BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG THỊ NGUYỆT NGA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢNG VIÊN - TỪ THỰC TIỄN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT
HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HOÀNG THỊ NGUYỆT NGA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢNG VIÊN - TỪ THỰC TIỄN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT
HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380102
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn được dẫn từ các
nguồn hợp pháp, tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn không trùng lắp với các công trình nghiên
cứu có liên quan đã được công bố.
Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Nguyệt Nga
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn với tình cảm trân trọng nhất, tác giả xin được bày
tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS. Nguyễn Thị Thu Hương đã hướng dẫn,
giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn.
Tác giả cũng xin được bày tỏ sự biết ơn đối với Ban Giám đốc, các
Thầy, Cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia đã tận tình giảng dạy,
hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả có thể hoàn thành chương
trình khóa học và luận văn.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ, giảng viên đang công tác tại trường
Cao đẳng Sư phạm Trung ương, đặc biệt là các cán bộ tại Phòng Hành chính-
Tổng hợp và Bộ phận Văn thư của Nhà trường đã nhiệt tình cộng tác và giúp
đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả
Hoàng Thị Nguyệt Nga
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢNG VIÊN ........................................................................... 10 1.1. Giảng viên và pháp luật về giảng viên ............................................... 10 1.2. Thực hiện pháp luật về giảng viên ..................................................... 27 1.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về giảng viên ................ 33 Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 42
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢNG VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG ..................... 43
2.1. Khái quát về Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương và đội ngũ giảng viên của trường ............................................................................... 43 2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về giảng viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương ....................................................................... 51 2.3. Nhận xét thực hiện pháp luật về giảng viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương ................................................................................ 63 Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 76
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢNG VIÊN- TỪ THỰC TIỄN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG .......................................................... 77
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng viên-từ thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm trung ương ............................................... 77 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng viên-từ thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm trung ương ............................................... 81 Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 95 KẾT LUẬN ................................................................................................. 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 97
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Phân loại giảng viên của trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương theo trình độ chuyên môn 47
Bảng 2.2 Bảng phân loại giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương theo hạng chức danh nghề nghiệp 48
Bảng 2.3 Phân loại theo giới tính, đội ngũ giảng viên của nhà trường 49
Bảng 2.4. Phân loại đội ngũ giảng viên của nhà trường theo hợp đồng làm việc 50
Bảng 2.5
Số lượng giảng viên nâng bậc lương thường xuyên, trước thời hạn, hưởng phụ cấp thâm niên nhà giáo, chuyển ngạch cán bộ quản ký sang giảng viên và hưu trí 58
Bảng 2.6 Số lượng cán bộ, viên chức được khen thưởng từ năm 2013-2018 59
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1 Phân loại giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung
ương theo trình độ chuyên môn 48
Biểu đồ 2.2 Phân loại giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương theo hạng chức danh nghề nghiệp 48
Biểu đồ 2.3 Phân loại đội ngũ giảng viên của nhà trường theo hợp
đồng làm việc 50
Biểu đồ 2.4 Số lượng giảng viên nâng bậc lương thường xuyên, trước thời hạn, hưởng phụ cấp thâm niên nhà giáo, chuyển ngạch cán bộ quản lý sang giảng viên và hưu trí 59
Biểu đồ 2.5 Kết quả đánh giá cán bộ, viên chức từ năm 2013-2018 60
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của giáo dục có sự đóng góp rất lớn từ giảng viên-
người có vai trò quan trọng đối với người học, đối với nhà trường và xã hội
thông qua các hoạt động giảng dạy, hướng dẫn, để sinh viên có được kiến
thức, kỹ năng, phẩm chất, đạo đức cần thiết trong tương lai.
Ở Việt Nam, giáo dục là quốc sách hàng đầu. Để chính sách này đi vào
thực tế, thể chế hóa thành pháp luật về giáo dục nói chung, pháp luật về giảng
viên nói riêng là điều kiện cần, thực hiện pháp luật đó là điều kiện đủ. Thông
qua thực hiện pháp luật, pháp luật được hiện thực hóa, từ đó, góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục.
Riêng đối với đào tạo ngành sư phạm, sự thực hiện pháp luật cần hướng
tới mục tiêu nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao về sư phạm cho xã
hội. Muốn vậy, mọi quy định và quá trình thực hiện pháp luật đối với giảng
viên trong trường sư phạm phải là sự tác động tích cực và toàn diện nhằm
giúp giảng viên có môi trường, điều kiện tốt nhất để có thể mang đến những
biến đổi mới về chất trong trong quá trình đào tạo sư phạm của nước nhà.
Các quy định của pháp luật về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng,
luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, các quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và các bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ
đối với giảng viên giảng dạy trong các trường sư phạm là một trong những
công cụ quản lý nhà nước, có tính chất định hướng, tạo động lực, huy động
các nguồn lực, giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển đội ngũ giảng viên
các trường sư phạm. Việc thực hiện rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ các quy định
pháp luật về giảng viên sẽ tác động thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển bền vững
đội ngũ giảng viên, góp phần quyết định nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên
1
cứu khoa học và ngược lại.
Trong những năm gần đây, các trường đào tạo sư phạm, đặc biệt là các
trường cao đẳng đang gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong công tác tuyển
sinh do những thay đổi trong chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành sư
phạm cũng như nhu cầu xã hội đối với nguồn nhân lực được đào tạo từ các
trường sư phạm. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 (Hội nghị trung
ương lần thứ 8, khóa XI) về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã xác định: “Tiến
tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư
phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được
đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải
qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý”.
Trên cơ sở đó, Luật Giáo dục năm 2019 quy định (có hiệu lực từ
01/7/2020), từ năm 2020, giáo viên tiểu học, trung học cơ sở phải có trình độ
đại học. Đón trước xu hướng này, một số trường cao đẳng của một số địa
phương đã sáp nhập với các trường đại học. Tuy nhiên, tính đến 30/6/2019, cả
nước vẫn còn 30 trường cao đẳng sư phạm, trong đó có 3 trường trực thuộc
trung ương và 27 trường trực thuộc các địa phương. Do vậy, những vấn đề
lớn đặt ra như: Các trường Cao đẳng sư phạm đào tạo ai, nội dung, trình độ
nào; sắp xếp cơ cấu, tổ chức, bố trí nhân sự, tinh giản biên chế, giảng viên các
trường cao đẳng sư phạm sẽ ra sao? Quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định
cho giảng viên các trường này và việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó như
thế nào? Đây là một số vấn đề còn bỏ ngỏ, cần được nghiên cứu và có câu trả
lời thỏa đáng trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
theo tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW, sắp xếp đơn vị sự nghiệp công lập
2
Nghị quyết 19-NQ/TW (Hội nghị trung ương lần thứ 6, Khóa XII), ngày 25
tháng 10 năm 2017 “Về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”.
Thêm vào đó, là người có nhiều năm công tác tại trường Cao đẳng Sư
phạm Trung ương và ở góc độ của một giảng viên, nhận thấy những bất cập,
hạn chế trong thực hiện pháp luật về giảng viên, tôi luôn trăn trở: làm thế nào
để các quy định pháp luật đối với giảng viên thực sự phù hợp, cải thiện cách
quản lý đánh giá lao động của giảng viên nhằm sử dụng tốt nhất nguồn lực
này, và đặc biệt phải có quy định đảm bảo quyền, nghĩa vụ của giảng viên các
trường Cao đẳng sư phạm trong bối cảnh đổi mới của ngành sư phạm giai
đoạn hiện tại và tương lai, để đội ngũ giảng viên các trường Cao đẳng sư
phạm có nhiều đóng góp trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự
nghiệp giáo dục, đào tạo của đất nước.
Trong bối cảnh trên, việc nghiên cứu đề tài “Thực hiện pháp luật về
giảng viên-Từ thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương” là cần thiết,
nhằm đưa ra thêm các luận cứ, cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp
luật, bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của giảng viên trong
các trường sư phạm, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục, đào tạo phát triển
có ý nghĩa cấp thiết đối với giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khảo sát tình hình nghiên cứu đề tài cho thấy, đến nay, đã có khá nhiều
đề tài nghiên cứu liên quan đến chủ đề nghiên cứu của đề tài như:
- Luận án tiến sỹ “Hoàn thiện pháp luật về nhà giáo ở Việt Nam trong
bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế”, mã số đề tài: 62380101 do tác giả Đặng Thị Thu Huyền thực hiện năm
2013. Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về nhà
giáo ở Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
3
nghĩa và hội nhập quốc tế; Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về nhà
giáo ở Việt Nam hiện nay; Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
nhà giáo trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế [23].
- Luận án tiến sỹ “Thực hiện pháp luật về viên chức trong trường đại
học ở Việt Nam”, mã số đề tài: 62380101 do tác giả Nguyễn Thị Thu Hương
thực hiện năm 2015. Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về viên chức
trong trường đại học; Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về viên
chức trong trường đại học ở Việt Nam; Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực
hiện pháp luật về viên chức trong trường đại học ở Việt Nam hiện nay [22].
- Luận án tiến sỹ “Chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường
đại học công lập ở Việt Nam”, mã số đề tài: 62348201 do tác giả Vũ Đức Lễ
thực hiện năm 2015 [26].
- Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về viên chức ở Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập” của tác giả Lê Thị Quỳnh Nga được thực hiện năm 2011. Luận văn đi
sâu nghiên cứu về cơ sở lý luận của pháp luật về viên chức, quá trình hình
thành, phát triển, thực trạng pháp luật viên chức ở Việt Nam và các giải pháp
nhằm hoàn thiện việc thực hiện pháp luật ở nước ta vào thời điểm Luật Viên
chức đã ra đời nhưng chưa có hiệu lực thi hành [27].
- Luận văn thạc sĩ “Chất lượng viên chức các trường mầm non trên địa
bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội”, mã số đề tài: 60343403 do tác Trần
Thị Trinh thực hiện năm 2018. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận
về chất lượng đội ngũ viên chức mầm non; Thực trạng chất lượng viên chức
các trường mầm non trên địa bàn huyện Gia Lâm; Mục tiêu và một số giải
pháp nâng cao chất lượng viên chức các trường mầm non trên địa bàn huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội [35].
- Luận văn thạc sĩ “Đánh giá thực hiện công việc của giảng viên trường
4
Đại học Mỹ thuật Công nghiệp”, mã số đề tài: 60340404 do tác giả Mai Mạnh
Hùng thực hiện năm 2016. Luận văn làm nổi bật cơ sở lý luận về đánh giá
thực hiện công việc của giảng viên trường đại học; Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện đánh giá thực hiện công việc của giảng viên trường đại học Mỹ
thuật Công nghiệp.
- Luận văn thạc sĩ “Quản lý đào tạo, bồi dưỡng giảng viên các trường
cao đẳng công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội”, mã số đề tài: 60140114
do tác giả Nguyễn Thương Huyền thực hiện năm 2016. Luận văn nghiên cứu
cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên trường cao đẳng; Thực trạng
đào tạo, bồi dưỡng và đề xuất 1 số biện pháp về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
trường cao đẳng công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội [24].
- Luận văn thạc sĩ “Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao
đẳng Kinh tế-Kỹ thuật thuộc đại học Thái Nguyên”, mã số đề tài: 601405 do
tác giả Đặng Văn Doanh thực hiện năm 2008. Luận văn nghiên cứu cơ sở lý
luận về phát triển đội ngũ giảng viên trường cao đẳng; Thực trạng đội ngũ và
công tác phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Kinh tế-Kỹ thuật
thuộc đại học Thái Nguyên; Một số biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên
trường Cao đẳng Kinh tế-Kỹ thuật thuộc đại học Thái Nguyên.
Ngoài ra có khá nhiều luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hiến pháp
và luật hành chính nghiên cứu về thực hiện pháp luật, gắn với một địa bàn
hoặc một lĩnh vực nhất định như: "Thực hiện pháp luật về vận tải hành khách
bằng đường bộ theo tuyến cố định - Từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi", Nguyễn
Hữu Đoan, 2018; “Thực hiện pháp luật về đăng ký quyền sử dụng đất tại thị
xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước”, Trần Thị Thanh Thảo, 2018; “Thực hiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc- Từ thực tiễn huyện Bố Trạch, tỉnh
Quảng Bình”, Nguyễn Như Quỳnh, 2018; Thực hiện pháp luật về luật sư- Từ
5
thực tiễn tỉnh Quảng Bình, Ngô Bá Diệu Linh, 2018…
Như vậy, trong khả năng khảo sát của học viên cho thấy, cho đến nay,
mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan
đến thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật trong từng lĩnh vực cụ
thể cũng như có nhiều công trình nghiên cứu về giảng viên ở những phương
diện khác nhau, song chưa có công trình nào nghiên cứu ở cấp độ luận văn
thạc sĩ chuyên ngành luật Hiến pháp và Luật Hành chính đề cập đến thực hiện
thực hiện pháp luật về giảng viên trong các trường Cao đẳng sư phạm. Đây
cũng là lý do để đề tài “Thực hiện pháp luật về giảng viên-Từ thực tiễn trường
Cao đẳng Sư phạm Trung ương” được lựa chọn nghiên cứu bởi sự không
trùng lắp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố cũng
như gắn với bối cảnh triển khai thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW, nghị
quyết số 19-NQ/TW, Luật Giáo dục năm 2019.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện pháp luật về
giảng viên tại trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương, luận văn đề xuất một số
quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng viên từ
thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
- Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
+ Hệ thống hóa, phân tích làm rõ thêm cơ sở lý luận, pháp lý của thực
hiện pháp luật về giảng viên;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về giảng viên tại
trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương;
+ Đưa ra một số quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
6
về giảng viên từ thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, thực tiễn của
hoạt động thực hiện pháp luật về giảng viên.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài
+ Phạm vi nghiên cứu về không gian: Trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương.
+ Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện
pháp luật về giảng viên trong từ năm 2013 (năm ban hành nghị quyết số
29/NQ-TW) đến nay.
+ Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Thực hiện pháp luật về giảng viên
trong các trường Cao đẳng sư phạm có nội dung rộng, trong khuôn khổ của
Luận văn, Luận văn tập trung nghiên cứu về khái niệm, phân loại, đặc điểm
nghề nghiệp của giảng viên và pháp luật về giảng viên; khái niệm và các giai
đoạn thực hiện pháp luật về giảng viên; các yếu tố tác động đến thực hiện
pháp luật về giảng viên; Thực trạng thực hiện pháp luật về giảng viên tại
trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương; quan điểm, giải pháp bảo đảm thực
hiện pháp luật về giảng viên.
+ Phạm vi về đối tượng: Luận văn nghiên cứu nhóm thực hiện nhiệm
vụ giảng viên trong các trường Cao đẳng sư phạm, đang là viên chức; không
nghiên cứu nhóm giảng viên thỉnh giảng, giảng viên kiêm nhiệm, người hợp
đồng lao động.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
7
chứng, duy vật lịch sử.
- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Chương 1 sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích-tổng hợp
để khái quát những vấn đề lý luận và đánh giá các yếu tố tác động đến thực
hiện pháp luật về giảng viên.
Chương 2 sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh
nhằm tạo lập thông tin phục vụ cho nghiên cứu, đánh giá các khía cạnh thực tiễn
thực hiện pháp luật về giảng viên tại trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
Chương 3 sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa để
đưa ra quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng
viên từ thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp
lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải... nhằm làm sáng tỏ nội
dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu nêu trên được sử dụng đồng thời, hỗ trợ
lẫn nhau để làm rõ những quan điểm, nội dung khoa học mà tác giả đã trình
bày trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung, làm rõ thêm lý luận về thực hiện pháp luật
nói chung, thực hiện pháp luật về giảng viên trong các trường Cao đẳng sư
phạm nói riêng
- Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch
định chính sách, xây dựng kế hoạch, lộ trình hoàn thiện pháp luật, thực hiện
8
pháp luật về giảng viên;
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và học tập tại các cơ sở đào tạo luật học, hành chính học, bồi
dưỡng giáo viên, người làm quản lý giáo dục.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về giảng viên.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về giảng viên ở trường Cao
đẳng Sư phạm Trung ương.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng
9
viên-Từ thực tiễn Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIẢNG VIÊN
1.1. Giảng viên và pháp luật về giảng viên
1.1.1. Giảng viên
1.1.1.1. Khái niệm giảng viên
Theo từ điển tiếng việt của Hoàng Phê chủ biên thì: “GV là người
giảng dạy ở đại học, cao đẳng hay lớp huấn luyện cán bộ” [28, tr.243]. Như
vậy, theo cách hiểu thông thường giảng viên là người làm nhiệm vụ giảng dạy
trong các trường đại học và cao đẳng.
Theo Luật Giáo dục năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì
giảng viên là nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học.
Để phân biệt với giáo viên-người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà
trường, cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp,
Điều 70, Khoản 3, Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Nhà giáo giảng dạy ở
cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là
giáo viên, ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên” [30]. Điều 66, Khoản 1,
Luật Giáo dục năm 2019 quy định “Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục khác, giảng dạy trình độ sơ
cấp, trung cấp gọi là giáo viên; nhà giáo giảng dạy từ trình độ cao đẳng trở
lên gọi là giảng viên” [31].
Khái quát nhất, giảng viên được hiểu là viên chức chuyên môn đảm
nhiệm việc giảng dạy và đào tạo ở bậc đại học, cao đẳng thuộc một ngành/chuyên
ngành đào tạo của trường đại học hoặc cao đẳng. Là “bộ phận đặc thù của trí
thức Việt Nam”, giảng viên vừa tham gia giảng dạy, vừa tham gia nghiên cứu
10
khoa học. Nhiệm vụ của giảng viên được xác định trên hai phương diện: là
nhiệm vụ của viên chức nói chung theo quy định tại Điều 17 Luật Viên chức
năm 2010 và nhiệm vụ của nhà giáo theo quy định tại Điều 72 Luật giáo dục
năm 2005 (Theo Điều 69, Luật Giáo dục năm 2019, có hiệu lực từ 01/7/2020).
Vai trò của giảng viên được thể hiện qua việc tham gia đào tạo nguồn
lực con người, lực lượng lao động chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần nâng cao dân trí,
phát triển nhân tài cho đất nước; nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ quốc
gia thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, triển khai các kết quả nghiên
cứu đó vào đời sống; xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; xây dựng, phát triển
kinh tế đất nước.
1.1.1.2. Phân loại giảng viên
Phân loại giảng viên dựa trên hai tiêu chí cụ thể là phân loại giảng viên
theo nơi làm việc và phân loại giảng viên theo hạng chức danh nghề nghiệp.
- Phân loại theo nơi làm việc
+ Giảng viên làm việc trong cơ sở giáo dục công lập bao gồm giảng
viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng.
Giảng viên cơ hữu của cơ sở giáo dục công lập là viên chức được tuyển
dụng, sử dụng và quản lý theo quy định của pháp luật về viên chức; được ký
hợp đồng làm việc, không là công chức hoặc viên chức ở đơn vị sử dụng lao
động khác; do nhà trường trả lương và chi trả các khoản khác thuộc chế độ
chính sách theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Giảng viên thỉnh giảng thường phải có trình độ từ thạc sĩ trở lên, có ký
hợp đồng thỉnh giảng theo quy định về chế độ giảng viên thỉnh giảng trong
các cơ sở giáo dục và các quy định hiện hành liên quan khác được cơ sở giáo
dục trả lương, thù lao theo hợp đồng thỉnh giảng.
11
+ Giảng viên làm việc trong cơ sở giáo dục tư thục là người thực hiện
nhiệm vụ giảng viên và thực hiện nhiệm vụ theo hợp đồng lao động giữa cơ
sở giáo dục và giảng viên; không phải là viên chức. Giảng viên cơ hữu là
người ký hợp đồng lao động và do nhà trường trả lương và chi trả các khoản
khác thuộc chế độ, chính sách đối với người lao động theo các quy định hiện
hành. Giảng viên thỉnh giảng là giảng viên được cơ sở giáo dục thực hiện hoạt
động giảng dạy theo chế độ hợp đồng thỉnh giảng.
- Phân loại theo hạng chức danh nghề nghiệp
Thông tư liên tịch số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014
quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong
các cơ sở giáo dục đại học công lập đã quy định chức danh nghề nghiệp viên
chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học công lập bao gồm: Giảng
viên cao cấp (hạng I) Mã số: V.07.01.01; Giảng viên chính (hạng II) Mã số:
V.07.01.02; Giảng viên (hạng III) Mã số: V.07.01.03. Mỗi hạng giảng viên sẽ
có những yêu cầu, điều kiện và tiêu chuẩn phù hợp.
Theo đó, để trở thành giảng viên, cá nhân phải đáp ứng tiêu chuẩn về
trình độ đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó, cá nhân muốn trở thành giảng viên
phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với vị trí việc làm, chuyên
ngành giảng dạy; có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên;
đồng thời có trình độ ngoại ngữ và tin học đạt chuẩn.
Về trình độ ngoại ngữ, cá nhân đó phải có trình độ ngoại ngữ bậc 2
(A2) theo quy định tại Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Đối với giảng viên dạy ngoại ngữ thì trình độ ngoại ngữ thứ hai phải đạt bậc 2
(A2). Trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản.
Ngoài những tiêu chuẩn về đào tạo, để trở thành giảng viên, cá nhân
còn phải đáp ứng tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, như nắm vững kiến
thức cơ bản của môn học được phân công giảng dạy và có kiến thức tổng quát
12
về một số môn học có liên quan trong chuyên ngành đào tạo được giao đảm
nhiệm; Nắm vững mục tiêu, kế hoạch, nội dung, chương trình các môn học
được phân công thuộc chuyên ngành đào tạo; Biên soạn giáo án, tập hợp các
tài liệu tham khảo liên quan của bộ môn, chủ trì hoặc tham gia biên soạn giáo
trình, sách hướng dẫn bài tập, thực hành, thí nghiệm;…
Theo Thông tư trên, giảng viên là người có nhiệm vụ giảng dạy, hướng
dẫn và chấm đồ án, khóa luận tốt nghiệp trình độ cao đẳng, đại học; Tham gia
giảng dạy chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ và hướng dẫn, đánh giá
luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nếu có đủ tiêu chuẩn theo quy định.
Bên cạnh đó, giảng viên còn có nhiệm vụ tham gia xây dựng kế hoạch,
nội dung, chương trình đào tạo; tham gia đổi mới phương pháp giảng dạy,
phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên;
Tham gia công tác chủ nhiệm lớp, cố vấn học tập…
Trên đây là những yêu cầu, điều kiện để trở thành giảng viên. Đối với
chức danh giảng viên hạng I và II, yêu cầu đặt ra cao hơn.
1.1.1.3. Đặc điểm nghề nghiệp giảng viên
Thứ nhất, giảng viên có trình độ chuyên môn sâu về một lĩnh vực/bộ
môn/môn
Giảng viên là người có kiến thức khoa học chuyên môn sâu rộng;
thường xuyên cập nhật kiến thức chuyên môn và thông tin, kỹ thuật để nâng
cao chất lượng dạy học và nghiên cứu khoa học. Họ có kiến thức liên môn,
liên ngành, hiểu biết thực tiễn và khả năng liên hệ, vận dụng phù hợp vào hoạt
động dạy học và nghiên cứu khoa học, vận dụng kiến thức chuyên môn vào
giải quyết các vấn đề trong thực tiễn nghề nghiệp, thành thạo các kỹ năng của
lĩnh vực chuyên môn và thường xuyên cập nhật các kỹ năng nghề nghiệp mới.
Tuy mỗi giảng viên đều đi chuyên về một ngành nhất định nhưng để đảm bảo
tính liên thông, gắn kết giữa các môn học thì giảng viên phải được trang bị
13
(hoặc tự trang bị) các kiến thức về cả chương trình giảng dạy.
Thứ hai, giảng viên có phương pháp giảng dạy phù hợp, bao gồm khối
kiến thức về phương pháp luận, kỹ thuật dạy và học nói chung và dạy/học
trong từng chuyên ngành cụ thể. Bên cạnh phương pháp chung thì mỗi chuyên
ngành (thậm chí từng môn học hoặc cùng môn học nhưng khác đối tượng
học) đều có những đặc thù riêng biệt đòi hỏi phải có những phương pháp tiếp
cận khác nhau, phù hợp từng môn học, người học cũng như điều kiện về cơ sở
vật chất của nhà trường, lớp học.
Để trở thành giảng viên chính thức, các giảng viên đều phải học và thi
các môn học về lý luận về phương pháp giảng dạy đại học. Nếu chỉ sử dụng
phương pháp giảng dạy truyền thống (thuyết trình) sẽ không hiệu quả.
Phương pháp giảng dạy đang chuyển hướng từ truyền thụ (giảng viên)-tiếp
thu (người học) kiến thức sang hướng dẫn, dẫn dắt, định hướng (giảng viên)-
sáng tạo, khởi nghiệp (người học), từ giảng dạy nội dung mà giảng viên có
sang giảng dạy nội dung mà người học cần và sẽ cần. Do đó, để thay đổi diện
mạo và chất lượng dạy và học hiện nay ở các trường đại học, cần đầu tư nhiều
hơn để nâng cấp phương pháp và kỹ thuật giảng dạy của giảng viên.
Thứ ba, có am hiểu về tâm lý sư phạm, về người học
Giảng viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc khuyến khích
tính ham hiểu biết của người học, rèn luyện độc lập khám phá trí tuệ, tăng
cường khả năng tổ chức và sử dụng kiến thức giúp người học đạt được năng
lực học suốt đời qua việc tự giáo dục. Để đáp ứng được nhu cầu của dạy và
học, giảng viên cần phải có năng lực phẩm chất của một nhà khoa học chân
chính và một nhà sư phạm tâm huyết.
Người học ở đại học có những đặc điểm đặc trưng là họ là những người
trưởng thành cả về thể chất, tâm lý và nhận thức. Do đó họ phải được ứng xử
như người lớn trong mọi hoạt động. Sinh viên là người đã có định hướng về
14
nghề nghiệp gắn với nhu cầu và lợi ích của họ. Vì vậy, dạy học làm sao để
kích thích, khơi nguồn, khai phóng được năng lực bản thân, nguyện vọng
hướng nghiệp của họ. Sinh viên hoàn toàn có khả năng tự học tập, nghiên
cứu, tuy nhiên khả năng đó được phát huy thế nào còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố trong đó có cách dạy của giáo viên.
Để góp phần cho hoạt động dạy học đạt kết quả tốt thì phương pháp dạy
học phải tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ
năng thực hành, bồi dưỡng năng lực tự học tập nghiên cứu. Như vậy, cũng như
các bậc học khác, phương pháp dạy học ở đại học phụ thuộc vào đặc điểm của
nội dung, bám sát mục tiêu dạy học, đặc điểm của sinh viên, cần khai thác các
nguồn lực sẵn có như thời lượng, tài liệu, trang thiết bị, môi trường và đặc biệt
là năng lực chuyên môn và khả năng sư phạm của giáo viên.
Vì vậy, giảng viên phải xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy học, giáo
dục, sử dụng phương pháp, phương tiện dạy học, kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập và rèn luyện của người học, tham gia các quá trình, các hoạt động giáo dục
người học và giải quyết các vấn đề phát sinh trong dạy học, giáo dục.
1.1.2. Pháp luật về giảng viên
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về giảng viên
Theo quan niệm phổ biến hiện nay thì pháp luật là hệ thống các quy tắc
xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể
hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện kể cả bằng
biện pháp cưỡng chế để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, duy trì xã hội
trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị [19, tr. 189], [20, tr. 82-83].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống quy tắc xử sự chung (quy
phạm pháp luật) thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí
của nhân dân, được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở
giáo dục, thuyết phục nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng
15
xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở nhận thức chung về pháp luật, về giảng viên, có thể đưa ra
khái niệm pháp luật về giảng viên như sau: Pháp luật về giảng viên là hệ
thống các quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành, có mối
quan hệ thống nhất nội tại, điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước với giảng viên
trong hoạt động nghề nghiệp (giảng dạy từ trình độ cao đẳng trở lên) như: vị
trí, vai trò của giảng viên; tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên; các quyền, nghĩa vụ, các chế độ, chính sách, đánh giá, xếp loại giảng
viên; thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm đối với giảng viên; quản
lý nhà nước đối với giảng viên.
Nguồn chủ yếu hiện nay của pháp luật về giảng viên ở cấp độ luật là:
Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009; từ 01/7/2020 là Luật
Giáo dục năm 2019), Luật Giáo dục đại học năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm
2019 (có hiệu lực từ 01/7/2019); Luật Viên chức năm 2010 cùng các nghị
định hướng dẫn, quy định chi tiết thi hành các luật trên.
1.1.2.2. Nội dung chủ yếu của pháp luật về giảng viên
a) Quy định về điều kiện, tiêu chuẩn giảng viên
Theo Điều 70 Luật Giáo dục 2005, nhà giáo (trong đó có giảng viên)
phải có những tiêu chuẩn sau đây: Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; Đạt trình
độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ; Đủ sức khỏe theo yêu cầu
nghề nghiệp; Lý lịch bản thân rõ ràng. (Từ 01/7/2020, tiêu chuẩn nhà giáo
được Luật Giáo dục năm 2019 quy định theo hướng gắn với vị trí việc làm,
theo đó, có các tiêu chuẩn chung: (1) Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt; (2)
Đáp ứng chuẩn nghề nghiệp theo vị trí việc làm; (3) Có kỹ năng cập nhật,
nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ; (4) Bảo đảm sức khỏe theo yêu
cầu nghề nghiệp).
Hiện nay, tiêu chuẩn cụ thể giảng viên được quy định trong Thông tư
16
số 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 quy định mã số, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại học
công lập, trong đó,
- Giảng viên cao cấp (hạng I) - Mã số: V.07.01.01
+ Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng:
Có bằng tiến sĩ phù hợp với vị trí việc làm, chuyên ngành giảng dạy;
Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên;
Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên cao cấp (hạng I);
Có trình độ ngoại ngữ bậc 4 (B2) theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-
BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Đối với giảng viên dạy ngoại ngữ thì trình độ ngoại ngữ thứ hai phải
đạt bậc 4 (B2) theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24
tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Khung năng lực
ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam;
Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ
bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm
2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định Chuẩn kỹ năng sử dụng
công nghệ thông tin.
+ Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ:
Có kiến thức chuyên sâu về các môn học được phân công giảng dạy và
có kiến thức vững vàng của một số môn học có liên quan trong chuyên ngành
đào tạo được giao đảm nhiệm; Nắm vững thực tế và xu thế phát triển của
công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của chuyên ngành;
Chủ trì thực hiện ít nhất 02 (hai) đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
hoặc 01 (một) đề tài nghiên cứu khoa học cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết
quả từ đạt yêu cầu trở lên;
17
Hướng dẫn ít nhất 02 (hai) học viên đã bảo vệ thành công luận văn
thạc sĩ hoặc hướng dẫn ít nhất 01 (một) nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành
công luận án tiến sĩ.
Đối với giảng viên giảng dạy các ngành thuộc nhóm ngành khoa học
sức khỏe, hướng dẫn 01 (một) học viên bảo vệ thành công luận văn chuyên
khoa cấp II tương đương với hướng dẫn 01 (một) học viên bảo vệ thành công
luận văn thạc sĩ.
Đối với giảng viên giảng dạy các ngành nghệ thuật có thể thay thế việc
hướng dẫn 01 (một) nghiên cứu sinh bằng 01 (một) công trình nghiên cứu,
sáng tác được giải thưởng có uy tín trong và ngoài nước.
Đối với giảng viên không tham gia hướng dẫn luận văn thạc sĩ, luận
án tiến sĩ thì số lượng đề tài nghiên cứu khoa học đã được nghiệm thu phải
gấp hai lần số lượng đề tài nghiên cứu khoa học quy định tại Điểm c khoản
3 Điều này;
Chủ trì biên soạn ít nhất 02 (hai) sách phục vụ đào tạo được sử dụng
trong giảng dạy, đào tạo; Có ít nhất 06 (sáu) bài báo khoa học đã được công
bố, bao gồm: Bài báo khoa học đã được công bố trên tạp chí khoa học; báo
cáo khoa học tại hội nghị, hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế được đăng tải
trên kỷ yếu hội nghị, hội thảo; kết quả ứng dụng khoa học, công nghệ (sau
đây gọi chung là bài báo khoa học);
Viên chức thăng hạng từ chức danh giảng viên chính (hạng II) lên chức
danh giảng viên cao cấp (hạng I) phải có thời gian giữ chức danh giảng viên
chính (hạng II) hoặc tương đương tối thiểu là 06 (sáu) năm, trong đó thời gian
gần nhất giữ chức danh giảng viên chính (hạng II) tối thiểu là 02 (hai) năm.
- Giảng viên chính (hạng II)-Mã số: V.07.01.02
+ Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng:
Có bằng thạc sĩ trở lên phù hợp với vị trí việc làm, chuyên ngành giảng dạy;
18
Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên;
Có chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên chính (hạng II);
Có trình độ ngoại ngữ bậc 3 (B1) theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-
BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Đối với giảng viên dạy ngoại ngữ thì trình độ ngoại ngữ thứ hai phải
đạt bậc 3 (B1) theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24
tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Khung năng lực
ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam;
Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ
bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm
2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định Chuẩn kỹ năng sử dụng
công nghệ thông tin.
+Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ:
Có kiến thức vững vàng về các môn học được phân công giảng dạy và
kiến thức cơ bản của một số môn học có liên quan trong chuyên ngành đào
tạo được giao đảm nhiệm;
Nắm vững mục tiêu, kế hoạch, nội dung, chương trình các môn học được
phân công đảm nhiệm; nắm bắt yêu cầu thực tiễn đối với chuyên ngành đào tạo;
Chủ trì thực hiện ít nhất 01 (một) đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở
hoặc cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên;
Chủ trì hoặc tham gia biên soạn ít nhất 01 (một) sách phục vụ đào tạo
được sử dụng trong giảng dạy, đào tạo;
Có ít nhất 03 (ba) bài báo khoa học đã được công bố;
Viên chức thăng hạng từ chức danh giảng viên (hạng III) lên chức danh
giảng viên chính (hạng II) phải có thời gian giữ chức danh giảng viên (hạng
19
III) hoặc tương đương tối thiểu là 09 (chín) năm đối với người có bằng thạc
sĩ, 06 (sáu) năm đối với người có bằng tiến sĩ; trong đó thời gian gần nhất giữ
chức danh giảng viên (hạng III) tối thiểu là 02 (hai) năm.
- Giảng viên (hạng III)-Mã số: V.07.01.03
+ Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng:
Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên phù hợp với vị trí việc làm, chuyên
ngành giảng dạy;
Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên;
Có trình độ ngoại ngữ bậc 2 (A2) theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-
BGDĐT ngày 24 tháng 01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Đối với giảng viên dạy ngoại ngữ thì trình độ ngoại ngữ thứ hai phải
đạt bậc 2 (A2) theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24 tháng
01 năm 2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Khung năng lực ngoại
ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam;
Có trình độ tin học đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ
bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm
2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định Chuẩn kỹ năng sử dụng
công nghệ thông tin.
+ Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ:
Nắm vững kiến thức cơ bản của môn học được phân công giảng dạy và
có kiến thức tổng quát về một số môn học có liên quan trong chuyên ngành
đào tạo được giao đảm nhiệm;
Nắm vững mục tiêu, kế hoạch, nội dung, chương trình các môn học
được phân công thuộc chuyên ngành đào tạo. Xác định được thực tiễn và xu
thế phát triển đào tạo, nghiên cứu của chuyên ngành ở trong và ngoài nước;
Biên soạn giáo án, tập hợp các tài liệu tham khảo liên quan của bộ
20
môn, chủ trì hoặc tham gia biên soạn giáo trình, sách hướng dẫn bài tập,
thực hành, thí nghiệm;
Có khả năng tham gia nghiên cứu khoa học và tổ chức cho sinh viên
nghiên cứu khoa học; ứng dụng, triển khai những kết quả nghiên cứu khoa
học, công nghệ vào công tác giáo dục và đào tạo, sản xuất và đời sống;
Có phương pháp dạy học hiệu quả, phù hợp với nội dung môn học;
giảng dạy đạt yêu cầu trở lên.
b) Quy định về quyền, nhiệm vụ của giảng viên
Nhiệm vụ của giảng viên được xác định trên hai phương diện: nhiệm
vụ của nhà giáo nói chung (Điều 72, Luật Giáo dục năm 2005) và nhiệm vụ
của viên chức (theo Điều 17 Luật Viên chức năm 2010). Cụ thể: giảng viên
thực hiện công tác giáo dục, giảng dạy, thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy
định của pháp luật và điều lệ nhà trường; Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự
của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của người học, đối xử công bằng với người
học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của người học; Không ngừng học
tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt cho người học.
Giảng viên với tư cách là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục
trong các cơ sở giáo dục đại học-một loại hình cơ sở giáo dục đặc biệt, có
những nhiệm vụ riêng gồm: Giảng dạy được phần giáo trình hay giáo trình
môn học được phân công; Tham gia hướng dẫn và đánh giá, chấm luận văn,
đề án tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng; Soạn bài giảng, biên soạn tài liệu
tham khảo môn học được phân công đảm nhiệm; Tham gia các đề tài nghiên
cứu khoa học, chủ yếu ở cấp khoa hoặc trường; Thực hiện đầy đủ các quy
định về chuyên môn và nghiệp vụ theo quy chế các trường đại học; Tham gia
quản lý đào tạo (nếu có yêu cầu): chủ nhiệm lớp, chỉ đạo thực tập.
Song song với nhiệm vụ của mình, giảng viên có quyền: Được giảng
21
dạy theo chuyên ngành đào tạo; Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ; Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học
tại các trường, cơ sở giáo dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều
kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nơi mình công tác; Được bảo vệ
nhân phẩm, danh dự; Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch nghỉ học kỳ theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy
định của Bộ luật Lao động (Điều 73, Luật Giáo dục năm 2005, được sửa đổi,
bổ sung năm 2009).
c) Quy định về quản lý giảng viên (tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi
dưỡng, luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật)
Ở góc độ trường đại học, giảng viên là bộ phận quan trọng của đội ngũ
cán bộ, viên chức, là lực lượng lao động trực tiếp tham gia vào quá trình giáo
dục, đào tạo do đó quy định về quản lý giảng viên cũng được căn cứ dựa trên
quy định quản lý viên chức của Luật viên chức.
Căn cứ Điều 48 Luật Viên chức, việc quản lý viên chức phải đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thống nhất quản lý của Nhà
nước; kết hợp trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm và
căn cứ vào hợp đồng làm việc; bảo đảm quyền chủ động và đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập; thực hiện bình đẳng
giới, các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với viên chức là người có tài
năng, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng, viên chức làm
việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số,
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các chính sách ưu đãi
khác của Nhà nước đối với viên chức.
Nội dung của hoạt động quản lý viên chức bao gồm: Xây dựng vị trí
việc làm; tuyển dụng viên chức; ký hợp đồng làm việc; bổ nhiệm, thay đổi
chức danh nghề nghiệp; thay đổi vị trí việc làm, biệt phái, chấm dứt hợp
22
đồng làm việc, giải quyết chế độ thôi việc; bổ nhiệm, miễn nhiệm viên chức
quản lý; sắp xếp, bố trí và sử dụng viên chức theo nhu cầu công việc; thực
hiện việc đánh giá, khen thưởng, kỷ luật viên chức; thực hiện chế độ tiền
lương, các chính sách đãi ngộ, chế độ đào tạo, bồi dưỡng viên chức; lập,
quản lý hồ sơ viên chức; thực hiện chế độ báo cáo về quản lý viên chức
thuộc phạm vi quản lý.
- Vị trí việc làm được quy định tại Điều 7 Luật Viên chức là công
việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý
tương ứng, là căn cứ xác định số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức
để thực hiện việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức trong đơn vị sự
nghiệp công lập.
Chính phủ quy định nguyên tắc, phương pháp xác định vị trí việc làm,
thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định số lượng vị trí việc làm trong đơn vị
sự nghiệp công lập.
- Tuyển dụng viên chức là một trong các nội dung có ảnh hưởng rất
quan trọng đến chất lượng thực thi công việc. Việc tuyển dụng viên chức phải
căn cứ vào nhu cầu công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp và quỹ tiền lương của đơn vị sự nghiệp công lập (Điều 20, Luật Viên
chức). Tất cả các công dân Việt Nam đủ điều kiện đều có cơ hội như nhau
tham gia dự tuyển viên chức, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã
hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó về phương thức tuyển dụng được thực
hiện thông qua thi tuyển hoặc xét tuyển. Luật Viên chức cũng quy định
nguyên tắc tuyển dụng (Điều 21, Luật Viên chức); Bảo đảm công khai, minh
bạch, công bằng, khách quan và đúng pháp luật; bảo đảm tính cạnh tranh.
Tuyển chọn đúng người đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm; đề cao trách
nhiệm của người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Ưu tiên người có tài
năng, người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số.
23
- Về ký hợp đồng làm việc: Viên chức được tuyển dụng vào đơn vị sự
nghiệp công lập phải ký hợp đồng xác định thời hạn lần đầu với người đứng
đầu đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng viên chức từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.
Thời gian thực hiện chế độ tập sự (nếu có) được quy định trong hợp đồng làm
việc xác định thời hạn.
Sau khi hết thời hạn của hợp đồng làm việc theo thời gian quy định như
trên, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ của viên chức và căn cứ vào nhu cầu sử dụng của đơn vị sự nghiệp
công lập để quyết định ký tiếp hợp đồng xác định thời hạn hoặc không xác
định thời hạn hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc đối với viên chức. Trường
hợp viên chức được ký tiếp hợp đồng xác định thời hạn thì sau khi hết thời
hạn của hợp đồng này, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập xem xét
việc ký hợp đồng làm việc không xác định thời hạn hoặc chấm dứt hợp đồng
làm việc đối với viên chức.
- Bổ nhiệm, thay đổi chức danh nghề nghiệp, thay đổi vị trí việc làm
được quy định tại Điều 31, 32 của Luật Viên chức. Việc bổ nhiệm chức danh
nghề nghiệp đối với viên chức được thực hiện theo nguyên tắc làm việc ở vị
trí việc làm nào thì bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp tương ứng với vị
trí việc làm đó; người được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp nào thì phải có
đủ tiêu chuẩn của chức danh nghề nghiệp đó. Việc thay đổi chức danh nghề
nghiệp được thực hiện thông qua thi hoặc xét theo nguyên tắc bình đẳng,
công khai, minh bạch, khách quan và đúng pháp luật. Thay đổi vị trí việc
làm khi đơn vị sự nghiệp công lập có nhu cầu, viên chức có thể được chuyển
sang vị trí việc làm mới nếu có đủ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ của vị
trí việc làm đó.
- Biệt phái, chấm dứt hợp đồng làm việc, giải quyết chế độ thôi việc
được quy định tại Điều 29, 36, 45 của Luật Viên chức.
24
Biệt phái là việc viên chức của đơn vị sự nghiệp công lập này được cử
đi làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm vụ trong một
thời hạn nhất định. Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập hoặc cơ quan
có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp công lập quyết định việc biệt phái
viên chức. Thời hạn cử biệt phái không quá 03 năm, trừ một số ngành, lĩnh
vực do Chính phủ quy định. Viên chức được cử biệt phái chịu sự phân công
công tác và quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi được cử đến. Trong thời
gian biệt phái, đơn vị sự nghiệp công lập cử viên chức biệt phái có trách
nhiệm bảo đảm tiền lương và các quyền lợi khác của viên chức.
Hết thời hạn biệt phái, viên chức trở về đơn vị cũ công tác và được bố
trí việc làm phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức. Không thực
hiện biệt phái viên chức nữ đang mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
- Chấm dứt hợp đồng làm việc
Đơn vị sự nghiệp công lập được đơn phương chấm dứt hợp đồng làm
việc với viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức độ không
hoàn thành nhiệm vụ; Viên chức bị buộc thôi việc theo quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 57 của Luật Viên chức;
Viên chức làm việc theo hợp đồng làm việc không xác định thời hạn bị
ốm đau đã điều trị 12 tháng liên tục, viên chức làm việc theo hợp đồng làm
việc xác định thời hạn bị ốm đau đã điều trị 06 tháng liên tục mà khả năng
làm việc chưa hồi phục. Khi sức khỏe của viên chức bình phục thì được xem
xét để ký kết tiếp hợp đồng làm việc; Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do
bất khả kháng khác theo quy định của Chính phủ làm cho đơn vị sự nghiệp
công lập buộc phải thu hẹp quy mô, khiến vị trí việc làm mà viên chức đang
đảm nhận không còn; Khi đơn vị sự nghiệp công lập chấm dứt hoạt động theo
quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Chế độ thôi việc
25
Khi chấm dứt hợp đồng làm việc, viên chức được hưởng trợ cấp thôi
việc, trợ cấp mất việc làm hoặc chế độ bảo hiểm thất nghiệp theo quy định
của pháp luật về lao động và pháp luật về bảo hiểm xã hội, trừ trường hợp bị
buộc thôi việc; đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc mà vi phạm quy
định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 29 của Luật Viên chức; Chấm dứt hợp đồng
làm việc theo quy định tại khoản 5 Điều 28 của Luật Viên chức.
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm viên chức quản lý
Bổ nhiệm viên chức quản lý phải căn cứ vào nhu cầu của đơn vị sự
nghiệp công lập, tiêu chuẩn, điều kiện của chức vụ quản lý; theo đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục; viên chức giữ chức vụ quản lý được bổ nhiệm có thời
hạn không quá 05 năm; được hưởng phụ cấp chức vụ quản lý; được tham gia
hoạt động nghề nghiệp theo chức danh nghề nghiệp đã được bổ nhiệm. Hết
thời hạn giữ chức vụ quản lý, phải xem xét bổ nhiệm lại hoặc không bổ nhiệm
lại. Trường hợp không được bổ nhiệm lại, cấp có thẩm quyền bổ nhiệm có
trách nhiệm bố trí viên chức vào vị trí việc làm theo nhu cầu công tác, phù
hợp với chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức.
Viên chức quản lý có thể xin thôi giữ chức vụ quản lý hoặc được miễn
nhiệm nếu thuộc một trong các trường hợp: Không đủ sức khoẻ; không đủ
năng lực, uy tín; theo yêu cầu nhiệm vụ; lý do khác.
- Đánh giá, khen thưởng, kỷ luật viên chức
Việc đánh giá viên chức phải căn cứ vào quy định về đạo đức nghề
nghiệp, quy tắc ứng xứ của viên chức và các cam kết trong hợp đồng làm việc
đã ký kết. Căn cứ vào kết quả đánh giá viên, viên chức được xếp loại theo các
mức độ: hoàn thành xuất sắc; tốt; hoàn thành; không hoàn thành nhiệm vụ.
Viên chức có 02 năm liên tiếp bị phân loại đánh giá ở mức độ không hoàn
thành nhiệm vụ thì áp dụng chế độ cho thôi việc. Theo Điều 39 Luật Viên
chức việc đánh giá viên chức để làm căn cứ tiếp tục bố trí, sử dụng, bổ nhiệm,
26
miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ,
chính sách đối với viên chức. Đánh giá viên chức được thực hiện qua các nội
dung cụ thể: Kết quả thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ theo hợp đồng làm
việc đã ký kết; việc thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp; tinh thần
trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân, tinh thần hợp tác với đồng nghiệp và
việc thực hiện quy tắc ứng xử của viên chức; việc thực hiện các nghĩa vụ khác
của viên chức.
Ngoài những quy định trên, viên chức quản lý còn được đánh giá theo
các nội dung: Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ; kết quả hoạt động của đơn vị được giao quản lý, phụ trách. Việc
đánh giá viên chức được thực hiện hàng năm; khi kết thúc thời gian tập sự;
trước khi ký tiếp hợp đồng làm việc; thay đổi vị trí việc làm; xét khen thưởng,
kỷ luật, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng.
- Chế độ đào tạo, bồi dưỡng viên chức được quy định tại Điều 33 Luật
Viên chức. Các bộ, cơ quan ngang bộ được giao quản lý nhà nước về các lĩnh
vực hoạt động của viên chức quy định chi tiết về nội dung, chương trình, hình
thức, thời gian đào tạo, bồi dưỡng viên chức làm việc trong ngành, lĩnh vực
được giao quản lý. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng viên chức do viên chức,
nguồn tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập và các nguồn khác bảo đảm.
Theo đó chế độ đào tạo, bồi dưỡng viên chức bao gồm: Đào tạo, bồi dưỡng
theo tiêu chuẩn chức vụ quản lý; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp; bồi dưỡng nhằm bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng phục vụ hoạt
động nghề nghiệp. Việc đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức
vụ quản lý, chức danh nghề nghiệp, yêu cầu bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ
năng phục vụ hoạt động nghề nghiệp.
1.2. Thực hiện pháp luật về giảng viên
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về giảng viên
27
Nhà nước ban hành pháp luật nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã
hội, đáp ứng lợi ích của nhân dân và xã hội cũng như tạo lập môi trường pháp
lý cho sự phát triển của xã hội. Mục đích đó chỉ có thể đạt được khi pháp luật
được các chủ thể nghiêm chỉnh thực hiện trong đời sống xã hội. Pháp luật với
tầm quan trọng của mình không chỉ dừng lại bằng các đạo luật, vì đó chỉ là
pháp luật ở trạng thái “tĩnh”, vấn đề quan trọng là pháp luật phải được thực
hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân, trở
thành phương thức quản lý xã hội.
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính chính trị-pháp
lý. Quá trình thực hiện pháp luật được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá
trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Thực hiện pháp luật là trách nhiệm,
nghĩa vụ của mọi tổ chức, cơ quan và công dân (kể cả tổ chức, công dân nước
ngoài đang sinh sống và làm việc trên đất nước Việt Nam). Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật và có trách nhiệm thực hiện đúng pháp luật. Các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Mọi
hoạt động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Một cách phổ biến, thực hiện pháp luật (THPL) được hiểu: “Thực hiện
pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp
của các chủ thể pháp luật” [25, tr.494], [40, tr.463]. Theo hướng tiếp cận này
thì THPL là hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động của con
người phù hợp với những quy định của pháp luật. Theo đó, mọi hoạt động của
con người, của các tổ chức phù hợp với quy định của pháp luật và đáp ứng
tiêu chí về tính mục đích thì đều được coi là biểu hiện của THPL [25, tr.494],
28
[40 tr.461-462]. Hoặc quan niệm tương tự, cho rằng: THPL là hành vi (hành
động hoặc không hành động) hợp pháp của các chủ thể có năng lực hành vi pháp
luật làm cho các quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống.
Như vậy, có thể thấy, về cơ bản, thực hiện pháp luật là hoạt động có
mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, là hoạt động thực tế,
hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật trở
thành hiện thực trong cuộc sống. Các hành vi đó có thể là hành động hoặc
không hành động. Tuy nhiên, cần thấy rằng, thực hiện pháp luật không chỉ là
những hành vi đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn là một quá trình từ nhận
thức cho đến những hoạt động, hành vi trong thực tế.
Trên cơ sở đó, có thể hiểu thực hiện pháp luật về giảng viên là quá trình
thực hiện các quy phạm pháp luật về giảng viên làm cho các quy định của
pháp luật về giảng viên trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các
chủ thể pháp luật, qua đó, phát huy vị trí, vai trò của giảng viên, hoạt động
giảng dạy, đóng góp vào sự phát triển giáo dục của đất nước.
1.2.2. Các giai đoạn thực hiện pháp luật về giảng viên
1.2.2.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật về giảng viên
PBGDPL là một từ ghép giữa “phổ biến pháp luật” và “giáo dục pháp
luật”. Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) hiểu theo nghĩa rộng là là công
tác, lĩnh vực hoạt động, bao gồm tất cả các công đoạn phục vụ cho việc thực
hiện PBGDPL (xây dựng chương trình, kế hoạch PBGDPL; triển khai chương
trình, kế hoạch PBGDPL thông qua việc áp dụng các hình thức, biện pháp
PBGDPL; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện
chương trình, kế hoạch PBGDPL). Hiểu theo nghĩa hẹp là: truyền đạt tinh
thần, nội dung pháp luật giúp cho đối tượng tác động hiểu và hình thành ở họ
tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với các đòi hỏi của các quy định
pháp luật hiện hành.
29
PBGDPL luôn có vị trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây
dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, là một bộ phận của công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của
các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng
để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự đi vào
cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội.
PBGDPL là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Nói cách khác, quá
trình đưa pháp luật vào cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động PBGDPL.
PBGDPL về giảng viên là một trong những nội dung quan trọng của
thực hiện pháp luật giảng viên nhằm giúp giảng viên nhận thức được những
hành vi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mà quy phạm pháp luật về viên
chức quy định về các nghĩa vụ pháp lý theo luật viên chức. PBGDPL về giảng
viên có thể thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như: Tổ chức giới thiệu,
phổ biến bằng văn bản, đăng tải trên website trường các văn bản mới được
Quốc hội thông qua, các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực cơ quan, đơn vị
quản lý và các văn bản pháp luật quan trong khác liên quan đến cơ quan, đơn
vị như: Luật Giáo dục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục;
Luật giáo dục đại học; Luật Viên chức; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật
sửa đổi bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm
chống lãng phí; Luật lao động, Luật Công đoàn (sửa đổi); Luật Phổ biến, giáo
dục pháp luật … và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuyên truyền, phổ biến
những văn bản pháp luật chủ yếu thuộc lĩnh vực ngành giáo dục và đào tạo và
các ngành có liên quan, hệ thống văn bản chỉ đạo của cơ quan cấp trên.
Giảng viên là những người trực tiếp, có tác động mạnh đến hiểu biết,
nhận thức, thái độ, tình cảm của sinh viên đối với pháp luật. Với tư cách này,
giảng viên phải được trang bị các kiến thức và kỹ năng trong việc áp dụng
30
pháp luật và trước tiên họ phải có ý thức đầy đủ về trách nhiệm chủ thể giáo
dục pháp luật của mình trong khi tiến hành các hoạt động chuyên môn cụ thể.
PBGDPL về giảng viên nâng cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ
chức về vị trí, vai trò của giảng viên và hoạt động giảng dạy. Làm tốt PBGDPL
về giảng viên đến các đối tượng là giảng viên và chuyên viên trong nhà
trường làm cho bản thân họ nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của giảng viên,
quyền và nghĩa vụ pháp lý do luật quy định
1.2.2.2. Xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện pháp luật về giảng viên
Lập kế hoạch là chức năng đầu tiên trong bốn chức năng quản lý, đóng
vai trò vô cùng quan trọng trong việc lựa chọn mục tiêu và chương trình hành
động trong tương lai, mà bất kỳ nhà quản lý, nhà kế hoạch nào cũng phải thực
hiện để phổ biến, triển khai thực hiện một nhiệm vụ nào đó. Để một kế hoạch
mang tính khả thi thì kế hoạch đó phải xác định được các yếu tố (i) xác định
mục tiêu, yêu cầu công việc; (ii) xác định nội dung cần thực hiện; (iii) xác
định phương thức, cách thức tiến hành thực hiện công việc; và (iv) xác định
việc tổ chức thực hiện và phân bổ nguồn lực để thực hiện công việc.
Hiệu quả thực hiện pháp luật về giảng viên phụ thuộc rất nhiều vào tính
khả thi của các chương trình, kế hoạch tổ chức, triển khai thực hiện của nhà
trường (cơ sở giáo dục đại học).
1.2.2.3. Tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên
Tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên là hoạt động sắp xếp, có định
hướng nhằm đưa pháp luật về giảng viên vào các cơ sở giáo dục đại học. Suy
cho cùng, tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên là hoạt động nhằm đưa
pháp luật về giảng viên vào các cơ sở giáo dục đại học, trở thành ý thức và
thói quen xử sự trong cơ sở giáo dục đại học. Hoạt động đó được thực hiện
một cách có chủ định, có tổ chức, có định hướng và có kế hoạch cụ thể. Qua
hoạt động đó, mục đích của chủ thể tác động nhằm hình thành ở các đối tượng
31
được tác động những tri thức, thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp
luật về giảng viên, làm cho mọi đối tượng tự giác tuân thủ pháp luật, có ý
thức pháp luật cao.
Tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên là một chuỗi hoạt động nằm
trong một chỉnh thể thống nhất, bắt đầu từ hướng dẫn thi hành luật, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục luật, triển khai, thực hiện, cho đến kiểm tra, giám
sát, và đánh giá, tổng kết việc tổ chức thực hiện pháp luật. Để triển khai thực
hiện pháp luật về giảng viên, Chính phủ ban hành các Nghị định; Bộ trưởng,
Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ ban hành các Thông tư hướng dẫn thi hành
pháp luật; các cơ sở giáo dục đại học triển khai thực hiện pháp luật dựa trên
các Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành pháp luật.
Có thể nói, tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên là sự tác động một
cách thường xuyên, lâu dài chứ không phải chỉ là sự tác động nhất thời, một
lần của chủ thể tới đối tượng được được tổ chức thực hiện pháp luật. Đó cũng
là một quá trình đưa pháp luật về giảng viên vào các cơ sở giáo dục đại học có
tính chất đặc thù bởi nó gắn liền với hoạt động giáo dục đào tạo.
Về hình thức, có thể thấy, quá trình này được thể hiện qua các hành vi
như: tuân thủ pháp luật (kiềm chế không thực hiện những hành vi mà pháp
luật về giảng viên cấm), thi hành pháp luật (thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật
về giảng viên quy định bằng hành vi tích cực), sử dụng pháp luật (thực hiện
các quyền mà pháp luật về giảng viên quy định) và áp dụng pháp luật (các chủ
thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật về giảng viên để giải quyết những
trường hợp cá biệt, cụ thể).
1.2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về giảng viên
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật là
nhằm mục đích phát hiện ra những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách,
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền những biện pháp
32
khắc phục, phòng ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật;
giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát
huy những nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Tổ chức giám sát và đánh giá việc tổ chức thực hiện pháp luật về giảng
viên thông qua các hình thức thanh tra, kiểm tra là một trong những giải pháp
quan trọng nhằm nâng cao ý thức thực hiện pháp luật về giảng viên nói riêng
và viên chức nói chung trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
Giám sát và đánh giá chính là cơ chế hữu hiệu để điều chỉnh và xử lý
những sai sót có thể có nhằm đảm bảo đạt được các mục tiêu đề ra. Ở từng
nội dung cụ thể của pháp luật về giảng viên, giám sát và đánh giá có rất nhiều
ý nghĩa đối với việc nâng cao hiệu quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật.
Đó là công cụ để kiểm soát việc thực hiện pháp luật và đặc biệt là để hạn chế
các vi phạm trong quá trình tổ chức thực thi các văn bản quy phạm pháp luật.
Giám sát và đánh giá cũng tạo ra áp lực để các cá nhân, tổ chức có trách
nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật phải thực hiện theo đúng bổn phận của
mình, tránh trường hợp xao nhãng việc thực hiện nhiệm vụ. Và giám sát, đánh
giá cũng là công cụ để thu thập phản hồi nhằm điều chỉnh bản thân các quy
định của văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế cũng đã cho thấy có những bài
học thành công trong việc tổ chức thực hiện pháp luật nhờ thực hiện việc
giám sát một cách chặt chẽ công tác tổ chức thực hiện pháp luật.
1.3. Các yếu tố tác động đến thực hiện pháp luật về giảng viên
1.3.1. Mức độ hoàn thiện pháp luật về giảng viên
Hệ thống pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ
nội tại thống nhất với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các
ngành luật và được thể hiện trong các văn bản do nhà nước ban hành theo
33
những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định.
Để đánh giá về một hệ thống pháp luật, xác định mức độ hoàn thiện của
nó cần phải dựa vào những tiêu chuẩn được xác định về mặt lý thuyết, từ đó
liên hệ với điều kiện và hoàn cảnh thực tế trong mỗi giai đoạn cụ thể, xem xét
một cách khách quan và rút ra những kết luận, làm sáng rõ những ưu điểm và
nhược điểm của hệ thống pháp luật. Có nhiều tiêu chuẩn để xác định mức độ
hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, trong đó bốn tiêu chuẩn cơ bản là:
Tính toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ
thống pháp luật.
Thứ nhất, tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn
thiện của hệ thống pháp luật. Có thể nói đây là tiêu chuẩn để định lượng một
hệ thống pháp luật nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng, vì chỉ khi nào định
lượng được mới có thể tiếp tục nghiên cứu để định tính.
Thứ hai, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật thể hiện sự thống nhất của
nó. Khi xem xét mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật cần phải chú ý
xem giữa các bộ phận của hệ thống đó có trùng lặp, chồng chéo hay mâu
thuẫn không.
Thứ ba, tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan
giữa trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát triển của kinh tế xã hội.
Hệ thống pháp luật càng toàn diện, mức độ hoàn thiện của pháp luật
càng cao thì giúp cho hoạt động tổ chức thực hiện luật càng hiệu quả, góp
phần mang lại lợi ích cho Nhà nước, lợi ích của các tổ chức và cá nhân.
Ngược lại, với một hệ thống pháp luật ở mức hoàn thiện thấp sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến quá trình tổ chức thực hiện luật, làm cho hoạt động của các tổ
chức, cá nhân bị trì trệ, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tổ chức, cá
nhân đó. Tuy nhiên, để pháp luật đi vào đời sống thực tiễn thì không chỉ đòi
hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện mà phải có sự kết hợp giữa
34
nhiều yếu tố với nhau
Hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về giảng viên phụ thuộc rất lớn
vào chất lượng, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về viên chức trong các
cơ sở giáo dục đại học, được thể hiện qua bốn tiêu chuẩn cơ bản là: tính toàn
diện, tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật pháp lý của hệ thống
pháp luật đó. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giảng viên phải bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản và được xây dựng thống nhất, đồng
bộ (không trùng lặp, chồng chéo hay mâu thuẫn), bao gồm các đạo luật, các
nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
Đồng thời, hệ thống pháp luật đó cần phải có tính minh bạch, công
khai, dân chủ, thuận tiện và hữu ích. Tính minh bạch, công khai của các quy
phạm pháp luật về giảng viên được thể hiện ngay từ quá trình xây dựng pháp
luật. Muốn vậy trong quá trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật cần để
đội ngũ giảng viên có điều kiện tiếp xúc với các dự thảo pháp luật, tham gia
thảo luận, đóng góp ý kiến… qua đó đề cao dân chủ và bảo đảm tính khả thi
của văn bản pháp luật. Sau khi ban hành, văn bản quy phạm pháp luật phải
được đăng tải công khai trên Công báo, trên hệ thống các phương tiện thông
tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình), được niêm yết tại các
cơ sở giáo dục đại học, được phát hành rộng rãi và được tuyên truyền, phổ
biến dưới nhiều hình thức.
Các quy phạm pháp luật về giảng viên còn phải mang tính thuận tiện và
hữu ích, đặc biệt là đối với các quy định liên quan tới việc tuyển dụng, sử
dụng, đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật.
Ngoài ra, pháp luật về giảng viên phải phù hợp với trình độ phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc điểm của giảng viên cũng như yêu
cầu về sự phát triển của lực lượng lao động này trong nhiệm vụ phát triển
giáo dục đại học.
35
Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến tổ chức thực hiện pháp luật
về giảng viên, bởi các quy định của pháp luật về giảng viên là cơ sở pháp lý
cho quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên, để các cơ sở giáo dục
đại học và giảng viên tuân thủ trong quá trình thực hiện hoạt động giảng dạy.
Pháp luật về giảng viên là phương tiện quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của các cơ sở giáo dục. Những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên
cơ sở những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật. Thực tế Việt Nam
những năm qua cho thấy khi chưa có một hệ thống pháp luật về giảng viên
đầy đủ, đồng bộ, thống nhất và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và
hoàn thiện bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo,
thực hiện không đúng quy định của các đơn vị sự nghiệp, không quản lý hiệu
quả giảng viên, chưa tạo được cơ chế hữu hiệu tạo động lực cho giảng viên
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
1.3.2. Phẩm chất, năng lực, ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý của
giảng viên
Năng lực của viên chức nói chung luôn gắn với mục đích tổng thể, với
chiến lược phát triển của tổ chức và phải gắn với lĩnh vực, điều kiện cụ thể.
Năng lực liên quan chặt chẽ đến quá trình làm việc, phương pháp làm việc
hiệu quả và khoa học công nghệ. Yêu cầu năng lực sẽ thay đổi khi tình hình
công việc và nhiệm vụ thay đổi. Trong hoạt động của các tổ chức, đơn vị sự
nghiệp công lập, năng lực của giảng viên chính là khả năng của giảng viên
thực hiện có kết quả hoạt động có tổ chức.
Nghề giáo là một nghề đặc biệt, cũng là một lao động nhưng sản phẩm là
con người, công cụ lao động là nhân cách của chính mình: “ dùng nhân cách để
đào tạo nhân cách”. Do đó đòi hỏi ở người giáo viên một phẩm chất đạo đức và
năng lực cao. Về phẩm chất, người giảng viên phải có những phẩm chất đạo
đức như: Tinh thần trách nhiệm, lòng nhân đạo, lòng tôn trọng, sự công bằng,
36
thẳng thắn; tính nguyên tắc, mục đích, kiên trì, tính tự kiềm chế, tính tự chủ, kỹ
năng điều chỉnh tâm trạng để giải quyết các tình huống sư phạm. Phẩm chất
đạo đức là nhân tố để tạo nên sự cân bằng trong mối quan hệ thầy trò. Phẩm
chất ý chí là sức mạnh để làm cho những phẩm chất và năng lực của người thầy
tác động sâu sắc đến sinh viên. Năng lực chuyên môn giảng viên bao gồm:
năng lực sư phạm; năng lực sử dụng phương pháp giảng dạy; năng lực tương
tác với người học; năng lực chia sẻ thông tin với đồng nghiệp.
Năng lực sử dụng phương pháp giảng dạy giúp giáo viên có được những
kỹ năng cơ bản như: kỹ năng tự học, tự nghiên cứu; kỹ năng sử dụng công
nghệ thông tin; kỹ năng hợp tác trong dạy học, kỹ năng giải quyết vấn đề…
Năng lực tương tác với người học buộc giảng viên phải nắm vững
phương thức dạy học tương tác, lấy người học làm trung tâm, tổ chức dạy học
tương tác phù hợp với môi trường.
Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học-công nghệ cũng vô cùng cần
thiết. Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ góp phần quan trọng vào
việc nâng cao trình độ, năng lực cho giáo viên qua đó nâng cao được chất
lượng dạy học, công việc giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu khoa học.
Pháp luật về giảng viên được ban hành và được thực hiện có hiệu quả,
đạt được mục đích như mong muốn nếu trình độ năng lực, phẩm chất, ý thức
pháp luật, văn hóa pháp lý của đội ngũ giảng viên được thể hiện tự giác, đầy
đủ.. Nếu ý thức pháp luật của giảng viên càng được nâng cao, tinh thần tôn
trọng pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật về giảng viên
càng được bảo đảm, càng đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn khách quan.
Nhờ đó, các quy phạm pháp luật về giảng viên trong trường cao đẳng được áp
dụng đúng đắn, nội dung được hiểu chính xác, được giải thích và được làm
sáng tỏ; thậm chí còn tạo ra khả năng giải quyết đúng đắn những trường hợp
mà vì lý do nào đó, pháp luật hiện hành không đề cập đến. Trên cơ sở đó, bản
37
thân các giảng viên đều tự giác nhận thức, ý thức về quyền, nghĩa vụ của
mình, các yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, về đạo đức nghề nghiệp, thực
hiện tốt các quy định pháp luật về giảng viên, tạo động lực to lớn trong quá
trình lao động sáng tạo, bền bỉ của giảng viên.
1.3.3. Năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên của nhà nước
Tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên là hoạt động có sự tham gia
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tác động tới các đối tượng là giảng viên
nhằm đạt được mục đích của cơ quan nhà nước. Do vậy, có thể nói, tổ chức
thực hiện pháp luật về công chức là hoạt động có định hướng, có chủ định của
các cơ quan nhà nước.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước ta, là cơ
quan chấp hành của Quốc hội và thực hiện quyền hành pháp. Đây là cơ quan
thống nhất quản lý điều hành các mặt đời sống kinh tế-xã hội của đất nước,
trước hết quyết định những vấn đề về chủ trương, cơ chế, chính sách, thể chế
quản lý hành chính nhà nước nói chung, các vấn đề liên quan đến viên chức,
giảng viên trong cả nước nói riêng. Chính phủ đề xuất, xây dựng chính sách
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo
thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn... các vấn đề liên quan tới
giảng viên chức, pháp luật về giảng viên chức trong trường đại học, cao đẳng;
có trách nhiệm phải tuân thủ và thực hiện các luật, nghị quyết của Quốc hội,
báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội
về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công trong lĩnh vực này.
Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện xây dựng các chiến lược phát triển
giáo dục đại học và hệ thống các chính sách đồng bộ, tạo môi trường pháp lý
phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN, giúp Chính phủ quản lý
giáo dục đại học, giúp cho các quy phạm pháp luật về giảng viên trong trường
đại học, cao đẳng được thực hiện một cách thống nhất, thuận lợi nhất, nhanh
38
nhất và hiệu quả nhất. Ví dụ: Tổ chức thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng
giảng viên (Quy định chi tiết nội dung, chương trình, hình thức, thời gian bồi
dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên)...
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện các chức năng quản lý
nhà nước của mình đối với các vấn đề về lao động, tiền lương, chế độ, chính
sách đãi ngộ giải quyết thôi việc và nghỉ hưu đối với viên chức, giảng viên.
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội bảo đảm ngân sách cho nhu
cầu phát triển giáo dục đại học, hoàn thiện chính sách tài chính và chế độ
quản lý tài chính trong lĩnh vực giáo dục để sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
chính đầu tư cho giáo dục đại học, xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên.
Trên cơ sở đó, những quy định của pháp luật quy định về quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cho các trường đại học, các quy định về quyền và lợi ích
chính đáng của giảng viên được bảo đảm thực hiện, nhằm đạt mục đích đề ra.
Ngoài chức năng, vai trò riêng của mình, các Bộ thực hiện quản lý về
số lượng, tiêu chuẩn, tuyển dụng, sử dụng đối với giảng viên thuộc phạm vi
quản lý theo phân công, phân cấp; Quyết định hoặc phân cấp quyết định nâng
bậc lương thường xuyên, nâng bậc lương trước thời hạn và phụ cấp thâm niên
vượt khung đối với giảng viên; bổ nhiệm, miễn nhiệm, xếp lương chức danh
nghề nghiệp giảng viên từ hạng II trở xuống; Quản lý vị trí việc làm theo
phân công, phân cấp; Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và Bộ quản lý về chức
danh nghề nghiệp giảng viên chuyên ngành tổ chức thi hoặc xét thăng hạng
chức danh nghề nghiệp từ hạng III lên hạng II; Chủ trì hoặc ủy quyền tổ chức
thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giảng viên từ hạng IV lên
hạng III đối với giảng viên thuộc phạm vi quản lý; Thống kê và báo cáo thống
kê giảng viên theo quy định; Giải quyết khiếu nại, tố cáo; Hướng dẫn, thanh
tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật đối với giảng
39
viên thuộc phạm vi quản lý.
1.3.4. Sự tham gia của các bên liên quan
Việc thực hiện pháp luật về giảng viên chỉ có thể thực hiện khi vai trò,
trách nhiệm của các chủ thể hữu quan tham gia vào các quan hệ pháp luật về
giảng viên trong trường đại học, cao đẳng được phát huy đầy đủ, đúng đắn
và kịp thời.
Hiện nay, các chủ thể thực hiện pháp luật về giảng viên được thể hiện
cụ thể như sau:
- Tổ chức Đảng: Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, lãnh đạo sự nghiệp nói chung. Do đó, tổ chức Đảng trong
trường đại học, cao đẳng giữ vai trò quan trọng, có tác động rất lớn đối với
việc thực hiện pháp luật về giảng viên thông qua các hoạt động của chi bộ
Đảng cũng như các hoạt động tích cực, gương mẫu của các đảng viên là cán
bộ, giảng viên, viên chức, người lao động trong trường đại học, cao đẳng.
- Tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên: đóng vai trò tích cực trong việc
phổ biến, tuyên truyền và có trách nhiệm thực hiện các quy định pháp luật về
giảng viên trong các trường đại học, cao đẳng.
- Lãnh đạo nhà trường: là một trong những nhân tố quan trọng, có vai
trò rất lớn trong việc tác động tới quá trình tổ chức, thực hiện pháp luật về
giảng viên trong trường cao đẳng. Nếu ban lãnh đạo nhà trường là những
người có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, trình độ chuyên môn cũng như
bề dày kinh nghiệm quản lý điều hành và tâm huyết với sự nghiệp giáo dục
thì phương hướng hoạt động, các biện pháp giải quyết công việc của nhà
trường sẽ có chất lượng tốt, việc thực hiện pháp luật trong nhà trường sẽ được
tổ chức, được thực hiện đúng hướng, có giải pháp phù hợp và đạt hiệu quả tốt
hơn. Đây là những người chịu trách nhiệm chính trong việc hoạch định chính
sách, chiến lược, mục tiêu của Nhà trường, đồng thời là người quyết định việc
40
lựa chọn, sử dụng, đãi ngộ, xử lý đối với giảng viên cũng như các cơ chế bảo
đảm tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện các
41
quy định pháp luật về giảng viên trong đơn vị mình.
Tiểu kết chương 1
Tại chương 1, luận văn đã trình bày, phân tích các khái niệm, đặc điểm
giảng viên, pháp luật về giảng viên, các giai đoạn thực hiện pháp luật về
giảng viên.; đồng thời phân tích, đánh giá quá trình ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành luật, công tác phổ biến giáo dục pháp luật, các nghiệp vụ,
hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện luật về giảng
viên. Bên cạnh đó, chương 1 của luận văn đã xác định được các yếu tố tác
động đến việc tổ chức thực hiện luật, cụ thể là mức độ hoàn thiện luật pháp
luật về giảng viên, năng lực tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên của
Nhà nước, sự tham gia của các bên liên quan.
Trên nền tảng nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan ở chương 1, tại
chương 2, luận văn sẽ tập trung vào việc phân tích, đánh giá thực trạng thực
42
hiện pháp luật về giảng viên tại trường Cao đẳng Sư phạm Trung Ương.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢNG VIÊN
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM TRUNG ƯƠNG
2.1. Khái quát về Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương và đội
ngũ giảng viên của trường
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trường Cao
đẳng Sư phạm Trung ương
Năm 1991, theo Nghị định 93/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) Trường Cao đẳng Sư phạm Nhà trẻ-Mẫu giáo Trung ương I được
thành lập với nhiệm vụ là đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý mẫu
giáo với trình độ cao đẳng và nghiên cứu khoa học giáo dục trước tuổi đến
trường phổ thông.
Trường được hình thành trên nền thành tựu đã đạt được của hai Trường
Sư phạm Mẫu giáo TW Hà Nam (1964-1988) và Trường Trung cấp nuôi dạy
trẻ TW (1972-1988). Từ năm học 2003-2004, xuất phát từ nhu cầu của xã hội
và tiềm lực của Nhà trường, được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Nhà
trường đã dần chuyển thành Trường đào tạo đa ngành bằng việc mở thêm
nhiều ngành đào tạo mới như Sư phạm âm nhạc, Giáo dục Đặc biệt, Sư phạm
Mỹ thuật, Giáo dục công dân, Sư phạm Công nghệ, Thông tin-Thư viện, Tin
học, Công tác xã hội, Văn thư lưu trữ, Quản trị văn phòng, Thư ký văn
phòng.... Đến nay, Nhà trường đã có 17 ngành đào tạo cả trình độ Cao đẳng
và Trung cấp chuyên nghiệp.
Để phản ánh đúng nhiệm vụ chính trị của Trường, cuối năm 2005, Nhà
trường đã xây dựng Đề án đổi tên Trường và ngày 26/01/2006 Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã ra Quyết định số 509/QĐ-BGD&ĐT đổi tên Trường thành
43
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
- Chức năng, nhiệm vụ
+ Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên có trình độ cao đẳng cho Giáo dục
Mầm non và các Trường chuyên biệt;
+ Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ có trình độ cao đẳng và các trình độ
thấp hơn một số chuyên ngành khác: Nghệ thuật, Nhân văn, Thông tin - Thư
viện, Dịch vụ xã hội, Quản lý giáo dục;
+ Nghiên cứu khoa học phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
- Cơ cấu tổ chức
Theo Quyết định số 504/QĐ-CĐSPTW ngày 14 tháng 5 năm 2015 Về
việc ban hành Quy định chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc Trường
Cao đẳng Sư phạm Trung ương. Về tổ chức, tính đến ngày 31/12/2018, trường
Cao đẳng Sư phạm Trung ương có cơ cấu tổ chức bộ máy như sau:
+ Lãnh đạo trường: 01 Hiệu trưởng, 01 Phó hiệu trưởng.
+ Các đơn vị trực thuộc: Khoa đào tạo (09 đơn vị); Phòng, Ban chức
năng (10 đơn vị); Trung tâm ứng dụng (05 đơn vị); Trường Mầm non thực
44
hành (03 đơn vị).
Có thể khái quát về cơ cấu tổ chức của trường qua sơ đồ sau:
45
Sơ đồ 2.1 khái quát cơ cấu tổ chức trường CĐSPTƯ
46
2.1.2. Đội ngũ giảng viên của Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
Năm 1991, tại thời điểm mới thành lập với nhiệm vụ là đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý mẫu giáo với trình độ cao đẳng và nghiên
cứu khoa học giáo dục trước tuổi đến trường phổ thông, trường có 30 cán bộ,
giảng viên, người lao động. Hiện tại nhà trường có tổng số 179 giảng viên cơ
hữu ở 9 khoa đào tạo, gồm:
- Khoa Giáo dục mầm non: Tổng số 34 (31 giảng viên, 03 hành chính);
- Khoa Giáo dục đặc biệt: Tổng số 15 (14 giảng viên, 01 hành chính);
- Khoa Âm nhạc: Tổng số 21 (19 giảng viên, 02 hành chính);
- Khoa Mỹ thuật: Tổng số 19 (19 giảng viên);
- Khoa Xã hội và Nhân văn: Tổng số 21 (19 giảng viên, 02 hành chính);
- Khoa Quản lí Văn thư: Tổng số 13 (12 giảng viên, 01 hành chính);
- Khoa Tiếng Anh: Tổng số 08 (07 giảng viên, 01 hành chính);
- Khoa Công nghệ Thông tin: Tổng số 21 (19 giảng viên, 02 hành chính);
- Khoa Cơ bản: Tổng số 25 (24 giảng viên, 01 hành chính).
Theo trình độ chuyên môn, giảng viên của nhà trường được phân loại
thông qua bảng số liệu 2.1 và biểu đồ 2.1.
Bảng 2.1. Phân loại giảng viên của trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
TT
theo trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn
Số người
Cơ cấu (%)
1
Phó giáo sư
01
0,5
2
Tiến sĩ
23
12,9
3
Thạc sĩ
152
84,9
4
Đại học
03
1,7
Tổng số
179
100
(Nguồn: Đề án tái cơ cấu trường CĐSPTW, năm 2019) [39].
47
Biểu đồ 2.1. Phân loại giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương theo
trình độ chuyên môn
- Phân loại theo hạng chức danh nghề nghiệp
Bảng 2.2. Bảng phân loại giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương
theo hạng chức danh nghề nghiệp
TT
Hạng chức danh nghề nghiệp
Số người
Cơ cấu (%)
Hạng I
02
1
1,1
Hạng II
30
2
16,7
Hạng III
147
3
82,2
Tổng số
179
100
(Nguồn: Đề án tái cơ cấu trường CĐSPTW, năm 2019) [30].
Biểu đồ 2.2. Phân loại giảng viên trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương theo
hạng chức danh nghề nghiệp
Qua bảng số liệu 2.1 cho thấy, trình độ đào tạo của đội ngũ giảng viên
48
của Nhà trường đã đáp ứng cơ bản được nhu cầu đào tạo, số giảng viên có
trình độ Giáo sư, Tiến sĩ chiếm 13,4% đây là tỷ lệ tương đối cao trong khối
các trường cao đẳng nói chung. Tỷ lệ giảng viên có trình độ thạc sĩ là nhiều
nhất chiếm 84,9 %, còn lại 03 giảng viên có trình độ cử nhân đang theo học
các lớp đào tạo thạc sĩ. Số lượng giảng viên có trình độ đào tạo là cử nhân của
Nhà trường chỉ chiếm 1,7% tổng số giảng viên (đây là một số giảng viên trẻ
tuổi đang theo học các lớp đào tạo trình độ thạc sĩ).
Nhà trường có số lượng lớn giảng viên có trình độ cao là do Nhà
trường nhận thức được tầm quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng cho
giảng viên của Nhà trường. Tuy nhiên, hiện nay đứng trước những yêu cầu
phải đổi mới giáo dục và phát triển đội ngũ giảng viên trong thời đại mới,
giảng viên không chỉ đạt chuẩn mà còn cần phải hướng đến trên chuẩn nhằm
phục vụ sự nghiệp chung của Nhà trường, phục vụ nhu cầu xã hội và đáp ứng
chiến lược phát triển giáo dục của đất nước có chất lượng, hiệu quả hơn.
Về cơ cấu ngạch giảng viên, qua bảng số liệu 2.2 cho thấy, hiện nay
Nhà trường có 01 giảng viên cao cấp, 30 giảng viên chính chiếm tỷ lệ 16,7%,
còn lại giảng viên với 82,2%. Tỷ lệ giảng viên phân theo hạng chức danh
nghề nghiệp như trên là hợp lý tương ứng với tỷ lệ giảng viên theo trình độ
đào tạo và thâm niên công tác.
- Phân loại theo giới tính
Bảng 2.3. Phân loại theo giới tính, đội ngũ giảng viên của nhà trường
TT
Giới tính
Số người
Cơ cấu (%)
1
Nam
52
29
2
Nữ
127
71
Tổng số
179
100
(Nguồn: Đề án tái cơ cấu trường CĐSPTW, năm 2019) [30].
Với đặc thù là đơn vị sự nghiệp công lập, nhiệm vụ chính là đào tạo và
49
bồi dưỡng giáo viên có trình độ cao đẳng cho giáo dục mầm non và các
trường chuyên biệt vì vậy phần lớn giảng viên là nữ chiếm 71%, tỷ lệ nam
giới chủ yếu tập trung khối nghiệp vụ-quản lý.
- Phân loại theo hình thức hợp đồng làm việc
TT
Bảng 2.4. Phân loại đội ngũ giảng viên của nhà trường theo hợp đồng làm việc
Hình thức hợp đồng
Số người
Cơ cấu (%)
1 Hợp đồng làm việc không xác định thời hạn
169
94,5
2 Hợp đồng làm việc xác định thời hạn
10
5,5
Tổng số
179
100
(Nguồn: Đề án tái cơ cấu trường CĐSPTW, năm 2019) [30].
Biểu đồ 2.3. Phân loại đội ngũ giảng viên của nhà trường theo hợp đồng làm việc
Nhìn vào bảng cho thấy, số lượng giảng viên cơ hữu đã ký hợp đồng
làm việc không xác định thời hạn chiếm đa số 94,5%. Điều đó góp phần tạo
nên đội ngũ giảng viên ổn định, đạt các yêu cầu về chuẩn trình độ đào tạo,
chuẩn nghề nghiệp, tạo ra sự yên tâm công tác, tận tụy với công việc, hoàn
thành các công việc được giao, phấn đấu cùng xây dựng Nhà trường phát triển
và góp phần vào sự thành công của sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo của nước nhà.
50
Nhìn một cách tổng thể trong những năm qua, đội ngũ giảng viên của
Nhà trường từng bước được nâng cao trình độ, đạo đức, phẩm chất và kỹ năng
nghề nghiệp, đáp ứng cơ bản yêu cầu nhiệm vụ của Nhà trường đặt ra.
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về giảng viên ở trường
Cao đẳng Sư phạm Trung ương
2.2.1. Tình hình phổ biến, giáo dục pháp luật về giảng viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương là đơn vị trực thuộc Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Do đó, không chỉ thực hiện các quy định của Luật Viên chức và các
văn bản hướng dẫn thi hành, thực hiện pháp luật về giảng viên của Nhà trường
còn tuân theo các văn bản hướng dẫn liên quan đến giảng viên của Bộ Giáo dục
và Đào tạo (như: Thông tư số 08/2018/TT-BGDĐT ngày 12 tháng 3 năm 2018
của Bộ Giáo dục và Đào tạo Quy định điều kiện, nội dung, hình thức xét thăng
hạng chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục đại
học công lập; Thông tư số 47/2014/BGDĐT ngày 31 tháng 12 năm 2014 quy
định chế độ làm việc đối với giảng viên ngày 31 tháng 12 năm 2014; Thông tư
số 20/2013/BGDĐT ngày 06 tháng 6 năm 2013 ban hành quy định về bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học…)
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung đã được Nhà trường
phối hợp với Công đoàn Trường thực hiện, nhằm vận động cán bộ, giảng
viên, người lao động thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều lượt cán bộ, giảng viên tham gia
các lớp tập huấn, phổ biến giáo dục pháp luật trong cơ quan, đơn vị, trường
học. Công đoàn Nhà trường đã phối hợp với bộ phận chuyên môn, tổ chức
“Ngày pháp luật” theo chủ đề hàng năm với nội dung, hình thức đa dạng và
phong phú như: phổ biến tài liệu, trang bị tủ sách pháp luật tại thư viện, sân
khấu hóa... Tuy nhiên, nội dung mới chỉ tập trung tuyên truyền về thực hiện
đổi mới trong giáo dục và đào tạo, đổi mới trong thi, kiểm tra, xét tuyển đại
học, cao đẳng...; chưa chú trọng đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về
51
giảng viên nói riêng.
Công tác phối hợp, tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên các phương
tiện thông tin đại chúng chưa phát huy hiệu quả trong việc phổ biến kiến thức
pháp luật cho giảng viên. Phần lớn các văn bản pháp luật quy định liên quan
đến giảng viên đều được Nhà trường phổ biến thông qua các cuộc họp giao ban
đến trưởng các đơn vị, sau đó các trưởng đơn vị phổ biến lại cho cán bộ, giảng
viên trong khoa, phòng hoặc chuyển tiếp các văn bản qua email và chuyển giao
văn bản trực tiếp đến khoa để giảng viên tự xem xét. Chính vì vậy, công tác
tuyên truyền pháp luật về giảng viên hiệu quả chưa cao, nhất là các quy định về
chế độ chính sách, khen thưởng, kỷ luật liên quan đến giảng viên.
2.2.2. Xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện pháp luật về giảng viên
Việc xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện pháp luật về giảng
viên có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong tổ chức hoạt động của Trường Cao
đẳng Sư phạm Trung ương, giúp Nhà trường đạt những mục tiêu đặt ra, góp
phần bảo đảm tính chủ động, ổn định, hiệu quả trong hoạt động thực hiện
pháp luật về giảng viên. Xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện pháp
luật về giảng viên tốt sẽ hạn chế những rủi ro, tiết kiệm thời gian, chi phí,
nhân lực trong suốt quá trình thực hiện công tác này và tạo thế chủ động ứng
phó với những biến đổi, vướng mắc phát sinh. Đồng thời, việc xây dựng
chương trình, kế hoạch tốt sẽ huy động được sức mạnh của các chủ thể liên
quan trong quá trình thực hiện pháp luật về giảng viên, tạo sự phối hợp nhịp
nhàng, đồng bộ giữa các bộ phận, phòng ban trong Nhà trường để thực hiện
hiệu quả những nhiệm vụ đã đề ra, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn trong
việc chỉ đạo, quản lý, điều hành của Ban lãnh đạo Nhà trường, phát huy
được trí tuệ tập thể Nhà trường...
Trong thực tế, Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương, đặc biệt là Ban
lãnh đạo Nhà trường, trong những năm gần đây, đã quan tâm tới công tác xây
52
dựng chương trình, kế hoạch thực hiện pháp luật về giảng viên bởi nhận thức
được tầm quan trọng của công tác này và đánh giá được mức độ tác động của
nó tới các hoạt động chung của Nhà trường, tới sự phát triển của đội ngũ
giảng viên. Nhà trường đã xây dựng chương trình thực hiện pháp luật về
giảng viên theo năm, theo quý, theo tháng, có kế hoạch dài hạn, trung hạn và
có kế hoạch ngắn hạn, phù hợp với điều kiện thực tế của Nhà trường.
Bên cạnh đó, căn cứ vào các văn bản pháp luật của nhà nước, Nhà
trường đã xây dựng và ban hành các văn bản điều chỉnh các vấn đề quan trọng
đối với đội ngủ giảng viên của đơn vị. Đó là: Quy định về chế độ làm việc
cho giảng viên; Đề án tinh giảm biên chế; Quy định về thử việc; Xây dựng
phương án bổ nhiệm ngạch và xếp lương cho 345 giảng viên, giáo viên trình
Bộ Giáo dục Đào tạo xét duyệt.
2.2.3. Tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên
2.2.3.1. Về tuyển dụng, sử dụng giảng viên
Cơ sở pháp lý của việc tuyển dụng viên chức là giảng viên làm việc tại các
khoa trong nhà trường là: Luật Viên chức năm 2010; Nghị định 29/2012/NĐ-CP
ngày 12/4/2012 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
(Riêng đối với Nghị định 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 của Chính phủ
về việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức,
nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng
một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp
công lập, do Nghị định mới có hiệu lực từ 01/01/2019, nên Nhà trường chưa
thực hiện việc tuyển dụng theo Nghị định này lần nào).
Tính từ tháng 4 năm 2013 đến tháng 12 năm 2018, tại trường Cao đẳng
Sư phạm Trung ương có 49 người nghỉ chế độ, chuyển công tác. Để đảm bảo
hoạt động, theo đề nghị của các đơn vị, nhà trường đã thực hiện bố trí từ vị trí
việc làm này sang vị trí việc làm khác cho 20 người và tuyển dụng 24 người
53
(trong đó có 12 giảng viên). Nhìn chung, số giảng viên mới tuyển dụng đều
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công việc, khi tuyển dụng giảng viên mới
đều phải có trình độ chuyên môn phù hợp đảm bảo mọi quy định và quy chế
của nhà trường. Vì vậy việc bố trí, sử dụng đều phù hợp với chuyên môn
được đào tạo.
Công tác tuyển dụng viên chức đặc biệt là giảng viên được tiến hành
theo đúng quy trình và tuân theo các quy định của pháp luật, cũng như đáp
ứng đầy đủ các điều kiện về điều kiện tuyển dụng cũng như xét tuyển trong
Luật Viên chức, Nghị định 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về
việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức.
Công tác tuyển dụng giảng viên tại trường Cao đẳng Sư phạm Trung
ương chủ yếu tiến hành theo hình thức thi tuyển. Nhìn chung, hình thức thi
tuyển giảng viên phù hợp với Nhà trường. Bởi thông qua thi tuyển, nhà
trường có thể tuyển được những người có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực,
trình độ, có tinh thần trách nhiệm, đồng thời thi tuyển sẽ tạo cơ hội công
bằng, bình đẳng cho tất cả những ai muốn được làm việc tại trường, tạo được
niềm tin cho tất cả mọi người. Thông qua tuyển dụng, nhà trường có cơ hội
thu hút được một lực lượng đông đảo những lao động trẻ, tài năng, năng động
và nhiệt huyết, từ đó hình thành lên thị trường lao động riêng cho đơn vị
mình. Nhìn chung, việc tổ chức tuyển dụng giảng viên đã đảm bảo công khai,
dân chủ, khách quan, công bằng, đúng tiêu chuẩn; việc bố trí sử dụng thực
hiện đúng đối với chức danh viên chức đã được Luật Viên chức và các văn
bản hướng dẫn đã quy định.
Đối với chất lượng đội ngũ giảng viên: được thể hiện qua chất lượng
của hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên. Hiện nay,
đội ngũ giảng viên của Nhà trường không bị “quá tải” giờ dạy, trung bình
giảng viên đảm nhiệm 370 tiết/năm học. Trên cơ sở đó, giảng viên của Nhà
54
trường có thời gian để học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
thường xuyên cập nhật các kỹ năng, kiến thức mới để làm phong phú nội
dung bài giảng, nâng cao chất lượng giáo dục, thu hút học sinh, sinh viên
hăng say học tập hơn. Bên cạnh đó, chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa
học không ngừng được nâng cao, có tính thực tiễn và khả năng ứng dụng.
Về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp: Đội ngũ giảng
viên của Nhà trường đều có ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp
tốt, ham học hỏi, có tinh thần trách nhiệm và lòng yêu nghề.
Về nghiệp vụ sư phạm: các giảng viên của Nhà trường đều trải qua đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Ngoài ra, giảng viên của Nhà trường
không ngừng được nâng cao những kiến thức tin học và ngoại ngữ, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của nền giáo dục nước nhà trong xu thế hội nhập.
2.2.3.2. Về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
Trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Nhà
trường đã quan tâm, chú trọng giám sát hoạt động chuyên môn và công tác
xây dựng đội ngũ giảng viên theo hướng chuẩn hóa. Việc động viên, khuyến
khích giảng viên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học,
đổi mới phương pháp giảng dạy được xác định là yếu tố then chốt để nâng cao
chất lượng đào tạo.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng
viên chức, giảng viên (như: Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 9
năm 2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức;
Thông tư số 01/2018/TT-BNV, ngày 08 tháng 01 năm 2018 hướng dẫn một
số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 2017 của
Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Quyết định
số 31/2008/QĐ-BGDĐT ngày 23 tháng 6 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành Quy định bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm (sửa đổi bổ
55
sung bởi Thông tư số 27/2012/TT-BGD ĐT ngày 11 tháng 7 năm 2012 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định
bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm ban hành kèm theo Quyết định số 31/2008/QĐ-
BGDĐT ngày 23 tháng 6 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo),
Nhà trường đã tổ chức bồi dưỡng cho các giảng viên hàng năm, một số kết
quả đạt được:
-Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn về giáo dục mầm non với 04 chuyên
đề cho cán bộ giảng viên tại trường và các lớp bồi dưỡng cho giáo viên mầm
non của cả 3 trường thực hành;
- Tiếp tục mở lớp Ngôn ngữ kí hiệu nâng cao cho 21 viên chức đồng
thời phối hợp với Dự án Giáo dục trẻ điếc trước tuổi đến trường mở thêm lớp
ngôn ngữ ký hiệu cho các thành viên mới, tiếp tục bổ sung đội ngũ giáo viên
cho các lớp trung học dành cho người điếc;
- Hoàn thành tốt thủ tục cho 14 viên chức đi học Nghiên cứu sinh, cao
học và 125 viên chức tham gia các khóa bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,
hội thảo trong và ngoài nước;
- Phối hợp với Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức lớp văn bằng 2
ngành Giáo dục mầm non cho 09 cán bộ viên chức tham gia, đồng thời phối
hợp với Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội mở lớp
Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho 32 cán bộ giảng viên nhà trường.
- Có 110 lượt đoàn vào để tham quan, học tập và kí kết các biên bản hợp
tác, 27 đợt tập huấn của chuyên gia nước ngoài tại Trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương, 06 hội thảo quốc tế, quốc gia có chuyên gia nước ngoài tham dự.
Trong 5 năm từ 2014-2018 có tổng số 24 đoàn công tác nước ngoài với
tổng số lượt cán bộ, giảng viên đi công tác là 86 lượt.
Nhà trường đã ban hành các chế độ chính sách hỗ trợ và động viên cán
bộ, giảng viên trong trường nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ sư
phạm; xây dựng và ban hành quy định về chế độ làm việc cho giảng viên, quy
56
chế chi tiêu nội bộ có những quy định khá rõ ràng cụ thể về đối tượng, tiêu
chuẩn, chế độ được hưởng.. từ đó đã nâng cao được ý thức tự giác, chủ động
học tập của từng cán bộ và giảng viên nhà trường.
Trong thời gian ngắn, nhà trường đã đào tạo, bồi dưỡng được một đội
ngũ giảng viên có khả năng đáp ứng được nhu cầu đào tạo các ngành nghề
của nhà trường. Trường đã tận dụng thế mạnh của đội ngũ giảng viên để có
được những nội dung chương trình, cũng như phương pháp đào tạo thích hợp,
tiết kiệm được kinh phí đào tạo, trong đó phần lớn đã sử dụng phương pháp
đào tạo theo kiểu kèm cặp, chỉ dẫn, hội thảo, trao đổi rút kinh nghiệm, kết hợp
với các hình thức tham quan, học hỏi kinh nghiệm... Trong đào tạo, bồi dưỡng
đã có những cách làm sáng tạo, coi trọng đổi mới và hoàn thiện nội dung và
phương pháp cho phù hợp với đối tượng học viên; trong đó, chú trọng tăng kỹ
năng thực hành, truyền đạt kinh nghiệm, kiến thức thực tế.
Việc xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, nhìn chung nhà trường đã làm
tốt, đã có nhiều căn cứ, tiêu chí để xác định nhu cầu. Tuy nhiên, trong đánh giá
thực hiện công việc, đánh giá thành tích công tác của giảng viên vẫn còn chưa
thật sự chính xác, còn nặng hình thức, nể nang, mang tính bình quân dẫn đến
kết quả đánh giá bị sai lệch, chưa phát hiện được những người có thành tích
xuất sắc, hoàn thành tốt công việc để từ đó quy hoạch, tạo nguồn đội ngũ giảng
viên. Ngoài ra, Nhà trường chưa có cơ chế, biện pháp phù hợp nhằm đánh giá,
phát hiện kịp thời giảng viên yếu, kém, không đủ năng lực, xảy ra nhiều sai sót
về chuyên môn để từ đó sàng lọc yêu cầu học tập, bổ cứu kiến thức, kỹ năng để
có kế hoạch đưa đi đào tạo, bồi dưỡng hoặc yêu cầu đào tạo lại.
Việc lựa chọn đối tượng đào tạo, bồi dưỡng mới chỉ tập trung vào giảng
viên trẻ, những người mới được tuyển dụng đang trong giai đoạn hợp đồng
thử việc hoặc những giảng viên có nhu cầu chuyển đổi hoặc tăng thêm học
phần giảng dạy; chưa tổ chức nghiên cứu những thách thức, yêu cầu mới đặt
57
ra đối với sự phát triển cạnh tranh trong tương lai của nhà trường, trong đó có
những thay đổi nhanh chóng về mặt công nghệ, kỹ thuật trong nước, các nước
trong khu vực và kể cả các nước tiên tiến trong tương lai để đề ra các tiêu
chuẩn, lựa chọn những người có khả năng phù hợp để đạo tạo nhằm đi trước
đón đầu về công nghệ tiên tiến.
2.2.3.3. Về thực hiện chế độ tiền lương, đãi ngộ
Về chế độ tiền lương, phụ cấp và các chính sách đãi ngộ với giảng viên,
Nhà trường căn cứ vào các văn bản như: Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14
tháng 12 năm 2004 Về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức
và lực lượng vũ trang, Nghị định 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính
phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Thông tư 12/2012/TT-
BNV ngày 18/12/2012 của Bộ Nội vụ quy định về chức danh nghề nghiệp và
thay đổi chức danh nghề nghiệp đối với viên chức, Nghị định 54/2011/NĐ-CP
ngày 04/7/2011 của Chính phủ về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo và
Thông tư liên tịch số 68/2011/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày
30/12/2011 hướng dẫn thực hiện 1 số điều Nghị định số 54/2011/NĐ-CP.
Trên cơ sở đó, Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương đã tổ chức triển khai
thực hiện chế độ chính sách đối với viên chức theo quy định chung và quy định của
Trường. Kết quả cụ thể từ năm 2014 đến 2018 trong bảng 2.5 và biểu đồ 2.4
Bảng 2.5. Số lượng giảng viên nâng bậc lương thường xuyên, trước thời hạn,
hưởng phụ cấp thâm niên nhà giáo, chuyển ngạch cán bộ quản lý sang giảng
viên và hưu trí
TT
Tiêu chí
2014 2015 2016 2017 2018
1 Nâng bậc lương thường xuyên
70
84
34
35
50
2 Nâng lương trước thời hạn
15
24
17
18
20
3 Hưởng phụ cấp thâm niên nhà giáo
40
42
55
62
78
4 Chuyển ngạch cán bộ quản lý sang giảng viên
1
0
0
2
1
5 Thực hiện chế độ hưu trí
4
4
5
5
2
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2014-2015;2015-2016;2016-2017; 2017-2018)[37]
58
Biểu đồ 2.4. Số lượng giảng viên nâng bậc lương thường xuyên, trước thời hạn, hưởng phụ cấp thâm niên nhà giáo, chuyển ngạch cán bộ quản ký sang giảng viên và hưu trí
2.2.3.4. Thực hiện quy định về đánh giá, phân loại, thi đua, khen thưởng
Việc đánh giá, phân loại được Nhà trường thực hiện theo Luật Viên
chức, Nghị định số 29/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2012 của Chính phủ
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức (từ 01/6/2012 đến 31/7/2015),
Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá và
phân loại cán bộ, công chức, viên chức (từ 01/8/2015 đến nay), Nghị định số
88/2017/NĐ- CP ngày 27/7/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số
56/2015/NĐ- CP ngày 09/6/2015.
Dưới đây là bảng số liệu cụ thể về kết quả đánh giá cán bộ, viên chức
từ năm 2013-2018 như sau:
Bảng 2.6. Số lượng cán bộ, viên chức được khen thưởng từ năm 2013-2018
Đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ 2014
2015
2016
2017
2018
Xuất sắc
48
45
47
48
48
Tốt
119
121
123
114
111
Hoàn thành nhiệm vụ
10
12
8
15
17
Không hoàn thành nhiệm vụ
2
1
1
2
3
(Nguồn: Báo cáo số liệu khen thưởng viên chức trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương các năm học 2013-2014; 2015-2016;2017-2018) [37].
59
Biểu đồ 2.5. Kết quả đánh giá cán bộ, viên chức từ năm 2013-2018
Về thi đua, khen thưởng, Trường đã triển khai, căn cứ vào những văn
bản pháp luật về thi đua, khen thưởng (như: Luật Thi đua, Khen thưởng ngày
26 tháng 11 năm 2003; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua,
Khen thưởng ngày 14 tháng 6 năm 2005; Luật thi đua khen thưởng sửa đổi
năm 2013; Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng. Thông tư số
08/2017/TT-BNV ngày 27/10/2017 của Bộ Nội vụ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng; Thông
tư số: 22/2018/TT-BGDĐT ngày 28/8/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng ngành giáo dục; Nghị định số
27/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/3/2015 quy định về xét tặng danh
hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”…), Bên cạnh đó, Nhà trường chú
trọng, chủ động tổ chức các hoạt động thi đua hàng năm với nhiều chủ đề
phong phú, đa dạng như: phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt”; Phong trào
“Giỏi việc trường, đảm việc nhà”; Phong trào “Xây dựng trường học thân
60
thiện, học sinh tích cực” thu hút sự tham gia đông đảo của viên chức, nhất là
là đội ngũ giảng viên từ đó tạo động lực để giảng viên phấn đấu, thi đua hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Từ năm học 2013-2014, Công đoàn Trường phối hợp với Nhà trường
tổ chức mỗi năm học 2 đợt thao giảng đánh giá giờ dạy tốt cấp trường đã thu
hút số lượng lớn giảng viên. Hầu hết các giảng viên đã đầu tư chuyên môn,
sáng tạo, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Trong khoảng thời
gian từ 2014-2018 có 120 giờ dạy đạt loại tốt, giảng viên được trao tặng giấy
khen của Hiệu trưởng vào các dịp kỷ niệm Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11
hàng năm. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá, bình xét
thi đua cuối năm.
Tuy nhiên, công tác tổ chức và chỉ đạo phong trào thi đua khen thưởng
chưa mạnh mẽ; việc bình xét, đánh giá thi đua còn dễ dãi, thiếu công bằng,
ngại va chạm; phong trào thi đưa còn nặng về tính chất “thời vụ”, chưa đánh
giá đúng thực chất, đặc biệt là việc khen thưởng đột xuất, khen thưởng thường
xuyên. Ngoài ra, các quy định và thủ tục khen thưởng còn nặng về thủ tục
hành chính, thiếu việc theo dõi, kiểm tra và kiểm chứng. Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng của công tác thi đua, khen thưởng của Nhà trường,
việc tôn vinh, nhân rộng các điển hình tiên tiến để làm gương cho mọi người
học tập, noi theo còn hạn chế.
2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về giảng viên
Hàng năm, Nhà trường đều có các hoạt động kiểm tra việc giảng viên
chấp hành các quy định về giảng dạy, kỷ luật lao động của viên chức, nhất là
đối với giảng viên. Phòng thanh tra thực hiện kiểm tra công tác tổ chức quản
lý đào tạo và giám sát các Phòng, Ban, các trường mầm non thực hành theo
đúng chức năng nhiệm vụ. Đã đôn đốc việc tự kiểm tra của các đơn vị, góp
phần tạo nên chuyển biến tích cực về nhận thức trong đội ngũ công chức, viên
61
chức, người lao động trong Nhà trường trước yêu cầu nhiệm vụ được phân
công phụ trách. Giám sát thường xuyên việc triển khai thực hiện Quy chế dân
chủ, Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
trong Nhà trường. Hàng năm, cơ quan quản lý nhà nước cũng tổ chức các đợt
kiểm tra về công tác tài chính, công tác giảng dạy, tuyển dụng giảng viên theo
định kỳ hàng năm (ví dụ: tổ công tác của Vụ Kế hoạch - Tài chính của Bộ
Giáo dục và Đào tạo về thẩm tra công tác tài chính trong tháng 4/2018).
Đồng thời, Trường thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê đến
cấp có thẩm quyền về các mặt hoạt động của Trường; tổ chức theo quy định
Hội nghị Cán bộ, công nhân, viên chức hàng năm. Duy trì các cuộc họp định
kỳ, đảm bảo cả về nội dung và chất lượng, phù hợp với nhu cầu công việc,
như: họp giao ban tháng, sơ kết học kỳ, tổng kết năm học và Hội nghị công
chức, viên chức; hội đồng tư vấn (Hội đồng khoa học và đào tạo, Hội đồng thi
đua-khen thưởng) hoạt động công khai, dân chủ, đúng quy chế.
- Trường cũng đã thành lập Ban Thanh tra nhân dân; thực hiện công
khai, minh bạch các hoạt động về tài chính theo quy định của nhà nước; công
khai các quyền lợi, chế độ, chính sách có liên quan trực tiếp đến đội ngũ cán
bộ, viên chức; công khai những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở
vật chất, tuyển dụng, nâng ngạch, nâng bậc lương, thuyên chuyển, điều động,
khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm và các chế độ chính sách khác đối với cán bộ
viên chức. Qua đó, viên chức giám sát hoạt động của Trường.
Qua công tác kiểm tra cho thấy, Trường đã thực hiện tốt các quy định
của pháp luật nói chung, pháp luật về giảng viên nói riêng.
Tuy nhiên, Lãnh đạo nhà trường mới chỉ tập trung thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các quy định của nhà nước về đào tạo, tài chính mà
chưa chú trọng đến lĩnh vực pháp luật về giảng viên. Công tác tổng kết, đánh
giá qua đó xác định được thuận lợi, hiệu quả cũng như những khó khăn,
vướng mắc, hạn chế, tồn đọng trong việc thực hiện pháp luật về giảng viên
62
chưa được quan tâm đúng mức.
2.3. Nhận xét thực hiện pháp luật về giảng viên ở trường Cao đẳng
Sư phạm Trung ương
2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
2.3.1.1. Kết quả đạt được
Trong những năm qua, tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên tại
trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương đã được triển khai, thực hiện và đạt
được những ưu điểm, thành tựu quan trọng, góp phần thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của nhà trường. Những kết quả đạt được trong tổ chức thực hiện
pháp luật về giảng viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương thể hiện chủ
yếu ở các mặt sau:
Thứ nhất, công tác xây dựng và ban hành văn bản chỉ đạo triển khai
thực hiện pháp luật về giảng viên của lãnh đạo nhà trường tương đối kịp thời,
tuân thủ chặt chẽ văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Lãnh đạo nhà
trường đã ban hành các văn bản, hướng dẫn cụ thể hóa các quy định của nhà
nước nhằm đưa tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên được thống nhất,
đồng bộ trong toàn trường.
Thứ hai, hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật của nhà
trường trong giai đoạn 2013-2018 đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến, vận động cán bộ, giảng viên, người lao động thực hiện nghiêm túc chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Nhìn chung, các hình thức tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên đã
được chú trọng như tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật qua các văn
bản chỉ đạo điều hành, qua các hội nghị, cuộc họp, tọa đàm, các phương tiện
thông tin đại chúng….
Thứ ba, nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên ở trường
Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
63
Công tác tuyển dụng giảng viên được tổ chức chặt chẽ bảo đảm dân
chủ, đúng quy trình, thủ tục, từng bước nâng cao chất lượng tuyển dụng; giảng
viên mới đáp ứng được các điều kiện quy định theo tiêu chuẩn của ngạch dự
thi, phù hợp với vị trí việc làm cần tuyển dụng, trình độ đầu vào được nâng lên
đáp ứng nhu cầu đào tạo của nhà trường trong giai đoạn hiện nay.
Nhà trường đã quan tâm sâu sát đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Công tác thi đua, khen thưởng đối
với đội ngũ này đã được triển khai phù hợp với quy định của pháp luật và tình
hình thực tế của nhà trường, tạo cơ chế chính sách khen thưởng khuyến khích
các tập thể, cá nhân trong các phong trào thi đua, từng bước phản ánh đúng
thực chất kết quả thi đua của các đơn vị, cá nhân, bước đầu đã có tác dụng
động viên, khích lệ giảng viên tích cực hơn trong công tác, hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
2.3.1.2. Nguyên nhân của kết quả
Một là, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sự quan tâm kịp thời của Đảng và
Nhà nước ta đối với quá trình xây dựng các văn bản pháp luật và việc tổ chức
thực hiện pháp luật về giảng viên trong trường đại học. Đó là nhận thức, quan
điểm đúng đắn về coi trọng giáo dục đại học, về vị trí, vai trò, tính chất
chuyên môn nghề nghiệp của viên chức trong trường đại học cũng như vai
trò, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật về giảng viên trong trường đại học. Ở
trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương từ năm 2013, lãnh đạo nhà trường
cũng đã có sự quan tâm đến việc ban hành các quy chế, quy định liên quan
đến tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ chính sách cho giảng viên dựa
trên các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước.
Hai là, hầu hết giảng viên của nhà trường có bản lĩnh chính trị vững
vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nhất định, có tinh thần
trách nhiệm gắn bó với chuyên môn nghề nghiệp, nhiều giảng viên có bề dày
64
kinh nghiệm trong hoạt động chuyên môn. Đội ngũ giảng viên rất đa dạng về
chuyên môn ngành nghề, trong đó giảng viên cơ hữu chiếm số đông, giảng
viên mời giảng chiếm tỷ lệ thấp. Đây là điều kiện thuận lợi để nhà trường chủ
động trong việc phân công kế hoạch công tác cho đội ngũ giảng viên và thực
hiện các nhiệm vụ khác của nhà trường.
Về nhận thức, đa số giảng viên đã xác định được yêu cầu nhiệm vụ, nên
đã tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ và các hoạt động khác theo kế
hoạch của nhà trường.
Ba là, Nhà trường có vai trò quan trọng trong quá trình thực hiện pháp
luật về giảng viên. Bởi xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh của mình
về giáo dục, đào tạo, Nhà trường xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển của
mình, tổ chức quá trình dạy và học, sắp xếp, bố trí viên chức, giảng viên và
cán bộ phù hợp với vị trí công việc, chủ động thực hiện các chế độ, chính
sách đối với họ. Nhà trường tự chịu trách nhiệm trước xã hội, trước pháp luật
về các hoạt động của mình như: hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý đội
ngũ viên chức, giảng viên, việc thực hiện các quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế
dân chủ, quy chế tài chính, quy chế họp và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước
về kết quả các hoạt động của Nhà trường. Qua đó, Nhà trường là nơi trực tiếp
đưa các quy định pháp luật về giảng viên vào thực tiễn đời sống, bảo đảm cho
các quy định đó đạt hiệu quả, chất lượng, góp phần đẩy nhanh quá trình phát
triển đại học, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng tốt cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bốn là, sự tham gia tích cực của các bên liên quan (sinh viên, các cơ
quan hữu quan...). Có thể nói, sinh viên là đối tượng tham gia vào quá trình
dạy và học của Nhà trường, là mục tiêu hướng tới của giảng viên khi thực
hiện chức năng, nhiệm vụ cao cả của mình. Chính sinh viên là động lực, là
trung tâm, là “sản phẩm” thể hiện kết quả giáo dục của giảng viên. Do đó,
65
sinh viên là bên liên quan tham gia vào quá trình thực hiện pháp luật về giảng
viên trong Nhà trường; qua đó, giảng viên thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý khác (UBND thành phố Hà Nội)
cũng thực hiện vai trò quản lý ở địa phương nơi Nhà trường đặt trụ sở: Phối
hợp công tác với Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND thành phố Hà Nội thực hiện
việc chỉ đạo Nhà trường thực hiện công tác liên kết đào tạo trong và ngoài
nước; kiểm tra, xác nhận các điều kiện để mở ngành đào tạo, kiểm tra việc
thực hiện chỉ tiêu tuyển sinh của Nhà trường...Đây cũng là nguyên nhân dẫn
đến những kết quả đạt được đã nêu.
2.3.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Một là, nhận thức về công tác tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên
Tư duy về vấn đề này của lãnh đạo nhà trường chỉ dừng ở phạm vi rất
hẹp, đôi khi bị đánh đồng với một khâu của công tác này là việc phổ biến các
văn bản pháp luật mới ban hành và giáo dục pháp luật (thậm chí vẫn dùng từ
“tuyên truyền” do chưa hiểu chính xác khái niệm này). Mỗi văn bản pháp luật
mới ban hành được tổ chức để phổ biến cho giảng viên trong thời gian ½ đến
một ngày và chỉ mang tính chất truyền đạt quan điểm, cơ cấu, các vấn đề
lớn... mà không phải là học tập từng quy định cụ thể để vận dụng đúng trong
thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, chỉ khi bị vướng mắc hoặc bị ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi ích mới tìm hiểu, còn trong công việc hàng ngày vẫn theo thói quen và
kinh nghiệm nên vận dụng pháp luật chưa nghiêm mà lý do chính là không
nắm chính xác, đầy đủ các quy định cụ thể của pháp luật về giảng viên.
Hai là, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn áp dụng các quy
định pháp luật về giảng viên trong trường chưa được thực hiện tốt, chủ yếu
chỉ tuyên truyền phổ biến chung về các chính sách, quy định mới mà chưa đi
66
sâu vào các văn bản pháp luật quy định riêng đối với giảng viên. Chưa có các
hình thức tuyên truyền, phổ biến một cách phong phú, đa dạng và tập trung
vào quy định pháp luật về giảng viên.
Ba là, thực hiện pháp luật về giảng viên
Về chế độ chính sách đối với giảng viên trong những năm qua tuy đã
được Nhà nước, Nhà trường quan tâm điều chỉnh nhưng còn thấp so với tốc
độ trượt giá và mức tiêu dùng chung của xã hội; đời sống của giảng viên nhìn
chung còn gặp nhiều khó khăn. Quy định về công tác phí, phụ cấp còn bất
hợp lý. Có thể nói chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ giảng
viên còn thấp, chưa thỏa đáng, chưa tạo được động lực. Trên cơ sở văn bản
pháp luật do nhà nước ban hành, trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương đã
soạn thảo và ban hành quy chế chi tiêu nội bộ trong trường để cụ thể hóa và
quy định về chế độ chính sách, đào tạo, bồi dưỡng, mức lương... Tuy nhiên vì
là đơn vị sự nghiệp công lập, hoạt động chủ yếu bằng ngân sách nhà nước,
nguồn thu ít, việc điều chỉnh quy chế chi tiêu nội bộ còn chậm trễ nên chế độ
chính sách cho giảng viên trong trường còn chưa phù hợp thực tế, đời sống
của phần lớn giảng viên còn gặp khó khăn, chưa thực sự khuyến khích, thu
hút được những giảng viên có tài năng, chưa tạo được động lực lớn thúc đẩy
sự cống hiến toàn tâm, toàn ý, sáng tạo, chủ động của toàn thể đội ngũ giảng
viên của Nhà trường.
Còn không ít tồn đọng trong việc thực hiện chuyển ngạch, tính thâm
niên nhà giáo cho các giảng viên. Cụ thể, bà Lê Thị H, công tác tại Phòng
Hành chính-Tổng hợp, từ tháng 4-2014, bà H được bổ nhiệm từ ngạch chuyên
viên sang ngạch giảng viên, sau khi vượt qua kỳ thi sát hạch chuyên môn do
nhà trường tổ chức. Tuy nhiên, trong hai năm học 2014 - 2015 và 2015 -
2016, bà H vẫn tiếp tục được giao đảm trách công việc ở Phòng Hành chính-
Tổng hợp như trước khi chuyển ngạch. Mặc dù, bà H tham gia giảng dạy hàng
67
trăm tiết mỗi năm, hưởng lương và đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo ngạch
giảng viên nhưng không được tính phụ cấp thâm niên nhà giáo và phụ cấp
đứng lớp. Việc phân công bà H làm cán bộ pháp chế không đúng với chuyên
môn của bà là sư phạm Ngữ văn, càng không đúng với quy định của Bộ
GD&ÐT là cán bộ pháp chế phải có bằng cử nhân luật trở lên hoặc đã tham
gia chương trình đào tạo về pháp luật và bồi dưỡng kỹ năng, chuyên môn,
nghiệp vụ về công tác pháp chế.
Trong khi bà H phải vượt qua kỳ thi sát hạch chuyên môn mới được xét
duyệt chuyển ngạch từ chuyên viên sang giảng viên thì bà Nguyễn Cẩm Y,
Trưởng Phòng Tổ chức-Cán bộ lại được chuyển từ ngạch chuyên viên chính
sang ngạch giảng viên chính. Năm 2014, Hiệu trưởng đã ra quyết định chuyển
ngạch cho bà Y từ chuyên viên chính sang giảng viên chính mà không tổ chức
thi sát hạch chuyên môn, cũng không thành lập hội đồng xét duyệt theo quy
định hiện hành. Tại thời điểm đó, bà Y cũng chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn của
chức danh giảng viên chính theo quy định như: chưa từng là giảng viên, chưa
đủ thời gian công tác tại trường chuyên nghiệp. Sau khi chuyển ngạch, Hiệu
trưởng còn ra quyết định cho bà Y được hưởng phụ cấp thâm niên nhà giáo từ
những năm bà Y vẫn làm chuyên viên (từ năm 2011).
Qua những vụ việc như trên cho thấy thực hiện pháp luật trong nhà trường
còn nhiều hạn chế, nhiều sai sót trong quản lý điều hành và thực hiện, áp dụng
chính sách đối với người lao động, đã làm phát sinh bức xúc, làm giảm lòng tin
của giảng viên và phần nào có ảnh hưởng xấu đến việc đoàn kết nội bộ.
Công tác thi đua khen thưởng tại trường đã được thực hiện tương đối
tốt. Nhiều chương trình, cuộc thi đã thu hút được sự tham gia đông đảo giảng
viên. Tuy nhiên còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Công tác lập hồ sơ, xét duyệt
khen thưởng còn làm chậm, chưa đi vào nề nếp, công tác chỉ đạo chưa sát sao,
kiểm tra giám sát các khâu chậm nên chưa kịp thời xử lý công việc khi cần
68
thiết. Chẳng hạn, trong quá trình thực hiện quy trình xét tặng danh hiệu Nhà
giáo ưu tú lần thứ 14 năm 2017, nhà trường đã thành lập Hội đồng xét tặng
danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo Ưu tú trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương để làm quy trình và đề nghị xét tặng danh hiệu Nhà giáo Ưu tú
cho một trường hợp. Tuy nhiên do Thư ký Hội đồng soạn thảo còn sai sót và
Hội đồng nhà trường không kiểm tra cụ thể việc tổ chức giới thiệu và lấy
phiếu tín nhiệm, tổ thư ký thẩm định hồ sơ của ứng viên chưa chặt chẽ nên
không đủ điều kiện để trình lên Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận Nhà giáo
ưu tú. Việc này đã làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích chính đáng của nhà
giáo, của cán bộ Nhà trường, gây mất niềm tin trong nội bộ đơn vị và thể hiện
sự yếu kém của bộ phận tham mưu.
2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, về pháp luật thực định
Pháp luật về giảng viên, như chương 1 đã đề cập, hiện nay, được điều
chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau: Luật Viên chức, Luật Giáo dục, Luật
Giáo dục đại học, Bộ Luật Lao động, Luật Thi đua, khen thưởng, Luật Khoa
học và công nghệ… cùng với đó là các nghị định, thông tư quy định chi tiết,
hướng dẫn thi hành. Qua thực tế Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương cho
thấy, hệ thống các quy định này vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Một
số quy định về giảng viên còn chồng chéo, thiếu thống nhất. Nguyên nhân của
hạn chế, bất cập này xuất phát từ việc nhiều quy định pháp luật của nhiều lĩnh
vực cùng điều chỉnh đối với giảng viên. Luật viên chức quy định về quyền và
nghĩa vụ của viên chức (trong đó có giảng viên) song Luật Giáo dục, Luật
Giáo dục đại học cũng quy định về quyền và nghĩa vụ, nhiệm vụ của giảng
viên với nhiều nội dung tương đồng với nhau. Điều đó đã dẫn đến tình trạng
chồng chéo giữa các quy định pháp luật về viên chức, về giảng viên trong lĩnh
69
vực giáo dục. Có thể nêu ra một số bất cập, hạn chế, thiếu hụt như:
- Về quy định hợp đồng làm việc
Theo quy định tại khoản 2, Điều 24, Luật Viên chức thì “căn cứ vào kết
quả tuyển dụng”, hợp đồng làm việc được ký kết giữa người đứng đầu đơn vị
sự nghiệp công lập với người trúng tuyển làm viên chức.
Điều này có nghĩa là, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập mặc
dù được trao quyền chủ động, tự chủ trong việc tuyển dụng, sử dụng và
quản lý đối với viên chức, song vẫn phải tuân thủ việc ký hợp đồng làm
việc sau khi đã có kết quả thi tuyển và xét tuyển viên chức. Thậm chí, đối
với người có năng lực, trình độ xuất sắc, được xã hội công nhận thì người
đứng đầu đơn vị sự nghiệp vẫn không thể tự do ký kết hợp đồng làm việc
được. Xét về bản chất, chế độ hợp đồng làm việc đối với viên chức chưa
thực sự thay thế cho chế độ tuyển dụng áp dụng với viên chức trước đây.
Đó là chưa kể, trong một số trường hợp, việc ký kết hợp đồng làm việc
giữa người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập với viên chức vẫn phải chịu
sự điều chỉnh, chi phối có tính chất quyết định của “cơ quan chủ quản” của
đơn vị sự nghiệp công lập trong quá trình tuyển dụng cũng như ký kết, thực
hiện hợp đồng làm việc. Khoản 3, Điều 26 Luật Viên chức quy định: “Đối
với các chức danh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật do cấp trên của
người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập bổ nhiệm thì trước khi ký kết
hợp đồng làm việc phải được sự đồng ý của cấp đó”.
Mặt khác, dù có những đặc trưng cơ bản và có những điểm khác so với
hợp đồng lao động, nhưng hợp đồng làm việc của viên chức nói chung gần
như sao chép hầu hết các quy định của Bộ luật Lao động, chưa có sự phân
biệt một cách rõ ràng giữa hai loại hợp đồng này. Hợp đồng làm việc của viên
chức chưa thể hiện rõ được những nội dung, nét đặc thù do sự khác biệt của
chủ thể ký kết hợp đồng là viên chức, “người thực hiện dịch vụ công” so với
70
những chủ thể là người lao động trong hợp đồng lao động. Thậm chí, có rất
nhiều quy định của Bộ luật Lao động lại được dẫn chiếu để điều chỉnh những
nội dung của hợp đồng làm việc như: việc tạm hoãn thực hiện, việc chấm dứt
hợp đồng làm việc hay tranh chấp liên quan đến việc ký kết, thực hiện hoặc
chấm dứt hợp đồng làm việc được giải quyết theo quy định của pháp luật về
lao động (khoản 3 Điều 28, Điều 30 Luật Viên chức).
Luật Viên chức quy định có hai loại hợp đồng làm việc: hợp đồng làm
việc xác định thời hạn và hợp đồng làm việc không xác định thời hạn (Điều
25). Theo quy định của Luật Viên chức, người trúng tuyển viên chức phải
thực hiện chế độ tập sự (từ 03 tháng đến 12 tháng) và ký kết hợp đồng làm
việc xác định định thời hạn (từ đủ 12 tháng đến 36 tháng). Thời gian tập sự
này phải được quy định trong hợp đồng làm việc xác định thời hạn. Hợp đồng
làm việc không xác định thời hạn được áp dụng đối với trường hợp đã thực
hiện xong hợp đồng làm việc xác định thời hạn. Như vậy, trong trường hợp
người trúng tuyển viên chức theo quy định chỉ tập sự từ 03 đến 09 tháng thì
hợp đồng làm việc áp dụng phải là hợp đồng làm việc có xác định thời hạn và
thời hạn hợp đồng ít nhất là 12 tháng. Tuy nhiên, nếu sau khi trúng tuyển,
viên chức thực hiện tập sự không hoàn thành nhiệm vụ thì Luật chưa quy định
về cách giải quyết đối với trường hợp này. Theo quy định tại Điều 29 Luật
Viên chức quy định về các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng làm
việc không có quy định trường hợp nào áp dụng cho người tập sự không hoàn
thành nhiệm vụ.
Trong trường hợp, nếu người tập sự không đạt yêu cầu sau thời gian tập
sự thì theo khoản 1 Điều 24 Nghị định 29/2012/NĐ-CP: “người tập sự bị
chấm dứt Hợp đồng làm việc khi không đạt yêu cầu sau thời gian tập sự”. Tuy
nhiên, muốn chấm dứt hợp đồng trong trường hợp này, người đứng đầu đơn
vị sự nghiệp công lập không thể đơn phương chấm dứt hợp đồng với viên
71
chức, vì Luật không quy định đây là trường hợp được đơn phương chấm dứt
hợp đồng. Như vậy, trong trường hợp này, đơn vị sự nghiệp công lập vẫn phải
tiếp tục thực hiện hợp đồng có thời hạn 12 tháng đó với người trúng tuyển
viên chức, và chờ cho hết thời hạn hợp đồng mới có thể chấm dứt hợp đồng
được; trong khi mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra đối với người trúng
tuyển viên chức đang trong thời gian tập sự không đạt được. Điều này chưa
thực sự hợp lý.
Việc thi thực hành môn chuyên môn nghiệp vụ trong thi tuyển là rất
khó khăn vì xác định thực hành như thế nào đối với một số vị trí rất khó.
Nhiều đơn vị sự nghiệp công lập chưa được phê duyệt bản mô tả công việc
cho nên việc tuyển dụng vẫn mang tính chất lấy đủ người làm việc là chính.
- Về chế độ làm việc của giảng viên
Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy
định chế độ làm việc như sau: “Tổng quỹ thời gian làm việc của giảng viên
trong một năm học để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học,
học tập bồi dưỡng và các nhiệm vụ khác trong nhà trường là 1.760 giờ sau
khi trừ số ngày nghỉ theo quy định” [4]. Căn cứ quy định cụ thể về việc thực
hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ để quy ra tổng quỹ thời gian làm việc của
giảng viên trong một năm học là 1.760 giờ (giờ hành chính). Trong một năm
học, mỗi giảng viên đều phải thực hiện nhiệm vụ: giảng dạy (270 giờ chuẩn,
trong đó, giờ chuẩn trực tiếp trên lớp chiếm tối thiểu 50% định mức quy
định), nghiên cứu khoa học (ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm
học), học tập bồi dưỡng và các nhiệm vụ khác trong nhà trường với tổng quỹ
thời gian làm việc trong một năm học là 1.760 giờ. Quy định này khiến giảng
viên không còn thời gian để làm nghiên cứu khác. Quy định về nâng hạng,
nâng bậc lương dựa theo thâm niên là chính, chủ yếu để giải quyết chế độ cho
giảng viên mà chưa chú trọng đến kết quả, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của
giảng viên cũng như nặng về xét văn bằng, chứng chỉ mà chưa tính đến trình
72
độ, năng lực thực chất của giảng viên.
Các cơ sở giáo dục không thể thực hiện chế độ khuyến khích, thu hút
người có tài, có trình độ cao đến làm việc nếu vẫn tiếp tục bị “áp” cơ chế tiền
lương, thang bảng lương hiện hành.
- Luật Viên chức (khoản 2, điều 7) quy định Chính phủ có thẩm quyền
quyết định số lượng vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập. Thực tế
việc tính số lượng này lại được phân cấp cho các Bộ, nên khi xác định vị trí
việc làm vẫn căn cứ chủ yếu vào thông tư các Bộ. Trong khi đó, một số bộ
chưa ban hành danh mục, tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp và việc xếp
lương các Bộ cũng khác nhau. Đối với đơn vị sự nghiệp công lập đã có danh
mục vị trí việc làm nhưng chủ yếu đề cập đến tên công việc, chưa phân tích,
mô tả nên gặp nhiều khó khăn trong việc xác định tính chất, đặc điểm từng vị
trí việc làm; việc xây dựng khung năng lực vị trí việc làm còn định tính, phần
lớn dựa vào tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp để làm căn cứ xác định khung
năng lực vị trí việc làm. Việc xác định kết quả đầu ra trong năm để làm căn cứ
xác định số lượng người làm việc còn nhiều khó khăn vì thiếu căn cứ thực tế
để xác định số lượng người làm việc cần thiết để hoàn thành khối lượng công
việc được giao hàng năm. Do đó, việc xác định số lượng người làm việc
(trước kia gọi là biên chế) phụ thuộc nhiều vào cơ chế “xin-cho”, do thiếu các
các tiêu chí định lượng, dẫn đến trình trạng “vừa thừa”, “vừa thiếu” trong đơn
vị sự nghiệp công lập.
- Việc thăng hạng chức danh nghề nghiệp hiện nay, theo yêu cầu của
các thông tư, cần có nhiều chứng chỉ (ngoại ngữ, tin học, bồi dưỡng nghiệp
vụ, quản lý nhà nước…); nhiều chứng chỉ bị trùng lắp hoặc không cần thiết
(ví dụ: chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho cả những người đã tốt
nghiệp sư phạm; chứng chỉ bồi dưỡng giảng viên cho cả những người được
công nhận là giáo sư, phó giáo sư…) dẫn đến nhiều cá nhân, tổ chức lợi dụng
73
quy định để mở các lớp bồi dưỡng, gây lãng phí, bức xúc trong xã hội.
- Quy định về đánh giá, phân loại viên chức (theo nghị định 56/2015/NĐ-
CP) còn nặng về tự đánh giá, khép kín trong cơ quan, đơn vị, chưa có sự tham
gia đánh giá của người dân (khách hàng). Một số tiêu chí không phù hợp với
một số vị trí việc làm (như phải có ít nhất một công trình, đề tài, sáng kiến
mới được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì rất khó áp dụng cho các
vị trí như: lái xe, văn thư…); thủ tục còn phức tạp.
- Chế độ thu hút, đãi ngộ còn chưa đồng bộ. Đãi ngộ đối với nhân tài
còn mang tính bình quân, chưa tạo động lực mạng mẽ cho sự sáng tạo. Trong
đãi ngộ và sử dụng chưa được tiến hành song song với đổi mới tuyển dụng
viên chức và thực hiện chính sách thu hút nhân tài. Chế độ tiền lương của
ngành giáo dục, đào tạo được tính chung với thang bảng lương tương đương
như công chức nên chưa phản ánh được giá trị lao động của giảng viên. Pháp
luật về viên chức còn phân tán và thiếu một định hướng dài hạn cho việc phát
triển đội ngũ viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập. Các quy
định pháp luật chưa phân biệt và làm rõ những đặc thù của đội ngũ viên chức
so với những người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó,
chưa tạo ra cơ chế quản lý, sử dụng thực sự phù hợp, hiệu quả.
- Các quy định về tinh giản biên chế còn cứng nhắc, chưa phù hợp
với đặc thù của ngành giáo dục, đào tạo, đó là: Nhu cầu về giáo dục, đào
tạo tỷ lệ thuận với sự gia tăng của dân số (cả tự nhiên và cơ học). Về
nguyên tắc, dân số tăng lên, số học sinh, sinh viên đến trưởng cũng tăng
theo, dẫn đến cần phải có một số lượng giáo viên, giảng viên tương ứng thì
mới đảm bảo được chất lượng. Do vậy, việc tinh giản biên chế cần có tỷ lệ
phù hợp với đặc thù này.
- Nhiều định mức trong lĩnh vực giáo dục đại học đã được ban hành từ
lâu, không còn phù hợp, nhưng chậm được sửa đổi (như định mức về công tác
74
phí, về kinh phí đào tạo, bồi dưỡng…)
- Các quy định về tự chủ trong đơn vị sự nghiệp công lập nói chung,
trường Cao đẳng nói riêng chưa đồng bộ. Một số khung giá, phí dịch vụ công
trong lĩnh vực giáo dục đại học chưa được tính đúng, tính đủ nên việc tự chủ
về tài chính còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, công tác truyền thông, phổ biến, giáo dục pháp luật về giảng
viên còn mang nặng tính hình thức bề nổi, phong trào, thậm chí còn tốn kém
và lãng phí do chưa gắn kết với các loại lợi ích cụ thể, với quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể pháp luật. Tình trạng giảng viên chỉ nghe giới thiệu sơ
qua, đại khái trong một buổi về cả một văn bản luật lớn là phổ biến, mà chưa
thành yêu cầu bắt buộc phải học tập và nắm chắc pháp luật như một công cụ.
Thứ ba, công tác giám sát việc đưa pháp luật về giảng viên vào các cơ
sở giáo dục đào tạo vẫn còn chưa được thể chế hoá cụ thể và tiến hành thường
xuyên, liên tục. Nhận thức về tầm quan trọng của pháp luật của một số giảng
viên còn chưa cao.
Thứ tư, trong công tác chỉ đạo điều hành trong tổ chức thực hiện pháp
luật về giảng viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương có lúc chưa được
75
toàn diện, thống nhất và sâu rộng.
Tiểu kết chương 2
Ở chương 2, luận văn đã phân tích và đánh giá thực trạng tổ chức thực
hiện một số nội dung cơ bản của pháp luật về giảng viên bao gồm việc tuyển
dụng, sử dụng giảng viên, đào tạo bồi dưỡng, chế độ chính sách đãi ngộ, công
tác thi đua, khen thưởng, kỷ luật đối với giảng viên. Qua số liệu thực trạng
của năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 cho thấy tổ chức thực hiện pháp luật
về giảng viên ở trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương đã đạt được những ưu
điểm song cũng còn tồn tại một số hạn chế nhất định trong quá trình tổ chức
thực hiện. Những khó khăn, hạn chế đó bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan
và nguyên nhân chủ quan.
Trên cơ sở đó, chương 3 tập trung nghiên cứu, đưa ra những quan
điểm, giải pháp, cách thức bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật về giảng viên
76
từ thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
Chương 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIẢNG VIÊN- TỪ THỰC TIỄN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM
TRUNG ƯƠNG
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng viên- từ thực
tiễn trường Cao đẳng Sư phạm trung ương
3.1.1. Thực hiện pháp luật về giảng viên đồng bộ với đổi mới giáo
dục và đào tạo một cách căn bản, toàn diện
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học ở nước ta được hiểu là
quá trình tiến hành cải cách giáo dục đại học, trong đó khẳng định tư tưởng
chỉ đạo phát triển giáo dục đại học theo cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cải cách các điều kiện tác động trực tiếp đến sự nghiệp phát triển
giáo dục đại học như nội dung chương trình, phương pháp, quy trình đào tạo,
đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, đầu tư nguồn lực tài chính, phương
tiện giáo dục, phân cấp quản lý, môi trường giáo dục đại học...
Thực hiện pháp luật về giảng viên cần phải phù hợp với các yêu cầu
của quá trình đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học.
Thực hiện pháp luật về giảng viên phải bảo đảm đúng định hướng, tư
tưởng chỉ đạo tiến hành cải cách giáo dục đại học nêu trên, góp phần thực
hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo; Giảng
viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ sư phạm; Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh
tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.
Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây
77
dựng một số trường sư phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc phục
tình trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo. Có cơ chế
tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người có phẩm chất,
năng lực phù hợp vào ngành sư phạm.
Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo
lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu
cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.
Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc
tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác.
Có chế độ ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình
độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra
khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong
hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo
tính chất công việc, theo vùng.
Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập
và nghiên cứu khoa học. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập và
nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ...
3.1.2. Thực hiện pháp luật về giảng viên chủ động, sáng tạo, thực
chất, có hiệu quả
Thực hiện pháp luật về giảng viên cần chủ động, sáng tạo, thực chất và
hiệu quả. Điều đó thể hiện qua những nội dung sau:
- Giảng viên, lãnh đạo các cơ sở giáo dục đào tạo chủ động tìm hiểu, học
tập, có các hình thức thực hiện pháp luật phù hợp với đặc điểm từng sở giáo dục
đào tạo; phù hợp với đặc điểm đội ngũ giảng viên của cơ sở và ngành nghề
78
chuyên môn đang thực hiện.
- Nhà nước đảm bảo, tạo điều kiện cho giảng viên thực hiện pháp luật
về giảng viên.
- Pháp luật và quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên cần
chú trọng về hiệu quả. Hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên
được đo bằng tương quan giữa kết quả với cái đặt ra (mục đích) và cái bỏ ra
(chi phí). Làm sao cho chi phí bỏ ra thấp và đạt được kết quả cao là một yêu
cầu trong tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên.
Thực hiện pháp luật về giảng viên được quy định cụ thể trong các văn
bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Đây chính là cơ sở, là căn cứ cho việc
tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên tại các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tuy
nhiên, để pháp luật đi vào thực tiễn đời sống đòi hỏi đơn vị phải vận dụng một
cách linh hoạt, sáng tạo trên cơ sở xem xét tình hình thực tiễn từng cơ sở giáo
dục, đào tạo. Từng cơ sở giáo dục, đào tạo có thể ban hành quy chế theo từng
nội dung pháp luật về giảng viên phù hợp với đặc điểm công việc và chuyên
môn của đơn vị. Các cơ sở giáo dục, đào tạo cần xem xét cụ thể về đặc trưng
trong hoạt động, số lượng, trình độ học vấn... của giảng viên để đưa ra các nội
dung quy chế nhằm thực hiện pháp luật về giảng viên phù hợp nhất.
Hiện nay, nội dung quản lý viên chức nói chung, giảng viên nói riêng
theo quy định tại điều 48 Luật Viên chức bao gồm: Xây dựng vị trí việc làm;
Tuyển dụng viên chức; Ký hợp đồng làm việc; Bổ nhiệm, thay đổi chức danh
nghề nghiệp; Thay đổi vị trí việc làm, biệt phái, chấm dứt hợp đồng làm việc,
giải quyết chế độ thôi việc; Bổ nhiệm, miễn nhiệm viên chức quản lý; sắp
xếp, bố trí và sử dụng viên chức theo nhu cầu công việc; Thực hiện việc đánh
giá, khen thưởng, kỷ luật viên chức; Thực hiện chế độ tiền lương, các chính
sách đãi ngộ, chế độ đào tạo, bồi dưỡng viên chức; Lập, quản lý hồ sơ viên
chức; thực hiện chế độ báo cáo về quản lý viên chức thuộc phạm vi quản lý.
79
Các cơ sở giáo dục, đào tạo có thể dựa vào các văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước để xây dựng các quy chế, hướng dẫn tùy thuộc vào đặc
điểm riêng của đơn vị mà không trái với văn bản pháp luật của Nhà nước, của
cơ quan cấp trên. Để làm được những điều này, cần sự chủ động, sáng tạo của
người đứng đầu đơn vị cũng như bộ phận tham mưu, giúp việc trong công tác
ban hành văn bản nói chung, văn bản liên quan đến giảng viên nói riêng.
3.1.3. Thực hiện pháp luật về giảng viên phù hợp với thực tiễn từng
cơ sở giáo dục, đào tạo
Thực hiện pháp luật về giảng viên chính là việc triển khai các quy định
của pháp luật về giảng viên trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, với các chủ thể
khác nhau, những đặc điểm điều kiện khác nhau. Điều kiện và đặc thù hoạt
động chuyên môn, nghề nghiệp của các cơ sở giáo dục, đào tạo có vai trò hết
sức quan trọng đối với việc thực hiện pháp luật về giảng viên. Điều đó thể
hiện ở một số nội dung sau:
Một là, điều kiện về pháp lý: mỗi trường đại học được thành lập và mở
ngành đào tạo khác nhau sẽ có những đặc điểm về địa vị pháp lý, công tác tuyển
sinh, mục tiêu, chuyên ngành đào tạo, tổ chức và hoạt động của trường khác
nhau. Do đó, việc áp dụng pháp luật về giảng viên đối với mỗi trường cũng có
những đặc điểm khác nhau. Chẳng hạn, mức độ thực hiện quyền tự chủ của mỗi
trường đại học sẽ làm cho việc thực hiện các quy định pháp luật về nhiệm vụ, tài
chính, tổ chức, bộ máy, nhân sự ở mỗi loại trường này sẽ khác nhau.
Hai là, người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học là một trong những nhân
tố tác động tới quá trình thực hiện và tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên
trong các cơ sở giáo dục, đào tạo. Với vai trò, vị trí quan trọng của mình, nếu
một người Hiệu trưởng có “tâm” và có “tầm”, giàu kinh nghiệm thực tiễn và
giỏi trình độ chuyên môn cũng như kỹ năng quản lý, điều hành tốt thì những
quyết sách, những hoạt động của trường sẽ có chất lượng tốt. Việc thực hiện
80
pháp luật về giảng viên, trong nhà trường, do đó, cũng đạt hiệu quả tốt hơn.
Ba là, nhà trường là nơi đội ngũ giảng viên thực hiện nghề nghiệp
chuyên môn của mình. Nếu môi trường này thuận lợi, ổn định và phát triển,
có uy tín, đội ngũ giảng viên ở đó sẽ có điều kiện tốt nhất để lao động, sáng
tạo, thực hiện các quyền và tự do của mình và làm tròn nghĩa vụ pháp lý,
trách nhiệm nghề nghiệp của mình đối với các thế hệ học sinh, sinh viên và
toàn thể xã hội. Qua đó, pháp luật về giảng viên trong các cơ sở giáo dục,
đào tạo được sử dụng, tuân thủ, thi hành một cách tự giác, đầy đủ, hiệu quả,
tiết kiệm chi phí.
Bốn là, do đặc thù hoạt động chuyên môn, nghề nghiệp của các cơ sở
giáo dục, đào tạo, giảng viên cần phải được quản lý theo một quy chế riêng,
không theo quy chế hành chính thông thường như đối với các nghề nghiệp
khác. Vấn đề này đã được chứng minh trong thực tế, đối với giảng viên, sự tự
do lao động sáng tạo trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học là hết sức
quan trọng; nó không phụ thuộc vào sự quản lý hành chính nhà nước về mặt
thời gian, hay bó hẹp trong một địa điểm hoạt động, một không gian nào đó. Vì
thế, việc thực hiện pháp luật về giảng viên cần tính đến yếu tố đặc thù này,
nhằm phát huy mọi khả năng, trí tuệ, sức sáng tạo cũng như bầu nhiệt huyết, sự
tận tâm của đội ngũ giảng viên trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện nền
giáo dục của đất nước, phù hợp xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng viên- từ
thực tiễn trường Cao đẳng Sư phạm trung ương
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giảng viên và pháp luật có liên quan
3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về giảng viên
Hoàn thiện pháp luật về giảng viên vừa là giải pháp vừa là yêu cầu cấp
bách hiện nay, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật, đảm bảo phát
huy vai trò quản lý nhà nước và đánh giá đúng hiệu quả tác động của tổ chức
81
thực hiện pháp luật về giảng viên trong các cơ sở giáo dục, đào tạo. Điều này
cũng hoàn toàn phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Như chương 2 đã phân tích về thực trạng của các văn bản, quy định nội
bộ về giảng viên của Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương, nhìn chung, các
quy định liên quan đến giảng viên trong Nhà trường tuy đã đạt được những
kết quả nhất định, được đánh giá cao, song vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn
chế, thiếu tính thống nhất và toàn diện. Công tác rà soát văn bản chưa được
quan tâm kịp thời, đồng bộ, thiếu nhân lực thực hiện dẫn đến việc sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện các văn bản pháp luật về giảng viên trong nhà trường còn
chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn khách quan.
Do đó, cần chú trọng nghiêm túc về công tác rà soát để xây dựng, hoàn
thiện hệ thống các văn bản về giảng viên
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về đội ngũ giảng viên cần
đi theo hướng điều chỉnh chuyên biệt với những đặc thù nghề nghiệp của đối
tượng giảng viên, không đồng nhất giảng viên với các viên chức hành chính
trong các trường đại học, cao đẳng; theo đó, không lấy các chức danh viên
chức hành chính, hay chức danh, ngạch, bậc công chức để quyết định chức
danh giảng viên như hiện nay.
Khi ban hành những văn bản quy phạm pháp luật về các chức danh
giảng viên cần tính đến đặc thù của đối tượng và có những chính sách, chế độ
phù hợp với từng chức danh giảng viên, bên cạnh việc quy định trách nhiệm,
bổn phận của từng chức danh.
Khẩn trương ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
Luật Giáo dục năm 2019, chẳng hạn, cần ban hành các văn bản quy định chi
tiết về: (1) Hướng nghiệp và phân luồng trong giáo dục theo từng giai đoạn phù
hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội (Điều 9), (2) Quy định về phụ cấp
82
đặc thù (Điều 76); (3) Quy định về học bổng, trợ cấp xã hội, miễn, giảm học
phí, hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt nói chung và cho học sinh,
sinh viên sư phạm nói riêng (Điều 85); (4) Quy định về cơ chế thu và quản lý
học phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở
giáo dục nghề nghiệp, cơ sở giáo dục đại học công lập (Điều 99); (5) Quy định
về việc công dân Việt Nam ra nước ngoài giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa
học và trao đổi học thuật; việc hợp tác về giáo dục với tổ chức, cá nhân nước
ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 107); (6) Quy định về
Hợp tác, đầu tư của nước ngoài về giáo dục (Điều 108); (7) Quy định về điều
kiện, thủ tục thành lập, cho phép hoạt động, đình chỉ, giải thể tổ chức kiểm
định chất lượng giáo dục; quy định điều kiện và thủ tục để tổ chức kiểm định
chất lượng giáo dục nước ngoài được công nhận hoạt động tại Việt Nam; (8)
Quy định về tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục (Điều 112)…
Mặt khác, cần nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện
hành liên quan đến quản lý nhà nước về giáo dục (trong đó có các trường Cao
đẳng), bảo đảm phù hợp với thực tiễn cũng như quan điểm về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, sắp xếp lại đơn vị sự nghiệp công lập: Xây dựng và
chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo
dục; điều lệ nhà trường, chuẩn cơ sở giáo dục, quy chế tổ chức và hoạt động
của cơ sở giáo dục; quy định hoạt động dạy học và giáo dục trong nhà trường
và ngoài nhà trường; quy định về đánh giá kết quả học tập và rèn luyện; khen
thưởng và kỷ luật đối với người học; quy định tiêu chuẩn chức danh, chế độ
làm việc của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; danh mục khung vị trí việc
làm và định mức số lượng người làm việc trong các cơ sở giáo dục; tiêu
chuẩn người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các cơ sở giáo dục; tiêu
chuẩn chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan
chuyên môn về giáo dục thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; chuẩn
83
nghề nghiệp nhà giáo; ban hành quy tắc ứng xử của nhà giáo, của cơ sở giáo
dục; quy định về điều kiện, tiêu chuẩn và hình thức tuyển dụng giáo viên; quy
định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; khung trình độ quốc gia; tiêu
chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn, định mức sử dụng cơ sở vật chất, thư viện và thiết
bị trường học; việc biên soạn, sử dụng sách giáo khoa, giáo trình; việc thi,
kiểm tra, tuyển sinh, liên kết đào tạo và quản lý văn bằng, chứng chỉ; việc công
nhận văn bằng do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp được sử dụng tại Việt Nam.
Mặt khác, tiếp tục ban hành các quy định hướng dẫn hoặc quy định chi
tiết thi hành Luật Giáo dục đại học (sửa đổi, bổ sung 2018) như: quy định chi
tiết việc công nhận cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu trên cơ
sở kết quả đào tạo, nghiên cứu; chuyển trường đại học thành đại học; liên kết
các trường đại học thành đại học; việc chuyển đổi cơ sở giáo dục đại học tư
thục sang cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận;
nguyên tắc đặt tên, đổi tên cơ sở giáo dục đại học; tổ chức và hoạt động của
cơ sở giáo dục đại học được thành lập theo hiệp định giữa Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và bên ký kết nước ngoài (Điều 7), quy
định chi tiết thủ tục thành lập, công nhận hội đồng trường; việc công nhận, bãi
nhiệm, miễn nhiệm chủ tịch hội đồng trường (Điều 17), quy định chi tiết về
thủ tục thành lập, công nhận hội đồng đại học; công nhận, bãi nhiệm, miễn
nhiệm chủ tịch và các thành viên hội đồng đại học (Điều 18), quy định chi tiết
về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học (Điều
32), về hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ sở giáo dục đại học (Điều
42), Quy định chuẩn giáo dục đại học bao gồm chuẩn cơ sở giáo dục đại học,
chuẩn chương trình đào tạo, chuẩn giảng viên, cán bộ quản lý và các chuẩn
khác; quy định về xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình
độ giáo dục đại học; ban hành danh mục thống kê ngành đào tạo của giáo dục
đại học, quy chế tuyển sinh, đào tạo, kiểm tra đánh giá và cấp văn bằng,
chứng chỉ trong hệ thống giáo dục quốc dân; quản lý việc bảo đảm chất lượng
84
và kiểm định chất lượng giáo dục đại học (Điều 68)…
3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về tự chủ của cơ sở giáo dục, đào tạo
Ở Việt Nam, các trường đại học đã dần được thực hiện quyền tự chủ,
thể hiện qua các văn bản pháp luật của Nhà nước. Tại Điều 10, Điều lệ trường
đại học được ban hành theo Quyết định số 153/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ quy định: “trường đại học được quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm theo quy định của pháp luật về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhà
trường, tổ chức các hoạt động đào tạo, khoa học, công nghệ, tài chính, quan hệ
quốc tế, tổ chức và nhân sự”. Ngày 10/12/2014, Quyết định số 70/2014/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học thay thế Quyết
định số 153/2003/QĐ-TTg đã tiếp tục ghi nhận nội dung về “quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm” của các trường đại học. Nghị quyết số 14/2004/NQ-CP
của Chính phủ ngày 02/11/2005 về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của
việc hoàn thiện chính sách phát triển giáo dục đại học theo hướng bảo đảm
quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của cơ sở giáo dục đại học, sự quản lý của
Nhà nước và vai trò giám sát, đánh giá của xã hội đối với giáo dục đại học;
theo đó, đổi mới cơ chế quản lý cần chuyển các cơ sở giáo dục đại học công
lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có tư cách pháp nhân, có quyền quyết
định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài
chính; xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước
đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập. Điều 14 Luật Giáo dục năm 2005
quy định về việc thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục.
Luật Giáo dục đại học được ban hành đã quan tâm tới vấn đề tự chủ của
các trường đại học, thể hiện trong các quy định về Hội đồng trường, Hội đồng
quản trị, Hiệu trưởng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học,
85
tuyển sinh, chương trình giáo dục, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh... Tại
khoản 1 Điều 32 Luật Giáo dục đại học quy định: các trường đại học tự chủ
trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính
và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất
lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ ở mức
độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất
lượng giáo dục.
Quyền tự chủ một cách đồng bộ, toàn diện của các cơ sở giáo dục đại
học là yếu tố quan trọng tạo ra môi trường thuận lợi, hợp pháp cho viên chức,
giảng viên trong trường đại học được thực hiện các quyền của mình, được tự
do phát triển chuyên môn nghề nghiệp và tài năng, sức sáng tạo.
Các quy định pháp lý về quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học
cần được thống nhất, nhất quán, không chỉ là việc ghi nhận quyền tự chủ của
các trường mà còn có cơ chế hỗ trợ thực hiện quyền tự chủ đó.
Quản lý nhà nước đối với các trường đại học nên thực hiện đối với các
nội dung có tính chất chiến lược, vĩ mô, ở các khâu chỉ đạo, điều phối và giám
sát, còn các khâu quản lý, tổ chức và thực hiện nên giao cho các trường đại
học chủ động.
Việc tăng cường quyền tự chủ cho các trường đại học cần được thực
hiện có lộ trình và có các mức độ tự chủ khác nhau đối với các trường khác
nhau. Bởi các trường đại học vốn đã khác nhau về lịch sử ra đời và phát triển,
kinh nghiệm và lĩnh vực hoạt động. Mặt khác, số lượng các trường đại học
phát triển nhanh chóng trong cả nước, nên điều kiện và năng lực để có thể sử
dụng và phát huy quyền tự chủ của mỗi trường rất khác nhau. Do đó có thể
quy định quyền tự chủ đầy đủ, thực sự cho các trường đại học có chất lượng
cao, có uy tín và tiềm lực mạnh, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các trường chưa
86
chứng minh được chất lượng và thể hiện được tiềm lực của mình.
3.2.1.3. Hoàn thiện các quy định khác có liên quan
Tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Viên chức để bảo đảm tương thích với
Luật Giáo dục, Luật Giáo dục Đại học cũng như đặc thù nghề nghiệp của
giảng viên (như trên đã nêu).
Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật hiện hành về Hợp đồng làm
việc của giảng viên theo hướng phân biệt rõ hơn “Hợp đồng làm việc” của
giảng viên với “Hợp đồng lao động” của người lao động khác. Bởi vì hợp
đồng làm việc của giảng viên (được điều chỉnh bởi Luật Viên chức năm 2010)
không có mấy điểm khác so với hợp đồng lao động (được điều chỉnh bởi Luật
Lao động năm 2012), thậm chí còn có nhiều quy định dẫn chiếu luật áp dụng
đối với Hợp đồng làm việc là Luật Lao động và pháp luật lao động nói chung.
Trong khi đó, đặc thù công việc, tính chất nghề nghiệp, vị trí lao động...của
giảng viên, viên chức có nhiều nét đặc thù, khác biệt so với người lao động
trong các lĩnh vực khác. Như vậy, giảng viên phải chịu sự điều chỉnh khắt
khe, bao trùm hơn bởi Luật chuyên ngành nhưng cũng bị điều chỉnh chồng
chéo thêm bởi các Luật chung của các lĩnh vực khác...
Mặt khác, nên quy định giảng viên làm việc theo hợp đồng xác định
thời hạn cũng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng một cách không hạn
chế giống như giảng viên làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn,
nhằm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, tự do quyết định việc làm giữa các
bên tham gia ký kết hợp đồng làm việc, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của giảng viên. Bởi chính quy luật vận động khách quan của xã hội, một nền
giáo dục xã hội hóa và hội nhập quốc tế rất cần hệ thống pháp luật về giảng
viên bảo đảm sự bình đẳng, công bằng đó cho giảng viên, cho “người thầy”
với một bên là Nhà trường thông qua Hợp đồng, văn bản thỏa thuận quyền và
nghĩa vụ giữa hai bên trong quan hệ về việc làm.
87
Quy định về số người làm việc và tinh giảng biên chế không được cứng
nhắc, máy móc ấn định một tỷ lệ như nhau cho các đơn vị vị sự nghiệp công
lập khác nhau.
3.2.2. Xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan trong thực
hiện pháp luật về giảng viên
3.2.2.1. Trách nhiệm của giảng viên
Thực tế cho thấy bản thân mỗi giảng viên chưa thực sự xem trọng việc
tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện các quy định của nhà nước liên quan đến
ngành nghề, công việc mà mình đang thực hiện. Nhiều giảng viên bị thực hiện
sai hoặc vô tình tiếp tay cho các vi phạm về chế độ làm việc, chính sách, phụ
cấp đối với giảng viên. Việc này xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như
giảng viên còn chưa được phổ biến đầy đủ các quy định pháp luật về giảng
viên, chưa có ý thức tìm hiểu, xem nhẹ việc thực hiện các quy định pháp luật
về giảng viên hoặc còn thiếu hiểu biết về các quy định pháp luật liên quan.
Thực hiện pháp luật về giảng viên giúp việc bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp
pháp của giảng viên, bảo đảm tốt hơn các quyền của cơ sở giáo dục đại học.
Bên cạnh đó, các giảng viên hiểu và nhận thức được rõ quyền, nghĩa vụ, vai
trò, trách nhiệm của cá nhân trong thực hiện nhiệm vụ của mình và cơ sở giáo
dục đào tạo. Khi bản thân mỗi giảng viên hiểu được điều này, họ sẽ có ý thức
nghiêm túc hơn, đầy đủ hơn trong quá trình thực hiện pháp luật về giảng viên.
Để pháp luật về giảng viên được thực hiện nghiêm chỉnh, đòi hỏi các
chủ thể pháp luật phải nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò của việc thực hiện
pháp luật về giảng viên. Mỗi giảng viên phải tự tìm hiểu các văn bản luật,
thực hiện tốt chủ trương, đường lối, văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành,
ý thức sâu sắc được trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình
thực hiện công việc.
3.2.2.2. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục, đào tạo
Trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách khu vực sự nghiệp dịch vụ công,
88
pháp luật hiện nay đã trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho Nhà trường
cũng như cho người đứng đầu cơ sở giáo dục, đào tạo này. Theo đó, Hiệu
trưởng trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương có quyền được xác định vị trí
việc làm, số lượng giảng viên, quyền tuyển dụng, ký Hợp đồng làm việc, phân
công, bố trí, sử dụng, đào tạo, điều động, luân chuyển, biệt phái, nghỉ hưu,
kéo dài thời gian làm việc, giải quyết thôi việc, ký kết tiếp hoặc chấm dứt
Hợp đồng làm việc, khen thưởng, xử lý, quản lý cũng như thực hiện các chế
độ, chính sách đối với viên chức Nhà trường nói chung, giảng viên Nhà
trường nói riêng.
Với vị trí, vai trò đó, Hiệu trưởng Nhà trường là người hoạch định
chiến lược, chính sách, ban hành các quy định và có quyền định rất nhiều
vấn đề liên quan đến giảng viên, từ việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, đãi
ngộ đến việc quản lý, khen thưởng, kỷ luật, chấm dứt hợp đồng làm việc.
Nếu Hiệu trưởng là người có ý thức, trách nhiệm, tâm huyết, có năng lực
kinh nghiệm, có chuyên môn và quản lý tốt, thì chính sách, quy định và việc
tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về giảng viên trong Nhà trường sẽ đạt
hiệu quả tốt và ngược lại.
Việc ban hành và đưa các quy định pháp luật về viên chức, về giảng
viên vào thực tiễn gắn liền với thẩm quyền, đồng thời gắn liền với trách
nhiệm của Hiệu trưởng Nhà trường. Đó là trách nhiệm của người đứng đầu
được quyền tự chủ nhưng cũng phải tự chịu trách nhiệm về các quyết định của
mình, quyền gắn liền với nghĩa vụ, “quyền càng rộng thì nghĩa vụ càng lớn”.
Trong trường hợp vi phạm, Hiệu trưởng Nhà trường sẽ bị xử lý theo quy định
của pháp luật.
Trong hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý giảng viên hiện nay tại
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương tuy đã có nhiều tiến bộ, song vẫn
chưa tương thích với cơ chế tự chủ của Nhà trường, còn nặng về tính hành
89
chính hơn là coi trọng các yếu tố liên quan tới chuyên môn nghề nghiệp, chưa
phát huy được tài năng, sức sáng tạo của giảng viên, viên chức. Việc sử dụng
giảng viên của người đứng đầu Nhà trường còn để xảy ra những hiện tượng
thiếu minh bạch, thiếu công bằng. Các quy định về tiền lương, nội dung quản
lý đối với viên chức, giảng viên còn khá chặt chẽ, quỹ lương hạn chế gây ảnh
hưởng lớn tới việc thu hút nhân sự, đặc biệt là những người có tài năng. Hoạt
động kiểm tra, giám sát, quản lý của Hiệu trưởng đối với viên chức, giảng
viên còn bị hạn chế do việc xác định vị trí việc làm của giảng viên còn gặp
nhiều khó khăn trong việc xây dựng và triển khai...
Qua những phân tích thực trạng nêu trên cho thấy cần có những giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người đứng đầu Nhà
trường nhằm thúc đẩy quá trình thực hiện pháp luật về viên chức đạt hiệu quả,
đem lại ý nghĩa thiết thực cho đơn vị và cho chính đội ngũ giảng viên của Nhà
trường. Đó là: Tiếp tục hoàn thiện văn phản pháp lý nhằm trao quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho người đứng đầu Nhà trường theo hướng quy định rõ,
thực quyền về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu, phân định rõ trách
nhiệm của tập thể, trách nhiệm của người đứng đầu và quy định về chức trách
của giảng viên ở trị trí nào, chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm ra sao để xác
định rõ mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, quan hệ giữa người đứng đầu và
cấp dưới; tiếp tục đổi mới cơ chế tuyển dụng, sử dụng, quản lý giảng viên,
viên chức, trong đó chú trọng trao quyền tự chủ của người đứng đầu Nhà
trường trong việc thu hút các “nhân tài tiềm năng” cho đơn vị; xây dựng cơ
chế, tăng cường thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của người đứng đầu
Nhà trường nhằm hạn chế khả năng xảy ra tiêu cực, lạm quyền, độc đoán, vi
phạm dân chủ (tăng cường hoạt động của cấp ủy Đảng, tổ chức Công đoàn,
Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên cũng như phát huy hiệu quả các quy chế dân
chủ trong Nhà trường; đồng thời đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra,
90
quản lý nhà nước của cơ quan cấp trên, của tổ chức thanh tra).
3.2.2.3. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về viên chức,
về giáo dục và đào tạo
Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về viên chức, giảng
viên, về giáo dục, đào tạo có tác động rất lớn tới việc thực hiện pháp luật về
giảng viên của Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
Hiện nay, Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về giảng
viên, về giáo dục. Bộ Nội vụ là cơ quan chuyên trách, có chức năng tham mưu,
giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về viên chức, về giảng viên. Bộ Tài
chính là cơ quan quản lý cơ chế, chế độ tài chính cho hoạt động sự nghiệp của
Nhà trường. Cơ quan Bảo hiểm Xã hội Việt Nam quản lý chế độ sau hoạt động
nghề nghiệp của giảng viên. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với các vấn đề về lao động, tiền lương, chính
sách đãi ngộ, giải quyết chế độ thôi việc, nghỉ hưu đối với giảng viên.
Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện việc xây dựng chiến lược phát triển
giáo dục đại học và các chính sách liên quan giáo dục, giúp Chính phủ quản
lý giáo dục đại học, giúp các quy phạm pháp luật về viên chức trong trường
đại học, cao đẳng được thực hiện thuận lợi, hiệu quả, thống nhất.
3.2.2.4. Trách nhiệm của xã hội
Xã hội với một nền kinh tế ổn định, không ngừng phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tạo điều kiện thuận lợi, nâng cao đời sống vật chất
của con người, thực hiện có hiệu quả chiến lược đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục đại học Việt Nam, đồng thời bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật
về giảng viên trong Nhà trường nói chung, trong các trường cao đẳng nói
riêng. Xã hội ấy với xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục, trên cơ sở
độc lập tự chủ, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo đảm định hướng xã
hội chủ nghĩa, thu hút nguồn lực có chất lượng cao để phát triển nền giáo dục
91
nước nhà đang là động lực, là nền tảng, là điều kiện, cơ sở bảo đảm cho quá
trình thực hiện pháp luật về giảng viên trong Nhà trường đạt được mục đích đề
ra, vận dụng được những kinh nghiệm, tri thức, công nghệ của các nước có nền
giáo dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc
tế về giáo dục của Việt Nam đã ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ tới quá trình
xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về giảng viên trong trường cao đẳng.
Trong đường lối, chính sách phát triển giáo dục, Đảng và Nhà nước ta
đã chú trọng tới “xã hội hóa giáo dục” và thực hiện nguyên lý giáo dục gắn
Nhà trường, gắn giáo dục với xã hội và giáo dục luôn luôn đáp ứng nhu cầu
xã hội. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng ta đã khẳng định “Các cấp ủy và tổ
chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế-
xã hội, các gia đình và các cá nhân có trách nhiệm tích cực góp phần phát
triển sự nghiệp giáo dục-đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi,
trong từng cộng đồng, từng tập thể....” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của
Ban chấp hành Trung ương khóa VIII). Xu hướng xã hội hóa dịch vụ giáo dục
tạo điều kiện thuận lợi cho toàn xã hội tham gia vào hoạt động của Nhà
trường, giúp Nhà trường gắn chặt với những nhu cầu, đòi hỏi của xã hội, đồng
thời tự kiểm định được tất cả hoạt động của mình, trên cơ sở khai thác nguồn
lực mạnh mẽ từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội để phát triển. Nhờ đó, pháp
luật về giảng viên trong trường cao đẳng được thực hiện hiệu quả hơn, bình
đẳng, dân chủ hơn.
3.2.3. Tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực
hiện pháp luật về giảng viên
3.2.3.1. Tăng cường minh bạch trong thực hiện pháp luật về giảng viên
Minh bạch trong thực hiện pháp luật về giảng viên được thể hiện thông
qua việc minh bạch chính sách, pháp luật về giảng viên cũng như cách thức tổ
92
chức thực hiện chính sách, pháp luật đó, sự tiếp cận dễ dàng, kịp thời, đầy đủ
các thông tin của việc thực hiện pháp luật về giảng viên. Đây là một trong
những yếu tố quan trọng để xây dựng thành công một nền giáo dục “xã hội
hóa” và “hội nhập quốc tế”, góp phần tích cực thu hút người có chuyên môn,
lòng yêu nghề có điều kiện dễ dàng tiếp cận nội dung, thủ tục cần thiết để trở
thành giảng viên, thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình, nâng cao ý
thức pháp luật trong quá trình hoạt động nghề nghiệp của mình.
Mặt khác, minh bạch trong thực hiện pháp luật về giảng viên còn là
một yêu cầu khách quan đối với Nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Bởi
trong xu thế phát triển chung, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, Nhà
trường phải nỗ lực không ngừng để thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm; đồng thời tạo điều kiện cho việc kiểm tra, giám sát, đánh giá của toàn
xã hội đối với hoạt động của Nhà trường, của giảng viên.
Minh bạch trong thực hiện pháp luật về giảng viên phải tạo ra cơ hội
cho các cá nhân, tổ chức tham gia về các nội dung quy định pháp luật về
giảng viên trong Nhà trường, về cách thức tổ chức thực hiện các quy định
pháp luật đó. Trên cơ sở tiếp nhận những ý kiến phản biện một cách có chọn
lọc, các đơn vị, cá nhân có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật về giảng
viên sẽ tìm ra những tồn tại, những bất cập trong quá trình thực hiện công
việc, có thể đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của việc thực hiện pháp luật về giảng viên.
3.2.3.2. Tăng cường trách nhiệm giải trình trong thực hiện pháp luật về
giảng viên
Ở nước ta, trong các văn bản quy định hiện hành về giáo dục đại học,
khái niệm “trách nhiệm giải trình” của nhà trường nói chung, “trách nhiệm giải
trình trong thực hiện pháp luật về giảng viên”chưa thực sự được làm rõ. Vì vậy,
các khái niệm này hầu như còn được nhìn nhận và thực hiện rất khác nhau,
93
nhất là giữa các trường cao đẳng tư thục và công lập. Chẳng hạn, đối với một
số trường tư thục, trách nhiệm này được thực hiện ngay từ ngày đầu thành lập,
với tư thế của “người phục vụ”, “người cung cấp dịch vụ”. Trong khi đó, đối
với các trường công lập, trách nhiệm này dường như chỉ là “báo cáo” với các
cấp quản lý, chủ yếu mang tính chất hình thức, chưa bảo đảm chất lượng.
Trách nhiệm giải trình của trường cao đẳng trong thực hiện pháp luật
về giảng viên trong điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của chúng ta có thể thể hiện
qua các hoạt động như: (i) công khai về các quy định, chế độ liên quan đến
giảng viên và cam kết thực hiện những nội dung đó; (ii) Xây dựng, hoàn thiện
và thực hiện đầy đủ các văn bản nội bộ đối với mọi hoạt động liên quan đến
giảng viên; (iii) Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo các cơ quan quản lý trường
cao đẳng, cơ quan giám sát và các thông tin công khai phải được cập nhật
thường xuyên, định kỳ.
Tăng cường trách nhiệm giải trình trong thực hiện pháp luật về giảng
viên có liên quan chặt chẽ đến việc công khai, minh bạch hóa thông tin.
Đây là một trong các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giảng
viên cần được chú trọng. Bởi trách nhiệm giải trình này không chỉ giúp cho
giảng viên, các tổ chức, cá nhân có liên quan nắm bắt được những nội dung
pháp luật quy định về quyền, nghĩa vụ, các chính sách, chế độ đãi ngộ đối
với mình mà còn hiểu và áp dụng được những quy định đó vào thực tiễn đời
sống một cách thuận tiện, đầy đủ, kịp thời. Đồng thời, trách nhiệm giải trình
này giúp cho các cơ quan có thẩm quyền có cơ sở dữ liệu để theo dõi, giám
sát, thực hiện chức năng quản lý nhà nước; giúp cho cộng đồng, cho xã hội
dễ dàng tiếp cận được các thông tin cần thiết một cách thường xuyên, định
kỳ, hữu ích.
Việc thực hiện trách nhiệm giải trình cũng là thước đo để đánh giá chất
lượng của trường cao đẳng, về mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà
94
trường trước giảng viên, trước xã hội, trước Nhà nước.
Tiểu kết chương 3
Thực hiện pháp luật về giảng viên có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam cũng như bảo đảm phát huy tài
năng, sức sáng tạo, tâm huyết của đội ngũ giảng viên trong tình hình mới.
Trên cơ sở thực trạng thực hiện pháp luật về giảng viên tại trường Cao
đẳng Sư phạm Trung ương đã phân tích ở chương 2, chương 3 của luận văn
đã đưa ra quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực của thực
hiện pháp luật về giảng viên.
Đó là các quan điểm: (1) Thực hiện pháp luật về giảng viên đồng bộ với
đổi mới giáo dục và đào tạo một cách căn bản, toàn diện; (2) Thực hiện pháp
luật về giảng viên chủ động, sáng tạo, thực chất, có hiệu quả; (3) Thực hiện
pháp luật về giảng viên phù hợp với thực tiễn từng cơ sở giáo dục, đào tạo
Xuất phát từ những quan điểm nêu trên, ba giải pháp bảo đảm thực hiện
pháp luật về giảng viên được đặt ra là: 1) Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
giảng viên và pháp luật có liên quan (Hoàn thiện pháp luật về giảng viên,
pháp luật về tự chủ của cơ sở giáo dục, đào tạo, các quy định pháp luật khác
có liên quan); 2) Xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan trong thực
hiện pháp luật về giảng viên (trách nhiệm của giảng viên; trách nhiệm của
người đứng đầu cơ sở giáo dục, đào tạo; Trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước về viên chức, về giáo dục và đào tạo; Trách nhiệm của xã hội);
(3)Tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện pháp luật
95
về giảng viên./.
KẾT LUẬN
Đội ngũ giảng viên giữ vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển
giáo dục đại học. Thực hiện pháp luật về giảng viên nhằm phát huy tài năng,
sự sáng tạo, năng động của đội ngũ giảng viên, góp phần nâng cao chất lượng
dịch vụ công trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo là vấn đề luôn được Đảng và
Nhà nước quan tâm và chú trọng tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
Với mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như phân tích, đánh
giá thực trạng thực hiện pháp luật về giảng viên của Trường Cao đẳng Sư
phạm Trung ương để đưa ra phương hướng, giải pháp bảo đảm cho việc thực
hiện pháp luật về giảng viên từ thực tiễn của Nhà trường, luận văn đã đề cập
tới những nội dung cơ bản sau:
1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận của việc thực hiện pháp luật về giảng
viên như: khái niệm, nội dung, đặc điểm của giảng viên, của thực hiện pháp
luật về giảng viên, bốn giai đoạn, bốn yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp
luật về giảng viên.
2. Khái quát về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và đội ngũ giảng
viên của Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương; thực trạng các giai đoạn
thực hiện pháp luật về giảng viên của Nhà trường, các kết quả đạt được,
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những kết quả cũng như những
hạn chế, tồn tại đó.
3. Trình bày và phân tích những quan điểm, đưa ra những giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật về giảng viên hiệu quả, đạt mục tiêu đặt ra. Trong đó,
tập trung làm rõ những giải pháp về hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
điều chỉnh đối với giảng viên; xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan
trong thực hiện pháp luật về giảng viên, nhấn mạnh trách nhiệm của bản thân
giảng viên, của người đứng đầu cơ sở giáo dục, đào tạo; tăng cường tính minh
96
bạch và trách nhiệm giải trình trong thực hiện pháp luật về giảng viên./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) (2013), Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8 (khóa XI) số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Thông tư số 12/2012/TT-BGDĐT ngày
03 tháng 4 năm 2012 hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong
ngành giáo dục, Hà Nội.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Thông tư số: 20/2013/BGDĐT ngày 06
tháng 6 năm 2013 ban hành quy định về bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp
vụ cho giảng viên các cơ sở giáo dục đại học, Hà Nội.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư số:47/2014/BGDĐT ngày 31
tháng 12 năm 2014 quy định chế độ làm việc đối với giảng viên ngày
31 tháng 12 năm 2014, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Thông tư số: 05/2016/TT-BGDĐT về
việc Quy định thời gian tập sự theo chức danh nghề nghiệp giáo viên,
giảng viên ngày 21 tháng 3 năm 2016, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Thông tư số:08/2018/TT-BGDĐT ngày
12 tháng 3 năm 2018 Quy định điều kiện, nội dung, hình thức xét thăng
hạng chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo
dục đại học công lập, Hà Nội.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ (2014), Thông tư liên tịch số:
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 28/11/2014 quy định mã số tiêu
chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở
97
giáo dục đại học công lập, Hà Nội.
8. Bộ Nội vụ (2011), Thông tư số 02/2011/TT-BNV ngày 24 tháng 01 năm
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4
năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội.
9. Bộ Nội Vụ (2012), Thông tư 12/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 quy
định về chức danh nghề nghiệp và thay đổi chức danh nghề nghiệp đối
với viên chức, Hà Nội.
10. Bộ Nội Vụ (2012), Thông tư 16/2012/TT-BNV về Quy chế thi, xét tuyển
viên chức; Quy chế thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên
chức và Nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp
đối với viên chức, Hà Nội.
11. Bộ Nội vụ (2018), Báo cáo số 4202/BC- BNV ngày 26/8/2018 về Tổng
kết thi hành Luật Viên chức (2012- 2017), Hà Nội.
12. Chính phủ (2010), Đề án “Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho
các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2010-2020” (ban hành theo
Quyết định số 911/QĐ-TTG ngày 17/6/2010), Hà Nội.
13. Chính phủ (2010), Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm
2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen
thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen
thưởng, Hà Nội.
14. Chính phủ (2011), Nghị định 54/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 về chế
độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo, Hà Nội.
15. Chính phủ (2012), Nghị định 29/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 về việc
tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức, Hà Nội.
16. Chính phủ (2015), Nghị định số 27/2015/NĐ-CP ngày 10/3/2015 quy định
98
về xét tặng danh hiệu “Nhà giáo nhân dân”, “Nhà giáo ưu tú”, Hà Nội.
17. Chính phủ (2017), Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm
2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
18. Chính phủ (2018), Nghị định 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 về
việc Sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên
chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ
hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập, Hà Nội.
19. Trần Ngọc Đường (chủ biên) (1998), Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Học viện Hành chính Quốc gia (2008), Tài liệu bồi dưỡng về quản lý
hành chính nhà nước, chương trình chuyên viên chính, Phần I.
21. Nguyễn Thị Thu Hương (2012), “Xây dựng đội ngũ giảng viên trong
trường đại học-Thực trạng và giải pháp”, Tạp chí khoa học, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Thu Hương (2015), Thực hiện pháp luật về viên chức
trong trường đại học ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Đặng Thị Thu Huyền (2013), Hoàn thiện pháp luật về nhà giáo ở Việt
Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
24. Nguyễn Thương Huyền (2016), Quản lý đào tạo, bồi dưỡng giảng viên
các trường cao đẳng công lập trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn thạc sĩ, Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội.
25. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận chung
99
về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Vũ Đức Lễ (2015), Chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các
trường đại học công lập ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia.
27. Lê Thị Quỳnh Nga (2011), Pháp luật về viên chức ở Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
28. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.
29. Quốc hội khóa VIII (2003), Luật thi đua, khen thưởng ngày 26/11/2003
và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng,
khen thưởng ngày 14/06/2005, luật sửa đổi bổ sung một số điều của
luật thi đua, khen thưởng số 39/2013/QH13 ngày 16/11/2013, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Quốc hội khóa XI (2005), Luật Giáo dục, Hà Nội.
31. Quốc hội khóa XIV (2019), Luật Giáo dục, Hà Nội.
32. Quốc hội khóa XII (2010), Luật Viên chức, Hà Nội.
33. Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật
Giáo dục 2005 sửa đổi và bổ sung năm 2009 (Luật số 44/2009/QH12,
ngày 25/11 /2009 của Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 6), Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội.
34. Phạm Thị Tân và Đặng Thị Hoa (2018), “Các yếu tố ảnh hưởng đến
động lực làm việc của giảng viên trường Đại học Lâm nghiệp Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ lâm nghiệp.
35. Trần Thị Trinh (2018), Chất lượng viên chức các trường mầm non trên
địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Học viện
Hành chính.
100
36. Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương (2013-2018) Báo cáo số liệu
khen thưởng viên chức.
37. Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương (2015 - 2018), Báo cáo tổng
kết năm học.
38. Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương (2015), Quyết định số 504/QĐ-
CĐSPTW ngày 14 tháng 5 năm 2015 về việc ban hành Quy định chức
năng, nhiệm vụ của các đơn vị trực thuộc Trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương, Hà Nội.
39. Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương (2019), Đề án tái cơ cấu
trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(2013), Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật (Tài liệu môn học Nhà
101
nước và pháp luật), Nxb. Chính trị Hành chính.