BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

........./......... ........./.........

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HẢO

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

TẠI UỶ BAN NHÂN DÂN

QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2022

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ

........./......... ........./.........

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ HẢO

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

TẠI UỶ BAN NHÂN DÂN

QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính

Mã số: 8380102

Người hướng dẫn luận văn: PGS.TS. Nguyễn Thị Phượng

HÀ NỘI, NĂM 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào

khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,

tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán

tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc

gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị trường Học viện Hành chính Quốc

gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Hảo

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH

CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN ............................................ 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp đất đai ............................................ 7

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp đất đai ...................................... 7

1.1.2. Tranh chấp hành chính về đất đai.................................................. 13

1.2. Giải quyết tranh chấp đất đai về đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy

ban nhân dân .............................................................................................. 14

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai ....................... 14

1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai ................................. 15

1.2.2. Giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai của Uỷ ban nhân dân ..... 16

1.2.3. Mục đích và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại

UBND ....................................................................................................... 20

1.2.4. Đối tượng, phạm vi và thẩm quyn giải quyết tranh chấp đất đai của

Ủy ban nhân dân ...................................................................................... 21

1.2.5 Nội dung, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm

quyền của UBND các cấp ........................................................................ 22

1.3. Những yếu tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai

của Ủy ban nhân dân ................................................................................. 25

1.3.1. Yếu tố pháp luật .............................................................................. 25

1.3.2. Tổ chức bộ máy và năng lực của CBCC tham gia giải quyết tranh

chấp đất đai .............................................................................................. 27

1.3.3. Yếu tố văn hóa- xã hội .................................................................... 29

1.3.4. Yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

Việt Nam Xã hội chủ nghĩa ...................................................................... 30

Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 31

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI

CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG.............................. 33

2.1. Khái quát chung về Quận hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội ......... 33

2.1.1. Điều kiện hành chính- dân cư của quận Hai Bà Trưng ................. 33

2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội của quận Hai Bà Trưng ......................... 34

2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai của Quận Hai Bà Trƣng,

những năm qua .......................................................................................... 36

2.2.1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng từ

2013 đến tháng 06/2022 ........................................................................... 36

2.2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà

Trưng những năm qua .............................................................................. 39

2.3. Đánh giá chung về hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai trên địa

bàn quận Hai Bà Trƣng, TP Hà Nội ........................................................ 46

2.3.1. Những kết quả đạt được ................................................................. 46

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân ......................................... 52

Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 62

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC

HIỆN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN

DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................... 63

3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp đất

đai nói chung, quận Hai Bà Trƣng nói riêng .......................................... 63

3.1.1. Quán triệt và thể chế hóa đường lối chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước về công tác giải quyết tranh chấp đất đai ................ 63

3.1.2. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nói chung, quận Hai Bà

Trưng nói riêng nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân

góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ................. 66

3.1.3. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nhằm nâng cao hiệu quả

của quản lý nhà nước nói chung, quản lý về đất đai nói riêng ................ 72

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp đất đai của

Ủy ban nhân dân các cấp nói chung, của UBND quận hai Bà Trƣng

nói riêng ...................................................................................................... 75

3.2.1. Rà soát sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật về đất đai và giải

quyết tranh chấp về đất đai ...................................................................... 75

3.2.2. Tiếp tục nâng cao công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở

trên địa bàn quận Hai Bà Trưng .............................................................. 81

3.2.3. Đẩy mạnh công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạo

điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp đất đai ...................... 85

3.2.4. Kiện toàn công tác cán bộ, bổ sung các nguồn lực vật chất cho các cơ

quan làm công tác giải quyết đơn thư khiếu nại tranh chấp đất đai ............ 87

3.2.5. Nâng cao trách nhiệm vai trò lãnh đạo của thủ trưởng cơ quan giải

quyết tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư tại quận hai Bà Trưng ...... 89

3.2.6. Nâng cao vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra trong việc giải

quyết tranh chấp đất đai tại quận hai Bà Trưng ...................................... 92

Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................... 97

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 103

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà trưng ........... 37

Bảng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận HBT ..... 42

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với các nền

kinh tế trong khu vực và thế giới thì có rất nhiều vấn đề nảy sinh trong mọi

lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu về cuộc sống ngày càng tăng cao

và nền tảng để thực hiện những nhu cầu trên đó chính là đất đai. Vì vậy, đất

đai là đối tượng trung tâm của con người, là tài sản vô cùng quý giá là nền

tảng căn bản để cho con người thực hiện mọi mong muốn. Trong những năm

gần đây, tình hình tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức

tạp về tính chất, nhất là ở những vùng đang đô thị hóa nhanh. Trong đời sống

xã hội ngày càng phức tạp nói trên đã phát sinh nhiều dạng tranh chấp trong

đó tồn tại các dạng tranh chấp phổ biến như: tranh chấp hợp đồng mua bán,

chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất; do lấn, chiếm

đất; tranh chấp đất đai trong các vụ án ly hôn... với rất nhiều nguyên nhân dẫn

đến tranh chấp đất đai như: Việc quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót, sơ hở;

việc lấn chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng không được ngăn

chặn và xử lý kịp thời...

Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật đất đai ngày càng được sửa

đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó quy định việc giải quyết tranh chấp đất

đai thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân và Tòa án nhân dân. Tuy nhiên,

các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mới chỉ "dừng lại" ở

mức độ chung chung, nên trên thực tế dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa

ủy ban nhân dân và Tòa án nhân dân. Khắc phục những nhược điểm này, Luật

Khiếu nại 2011 cũng như Luật Đất đai năm 2013 đã quy định thẩm quyền giải

quyết tranh chấp đất đai tương đối cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan có

thẩm quyền áp dụng giải quyết các tranh chấp đất đai có hiệu quả hơn. Theo

1

thống kê, hàng năm cả nước có khoảng 80.000 vụ việc tranh chấp về đất đai,

trong đó các cơ quan nhà nước mới giải quyết được khoảng 70- 80% số vụ

việc/năm, có những vụ việc tồn đọng 06 -10 năm hoặc trên 10 năm vẫn chưa

được giải quyết hoặc chưa giải quyết được.

Quận Hai Bà trưng là một trong những quận trung tâm của TP hà Nội,

những năm qua trên địa bàn quận Hai Bà Trưng số vụ việc khiếu nại, tố cáo,

tranh chấp trong lĩnh vực đất đai chiếm tỷ lệ lớn hơn so với các lĩnh vực khác.

Tính chất của việc khiếu nại về đất đai cũng đã khác. Trong các vụ khiếu nại

đông người đã có sự liên kết giữa những người đi khiếu nại của các quận,

phường khác nhau, của người dân với nhau để tạo áp lực đối với chính quyền

địa phương. Nguyên nhân của những khiếu nại trên địa bàn quận Hai Bà Trưng

chủ yếu do có sự biến động lớn về chủ sử dụng đất; sự bất cập của hệ thống

chính sách pháp luật về đất đai; sự yếu kém trong công tác tổ chức thi hành

pháp luật về đất đai; sự yếu kém trong công tác bồi thường giải phóng mặt đã

dẫn đến khiếu nại về đất đai trên địa bàn là khá cao. Bên cạnh đó, một bộ phận

người dân chưa nhận thức đầy đủ các quy định của pháp luật, nên khiếu nại

chưa đúng quy định. Tình trạng vi phạm pháp luật, mất dân chủ, tham nhũng,

tiêu cực xảy ra khá phổ biến, nhất là ở cơ sở gây bất bình, bức xúc trong nhân

dân, làm phát sinh khiếu kiện. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất

đai, pháp luật về khiếu nại còn quá nhiều yếu kém, chưa thường xuyên, không

đúng trọng tâm, trong điểm và hiệu quả chưa cao; kết quả hòa giải không thành

tại tuyến cơ sở và phải chuyển hồ sơ đến cấp có thẩm quyền để giải quyết theo

trình tự, thủ tục tiếp theo cũng tạo nên những vụ khiếu nại kéo dài.

Bên cạnh đó, công tác tiếp nhận đơn chưa được hướng dẫn cụ thể theo

quy định của pháp luật ; Các vụ việc đã được giải quyết nhưng việc tổ chức

thực hiện chưa tốt, thiếu kiểm tra, đôn đốc kịp thời để khiếu kiện kéo dài, gây

bức xúc, làm phát sinh những quan hệ khiếu nại mới phức tạp hơn; Việc phân

2

công thực hiện nhiệm vụ tham mưu trong việc giải quyết các khiếu nại về đất

đai không thống nhất trong cơ quan…cũng việc phối hợp giải quyết khiếu nại

về đất đai giữa các cơ quan có thẩm quyền chưa được chặt chẽ và thống nhất,

còn đùn đẩy trách nhiệm. Giải quyết khiếu nại chưa bảo đảm về trình tự, thủ

tục, hình thức văn bản, chưa bảo đảm theo quy định của pháp luật, nội dung

nhiều quyết định giải quyết khiếu nại còn có vi phạm pháp luật. Công tác

thanh tra, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại đôi khi còn mang tính hình thức,

chiếu lệ v.v…

Từ những vấn đề nêu trên, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài "Giải

quyết tranh chấp đất đai của Uỷ ban nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà

Nội" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Liên quan tới việc nghiên cứu đề tài đã có một số công trình nghiên cứu

trực tiếp hoặc gián tiếp về vấn đề tranh chấp đất đai với những quan điểm tiếp

cận cũng như mức độ và phạm vi tiếp cận khác nhau. Tiêu biểu phải kể đến

các công trình như:

Thanh Tra Chính phủ: Đề tài cấp Bộ (2010): “Hoạt động thanh tra góp

phần nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai - Thực trạng và giải pháp”.

Sách chuyên khảo “Giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực

quản lý đất đai, phát hiện vi phạm và xử lý vướng mắc”.

Tạp chí Toà án nhân dân điện tử với bài viết ngày 20/5/2021 về : “Một

số sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai thông qua thực tiễn xét xử,

nguyên nhân và giải pháp”.

Luận Văn: “ Pháp luật giải quyết tranh chấp về đất đai tại Toà án nhân

dân tỉnh Thái Bình” ngày 9/ 8/2021 của Ths. Nguyễn Thị Quỳnh.

TS. Trần Anh Tuấn - Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 7, tr.144, tháng

4/2009): “Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các tranh chấp về quyền

3

sử dụng đất”

Nguyễn Xuân -Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử

(http://www.nclp.org.vn); “Vướng mắc về pháp luật liên quan đến giải quyết

tranh chấp, khiếu nại về đất đai;

“Bàn về thuật ngữ “khiếu nại” trong giải quyết tranh chấp đất đai”

của tác giả Nguyễn Trí Phước - Tạp chí Điện tử Thanh tra.

TS.Trần Văn Sơn, “Tăng cường Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt

động giải quyết khiếu nại, Tố cáo”, Nhà Xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2007.

Như vậy, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tranh chấp đất

đai, về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai nhưng việc giải quyết tranh

chấp đất đai trên phạm vi từng địa phương cũng có những nét riêng biệt. Vì

vậy đề tài luận văn nghiên cứu của tác giả không trùng lặp với các công trình

nghiên cứu trước đó. Tuy nhiên, những công trình trên lại là nguồn tài liệu

quý giá để tác giả tiếp cận và tiến hành nghiên cứu đề tài của mình, nhất là

công tác giải quyết về đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Mục đích của luận văn là làm

rõ cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai; phân tích, đánh giá thực

trạng công tác giải quyết giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của

UBND quận Hai Bà Trưng đề từ đó tìm ra những ưu điểm, hạn chế của công

tác này, từ đó xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải

quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận hai Bà Trưng TP Hà Nội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

- Làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận về tranh chấp đất đai và giải

quyết tranh chấp đất đai. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành

chính trong việc giải quyết đất đai, đặc biệt là vai trò của cấp huyện trong việc

4

giải quyết tranh chấp đất đai.

- Đánh giá thực trạng công tác giải quyết tranh chấp đất đai của UBND

Quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.

- Đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm bảo đảm cho việc giải quyết

tranh chấp đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước nói chung và của

UBND Quận Hai Bà Trưng nói riêng.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là:

Là toàn bộ hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền

của Ủy ban nhân dân quận Quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:

- Phạm vi về mặt nội dung: Nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp

đất đai của Quận hai Bà Trưng trên địa bàn TP Hà Nội. theo quy định của

pháp luật đất đai và các VBQPPL khác có liên quan.

- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu, phân tích và đánh giá

việc giải quyết tranh chấp đất đai của Quận hai Bà Trưng, TP Hà Nội.

- Phạm vi về thời gian: Giải quyết các tranh chấp đất đai của Uỷ ban

nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội từ năm 2017 đến nay

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và

chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm

của Đảng và pháp luật của Nhà nước về giải quyết tranh chấp đất đai để luận

giải các vấn đề đặt ra.

- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể để giải quyết những vấn đề như: phương pháp tiếp cận hệ thống, phương

pháp kế thừa tài liệu thứ cấp, phương pháp khảo sát, Phương pháp thống kê,

tổng hợp, phương pháp chuyên gia, phương pháp mô hình hóa …và được sử

5

dụng ở cả 3 chương, lời nói đầu và kết luận.

6. Ý nghĩa và những đóng góp mới của luận văn

- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho

các cơ quan hành chính nhà nước TP Hà Nội trong việc thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai nói

riêng, nhất là những đề xuất của đề tài có thể được xem xét và áp dụng tại địa

bàn địa phương trong việc nâng cao chất lượng công tác giải quyết tranh chấp

đất đai tại cơ quan hành chính nhà nước TP Hà Nội.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu phục vụ cho

công tác nghiên cứu và giảng dạy về đất đai tại các cơ sở đào tạo đại học, cao

đẳng nói chung, Học viện Hành chính nói riêng, từ đó đề xuất một số giải

pháp nhằm hoàn thiện chế định pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về tranh chấp đất đai và giải quyết

tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân.

Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất của Ủy ban nhân dân

Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội

Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện giải quyết

tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội

KẾT LUẬN

6

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN

1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp đất đai

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp đất đai

1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai

Đất đai luôn có vai trò và vị trí quan trọng đối với mỗi quốc gia, góp

phần quyết định sự phát triển của mỗi đất nước. Tranh chấp đất đai thể hiện

dấu ấn mạnh mẽ trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của quan hệ pháp luật đất

đai. Chẳng hạn trước đây, Nhà nước chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu trong

quan hệ đất đai: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, đất đai được “tập thể hóa

thành ruộng đất hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nhà nước, nghiêm cấm mua bán chuyển nhượng đất đai, phát canh thu tô dưới mọi hình thức1

Bước sang thời kỳ mới, Nhà nước với các quy định pháp luật chặt chẽ

đã điều chỉnh các quan hệ đất đai qua đó đã tạo lập một môi trường pháp lý,

các chính sách liên quan đến nghĩa vụ tài chính của đất đai, đồng thời đất đai

được thừa nhận có giá trị, quyền sử dụng đất được tham gia các giao dịch dân

sự từ đó tạo nên các quan hệ đất đai ngày càng đa dạng và phức tạp những từ

đó cũng này sinh nhiều tranh chấp.

Ngoài ra tính phức tạp, gay gắt của tranh chấp đất đai không chỉ dừng

lại ở khía cạnh tranh chấp dân sự, hành chính mà còn có thể dẫn đến các vụ án

hình sự, thậm chí còn mang tính chính trị, gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội.

Vì vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung rất quan trọng và không

1 . Xem: Điều 5 Luật Đất đai 1987.

7

thể thiếu của pháp luật đất đai.

Theo quy định Khoản 24 Điều 3 Luật đất đai 2013 thì “tranh chấp đất

đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”2.

Trong đó, người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,

công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất theo quy định

của Luật Đất đai, bao gồm: Các tổ chức trong nước, các tổ chức nước ngoài

có chức năng ngoại giao, người Việt nam định cư ở nước ngoài, các hộ gia

đình, cá nhân trong nước, cộng đồng dân cư, các cơ sở tôn giáo….

Các loại hình doanh nghiệp sử dụng đất gồm: DN có vốn đầu tư nước

ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh

nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại

theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Đối với từng chủ thể sử dụng đất khác nhau với hình thức sử dụng đất

khác nhau, pháp luật sẽ ghi nhận quyền và nghĩa vụ tương ứng. Cụ thể, quyền

và nghĩa vụ của cá nhân, gia đình sử dụng đất được ghi nhận tại Điều 179

Luật Đất đai 2013. Mục 2 Chương 11 Luật Đất đai 2013 đã quy định chi tiết

quyền và nghĩa vụ đối với tổ chức sử dụng đất.

Như vậy, tranh chấp đất đai được hiểu trước tiên là những mâu thuẫn

về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu và chủ sử dụng đất đối với một diện tích

đất cụ thể mà mỗi bên đều cho rằng mình có được quyền đó do pháp luật quy

định và bảo hộ kể cả tài sản gắn liền với QSD đất, hay đó còn là những tranh

chấp giữa các chủ thể về ranh giới sử dụng đất. Tranh chấp đất đai thường thể

hiện dưới 2 dạng: Tranh chấp dân sự về quyền sử dụng đất thông qua các

quan hệ dân sự về đất đai như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế,

thế vhaaps, góp vốn… bằng quyền sử dụng đất và tranh chấp hành chính về

2 . Xem Luật Đất đai ban hành ngày 29/11/2013 có hiệu lực ngày 01/7/2014.

8

quyền quản lý và sử dụng đất thông qua các quan hệ hành chính đối với đất

đai và tài sản trên đất thông qua các hoạt động thu hồi đất, cấp giấy chứng

nhận QSD đất, cho phép hay không cho phép chuyển mục đích sử dụng đất;

thông qua hoạt động bồi thường hỗ trợ tái định cư hoặc giải quyết tranh chấp

đất đai chưa phù hợp với luật pháp, những tranh chấp này thường gọi là tranh

chấp hành chính về đất đai.

1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai

Các tranh chấp đất đai cả trong lĩnh vực dân sự hay trong lĩnh vực hành

chính đều có những đặc điểm chung đó là tính phức tạp của đất đai, những

cũng mang những đặc điểm riêng của nó, ví dụ tranh chấp đất đai trong lĩnh

vực QLNN thì còn chịu sự tác động của các QPPL do cơ quan có thẩm quyền,

người có thẩm quyền ban hành ,vì thế tranh chấp đất đai nói chung và tranh

chấp đất đai trong quan hệ QHHC nhà nước thường thể hiện ở những điểm

chủ yếu sau:

a. Về chủ thể

Chủ thể trong quan hệ tranh chấp đất đai phải là người quản lý, người sử

dụng đất (chủ thể quản lý đất đai là các cơ quan có thẩm quyền nhà nước thực

hiện chức năng giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, cho phép

chuyển mục đích sử dụng đất, xử lý và giải quyết tranh chấp đất đai) hoặc

người khác có quyền, nghĩa vụ liên quan đến thửa đất. Trường hợp tranh chấp

không phát sinh giữa những chủ thể này với nhau liên quan đến thửa đất thì đó

là quan hệ tranh chấp khác (ví dụ tranh chấp về tài sản trên đất không gắn với

đất như nhà ở công trình do chủ thể sử dụng thuê đất khi bị thu hồi). Như vậy,

chủ thể của tranh chấp đất đai là các tổ chức, cơ quan nhà nước, hộ gia đình, cá

nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất đai.

b Về khách thể

Khách thể trong quan hệ tranh chấp đất đai là quyền sử dụng, quyền tài

9

sản gắn liền với đất hoặc cả hai. Đối với quyền sử dụng đất thì đây là loại tài

sản đặc biệt vì pháp luật đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà

nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước sẽ trao lại quyền

sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua các hình thức do pháp luật quy

định. Đồng thời quyền sử dụng đất cũng là tài sản (quyền tài sản) theo quy

định của Bộ luật dân sự, vì vậy quyền sử dụng đất có thể là đối tượng tham

gia các giao dịch dân sự.

c. Về nội dung

Quan hệ tranh chấp đất đai có nội dung là sự xung đột, tranh chấp về

các quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với một hoặc nhiều thửa đất cụ

thể. Nội dung của tranh chấp đất đai rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động quản

lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú

với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử

dụng khác nhau. Trong giai đoạn mới hiện nay thì đất đai càng trở nên có giá

trị, quyền sử dụng đất là một loại mặt hàng hết sức đặc biệt, đem lại những lợi

nhuận khổng lồ cho các chủ thể trong mối quan hệ giao dịch về đất đai. Tất

nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì

những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai cũng

trở nên gay gắt và trầm trọng hơn.

d. Về hệ quả và nguyên nhân

Tranh chấp đất đai phát sinh gây hệ quả xấu về nhiều mặt như: Có thể

gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết

trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất,

ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp

mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội.

Tranh chấp đất đai xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau và

diễn ra trên hầu hết các địa phương trong cả nước. Có thể mức độ, tính chất

10

và phạm vi khác nhau nhưng nhìn chung tranh chấp đất đai luôn tiềm ẩn các

nguy cơ gây ra những hậu quả nặng nề, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.

Vì vậy, cần phải căn cứ vào thực trạng sử dụng đất, vào đường lối, chính sách

của Nhà nước, vào những văn bản pháp luật để tìm ra những nguyên nhân dẫn

đến tranh chấp, từ đó có những biện pháp giải quyết một cách thỏa đáng, góp

phần ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất những tranh chấp có thể xảy ra.

Mỗi tranh chấp đất đai xảy ra đều do những nguyên nhân nhất định,

như yếu tố như sau:

- Nguyên nhân khách quan

Tranh chấp đất đai phát sinh có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại

những hậu quả trải dài ở hai miền Nam - Bắc: Ở miền Bắc, sau các thời kỳ

cách mạng Đảng và Chính phủ đã tiến hành một bước lớn chính là cải cách

ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong kiến để

thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân. Từ sau khi thống nhất

đất nước năm 1975, Nhà nước đã tiến qua hai lần điều chỉnh ruộng đất 1977 -

1978 và năm 1982 - 1983, cùng với chính sách chia đất theo kiểu bình quân

đã dẫn đến những xáo trộn lớn về ruộng đất, về ranh giới, số lượng và mục

đích sử dụng đất đai.

Trải qua các thời kỳ lịch sử cho tới hiện nay Việt Nam chuyển sang nền

kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế quản lý đã làm cho đất đai ngày càng

trở nên có giá trị. Dưới góc độ kinh tế, quyền sử dụng đất đai được coi như

một loại hàng hóa trao đổi trên thị trường theo quy luật cung cầu, quy luật giá

trị. Do đó đã tác động đến tâm lý của nhiều người dẫn đến tình trạng tranh

chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho mượn, hoặc giao cho

người khác sử dụng.

Một nguyên nhân nữa đó là việc Nhà nước thu hồi đất để mở rộng đô

thị, xây dựng kết cấu hạ tầng và thực hiện các dự án đầu tư song do do tác

11

động mạnh mẽ của cơ chế thị trường làm cho giá đất tăng liên tục đang là

những áp lực lớn gây nên tình trạng khiếu nại, khiếu kiện ngày cảng tăng nhất

là về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. trong khi Nhà

nước chưa kịp thời có các chính sách để điều tiết và quản lý có hiệu quả.

- Nguyên nhân chủ quan:

+ Quản lý nhà nước về đất đai còn lỏng lẻo, sơ hở dẫn tới nhiều sai phạm:

Quản lý chồng chéo giữa các ngành; hồ sơ địa chính cũ vừa thiếu, vừa yếu

trong khi hồ sơ địa chính kể từ khi Luật Đất đai 2003 đến nay vẫn chưa

hoàn thiện...

Bên cạnh đó, nhiều địa phương còn chưa làm tốt công tác quản lý nhà

nước về đất đai, không kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm về đất đai hoặc

xử lý nương nhẹ; việc giải quyết tranh chấp đất đai phát sinh, do nhiều hạn

chế, nên có khi sai sót, khiến tranh chấp âm ỉ, kéo dài.

+ Đường lối, chính sách pháp luật về đất đai chưa hoàn thiện, thường

xuyên sửa đổi, bổ sung:

Chỉ tính riêng từ khi Luật Đất đai 2003 được ban hành đến nay, chúng

ta đã có vài trăm văn bản hướng dẫn, điều chỉnh, bổ sung thi hành Luật Đất

đai, Luật Nhà ở, Luật khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tố tụng Dân

sự…. Điều này chứng tỏ hệ thống các pháp luật về đất đai của chúng ta còn

nhiều hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển không ngừng của các quan hệ đất

đai vốn vô cùng phức tạp và nhạy cảm.

Chính sách pháp luật về đất đai thiếu tính ổn định khiến người dân có

tâm lý so bì hơn thiệt, dẫn đến tranh chấp trong nội bộ nhân dân, đồng thời

cũng đặt Nhà nước vào thế chạy theo, khó xử.

Ngoài ra hệ thống hồ sơ địa chính chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nên thiếu

căn cứ pháp lý và thực tế để xác định quyền sử dụng và quản lý đất đai của cơ

quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là ở những khu vực mà quan hệ đất đai phức

12

tạp và có nhiều biến động.

Bên cạnh đó, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đất đai,

nhất là cán bộ địa chính cấp xã, cấp huyện còn nhiều hạn chế cả về năng lực

và kỹ năng giải quyết tranh chấp, cá biệt còn chưa nắm vững các quy định của

pháp luật, dẫn đến giải quyết các công việc theo thói quen, cảm tính hoặc qua

loa, chiếu lệ.

+ Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn chưa

hiệu quả:

+ Nhận thức của người dân về quyền sử dụng đất còn chưa đồng nhất

với quy định của pháp luật về đất đai bởi vì, trong đời sống thực tiễn còn tồn

tại hương ước, luật tục tồn tại song song với những truyền thống, phong tục

tập quán về sử dụng đất. Hoặc cũng có quan niệm đất đai của Nhà nước

nhưng khi giao quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài thì đất đai thuộc sở hữu

của cá nhân, gia đình, coi đất đai như tài sản có giá trị nhất của gia đình. Do

đó, trong quá trình đô thị hoá đất đai ngày càng có giá thì tình trạng đòi lại đất

cũ cho thuê, mượn, đất bị lấn chiếm ngày càng gia tăng.

1.1.2. Tranh chấp hành chính về đất đai

Như đã trình bày, tranh chấp đất đai có phạm vi rộng, vì vậy, tranh

chấp hành chính về đất đai có phạm vi hẹp hơn vì đó là tranh chấp giữa các

bên tham gia QLHC nhà nước về đất đai, đó là những tranh chấp giữa một

bên là cơ quan HCNN với một bên là tổ chức, cá nhân, công dân hay cộng

đồng dân cư hoặc cũng có thể tranh chấp giữa các cấp HCNN về việc quản lý

địa giới HCNN. Những tranh cấp này thường xảy ra khi cơ quan nhà nước có

thẩm quyền ban hành các văn bản QLNN về đất đai mà không phù hợp hoặc

trái với Hiến pháp, pháp luật, tác động tới quyền và lợi ích hợp pháp của

người sử dụng đất (bên có liên quan) dẫn tới việc người sử dụng đất khiếu

nại, khiếu kiện về đất đai nhằm đòi hỏi những yêu cầu về quyền và lợi ích hợp

13

pháp của họ trong việc sử dụng đất.

Theo đó những trường hợp khiếu nại về đất đai theo Luật Khiếu nại

2011 có thể là những quyết định hành chính, hành vi hành chính của CBCC

khi thi hành nhiệm vụ trái với pháp luật hoặc đạo đức công chức có thể bị

khiếu nại, khiếu kiện, ví dụ: quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép

chuyển mục đích SDĐ, quyết định hành chính, hành vi hành chính về cấp sổ

đỏ, về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, về xử lý vi phạm hành chính trái hoặc

mâu thuẫn với Luật Đất đai và pháp luật có liên quan do người có quyền và

nghĩa vụ liên quan trong quan hệ QLNN về đất đai khiếu nại khiếu kiện theo

quy định.

Để giải quyết, pháp luật về đất đai và pháp luật có liên quan (Luật

Khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính) cũng đã xác định các biện pháp để xử lý

về mặt hành chính theo các thủ tục hành chính và giải quyết về quyền sử dụng

và quản lý đất đai thuộc cơ quan QLNN hay thuộc quyền của tổ chức, hộ gia

đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hay cơ sở tôn giáo. Vì vậy, tranh chấp đất

đai trong QLHC nhà nước dưới dạng này thuộc đối tượng và phạm vi nghiên

cứu của đề tài luận văn.

1.2. Giải quyết tranh chấp đất đai về đất đai thuộc thẩm quyền của

Ủy ban nhân dân

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm giải quyết tranh chấp đất đai

Trên cơ sở khái niệm tranh chấp đất đai có thể thấy rằng: “giải quyết

tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm

giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên trong việc quản lý và sử dụng

đất để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác định rõ

quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai”.

Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp đất đai trong QLNN về đất đai như đã

trình bày phần trên đều được thực hiện thông qua giải quyết khiếu nại hoặc

14

khiếu kiện về đất đai. Theo đó, khoản 1, Điều 2 Luật Khiếu nại 2011 thì: Giải

quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết

khiếu nại.

Việc giải quyết tranh chấp đất đai nói chung hiện nay phải đảm bảo ba

nguyên tắc sau:

- Thứ nhất, luôn đảm bảo nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân và

Nhà nước là đại diện chủ sở hữu.

- Thứ hai, bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh

tế, khuyến khích tự hòa giải trong nội bộ nhân dân.

- Thứ ba, việc giải quyết nhằm mục đích ổn định kinh tế, xã hội, gắn

với phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề, tạo điều kiện cho lao động có

việc làm, phù hợp với đặc điểm và quy hoạch của từng địa phương

1.2.2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai

Hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai có những đặc điểm sau:

- Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền. Để giải quyết một tranh chấp, các chủ thể có thể sử dụng nhiều

biện pháp như tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không

quan tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra

các quy định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia

của cơ quan nhà nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện

sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể và

Nhà nước sẽ cung cấp một công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ

không có được sự thống nhất. Một khi đã có sự tham gia của cơ quan nhà

nước thì các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ

có những quy phạm pháp luật này thì người dân cũng như chính cơ quan nhà

nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và giải quyết

15

theo trình tự, thủ tục gì.

- Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là tranh chấp đất đai,

trong đó các đương sự yêu cầu cơ quan nhà nước xác định rõ những quyền và

nghĩa vụ của các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp.

- Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ

của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết

định có hiệu lực pháp luật.

- Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể nhân dân địa phương tham gia.

- Giải quyết tranh chấp đất đai có mối liên quan đến nhiều lĩnh vực

khác như: nhà ở, xây dựng, giao thông, thương mại...

- Giải quyết tranh chấp đất đai phụ thuộc không nhỏ vào sự hiểu biết về

phong tục, tập quán địa phương để có cách giải quyết thỏa đáng.

1.2.2. Giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai của Uỷ ban

nhân dân

Theo quy định của Luật Đất đai 2013, Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ- CP về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 20133: “Tranh chấp đất đai mà đương

sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy

định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai

hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:

a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có

thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;

b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của

pháp luật về tố tụng dân sự;”4.

Theo đó, trong trường hợp nêu trên đương sự trong quan hệ tranh chấp

đất đai có thể lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai

3 . Xem Điều 203 Luật Đất đai 2013 Khoản 2. 4 . Xem Luật Đất đai 2013, Điều 203, Kh 2

16

theo quy định sau:

Thứ nhất, một trong các bên tranh chấp có thể nộp đơn yêu cầu giải quyết

tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3, cụ thể:

- Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư

với nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng

ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật

về tố tụng hành chính;

- Trường hợp tranh chấp đất đai mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ

sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không

đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài

nguyên và Môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân cùng cấp theo quy

định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Như vậy, việc giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai được thực

hiện theo hai cấp. Tuy nhiên, Nhà nước luôn mong muốn các bên hòa giải để

bảo đảm ổn định xã hội, vì thế Luật Đất đai cũng quy định UBND cấp xã

tham gia hòa giải về tranh chấp đất đai tại cơ sở.

Trường hợp nếu quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của Chủ tịch

Ủy ban nhân dân có thẩm quyền không có khiếu nại hoặc khiếu kiện ra tòa thì

Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu lực thi hành và phải được các bên

tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp các bên không chấp hành sẽ

bị cưỡng chế thi hành.

Thứ hai, Nếu một trong các bên tranh chấp không lựa chọn giải quyết

tranh chấp thông qua thủ tục hành chính mà lựa chọn giải quyết thông qua

phán quyết của toàn Hành chính thì có thể khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp

có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính (Luật Tố

17

tụng hành chính 2012, sửa đổi, bổ sung ngày 16 tháng 12 năm 2019). Cụ thể:

- Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử

dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi

hành chính về quản lý đất đai.

- Giải quyết tranh chấp đất đai tại địa phương theo quy định của pháp

luật đất đai và pháp luật có liên quan thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và chủ tịch UBND

cấp xã có trách nhiệm tham gia các vụ hòa giải hay thương lượng về tranh

chấp giữa các bên có liên quan.

a. Ở cấp xã: Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực

hiện thẩm quyền hòa giải đối với các tranh chấp đất đai tại địa phương. (Đồng

thời giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành

chính của mình liên quan tới đất đai, của người có trách nhiệm do mình quản

lý trực tiếp ví dụ quyết định cho thuê đất công ích).

b. Ở cấp huyện

Theo quy định, Chủ tịch UBND cấp huyện là người có thẩm quyền giải

quyết đối với các QĐHC, HVHC do mình ban hành liên quan tới đất đai khi

có căn cứ cho rằng các QĐHC, HVHC đó trái pháp luật ảnh hưởng tới quyền

và lợi ích hợp pháp của người chịu sự tác động của QĐHC, HVHC hoặc giải

quyết các QĐHC, HVHC do thủ trưởng cơ quan chuyên môn do mình quản lý

mà đã giải quyết những vẫn còn có khiếu nại liên quan tới đất đai.

Để giúp Chủ tịch UBND trong việc tham mưu giải quyết khiếu nại,

pháp luật về khiếu nại và pháp luật đất đai cũng quy định: Giúp việc cho Chủ

tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng có 03 cơ quan là Văn phòng Ủy ban

nhân dân, Thanh tra huyện, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện.

Tuy nhiên, cách thức tổ chức và phân công nhiệm vụ ở từng huyện hiện

nay có sự khác nhau: có huyện giao hẳn nhiệm vụ tiếp nhận, xử lý đơn thư

18

cho Văn phòng Ủy ban nhân dân, có huyện nhiệm vụ này giao cho Thanh tra

huyện, có huyện lại giao cho cả Thanh tra và phòng Tài nguyên và Môi

trường. Tương tự như vậy, trong việc xác minh, tham mưu giải quyết, có

huyện giao hết cho Thanh tra, có huyện giao cho phòng Tài nguyên và Môi

trường giải quyết, có huyện phân định vụ việc để giao cho Thanh tra hoặc

phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu giải quyết.

c. Ở cấp tỉnh

Theo quy định của pháp luật, Chủ tịch UBND tỉnh là người có thẩm

quyền giải quyết đối với các QĐHC, hoặc có HVHC do mình ban hành khi có

căn cứ cho rằng các QĐHC, HVHC đó trái pháp luật hoặc việc giải quyết các

QĐHC, HVHC do thủ trưởng cơ quan chuyên môn do mình quản lý mà đã

giải quyết những vẫn còn có khiếu nại. Để giải quyết những khiếu nại này,

pháp luật đã xác định giúp việc cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong giải

quyết tranh chấp đất đai gồm 03 cơ quan và được phân định như sau:

- Văn phòng UBND tỉnh là cơ quan đầu mối về tiếp nhận và xử lý đơn

thư. Để thực hiện việc này, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh có Chánh Văn

phòng phụ trách công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư và

có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.

- Thanh tra tỉnh là cơ quan thường trực cùng Văn phòng UBND tỉnh

trong tiếp nhận, xử lý đơn thư và xác minh một số vụ việc tranh chấp đất đai

theo yêu cầu của Chủ tịch UBND tỉnh. Để thực hiện việc này, Thanh tra tỉnh

cũng có 01 Phó Chánh Thanh tra phụ trách công tác giải quyết tranh chấp đất

đai và có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.

- Sở Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thường trực xác minh, tham

mưu giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND tỉnh.

Để thực hiện nhiệm vụ này, Sở Tài nguyên và Môi trường phân công 01 Phó

Giám đốc Sở phụ trách Thanh tra Sở và giao nhiệm vụ xác minh, tham mưu

19

giải quyết đơn thư về đất đai cho Thanh tra Sở.

1.2.3. Mục đích và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại

UBND

Giải quyết tranh chấp kịp thời và hiệu quả các tranh chấp đất đai nói

chung, tranh chấp đất đai trong quản lý HCNN nói riêng cho phép hạn chế

đến mức tối thiểu sự gián đoạn của sản xuất kinh doanh cũng như đặt ở mức

chi phí thấp nhất. Song, quan trọng đó là phải bảo vệ một cách có hiệu quả lợi

ích hợp pháp và chính đáng của các bên khi tham gia vào kinh tế thương mại.

Giải quyết tốt tranh chấp đất đai là động lực thúc đẩy sự phát triển của

nền kinh tế. Muốn có một nền kinh tế phát triển thì các quan hệ đất đai nói

chung và quan hệ kinh tế về đất đai nói riêng phải được điều chỉnh bằng pháp

luật, phải đảm bảo bằng pháp luật. Việc đầu tiên là hạn chế các mâu thuẫn,

tranh chấp có thể xảy ra trong QLNN thì cần có một “sân chơi” lành mạnh và

công bằng.

Khi tranh chấp đất đai xảy ra, để bảo đảm cho các quan hệ ổn định và

phát triển thì tranh chấp cần được giải quyết kịp thời, nhanh những phải đảm

bảo sự công bằng, đúng pháp luật thì hậu quả sẽ dây dưa kéo dài và thiệt hại

rất lớn cho cả nhà nước cũng như các chủ thể sử dụng đất thông qua các quyết

định QLNN về đất đai đúng và phù hợp với pháp luật,

Giải quyết tranh chấp đất đai vì thế có một ý nghĩa vô cùng quan trọng

vì khi bảo đảm tính ổn định hay nói cách khác là “an cư” đối với hộ gia đình

và cá nhân thì sẽ tránh được những nguy cơ rất cao về mất an ninh trật tự, an

toàn xã hội, thậm chí gây ảnh hưởng đến tình hình chính trị khi khiếu nại,

khiếu kiên đông người, vượt cấp sẽ khó kiểm sót và sẽ không bảo đảm

đượcnền pháp chế XHCN. Do đó khi xảy ra tranh chấp đất đai, các cơ quan

có thẩm quyền cần nhanh chóng vào cuộc với nhiều biện pháp về tình, về lý,

bằng nghiệp vụ chuyên môn của mình nhằm giải quyết triệt để các tranh chấp,

20

từ đó sẽ giảm đáng kể các vụ việc liên quan đến đơn thư, khiếu kiện, tranh

chấp tại địa bàn mình quản lý bởi phần lớn các vụ việc phức tạp trong đời

sống đều liên quan đến vấn đề đất đai, trong đó chủ yếu là tranh chấp đất đai.

1.2.4. Đối tượng, phạm vi và thẩm quyn giải quyết tranh chấp đất đai

của Ủy ban nhân dân

- Đối tượng và phạm vi thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là các quan hệ tranh chấp đất đai tại địa

phương cũng như các QĐHC, HVHC về đất đai do của mình liên quan tới đất

đai, hoặc của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp.

- Đối tượng và phạm vi thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là các QĐHC, HVHC về đất đai do

mình ban hành hoặc các QĐHC, HVHC của thủ trưởng cơ quan chuyên môn

do mình quản lý trực tiếp đã giải quyết những vẫn có khiếu nại . Đặc biết đối

tượng của giải quyết tranh chấp về đất đai của Chủ tịch UBND cấp huyện

thường gắn với đối tượng thuộc thẩm quyền quản lý của UBND là cơ quan, tổ

chức, cá nhân, cộng đồng dân cư trên địa bàn huyện.

- Đối tượng và phạm vi thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh là các QĐHC, HVHC do Chủ tịch UBND

ban hành hoặc các QĐHC, HVHC của thủ trưởng cơ quan chuyên môn (ví dụ

quyết định cấp GCNQSD đất của giám đốc sở Tài nguyên và Môi trường) do

mình quản lý trực tiếp đã giải quyết những vẫn có khiếu nại (khi có căn cứ

cho rằng các QĐHC, HVHC đó trái với pháp luật mà bị khiếu nại). Chủ tịch

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai đối với

những đối tượng thuộc thẩm quyền QLNN tại địa phương theo quy định, đó là

các tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân

nước ngoài có liên quan tới quản lý và sử dụng đất trên địa bàn địa phương.

Theo đó, đối tượng giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của

Chủ tịch UBND cấp tỉnh và Chủ tịch cấp huyện thực chất là việc xem xét lại

21

các QĐHC, HVHC theo thủ tục khiếu nại hành chính do mình ban hành có

trái với pháp luật (Luật khiếu nại, Luật đất đai) hay không, để từ đó có thể ban

hành mới bằng một quyết định đúng pháp luật và bảo đảm việc QLNN về đất

đai đạt được hiệu quả như đã đặt ra.

Như vậy, đối tượng giải quyết tranh chấp đất đai thông qua các thủ tục

hành chính của UBND nói chung, của UBND cấp huyện nói riêng là các

QĐHC, HVHC liên quan tới hoạt động QLNN về đất đai.

1.2.5 Nội dung, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai thuộc

thẩm quyền của UBND các cấp

1.2.5.1. Nội dung tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của

UBND

Theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật giải quyết khiếu nại,

khiếu kiện về đất đai thì nội dung tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải

quyền của UBND các cấp bao gồm các quyết định hành chính, hành vi hành

hcinhs trái pháp luật trong hoạt động QLNN về đất đai, bao gồm:

- Các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật trong

lĩnh vực thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận QSD đất;

- Các quyết định hành chính, hành vi hành chinh trong lĩnh vực giao

đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất

- Các quyết định hành chính, hành vi hành chính về bồi thường hỗ trợ,

tái định cư, về trưng dụng đất;

- Các quyết định hành chính, hành vi hành chính về thanh tra và xử lý

vi phạm hành chính liên quan tới đất đai mà trái pháp luật...

- Quyết định hành chính, hành vi hành chính mà UBND và cơ quan có

thẩm quyền giải quyết nhưng vẫn còn có khiếu nại (gọi là khiếu nại lần 2)....

1.2.5.2. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân

dân các cấp

Căn cứ Điều 203 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013, có

22

hiệu lực ngày 01/7/2014; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, có

hiệu lực ngày 01/7/2014; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017, có

hiệu lực ngày 03/3/2017, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại

UBND nói chung và cấp huyện nói riêng gồm 4 bước sau:

Bước 1: Tiếp nhận và xử lý đơn thư đề nghị giải quyết tranh chấp

Người có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai gửi hồ sơ (đơn và

giấy tờ liên quan) đến Chủ tịch UBND cấp huyện (qua dịch vụ bưu chính

công ích hoặc trực tiếp tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cấp huyện hoặc

tại trụ sở tiếp dân cấp huyện).

Sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai, Chủ tịch

UBND cấp huyện giao đơn vị có chức năng tham mưu giải quyết. Đơn vị

được phân công giải quyết tiến hành thu thập, nghiên cứu hồ sơ; thành lập tổ

công tác để tiến hành thẩm tra, xác minh vụ việc tại cấp xã; tổ chức hòa giải

giữa các bên tranh chấp; hoàn chỉnh hồ sơ trình Chủ tịch UBND cấp huyện

ban hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai. Quyết định giải quyết tranh

chấp đất đai hoặc quyết định công nhận hòa giải thành được gửi cho các bên

tranh chấp, các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan.

Hồ sơ (1 bộ) giải quyết tranh chấp đất đai do cơ quan tham mưu nghiên

cứu và hoàn thiện gồm:

- Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai;

- Biên bản làm việc với các bên tranh chấp, với các tổ chức, cá nhân có

liên quan; biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp; biên bản hòa giải trong

quá trình giải quyết tranh chấp đất đai tại cấp xã;

- Trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện

tích đất tranh chấp, hồ sơ, tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình

giải quyết tranh chấp đất đai tại cấp xã;

- Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định giải quyết tranh chấp hoặc dự

23

thảo quyết định công nhận hòa giải thành.

Bước 2: Xác minh đơn thư

Xác minh nội dung đơn thư tranh chấp đất đai của UBND và cơ quan

chuyên môn thuộc UBND là khâu quan trọng trong quá trình giải quyết tranh

chấp đất đai. Việc xác minh rõ nội dung nhằm mục đích thu thập chứng cứ,

tài liệu làm cơ sở cho nhận xét, đánh giá một cách khách quan, trung thực về

nguồn gốc tranh chấp đất đai, ví dụ đó là tranh chấp về chuyển mục đích sử

dụng đất, tranh chấp về phương thức bối thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất…. Việc xác minh nội dung tranh chấp đất đai dựa trên cơ sở

Điều 29 Luật Khiếu nại 2011 và thông tư 07/TT-TTCP về hướng dẫn trình tự,

thủ tục thực hiện các biện pháp sử dụng trong quá trình xác minh nội dung

khiếu nại.

Thời hạn kiểm tra xác minh hồ sơ: Trường hợp cơ quan có thẩm quyền

nhận hồ sơ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ thì trong thời gian tối đa 03 ngày, cơ

quan tiếp nhận, xử lý hồ sơ phải thông báo và hướng dẫn người nộp hồ sơ bổ

sung, hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định.

Bước 3. Ban hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai

Theo quy định của Luật Khiếu nại, thời hạn giải quyết tranh chấp hành

chính (khiếu nại) lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ

việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45

ngày, kể từ ngày thụ lý.Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải

quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức

tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ

ngày thụ lý thì Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh phải ra quyết định giải

quyết tranh chấp đất đai lần 1 hoặc quyết định công nhận hòa giải thành.

Trường hợp tiếp tục khiếu nại lần 2: Trong thời hạn 30 ngày, kể từ

ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 28 của Luật này mà

24

khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết

định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có

quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai; đối với

vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng

không quá 45 ngày.

Trường hợp khiếu nại lần hai thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo

quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, các tài liệu có liên quan cho người có

thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.

Bước 4: Thi hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai

Theo Điều 46 Luật Khiếu nại, sau khi quyết định giải quyết khiếu nại

có hiệu lực thi hành sau 30 ngày kể từ ngày ban hành thì các cơ quan, tổ chức

và cá nhân sau có trách nhiệm sau:

- Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp tỉnh, thủ trường cơ quan chuyên môn

thuộc UBND trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chỉ

đạo cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý tổ chức thi hành quyết định

giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật; trường hợp cần thiết, yêu cầu cơ quan

chức năng có biện pháp để bảo đảm việc thi hành các quyết định giải quyết

khiếu nại có hiệu lực pháp luật; tổ chức thi hành hoặc chủ trì, phối hợp với tổ

chức, cơ quan hữu quan thực hiện biện pháp nhằm khôi phục quyền, lợi ích hợp

pháp của người khiếu nại; kiến nghị cơ quan, tổ chức khác giải quyết những vấn

đề liên quan đến việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có).

1.3. Những yếu tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp đất

đai của Ủy ban nhân dân

1.3.1. Yếu tố pháp luật

Luật đất đai năm 2013, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi

hành Luật đất đai, Luật hòa giải cơ sở, Nghị định 15/2014/NĐ-CP, ngày 27

tháng 02 năm 2014 là những văn bản pháp lý cơ bản nhất quy định về hòa giải

25

tranh chấp đất đai hiện nay. Tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên

tranh chấp không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy

tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 và Điều 18 của Nghị

định số 43/2014/NĐ-CP, thì việc giải quyết tranh chấp được thực hiện dựa

theo các căn cứ sau: “Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do các

bên tranh chấp đất đai đưa ra; thực tế diện tích đất mà các bên tranh chấp

đang sử dụng ngoài diện tích đất đang có tranh chấp và bình quân diện tích

đất cho một nhân khẩu tại địa phương; sự phù hợp của hiện trạng sử dụng

thửa đất đang có tranh chấp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ

quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; chính sách ưu đãi người có công của

Nhà nước; quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền

sử dụng đất”. Căn cứ pháp lý còn là là một trong những yếu tố quan trọng

nhất mà Hội đồng hòa giải bắt buộc phải dựa vào để xem xét hòa giải vụ việc

theo hướng nào, vừa hợp lý lại hợp tình, mang tính thuyết phục cao, nâng cao

hiệu quả, chất lượng cho buổi hòa giải.

Việc giải quyết các tranh chấp đất đai tại UBND về mặt hành chính

theo quy định của pháp luật còn mang tính bắt buộc thi hành đối với các bên

tranh chấp theo những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo kết quả giải quyết

là đúng về mặt nội dung, đảm bảo tính khả thi trên thực tế. Trong yêu cầu của

việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi hệ thống các

quy định pháp luật phải đầy đủ, đồng bộ và rõ ràng, tạo điều kiện cho các cơ

quan Nhà nước có thẩm quyền cũng như người dân dễ hiểu, dễ áp dụng và áp

dụng đúng pháp luật. Ngược lại, nếu các quy định về pháp luật đất đai chưa

đồng bộ, hoàn thiện (ví dụ việc ban hành khung giá đất và quy định về giá đất

…), chưa đơn giản, dễ hiểu sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hiểu sai, áp dụng sai,

thậm chí là áp dụng tùy tiện pháp luật sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu

quả giải quyết các tranh chấp về đất đai, kể cả tranh chấp dân sự, từ đó sẽ làm

26

giảm sút lòng tin của một bộ phận người dân vào chính sách của Đảng, Nhà

nước về đất đai. Chẳng hạn, việc lập, xét duyệt và công bố quy hoạch, kế

hoạch sử dụng đất không rõ ràng, không phù hợp với vị trí địa lý thổ nhưỡng

từng vùng, việc quản lý mục đích sử dụng đất của tổ chức, cá nhân chưa chặt

chẽ, đây cũng là nguyên nhân dẫn tới việc khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất

để giao cho các tổ chức thực hiện dự án kinh tế. Bên cạnh đó, việc bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng là nguyên nhân dẫn

tới khiếu nại, khiếu kiện kéo dài do thủ tục và chính sách bồi thường chưa đáp

ứng kịp yêu cầu thực tiễn như giá bồi thường còn rẻ so với thị trường bất

động sản trong giao dịch; tiến độ để tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất;

việc xác định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao

đất, cho thuê đất còn phức tạp. Việc điều tra, khảo sát giá đất phổ biến trên thị

trường để phục vụ cho công tác xác định giá đất cụ thể còn gặp khó khăn do

người cung cấp.

1.3.2. Tổ chức bộ máy và năng lực của CBCC tham gia giải quyết

tranh chấp đất đai

Con người luôn là chủ thể của mọi mối quan hệ, chính vì vậy, yêu tố về

con người luôn được quan tâm nhất từ xưa đến nay trong công tác hòa giải.

Bàn về yếu tố con người, trước hết nói đến người tiến hành hòa giải; về năng

lực, trình độ, kỹ năng hòa giải của cán bộ, công chức tiến hành hòa giải đóng

vai trò rất quan trọng trong việc hòa giải, phần lớn quyết định việc hòa giải có

thành công hay không. Các cán bộ tiến hành hòa giải phải năng nổ, nhiệt tình,

am hiểu phong tục, tập quán địa phương, có kinh nghiệm sống phong phú và

có thái độ công tâm, khách quan vì lợi ích cộng đồng. Trình độ, nhận thức của

người được hòa giải (nguyên đơn, bị đơn) cũng đóng vai trò quan trọng trong

việc hòa giải: thuyết phục, giải thích cho người được hòa giải là người có

trình độ, có nhận thức, am hiểu pháp luật sẽ khác với người có trình độ thấp,

27

không am hiểu pháp luật. Ví dụ, hòa giải cho người dân là người đồng bào

dân tộc thiểu số, trình độ học vấn mới hết tiểu học sẽ khác với một người dân

sống ở thành thị, có trình độ học vấn là đại học. Vì vậy, đây cũng chính là một

trong những yếu tố mà người tiến hành hòa giải xem xét đến đối tượng hòa

giải là ai? Để có hướng đi thích hợp nhất, mang lại chất lượng, hiệu quả trong

quá trình hòa giải.

Việc giải quyết các tranh chấp hành chính về đất đai của UBND chỉ có

thể đạt hiệu quả khi kết quả giải quyết đúng pháp luật và được đảm bảo thực

thi hành trên thực tế. Muốn vậy, bên cạnh việc giải quyết đúng người, đúng

bản chất sự việc, đúng quy định của pháp luật còn đòi hỏi phải được các cơ

quan QLNN về đất đai phải thực hiện đúng thẩm quyền và đảm bảo quyết

định giải quyết được thi hành đúng pháp luật. Để việc giải quyết các tranh

chấp hành chính về đất đai của UBND đạt được kết quả như các bên mong

muốn, đòi hỏi các cơ quan hành chính Nhà nước (UBND và các cơ quan

chuyên môn) phải được tổ chức một cách gọn nhẹ, ít tầng nấc, đòi hỏi các

chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan hành chính Nhà nước phải

được quy định rõ ràng, cụ thể và công khai, minh bạch. Ngược lại, sẽ dẫn đến

tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót nhiệm vụ của các cơ quan, dẫn đến giảm

sút chất lượng, trong việc giải quyết tranh chấp đất đai.

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, từ yêu cầu của

từng công việc đòi hỏi phải có một đội ngũ CBCC tương ứng để thực hiện

nhiệm vụ. Trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai, các cơ

quan hành chính Nhà nước hiện nay do chưa có cán bộ chuyên trách, việc thụ

lý, phân loại đơn thư, việc xác minh, tham mưu giải quyết đơn thư nói chung,

trong đó có đơn thư về đất đai vẫn do các cán bộ làm công tác xử lý đơn thư,

cán bộ làm công tác thanh tra thực hiện. Do vậy, tính chuyên nghiệp chưa

cao, ít nhiều ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng giải quyết. Bên cạnh đó,

28

một số CBCC vì lợi ích kinh tế, lợi dụng kẽ hở của chính sách, pháp luật về

đất đai đã tranh thủ trong thời gian đương chức cố tình vi phạm chính sách,

pháp luật để trục lợi. Bên cạnh đó, UBND các cấp chưa chăm lo nhiều đến

công tác tiếp dân, công tác hòa giải và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố

cáo về đất đai của công dân cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng không

nhỏ tới việc giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan QLNN.

1.3.3. Yếu tố văn hóa- xã hội

Tranh chấp đất đai bao giờ cũng diễn ra trong một không gian văn hóa,

xã hội nhất định. Mỗi dân tộc có một văn hóa riêng. Mỗi người có cách xử lý

khác nhau thì mỗi dân tộc cũng có cách khác nhau đối với bất kỳ vấn đề gì,

trong đó có tranh cấp. Tranh chấp đất đai mang bản chất văn hóa bởi nó là

bản chất của quá trình vận động và phát triển của xã hội, vừa có khía cạnh phi

văn hóa khi nó nảy sinh do những tình huống vượt ra ngoài quy luật vận động

tự nhiên, mà là những mâu thuẫn, xung khắc có tính chủ quan, nhằm thực

hiện những đòi hỏi, yêu sách không chính đáng về đất đai. Từ đó các chủ thể

quản lý đất đai khi giải quyết tranh chấp cần coi các giá trị văn hóa là những

truyền dẫn, kết nối giá trị chung của các bên tham gia tranh cấp đất đai. Có

thể nói văn hóa có một vai trò rất lớn trong quản lý giải tỏa tranh chấp đất đai.

Chẳng hạn, việc áp dụng hoà giải tranh chấp đất đai có sự khác biệt giữa khu

vực nông thôn, miền núi và thành thị.

- Ở nông thôn, miền núi các mối quan hệ gia đình, dòng họ, làng xóm

được người dân rất coi trọng, giữ gìn và bảo vệ. Khi giải quyết tranh chấp

phát sinh, người dân cũng thường hướng tới hoà giải để giữ gìn tình đoàn kết

xóm làng. Hơn nữa, các thiết chế đạo đức, văn hóa, phong tục, tập quán

truyền thống khi cơ quan QLNN áp dụng sẽ chi phối, ảnh hưởng mạnh mẽ

đến toàn bộ đời sống của người dân các khu vực nông thôn. như áp dụng các

29

tập quán, thiết chế đạo đức sẽ rất hiệu quả trong việc thuyết phục các bên.

- Ở khu vực đô thị, hoà giải cũng được dùng để giải quyết tranh chấp

đất đai ở cơ sở. Công việc này thường được thực hiện bởi một tổ hoà giải,

gồm có tổ trưởng dân phố, thành viên của các tổ chức quần chúng như Mặt

Trận Tổ Quốc, cán bộ Chi hội Phụ nữ, hội viên Chi hội Người cao tuổi, Hội

Cựu chiến binh. Tuy nhiên, tỷ lệ hoà giải thành công tuỳ thuộc vào từng loại

tranh chấp. Ví dụ, tranh chấp nhỏ về hàng rào, ngõ chung giữa các hộ gia đình

có tỷ lệ hoà giải thành công cao nhất do tính chất đơn giản và tài sản

tranh chấp không có giá trị lớn. Đối với những tranh chấp về quyền thừa kế

nhà đất, kết quả hoà giải phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Hoà giải thành công khi

các thành viên gia đình và những người thừa kế có tinh thần hợp tác và

nhường nhịn để đạt được giải pháp hợp lý. Hoà giải không thành công khi các

thành viên gia đình và những người thừa kế không có tinh thần hợp tác, bảo

thủ, hoặc do tài sản tranh chấp có giá trị quá lớn.

1.3.4. Yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam hiện đại của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của

Đảng, sẽ bảo đảm tính thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch trong QLNN

về đất đai, nhất là trong giải quyết những bất đồng, mâu thuẫn về đất đai. Vì

thế để giải quyết tốt các tranh chấp đất đai trong quan hệ QLNN thì việc đầu

tiên cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất đầy đủ và phù hợp

với quá trình phát triển đất nước. Bên cạnh đó, đội ngũ CBCC có đủ năng lực,

trình độ kỹ năng và luôn chấp hành, tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

Tuy nhiên do quá trình đổi mới có nhiều vấn đề này sinh như quan hệ

kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa được làm rõ, tính dân chủ trong

QLNN về đất đai chưa được thực thi một cách nghiêm túc, các chế độ chính

30

sách đối với CBCC chưa hoàn thiện dẫn tới việc giải quyết tranh chấp hành

chính về đất đai chưa tạo ra sự công minh, công bằng và đúng pháp luật khi

hệ thống pháp luật còn chống chéo mâu thuẫn v.v…

-Vì thế để giải quyết các tranh chấp đất đai nói chúng, tranh chấp hành

chính nói riêng, điều đầu tiên là chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện, thể chế hoá,

thực thi trên thực tế các thiết chế, đảm bảo thực hiện dân chủ hóa XHCN,

phát huy quyền làm chủ tập thể và quyền lực thuộc về nhân dân. Bên cạnh đó,

việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật và công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm

quyền con người, quyền công dân trong giải quyết tranh chấp đất đai cần tiến

khả năng tiếp cận công lý, công bằng, bình đẳng.

Đổi mới nội dung, phương thức, thể chế hoá sự lãnh đạo của Đảng đối

với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với các cơ quan nhà nước

trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy tốt vai trò của

Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội và người dân trong thực hiện giám sát,

phản biện xã hội, tham gia các nhiệm vụ quan trọng khác của đất nước.

Tiểu kết chƣơng 1

Như vậy thông qua việc nghiên cứu và tổng quan về tranh chấp đất đai

và giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính của UBND cho thấy:

Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung rất quan

trong trong pháp luật liên quan đến lĩnh vực đất đai. Qua tổng quan về tranh

chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai, luận văn đã làm rõ hơn cơ sở

pháp lý và cơ sở thực tiễn về giải quyết tranh chấp đất đai: Khái niệm, đặc

điểm, mục đích và ý nghĩa của việc GQ tranh chấp đất đai của UBND nói

chung, UBND cấp huyện nói riêng. Luận văn đã luận giải cụ thể về thẩm

quyền, đối tượng, phạm vi, nội dung và thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai

31

của UBND các cấp.

Luận văn cũng phân tích những điểm tích cực và hạn chế của các yếu

tố tác động tới hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai của UBND cũng như

cơ quan chuyên môn thuộc UBNDCC như yếu tố pháp luật, yếu tố bộ máy

QLNn về đất đai, năng lực của CBCC thực hiện tham mưu công tác giải quyết

tranh chấp đất đai, yếu tố văn hóa- truyền thống cũng như yêu cầu của việc

32

xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA

ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƢNG

2.1. Khái quát chung về Quận hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội

2.1.1. Điều kiện hành chính- dân cư của quận Hai Bà Trưng

Quận Hai Bà Trưng là một trong bốn quận cũ của thành phố Hà Nội,

nằm ở phía Đông Nam nội thành Hà Nội, phía Bắc giáp quận Hoàn Kiếm,

phía nam giáp quận Hoàng Mai, Phía đông giáp quận Long Biên với ranh giới

là sông Hồng, phía Tây giáp quận Đống Đa, phía tây nam giáp quận Thanh

Xuân dọc theo trục đường Lê Duẩn và đường Giải Phóng; Là địa bàn có vinh

dự được mang tên hai vị Nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm

của dân tộc là Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Tháng 6/1981, khu Hai Bà Trưng chính thức gọi là quận Hai Bà Trưng

gồm 22 phường: Đống Mác, Bạch Đằng, Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh Mai,

Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương Định, Đồng Tâm, Thanh Lương, Thanh Nhàn,

Cầu Dền, Bách Khoa, Giáp Bát, Tương Mai, Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Bùi

Thị Xuân, Phố Huế, Ngô Thì Nhậm, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân.

Ngày 2/6/1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 173-

HĐBT, thành lập phường Mai Động thuộc quận Hai Bà Trưng trên cơ sở điều

chỉnh diện tích và nhân khẩu của thôn Mai Động và xóm Mơ Táo của xã

Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì. Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà

Trưng có 23 phường.

Ngày 14/3/1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 42-

HĐBT, thành lập thêm phường Tân Mai trên cơ sở tách từ phường Giáp Bát.

33

Sau khi điều chỉnh, quận Hai Bà Trưng có 24 phường.

Tháng 10/1990, xã Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì được sáp

nhập vào quận Hai Bà Trưng và đổi thành phường Hoàng Văn Thụ.

Ngày 01/3/2020 thực hiện Nghị quyết số 895/NQ-UBTVQH14 về việc

sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, TP Hà Nội đã nhập toàn bộ 0,14km2

diện tích tự nhiên, 4.489 người của phường Bùi Thị Xuân và 0,01km2 diện

tích tự nhiên, 642 người của phường Ngô Thì Nhậm vào phường Nguyễn Du.

Sau khi nhập, phường Nguyễn Du có 0,52km2 diện tích tự nhiên và quy mô

dân số 11.399 người và nhập toàn bộ 0,18 km2 diện tích đất tự nhiên và 5.526

người của phường Ngô Thì Nhậm vào phường Phạm Đình Hổ. Sau khi nhập,

phường Phạm Đình Hổ có 0,48km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số

12.611 người.

Sau khi sắp xếp, quận Hai Bà Trưng còn 18 phường.

Quận Hai Bà Trưng hiện có diện tích tự nhiên là 10,25 km2, dân số 35

vạn người với mật độ dân số cao (hơn 34 nghìn người/km2). Quận gồm có 18

phường: Nguyễn Du, Lê Đại Hành, Phố Huế, Phạm Đình Hổ, Đồng Nhân,

Đống Mác, Bạch Đằng, Thanh Lương, Thanh Nhàn, Cầu Dền, Bách Khoa,

Quỳnh Lôi, Bạch Mai, Quỳnh Mai, Vĩnh Tuy, Minh Khai, Trương Định,

Đồng Tâm chia thành 02 khu vực có hạ tầng kỹ thuật, hoạt động kinh tế, đời

sống dân cư có sự cách biệt khá rõ, 08 phường phía Bắc có hạ tầng khá đồng

bộ, thuận tiện trong việc phát triển kinh tế và đời sống nhân dân tốt hơn (tập

trung dân cư là công chức, viên chức và tiểu thương). 10 phường còn lại nằm

ở phía nam đường Vành đai I là khu vực hạ tầng chưa phát triển đồng bộ, nơi

sinh sống tập trung của lực lượng công nhân, người lao động.

2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội của quận Hai Bà Trưng

Trong những năm gần đây, do tình hình kinh tế ở thành phố Hà Nội có

chuyển biến tích cực, tốc độ phát triển cao, đi cùng với đó là sự ra đời của các

34

khu đô thị lớn, chuyển dịch cơ cấu tăng lên rõ ràng, nhu cầu sử dụng đất của

người dân cũng tăng lên đặc biệt vài năm gần đây còn cho phép người nước

ngoài định cư tại Việt Nam nên việc sử dụng đất có nhiều thay đổi làm ảnh

hưởng đến tình hình quản lý đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai trên địa

bàn quận.

Trên địa bàn quận hiện có nhiều khu tập thể cũ, nơi sinh sống của phần

đông người lao động, công nhân trong các nhà máy công nghiệp trên địa bàn

quận trước đây. Quận cũng là nơi có nhiều trường Đại học (Bách Khoa, Xây

dựng, Kinh tế Quốc dân, Đại học Mở, Kinh doanh Công nghệ, Công nghiệp

Hà Nội, Đại học Phương Đông) với số lượng sinh viên rất lớn (hàng năm có

khoảng 135.600 sinh viên). Địa bàn quận cũng là nơi có nhiều cơ sở tôn giáo

(51 đình, đền, chùa đã xếp hạng) với 05 tôn giáo chính (Phật giáo, Công giáo,

Cao đài, Tin lành và đạo 32). Quận cũng được xác định là địa bàn trọng điểm

về an ninh chính trị: nhiều mục tiêu quan trọng trong công tác bảo vệ (nhà ở

đồng chí nguyên Tổng bí thư, trụ sở một số bộ ngành, tượng đài Bác Hồ và

Bác Tôn,…).Trên địa bàn quận còn có hơn 3.300 doanh nghiệp, trong đó 70%

là thương mại, dịch vụ, còn lại là hoạt động công nghiệp, có năm giá trị sản

xuất công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 14,5%; doanh thu thương mại, du

lịch, dịch vụ tăng hơn15%.

Hơn 5 năm qua quận đã hỗ trợ sửa chữa và xây dựng 167 nhà đại đoàn

kết, hỗ trợ cho 1.201 hộ gia đình thoát nghèo, trên 33.000 lao động được giới

thiệu việc làm. Đến nay, trên địa bàn quận không còn hộ nghèo, vượt chỉ tiêu

so với Thành phố giao.

Công tác y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình; công tác giáo dục đào tạo;

công tác thông tin tuyên truyền và tổ chức các hoạt động văn hóa nghệ thuật,

thể dục thể thao tiếp tục giữ vững và đạt kết quả tốt trong nhiều năm qua.

Bên cạnh những thuận lợi cho phát triển KT-XH do tính chất vị trí địa

35

lý cũng như các điều kiện về kinh tế xã hội nêu trên, quận Hai Bà Trưng cũng

có những khó khăn nhất định trong quá trình phát triển nói chung, quản lý đất

đai và giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng như: Công tác đo đạc, lập bản đồ

địa chính, lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thống

kê, kiểm kê đất đai và đặc biệt là công tác phối hợp giao đất, cho thuê đất, thu

hồi đất, thanh tra, kiểm tra đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai, đơn thư

khiếu nại, tố cáo vi phạm sử dụng đất chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc

và xử lý kịp thời.

Bên cạnh đó, do đặc điểm, cấu tạo của địa hình, địa chất nên hình thành

rất nhiều ô trũng cục bộ, thường bị úng lụt trong mùa mưa; Tình trạng ô

nhiễm môi trường nước mặt tại các sông hồ, ô nhiễm không khí tại các tuyến

giao thông lớn. Ở những vùng đất yếu, khi xây dựng cần có sự đầu tư lớn để

gia cố nền móng nên rất tốn kém,...đây là mặt hạn chế rất lớn của Quận dẫn

tới việc sử dụng đất và cấp GCN còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với các

công trình xây dựng của quận cũng như của người dân trên địa bàn

2.2. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai của Quận Hai Bà

Trƣng, những năm qua

2.2.1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng

từ 2013 đến tháng 06/2022

Thực tế tại quận Hai Bà trưng, qua số liệu tổng hợp được tại phòng Tài

nguyên và Môi trường quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn từ năm 2011 đến

tháng 6 năm 2022, tại địa bàn quận Hai Bà Trưng có tổng số 192 vụ việc

tranh chấp liên quan đến đất đai, quyền sở hữu về tài sản gắn liền với đất, cụ

36

thể như sau:

Bảng 1. Tình hình tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà trưng

STT Số vụ Năm

2017 1 11

2018 2 19

2019 3 12

2020 4 9

2021 5 7

6/2022 6 3

Tổng cộng 61

Nguồn:Báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Hai Bà Trưng

Như vậy, kể từ năm 2017 đến 6/2022 trên địa bàn quận Hai Bà trưng

xảy ra 61 vụ tranh chấp đất đai chủ yếu liên quan tới tranh chấp về quyền sở

hữu về tài sản gắn liền với đất;

Qua thống kê cho thấy tại địa bàn quận Hai Bà Trưng các vụ tranh chấp

đất đai có xu hướng giảm dần theo thời gian. Điều đó cho thấy, trải qua một

giai đoạn phát triển mạnh mẽ về đô thị tại quận, tình trạng mua bán chuyển

nhượng có phát sinh tranh chấp đã giảm do người dân đã dần nắm bắt được

các quy định trong lĩnh vực đất đai sâu hơn, tìm hiểu kỹ hơn khi thực hiện các

giao dịch, tính ổn định về nhà đất trên địa bàn các đô thị đã được tăng lên.

Các vụ tranh chấp đất đai trải đều trên địa bàn 18 phường, đối với các

phường phía Bắc có hạ tầng khá đồng bộ, thuận tiện trong việc phát triển kinh

tế thì việc tranh chấp đất đai chủ yếu phát sinh từ việc mua bán chuyển

nhượng, hoặc do thừa kế trong nội bộ gia đình. Nhà đất trên địa bàn các

phường này chủ yếu là nhà có gốc từ các thời kỳ trước như: Bằng khoán điền

37

thổ, các hợp đồng thuê nhà với nhà nước…

Qua số liệu từ năm 2017 đến tháng 6/2022 cho thấy phần lớn các vụ

việc liên quan đến tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đều

được các cá nhân, hộ gia đình cũng như tổ chức gửi đơn đề nghị đến các cơ

quan chức năng như UBND các phường, phòng Tài nguyên và Môi trường,

UBND quận hoặc văn phòng đăng ký đất đai và đề nghị không thực hiện các

quyền liên quan đến thửa đất đang có tranh chấp (các quyền liên quan như đề

nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản

gắn liền với đất, quyền mua bán, chuyển nhượng, quyền thế chấp, bảo lãnh

…). Đối với các trường hợp chưa được cấp giấy chứng nhận phát sinh tranh

chấp rất nhiều như trường hợp Báo Đầu tư online đã đưa cả 3 kỳ về Dự án

gây nhiều tranh cãi tại quận Hai Bà Trưng (Hà Nội ngày 13/08/2017 08:50):

“Biến tướng từ một chủ trương đúng” sau hơn 10 năm vẫn gây tranh cãi mà

chưa có hồi kết một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó, trong quá trình QLNN về

đất đai như việc kê khai đề nghị cấp giấy chứng nhận, do trong thời điểm

công khai tại UBND phường cũng như tại khu dân cư các hộ gia đình liền kề

hay thậm chí những người thân trong gia đình khi đó mới biết và nắm bắt việc

cấp giấy chứng nhận và gửi đơn thư khiếu kiện và đề nghị dừng việc cấp giấy

chứng nhận của các cơ quan có thẩm quyền, các bên sẽ thực hiện việc hòa

giải tại UBND phường và qua thống kê tại các phường cho thấy các bên sau

khi được Hội đồng hòa giải của phường mời ra hòa giải thì sẽ tự về để thương

lượng với nhau, rất ít trường hợp tiếp tục đề nghị giải quyết tiếp tại các cơ

quan có thẩm quyền tiếp theo là UBND quận theo thủ tục hành chính mà phần

lớn các bên chọn giải pháp đề nghị Tòa án cấp có thẩm quyền để giải quyết

tiếp vụ việc. Còn đối với các trường hợp đã có giấy chứng nhận thì các bên

tranh chấp nhau sẽ không thực hiện theo thủ tục hành chính mà khi đó thực

38

hiện việc khởi kiện ra Tòa án cấp có thẩm quyền để giải quyết theo quy định.

Trong các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai thì liên quan đến

tranh chấp lối đi chung, khu phụ trong cùng một biển số nhà, diện tích đất

giữa chủ cũ với chủ mới, ranh giới sử dụng đất, mặt tiền nhà trên địa bàn quận

là nhiều nhất, điều đó phản ánh đúng tính phức tạp về đất đai tại các đô thị

lớn, đặc biệt là tại thủ đô Hà Nội, trong đó quận Hai Bà Trưng là một trong

các quận lõi của thành phố. Nhà đất tại khu vực này luôn có giá trị cao dẫn tới

rất dễ phát sinh các tranh chấp về quyền sử dụng đất, đặc biệt là về ranh giới

sử dụng đất, các phần diện tích sử dụng chung tại các biển số nhà, sau một

thời gian dài sử dụng các hộ gia đình có xu hướng phát triển về số lượng

thành viên trong gia đình, nhu cầu mở rộng diện tích sử dụng đất tăng lên, các

hộ sẽ sử dụng các diện tích chung trong biển số nhà mà chưa có sự thống nhất

với nhau do đó số lượng tranh chấp đối với nội dung này là rất lớn.

2.2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai

Bà Trưng những năm qua

2.2.2.1.Tổ chức các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất

đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng

- Theo thẩm quyền pháp luật quy định, UBND quận Hai Bà Trưng gồm

có Chủ tịch, 01 phó Chủ tịch và 5 ủy viên.

Các cơ quan tham mưu giúp việc cho UBND gồm 12 đơn vị, bao gồm:

Thanh tra Quận; Phòng Văn hóa; Phòng Nội vụ; Phòng Tư pháp; Phòng LĐ

& TBXH; Phòng Tài chính; Phòng Kinh tế; Phòng Quản lý đô thị; Phòng

Giáo dục; Phòng Y Tế; Phòng Tài nguyên & Môi trường; Văn phòng HĐND

& UBND.

Theo đó, thẩm quyền quản lý nhà nước trong việc giải quyết tranh chấp

đất đai ngoài thẩm quyền chung do UBND đảm nhiệm thì có các cơ quan

39

tham mưu và giúp giải quyết các tranh chấp bao gồm:

- Văn phòng HĐND&UBND quận là cơ quan đầu mối về tiếp nhận và

xử lý đơn thư. Để thực hiện việc này, Văn phòng Ủy ban nhân dân quận có

Chánh Văn phòng phụ trách công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết

đơn thư và có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.

- Thanh tra quận là cơ quan thường trực cùng Văn phòng UBND quận

trong tiếp nhận, xử lý đơn thư và xác minh một số vụ việc tranh chấp đất đai

theo yêu cầu của Chủ tịch UBND quận. Để thực hiện việc này, Thanh tra

quận cũng có 01 Phó Chánh Thanh tra phụ trách công tác giải quyết tranh

chấp đất đai và có phòng Giải quyết tranh chấp đất đai.

- Phòng Tài nguyên và Môi trường quận là cơ quan thường trực xác minh,

tham mưu giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND

quận. Để thực hiện nhiệm vụ này, phòng Tài nguyên và Môi trường phân công

01 Phó phòng phụ trách về giải quyết đơn thư và giao nhiệm vụ xác minh, tham

mưu giải quyết đơn thư và báo cáo lại UBND quận xin ý kiến chỉ đạo.

- UBND 18 phường thuộc quận là những đơn vị hành chính quản lý nhà

nước tại địa phương sẽ tổng hợp và cung cấp các hồ sơ và biến động của các

thửa đất, của chủ sử dụng đất về tranh chấp đất đai.

Căn cứ thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, UBND Quận cũng

thực hiện tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua hệ thống loa truyền

thanh của các phường, lấy ngày thứ Năm hàng tuần là “Ngày pháp luật” để

tuyên truyền pháp luật nói chung cũng như pháp luật về tiếp công dân, giải

quyết khiếu nại, tranh chấp về đất đai. Ngoài ra, đã tổ chức 43 cuộc tuyên

truyền với 3.996 đối tượng là các hòa giải viên, tổ trưởng dân phố… Tăng

cường đối thoại với công dân để kịp thời hướng dẫn, giải thích những thắc

mắc về chính sách pháp luật khi tiếp công dân, đặc biệt khi triển khai các dự

40

án trên địa bàn.

Các tổ hòa giải ở trên địa bàn các phường cũng thường xuyên được

kiện toàn đảm bảo về số lượng và nâng cao về chất lượng. Công tác hòa giải ở

cơ sở được quan tâm chỉ đạo, thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực, góp

phần giải quyết kịp thời những mâu thuẫn phát sinh ngay tại cơ sở, hạn chế

phát sinh đơn thư khiếu kiện vượt cấp. Đáng chú ý, quận đã triển khai ứng

dụng công nghệ thông tin tới các phòng, ban, ngành và 20 phường đảm bảo

hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo được kịp thời. Hàng tháng, Ban tiếp công dân

quận tổng hợp tình hình, kết quả giải quyết đơn của các đơn vị, theo dõi đôn

đốc và báo cáo UBND quận chỉ đạo kịp thời đối với những vụ việc chưa có

kết quả.

Để đạt hiệu quả trong giải quyết các vụ việc, nhất là những vụ việc

phức tạp, nổi cộm trên địa bàn, quận Hai Bà Trưng đã chú trọng công tác phối

hợp giữa các phòng, ban, ngành và các phường. Kết quả, trong thời gian qua,

quận đã tiếp 3917 lượt công dân, trong đó: lãnh đạo Quận tiếp 232 lượt, Ban

tiếp công dân UBND quận tiếp 1.883 lượt; lãnh đạo UBND các phường tiếp

758 lượt; bộ phận tiếp công dân các phường tiếp 1.044 lượt. Kết quả giải

quyết đơn khiếu nại, tố cáo: cấp quận đã tiếp nhận, xử lý: 146 đơn khiếu nại,

đã giải quyết 146 đơn; Tiếp nhận, xử lý 46 đơn tố cáo, đã giải quyết 45 đơn, đang giải quyết 01 đơn5.

Các cơ quan tư pháp (Công an, Viện kiểm sát, Tòa án) cũng đã chủ

động xây dựng quy chế phối hợp hoạt động, duy trì lịch họp hàng tuần, hàng

tháng giữa lãnh đạo các cơ quan để cùng nhau thống nhất đường lối xử lý,

5 . Báo cáo 5 năm của UBND quận Hai Bà Trưng về giải quyết tranh chấp đất đai, Hà Nội 6/2022

41

giải quyết các vụ việc. tranh chấp.

2.2.2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai của Quận Hai BàTrưng

những năm qua

Bảng 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận HBT

SỐ VỤ/NĂM 19/2018 12/2019 14/2020 7/2021 6/2022

Hòa giải tại cơ sở 11 10 5 3 8

Giải quyết KN lần 1 4 2 2 2 2

Giải quyết KN lần 2 3 1 0 1 1

Số vụ khiếu kiện ra

Tòa HC quận và TP 2 1 0 0 1

Nguồn: Báo cáo 5 năm của UBND quận Hai Bà Trưng

Cụ thể năm 2018 tiếp nhận 19 vụ đơn thư liên quan đến giải quyết

tranh chấp đất đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 11 vụ chiếm 57%.

Giải quyết khiếu nại lần 1 được 4 vụ chiếm 21%, giải quyết khiếu nại lần 2

được 3 vụ chiếm 15%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố

là 2 vụ chiếm 10.5%. Năm 2019 tiếp nhận 12 vụ đơn thư đến giải quyết tranh

chấp đất đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 8 vụ chiếm 66.6%. Giải

quyết khiếu nại lần 1 được 2 vụ chiếm 16.6%, giải quyết khiếu nại lần 2 được

01 vụ chiếm 8.3%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố là 2

vụ chiếm 8.3%. Năm 2020 tiếp nhận 14 vụ đơn thư đến giải quyết tranh chấp

đất đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 10 vụ chiếm 71.4%. Giải quyết

khiếu nại lần 1 được 2 vụ chiếm 14.2%, giải quyết khiếu nại lần 2 được 01 vụ

chiếm 0.7%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố là 01 vụ

chiếm 0.7%. Năm 2021 tiếp nhận 7 vụ đơn thư đến giải quyết tranh chấp đất

đai trong đó hoà giải xong tại cơ sở được 5 vụ chiếm 71%. Giải quyết khiếu

nại lần 1 được 2 vụ chiếm 28.5%, giải quyết khiếu nại lần 2 có 0 vụ chiếm

0%. Số vụ khiến kiện ra toà hành chính quận là 0 vụ chiếm 0%. Sáu tháng đầu

42

năm 2021 tiếp nhận 6 vụ đơn thư đến giải quyết tranh chấp đất đai trong đó

hoà giải xong tại cơ sở được 3 vụ chiếm 50%. Giải quyết khiếu nại lần 1 được

2 vụ chiếm 33.3%, giải quyết khiếu nại lần 2 có 01 vụ chiếm 16.6%. Số vụ

khiến kiện ra toà hành chính quận và thành phố là 0 vụ chiếm 0%.

Về cơ bản, việc áp dụng các quy định về thẩm quyền khi giải quyết

tranh chấp đất đai, quận Hai Bà Trưng luôn tuân thủ đúng quy định của Luật

Đất đai 2013 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 và Nghị định 01/2017/NĐ-CP về

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết

thi hành một số điều của Luật Đất đai; sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định về bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 sửa đổi, bổ sung

một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật đất đai. Ngày 18/12/2020,

Chính phủ ban hành Nghị định số 148/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số

nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.

Tuy nhiên thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận

Hai Bà Trưng những năm qua vẫn diễn ra phức tạp, nhìn vào bảng số liệu ở

trên có thể thấy qua 5 năm gần đấy số vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai

chiếm số lượng lớn so với các vụ kiện khác. Số vụ không giảm là mấy so với

các năm, số vụ được hoà giải thành công tại cơ sở tăng hơn đó là nhờ vào

công tác hoà giải của cán bộ công chức và đội ngũ hoà giải tại cơ sở. Chỉ có

duy nhất năm 2021 là số vụ kiện liên quan đến tình hình tranh chấp đất đai là

ít nhất do tình hình dịch covid diễn biến phức tạp nên dẫn đến số vụ kiện

giảm rõ rệt. Sang đến năm 2022 chỉ riêng 6 tháng đầu năm số vụ kiện đã bằng

cả năm 2021, điều này cho thấy việc tranh chấp liên quan đến đất đai tại quận

Hai Bà Trưng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm do không được xử lý kịp

43

thời, đúng thời hạn dẫn đến bức xúc của người dân trong vấn đề đất đai dẫn

đến các vụ kiện giải quyết tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng. Đất đai là

vấn đề phức tạp, có liên quan chặt chẽ đến đời sống của người dân và có ảnh

hướng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Mặc dù có xu hướng giảm nhưng

đơn thư khiếu nại, tố cáo có liên quan đến đất đai vẫn chiếm tỉ lệ cao trong

tổng số các đơn thư khiếu nại, tố cáo (trên 60%). Các vụ hành chính liên quan

đến đất đai có xu hướng tăng liên tục từ mức chiếm 64,2% tổng số các vụ về

hành chính năm 2018 lên trên 80% 6 tháng đầu năm 2022. Các vụ việc liên

quan đến đất đai diễn ra rất đa dạng, động cơ, mục đích rất phức tạp. Có nhiều

vụ việc cho thấy tình trạng vi phạm pháp luật trong quản lý đất đai xảy ra phổ

biến trong các hoạt động chủ yếu như: Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục

đích sử dụng đất (không đúng mục đích, không qua đấu giá quyền sử dụng đất,

không theo quy hoạch đã được phê duyệt…). Thu hồi, giải phóng mặt bằng,

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (không bảo đảm quyền lợi của Nhà nước, người

sử dụng đất có đất bị thu hồi, nhà đầu tư; chậm chễ trong trả tiền đền bù…).

Quản lý đất đai trước và sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước (vi phạm

trong việc xác định giá trị đất đai trước khi cổ phần hoá; chuyển mục đích sử

dụng đất sau khi cổ phần hoá…). Cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất (không đúng trình tự thủ tục, không đúng thẩm quyền… Quản lý quy hoạch

và kế hoạch sử dụng đất (không tương thích với các quy hoạch khác; thường

xuyên bị điều chỉnh…). Nguyên nhân của tình trạng tranh chấp đất đai tại

UBND quận Hai Bà là do còn có những hạn chế, bất cập trong chính sách,

pháp luật về đất đai cũng như sự chồng chéo, chưa thống nhất trong một số quy

định giữa Luật Đất đai 2013 với các hướng dẫn thi hành luật và với một số luật

khác (Bộ luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở…).

Trong công tác thu hồi đất, GPMB để xây dựng các công trình trọng

điểm từ năm 2018 đến nay trên địa bàn quận Hai Bà Trưng được tổ chức thực

44

hiện theo đúng quy định của Thành phố và sự đồng thuận của nhân dân, nhiều

hộ gia đình đã tích cực, đồng tình ủng hộ nhận bồi thường và bàn giao mặt

bằng cho chủ đầu tư..... góp phần phát triển hạ tầng đô thị và kinh tế xã

hội của quận. UBND quận chỉ đạo thực hiện GPMB bằng công tác tuyên

truyền vận động người bị thu hồi đất bàn giao mặt bằng và thường xuyên đối

thoại lắng nghe nguyện vọng chính đáng của người dân; thực hiện bồi thường

hỗ trợ đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ, không gây sách nhiễu, xử lý kịp

thời khiếu nại tố cáo, không để phát sinh điểm nóng. Tuy nhiên trên thực tế

quá trình triển khai GPMB tại quận Hai Bà Trưng cũng còn không ít khó

khăn vướng mắc như cá nhân chưa đồng thuận cho tổ công tác GPMB vào đo

đạc kiểm đếm với lý do chưa đồng thuận giá bồi thường. Chưa được xác định

trong cơ chế chính sách hiện hành, như giá đất, quỹ nhà, chính sách tái định

cư dễ phát sinh khiếu kiện đông người, mất ổn định an ninh trật tự, đơn thư

vượt cấp tăng lên. Hiện nay cũng còn một số hộ dân chưa đồng tình trong đó

có 07 hộ của phường Đồng Tâm và vụ việc như Báo An Ninh Thủ Đô online

ngày 12/5/2022 đưa tin với tiêu đề: “Vì sao dân bị thu hồi đất hơn 9 năm vẫn

chưa hoàn thành chi trả bồi thường”. Tại ngách 259/9 phường Trương Định,

quận Hai Bà Trưng đã bị thu hồi trên 130m2 đất để thực hiện dự án thoát

nước cải tạo môi trường Hà Nội. Song đến nay đã gần 10 năm trôi qua, việc

bồi thường hỗ trợ đối với phần diện tích này vẫn chưa hoàn tất. UBND quận

Hai Bà Trưng tổ chức hội nghị đối thoại để lắng nghe ý kiến mà các hộ còn

vướng mắc và các đơn vị chức năng thuộc UBND quận đã tiếp thu và giải

trình, phân tích các quy định của pháp luật và luật đất đai; tất cả các ý kiến

của các hộ UBND quận đã tiếp thu chỉ đạo các cơ quan chức năng xem xét

giải quyết, đặc biệt là các khiếu nại đã giải quyết theo trình tự của Luật Khiếu

nại, các hộ không đồng tình với giải quyết khiếu nại lần 1 và tiếp tục khiếu

nại lần 2 thì UBND quận đã báo cáo Thanh tra Thành phố và đề xuất với các

45

sở, ngành, UBND Thành phố xem xét giải quyết. Một số ý kiến khác UBND

quận và các cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành xuống thực địa khảo sát thực

tế để giải quyết cho các hộ dân.

2.3. Đánh giá chung về hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai trên

địa bàn quận Hai Bà Trƣng, TP Hà Nội

2.3.1. Những kết quả đạt được

Theo báo cáo 5 năm của UBND quận Hai Bà Trưng 6 tháng đầu năm

2022 tuy các vụ kiện có tăng nhưng công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại

đơn thư của công dân có nhiều tiến bộ, đã hạn chế được tình trạng đơn thư

vượt cấp, tồn đọng kéo dài. Giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền bình quân

hàng năm đạt 93.1%. Từ năm 2018 đến 6 tháng đầu năm 2022 UBND quận

Hai Bà Trưng có 58 vụ kiện về giải quyết tranh chấp đất đai. UBND quận đã

giải quyết xong 54 vụ đạt 93.1%, giải quyết khiếu nại lần 1 là: 37 vụ đạt

68.5%, giải quyết khiếu nại lần 2 là: 6 vụ đạt 10.3%, không giải quyết được 4

vụ chiếm 0.68%.

Quận Hai Bà Trưng giải quyết tranh chấp đất đai thành công lớn nhờ

tạo được sự đồng thuận giữa các cấp chính quyền và người dân trên địa bàn

quận. Giải quyết tranh chấp đất đai ở quận Hai Bà Trưng rất nặng nề, phức

tạp, song nhờ bám sát chỉ đạo của TP, với nỗ lực vào cuộc của chính quyền từ

quận tới các phường, công tác giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn đã có

nhiều chuyển biến rõ nét, đạt kết quả đáng khích lệ. Được sự chỉ đạo sát sao

của Thành Phố và quận, sự vào cuộc tích cực của Ủy ban MTTQ, các đoàn

thể CT-XH, trong những năm qua, các vụ giải quyết tranh chấp đất đai trên

địa bàn đã được giải quyết triệt để. Cùng đó, đã triển khai giải quyết tranh

chấp nhiều dự án về đất đai, đang giải quyết tồn tại liên quan một số dự án.

UBND quận đang tiếp tục triển khai giải quyết các vụ tranh chấp đất đai tạo

46

thuận lợi cho người dân trong quyền lợi mà họ được hưởng

Để có được kết quả khả quan này, theo cán bộ những phường có các

tranh chấp đất đai thì quan trọng nhất chính nhờ những nỗ lực trong công tác

lãnh đạo, chỉ đạo của UBND quận về thực hiện giải quyết tranh chấp đất đai và

công tác tuyên truyền vận động hoà giải các hộ gia đình có tranh chấp. Cấp ủy,

chính quyền từ quận đến các phường đẩy mạnh lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt,

huy động sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, phát huy vai trò tiên

phong của cán bộ đảng viên, nhất là người đứng đầu trong giải quyết tranh

chấp đất đai; xử lý kịp thời khiếu nại tố cáo, không để phát sinh điểm nóng.

Thực tế cho thấy, cấp ủy, chính quyền nơi có dự án đã công bố rộng rãi

các quy hoạch (QH) sử dụng đất, phát triển KT-XH, QH chi tiết của dự án đã

được phê duyệt, đơn giá bồi thường hỗ trợ để Nhân dân thực hiện đúng quy

định. Đồng thời, thường xuyên đối thoại lắng nghe nguyện vọng chính đáng

của người dân; thực hiện bồi thường hỗ trợ đảm bảo quyền lợi chính đáng của

họ, không gây sách nhiễu. Chính quyền phường chú trọng phát huy vai trò

cán bộ cơ sở, đảng viên, người cao tuổi có uy tín ở khu dân cư để tuyên

truyền thuyết phục Nhân dân giải quyết thấu tình đạt lý. Chính nhờ kiên trì

của cả hệ thống, những vướng mắc của Nhân dân dần được tháo gỡ; các tổ

chức, cá nhân trên địa bàn chấp hành nghiêm pháp luật nên các tranh chấp đất

đai được giải quyết nhanh chóng và triệt để.

Nhìn chung UBND quận Hai Bà Trưng từ 2017 đến nay đã thực hiện

công tác quản lý, tiếp nhận và xử lý đơn thư về tranh chấp khiếu nại đất đai,

vì thế trên địa bàn quận trong những năm gần đây đã từng bước đi vào nề

nếp. Đất đai đã được quản lý chặt chẽ hơn, sử dụng về cơ bản đã theo quy

hoạch pháp luật. Việc quản lý tài chính về đất đai được quản lý một cách hợp

lý và nghiêm túc. Công tác quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ

của người sử dụng đất khá đầy đủ, kịp thời, tình trạng lấn chiếm đất công, sử

47

dụng sai mục đích đã được ngăn chặn. Tuy nhiên có xu hướng tăng nhưng

không đáng kể từ năm 2018 là 19 vụ sang năm 2019 giảm đi còn 12 vụ nhưng

sang năm 2020 lại tăng lên 14 vụ. Đến năm 2021 thì giảm rõ rệt xuống còn 7

vụ, điều này liên quan đến tình hình dịch covid nên số vụ tranh chấp đất đai

cũng giảm đáng kể trong năm này. Sang năm 2022 chỉ riêng 6 tháng đầu năm

số vụ tranh chấp đất đai đã tăng đáng kể so với năm 2021. Công tác tiếp nhận

và giải quyết đơn thư đã có những chuyển biến và đạt kết quả:

- Thứ nhất, về công tác tiếp nhận đơn khiếu kiện về tranh chấp đất đai

của công dân. Mặc dù việc triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt

bằng, tái định cư để thực hiện các dự án trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã

làm phát sinh nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Tuy nhiên,

nhờ sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, đến nay, công tác tiếp

công dân trên địa bàn quận đã thành nề nếp, công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Chủ tịch UBND quận Hai Bà

Trưng yêu cầu Trưởng các phòng, ban, ngành; Chủ tịch UBND 18 phường

quán triệt, thực hiện nghiêm túc trách nhiệm người đứng đầu trong việc tiếp

công dân, đối thoại trực tiếp với công dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị

của công dân theo các quy định: Quy định số 11-QĐ/TW, ngày 18/02/2019,

của Bộ Chính trị và Luật Tiếp công dân; Kế hoạch số 138-KH/TU ngày

07/5/2019 của Thành ủy; Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 24/4/2018, của Chủ

tịch UBND thành phố về nâng cao chất lượng công tác tiếp công dân đến kiến

nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo. Tăng cường đối thoại, tiếp công dân ngay

tại cơ sở, tập trung giải quyết dứt điểm, kịp thời các vụ việc khiếu nại, tố cáo

của công dân ngay từ khi mới phát sinh. Cùng với việc ban hành kịp thời các

văn bản chỉ đạo, trong những năm qua, quận Hai Bà Trưng đã tích cực tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật dưới nhiều hình thức như: In tờ gấp, phát

trên hệ thống loa truyền thanh, cổ động trực tiếp… Lấy ngày thứ Năm hàng

48

tuần là “Ngày pháp luật” để tuyên truyền pháp luật nói chung cũng như pháp

luật về tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo nói riêng. Từ đầu năm đến nay, đã tổ

chức 43 cuộc tuyên truyền với 3.996 đối tượng là các hòa giải viên, tổ trưởng

dân phố. Thông báo công khai việc chỉ đạo giải quyết đơn thư khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trên trang

cổng giao tiếp điện tử của quận để nhân dân biết, kiểm tra, giám sát. Cùng với

đó, tăng cường đối thoại với công dân để kịp thời hướng dẫn, giải thích những

thắc mắc về chính sách pháp luật khi tiếp công dân, đặc biệt khi triển khai các

dự án trên địa bàn. Kết quả, trong thời gian qua, quận đã tiếp 3917 lượt công

dân, trong đó: Lãnh đạo Quận tiếp 232 lượt, Ban tiếp công dân UBND quận

tiếp 1.883 lượt; lãnh đạo UBND các phường tiếp 758 lượt; bộ phận tiếp công

dân các phường tiếp 1.044 lượt. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo: Cấp

quận đã tiếp nhận, xử lý và giải quyết 146/146 đơn khiếu nại; Tiếp nhận, xử

lý và giải quyết 45/46 đơn tố cáo, hiện đang giải quyết 01 đơn. Công tác tiếp

dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp thuộc thẩm

quyền cũng được quan tâm, chỉ đạo giải quyết kịp thời, không để xảy ra tình

trạng đơn thư tồn đọng. Trong 5 năm qua (2018 - 6/2022), Tòa án nhân dân

quận đã tổ chức tiếp 136 lượt công dân; Viện kiểm sát nhân dân quận đã tổ

chức tiếp 674 lượt người; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền với

254 đơn; Công an quận đã tổ chức tiếp 104 lượt công dân; tiếp nhận 3.046

đơn thư, trong đó, đã giải quyết 13 đơn khiếu nại, 72 đơn tố cáo thuộc thẩm

quyền. Ở khối phường đã giao cho đồng chí cán bộ tư pháp kiêm nhiệm công

tác giải quyết tranh chấp đất đai, có sự hỗ trợ của UBND phường và các tổ

chức đoàn thể phường. Tất cả 100% các phường trong quận tuân thủ đúng

quy định về việc giải quyết tranh chấp đất đai do UBND thành phố Hà Nội

ban hành về tổ chức địa điểm, phân công ứng trực, phụ trách tiếp dân, ban

hành quy chế, lịch giải quyết tranh chấp đất đai đầy đủ. Ở khối các phòng,

49

ban trực thuộc UBND quận. Công tác giải quyết tranh chấp đất đai thời gian

qua đã có nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức và tổ chức thực hiện.

Cùng với việc thực hiện các quy định của UBND thành phố Hà Nội trong

công tác tổ chức và chỉ đạo quy trình giải quyết tranh chấp đất đai. UBND

quận Hai Bà Trưng luôn chú trọng thử nghiệm, áp dụng các biện pháp, cách

thức tiến hành để đảm bảo công tác giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý đơn

thư được chính xác, đạt hiệu quả.

- Thứ hai, về công tác hòa giải ở cơ sở được quan tâm chỉ đạo, thực

hiện đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần giải quyết kịp thời những mâu

thuẫn phát sinh ngay tại cơ sở, hạn chế phát sinh đơn thư khiếu kiện vượt cấp.

Đáng chú ý, quận đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin tới các phòng,

ban, ngành và 18 phường đảm bảo hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo được kịp

thời. Quận cũng chú trọng công tác phối hợp giữa các phòng, ban, ngành với

các phường để giải quyết hiệu quả các vụ việc phức tạp, nổi cộm trên địa bàn.

Quận Hai Bà Trưng hòa giải thành công hơn 88% vụ mâu thuẫn tranh chấp

đất đai từ cơ sở. Ngay sau khi Luật Hòa giải ở cơ sở có hiệu lực, tháng

4/2014, UBND quận đã ban hành Kế hoạch số 64 triển khai thực hiện Luật

trên địa bàn. Hoạt động hòa giải tại quận gần đây chuyển biến tích cực, trong

đó các tổ hòa giải thường xuyên được kiện toàn, chất lượng và số lượng hòa

giải viên được nâng lên. Hiện quận có tổng số 215 tổ hòa giải, với 1.172 hòa

giải viên, đều là những người có phẩm chất đạo đức tốt, kỹ năng giao tiếp và

uy tín tại khu dân cư, tổ dân phố. 6 tháng đầu năm 2022, tại quận phát sinh

112 vụ việc mâu thuẫn, trong đó đã hòa giải thành công 99 vụ việc, đạt

88,4%. Đối với các vụ tranh chấp đất đai các hòa giải viên đã kiên trì thuyết

phục để các bên có tranh chấp làm hòa với nhau và giải quyết mâu thuẫn một

cách nhẹ nhàng, hàn gắn tình cảm với nhau. Qua đó, giảm bớt các vụ việc

phải chuyển đến Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, tiết

50

kiệm được thời gian, kinh phí cho Nhà nước và Nhân dân, góp phần phát huy

sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa

phương. Để nâng cao vị trí, vai trò, hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở, Phó

Chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng đề nghị các đơn vị, các phường trên địa

bàn tới đây tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước về công tác hòa giải ở

cơ sở nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về công tác này trong đời

sống. Bên cạnh đó, các cấp, ngành trong quận cần quan tâm hơn tới việc đào

tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ hòa giải ở cơ sở đảm bảo đủ năng lực, phẩm

chất và lòng say mê nghề nghiệp, đáp ứng nhiệm vụ được giao.

- Thứ ba, công tác giải quyết tranh chấp đất đai, số vụ việc còn tồn

đọng chủ yếu là do những nguyên nhân khách quan bắt nguồn từ các quy định

pháp luật, chế độ quản lý và SDĐ đai khác nhau qua các thời kỳ và sự phối

hợp giải quyết từ phía các đương sự,… Kết quả giải quyết phần lớn các vụ

việc tranh chấp đất đai đều được giải quyết tương đối ổn thỏa, đạt được sự

đồng thuận, chấp hành từ các bên; hạn chế việc tiếp tục kiến nghị giải quyết

lên thành phố.

- Thứ tư, UBND quận là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai (với một

đội ngũ cán bộ địa chính nắm bắt tình hình quản lý và sử dụng đất một cách

chính xác và kịp thời), vừa là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp

đất đai, cho nên việc xác minh, thu thập chứng cứ cho vụ kiện sẽ nhanh chóng

hơn và sát thực hơn so với các khó khăn trong hòa giải tranh chấp đất tại các

phường, tại UBND các phường còn tồn tại việc lưu trữ hồ sơ tại cơ sở thường

không đầy đủ, việc thẩm định, đo vẽ tại phường chưa đủ chuyên môn nên khó

xem xét, nhận định chính xác, vì thế thực tế dẫn đến tình trạng tồn đọng hồ

sơ, chậm trễ giải quyết bức xúc của người dân dẫn đến việc hòa giải tại cấp cơ

sở chưa thực hiện được nhanh chóng, hiệu quả. Do đó trong khoảng thời gian

51

hơn 10 năm với gần các vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai thì phần lớn

các vụ việc đều được UBND các phường phối hợp với phòng Tài nguyên và

Môi trường quận để thu thập hồ sơ địa chính liên quan để phục vụ việc giải

quyết tranh chấp đất đai, trong việc hòa giải tại cơ sở.

2.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

- Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai trong thời gian qua tại quận

Hai Bà Trưng có những tồn tại và hạn chế nhất định như sau:

+ Vướng mắc trong việc phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp

đất đai giữa Tòa án và Ủy ban nhân dân. Khoản 1 Điều 136 Luật Đất đai năm

2003 quy định,Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về QSDĐ mà

đương sự có Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc có một trong các loại giấy tờ

quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản

gắn liền với đất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có trường hợp tranh chấp QSDĐ

nhưng Tòa án khi tiếp nhận vụ việc lại hướng dẫn cho công dân khiếu nại đối

với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp Giấy chứng

nhận QSDĐ hoặc trong việc ban hành các giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2

và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 (vụ việc tranh chấp dân sự chuyển

sang khiếu nại hành chính).Trong khi đó, cơ quan hành chính khi tiếp nhận vụ

việc lại cho rằng vụ việc về bản chất là tranh chấp dân sự và thuộc thẩm

quyền giải quyết của TAND. Như vậy, quy định của pháp luật về thẩm quyền

giải quyết tưởng rằng đã rõ ràng, nhưng trong thực tế áp dụng lại nảy sinh

nhiều bất cập, còn nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau của các cơ quan có

thẩm quyền khi tiếp nhận xử lý đơn. Từ đó công dân, tổ chức phải đi lại nhiều

lần và ít nhiều gây bức xúc. Vì vậy, thẩm quyền giải quyết các vụ việc tranh

chấp đất đai cần được quy định một cách rõ ràng hơn, để khi các cơ quan có

thẩm quyền giải quyết áp dụng không thể đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

+ Việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở có trường hợp UBND cấp

52

phường triệu tập nhiều lần nhưng người bị kiện cố tình không đến, cho nên

không thể tiến hành hòa giải được. Như vậy, theo quy định trước đây thì nếu

người bị kiện cố tình trốn tránh việc tham gia hòa giải thì tranh chấp sẽ kéo

dài thời gian hòa giải mà nếu chưa qua hòa giải được ở địa phương thì Tòa án

không thụ lý đơn khởi kiện. Tuy nhiên, hiện tại theo quy định của Luật Đất

đai năm 2013 sau thời gian 45 ngày hòa giải không thành hoặc không thể tiến

hành hòa giải được thì các bên tranh chấp đất đai có quyền yêu cầu cơ quan

nhà nước có thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai cho mình lập một Biên

bản hòa giải không thành để có thể tiến hành các bước tiếp theo, có thể tiếp

tục yêu cầu lên cấp trên hoặc khởi kiện tại Tòa án. Ngoài ra, theo quy định tại

khoản 3 Ðiều 202 Luật Ðất đai năm 2013 thì UBND cấp xã phải phối hợp với

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để

tiến hành hòa giải. Trong thực tế, do không nắm vững các quy định của pháp

luật cho nên nhiều trường hợp thành phần tham gia hòa giải ở cấp xã không

đúng. Chẳng hạn như không có sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc và các tổ

chức thành viên của mặt trận mà chỉ có thường trực UBND, cán bộ địa chính,

tư pháp và đại diện một số hội, đoàn thể ở xã mà quên mất thành phần cần có

là đại diện Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam. Các vụ hoà giải trên đây tuy

không đúng với quy định của Luật Đất đai, song, không có gì đáng nói, nếu

đã được hòa giải thành. Điều đáng nói là, khi các bên tranh chấp hòa giải

không thành đã tiến hành khởi kiện theo trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự,

do biên bản hòa giải không có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tham gia hòa giải (áp

dụng đối với một số trường hợp bắt buộc phải tiến hành hòa giải cơ sở) nên

Tòa án đã căn cứ điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm

2015 và được hướng dẫn chi tiết tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017/NQ-

HĐTP để trả lại đơn cho người khởi kiện vì chưa có đủ điều kiện khởi kiện

theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, còn nhiều trường hợp khác là

UBND phường tổ chức hòa giải nhưng không giao biên bản để người khởi

53

kiện nộp cho Tòa án, kéo dài nhiều tháng đến cả năm.

+ Căn cứ để giải quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên

không có giấy tờ về quyền sử dụng đất còn chưa phù hợp với thực tiễn và

thiếu tính khả thi. Điều 161 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004

của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003 đã quy định 6 căn cứ giải

quyết tranh chấp đất đai trong trường hợp các bên tranh chấp không có giấy tờ

về QSDĐ, bao gồm: (1) Chứng cứ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất do

các bên tranh chấp đưa ra; (2)Ý kiến của Hội đồng tư vấn giải quyết tranh

chấp đất đai do UBND xã, phường, thị trấn thành lập; (3) Thực tế diện tích

đất mà các bên tranh chấp và bình quân diện tích đất cho một nhân khẩu tại

địa phương;(4) Sự phù hợp với hiện trạng sử dụng đất đang có tranh chấp với

quy hoạch sử dụng đất chi tiết đó được xét duyệt; (5) Chính sách ưu đãi người

có công của Nhà nước; (6) Quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất.

Tuy nhiên, tranh chấp QSDĐ là một dạng tranh chấp đặc thù, liên quan đến

các chính sách, pháp luật theo từng giai đoạn khác nhau và tính chất, đặc

điểm của từng vụ việc, quan hệ tranh chấp đất đai tại các vùng, miền khác

nhau. Do đó, việc giải quyết tranh chấp về QSDĐ còn phải phù hợp với điều

kiện kinh tế, xã hội và phải bảo đảm tính khả thi trong thực tế. Qua thực tiễn

giải quyết các vụ việc tranh chấp về QSDĐ ở quận Hai Bà Trưng cho thấy,

các căn cứ giải quyết tranh chấp đất đai thứ 3, 4, 5 quy định tại Điều 161 Nghị

định số 181/2004/NĐ-CP không được áp dụng trong quá trình giải quyết, vì

nó không chứa đựng tính pháp lý rõ ràng và không đủ tính định lượng để phục

vụ cho việc xem xét, đánh giá khách quan, chính xác khi giải quyết các tranh

chấp về QSDĐ. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân,

nhưng luôn gắn liền với chủ thể quản lý, sử dụng nhất định và pháp luật bảo

đảmtôn trọng quá trình quản lý, sử dụng. Do đó, việc giải quyết các vụ việc

tranh chấp về quyền sử dụng đối với trường hợp không có giấy tờ về QSDĐ

cần quy định nguyên tắc chung là “bảo đảm tôn trọng hiện trạng, quá trình sử

54

dụng đất ổn định, lâu dài”.

+ Giữa Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, tố cáo và Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án hành chính còn có sự mâu thuẫn, làm hạn chế quyền khởi

kiện vụ án hành chính của tổ chức, cá nhân. Theo quy định tại Điều 46 Luật

Khiếu nại, tố cáo (Luật này được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua

ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006) thì cơ quan, tổ

chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hành chính trong hai trường hợp: (1)

kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định mà khiếu nại không

được giải quyết và (2) không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần 1

hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của cơ quan giải quyết khiếu nại.

Trong khi đó, điểm a khoản 2 Điều 138 Luật Đất đai năm 2003 lại có quy

định, quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh là quyết định cuối cùng, tức là sau khi có quyết định này thì cơ quan, tổ

chức, cá nhân không còn quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án để bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 cũng không quy định

cho Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết các vụ việc nêu trên. Vì vậy, mặc

dù trong quyết định giải quyết khiếu nại hành chính của cơ quan hành chính

nhà nước đều có ghi một nội dung là, nếu đương sự không đồng ý với quyết

định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án,

nhưng trên thực tế, khi cơ quan, tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện thì đều bị

Toà án từ chối, không thụ lý vụ việc để giải quyết. Tình trạng này đã không

bảo đảm quyền khởi kiện vụ án hành chính của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây

bức xúc trong dư luận xã hội, ảnh hưởng đến ổn định tình hình chính trị - xã

hội ở một số địa phương. Để khắc phục những vướng mắc, bất cập của pháp

luật nêu trên, vừa qua, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật tố

tụng hành chính, tại Điều 264 của Luật này đã sửa đổi Điều 136 và Điều 138

Luật Đất đai để bảo đảm tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật

55

trong hệ thống pháp luật.

UBND quận Hai Bà Trưng nói riêng và các cơ quan chuyên môn trên

địa bàn quận nói chung mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng nhìn chung đội

ngũ cán bộ nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực đất đai

còn rất hạn chế. Đội ngũ cán bộ công chức chủ yếu làm công tác chuyên môn

nghiệp vụ việc cụ thể, chưa tập trung tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút

thành lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Trình độ chuyên

môn, trách nhiệm công vụ của một số bộ phận cán bộ công chức của UBND

quận Hai Bà Trưng chưa cao. Một số cán bộ công chức còn thiếu kinh

nghiệm, chưa nắm vững được các quy định của pháp luật, thiếu kiến thức về

quản lý kinh tế, xã hội, lại còn chủ quan không thực hiện đầy đủ quy trình

nghiệp vụ nên chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Công tác tổ chức cán

bộ, trước hết là việc bố trí, điều động và sử dụng cán bộ của quận Hai Bà

Trưng có lúc chưa thật sự phù hợp với trình độ, năng lực cán bộ; một số chính

sách về lương, phụ cấp trách nhiệm của cán bộ công chức còn bất hợp lý

nhưng chậm được giải quyết phần nào ảnh hưởng đến tư tưởng, trách nhiệm

của cán bộ công chức trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Cơ sở vật chất, trang

thiết bị, phương tiện phục vụ yêu cầu công tác, nhất là trang bị công nghệ

thông tin của công chức các phường trên địa bàn quận Hai Bà Trưng đã được

tăng cường song nhiều nơi còn thiếu cả cán bộ vận hành và trang thiết bị máy

vi tính, chất lượng đường truyền, phần mềm ứng dụng chưa đáp ứng yêu cầu

của việc đổi mới quản lý, chỉ đạo, điều hành của UBND quận Hai Bà Trưng.

- Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế:

Một là do sự quản lý yếu kém kéo dài của cơ quan có thẩm quyền quản

lý nhà nước về đất đai được thể hiện trong việc việc lưu trữ, quản lý hồ sơ về

thửa đất không đầy đủ, tình trạng hồ sơ bị thất lạc, đứt đoạn thông tin là

không hiếm, không cập nhật được di biến động về thửa đất (do thực hiện các

56

giao dịch, chuyển từ đất tập đoàn, hợp tác xã sang cá nhân, hộ gia đình quản

lý vv…); thông tin trong hồ sơ về thửa đất thiếu, không chính xác (không

chính xác về kích thước, số đo, diện tích, hình thù thửa đất, trên đất có tài sản

như các công trình xây dựng, nhà ở không được thể hiện trong giấy chứng

nhận xuất phát từ quy định, cách làm không hợp lý của cơ quan quản lý về đất

đai tạo nên …); chậm hoàn thiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

cho người dân, doanh nghiệp; nhầm lẫn trong việc cấp giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất, không rõ ranh giới, chồng lấn khi giao dẫn đến tranh chấp; giấy

chứng nhận ghi cấp cho hộ gia đình nhưng chính cơ quan quản lý, cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất không biết những ai trong hộ có quyền đối với

diện tích đất này; nguồn gốc ban đầu là đất của thành viên trong hộ nhưng khi

cấp giấy chứng nhận thì trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi hộ gia

đình, song hồ sơ không thể hiện rõ việc chuyển từ đất của cá nhân thành đất

của “hộ gia đình”. Qua tìm hiểu tác giả nhận thấy có trường hợp đất của cá

nhân nhưng quá trình làm thủ tục cấp giấy cán bộ yêu cầu người xin cấp giấy

chứng nhận phải ghi cả vợ hoặc chồng thì mới làm thủ tục cấp giấy nên phản

ánh không đúng thực trạng …Bên cạnh đó việc cung cấp thông tin cho đương

sự, cơ quan giải quyết tranh chấp không hiếm trường hợp cung cấp không kịp

thời, thiếu chính xác. Khi hồ sơ về thửa đất không bảo đảm độ tin cậy, cơ

quan quản lý không cung cấp được những thông tin cần thiết cho việc giải

quyết tranh chấp hoặc cung cấp không chính xác là trở ngại rất lớn cho việc

giải quyết nhanh và chính xác các vụ tranh chấp về đất đai.

Hai là do chính sách pháp luật về đất đai thay đổi liên tục và nhanh

chóng trong một thời gian dài, nhưng mỗi lần thay đổi không có các quy định

của pháp luật minh định rõ các quan hệ đất đai hình thành trên thực tế trong

các thời đoạn đó, tạo ra những điểm mờ trong quan hệ về đất đai, phải nghiên

cứu, xem xét nhiều quy định trong đó có cả loại văn bản thuộc về chính sách

57

đất đai (trong mỗi thời kỳ) khi giải quyết một vụ tranh chấp. Từ chỗ đất đai

không được coi là tài sản, không được công nhận là di sản thừa kế nên người

có quyền sử dụng đất không được để thừa kế quyền sử dụng đất cho người

khác, quyền sử dụng đất không phải là đối tượng của giao dịch dân sự (Điều 5

Luật đất đai năm 1987) dù thực tế người dân vẫn giao dịch. Từ quy định của

Luật đất đai năm 1987 diện tích đất mà người có quyền sử dụng hợp pháp đã

quản lý, khai thác trong nhiều năm, nhưng khi chủ thể này chết thì quyền sử

dụng đất đó không được xử lý theo pháp luật thừa kế tài sản mà xử lý theo

chính sách, pháp luật về đất đai do cơ quan quản lý đất đai thực hiện, và từng

nơi xử lý vấn đề này rất khác nhau. Khi Luật đất đai năm 1993, Bộ luật dân sự

năm 1995 được Quốc hội thông qua dù đã có nhiều cởi mở, đã công nhận

quyền sử dụng đất là di sản. Tuy nhiên, quy định về thừa kế quyền sử dụng

đất là di sản trong Bộ luật dân sự năm 1995 chủ yếu mang tính nguyên tắc

nhiều hơn, còn trong thực tế rất nhiều diện tích đất thuộc quyền sử dụng đất

do người chết để lại không trở thành di sản. Sở dĩ như vậy một phần xuất phát

từ quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất được quy

định trong Luật đất đai năm 1993. Theo khoản 3 điều 38 Luật đất đai năm

1993 thì chỉ “các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã

có giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp và tài

sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do tòa án giải quyết”. Từ quy định tại

Điều 38 Luật đất đai năm 1993 trên thực tế chỉ có một phần quyền sử dụng

đất do người chết để lại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án mới được coi

là di sản và chia thừa kế nếu có tranh chấp, còn phần diện tích thuộc thẩm

quyền của Ủy ban nhân dân không được xử lý theo luật thừa kế mà theo chính

sách đất đai. Mặt khác, những quy định về chủ thể, điều kiện để được hưởng

thừa kế quyền sử dụng đất mà Bộ luật dân sự năm 1995 quy định đã tạo ra rào

cản để phần lớn quyền sử dụng đất không trở thành di sản chia theo luật thừa

58

kế. Ví dụ nếu là đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm của hộ gia đình,

trong hộ gia đình có thành viên chết thì phần đất của họ không chia thừa kế

mà thành viên khác trong hộ được sử dụng, nếu trong hộ gia đình không còn

thành viên nào thì Nhà nước thu hồi đất đó (Điều 744). Đối với những loại đất

khác, chủ thể khác có quyền sử dụng đất thì quyền sử dụng đất có thể được

coi là di sản nhưng thực tế việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất, hưởng thừa

kế quyền sử dụng đất phải đáp ứng những điều kiện nhất định (được thể hiện

tại các Điều 739, Điều 740, Điều 741, Điều 742, Điều 743 Bộ luật dân sự năm

1995) nếu không thỏa mãn điều kiện do Bộ luật quy định cũng không được

hưởng thừa kế quyền sử dụng đất. Đến khi Bộ luật dân sự năm 2005 được

quốc hội thông qua đã bỏ các quy định về điều kiện hưởng di sản thừa kế là

quyền sử dụng đất, nhưng theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 của Luật

đất đai năm 2003 thì dù đã mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

cho tòa án, song vẫn có một tỷ lệ quyền sử dụng đất không thuộc thẩm quyền

giải quyết của tòa án (đó là loại đất mà người sử dụng đất mới đứng tên trong

sổ mục kê, sổ dã ngoại…), điều đó cũng đồng nghĩa với việc quyền sử dụng

đất của người chết để lại không được phân chia theo luật thừa kế. Sự bất hợp

lý này làm xuất hiện những quan điểm khác nhau về thời điểm tính thời hiệu

khởi kiện về thừa kế quyền sử dụng đất, dẫn đến việc giải quyết tranh chấp

thừa kế quyền sử dụng đất gặp khó khăn, thiếu thống nhất đã được tác giả

trình bày trong bài “Thời hiệu khởi kiện vụ án thừa kế và thời điểm tính thời

hiệu thừa kế quyền sử dụng đất” trang 256 cuốn “Thời hiệu, thừa kế và thực

tiễn xét xử” do Nhà xuất bản tư pháp ấn hành năm 2017.

Ba là từ thời điểm mở thừa kế đến khi có tranh chấp, khởi kiện yêu cầu

chia di sản thừa kế thường có khoảng thời gian khá dài. Trước khi Bộ luật dân

sự năm 2015 được thông qua thì thời hiệu thừa kế chỉ mười năm nhưng trên

thực tế tòa án phải thụ lý giải quyết các tranh chấp thừa kế mà tính từ thời

59

điểm mở thừa kế đến khi các bên tranh chấp khởi kiện ra tòa án cũng đã vài

chục năm, do xuất hiện những sự kiện mà thời gian không tính vào thời hiệu

khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện… Ví dụ quy định tại khoản 4 Điều

36 Pháp lệnh thừa kế, Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20 tháng 8

năm 1998 và Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27 tháng 7 năm

2006 của Ủy ban thường vụ quốc hội, vv…Hiện nay theo quy định tại Điều

623 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa

kế là bất động sản có thời hạn là 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Thực tế

ở quận Hai Bà Trưng đã xuất hiện những trường hợp tính từ thời điểm mở

thừa kế đến khi khởi kiện ra tòa án đã 50 hoặc 60 năm và đặc biệt là quy định

tại khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 04/2017/NQ-H ĐTP ngày 05 tháng 5 năm

2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì những trường hợp

khi Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 còn hiệu lực tòa án đã

đình chỉ giải quyết với lý do hết thời hiệu khởi kiện, nay các thừa kế được

quyền khởi kiện lại. Những trường hợp mà thời điểm mở thừa kế đã quá lâu

theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 do hết

thời hiệu khởi kiện nên người dân không khởi kiện hoặc có trường hợp khởi

kiện Tòa án căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân

sự trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện hoặc tòa án đã đình chỉ giải quyết

theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Sau khi tòa án trả lại đơn khởi kiện hoặc

đình chỉ giải quyết thì khối di sản thừa kế là nhà đất đất đã có nhiều biến động

như có trường hợp cơ quan quản lý về đất đai đã cấp giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất cho một hay một vài thừa kế đang quản lý di sản, hoặc đã cấp

toàn bộ hay một phần đất cho một chủ thể không phải là người thừa kế, hay

thừa kế đang quản lý khối di sản là quyền sử dụng đất đã phân chia đất cho

con, cháu và thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất di sản. Có

60

trường hợp việc chuyển nhượng không chỉ qua một chủ mà đã qua nhiều chủ,

các bên đã được hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì

xác định tích chất của các quan hệ đó như thế nào vv …Việc thu thập tài liệu,

chứng cứ để giải quyết là vô cùng khó khăn với tất cả các bên tham gia tố

tụng; việc áp dụng pháp luật, lựa chọn đường lối giải quyết thế nào cho hợp lý

là vô cùng nan giải.

Mặt khác, khi Luật đất đai năm 2013 được thông qua tại Điều 202 đã

quy định về hòa giải tranh chấp đất đai là: “ Nhà nước khuyến khích các bên

tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa

giải ở cơ sở. Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường

trình Ủy ban nhân dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới

thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở

và tài sản khác gắn liền với đất.” Với các quy định tại điều 202 Luật đất đai

năm 2013 thì khi có tranh chấp bắt buộc phải trải qua hai cơ quan có thẩm

quyền giải quyết, cơ quan thứ nhất làm nhiệm vụ hòa giải, nếu hòa giải không

thành, không hòa giải được… thì mới được yêu cầu cơ quan thứ hai là Tòa

dân sự giải quyết. Những tầng nấc này làm cho vụ kiện kéo dài một bước,

nhưng nó chỉ làm chậm việc kết thúc giải quyết vụ tranh chấp về đất đai, chứ

không có vấn đề về pháp lý. Tuy nhiên, khi Điều 203 Luật đất đai năm 2013

quy định loại đất tranh chấp mà các bên chưa có bất cứ loại giấy tờ gì cũng

thuộc thẩm quyền tòa dân sự, là trao vượt quá thẩm quyền cho tòa dân sự

trong việc giải quyết tranh chấp đối với loại đất này (từ chỗ chỉ có quyền xác

định ai vốn có quyền dân sự đang bị người khác tranh chấp nay có thêm

quyền xác định ai được quyền sử dụng đất chưa có căn cứ pháp luật chưa

được công nhận về pháp lý, vì loại đất này vốn đang được xác định là “đất

công”), sẽ là một phức tạp rất lớn, xác xuất sai sót khi tòa án giải quyết tranh

chấp sẽ cao hơn. Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật thì chỉ những tài sản đã

61

thuộc quyền sở hữu hợp pháp của một chủ thể, nay có chủ thể khác xâm

phạm, tranh chấp thì Tòa dân sự căn cứ vào tài liệu chứng cứ để xác định thực

chất tài sản đó là của chủ thể nào thì công nhận cho chủ thể đó, buộc bên đang

chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho bên có quyền, chứ Tòa dân sự

không có quyền ban phát quyền, lợi ích cho bất kỳ bên nào. Với những phức

tạp nói trên tỷ lệ phạm sai lầm, thiếu sót sẽ tỷ lệ thuận với những khó khăn,

vướng mắc mà cơ quan giải quyết tranh chấp gặp phải trong vụ án, là những

nguyên nhân dẫn đến vụ án bị sửa, hủy giải quyết lại nhiều lần, nguy cơ trải

qua cả chục năm thậm chí lâu hơn mới kết thúc được vụ án là điều hoàn toàn

tiên liệu được.

Tiểu kết Chƣơng 2

Thông qua chương hai, Luận văn đã làm rõ thực trạng các tranh chấp

đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng và cũng tổng hợp, phân tích và đánh

giá một cách trung thực về thực trạng giải quyết các tranh chấp đất đai của

UBND quận Hai Bà Trưng và cơ quan chuyên môn trong những năm qua.

Các tranh chấp diễn ra trong giai đoạn này đã thể hiện phần nào sự phát

triển của quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2022. Các

giao dịch liên quan đến nhà đất diễn ra rất sôi động, nhu cầu về việc cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với

đất là rất lớn, từ đó dẫn đến các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện

các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Từ thực tế đó, các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền tại địa phương từ phường tới quận rồi các cơ quan liên

quan như Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền đã phải tham gia vào việc giải

quyết các tranh chấp trên. Trên cơ sở những luận giải trên chương 2 cũng đã

đánh giá được những kết quả đạt được cũng như những hạn chế còn vướng

mắc trong việc giải quyết tranh chấp đất đai để từ đó làm cơ sở xác lập những

62

giải pháp hoàn thiện việc giải quyết tranh chấp đất đai tại chương 3.

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN GIẢI

QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN QUẬN

HAI BÀ TRƢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp

đất đai nói chung, quận Hai Bà Trƣng nói riêng

3.1.1. Quán triệt và thể chế hóa đường lối chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước về công tác giải quyết tranh chấp đất đai

- Quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách

pháp luật của Đảng và nhà nước về công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải

quyết khiếu nại tranh chấp đất đai. Cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của

công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai.

Làm tốt công tác này là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tạo

điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; củng cố lòng tin

của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; góp phần nâng cao chất lượng công tác

xây dựng, chỉnh đốn đảng và hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng,

giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để

phát triển đất nước. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc

và các tổ chức nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công

tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai; phải

xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên. Đẩy mạnh công

tác kiểm tra, giám sát; khắc phục kịp thời sơ hở, yếu kém trong xây dựng

chính sách, pháp luật, công tác quản lý nhà nước. Tăng cường sự phối hợp

giữa các cơ quan, tổ chức, nhất là giữa các cơ quan chức năng trong công tác

giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai; thực

hiện đồng bộ các giải pháp để giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo đông

63

người, phức tạp, kéo dài, vượt cấp.

- Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của

người dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên, đầu tư, tài chính..., bảo

đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải

quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai theo hướng

nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của Quốc hội, đại

biểu Quốc hội, của hội đồng nhân dân, đại biểu hội đồng nhân dân trong việc

thực hiện chức năng giám sát; của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền

giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai. Quy định rõ trách nhiệm, chế tài xử lý

vi phạm trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại

tranh chấp đất đai. Có quy chế đối thoại với công dân, công khai kết quả giải

quyết khiếu nại tranh chấp đất đai.

- Phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ

quan nhà nước; lấy hiệu quả của công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại

tranh chấp đất đai làm tiêu chí đánh giá năng lực, kết quả công tác. Người

đứng đầu tổ chức đảng, chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng các cơ

quan, đơn vị phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về tình hình

khiếu nại tranh chấp đất đai và công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải

quyết khiếu nại tranh chấp đất đai trong phạm vi địa bàn, lĩnh vực phụ trách.

Thực hiện nghiêm chế độ giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của Luật

Giải quyết tranh chấp đất đai, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với xử lý,

giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai kiến nghị, phản ánh. Chú trọng giải

quyết tranh chấp đất đai tại cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của người

dân. Chủ động đối thoại, vận động, thuyết phục công dân để giải quyết, tháo

gỡ triệt để khiếu kiện, bức xúc của nhân dân.

Khi phát sinh khiếu nại tranh chấp đất đai đông người, phức tạp, người

đứng đầu tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức phải trực tiếp chỉ đạo

64

làm rõ nội dung, nguyên nhân, xem xét toàn diện các khía cạnh pháp lý và

thực tiễn; tổ chức đối thoại công khai với người khiếu kiện để giải quyết sát

thực tế sự việc, thấu tình, đạt lý. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật

của tổ chức, cá nhân trong giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại

tranh chấp đất đai và tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, quyền khiếu nại tranh

chấp đất đai để cố ý vi phạm pháp luật. Người đứng đầu cơ quan có thẩm

quyền trực tiếp giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai có trách nhiệm ban

hành quyết định xử lý khiếu nại tranh chấp đất đai bảo đảm chính xác, khách

quan, kịp thời, đúng pháp luật; đồng thời phải chỉ đạo thi hành nghiêm quyết

định xử lý.

- Các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tòa án, công an nâng cao

trách nhiệm trong việc chủ trì, phối hợp xử lý theo thẩm quyền, giải quyết dứt

điểm những vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài. Khắc phục tình trạng

chuyển đơn lòng vòng không rõ trách nhiệm.

- Phát huy vai trò giám sát tại cộng đồng; tăng cường giám sát việc thực

hiện kiến nghị sau giám sát. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần

làm tốt vai trò đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, đoàn viên, kiến

nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi có

tranh chấp. Giải thích, thuyết phục công dân chấp hành các quyết định giải

quyết khiếu nại và kết luận, quyết định xử lý đã được xác định là đúng chính

sách, pháp luật. Đẩy mạnh công tác hòa giải, đối thoại, vận động, thuyết phục

công dân chấm dứt khiếu nại, tố cáo không đúng, giảm thiểu các tranh chấp,

khiếu nại, tố cáo từ cơ sở.

- Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và tham

mưu giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai có phẩm chất đạo đức tốt, tinh

thông nghiệp vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công dân

hiểu và chấp hành đúng pháp luật. Bố trí trụ sở, trang bị phương tiện và đẩy

65

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác giải quyết tranh chấp

đất đai, bảo đảm thuận lợi cho công dân và cán bộ, công chức giải quyết tranh

chấp đất đai.

- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc

cung cấp thông tin, bảo đảm chính xác, kịp thời, trung thực, khách quan; khi

có sai sót phải kịp thời cải chính, góp phần định hướng dư luận xã hội và hỗ

trợ công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

3.1.2. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nói chung, quận Hai

Bà Trưng nói riêng nhằm bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công

dân góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Giải quyết tranh chấp đất đai là công tác quan trọng trong các hoạt

động của Đảng và Nhà nước. Thông qua việc giải quyết tranh chấp đất đai,

Nhà nước tiếp nhận được các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân

dân liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật

để có các biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời. Khi thực hiện nhiệm vụ giải

quyết tranh chấp đất đai, cơ quan giải quyết tranh chấp đất đai, cán bộ giải

quyết tranh chấp đất đai thay mặt cơ quan Nhà nước lắng nghe tiếng nói của

nhân dân. Thái độ của cán bộ giải quyết tranh chấp đất đai, của cơ quan giải

quyết tranh chấp đất đai được người dân xem như thái độ của Đảng và Nhà

nước đối với yêu cầu của nhân dân. Làm tốt công tác giải quyết tranh chấp đất

đai sẽ góp phần phát huy bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì dân của

Nhà nước ta, củng cố thêm mối quan hệ chặt chẽ, bền vững giữa nhân dân với

Đảng và Nhà nước. Mặt khác, thông qua công tác giải quyết tranh chấp đất

đai giúp cho Đảng và Nhà nước luôn tiếp nhận được những thông tin phản hồi

từ thực tế, những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống từ đó đề ra những chủ trương,

quyết sách đúng đắn, hợp lòng dân. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của

công tác này, thời gian quan Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị

66

quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và tổ chức

thực hiện đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc bảo đảm nhân quyền và

pháp quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tiếp

tục được khắc phục, những công việc tiếp tục được triển khai để những văn

bản trên của Đảng và Nhà nước thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả và đi vào

cuộc sống. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về giải quyết

tranh chấp đất đai nói riêng ở Việt Nam, đồng thời khẳng định một bước phát

triển mới, quan trọng về cơ chế pháp lý trong việc bảo đảm quyền con người,

quyền công dân ở nước ta, cụ thể như sau:

-Thứ nhất, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Ðảng,

cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân và bảo đảm quyền con người,

quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Ðây là chủ trương lớn, xuyên suốt trong

nhiều nghị quyết về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành

chính, cải cách tư pháp, được thể hiện qua các bản Hiến pháp từ trước tới nay.

Tiếp tục nhất quán về chủ trương này, Hiến pháp 2013 đã mở ra không gian

rộng lớn nhằm phát huy dân chủ, ghi nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền

con người, quyền công dân và đòi hỏi phải được quy phạm hóa bằng những

quy định của các đạo luật. Luật đất đai 2013 là một trong rất ít các đạo luật đã

kịp thời cụ thể hóa sâu sắc nội dung bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, thể hiện qua tinh thần và toàn bộ nội dung của Luật. Ngay từ việc

đưa ra khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai là việc cơ quan, tổ chức, đơn

vị, cá nhân có trách nhiệm đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo,

kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc

thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp

luật. Giải quyết tranh chấp đất đai phải tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho

công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định

67

của pháp luật. Khi quy định về các quyền của người khiếu nại, tố cáo, kiến

nghị, phản ánh tại Khoản 1 Điều 7, Luật cũng quy định rõ người dân có quyền

được trình bày, được hướng dẫn, được thông báo, được có phiên dịch... Bên

cạnh những quy định liên quan đến khiếu nại, tố cáo mà chúng tôi sẽ đề cập

trong phần tiếp theo, Khoản 2 Điều 2 của Luật đã giải thích rõ phạm vi và nội

dung của kiến nghị, phản ánh, đó là việc “công dân cung cấp thông tin, trình

bày ý kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá

nhân có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ trương,

đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống

xã hội thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó”. Đây là sự

thể hiện sinh động nhất việc hiện thực hóa tư tưởng của Bác, quan điểm của

Đảng về vai trò của nhân dân trong công tác quản lý và thực tiễn cuộc sống xã

hội, đó là phương châm “lấy dân làm gốc”, “dân biết, dân làm, dân kiểm

tra”... Những quy định trên của Luật cũng là biểu hiện rõ nét nhất, minh

chứng cho bản chất dân chủ của Nhà nước ta; là một bước cụ thể hóa chế định

về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp, là cơ sở pháp lý quan

trọng và trực tiếp về quyền tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước

và địa phương, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội của nhân dân.

-Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm quyền khiếu

nại, tố cáo của người dân được thực hiện có hiệu quả trên thực tế, thể hiện qua

các khía cạnh sau đây:

+ Phải thấy rằng giữa công tác giải quyết tranh chấp đất đai và giải

quyết khiếu nại, tố cáo có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Do đó,

giải quyết tranh chấp đất đai quy định quyền được trình bày khiếu nại, tố cáo

của người dân khi đến nơi giải quyết tranh chấp đất đai. Đây được coi là một

hình thức, một nguồn tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của nhân dân, qua đó đảm

bảo thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được Hiến pháp

68

quy định; thông qua giải quyết tranh chấp đất đai sẽ giúp công tác giải quyết

khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, đơn vị được tiến hành một cách có trật tự

và hiệu quả.

+ Luật đất đai quy định quyền của người dân tại nơi giải quyết tranh

chấp đất đai được hướng dẫn, giải thích về nội dung khiếu nại, tố cáo. Nội

dung này thể hiện rõ yêu cầu mang tính bắt buộc đặt ra đối với các cơ quan

Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước trong quan hệ với nhân dân đó là phải

luôn luôn tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với

nhân dân và lắng nghe ý kiến của nhân dân. Đồng thời điều này cũng là để

khắc phục những hạn chế bất cập trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo

của công dân, qua đó, tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức pháp luật nói

chung, pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng đối với quần chúng nhân dân.

+ Giải quyết tranh chấp đất đai là một thủ tục trong công tác giải quyết

khiếu nại, tố cáo: Giải quyết tranh chấp đất đai là một thủ tục không thể thiếu

được của quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo và là một trong những con

đường thiết thực để thực hiện, bảo đảm quyền dân chủ và bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình giải quyết một vụ việc khiếu nại,

tố cáo, việc giải quyết tranh chấp đất đai xuất hiện không chỉ một lần, ở một

thời điểm mà có thể xuất hiện ở nhiều lần và ở nhiều thời điểm khác nhau.

Trước hết, việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện ngay từ thời điểm

ban đầu khi giải quyết vụ việc. Lúc này việc giải quyết tranh chấp đất đai của

cơ quan có thẩm quyền giải quyết lần đầu nhằm có thể tiếp nhận thông tin để

tự điều chỉnh quyết định hành vi của mình. Giải quyết tranh chấp đất đai của

cơ quan có thẩm quyền giải quyết ở những lần tiếp theo, để xem xét giải

quyết vụ việc theo thẩm quyền hoặc đôn đốc kiểm tra quá trình giải quyết vụ

việc (thi hành quyết định có hiệu lực, giám sát kiểm tra…). Đồng thời, giải

quyết tranh chấp đất đai được thực hiện trong quá trình xem xét thẩm tra, xác

69

minh giải quyết vụ việc. Quá trình giải quyết vụ việc, việc cơ quan có thẩm

quyền, thông qua giải quyết tranh chấp đất đai nhằm thu thập thông tin, thẩm

tra xác minh những thông tin đã thu nhận được và hướng dẫn công dân thực

hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình trong khuôn khổ pháp luật quy định.

+ Luật đất đai điều chỉnh toàn diện, thống nhất và quy định rõ trách

nhiệm giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan, tổ chức, cá nhân, hướng tới

việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Luật đất đai là luật có giá trị

pháp lý cao nhất về lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai, quy định bao quát

về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc giải quyết tranh

chấp đất đai. Luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp đất đai của tất cả

các cơ quan, tổ chức trong cả hệ thống chính trị nhằm đảm bảo tính

thống nhất và nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về việc giải

quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ

thống chính trị phải có trách nhiệm giải quyết tranh chấp đất đai, bao

gồm các cơ quan của Đảng, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội

đồng nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán

Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; đặc biệt là trách nhiệm giải quyết tranh

chấp đất đai của các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan hành chính

nhà nước, bao gồm: Chính phủ; Bộ, cơ quan ngang bộ; tổng cục và tổ chức

tương đương; cục; Ủy ban nhân dân các cấp; cơ quan chuyên môn thuộc Ủy

ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan chuyên môn

thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

+ Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác giải quyết

tranh chấp đất đai, tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền khiếu

nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trên thực tế, ở một số nơi, người đứng đầu

cơ quan chưa thực sự quan tâm đến công tác giải quyết tranh chấp đất đai,

chưa nghiêm túc thực hiện nhiệm vụ trực tiếp giải quyết tranh chấp đất đai

70

theo quy định. Nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong

công tác giải quyết tranh chấp đất đai cũng như phân biệt giữa trách nhiệm

của người đứng đầu với trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc giải

quyết tranh chấp đất đai, bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ việc giải quyết tranh

chấp đất đai; phân công cán bộ, công chức làm công tác giải quyết tranh chấp

đất đai thường xuyên; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức, đơn vị có

liên quan giải quyết tranh chấp đất đai và xử lý vụ việc nhiều người cùng

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh về một nội dung; kiểm tra, đôn đốc các

cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có trách nhiệm thuộc quyền quản lý của mình

thực hiện các quy định của pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp đất đai;

có trách nhiệm bảo đảm an toàn, trật tự cho hoạt động giải quyết tranh chấp

đất đai; báo cáo tình hình, kết quả công tác giải quyết tranh chấp đất đai với

cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Với sự ra đời của Luật đất đai 2013 có thể nói cơ chế pháp lý

bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thông qua hoạt động giải

quyết tranh chấp đất đai đã được tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm một

bước quan trọng. Triển khai thực hiện hiệu quả cơ chế pháp lý này, các cấp,

các ngành cần quán triệt và thực hiện tốt. Nghiêm túc tổ chức triển khai thực

hiện Luật đất đai một cách thiết thực, hiệu quả để nhân dân thực hiện quyền

khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, thể hiện vai trò làm chủ đất nước, làm

chủ xã hội của mình theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Luật Giải đất

đai đã quán triệt và cụ thể hóa đúng đắn đường lối, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; đánh dấu một bước phát triển mới, rất

quan trọng về cơ chế pháp lý bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công

dân ở nước ta. Để triển khai thực hiện có hiệu quả cơ chế pháp lý dân chủ,

pháp quyền này, cần phải thực hiện kịp thời và đồng bộ các biện pháp, nhiệm

71

vụ cụ thể, đòi hỏi một quyết tâm rất lớn của cả hệ thống chính trị; mỗi cán bộ,

công chức phải đề cao đạo đức công vụ trong nhận thức và hành động, thực

hiện tốt lời dạy của Bác Hồ về trách nhiệm của người Đảng viên, người cán

bộ đối với nhân dân. Công tác giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện

tốt, quyền con người, quyền công dân được bảo đảm sẽ góp phần củng cố

niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước.

3.1.3. Giải quyết tranh chấp đất đại tại UBND nhằm nâng cao hiệu

quả của quản lý nhà nước nói chung, quản lý về đất đai nói riêng

Nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể,

cán bộ, đảng viên, công chức và công dân ngày càng được nâng lên; pháp luật

về giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục được

hoàn thiện. Các cơ quan, tổ chức đã quan tâm tập trung giải quyết khiếu nại,

tố cáo thuộc thẩm quyền; công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo được tăng cường; đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức

tạp, kéo dài, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo

môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, tình hình khiếu nại, tố cáo nói chung và khiếu nại, tố cáo

liên quan đến đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng còn diễn biến phức tạp.

Số vụ việc khiếu nại, kéo dài, vượt cấp có xu hướng gia tăng, một số vụ việc

manh động, quá khích, có sự kích động, hỗ trợ của các phần tử xấu; cá biệt có

trường hợp cực đoan, quyết liệt chống lại người thi hành công vụ. Nhiều vụ

việc khiếu nại, tố cáo về đất đai, tranh chấp tài sản chưa được giải quyết dứt

điểm, để kéo dài, gây bức xúc, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh “điểm nóng” về an

ninh trật tự. Một số vụ việc đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết đúng

chính sách, pháp luật, nhưng không được chấp hành nghiêm túc. Tình hình

trên đã tác động tiêu cực đến việc phát triển kinh tế - xã hội, tạo cớ để các thế

lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng chống phá, làm giảm lòng tin của nhân dân

72

đối với Đảng, Nhà nước. Ngoài ra các quy định hiện hành về giải quyết khiếu

nại hành chính còn chưa được quy định rõ, còn chồng chéo với Luật Đất đai,

Luật Tố tụng hành chính; hoạt động phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền

giải quyết còn nhiều hạn chế, làm giảm hiệu lực quản lý nhà nước.

Việc nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động giải quyết khiếu nại

hành chính trong lĩnh vực đất đai sẽ giúp cho nhân dân và Nhà nước tiết kiệm

thời gian, tiền bạc và công sức; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng

và Nhà nước, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Vì

thế, việc đưa ra các giải pháp, kiến nghị khoa học có cơ sở lý luận và thực tiễn

sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước và hoàn thiện

nhà nước pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề ra một số

giải pháp trong thời gian tới như sau:

- Thứ nhất, đẩy mạnh việc quy định công khai, minh bạch trong quản lý

đất đai: Đẩy mạnh việc quy định công khai, minh bạch trong việc thực hiện

dự án, chế độ chính sách, trình tự, thủ tục liên quan đến thu hồi đất, giải tỏa,

bồi thường, tái định cư, giải quyết việc làm cho người lao động; kiên quyết

thu hồi đất đã giao, đã cho thuê không đúng đối tượng, không sử dụng đúng

thời gian quy định hoặc sử dụng không có hiệu quả, sử dụng sai mục đích; xử

lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm pháp luật về tranh chấp đất

đai, các trường hợp tham nhũng, tiêu cực; đồng thời chấn chỉnh, khắc phục

kịp thời những tồn tại, yếu kém trong quản lý sử dụng đất đai ở thôn, xã...,

nhằm hạn chế phát sinh tranh chấp, khiếu nại ngay từ cơ sở.

- Thứ hai, tăng cường giải quyết tranh chấp đất đai và đối thoại trong

giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai: Kiện toàn tổ chức, cán bộ làm nhiệm

vụ giải quyết tranh chấp đất đai, nhất là Trưởng ban giải quyết tranh chấp đất

đai cấp huyện, thành phố, và cán bộ chuyên trách làm nhiệm vụ giải quyết

tranh chấp đất đai, xử lý đơn thư. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế đối

73

thoại của Bí thư cấp ủy với nhân dân; tăng cường chỉ đạo thủ trưởng cơ quan

có trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết nhiều thủ tục hành chính liên quan đến

người dân… Cấp trưởng không đùn đẩy cho cấp phó tiếp dân, giải quyết

khiếu nại mà đích thân phải giải quyết, tổ chức đối thoại theo quy định. Đối

thoại là phương thức thể hiện tính công khai, dân chủ trong giải quyết khiếu

nại và là một trong những biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa dựa trên nền tảng của việc đề cao pháp luật và tăng cường pháp chế.

- Thứ ba, đẩy mạnh công tác tập huấn, tuyên truyền giáo dục pháp luật:

Tiếp tục tăng cường công tác tập huấn, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật

về giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố tụng hành chính, đất đai, bồi

thường nhà nước phải được đảm bảo nghiêm túc, thường xuyên. Trong đó đối

với Luật Đất đai cần tập trung vào các nội dung về giao đất, cho thuê đất, chuyển

mục đích sử dụng đất, quy trình giải quyết tranh chấp. Đội ngũ cán bộ tập huấn

cần được tuyển chọn đúng năng lực và đào tạo kỹ năng tập huấn chuyên sâu từ

Thanh tra quận, phòng Tài nguyên và Môi trường. Đa dạng hóa các hình thức

tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại

chúng qua các kịch bản phát thanh, truyền hình, hỏi đáp, hái hoa dân chủ…

- Thứ tư, thành lập các Tổ công tác hỗ trợ về nghiệp vụ, trực tiếp tư vấn

cho các sở, ban, ngành trên địa bàn quận Hai Bà Trưng: Thành lập các Tổ

công tác giúp cho các địa phương trên địa bàn quận nắm tình hình hoạt động

giải quyết của địa phương, đơn vị; tháo gỡ những khó khăn trong nhận thức,

trong trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc cụ thể; hỗ trợ đối với các dự án

đất đai đang triển khai, thực hiện tại các địa phương. Tăng cường mối quan hệ

phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,

qua đó học tập và rút kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác thực tiễn để nâng

cao năng lực chuyên môn và hiệu quả công tác.

Nhanh chóng xây dựng hệ thống dữ liệu giải quyết tranh chấp đất đai,

74

giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai trên địa bàn quận. Xây dựng, trang bị các

phần mềm quản lý dữ liệu giải quyết tranh chấp, khiếu nại đất đai tại các huyện,

thành phố trên địa bàn tỉnh; các sở, ngành tỉnh để đảm bảo tính thông tin liên tục

và phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết.

3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện việc giải quyết tranh chấp đất đai

của Ủy ban nhân dân các cấp nói chung, của UBND quận hai Bà Trƣng

nói riêng

3.2.1. Rà soát sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật về đất đai và

giải quyết tranh chấp về đất đai

Luật Đất đai năm 2013 đã thể chế hóa chủ trương, quan điểm của

Đảng, Hiến pháp năm 2013 về đất đai, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho

việc tổ chức, quản lý, sử dụng đất đai. Tuy nhiên, qua gần 10 năm thực hiện,

Luật Đất đai năm 2013 cũng đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế so với thực tế,

do đó, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm khắc

phục sự chồng chéo, thiếu thống nhất với các quy định liên quan khác, đặc

biệt là quy định về thu hồi đất, trưng dụng đất, về tài chính đất đai, quản lý và

sử dụng đất, từ đó, góp phần bảo đảm phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Một số nội dung pháp luật về đất

đai hiện đang còn có những bất cập, trong đó nội dung định chế về thu hồi đất

(THĐ), trưng dụng đất, tài chính đối với đất đai, cấp giấy giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất (SDĐ), thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay

cần được sửa đổi, bổ sung để quá trình thực hiện pháp luật hiệu lực, hiệu quả,

góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về đất

đai; đồng thời, tạo động lực cho việc sử dụng nguồn lực đất đai phát huy được

giá trị và lợi thế bền vững, hiệu quả.

Để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Hiện nay, Theo bản đồ kế hoạch sử dụng đất TP Hà Nội năm 2020, nhiều khu

75

đất đã được đưa vào kế hoạch sử dụng để triển khai các tuyến đường giao

thông trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Trong đó, đáng chú ý có khu đất nối

thẳng cầu bộ hành (đường Đại Cồ Việt sang CV Thống Nhất) đến đường Trần

Đại Nghĩa với diện tích khoảng 1.534,338 m2, dài khoảng 100m. Khu đất sắp

thu hồi mở đường ở quận Hai Bà Trưng đáng chú ý có khu đất nối đường Đỗ

Ngọc Du - Lê Ngọc Hân với diện tích khoảng 2.895,456 m2, dài khoảng 150

m. Khu đất sắp thu hồi mở đường ở quân Hai Bà Trưng đáng chú ý có khu đất

phía sau tòa nhà 4A Tạ Quang Bửu với diện tích khoảng 832,584 m2, dài

khoảng 110 m. Nhưng loại đất này không nằm trong trường hợp THĐ theo

quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013 mà phải tổ chức đấu

thầu lựa chọn nhà đầu tư. Trong khi đó, liên quan đến vấn đề này, Luật Quy

hoạch đô thị năm 2009, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công năm 2017 cũng

đã được quy định. Do đó, việc THĐ này nếu áp dụng theo quy định Luật Đất

đai năm 2013 để thực hiện dự án là chưa đồng bộ, không thể tiến hành đồng

thời, nên sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án xây dựng tuyến đường và

việc phát triển kinh tế trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. Vì vậy, cần kiến nghị

bổ sung vào Luật Đất đai năm 2013 quy định theo hướng Nhà nước được

THĐ theo quy hoạch đã được phê duyệt để tổ chức đấu giá quyền SDĐ. Cơ

quan nhà nước có thẩm quyền phải đồng thời tổ chức THĐ hai bên đường

theo quy hoạch, tổ chức đấu giá. Đối với trình tự, thủ tục THĐ vì mục đích

quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công

cộng, tại khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai quy định: “Ủy ban nhân dân cấp có

thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết

định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một

ngày”. Tuy nhiên, trên thực tế, có những dự án THĐ lớn dẫn đến nhiều hộ gia

đình bị ảnh hưởng nên việc quy định ban hành quyết định THĐ, quyết định

phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày là

76

không thể thực hiện được, đồng thời sẽ gây nên áp lực đối với cơ quan hành

chính. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định đối với “trường hợp quy mô dự

án lớn (trên 100 tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) thì việc ban hành quyết định

được thực hiện dài hơn nhưng không quá 30 ngày kể từ ngày ban hành quyết

định đầu tiên của dự án”.

Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước THĐ trên địa bàn quận

Hai Bà Trưng: Khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 chỉ quy định về “hỗ

trợ khác” để các địa phương quyết định thêm các chính sách hỗ trợ khác tùy

theo tình hình thực tế. Như vậy, Luật không trực tiếp quy định “chính sách

giải quyết chỗ ở tạm thời (tạm cư)” nhưng có thể hiểu là vẫn bao hàm “chính

sách giải quyết chỗ ở tạm thời (tạm cư)”. Tuy nhiên, điều này dẫn đến cách

hiểu của một số địa phương là Luật Đất đai không quy định về “chính sách

giải quyết chỗ ở tạm thời (tạm cư)”. Trong khi đó, khoản 3 Điều 116 Luật

Nhà ở năm 2014 cũng đã có quy định về các phương án “lo chỗ ở tạm thời

hoặc thanh toán tiền để người được tái định cư tự lo chỗ ở trong thời gian cải

tạo, xây dựng lại…”. Do vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung vào khoản 2 Điều 83

Luật Đất đai năm 2013 như sau: “Hỗ trợ chỗ ở tạm thời (tạm cư) đối với

trường hợp thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở

nước ngoài mà phải di chuyển chỗ ở” nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ

thống pháp luật và tạo cơ sở để các UBND quận dễ thực hiện và giải quyết

thỏa đáng nhu cầu tạm cư trong thời gian chờ tái định cư của người dân trên

địa bàn quận. Đối với trường hợp trên 80% người dân đã chấp thuận nhận bồi

thường trong các dự án đã được Nhà nước chấp thuận chủ trương thì Nhà

nước cần có quy định để chủ đầu tư tiếp tục bồi thường phần đất còn lại để dự

án sớm được triển khai. Việc phê duyệt giá bồi thường phù hợp với giá thị

trường nhưng doanh nghiệp vẫn phải hỗ trợ thêm cho người SDĐ, vì trong

thực tế trước đó doanh nghiệp đã thỏa thuận với người SDĐ có mức giá cao.

77

Như vậy, cần quy định mức hỗ trợ thêm bằng mức bình quân của mức doanh

nghiệp đã nhận chuyển nhượng trước đó trừ đi giá bồi thường được duyệt (giá

thị trường) và doanh nghiệp sẽ không được khấu trừ phần hỗ trợ thêm này khi

thực hiện nghĩa vụ tài chính. Bên cạnh đó, cần phải có cơ chế để giải quyết

bài toán phân chia lợi ích giữa Nhà nước với người dân khi THĐ để bảo đảm

hài hòa theo các nghị quyết của trung ương và phải có chính sách bồi thường

bảo đảm quyền lợi cho người SDĐ; đồng thời, bảo đảm về tạo lập chỗ ở mới,

sau khi bồi thường xong phải giải quyết hậu bồi thường, tái định cư (kiểm tra

các hộ gia đình sau khi bồi thường có hoàn cảnh khó khăn thực hiện hỗ

trợ…). Luật Đất đai hiện chưa quy định trường hợp Nhà nước THĐ do thực

hiện phương án sắp xếp lại, xử lý tài sản công theo Nghị định số

167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ, dẫn đến thiếu cơ sở pháp

luật trong việc xác định căn cứ thu hồi và chính sách giải quyết đối với các hộ

dân phải di dời tại nhà đất thu hồi theo Nghị định 167/2017/NĐ-CP để cơ

quan chức năng tổ chức thực hiện. Do đó, cần bổ sung quy định này vào

khoản 1 Điều 16 Luật Đất đai, đồng thời, bổ sung quy định về các trường hợp

THĐ do chấm dứt việc SDĐ theo pháp luật, tự nguyện trả lại đất. Việc lập

phương án bồi thường hỗ trợ di dời cho các hộ gia đình, cá nhân phải di dời

theo quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước THĐ.

Qua quá trình thực tiễn áp dụng pháp luật về đất đai tại quận Hai Bà

Trưng, cần nghiên cứu để tiến tới bỏ việc thu tiền SDĐ chuyển thành thu thuế

bất động sản (kể cả các dự án đầu tư mới, đánh thuế sản phẩm) nhằm tránh

gánh nặng cho nhà đầu tư phải bỏ tiền ra cùng một lúc trong việc bồi thường,

xây dựng và đóng tiền SDĐ. Bên cạnh đó, đối với hộ gia đình, cá nhân thì việc

thu thuế bất động sản từ căn nhà thứ hai cũng tránh được việc đầu cơ, làm méo

mó giá cả thị trường bất động sản. Đồng thời, xem xét đưa quy định cụ thể về

định giá đất phục vụ cho công tác bồi thường, thu thuế… Làm tốt công tác này

78

thì sau khi Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng mà giá đất tăng lên do cơ sở hạ tầng

mang lại, Nhà nước sẽ tính một khoản thu khi người SDĐ chuyển nhượng bất

động sản đó. Bổ sung điều khoản phân cấp, giao thẩm quyền quyết định giá đất

cụ thể cho Ủy ban nhân dân (UBND) quận quyết định giá đất cụ thể đối với

trường hợp THĐ thuộc thẩm quyền của UBND quận. Khi được phân cấp, giao

quyền thì đơn vị được quyền phải bảo đảm các thủ tục về thẩm định giá đất

theo quy định. Ngoài ra, cần quy định bổ sung về chế độ quản lý, SDĐ và

nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp chỉ được tạm tiếp tục SDĐ theo hiện

trạng do không phù hợp quy hoạch để được tiếp tục sử dụng dài hạn; hoặc đất

do Nhà nước trực tiếp quản lý được quy hoạch làm công trình công ích nhưng

tạm cho thuê (theo hướng đấu giá với thủ tục rút gọn và việc xác định giá khởi

điểm đơn giản theo phương pháp hệ số điều chỉnh) để tránh lãng phí và tạo

nguồn thu ngân sách nhà nước trong thời gian chưa triển khai dự án.

Về thời điểm tính thu tiền SDĐ: tại khoản 3 Điều 108 Luật Đất đai năm

2013 quy định: “Thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất là thời điểm

Nhà nước quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng

đất, công nhận quyền sử dụng đất”. Đồng thời, điểm b khoản 1 Điều 112 Luật

Đất đai năm 2013 quy định: việc xác định giá đất phải bảo đảm một trong các

nguyên tắc là theo thời hạn SDĐ… Điều này có nghĩa là việc xác định giá đất

phải bảo đảm thời điểm xác định giá đất và thời hạn SDĐ. Tuy nhiên, trên thực

tế, khi xác định giá đất cụ thể tại một số địa phương cũng đã gặp khó khăn,

vướng mắc trong việc xác định thời điểm để xác định giá đất. Nguyên nhân là

do ngày ban hành các quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục

đích SDĐ… và thời hạn SDĐ chưa xác định cụ thể (chẳng hạn ngày ban hành

quyết định là ngày 01/8/2017 nhưng thời hạn SDĐ được tính từ ngày

18/7/2016 – ngày được lựa chọn là chủ đầu tư), từ đó dẫn đến có nhiều cách

hiểu khác nhau. Do đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 108 như sau:

79

“Thời điểm tính thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất là thời điểm ghi trong quyết

định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận

quyền sử dụng đất theo thời hạn sử dụng đất”. Ngoài ra, đề xuất bổ sung thời

điểm xác định giá đất đối với các trường hợp xác định giá khởi điểm để tổ chức

đấu giá quyền SDĐ như sau: Luật Đất đai chưa có sự thống nhất với Luật Giá

và các tiêu chuẩn thẩm định giá nên đề xuất bỏ điểm d Điều 112: “Cùng một

thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng, khả năng sinh

lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá như nhau”.

Đồng thời, sửa đổi, bổ sung Điều 112 từ “Nguyên tắc, phương pháp định giá

đất” thành “Nguyên tắc, phương pháp thẩm định giá đất”. Điều 113 Luật Đất

đai quy định khung giá đất định kỳ 5 năm một lần đối với từng loại đất, theo

từng vùng. Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá đất phổ biến trên thị

trường tăng từ 20% trở lên so với giá tối đa hoặc giảm từ 20% trở lên so với giá

tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều chỉnh khung giá đất cho phù

hợp. Do đó, cần bổ sung đối tượng áp dụng giá đất cụ thể theo quy định của

Luật Đất đai làm căn cứ giải quyết. Tuy nhiên, do vụ việc liên quan đến cổ

phần hóa, thanh kiểm tra… nên kiến nghị bổ sung vào khoản 4 Điều 114 Luật

Đất đai nội dung: “Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ”.

Hiện nay, ở một số nơi trên địa bàn quận Hai Bà Trưng có một số khu

đất do Nhà nước trực tiếp quản lý đã bồi thường giải phóng mặt bằng, trong đó

có một số khu đất có chức năng quy hoạch là đất dành cho giáo dục, đất công

cộng có mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 118 Luật Đất đai

chỉ quy định các trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền SDĐ, cho thuê đất

theo hình thức đấu giá quyền SDĐ không bao gồm hai loại đất trên. Do đó, đề

nghị bổ sung hai loại đất trên vào các trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền

SDĐ, cho thuê đất theo hình thức đấu giá quyền SDĐ và hướng dẫn về điều

kiện, trình tự thực hiện, đối tượng tham gia đấu giá đối với hai loại đất trên. Về

80

xác định diện tích đất ở đối với trường hợp có vườn, ao, tại khoản 1 Điều 103

Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất vườn, ao của hộ gia đình, cá nhân được

xác định là đất ở phải trong cùng một thửa đất đang có nhà ở”. Tuy nhiên, thực

tiễn áp dụng nội dung này ở một số phường tuyến dưới của quận Hai Bà Trưng

gặp nhiều khó khăn trong việc công nhận quyền sử dụng đối với đất ở cũng

như việc xét bồi thường khi Nhà nước THĐ có nguy cơ gây thất thoát không

nhỏ cho ngân sách nhà nước hoặc gây thiệt hại cho người SDĐ, nên cần thiết

phải nghiên cứu để điều chỉnh cho phù hợp với thực tế có tính lịch sử cũng như

thực trạng công tác quản lý nhà nước về đất đai ở từng địa phương. Chẳng hạn,

tại một số phường như Vĩnh Tuy, Minh Khai, Đồng Tâm, Trương Định có đặc

điểm đất ở và đất nông nghiệp, giữa đất của hộ này với đất của hộ khác nhiều

khi không rõ ràng nên dễ dẫn tới việc cùng nguồn gốc, quá trình, hiện trạng

SDĐ như nhau nhưng lại có cách giải quyết khác nhau. Đất vườn, ao cũng chỉ

là một trong nhiều loại đất thuộc nhóm đất nông nghiệp nhưng lại được chọn

làm tiêu chí quan trọng để xem xét xác định đất ở là điều phải xem xét lại để

bảo đảm tính khoa học cũng như tạo sự phù hợp của luật pháp với thực tiễn.

Hơn nữa, tài liệu địa chính lập qua nhiều thời kỳ sẽ có những thông tin khác

nhau (vì nhiều lý do chủ quan lẫn khách quan) nhưng việc sử dụng tài liệu lập

vào thời kỳ nào nào để áp dụng cũng là điều gây không ít tranh cãi do không có

văn bản nào hướng dẫn. Chưa kể tài liệu địa chính vẫn còn những bất cập tồn

tại, ảnh hưởng đến tính xác thực của hồ sơ về đất đai. Do đó, đề xuất sửa đổi

theo hướng giao việc xác định đất vườn ao cho UBND cấp tỉnh quy định theo

tập quán, quản lý đất đai, lập bản đồ… qua các thời kỳ.

3.2.2. Tiếp tục nâng cao công tác hòa giải tranh chấp đất đai tại cơ sở

trên địa bàn quận Hai Bà Trưng

Hòa giải ở cơ sở là nét đẹp truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam,

là hoạt động mang tính tự nguyện, tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hoạt động

81

hòa giải ở cơ sở về bản chất là hướng dẫn, giúp đỡ thông qua việc thuyết

phục, vận động các bên đi đến thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các

mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí,

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, quyền và lợi ích hợp pháp của người

khác; không xâm phạm lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng. Vì vậy hòa

giải ở cơ sở đã khẳng định vai trò to lớn, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã

hội, góp phần tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư, giữ gìn, phát

huy bản sắc văn hóa của dân tộc, kịp thời ngăn ngừa các hành vi vi phạm

pháp luật, góp phần bảo đảm ổn định, trật tự, an toàn xã hội, giảm bớt các vụ

việc phải chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, tiết kiệm

thời gian, kinh phí cho Nhà nước và Nhân dân, từ đó góp phần thúc đẩy kinh

tế - xã hội phát triển.

Để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giải

quyết tranh chấp đất đai tại quận Hai Bà Trưng nói riêng và ở các địa phương

khác, trên cả nước nói chung thì chúng ta cùng tìm hiểu những hạn chế trong

các quy định hòa giải cơ sở trong tranh chấp đất đai của pháp luật hiện hành

để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết

tranh chấp đất đai.

Hòa giải tranh chấp đất đai là vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp,

trong thực tế, việc tranh chấp liên quan đến đất đai xảy ra rất nhiều dạng trong

nhiều quan hệ pháp luật khác nhau. Do đó, việc hiểu như thế nào là tranh chấp

đất đai để khoanh vùng những loại tranh chấp đất đai phải qua thủ tục hoà giải

tại cấp xã vẫn chưa được nhận thức thống nhất. Từ đó dẫn đến tình trạng

nhiều nơi, nhiều lúc vẫn quan niệm rằng thà “đánh nhầm hơn bỏ sót”, do đó

việc này đòi hỏi các thành viên trong Tổ hòa giải phải tìm hiểu quá trình mâu

thuẫn, nguyên nhân, bản chất có phải tranh chấp hay không cũng như là nắm bắt

chính xác tâm tư, nguyện vọng của các bên. Quá trình hòa giải, Tổ hòa giải phải

82

tỏ ra hết sức mềm dẽo, vừa giải quyết tranh chấp trên cơ sở quy định pháp luật

nhưng cũng vừa có tình, có lý trên cơ sở tình nghĩa láng giềng, họ hàng, thân tộc.

Để làm được việc này đòi hỏi thành viên Tồ hòa giải phải được trang bị một số

kỹ năng cần thiết.

Để việc hòa giải đem lại kết quả tốt, vai trò của Tổ hòa giải tranh chấp đất

đai là rất quan trọng. Tuy nhiên, thực tế một số vụ việc hòa giải tranh chấp đất

đai thì Tổ hòa giải chưa làm hết trách nhiệm của mình, chỉ hòa giải qua loa,

chiếu lệ để chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền tiếp theo. Do đó, cần có sự

quan tâm thích đáng của nhà nước thông qua việc bồi dưỡng nâng cao kiến thức

pháp lý, kỹ năng hòa giải cho đội ngũ hòa giải viên. Đồng thời tạo điều kiện về

cơ sở vật chất cho hoạt động của Tổ hòa giải ở cơ sở để nâng cao hiệu quả hoạt

động hòa giải.

Cần tăng cường công tác tổ chức tập huấn về công tác hòa giải về tranh

chấp đất đai. Ngoài việc trang bị những kỹ năng cần thiết cho việc hòa giải tranh

chấp dất đai thì đòi hỏi công chức cấp xã làm công tác tham mưu, giúp việc cần

phải có hiểu biết đầy đủ về các quy định của pháp luật có liên quan đến hòa giải

tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Qua tập huấn, các cán bộ làm công tác hòa

giải tranh chấp đất đai có dịp, cơ hội để thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm trong

thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai, nhất là kinh nghiệm trong tìm hiểu nguyên

nhân, xác minh tại thực địa, thống nhất quan điểm giữa các thành viên trong tổ

hòa giải cũng như nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các bên. Qua đó nhận thấy

khi gặp gỡ nguyên đơn, bị đơn cần linh hoạt giải quyết giữa lý và tình để hòa

giải thành, giữ tình láng giềng, họ hàng, thân tộc. Điều quan trọng là nắm vững

các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai tại cấp xã để giải quyết.

Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật liên quan đến việc hòa giải

chúng ta có thể thấy tồn tại một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Nhà nước

83

khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải” song điều khoản này lại

không giải thích cụ thể việc khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải

bằng những phương thức hoặc hình thức cụ thể nào. Hơn nữa, theo quy định

hiện hành không đề cập cụ thể giá trị pháp lý (bắt buộc hay không bắt buộc) của

việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải cơ sở.

Thứ hai, khoản 2 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc hòa

giải tranh chấp đất đai do UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp

xã) nơi có đất tranh chấp tiến hành. Điều khoản này lại không đề cập đến trách

nhiệm pháp lý của các bên đương sự trong việc thực hiện kết quả hòa giải tranh

chấp đất đai thành. Vì vậy, trên thực tế các bên đương sự không thực hiện theo

kết quả hòa giải tranh chấp đất đai thành song UBND cấp xã không có chế tài xử

lý để buộc họ phải thực hiện.

Thứ ba, như phần trên đã đề cập, các yếu tố phong tục, tập quán, đạo đức

truyền thống, hương ước, luật tục, qui ước làng văn hóa … có vai trò rất quan

trọng trong việc hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở (đặc biệt là ở khu vực nông

thôn). Tuy nhiên, pháp Luật Đất đai hiện hành lại không có quy định đề cập vị

trí, vai trò của các yếu tố phong tục, tập quán, đạo đức, các thiết chế văn hóa

truyền thống trong hòa giải tranh chấp đất đai.

Thứ tư, pháp Luật Đất đai hiện hành lại không có quy định đề cập đến vai

trò của luật sư, luật gia trong hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở, cũng như không

có quy định đề cập đến công tác đào tạo tăng cường năng lực của đội ngũ hòa

giải viên. Thực tiễn hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở cho thấy một trong những

nguyên nhân dẫn đến thành công là năng lực, trình độ hiểu biết pháp luật của đội

ngũ hòa giải viên. Hiện nay, năng lực, trình độ hiểu biết pháp luật của các hòa

giải viên không đồng đều. Dường như hòa giải viên ở khu vực đô thị có năng

lực, trình độ hiểu biết cao hơn các hòa giải viên ở khu vực nông thôn, vùng sâu,

vùng xa. Để nâng cao chất lượng công tác hòa giải tranh chấp đất đai, Nhà nước

84

cần tiến hành thường xuyên công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết pháp

luật cho đội ngũ hòa giải viên, và khuyến khích sự tham gia của luật sư, luật gia

trong hòa giải tranh chấp đất đai.

Thứ năm, Pháp Luật Đất đai hiện hành chưa quy định một cách cụ thể, chi

tiết về vấn đề hòa giải tranh chấp đất đai trong tố tụng (việc hòa giải tranh chấp

đất đai do Tòa án nhân dân thực hiện trong quá trình thụ lý giải quyết vụ việc

tranh chấp). Điều này dường như làm cho công tác hòa giải tranh chấp đất đai

trong tố tụng chưa đạt hiệu quả mong muốn.

Việc triển khai Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa quận cũng nên được quan

tâm hơn nữa nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện vững chắc để hoạt động

hòa giải ở cơ sở đi vào nền nếp, thống nhất, hỗ trợ đắc lực cho chính quyền địa

phương trong việc giải quyết trực tiếp những vụ việc tranh chấp trong nhân dân.

Do vậy trong các quy định của pháp luật cần sửa đổi, bổ sung các nội

dung liên quan đến công tác hòa giải để việc hòa giải được chất lượng hơn.

3.2.3. Đẩy mạnh công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp đất đai

Trong những năm qua được sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Ủy ban

nhân dân quận, sự phối hợp chặt chẽ của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã

hội, các phòng, ban, ngành có liên quan và các phường để công tác cấp Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất được đẩy mạnh góp phần tạo điều kiện thuận

lợi cho việc giải quyết tranh chấp đất đai

Quận ủy đã tăng cường chỉ đạo việc rà soát đề nghị cấp giấy chứng

nhận cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức trên địa bàn quận. Chỉ đạo UBND quận

phối hợp với MTTQ, các đoàn thể chính trị-xã hội quận tích cực tuyên truyền,

phổ biến việc thực hiện các văn bản về Luật đất đai 2013 và các văn bản có

liên quan sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, cơ quan, đơn vị sử

dụng đất trên địa bàn quận. Việc cấp Giấy chứng nhận (GCN) cho các cá

85

nhân, đơn vị, tổ chức được quan tâm, đẩy nhanh tiến độ. Việc cấp GCN cho

các cá nhân, đơn vị, tổ chức đã giúp cho công tác quản lý nhà nước về đất đai

được chặt chẽ, đảm bảo pháp lý, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng cho các cá

nhân, đơn vị, tổ chức tạo điều kiện cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức được thực

hiện các quyền lợi, đồng thời đã giải quyết nhiều vướng mắc trong giải quyết

tranh chấp đất đai.

Tuy nhiên, do việc kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức còn gặp nhiều khó khăn. Một số cá nhân,

đơn vị, tổ chức có nguồn gốc sử dụng đất lâu đời, không có hồ sơ đất đai, hồ

sơ bị thất lạc hoặc không chính xác, ranh giới sử dụng đất không rõ ràng,

không có các giấy tờ và quyền sử dụng đất làm căn cứ kê khai. Quá trình sử

dụng đất của các cá nhân, đơn vị, tổ chức có nhiều biến động do chuyển

nhượng, đổi, hiến tặng, cho mượn hoặc tự mở rộng, những biến động này hầu

hết chưa thực hiện theo quy định của pháp luật. Một số thửa đất được kê khai

là đất cá nhân, đơn vị, tổ chức nhưng thực tế không có công trình xây dựng,

hiện tại đang để không nên không có căn cứ công nhận và cấp GCN theo quy

định của pháp luật đất đai hiện hành, do chủ sử dụng đất (cá nhân, đơn vị, tổ

chức) chưa tích cực phối hợp kê khai đăng ký cấp GCNQSDĐ. Để nâng cao

hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý đất đai đối với các cá nhân, đơn vị, tổ

chức trên địa bàn quận trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền

phổ biến pháp luật về đất đai cho các đơn vị, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân

hiểu hơn về quyền và nghĩa vụ trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về đất đai của các cá nhân, đơn vị,

tổ chức; giám sát cụ thể việc sử dụng đất theo địa bàn quản lý, hạn chế tối đa

tình trạng các cá nhân, đơn vị, tổ chức lấn, chiếm, nhận chuyển nhượng, tặng

cho quyền sử dụng đất. Chủ động thanh tra, kiểm tra, xử lý những diện tích

đất không sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, cho mượn, diện tích đất để

86

bị lấn chiếm không đúng quy định, phát huy vai trò của chính quyền, nhất là

cán bộ địa chính cấp phường trong việc kiểm tra, giám sát không để vi phạm

xảy ra. Các địa phương cần quan tâm phối hợp với các ngành có liên quan

tiếp tục thực hiện tốt rà soát việc sử dụng đất của các cá nhân, đơn vị, tổ chức

trên địa bàn, hướng dẫn đôn đốc các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong sử dụng

đất nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiến hành lập và

hoàn thiện thủ tục cấp giấy chứng nhận theo quy định, đối với các trường hợp

còn vướng mắc chưa thống nhất thì báo cáo các ngành có liên quan xem xét

quyết định, các trường hợp tranh chấp cần được quan tâm giải quyết dứt điểm

nhất là các vấn đề đất đai có nguồn gốc do lịch sử để lại theo đúng quy định

của pháp luật, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương đảm bảo ổn

định tình hình an ninh trật tự của địa phương, tạo sự đoàn kết gắn bó trong

nhân dân. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, kế hoạch sử

dụng đất, giao đất, cấp giấy CNQSDĐ liên quan đến cá nhân, đơn vị, tổ chức

một cách dân chủ, công khai, minh bạch, đơn giản hóa các thủ tục hành chính

đảm bảo đúng pháp luật, tạo điều kiện cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong

việc sử dụng đất và xây dựng đúng pháp luật.

3.2.4. Kiện toàn công tác cán bộ, bổ sung các nguồn lực vật chất cho

các cơ quan làm công tác giải quyết đơn thư khiếu nại tranh chấp đất đai

Căn cứ theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai năm 2013, Ủy ban

nhân dân cấp quận có thẩm quyền giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai

xảy ra giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau mà các bên trong

tranh chấp (đương sự) không có một trong các giấy tờ pháp lý liên quan đến

đất đai như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử

dụng và quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở

hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất hoặc một trong các giấy tờ được quy

định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 nhưng họ lựa chọn Ủy ban nhân dân

87

là cơ quan giải quyết tranh chấp đất đai. Những vụ việc tranh chấp đất đai

giữa những hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau thường nhỏ lẻ,

mang tính chất cục bộ, phù hợp với thẩm quyền giao đất, cấp đất và phạm vi

quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp quận. Đồng thời, khi các bên tranh

chấp không có Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất và không có các loại

giấy tờ khác làm căn cứ xác định về nguồn gốc đất, về việc sử dụng đất hợp

pháp của người sử dụng đất thì việc quy định về thẩm quyền giải quyết tranh

chấp đất đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện trong trường hợp này sẽ tạo điều

kiện thuận lợi để cơ quan này tiếp cận với các hồ sơ, tài liệu liên quan đến vụ

việc đất đai, và sự tham vấn từ các cơ quan chuyên môn liên quan như Phòng

tài nguyên và môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai… thuận tiện hơn trong

vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai.

Qua thực tế tại UBND quận Hai Bà Trưng cho thấy vai trò của người

cán bộ, công chức đặc biệt là người lãnh đạo trong công tác giải quyết tranh

chấp đất đai là rất quan trọng nên UBND quận Hai Bà Trưng thành lập đội

ngũ cán bộ giải quyết tranh chấp đất đai như sau:

- Chủ tịch UBND quận phân công nhiệm vụ cho Phó chủ tịch UBND

quận mảng Đô thị - Địa chính trực tiếp phụ trách về giải quyết tranh chấp đất

đai trên địa bàn quận và chịu trách nhiệm trước chủ tịch UBND quận.

- Phó chủ tịch UBND quận là người trực tiếp quản lý các giải quyết

tranh chấp đất đai và chịu trách nhiệm chính. Phó chủ tịch quận phân cho văn

phòng UBND quận, phòng Tài nguyên Môi trường quận, Thanh tra quận và

UBND 18 phường trực tiếp tiến hành giải quyết các tranh chấp đất đai trên

địa bàn quận

- Văn phòng UBND quận là nơi tiếp nhận đơn thư và là nơi trả lời bằng

văn bản cho người dân để chấm dứt vụ việc đơn thư và chịu trách nhiệm trước

88

Phó chủ tịch UBND quận.

- Phòng Tài nguyên và Môi trường tổng hợp các hồ sơ do UBND 18

phường cung cấp để báo cáo lãnh đạo UBND quận về các nội dung tranh chấp

đất đai trong đơn thư và tham mưu hướng xử lý các tranh chấp đất đai cho

lãnh đạo. Chịu trách nhiệm trước phó chủ tịch UBND quận.

- Thanh tra quận báo cáo kết luận thanh tra giải quyết về vụ việc đơn

thư, phối hợp với phòng Tài - nguyên Môi trường quận tham mưu các văn bản

trả lời các vụ tranh chấp đất đai cho người dân và chịu trách nhiệm trước phó

chủ tịch UBND quận.

- UBND 18 phường là nơi tiến hành thẩm tra, xác minh tìm hiểu

nguyên nhân phát sinh tranh chấp, thu thập giấy tờ, tài liệu có liên quan về

nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hiện trạng sử dụng đất để cung cấp

cho phòng Tài nguyên - Môi trường và Thanh tra quận. Chịu trách nhiệm

trước UBND quận về hồ sơ, tài liệu đã cung cấp.

3.2.5. Nâng cao trách nhiệm vai trò lãnh đạo của thủ trưởng cơ quan

giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư tại quận hai Bà Trưng

Đến thời điểm hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết

tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã cơ bản đầy đủ, đồng bộ và

điều chỉnh kịp thời các mối quan hệ phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội.

Sự ra đời của Luật đất đai năm 2013 đánh dấu bước ngoặt phát triển vượt bậc,

thể hiện sự quan tâm tuyệt đối đến quyền dân chủ của công dân với những

quy định chi tiết về quyền của công dân khi thực hiện các quyền khiếu nại, tố

cáo, kiến nghị, phản ánh. Tiếp đến, Luật Tố cáo năm 2018 đã khắc phục

những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật, nhất là những quy định về

nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo, quyền được rút tố cáo, cơ

chế bảo vệ người tố cáo.

Đặc biệt, gần nhất là Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020

89

của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu

nại (có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2020) với những quy định khắc phục

được một số bất cập trong thực tiễn áp dụng. Qua đó, giúp cho mọi công dân

phát huy tối đa quyền dân chủ, quyền và lợi ích chính đáng được đảm bảo; thể

hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công tác giải quyết tranh chấp

đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Xác định công tác giải quyết tranh chấp đất

đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng

tâm hàng đầu của các cấp ủy Đảng, chính quyền, từ đó, các cấp, các ngành

trong quận Hai Bà Trưng đã quan tâm bố trí công chức làm công tác giải quyết

tranh chấp đất đai, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo có năng lực, chuyên

môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhất là trong tình hình mới hiện nay. Công tác

triển khai, quán triệt thực hiện pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai, giải

quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm túc, đồng bộ với nhiều giải pháp

trọng tâm, phù hợp với đặc điểm, tình hình của đơn vị, địa phương.

Người đứng đầu từng cơ quan, đơn vị luôn nêu cao trách nhiệm, thực

hiện tốt giải quyết tranh chấp đất đai định kỳ, đột xuất, quá trình giải quyết

tranh chấp đất đai luôn cầu thị, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng chính

đáng của người dân để kịp thời điều chỉnh các chủ trương, chính sách hoặc

chỉ đạo cơ quan chuyên môn kiểm tra, rà soát; từ đó, tạo dựng niềm tin của

người dân đối với chính quyền địa phương, giảm bớt được tình trạng khiếu

nại đông người, vượt cấp lên cơ quan Trung ương. Quan tâm phân công công

chức phụ trách giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý đơn có kinh nghiệm thực

tiễn, am hiểu chính sách pháp luật; bố trí cơ sở vật chất, thực hiện đầy đủ các

chế độ chính sách bồi dưỡng cho đội ngũ công chức làm công tác giải quyết

tranh chấp đất đai, xử lý đơn đảm bảo đúng theo luật định. Chỉ đạo thẩm tra,

xác minh, giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền

phát sinh ngay từ cơ sở. Bên cạnh đó còn gắn với thực hiện tốt chính sách an

90

sinh xã hội, giúp người dân ổn định cuộc sống thông qua việc hỗ trợ về đất ở,

đất sản xuất; phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các cơ quan Trung ương, địa

phương nhằm huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong giải quyết

từng vụ việc cụ thể, góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự xã hội trên địa

bàn quận Hai Bà Trưng.

Để nâng cao trách nhiệm vai trò lãnh đạo của trưởng cơ quan giải quyết

tranh chấp đất đai, giải quyết đơn thư tại quận Hai Bà Trưng người đứng đầu phải:

- Một là, sắp xếp lịch làm việc khoa học và dành thời gian giải quyết

tranh chấp đất đai định kỳ, đột xuất theo đúng luật định để lắng nghe tâm tư

nguyện vọng của người dân, trên cơ sở đó giải thích chính sách pháp luật, vận

động người dân chấp hành tốt các quy định của pháp luật.

- Hai là, quan tâm bố trí công chức làm công tác giải quyết tranh chấp

đất đai, xử lý đơn có năng lực, có kinh nghiệm thực tiễn để nâng cao hơn nữa

chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý đơn.

- Ba là, khi phát sinh đơn thuộc thẩm quyền phải kịp thời chỉ đạo cơ

quan chuyên môn thẩm tra xác minh; nghe cơ quan chuyên môn báo cáo tổng

hợp vụ việc trước khi tổ chức đối thoại với công dân để có thể dự liệu được

các tình huống, định hướng giải quyết vụ việc hoặc kịp thời chỉ đạo xác minh

bổ sung khi xét thấy cần thiết.

- Bốn là, tổ chức gặp gỡ đối thoại với công dân trước khi ban hành

quyết định. Đây là việc làm hết sức quan trọng, là điều kiện tốt nhất để người

lãnh đạo thẩm định lại nội dung báo cáo, kiến nghị của cơ quan tham mưu

được giao nhiệm vụ thẩm tra xác minh trước sự phản biện của người khiếu

nại, từ đó có kết luận giải quyết đúng đắn, khách quan và tính khả thi cao. Về

thành phần đối thoại, vận động phải có sự tham gia của người đứng đầu các

cơ quan tham mưu như: Thanh tra, Tài nguyên và Môi trường, các đoàn thể

(Hội nông dân, Phụ nữ, Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Luật gia, Trung

91

tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh…) cùng phối hợp. Người chủ trì phải kiên trì phân

tích, giải thích thấu tình, đạt lý để Nhân dân hiểu và tự giác thực hiện, đồng

thời tranh thủ sự ủng hộ, hỗ trợ của người dân, nhất là những người cao niên

tuổi Đảng, có sức ảnh hưởng ở địa phương. Làm được điều này, người khiếu

nại sẽ thấy được trách nhiệm của người đứng đầu trong việc giải quyết khiếu

nại, tố cáo của mình, góp phần tạo niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, chính

quyền. Còn người đứng đầu sẽ nâng lên trách nhiệm của mình, quan tâm chỉ

đạo sâu sát hơn trong công tác giải quyết tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu

nại, tố cáo.

3.2.6. Nâng cao vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra trong việc

giải quyết tranh chấp đất đai tại quận hai Bà Trưng

Hoạt động thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng trong quản lý nhà

nước do đó, để kết quả hoạt động thanh tra có thể được phát huy tốt thì trước

hết kết quả đó phải có chất lượng tốt. Chất lượng của kết quả động thanh tra

phụ thuộc vào nhiều yếu tố như cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh tra, trình

độ của đội ngũ cán bộ thanh tra, các biện pháp nghiệp vụ được sử dụng trong

quá trình thanh tra, điều kiện vật chất cho hoạt động thanh tra. Hoạt động

thanh tra được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau gồm cơ quan thanh tra,

cơ quan hành chính và đối tượng thanh tra. Kết quả hoạt động thanh tra là kết

quả hoạt động và sự phối hợp giữa các chủ thể này. Mặc dù, cơ quan thanh tra

đóng vai trò chủ yếu trong quá trình tiến hành thanh tra nhưng ở những khâu

quan trọng của quá trình này thì thủ trưởng cơ quan hành chính mới là những

nhân tố quan trọng. Những khâu quan trọng được đề cập ở đây chính là giai

đoạn xây dựng định hướng, chương trình thanh tra và xử lý, đôn đốc thực

hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra. Giai đoạn xây dựng định

hướng, chương trình thanh tra chính là giai đoạn xác định đối tượng thanh tra.

Giai đoạn này hoàn toàn dựa vào yêu cầu của quản lý nhà nước trong từng

92

lĩnh vực, hay nói khác đi là dựa vào sự chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan quản

lý nhà nước cùng cấp. Chính giai đoạn này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến

kết quả cuối cùng của hoạt động thanh tra. Nếu xác định đúng lĩnh vực, đối

tượng cần thanh tra thì kết quả hoạt động thanh tra sẽ mang lại hiệu quả thiết

thực, qua thanh tra có thể sẽ phát hiện nhiều sơ hở trong các quy định của

pháp luật về lĩnh vực đó để kịp thời có biện pháp sửa chữa, cũng có thể phát

hiện nhiều sai phạm để kịp thời ngăn chặn hay có thể phát hiện những gương

điển hình có sáng tạo đột phá có thể được nhân rộng. Ngược lại, nếu xác định

không đúng đối tượng, lĩnh vực cần thanh tra sẽ dẫn đến hậu quả hoạt động

thanh tra không mang lại hiệu quả, gây tốn kém về nguồn lực, từ đó làm giảm

hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.

Giai đoạn xử lý và đôn đốc thực hiện kết luận, kiến nghị của cơ quan

thanh tra cũng phụ thuộc rất lớn và thái độ và trách nhiệm của thủ trưởng cơ

quan hành chính. Thực tế cho thấy, ở đâu thủ trưởng cơ quan hành chính quan

tâm chỉ đạo sát sao việc thực hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh

tra thì các kết luận, kiến nghị đó được thực hiện nghiêm túc, tạo ra tác động

tích cực làm thay đổi nhận thức của đối tượng thanh tra trong việc chấp hành

pháp luật, hạn chế sai phạm. Ngược lại, ở đâu thủ trưởng không quan tâm chỉ

đạo, đôn đốc thực hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra thì dường

như những kết quả của hoạt động thanh tra không phát huy được hiệu quả trên

thực tế, thậm chí cơ quan thanh tra bị coi thường. Một yếu tố nữa cũng đóng

vai trò quan trọng trong việc phát huy kết quả hoạt động thanh tra đó là nhận

thức của xã hội về vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan

trong việc bảo đảm và phát huy kết quả hoạt động thanh tra. Theo những phân

tích ở trên, có thể nói không phải cơ quan thanh tra mà chính thủ trưởng cơ

quan hành chính nhà nước mới là chủ thể đóng vai trò quan trọng và quyết

định nhất tới kết quả của hoạt động thanh tra và phát huy nó trên thực tế. Tuy

93

nhiên, nhận thức của các tổ chức khác nhau trong xã hội về vấn đề này còn

chưa thực sự đúng đắn, còn có tâm lý cho rằng cơ quan thanh tra làm việc

không nghiêm túc, phát hiện ra sai phạm nhiều nhưng lại xử lý ít, hoặc không

đôn đốc thực hiện kết luận thanh tra đến cùng. Trên thực tế, điều này hoàn

toàn phụ thuộc vào trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính. Cơ quan

thanh tra chỉ có thể chịu trách nhiệm về tính khách quan, trung thực và đúng

đắn trong các kết luận, kiến nghị của mình mà thôi.

Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân luôn gắn

liền với công tác lãnh đạo, quản lý; là một trong những yếu tố, phương thức

bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước được thi hành nghiêm chỉnh. Đồng thời, công tác thanh tra còn góp phần

quan trọng trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng như các hành vi vi

phạm trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước và trong

thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Vừa qua, Thanh

tra quận Hai Bà Trưng đã tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Thành

phố và nhiệm vụ phát triển KT-XH của Thành phố để triển khai công tác

thanh tra, kiểm tra theo đúng chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định;

tập trung vào những lĩnh vực trọng điểm, nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực,

tham nhũng, lãng phí như quản lý, sử dụng đất đai, quản lý đầu tư xây dựng

cơ bản, quản lý và khai thác tài nguyên khoáng sản, quản lý tài chính, ngân

sách, thuế; chính sách văn hoá - xã hội, tuyển dụng công chức, viên chức.

Trong những năm qua, thanh tra quận Hai Bà Trưng đã triển khai thực hiện

thanh tra công dân khiếu nại, tố cáo và phản ánh, kiến nghị chủ yếu liên quan

đến thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, cấp giấy chứng nhận quyền

sử dụng đất; tranh chấp đất đai; việc thực hiện chế độ đối với người được

hưởng chính sách thương binh, chính sách đối với người có công; khiếu nại

quyết định hành chính; tố cáo làm trái các quy định của pháp luật, lợi dụng

94

chức vụ, quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ, công vụ. Thanh tra quận Hai Bà

Trưng đã kịp thời triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ thanh tra;

tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo góp phần ổn định tình hình an ninh, trật

tự trên địa bàn.

Thanh tra quận cũng đã kịp thời tham mưu cho Uỷ ban nhân dân quận

Hai Bà Trưng ban hành các văn bản chỉ đạo về tăng cường công tác giải quyết

tranh chấp đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo trước và trong thời gian tổ chức

bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIV và bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm

kỳ 2016-2021; các Hội nghị của Trung ương Đảng, các kỳ họp của Quốc hội,

các ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh. Đã phối hợp với các cấp, các ngành

tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tập

trung rà soát và phối hợp để giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo

tồn đọng, phức tạp, kéo dài. Công tác đối thoại trong giải quyết khiếu nại được

quan tâm, tiến hành công khai dân chủ. Sự phối hợp giữa Thanh tra quận với

các ban, ngành, địa phương chặt chẽ và hiệu quả hơn trước.

Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác

thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là đơn thư khiếu nại,

tố cáo tồn động, phức tạp, kéo dài; Thanh tra quận Hai Bà Trưng tập trung

quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà

nước và Nghị quyết; Dự báo tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn quận

trong thời gian tới còn tiếp tục diễn biến phức tạp. Tình trạng khiếu nại, tố cáo

về lĩnh vực đất đai, môi trường tại những địa phương có triển khai thực hiện

các dự án về công nghiệp, giao thông, du lịch, xây dựng, nông nghiệp vẫn còn

tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bồi thường,

hỗ trợ giải phóng mặt bằng và kiến nghị liên quan đến việc tranh chấp đất đai

tại một số nơi chưa giảm. Tố cáo đối với vi phạm trong quản lý đất đai, tài

95

chính, ngân sách, thực hiện chính sách xã hội.

Để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trước hết phải nâng cao vai trò của

công tác thanh tra, kiểm tra công tác quản lý nhà nước và việc thực hiện chức

trách, nhiệm vụ được giao của cơ quan, đơn vị, địa phương. Hoạt động thanh

tra, kiểm tra chuyên ngành tập trung vào những nội dung vi phạm pháp luật

về giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai Bà Trưng:

- Thứ nhất, bảo đảm kết quả hoạt động thanh tra có chất lượng tốt. Đây

là vấn đề cốt lõi trong hoạt động thanh tra. Để làm được điều này, trước hết

cần xác định đúng mục đích của hoạt động thanh tra. Tiếp đó, khâu quan

trọng nhất cần bảo đảm chất lượng tốt là toàn bộ quá trình tiến hành một cuộc

thanh tra theo Đoàn Thanh tra. Đây chính là quá trình hoạt động đưa đến kết

quả trực tiếp là các kết luận, kiến nghị.

- Thứ hai, cần tạo ra cơ sở pháp lý quy định cụ thể hơn nữa vai trò của

thủ trưởng cơ quan hành chính trong việc bảo đảm và phát huy kết quả hoạt

động thanh tra. Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP

ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành Luật Thanh tra đã có những quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của thủ

trưởng cơ quan hành chính thể hiện ở các Điều 40, 41 trong Luật Thanh tra,

Điều 55 trong Nghị định 86. Tuy nhiên, theo những quy định như vậy có lẽ

vẫn chưa có đủ sức nặng trong việc ràng buộc trách nhiệm của thủ trưởng cơ

quan hành chính trong việc xử lý kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra.

Thiết nghĩ, cần có những quy định cụ thể hơn liên quan đến trách nhiệm của

thủ trưởng cơ quan hành chính. Ví dụ, sau khi cơ quan thanh tra gửi kết luận,

kiến nghị tới thủ trưởng cơ quan hành chính, theo thẩm quyền của mình, thủ

trưởng cơ quan hành chính xem xét, sau đó phải ban hành các quyết định

hành chính về việc thực hiện những kết luận, kiến nghị đó. Quyết định hành

chính là văn bản có giá trị pháp lý chính thức và thể hiện rõ nét nhất trách

96

nhiệm quản lý nhà nước của thủ trưởng cơ quan hành chính. Ngoài ra, cần có

quy định cụ thể hơn nữa trong việc xử lý trách nhiệm của chủ thể này trong

trường hợp không thực hiện đúng quy định của pháp luật về xử lý kết luận,

kiến nghị của cơ quan thanh tra.

- Thứ ba, cần nâng cao hơn nữa nhận thức của xã hội đối với kết quả

hoạt động thanh tra. Cụ thể là, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ

biến pháp luật về thanh tra, phân tích rõ vai trò trách nhiệm của cơ quan thanh

tra, của thủ trưởng cơ quan hành chính và các chủ thể khác có liên quan trong

việc tạo ra những kết quả thanh tra tốt, xác định vai trò quyết định của thủ

trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong việc phát huy kết quả hoạt động

thanh tra. Thực hiện triệt để việc công khai, minh bạch các kết luận, kiến nghị

của cơ quan thanh tra theo đúng quy định của pháp luật, tạo dư luận tốt đối

với kết quả làm việc của cơ quan thanh tra.

Tiểu kết Chƣơng 3

Trên cơ sở các phương hướng đặt ra, luận văn đã đề xuất những giải

pháp cơ bản, sát thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng, hiệu

quả thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính

ở Việt Nam nói chung và tại quận Hai Bà Trưng nói riêng. Trong đó, tác giả đã

đề xuất những nhóm giải pháp cụ thể như: Hoàn thiện pháp luật; nâng cao năng

lực bộ máy quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn; tăng cường công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật; xây dựng đội ngũ công chức quản lý nhà nước về đất

đai trên địa bàn quận theo hướng chuyên nghiệp; cải cách các thủ tục hành

chính; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan. Từ những thực tiễn về quản lý

nhà nước trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn quận Hai

Bà Trưng, với những quan điểm, giải pháp trên nhằm góp phần nâng cao chất

lượng hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai nói chung và

97

giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Ở Việt Nam, đất đai là một loại tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân

do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền

sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai. Việc sử

dụng đất là vấn đề thường hay phát sinh tranh chấp trên thực tế. Đối tượng

của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát

sinh từ quá trình sử dụng loại tài sản đặc biệt này. Tranh chấp đất đai luôn gắn

liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể nên không chỉ ảnh hưởng đến

lợi ích của các bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà

nước.Trong quá trình thực hiện Luật Đất đai năm 2013, các quy định về giải

quyết tranh chấp đất đai ít nhiều đã bộc lộ những điểm bất cập, cần có sự điều

chỉnh cho phù hợp với nhu cầu sử dụng đất và làm tăng hiệu quả quản lý đất

đai của các cơ quan nhà nước. Tranh chấp đất đai là một vấn đề rất phức tạp

và đã tồn tại qua nhiều thời kỳ tại nước ta, diễn ra ở khắp mọi nơi, mọi cấp từ

các vùng nông thôn cho đến các đô thị với nhiều hình thức khác nhau. Từ

thực tế tại quận Hai Bà Trưng đã cho thấy được bức tranh về tình hình tranh

chấp đất đai tại các đô thị lớn, việc giải quyết của các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền, các ưu điểm và hạn chế trong quá trình giải quyết. Trong nội

dung của luận văn đã đề cập đến một số giải pháp theo quan điểm của tác giả

dựa trên thực tế tại địa bàn quận Hai Bà Trưng nói riêng và phần nào tương

đồng với thực tế tại các đô thị lớn hiện nay ở nước ta nhằm giải quyết các vấn

đề đối với thực tiễn của đời sống của nhân dân trên địa bàn, hướng tới việc

góp phần ổn định đời sống, tình hình kinh tế an ninh trật tự xã hội trên địa bàn

quận Hai Bà Trưng góp phần cho sự phát triển nói riêng của quận Hai Bà

Trưng và nói chung của thành phố Hà Nội.

Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai của Quận hai Bà trưng, tác giả

98

xin đề xuất một số kiến nghị với UBND TP Hà Nội như sau:

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai, hiện nay tuy

Quốc Hội đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về đất đai nhưng các quy

định còn tản mạn, chồng chéo, thiếu sự thống nhất. Do đó, cần giao nhiệm vụ

cho các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu soạn thảo và ban hành các quy

phạm pháp luật về đất đai cho phù hợp với điều kiện phát triển mới của đất

nước. Đây là một phương diện rất quan trọng bởi lẽ khi xây dựng được một

hệ thống pháp luật cả về nội dung và hình thức đầy đủ, cụ thể và có chất

lượng thì đó là cơ sở pháp lý để Tòa án nhân dân áp dụng pháp luật, thi hành

pháp luật đúng đắn, thống nhất và có hiệu quả cao.

Thứ hai: Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất chính trị,

đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ công chức cán bộ. Trong mọi công việc, vấn

đề cán bộ - con người là nhân tố quan trọng, trung tâm và “động” nhất của

mọi lĩnh vực. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công

tác cán bộ vì “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công việc thành công hay

thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Do vậy, đòi hỏi cán bộ công chức phải

có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết xã hội rộng, kỹ năng thuần thục và đạo

đức nghề nghiệp trong sáng trong việc áp dụng pháp luật nhằm bảo vệ công

lý, mang lại sự công bằng, đảm bảo xã hội được ổn định và phát triển.

Thứ ba: Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao trình độ nghiệp vụ

(nhất là tập tuấn chuyên sâu các chuyên đề về lĩnh vực tranh chấp và kỹ năng

giải quyết tranh chấp đất đâi) cho đội ngũ cán bộ công chức, cập nhật các văn

bản hướng dẫn áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp cấp trên. Tiếp tục

quán triệt những chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính phủ đề ra.Việc bồi

dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là đội ngũ công chức

tiếp dân là một trong những khâu then chốt để bảo đảm công tác giải quyết

99

các tranh chấp đất đai đạt hiệu quả cao.

Thứ tư: Xây dựng được nội dung bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ giải

quyết tranh chấp đất đai có chất lượng, thiết thực đối với những người tham

gia lớp tập huấn là khâu trọng tâm nhất có ý nghĩa quyết định đến kết quả của

công tác này. Việc bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ giải quyết tranh chấp đất

đai phải có trọng tâm, trọng điểm và phải đáp ứng được những yêu cầu đề ra.

Thứ Năm: Tăng cường công tác tổng kết, rút kinh nghiệm, tăng cường

sự phối hợp giữa cán bộ công chức trong hoạt động thụ lý tranh chấp đất đai.

Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng thụ lý, giải

quyết và thống nhất áp dụng pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan

trọng của cán bộ công chức. Việc tổng kết rút kinh nghiệm, tìm ra những hạn

chế, nguyên nhân nhân và giải pháp khắc phục những hạn chế trong hoạt

động giải quyết tranh chấp đất đai có ý nghĩa rất quan trọng đối với yêu cầu

bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật của hoạt động này. Bên cạnh việc tổng

kết hàng năm, theo định kỳ (hàng tháng, hàng quý) cán bộ công chức cũng

cần tự đánh giá, phân tích xác định nguyên nhân và trách nhiệm trong việc

giải quyết tranh chấp đất đai không có căn cứ pháp luật để có biện pháp khắc

phục và xử lý kịp thời.

Từ thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai, qua các nội dung còn tồn

tại bất cập, chưa phù hợp trong luận văn trên thì Luật Đất đai năm 2013 cần

có sự điều chỉnh một số nội dung liên quan đến các vấn đề thuộc thẩm quyền

của UBND cấp xã và cơ quan chuyên môn khác như sau:

- Sửa đổi, bổ sung đối với các quy định liên quan đến hoạt động hòa

giải của UBND cấp xã, phường theo hướng:

+ Bổ sung quy định về cơ quan tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai thay

cho UBND cấp xã ở những địa bàn không có đơn vị hành chính cấp xã, phường.

+ Bổ sung quy định đối với trường hợp UBND cấp xã, phường nơi có

100

đất tranh chấp tổ chức buổi hòa giải nhưng một trong các bên hoặc hai bên

đương sự vắng mặt không có lý do chính đáng thì UBND cấp xã, phường vẫn

sẽ tiến hành hòa giải vắng mặt, lập biên bản hòa giải mà không có chữ ký của

bên vắng mặt, sau đó tống đạt văn bản đến bên vắng mặt trong buổi hòa giải;

+ Đối với trường hợp tranh chấp đất đai đã được tổ chức hòa giải thành

nhưng sau đó một trong các bên lại thay đổi ý kiến không chấp nhận kết quả

hòa giải thành thì không cần tiếp tục các thủ tục hòa giải vì một bên tranh

chấp đã không có thiện chí chấp hành sự thỏa thuận của các bên, nếu tiếp tục

hòa giải chỉ làm kéo dài quá trình giải quyết vụ việc. Trong trường hợp này,

nên bổ sung quy định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải

thành tại UBND cấp xã, nếu các bên không có ý kiến gì thì mặc nhiên biên

bản thỏa thuận đó được công nhận, các bên phải thực hiện nội dung đã thỏa

thuận. Trường hợp trong thời hạn 30 ngày mà một trong các bên có thay đổi

về kết quả hòa giải trước đó thì UBND cấp xã tiến hành hòa giải lại và đây là

lần hòa giải sau cùng. Trường hợp sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa

giải thành, nếu một trong các bên tranh chấp có căn cứ để chứng minh biên

bản hòa giải đó vi phạm thủ tục thì có quyền nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa

án tuyên hủy biên bản hòa giải thành này và Tòa án chỉ xem xét về mặt thủ

tục đối với biên bản hòa giải thành đã lập, không xem xét lại nội dung hòa

giải mà các bên đã thỏa thuận với nhau.

- Sửa đổi theo hướng bãi bỏ thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa

án đối với trường hợp đất tranh chấp chưa có bất cứ loại giấy tờ tài liệu nào

về quyền sử dụng đất.

- Bổ sung các quy định về trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong hoạt

động phối hợp giải quyết tranh chấp đất đai, cụ thể là:

+ Bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý đất đai trong

hoạt động phối hợp giải quyết tranh chấp với Tòa án và các cơ quan liên

101

quan; trong đó quy định cụ thể trách nhiệm và thời gian thực hiện công tác

phối hợp xác minh, cung cấp thông tin của cơ quan quản lý đất đai khi có

yêu cầu;

+ Bổ sung chế tài cụ thể liên quan đến hành vi không thực hiện, chậm

trễ thực hiện và thực hiện gây haauk quả xấu ảnh hưởng đến quyền và lợi ích

hợp pháp của các đương sự trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục giải

quyết tranh chấp đất đai;

+ Bổ sung quy định về cơ chế xử lý trách nhiệm đối với những trường

hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang nắm giữ tài liệu, chứng cứ về đất

tranh chấp của vụ án mà thiếu sự hợp tác để bảo đảm cho việc giải quyết vụ

102

án được nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đúng pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình: Giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực quản lý

đất đai - phát hiện vi phạm và xử lý vướng mắc, Khoa Tài nguyên và Môi

trường nông nghiệp trường Đại học Huế của tiến sĩ Nguyễn Hữu Ngữ.

2. Trần Quang Huy: Luật đất đai năm 2003 và vấn đề hội nhập kinh tế

quốc tế, Tạp chí luật học số 3/2005.

3. UBND quận Hai Bà Trưng (2021), Báo cáo kết quả tình hình thực hiện

nhiệm vụ kinh tế-xã hội, an ninh- quốc phòng quận Hai Bà Trưng năm 2021.

4. UBND quận Hai Bà Trưng (2021): Báo cáo thống kê, kiểm kê đất

đai, tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức quận Hai Bà Trưng.

5. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Hai Bà Trưng (2022): Báo

cáo tổng hợp về đơn thư trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, tháng

6/2022, HBT.

6. Tổng cục Thống kê (2010), Báo cáo Tổng điều tra đất đai năm 2010.

7. Tô Văn Châu năm (2003): Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp

luật đối với đất đai ở Việt Nam hiện nay, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

8. Hội thảo khoa học 15/3/2022 “Tiếp tục đổi mới chính sách đất đai

theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng” PGS.TS. Bùi Nhật Quang,

9. Luận án (2015) Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân

trong giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn Hà Nội của Ths. Hoàng Liên Sơn

10. Luận văn (2020) Pháp luật giải quyết tranh chấp về đất đai tại Toà

án nhân dân tỉnh Thái Bình của Ths. Nguyễn Thị Quỳnh

11. Bộ Luật tố tụng dân sự 2015;

12. Luật đất đai 2013;

103

13. Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2013;

14. Nghị định 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số Nghị định

hướng dẫn Luật đất đai.

15. Đề tài: “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu

quả giải quyết tranh chấp đất đai trong giai đoạn hiện nay” của văn phòng

Tổng Cục quản lý đất đai ngày 27/10/2014 trên báo online Bộ Tài Nguyên

Môi Trường.

16. Giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của luật đất đai hiện

hành ngày 19/11/2018 của Bộ Tư Pháp.

17. . Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua cơ quan hành

chính nhà nước trên địa bàn huyện Thanh Trì - Hà Nội của Ths. Trần Thanh

Thủy Năm 2009

18. Pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất qua thực tiễn

tại Tòa án Nhân dân tỉnh Kiên Giang của Ths Nguyễn Thanh Triều năm 2021.

19. Bùi Huyền (2012), "Một số bất cập của pháp luật đất đai hiện hành

và kiến nghị hoàn thiện", Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề pháp luật về

đất đai).

20. Doãn Hồng Nhung (2011), "Chế định sở hữu đất đai qua các thời kỳ

và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước với đất đai", Nghiên cứu lập pháp.

21. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tổng

cục Địa chính (1997), Thông tư liên tịch số 02/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-

TCĐC ngày 28/7 hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp

trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản

3 Điều 38 Luật Đất đai, Hà Nội.

22. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

23. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận chung về

104

Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hành chính

Nhà nước, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Nguyễn Quang Tuyến (1996), "Một vài suy nghĩ về luật đất đai

105

năm 2003", Luật học, tr 22- 24.