ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
VŨ HOÀI THU
PH¸P LUËT VÒ GIAO DÞCH Cæ PHIÕU NI£M YÕT
TR£N THÞ TR¦êNG CHøNG KHO¸N TËP TRUNG ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
VŨ HOÀI THU
PH¸P LUËT VÒ GIAO DÞCH Cæ PHIÕU NI£M YÕT
TR£N THÞ TR¦êNG CHøNG KHO¸N TËP TRUNG ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUYẾN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
VŨ HOÀI THU
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP
TRUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU NIÊM
YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG .......... 9
1.1. Những vấn đề lý luận về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung .......................................................... 9
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cổ phiếu niêm yết ..................................... 9
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung ............................................................. 12
1.1.3. Các nguyên tắc, điều kiện và phương thức giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ................................. 15
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung .................................... 21
1.2.1. Khái niệm và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ....................... 21
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung ............................................................. 24
1.2.3. Nguồn của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung ............................................................. 31
1.2.4. Các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến việc điều chỉnh bằng pháp luật đối
với giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ...... 33
Kết luận chương 1 ......................................................................................... 36
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU
NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP
TRUNG Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ................. 38
2.1. Thực trạng pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam .................................... 38
2.1.1. Thực trạng quy định về đối tượng giao dịch cổ phiếu niêm yết
trên thị trường chứng khoán tập trung ................................................ 39
2.1.2. Thực trạng quy định về chủ thể tham gia giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung .......................................... 42
2.1.3. Thực trạng quy định về nguyên tắc và phương thức giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ....................... 46
2.1.4. Thực trạng quy định về việc ký kết và thực hiện các hợp đồng
trong giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung............................................................................................... 51
2.1.5. Thực trạng quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp
phát sinh từ giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung ................................................................................... 56
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ........................... 59
2.2.1. Các kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ........... 59
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp luật về
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung....... 62
Kết luận chương 2 ......................................................................................... 70
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG TẠI VIỆT NAM .... 72
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam ................ 72
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam ...... 76
Kết luận chương 3 ......................................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, thị trường cổ phiếu đang ngày càng được
quan tâm hơn cùng với sự khởi sắc của thị trường, tốc độ vốn hóa gia tăng
mạnh mẽ và tiến trình niêm yết của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhà nước quy mô lớn sau khi cổ phần hóa. Theo số liệu của Ủy ban
CKNN, năm 2017, tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 3,36 triệu tỷ
đồng, tương đương 74.6% GDP, tăng 73% so với năm 2016 và gấp 7 lần so
với 10 năm trước (2007) cho thấy vai trò của thị trường chứng khoán, đặc biệt
là cổ phiếu niêm yết đang ngày càng trở nên có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế Việt Nam [35].
Sang đến năm 2018, thị trường chứng khoán chứng kiến tình trạng biến
động mạnh nhất trong 10 năm kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008. Đây là năm đầu tiên thị trường chứng khoán suy giảm, sau 5 năm liên
tiếp trước đó chỉ số chứng khoán song hành với đà tăng trưởng của nền kinh
tế, đạt mức tăng trưởng cao, có năm lên đến 47% (năm 2017). Trong đó, các
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung được xem
là các hoạt động cốt lõi tạo nên sự tăng trưởng của thị trường này. Đây là
những yếu tố nền tảng để đảm bảo cho thị trường chứng khoán trở tăng
trưởng mạnh mẽ và đóng góp hơn nữa vào nền kinh tế Việt Nam.
Trên thị trường cổ phiếu, tính chung 06 tháng đầu năm 2019, mức tăng
điểm của TTCK Việt Nam vẫn cao hơn so với một số nước trong khu vực,
được đánh giá là điểm hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Quy
mô vốn hóa của thị trường 6 tháng đầu năm 2019 đạt 4,34 triệu tỷ đồng. Về
công tác huy động vốn và hoạt động đấu giá, trong 6 tháng đầu năm
2019, tổng giá trị huy động vốn qua TTCK đạt hơn 150 nghìn tỷ đồng, tăng
1
29% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường chứng khoán tập trung cũng đang
thu hút được dòng vốn lớn của NĐTNN, ước đạt 1,2 tỷ USD, số lượng tài
khoản của nhà đầu tư tiếp tục gia tăng đạt hơn 2,28 triệu tài khoản, tăng 4,7%
so với cuối năm 2018, trong đó số lượng tài khoản của NĐTNN tăng 7%. Qua
đó thể hiện rõ vai trò và hiệu quả của thị trường chứng khoán tập trung và
việc thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết.
Bên cạnh đó, Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã
tạo lập được khuôn khổ pháp lý cơ bản có hiệu lực cao, phù hợp với thực tiễn
và tương đối đầy đủ về các vấn đề như hoạt động chào bán chứng khoán,
niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán
và TTCK, quản lý nhà nước, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến chứng khoán và TTCK. Qua đó,
tạo điều kiện thuận lợi cho TTCK Việt Nam phát triển trở thành kênh huy
động vốn trung và dài hạn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội,
góp phần dần hình thành một hệ thống tài chính hiện đại trên nền tảng hài hòa
giữa TTCK và thị trường tiền tệ - tín dụng [49].
Tuy nhiên, Luật chứng khoán năm 2006 ra đời khi TTCK mới hình
thành, quy mô thị trường nhỏ bé, các sản phẩm, dịch vụ của thị trường chưa
đa dạng, chứng khoán vẫn còn là lĩnh vực mới với đa số người dân Việt
Nam. Vì vậy, Luật chứng khoán chỉ đáp ứng được giai đoạn đầu của TTCK
với những nội dung cơ bản nhất, phù hợp với một thị trường mới hoạt động
với các công cụ chứng khoán, các hoạt động giao dịch cũng như hệ thống
quản lý còn đơn giản. Thực tế sau 10 năm phát triển, TTCK đã thay đổi cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc ban hành các quy định pháp lý nhìn chung
đều có độ trễ so với mục tiêu đề ra. Trong quá trình TTCK vận hành, đã phát
sinh một số vấn đề mới chưa được Luật chứng khoán điều chỉnh. Bên cạnh
đó, các Bộ luật, Luật chuyên ngành khác (Bộ luật dân sự năm 2015, Luật
2
doanh nghiệp năm 2014, Luật đầu tư năm 2014, Luật xử lý vi phạm hành
chính…) đã được sửa đổi, bổ sung với một số quy định liên quan đến chứng
khoán và TTCK [52].
Trong bối cảnh TTCK các nước trên thế giới và khu vực phát triển
mạnh mẽ, tạo khoảng cách với TTCK Việt Nam, đặc biệt là khoảng cách giữa
hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK ở Việt Nam so với chuẩn mực
và thông lệ quốc tế, nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên trong
Luật chứng khoán và quá trình thi hành Luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống
nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam, cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về
chứng khoán trên cơ sở phát huy ưu điểm và khắc phục các hạn chế của Luật
chứng khoán hiện hành. Thực tiễn thi hành Luật chứng khoán trong hơn 10
năm qua cho thấy còn nhiều hạn chế. Theo đó, một số quy định của Luật
chứng khoán điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán, đặc biệt là giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung hiện nay còn
thiếu minh bạch, rõ ràng, thiếu tính hệ thống, không còn phù hợp trước sự
phát triển không ngừng của TTCK và yêu cầu của nhà đầu tư, dẫn đến bất
cập, vướng mắc trong thực tiễn thi hành Luật.
Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam” làm đề tài luận
văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tổng hợp tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài được chọn, có
thể thấy rằng trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài. Điển hình là các công trình nghiên
cứu sau đây:
- Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài: “Hợp đồng mua bán chứng
khoán theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Phương, năm 2017.
Công trình nghiên cứu đã chỉ ra được các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
3
đến hợp đồng mua bán chứng khoán theo pháp luật Việt Nam;
- Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài: “Đặc điểm pháp lý của việc giao
kết hợp đồng mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung tại
Việt Nam” của tác giả Tạ Thị Bình, năm 2001. Công trình nghiên cứu đã chỉ
ra được các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đặc điểm pháp lý của
việc giao kết hợp đồng mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập
trung tại Việt Nam;
- Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài: “Pháp luật xử lý các vi phạm
trong lĩnh vực mua bán chứng khoán đối với các tổ chức, cá nhân trên thị
trường chứng khoán” của tác giả Phạm Phú Thành năm 2018. Công trình này
đã nghiên cứu và chỉ ra các sai phạm, các hành vi vi phạm cần phải tiến hành
xử phạt theo đúng quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động mua bán
chứng khoán.
- Luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài: “Phân tích những nhân tố ảnh
hưởng đến giá cổ phiếu niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ
Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Mỹ.... Công trình nghiên cứu đã chỉ ra
được các tác nhân ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến giá cổ phiếu niêm yết
và thực tiễn tại sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh.
- Luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài: “Nhận dạng và đo lường rủi ro
trong đầu tư cổ phiếu niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh” của tác giả Bùi Thi Lệ. Công trình nghiên cứu đã nghiên cứu rõ
các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến việc nhận dang và xác định rủi
ro trong đầu tư cổ phiếu niêm yết.
Có thể nhận thấy, các công trình nghiên cứu kể trên đã tập trung nghiên
cứu và làm sáng tỏ các khía cạnh của hoạt động mua bán chứng khoán và hợp
đồng mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt
Nam. Tuy nhiên, vẫn còn các vấn đề khác mà các công trình nghiên cứu
không đề cập đến liên quan đến tổng quan về hoạt động giao dịch cổ phiếu
4
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam.
Những công trình khoa học trên là tài liệu rất hữu ích đã hỗ trợ tác giả
có thêm nhiều thông tin quan trọng, làm sáng tỏ quan điểm và tư duy phục vụ
cho việc nghiên cứu luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng rõ các vấn đề lý luận và
thực tiễn liên quan đến pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam. Trọng tâm của công trình nghiên
cứu này là tìm hiểu về hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết được thực hiện
như thế nào trên thị trường chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật
hiện hành và thực tiễn phát sinh. Trên có sở đó tác giả đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung tại Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu
của luận văn là:
- Phân tích, luận giải và làm sáng tỏ hơn các vấn đề lý luận về cổ phiếu
và cổ phiếu niêm yết; giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường tập trung;
làm sáng tỏ các khía cạnh: khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, điều kiện,
phương thức... của cổ phiếu niêm yết và hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm
yết. Bên cạnh đó, công trình cũng sẽ phân tích, lý luận chung và toàn diện về
pháp luật điều chỉnh hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung tại Việt Nam.
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật về toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động giao dịch mua bán cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam, đồng thời công
5
trình cũng sẽ chỉ ra những vướng mắc trên thực tế, những hạn chế và bất cập
của pháp luật hiện hành trong quá trình thực hiện pháp luật. Trên cơ sở đó, tác
giả cũng sẽ đưa ra đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm, học thuyết, ý kiến
đánh giá liên quan đến giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung tại Việt Nam; các quy định pháp luật hiện hành về giao dịch cổ phiếu
niêm yết và thực tiễn thực hiện các quy định đó ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Do nội dung nghiên cứu của đề tài liên quan đến đối tượng là hoạt động
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt
Nam, vốn được xem là rộng và phức tạp, mang tính chuyên môn sâu cả về
kinh tế lẫn pháp luật nên tác giả xác định phạm vi nghiên cứu của luận văn
chỉ bao gồm các vấn đề chính sau đây:(i)Những vấn đề lý luận về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung và pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung; (ii) Thực trạng
pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 2006 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Công trình nghiên cứu thực hiện dựa trên việc kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học có tính phổ biến trong khoa học xã hội và
nhân văn như: phương pháp phân tích các quy định của pháp luật, phân tích
thực trạng của hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết; phương pháp tổng hợp
các quy định của pháp luật, tổng hợp số liệu về giao dịch cổ phiếu niêm yết,
6
tổng hợp quan điểm lý luận về giao dịch cổ phiếu; phương pháp diễn giải, so
sánh, hệ thống các quan điểm, lập luận và ý kiến về giao dịch cổ phiếu niêm
yết, so sánh các quy định của pháp luật có liên quan, hệ thống hóa các quy
định pháp luật, thực trạng và giải pháp của hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm
yết,... để chứng minh cho những luận điểm được đưa ra trong luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có những ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau:
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận về
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung và cơ chế
điều chỉnh pháp luật đối với giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung. đưa ra các đề xuất, kiến nghị pháp lý cụ thể và định hướng
hoàn thiện pháp luật dựa trên cơ sở hoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện
các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán nói chung, góp phần tăng cao hiệu quả điều chỉnh
pháp luật, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho chứng khoán phát triển.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá thực trạng
khung pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
trung để từ đó đưa ra các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giao dịch
cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề tài cung cấp nhiều thông tin thực tiễn và từ đó làm rõ tổng
quan về thực tiễn giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
trung ở Việt Nam – một trong những hoạt động cơ bản của thị trường chứng
khoán đang ngày càng phát triển mạnh mẽ hiện nay. Bên cạnh đó đề tài cũng
phân tích một số khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình giao dịch cổ
phiếu niêm yết tại các sàn giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung,
thông qua đó góp phần giúp cho thị trường chứng khoán có thể phát triển
7
nhanh và mạnh mẽ hơn nữa.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung và pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết
trên thị trường chứng khoán tập trung.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao dịch
8
cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG VÀ PHÁP
LUẬT VỀ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG
1.1. Những vấn đề lý luận về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của cổ phiếu niêm yết
Khái niệm cổ phiếu
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các thị trường
chứng khoán trên thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã và đang
có những bước tiến mạnh mẽ trên con đường khẳng định giá trị và vai trò
kinh tế của mình. Đi lên cùng thị trường chứng khoán là sự gia tăng không
ngừng các loại hàng hóa trên thị trường này, trong đó chủ yếu là cổ phiếu của
các công ty niêm yết [17, tr.17].
Với tư cách là một sản phẩm gắn liền với lịch sử hình thành và sự phát
triển của công ty cổ phần – cổ phiếu chính là sản phẩm đặc trưng riêng của
loại hình doanh nghiệp này trong nền kinh tế. Để hình thành vốn điều lệ của
công ty cổ phần khi mới thành lập hoặc tăng vốn điều lệ này trong quá trình
hoạt động, công ty cổ phần sẽ phát hành cổ phiếu cho các cổ đông nhằm xác
nhận việc góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần và do đó là bằng
chứng chứng minh quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần.
Về phương diện lý thuyết, có thể quan niệm như thế nào về cổ phiếu?
Câu trả lời là tùy thuộc vào cách tiếp cận mà cổ phiếu có thể được quan
niệm theo nhiều cách khác nhau.
9
Dưới góc độ kinh tế, cổ phiếu phản ánh giá trị phần vốn góp của chủ sở
hữu nó đối với công ty cổ phần, giá trị cổ phiếu trên thị trường phản ánh giá
trị tương đối của công ty cổ phần đã phát hành ra nó. Tổng giá trị cổ phiếu
thuộc sở hữu của mỗi cổ đông phản ánh tỷ lệ vốn góp của cổ đông đó trong
công ty cổ phần.Cổ phiếu được xem như một loại tài sản đầu tư của cổ đông
và có thể chuyển nhượng trên thị trường chứng khoán.
Dưới góc độ pháp lý, cổ phiếu được xem như chứng cứ pháp lý
chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với công ty cổ phần khi
người đó góp vốn vào công ty để trở thành một trong số các chủ sở hữu của
công ty [20, tr.23].
Từ sự phân tích trên đây, có thể cho rằng định nghĩa về cổ phiếu nói
riêng và chứng khoán nói chung trong Điều 6 Luật chứng khoán đang bộc lộ
sự bất cập về phương diện học thuật, khiến cho nhiều người hiểu nhầm về bản
chất của chứng khoán nói chung và cổ phiếu nói riêng.
Với tư cách là một loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự, cổ
phiếu có thể được giao dịch trên thị trường như một loại hàng hóa đặc biệt –
hàng hóa “chứng khoán” hay giấy tờ có giá.
Từ kết quả phân tích trên đây về khái niệm cổ phiếu, tác giả luận văn
cho rằng có thể định nghĩa về cổ phiếu như sau:
Cổ phiếu là giấy tờ có giá do công ty cổ phần phát hành cho các cổ
đông nhằm xác nhận việc góp vốn của cổ đông đối với công ty cổ phần và
qua đó xác nhận quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần.
Với bản chất là tài sản, đồng thời là chứng cứ pháp lý xác nhận quyền
sở hữu của cổ đông đối với công ty cổ phần, cổ phiếu luôn có tính thanh
khoản cao trên thị trường chứng khoán và giá trị của nó không chỉ phản ánh
mối quan hệ cung cầu của thị trường chứng khoán, mà còn phản ánh kết quả
10
kinh doanh của công ty cổ phần đã phát hành ra nó.
Khái niệm cổ phiếu niêm yết
Trong số các loại cổ phiếu được phát hành bởi công ty cổ phần và được
giao dịch trên thị trường chứng khoán, có một loại cổ phiếu được gọi là “cổ
phiếu niêm yết”.Về bản chất, cổ phiếu niêm yết là loại cổ phiếu được phát
hành bởi công ty cổ phần là công ty đại chúng và công ty này đã đăng ký
niêm yết cổ phiếu đó trên thị trường tập trung để giao dịch theo đúng quy
định của pháp luật.
Ở mức độ khái quát, có thể đưa ra khái niệm về cổ phiếu niêm yết như sau:
Cổ phiếu niêm yết là cổ phiếu được phát hành bởi công ty đại chúng,
được công ty đại chúng niêm yết giao dịch trên thị trường chứng khoán tập
trung theo quy định của pháp luật chứng khoán.
Về lý thuyết, cổ phiếu niêm yết có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cổ phiếu niêm yết là loại cổ phiếu được phát hành bởi các
công ty cổ phần phát hành chứng khoán niêm yết – gọi là công ty đại chúng.
Để có thể lưu thông cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung,
công ty phải tiến hành các thủ tục niêm yết cổ phiếu trên các sàn giao dịch,
nơi các hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết được diễn ra. Và chỉ khi các
doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các thủ tục về niêm yết cổ phiếu, các cổ phiếu
được niêm yết mới có thể lưu thông trên thị trường riêng của nó với tên gọi cổ
phiếu niêm yết.
Thứ hai, cổ phiếu niêm yết là đối tượng được giao dịch trên thị trường
chứng khoán tập trung, có chất lượng tốt và do đó mang tính thanh khoản rất
cao. Cổ phiếu niêm yết thường được các công ty có uy tín, hiệu quả kinh
doanh tốt và liên tục trong thời gian dài, do đó khi tham gia vào thị trường
chúng dễ dàng được mua đi, bán lại, hay nói cách khác là dễ dàng được giao
dịch trên thị trường. Do đó, các nhà đầu tư tin tưởng vào mức độ sinh lời, khả
11
năng thu hồi vốn của chứng khoán niêm yết. Cũng bởi vậy mà tính thanh
khoản của những cổ phiếu này được đánh giá là cao hơn so với những cổ
phiếu chưa niêm yết.
Thứ ba, cổ phiếu niêm yết phải đáp ứng các tiêu chuẩn rất khắt khe
theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Do
đó cổ phiếu này luôn được xem là một loại hàng hóa tiềm năng lưu thông
trên một thị trường tăng trưởng tốt – đó là thị trường chứng khoán tập trung.
Mặc dù không phải cổ phiếu của doanh nghiệp nào cũng có thể mang lại
hiệu quả cho việc đầu tư của các nhà đầu tư sau một thời gian niêm yết trên
thị trường chứng khoán, nhưng hầu như các công ty tiến hành niêm yết cổ
phiếu thông thường là những công ty đã củng cố được nội lực cũng như
mang nền tảng giá trị tốt cả về giá trị kinh tế cũng như uy tín của doanh
nghiệp. Do đó, xét về tầm nhìn dài hạn, các doanh nghiệp luôn hướng tới giá
trị lợi nhuận lớn, đồng nghĩa với việc giá trị cổ phiếu cũng sẽ tăng so với
mức giá tại thời điểm trước khi niêm yết.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung
Dưới góc độ pháp lý, giao dịch cổ phiếu niêm yết có bản chất là một
loại giao dịch dân sự, trong đó đối tượng giao dịch chính là cổ phiếu đã được
niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán [2].
Giao dịch cổ phiếu niêm yết được xác lập giữa các chủ thể bao gồm
bên bán – bên nắm giữ cổ phiếu niêm yết và bên mua – bên có tiền và có nhu
cầu mua cổ phiếu đã niêm yết để mong muốn tìm kiếm lợi nhuận từ việc đầu
tư. Tại các sàn giao dịch chứng khoán, hoạt động mua bán chứng khoán
không phải trực tiếp diễn ra giữa những người muốn mua và bán chứng khoán
với nhau mà thường do các nhà trung gian môi giới thực hiện theo yêu cầu
của bên mua và bên bán trên cơ sở hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán.
Về phương diện lý thuyết, có thể đưa ra khái niệm về giao dịch cổ
12
phiếu niêm yết như sau:
Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung là
hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết được thiết lập giữa bên bán và bên mua
thông qua phương thức giao dịch qua trung gian tại một thị trường giao dịch
tập trung, thống nhất và có tổ chức.
Về lý thuyết, giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các giao dịch cổ phiếu niêm yết được xác lập và thực hiện trên
một thị trường giao dịch đặc biệt – đó là thị trường chứng khoán tập trung.
Giao dịch cổ phiếu niêm yết về bản chất cũng là giao dịch dân sự. Tuy
nhiên, khác với các giao dịch dân sự thông thường vốn diễn ra thường xuyên,
liên tục tại bất cứ địa điểm, thời gian nào do các bên thỏa thuận thì các giao
dịch cổ phiếu niêm yết phải được tiến hành trên thị trường chứng khoán tập
trung là các SGDCK và TTGDCK trong một khoảng thời gian nhất định, phải
tuân theo quy chế giao dịch của thị trường này. Điều này đảm bảo cho hoạt
động quản lý về các giao dịch cổ phiếu niêm yết được thực hiện một cách tập
trung, dưới sự giám sát chặt chẽ của đơn vị có thẩm quyền, hạn chế tối đa các
giao dịch tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo cho quyền và lợi ích của các thủ thể tham
gia giao dịch được toàn vẹn [2].
Thứ hai, các chủ thể tham gia vào giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung là những chủ thể riêng chỉ có trong hoạt động
mua bán cổ phiếu niêm yết.
Đối với các giao dịch cổ phiếu niêm yết, một đặc trưng quan trọng là
chủ thể tham gia vào các giao dịch này được xác định cụ thể với từng tên gọi
và chức năng, vai trò riêng biệt khi tiến hành hoạt động mua bán cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Hay nói cách khác, để giao
dịch cổ phiếu niêm yết thì chỉ có các chủ thể này mới có quyền thực hiện các
13
giao dịch tại thị trường chứng khoán tập trung. Các chủ thể tham gia giao dịch
cổ phiếu niêm yết bao gồm: Nhà đầu tư (đóng vai trò bên bán),Nhà đầu tư
(đóng vai trò bên mua) và các tổ chức kinh doanh chứng khoán (đóng vai trò
trung gian trên thị trường chứng khoán để mua hộ hoặc bán hộ chứng khoán
cho các nhà đầu tư).
Thứ ba, giao dịch cổ phiếu niêm yết luôn được thực hiện thông qua
phương thức giao dịch qua trung gian.
Theo phương thức này, người bán và người mua chứng khoán (cổ
phiếu niêm yết) không trực tiếp gặp nhau để giao dịch, đàm phán trực tiếp với
nhau mà việc mua bán đó đều được thực hiện thông qua các hợp đồng ủy thác
cho các tổ chức kinh doanh chứng khoán – với vai trò là bên trung gian trong
các giao dịch mua bán cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Tùy
thuộc vào nội dung các lệnh đặt mua và lệnh đặt bán được đưa ra bởi nhà đầu
tư, tổ chức trung gian sẽ thực hiện các lệnh này theo đúng yêu cầu của bên
mua và bên bán, nếu các yêu cầu đó phù hợp với giá cả của các loại cổ phiếu
niêm yết đã được xác định sau khi khớp lệnh theo quy chế giao dịch của thị
trường chứng khoán.
Thứ tư, giao dịch cổ phiếu niêm yết có đối tượng giao dịch đặc biệt –
đó chính là các cổ phiếu đã được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Về lý thuyết, cổ phiếu niêm yết có những đặc điểm khác biệt so với các
loại cổ phiếu chưa niêm yết, như đã phân tích ở mục 1.1.1 của luận văn này.
Những đặc điểm đó không chỉ gắn với cơ chế niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán, mà còn gắn liền với tình trạng tài chính cũng như kết quả kinh
doanh của chủ thể phát hành ra nó – đó là các công ty đại chúng [27].
Thứ năm, giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị chứng khoán tập trung
được thực hiện với quy trình và hình thức của giao dịch riêng biệt.
Với đặc thù của đối tượng giao dịch là cổ phiếu niêm yết, là một loại tài
14
sản đặc biệt khác so với những tài sản thông thường được lưu hành tự do
trong xã hội dân sự, các giao dịch về cổ phiếu niêm yết được thực hiện mang
giá trị lớn và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường kinh tế của quốc gia,
do đó, khi thực hiện các giao dịch này cần được tuân thủ theo đúng quy trình,
thủ tục và hình thức mà pháp luật quy định. Các quy trình, thủ tục và hình
thức của giao dịch mà các bên buộc phải thực hiện chính là các nguyên tắc
giao dịch được xác định tại các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Việc xác định
quy trình và hình thức giao dịch riêng biệt này nhằm đảm bảo cho hiệu quả
của giao dịch được phát huy, thúc đẩy sự phát triển ổn định của thị trường
giao dịch cũng như bảo vệ sự an toàn của nền kinh tế quốc gia.
Tóm lại, với những đặc điểm trên, giao dịch cổ phiếu niêm yết không
chỉ là một phương thức nhằm thỏa mãn nhu cầu của các nhà đầu tư (bên mua
và bên bán), mà còn đem lại nguồn lợi nhuận ổn định cho các tổ chức kinh
doanh doanh khoán khi thực hiện các dịch vụ chứng khoán cho khách hàng
trên thị trường chứng khoán.
1.1.3. Các nguyên tắc, điều kiện và phương thức giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
1.1.3.1. Các nguyên tắc giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung
Nguyên tắc giao dịch qua trung gian
Trên thị trường chứng khoán tập trung, tất cả các giao dịch chứng
khoán nói chung và giao dịch cổ phiếu niêm yết nói riêng thường được thực
hiện thông qua tổ chức trung gian môi giới là các công ty chứng khoán tại các
SGDCK và TTGDCK. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không
trực tiếp giao dịch với tổ chức phát hành cổ phiếu mà đặt mua từ các tổ chức
bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua nghiệp vụ môi giới
kinh doanh các công ty chứng khoán mua chứng khoán giúp các nhà đầu tư,
15
hoặc mua chứng khoán của nhà đầu tư này để mua và bán cho các nhà đầu tư
khác.Nguyên tắc này được xác lập nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được
giao dịch là chứng khoán thực và giúp thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ
quyền lợi của các nhà đầu tư. Đặc biệt đối với loại chứng khoán là cổ phiếu
niêm yết, mục tiêu của các chủ thể tham gia vào các giao dịch liên quan đến
đối tượng này thường là những mục tiêu có giá trị giao dịch lớn, việc đảm bảo
cho các giao dịch không bị hạn chế bởi các rủi ro, vướng mắc trong quá trình
giao dịch chính là mục đích mà nguyên tắc này hướng tới [54].
Nguyên tắc định giá
Giá trị của chứng khoán trên thị trường trứng khoán, đặc biệt là giá trị
của cổ phiếu niêm yết phụ thuộc hoàn toàn sự biến động của thị trường chứng
khoán. Tại mỗi thời điểm nhất định, tuỳ theo sự xét đoán và tùy vào chỉ số
cung cầu chứng khoán có trên thị trường giá của cổ phiếu niêm yết có thể tăng
giảm tương ứng với quy luật cung cầu của thị trường. Giá trị của chứng khoán
trong mỗi giao dịch được xác định tại thời điểm các bên đưa ra ý chí của mình
về việc mua hoặc bán cổ phiếu, sau đó giá chứng khoán này được xác định
dựa trên sự thống nhất ý chí cuối cùng của người mua và người bán khi xác
lập giao dịch. Đối với các giao dịch cổ phiếu theo phương pháp nhập lệnh, giá
trị định giá của cổ phiếu được xác định tại thời điểm các bên nhập lệnh
mua/bán ra thị trường. Đối với giao dịch cổ phiếu theo phương pháp thỏa
thuận, giá trị định giá của cổ phiếu được xác định là giá tại nội dung cuộc
thương lượng giữa người bán và người mua khi hai bên đã thống nhất. Đặc
biệt, đối với phương thức thỏa thuận này, giá của cổ phiếu sẽ không đổi kể cả
trong trường hợp tại thời điểm nhập lệnh mua/bán chênh lệnh với giá trông
thỏa thuận của các bên. Tất cả các thành viên có liên quan trên thị trường
không ai có thể can thiệp vào mối quan hệ cung cầu chứng khoán trên thị
trường và cũng không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán.
16
Vì thế thị trường chứng khoán được coi là thị trường tự do nhất trong các thị
trường. Nguyên tắc này đảm bảo cho các hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm
yết được công khai, minh bạch, đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên
tham gia giao dịch, cũng như tuân theo quy luật thị trường.
Nguyên tắc công khai.
Không chỉ riêng cổ phiếu niêm yết, tất cả các hoạt động trên thị trường
chứng khoán đều được công khai hoá về toàn bộ các loại chứng khoán được
đưa ra mua bán trên thị trường, cũng như tình hình tài chính về kết quả kinh
doanh của công ty phát hành và số lượng chứng khoán, đồng thời giá cả từng
loại đều được công khai trên thị trường và trong các báo cáo. Khi kết thúc
một cuộc giao dịch, số lượng chứng khoán được mua bán, giá cả từng loại đều
được lập tức thông báo ngay. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người mua và người bán chứng khoán ít gặp rủi ro hơn trong các giao dịch
mua bán chứng khoán, đặc biệt là giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
tập trung, đồng thời nguyên tắc này cũng đảm bảo cho việc người mua chứng
khoán dễ dàng chọn loại cổ phiếu niêm yết theo sở thích của mình, có khả
năng tiếp cận được nhiều đơn vị phát hành và hướng tới việc bảo đảm tìm
kiếm lợi nhuận và hạn chế rủi ro tham gia thị trường chứng khoán [26, tr.32].
1.1.3.2. Các điều kiện và phương thức giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán tập trung
Về lý thuyết, việc xác lập và thực hiện giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán tập trung phải tuân thủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, đối tượng của giao dịch phải là cổ phiếu đã được đơn vị phát
hành tiến hành thủ tục niêm yết trên sàn giao dịch. Để được tham gia vào thị
trường chứng khoán tập trung, cổ phiếu của các công ty cổ phần khi tham gia
vào các giao dịch mua bán, chuyển nhượng trên thị trường này phải thực hiện
đầy đủ các yêu cầu và thủ tục niêm yết chứng khoán để xác định cổ phiếu
17
được giao dịch là cổ phiếu niêm yết. Điều này đảm bảo cho việc cổ phiếu
niêm yết có giá trị thực tiễn cao và đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên khi
tham gia giao dịch, đặc biệt là quyền lợi của nhà đầu tư trong quá trình tìm
kiếm lợi nhuận dựa trên sự phát triển ổn định của cổ phiếu niêm yết.
Thứ hai, nhà đầu tư phải mở tài khoản tại thị trường chứng khoán tập
trung và đảm bảo việc tài khoản có đủ tiền để thanh toán các giao dịch cổ
phiếu niêm yết. Việc tạo lập các tài khoản thanh toán của khách hàng trên thị
trường chứng khoán tập trung nhằm phục vụ cho các hoạt động mua bán cổ
phiếu niêm yết và đồng thời là điều kiện cơ bản nhằm xác định chính xác
thông tin của nhà đầu tư tham gia giao dịch và khả năng tài chính của nhà đầu
tư trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó, đây cũng là nơi lưu trữ các thông
tin về cổ phiếu niêm yết được lưu hành trên thị trường và các giao dịch mà nhà
đầu tư thực hiện, giúp nhà đầu tư dễ dàng kiểm soát thông tin tài chính. Đặc
biệt, để hoàn thành các giao dịch, nhà đầu tư phải đảm bảo được việc hiện thực
hóa các giao dịch thông qua việc trực tiếp hoàn thành các nghĩa vụ về tài chính
cũng như thủ tục để có thể tiến hành nhận chuyển nhượng quyền sở hữu cổ
phiếu niêm yết mà mình tham gia giao dịch, do đó, bắt buộc tài khoản của nhà
đầu tư phải có đủ giá trị tài chính phục vụ cho các giao dịch.
Thứ ba, các giao dịch cổ phiếu niêm yết phải được thực hiện thông qua
trung gian môi giới là các công ty chứng khoán, đồng thời các công ty phải
được chấp nhận là thành viên tại các SGDCK và TTGDCK. Các đơn vị trung
gian môi giới chứng khoán sẽ là các đơn vị nắm bắt thông tin cũng như tác
động trực tiếp đến các hoạt động của giao dịch cổ phiếu niêm yết mà bên bán
và bên mua mong muốn tiến hành. Việc thay mặt bên bán cũng như bên mua
tiến hành thực hiện các lệnh giao dịch tại các điểm giao dịch chứng khoán tập
trung, bắt buộc chủ thể này phải có thẩm quyền cũng như năng lực thực hiện
các lệnh giao dịch tại các điểm giao dịch, do đó, để có thể kiểm soát được các
18
giao dịch và thực hiện đồng nhất các lệnh giao dịch, các đơn vị môi giới
chứng khoán buộc phải trở thành thành viên của tại các điểm giao dịch chứng
khoán mới có thể tiến hành thực hiện các lệnh giao dịch thay cho bên bán và
bên mua. Điều này đảm bảo cho việc các giao dịch được thực hiện một cách
thống nhất, tập trung và có chất lượng chuyên môn cao, góp phần tích cự
trong việc hỗ trợ thúc đẩy giao dịch chứng khoán phát triển và kiểm soát các
giao dịch tại các điểm giao dịch.
Bên cạnh việc tuân thủ các điều kiện giao dịch cổ phiếu niêm yết, việc
xác định các phương thức giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung cũng được cần được quy định rõ ràng.
Về lý thuyết cũng như thực tiễn, giao dịch cổ phiếu niêm yết thường
được thực hiện theo hai phương thức cơ bản, bao gồm: phương thức khớp
lệnh và phương thức thỏa thuận.
Phương thức khớp lệnh thường được thực hiện tại thị trường chứng
khoán tập trung (Sở giao dịch chứng khoán), theo đó các giao dịch cổ phiếu
niêm yết được thực hiện theo các bước do hệ thống đăng ký giao dịch thực
hiện, dựa trên việc so khớp các lệnh mua và lệnh bán cùng một số lượng cổ
phiếu niêm yết tại cùng một thời điểm. Phương thức khớp lệnh bao gồm khớp
lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục. Theo phương thức này, về nguyên tắc giao
dịch, nhà đầu tư không được đặt các lệnh giao dịch vừa mua, vừa bán đồng
thời cùng một loại chứng khoán trong cùng một đợt khớp lệnh, trừ các lệnh đã
được nhập vào hệ thống tại phiên giao dịch liên tục trước đó, chưa được khớp
nhưng vẫn còn hiệu lực. Trong đó, khớp lệnh định kỳ là phương thức giao
dịch được thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán cổ phiếu
niêm yết tại một thời điểm xác định. Nguyên tắc xác định giá thực hiện là
mức giá thực hiện đạt khối lượng giao dịch lớn nhất và nếu có nhiều mức giá
thỏa mãn điều kiện ở trên thì mức giá trùng hoặc gần nhất với giá thực hiện
19
của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn. Khớp lệnh liên tục là phương thức
giao dịch được thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng
khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch [36, tr.50].
Phương thức thoả thuận cũng được áp dụng cho các giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nhưng không phải là phổ biến.
Theo phương thức này, bên mua và bên bán tự thoả thuận với nhau về các
điều kiện giao dịch và thông tin giao dịch được nhập vào hệ thống đăng ký
giao dịch để xác nhận. Các giao dịch thực hiện theo phương thức này thông
thường là giao dịch cổ phiếu niêm yết lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa nhà
đầu tư với công ty chứng khoán thành viên là thành viên của trung tâm giao
dịch chứng khoán trên nguyên tắc thỏa thuận về giá. Trong trường hợp NĐT
đã xác định được đối tác và 2 bên đã thỏa thuận xong các điều kiện về giá,
khối lượng, hình thức thanh toán... thì sẽ thông báo cho CTCK của cả 2 bên.
CTCK sẽ thực hiện nhập lệnh vào hệ thống của thị trường vào cuối mỗi
phiên, SởGDCK hoặc Trung tâm GDCK sẽ tiến hành tổng hợp vào kết quả
giao dịch toàn thị trường. Nếu NĐT chưa xác định được đối tác, khi có nhu
cầu, sẽ tới đặt lệnh chào mua hoặc chào bán tại CTCK. Đại diện giao dịch
(ĐDGD) của CTCK sẽ nhập lệnh vào hệ thống và lệnh này sẽ hiển thị trên
cửa sổ lệnh của Sở GDCK hoặc Trung tâm GDCK và CTCK. Căn cứ vào các
thông tin chào mua, chào bán trên sổ lệnh GDTT, các CTCK sẽ liên lạc với
nhau, giúp NĐT tìm kiếm, thỏa thuận với đối tác về mức giá, khối lượng giao
dịch... Sau khi đã đạt được thỏa thuận, ĐDGD của CTCK bên bán sẽ nhập
lệnh giao dịch đã được thỏa thuận vào hệ thống gồm: mã, số lượng, giá, số
hiệu thành viên bên mua, ký hiệu lệnh giao dịch, số hiệu tài khoản giao dịch
của NĐT... Hệ thống tại Sở GDCK hoặc Trung tâm GDCK sẽ nhận, xác nhận
các lệnh giao dịch do CTCK nhập và đưa ra kết quả. Kết quả sẽ hiển thị trên
màn hình của ĐDGD và màn hình của CTCK [1].
20
Như vậy, về cơ bản, thị trường chứng khoán đã được xây dựng và hoàn
thiện toàn bộ những điều kiện cơ bản như nguyên tắc, điều kiện và phương
thức giao dịch để các bên tham gia hoạt động giao dịch chứng khoán, đặc biệt
là giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung có thể áp
dụng và thực hiện. Những nội dung cơ bản này của thị trường chứng khoán đã
tạo được hành lang thị trường cần thiết cho các giao dịch cổ phiếu niêm yết
được phát triển cũng như củng cố và hoàn thiện hơn nữa thị trường chứng
khoán tập trung.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết
trên thị trường chứng khoán tập trung
1.2.1. Khái niệm và phạm vi điều chỉnh của pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Trong khoa học pháp lý, khái niệm pháp luật và phạm vi điều chỉnh của
pháp luật là hai vấn đề khác nhau.Trong mục này, tác giả luận văn sẽ làm rõ
hai vấn đề trên để góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận về pháp luật
điều chỉnh giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Thứ nhất, về khái niệm pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán tập trung.
Trên thị trường chứng khoán tập trung, việc xác lập và thực hiện các giao
dịch cổ phiếu niêm yết luôn được xem là hoạt động cơ bản của thị trường này.
Mặc dù về nguyên tắc, các giao dịch cổ phiếu niêm yết sẽ được thực hiện theo
quy luật cung cầu của thị trường chứng khoán nhưng để đảm bảo cho thị trường
này hoạt động hiệu quả, rất cần một hành lang pháp lý đầy đủ, an toàn và hiệu
quả. Sự bảo đảm tốt nhất cho các yêu cầu của thị trường chứng khoán nói chung
và giao dịch cổ phiếu niêm yết nói riêng chỉ có thể được đáp ứng bởi sự bảo đảm
từ những ràng buộc của các quy phạm pháp luật [49]. Do vậy, việc hình thành
một bộ phận pháp luật điều chỉnh các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
21
chứng khoán tập trung là yêu cầu cấp thiết và mang tính tất yếu.
Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế
giới cho thấy, sự ra đời của pháp luật về thị trường chứng khoán thường muộn
hơn so với chính thị trường chứng khoán. Sau khi thị trường chứng khoán đã
hình thành tại các nước Mỹ, Bắc Âu, Nhật Bản do hệ quả của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 1929 – 1933, một số quốc gia đã ban hành các đạo
luật về chứng khoán để điều chỉnh cách thức tổ chức và hoạt động của thị
trường này. Điển hình là Luật chứng khoán năm 1933 và Luật về giao dịch
chứng khoán của Mỹ năm 1934.Đây là những đạo luật đầu tiên về chứng
khoán và giao dịch chứng khoán, do đó nó đã trở thành hình mẫu pháp lý cơ
bản cho nhiều quốc gia áp dụng.
Pháp luật về giao dịch chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung cũng là một bộ phận không thể thiếu của pháp luật về giao dịch
chứng khoán. Với tư cách là biện pháp điều tiết và quản lý các hoạt động giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nói riêng và sự
ràng buộc pháp lý cũng như yêu cầu pháp lý bắt buộc đối với các vấn đề liên
quan đến hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết khác. Pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung được xây dựng và hoàn
thiện với vai trò như một hành lang pháp lý vững chắc nhằm bảo đảm cho các
hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung được an toàn, minh
bạch và công bằng. Các chủ thể, đối tượng và phương thức giao dịch đều phải
tuân thủ theo sự quản lý và điều tiết của lĩnh vực pháp luật này [19].
Giống như bất kỳ lĩnh vực pháp luật nào, pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cũng được thiết kế bao
gồm nhiều điều khoản có tính ràng buộc đối với các chủ thể có liên quan như
chủ thể phát hành, chủ thể tham gia mua bán cổ phiếu, chủ thể là trung gian
trong việc mua bán bổ phiếu niêm yết, chủ thể quản lý, điều tiết thị trường
22
chứng khoán nói chung và giao dịch cổ phiếu niêm yết nói riêng.
Từ kết quả phân tích nói trên, có thể đưa ra khái niệm pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung như sau:
Pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
trung là tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình xác lập, thực hiện
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Tóm lại, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung là một lĩnh vực hẹp và có tính chuyên sâu, có nhiệm vụ thiết
lập hành lang pháp lý cho việc hình thành và thực hiện các giao dịch chứng
khoán nói chung và cổ phiếu niêm yết nói riêng trên thị trường chứng khoán
tập trung. Việc điều chỉnh có hiệu quả đối với lĩnh vực này sẽ tạo điều kiện
cho các hoạt động đầu tư tài chính được thực hiện tích cực hơn, mang lại lợi
nhuận cho tất cả các bên tham gia, đồng thời thúc đẩy được nền kinh tế phát
triển một cách mạnh mẽ.
Thứ hai, về phạm vi điều chỉnh của pháp luật về giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Về lý thuyết, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình xác lập và thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết diễn ra
trên thị trường chứng khoán tập trung.Các quan hệ xã hội này thuộc phạm vi
điều chỉnh của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung bao gồm:
- Quan hệ xã hội trọng tâm và chủ yếu là quan hệ mua bán cổ phiếu
niêm yết giữa nhà đầu tư (bên bán) với nhà đầu tư (bên mua). Quan hệ xã hội
này được xác lập thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán cổ phiếu
niêm yết, với chủ thể tham gia hợp đồng bao gồm nhà đầu tư (với tư cách là
23
bên bán cổ phiếu) và nhà đầu tư (với tư cách là bên mua cổ phiếu).Quan hệ xã
hội này được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật chung về hợp đồng mua
bán và một số quy phạm pháp luật có tính đặc thù riêng điều chỉnh về quan hệ
mua bán chứng khoán/mua bán cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung.
- Quan hệ xã hội phát sinh giữa bên mua hoặc bên bán với tổ chức
trung gian (công ty chứng khoán). Quan hệ xã hội này được xác lập thông qua
hình thức pháp lý là hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán. Về bản chất,
đây là quan hệ cung ứng dịch vụ chứng khoán giữa bên cung ứng dịch vụ là tổ
chức môi giới chứng khoán, với bên sử dụng dịch vụ là các nhà đầu tư (bên
mua hoặc bên bán chứng khoán).
1.2.2. Cấu trúc của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung
Nói đến cấu trúc pháp luật là nói đến các nhóm quy phạm pháp luật cấu
thành nên một lĩnh vực pháp luật. Về lý thuyết, có thể hình dung cấu trúc
pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
trung bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. Các quy phạm pháp luật quy định về đối tượng giao dịch trong
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Đối tượng của các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung được xác định rõ là cổ phiếu niêm yết. Như đã được phân
tích, cổ phiếu niêm yết cũng là một loại chứng khoán, tuy nhiên, thông qua
thủ tục niêm yết theo quy định của pháp luật, loại chứng khoán này chỉ được
giao dịch tại thị trường chứng khoán tập trung -một thị trường riêng biệt có
khả năng mua bán dễ dàng đối với loại chứng khoán này. Các giao dịch đối
với cổ phiếu niêm yết dưới góc độ pháp lý được xem như hoạt động chuyển
dịch quyền sở hữu và các lợi ích liên quan đến cổ phiếu niêm yết là đối
24
tượng được chuyển dịch trong các giao dịch. Đồng nghĩa với việc, đối tượng
của các giao dịch cổ phiếu niêm yết là đối tượng có những đặc tính pháp lý
và kinh tế riêng biệt.
Khi tiến hành các hoạt động mua, bán cổ phiếu niêm yết, những nguyên
tắc riêng biệt đối với hoạt động này cũng được đề ra và áp dụng nhằm tạp
khuôn khổ định hướng phát triển ổn định cho các hoạt động mua bán này.
Theo đó, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết quy định về đối tượng
trong giao dịch được xây dựng nhằm xác định các loại chứng khoán được
phép giao dịch trên thị trường chứng khoán trong đó có cổ phiếu niêm yết.
Bên cạnh đó, các quy định này của pháp luật cũng xác định rõ các loại thị
trường tương ứng với mỗi loại chứng khoán, trong đó, đối với cổ phiếu niêm
yết, loại chứng khoán tương ứng và chỉ được giao dịch trên thị trường chứng
khoán tập trung [30]; [28]; [49].
Để có thể trở thành cổ phiếu niêm yết, đối tượng này của giao dịch phải
được thực hiện thủ tục niêm yết theo quy định của pháp luật. Theo đó, thủ tục
này cho phép một chứng khoán nhất định có đủ tư cách và được phép giao
dịch trên thị trường chứng khoán tập trung. Cụ thể, đây là quá trình mà Sở
GDCK hoặc Trung tâm GDCK chấp nhận cho công ty cổ phần được phép
niêm yết cổ phiếu của mình để thực hiện các giao dịch trên sàn chứng khoán
tập trung nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện (tiêu chuẩn) về định
lượng cũng như định tính mà sở giao dịch chứng khoán đề ra.
Như vậy, có thể thấy, các quy định về đối tượng trong giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán không chỉ dừng lại ở các quy
phạm liệt kê, mà nó còn là các quy phạm mang tính điều kiện và thủ tục nhằm
đảm bảo cho việc tạo dựng cơ sở pháp lý và củng cố điều kiện cũng như giá
trị của đối tượng trong giao dịch. Điều này giúp cho đối tượng của giao dịch
là cổ phiếu được định giá cũng như định lượng một cách rõ ràng, công khai và
25
minh bạch. Đồng thời, pháp luật về vấn đề này cũng đảm bảo cân bằng được
quyền và lợi ích của các bên khi tham gia các giao dịch cổ phiếu niêm yết,
giảm thiểu các rủi ro cũng như thiệt hại ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể trong giao dịch.
1.2.2.2. Các quy phạm pháp luật quy định về chủ thể tham gia giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung về
cơ bản mang đặc điểm pháp lý cơ bản của các giao dịch dân sự, dựa trên sự tự
do ý chí, tự nguyện tham gia vào giao dịch của các chủ thể liên quan. Tuy
nhiên, với đặc điểm của thị trường chứng khoán tập trung, các giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung có sự tham gia của các
chủ thể bao gồm: Nhà đầu tư (bên bán), Nhà đầu tư (bên mua)và tổ chức
trung gian trên thị trường chứng khoán (các công ty chứng khoán đóng vai trò
là nhà môi giới chứng khoán). Với đặc thù là giao dịch qua trung gian, vai trò
của các chủ thể trung gian là rất quan trọng, bởi lẽ trên thực tế thì các tổ chức
trung gian mới chính là người trực tiếp thực hiện các lệnh mua và lệnh bán
của khách hàng (nhà đầu tư) trên sàn giao dịch, đồng thời có trách nhiệm hỗ
trợ tư vấn, bảo đảm an toàn giao dịch và hạn chế các rủi cho cho các nhà đầu
tư khi giao dịch cổ phiếu niêm yết [1].
Với cơ chế vận hành phức tạp của thị trường chứng khoán tập trung,
pháp luật phải xác định các chủ thể tham gia vào các giao dịch này và quyền,
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể đó như thế nào trong quan hệ giao dịch cổ
phiếu niêm yết.
Đối với mỗi giao dịch cổ phiếu niêm yết, các chủ thể chính thụ hưởng
quyền cũng như nghĩa vụ liên quan đến cổ phiếu niêm yết là những chủ thể
đầu tiên được pháp luật điều chỉnh. Bên cạnh đó, để thay mặt các chủ thể
chính tiến hành các giao dịch cổ phiếu niêm yết, đây là các giao dịch mang
26
tính chuyên môn cao, tính chất giao dịch phức tạp và yêu cầu trình độ phù
hợp, do đó, pháp luật hình thành các quy định cho phép các chủ thể trung gian
hoạt động trên thị trường chứng khoán với tư cách đại diện các chủ thể chính
và trực tiếp thực hiện các lệnh mua vào, bán ra dựa trên ý chí quyết định của
chủ thể chính.
Như vậy, các chủ thể tham gia các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoan tập trung cũng được điều chỉnh trực tiếp thông qua các
quy định của pháp luật về chủ thể giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán [27].
1.2.2.3. Các quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc và phương
thức giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Trên thị trường chứng khoán tập trung, các giao dịch cổ phiếu niêm yết
phải được đảm bảo tuân thủ theo đúng sự điều chỉnh của pháp luật liên quan
đến vấn đề này nhằm đảm bảo cho sự quản lý và điều tiết thị trường một cách
phù hợp, hiệu quả. Do đó pháp luật phải xây dựng các quy định để định
hướng các giao dịch phải được tiến hành dựa trên cơ sở là các nguyên tắc và
phương thức giao dịch nhất định.
Các quy định của pháp luật về nguyên tắc và phương thức giao dịch
được đề ra là cơ để để các giao dịch cổ phiếu niêm yết được thực hiện một cách
dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả. Thị trường chứng khoán tập trung là một thị
trường tài chính lớn, các giao dịch diễn ra thường xuyên, liên tục với số lượng
lơn, do đó để có thể kiểm soát cũng như năm bắt được toàn diện thị trường và
điều tiết một cách có hệ thống, có hiệu quả thì bắt buộc tất cả các giao dịch
phải được thực hiện theo các nguyên tắc và phương thức chung. Những
phương thức này sẽ xác định hình thức và các bước phải thực hiện khi tiến
hành giao dịch cổ phiếu niêm yết. Với vai trò này, các chủ thể khi tham gia
giao dịch, các thông tin về thị trường được công khai, các hoạt động được tiến
27
hành một cách minh bạch, dẫn đến những quyền và lợi ích của các chủ thể
tham gia giao dịch cũng được bảo đảm và chú trọng hơn. Điều này được đảm
bảo một cách khách quan thông qua các quy định của pháp luật [29]; [36; [38].
Các quy định về nguyên tắc và phương thức giao dịch cổ phiếu niêm
yết là cơ sở tiền đề bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể đồng thời đảm bảo
sự an toàn, ổn định khi thực hiện các giao dịch này. Các quy định về nguyên
tắc và phương thức giao dịch được xây dựng dựa trên tính chất của thị trường,
cơ chế vận hành của thị trường và thực tiễn tiến hành các giao dịch cổ phiếu
niêm yết, do đó các quy định này có vai trò đảm bảo quyền sở hữu, quyền và
lợi ích khác đối với cổ phiếu niêm yết trong hoạt động chứng khoán trên thị
trường chứng khoán tập trung; quyền tự do giao dịch, đầu tư, kinh doanh và
dịch vụ chứng khoán của tổ chức, cá nhân; công bằng, công khai, minh bạch;
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể.
1.2.2.4. Các quy phạm pháp luật quy định về việc ký kết và thực hiện hợp
đồng trong giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường tập trung mang bản chất là
những giao dịch dân sự với sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên trong
việc mua hoặc bán cổ phiếu niêm yết. Trong các giao dịch này, ý chí của các
bên được thể hiện rõ ràng qua các lệnh bán hoặc lệnh mua được thao tác trên
hệ thống. Việc tiến hành đồng thời hoạt động mua và bán cùng một đối tượng
giao dịch cũng chính là quá trình thực hiện hợp đồng mua bán, hiện thực hóa
ý chí mà các bên mong muốn, đồng thời tìm kiếm và gặt hái được kết quả
chung mà các bên hướng tới đó là chuyển dịch quyền sở hữu cổ phiếu niêm
yết. Do đó, có thể nhận thấy, các giao dịch cổ phiếu niêm yết chính là sự thỏa
thuận và thống nhất ý chí về việc chuyển giao quyền sở hữu cổ phiếu niêm
yết nhằm tìm kiếm và xác lập mục tiêu chung, hay nói cách khác, hình thức
thể hiện của giao dịch về cổ phiếu niêm yết đó chính là hợp đồng mua bán cổ
28
phiếu niêm yết. Theo đó, hợp đồng này là sự thống nhất ý chí của các bên đối
với việc chuyển dịch quyền sở hữu cổ phiếu niêm yết từ người bán sang
người mua và hiện thực hóa các hoạt động đó.Do vậy, hợp đồng mua, bán cổ
phiếu niêm yết cũng giống như các hợp đồng khác trong các giao dịch dân sự,
để đảm bảo hiệu lực của giao dịch mà hợp đồng đã thống nhất, các vấn đề về
giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng trong giao dịch cổ phiếu niêm yết
cũng phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Trong đó ký kết
các văn bản thỏa thuận về việc mua bán cổ phiếu niêm yết là bước đầu tiên và
cơ bản để hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết có hiệu lực, đồng thời việc
thực hiện hoạt động mua bán cũng chính là quá trình hiện thực hóa các nội
dung đã được giao kết trong hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết [27].
Ngoài việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết, trong
giao dịch cổ phiếu niêm yết, các bên còn phải ký kết và thực hiện hợp đồng dịch
vụ môi giới chứng khoán. Hợp đồng này được ký kết và thực hiện nhằm giúp các
bên tham gia đạt được mục đích của mình trong quá trình giao dịch cổ phiếu niêm
yết, theo đó bên cung cấp dịch vụ môi giới sẽ thu được lợi nhuận từ việc cung cấp
dịch vụ môi giới, còn nhà đầu tư sẽ được bên môi giới mua hộ hoặc bán hộ chứng
khoán cho mình trên thị trường chứng khoán tập trung.
Với tính chất là sự thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí của các
bên,những hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết hay hợp đồng dịch vụ môi
giới phải chịu sự điều chỉnh và tuân thủ theo quy định của pháp luật về giao
dịch dân sự để hợp đồng có hiệu lực. Trên nguyên tắc, các hợp đồng này phải
đảm bảo đầy đủ các nội dung cơ bản nhất của loại hợp đồng mà các bên giao
kết. Sự tồn tại của các quy định pháp luật về hợp đồng trong giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung là hết sức cần thiết, bởi
đây là căn cứ pháp lý cơ bản để thực hiện các giao dịch, đồng thời nó cũng là
căn cứ pháp lý vững chắc có vai trò bảo vệ quyền và lợi ích của các bên khi
29
xảy ra tranh chấp.
1.2.2.5. Các quy phạm pháp luật quy định về xử lý vi phạm và giải
quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung
Thị trường chứng khoán tập trung ngày càng phát triển, các giao dịch
cổ phiếu niêm yết ngày càng diễn ra một cách mạnh mẽ và phổ biến với sự
tăng lên cả về số lượng và chất lượng trong từng giao dịch. Do đó, những tác
động của các giao dịch này đến thị trường chứng khoán và đặc biệt là các chủ
thể tham gia giao dịch là rất lớn. Điều này đồng nghĩa với việc khi xảy ra các
thiệt hại, tranh chấp, khả năng quyền và lợi ích của các bên bị xâm hại là vô
cùng lớn, vì vậy, các quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp có
vai trò quan trọng trong việc bảo toàn sự ổn định của thị trường, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể tham gia giao dịch một cách tối đa.
Khi có bất cứ sự xâm hại nào về quyền và lợi ích của các bên trên thị trường
chứng khoán tập trung, đặc biệt là trong các giao dịch cổ phiếu niêm yết, các
hành vi vi phạm hoặc các tranh chấp phát sinh sẽ cần và phải được giải quyết
một cách nhanh chóng, hiệu quả và triệt để. Do đó, các quy định về xử lý vi
phạm và giải quyết tranh chấp là một bộ phận không thể thiếu khi xây dựng
pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết. Các quy định này có vai trò xác
định và liệt kê các hành vi được xem là vi phạm khi giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán, đồng thời xác định rõ phương thức đầu tiên
và cơ bản để tiến hành giải quyết các tranh chấp liên quan đến giao dịch trên.
Đối với các quy định về xử lý vi phạm, tất cả các hành vi được thực
hiện trên thị trường chứng khoán tập trung thông qua các giao dịch phải
tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, bất kỳ hành vi vi phạm nào
cũng đều bị xử lý.
Về phương diện lý thuyết, để đảm bảo tính minh bạch và tính có căn cứ
30
cho việc xử lý vi phạm một cách thỏa đáng, Nhà nước phải quy định rõ những
hành vi nào được xem là vi phạm pháp luật trong giao dịch chứng khoán niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung; đồng thời phải quy định rõ chế tài
tương ứng sẽ được áp dụng đối với hành vi đó là gì. Theo quy định hiện hành,
tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm trong giao dịch cổ phiếu
niêm yết mà người vi phạm có thể bị xử lý hành chính, xử lý hình sự hoặc bị
truy cứu trách nhiệm dân sự. Khi đó, các quy định về xử lý vi phạm hành
chính, xử lý vi phạm hình sự hay xử lý trách nhiệm dân sự sẽ được dẫn chiếu
để các chủ thể có thẩm quyền xem xét, áp dụng loại chế tài phù hợp với bản
chất của hành vi vi phạm.
Trong quá trình xác lập và thực hiện giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán tập trung, có thể phát sinh những tranh chấp giữa các
bên tham gia vào giao dịch, do đó Nhà nước cần thiết kế các cơ chế thích hợp
để giải quyết những tranh chấp này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng cho các bên, đồng thời bảo đảm trật tự, kỷ cương pháp luật.
Để việc giải quyết tranh chấp được thực hiện một cách hiệu quả, nhanh
chóng và triệt để, các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đối với
các giao dịch cổ phiếu niêm yết cần được ban hành, theo hướng phù hợp với
các cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế, dân sự hiện nay nhưng có tính đến
các yếu tố đặc thù của tranh chấp về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung ở một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Theo thông lệ, các tranh chấp phát sinh từ giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung có thể được giải quyết thông qua các cơ chế
như: thương lượng, hòa giải, tòa án hoặc trọng tài, tùy thuộc vào thỏa thuận
của các bên tham gia giao dịch.
1.2.3. Nguồn của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung
31
Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung với
những đặc điểm cơ bản của giao dịch dân sự và những đặc điểm riêng liên
quan đến đối tượng niêm yết là cổ phiếu niêm yết và thị trường chứng khoán
tập trung riêng biệt, nguồn của pháp luật điều chỉnh đối với giao dịch này
không chỉ dừng lại ở các văn bản quy phạm pháp luật chứng khoán chuyên
ngành mà còn bao gồm nhiều nguồn pháp luật khác có liên quan. Bên cạnh
các quy phạm pháp luật chứng khoán chuyên ngành, các hoạt động liên quan
đến giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung còn phải
chịu sự điều chỉnh của pháp luật chung có liên quan như bộ luật dân sự, luật
đầu tư, luật doanh nghiệp. Ngoài ra, với sự riêng biệt của thị trường chứng
khoán tập tung, bên cạnh sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật, nhà nước
cũng thừa nhận sự điều chỉnh của các quy chế tự quản và các quy phạm quy
tắc, tập quán tại các sàn giao dịch [49].
Đối với các văn bản quy phạm pháp luật chứng khoán chuyên ngành,
đây được xem là nguồn pháp luật chính và điều chỉnh trực tiếp các giao dịch
cũng như các hoạt động liên quan đến giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập tung. Các văn bản quy phạm pháp luật này được xây
dựng và có vai trò định hướng, điều phối cũng như kiểm soát tất cả các vấn đề
liên quan đến thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung. Các giao dịch và các hoạt động liên quan khi được điều chỉnh
bởi pháp luật chuyên ngành đã tạo ra được một hành lang pháp lý vững chắc
giúp cho các giao dịch và hoạt động được thực hiện một cách dễ dàng, liên tục
và tạo hiệu quả tích cực cho thị trường chứng khoán. Đồng thời, qua việc tạo
dựng hành lang pháp lý này, các tổ chức, cơ quan và nhà nước có thẩm quyền
cũng dễ dàng nắm bắt, kiểm soát và có biện pháp phù hợp đối với việc phát
triển thị trường chứng khoán tập trung này. Do đó, pháp luật chứng khoán với
tư cách là pháp luật chuyên ngành đã và đang là nguồn pháp luật chủ yếu, có ý
nghĩa quyết định trực tiếp đến sự vận hành và phát triển của thị trường chứng
32
khoán tập trung và các giao dịch cổ phiếu niêm yết nói riêng [2].
Ngoài nguồn pháp luật cơ bản nêu trên, các văn bản quy phạm pháp luật
khác có liên quan đến giao dịch chứng khoán niêm yết (Bộ luật dân sự, Luật
doanh nghiệp, Luật thương mại…) cũng là nguồn pháp luật quan trọng tham gia
điều chỉnh các giao dịch chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, với phương thức giao dịch tập trung và thẩm quyền tự
quản của các sở giao dịch, pháp luật cho phép các sở giao dịch chứng khoán
xây dựng và áp dụng các quy chế riêng của tổ chức trên cơ sở các nguyên tắc
và quy định của pháp luật chuyên ngành, pháp luật chung có liên quan nhằm
phục vụ tối đa cho hoạt động quản lý, điều hành và kiểm soát thị trường
chứng khoán và các giao dịch. Các quy chế được ban hành bởi các tổ chức tự
quản này có vai trò quan trọng trong việc bổ trợ cho pháp luật chuyên ngành
trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý mà pháp luật chuyên ngành về chứng
khoán đã tạo ra. Các quy chế này điều chỉnh trực tiếp tới tất cả các vấn đề của
hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết, vừa đảm bảo được hiệu quả trong việc
điều tiết thị trường, kiểm soát giao dịch, vừa bảo vệ và củng cố các nguyên
tắc mà pháp luật đề ra.
Như vậy, nguồn của pháp luật áp dụng đối với các hoạt động, giao dịch
cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung là một nguồn pháp
luật có hệ thống, có tính liên kết chặt chẽ với hệ thống pháp luật quốc gia,
đồng thời có thể thừa nhận và áp dụng những quy phạm riêng được xây dựng
phù hợp với thị trường riêng biệt này.
1.2.4. Các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến việc điều chỉnh bằng pháp
luật đối với giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Thị trường chứng khoán có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy thị
trường kinh tế và đời sống xã hội của người dân, do vậy, những tác động mà
thị trường chứng khoán đem lại là không hề nhỏ, đặc biệt đối với những quốc
33
gia đang phát triển như Việt Nam. Điều đó đồng nghĩa với việc kinh tế - xã
hội – chính trị cũng có sự tác động trở lại đối với thị trường thông qua việc
điều chỉnh bằng pháp luật đối với thị trường chứng khoán, trong đó có các
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung [23].
Trước hết, chính sách phát triển thị trường chứng khoán, chính sách
tiền tệ của nhà nước là một trong những yếu tố tác động đầu tiên và mạnh mẽ
nhất đến sự điều chỉnh của lĩnh vực pháp luật này. Để phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước, nhà nước sẽ quyết định thắt chặt hoặc nới rộng
chính sách tiền tệ và thị trường chứng khoán thông qua sự điều chỉnh lãi suất
dân sự và cân đối trong việc sử dụng tài chính tại thị trường chứng khoán.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển cũng như tiềm năng của thị
trường chứng khoán.
Thứ hai, ảnh hưởng của nền kinh tế tới pháp luật về giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán cũng là một trong những yếu tố tác
động rất mạnh mẽ. Sự tác động của nền kinh tế tới thị trường chứng khoán có
thể được nhìn thấy bởi tác động của nó đối với lợi nhuận của doanh nghiệp.
Khi nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái và thất nghiệp cao thì lợi nhuận
của công ty sẽ giảm. Sự giảm sút này sẽ dẫn việc giá cổ phiếu tụt xuống mức
thấp và cuối cùng là một thị trường chứng khoán bị tụt dốc. Khi nền kinh tế
đang hoạt động hiệu quả, lợi nhuận doanh nghiệp sẽ tăng lên dẫn đến giá cổ
phiếu tăng mạnh. Đứng trước mỗi trường hợp tác động của nền kinh tế lên thị
trường chứng khoán, pháp luật điều chỉnh luôn cần phải có sự điều chỉnh,
thay đổi kịp thời giúp cho thị trường chứng khoán có thể thích ứng được với
những biến đổi về kinh tế và nhanh chóng phục hồi, phát triển trở lại.
Thứ ba, kết quả kinh doanh của các công ty cũng là một yếu tố tác động
trực tiếp đến pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung. Cũng như sự ảnh hưởng của nền kinh tế tới thị trường chứng
khoán, các công ty tham gia vào thị trường chứng khoán là những chủ thể
34
chính có nhu cầu huy động vốn và đem lại lợi nhuận cho nhà đầu tư từ chính
hoạt động kinh doanh của mình. Do đó, khi hiệu quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp tốt, lợi nhuận thu về lớn đồng nghĩa với việc lợi nhuận mà
nhà đầu tư được thụ hưởng cũng sẽ tăng lên, và ngược lại. Do đó, pháp luật
điều chỉnh cần có sự thay đổi phù hợp, tạo được cơ hội giúp các công ty củng
cố được nội lực, phát triển được khả năng tạo ra lợi nhuận và thúc đẩy thị
trường chứng khoán tập trung phát triển.
Thứ tư, tư tưởng, tâm lý của các nhà đầu tư cũng là một trong những yếu
tố tác động tới pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung. Sở dĩ như vậy là bởi vì, tâm lý của các nhà đầu tư đóng vai trò
nhất định trong việc đưa ra quyết định giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Bởi giá trị của một cổ phiếu dựa trên quy luật cung và cầu
nên tâm lý nhà đầu tư đóng một vai trò rất lớn trong thị trường chứng khoán.
Nếu các nhà đầu tư bi quan về tương lai của thị trường, họ sẽ bán cổ phiếu, điều
này khiến cho thị trường đi xuống thấp hơn. Ngược lại, nếu các nhà đầu tư lạc
quan về thị trường, họ sẽ mua cổ phiếu dẫn đến thị trường tăng cao. Quan điểm
nhà đầu tư giải thích tại sao thị trường chứng khoán lại tăng trong thời kỳ suy
thoái và có thể giảm khi nền kinh tế đang hoạt động rất tốt. Do đó, pháp luật về
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán cần có sự điều chỉnh
sao cho tạo được niềm tin và tâm lý tốt tới các nhà đầu tư bằng cách xây dựng
một thị trường chứng khoán tập trung trong sạch, vững mạnh và giàu tiềm năng.
Tóm lại, có thể thấy rằng thị trường chứng khoán tập trung luôn bị tác
động bởi nhiều yếu tố đồng thời xảy ra, không một yếu tố đơn lẻ nào có thể
tác động làm ảnh hưởng duy nhất và nghiêm trọng tới thì trường chứng khoán
tập trung. Do đó, pháp luật về giao dịch chứng khoán niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung cũng đồng thời bị tác động bởi các yếu tố này. Sự tác
động và đồng thời của các yếu tố đặt ra yêu cầu cho pháp luật phải liên tục
được điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tế và bảo đảm được sự an toàn của
35
thị trường, thúc đẩy thị trường phát triển.
Kết luận chương 1
1. Cổ phiếu với tư cách là một hình thức cơ bản nhất của chứng khoán,
do đó, khi công ty cổ phần tiến hành niêm yết chứng khoán dưới hình thức cổ
phiếu, cũng chính là việc công ty tiến hành niêm yết cổ phiếu. Vì vậy, cổ
phiếu niêm yết có thể được hiểu là cổ phiếu của các doanh nghiệp đã được
tiến hành niêm yết trên thị trường chứng khoán, theo đó nhà đầu tư sẽ bỏ vốn
để mua cổ phần của công ty phát hành cổ phiếu và được thụ hưởng các quyền
và lợi ích tương ứng với giá trị cổ phiếu đã mua.
2. Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung là
hoạt động mua, bán cổ phiếu niêm yết giữa nhà phát hành (bên bán) và nhà
đầu tư (bên mua) tại một thị trường tập trung, thống nhất và có tổ chức (còn
được gọi là sàn giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng
khoán) thông qua vai trò trung gian là các tổ chức chứng khoán trung gian là
các thành viên của sở giao dịch hoặc trung tâm giao dịch nhằm chuyển dịch
quyền sở hữu cổ phiếu của bên bán cho bên mua. Việc thực hiện các hoạt
động giao dịch cổ phiếu niêm yết phải đảm bảo tuân thủ các quy định của
pháp luật điều chỉnh và các nguyên tắc, quy tắc trong giao dịch.
3. Pháp luật về giao dịch chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung cũng là một bộ phận không thể thiếu của pháp luật về giao
dịch chứng khoán. Với tư cách là biện pháp điều tiết và quản lý các hoạt động
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nói riêng
và sự ràng buộc pháp lý cũng như yêu cầu pháp lý bắt buộc đối với các vấn đề
liên quan đến hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết khác. Pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung được xây dựng
và hoàn thiện với vai trò như một hành lang pháp lý vững chắc nhằm bảo đảm
cho các hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung được an
36
toàn, minh bạch và công bằng.
4. Thị trường chứng khoán luôn có nhiều biến động, lợi ích cũng như
rủi ro mà thị trường này đem lại cho các chủ thể tham gia giao dịch cổ phiếu
niêm yết không thể lường trước hết được. Do đó, sự hoàn thiện và đúng đắn
trong điều chỉnh của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung là vô cùng cần thiết và cấp bách. Sự phát triển của nền
kinh tế, tâm lý nhà đầu tư, chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế... là một trong
37
những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất tới sự điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO DỊCH CỔ PHIẾU NIÊM YẾT
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG Ở VIỆT NAM
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
2.1. Thực trạng pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam
Thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, pháp luật điều chỉnh trực tiếp các
giao dịch chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung chủ
yếu bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như:
- Luật chứng khoán 2006 (sửa đổi bổ sung 2010); Nghị định số
58/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Chứng khoán;
- Nghị định số 60/2015/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP;
- Thông tư số 203/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định chi tiết
hướng dẫn về giao dịch trên thị trường chứng khoán; Thông tư số 134/2018/TT-
BTC của Bộ Tài chính quy định chi tiết về hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị
trường chứng khoán... và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Các văn bản pháp luật nói trên tập trung quy định về các vấn đề cơ bản như:
(i) Đối tượng giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung;
(ii) Chủ thể tham gia giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung;
(ii) Nguyên tắc và phương thức giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung;
(iv) Ký kết và thực hiện các hợp đồng trong giao dịch cổ phiếu niêm
38
yết trên thị trường chứng khoán tập trung;
(v) Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Phần tiếp theo của luận văn sẽ làm rõ hơn thực trạng của các nhóm quy
phạm pháp luật này.
2.1.1. Thực trạng quy định về đối tượng giao dịch cổ phiếu niêm yết
trên thị trường chứng khoán tập trung
Đối với bất kỳ thị trường nào cũng vậy, hàng hóa được lưu thông trên
thị trường là đối tượng chính mà các bên tham gia thị trường muốn hướng tới
nhằm thực hiện các giao dịch có lợi cho mình. Đối với thị trường chứng
khoán tập trung cũng không phải ngoại lệ, việc xác định đối tượng được phép
giao dịch trên thị trường có yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
các giao dịch xoay quanh chủ thể đó. Đối với giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán, đây được xem là loại giao dịch có đối tượng giao
dịch phổ biến nhất trên thị trường chứng khoán tập trung và là một trong
những đối tượng được Luật chứng khoán và các quy định liên quan cho phép
lưu thông trên thị trường bởi các giao dịch [1].
Theo quy định tại Luật chứng khoán năm 2006 (sửa đổi bổ sung 2010)
có quy định về chứng khoán như sau:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát
hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút
toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: Cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ…. [29, Điều 6, Khoản 1].
Ngoài ra, nhà làm luật cũng đưa ra khái niệm “cổ phiếu” tại Khoản 2
Điều 6 Luật chứng khoán 2006, theo đó: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ
39
phần của tổ chức phát hành”. Theo đó “cổ phiếu là loại chứng khoán xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ
phần của tổ chức phát hành”. Xét về khía cạnh học thuật, định nghĩa về cổ
phiếu trong Khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán đã nêu bộc lộ vấn đề gây tranh
luận về tính chính xác của nó. Điều này thể hiện ở chỗ, về bản chất, phần vốn
góp của các cổ đông trong công ty cổ phần là yếu tố cấu thành nên vốn điều lệ
của công ty - vốn dĩ thuộc quyền sở hữu của công ty, chứ không phải thuộc
quyền sở hữu của các cổ đông. Mặt khác, vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau (gọi là cổ phần) nên về nguyên tắc, vì các cổ đông không sở
hữu vốn điều lệ nên chắc chắn chủ thể này cũng không sở hữu cổ phần –với
tính chất là một phần vốn điều lệ của công ty cổ phần.
Như đã phân tích ở chương 1, định nghĩa nói trên về chứng khoán nói
chung và cổ phiếu nói riêng thể hiện tính thiếu chính xác về mặt khoa học.
Điều này thể hiện ở chỗ, về bản chất, phần vốn góp của các cổ đông trong
công ty cổ phần là yếu tố cấu thành nên vốn điều lệ của công ty - vốn dĩ thuộc
quyền sở hữu của công ty, chứ không phải thuộc quyền sở hữu của các cổ
đông. Mặt khác, vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau (gọi là cổ
phần) nên về nguyên tắc, vì các cổ đông không sở hữu vốn điều lệ nên chắc
chắn chủ thể này cũng không sở hữu cổ phần – với tính chất là một phần vốn
điều lệ của công ty cổ phần.
Ngoài việc đưa ra định nghĩa về cổ phiếu, pháp luật hiện hành không có
định nghĩa chính thức về “cổ phiếu niêm yết”. Tuy nhiên, bằng các quy định
khác về điều kiện và thủ tục niêm yết cổ phiếu, nhà làm luật đã gián tiếp cho
rằng cổ phiếu niêm yết là những cổ phiếu đủ tiêu chuẩn niêm yết (như giá trị
vốn hóa, tổng khối lượng giao dịch, tỷ lệ chuyển nhượng tự do, kết quả kinh
doanh, tình trạng hoạt động của doanh nghiệp) và tổ chức phát hành đã làm
thủ tục niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật
40
(Điều 40 Luật chứng khoán 2006). Quy định này được xem là phù hợp với
thông lệ quốc tế và cũng đáp ứng được các yêu cầu của thị trường chứng
khoán tập trung và yêu cầu của các giao dịch cổ phiếu niêm yết. Với đặc điểm
của các giao dịch cổ phiếu niêm yết, số lượng cổ phiếu được đem vào trong
các giao dịch có số lượng và giá trị không hề nhỏ, sự tác động và lợi nhuận
cũng như rủi ro mà các đối tượng này đem lại cho các chủ thể là vô cùng lớn.
Do đó, để các cổ phiếu niêm yết có thể được giao dịch trên thị trường chứng
khoán tập trung thì tổ chức phát hành bắt buộc phải đảm bảo tính xác thực về
tình trạng pháp lý cũng như giá trị kinh tế mà nó mang đến thị trường này. Vì
vậy, có thể cho rằng thủ tục niêm yết cổ phiếu là yêu cầu bắt buộc cần phải
được thực hiện để xác lập tư cách là“cổ phiếu niêm yết” và cho phép loại
chứng khoán này được lưu hành trên thị trường chứng khoán tập trung. Thủ
tục này cũng được quy định chi tiết tại Thông tư số 202/2015/TT-BTC của Bộ
tài chính hướng dẫn về niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán.
Theo đó, Khoản 1 Điều 3 Thông tư này hướng dẫn:
Điều kiện niêm yết chứng khoán sẽ được thực hiện theo quy định
tại Nghị định số 58/2012/NĐ-CP và Nghị định số 60/2015/NĐ-CP,
cụ thể như sau: a) Điều kiện niêm yết chứng khoán tại Sở giao dịch
chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo quy định
tại Điều 53 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP đã được sửa đổi tại khoản
15 Điều 1 Nghị định số 60/2015/NĐ-CP; b) Điều kiện niêm yết
chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội thực hiện theo
quy định tại Điều 54 Nghị định số 58/2012/NĐ-CP.
Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 41 Luật chứng khoán 2006 sửa
đổi bổ sung 2010, nhà làm luật cũng quy định rằng cổ phiếu niêm yết chỉ
được lưu thông trên thị trường chứng khoán tập trung (Sở giao dịch chứng
khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán), trừ trường hợp Quy chế giao
41
dịch chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán có quy định khác.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng, Luật chứng khoán đã xác định cổ
phiếu niêm yết là một trong những loại chứng khoán được phép lưu thông
trên thị trường chứng khoán, và đồng thời xác định rõ thị trường cho đối
tượng cổ phiếu niêm yết này là các Sở giao dịch chứng khoán và các Trung
tâm giao dịch chứng khoán. Điều này đồng nghĩa với việc, các giao dịch liên
quan đến đối tượng là cổ phiếu niêm yết bắt buộc phải được thực hiện trên
một thị trường chung thống nhất đó là thị trường chứng khoán tập trung.
2.1.2. Thực trạng quy định về chủ thể tham gia giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Dưới góc nhìn về kinh tế, thị trường chứng khoán tập trung là một kênh
đầu tư tài chính bậc cao dành cho các chủ thể tham gia vào thị trường này.
Nhà phát hành tham gia vào thị trường này với mục đích tìm kiếm nguồn vốn
đầu tư từ các nhà đầu tư, đồng thời trở thành đơn vị chi trả lợi nhuận cho các
Nhà đầu tư tương ứng với số lượng cổ phiếu niêm yết mà các nhà đầu tư đang
sở hữu. Nhà đầu tư tham gia vào thị trường với tư cách là thành phần xây
dựng và phát triển tạo nên sự phát triển và lớn mạnh của thị trường. Để cho
thị trường chứng khoán có thể vận hành trôi chảy, chắc chắn không thể thiếu
được vai trò của các tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán như công
ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ hay các tổ chức trung gian khác, với tư
cách là chủ thể cung cấp các dịch vụ hỗ trợ quá trình giao dịch của thị trường
chứng khoán ở cả cấp độ thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp (ví dụ: dịch
vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, dịch vụ môi giới chứng khoán, dịch vụ tư
vấn đầu tư chứng khoán, dịch vụ quản lý quỹ đầu tư và dịch vụ quản lý danh
mục đầu tư chứng khoán...).
Để khuyến khích sự tham gia tích cực của các chủ thể nói trên vào thị
42
trường chứng khoán nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường này, Nhà nước
cũng quy định rõ chính sách hỗ trợ nhà đầu tư và các chủ thể khác tham gia thị
trường chứng khoán. Thật vậy, tại Luật chứng khoán 2006 nhà làm luật quy định:
Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để
tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân
dân tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng khoán
nhằm huy động các nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho đầu tư
phát triển [29, Điều 5, Khoản 1].
Quy định này đã minh chứng rằng Nhà nước luôn cố gắng minh bạch
các chính sách nhằm phát triển thị trường chứng khoán, trên cơ sở đó tạo sự
hấp dẫn để thu hút các chủ thể có liên quan tham gia nhiều hơn vào thị trường
này, trong đó chủ yếu và tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức trung
gian trên thị trường chứng khoán.
Riêng đối với giao dịch cổ phiếu niêm yết, chủ thể tham gia vào quá
trình giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán bao gồm hai
loại chủ thể là nhà đầu tư và các tổ chức trung gian trên thị trường chứng
khoán, trong đó điển hình là công ty chứng khoán.
Đối với chủ thể là nhà đầu tư, khoản 10 Điều 6 Luật chứng khoán năm
2006 (sửa đổi bổ sung 2010) quy định: Nhà đầu tư là tất cả các tổ chức cá
nhân Việt Nam, các tổ chức và cá nhân nước ngoài có hoạt động đầu tư tài
chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Với quy định nói trên về nhà
đầu tư, có thể nhận thấy thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường
khá mở, tạo điều kiện và phù hợp với mọi đối tượng tham gia vào thị trường
này, không phân biệt là tổ chức hay cá nhân, không phân biệt quốc gia, chủng
tộc, điều này tạo nên một thị trường rộng lớn, nhiều tiềm năng, khả năng huy
động vốn trên thị trường cao, các giao dịch và lợi nhuận tạo ra ngày một
nhiều. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là pháp luật hiện hành về thị trường chứng
43
khoán không có quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư khi tham
gia vào giao dịch cổ phiếu niêm yết, ngoại trừ quy định về quyền nghĩa vụ
của nhà đầu tư khi tham gia đầu tư vào Quỹ đầu tư chứng khoán. Do vậy, khi
xem xét về vấn đề này, buộc chúng ta phải tham chiếu các quy định chung
của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc hợp đồng cung cấp dịch vụ
trong hoạt động thương mại để từ đó xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể có liên quan đến hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung.
Đối với chủ thể là tổ chức trung gian trên thị trường chứng khoán, pháp
luật hiện hành không có quy định cụ thể nào về khái niệm “tổ chức trung gian
trên thị trường chứng khoán, ngoại trừ quy định về khái niệm “kinh doanh
chứng khoán” tại Luật chứng khoán 2006, theo đó:
Kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới
chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
[29, Điều 6, Khoản 19].
Quy định này không trực tiếp khẳng định tổ chức trung gia trên thị
trường chứng khoán là gì nhưng gián tiếp khẳng định rằng những chủ thể hoạt
động kinh doanh chứng khoán chính là tổ chức trung gian trên thị trường
chứng khoán.
Ngoài ra, Luật chứng khoán 2006 (sửa đổi năm 2010) cũng đã có một
số quy định về quyền, nghĩa vụ của thành viên giao dịch trên sàn chứng khoán
(thực chất chính là các công ty chứng khoán được Sở giao dịch chứng khoán
hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán chứng nhận là thành viên của thị
trường để có đủ tư cách tham gia vào quá trình giao dịch cổ phiếu niêm yết).
44
Cụ thể như sau:
Thứ nhất, thành viên giao dịch (công ty chứng khoán) có các quyền:
a) Sử dụng hệ thống giao dịch và các dịch vụ do Sở giao dịch chứng
khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán cung cấp;
b) Nhận các thông tin về thị trường giao dịch chứng khoán từ Sở giao
dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán;
c) Đề nghị Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng
khoán làm trung gian hòa giải khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động giao
dịch chứng khoán của thành viên giao dịch;
d) Đề xuất và kiến nghị các vấn đề liên quan đến hoạt động của Sở giao
dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán;
đ) Các quyền khác quy định tại Quy chế thành viên giao dịch của Sở
giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Thứ hai, thành viên giao dịch (công ty chứng khoán) có các nghĩa vụ:
a) Tuân thủ các nghĩa vụ quy định tại Điều 71 của Luật chứng khoán;
b) Chịu sự giám sát của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch
chứng khoán;
c) Nộp phí thành viên, phí giao dịch và các phí dịch vụ khác theo quy
định của Bộ Tài chính;
d) Công bố thông tin theo quy định tại Điều 104 của Luật này và Quy
chế công bố thông tin của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch
chứng khoán;
đ) Hỗ trợ các thành viên giao dịch khác theo yêu cầu của Sở giao dịch
chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán trong trường hợp cần thiết;
e) Các nghĩa vụ khác quy định tại Quy chế thành viên giao dịch của Sở
giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Ngoài việc quy định về nhà đầu tư và các chủ thể trung gian trên thị
45
trường chứng khoán – với tư cách là những chủ thể trực tiếp tham gia vào quá
trình giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán, pháp luật hiện
hành cũng đã đề cập đến vai trò của các chủ thể tổ chức và điều hành thị
trường chứng khoán tập trung – đó là Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm
giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng các chủ thể này
không phải là một bên tham gia của các hợp đồng được xác lập và thực hiện
trong quá trình giao dịch chứng khoán, mà thực chất chỉ là chủ thể thổ chức,
quản lý và điều hành thị trường chứng khoán.
Để có cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng tổ chức và điều hành
thị trường chứng khoán của Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch
chứng khoán, tại Điều 37, 38 Luật chứng khoán 2006 (sửa đổi bổ sung 2010)
nhà làm luật đã quy định khá cụ thể về quyền và nghĩa vụ của Sở giao dịch
chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Tóm lại, có thể nhận định chung là pháp luật chuyên ngành về chứng
khoán đã có những quy định khá chi tiết về các chủ thể tham gia vào giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán, ngoại trừ một số vấn đề
chưa được quy định rõ, chẳng hạn như vấn đề quyền và nghĩa vụ của nhà đầu
tư khi tham gia vào các giao dịch cổ phiếu niêm yết với tư cách là người bán
hoặc người mua.
2.1.3. Thực trạng quy định về nguyên tắc và phương thức giao dịch
cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Các quy định về nguyên tắc giao dịch cổ phiếu niêm yết
Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nói
riêng cũng giống như các giao dịch và hoạt động khác trên thị trường chứng
khoán nói chung, luôn phải tuân thủ theo cơ chế giao dịch và các nguyên tắc
thực hiện mà pháp luật quy định. Trên thực tế, các nguyên tắc cơ bản về hoạt
động chứng khoán và thị trường chứng khoán đã được đạo luật về chứng
46
khoán của Việt Nam quy định tại Điều 4 của Luật chứng khoán. Tuy nhiên,
không có đủ cơ sở chắc chắn để khẳng định rằng các nguyên tắc này có phải
chính là các nguyên tắc giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán hay không.
Thật vậy, Luật chứng khoán năm 2006 quy định các nguyên tắc hoạt
động chứng khoán và thị trường chứng khoán bao gồm:
1. Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng
khoán của tổ chức, cá nhân.
2. Công bằng, công khai, minh bạch.
3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
4. Tự chịu trách nhiệm về rủi ro.
5. Tuân thủ quy định của pháp luật [29, Điều 4].
Theo quy định trên, tất cả các hoạt động được thực hiện trên thị trường
chứng khoán hoặc có liên quan đến thị trường chứng khoán (trong đó có giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung), đều phải được
thực hiện dựa trên các nguyên tắc tôn trọng sự tự do ý chí, tư do hành động
của bất cứ chủ thể nào tham gia vào các giao dịch cổ phiếu niêm yết thị
trường chứng khoán tập trung. Tất cả các giao dịch cổ phiếu niêm yết và các
hoạt động có liên quan phải đảm bảo tính công bằng, công khai và minh bạch
về thông tin; các nhà đầu tư tham gia giao dịch luôn được pháp luật bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp nhưng chính họ cũng phải tự chịu trách nhiệm về
rủi ro đối với các giao dịch cổ phiếu niêm yết mà mình thực hiện. Ngoài ra,
yêu cầu tuân thủ pháp luật một cách tự giác cũng được đặt ra đối với tất cả
các chủ thể tham gia vào giao dịch cũng như chủ thể khác có liên quan đến
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Để đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc trên, Luật chứng khoán đã cụ thể
hóa bằng các điều luật chi tiết, trong đó bao gồm việc quy định các hành vi bị
47
cấm có khả năng phá vỡ tính khả thi của các nguyên tắc này. Theo Điều 9
Luật chứng khoán 2006, nhà làm luật quy định 5 loại hành vi bị nghiêm cấm
thực hiện trên thị trường chứng khoán nhằm thông qua đó góp phần bảo vệ
các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. Cụ thể là:
- Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi gian lận, lừa đảo, tạo
dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm
nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công
chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về
chứng khoán và thị trường chứng khoán. Có thể nhận thấy,hành vi này được
xem như là chống lại việc thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết được
thực hiện một cách công khai, công bằng, minh bạch. Việc thực hiện các hành
vi gian lận, lừa đảo khiến cho sự tự nguyện ý chí của nhà đầu tư không còn
được khách quan và duy ý chí khi thực hiện các giao dịch mà bị ảnh hưởng
bởi những thông tin mang tính định hướng của người gian lận, điều này dễ
dàng dẫn đến các thiệt hại vật chất vô cùng to lớn khi thực hiện các giao dịch,
nhất là đối với các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung. Đối với hành vi này, việc cấm thực hiện của pháp luật chứng khoán
nhằm đảm bảo cho nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch được quy
định tại Khoản 2 Điều 4 Luật chứng khoán năm 2006.
- Công bố thông tin sai lệch nhằm lôi kéo, xúi giục mua, bán chứng
khoán hoặc công bố thông tin không kịp thời, đầy đủ về các sự việc xảy ra có
ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán trên thị trường.Hành vi này được ghi nhận
tại Khoản 2 Điều 9 Luật chứng khoán 2006, theo đó nhà làm luật cho rằng việc
thực hiện hành vi này có thể ảnh hưởng đến nguyên tắc tự do giao dịch chứng
khoán nói chung và giao dịch cổ phiếu niêm yết nói riêng. Luật chứng khoán
quy định nghiêm cấm thực hiện hành vi này nhằm bảo bảo vệ nguyên tắc tôn
trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của tổ chức cá
48
nhân được quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật chứng khoán 2006.
- Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình
hoặc cho người khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người
khác mua, bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.Đây cũng được xem
như một trong các hành vi có tính nguy hiểm cao đối với quyền và lợi ích của
các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, đặc biệt là đối với các Nhà đầu
tư. Khi các Nhà đầu tư thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết, các động lực
và yếu tố then chốt dẫn đến ý chí chủ quan của Nhà đầu tư là dựa trên các
thông tin về chứng khoán mà Nhà đầu tư thu thập được liên quan đến giao
dịch. Do đó, trong các quan hệ pháp luật trên thị trường chứng khoán tập trung,
các nhà đầu tư luôn nhận được các thông tin quan trọng muộn hơn các chủ thể,
cá nhân quản lý và sử dụng các thông tin nội bộ về chứng khoán. Trên thực tế,
hành vi này cũng có tác động nguy hiểm tương tự như hành vi thông đồng để
thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; giao dịch
chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua, bán để
thao túng giá chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp giao dịch
khác để thao túng giá chứng khoán (được ghi nhận tại Khoản 4 Điều 9 Luật
chứng khoán 2006). Do đó, Nhà đầu tư được xem như một chủ thể yếu thế
trong trường hợp này, điều này đồng nghĩa với việc những người sử dụng
thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán chính là việc gây ra bất lợi cho Nhà
đầu tư và đi ngược lại với nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư được quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật chứng khoán 2006.
Ngoài ra, đối với nguyên tắc “tự chịu trách nhiệm về rủi ro” được quy
định tại Khoản 4 Điều 4 Luật chứng khoán 2006,một số điều luật trong Luật
chứng khoán 2006 đã cụ thể hóa về trách nhiệm của các chủ thể khi tham gia
vào giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Theo
đó, khi thực hiện các giao dịch này, mọi hậu quả pháp lý của bất kỳ hành vi nào
49
của bất kỳ chủ thể nào cũng đều phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật
kể cả là hành trái luật hay hành vi đúng luật. Điều này dẫn tới việc, những hệ
quả pháp lý sẽ được xác định gắn liền với chủ thể thực hiện, do đó, khi phát
sinh quyền và nghĩa vụ hay bao gồm cả những rủi ro cũng sẽ luôn được gắn
liền với chủ thể đó. Việc để các chủ thể tự chịu trách nhiệm về rủi ro do hành vi
của mình thực hiện là một quy định tương đối cơ bản và quyết liệt nhằm yêu
cầu người tham gia vào các giao dịch cổ phiếu niêm yết phải tự nhận thức về
hành vi mình thực hiện đồng thời phải có trách nhiệm đối với những hành vi
mình gây ra. Đặc biệt là những hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán hoặc
các hành vi phải chịu các hệ quả rủi ro khi tiến hành giao dịch.
Các quy định về phương thức giao dịch cổ phiếu niêm yết
Bên cạnh việc quy định về các nguyên tắc, các phương thức giao dịch
cũng được pháp luật chứng khoán quy định rõ, tạo cơ sở để thực hiện các giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Theo Luật chứng
khoán 2006, nhà làm luật quy định các giao dịch cổ phiếu niêm yết tại thị
trường chứng khoán tập trung phải được thực hiện theo các phương thức khớp
lệnh và phương thức thỏa thuận theo quy định của đạo luật này và quy chế hoạt
động của các sàn giao dịch. Điều 41 Luật chứng khoán 2006 quy định rõ rằng
Sở Giao dịch chứng khoán tổ chức giao dịch chứng khoán niêm yết theo
phương thức khớp lệnh tập trung và phương thức giao dịch khác quy định tại
Quy chế giao dịch chứng khoán của Sở Giao dịch Chứng khoán. Trong khi đó,
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tổ chức giao dịch chứng khoán niêm yết
theo phương thức thỏa thuận và các phương thức giao dịch khác quy định tại
Quy chế giao dịch chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán.
Việc áp dụng phương thức khớp lệnh và phương thức thỏa thuận đối
với các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại
Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán, bất kỳ các
50
phương thức khác nào được thực hiện đối với các giao dịch cổ phiếu niêm yết
đều phải được Ủy ban chứng khoán nhà nước chấp thuận. Nội dung chi tiết
quy định về các phương thức giao dịch cổ phiếu niêm yết được các sở giao
dịch chứng khoán quy định theo quy chế, trong đó, Quy chế giao dịch chứng
khoán tại Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh được ban hành
kèm theo quyết định số 341/QĐ-SGDHCM ngày 22/08/2016 của Tổng giám
đốc Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và Quy chế giao dịch
chứng khoán niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội được ban hành
kèm theo quyết định số 653/QĐ-SGDHN ngày 12/10/2018 của Tổng giám
đốc Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Như vậy, cũng giống như các giao dịch chứng khoán và các hoạt động
liên quan khác, tất cả các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung luôn phải tuân thủ theo các quy định về nguyên tắc và
phương thức giao dịch mà luật chứng khoán đã quy định rõ. Tất các các quy
định về nguyên tắc và phương thức giao dịch đối với giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung đã tạo nên một cơ chế giao dịch
tương đối an toàn và hiệu quả đối với các giao dịch cổ phiếu niêm yết.
2.1.4. Thực trạng quy định về việc ký kết và thực hiện các hợp đồng
trong giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Như đã đề cập ở chương 1, có hai loại hợp đồng được ký kết và thực
hiện trong quá trình giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung, đó là: hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán và hợp đồng mua
bán chứng khoán.
Về hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán
Theo quy định tại khoản 20 Điều 6 Luật chứng khoán 2006, nhà làm
luật chỉ đưa ra định nghĩa về môi giới chứng khoán mà không đưa ra định
nghĩa chính thức về hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán, theo đó “môi
51
giới chứng khoán là việc làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho
khách hàng”. Ngoài ra, tại Khoản 3 Điều 71 Luật chứng khoán 2006, nhà làm
luật cũng có đề cập đến nghĩa vụ của công ty chứng khoán trong hoạt động
kinh doanh chứng khoán, đó là: “Ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng
khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng; cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin
cho khách hàng”. Quy định này cho thấy mặc dù nhà làm luật không trực tiếp
quy định về hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán nhưng đã gián tiếp thừa
nhận sự tồn tại của hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán giữa công ty
chứng khoán với khách hàng là nhà đầu tư trong quá trình cung cấp dịch vụ
về chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
Theo quy định tại Điều 60 Luật chứng khoán 2006, hoạt đông môi giới
chứng khoán là một trong số các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống của công
ty chứng khoán, thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ môi
giới chứng khoán giữa công ty chứng khoán với khách hàng là nhà đầu tư
chứng khoán. Mặc dù Luật chứng khoán hiện hành không trực tiếp quy định
về hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán nhưng các quy định về hợp đồng
dịch vụ nói chung (trong đó có hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán) đã
được ghi nhận trong Bộ luật dân sự 2015 và Luật thương mại 2005.
Theo quy định tại Điều 74 Luật thương mại 2005, nhà làm luật quy
định hình thức hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà
pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy
định đó. Theo quy định tại Điều 71 Luật chứng khoán 2006, như đã đề cập ở
trên thì hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán bắt buộc phải được lập thành
văn bản. Đối với dịch vụ môi giới chứng khoán, do đây là loại hình dịch vụ
kinh doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật nên công ty chứng khoán
chỉ được cung cấp dịch vụ này khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy
52
định của pháp luật.
Ngoài việc quy định về hình thức của hợp đồng dịch vụ môi giới chứng
khoán, pháp luật còn quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên tham gia
hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán nói
riêng. Hiện nay, Luật chứng khoán không quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán, do đó về nguyên
tắc việc quy định các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp này sẽ tuân
theo Luật thương mại 2005 và Bộ luật dân sự 2015 về hợp đồng dịch vụ.
Đối với bên cung ứng dịch vụ, chủ thể này có một số nghĩa vụ cơ bản
như: Cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một
cách đầy đủ, phù hợp với thoả thuận và theo quy định của pháp luật; giữ bí
mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ nếu có
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong trường hợp hợp đồng dịch vụ có
thỏa thuận về việc bên cung ứng dịch vụ theo kết quả công việc thì bên cung
ứng dịch vụ phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với các
điều khoản và mục đích của hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng không có
quy định cụ thể về tiêu chuẩn kết quả cần đạt được, bên cung ứng dịch vụ
phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với tiêu chuẩn
thông thường của loại dịch vụ đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Đối với bên thuê dịch vụ (khách hàng), chủ thể này có các nghĩa vụ cơ
bản như: Thanh toán tiền thuê dịch vụ như đã thoả thuận trong hợp đồng dịch
vụ; hợp tác trong tất cả những vấn đề cần thiết khác để bên cung ứng có thể
cung ứng dịch vụ một cách thích hợp.
Về hợp đồng mua bán chứng khoán
Khác với hợp đồng dịch vụ môi giới chứng khoán (được ký kết giữa
nhà môi giới chứng khoán là công ty chứng khoán với khách hàng là nhà đầu
tư), hợp đồng mua bán chứng khoán lại được giao kết giữa nhà đầu tư là bên
53
mua chứng khoán với nhà đầu tư là bên bán chứng khoán,thông qua tổ chức
môi giới là công ty chứng khoán.Điểm quan trọng nhất của hợp đồng mua bán
chứng khoán trong giao dịch cổ phiếu niêm yết chính là ở chỗ, các bên mua
và bán chứng khoán không trực tiếp gặp gỡ, trao đổi, thống nhất, đàm phán
với nhau để xác lập các điều khoản của hợp đồng mà thực chất là việc giao
kết hợp đồng đều được thực hiện thông qua nhà môi giới chứng khoán (công
ty chứng khoán) tại sàn giao dịch chứng khoán.
Để hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết được diễn ra một cách liên
tục trên thị trường chứng khoán tập trung, hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm
yết phải được thiết lập và thực hiện theo đúng trình tự và quy định của pháp
luật. Trong đó, để giao kết được một hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết
trên thị trường chứng khoán tập trung, các nội dung trong hợp đồng cần phải
được thỏa thuận và thống nhất giữa các bên nhằm tạo ra các quyền, nghĩa vụ
để cho chính các bên thực hiện trong quá trình giao dịch cổ phiếu niêm yết.
Quá trình này được thực hiện thông qua hai phương thức cơ bản gồm:
(i) Đối với phương thức khớp lệnh, bên bán thể hiện ý chí của mình
thông qua việc nhập các lệnh bán, còn bên mua thể hiện ý chí của mình
thông qua việc nhập lệnh mua. Các lệnh mua và lệnh bán này đều được bên
mua và bên bán gửi cho nhà môi giới do mình lựa chọn thông qua hợp đồng
môi giới chứng khoán đã giao kết với công ty chứng khoán.Việc khớp các
lệnh mua và lệnh bán này tại trung tâm khớp lệnh của sàn giao dịch chứng
khoán để từ đó xác định giá cả của loại chứng khoán được giao dịch chính là
tiền đề để xác định sự thống nhất ý chí giữa bên mua và bên bán về giá cả và
phương thức thanh toán của cổ phiếu niêm yết. Nếu nội dung các lệnh mua
và bán phù hợp với nhau thì coi như hợp đồng giao dịch cổ phiếu niêm yết
đã được giao kết và bên môi giới tự động thực hiện các điều khoản của hợp
đồng này theo sự ủy quyền của các bên trong hợp đồng dịch vụ môi giới
54
chứng khoán (thay mặt người mua để thanh toán tiền mua chứng khoán cho
người bán và thay mặt người bán chứng khoán để chuyển giao quyền sở hữu
chứng khoán cho người mua).
(ii) Đối với phương thức thức thỏa thuận, các nhà đầu tư xác định đối
tác từ trước sau đó cùng nhau thiết lập các văn bản thỏa thuận của các bên
tuân thủ theo đúng quy định của luật chứng khoán và pháp luật dân sự để đảm
bảo cho hợp đồng có hiệu lực thực hiện. Các giao dịch cổ phiếu niêm yết khi
thực hiện theo bất cứ phương thức nào cũng đề được xem là các cơ sở pháp lý
rõ ràng cho các hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung.
Để tạo lập một hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết theo phương thức
thỏa thuận, giữa người bán và người mua phải trao đổi, đàm phán với nhau về
các nội dung chính của hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết trên tinh thần tự
nguyện, tự do ý chí và thống nhất ý chí.
Với bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất ý chí giữa
các bên một cách tự nguyện, hợp đồng mua bán cổ phiếu niêm yết, cho dù
được giao kết theo phương thức nào thì cũng bao gồm các nội dung chủ yếu
như: loại cổ phiếu niêm yết được giao dịch; số lượng; giá cả; thời gian; địa
điểm giao dịch; phương thức thanh toán và chuyển giao cổ phiếu niêm yết...
Các thỏa thuận này là cơ sở pháp lý cho việc phát sinh quyền, nghĩa vụ của
các bên để chính các bên thực hiện trực tiếp hoặc thông qua người được ủy
quyền là nhà môi giới chứng khoán. Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán cổ
phiếu niêm yết phải tuân thủ theo đúng quy định của Quy chế giao dịch tại Sở
giao dịch chứng khoán và/hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán. Chẳng hạn,
theo quy định tại Điều 16 Quy chế của Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội,nội
dung thỏa thuận do thành viên bên mua và bên bán nhập vào hệ thống giao
dịch gồm: Mã chứng khoán; giá thực hiện; khối lượng; tài khoản nhà đầu tư
55
mua; tài khoản nhà đầu tư bán; các nội dung khác theo quy định của SGDCK.
Như vậy, có thể thấy rằng việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua
bán cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung vốn dĩ là các
vấn đề cốt lõi của giao dịch cổ phiếu niêm yết. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là
hiện nay Luật chứng khoán chưa có các quy định cụ thể về giao kết và thực
hiện hợp đồng mua bán chứng khoán nói chung và hợp đồng mua/bán cổ
phiếu niêm yết nói riêng, với tư cách là những hợp đồng mua bán hàng hóa
có tính chất đặc thù.
2.1.5. Thực trạng quy định về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp
phát sinh từ giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Các quy định về giải quyết tranh chấp
Với tư cách là một loại giao dịch dân sự đặc thù,giao dịch cổ phiếu
niêm yết được xác lập trên cơ sở sự tự nguyện và thống nhất ý chí của các bên
tham gia vào giao dịch.Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện giao dịch, vì lý do
nào đó mà một bên hoặc tất cả các bên giao dịch không thực hiện đúng các
điều khoản mình đã cam kết. Thực tế cho thấy, sự vi phạm hợp đồng thường
là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp giữa các bên tham gia vào giao
dịch cổ phiếu niêm yết. Tình trạng này đặt ra nhu cầu khách quan là phải thiết
kế các phương thức giải quyết tranh chấp, thông qua đó nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời bảo vệ lợi ích công và trật tự xã hội.
Theo quy định tại Điều 131 Luật chứng khoán 2006, nhà làm luật đã dự
liệu các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng
khoán và thị trường chứng khoán bao gồm: thương lượng, hòa giải hoặc yêu
cầu Trọng tài hoặc Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Điều này
cho thấy, pháp luật chứng khoán hiện hành rất đề cao phương án giải quyết
tranh chấp về chứng khoán theo phương châm tiết kiêm chi phí, đảm bảo
nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả và đảm bảo tối đa quyền, lợi ích hợp pháp
56
cho các bên tranh chấp. Tuy nhiên, điều đáng tiếc là hiện nay Luật chứng
khoán 2006 không có quy định cụ thể về phương thức thương lượng và hòa
giải tranh chấp giữa các bên trên thị trường chứng khoán tập trung. Do đó, về
nguyên tắc là khi thực hiện các phương thức này, các bên buộc phải tham
chiếu các quy định chung về giải quyết tranh chấp bằng con đường thương
lượng và hòa giải trong các văn bản pháp luật chung như Bộ luật dân sự 2015
hoặc Bộ luật tố tụng dân sự 2014, hoặc các văn bản khác có liên quan quy
định về thương lượng, hòa giải trong giao dịch dân sự.
Ngoài việc dự liệu về các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trên thị trường chứng khoán, Điều 132 Luật chứng khoán 2006 cũng đã quy
định rõ ràng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với bên gây thiệt hại
trong quá trình giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao dịch chứng khoán nói
chung và giao dịch cổ phiếu niêm yết nói riêng.Việc xác định giá trị thiệt hại
hoặc giá trị tổn thất, thủ tục bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy
định của pháp luật.
Các quy định về xử lý vi phạm
Bên cạnh việc quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh trên
thị trường chứng khoán, Luật chứng khoán hiện hành cũng đã quy định về
việc xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động chứng khoán và thị trường
chứng khoán.
Theo quy định tại Điều 118 Luật chứng khoán 2006,tổ chức, cá nhân có
hành vi vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan đến hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật. Ngoài ra, người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở
hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; có hành vi sách nhiễu,
57
gây phiền hà đối với tổ chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán;
không giải quyết kịp thời yêu cầu của tổ chức, cá nhân theo quy định; không
thực thi các công vụ khác do pháp luật quy định thì tùy theo tính chất, mức độ
vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Để có căn cứ pháp lý rõ ràng hơn cho việc xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực chứng khoán, Điều 119 Luật chứng khoán 2006 đã quy định
các hình thức xử phạt chính bao gồm phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Ngoài ra,
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị
áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung như: đình chỉ hoạt động;
thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động chứng khoán và
thị trường chứng khoán, chứng chỉ hành nghề chứng khoán; tịch thu toàn bộ
các khoản thu từ việc thực hiện các hành vi vi phạm mà có và số chứng khoán
được sử dụng để vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt nêu trên, tổ chức, cá nhân vi phạm còn
phải thực hiện các biện pháp bao gồm buộc chấp hành đúng các quy định của
pháp luật; buộc hủy bỏ, cải chính những thông tin sai lệch, thông tin sai sự
thật; buộc phải thu hồi số chứng khoán đã phát hành, hoàn trả tiền đặt cọc
hoặc tiền mua chứng khoán cho nhà đầu tư.Nội dung này được quy định và
hướng dẫn chi tiết tại Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm
2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 11
năm 2013 và Nghị định số 145/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2016 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP
ngày 23 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 15 tháng 12 năm 2016. Các văn bản quy phạm pháp luật quy định
cụ thể và hướng dẫn chi tiết về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử
58
phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt và áp
dụng hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Như vậy, có thể nhận thấy về cơ bản pháp luật chứng khoán nói
chung và pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung nói riêng cũng rất chú trọng đến việc đảm bảo xây dựng
một thị trường chứng khoán ổn định, an toàn và bảo vệ tối đa quyền và lợi
ích hợp pháp cho nhà đầu tư. Điều này được thể hiện thông qua việc Luật
chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên quan điều chỉnh chi tiết và rõ
ràng về việc giải quyết tranh chấp cũng như xử lý các hành vi vi phạm trên
thị trường chứng khoán hiện này.
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
2.2.1. Các kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật về
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung đã được xây dựng và áp dụng hơn một thập kỷ qua với nhiều tác
động lớn đến thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường kinh tế Việt Nam
nói chung. Năm 2006 Luật chứng khoán ra đời, đã tạo lập được khuôn khổ
pháp lý cơ bản và cao nhất cho hoạt động của thị trường chứng khoán cũng
như hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
trung. Đến năm 2010, Luật chứng khoán 2006 đã được sửa đổi và bổ sung
nhằm hoàn thiện những vấn đề pháp lý của vướng mắc trong quá trình áp
dụng thực tiễn, điều này dần hoàn thiện một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy
đủ, đồng bộ và có khả năng điều chỉnh thị trường chứng khoán tập trung một
cách toàn diện. Cho đến nay, Luật chứng khoán 2006 (sửa đổi bổ sung năm
2010) vẫn đang còn hiệu lực thi hành với 136 điều luật. Việc thực hiện các
59
quy định này trong quá trình xác lập và thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam thời gian qua cũng đã
đạt được những kết quả nhất định.
Ở mức độ khái quát, có thể kể đến một số kết quả và thành tựu chủ yếu sau:
Thứ nhất, với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đang dần hoàn
thiện,Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật khác có liên quan đã tạo lập
một hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho việc xác lạp và thực hiện các
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.Với việc
xác định thị trường chứng khoán tập trung là một kênh thu hút vốn đầu tư
trung và dài hạn lớn nhất Việt Nam, tại thị trường này, mức độ huy động vốn
cho hoạt động kinh doanh, thúc đẩy kinh tế tạo lợi nhuận đạt được kết quả rất
khả quan. Khi thị trường chứng khoán tập trung này được quan tâm và phát
triển, các nhà đầu tư bắt đầu chú trọng đầu tư vào thị trường này nhằm tìm
kiếm lợi nhuận, khả năng tiếp cận nguồn vốn dồi dào và dài hạn của các
doanh nghiệp được tăng lên, giúp cho nội lực của các doanh nghiệp cũng
được củng cố, giúp cho hoạt động kinh doanh tạo nhiều lợi nhuận, đồng thời
tạo được giá trị và tính an toàn cho thị trường chứng khoán tập trung, đặc biệt
là khi tiến hành các giao dịch liên quan đến cổ phiếu niêm yết [23]; [49].
Thứ hai, với vai trò và ý nghĩa của mình đối với nên kinh tế nói chung,
pháp luật về giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung từ
khi ra đời và áp dụng vào thực tiễn đã đem lại nhiều thành quả kinh tế đáng kể
trong những năm gần đây. Cho đến năm 2018, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã được Tổ chức tính toán chỉ số chứng khoán toàn cầu (FTSE) đã đưa
vào danh sách theo dõi nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi,
do Việt Nam đã thỏa mãn 8 trong 9 điều kiện tiên quyết để được nâng hạng lên
thị trường mới nổi hạng 2 và chỉ còn 1 điều kiện duy nhất còn chưa được thỏa
mãn là thanh toán bù trừ. Sau khi được vào danh sách theo dõi nâng hạng trong
kỳ phân loại tháng 9/2018 và có những sự cải thiện cần thiết để thỏa mãn tiêu
60
chí cuối cùng này, Việt Nam có thể sẽ chính thức được nâng hạng lên thị
trường mới nổi hạng 2 vào kỳ báo cáo thường niên tháng 9/2019. Việc lọt vào
danh sách này cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt đến tiêu chuẩn
quốc tế. Đây là ghi nhận đối với những cải tiến và phát triển thị trường trong
một thời gian dài trong đó có thị trường chứng khoán tập trung. Đây cũng là
một trong những thành tựu lớn mà pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết đã
đóng những vai trò tiên quyết và quyết định đến kết quả này [35].
Thứ ba, với vai trò là khung pháp lý cơ bản và toàn diện cho thị trường
chứng khoán tập trung, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết nói riêng và
pháp luật chứng khoán nói chung đã giúp cho thị trường chứng khoán Việt
Nam phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng, thị trường này đang
ngày một hoàn thiện về cấu trúc cũng như hiệu quả kinh tế góp phần phát
triển kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế doanh nghiệp và kinh tế cá nhân,
đúng với định hướng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa mà nhà nước đã đề ra. Thị trường chứng khoán tập trung đi vào hoạt
động đã góp phần hoàn thiện cơ cấu của thị trường vốn, thị trường tài chính
và tạo ra một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển, góp phần đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Thị trường chứng khoán đã tạo
lập được một thể chế phù hợp với trình độ phát triển của nước ta; từng bước
tiếp cận các chuẩn mực quốc tế và quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.
Đồng thời,thị trường chứng khoán tập trung này ngày càng góp phần tích cực
thúc đẩy cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và quá trình cải cách đổi
mới doanh nghiệp nhà nước đồng thời cũng đã thu hút đông đảo các nhà đầu
tư trong nước và nước ngoài, tạo nên giá trị và uy tín cho thị trường chứng
khoán và thị trường kinh tế nước ta.
Thứ tư, pháp luật về giao dịch cố phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán ra đời góp phần tăng cường tính thanh khoản cho thị trường chứng
61
khoán tập trung và là một trong những giải pháp cơ cấu lại tổ chức thị trường.
Theo đó, các loại lệnh mới trên thị trường cổ phiếu, đặc biệt là các loại lệnh
phù hợp với nhu cầu của các nhà đầu tư chuyên nghiệp; được triển khai hoạt
động giao dịch trong ngày phù hợp với điều kiện của thị trường và được diễn
ra một cách nhanh chóng, dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung cũng đã cho phép nới rộng biên độ giao động giá trong
ngày theo tính chất của từng phân bảng cổ phiếu niêm yết; áp dụng cơ chế
ngắt mạch tự động trong trường hợp thị trường có biến động mạnh, tăng thời
gian giao dịch áp dụng cho một số giao dịch đặc biệt; nghiên cứu triển khai
mô hình vay và cho vay chứng khoán trên cơ sở phù hợp với năng lực tài
chính và khả năng quản trị rủi ro của tổ chức kinh doanh chứng khoán. Các
tranh chấp và những hành vi vi phạm trên thị trường chúng khoán tập trung
cũng đã bị hạn chế, các giao dịch được thực hiện một cách công khai, minh
bạch hơn, quyền và lợi ích của nhà đầu tư được đảm bảo một cách tối đa và
an toàn hơn. Điều này đồng nghĩa với việc thị trường chứng khoán tập trung
đang ngày càng được củng cố về chất lượng cũng như tạo được độ an toàn và
sự tin tưởng của tất cả các thành phần tham gia thị trường này [1].
2.2.2. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện pháp
luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung
Luật Chứng khoán số 70/2006/QH11 được Quốc hội thông qua ngày
29/6/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007. Sau 4 năm thực hiện,
Chính phủ đã trình Quốc hội bổ sung, sửa đổi một số điều của Luật Chứng
khoán năm 2006 (Luật số 62/2010/QH12 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Chứng khoán, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011). Qua đánh giá
thực tiễn hơn 10 năm thi hành Luật Chứng khoán cho thấy, Luật Chứng
khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo lập được khung pháp lý
62
tương đối đầy đủ, đồng bộ, điều chỉnh toàn diện hoạt động chứng khoán và thị
trường chứng khoán trong đó không thể không kể đến vai trò của pháp luật về
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Tuy nhiên,
trong thời gian áp dụng, Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên
quan đến vấn đề giao dịch cổ phiếu niêm yết cũng vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu
xót, bất cập và thực tiễn xây dựng, hoàn thiện thị trường chứng khoán cũng
còn đang gặp nhiều vướng mắc, khó khăn.
Một cách khái quát, có thể nhận thấy những khó khăn, vướng mắc chủ yếu
trong thực tiễn thực hiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết bao gồm:
Thứ nhất, xuất hiện khoảng trống pháp lý trong quá trình hoạt động
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Theo Luật Chứng khoán hiện nay, trong trường hợp nhà đầu tư mua cổ
phiếu thì đến ngày T+2, cổ phiếu mà nhà đầu tư mua mới về đến tài khoản
của họ và sang ngày tiếp theo là ngày T+3 thì nhà đầu tư mới có thể bán được
chứng khoán mà mình đã mua. Đối với nhà đầu tư bán cổ phiếu niêm yết
cũng vậy, khi tiến hành bán cổ phiếu, đến ngày T+2 thì tiền mới về đến tài
khoản của nhà đầu tư bán cổ phiếu. Do đó, ngày giao dịch chính là ngày nhà
đầu tư đặt lệnh mua/bán thành công (T+0), và ngày thanh toán là ngày cổ
phiếu về đến tài khoản của người mua, tiền về đến tài khoản của người bán
(T+2) và ngày nhà đầu tư có thể tiến hành các giao dịch khác với cổ phiếu đã
mua về tại ngày (T+3) dẫn tới việc xuất hiện khoảng trống pháp lý đối với
quyền của nhà đầu tư tương ứng với chứng khoán mua về hoặc tiền bán
chứng khoán nhận được. Điều này cũng dẫn quyền và lợi ích của nhà đầu tư
không được chuyển giao tương ứng với thời điềm thực hiện thành công các
giao dịch cổ phiếu niêm yết, khiến việc thực hiện các quyền khác liên quan
đến số lượng cổ phiếu đã được giao dịch này sẽ bị chậm chễ [27]; [1].
Thứ hai, các lệnh mua/bán cổ phiếu niêm yết vượt quá thẩm quyền của
63
người được ủy quyền hoặc đại diện chủ thể chính của giao dịch.
Việc thực hiện quyền của nhà đầu tư thông qua chế định đại diện ủy
quyền cũng đã được pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung quy định. Theo đó, nhà đầu tư khi muốn ủy quyền thực
hiện các giao dịch của mình cho người khác thì việc ủy quyền phải được công
chứng theo quy định tại Thông tư số 74/2011/TTBTC. Điều này góp phần bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư ngay từ khi nhà đầu tư tham gia
vào các giao dịch, đồng thời hạn chế các rủi ro không đáng có mà nhà đầu tư
phải chịu bởi các hành vi trái luật phát sinh từ quan hệ dân sự với bên thứ ba.
Tuy nhiên, một số nhà đầu tư cho rằng, việc yêu cầu công chứng ủy quyền
giao dịch này là một thủ tục rườm rà, thiếu tính linh hoạt và có khả năng gây
mất thời gian của nhà đầu tư trong việc thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung. Bởi do đặc trung của chứng khoán
là sự biến động về giá cả trong một khoảng thời gian rất ngắn, do đó những
thủ tục công chứng này có thể gây nên những thiệt hại không đáng có về mặt
thời điểm nắm bắt cơ hội tìm kiếm lợi nhuận của nhà đầu tư. Vấn đề này cũng
đã đặt ra những vướng mắc thực tế khi áp dụng chế định ủy quyền thực hiện
giao dịch cổ phiếu niêm yết, một số giao dịch được thực hiện thông qua hình
thức ủy quyền này nhưng lại vượt quá phạm vi ủy quyền, dẫn tới thiệt hại
nghiêm trọng về quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Trong khi đó, những thiệt
hại này nhà đầu tư phải tự tìm cách giải quyết thông qua phương thức giải
quyết tranh chấp dân sự và pháp luật chứng khoán không có sự tác động bảo
đảm đến vấn đề này [47].
Thứ ba, các quy định về công khai minh bạch thông tin chứng khoán
còn chưa được phù hợp.
Nhà đầu tư khi tham gia vào thị trường chứng khoán tiến hành các giao
dịch mua bán cổ phiếu niêm yết sẽ gặp phải những rủi ro là đặc trưng của thị
64
trường này hiện nay. Những rủi ro đến với nhà đầu tư phải gánh chịu một
phần đến từ việc kiểm soát thông tin chứng khoán trên thị trường, dẫn đến
những hậu quả không thể lường trước dành cho thị trường tiềm năng này. Rủi
ro mà nhà đầu tư phải chịu trước hết là rủi ro từ những biến động của thị
trường, những biến động về giá cổ phiếu niêm yết được đem vào giao dịch tại
thị trường chứng khoán tập trung. Có thể nhận thấy, rủi ro này là khách quan
đối với nhà đầu tư và họ không có khả năng nhận biết hay lường trước được,
khi giá chứng khoán tăng, các giao dịch chứng khoán được thực hiện thì lợi
nhuận thu về của nhà đầu tư tăng, hoặc ngược lại, khi giá chứng khoán giảm,
lợi nhuận mà nhà đầu tư thu về bắt đầu giảm theo mức độ giảm của giá chứng
khoán. Điều này đồng nghĩa với việc, sự tác động gián tiếp vào giá trị lợi
nhuận mà nhà đầu tư nhận được thông qua các biến đầu về giá trên thị trường
vẫn chưa được pháp luật đảm bảo một cách tối ưu. Pháp luật chứng khoán
liên quan đến việc công khai thông tin ảnh hưởng không nhỏ đến sự biến
động về giá chứng khoán, biến động về thị trường kinh tế chưa đạt được hiệu
quả như mong muốn về sự minh bạch. Sự biện động của nền kinh tế nằm
ngoài khả năng nhận biết, kiểm soát của nhà đầu tư và chưa được pháp luật
điều chỉnh một cách ổn định, phù hợp với thị trường chứng khoán tập trung,
dẫn đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư cũng không được đảm bảo một cách
tuyệt đối bởi pháp luật khi thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung.
Thứ tư, các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trên thị trường chứng
khoán tập trung chưa đủ sức răn đe đối với người vi phạm.
Mặc dù pháp luật chứng khoán và pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung đã quy định khá chặt chẽ về các
hành vi vi phạm trong hoạt động chứng khoán và việc giải quyết tranh chấp
liên quan đến giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
65
trung, tuy nhiên những quy định này chưa đủ sức răn đe và nhăn chặn các
hành vi vi phạm, hạn chế các tranh chấp trong xác giao dịch cổ phiếu niêm
yết xảy ra. Trên thực tế, rất nhiều hành vi vi phạm pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán được thực hiện nhưng việc xử lý
còn chậm chễ, dẫn tới quyền và lợi ích của nhà đầu tư bị thiệt hại một cách
nghiêm trọng, mức độ và hình thức xử lý đối với chủ thể vi phạm còn nhẹ,
mang tính hình thức và chưa đủ sức răng đe, ngăn chặn các vụ việc tương tự
diễn ra. Đồng thời, việc giải quyết tranh chấp liên quan đến các giao dịch về
cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung mới dừng lại ở
nguyên tắc thỏa thuận giữa các bên mà chưa có một chế tài hai biện pháp
pháp lý cụ thể nào nhằm giải quyết các tranh chấp một cách nhanh chóng và
triệt để. dẫn tới những tranh chấp bị kéo dài, khiến cho quyền và lợi ích của
các bên bị thiệt hại nghiêm trọng, uy tín và mức độ an toàn của thị trường
cũng bị tác động không nhỏ [59].
Trên thực tế, các tranh chấp liên quan đến các giao dịch cổ phiếu niêm yết
trên thị trường chứng khoán tập trung cũng đã xuất hiện nhiều và có những tác
động không nhỏ tới yêu cầu hoàn thiện, củng cố vai trò của pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung mà cụ thể là pháp
luật chứng khoán. Liên quan đến vấn đề này, ngày 20/03/2013 Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra xét xử phúc thẩm vụ
việc tranh chấp về hợp đồng dịch vụ tại Bản án số 71/2013/KDTM-PT giữa
nguyên đơn là ông Phan Đức Chiến sinh năm 1961 có hộ khẩu thường trú tại
110D Trần Bình Trọng, Phường 1, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh và bị đơn là
Công ty cổ phần chứng khoán quốc tế Việt Nam (VIS) và người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan là bà Huỳnh Kim Thủy Tiên, có hộ khẩu thường trú tại 353B
Lê Quang Định, Phường 5, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh [41].
Theo hồ sơ tài liệu có trong vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như
66
sau: Ngày 16/09/2009 ông Phan Đức Chiến ký hợp đồng mở tài khoản giao
dịch chứng khoán với Công ty cổ phần chứng khoán quốc tế Việt Nam – Chi
nhánh Thành phố Hồ Chí Minh (VIS) với số tài khoản là 020C102***.
Nguyên đơn đã xuất trình được các phiếu nộp tiền và được bị đơn thừa nhận
từ ngày 28/09/2009 đến ngày 29/10/2009 vào tài khoản nêu trên với tổng số
tiền là 4.800.000.000 đồng (bốn phẩy tám tỷ đồng). Sau đó, ông Phan Đức
Chiến trực tiếp thực hiện đặt 08 lệnh (gồm 07 lệnh mua và 01 lệnh bán).
Ngoài ra, ông Chiến còn ủy quyền cho bà Huỳnh Thị Thủy Tiên đặt 09 lệnh
(gồm 03 lệnh mua và 06 lệnh bán). Các giao dịch trên đầu được thực hiện
thông qua hình thức đặt lệnh trực tiếp tại sàn hoặc qua điện thoại. Tổng cộng,
ông Chiến và bà Tiên đã đặt 17 lệnh (gồm 10 lệnh mua và 07 lệnh bán) với 08
mã chứng khoán được mua bán. Cho đến ngày 03/11/2009 là ngày cuối cùng
đặt lệnh, tiền và chứng khoán của ông Chiến trong tài khoản còn 4.800.000.000
đồng cùng tiền lãi là 79.968.000 đồng. Trong khi đó, tại hợp đồng dịch vụ ký
kết giữa ông Chiến và VIS quy định ông Chiến được phép hưởng chứng sách
hỗ trợ vốn để mua chứng khoán có giá trị giao dịch lớn hơn số tiền thực có
trong tài khoản.Theo thỏa thuận này, tính từ thời điểm ngày 01/10/2009 đến
ngày 21/10/2009 số tiền công ty VIS đã ứng trước vào tài khoản của ông Chiến
liên tới 13.307.453.707 đồng. Do đó, để tránh rủi ro cho việc ứng trước tiền
thanh toán tại tài khoản của ông Chiến, công ty VIS đã ngừng hỗ trợ chính sách
ưu đãi vốn vay cho ông chiến vào ngày 22/10/2009 và yêu cầu ông Chiến tiếp
tục nộp tiền vào tài khoản. Tính đến ngày 29/10/2009, số tiền trong tài khoản
do ông Chiến nộp chỉ có 4.800.000.000 đồng, chênh lệnh giữa tiền thực có
trong tài khoản với số tiền ưu đãi mà VIS dành cho ông Chiến là 8.507.453.707
đồng. Để đảm bảo việc thu hồi vốn do có sự giảm giá liên tục của các mã cổ
phiếu đang có trong tài khoản của ông Chiến, công ty VIS đã tự thực hiện 10
67
giao dịch nhằm mục đích thu hồi tài sản. Tính đến ngày 22/12/2009 công ty
VIS đã thu đủ số tiền đã ứng trước cho ông Chiến cùng các khoản phí chậm trả,
vì vậy các bên không còn quan hệ nợ tiền vay với nhau nữa.
Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, công ty VIS tự mình
cho rằng ông Chiến là khách hàng VIP được hưởng chế độ ưu đãi ứng trước
tiền mua chứng khoán theo chính sách của công ty, nhưng giữa ông Chiến và
công ty VIS không hề thiết lập bất cứ thỏa thuận hoặc văn bản nào liên quan
đến việc ứng vốn vay mượn tiền mua chứng khoán, trong khi đó công ty VIS
tự mình đặt ra tình huống trên để tự mình thực hiện một số giao dịch chứng
khoán liên quan đến tài khoản và cổ phiếu niêm yết có trong tài khoản của
ông Chiến dẫn tới việc làm mất hết chứng khoán và tiền có trong tài khoản
của ông Chiến đã nộp tại công ty. Bên cạnh đó, công ty VIS cũng không xuất
trình được tài liệu, chứng cứ nào làm căn cứ cho việc tự mình được phép thực
hiện 10 giao dịch cổ phiếu niêm yết có trong tài khoản của ông Chiến như
trong hồ sơ vụ án. Trong khi đó, tất cả các yêu cầu mà ông Chiến đưa ra đều
được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ xác định cho yêu cầu khởi kiện
của ông là có căn cứ.
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét thấy do VIS
không tuân thủ đúng các quy định trong điều lệ được phổ biến nội bộ và quy
định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh chứng khoán dẫn đến tiền và cổ
phiếu trong tài khoản của khách hàng bị mất, gây thiệt hại cho chủ đầu tư là
ông Phan Đức Chiến tính đến ngày 22/12/2009 khi công ty VIS thông báo tài
khoản của ông Chiến bằng 0. Tại bản án sơ thẩm và phúc thẩm, tòa án các cấp
căn cứ theo quy định tại Luật chứng khoán và các văn bản pháp luật có liên
quan quyết định công ty VIS phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông
Chiến, ngoài số tiền 4.800.000.000 đồng có trong tài khoản phải trả, công ty
68
VIS còn phải có trách nhiệm trả tiền lãi cho ông Chiến kể từ ngày 22/12/2009.
Có thể nhận thấy, thị trường chứng khoán tập trung luôn tiền ẩn nhiều
những biến động, ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quyền và lợi ích của các nhà
đầu tư. Các tranh chấp cũng như các hành vi vi phạm trong việc thực hiện các
giao dịch chứng khoán niêm yết cũng thường xuyên xảy ra với những thiệt
hại đáng kể. Với chức năng và vai trò của mình, pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cũng đã phần nào giải
quyết được những vướng mắc tồn tại của nó. Tuy nhiên để giải quyết triệt để
và có tác động hiệu quả đến thị trường chứng khoán tập trung thì việc hoàn
thiện quy định của pháp luật về vấn đề này cũng cần phải được xem xét hoàn
69
thiện một cách toàn diện và thống nhất.
Kết luận chương 2
Theo thực tiễn áp dụng pháp luật, pháp luật điều chỉnh trực tiếp các
giao dịch chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung chủ
yếu bao gồm Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung 2010; Nghị định số
58/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Chứng khoán; Nghị định số 60/2015/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP; Thông tư số 203/2015/TT-BTC của
Bộ tài chính quy định chi tiết hướng dẫn về giao dịch trên thị trường chứng
khoán; Thông tư số 134/2018/TT-BTC của Bộ tài chính quy định chi tiết về
hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán... và các văn bản
pháp luật khác có liên quan.
Pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung đã được xây dựng và áp dụng hơn một thập kỷ qua với nhiều tác
động lớn đến thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường kinh tế Việt Nam
nói chung. Năm 2006 Luật chứng khoán ra đời, đã tạo lập được khuôn khổ
pháp lý cơ bản và cao nhất cho hoạt động của thị trường chứng khoán cũng
như hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
trung. Đến năm 2010, Luật chứng khoán 2006 đã được sửa đổi và bổ sung
nhằm hoàn thiện những vấn đề pháp lý của vướng mắc trong quá trình áp
dụng thực tiễn, điều này dần hoàn thiện một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy
đủ, đồng bộ và có khả năng điều chỉnh thị trường chứng khoán tập trung một
cách toàn diện.
Qua đánh giá thực tiễn hơn 10 năm thi hành Luật Chứng khoán cho
thấy, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo lập được
khung pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ, điều chỉnh toàn diện hoạt động
70
chứng khoán và thị trường chứng khoán trong đó không thể không kể đến vai
trò của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung. Tuy nhiên, trong thời gian áp dụng, Luật chứng khoán và các văn
bản pháp luật có liên quan đến vấn đề giao dịch cổ phiếu niêm yết cũng vẫn
còn bộc lộ nhiều thiếu xót, bất cập và thực tiễn xây dựng, hoàn thiện thị
trường chứng khoán cũng còn đang gặp nhiều vướng mắc, khó khăn. Để giải
quyết triệt để các vướng mắc và tạo tác động hiệu quả đến thị trường chứng
khoán tập trung thì việc hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này cũng
71
cần phải được xem xét hoàn thiện một cách toàn diện và thống nhất.
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIAO DỊCH CỔ PHIẾU NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG TẠI VIỆT NAM
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam
Thị trường chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán tập trung
nói riêng cho đến nay đã và đang thể hiện rõ vai trò và chức năng của mình
trong sự phát triển kinh tế quốc gia và sự pháp triển toàn diện xã hội Việt
Nam. Do đó, với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa như hiện nay,
phát triển thị trường chứng khoán là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của kinh tế Việt Nam, đồng thời, để phát triển được thị trường này, pháp luật
về giao dịch chứng khoán nói chung và đặc biệt là pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam cũng đã
được xây dựng đường lối phát triển chiến lược. Theo Quyết định 242/2019
phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”, một số định hướng và mục tiêu
đã được đặt ra.Trong giai đoạn này thị trường chứng khoán cần phải được xây
dựng và phát triển phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, hình thành một hệ thống thị trường chứng khoán đồng bộ và thống nhất
trong tổng thể thị trường tài chính của đất nước.
Về mục tiêu phát triển, Chính phủ xác định rằng mục tiêu tổng quát của
giai đoạn này trước hết là phát triển thị trường chứng khoán ổn định, vững chắc,
cấu trúc hoàn chỉnh với nhiều cấp độ, đồng bộ về các yếu tố cung - cầu; tăng quy
mô và chất lượng hoạt động, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ, đảm bảo thị
72
trường hoạt động hiệu quả và trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan
trọng của nền kinh tế; bên cạnh đó phải bảo đảm tính công khai, minh bạch, các
tiêu chuẩn và thông lệ quản trị công ty, tăng cường năng lực quản lý, giám sát và
cưỡng chế thực thi, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và lòng tin của thị trường.
Đồng thời chủ động trong việc hội nhập thị trường tài chính quốc tế, từng bước
tiếp cận với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế [18].
Ở mức độ khái quát, có thể cho rằng việc hoàn thiện pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cần chú ý đến
các định hướng cơ bản như sau:
Thứ nhất, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường
chứng khoán tập trung ở Việt Nam phải đảm bảo sự phát triển bền vững của
thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường kinh tế Việt Nam nói chung.
Hay nói cách khác, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị thị
trường tiềm năng này phải khẳng định hơn nữa vai trò điều tiết của mình,
cũng như khẳng định được hiệu quả mà sự điều chỉnh của nó đem lại cho sự
phát triển kinh tế Việt Nam thông qua việc xây dựng một thị trường chứng
khoán tập trung phát triển ổn định, bền vững. Để làm được điều này, pháp
luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết cần được hoàn thiện theo hướng củng cố
hệ thống quy phạm pháp lý của mình một cách toàn diện, tạo được hành lang
pháp lý vững chắc cho các giao dịch cổ phiếu niêm yết có thể thực hiện trên
thị trường chứng khoán tập trung một cách dễ dàng, nhanh chóng, thao gỡ
được những bất cập về mặt pháp lý cũng như giải quyết được những bất cập
trong thực tiễn thi hành.
Thứ hai, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung tại Việt Nam phải thống nhất với pháp luật chứng khoán Việt
Nam và đồng bộ với hệ thống pháp luật quốc gia Việt Nam. Với vai trò là các
quy phạm điều chỉnh trực tiếp các quan hệ giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
73
thị trường chứng khoán, pháp luật trong lĩnh vực này cũng có vai trò là một
bộ phận cấu thành và không thể thiếu của pháp luật chứng khoán. Do đó, để
có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong việc điều chỉnh các giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết cần được xây dựng và hoàn thiện thống nhất với pháp luật về
chứng khoán của Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở đó, trong quá trình hiện
nay, với giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật
Việt Nam nói chung cũng đang đặt mình trong giai đoạn hoàn thiện theo
nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho con
người. Theo đó, pháp luật về chứng khoán hay kể cả pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cũng phải được hoàn
thiện và xây dựng một cách đồng bộ với hệ thống pháp luật Việt Nam. Định
hướng này hoàn toàn phù hợp bởi bản chất của những giao dịch cổ phiếu
niêm yết được thực hiện trên thị trường chứng khoán tập trung không thể xa
vời và nằm ngoài sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời
sự hoàn thiện toàn diện của pháp luật này cũng góp phần thúc đẩy sự hoàn
thiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung tại Việt Nam được diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Thứ ba, trong giai đoạn hiện nay, xây dựng pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cũng cần phải tương
thích với chuẩn mực quốc tế và tiếp thu những thành quả pháp lý đã được các
nước trên thế giới xây dựng. Thị trường chứng khoán đang ngày một phát
triển mạt mẽ, trong khu vực, thị trường chứng khoán Việt Nam đang được
đánh giá là một thị trường có nhiều tiềm năng lớn cho các nhà đầu tư cả trong
và ngoài nước, pháp luật chứng khoán Việt Nam hiện nay cũng đã và đang
cởi mở trong vấn đề giao dịch có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, để năng tầm
thị trường chứng khoán Việt Nam lên tầm khu vực và vươn xa hơn đến với thị
74
trường chứng khoán thế giới, ngoài việc xây dựng khung pháp lý cơ bản để
tạo lập nên thị trường chứng khoán, pháp luật về giao dịch cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam cũng cần xây dựng và hoàn
thiện các tiêu chí đáp ứng được chuẩn mực quốc tế của thị trường này. Để
có thể xây dựng và hoàn thiện một cách có hiệu quả và nhanh chóng, việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về các tiêu chuẩn quốc tế trong hoạt động
này của Việt Nam cần học hỏi và tiếp thu được những thành tự khoa học
pháp lý của các quốc gia trên thế giới trong việc xây dựng và pháp triển thị
trường chứng khoán này [1].
Thứ tư, với chức năng và vai trò chính của mình, pháp luật về giao dịch
cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam phải
được xây dựng với mục tiêu bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư khi tham gia các giao dịch này. Với trọng tâm là quyền và lợi ích của
các chủ thể tham gia vào giao dịch cổ phiếu niêm yết, đặc biệt là chủ thể nhà
đầu tư, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết cần phải được xây dựng dựa
trên cơ sở là nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích của chủ thể này. Bởi trên
thực tế, trước hết thị trường chứng khoán được thiết lập để thu hút các nhà
đầu tư tham gia với mục tiêu thu hút vốn đầu tư từ chủ thể này và trả lại cho
họ một phần lợi nhuận từ việc đầu tư, đồng thời, sự giam gia của các nhà đầu
tư mới có thể tạo dựng nên sự lớn mạnh của thị trường. Do đó, khi pháp luật
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư, điều này đồng nghĩa
với việc pháp luật đang gián tiếp xây dựng nên một thị trường chứng khoán
vững chắc, ổn định và có nhiều tiềm năng, đồng thời tạo lợi nhuận cũng như
lợi ích xứng đáng dành cho nhà đầu tư, trực tiếp góp phần phát triển kinh tế cá
nhân của các nhà đầu tư và gián tiếp thúc đẩy kinh tế quốc gia pháp triển.
Thứ năm, xây dựng pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam vào giao đoạn này cần đảm bảo
75
được tính công khai, minh bạch, công bằng, góp phần tạo lập nên thị trường
chứng khoán tập trung lành mạnh, có nhiều tiềm năng, góp phần phát triển
lớn mạnh thị trường chứng khoán Việt Nam. Với vai trò là tạo không gian cho
các giao dịch cổ phiếu niêm yết được tiến hành, thị trường chứng khoán tập
trung có trách nhiệm cũng như đặc điểm không thể tách rời đó là khả năng
đảm tính công bằng, minh bạch và công khai mọi thông tin về các giao dịch
được thực hiện. Với yêu cầu này, thị trường chứng khoán tập trung sẽ tạo lập
được một môi trường công bằng, khách quan và đúng với bản chất của một
thị trường tài chính tập trung, đảm bảo cho các giao dịch được diễn ra trên cơ
sở những thông tin và hoạt động minh bạch, các giao dịch được thực hiện có
thể đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên cũng như quyền và lợi ích
chung của thị trường này. Đồng thời, có thể nhận thấy, sự tham gia và phát
triển thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư chịu ảnh hưởng không nhỏ
vào khả năng đảm bảo tính minh bạch, khách quan của thị trường, bởi đây là
nơi các quyền và nghĩa vụ hợp pháp cũng như những lợi ích vật chất tác động
trực tiếp và không hề nhỏ đến nhà đầu tư. Không chỉ vậy, yêu cầu này đối với
thị trường chứng khoán tập trung cũng là yêu cầu chung đối với tất cả các thị
trường tài chính trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Do đó, pháp luật về
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt
Nam cũng cần được xây dựng và hoàn thiện đảm bảo được vấn đề này.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung ở Việt Nam
Với vai trò và chức năng của mình trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội của Việt Nam giai đoạn gần đây, pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cần phải được hoàn
thiện hơn nữa cả về hệ thống và nội dung điều chỉnh của pháp luật lĩnh vực
này nhằm tạo sức mạnh pháp lý tối đa giải quyết các bất cập, tồn tại thực tiễn
76
đồng thời tạo lập và củng cố được một thị trường chứng khoán Việt Nam an
toán, lớn mạnh. Để có thể đạt được mục tiêu trên, pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết cần được hoàn thiện cả về mô hình thị trường, pháp luật về
chủ thể, cơ chế giao dịch cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp và các vi
phạm trên thị trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam.
Thứ nhất, hoàn thiện quy định về mô hình tổ chức và cơ chế vận hành
của thị trường chứng khoán tập trung để làm cơ sở cho việc phát triển giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Đối với mô hình tổ chức thị trường chứng khoán tập trung, xuất phát
từ những bất cập và vướng mắc trong quá trình vận hành thị trường chứng
khoán tập trung như hiện này, giải pháp hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ
chức chị trường chứng khoán tập trung theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa cơ
cấu tổ chức thị trường này bằng cách đa dạng hóa sở hữu các Sở giao dịch
chứng khoán xây dựng Sở giao dịch chứng khoán trở thành một tổ chức
quản lý hoạt động chứng khoán tự quản đúng nghĩa, theo mô hình công ty
TNHH hoặc công ty cổ phần theo như công lệ quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Trong trường hợp các Sở giao dịch chứng khoán được đa dạng hóa sở
hữu, các đơn vị này có thể tận dụng được tiềm năng tài chính của nhân dân,
tạo cơ sở vật chất cũng như kinh nghiệm từ các chủ sở hữu khác nhau tạo
nên hiệu quả cho công tác quản lý thị trường chứng khoán cũng như nâng
cao chất lượng công tác vận hành thị trường chứng khoán tập trung. Khi cho
phép các Sở giao dịch chứng khoán được phép tự chủ hoạt động, một số hoạt
động liên quan đến giao dịch cổ phiếu niêm yết sẽ được đơn vị này xử lý và
giải quyết một cách nhanh chóng và kịp thời hơn, tránh các trường hợp kéo
dài thời hạn giải quyết, xử lý, gây mất thời gian và tạo ra thiệt hại lớn cho
các bên liên quan. Bên cạnh đó, với chức năng và vai trò của các Sở giao
dịch chứng khoán là quản lý hành chính nhà nước về các hoạt động chứng
77
khoán trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai, hoàn thiện quy định về chủ thể tham gia giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung.
Các quy định của pháp luật về chủ thể tham gia giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung cũng đang là một trong những vấn đề
vô cùng quan trọng cần phải thực hiện để hoàn thiện pháp luật lĩnh vực này.
Đối với chủ thể trực tiếp thực hiện giao dịch là các tổ chức chứng
khoán trung gian, pháp luật về chủ thể này cần được hoàn thiện và xây dựng
đáp ứng được tiêu chí của IOSCO về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động
hướng tới mục đích: (i) Bảo vệ nhà đầu tư một cách tối đa; (ii) Bảo đảm cho
thị trường minh bạch, công bằng và hiệu quả; (iii) Giảm thiểu tối đa những rủi
ro hệ thống trên thị trường. Do đó, với mục tiêu này, pháp luật về chủ thể của
giao dịch cổ phiếu niêm yết đối với các đơn vị tổ chức chứng khoán trung
gian cần xây dựng Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp hành nghề kinh doanh
chứng khoán. Việc xây dựng thành công bộ quy tắc này góp phần yêu cầu và
thúc đẩy hoạt động kinh doanh chứng khoán của các đơn vị chứng khoán
trung gian được chuyên nghiệp hơn, đồng thời gián tiếp bảo vệ quyền và lợi
ích cho nhà đầu tư khi tham gia giao dịch cổ phiếu niêm yết được an toàn
hơn, hiệu quả hơn và đặc biệt hơn hết là tạo được hiệu quả trong việc vận
hành thị trường chứng khoán tập trung.
Đối với chủ thể chính của giao dịch cổ phiếu niêm yết bao gồm các nhà
phát hành và các nhà đầu tư, pháp luật cũng cần phải được hoàn thiện theo
hướng tạo điều kiện tối đa giúp các chủ thể này có thể dễ dàng tham gia vào
thị trường chứng khoán tập trung và nhanh chóng nằm bắt được những quyền
lợi và nghĩa vụ của mình khi thực hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết. Theo
đó, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết khi muốn bảo vệ nhà phát hành,
nhà đầu tư thì các đơn vị chủ quản của thị trường nảy phải tiến hành các biện
78
pháp nâng cao kiến thức, kinh nghiệm của nhà đầu tư, vai trò, trách nhiệm của
nhà phát hành khi tham gia giao dịch.Vấn đề này phải được xây dựng theo
hướng đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn để các nhà phát hành và nhà đầu tư
nhận biết được quyền và lợi ích cũng như trách nhiệm của của mình thi thực
hiện hoạt động hoạt động mua bán cổ phiếu niêm yết.Điều này đồng nghĩa
với việc củng cố hơn nữa nguyên tắc tự chịu trách nhiệm cao nhất cho mọi
thiệt hại đến từ hành vi giao dịch của các chủ thể đã tiến hành. Dựa vào
nguyên tắc này, khi tham gia vào thị trường chứng khoán, pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết có thể thiết lập một cam kết của các chủ thể khi tham
gia vào thị trường này về năng lực nhận biết pháp luật chứng khoán cũng như
nhu cầu tiến hành giao dịch, nhằm giúp cho các đơn vị chủ quản nắm bắt
được tình trạng nhà đầu tư, hoạt động của nhà phát hành và đưa ra được
phương án điều chỉnh, hỗ trợ giúp cho nhà phát hành, nhà đầu tư có thể có
được những giao dịch hiệu quả nhất.Bên cạnh đó, để có thể thu hút mạnh mẽ
hơn nữa sự tham gia của các nhà đầu tư chứng khoán, pháp luật về giao dịch
cổ phiếu niêm yết cũng cần thay đổi quy định về nhà đầu tư tham gia giao
dịch cổ phiếu niêm yết theo hướng đa dạng hóa nhà đầu tư. Theo quy định
pháp luật hiện hành, người được phép tham gia các giao dịch cổ phiếu niêm
yết phải là người đã mở một tài khoản tại công ty chứng khoán, điều này đồng
nghĩa với việc một người chỉ được phép thực hiện các giao dịch cổ phiếu
niêm yết một cách độc lập, vậy trong trường hợp nhà đầu tư là một nhóm
người, một hộ gia đình thì việc tham gia gia dịch cổ phiếu niêm yết này sẽ
được thực hiện như thế nào? Do đó pháp luật về vấn đề này cần nghiên cứu
hoàn thiện theo hướng cho phép các nhà đầu tư đồng sở hữu tài khoản và
được phép tham gia giao dịch cổ phiếu niêm yết thông qua chế định đại diện.
Liên quan đến vấn đề này, pháp luật về đại diện tham gia giao dịch cổ phiếu
niêm yết trên thị trường hứng khoán tập trung cũng cần được nghiên cứu và
79
sửa đổi theo hướng, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư có thể thực
hiện các giao dịch chứng khoán một cách dễ dàng thông qua phương thức ủy
quyền mà không cần bắt buộc phải công chứng ủy quyền, thay vào đó, việc
đại diện tham gia giao dịch này có thể được pháp luật quy định bằng việc xác
nhận của đơn vị trung gian chứng khoán về việc ủy quyền của nhà đâu tư cho
bên nhận đại diện tham gia giao dịch.
Ngoài ra, khi quy định về các vấn đề liên quan đến chủ thể là nhà đầu
tư, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết cũng cần được xây dựng, và giải
thích một cách đơn giản, dễ hiểu, tạo khả năng nắm bắt thông tin và hiểu biết
pháp luật cho nhà đầu tư có thể tiếp cận một cách dễ dàng và hiểu quả, góp
phần nâng cao chất lượng các giao dịch đầu tư được thực hiện bởi các nhà đầu
tư có kiến thức và kinh nghiệm. Điều này góp phần xây dựng một thị trường
chứng khoán tập trung lành mạnh, an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về cơ chế giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán tập trung.
Hiện nay, cơ chế giao dịch cổ phiếu niêm yết đã được xây dựng và
hoàn thiện về cơ bản, trong đó, ngoài các hình thức giao dịch cơ bản, hình
thức giao dịch trực tuyến cũng đã được triển khai thông qua Thông tư số
134/2017/TT-BTC về hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng
khoán tập trung, tuy nhiên, hình thức tiến hành giao dịch này cũng cần phải
được nghiên cứu và hoàn thiện hơn nữa trong việc đảm bảo an toàn cho cơ
chế giao dịch. Xuất phát từ việc kiểm chứng thông tin cũng như ý chí thực
hiện giao dịch khi các giao dịch được tiến hành qua giao dịch điện tự, các rủi
ro trong việc nhà đầu tư để lộ những thông tin liên quan đến việc giao dịch
điện tử chứng khoán cũng như ngày càng nhiều hành vi phạm tội được thực
hiện thông qua các giao dịch điện tử sẽ khiến nhà đầu tư khi tiến hành phương
thức này dễ gặp rủi ro và thiệt hại bởi các hành vi trái luật nhưng không chịu
80
sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật chứng khoán, dẫn đến việc xuất hiện các
thiệt hại lớn, trực tiếp và khó có khả năng thu hồi, bồi đắp thiệt hại cho nhà
đầu tư. Do đó, khi phát triển phương thức giao dịch điện tử này, pháp luật
chứng khoán cần xây dựng cơ chế đảm bảo an toàn bí mật thông tin cũng như
nâng cao tính xác thực cho các giao dịch bằng việc đặt ra thiết chế xác thực
lại thông tin khi tiến hành giao dịch điện tử thông qua các mật mã, lệnh xác
nhận hoặc bảo mật hai lớp đối với nhà đầu tư tham gia vào giao dịch.
Ngoài ra, với có chế ngày giao dịch T+ như hiện nay, một khoảng trống
pháp lý liên quan đến quyền của nhà đầu tư đối với cổ phiếu niêm yết mà mình
đã mua khi thực hiện giao dịch cũng đang tồn tại vướng mắc. Đối với các giao
dịch chứng khoán, sự biến động về giá luôn là một trong những biến động ảnh
hưởng rất lớn tới quyền và lợi ích của nhà đầu tư, do đó, khi việc kéo dài và
chậm chễ khả năng thực hiện các quyền quyết định của nhà đầu tư đối với
chứng khoán đã được giao dịch thành công này dẫn tới những ảnh hưởng
không nhỏ có thể gây ra những thiệt hại về vật chất cho nhà đâu tư khi không
thể thực hiện các quyền bán chứng khoán hoặc nhận tiền bán chứng khoán.
Do đó, pháp luật về cơ chế giao dịch này cần hoàn thiện theo hướng
bổ sung các quyền của nhà đầu tư trong trường hợp chứng khoán chưa về tài
khoản của người mua, bằng cách nới rộng quyền bán trước và đơn giản hóa
thủ tục bán trước chứng khoán. Đối với nhà đầu tư nhận tiền tự việc bán
chứng khoán, pháp luật về vấn đề này cũng nên quy định theo hướng nhà
đầu tư và đơn vị chứng khoán trung gian có thể thỏa thuận cho phép nhà đầu
tư được ứng trước hoặc rút trước tiến bán chứng khoán. Điều này tạo rất
nhiều thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện các giao dịch cổ phiếu tiếp theo
trên thị trường.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết
tranh chấp phát sinh trong quá trình giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
81
trường chứng khoán tập trung.
Với tính chất là thị trường vốn dài hạn,bất kỳ một hành vi vi phạm hay
tranh chấp nào xảy ra trên thị trường chứng khoán cũng có thể tạo ra những
thiệt hại vô cùng lớn đối với nhà đầu tư nói riêng và thị trường chứng khoán
nói chung. Do đó, đối với một số vi phạm mang tính chất nghiêm trọng, việc
gây thiệt hại cho nhà đâu tư hay bất cứ chủ thể nào tham gia vào giao dịch,
điều này đồng nghĩa với việc hành vi này đã xâm phạm một cách trực tiếp đến
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, đặc biệt là quyền tài sản đối với cổ
phiếu niêm yết được giao dịch, do đó, những hành vi này mang tính chất nguy
hiểm cho xã hội ở mức cao và cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự. Vì
vậy, pháp luật hình sự cần có những chế tài quy định về các hành vi xâm
phạm quyền sở hữu chứng khoán cũng như các hành vi gây thiệt hại nghiêm
trọng đến thị trường chứng khoán như các hành vi thao túng chứng khoán,
thâu tóm chứng khoán có tính chất nguy hiểm, gây thiệt hại lớn cho thị trường
chứng khoán.Đối với các tranh chấp phát sinh diễn ra trên thị trường chứng
khoán tập trung liên quan đến các giao dịch cổ phiếu niêm yết, cơ chế giải
quyết tranh chấp như hiện nay chưa hoàn toàn phát huy được chức năng giải
quyết tranh chấp, do đó còn tạo ra nhiều vướng mắc trong việc giải quyết
tranh chấp, gây ra những thiệt hại không đáng có cho nhà đầu tư. Chính vì
vậy, để có thể hoàn thiện pháp luật về cơ chế giải quyết các giao dịch này, cơ
chế giải quyết tranh chấp cần được kiện toàn theo hướng mở rộng thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của cơ quan quản lý chuyên ngành trong việc giải quyết
tranh chấp liên quan đến giao dich chứng khoán. Theo đó, các đơn vị quản lý
là Ủy ban chứng khoán nhà nước và Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán từ trước đến nay không có chức năng trong việc thực hiện vai trò là
đơn vị hòa giải khi có tranh chấp xảy ra, thi nay pháp luật về cơ chế giải quyết
tranh chấp cần xem xét xác lập và nâng cao thẩm quyền giải quyết tranh chấp
82
cho các đơn vị này. Nếu cần thiết có thể thành lập Ban hòa giải thuộc quản lý
của Ủy ban chứng khoán già nước với chức năng chuyên trách giải quyết các
tranh chấp liên quan đến giao dịch chứng khoán, điều này đồng nghĩa với việc
giảm tải trách nhiệm hòa giải của các sở giao dịch chứng khoán, tạo điều kiện
cho các sở giao dịch chứng khoán thực hiện công tác quản lý thúc đầy phát
triển giao dịch.
Thứ năm, nâng cao ý thức pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên
thị trường chứng khoán tập trung.
Với quá trình phát triển của thị trường chứng khoán như hiện này, cùng
với quá trình đang dần hoàn thiện của pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm
yết trên thị trường chứng khoán tập trung, một yêu cầu cần được thực hiện đó
là nâng cao hiệu quả tuyên truyền pháp luật về thị trường chứng khoán. Pháp
luật với vai trò của mình thì ngoài việc quy định các vấn đề cốt lõi để tạo lập
nên một thị trường tập trung nơi mà các nhà đầu tư có thể tự do dễ dàng thực
hiện các giao dịch cổ phiếu niêm yết, thì pháp luật về vấn đề này cũng cần đặt
ra những phương án nhằm giúp cho tất cả các chủ thể có thể dễ dàng tiếp cận
được những quy định của pháp luật này, đồng thời nâng cao khả năng truyền
đạt ý thức pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết cho các chủ thể, góp phần
nâng cao hiểu biết và kiến thức của các bên khi tiến hành các giao dịch. Điều
này đồng nghĩa với việc, khi ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia các
giao dịch này được nâng cao, các giao dịch được thực hiện một cách an toàn,
minh bạch và công bằng hơn, quyền và lợi ích của các bên ít bị xâm hại, các
tranh chấp cũng được hạn chế xuất hiện và thị trường chứng khoán phát triển
ổn định hơn, hiệu quả hơn. Do đó, để thực hiện được mục tiêu trên, các cơ
quan có thẩm quyền quản lý hoạt động giao dịch chứng khoán cần tiến hành
các biện pháp tuyên truyền, phố biến pháp luật về chứng khoán cho các chủ
thể tham gia giao dịch, đồng thời cần có các dự án, chương trình nâng cao
83
năng lực và trình độ của các cá nhân, tổ chức thực thi pháp luật về giao dịch
chứng khoán. Những giải pháp này là biện pháp gián tiếp được thực hiện
nhằm nâng cao chất lượng các giao dịch và chuyên nghiệp hóa thị trường
chứng khoán Việt Nam, góp phần tạo uy tín cho thị trường tài chính này, tiếp
tục thu hút sự tham gia của nhiều nhà đầu tư và góp phần xây dựng, phát triển
84
kinh tế chung của Việt Nam.
Kết luận chương 3
Thị trường chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán tập trung
nói riêng cho đến nay đã và đang thể hiện rõ vai trò và chức năng của mình
trong sự phát triển kinh tế quốc gia và sự pháp triển toàn diện xã hội Việt
Nam. Trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay thị
trường chứng khoán cần phải được xây dựng và phát triển theo một định
hướng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hình
thành một hệ thống thị trường chứng khoán đồng bộ và thống nhất trong tổng
thể thị trường tài chính của đất nước, bên cạnh đó cũng cần đảm bảo chất
lượng và năng lực của thị trường.
Với vai trò và chức năng của mình trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam giai đoạn gần đây, pháp luật về giao
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cần phải được
hoàn thiện hơn nữa cả về hệ thống và nội dung điều chỉnh của pháp luật lĩnh
vực này nhằm tạo sức mạnh pháp lý tối đa giải quyết các bất cập, tồn tại thực
tiễn đồng thời tạo lập và củng cố được một thị trường chứng khoán Việt Nam
an toán, lớn mạnh. Do đó, pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung tại Việt Nam cũng cần được xây dựng và hoàn
thiện đảm bảo được vấn đề này.
Để kiện toàn và xây dựng được hệ thống pháp luật về giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên trị trường chứng khoán tập trung, các giải pháp cần được
thực hiện đó là: (1). Hoàn thiện quy định về mô hình tổ chức và cơ chế vận
hành của thị trường chứng khoán tập trung; (2). Hoàn thiện quy định về chủ
thể tham gia giao dịch cổ phiếu niêm yết; (3). Hoàn thiện quy định về cơ chế
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung; (4). Nâng
cao chức năng bảo vệ nhà đầu tư; (5)Nâng cao ý thức pháp luật của tất cả
85
các chủ thể khi tiến hành giao dịch. Các giải pháp được đưa ra nhằm kiện
toàn các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra các phương án
giải quyết thực tiến đối với những vướng mắc đang còn tồn tại trên thị
trường chứng khoán tập trung.
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế như hiện nay, vai trò của
thị trường chứng khoán ngày càng được nâng cao, đặc biệt là đối với thị
trường chứng khoán tập trung. Sự tác động mạnh mẽ của các giao dịch cổ
phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung là tác nhân thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển của thị trường và nên kinh tế quốc gia. Chính vì vậy,
việc hoàn thiện pháp luật đối với quan hệ pháp luật này là vô cùng quan
86
trọng và cần thiết.
KẾT LUẬN
Về cơ bản, thị trường chứng khoán đã được xây dựng và hoàn thiện
toàn bộ những điều kiện cơ bản như nguyên tắc, điều kiện và phương thức
giao dịch để các bên tham gia hoạt động giao dịch chứng khoán, đặc biệt là
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung có thể áp
dụng và thực hiện. Những nội dung cơ bản này của thị trường chứng khoán đã
tạo được hành lang thị trường cần thiết cho các giao dịch cổ phiếu niêm yết
được phát triển cũng như củng cố và hoàn thiện hơn nữa thị trường chứng
khoán tập trung.
Giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung với
những đặc điểm cơ bản của giao dịch dân sự và những đặc điểm riêng liên
quan đến đối tượng niêm yết là cổ phiếu niêm yết và thị trường chứng khoán
tập trung riêng biệt, nguồn của pháp luật điều chỉnh đối với giao dịch này
không chỉ dừng lại ở các quy định của pháp luật chứng khoán chuyên ngành
mà còn có sự điều chỉnh của nhiều nguồn pháp luật khác của liên quan. Bên
cạnh các quy phạm pháp luật chứng khoán chuyên ngành, các hoạt động liên
quan đến giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung còn
phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật chung có liên quan như bộ luật dân sự,
luật đầu tư, luật doanh nghiệp...
Pháp luật về giao dịch chứng khoán niêm yết trên thị trường chứng
khoán tập trung cũng là một bộ phận không thể thiếu của pháp luật về giao
dịch chứng khoán. Với tư cách là biện pháp điều tiết và quản lý các hoạt động
giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung nói riêng
và sự ràng buộc pháp lý cũng như yêu cầu pháp lý bắt buộc đối với các vấn đề
liên quan đến hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết khác. Pháp luật về giao
87
dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung được xây dựng
và hoàn thiện với vai trò như một hành lang pháp lý vững chắc nhằm bảo đảm
cho các hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung được an
toàn, minh bạch và công bằng.
Pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
tập trung đã được xây dựng và áp dụng hơn một thập kỷ qua với nhiều tác
động lớn đến thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường kinh tế Việt Nam
nói chung. Năm 2006 Luật chứng khoán ra đời, đã tạo lập được khuôn khổ
pháp lý cơ bản và cao nhất cho hoạt động của thị trường chứng khoán cũng
như hoạt động giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán tập
trung. Đến năm 2010, Luật chứng khoán 2006 đã được sửa đổi và bổ sung
nhằm hoàn thiện những vấn đề pháp lý của vướng mắc trong quá trình áp
dụng thực tiễn, điều này dần hoàn thiện một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy
đủ, đồng bộ và có khả năng điều chỉnh thị trường chứng khoán tập trung một
cách toàn diện.
Tuy nhiên, trong thời gian áp dụng, Luật chứng khoán và các văn bản
pháp luật có liên quan đến vấn đề giao dịch cổ phiếu niêm yết cũng vẫn còn
bộc lộ nhiều thiếu xót, bất cập và thực tiễn xây dựng, hoàn thiện thị trường
chứng khoán cũng còn đang gặp nhiều vướng mắc, khó khăn. Để giải quyết
triệt để các vướng mắc và tạo tác động hiệu quả đến thị trường chứng khoán
tập trung thì việc hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này cũng cần
phải được xem xét hoàn thiện một cách toàn diện và thống nhất.
Việc hoàn thiện pháp luật về giao dịch cổ phiếu niêm yết trên thị
trường chứng khoán tập trung vừa và yêu cầu cũng như trách nhiệm của pháp
luật đối với thị trường chứng khoán nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
Trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trên con đường xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc hoàn thiện pháp luật lĩnh vực này
88
cũng là yêu cầu chung của đất nước trong giai đoạn này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Tạ Thanh Bình (2007), Hoàn thiện pháp luật về giao dịch chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Tạ Thị Bình (2001), Đặc điểm pháp lý của việc giao kết hợp đồng mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung tại Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
3. Bộ tài chính (2015), Thông tư số 203/2015/TT-BTC hướng dẫn về giao
dịch trên thị trường chứng khoán, Hà Nội.
4. Bộ tài chính (2017), Thông tư số 115/2017/TT-BTC hướng dẫn công tác giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán, Hà Nội.
5. Bộ tài chính (2017), Thông tư số 134/2017/TT-BTC hướng dẫn giao dịch
điện tử trên thị trường chứng khoán, Hà Nội.
6. Bộ tài chính (2018), Tờ trình dự án Luật chứng khoán (sửa đổi) gửi
Chính Phủ, Hà Nội.
7. Bộ tư pháp (2017), Đề xuất hoàn thiện chính sách nhằm mở rộng, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán, Hà Nội.
8. Bộ tư pháp (2017), Yêu cầu cấp thiết sửa đổi Luật chứng khoán trong
bối cảnh hội nhập kinh tế - quốc tế, Hà Nội.
9. Chính phủ (2012), Nghị định số 58/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Hà Nội.
10. Chính phủ (2013), Nghị định số 108/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Hà Nội.
89
11. Chính phủ (2013), Nghị định số 170/2013/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi thành Luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Hà Nội.
12. Chính phủ (2015), Nghị định số 60/2015/NĐ-CP quy định về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2012/NĐ-CP, Hà Nội.
13. Chính phủ (2016), Nghị định số 145/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, Hà Nội.
14. Chính phủ (2016), Nghị định số 86/2016/NĐ-CP quy định điều kiện đầu
tư, kinh doanh chứng khoán, Hà Nội.
15. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 27/NQ-CP ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 và Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 8/11/2016, Hà Nội.
16. Nguyễn Thùy Dương (2016), Thực thi pháp luật về hoạt động công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết số 05-NQ/TW về một số chủ trương chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nên kinh tế, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 11-NQ/TW về hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội.
19. Phạm Nguyễn Hoàng (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và phát triển thị trường giao dịch hợp đồng tương lai trái phiếu tại Việt Nam.
20. Bùi Thị Lệ (2018), Nhận dạng và đo lường rủi ro trong đầu tư cổ phiếu niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Thương mại.
21. Nguyễn Thành Long (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Định hướng phát triển
thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2020.
90
22. Luatvietnam.vn (2018), 9 nội dung quan trọng nhất của Luật chứng khoán.
23. Nguyễn Văn Mỹ (2007), Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh.
24. Lê Nết, Thời điểm chuyển quyền sở hữu trong giao dịch chứng khoán
25. Bùi Thanh Ngà (2007), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Đặng Thị Bích Ngọc (2018), Nghiên cứu công bố thông tin kế toán của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
27. Nguyễn Thị Phương (2017), Hợp đồng mua bán chứng khoán theo pháp
luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
28. Quốc hội (2006), Luật công nghệ thông tin, Hà Nội.
29. Quốc hội (2006), Luật chứng khoán 2006 sửa đổi bổ sung 2010, Hà Nội.
30. Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp, Hà Nội.
31. Quốc hội (2014), Luật đầu tư, Hà Nội.
32. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
33. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 24/2016/QH14 về kế hoạch tái cơ cấu
nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
34. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 25/2016/QH14 về kế hoạch tài chính 5
năm quốc gia giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
35. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (2018), 10 sự kiện chứng khoán nổi
bật năm 2018, Hà Nội.
36. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (2018), Quyết định số 653/QĐ- SGDHN quyết định về việc ban hành Quy chế Giao dịch Chứng khoán niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội.
91
37. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (2018), Quyết định số 655/QĐ- SGDHN Quyết định về việc ban hành quy định thời gian giao dịch chứng khoán niêm yết, Hà Nội.
38. Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 341/QĐ-SGDHCM quyết định về việc ban hành Quy chế Giao dịch Chứng khoán niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
39. Sở tài chính tỉnh Ninh Thuận (2019), Sửa đổi luật chứng khoán: Giải quyết nhiều vướng mắc để phát triển thị trường chứng khoán, Ninh Thuận.
40. Hồ Thị Thủy Tiên (2011), Giải pháp hạn chế rủi ro trong đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
41. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2013), Bản án số 71/2013/KDTM-
PT về việc giải quyết tranh chấp hợp đồng dịch vụ.
42. Phan Anh Tuấn (2013), Tội phạm hóa các hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học TP Hồ Chí Minh.
43. Lê Thanh Tùng (Chủ nhiệm đề tài) (2016), Hoàn thiện hệ thống giám sát giao dịch cho Thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2016-2020, http://www.srtc.org.vn/index.php?name=Book&op=ndetail&nc=28&n=789.
44. Phạm Phú Thành (2018), Pháp luật xử lý các vi phạm trong lĩnh vực mua bán chứng khoán đối với các tổ chức, cá nhân trên thị trường chứng khoán, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật, Đại học Huế.
45. Thủ tướng chính phủ (2019), Quyết định số 242/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025”, Hà Nội.
46. Phạm Thị Giang Thu (2002), “Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí luật học, (03).
47. Phạm Thị Giang Thu (2003), “Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các chủ thể kinh doanh chứng khoán”, Tạp chí khoa học pháp lý, (02).
92
48. Lê Thu Thủy, Đỗ Minh Tuấn (2012), “Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển bền vững thị trường chứng khoán ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội.
49. Ủy ban chứng khoán Nhà Nước (2018), cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn
thiện pháp luật về thị trường chứng khoán.
50. Lê Thị Thùy Vân (2017), “Hoàn thiện thể chế và phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam đến năm 2020”, Tạp chí ngân hàng, (19).
51. Nguyễn Quang Việt (Chủ nhiệm đề tài) (2001), “Một số vấn đề pháp lý về giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán VIệt Nam”, Đề tài khoa học cấp bộ.
II. Tài liệu Website
52. Dương Công Chiến (2018), Luật Chứng khoán đã bộc lộ nhiều bất cập
cần được sửa đổi, thoibaonganhang.vn.
53. Chứng khoán bảo việt (2014), IPO gắn với niêm yết – đừng để doanh
nghiệp “nhờn pháp luật”; http://www.bvsc.com.vn/SupportNews/2014925/309494/ipo-gan-voi- niem-yet-dung-de-doanh-nghiep-nhon-phap-luat.aspx.
54. Thu Huệ (2013), Nhận diện tội phạm chứng khoán, http://anninhthudo.vn/.
55. Hoàng Đức Long (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Hoàn thiện luật chứng khoán,
http://www.srtc.org.vn/index.php?name=Book&op=ndetail&nc=28&n=685
56. Đặng Phương Mai (2018), Bất cập thuế chứng khoán, sao mãi không gỡ?, https://ndh.vn/chung-khoan/bat-cap-thue-chung-khoan-sao-mai-khong- go-1231401.html.
57. Đình Phú, Những bất cập khi đầu tư vào thị trường chứng khoán; http://review.siu.edu.vn/chung-khoan-bat-dong-san/nhung-bat-cap-khi- dau-tu-vao-thi-truong-chung-khoan/341/5588.
58. Tapchitaichinh.vn (2018), Quy chế mới về giao dịch chứng khoán niêm
yết, http://tapchitaichinh.vn/kinh-te-vi-mo/quy-che-moi-ve-giao-dich- chung-khoan-niem-yet-145112.html.
93
59. VNeconomy.vn (2019), Xử phạt vi phạm trong chứng khoán: 3 tỷ cũng chưa đủ sức răn đe, http://vneconomy.vn/xu-phat-vi-pham-trong-chung- khoan-3-ty-cung-chua-du-suc-ran-de-20190417111641589.htm.