2. Tranh chấp hành chính về đất đai.................................................. 13
1.2. Giải quyết tranh chấp đất đai về đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy
ban nhân dân .............................................................................................. 14
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai ....................... 14
1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai ................................. 15
1.2.2. Giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai của Uỷ ban nhân dân ..... 16
1.2.3. Mục đích và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại
UBND ....................................................................................................... 20
1.2.4. Đối tượng, phạm vi và thẩm quyn giải quyết tranh chấp đất đai của
Ủy ban nhân dân ...................................................................................... 21
1.2.5 Nội dung, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm
quyền của UBND các cấp ........................................................................ 22
1.3. Những yếu tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai
của Ủy ban nhân dân ................................................................................. 25
1.3.1. Yếu tố pháp luật .............................................................................. 25
1.3.2. Tổ chức bộ máy và năng lực của CBCC tham gia giải quyết tranh
chấp đất đai .............................................................................................. 27
1.3.3. Yếu tố văn hóa- xã hội .................................................................... 29
1.3.4. Yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Việt Nam Xã hội chủ nghĩa ...................................................................... 30
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG.............................. 33
2.1. Khái quát chung về Quận hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội ......... 33
2.1.1. Điều kiện hành chính- dân cư của quận Hai Bà Trưng ................. 33
2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội của quận Hai Bà Trưng ......................... 34
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai của Quận Hai Bà Trƣng,
những năm qua .......................................................................................... 36
2.2.1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng từ
2013 đến tháng 06/2022 ........................................................................... 36
2.2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà
Trưng những năm qua .............................................................................. 39
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai trên địa
bàn quận Hai Bà Trƣng, TP Hà Nội ........................................................ 46
2.3.1. Những kết quả đạt được ................................................................. 46
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ......................................... 52
Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 62
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................... 63
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp đất
đai nói chung, quận Hai Bà Trƣng nói riêng .......................................... 63
3.1.1. Quán triệt và thể chế hóa đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về công tác giải quyết tranh chấp đất đai ................ 63
3.1.2. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nói chung, quận Hai Bà
Trưng nói riêng nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân
góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ................. 66
3.1.3. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nhằm nâng cao hiệu quả
của quản lý nhà nước nói chung, quản lý về đất đai nói riêng ................ 72
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp đất đai của
Ủy ban nhân dân các cấp nói chung, của UBND quận hai Bà Trƣng
nói riêng ...................................................................................................... 75
3.2.1. Rà soát sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật về đất đai và giải
quyết tranh chấp về đất đai ...................................................................... 75
3.2.2. Tiếp tục nâng cao công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở
trên địa bàn quận Hai Bà Trưng .............................................................. 81
3.2.3. Đẩy mạnh công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạo
điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp đất đai ...................... 85
3.2.4. Kiện toàn công tác cán bộ, bổ sung các nguồn lực vật chất cho các cơ
quan làm công tác giải quyết đơn thư khiếu nại tranh chấp đất đai ............ 87
3.2.5. Nâng cao trách nhiệm vai trò lãnh đạo của thủ trưởng cơ quan giải
quyết tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư tại quận hai Bà Trưng ...... 89
3.2.6. Nâng cao vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra trong việc giải
quyết tranh chấp đất đai tại quận hai Bà Trưng ...................................... 92
Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................... 97
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà trưng ........... 37
Bảng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận HBT ..... 42
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với các nền
kinh tế trong khu vực và thế giới thì có rất nhiều vấn đề nảy sinh trong mọi
lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu về cuộc sống ngày càng tăng cao
và nền tảng để thực hiện những nhu cầu trên đó chính là đất đai. Vì vậy, đất
đai là đối tượng trung tâm của con người, là tài sản vô cùng quý giá là nền
tảng căn bản để cho con người thực hiện mọi mong muốn. Trong những năm
gần đây, tình hình tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức
tạp về tính chất, nhất là ở những vùng đang đô thị hóa nhanh. Trong đời sống
xã hội ngày càng phức tạp nói trên đã phát sinh nhiều dạng tranh chấp trong
đó tồn tại các dạng tranh chấp phổ biến như: tranh chấp hợp đồng mua bán,
chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất; do lấn, chiếm
đất; tranh chấp đất đai trong các vụ án ly hôn... với rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến tranh chấp đất đai như: Việc quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót, sơ hở;
việc lấn chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng không được ngăn
chặn và xử lý kịp thời...
Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật đất đai ngày càng được sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó quy định việc giải quyết tranh chấp đất
đai thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân và Tòa án nhân dân. Tuy nhiên,
các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mới chỉ "dừng lại" ở
mức độ chung chung, nên trên thực tế dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa
ủy ban nhân dân và Tòa án nhân dân. Khắc phục những nhược điểm này, Luật
Khiếu nại 2011 cũng như Luật Đất đai năm 2013 đã quy định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai tương đối cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan có
thẩm quyền áp dụng giải quyết các tranh chấp đất đai có hiệu quả hơn. Theo
1
thống kê, hàng năm cả nước có khoảng 80.000 vụ việc tranh chấp về đất đai,
trong đó các cơ quan nhà nước mới giải quyết được khoảng 70- 80% số vụ
việc/năm, có những vụ việc tồn đọng 06 -10 năm hoặc trên 10 năm vẫn chưa
được giải quyết hoặc chưa giải quyết được.
Quận Hai Bà trưng là một trong những quận trung tâm của TP hà Nội,
những năm qua trên địa bàn quận Hai Bà Trưng số vụ việc khiếu nại, tố cáo,
tranh chấp trong lĩnh vực đất đai chiếm tỷ lệ lớn hơn so với các lĩnh vực khác.
Tính chất của việc khiếu nại về đất đai cũng đã khác. Trong các vụ khiếu nại
đông người đã có sự liên kết giữa những người đi khiếu nại của các quận,
phường khác nhau, của người dân với nhau để tạo áp lực đối với chính quyền
địa phương. Nguyên nhân của những khiếu nại trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
chủ yếu do có sự biến động lớn về chủ sử dụng đất; sự bất cập của hệ thống
chính sách pháp luật về đất đai; sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành
pháp luật về đất đai; sự yếu kém trong công tác bồi thường giải phóng mặt đã
dẫn đến khiếu nại về đất đai trên địa bàn là khá cao. Bên cạnh đó, một bộ phận
người dân chưa nhận thức đầy đủ các quy định của pháp luật, nên khiếu nại
chưa đúng quy định. Tình trạng vi phạm pháp luật, mất dân chủ, tham nhũng,
tiêu cực xảy ra khá phổ biến, nhất là ở cơ sở gây bất bình, bức xúc trong nhân
dân, làm phát sinh khiếu kiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất
đai, pháp luật về khiếu nại còn quá nhiều yếu kém, chưa thường xuyên, không
đúng trọng tâm, trong điểm và hiệu quả chưa cao; kết quả hòa giải không thành
tại tuyến cơ sở và phải chuyển hồ sơ đến cấp có thẩm quyền để giải quyết theo
trình tự, thủ tục tiếp theo cũng tạo nên những vụ khiếu nại kéo dài.
Bên cạnh đó, công tác tiếp nhận đơn chưa được hướng dẫn cụ thể theo
quy định của pháp luật ; Các vụ việc đã được giải quyết nhưng việc tổ chức
thực hiện chưa tốt, thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để khiếu kiện kéo dài, gây
bức xúc, làm phát sinh những quan hệ khiếu nại mới phức tạp hơn; Việc phân
2
công thực hiện nhiệm vụ tham mưu trong việc giải quyết các khiếu nại về đất
đai không thống nhất trong cơ quan…cũng việc phối hợp giải quyết khiếu nại
về đất đai giữa các cơ quan có thẩm quyền chưa được chặt chẽ và thống nhất,
còn đùn đẩy trách nhiệm. Giải quyết khiếu nại chưa bảo đảm về trình tự, thủ
tục, hình thức văn bản, chưa bảo đảm theo quy định của pháp luật, nội dung
nhiều quyết định giải quyết khiếu nại còn có vi phạm pháp luật. Công tác
thanh tra, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại đôi khi còn mang tính hình thức,
chiếu lệ v.v…
Từ những vấn đề nêu trên, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài "Giải
quyết tranh chấp đất đai của Uỷ ban nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà
Nội" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan tới việc nghiên cứu đề tài đã có một số công trình nghiên cứu
trực tiếp hoặc gián tiếp về vấn đề tranh chấp đất đai với những quan điểm tiếp
cận cũng như mức độ và phạm vi tiếp cận khác nhau. Tiêu biểu phải kể đến
các công trình như:
Thanh Tra Chính phủ: Đề tài cấp Bộ (2010): “Hoạt động thanh tra góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai - Thực trạng và giải pháp”.
Sách chuyên khảo “Giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai, phát hiện vi phạm và xử lý vướng mắc”.
Tạp chí Toà án nhân dân điện tử với bài viết ngày 20/5/2021 về : “Một
số sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai thông qua thực tiễn xét xử,
nguyên nhân và giải pháp”.
Luận Văn: “ Pháp luật giải quyết tranh chấp về đất đai tại Toà án nhân
dân tỉnh Thái Bình” ngày 9/ 8/2021 của Ths. Nguyễn Thị Quỳnh.
TS. Trần Anh Tuấn - Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 7, tr.144, tháng
4/2009): “Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các tranh chấp về quyền
3
sử dụng đất”
Nguyễn Xuân -Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử
(http://www.nclp.org.vn); “Vướng mắc về pháp luật liên quan đến giải quyết
tranh chấp, khiếu nại về đất đai;
“Bàn về thuật ngữ “khiếu nại” trong giải quyết tranh chấp đất đai”
của tác giả Nguyễn Trí Phước - Tạp chí Điện tử Thanh tra.
TS.Trần Văn Sơn, “Tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động giải quyết khiếu nại, Tố cáo”, Nhà Xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2007.
Như vậy, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tranh chấp đất
đai, về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai nhưng việc giải quyết tranh
chấp đất đai trên phạm vi từng địa phương cũng có những nét riêng biệt. Vì
vậy đề tài luận văn nghiên cứu của tác giả không trùng lặp với các công trình
nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên, những công trình trên lại là nguồn tài liệu
quý giá để tác giả tiếp cận và tiến hành nghiên cứu đề tài của mình, nhất là
công tác giải quyết về đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Mục đích của luận văn là làm
rõ cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai; phân tích, đánh giá thực
trạng công tác giải quyết giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
UBND quận Hai Bà Trưng đề từ đó tìm ra những ưu điểm, hạn chế của công
tác này, từ đó xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận hai Bà Trưng TP Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận về tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành
chính trong việc giải quyết đất đai, đặc biệt là vai trò của cấp huyện trong việc
4
giải quyết tranh chấp đất đai.
- Đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp đất đai của UBND
Quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm cho việc giải quyết
tranh chấp đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của
UBND Quận Hai Bà Trưng nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:
Là toàn bộ hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền
của Ủy ban nhân dân quận Quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Phạm vi về mặt nội dung: Nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp
đất đai của Quận hai Bà Trưng trên địa bàn TP Hà Nội. theo quy định của
pháp luật đất đai và các VBQPPL khác có liên quan.
- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu, phân tích và đánh giá
việc giải quyết tranh chấp đất đai của Quận hai Bà Trưng, TP Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian: Giải quyết các tranh chấp đất đai của Uỷ ban
nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội từ năm 2017 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giải quyết tranh chấp đất đai để luận
giải các vấn đề đặt ra.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể để giải quyết những vấn đề như: phương pháp tiếp cận hệ thống, phương
pháp kế thừa tài liệu thứ cấp, phương pháp khảo sát, Phương pháp thống kê,
tổng hợp, phương pháp chuyên gia, phương pháp mô hình hóa …và được sử
5
dụng ở cả 3 chương, lời nói đầu và kết luận.
6. Ý nghĩa và những đóng góp mới của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho
các cơ quan hành chính nhà nước TP Hà Nội trong việc thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai nói
riêng, nhất là những đề xuất của đề tài có thể được xem xét và áp dụng tại địa
bàn địa phương trong việc nâng cao chất lượng công tác giải quyết tranh chấp
đất đai tại cơ quan hành chính nhà nước TP Hà Nội.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu phục vụ cho
công tác nghiên cứu và giảng dạy về đất đai tại các cơ sở đào tạo đại học, cao
đẳng nói chung, Học viện Hành chính nói riêng, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân.
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất của Ủy ban nhân dân
Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện giải quyết
tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN
6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp đất đai
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Đất đai luôn có vai trò và vị trí quan trọng đối với mỗi quốc gia, góp
phần quyết định sự phát triển của mỗi đất nước. Tranh chấp đất đai thể hiện
dấu ấn mạnh mẽ trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của quan hệ pháp luật đất
đai. Chẳng hạn trước đây, Nhà nước chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu trong
quan hệ đất đai: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, đất đai được “tập thể hóa
thành ruộng đất hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nhà nước, nghiêm cấm mua bán chuyển nhượng đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức1
Bước sang thời kỳ mới, Nhà nước với các quy định pháp luật chặt chẽ
đã điều chỉnh các quan hệ đất đai qua đó đã tạo lập một môi trường pháp lý,
các chính sách liên quan đến nghĩa vụ tài chính của đất đai, đồng thời đất đai
được thừa nhận có giá trị, quyền sử dụng đất được tham gia các giao dịch dân
sự từ đó tạo nên các quan hệ đất đai ngày càng đa dạng và phức tạp những từ
đó cũng này sinh nhiều tranh chấp.
Ngoài ra tính phức tạp, gay gắt của tranh chấp đất đai không chỉ dừng
lại ở khía cạnh tranh chấp dân sự, hành chính mà còn có thể dẫn đến các vụ án
hình sự, thậm chí còn mang tính chính trị, gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
Vì vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung rất quan trọng và không
1 . Xem: Điều 5 Luật Đất đai 1987.
7
thể thiếu của pháp luật đất đai.
Theo quy định Khoản 24 Điều 3 Luật đất đai 2013 thì “tranh chấp đất
đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”2.
Trong đó, người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định
của Luật Đất đai, bao gồm: Các tổ chức trong nước, các tổ chức nước ngoài
có chức năng ngoại giao, người Việt nam định cư ở nước ngoài, các hộ gia
đình, cá nhân trong nước, cộng đồng dân cư, các cơ sở tôn giáo….
Các loại hình doanh nghiệp sử dụng đất gồm: DN có vốn đầu tư nước
ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại
theo quy định của pháp luật về đầu tư.
Đối với từng chủ thể sử dụng đất khác nhau với hình thức sử dụng đất
khác nhau, pháp luật sẽ ghi nhận quyền và nghĩa vụ tương ứng. Cụ thể, quyền
và nghĩa vụ của cá nhân, gia đình sử dụng đất được ghi nhận tại Điều 179
Luật Đất đai 2013. Mục 2 Chương 11 Luật Đất đai 2013 đã quy định chi tiết
quyền và nghĩa vụ đối với tổ chức sử dụng đất.
Như vậy, tranh chấp đất đai được hiểu trước tiên là những mâu thuẫn
về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu và chủ sử dụng đất đối với một diện tích
đất cụ thể mà mỗi bên đều cho rằng mình có được quyền đó do pháp luật quy
định và bảo hộ kể cả tài sản gắn liền với QSD đất, hay đó còn là những tranh
chấp giữa các chủ thể về ranh giới sử dụng đất. Tranh chấp đất đai thường thể
hiện dưới 2 dạng: Tranh chấp dân sự về quyền sử dụng đất thông qua các
quan hệ dân sự về đất đai như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế,
thế vhaaps, góp vốn… bằng quyền sử dụng đất và tranh chấp hành chính về
2 . Xem Luật Đất đai ban hành ngày 29/11/2013 có hiệu lực ngày 01/7/2014.
8
quyền quản lý và sử dụng đất thông qua các quan hệ hành chính đối với đất
đai và tài sản trên đất thông qua các hoạt động thu hồi đất, cấp giấy chứng
nhận QSD đất, cho phép hay không cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;
thông qua hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư hoặc giải quyết tranh chấp
đất đai chưa phù hợp với luật pháp, những tranh chấp này thường gọi là tranh
chấp hành chính về đất đai.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Các tranh chấp đất đai cả trong lĩnh vực dân sự hay trong lĩnh vực hành
chính đều có những đặc điểm chung đó là tính phức tạp của đất đai, những
cũng mang những đặc điểm riêng của nó, ví dụ tranh chấp đất đai trong lĩnh
vực QLNN thì còn chịu sự tác động của các QPPL do cơ quan có thẩm quyền,
người có thẩm quyền ban hành ,vì thế tranh chấp đất đai nói chung và tranh
chấp đất đai trong quan hệ QHHC nhà nước thường thể hiện ở những điểm
chủ yếu sau:
a. Về chủ thể
Chủ thể trong quan hệ tranh chấp đất đai phải là người quản lý, người sử
dụng đất (chủ thể quản lý đất đai là các cơ quan có thẩm quyền nhà nước thực
hiện chức năng giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất, xử lý và giải quyết tranh chấp đất đai) hoặc
người khác có quyền, nghĩa vụ liên quan đến thửa đất. Trường hợp tranh chấp
không phát sinh giữa những chủ thể này với nhau liên quan đến thửa đất thì đó
là quan hệ tranh chấp khác (ví dụ tranh chấp về tài sản trên đất không gắn với
đất như nhà ở công trình do chủ thể sử dụng thuê đất khi bị thu hồi). Như vậy,
chủ thể của tranh chấp đất đai là các tổ chức, cơ quan nhà nước, hộ gia đình, cá
nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất đai.
b Về khách thể
Khách thể trong quan hệ tranh chấp đất đai là quyền sử dụng, quyền tài
9
sản gắn liền với đất hoặc cả hai. Đối với quyền sử dụng đất thì đây là loại tài
sản đặc biệt vì pháp luật đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước sẽ trao lại quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua các hình thức do pháp luật quy
định. Đồng thời quyền sử dụng đất cũng là tài sản (quyền tài sản) theo quy
định của Bộ luật dân sự, vì vậy quyền sử dụng đất có thể là đối tượng tham
gia các giao dịch dân sự.
c. Về nội dung
Quan hệ tranh chấp đất đai có nội dung là sự xung đột, tranh chấp về
các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với một hoặc nhiều thửa đất cụ
thể. Nội dung của tranh chấp đất đai rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động quản
lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú
với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử
dụng khác nhau. Trong giai đoạn mới hiện nay thì đất đai càng trở nên có giá
trị, quyền sử dụng đất là một loại mặt hàng hết sức đặc biệt, đem lại những lợi
nhuận khổng lồ cho các chủ thể trong mối quan hệ giao dịch về đất đai. Tất
nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì
những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai cũng
trở nên gay gắt và trầm trọng hơn.
d. Về hệ quả và nguyên nhân
Tranh chấp đất đai phát sinh gây hệ quả xấu về nhiều mặt như: Có thể
gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết
trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất,
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp
mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Tranh chấp đất đai xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau và
diễn ra trên hầu hết các địa phương trong cả nước. Có thể mức độ, tính chất
10
và phạm vi khác nhau nhưng nhìn chung tranh chấp đất đai luôn tiềm ẩn các
nguy cơ gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Vì vậy, cần phải căn cứ vào thực trạng sử dụng đất, vào đường lối, chính sách
của Nhà nước, vào những văn bản pháp luật để tìm ra những nguyên nhân dẫn
đến tranh chấp, từ đó có những biện pháp giải quyết một cách thỏa đáng, góp
phần ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất những tranh chấp có thể xảy ra.
Mỗi tranh chấp đất đai xảy ra đều do những nguyên nhân nhất định,
như yếu tố như sau:
- Nguyên nhân khách quan
Tranh chấp đất đai phát sinh có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại
những hậu quả trải dài ở hai miền Nam - Bắc: Ở miền Bắc, sau các thời kỳ
cách mạng Đảng và Chính phủ đã tiến hành một bước lớn chính là cải cách
ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong kiến để
thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân. Từ sau khi thống nhất
đất nước năm 1975, Nhà nước đã tiến qua hai lần điều chỉnh ruộng đất 1977 -
1978 và năm 1982 - 1983, cùng với chính sách chia đất theo kiểu bình quân
đã dẫn đến những xáo trộn lớn về ruộng đất, về ranh giới, số lượng và mục
đích sử dụng đất đai.
Trải qua các thời kỳ lịch sử cho tới hiện nay Việt Nam chuyển sang nền
kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế quản lý đã làm cho đất đai ngày càng
trở nên có giá trị. Dưới góc độ kinh tế, quyền sử dụng đất đai được coi như
một loại hàng hóa trao đổi trên thị trường theo quy luật cung cầu, quy luật giá
trị. Do đó đã tác động đến tâm lý của nhiều người dẫn đến tình trạng tranh
chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho mượn, hoặc giao cho
người khác sử dụng.
Một nguyên nhân nữa đó là việc Nhà nước thu hồi đất để mở rộng đô
thị, xây dựng kết cấu hạ tầng và thực hiện các dự án đầu tư song do do tác
11
động mạnh mẽ của cơ chế thị trường làm cho giá đất tăng liên tục đang là
những áp lực lớn gây nên tình trạng khiếu nại, khiếu kiện ngày cảng tăng nhất
là về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. trong khi Nhà
nước chưa kịp thời có các chính sách để điều tiết và quản lý có hiệu quả.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Quản lý nhà nước về đất đai còn lỏng lẻo, sơ hở dẫn tới nhiều sai phạm:
Quản lý chồng chéo giữa các ngành; hồ sơ địa chính cũ vừa thiếu, vừa yếu
trong khi hồ sơ địa chính kể từ khi Luật Đất đai 2003 đến nay vẫn chưa
hoàn thiện...
Bên cạnh đó, nhiều địa phương còn chưa làm tốt công tác quản lý nhà
nước về đất đai, không kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm về đất đai hoặc
xử lý nương nhẹ; việc giải quyết tranh chấp đất đai phát sinh, do nhiều hạn
chế, nên có khi sai sót, khiến tranh chấp âm ỉ, kéo dài.
+ Đường lối, chính sách pháp luật về đất đai chưa hoàn thiện, thường
xuyên sửa đổi, bổ sung:
Chỉ tính riêng từ khi Luật Đất đai 2003 được ban hành đến nay, chúng
ta đã có vài trăm văn bản hướng dẫn, điều chỉnh, bổ sung thi hành Luật Đất
đai, Luật Nhà ở, Luật khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tố tụng Dân
sự…. Điều này chứng tỏ hệ thống các pháp luật về đất đai của chúng ta còn
nhiều hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển không ngừng của các quan hệ đất
đai vốn vô cùng phức tạp và nhạy cảm.
Chính sách pháp luật về đất đai thiếu tính ổn định khiến người dân có
tâm lý so bì hơn thiệt, dẫn đến tranh chấp trong nội bộ nhân dân, đồng thời
cũng đặt Nhà nước vào thế chạy theo, khó xử.
Ngoài ra hệ thống hồ sơ địa chính chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nên thiếu
căn cứ pháp lý và thực tế để xác định quyền sử dụng và quản lý đất đai của cơ
quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là ở những khu vực mà quan hệ đất đai phức
12
tạp và có nhiều biến động.
Bên cạnh đó, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai,
nhất là cán bộ địa chính cấp xã, cấp huyện còn nhiều hạn chế cả về năng lực
và kỹ năng giải quyết tranh chấp, cá biệt còn chưa nắm vững các quy định của
pháp luật, dẫn đến giải quyết các công việc theo thói quen, cảm tính hoặc qua
loa, chiếu lệ.
+ Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn chưa
hiệu quả:
+ Nhận thức của người dân về quyền sử dụng đất còn chưa đồng nhất
với quy định của pháp luật về đất đai bởi vì, trong đời sống thực tiễn còn tồn
tại hương ước, luật tục tồn tại song song với những truyền thống, phong tục
tập quán về sử dụng đất. Hoặc cũng có quan niệm đất đai của Nhà nước
nhưng khi giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài thì đất đai thuộc sở hữu
của cá nhân, gia đình, coi đất đai như tài sản có giá trị nhất của gia đình. Do
đó, trong quá trình đô thị hoá đất đai ngày càng có giá thì tình trạng đòi lại đất
cũ cho thuê, mượn, đất bị lấn chiếm ngày càng gia tăng.
1.1.2. Tranh chấp hành chính về đất đai
Như đã trình bày, tranh chấp đất đai có phạm vi rộng, vì vậy, tranh
chấp hành chính về đất đai có phạm vi hẹp hơn vì đó là tranh chấp giữa các
bên tham gia QLHC nhà nước về đất đai, đó là những tranh chấp giữa một
bên là cơ quan HCNN với một bên là tổ chức, cá nhân, công dân hay cộng
đồng dân cư hoặc cũng có thể tranh chấp giữa các cấp HCNN về việc quản lý
địa giới HCNN. Những tranh cấp này thường xảy ra khi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành các văn bản QLNN về đất đai mà không phù hợp hoặc
trái với Hiến pháp, pháp luật, tác động tới quyền và lợi ích hợp pháp của
người sử dụng đất (bên có liên quan) dẫn tới việc người sử dụng đất khiếu
nại, khiếu kiện về đất đai nhằm đòi hỏi những yêu cầu về quyền và lợi ích hợp
13
pháp của họ trong việc sử dụng đất.
Theo đó những trường hợp khiếu nại về đất đai theo Luật Khiếu nại
2011 có thể là những quyết định hành chính, hành vi hành chính của CBCC
khi thi hành nhiệm vụ trái với pháp luật hoặc đạo đức công chức có thể bị
khiếu nại, khiếu kiện, ví dụ: quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích SDĐ, quyết định hành chính, hành vi hành chính về cấp sổ
đỏ, về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, về xử lý vi phạm hành chính trái hoặc
mâu thuẫn với Luật Đất đai và pháp luật có liên quan do người có quyền và
nghĩa vụ liên quan trong quan hệ QLNN về đất đai khiếu nại khiếu kiện theo
quy định.
Để giải quyết, pháp luật về đất đai và pháp luật có liên quan (Luật
Khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính) cũng đã xác định các biện pháp để xử lý
về mặt hành chính theo các thủ tục hành chính và giải quyết về quyền sử dụng
và quản lý đất đai thuộc cơ quan QLNN hay thuộc quyền của tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hay cơ sở tôn giáo. Vì vậy, tranh chấp đất
đai trong QLHC nhà nước dưới dạng này thuộc đối tượng và phạm vi nghiên
cứu của đề tài luận văn.
1.2. Giải quyết tranh chấp đất đai về đất đai thuộc thẩm quyền của
Ủy ban nhân dân
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai
Trên cơ sở khái niệm tranh chấp đất đai có thể thấy rằng: “giải quyết
tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm
giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên trong việc quản lý và sử dụng
đất để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác định rõ
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai”.
Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp đất đai trong QLNN về đất đai như đã
trình bày phần trên đều được thực hiện thông qua giải quyết khiếu nại hoặc
14
khiếu kiện về đất đai. Theo đó, khoản 1, Điều 2 Luật Khiếu nại 2011 thì: Giải
quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết
khiếu nại.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai nói chung hiện nay phải đảm bảo ba
nguyên tắc sau:
- Thứ nhất, luôn đảm bảo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và
Nhà nước là đại diện chủ sở hữu.
- Thứ hai, bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh
tế, khuyến khích tự hòa giải trong nội bộ nhân dân.
- Thứ ba, việc giải quyết nhằm mục đích ổn định kinh tế, xã hội, gắn
với phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện cho lao động có
việc làm, phù hợp với đặc điểm và quy hoạch của từng địa phương
1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai
Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai có những đặc điểm sau:
- Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Để giải quyết một tranh chấp, các chủ thể có thể sử dụng nhiều
biện pháp như tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không
quan tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra
các quy định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia
của cơ quan nhà nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện
sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể và
Nhà nước sẽ cung cấp một công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ
không có được sự thống nhất. Một khi đã có sự tham gia của cơ quan nhà
nước thì các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ
có những quy phạm pháp luật này thì người dân cũng như chính cơ quan nhà
nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và giải quyết
15
theo trình tự, thủ tục gì.
- Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là tranh chấp đất đai,
trong đó các đương sự yêu cầu cơ quan nhà nước xác định rõ những quyền và
nghĩa vụ của các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp.
- Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật.
- Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể nhân dân địa phương tham gia.
- Giải quyết tranh chấp đất đai có mối liên quan đến nhiều lĩnh vực
khác như: nhà ở, xây dựng, giao thông, thương mại...
- Giải quyết tranh chấp đất đai phụ thuộc không nhỏ vào sự hiểu biết về
phong tục, tập quán địa phương để có cách giải quyết thỏa đáng.
1.2.2. Giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai của Uỷ ban
nhân dân
Theo quy định của Luật Đất đai 2013, Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ- CP về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 20133: “Tranh chấp đất đai mà đương
sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy
định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai
hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự;”4.
Theo đó, trong trường hợp nêu trên đương sự trong quan hệ tranh chấp
đất đai có thể lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai
3 . Xem Điều 203 Luật Đất đai 2013 Khoản 2. 4 . Xem Luật Đất đai 2013, Điều 203, Kh 2
16
theo quy định sau:
Thứ nhất, một trong các bên tranh chấp có thể nộp đơn yêu cầu giải quyết
tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3, cụ thể:
- Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng
ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật
về tố tụng hành chính;
- Trường hợp tranh chấp đất đai mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ
sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không
đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân cùng cấp theo quy
định của pháp luật về tố tụng hành chính.
Như vậy, việc giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai được thực
hiện theo hai cấp. Tuy nhiên, Nhà nước luôn mong muốn các bên hòa giải để
bảo đảm ổn định xã hội, vì thế Luật Đất đai cũng quy định UBND cấp xã
tham gia hòa giải về tranh chấp đất đai tại cơ sở.
Trường hợp nếu quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân có thẩm quyền không có khiếu nại hoặc khiếu kiện ra tòa thì
Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành và phải được các bên
tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ
bị cưỡng chế thi hành.
Thứ hai, Nếu một trong các bên tranh chấp không lựa chọn giải quyết
tranh chấp thông qua thủ tục hành chính mà lựa chọn giải quyết thông qua
phán quyết của toàn Hành chính thì có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính (Luật Tố
17
tụng hành chính 2012, sửa đổi, bổ sung ngày 16 tháng 12 năm 2019). Cụ thể:
- Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử
dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi
hành chính về quản lý đất đai.
- Giải quyết tranh chấp đất đai tại địa phương theo quy định của pháp
luật đất đai và pháp luật có liên quan thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và chủ tịch UBND
cấp xã có trách nhiệm tham gia các vụ hòa giải hay thương lượng về tranh
chấp giữa các bên có liên quan.
a. Ở cấp xã: Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực
hiện thẩm quyền hòa giải đối với các tranh chấp đất đai tại địa phương. (Đồng
thời giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình liên quan tới đất đai, của người có trách nhiệm do mình quản
lý trực tiếp ví dụ quyết định cho thuê đất công ích).
b. Ở cấp huyện
Theo quy định, Chủ tịch UBND cấp huyện là người có thẩm quyền giải
quyết đối với các QĐHC, HVHC do mình ban hành liên quan tới đất đai khi
có căn cứ cho rằng các QĐHC, HVHC đó trái pháp luật ảnh hưởng tới quyền
và lợi ích hợp pháp của người chịu sự tác động của QĐHC, HVHC hoặc giải
quyết các QĐHC, HVHC do thủ trưởng cơ quan chuyên môn do mình quản lý
mà đã giải quyết những vẫn còn có khiếu nại liên quan tới đất đai.
Để giúp Chủ tịch UBND trong việc tham mưu giải quyết khiếu nại,
pháp luật về khiếu nại và pháp luật đất đai cũng quy định: Giúp việc cho Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng có 03 cơ quan là Văn phòng Ủy ban
nhân dân, Thanh tra huyện, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện.
Tuy nhiên, cách thức tổ chức và phân công nhiệm vụ ở từng huyện hiện
nay có sự khác nhau: có huyện giao hẳn nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý đơn thư
18
cho Văn phòng Ủy ban nhân dân, có huyện nhiệm vụ này giao cho Thanh tra
huyện, có huyện lại giao cho cả Thanh tra và phòng Tài nguyên và Môi
trường. Tương tự như vậy, trong việc xác minh, tham mưu giải quyết, có
huyện giao hết cho Thanh tra, có huyện giao cho phòng Tài nguyên và Môi
trường giải quyết, có huyện phân định vụ việc để giao cho Thanh tra hoặc
phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu giải quyết.
c. Ở cấp tỉnh
Theo quy định của pháp luật, Chủ tịch UBND tỉnh là người có thẩm
quyền giải quyết đối với các QĐHC, hoặc có HVHC do mình ban hành khi có
căn cứ cho rằng các QĐHC, HVHC đó trái pháp luật hoặc việc giải quyết các
QĐHC, HVHC do thủ trưởng cơ quan chuyên môn do mình quản lý mà đã
giải quyết những vẫn còn có khiếu nại. Để giải quyết những khiếu nại này,
pháp luật đã xác định giúp việc cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong giải
quyết tranh chấp đất đai gồm 03 cơ quan và được phân định như sau:
- Văn phòng UBND tỉnh là cơ quan đầu mối về tiếp nhận và xử lý đơn
thư. Để thực hiện việc này, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh có Chánh Văn
phòng phụ trách công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư và
có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.
- Thanh tra tỉnh là cơ quan thường trực cùng Văn phòng UBND tỉnh
trong tiếp nhận, xử lý đơn thư và xác minh một số vụ việc tranh chấp đất đai
theo yêu cầu của Chủ tịch UBND tỉnh. Để thực hiện việc này, Thanh tra tỉnh
cũng có 01 Phó Chánh Thanh tra phụ trách công tác giải quyết tranh chấp đất
đai và có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.
- Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thường trực xác minh, tham
mưu giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND tỉnh.
Để thực hiện nhiệm vụ này, Sở Tài nguyên và Môi trường phân công 01 Phó
Giám đốc Sở phụ trách Thanh tra Sở và giao nhiệm vụ xác minh, tham mưu
19
giải quyết đơn thư về đất đai cho Thanh tra Sở.
1.2.3. Mục đích và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại
UBND
Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp đất đai nói
chung, tranh chấp đất đai trong quản lý HCNN nói riêng cho phép hạn chế
đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức
chi phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi
ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh tế thương mại.
Giải quyết tốt tranh chấp đất đai là động lực thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế. Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ đất đai nói
chung và quan hệ kinh tế về đất đai nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp
luật, phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các mâu thuẫn,
tranh chấp có thể xảy ra trong QLNN thì cần có một “sân chơi” lành mạnh và
công bằng.
Khi tranh chấp đất đai xảy ra, để bảo đảm cho các quan hệ ổn định và
phát triển thì tranh chấp cần được giải quyết kịp thời, nhanh những phải đảm
bảo sự công bằng, đúng pháp luật thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và thiệt hại
rất lớn cho cả nhà nước cũng như các chủ thể sử dụng đất thông qua các quyết
định QLNN về đất đai đúng và phù hợp với pháp luật,
Giải quyết tranh chấp đất đai vì thế có một ý nghĩa vô cùng quan trọng
vì khi bảo đảm tính ổn định hay nói cách khác là “an cư” đối với hộ gia đình
và cá nhân thì sẽ tránh được những nguy cơ rất cao về mất an ninh trật tự, an
toàn xã hội, thậm chí gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị khi khiếu nại,
khiếu kiên đông người, vượt cấp sẽ khó kiểm sót và sẽ không bảo đảm
đượcnền pháp chế XHCN. Do đó khi xảy ra tranh chấp đất đai, các cơ quan
có thẩm quyền cần nhanh chóng vào cuộc với nhiều biện pháp về tình, về lý,
bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình nhằm giải quyết triệt để các tranh chấp,
20
từ đó sẽ giảm đáng kể các vụ việc liên quan đến đơn thư, khiếu kiện, tranh
chấp tại địa bàn mình quản lý bởi phần lớn các vụ việc phức tạp trong đời
sống đều liên quan đến vấn đề đất đai, trong đó chủ yếu là tranh chấp đất đai.
1.2.4. Đối tượng, phạm vi và thẩm quyn giải quyết tranh chấp đất đai
của Ủy ban nhân dân
- Đối tượng và phạm vi thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là các quan hệ tranh chấp đất đai tại địa
phương cũng như các QĐHC, HVHC về đất đai do của mình liên quan tới đất
đai, hoặc của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.
- Đối tượng và phạm vi thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là các QĐHC, HVHC về đất đai do
mình ban hành hoặc các QĐHC, HVHC của thủ trưởng cơ quan chuyên môn
do mình quản lý trực tiếp đã giải quyết những vẫn có khiếu nại . Đặc biết đối
tượng của giải quyết tranh chấp về đất đai của Chủ tịch UBND cấp huyện
thường gắn với đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý của UBND là cơ quan, tổ
chức, cá nhân, cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện.
- Đối tượng và phạm vi thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là các QĐHC, HVHC do Chủ tịch UBND
ban hành hoặc các QĐHC, HVHC của thủ trưởng cơ quan chuyên môn (ví dụ
quyết định cấp GCNQSD đất của giám đốc sở Tài nguyên và Môi trường) do
mình quản lý trực tiếp đã giải quyết những vẫn có khiếu nại (khi có căn cứ
cho rằng các QĐHC, HVHC đó trái với pháp luật mà bị khiếu nại). Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai đối với
những đối tượng thuộc thẩm quyền QLNN tại địa phương theo quy định, đó là
các tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân
nước ngoài có liên quan tới quản lý và sử dụng đất trên địa bàn địa phương.
Theo đó, đối tượng giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
Chủ tịch UBND cấp tỉnh và Chủ tịch cấp huyện thực chất là việc xem xét lại
21
các QĐHC, HVHC theo thủ tục khiếu nại hành chính do mình ban hành có
trái với pháp luật (Luật khiếu nại, Luật đất đai) hay không, để từ đó có thể ban
hành mới bằng một quyết định đúng pháp luật và bảo đảm việc QLNN về đất
đai đạt được hiệu quả như đã đặt ra.
Như vậy, đối tượng giải quyết tranh chấp đất đai thông qua các thủ tục
hành chính của UBND nói chung, của UBND cấp huyện nói riêng là các
QĐHC, HVHC liên quan tới hoạt động QLNN về đất đai.
1.2.5 Nội dung, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của UBND các cấp
1.2.5.1. Nội dung tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của
UBND
Theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật giải quyết khiếu nại,
khiếu kiện về đất đai thì nội dung tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải
quyền của UBND các cấp bao gồm các quyết định hành chính, hành vi hành
hcinhs trái pháp luật trong hoạt động QLNN về đất đai, bao gồm:
- Các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật trong
lĩnh vực thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận QSD đất;
- Các quyết định hành chính, hành vi hành chinh trong lĩnh vực giao
đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
- Các quyết định hành chính, hành vi hành chính về bồi thường hỗ trợ,
tái định cư, về trưng dụng đất;
- Các quyết định hành chính, hành vi hành chính về thanh tra và xử lý
vi phạm hành chính liên quan tới đất đai mà trái pháp luật...
- Quyết định hành chính, hành vi hành chính mà UBND và cơ quan có
thẩm quyền giải quyết nhưng vẫn còn có khiếu nại (gọi là khiếu nại lần 2)....
1.2.5.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân
dân các cấp
Căn cứ Điều 203 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013, có
22
hiệu lực ngày 01/7/2014; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, có
hiệu lực ngày 01/7/2014; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017, có
hiệu lực ngày 03/3/2017, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại
UBND nói chung và cấp huyện nói riêng gồm 4 bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận và xử lý đơn thư đề nghị giải quyết tranh chấp
Người có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai gửi hồ sơ (đơn và
giấy tờ liên quan) đến Chủ tịch UBND cấp huyện (qua dịch vụ bưu chính
công ích hoặc trực tiếp tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cấp huyện hoặc
tại trụ sở tiếp dân cấp huyện).
Sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Chủ tịch
UBND cấp huyện giao đơn vị có chức năng tham mưu giải quyết. Đơn vị
được phân công giải quyết tiến hành thu thập, nghiên cứu hồ sơ; thành lập tổ
công tác để tiến hành thẩm tra, xác minh vụ việc tại cấp xã; tổ chức hòa giải
giữa các bên tranh chấp; hoàn chỉnh hồ sơ trình Chủ tịch UBND cấp huyện
ban hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai. Quyết định giải quyết tranh
chấp đất đai hoặc quyết định công nhận hòa giải thành được gửi cho các bên
tranh chấp, các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Hồ sơ (1 bộ) giải quyết tranh chấp đất đai do cơ quan tham mưu nghiên
cứu và hoàn thiện gồm:
- Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai;
- Biên bản làm việc với các bên tranh chấp, với các tổ chức, cá nhân có
liên quan; biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp; biên bản hòa giải trong
quá trình giải quyết tranh chấp đất đai tại cấp xã;
- Trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện
tích đất tranh chấp, hồ sơ, tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình
giải quyết tranh chấp đất đai tại cấp xã;
- Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định giải quyết tranh chấp hoặc dự
23
thảo quyết định công nhận hòa giải thành.
Bước 2: Xác minh đơn thư
Xác minh nội dung đơn thư tranh chấp đất đai của UBND và cơ quan
chuyên môn thuộc UBND là khâu quan trọng trong quá trình giải quyết tranh
chấp đất đai. Việc xác minh rõ nội dung nhằm mục đích thu thập chứng cứ,
tài liệu làm cơ sở cho nhận xét, đánh giá một cách khách quan, trung thực về
nguồn gốc tranh chấp đất đai, ví dụ đó là tranh chấp về chuyển mục đích sử
dụng đất, tranh chấp về phương thức bối thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất…. Việc xác minh nội dung tranh chấp đất đai dựa trên cơ sở
Điều 29 Luật Khiếu nại 2011 và thông tư 07/TT-TTCP về hướng dẫn trình tự,
thủ tục thực hiện các biện pháp sử dụng trong quá trình xác minh nội dung
khiếu nại.
Thời hạn kiểm tra xác minh hồ sơ: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền
nhận hồ sơ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ thì trong thời gian tối đa 03 ngày, cơ
quan tiếp nhận, xử lý hồ sơ phải thông báo và hướng dẫn người nộp hồ sơ bổ
sung, hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định.
Bước 3. Ban hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai
Theo quy định của Luật Khiếu nại, thời hạn giải quyết tranh chấp hành
chính (khiếu nại) lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ
việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45
ngày, kể từ ngày thụ lý.Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải
quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức
tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ
ngày thụ lý thì Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh phải ra quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai lần 1 hoặc quyết định công nhận hòa giải thành.
Trường hợp tiếp tục khiếu nại lần 2: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 28 của Luật này mà
24
khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có
quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai; đối với
vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng
không quá 45 ngày.
Trường hợp khiếu nại lần hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan cho người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Bước 4: Thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai
Theo Điều 46 Luật Khiếu nại, sau khi quyết định giải quyết khiếu nại
có hiệu lực thi hành sau 30 ngày kể từ ngày ban hành thì các cơ quan, tổ chức
và cá nhân sau có trách nhiệm sau:
- Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh, thủ trường cơ quan chuyên môn
thuộc UBND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ
đạo cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý tổ chức thi hành quyết định
giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; trường hợp cần thiết, yêu cầu cơ quan
chức năng có biện pháp để bảo đảm việc thi hành các quyết định giải quyết
khiếu nại có hiệu lực pháp luật; tổ chức thi hành hoặc chủ trì, phối hợp với tổ
chức, cơ quan hữu quan thực hiện biện pháp nhằm khôi phục quyền, lợi ích hợp
pháp của người khiếu nại; kiến nghị cơ quan, tổ chức khác giải quyết những vấn
đề liên quan đến việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có).
1.3. Những yếu tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp đất
đai của Ủy ban nhân dân
1.3.1. Yếu tố pháp luật
Luật đất đai năm 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi
hành Luật đất đai, Luật hòa giải cơ sở, Nghị định 15/2014/NĐ-CP, ngày 27
tháng 02 năm 2014 là những văn bản pháp lý cơ bản nhất quy định về hòa giải
25
tranh chấp đất đai hiện nay. Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên
tranh chấp không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy
tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18 của Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP, thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện dựa
theo các căn cứ sau: “Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các
bên tranh chấp đất đai đưa ra; thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp
đang sử dụng ngoài diện tích đất đang có tranh chấp và bình quân diện tích
đất cho một nhân khẩu tại địa phương; sự phù hợp của hiện trạng sử dụng
thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; chính sách ưu đãi người có công của
Nhà nước; quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
sử dụng đất”. Căn cứ pháp lý còn là là một trong những yếu tố quan trọng
nhất mà Hội đồng hòa giải bắt buộc phải dựa vào để xem xét hòa giải vụ việc
theo hướng nào, vừa hợp lý lại hợp tình, mang tính thuyết phục cao, nâng cao
hiệu quả, chất lượng cho buổi hòa giải.
Việc giải quyết các tranh chấp đất đai tại UBND về mặt hành chính
theo quy định của pháp luật còn mang tính bắt buộc thi hành đối với các bên
tranh chấp theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo kết quả giải quyết
là đúng về mặt nội dung, đảm bảo tính khả thi trên thực tế. Trong yêu cầu của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi hệ thống các
quy định pháp luật phải đầy đủ, đồng bộ và rõ ràng, tạo điều kiện cho các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cũng như người dân dễ hiểu, dễ áp dụng và áp
dụng đúng pháp luật. Ngược lại, nếu các quy định về pháp luật đất đai chưa
đồng bộ, hoàn thiện (ví dụ việc ban hành khung giá đất và quy định về giá đất
…), chưa đơn giản, dễ hiểu sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hiểu sai, áp dụng sai,
thậm chí là áp dụng tùy tiện pháp luật sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu
quả giải quyết các tranh chấp về đất đai, kể cả tranh chấp dân sự, từ đó sẽ làm
26
giảm sút lòng tin của một bộ phận người dân vào chính sách của Đảng, Nhà
nước về đất đai. Chẳng hạn, việc lập, xét duyệt và công bố quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất không rõ ràng, không phù hợp với vị trí địa lý thổ nhưỡng
từng vùng, việc quản lý mục đích sử dụng đất của tổ chức, cá nhân chưa chặt
chẽ, đây cũng là nguyên nhân dẫn tới việc khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất
để giao cho các tổ chức thực hiện dự án kinh tế. Bên cạnh đó, việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng là nguyên nhân dẫn
tới khiếu nại, khiếu kiện kéo dài do thủ tục và chính sách bồi thường chưa đáp
ứng kịp yêu cầu thực tiễn như giá bồi thường còn rẻ so với thị trường bất
động sản trong giao dịch; tiến độ để tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;
việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao
đất, cho thuê đất còn phức tạp. Việc điều tra, khảo sát giá đất phổ biến trên thị
trường để phục vụ cho công tác xác định giá đất cụ thể còn gặp khó khăn do
người cung cấp.
1.3.2. Tổ chức bộ máy và năng lực của CBCC tham gia giải quyết
tranh chấp đất đai
Con người luôn là chủ thể của mọi mối quan hệ, chính vì vậy, yêu tố về
con người luôn được quan tâm nhất từ xưa đến nay trong công tác hòa giải.
Bàn về yếu tố con người, trước hết nói đến người tiến hành hòa giải; về năng
lực, trình độ, kỹ năng hòa giải của cán bộ, công chức tiến hành hòa giải đóng
vai trò rất quan trọng trong việc hòa giải, phần lớn quyết định việc hòa giải có
thành công hay không. Các cán bộ tiến hành hòa giải phải năng nổ, nhiệt tình,
am hiểu phong tục, tập quán địa phương, có kinh nghiệm sống phong phú và
có thái độ công tâm, khách quan vì lợi ích cộng đồng. Trình độ, nhận thức của
người được hòa giải (nguyên đơn, bị đơn) cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc hòa giải: thuyết phục, giải thích cho người được hòa giải là người có
trình độ, có nhận thức, am hiểu pháp luật sẽ khác với người có trình độ thấp,
27
không am hiểu pháp luật. Ví dụ, hòa giải cho người dân là người đồng bào
dân tộc thiểu số, trình độ học vấn mới hết tiểu học sẽ khác với một người dân
sống ở thành thị, có trình độ học vấn là đại học. Vì vậy, đây cũng chính là một
trong những yếu tố mà người tiến hành hòa giải xem xét đến đối tượng hòa
giải là ai? Để có hướng đi thích hợp nhất, mang lại chất lượng, hiệu quả trong
quá trình hòa giải.
Việc giải quyết các tranh chấp hành chính về đất đai của UBND chỉ có
thể đạt hiệu quả khi kết quả giải quyết đúng pháp luật và được đảm bảo thực
thi hành trên thực tế. Muốn vậy, bên cạnh việc giải quyết đúng người, đúng
bản chất sự việc, đúng quy định của pháp luật còn đòi hỏi phải được các cơ
quan QLNN về đất đai phải thực hiện đúng thẩm quyền và đảm bảo quyết
định giải quyết được thi hành đúng pháp luật. Để việc giải quyết các tranh
chấp hành chính về đất đai của UBND đạt được kết quả như các bên mong
muốn, đòi hỏi các cơ quan hành chính Nhà nước (UBND và các cơ quan
chuyên môn) phải được tổ chức một cách gọn nhẹ, ít tầng nấc, đòi hỏi các
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan hành chính Nhà nước phải
được quy định rõ ràng, cụ thể và công khai, minh bạch. Ngược lại, sẽ dẫn đến
tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ của các cơ quan, dẫn đến giảm
sút chất lượng, trong việc giải quyết tranh chấp đất đai.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, từ yêu cầu của
từng công việc đòi hỏi phải có một đội ngũ CBCC tương ứng để thực hiện
nhiệm vụ. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai, các cơ
quan hành chính Nhà nước hiện nay do chưa có cán bộ chuyên trách, việc thụ
lý, phân loại đơn thư, việc xác minh, tham mưu giải quyết đơn thư nói chung,
trong đó có đơn thư về đất đai vẫn do các cán bộ làm công tác xử lý đơn thư,
cán bộ làm công tác thanh tra thực hiện. Do vậy, tính chuyên nghiệp chưa
cao, ít nhiều ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng giải quyết. Bên cạnh đó,
28
một số CBCC vì lợi ích kinh tế, lợi dụng kẽ hở của chính sách, pháp luật về
đất đai đã tranh thủ trong thời gian đương chức cố tình vi phạm chính sách,
pháp luật để trục lợi. Bên cạnh đó, UBND các cấp chưa chăm lo nhiều đến
công tác tiếp dân, công tác hòa giải và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố
cáo về đất đai của công dân cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng không
nhỏ tới việc giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan QLNN.
1.3.3. Yếu tố văn hóa- xã hội
Tranh chấp đất đai bao giờ cũng diễn ra trong một không gian văn hóa,
xã hội nhất định. Mỗi dân tộc có một văn hóa riêng. Mỗi người có cách xử lý
khác nhau thì mỗi dân tộc cũng có cách khác nhau đối với bất kỳ vấn đề gì,
trong đó có tranh cấp. Tranh chấp đất đai mang bản chất văn hóa bởi nó là
bản chất của quá trình vận động và phát triển của xã hội, vừa có khía cạnh phi
văn hóa khi nó nảy sinh do những tình huống vượt ra ngoài quy luật vận động
tự nhiên, mà là những mâu thuẫn, xung khắc có tính chủ quan, nhằm thực
hiện những đòi hỏi, yêu sách không chính đáng về đất đai. Từ đó các chủ thể
quản lý đất đai khi giải quyết tranh chấp cần coi các giá trị văn hóa là những
truyền dẫn, kết nối giá trị chung của các bên tham gia tranh cấp đất đai. Có
thể nói văn hóa có một vai trò rất lớn trong quản lý giải tỏa tranh chấp đất đai.
Chẳng hạn, việc áp dụng hoà giải tranh chấp đất đai có sự khác biệt giữa khu
vực nông thôn, miền núi và thành thị.
- Ở nông thôn, miền núi các mối quan hệ gia đình, dòng họ, làng xóm
được người dân rất coi trọng, giữ gìn và bảo vệ. Khi giải quyết tranh chấp
phát sinh, người dân cũng thường hướng tới hoà giải để giữ gìn tình đoàn kết
xóm làng. Hơn nữa, các thiết chế đạo đức, văn hóa, phong tục, tập quán
truyền thống khi cơ quan QLNN áp dụng sẽ chi phối, ảnh hưởng mạnh mẽ
đến toàn bộ đời sống của người dân các khu vực nông thôn. như áp dụng các
29
tập quán, thiết chế đạo đức sẽ rất hiệu quả trong việc thuyết phục các bên.
- Ở khu vực đô thị, hoà giải cũng được dùng để giải quyết tranh chấp
đất đai ở cơ sở. Công việc này thường được thực hiện bởi một tổ hoà giải,
gồm có tổ trưởng dân phố, thành viên của các tổ chức quần chúng như Mặt
Trận Tổ Quốc, cán bộ Chi hội Phụ nữ, hội viên Chi hội Người cao tuổi, Hội
Cựu chiến binh. Tuy nhiên, tỷ lệ hoà giải thành công tuỳ thuộc vào từng loại
tranh chấp. Ví dụ, tranh chấp nhỏ về hàng rào, ngõ chung giữa các hộ gia đình
có tỷ lệ hoà giải thành công cao nhất do tính chất đơn giản và tài sản
tranh chấp không có giá trị lớn. Đối với những tranh chấp về quyền thừa kế
nhà đất, kết quả hoà giải phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Hoà giải thành công khi
các thành viên gia đình và những người thừa kế có tinh thần hợp tác và
nhường nhịn để đạt được giải pháp hợp lý. Hoà giải không thành công khi các
thành viên gia đình và những người thừa kế không có tinh thần hợp tác, bảo
thủ, hoặc do tài sản tranh chấp có giá trị quá lớn.
1.3.4. Yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện đại của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sẽ bảo đảm tính thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch trong QLNN
về đất đai, nhất là trong giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn về đất đai. Vì
thế để giải quyết tốt các tranh chấp đất đai trong quan hệ QLNN thì việc đầu
tiên cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất đầy đủ và phù hợp
với quá trình phát triển đất nước. Bên cạnh đó, đội ngũ CBCC có đủ năng lực,
trình độ kỹ năng và luôn chấp hành, tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên do quá trình đổi mới có nhiều vấn đề này sinh như quan hệ
kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được làm rõ, tính dân chủ trong
QLNN về đất đai chưa được thực thi một cách nghiêm túc, các chế độ chính
30
sách đối với CBCC chưa hoàn thiện dẫn tới việc giải quyết tranh chấp hành
chính về đất đai chưa tạo ra sự công minh, công bằng và đúng pháp luật khi
hệ thống pháp luật còn chống chéo mâu thuẫn v.v…
-Vì thế để giải quyết các tranh chấp đất đai nói chúng, tranh chấp hành
chính nói riêng, điều đầu tiên là chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện, thể chế hoá,
thực thi trên thực tế các thiết chế, đảm bảo thực hiện dân chủ hóa XHCN,
phát huy quyền làm chủ tập thể và quyền lực thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó,
việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật và công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong giải quyết tranh chấp đất đai cần tiến
khả năng tiếp cận công lý, công bằng, bình đẳng.
Đổi mới nội dung, phương thức, thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với các cơ quan nhà nước
trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy tốt vai trò của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và người dân trong thực hiện giám sát,
phản biện xã hội, tham gia các nhiệm vụ quan trọng khác của đất nước.
Tiểu kết chƣơng 1
Như vậy thông qua việc nghiên cứu và tổng quan về tranh chấp đất đai
và giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính của UBND cho thấy:
Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung rất quan
trong trong pháp luật liên quan đến lĩnh vực đất đai. Qua tổng quan về tranh
chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai, luận văn đã làm rõ hơn cơ sở
pháp lý và cơ sở thực tiễn về giải quyết tranh chấp đất đai: Khái niệm, đặc
điểm, mục đích và ý nghĩa của việc GQ tranh chấp đất đai của UBND nói
chung, UBND cấp huyện nói riêng. Luận văn đã luận giải cụ thể về thẩm
quyền, đối tượng, phạm vi, nội dung và thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai
31
của UBND các cấp.
Luận văn cũng phân tích những điểm tích cực và hạn chế của các yếu
tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai của UBND cũng như
cơ quan chuyên môn thuộc UBNDCC như yếu tố pháp luật, yếu tố bộ máy
QLNn về đất đai, năng lực của CBCC thực hiện tham mưu công tác giải quyết
tranh chấp đất đai, yếu tố văn hóa- truyền thống cũng như yêu cầu của việc
32
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG
2.1. Khái quát chung về Quận hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội
2.1.1. Điều kiện hành chính- dân cư của quận Hai Bà Trưng
Quận Hai Bà Trưng là một trong bốn quận cũ của thành phố Hà Nội,
nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, phía Bắc giáp quận Hoàn Kiếm,
phía nam giáp quận Hoàng Mai, Phía đông giáp quận Long Biên với ranh giới
là sông Hồng, phía Tây giáp quận Đống Đa, phía tây nam giáp quận Thanh
Xuân dọc theo trục đường Lê Duẩn và đường Giải Phóng; Là địa bàn có vinh
dự được mang tên hai vị Nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị.
Tháng 6/1981, khu Hai Bà Trưng chính thức gọi là quận Hai Bà Trưng
gồm 22 phường: Đống Mác, Bạch Đằng, Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh Mai,
Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương Định, Đồng Tâm, Thanh Lương, Thanh Nhàn,
Cầu Dền, Bách Khoa, Giáp Bát, Tương Mai, Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Bùi
Thị Xuân, Phố Huế, Ngô Thì Nhậm, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân.
Ngày 2/6/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 173-
HĐBT, thành lập phường Mai Động thuộc quận Hai Bà Trưng trên cơ sở điều
chỉnh diện tích và nhân khẩu của thôn Mai Động và xóm Mơ Táo của xã
Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì. Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà
Trưng có 23 phường.
Ngày 14/3/1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 42-
HĐBT, thành lập thêm phường Tân Mai trên cơ sở tách từ phường Giáp Bát.
33
Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà Trưng có 24 phường.
Tháng 10/1990, xã Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì được sáp
nhập vào quận Hai Bà Trưng và đổi thành phường Hoàng Văn Thụ.
Ngày 01/3/2020 thực hiện Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 về việc
sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, TP Hà Nội đã nhập toàn bộ 0,14km2
diện tích tự nhiên, 4.489 người của phường Bùi Thị Xuân và 0,01km2 diện
tích tự nhiên, 642 người của phường Ngô Thì Nhậm vào phường Nguyễn Du.
Sau khi nhập, phường Nguyễn Du có 0,52km2 diện tích tự nhiên và quy mô
dân số 11.399 người và nhập toàn bộ 0,18 km2 diện tích đất tự nhiên và 5.526
người của phường Ngô Thì Nhậm vào phường Phạm Đình Hổ. Sau khi nhập,
phường Phạm Đình Hổ có 0,48km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số
12.611 người.
Sau khi sắp xếp, quận Hai Bà Trưng còn 18 phường.
Quận Hai Bà Trưng hiện có diện tích tự nhiên là 10,25 km2, dân số 35
vạn người với mật độ dân số cao (hơn 34 nghìn người/km2). Quận gồm có 18
phường: Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Phố Huế, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân,
Đống Mác, Bạch Đằng, Thanh Lương, Thanh Nhàn, Cầu Dền, Bách Khoa,
Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh Mai, Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương Định,
Đồng Tâm chia thành 02 khu vực có hạ tầng kỹ thuật, hoạt động kinh tế, đời
sống dân cư có sự cách biệt khá rõ, 08 phường phía Bắc có hạ tầng khá đồng
bộ, thuận tiện trong việc phát triển kinh tế và đời sống nhân dân tốt hơn (tập
trung dân cư là công chức, viên chức và tiểu thương). 10 phường còn lại nằm
ở phía nam đường Vành đai I là khu vực hạ tầng chưa phát triển đồng bộ, nơi
sinh sống tập trung của lực lượng công nhân, người lao động.
2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội của quận Hai Bà Trưng
Trong những năm gần đây, do tình hình kinh tế ở thành phố Hà Nội có
chuyển biến tích cực, tốc độ phát triển cao, đi cùng với đó là sự ra đời của các
34
khu đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu tăng lên rõ ràng, nhu cầu sử dụng đất của
người dân cũng tăng lên đặc biệt vài năm gần đây còn cho phép người nước
ngoài định cư tại Việt Nam nên việc sử dụng đất có nhiều thay đổi làm ảnh
hưởng đến tình hình quản lý đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai trên địa
bàn quận.
Trên địa bàn quận hiện có nhiều khu tập thể cũ, nơi sinh sống của phần
đông người lao động, công nhân trong các nhà máy công nghiệp trên địa bàn
quận trước đây. Quận cũng là nơi có nhiều trường Đại học (Bách Khoa, Xây
dựng, Kinh tế Quốc dân, Đại học Mở, Kinh doanh Công nghệ, Công nghiệp
Hà Nội, Đại học Phương Đông) với số lượng sinh viên rất lớn (hàng năm có
khoảng 135.600 sinh viên). Địa bàn quận cũng là nơi có nhiều cơ sở tôn giáo
(51 đình, đền, chùa đã xếp hạng) với 05 tôn giáo chính (Phật giáo, Công giáo,
Cao đài, Tin lành và đạo 32). Quận cũng được xác định là địa bàn trọng điểm
về an ninh chính trị: nhiều mục tiêu quan trọng trong công tác bảo vệ (nhà ở
đồng chí nguyên Tổng bí thư, trụ sở một số bộ ngành, tượng đài Bác Hồ và
Bác Tôn,…).Trên địa bàn quận còn có hơn 3.300 doanh nghiệp, trong đó 70%
là thương mại, dịch vụ, còn lại là hoạt động công nghiệp, có năm giá trị sản
xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 14,5%; doanh thu thương mại, du
lịch, dịch vụ tăng hơn15%.
Hơn 5 năm qua quận đã hỗ trợ sửa chữa và xây dựng 167 nhà đại đoàn
kết, hỗ trợ cho 1.201 hộ gia đình thoát nghèo, trên 33.000 lao động được giới
thiệu việc làm. Đến nay, trên địa bàn quận không còn hộ nghèo, vượt chỉ tiêu
so với Thành phố giao.
Công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình; công tác giáo dục đào tạo;
công tác thông tin tuyên truyền và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật,
thể dục thể thao tiếp tục giữ vững và đạt kết quả tốt trong nhiều năm qua.
Bên cạnh những thuận lợi cho phát triển KT-XH do tính chất vị trí địa
35
lý cũng như các điều kiện về kinh tế xã hội nêu trên, quận Hai Bà Trưng cũng
có những khó khăn nhất định trong quá trình phát triển nói chung, quản lý đất
đai và giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng như: Công tác đo đạc, lập bản đồ
địa chính, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thống
kê, kiểm kê đất đai và đặc biệt là công tác phối hợp giao đất, cho thuê đất, thu
hồi đất, thanh tra, kiểm tra đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai, đơn thư
khiếu nại, tố cáo vi phạm sử dụng đất chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc
và xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, do đặc điểm, cấu tạo của địa hình, địa chất nên hình thành
rất nhiều ô trũng cục bộ, thường bị úng lụt trong mùa mưa; Tình trạng ô
nhiễm môi trường nước mặt tại các sông hồ, ô nhiễm không khí tại các tuyến
giao thông lớn. Ở những vùng đất yếu, khi xây dựng cần có sự đầu tư lớn để
gia cố nền móng nên rất tốn kém,...đây là mặt hạn chế rất lớn của Quận dẫn
tới việc sử dụng đất và cấp GCN còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với các
công trình xây dựng của quận cũng như của người dân trên địa bàn
2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai của Quận Hai Bà
Trƣng, những năm qua
2.2.1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
từ 2013 đến tháng 06/2022
Thực tế tại quận Hai Bà trưng, qua số liệu tổng hợp được tại phòng Tài
nguyên và Môi trường quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn từ năm 2011 đến
tháng 6 năm 2022, tại địa bàn quận Hai Bà Trưng có tổng số 192 vụ việc
tranh chấp liên quan đến đất đai, quyền sở hữu về tài sản gắn liền với đất, cụ
36
thể như sau:
Bảng 1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà trưng
STT Số vụ Năm
2017 1 11
2018 2 19
2019 3 12
2020 4 9
2021 5 7
6/2022 6 3
Tổng cộng 61
Nguồn:Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Hai Bà Trưng
Như vậy, kể từ năm 2017 đến 6/2022 trên địa bàn quận Hai Bà trưng
xảy ra 61 vụ tranh chấp đất đai chủ yếu liên quan tới tranh chấp về quyền sở
hữu về tài sản gắn liền với đất;
Qua thống kê cho thấy tại địa bàn quận Hai Bà Trưng các vụ tranh chấp
đất đai có xu hướng giảm dần theo thời gian. Điều đó cho thấy, trải qua một
giai đoạn phát triển mạnh mẽ về đô thị tại quận, tình trạng mua bán chuyển
nhượng có phát sinh tranh chấp đã giảm do người dân đã dần nắm bắt được
các quy định trong lĩnh vực đất đai sâu hơn, tìm hiểu kỹ hơn khi thực hiện các
giao dịch, tính ổn định về nhà đất trên địa bàn các đô thị đã được tăng lên.
Các vụ tranh chấp đất đai trải đều trên địa bàn 18 phường, đối với các
phường phía Bắc có hạ tầng khá đồng bộ, thuận tiện trong việc phát triển kinh
tế thì việc tranh chấp đất đai chủ yếu phát sinh từ việc mua bán chuyển
nhượng, hoặc do thừa kế trong nội bộ gia đình. Nhà đất trên địa bàn các
phường này chủ yếu là nhà có gốc từ các thời kỳ trước như: Bằng khoán điền
37
thổ, các hợp đồng thuê nhà với nhà nước…
Qua số liệu từ năm 2017 đến tháng 6/2022 cho thấy phần lớn các vụ
việc liên quan đến tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đều
được các cá nhân, hộ gia đình cũng như tổ chức gửi đơn đề nghị đến các cơ
quan chức năng như UBND các phường, phòng Tài nguyên và Môi trường,
UBND quận hoặc văn phòng đăng ký đất đai và đề nghị không thực hiện các
quyền liên quan đến thửa đất đang có tranh chấp (các quyền liên quan như đề
nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất, quyền mua bán, chuyển nhượng, quyền thế chấp, bảo lãnh
…). Đối với các trường hợp chưa được cấp giấy chứng nhận phát sinh tranh
chấp rất nhiều như trường hợp Báo Đầu tư online đã đưa cả 3 kỳ về Dự án
gây nhiều tranh cãi tại quận Hai Bà Trưng (Hà Nội ngày 13/08/2017 08:50):
“Biến tướng từ một chủ trương đúng” sau hơn 10 năm vẫn gây tranh cãi mà
chưa có hồi kết một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó, trong quá trình QLNN về
đất đai như việc kê khai đề nghị cấp giấy chứng nhận, do trong thời điểm
công khai tại UBND phường cũng như tại khu dân cư các hộ gia đình liền kề
hay thậm chí những người thân trong gia đình khi đó mới biết và nắm bắt việc
cấp giấy chứng nhận và gửi đơn thư khiếu kiện và đề nghị dừng việc cấp giấy
chứng nhận của các cơ quan có thẩm quyền, các bên sẽ thực hiện việc hòa
giải tại UBND phường và qua thống kê tại các phường cho thấy các bên sau
khi được Hội đồng hòa giải của phường mời ra hòa giải thì sẽ tự về để thương
lượng với nhau, rất ít trường hợp tiếp tục đề nghị giải quyết tiếp tại các cơ
quan có thẩm quyền tiếp theo là UBND quận theo thủ tục hành chính mà phần
lớn các bên chọn giải pháp đề nghị Tòa án cấp có thẩm quyền để giải quyết
tiếp vụ việc. Còn đối với các trường hợp đã có giấy chứng nhận thì các bên
tranh chấp nhau sẽ không thực hiện theo thủ tục hành chính mà khi đó thực
38
hiện việc khởi kiện ra Tòa án cấp có thẩm quyền để giải quyết theo quy định.
Trong các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai thì liên quan đến
tranh chấp lối đi chung, khu phụ trong cùng một biển số nhà, diện tích đất
giữa chủ cũ với chủ mới, ranh giới sử dụng đất, mặt tiền nhà trên địa bàn quận
là nhiều nhất, điều đó phản ánh đúng tính phức tạp về đất đai tại các đô thị
lớn, đặc biệt là tại thủ đô Hà Nội, trong đó quận Hai Bà Trưng là một trong
các quận lõi của thành phố. Nhà đất tại khu vực này luôn có giá trị cao dẫn tới
rất dễ phát sinh các tranh chấp về quyền sử dụng đất, đặc biệt là về ranh giới
sử dụng đất, các phần diện tích sử dụng chung tại các biển số nhà, sau một
thời gian dài sử dụng các hộ gia đình có xu hướng phát triển về số lượng
thành viên trong gia đình, nhu cầu mở rộng diện tích sử dụng đất tăng lên, các
hộ sẽ sử dụng các diện tích chung trong biển số nhà mà chưa có sự thống nhất
với nhau do đó số lượng tranh chấp đối với nội dung này là rất lớn.
2.2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai
Bà Trưng những năm qua
2.2.2.1.Tổ chức các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất
đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
- Theo thẩm quyền pháp luật quy định, UBND quận Hai Bà Trưng gồm
có Chủ tịch, 01 phó Chủ tịch và 5 ủy viên.
Các cơ quan tham mưu giúp việc cho UBND gồm 12 đơn vị, bao gồm:
Thanh tra Quận; Phòng Văn hóa; Phòng Nội vụ; Phòng Tư pháp; Phòng LĐ
& TBXH; Phòng Tài chính; Phòng Kinh tế; Phòng Quản lý đô thị; Phòng
Giáo dục; Phòng Y Tế; Phòng Tài nguyên & Môi trường; Văn phòng HĐND
& UBND.
Theo đó, thẩm quyền quản lý nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp
đất đai ngoài thẩm quyền chung do UBND đảm nhiệm thì có các cơ quan
39
tham mưu và giúp giải quyết các tranh chấp bao gồm:
- Văn phòng HĐND&UBND quận là cơ quan đầu mối về tiếp nhận và
xử lý đơn thư. Để thực hiện việc này, Văn phòng Ủy ban nhân dân quận có
Chánh Văn phòng phụ trách công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết
đơn thư và có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.
- Thanh tra quận là cơ quan thường trực cùng Văn phòng UBND quận
trong tiếp nhận, xử lý đơn thư và xác minh một số vụ việc tranh chấp đất đai
theo yêu cầu của Chủ tịch UBND quận. Để thực hiện việc này, Thanh tra
quận cũng có 01 Phó Chánh Thanh tra phụ trách công tác giải quyết tranh
chấp đất đai và có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.
- Phòng Tài nguyên và Môi trường quận là cơ quan thường trực xác minh,
tham mưu giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND
quận. Để thực hiện nhiệm vụ này, phòng Tài nguyên và Môi trường phân công
01 Phó phòng phụ trách về giải quyết đơn thư và giao nhiệm vụ xác minh, tham
mưu giải quyết đơn thư và báo cáo lại UBND quận xin ý kiến chỉ đạo.
- UBND 18 phường thuộc quận là những đơn vị hành chính quản lý nhà
nước tại địa phương sẽ tổng hợp và cung cấp các hồ sơ và biến động của các
thửa đất, của chủ sử dụng đất về tranh chấp đất đai.
Căn cứ thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, UBND Quận cũng
thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua hệ thống loa truyền
thanh của các phường, lấy ngày thứ Năm hàng tuần là “Ngày pháp luật” để
tuyên truyền pháp luật nói chung cũng như pháp luật về tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai. Ngoài ra, đã tổ chức 43 cuộc tuyên
truyền với 3.996 đối tượng là các hòa giải viên, tổ trưởng dân phố… Tăng
cường đối thoại với công dân để kịp thời hướng dẫn, giải thích những thắc
mắc về chính sách pháp luật khi tiếp công dân, đặc biệt khi triển khai các dự
40
án trên địa bàn.
Các tổ hòa giải ở trên địa bàn các phường cũng thường xuyên được
kiện toàn đảm bảo về số lượng và nâng cao về chất lượng. Công tác hòa giải ở
cơ sở được quan tâm chỉ đạo, thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực, góp
phần giải quyết kịp thời những mâu thuẫn phát sinh ngay tại cơ sở, hạn chế
phát sinh đơn thư khiếu kiện vượt cấp. Đáng chú ý, quận đã triển khai ứng
dụng công nghệ thông tin tới các phòng, ban, ngành và 20 phường đảm bảo
hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo được kịp thời. Hàng tháng, Ban tiếp công dân
quận tổng hợp tình hình, kết quả giải quyết đơn của các đơn vị, theo dõi đôn
đốc và báo cáo UBND quận chỉ đạo kịp thời đối với những vụ việc chưa có
kết quả.
Để đạt hiệu quả trong giải quyết các vụ việc, nhất là những vụ việc
phức tạp, nổi cộm trên địa bàn, quận Hai Bà Trưng đã chú trọng công tác phối
hợp giữa các phòng, ban, ngành và các phường. Kết quả, trong thời gian qua,
quận đã tiếp 3917 lượt công dân, trong đó: lãnh đạo Quận tiếp 232 lượt, Ban
tiếp công dân UBND quận tiếp 1.883 lượt; lãnh đạo UBND các phường tiếp
758 lượt; bộ phận tiếp công dân các phường tiếp 1.044 lượt. Kết quả giải
quyết đơn khiếu nại, tố cáo: cấp quận đã tiếp nhận, xử lý: 146 đơn khiếu nại,
đã giải quyết 146 đơn; Tiếp nhận, xử lý 46 đơn tố cáo, đã giải quyết 45 đơn, đang giải quyết 01 đơn5.
Các cơ quan tư pháp (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) cũng đã chủ
động xây dựng quy chế phối hợp hoạt động, duy trì lịch họp hàng tuần, hàng
tháng giữa lãnh đạo các cơ quan để cùng nhau thống nhất đường lối xử lý,
5 . Báo cáo 5 năm của UBND quận Hai Bà Trưng về giải quyết tranh chấp đất đai, Hà Nội 6/2022
41
giải quyết các vụ việc. tranh chấp.
2.2.2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai của Quận Hai BàTrưng
những năm qua
Bảng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận HBT
SỐ VỤ/NĂM 19/2018 12/2019 14/2020 7/2021 6/2022
Hòa giải tại cơ sở 11 10 5 3 8
Giải quyết KN lần 1 4 2 2 2 2
Giải quyết KN lần 2 3 1 0 1 1
Số vụ khiếu kiện ra
Tòa HC quận và TP 2 1 0 0 1
Nguồn: Báo cáo 5 năm của UBND quận Hai Bà Trưng
Cụ thể năm 2018 tiếp nhận 19 vụ đơn thư liên quan đến giải quyết
tranh chấp đất đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 11 vụ chiếm 57%.
Giải quyết khiếu nại lần 1 được 4 vụ chiếm 21%, giải quyết khiếu nại lần 2
được 3 vụ chiếm 15%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố
là 2 vụ chiếm 10.5%. Năm 2019 tiếp nhận 12 vụ đơn thư đến giải quyết tranh
chấp đất đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 8 vụ chiếm 66.6%. Giải
quyết khiếu nại lần 1 được 2 vụ chiếm 16.6%, giải quyết khiếu nại lần 2 được
01 vụ chiếm 8.3%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố là 2
vụ chiếm 8.3%. Năm 2020 tiếp nhận 14 vụ đơn thư đến giải quyết tranh chấp
đất đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 10 vụ chiếm 71.4%. Giải quyết
khiếu nại lần 1 được 2 vụ chiếm 14.2%, giải quyết khiếu nại lần 2 được 01 vụ
chiếm 0.7%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố là 01 vụ
chiếm 0.7%. Năm 2021 tiếp nhận 7 vụ đơn thư đến giải quyết tranh chấp đất
đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 5 vụ chiếm 71%. Giải quyết khiếu
nại lần 1 được 2 vụ chiếm 28.5%, giải quyết khiếu nại lần 2 có 0 vụ chiếm
0%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận là 0 vụ chiếm 0%. Sáu tháng đầu
42
năm 2021 tiếp nhận 6 vụ đơn thư đến giải quyết tranh chấp đất đai trong đó
hoà giải xong tại cơ sở được 3 vụ chiếm 50%. Giải quyết khiếu nại lần 1 được
2 vụ chiếm 33.3%, giải quyết khiếu nại lần 2 có 01 vụ chiếm 16.6%. Số vụ
khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố là 0 vụ chiếm 0%.
Về cơ bản, việc áp dụng các quy định về thẩm quyền khi giải quyết
tranh chấp đất đai, quận Hai Bà Trưng luôn tuân thủ đúng quy định của Luật
Đất đai 2013 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 và Nghị định 01/2017/NĐ-CP về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai; sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 sửa đổi, bổ sung
một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật đất đai. Ngày 18/12/2020,
Chính phủ ban hành Nghị định số 148/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.
Tuy nhiên thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận
Hai Bà Trưng những năm qua vẫn diễn ra phức tạp, nhìn vào bảng số liệu ở
trên có thể thấy qua 5 năm gần đấy số vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai
chiếm số lượng lớn so với các vụ kiện khác. Số vụ không giảm là mấy so với
các năm, số vụ được hoà giải thành công tại cơ sở tăng hơn đó là nhờ vào
công tác hoà giải của cán bộ công chức và đội ngũ hoà giải tại cơ sở. Chỉ có
duy nhất năm 2021 là số vụ kiện liên quan đến tình hình tranh chấp đất đai là
ít nhất do tình hình dịch covid diễn biến phức tạp nên dẫn đến số vụ kiện
giảm rõ rệt. Sang đến năm 2022 chỉ riêng 6 tháng đầu năm số vụ kiện đã bằng
cả năm 2021, điều này cho thấy việc tranh chấp liên quan đến đất đai tại quận
Hai Bà Trưng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm do không được xử lý kịp
43
thời, đúng thời hạn dẫn đến bức xúc của người dân trong vấn đề đất đai dẫn
đến các vụ kiện giải quyết tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng. Đất đai là
vấn đề phức tạp, có liên quan chặt chẽ đến đời sống của người dân và có ảnh
hướng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Mặc dù có xu hướng giảm nhưng
đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đất đai vẫn chiếm tỉ lệ cao trong
tổng số các đơn thư khiếu nại, tố cáo (trên 60%). Các vụ hành chính liên quan
đến đất đai có xu hướng tăng liên tục từ mức chiếm 64,2% tổng số các vụ về
hành chính năm 2018 lên trên 80% 6 tháng đầu năm 2022. Các vụ việc liên
quan đến đất đai diễn ra rất đa dạng, động cơ, mục đích rất phức tạp. Có nhiều
vụ việc cho thấy tình trạng vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai xảy ra phổ
biến trong các hoạt động chủ yếu như: Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất (không đúng mục đích, không qua đấu giá quyền sử dụng đất,
không theo quy hoạch đã được phê duyệt…). Thu hồi, giải phóng mặt bằng,
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (không bảo đảm quyền lợi của Nhà nước, người
sử dụng đất có đất bị thu hồi, nhà đầu tư; chậm chễ trong trả tiền đền bù…).
Quản lý đất đai trước và sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (vi phạm
trong việc xác định giá trị đất đai trước khi cổ phần hoá; chuyển mục đích sử
dụng đất sau khi cổ phần hoá…). Cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (không đúng trình tự thủ tục, không đúng thẩm quyền… Quản lý quy hoạch
và kế hoạch sử dụng đất (không tương thích với các quy hoạch khác; thường
xuyên bị điều chỉnh…). Nguyên nhân của tình trạng tranh chấp đất đai tại
UBND quận Hai Bà là do còn có những hạn chế, bất cập trong chính sách,
pháp luật về đất đai cũng như sự chồng chéo, chưa thống nhất trong một số quy
định giữa Luật Đất đai 2013 với các hướng dẫn thi hành luật và với một số luật
khác (Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở…).
Trong công tác thu hồi đất, GPMB để xây dựng các công trình trọng
điểm từ năm 2018 đến nay trên địa bàn quận Hai Bà Trưng được tổ chức thực
44
hiện theo đúng quy định của Thành phố và sự đồng thuận của nhân dân, nhiều
hộ gia đình đã tích cực, đồng tình ủng hộ nhận bồi thường và bàn giao mặt
bằng cho chủ đầu tư..... góp phần phát triển hạ tầng đô thị và kinh tế xã
hội của quận. UBND quận chỉ đạo thực hiện GPMB bằng công tác tuyên
truyền vận động người bị thu hồi đất bàn giao mặt bằng và thường xuyên đối
thoại lắng nghe nguyện vọng chính đáng của người dân; thực hiện bồi thường
hỗ trợ đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ, không gây sách nhiễu, xử lý kịp
thời khiếu nại tố cáo, không để phát sinh điểm nóng. Tuy nhiên trên thực tế
quá trình triển khai GPMB tại quận Hai Bà Trưng cũng còn không ít khó
khăn vướng mắc như cá nhân chưa đồng thuận cho tổ công tác GPMB vào đo
đạc kiểm đếm với lý do chưa đồng thuận giá bồi thường. Chưa được xác định
trong cơ chế chính sách hiện hành, như giá đất, quỹ nhà, chính sách tái định
cư dễ phát sinh khiếu kiện đông người, mất ổn định an ninh trật tự, đơn thư
vượt cấp tăng lên. Hiện nay cũng còn một số hộ dân chưa đồng tình trong đó
có 07 hộ của phường Đồng Tâm và vụ việc như Báo An Ninh Thủ Đô online
ngày 12/5/2022 đưa tin với tiêu đề: “Vì sao dân bị thu hồi đất hơn 9 năm vẫn
chưa hoàn thành chi trả bồi thường”. Tại ngách 259/9 phường Trương Định,
quận Hai Bà Trưng đã bị thu hồi trên 130m2 đất để thực hiện dự án thoát
nước cải tạo môi trường Hà Nội. Song đến nay đã gần 10 năm trôi qua, việc
bồi thường hỗ trợ đối với phần diện tích này vẫn chưa hoàn tất. UBND quận
Hai Bà Trưng tổ chức hội nghị đối thoại để lắng nghe ý kiến mà các hộ còn
vướng mắc và các đơn vị chức năng thuộc UBND quận đã tiếp thu và giải
trình, phân tích các quy định của pháp luật và luật đất đai; tất cả các ý kiến
của các hộ UBND quận đã tiếp thu chỉ đạo các cơ quan chức năng xem xét
giải quyết, đặc biệt là các khiếu nại đã giải quyết theo trình tự của Luật Khiếu
nại, các hộ không đồng tình với giải quyết khiếu nại lần 1 và tiếp tục khiếu
nại lần 2 thì UBND quận đã báo cáo Thanh tra Thành phố và đề xuất với các
45
sở, ngành, UBND Thành phố xem xét giải quyết. Một số ý kiến khác UBND
quận và các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành xuống thực địa khảo sát thực
tế để giải quyết cho các hộ dân.
2.3. Đánh giá chung về hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai trên
địa bàn quận Hai Bà Trƣng, TP Hà Nội
2.3.1. Những kết quả đạt được
Theo báo cáo 5 năm của UBND quận Hai Bà Trưng 6 tháng đầu năm
2022 tuy các vụ kiện có tăng nhưng công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại
đơn thư của công dân có nhiều tiến bộ, đã hạn chế được tình trạng đơn thư
vượt cấp, tồn đọng kéo dài. Giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền bình quân
hàng năm đạt 93.1%. Từ năm 2018 đến 6 tháng đầu năm 2022 UBND quận
Hai Bà Trưng có 58 vụ kiện về giải quyết tranh chấp đất đai. UBND quận đã
giải quyết xong 54 vụ đạt 93.1%, giải quyết khiếu nại lần 1 là: 37 vụ đạt
68.5%, giải quyết khiếu nại lần 2 là: 6 vụ đạt 10.3%, không giải quyết được 4
vụ chiếm 0.68%.
Quận Hai Bà Trưng giải quyết tranh chấp đất đai thành công lớn nhờ
tạo được sự đồng thuận giữa các cấp chính quyền và người dân trên địa bàn
quận. Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hai Bà Trưng rất nặng nề, phức
tạp, song nhờ bám sát chỉ đạo của TP, với nỗ lực vào cuộc của chính quyền từ
quận tới các phường, công tác giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn đã có
nhiều chuyển biến rõ nét, đạt kết quả đáng khích lệ. Được sự chỉ đạo sát sao
của Thành Phố và quận, sự vào cuộc tích cực của Ủy ban MTTQ, các đoàn
thể CT-XH, trong những năm qua, các vụ giải quyết tranh chấp đất đai trên
địa bàn đã được giải quyết triệt để. Cùng đó, đã triển khai giải quyết tranh
chấp nhiều dự án về đất đai, đang giải quyết tồn tại liên quan một số dự án.
UBND quận đang tiếp tục triển khai giải quyết các vụ tranh chấp đất đai tạo
46
thuận lợi cho người dân trong quyền lợi mà họ được hưởng
Để có được kết quả khả quan này, theo cán bộ những phường có các
tranh chấp đất đai thì quan trọng nhất chính nhờ những nỗ lực trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của UBND quận về thực hiện giải quyết tranh chấp đất đai và
công tác tuyên truyền vận động hoà giải các hộ gia đình có tranh chấp. Cấp ủy,
chính quyền từ quận đến các phường đẩy mạnh lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt,
huy động sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, phát huy vai trò tiên
phong của cán bộ đảng viên, nhất là người đứng đầu trong giải quyết tranh
chấp đất đai; xử lý kịp thời khiếu nại tố cáo, không để phát sinh điểm nóng.
Thực tế cho thấy, cấp ủy, chính quyền nơi có dự án đã công bố rộng rãi
các quy hoạch (QH) sử dụng đất, phát triển KT-XH, QH chi tiết của dự án đã
được phê duyệt, đơn giá bồi thường hỗ trợ để Nhân dân thực hiện đúng quy
định. Đồng thời, thường xuyên đối thoại lắng nghe nguyện vọng chính đáng
của người dân; thực hiện bồi thường hỗ trợ đảm bảo quyền lợi chính đáng của
họ, không gây sách nhiễu. Chính quyền phường chú trọng phát huy vai trò
cán bộ cơ sở, đảng viên, người cao tuổi có uy tín ở khu dân cư để tuyên
truyền thuyết phục Nhân dân giải quyết thấu tình đạt lý. Chính nhờ kiên trì
của cả hệ thống, những vướng mắc của Nhân dân dần được tháo gỡ; các tổ
chức, cá nhân trên địa bàn chấp hành nghiêm pháp luật nên các tranh chấp đất
đai được giải quyết nhanh chóng và triệt để.
Nhìn chung UBND quận Hai Bà Trưng từ 2017 đến nay đã thực hiện
công tác quản lý, tiếp nhận và xử lý đơn thư về tranh chấp khiếu nại đất đai,
vì thế trên địa bàn quận trong những năm gần đây đã từng bước đi vào nề
nếp. Đất đai đã được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng về cơ bản đã theo quy
hoạch pháp luật. Việc quản lý tài chính về đất đai được quản lý một cách hợp
lý và nghiêm túc. Công tác quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất khá đầy đủ, kịp thời, tình trạng lấn chiếm đất công, sử
47
dụng sai mục đích đã được ngăn chặn. Tuy nhiên có xu hướng tăng nhưng
không đáng kể từ năm 2018 là 19 vụ sang năm 2019 giảm đi còn 12 vụ nhưng
sang năm 2020 lại tăng lên 14 vụ. Đến năm 2021 thì giảm rõ rệt xuống còn 7
vụ, điều này liên quan đến tình hình dịch covid nên số vụ tranh chấp đất đai
cũng giảm đáng kể trong năm này. Sang năm 2022 chỉ riêng 6 tháng đầu năm
số vụ tranh chấp đất đai đã tăng đáng kể so với năm 2021. Công tác tiếp nhận
và giải quyết đơn thư đã có những chuyển biến và đạt kết quả:
- Thứ nhất, về công tác tiếp nhận đơn khiếu kiện về tranh chấp đất đai
của công dân. Mặc dù việc triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt
bằng, tái định cư để thực hiện các dự án trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã
làm phát sinh nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Tuy nhiên,
nhờ sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, đến nay, công tác tiếp
công dân trên địa bàn quận đã thành nề nếp, công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Chủ tịch UBND quận Hai Bà
Trưng yêu cầu Trưởng các phòng, ban, ngành; Chủ tịch UBND 18 phường
quán triệt, thực hiện nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu trong việc tiếp
công dân, đối thoại trực tiếp với công dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị
của công dân theo các quy định: Quy định số 11-QĐ/TW, ngày 18/02/2019,
của Bộ Chính trị và Luật Tiếp công dân; Kế hoạch số 138-KH/TU ngày
07/5/2019 của Thành ủy; Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 24/4/2018, của Chủ
tịch UBND thành phố về nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân đến kiến
nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo. Tăng cường đối thoại, tiếp công dân ngay
tại cơ sở, tập trung giải quyết dứt điểm, kịp thời các vụ việc khiếu nại, tố cáo
của công dân ngay từ khi mới phát sinh. Cùng với việc ban hành kịp thời các
văn bản chỉ đạo, trong những năm qua, quận Hai Bà Trưng đã tích cực tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật dưới nhiều hình thức như: In tờ gấp, phát
trên hệ thống loa truyền thanh, cổ động trực tiếp… Lấy ngày thứ Năm hàng
48
tuần là “Ngày pháp luật” để tuyên truyền pháp luật nói chung cũng như pháp
luật về tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo nói riêng. Từ đầu năm đến nay, đã tổ
chức 43 cuộc tuyên truyền với 3.996 đối tượng là các hòa giải viên, tổ trưởng
dân phố. Thông báo công khai việc chỉ đạo giải quyết đơn thư khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trên trang
cổng giao tiếp điện tử của quận để nhân dân biết, kiểm tra, giám sát. Cùng với
đó, tăng cường đối thoại với công dân để kịp thời hướng dẫn, giải thích những
thắc mắc về chính sách pháp luật khi tiếp công dân, đặc biệt khi triển khai các
dự án trên địa bàn. Kết quả, trong thời gian qua, quận đã tiếp 3917 lượt công
dân, trong đó: Lãnh đạo Quận tiếp 232 lượt, Ban tiếp công dân UBND quận
tiếp 1.883 lượt; lãnh đạo UBND các phường tiếp 758 lượt; bộ phận tiếp công
dân các phường tiếp 1.044 lượt. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo: Cấp
quận đã tiếp nhận, xử lý và giải quyết 146/146 đơn khiếu nại; Tiếp nhận, xử
lý và giải quyết 45/46 đơn tố cáo, hiện đang giải quyết 01 đơn. Công tác tiếp
dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp thuộc thẩm
quyền cũng được quan tâm, chỉ đạo giải quyết kịp thời, không để xảy ra tình
trạng đơn thư tồn đọng. Trong 5 năm qua (2018 - 6/2022), Tòa án nhân dân
quận đã tổ chức tiếp 136 lượt công dân; Viện kiểm sát nhân dân quận đã tổ
chức tiếp 674 lượt người; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền với
254 đơn; Công an quận đã tổ chức tiếp 104 lượt công dân; tiếp nhận 3.046
đơn thư, trong đó, đã giải quyết 13 đơn khiếu nại, 72 đơn tố cáo thuộc thẩm
quyền. Ở khối phường đã giao cho đồng chí cán bộ tư pháp kiêm nhiệm công
tác giải quyết tranh chấp đất đai, có sự hỗ trợ của UBND phường và các tổ
chức đoàn thể phường. Tất cả 100% các phường trong quận tuân thủ đúng
quy định về việc giải quyết tranh chấp đất đai do UBND thành phố Hà Nội
ban hành về tổ chức địa điểm, phân công ứng trực, phụ trách tiếp dân, ban
hành quy chế, lịch giải quyết tranh chấp đất đai đầy đủ. Ở khối các phòng,
49
ban trực thuộc UBND quận. Công tác giải quyết tranh chấp đất đai thời gian
qua đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.
Cùng với việc thực hiện các quy định của UBND thành phố Hà Nội trong
công tác tổ chức và chỉ đạo quy trình giải quyết tranh chấp đất đai. UBND
quận Hai Bà Trưng luôn chú trọng thử nghiệm, áp dụng các biện pháp, cách
thức tiến hành để đảm bảo công tác giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý đơn
thư được chính xác, đạt hiệu quả.
- Thứ hai, về công tác hòa giải ở cơ sở được quan tâm chỉ đạo, thực
hiện đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần giải quyết kịp thời những mâu
thuẫn phát sinh ngay tại cơ sở, hạn chế phát sinh đơn thư khiếu kiện vượt cấp.
Đáng chú ý, quận đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin tới các phòng,
ban, ngành và 18 phường đảm bảo hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo được kịp
thời. Quận cũng chú trọng công tác phối hợp giữa các phòng, ban, ngành với
các phường để giải quyết hiệu quả các vụ việc phức tạp, nổi cộm trên địa bàn.
Quận Hai Bà Trưng hòa giải thành công hơn 88% vụ mâu thuẫn tranh chấp
đất đai từ cơ sở. Ngay sau khi Luật Hòa giải ở cơ sở có hiệu lực, tháng
4/2014, UBND quận đã ban hành Kế hoạch số 64 triển khai thực hiện Luật
trên địa bàn. Hoạt động hòa giải tại quận gần đây chuyển biến tích cực, trong
đó các tổ hòa giải thường xuyên được kiện toàn, chất lượng và số lượng hòa
giải viên được nâng lên. Hiện quận có tổng số 215 tổ hòa giải, với 1.172 hòa
giải viên, đều là những người có phẩm chất đạo đức tốt, kỹ năng giao tiếp và
uy tín tại khu dân cư, tổ dân phố. 6 tháng đầu năm 2022, tại quận phát sinh
112 vụ việc mâu thuẫn, trong đó đã hòa giải thành công 99 vụ việc, đạt
88,4%. Đối với các vụ tranh chấp đất đai các hòa giải viên đã kiên trì thuyết
phục để các bên có tranh chấp làm hòa với nhau và giải quyết mâu thuẫn một
cách nhẹ nhàng, hàn gắn tình cảm với nhau. Qua đó, giảm bớt các vụ việc
phải chuyển đến Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, tiết
50
kiệm được thời gian, kinh phí cho Nhà nước và Nhân dân, góp phần phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương. Để nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở, Phó
Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng đề nghị các đơn vị, các phường trên địa
bàn tới đây tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước về công tác hòa giải ở
cơ sở nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác này trong đời
sống. Bên cạnh đó, các cấp, ngành trong quận cần quan tâm hơn tới việc đào
tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ hòa giải ở cơ sở đảm bảo đủ năng lực, phẩm
chất và lòng say mê nghề nghiệp, đáp ứng nhiệm vụ được giao.
- Thứ ba, công tác giải quyết tranh chấp đất đai, số vụ việc còn tồn
đọng chủ yếu là do những nguyên nhân khách quan bắt nguồn từ các quy định
pháp luật, chế độ quản lý và SDĐ đai khác nhau qua các thời kỳ và sự phối
hợp giải quyết từ phía các đương sự,… Kết quả giải quyết phần lớn các vụ
việc tranh chấp đất đai đều được giải quyết tương đối ổn thỏa, đạt được sự
đồng thuận, chấp hành từ các bên; hạn chế việc tiếp tục kiến nghị giải quyết
lên thành phố.
- Thứ tư, UBND quận là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai (với một
đội ngũ cán bộ địa chính nắm bắt tình hình quản lý và sử dụng đất một cách
chính xác và kịp thời), vừa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
đất đai, cho nên việc xác minh, thu thập chứng cứ cho vụ kiện sẽ nhanh chóng
hơn và sát thực hơn so với các khó khăn trong hòa giải tranh chấp đất tại các
phường, tại UBND các phường còn tồn tại việc lưu trữ hồ sơ tại cơ sở thường
không đầy đủ, việc thẩm định, đo vẽ tại phường chưa đủ chuyên môn nên khó
xem xét, nhận định chính xác, vì thế thực tế dẫn đến tình trạng tồn đọng hồ
sơ, chậm trễ giải quyết bức xúc của người dân dẫn đến việc hòa giải tại cấp cơ
sở chưa thực hiện được nhanh chóng, hiệu quả. Do đó trong khoảng thời gian
51
hơn 10 năm với gần các vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai thì phần lớn
các vụ việc đều được UBND các phường phối hợp với phòng Tài nguyên và
Môi trường quận để thu thập hồ sơ địa chính liên quan để phục vụ việc giải
quyết tranh chấp đất đai, trong việc hòa giải tại cơ sở.
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
- Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai trong thời gian qua tại quận
Hai Bà Trưng có những tồn tại và hạn chế nhất định như sau:
+ Vướng mắc trong việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp
đất đai giữa Tòa án và Ủy ban nhân dân. Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm
2003 quy định,Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về QSDĐ mà
đương sự có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc có một trong các loại giấy tờ
quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản
gắn liền với đất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có trường hợp tranh chấp QSDĐ
nhưng Tòa án khi tiếp nhận vụ việc lại hướng dẫn cho công dân khiếu nại đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ hoặc trong việc ban hành các giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2
và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 (vụ việc tranh chấp dân sự chuyển
sang khiếu nại hành chính).Trong khi đó, cơ quan hành chính khi tiếp nhận vụ
việc lại cho rằng vụ việc về bản chất là tranh chấp dân sự và thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND. Như vậy, quy định của pháp luật về thẩm quyền
giải quyết tưởng rằng đã rõ ràng, nhưng trong thực tế áp dụng lại nảy sinh
nhiều bất cập, còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau của các cơ quan có
thẩm quyền khi tiếp nhận xử lý đơn. Từ đó công dân, tổ chức phải đi lại nhiều
lần và ít nhiều gây bức xúc. Vì vậy, thẩm quyền giải quyết các vụ việc tranh
chấp đất đai cần được quy định một cách rõ ràng hơn, để khi các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết áp dụng không thể đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
+ Việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở có trường hợp UBND cấp
52
phường triệu tập nhiều lần nhưng người bị kiện cố tình không đến, cho nên
không thể tiến hành hòa giải được. Như vậy, theo quy định trước đây thì nếu
người bị kiện cố tình trốn tránh việc tham gia hòa giải thì tranh chấp sẽ kéo
dài thời gian hòa giải mà nếu chưa qua hòa giải được ở địa phương thì Tòa án
không thụ lý đơn khởi kiện. Tuy nhiên, hiện tại theo quy định của Luật Đất
đai năm 2013 sau thời gian 45 ngày hòa giải không thành hoặc không thể tiến
hành hòa giải được thì các bên tranh chấp đất đai có quyền yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai cho mình lập một Biên
bản hòa giải không thành để có thể tiến hành các bước tiếp theo, có thể tiếp
tục yêu cầu lên cấp trên hoặc khởi kiện tại Tòa án. Ngoài ra, theo quy định tại
khoản 3 Ðiều 202 Luật Ðất đai năm 2013 thì UBND cấp xã phải phối hợp với
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để
tiến hành hòa giải. Trong thực tế, do không nắm vững các quy định của pháp
luật cho nên nhiều trường hợp thành phần tham gia hòa giải ở cấp xã không
đúng. Chẳng hạn như không có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên của mặt trận mà chỉ có thường trực UBND, cán bộ địa chính,
tư pháp và đại diện một số hội, đoàn thể ở xã mà quên mất thành phần cần có
là đại diện Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Các vụ hoà giải trên đây tuy
không đúng với quy định của Luật Đất đai, song, không có gì đáng nói, nếu
đã được hòa giải thành. Điều đáng nói là, khi các bên tranh chấp hòa giải
không thành đã tiến hành khởi kiện theo trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự,
do biên bản hòa giải không có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tham gia hòa giải (áp
dụng đối với một số trường hợp bắt buộc phải tiến hành hòa giải cơ sở) nên
Tòa án đã căn cứ điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm
2015 và được hướng dẫn chi tiết tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-
HĐTP để trả lại đơn cho người khởi kiện vì chưa có đủ điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, còn nhiều trường hợp khác là
UBND phường tổ chức hòa giải nhưng không giao biên bản để người khởi
53
kiện nộp cho Tòa án, kéo dài nhiều tháng đến cả năm.
+ Căn cứ để giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên
không có giấy tờ về quyền sử dụng đất còn chưa phù hợp với thực tiễn và
thiếu tính khả thi. Điều 161 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004
của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003 đã quy định 6 căn cứ giải
quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy tờ
về QSDĐ, bao gồm: (1) Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do
các bên tranh chấp đưa ra; (2)Ý kiến của Hội đồng tư vấn giải quyết tranh
chấp đất đai do UBND xã, phường, thị trấn thành lập; (3) Thực tế diện tích
đất mà các bên tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu tại
địa phương;(4) Sự phù hợp với hiện trạng sử dụng đất đang có tranh chấp với
quy hoạch sử dụng đất chi tiết đó được xét duyệt; (5) Chính sách ưu đãi người
có công của Nhà nước; (6) Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất.
Tuy nhiên, tranh chấp QSDĐ là một dạng tranh chấp đặc thù, liên quan đến
các chính sách, pháp luật theo từng giai đoạn khác nhau và tính chất, đặc
điểm của từng vụ việc, quan hệ tranh chấp đất đai tại các vùng, miền khác
nhau. Do đó, việc giải quyết tranh chấp về QSDĐ còn phải phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội và phải bảo đảm tính khả thi trong thực tế. Qua thực tiễn
giải quyết các vụ việc tranh chấp về QSDĐ ở quận Hai Bà Trưng cho thấy,
các căn cứ giải quyết tranh chấp đất đai thứ 3, 4, 5 quy định tại Điều 161 Nghị
định số 181/2004/NĐ-CP không được áp dụng trong quá trình giải quyết, vì
nó không chứa đựng tính pháp lý rõ ràng và không đủ tính định lượng để phục
vụ cho việc xem xét, đánh giá khách quan, chính xác khi giải quyết các tranh
chấp về QSDĐ. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân,
nhưng luôn gắn liền với chủ thể quản lý, sử dụng nhất định và pháp luật bảo
đảmtôn trọng quá trình quản lý, sử dụng. Do đó, việc giải quyết các vụ việc
tranh chấp về quyền sử dụng đối với trường hợp không có giấy tờ về QSDĐ
cần quy định nguyên tắc chung là “bảo đảm tôn trọng hiện trạng, quá trình sử
54
dụng đất ổn định, lâu dài”.
+ Giữa Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính còn có sự mâu thuẫn, làm hạn chế quyền khởi
kiện vụ án hành chính của tổ chức, cá nhân. Theo quy định tại Điều 46 Luật
Khiếu nại, tố cáo (Luật này được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006) thì cơ quan, tổ
chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính trong hai trường hợp: (1)
kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định mà khiếu nại không
được giải quyết và (2) không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1
hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của cơ quan giải quyết khiếu nại.
Trong khi đó, điểm a khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 lại có quy
định, quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh là quyết định cuối cùng, tức là sau khi có quyết định này thì cơ quan, tổ
chức, cá nhân không còn quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 cũng không quy định
cho Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết các vụ việc nêu trên. Vì vậy, mặc
dù trong quyết định giải quyết khiếu nại hành chính của cơ quan hành chính
nhà nước đều có ghi một nội dung là, nếu đương sự không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án,
nhưng trên thực tế, khi cơ quan, tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện thì đều bị
Toà án từ chối, không thụ lý vụ việc để giải quyết. Tình trạng này đã không
bảo đảm quyền khởi kiện vụ án hành chính của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây
bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến ổn định tình hình chính trị - xã
hội ở một số địa phương. Để khắc phục những vướng mắc, bất cập của pháp
luật nêu trên, vừa qua, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật tố
tụng hành chính, tại Điều 264 của Luật này đã sửa đổi Điều 136 và Điều 138
Luật Đất đai để bảo đảm tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật
55
trong hệ thống pháp luật.
UBND quận Hai Bà Trưng nói riêng và các cơ quan chuyên môn trên
địa bàn quận nói chung mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhìn chung đội
ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực đất đai
còn rất hạn chế. Đội ngũ cán bộ công chức chủ yếu làm công tác chuyên môn
nghiệp vụ việc cụ thể, chưa tập trung tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút
thành lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Trình độ chuyên
môn, trách nhiệm công vụ của một số bộ phận cán bộ công chức của UBND
quận Hai Bà Trưng chưa cao. Một số cán bộ công chức còn thiếu kinh
nghiệm, chưa nắm vững được các quy định của pháp luật, thiếu kiến thức về
quản lý kinh tế, xã hội, lại còn chủ quan không thực hiện đầy đủ quy trình
nghiệp vụ nên chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công tác tổ chức cán
bộ, trước hết là việc bố trí, điều động và sử dụng cán bộ của quận Hai Bà
Trưng có lúc chưa thật sự phù hợp với trình độ, năng lực cán bộ; một số chính
sách về lương, phụ cấp trách nhiệm của cán bộ công chức còn bất hợp lý
nhưng chậm được giải quyết phần nào ảnh hưởng đến tư tưởng, trách nhiệm
của cán bộ công chức trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị, phương tiện phục vụ yêu cầu công tác, nhất là trang bị công nghệ
thông tin của công chức các phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã được
tăng cường song nhiều nơi còn thiếu cả cán bộ vận hành và trang thiết bị máy
vi tính, chất lượng đường truyền, phần mềm ứng dụng chưa đáp ứng yêu cầu
của việc đổi mới quản lý, chỉ đạo, điều hành của UBND quận Hai Bà Trưng.
- Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế:
Một là do sự quản lý yếu kém kéo dài của cơ quan có thẩm quyền quản
lý nhà nước về đất đai được thể hiện trong việc việc lưu trữ, quản lý hồ sơ về
thửa đất không đầy đủ, tình trạng hồ sơ bị thất lạc, đứt đoạn thông tin là
không hiếm, không cập nhật được di biến động về thửa đất (do thực hiện các
56
giao dịch, chuyển từ đất tập đoàn, hợp tác xã sang cá nhân, hộ gia đình quản
lý vv…); thông tin trong hồ sơ về thửa đất thiếu, không chính xác (không
chính xác về kích thước, số đo, diện tích, hình thù thửa đất, trên đất có tài sản
như các công trình xây dựng, nhà ở không được thể hiện trong giấy chứng
nhận xuất phát từ quy định, cách làm không hợp lý của cơ quan quản lý về đất
đai tạo nên …); chậm hoàn thiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho người dân, doanh nghiệp; nhầm lẫn trong việc cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, không rõ ranh giới, chồng lấn khi giao dẫn đến tranh chấp; giấy
chứng nhận ghi cấp cho hộ gia đình nhưng chính cơ quan quản lý, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất không biết những ai trong hộ có quyền đối với
diện tích đất này; nguồn gốc ban đầu là đất của thành viên trong hộ nhưng khi
cấp giấy chứng nhận thì trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi hộ gia
đình, song hồ sơ không thể hiện rõ việc chuyển từ đất của cá nhân thành đất
của “hộ gia đình”. Qua tìm hiểu tác giả nhận thấy có trường hợp đất của cá
nhân nhưng quá trình làm thủ tục cấp giấy cán bộ yêu cầu người xin cấp giấy
chứng nhận phải ghi cả vợ hoặc chồng thì mới làm thủ tục cấp giấy nên phản
ánh không đúng thực trạng …Bên cạnh đó việc cung cấp thông tin cho đương
sự, cơ quan giải quyết tranh chấp không hiếm trường hợp cung cấp không kịp
thời, thiếu chính xác. Khi hồ sơ về thửa đất không bảo đảm độ tin cậy, cơ
quan quản lý không cung cấp được những thông tin cần thiết cho việc giải
quyết tranh chấp hoặc cung cấp không chính xác là trở ngại rất lớn cho việc
giải quyết nhanh và chính xác các vụ tranh chấp về đất đai.
Hai là do chính sách pháp luật về đất đai thay đổi liên tục và nhanh
chóng trong một thời gian dài, nhưng mỗi lần thay đổi không có các quy định
của pháp luật minh định rõ các quan hệ đất đai hình thành trên thực tế trong
các thời đoạn đó, tạo ra những điểm mờ trong quan hệ về đất đai, phải nghiên
cứu, xem xét nhiều quy định trong đó có cả loại văn bản thuộc về chính sách
57
đất đai (trong mỗi thời kỳ) khi giải quyết một vụ tranh chấp. Từ chỗ đất đai
không được coi là tài sản, không được công nhận là di sản thừa kế nên người
có quyền sử dụng đất không được để thừa kế quyền sử dụng đất cho người
khác, quyền sử dụng đất không phải là đối tượng của giao dịch dân sự (Điều 5
Luật đất đai năm 1987) dù thực tế người dân vẫn giao dịch. Từ quy định của
Luật đất đai năm 1987 diện tích đất mà người có quyền sử dụng hợp pháp đã
quản lý, khai thác trong nhiều năm, nhưng khi chủ thể này chết thì quyền sử
dụng đất đó không được xử lý theo pháp luật thừa kế tài sản mà xử lý theo
chính sách, pháp luật về đất đai do cơ quan quản lý đất đai thực hiện, và từng
nơi xử lý vấn đề này rất khác nhau. Khi Luật đất đai năm 1993, Bộ luật dân sự
năm 1995 được Quốc hội thông qua dù đã có nhiều cởi mở, đã công nhận
quyền sử dụng đất là di sản. Tuy nhiên, quy định về thừa kế quyền sử dụng
đất là di sản trong Bộ luật dân sự năm 1995 chủ yếu mang tính nguyên tắc
nhiều hơn, còn trong thực tế rất nhiều diện tích đất thuộc quyền sử dụng đất
do người chết để lại không trở thành di sản. Sở dĩ như vậy một phần xuất phát
từ quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất được quy
định trong Luật đất đai năm 1993. Theo khoản 3 điều 38 Luật đất đai năm
1993 thì chỉ “các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã
có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp và tài
sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do tòa án giải quyết”. Từ quy định tại
Điều 38 Luật đất đai năm 1993 trên thực tế chỉ có một phần quyền sử dụng
đất do người chết để lại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án mới được coi
là di sản và chia thừa kế nếu có tranh chấp, còn phần diện tích thuộc thẩm
quyền của Ủy ban nhân dân không được xử lý theo luật thừa kế mà theo chính
sách đất đai. Mặt khác, những quy định về chủ thể, điều kiện để được hưởng
thừa kế quyền sử dụng đất mà Bộ luật dân sự năm 1995 quy định đã tạo ra rào
cản để phần lớn quyền sử dụng đất không trở thành di sản chia theo luật thừa
58
kế. Ví dụ nếu là đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm của hộ gia đình,
trong hộ gia đình có thành viên chết thì phần đất của họ không chia thừa kế
mà thành viên khác trong hộ được sử dụng, nếu trong hộ gia đình không còn
thành viên nào thì Nhà nước thu hồi đất đó (Điều 744). Đối với những loại đất
khác, chủ thể khác có quyền sử dụng đất thì quyền sử dụng đất có thể được
coi là di sản nhưng thực tế việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất, hưởng thừa
kế quyền sử dụng đất phải đáp ứng những điều kiện nhất định (được thể hiện
tại các Điều 739, Điều 740, Điều 741, Điều 742, Điều 743 Bộ luật dân sự năm
1995) nếu không thỏa mãn điều kiện do Bộ luật quy định cũng không được
hưởng thừa kế quyền sử dụng đất. Đến khi Bộ luật dân sự năm 2005 được
quốc hội thông qua đã bỏ các quy định về điều kiện hưởng di sản thừa kế là
quyền sử dụng đất, nhưng theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Luật
đất đai năm 2003 thì dù đã mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
cho tòa án, song vẫn có một tỷ lệ quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền
giải quyết của tòa án (đó là loại đất mà người sử dụng đất mới đứng tên trong
sổ mục kê, sổ dã ngoại…), điều đó cũng đồng nghĩa với việc quyền sử dụng
đất của người chết để lại không được phân chia theo luật thừa kế. Sự bất hợp
lý này làm xuất hiện những quan điểm khác nhau về thời điểm tính thời hiệu
khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất, dẫn đến việc giải quyết tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất gặp khó khăn, thiếu thống nhất đã được tác giả
trình bày trong bài “Thời hiệu khởi kiện vụ án thừa kế và thời điểm tính thời
hiệu thừa kế quyền sử dụng đất” trang 256 cuốn “Thời hiệu, thừa kế và thực
tiễn xét xử” do Nhà xuất bản tư pháp ấn hành năm 2017.
Ba là từ thời điểm mở thừa kế đến khi có tranh chấp, khởi kiện yêu cầu
chia di sản thừa kế thường có khoảng thời gian khá dài. Trước khi Bộ luật dân
sự năm 2015 được thông qua thì thời hiệu thừa kế chỉ mười năm nhưng trên
thực tế tòa án phải thụ lý giải quyết các tranh chấp thừa kế mà tính từ thời
59
điểm mở thừa kế đến khi các bên tranh chấp khởi kiện ra tòa án cũng đã vài
chục năm, do xuất hiện những sự kiện mà thời gian không tính vào thời hiệu
khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện… Ví dụ quy định tại khoản 4 Điều
36 Pháp lệnh thừa kế, Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8
năm 1998 và Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27 tháng 7 năm
2006 của Ủy ban thường vụ quốc hội, vv…Hiện nay theo quy định tại Điều
623 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa
kế là bất động sản có thời hạn là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Thực tế
ở quận Hai Bà Trưng đã xuất hiện những trường hợp tính từ thời điểm mở
thừa kế đến khi khởi kiện ra tòa án đã 50 hoặc 60 năm và đặc biệt là quy định
tại khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-H ĐTP ngày 05 tháng 5 năm
2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì những trường hợp
khi Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 còn hiệu lực tòa án đã
đình chỉ giải quyết với lý do hết thời hiệu khởi kiện, nay các thừa kế được
quyền khởi kiện lại. Những trường hợp mà thời điểm mở thừa kế đã quá lâu
theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 do hết
thời hiệu khởi kiện nên người dân không khởi kiện hoặc có trường hợp khởi
kiện Tòa án căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân
sự trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện hoặc tòa án đã đình chỉ giải quyết
theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Sau khi tòa án trả lại đơn khởi kiện hoặc
đình chỉ giải quyết thì khối di sản thừa kế là nhà đất đất đã có nhiều biến động
như có trường hợp cơ quan quản lý về đất đai đã cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho một hay một vài thừa kế đang quản lý di sản, hoặc đã cấp
toàn bộ hay một phần đất cho một chủ thể không phải là người thừa kế, hay
thừa kế đang quản lý khối di sản là quyền sử dụng đất đã phân chia đất cho
con, cháu và thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất di sản. Có
60
trường hợp việc chuyển nhượng không chỉ qua một chủ mà đã qua nhiều chủ,
các bên đã được hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
xác định tích chất của các quan hệ đó như thế nào vv …Việc thu thập tài liệu,
chứng cứ để giải quyết là vô cùng khó khăn với tất cả các bên tham gia tố
tụng; việc áp dụng pháp luật, lựa chọn đường lối giải quyết thế nào cho hợp lý
là vô cùng nan giải.
Mặt khác, khi Luật đất đai năm 2013 được thông qua tại Điều 202 đã
quy định về hòa giải tranh chấp đất đai là: “ Nhà nước khuyến khích các bên
tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa
giải ở cơ sở. Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường
trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới
thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất.” Với các quy định tại điều 202 Luật đất đai
năm 2013 thì khi có tranh chấp bắt buộc phải trải qua hai cơ quan có thẩm
quyền giải quyết, cơ quan thứ nhất làm nhiệm vụ hòa giải, nếu hòa giải không
thành, không hòa giải được… thì mới được yêu cầu cơ quan thứ hai là Tòa
dân sự giải quyết. Những tầng nấc này làm cho vụ kiện kéo dài một bước,
nhưng nó chỉ làm chậm việc kết thúc giải quyết vụ tranh chấp về đất đai, chứ
không có vấn đề về pháp lý. Tuy nhiên, khi Điều 203 Luật đất đai năm 2013
quy định loại đất tranh chấp mà các bên chưa có bất cứ loại giấy tờ gì cũng
thuộc thẩm quyền tòa dân sự, là trao vượt quá thẩm quyền cho tòa dân sự
trong việc giải quyết tranh chấp đối với loại đất này (từ chỗ chỉ có quyền xác
định ai vốn có quyền dân sự đang bị người khác tranh chấp nay có thêm
quyền xác định ai được quyền sử dụng đất chưa có căn cứ pháp luật chưa
được công nhận về pháp lý, vì loại đất này vốn đang được xác định là “đất
công”), sẽ là một phức tạp rất lớn, xác xuất sai sót khi tòa án giải quyết tranh
chấp sẽ cao hơn. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật thì chỉ những tài sản đã
61
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể, nay có chủ thể khác xâm
phạm, tranh chấp thì Tòa dân sự căn cứ vào tài liệu chứng cứ để xác định thực
chất tài sản đó là của chủ thể nào thì công nhận cho chủ thể đó, buộc bên đang
chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho bên có quyền, chứ Tòa dân sự
không có quyền ban phát quyền, lợi ích cho bất kỳ bên nào. Với những phức
tạp nói trên tỷ lệ phạm sai lầm, thiếu sót sẽ tỷ lệ thuận với những khó khăn,
vướng mắc mà cơ quan giải quyết tranh chấp gặp phải trong vụ án, là những
nguyên nhân dẫn đến vụ án bị sửa, hủy giải quyết lại nhiều lần, nguy cơ trải
qua cả chục năm thậm chí lâu hơn mới kết thúc được vụ án là điều hoàn toàn
tiên liệu được.
Tiểu kết Chƣơng 2
Thông qua chương hai, Luận văn đã làm rõ thực trạng các tranh chấp
đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng và cũng tổng hợp, phân tích và đánh
giá một cách trung thực về thực trạng giải quyết các tranh chấp đất đai của
UBND quận Hai Bà Trưng và cơ quan chuyên môn trong những năm qua.
Các tranh chấp diễn ra trong giai đoạn này đã thể hiện phần nào sự phát
triển của quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2022. Các
giao dịch liên quan đến nhà đất diễn ra rất sôi động, nhu cầu về việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với
đất là rất lớn, từ đó dẫn đến các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Từ thực tế đó, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tại địa phương từ phường tới quận rồi các cơ quan liên
quan như Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền đã phải tham gia vào việc giải
quyết các tranh chấp trên. Trên cơ sở những luận giải trên chương 2 cũng đã
đánh giá được những kết quả đạt được cũng như những hạn chế còn vướng
mắc trong việc giải quyết tranh chấp đất đai để từ đó làm cơ sở xác lập những
62
giải pháp hoàn thiện việc giải quyết tranh chấp đất đai tại chương 3.
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN
HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp
đất đai nói chung, quận Hai Bà Trƣng nói riêng
3.1.1. Quán triệt và thể chế hóa đường lối chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước về công tác giải quyết tranh chấp đất đai
- Quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách
pháp luật của Đảng và nhà nước về công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải
quyết khiếu nại tranh chấp đất đai. Cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của
công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai.
Làm tốt công tác này là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tạo
điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; củng cố lòng tin
của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; góp phần nâng cao chất lượng công tác
xây dựng, chỉnh đốn đảng và hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để
phát triển đất nước. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc
và các tổ chức nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công
tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai; phải
xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên. Đẩy mạnh công
tác kiểm tra, giám sát; khắc phục kịp thời sơ hở, yếu kém trong xây dựng
chính sách, pháp luật, công tác quản lý nhà nước. Tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan, tổ chức, nhất là giữa các cơ quan chức năng trong công tác
giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai; thực
hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo đông
63
người, phức tạp, kéo dài, vượt cấp.
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của
người dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên, đầu tư, tài chính..., bảo
đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai theo hướng
nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của Quốc hội, đại
biểu Quốc hội, của hội đồng nhân dân, đại biểu hội đồng nhân dân trong việc
thực hiện chức năng giám sát; của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai. Quy định rõ trách nhiệm, chế tài xử lý
vi phạm trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại
tranh chấp đất đai. Có quy chế đối thoại với công dân, công khai kết quả giải
quyết khiếu nại tranh chấp đất đai.
- Phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước; lấy hiệu quả của công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại
tranh chấp đất đai làm tiêu chí đánh giá năng lực, kết quả công tác. Người
đứng đầu tổ chức đảng, chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về tình hình
khiếu nại tranh chấp đất đai và công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải
quyết khiếu nại tranh chấp đất đai trong phạm vi địa bàn, lĩnh vực phụ trách.
Thực hiện nghiêm chế độ giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của Luật
Giải quyết tranh chấp đất đai, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với xử lý,
giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai kiến nghị, phản ánh. Chú trọng giải
quyết tranh chấp đất đai tại cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người
dân. Chủ động đối thoại, vận động, thuyết phục công dân để giải quyết, tháo
gỡ triệt để khiếu kiện, bức xúc của nhân dân.
Khi phát sinh khiếu nại tranh chấp đất đai đông người, phức tạp, người
đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức phải trực tiếp chỉ đạo
64
làm rõ nội dung, nguyên nhân, xem xét toàn diện các khía cạnh pháp lý và
thực tiễn; tổ chức đối thoại công khai với người khiếu kiện để giải quyết sát
thực tế sự việc, thấu tình, đạt lý. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật
của tổ chức, cá nhân trong giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại
tranh chấp đất đai và tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, quyền khiếu nại tranh
chấp đất đai để cố ý vi phạm pháp luật. Người đứng đầu cơ quan có thẩm
quyền trực tiếp giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai có trách nhiệm ban
hành quyết định xử lý khiếu nại tranh chấp đất đai bảo đảm chính xác, khách
quan, kịp thời, đúng pháp luật; đồng thời phải chỉ đạo thi hành nghiêm quyết
định xử lý.
- Các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tòa án, công an nâng cao
trách nhiệm trong việc chủ trì, phối hợp xử lý theo thẩm quyền, giải quyết dứt
điểm những vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài. Khắc phục tình trạng
chuyển đơn lòng vòng không rõ trách nhiệm.
- Phát huy vai trò giám sát tại cộng đồng; tăng cường giám sát việc thực
hiện kiến nghị sau giám sát. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần
làm tốt vai trò đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, đoàn viên, kiến
nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi có
tranh chấp. Giải thích, thuyết phục công dân chấp hành các quyết định giải
quyết khiếu nại và kết luận, quyết định xử lý đã được xác định là đúng chính
sách, pháp luật. Đẩy mạnh công tác hòa giải, đối thoại, vận động, thuyết phục
công dân chấm dứt khiếu nại, tố cáo không đúng, giảm thiểu các tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo từ cơ sở.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và tham
mưu giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai có phẩm chất đạo đức tốt, tinh
thông nghiệp vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công dân
hiểu và chấp hành đúng pháp luật. Bố trí trụ sở, trang bị phương tiện và đẩy
65
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác giải quyết tranh chấp
đất đai, bảo đảm thuận lợi cho công dân và cán bộ, công chức giải quyết tranh
chấp đất đai.
- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc
cung cấp thông tin, bảo đảm chính xác, kịp thời, trung thực, khách quan; khi
có sai sót phải kịp thời cải chính, góp phần định hướng dư luận xã hội và hỗ
trợ công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3.1.2. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nói chung, quận Hai
Bà Trưng nói riêng nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Giải quyết tranh chấp đất đai là công tác quan trọng trong các hoạt
động của Đảng và Nhà nước. Thông qua việc giải quyết tranh chấp đất đai,
Nhà nước tiếp nhận được các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân
dân liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
để có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. Khi thực hiện nhiệm vụ giải
quyết tranh chấp đất đai, cơ quan giải quyết tranh chấp đất đai, cán bộ giải
quyết tranh chấp đất đai thay mặt cơ quan Nhà nước lắng nghe tiếng nói của
nhân dân. Thái độ của cán bộ giải quyết tranh chấp đất đai, của cơ quan giải
quyết tranh chấp đất đai được người dân xem như thái độ của Đảng và Nhà
nước đối với yêu cầu của nhân dân. Làm tốt công tác giải quyết tranh chấp đất
đai sẽ góp phần phát huy bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân của
Nhà nước ta, củng cố thêm mối quan hệ chặt chẽ, bền vững giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước. Mặt khác, thông qua công tác giải quyết tranh chấp đất
đai giúp cho Đảng và Nhà nước luôn tiếp nhận được những thông tin phản hồi
từ thực tế, những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống từ đó đề ra những chủ trương,
quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của
công tác này, thời gian quan Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị
66
quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và tổ chức
thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc bảo đảm nhân quyền và
pháp quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tiếp
tục được khắc phục, những công việc tiếp tục được triển khai để những văn
bản trên của Đảng và Nhà nước thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả và đi vào
cuộc sống. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai nói riêng ở Việt Nam, đồng thời khẳng định một bước phát
triển mới, quan trọng về cơ chế pháp lý trong việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân ở nước ta, cụ thể như sau:
-Thứ nhất, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Ðảng,
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân và bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Ðây là chủ trương lớn, xuyên suốt trong
nhiều nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, được thể hiện qua các bản Hiến pháp từ trước tới nay.
Tiếp tục nhất quán về chủ trương này, Hiến pháp 2013 đã mở ra không gian
rộng lớn nhằm phát huy dân chủ, ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân và đòi hỏi phải được quy phạm hóa bằng những
quy định của các đạo luật. Luật đất đai 2013 là một trong rất ít các đạo luật đã
kịp thời cụ thể hóa sâu sắc nội dung bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, thể hiện qua tinh thần và toàn bộ nội dung của Luật. Ngay từ việc
đưa ra khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai là việc cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân có trách nhiệm đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc
thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp
luật. Giải quyết tranh chấp đất đai phải tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho
công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định
67
của pháp luật. Khi quy định về các quyền của người khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh tại Khoản 1 Điều 7, Luật cũng quy định rõ người dân có quyền
được trình bày, được hướng dẫn, được thông báo, được có phiên dịch... Bên
cạnh những quy định liên quan đến khiếu nại, tố cáo mà chúng tôi sẽ đề cập
trong phần tiếp theo, Khoản 2 Điều 2 của Luật đã giải thích rõ phạm vi và nội
dung của kiến nghị, phản ánh, đó là việc “công dân cung cấp thông tin, trình
bày ý kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống
xã hội thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó”. Đây là sự
thể hiện sinh động nhất việc hiện thực hóa tư tưởng của Bác, quan điểm của
Đảng về vai trò của nhân dân trong công tác quản lý và thực tiễn cuộc sống xã
hội, đó là phương châm “lấy dân làm gốc”, “dân biết, dân làm, dân kiểm
tra”... Những quy định trên của Luật cũng là biểu hiện rõ nét nhất, minh
chứng cho bản chất dân chủ của Nhà nước ta; là một bước cụ thể hóa chế định
về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp, là cơ sở pháp lý quan
trọng và trực tiếp về quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước
và địa phương, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội của nhân dân.
-Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm quyền khiếu
nại, tố cáo của người dân được thực hiện có hiệu quả trên thực tế, thể hiện qua
các khía cạnh sau đây:
+ Phải thấy rằng giữa công tác giải quyết tranh chấp đất đai và giải
quyết khiếu nại, tố cáo có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Do đó,
giải quyết tranh chấp đất đai quy định quyền được trình bày khiếu nại, tố cáo
của người dân khi đến nơi giải quyết tranh chấp đất đai. Đây được coi là một
hình thức, một nguồn tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của nhân dân, qua đó đảm
bảo thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Hiến pháp
68
quy định; thông qua giải quyết tranh chấp đất đai sẽ giúp công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, đơn vị được tiến hành một cách có trật tự
và hiệu quả.
+ Luật đất đai quy định quyền của người dân tại nơi giải quyết tranh
chấp đất đai được hướng dẫn, giải thích về nội dung khiếu nại, tố cáo. Nội
dung này thể hiện rõ yêu cầu mang tính bắt buộc đặt ra đối với các cơ quan
Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước trong quan hệ với nhân dân đó là phải
luôn luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đồng thời điều này cũng là để
khắc phục những hạn chế bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
của công dân, qua đó, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức pháp luật nói
chung, pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng đối với quần chúng nhân dân.
+ Giải quyết tranh chấp đất đai là một thủ tục trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo: Giải quyết tranh chấp đất đai là một thủ tục không thể thiếu
được của quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo và là một trong những con
đường thiết thực để thực hiện, bảo đảm quyền dân chủ và bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình giải quyết một vụ việc khiếu nại,
tố cáo, việc giải quyết tranh chấp đất đai xuất hiện không chỉ một lần, ở một
thời điểm mà có thể xuất hiện ở nhiều lần và ở nhiều thời điểm khác nhau.
Trước hết, việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện ngay từ thời điểm
ban đầu khi giải quyết vụ việc. Lúc này việc giải quyết tranh chấp đất đai của
cơ quan có thẩm quyền giải quyết lần đầu nhằm có thể tiếp nhận thông tin để
tự điều chỉnh quyết định hành vi của mình. Giải quyết tranh chấp đất đai của
cơ quan có thẩm quyền giải quyết ở những lần tiếp theo, để xem xét giải
quyết vụ việc theo thẩm quyền hoặc đôn đốc kiểm tra quá trình giải quyết vụ
việc (thi hành quyết định có hiệu lực, giám sát kiểm tra…). Đồng thời, giải
quyết tranh chấp đất đai được thực hiện trong quá trình xem xét thẩm tra, xác
69
minh giải quyết vụ việc. Quá trình giải quyết vụ việc, việc cơ quan có thẩm
quyền, thông qua giải quyết tranh chấp đất đai nhằm thu thập thông tin, thẩm
tra xác minh những thông tin đã thu nhận được và hướng dẫn công dân thực
hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định.
+ Luật đất đai điều chỉnh toàn diện, thống nhất và quy định rõ trách
nhiệm giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hướng tới
việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Luật đất đai là luật có giá trị
pháp lý cao nhất về lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai, quy định bao quát
về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc giải quyết tranh
chấp đất đai. Luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp đất đai của tất cả
các cơ quan, tổ chức trong cả hệ thống chính trị nhằm đảm bảo tính
thống nhất và nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về việc giải
quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ
thống chính trị phải có trách nhiệm giải quyết tranh chấp đất đai, bao
gồm các cơ quan của Đảng, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán
Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; đặc biệt là trách nhiệm giải quyết tranh
chấp đất đai của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính
nhà nước, bao gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tổ chức
tương đương; cục; Ủy ban nhân dân các cấp; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
+ Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác giải quyết
tranh chấp đất đai, tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trên thực tế, ở một số nơi, người đứng đầu
cơ quan chưa thực sự quan tâm đến công tác giải quyết tranh chấp đất đai,
chưa nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ trực tiếp giải quyết tranh chấp đất đai
70
theo quy định. Nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong
công tác giải quyết tranh chấp đất đai cũng như phân biệt giữa trách nhiệm
của người đứng đầu với trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc giải
quyết tranh chấp đất đai, bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ việc giải quyết tranh
chấp đất đai; phân công cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tranh chấp
đất đai thường xuyên; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức, đơn vị có
liên quan giải quyết tranh chấp đất đai và xử lý vụ việc nhiều người cùng
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung; kiểm tra, đôn đốc các
cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có trách nhiệm thuộc quyền quản lý của mình
thực hiện các quy định của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp đất đai;
có trách nhiệm bảo đảm an toàn, trật tự cho hoạt động giải quyết tranh chấp
đất đai; báo cáo tình hình, kết quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai với
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Với sự ra đời của Luật đất đai 2013 có thể nói cơ chế pháp lý
bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thông qua hoạt động giải
quyết tranh chấp đất đai đã được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm một
bước quan trọng. Triển khai thực hiện hiệu quả cơ chế pháp lý này, các cấp,
các ngành cần quán triệt và thực hiện tốt. Nghiêm túc tổ chức triển khai thực
hiện Luật đất đai một cách thiết thực, hiệu quả để nhân dân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, thể hiện vai trò làm chủ đất nước, làm
chủ xã hội của mình theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Luật Giải đất
đai đã quán triệt và cụ thể hóa đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đánh dấu một bước phát triển mới, rất
quan trọng về cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân ở nước ta. Để triển khai thực hiện có hiệu quả cơ chế pháp lý dân chủ,
pháp quyền này, cần phải thực hiện kịp thời và đồng bộ các biện pháp, nhiệm
71
vụ cụ thể, đòi hỏi một quyết tâm rất lớn của cả hệ thống chính trị; mỗi cán bộ,
công chức phải đề cao đạo đức công vụ trong nhận thức và hành động, thực
hiện tốt lời dạy của Bác Hồ về trách nhiệm của người Đảng viên, người cán
bộ đối với nhân dân. Công tác giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện
tốt, quyền con người, quyền công dân được bảo đảm sẽ góp phần củng cố
niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.
3.1.3. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nhằm nâng cao hiệu
quả của quản lý nhà nước nói chung, quản lý về đất đai nói riêng
Nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể,
cán bộ, đảng viên, công chức và công dân ngày càng được nâng lên; pháp luật
về giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục được
hoàn thiện. Các cơ quan, tổ chức đã quan tâm tập trung giải quyết khiếu nại,
tố cáo thuộc thẩm quyền; công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo được tăng cường; đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức
tạp, kéo dài, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo
môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo nói chung và khiếu nại, tố cáo
liên quan đến đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng còn diễn biến phức tạp.
Số vụ việc khiếu nại, kéo dài, vượt cấp có xu hướng gia tăng, một số vụ việc
manh động, quá khích, có sự kích động, hỗ trợ của các phần tử xấu; cá biệt có
trường hợp cực đoan, quyết liệt chống lại người thi hành công vụ. Nhiều vụ
việc khiếu nại, tố cáo về đất đai, tranh chấp tài sản chưa được giải quyết dứt
điểm, để kéo dài, gây bức xúc, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh “điểm nóng” về an
ninh trật tự. Một số vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng
chính sách, pháp luật, nhưng không được chấp hành nghiêm túc. Tình hình
trên đã tác động tiêu cực đến việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo cớ để các thế
lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng chống phá, làm giảm lòng tin của nhân dân
72
đối với Đảng, Nhà nước. Ngoài ra các quy định hiện hành về giải quyết khiếu
nại hành chính còn chưa được quy định rõ, còn chồng chéo với Luật Đất đai,
Luật Tố tụng hành chính; hoạt động phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền
giải quyết còn nhiều hạn chế, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước.
Việc nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động giải quyết khiếu nại
hành chính trong lĩnh vực đất đai sẽ giúp cho nhân dân và Nhà nước tiết kiệm
thời gian, tiền bạc và công sức; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng
và Nhà nước, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Vì
thế, việc đưa ra các giải pháp, kiến nghị khoa học có cơ sở lý luận và thực tiễn
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề ra một số
giải pháp trong thời gian tới như sau:
- Thứ nhất, đẩy mạnh việc quy định công khai, minh bạch trong quản lý
đất đai: Đẩy mạnh việc quy định công khai, minh bạch trong việc thực hiện
dự án, chế độ chính sách, trình tự, thủ tục liên quan đến thu hồi đất, giải tỏa,
bồi thường, tái định cư, giải quyết việc làm cho người lao động; kiên quyết
thu hồi đất đã giao, đã cho thuê không đúng đối tượng, không sử dụng đúng
thời gian quy định hoặc sử dụng không có hiệu quả, sử dụng sai mục đích; xử
lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về tranh chấp đất
đai, các trường hợp tham nhũng, tiêu cực; đồng thời chấn chỉnh, khắc phục
kịp thời những tồn tại, yếu kém trong quản lý sử dụng đất đai ở thôn, xã...,
nhằm hạn chế phát sinh tranh chấp, khiếu nại ngay từ cơ sở.
- Thứ hai, tăng cường giải quyết tranh chấp đất đai và đối thoại trong
giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai: Kiện toàn tổ chức, cán bộ làm nhiệm
vụ giải quyết tranh chấp đất đai, nhất là Trưởng ban giải quyết tranh chấp đất
đai cấp huyện, thành phố, và cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ giải quyết
tranh chấp đất đai, xử lý đơn thư. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế đối
73
thoại của Bí thư cấp ủy với nhân dân; tăng cường chỉ đạo thủ trưởng cơ quan
có trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết nhiều thủ tục hành chính liên quan đến
người dân… Cấp trưởng không đùn đẩy cho cấp phó tiếp dân, giải quyết
khiếu nại mà đích thân phải giải quyết, tổ chức đối thoại theo quy định. Đối
thoại là phương thức thể hiện tính công khai, dân chủ trong giải quyết khiếu
nại và là một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dựa trên nền tảng của việc đề cao pháp luật và tăng cường pháp chế.
- Thứ ba, đẩy mạnh công tác tập huấn, tuyên truyền giáo dục pháp luật:
Tiếp tục tăng cường công tác tập huấn, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
về giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố tụng hành chính, đất đai, bồi
thường nhà nước phải được đảm bảo nghiêm túc, thường xuyên. Trong đó đối
với Luật Đất đai cần tập trung vào các nội dung về giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất, quy trình giải quyết tranh chấp. Đội ngũ cán bộ tập huấn
cần được tuyển chọn đúng năng lực và đào tạo kỹ năng tập huấn chuyên sâu từ
Thanh tra quận, phòng Tài nguyên và Môi trường. Đa dạng hóa các hình thức
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại
chúng qua các kịch bản phát thanh, truyền hình, hỏi đáp, hái hoa dân chủ…
- Thứ tư, thành lập các Tổ công tác hỗ trợ về nghiệp vụ, trực tiếp tư vấn
cho các sở, ban, ngành trên địa bàn quận Hai Bà Trưng: Thành lập các Tổ
công tác giúp cho các địa phương trên địa bàn quận nắm tình hình hoạt động
giải quyết của địa phương, đơn vị; tháo gỡ những khó khăn trong nhận thức,
trong trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc cụ thể; hỗ trợ đối với các dự án
đất đai đang triển khai, thực hiện tại các địa phương. Tăng cường mối quan hệ
phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,
qua đó học tập và rút kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác thực tiễn để nâng
cao năng lực chuyên môn và hiệu quả công tác.
Nhanh chóng xây dựng hệ thống dữ liệu giải quyết tranh chấp đất đai,
74
giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai trên địa bàn quận. Xây dựng, trang bị các
phần mềm quản lý dữ liệu giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai tại các huyện,
thành phố trên địa bàn tỉnh; các sở, ngành tỉnh để đảm bảo tính thông tin liên tục
và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết.
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp đất đai
của Ủy ban nhân dân các cấp nói chung, của UBND quận hai Bà Trƣng
nói riêng
3.2.1. Rà soát sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật về đất đai và
giải quyết tranh chấp về đất đai
Luật Đất đai năm 2013 đã thể chế hóa chủ trương, quan điểm của
Đảng, Hiến pháp năm 2013 về đất đai, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho
việc tổ chức, quản lý, sử dụng đất đai. Tuy nhiên, qua gần 10 năm thực hiện,
Luật Đất đai năm 2013 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế so với thực tế,
do đó, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm khắc
phục sự chồng chéo, thiếu thống nhất với các quy định liên quan khác, đặc
biệt là quy định về thu hồi đất, trưng dụng đất, về tài chính đất đai, quản lý và
sử dụng đất, từ đó, góp phần bảo đảm phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Một số nội dung pháp luật về đất
đai hiện đang còn có những bất cập, trong đó nội dung định chế về thu hồi đất
(THĐ), trưng dụng đất, tài chính đối với đất đai, cấp giấy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (SDĐ), thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay
cần được sửa đổi, bổ sung để quá trình thực hiện pháp luật hiệu lực, hiệu quả,
góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về đất
đai; đồng thời, tạo động lực cho việc sử dụng nguồn lực đất đai phát huy được
giá trị và lợi thế bền vững, hiệu quả.
Để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.
Hiện nay, Theo bản đồ kế hoạch sử dụng đất TP Hà Nội năm 2020, nhiều khu
75
đất đã được đưa vào kế hoạch sử dụng để triển khai các tuyến đường giao
thông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Trong đó, đáng chú ý có khu đất nối
thẳng cầu bộ hành (đường Đại Cồ Việt sang CV Thống Nhất) đến đường Trần
Đại Nghĩa với diện tích khoảng 1.534,338 m2, dài khoảng 100m. Khu đất sắp
thu hồi mở đường ở quận Hai Bà Trưng đáng chú ý có khu đất nối đường Đỗ
Ngọc Du - Lê Ngọc Hân với diện tích khoảng 2.895,456 m2, dài khoảng 150
m. Khu đất sắp thu hồi mở đường ở quân Hai Bà Trưng đáng chú ý có khu đất
phía sau tòa nhà 4A Tạ Quang Bửu với diện tích khoảng 832,584 m2, dài
khoảng 110 m. Nhưng loại đất này không nằm trong trường hợp THĐ theo
quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 mà phải tổ chức đấu
thầu lựa chọn nhà đầu tư. Trong khi đó, liên quan đến vấn đề này, Luật Quy
hoạch đô thị năm 2009, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công năm 2017 cũng
đã được quy định. Do đó, việc THĐ này nếu áp dụng theo quy định Luật Đất
đai năm 2013 để thực hiện dự án là chưa đồng bộ, không thể tiến hành đồng
thời, nên sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án xây dựng tuyến đường và
việc phát triển kinh tế trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Vì vậy, cần kiến nghị
bổ sung vào Luật Đất đai năm 2013 quy định theo hướng Nhà nước được
THĐ theo quy hoạch đã được phê duyệt để tổ chức đấu giá quyền SDĐ. Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải đồng thời tổ chức THĐ hai bên đường
theo quy hoạch, tổ chức đấu giá. Đối với trình tự, thủ tục THĐ vì mục đích
quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng, tại khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai quy định: “Ủy ban nhân dân cấp có
thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một
ngày”. Tuy nhiên, trên thực tế, có những dự án THĐ lớn dẫn đến nhiều hộ gia
đình bị ảnh hưởng nên việc quy định ban hành quyết định THĐ, quyết định
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày là
76
không thể thực hiện được, đồng thời sẽ gây nên áp lực đối với cơ quan hành
chính. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định đối với “trường hợp quy mô dự
án lớn (trên 100 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) thì việc ban hành quyết định
được thực hiện dài hơn nhưng không quá 30 ngày kể từ ngày ban hành quyết
định đầu tiên của dự án”.
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước THĐ trên địa bàn quận
Hai Bà Trưng: Khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 chỉ quy định về “hỗ
trợ khác” để các địa phương quyết định thêm các chính sách hỗ trợ khác tùy
theo tình hình thực tế. Như vậy, Luật không trực tiếp quy định “chính sách
giải quyết chỗ ở tạm thời (tạm cư)” nhưng có thể hiểu là vẫn bao hàm “chính
sách giải quyết chỗ ở tạm thời (tạm cư)”. Tuy nhiên, điều này dẫn đến cách
hiểu của một số địa phương là Luật Đất đai không quy định về “chính sách
giải quyết chỗ ở tạm thời (tạm cư)”. Trong khi đó, khoản 3 Điều 116 Luật
Nhà ở năm 2014 cũng đã có quy định về các phương án “lo chỗ ở tạm thời
hoặc thanh toán tiền để người được tái định cư tự lo chỗ ở trong thời gian cải
tạo, xây dựng lại…”. Do vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung vào khoản 2 Điều 83
Luật Đất đai năm 2013 như sau: “Hỗ trợ chỗ ở tạm thời (tạm cư) đối với
trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở” nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ
thống pháp luật và tạo cơ sở để các UBND quận dễ thực hiện và giải quyết
thỏa đáng nhu cầu tạm cư trong thời gian chờ tái định cư của người dân trên
địa bàn quận. Đối với trường hợp trên 80% người dân đã chấp thuận nhận bồi
thường trong các dự án đã được Nhà nước chấp thuận chủ trương thì Nhà
nước cần có quy định để chủ đầu tư tiếp tục bồi thường phần đất còn lại để dự
án sớm được triển khai. Việc phê duyệt giá bồi thường phù hợp với giá thị
trường nhưng doanh nghiệp vẫn phải hỗ trợ thêm cho người SDĐ, vì trong
thực tế trước đó doanh nghiệp đã thỏa thuận với người SDĐ có mức giá cao.
77
Như vậy, cần quy định mức hỗ trợ thêm bằng mức bình quân của mức doanh
nghiệp đã nhận chuyển nhượng trước đó trừ đi giá bồi thường được duyệt (giá
thị trường) và doanh nghiệp sẽ không được khấu trừ phần hỗ trợ thêm này khi
thực hiện nghĩa vụ tài chính. Bên cạnh đó, cần phải có cơ chế để giải quyết
bài toán phân chia lợi ích giữa Nhà nước với người dân khi THĐ để bảo đảm
hài hòa theo các nghị quyết của trung ương và phải có chính sách bồi thường
bảo đảm quyền lợi cho người SDĐ; đồng thời, bảo đảm về tạo lập chỗ ở mới,
sau khi bồi thường xong phải giải quyết hậu bồi thường, tái định cư (kiểm tra
các hộ gia đình sau khi bồi thường có hoàn cảnh khó khăn thực hiện hỗ
trợ…). Luật Đất đai hiện chưa quy định trường hợp Nhà nước THĐ do thực
hiện phương án sắp xếp lại, xử lý tài sản công theo Nghị định số
167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ, dẫn đến thiếu cơ sở pháp
luật trong việc xác định căn cứ thu hồi và chính sách giải quyết đối với các hộ
dân phải di dời tại nhà đất thu hồi theo Nghị định 167/2017/NĐ-CP để cơ
quan chức năng tổ chức thực hiện. Do đó, cần bổ sung quy định này vào
khoản 1 Điều 16 Luật Đất đai, đồng thời, bổ sung quy định về các trường hợp
THĐ do chấm dứt việc SDĐ theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất. Việc lập
phương án bồi thường hỗ trợ di dời cho các hộ gia đình, cá nhân phải di dời
theo quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước THĐ.
Qua quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật về đất đai tại quận Hai Bà
Trưng, cần nghiên cứu để tiến tới bỏ việc thu tiền SDĐ chuyển thành thu thuế
bất động sản (kể cả các dự án đầu tư mới, đánh thuế sản phẩm) nhằm tránh
gánh nặng cho nhà đầu tư phải bỏ tiền ra cùng một lúc trong việc bồi thường,
xây dựng và đóng tiền SDĐ. Bên cạnh đó, đối với hộ gia đình, cá nhân thì việc
thu thuế bất động sản từ căn nhà thứ hai cũng tránh được việc đầu cơ, làm méo
mó giá cả thị trường bất động sản. Đồng thời, xem xét đưa quy định cụ thể về
định giá đất phục vụ cho công tác bồi thường, thu thuế… Làm tốt công tác này
78
thì sau khi Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng mà giá đất tăng lên do cơ sở hạ tầng
mang lại, Nhà nước sẽ tính một khoản thu khi người SDĐ chuyển nhượng bất
động sản đó. Bổ sung điều khoản phân cấp, giao thẩm quyền quyết định giá đất
cụ thể cho Ủy ban nhân dân (UBND) quận quyết định giá đất cụ thể đối với
trường hợp THĐ thuộc thẩm quyền của UBND quận. Khi được phân cấp, giao
quyền thì đơn vị được quyền phải bảo đảm các thủ tục về thẩm định giá đất
theo quy định. Ngoài ra, cần quy định bổ sung về chế độ quản lý, SDĐ và
nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp chỉ được tạm tiếp tục SDĐ theo hiện
trạng do không phù hợp quy hoạch để được tiếp tục sử dụng dài hạn; hoặc đất
do Nhà nước trực tiếp quản lý được quy hoạch làm công trình công ích nhưng
tạm cho thuê (theo hướng đấu giá với thủ tục rút gọn và việc xác định giá khởi
điểm đơn giản theo phương pháp hệ số điều chỉnh) để tránh lãng phí và tạo
nguồn thu ngân sách nhà nước trong thời gian chưa triển khai dự án.
Về thời điểm tính thu tiền SDĐ: tại khoản 3 Điều 108 Luật Đất đai năm
2013 quy định: “Thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất là thời điểm
Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng
đất, công nhận quyền sử dụng đất”. Đồng thời, điểm b khoản 1 Điều 112 Luật
Đất đai năm 2013 quy định: việc xác định giá đất phải bảo đảm một trong các
nguyên tắc là theo thời hạn SDĐ… Điều này có nghĩa là việc xác định giá đất
phải bảo đảm thời điểm xác định giá đất và thời hạn SDĐ. Tuy nhiên, trên thực
tế, khi xác định giá đất cụ thể tại một số địa phương cũng đã gặp khó khăn,
vướng mắc trong việc xác định thời điểm để xác định giá đất. Nguyên nhân là
do ngày ban hành các quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục
đích SDĐ… và thời hạn SDĐ chưa xác định cụ thể (chẳng hạn ngày ban hành
quyết định là ngày 01/8/2017 nhưng thời hạn SDĐ được tính từ ngày
18/7/2016 – ngày được lựa chọn là chủ đầu tư), từ đó dẫn đến có nhiều cách
hiểu khác nhau. Do đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 108 như sau:
79
“Thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất là thời điểm ghi trong quyết
định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận
quyền sử dụng đất theo thời hạn sử dụng đất”. Ngoài ra, đề xuất bổ sung thời
điểm xác định giá đất đối với các trường hợp xác định giá khởi điểm để tổ chức
đấu giá quyền SDĐ như sau: Luật Đất đai chưa có sự thống nhất với Luật Giá
và các tiêu chuẩn thẩm định giá nên đề xuất bỏ điểm d Điều 112: “Cùng một
thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh
lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau”.
Đồng thời, sửa đổi, bổ sung Điều 112 từ “Nguyên tắc, phương pháp định giá
đất” thành “Nguyên tắc, phương pháp thẩm định giá đất”. Điều 113 Luật Đất
đai quy định khung giá đất định kỳ 5 năm một lần đối với từng loại đất, theo
từng vùng. Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá đất phổ biến trên thị
trường tăng từ 20% trở lên so với giá tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá
tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều chỉnh khung giá đất cho phù
hợp. Do đó, cần bổ sung đối tượng áp dụng giá đất cụ thể theo quy định của
Luật Đất đai làm căn cứ giải quyết. Tuy nhiên, do vụ việc liên quan đến cổ
phần hóa, thanh kiểm tra… nên kiến nghị bổ sung vào khoản 4 Điều 114 Luật
Đất đai nội dung: “Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ”.
Hiện nay, ở một số nơi trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có một số khu
đất do Nhà nước trực tiếp quản lý đã bồi thường giải phóng mặt bằng, trong đó
có một số khu đất có chức năng quy hoạch là đất dành cho giáo dục, đất công
cộng có mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 118 Luật Đất đai
chỉ quy định các trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ, cho thuê đất
theo hình thức đấu giá quyền SDĐ không bao gồm hai loại đất trên. Do đó, đề
nghị bổ sung hai loại đất trên vào các trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền
SDĐ, cho thuê đất theo hình thức đấu giá quyền SDĐ và hướng dẫn về điều
kiện, trình tự thực hiện, đối tượng tham gia đấu giá đối với hai loại đất trên. Về
80
xác định diện tích đất ở đối với trường hợp có vườn, ao, tại khoản 1 Điều 103
Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất vườn, ao của hộ gia đình, cá nhân được
xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất đang có nhà ở”. Tuy nhiên, thực
tiễn áp dụng nội dung này ở một số phường tuyến dưới của quận Hai Bà Trưng
gặp nhiều khó khăn trong việc công nhận quyền sử dụng đối với đất ở cũng
như việc xét bồi thường khi Nhà nước THĐ có nguy cơ gây thất thoát không
nhỏ cho ngân sách nhà nước hoặc gây thiệt hại cho người SDĐ, nên cần thiết
phải nghiên cứu để điều chỉnh cho phù hợp với thực tế có tính lịch sử cũng như
thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai ở từng địa phương. Chẳng hạn,
tại một số phường như Vĩnh Tuy, Minh Khai, Đồng Tâm, Trương Định có đặc
điểm đất ở và đất nông nghiệp, giữa đất của hộ này với đất của hộ khác nhiều
khi không rõ ràng nên dễ dẫn tới việc cùng nguồn gốc, quá trình, hiện trạng
SDĐ như nhau nhưng lại có cách giải quyết khác nhau. Đất vườn, ao cũng chỉ
là một trong nhiều loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp nhưng lại được chọn
làm tiêu chí quan trọng để xem xét xác định đất ở là điều phải xem xét lại để
bảo đảm tính khoa học cũng như tạo sự phù hợp của luật pháp với thực tiễn.
Hơn nữa, tài liệu địa chính lập qua nhiều thời kỳ sẽ có những thông tin khác
nhau (vì nhiều lý do chủ quan lẫn khách quan) nhưng việc sử dụng tài liệu lập
vào thời kỳ nào nào để áp dụng cũng là điều gây không ít tranh cãi do không có
văn bản nào hướng dẫn. Chưa kể tài liệu địa chính vẫn còn những bất cập tồn
tại, ảnh hưởng đến tính xác thực của hồ sơ về đất đai. Do đó, đề xuất sửa đổi
theo hướng giao việc xác định đất vườn ao cho UBND cấp tỉnh quy định theo
tập quán, quản lý đất đai, lập bản đồ… qua các thời kỳ.
3.2.2. Tiếp tục nâng cao công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở
trên địa bàn quận Hai Bà Trưng
Hòa giải ở cơ sở là nét đẹp truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam,
là hoạt động mang tính tự nguyện, tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hoạt động
81
hòa giải ở cơ sở về bản chất là hướng dẫn, giúp đỡ thông qua việc thuyết
phục, vận động các bên đi đến thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các
mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng. Vì vậy hòa
giải ở cơ sở đã khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã
hội, góp phần tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, giữ gìn, phát
huy bản sắc văn hóa của dân tộc, kịp thời ngăn ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật, góp phần bảo đảm ổn định, trật tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ
việc phải chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, tiết kiệm
thời gian, kinh phí cho Nhà nước và Nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển.
Để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giải
quyết tranh chấp đất đai tại quận Hai Bà Trưng nói riêng và ở các địa phương
khác, trên cả nước nói chung thì chúng ta cùng tìm hiểu những hạn chế trong
các quy định hòa giải cơ sở trong tranh chấp đất đai của pháp luật hiện hành
để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết
tranh chấp đất đai.
Hòa giải tranh chấp đất đai là vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp,
trong thực tế, việc tranh chấp liên quan đến đất đai xảy ra rất nhiều dạng trong
nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Do đó, việc hiểu như thế nào là tranh chấp
đất đai để khoanh vùng những loại tranh chấp đất đai phải qua thủ tục hoà giải
tại cấp xã vẫn chưa được nhận thức thống nhất. Từ đó dẫn đến tình trạng
nhiều nơi, nhiều lúc vẫn quan niệm rằng thà “đánh nhầm hơn bỏ sót”, do đó
việc này đòi hỏi các thành viên trong Tổ hòa giải phải tìm hiểu quá trình mâu
thuẫn, nguyên nhân, bản chất có phải tranh chấp hay không cũng như là nắm bắt
chính xác tâm tư, nguyện vọng của các bên. Quá trình hòa giải, Tổ hòa giải phải
82
tỏ ra hết sức mềm dẽo, vừa giải quyết tranh chấp trên cơ sở quy định pháp luật
nhưng cũng vừa có tình, có lý trên cơ sở tình nghĩa láng giềng, họ hàng, thân tộc.
Để làm được việc này đòi hỏi thành viên Tồ hòa giải phải được trang bị một số
kỹ năng cần thiết.
Để việc hòa giải đem lại kết quả tốt, vai trò của Tổ hòa giải tranh chấp đất
đai là rất quan trọng. Tuy nhiên, thực tế một số vụ việc hòa giải tranh chấp đất
đai thì Tổ hòa giải chưa làm hết trách nhiệm của mình, chỉ hòa giải qua loa,
chiếu lệ để chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền tiếp theo. Do đó, cần có sự
quan tâm thích đáng của nhà nước thông qua việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức
pháp lý, kỹ năng hòa giải cho đội ngũ hòa giải viên. Đồng thời tạo điều kiện về
cơ sở vật chất cho hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt
động hòa giải.
Cần tăng cường công tác tổ chức tập huấn về công tác hòa giải về tranh
chấp đất đai. Ngoài việc trang bị những kỹ năng cần thiết cho việc hòa giải tranh
chấp dất đai thì đòi hỏi công chức cấp xã làm công tác tham mưu, giúp việc cần
phải có hiểu biết đầy đủ về các quy định của pháp luật có liên quan đến hòa giải
tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Qua tập huấn, các cán bộ làm công tác hòa
giải tranh chấp đất đai có dịp, cơ hội để thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm trong
thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai, nhất là kinh nghiệm trong tìm hiểu nguyên
nhân, xác minh tại thực địa, thống nhất quan điểm giữa các thành viên trong tổ
hòa giải cũng như nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các bên. Qua đó nhận thấy
khi gặp gỡ nguyên đơn, bị đơn cần linh hoạt giải quyết giữa lý và tình để hòa
giải thành, giữ tình láng giềng, họ hàng, thân tộc. Điều quan trọng là nắm vững
các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp xã để giải quyết.
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến việc hòa giải
chúng ta có thể thấy tồn tại một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Nhà nước
83
khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải” song điều khoản này lại
không giải thích cụ thể việc khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải
bằng những phương thức hoặc hình thức cụ thể nào. Hơn nữa, theo quy định
hiện hành không đề cập cụ thể giá trị pháp lý (bắt buộc hay không bắt buộc) của
việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải cơ sở.
Thứ hai, khoản 2 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc hòa
giải tranh chấp đất đai do UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp
xã) nơi có đất tranh chấp tiến hành. Điều khoản này lại không đề cập đến trách
nhiệm pháp lý của các bên đương sự trong việc thực hiện kết quả hòa giải tranh
chấp đất đai thành. Vì vậy, trên thực tế các bên đương sự không thực hiện theo
kết quả hòa giải tranh chấp đất đai thành song UBND cấp xã không có chế tài xử
lý để buộc họ phải thực hiện.
Thứ ba, như phần trên đã đề cập, các yếu tố phong tục, tập quán, đạo đức
truyền thống, hương ước, luật tục, qui ước làng văn hóa … có vai trò rất quan
trọng trong việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở (đặc biệt là ở khu vực nông
thôn). Tuy nhiên, pháp Luật Đất đai hiện hành lại không có quy định đề cập vị
trí, vai trò của các yếu tố phong tục, tập quán, đạo đức, các thiết chế văn hóa
truyền thống trong hòa giải tranh chấp đất đai.
Thứ tư, pháp Luật Đất đai hiện hành lại không có quy định đề cập đến vai
trò của luật sư, luật gia trong hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở, cũng như không
có quy định đề cập đến công tác đào tạo tăng cường năng lực của đội ngũ hòa
giải viên. Thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở cho thấy một trong những
nguyên nhân dẫn đến thành công là năng lực, trình độ hiểu biết pháp luật của đội
ngũ hòa giải viên. Hiện nay, năng lực, trình độ hiểu biết pháp luật của các hòa
giải viên không đồng đều. Dường như hòa giải viên ở khu vực đô thị có năng
lực, trình độ hiểu biết cao hơn các hòa giải viên ở khu vực nông thôn, vùng sâu,
vùng xa. Để nâng cao chất lượng công tác hòa giải tranh chấp đất đai, Nhà nước
84
cần tiến hành thường xuyên công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết pháp
luật cho đội ngũ hòa giải viên, và khuyến khích sự tham gia của luật sư, luật gia
trong hòa giải tranh chấp đất đai.
Thứ năm, Pháp Luật Đất đai hiện hành chưa quy định một cách cụ thể, chi
tiết về vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai trong tố tụng (việc hòa giải tranh chấp
đất đai do Tòa án nhân dân thực hiện trong quá trình thụ lý giải quyết vụ việc
tranh chấp). Điều này dường như làm cho công tác hòa giải tranh chấp đất đai
trong tố tụng chưa đạt hiệu quả mong muốn.
Việc triển khai Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa quận cũng nên được quan
tâm hơn nữa nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện vững chắc để hoạt động
hòa giải ở cơ sở đi vào nền nếp, thống nhất, hỗ trợ đắc lực cho chính quyền địa
phương trong việc giải quyết trực tiếp những vụ việc tranh chấp trong nhân dân.
Do vậy trong các quy định của pháp luật cần sửa đổi, bổ sung các nội
dung liên quan đến công tác hòa giải để việc hòa giải được chất lượng hơn.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp đất đai
Trong những năm qua được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban
nhân dân quận, sự phối hợp chặt chẽ của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã
hội, các phòng, ban, ngành có liên quan và các phường để công tác cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất được đẩy mạnh góp phần tạo điều kiện thuận
lợi cho việc giải quyết tranh chấp đất đai
Quận ủy đã tăng cường chỉ đạo việc rà soát đề nghị cấp giấy chứng
nhận cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức trên địa bàn quận. Chỉ đạo UBND quận
phối hợp với MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội quận tích cực tuyên truyền,
phổ biến việc thực hiện các văn bản về Luật đất đai 2013 và các văn bản có
liên quan sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, cơ quan, đơn vị sử
dụng đất trên địa bàn quận. Việc cấp Giấy chứng nhận (GCN) cho các cá
85
nhân, đơn vị, tổ chức được quan tâm, đẩy nhanh tiến độ. Việc cấp GCN cho
các cá nhân, đơn vị, tổ chức đã giúp cho công tác quản lý nhà nước về đất đai
được chặt chẽ, đảm bảo pháp lý, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng cho các cá
nhân, đơn vị, tổ chức tạo điều kiện cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức được thực
hiện các quyền lợi, đồng thời đã giải quyết nhiều vướng mắc trong giải quyết
tranh chấp đất đai.
Tuy nhiên, do việc kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức còn gặp nhiều khó khăn. Một số cá nhân,
đơn vị, tổ chức có nguồn gốc sử dụng đất lâu đời, không có hồ sơ đất đai, hồ
sơ bị thất lạc hoặc không chính xác, ranh giới sử dụng đất không rõ ràng,
không có các giấy tờ và quyền sử dụng đất làm căn cứ kê khai. Quá trình sử
dụng đất của các cá nhân, đơn vị, tổ chức có nhiều biến động do chuyển
nhượng, đổi, hiến tặng, cho mượn hoặc tự mở rộng, những biến động này hầu
hết chưa thực hiện theo quy định của pháp luật. Một số thửa đất được kê khai
là đất cá nhân, đơn vị, tổ chức nhưng thực tế không có công trình xây dựng,
hiện tại đang để không nên không có căn cứ công nhận và cấp GCN theo quy
định của pháp luật đất đai hiện hành, do chủ sử dụng đất (cá nhân, đơn vị, tổ
chức) chưa tích cực phối hợp kê khai đăng ký cấp GCNQSDĐ. Để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý đất đai đối với các cá nhân, đơn vị, tổ
chức trên địa bàn quận trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền
phổ biến pháp luật về đất đai cho các đơn vị, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
hiểu hơn về quyền và nghĩa vụ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai của các cá nhân, đơn vị,
tổ chức; giám sát cụ thể việc sử dụng đất theo địa bàn quản lý, hạn chế tối đa
tình trạng các cá nhân, đơn vị, tổ chức lấn, chiếm, nhận chuyển nhượng, tặng
cho quyền sử dụng đất. Chủ động thanh tra, kiểm tra, xử lý những diện tích
đất không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, cho mượn, diện tích đất để
86
bị lấn chiếm không đúng quy định, phát huy vai trò của chính quyền, nhất là
cán bộ địa chính cấp phường trong việc kiểm tra, giám sát không để vi phạm
xảy ra. Các địa phương cần quan tâm phối hợp với các ngành có liên quan
tiếp tục thực hiện tốt rà soát việc sử dụng đất của các cá nhân, đơn vị, tổ chức
trên địa bàn, hướng dẫn đôn đốc các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong sử dụng
đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiến hành lập và
hoàn thiện thủ tục cấp giấy chứng nhận theo quy định, đối với các trường hợp
còn vướng mắc chưa thống nhất thì báo cáo các ngành có liên quan xem xét
quyết định, các trường hợp tranh chấp cần được quan tâm giải quyết dứt điểm
nhất là các vấn đề đất đai có nguồn gốc do lịch sử để lại theo đúng quy định
của pháp luật, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương đảm bảo ổn
định tình hình an ninh trật tự của địa phương, tạo sự đoàn kết gắn bó trong
nhân dân. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất, giao đất, cấp giấy CNQSDĐ liên quan đến cá nhân, đơn vị, tổ chức
một cách dân chủ, công khai, minh bạch, đơn giản hóa các thủ tục hành chính
đảm bảo đúng pháp luật, tạo điều kiện cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong
việc sử dụng đất và xây dựng đúng pháp luật.
3.2.4. Kiện toàn công tác cán bộ, bổ sung các nguồn lực vật chất cho
các cơ quan làm công tác giải quyết đơn thư khiếu nại tranh chấp đất đai
Căn cứ theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, Ủy ban
nhân dân cấp quận có thẩm quyền giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai
xảy ra giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau mà các bên trong
tranh chấp (đương sự) không có một trong các giấy tờ pháp lý liên quan đến
đất đai như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng và quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất hoặc một trong các giấy tờ được quy
định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 nhưng họ lựa chọn Ủy ban nhân dân
87
là cơ quan giải quyết tranh chấp đất đai. Những vụ việc tranh chấp đất đai
giữa những hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thường nhỏ lẻ,
mang tính chất cục bộ, phù hợp với thẩm quyền giao đất, cấp đất và phạm vi
quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp quận. Đồng thời, khi các bên tranh
chấp không có Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất và không có các loại
giấy tờ khác làm căn cứ xác định về nguồn gốc đất, về việc sử dụng đất hợp
pháp của người sử dụng đất thì việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh
chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong trường hợp này sẽ tạo điều
kiện thuận lợi để cơ quan này tiếp cận với các hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ
việc đất đai, và sự tham vấn từ các cơ quan chuyên môn liên quan như Phòng
tài nguyên và môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai… thuận tiện hơn trong
vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai.
Qua thực tế tại UBND quận Hai Bà Trưng cho thấy vai trò của người
cán bộ, công chức đặc biệt là người lãnh đạo trong công tác giải quyết tranh
chấp đất đai là rất quan trọng nên UBND quận Hai Bà Trưng thành lập đội
ngũ cán bộ giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
- Chủ tịch UBND quận phân công nhiệm vụ cho Phó chủ tịch UBND
quận mảng Đô thị - Địa chính trực tiếp phụ trách về giải quyết tranh chấp đất
đai trên địa bàn quận và chịu trách nhiệm trước chủ tịch UBND quận.
- Phó chủ tịch UBND quận là người trực tiếp quản lý các giải quyết
tranh chấp đất đai và chịu trách nhiệm chính. Phó chủ tịch quận phân cho văn
phòng UBND quận, phòng Tài nguyên Môi trường quận, Thanh tra quận và
UBND 18 phường trực tiếp tiến hành giải quyết các tranh chấp đất đai trên
địa bàn quận
- Văn phòng UBND quận là nơi tiếp nhận đơn thư và là nơi trả lời bằng
văn bản cho người dân để chấm dứt vụ việc đơn thư và chịu trách nhiệm trước
88
Phó chủ tịch UBND quận.
- Phòng Tài nguyên và Môi trường tổng hợp các hồ sơ do UBND 18
phường cung cấp để báo cáo lãnh đạo UBND quận về các nội dung tranh chấp
đất đai trong đơn thư và tham mưu hướng xử lý các tranh chấp đất đai cho
lãnh đạo. Chịu trách nhiệm trước phó chủ tịch UBND quận.
- Thanh tra quận báo cáo kết luận thanh tra giải quyết về vụ việc đơn
thư, phối hợp với phòng Tài - nguyên Môi trường quận tham mưu các văn bản
trả lời các vụ tranh chấp đất đai cho người dân và chịu trách nhiệm trước phó
chủ tịch UBND quận.
- UBND 18 phường là nơi tiến hành thẩm tra, xác minh tìm hiểu
nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan về
nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất để cung cấp
cho phòng Tài nguyên - Môi trường và Thanh tra quận. Chịu trách nhiệm
trước UBND quận về hồ sơ, tài liệu đã cung cấp.
3.2.5. Nâng cao trách nhiệm vai trò lãnh đạo của thủ trưởng cơ quan
giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư tại quận hai Bà Trưng
Đến thời điểm hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã cơ bản đầy đủ, đồng bộ và
điều chỉnh kịp thời các mối quan hệ phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội.
Sự ra đời của Luật đất đai năm 2013 đánh dấu bước ngoặt phát triển vượt bậc,
thể hiện sự quan tâm tuyệt đối đến quyền dân chủ của công dân với những
quy định chi tiết về quyền của công dân khi thực hiện các quyền khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh. Tiếp đến, Luật Tố cáo năm 2018 đã khắc phục
những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật, nhất là những quy định về
nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo, quyền được rút tố cáo, cơ
chế bảo vệ người tố cáo.
Đặc biệt, gần nhất là Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020
89
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu
nại (có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2020) với những quy định khắc phục
được một số bất cập trong thực tiễn áp dụng. Qua đó, giúp cho mọi công dân
phát huy tối đa quyền dân chủ, quyền và lợi ích chính đáng được đảm bảo; thể
hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công tác giải quyết tranh chấp
đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xác định công tác giải quyết tranh chấp đất
đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng
tâm hàng đầu của các cấp ủy Đảng, chính quyền, từ đó, các cấp, các ngành
trong quận Hai Bà Trưng đã quan tâm bố trí công chức làm công tác giải quyết
tranh chấp đất đai, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo có năng lực, chuyên
môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhất là trong tình hình mới hiện nay. Công tác
triển khai, quán triệt thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai, giải
quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm túc, đồng bộ với nhiều giải pháp
trọng tâm, phù hợp với đặc điểm, tình hình của đơn vị, địa phương.
Người đứng đầu từng cơ quan, đơn vị luôn nêu cao trách nhiệm, thực
hiện tốt giải quyết tranh chấp đất đai định kỳ, đột xuất, quá trình giải quyết
tranh chấp đất đai luôn cầu thị, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng chính
đáng của người dân để kịp thời điều chỉnh các chủ trương, chính sách hoặc
chỉ đạo cơ quan chuyên môn kiểm tra, rà soát; từ đó, tạo dựng niềm tin của
người dân đối với chính quyền địa phương, giảm bớt được tình trạng khiếu
nại đông người, vượt cấp lên cơ quan Trung ương. Quan tâm phân công công
chức phụ trách giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý đơn có kinh nghiệm thực
tiễn, am hiểu chính sách pháp luật; bố trí cơ sở vật chất, thực hiện đầy đủ các
chế độ chính sách bồi dưỡng cho đội ngũ công chức làm công tác giải quyết
tranh chấp đất đai, xử lý đơn đảm bảo đúng theo luật định. Chỉ đạo thẩm tra,
xác minh, giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
phát sinh ngay từ cơ sở. Bên cạnh đó còn gắn với thực hiện tốt chính sách an
90
sinh xã hội, giúp người dân ổn định cuộc sống thông qua việc hỗ trợ về đất ở,
đất sản xuất; phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các cơ quan Trung ương, địa
phương nhằm huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong giải quyết
từng vụ việc cụ thể, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa
bàn quận Hai Bà Trưng.
Để nâng cao trách nhiệm vai trò lãnh đạo của trưởng cơ quan giải quyết
tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư tại quận Hai Bà Trưng người đứng đầu phải:
- Một là, sắp xếp lịch làm việc khoa học và dành thời gian giải quyết
tranh chấp đất đai định kỳ, đột xuất theo đúng luật định để lắng nghe tâm tư
nguyện vọng của người dân, trên cơ sở đó giải thích chính sách pháp luật, vận
động người dân chấp hành tốt các quy định của pháp luật.
- Hai là, quan tâm bố trí công chức làm công tác giải quyết tranh chấp
đất đai, xử lý đơn có năng lực, có kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hơn nữa
chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý đơn.
- Ba là, khi phát sinh đơn thuộc thẩm quyền phải kịp thời chỉ đạo cơ
quan chuyên môn thẩm tra xác minh; nghe cơ quan chuyên môn báo cáo tổng
hợp vụ việc trước khi tổ chức đối thoại với công dân để có thể dự liệu được
các tình huống, định hướng giải quyết vụ việc hoặc kịp thời chỉ đạo xác minh
bổ sung khi xét thấy cần thiết.
- Bốn là, tổ chức gặp gỡ đối thoại với công dân trước khi ban hành
quyết định. Đây là việc làm hết sức quan trọng, là điều kiện tốt nhất để người
lãnh đạo thẩm định lại nội dung báo cáo, kiến nghị của cơ quan tham mưu
được giao nhiệm vụ thẩm tra xác minh trước sự phản biện của người khiếu
nại, từ đó có kết luận giải quyết đúng đắn, khách quan và tính khả thi cao. Về
thành phần đối thoại, vận động phải có sự tham gia của người đứng đầu các
cơ quan tham mưu như: Thanh tra, Tài nguyên và Môi trường, các đoàn thể
(Hội nông dân, Phụ nữ, Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Luật gia, Trung
91
tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh…) cùng phối hợp. Người chủ trì phải kiên trì phân
tích, giải thích thấu tình, đạt lý để Nhân dân hiểu và tự giác thực hiện, đồng
thời tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ của người dân, nhất là những người cao niên
tuổi Đảng, có sức ảnh hưởng ở địa phương. Làm được điều này, người khiếu
nại sẽ thấy được trách nhiệm của người đứng đầu trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của mình, góp phần tạo niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, chính
quyền. Còn người đứng đầu sẽ nâng lên trách nhiệm của mình, quan tâm chỉ
đạo sâu sát hơn trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
3.2.6. Nâng cao vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra trong việc
giải quyết tranh chấp đất đai tại quận hai Bà Trưng
Hoạt động thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà
nước do đó, để kết quả hoạt động thanh tra có thể được phát huy tốt thì trước
hết kết quả đó phải có chất lượng tốt. Chất lượng của kết quả động thanh tra
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, trình
độ của đội ngũ cán bộ thanh tra, các biện pháp nghiệp vụ được sử dụng trong
quá trình thanh tra, điều kiện vật chất cho hoạt động thanh tra. Hoạt động
thanh tra được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau gồm cơ quan thanh tra,
cơ quan hành chính và đối tượng thanh tra. Kết quả hoạt động thanh tra là kết
quả hoạt động và sự phối hợp giữa các chủ thể này. Mặc dù, cơ quan thanh tra
đóng vai trò chủ yếu trong quá trình tiến hành thanh tra nhưng ở những khâu
quan trọng của quá trình này thì thủ trưởng cơ quan hành chính mới là những
nhân tố quan trọng. Những khâu quan trọng được đề cập ở đây chính là giai
đoạn xây dựng định hướng, chương trình thanh tra và xử lý, đôn đốc thực
hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra. Giai đoạn xây dựng định
hướng, chương trình thanh tra chính là giai đoạn xác định đối tượng thanh tra.
Giai đoạn này hoàn toàn dựa vào yêu cầu của quản lý nhà nước trong từng
92
lĩnh vực, hay nói khác đi là dựa vào sự chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan quản
lý nhà nước cùng cấp. Chính giai đoạn này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến
kết quả cuối cùng của hoạt động thanh tra. Nếu xác định đúng lĩnh vực, đối
tượng cần thanh tra thì kết quả hoạt động thanh tra sẽ mang lại hiệu quả thiết
thực, qua thanh tra có thể sẽ phát hiện nhiều sơ hở trong các quy định của
pháp luật về lĩnh vực đó để kịp thời có biện pháp sửa chữa, cũng có thể phát
hiện nhiều sai phạm để kịp thời ngăn chặn hay có thể phát hiện những gương
điển hình có sáng tạo đột phá có thể được nhân rộng. Ngược lại, nếu xác định
không đúng đối tượng, lĩnh vực cần thanh tra sẽ dẫn đến hậu quả hoạt động
thanh tra không mang lại hiệu quả, gây tốn kém về nguồn lực, từ đó làm giảm
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Giai đoạn xử lý và đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị của cơ quan
thanh tra cũng phụ thuộc rất lớn và thái độ và trách nhiệm của thủ trưởng cơ
quan hành chính. Thực tế cho thấy, ở đâu thủ trưởng cơ quan hành chính quan
tâm chỉ đạo sát sao việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh
tra thì các kết luận, kiến nghị đó được thực hiện nghiêm túc, tạo ra tác động
tích cực làm thay đổi nhận thức của đối tượng thanh tra trong việc chấp hành
pháp luật, hạn chế sai phạm. Ngược lại, ở đâu thủ trưởng không quan tâm chỉ
đạo, đôn đốc thực hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra thì dường
như những kết quả của hoạt động thanh tra không phát huy được hiệu quả trên
thực tế, thậm chí cơ quan thanh tra bị coi thường. Một yếu tố nữa cũng đóng
vai trò quan trọng trong việc phát huy kết quả hoạt động thanh tra đó là nhận
thức của xã hội về vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan
trong việc bảo đảm và phát huy kết quả hoạt động thanh tra. Theo những phân
tích ở trên, có thể nói không phải cơ quan thanh tra mà chính thủ trưởng cơ
quan hành chính nhà nước mới là chủ thể đóng vai trò quan trọng và quyết
định nhất tới kết quả của hoạt động thanh tra và phát huy nó trên thực tế. Tuy
93
nhiên, nhận thức của các tổ chức khác nhau trong xã hội về vấn đề này còn
chưa thực sự đúng đắn, còn có tâm lý cho rằng cơ quan thanh tra làm việc
không nghiêm túc, phát hiện ra sai phạm nhiều nhưng lại xử lý ít, hoặc không
đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra đến cùng. Trên thực tế, điều này hoàn
toàn phụ thuộc vào trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính. Cơ quan
thanh tra chỉ có thể chịu trách nhiệm về tính khách quan, trung thực và đúng
đắn trong các kết luận, kiến nghị của mình mà thôi.
Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân luôn gắn
liền với công tác lãnh đạo, quản lý; là một trong những yếu tố, phương thức
bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước được thi hành nghiêm chỉnh. Đồng thời, công tác thanh tra còn góp phần
quan trọng trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng như các hành vi vi
phạm trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước và trong
thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Vừa qua, Thanh
tra quận Hai Bà Trưng đã tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Thành
phố và nhiệm vụ phát triển KT-XH của Thành phố để triển khai công tác
thanh tra, kiểm tra theo đúng chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định;
tập trung vào những lĩnh vực trọng điểm, nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực,
tham nhũng, lãng phí như quản lý, sử dụng đất đai, quản lý đầu tư xây dựng
cơ bản, quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản, quản lý tài chính, ngân
sách, thuế; chính sách văn hoá - xã hội, tuyển dụng công chức, viên chức.
Trong những năm qua, thanh tra quận Hai Bà Trưng đã triển khai thực hiện
thanh tra công dân khiếu nại, tố cáo và phản ánh, kiến nghị chủ yếu liên quan
đến thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất; tranh chấp đất đai; việc thực hiện chế độ đối với người được
hưởng chính sách thương binh, chính sách đối với người có công; khiếu nại
quyết định hành chính; tố cáo làm trái các quy định của pháp luật, lợi dụng
94
chức vụ, quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Thanh tra quận Hai Bà
Trưng đã kịp thời triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ thanh tra;
tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình an ninh, trật
tự trên địa bàn.
Thanh tra quận cũng đã kịp thời tham mưu cho Uỷ ban nhân dân quận
Hai Bà Trưng ban hành các văn bản chỉ đạo về tăng cường công tác giải quyết
tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo trước và trong thời gian tổ chức
bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm
kỳ 2016-2021; các Hội nghị của Trung ương Đảng, các kỳ họp của Quốc hội,
các ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh. Đã phối hợp với các cấp, các ngành
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tập
trung rà soát và phối hợp để giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo
tồn đọng, phức tạp, kéo dài. Công tác đối thoại trong giải quyết khiếu nại được
quan tâm, tiến hành công khai dân chủ. Sự phối hợp giữa Thanh tra quận với
các ban, ngành, địa phương chặt chẽ và hiệu quả hơn trước.
Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là đơn thư khiếu nại,
tố cáo tồn động, phức tạp, kéo dài; Thanh tra quận Hai Bà Trưng tập trung
quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà
nước và Nghị quyết; Dự báo tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn quận
trong thời gian tới còn tiếp tục diễn biến phức tạp. Tình trạng khiếu nại, tố cáo
về lĩnh vực đất đai, môi trường tại những địa phương có triển khai thực hiện
các dự án về công nghiệp, giao thông, du lịch, xây dựng, nông nghiệp vẫn còn
tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bồi thường,
hỗ trợ giải phóng mặt bằng và kiến nghị liên quan đến việc tranh chấp đất đai
tại một số nơi chưa giảm. Tố cáo đối với vi phạm trong quản lý đất đai, tài
95
chính, ngân sách, thực hiện chính sách xã hội.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trước hết phải nâng cao vai trò của
công tác thanh tra, kiểm tra công tác quản lý nhà nước và việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao của cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoạt động thanh
tra, kiểm tra chuyên ngành tập trung vào những nội dung vi phạm pháp luật
về giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng:
- Thứ nhất, bảo đảm kết quả hoạt động thanh tra có chất lượng tốt. Đây
là vấn đề cốt lõi trong hoạt động thanh tra. Để làm được điều này, trước hết
cần xác định đúng mục đích của hoạt động thanh tra. Tiếp đó, khâu quan
trọng nhất cần bảo đảm chất lượng tốt là toàn bộ quá trình tiến hành một cuộc
thanh tra theo Đoàn Thanh tra. Đây chính là quá trình hoạt động đưa đến kết
quả trực tiếp là các kết luận, kiến nghị.
- Thứ hai, cần tạo ra cơ sở pháp lý quy định cụ thể hơn nữa vai trò của
thủ trưởng cơ quan hành chính trong việc bảo đảm và phát huy kết quả hoạt
động thanh tra. Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP
ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật Thanh tra đã có những quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của thủ
trưởng cơ quan hành chính thể hiện ở các Điều 40, 41 trong Luật Thanh tra,
Điều 55 trong Nghị định 86. Tuy nhiên, theo những quy định như vậy có lẽ
vẫn chưa có đủ sức nặng trong việc ràng buộc trách nhiệm của thủ trưởng cơ
quan hành chính trong việc xử lý kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra.
Thiết nghĩ, cần có những quy định cụ thể hơn liên quan đến trách nhiệm của
thủ trưởng cơ quan hành chính. Ví dụ, sau khi cơ quan thanh tra gửi kết luận,
kiến nghị tới thủ trưởng cơ quan hành chính, theo thẩm quyền của mình, thủ
trưởng cơ quan hành chính xem xét, sau đó phải ban hành các quyết định
hành chính về việc thực hiện những kết luận, kiến nghị đó. Quyết định hành
chính là văn bản có giá trị pháp lý chính thức và thể hiện rõ nét nhất trách
96
nhiệm quản lý nhà nước của thủ trưởng cơ quan hành chính. Ngoài ra, cần có
quy định cụ thể hơn nữa trong việc xử lý trách nhiệm của chủ thể này trong
trường hợp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về xử lý kết luận,
kiến nghị của cơ quan thanh tra.
- Thứ ba, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của xã hội đối với kết quả
hoạt động thanh tra. Cụ thể là, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về thanh tra, phân tích rõ vai trò trách nhiệm của cơ quan thanh
tra, của thủ trưởng cơ quan hành chính và các chủ thể khác có liên quan trong
việc tạo ra những kết quả thanh tra tốt, xác định vai trò quyết định của thủ
trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong việc phát huy kết quả hoạt động
thanh tra. Thực hiện triệt để việc công khai, minh bạch các kết luận, kiến nghị
của cơ quan thanh tra theo đúng quy định của pháp luật, tạo dư luận tốt đối
với kết quả làm việc của cơ quan thanh tra.
Tiểu kết Chƣơng 3
Trên cơ sở các phương hướng đặt ra, luận văn đã đề xuất những giải
pháp cơ bản, sát thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu
quả thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính
ở Việt Nam nói chung và tại quận Hai Bà Trưng nói riêng. Trong đó, tác giả đã
đề xuất những nhóm giải pháp cụ thể như: Hoàn thiện pháp luật; nâng cao năng
lực bộ máy quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn; tăng cường công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật; xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về đất
đai trên địa bàn quận theo hướng chuyên nghiệp; cải cách các thủ tục hành
chính; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan. Từ những thực tiễn về quản lý
nhà nước trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai
Bà Trưng, với những quan điểm, giải pháp trên nhằm góp phần nâng cao chất
lượng hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai nói chung và
97
giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Ở Việt Nam, đất đai là một loại tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai. Việc sử
dụng đất là vấn đề thường hay phát sinh tranh chấp trên thực tế. Đối tượng
của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát
sinh từ quá trình sử dụng loại tài sản đặc biệt này. Tranh chấp đất đai luôn gắn
liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể nên không chỉ ảnh hưởng đến
lợi ích của các bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà
nước.Trong quá trình thực hiện Luật Đất đai năm 2013, các quy định về giải
quyết tranh chấp đất đai ít nhiều đã bộc lộ những điểm bất cập, cần có sự điều
chỉnh cho phù hợp với nhu cầu sử dụng đất và làm tăng hiệu quả quản lý đất
đai của các cơ quan nhà nước. Tranh chấp đất đai là một vấn đề rất phức tạp
và đã tồn tại qua nhiều thời kỳ tại nước ta, diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi cấp từ
các vùng nông thôn cho đến các đô thị với nhiều hình thức khác nhau. Từ
thực tế tại quận Hai Bà Trưng đã cho thấy được bức tranh về tình hình tranh
chấp đất đai tại các đô thị lớn, việc giải quyết của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, các ưu điểm và hạn chế trong quá trình giải quyết. Trong nội
dung của luận văn đã đề cập đến một số giải pháp theo quan điểm của tác giả
dựa trên thực tế tại địa bàn quận Hai Bà Trưng nói riêng và phần nào tương
đồng với thực tế tại các đô thị lớn hiện nay ở nước ta nhằm giải quyết các vấn
đề đối với thực tiễn của đời sống của nhân dân trên địa bàn, hướng tới việc
góp phần ổn định đời sống, tình hình kinh tế an ninh trật tự xã hội trên địa bàn
quận Hai Bà Trưng góp phần cho sự phát triển nói riêng của quận Hai Bà
Trưng và nói chung của thành phố Hà Nội.
Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai của Quận hai Bà trưng, tác giả
98
xin đề xuất một số kiến nghị với UBND TP Hà Nội như sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai, hiện nay tuy
Quốc Hội đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về đất đai nhưng các quy
định còn tản mạn, chồng chéo, thiếu sự thống nhất. Do đó, cần giao nhiệm vụ
cho các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu soạn thảo và ban hành các quy
phạm pháp luật về đất đai cho phù hợp với điều kiện phát triển mới của đất
nước. Đây là một phương diện rất quan trọng bởi lẽ khi xây dựng được một
hệ thống pháp luật cả về nội dung và hình thức đầy đủ, cụ thể và có chất
lượng thì đó là cơ sở pháp lý để Tòa án nhân dân áp dụng pháp luật, thi hành
pháp luật đúng đắn, thống nhất và có hiệu quả cao.
Thứ hai: Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị,
đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ công chức cán bộ. Trong mọi công việc, vấn
đề cán bộ - con người là nhân tố quan trọng, trung tâm và “động” nhất của
mọi lĩnh vực. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công
tác cán bộ vì “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay
thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Do vậy, đòi hỏi cán bộ công chức phải
có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết xã hội rộng, kỹ năng thuần thục và đạo
đức nghề nghiệp trong sáng trong việc áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ công
lý, mang lại sự công bằng, đảm bảo xã hội được ổn định và phát triển.
Thứ ba: Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ
(nhất là tập tuấn chuyên sâu các chuyên đề về lĩnh vực tranh chấp và kỹ năng
giải quyết tranh chấp đất đâi) cho đội ngũ cán bộ công chức, cập nhật các văn
bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp cấp trên. Tiếp tục
quán triệt những chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính phủ đề ra.Việc bồi
dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là đội ngũ công chức
tiếp dân là một trong những khâu then chốt để bảo đảm công tác giải quyết
99
các tranh chấp đất đai đạt hiệu quả cao.
Thứ tư: Xây dựng được nội dung bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ giải
quyết tranh chấp đất đai có chất lượng, thiết thực đối với những người tham
gia lớp tập huấn là khâu trọng tâm nhất có ý nghĩa quyết định đến kết quả của
công tác này. Việc bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ giải quyết tranh chấp đất
đai phải có trọng tâm, trọng điểm và phải đáp ứng được những yêu cầu đề ra.
Thứ Năm: Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, tăng cường
sự phối hợp giữa cán bộ công chức trong hoạt động thụ lý tranh chấp đất đai.
Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng thụ lý, giải
quyết và thống nhất áp dụng pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của cán bộ công chức. Việc tổng kết rút kinh nghiệm, tìm ra những hạn
chế, nguyên nhân nhân và giải pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt
động giải quyết tranh chấp đất đai có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu
bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật của hoạt động này. Bên cạnh việc tổng
kết hàng năm, theo định kỳ (hàng tháng, hàng quý) cán bộ công chức cũng
cần tự đánh giá, phân tích xác định nguyên nhân và trách nhiệm trong việc
giải quyết tranh chấp đất đai không có căn cứ pháp luật để có biện pháp khắc
phục và xử lý kịp thời.
Từ thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai, qua các nội dung còn tồn
tại bất cập, chưa phù hợp trong luận văn trên thì Luật Đất đai năm 2013 cần
có sự điều chỉnh một số nội dung liên quan đến các vấn đề thuộc thẩm quyền
của UBND cấp xã và cơ quan chuyên môn khác như sau:
- Sửa đổi, bổ sung đối với các quy định liên quan đến hoạt động hòa
giải của UBND cấp xã, phường theo hướng:
+ Bổ sung quy định về cơ quan tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai thay
cho UBND cấp xã ở những địa bàn không có đơn vị hành chính cấp xã, phường.
+ Bổ sung quy định đối với trường hợp UBND cấp xã, phường nơi có
100
đất tranh chấp tổ chức buổi hòa giải nhưng một trong các bên hoặc hai bên
đương sự vắng mặt không có lý do chính đáng thì UBND cấp xã, phường vẫn
sẽ tiến hành hòa giải vắng mặt, lập biên bản hòa giải mà không có chữ ký của
bên vắng mặt, sau đó tống đạt văn bản đến bên vắng mặt trong buổi hòa giải;
+ Đối với trường hợp tranh chấp đất đai đã được tổ chức hòa giải thành
nhưng sau đó một trong các bên lại thay đổi ý kiến không chấp nhận kết quả
hòa giải thành thì không cần tiếp tục các thủ tục hòa giải vì một bên tranh
chấp đã không có thiện chí chấp hành sự thỏa thuận của các bên, nếu tiếp tục
hòa giải chỉ làm kéo dài quá trình giải quyết vụ việc. Trong trường hợp này,
nên bổ sung quy định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải
thành tại UBND cấp xã, nếu các bên không có ý kiến gì thì mặc nhiên biên
bản thỏa thuận đó được công nhận, các bên phải thực hiện nội dung đã thỏa
thuận. Trường hợp trong thời hạn 30 ngày mà một trong các bên có thay đổi
về kết quả hòa giải trước đó thì UBND cấp xã tiến hành hòa giải lại và đây là
lần hòa giải sau cùng. Trường hợp sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa
giải thành, nếu một trong các bên tranh chấp có căn cứ để chứng minh biên
bản hòa giải đó vi phạm thủ tục thì có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa
án tuyên hủy biên bản hòa giải thành này và Tòa án chỉ xem xét về mặt thủ
tục đối với biên bản hòa giải thành đã lập, không xem xét lại nội dung hòa
giải mà các bên đã thỏa thuận với nhau.
- Sửa đổi theo hướng bãi bỏ thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa
án đối với trường hợp đất tranh chấp chưa có bất cứ loại giấy tờ tài liệu nào
về quyền sử dụng đất.
- Bổ sung các quy định về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong hoạt
động phối hợp giải quyết tranh chấp đất đai, cụ thể là:
+ Bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý đất đai trong
hoạt động phối hợp giải quyết tranh chấp với Tòa án và các cơ quan liên
101
quan; trong đó quy định cụ thể trách nhiệm và thời gian thực hiện công tác
phối hợp xác minh, cung cấp thông tin của cơ quan quản lý đất đai khi có
yêu cầu;
+ Bổ sung chế tài cụ thể liên quan đến hành vi không thực hiện, chậm
trễ thực hiện và thực hiện gây haauk quả xấu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp đất đai;
+ Bổ sung quy định về cơ chế xử lý trách nhiệm đối với những trường
hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang nắm giữ tài liệu, chứng cứ về đất
tranh chấp của vụ án mà thiếu sự hợp tác để bảo đảm cho việc giải quyết vụ
102
án được nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình: Giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực quản lý
đất đai - phát hiện vi phạm và xử lý vướng mắc, Khoa Tài nguyên và Môi
trường nông nghiệp trường Đại học Huế của tiến sĩ Nguyễn Hữu Ngữ.
2. Trần Quang Huy: Luật đất đai năm 2003 và vấn đề hội nhập kinh tế
quốc tế, Tạp chí luật học số 3/2005.
3. UBND quận Hai Bà Trưng (2021), Báo cáo kết quả tình hình thực hiện
nhiệm vụ kinh tế-xã hội, an ninh- quốc phòng quận Hai Bà Trưng năm 2021.
4. UBND quận Hai Bà Trưng (2021): Báo cáo thống kê, kiểm kê đất
đai, tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức quận Hai Bà Trưng.
5. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Hai Bà Trưng (2022): Báo
cáo tổng hợp về đơn thư trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, tháng
6/2022, HBT.
6. Tổng cục Thống kê (2010), Báo cáo Tổng điều tra đất đai năm 2010.
7. Tô Văn Châu năm (2003): Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với đất đai ở Việt Nam hiện nay, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
8. Hội thảo khoa học 15/3/2022 “Tiếp tục đổi mới chính sách đất đai
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng” PGS.TS. Bùi Nhật Quang,
9. Luận án (2015) Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân
trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Hà Nội của Ths. Hoàng Liên Sơn
10. Luận văn (2020) Pháp luật giải quyết tranh chấp về đất đai tại Toà
án nhân dân tỉnh Thái Bình của Ths. Nguyễn Thị Quỳnh
11. Bộ Luật tố tụng dân sự 2015;
12. Luật đất đai 2013;
103
13. Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013;
14. Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Nghị định
hướng dẫn Luật đất đai.
15. Đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chấp đất đai trong giai đoạn hiện nay” của văn phòng
Tổng Cục quản lý đất đai ngày 27/10/2014 trên báo online Bộ Tài Nguyên
Môi Trường.
16. Giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của luật đất đai hiện
hành ngày 19/11/2018 của Bộ Tư Pháp.
17. . Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành
chính nhà nước trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội của Ths. Trần Thanh
Thủy Năm 2009
18. Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất qua thực tiễn
tại Tòa án Nhân dân tỉnh Kiên Giang của Ths Nguyễn Thanh Triều năm 2021.
19. Bùi Huyền (2012), "Một số bất cập của pháp luật đất đai hiện hành
và kiến nghị hoàn thiện", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật về
đất đai).
20. Doãn Hồng Nhung (2011), "Chế định sở hữu đất đai qua các thời kỳ
và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước với đất đai", Nghiên cứu lập pháp.
21. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tổng
cục Địa chính (1997), Thông tư liên tịch số 02/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-
TCĐC ngày 28/7 hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp
trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản
3 Điều 38 Luật Đất đai, Hà Nội.
22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận chung về
104
Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hành chính
Nhà nước, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Nguyễn Quang Tuyến (1996), "Một vài suy nghĩ về luật đất đai
105
năm 2003", Luật học, tr 22- 24.