ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN DŨNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN DŨNG HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan

Hà Nội – 2020

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

riêng tôi. Các số liệu, sử dụng phân tích trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,

chính xác và trung thực cũng như có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng

quy định. Mọi kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự tìm hiểu, phân tích

một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Những kết luận

khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình

khoa học nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

1

Nguyễn Tuấn Dũng

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục bảng số liệu

Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 5

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI

CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ ........................... 14

1.1 Khái niệm hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Luật Hình

sự .............................................................................................................................. 14

1.1.1 Khái niệm hình phạt bổ sung ........................................................................... 14

1.1.2. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm

sở hữu ........................................................................................................................ 16

1.2. Lịch sử lập pháp của các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu

trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ tháng 8/1945 đến trước khi có Bộ luật

hình sự năm 2015 ...................................................................................................... 24

1.2.1. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu giai đoạn từ tháng

8/1945 cho tới pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất năm 1985 .................... 25

1.2.2. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu giai đoạn từ năm 1985

đến năm trước pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai năm 1999 ...................... 27

1.2.3. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu Giai đoạn từ sau pháp

điển hóa lần thứ hai năm 1999 đến năm 2015 .......................................................... 28

1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về hình phạt bổ sung

đối với các tội xâm phạm sở hữu .............................................................................. 31

1.3.1. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

Pháp .......................................................................................................................... 31

2

1.3.2. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

Hoa Kỳ....................................................................................................................... 32

1.3.3. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

Trung Quốc ............................................................................................................... 34

1.3.4. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

Singapore .................................................................................................................. 35

1.3.5. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

Liên Bang Nga ........................................................................................................... 36

1.3.6. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

Thụy Điển .................................................................................................................. 38

1.3.7. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật hình sự

Nhật Bản .................................................................................................................... 38

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 41

Chƣơng 2: HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ

HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN

ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................... 43

2.1 Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam

hiện hành .................................................................................................................. 43

2.2 Thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn thành phố Hà Nội.......................................................................................... 55

2.3 Những tồn tại, hạn chế về việc áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các tội

xâm phạm sở hữu và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. ............................... 58

Tiểu kết chƣơng II ................................................................................................... 69

Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP

DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI

PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU .............................................................................. 70

3

3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về hình

phạt bổ sung đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu ............................................... 70

3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung

năm 2017 về hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu ........................... 73

3.3. Các kiến nghị, giải pháp khác về nâng cao hiệu quả công tác áp dụng pháp luật

các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu ................................ 76

Tiểu kết chƣơng III ................................................................................................. 88

KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................................. 89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 91

4

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề

1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Hiến pháp 2013 quy định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì

Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; các quyền con

người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được

công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; mọi

người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời

sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong thời gian qua, cùng với

công cuộc xây dựng thể chế, phát triển nền kinh tế, xã hội, Đảng và Nhà nước

ta đã có nhiều chủ trường, chính sách trong việc hoàn thiện hệ thống pháp

luật, bởi pháp luật là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng thành công Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trong khoa học pháp lý hình sự, tội phạm và hình phạt là hai vấn đề cơ

bản, quan trọng nhất, có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó, tội phạm

là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những khách thể được Bộ

luật hình sự bảo vệ do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân

thương mại thực hiện, có lỗi và phải bị xử lý hình sự, hình phạt là chế tài

(biện pháp cưỡng chế) mang tính nghiêm khắc nhất so với các chế tài khác

trong hành chính, kinh doanh, lao động…tác động một cách mạnh mẽ và trực

tiếp đến quyền của người, pháp nhân bị áp dụng. Việc quyết định áp dụng loại

hình phạt, mức hình phạt đúng, phù hợp, cụ thể là kết quả của quá trình đấu

tranh chống tội phạm, đảm bảo được mục đích của hình phạt không chỉ nhằm

trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức

5

tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới;

giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa

và đấu tranh chống tội phạm. Bộ luật hình sự 2015 quy định hệ thống hình

phạt thành hai phần bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung do

Tòa án áp dụng đối với hai chủ thể bao gồm người và pháp nhân thương mại

phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân

thương mại đó. Việc lựa chọn áp dụng hình phạt chính và hình phạt bổ sung

kèm theo sẽ phát huy được vai trò của những biện pháp tác động của Nhà

nước trong việc ấn định trách nhiệm phải chấp hành của người, pháp nhân

thương mại phạm tội đối với hành vi, hậu quả tội phạm đã gây ra.

Qua nghiên cứu hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam và thực

tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án nhận thấy các hình phạt bổ sung được áp

dụng đối với nhiều loại tội danh khác nhau, căn cứ vào những đặc trưng của

tội danh mà lại có những hình phạt bổ sung khác nhau, trong đó đối với các

tội phạm về xâm phạm sở hữu trong bộ luật hình sự thì hệ thống các hình phạt

bổ sung được áp dụng cũng rất đa dạng và linh hoạt, thể hiện tính chất trừng

trị, răn đe đối với người phạm tội cũng như phòng ngừa tội phạm, tuy nhiên

nhận thức về vị trí, vai trò của các hình phạt bổ sung trong quá trình áp dụng

của một số nơi còn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau, từ đó có thể dẫn

đến những sai lầm trong việc đánh giá đúng, hiệu quả khi áp dụng đối với

người phạm tội xâm phạm sở hữu và như vậy trong nhiều trường hợp có thể

mục đích của hình phạt sẽ không đạt được như mong muốn.

Trải qua những lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự, hệ thống hình phạt

bao gồm các hình phạt bổ sung đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích

cực nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên do

việc nhận thức và áp dụng pháp luật của Tòa án trong thực tiễn xét xử còn

khác nhau xuất phát từ bất cập của các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành

6

nên rất cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về hệ thống hình phạt mà

trong đó đặc biệt chú trọng đến các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm

xâm phạm sở hữu. Từ đó hoàn thiện được cơ sở lý luận về các hình phạt bổ

sung cũng như thống nhất được cách thức áp dụng chung nhất cho các cơ

quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội xâm

phạm sở hữu. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu của Chiến lược cải cách

tư pháp, góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, đảm bảo hiệu quả, hiệu lực

của các hình phạt bổ sung trong thực tiễn cũng như nâng cao chất lượng của

hoạt động áp dụng pháp luật.

Từ tất cả những phân tích trên, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài

“Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự

Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu thực hiện luận văn thạc sỹ của mình.

1.2. Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu tổng quát

Luận văn sẽ làm sáng tỏ về mặt khoa học của các hình phạt bổ sung, so

sánh với pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới về các hình phạt

bổ sung được áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu, chỉ ra được thực tiễn

áp dụng pháp luật của Tòa án trong hoạt động xét xử để từ đó có những định

hướng tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật góp phần tạo ra nhận thức chung

về lý luận và quá trình áp dụng pháp luật của chế định này.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát đã được chỉ ra, Luận văn sẽ thực hiện

những mục tiêu cụ thể sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục kế thừa, phát huy các kết quả của những quan điểm,

công trình nghiên cứu đã được công bố trước đây; phân tích quá trình hình

7

thành và phát triển thông qua những lần pháp điển hóa Bộ luật Hình sự,

nghiên cứu pháp luật so sánh của một số quốc gia trên thế giới có nền pháp

luật điển hình với Luật hình sự Việt Nam về các Hình phạt bổ sung đối với

các tội xâm phạm sở hữu từ đó đi đến thống nhất nhận thức chung về các hình

phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam nói chung và hình phạt bổ sung đối

với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.

Thứ hai, nghiên cứu và chỉ ra được những nội dung cơ bản về các hình

phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam hiện hành đối với các tội xâm phạm

sở hữu, đồng thời tổng kết thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung đối với

các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án trong hoạt động xét xử, chỉ ra những tồn

tại, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế đó.

Thứ ba, Phân tích nhu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp luật trong thời gian

tới, trên cơ sở kết quả nghiên cứu của chương 1 và 2, luận văn có đưa ra một

số kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt bổ sung đối

với các tội xâm phạm sở hữu và một số giải pháp mạng tính đồng bộ khác

nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm

sở hữu.

1.3. Tình hình nghiên cứu

Trải qua ba lần pháp điển hóa Bộ luật hình sự, các hình phạt bổ sung

đối với các tội xâm phạm sở hữu đã được ghi nhận và liên tục hoàn thiện theo

thời gian nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn. Trải qua hơn 30 năm

với 03 Bộ luật hình sự, nhận thức lý luận và hoạt động áp dụng pháp luật đã

có nhiều thay đổi, trong đó có các quy định về hình phạt bổ sung gắn với các

tội xâm phạm sở hữu. Trong thời gian qua, nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa

học và các tác giả đã có những luận văn tiến sĩ, luận văn thạc sỹ, sách, giáo

8

trình cùng rất nhiều các bài viết được công bố trên các tạp chí khoa học

chuyên ngành liên quan đến các hình phạt bổ sung. Trong đó đáng chú ý là

những công trình sau:

Về giáo trình, sách chuyên ngành: “Những vấn đề cơ bản trong khoa

học luật hình sự (Phần chung)” của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, 2019; “Chương XV - Khái niệm hình phạt, hệ thống hình

phạt và các biện pháp tư pháp”, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam

(Phần chung) của PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ

biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007);

“Hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam” của PGS.TS. Trịnh Quốc

Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; “Nghiên cứu hình phạt trong luật

hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người” của PGS.TS Trịnh

Quốc Toản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015; “Tìm hiểu về hình phạt

và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” của ThS. Đinh Văn

Quế, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000; “Chương 8 - Khái niệm hình phạt và hệ

thống hình phạt”, Trong sách: Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình

sự Việt Nam (GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà

Nội, 199. “Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam” của Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2013; “Giáo trình luật hình

sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân năm

2018; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 Phần thứ nhất – Những

quy định chung” của tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Thông tin và truyền thông

năm 2017;“Từ điển Luật học năm 1999”, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

Về luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ gồm có: “Các hình phạt bổ sung

trong luật hình sự Việt Nam” của Trịnh Quốc Toản, Luận án tiến sỹ năm

2010, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; “Hình phạt bổ sung trong Luật

hình sự Việt Nam đối với các tội phạm về ma túy – trên cơ sở thực tiễn địa

9

bàn tỉnh Thái Nguyên” của Trương Thị Dung, Luận văn thạc sỹ năm 2017,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; “Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ

sung trong luật hình sự Việt Nam” của Nguyễn Thị Dung, Luận văn thạc sỹ

năm 2014, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. “Hình phạt tiền trong luật

hình sự Việt Nam” của Phùng Thị Hải Ngọc, Luận văn thạc sỹ năm 2015,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự

và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” Lê Quang Chiều, Luận văn thạc sỹ

năm 2012, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. “Các hình phạt không tước

tự do trong Luật hình sự Việt Nam” của Lê Khánh Hưng, Luận văn thạc sỹ

năm 2010, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. “Áp dụng hình phạt bổ

sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang” của

Nghiêm Đình Long, Luận văn thạc sỹ năm 2018, Học viện Khoa học xã hội –

Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

Tài liệu nghiên cứu là các bài viết đăng trên tạp chí: “Về vai trò của

hình phạt bổ sung trong Luật hình sự”, Trịnh Quốc Toản, ĐHQGHN, Luật

học 28 (2012); “Hình phạt bổ sung trong tiến trình phát triển của Luật hình

sự Việt Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2005;

“Các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng hoàn

thiện”, Dương Tuyết Miên, Tòa án nhân dân số 4/2009; “Hình phạt bổ sung

trong tiến trình phát triển của Luật hình sự Việt Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp

chí Khoa học ĐHQGHN số 4 năm 2004; “Bàn về hình phạt bổ sung đối với

người bị xét xử được hưởng án treo theo BLHS 1999” của Huỳnh Văn Út,

Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 năm 2013; “Hình phạt bổ sung và thực tiễn áp

dụng”, Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí tòa án nhân dân số 04 năm 2007; “Lý luận và

thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung quản chế, tước một hoặc một số quyền

công dân theo quy định của Bộ luật Hình sự”, Vũ Thành Long, Tạp chí Tòa

án nhân dân số 11 năm 2007; “Các hình phạt bổ sung trong BLHS 1999 và

10

hướng hoàn thiện”, Dương Tuyết Miên, Tạp chí Tòa án nhân dân số 08 năm

2009; “ Hình phạt bổ sung – Thực trạng và kiến nghị”, Nguyễn Quang Hiền,

Tạp chí Nghề luật số 03 năm 2015; “Phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ

sung trong LHS nước ta và những kiến nghị hoàn thiện”, Trịnh Quốc Toản,

tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2006; “Về khái niệm và đặc điểm của

hình phạt bổ sung trong LHS”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học

ĐHQGHN số 1 năm 2009; “Nhu cầu và những quan điểm cơ bản hoàn thiện

chế định hình phạt bổ sung trong LHS Việt Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí

Khoa học ĐHQGHN số 4 năm 2009; “Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ

sung”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 23 năm 2009; “Về

tồn tại, hạn chế của chế định hình phạt bổ sung trong BLHS 1999”, Trịnh

Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 2 năm 2010; “Những kiến nghị

và giải pháp hoàn thiện hình phạt bổ sung trong BLHS 1999 và nâng cao hiệu

quả của chế định này trong thực tiễn áp dụng”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí

Khoa học ĐHQGHN số 3 năm 2010; “Lịch sử của chế định hình phạt bổ

sung trong LHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí

Khoa học ĐHQGHN số 2 năm 2010; “Về những tồn tại và hạn chế cuả chế

định hình phạt bổ sung trong BLHS hiện hành”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí

Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2011; “Những kiến nghị hoàn thiện các quy

định về hình phạt bổ sung trong BLHS năm 1999”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí

Khoa học ĐHQGHN số 7 năm 2011; “Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung”,

Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 3 năm 2012.

Nội dung các công trình, bài viết trên đã có sự nghiên cứu rất sâu sắc

về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung, trong đó

phải kể đến Luận án tiến sĩ “Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt

Nam” của TS Trịnh Quốc Toản năm 2010. Đây là công trình đã thể hiện được

11

đầy đủ và chuyên sâu về các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam,

công trình nghiên cứu này cùng với các nguồn tài liệu khác sẽ là nguồn tài

liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn này.

1.4. Tính mới và những đóng góp của luận văn

Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ tiếp tục đưa ra những luận điểm

mới để tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận của các hình phạt bổ sung trong luật

hình sự Việt Nam, bên cạnh đó có những phân tích chuyên sâu về đặc điểm

của Hình phạt bổ sung đối với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu; luận văn có

những phân tích về thực tiễn hoạt động xét xử của Tòa án địa bàn thành phố

Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 cũng như so sánh với

pháp luật hình sự một số nước trên thế giới trong việc áp dụng các hình phạt

bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu, từ đó đưa ra những kiến nghị tiếp

tục hoàn thiện pháp luật. Do đó, luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo

cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên

cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Tư pháp hình sự, cũng như góp

phần phục vụ công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình

sự trong việc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu, cũng như

công tác giáo dục, cải tạo những người phạm vào các tội này ở nước ta hiện

nay.

1.5. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu

1.5.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài Luận văn là một số vấn đề lý luận và

thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam đối với

các tội xâm phạm sở hữu; trong đó tập trung nghiên cứu những quy định về

các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm

2017 đối với các tội xâm phạm sở hữu và thực tiễn áp dụng của Tòa án trong

12

hoạt động xét xử. Luận văn cũng nghiên cứu lịch sử lập pháp của Việt Nam

và kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới nhằm làm sáng tỏ

những đặc điểm chung của Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở

hữu trong pháp luật hình sự.

1.5.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ

sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc

độ pháp lý hình sự. Ngoài ra, luận văn còn phân tích thực tiễn xét xử trên

phạm vi thành phố Hà Nội trong các năm gần đây (từ 2014-2018), nhằm giải

quyết các nhiệm vụ nghiên cứu.

1.5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử, kết hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách

pháp luật của Nhà nước. Luận văn cũng sử dụng linh hoạt các phương pháp

nghiên cứu cụ thể, tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê, logic, kết hợp với

các phương pháp khác như tổng kết thực tiễn, chuyên gia, điều tra xã hội học.

Tùy từng nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sẽ áp dụng

13

phương pháp nghiên cứu phù hợp, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu.

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT BỔ SUNG

ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong

luật hình sự

1.1.1. Khái niệm hình phạt bổ sung

Tội phạm và hình phạt là những chế định quan trọng nhất của Luật Hình

sự, trong đó hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà

nước, được Luật Hình sự quy định, do Tòa án áp dụng đối với chủ thể bị kết

tội bằng một bản án và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi

ích của họ nhằm trừng trị, giáo dục, cải tạo họ và đảm bảo cho Luật Hình sự

thực hiện được nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm [30].

Hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, tuy

hình phạt bổ sung không đóng vai trò quyết định trong công cuộc đấu tranh

phòng, chống tội phạm nhưng vẫn có ý nghĩa quan trọng trong phạm vi ảnh

hưởng của nó. Hình phạt bổ sung là một bộ phận không thể tách rời của Hệ

thống hình phạt – hệ thống các biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc

nhất của Nhà nước được quy định trọng Pháp luật hình sự. Hình phạt bổ sung

cũng là chế định không thể thiếu trong hệ thống các công cụ, biện pháp của

Nhà nước tới tội phạm. Bên cạnh những hình phạt chính, các hình phạt bổ

sung có tác dụng bổ khuyết, hỗ trợ hình phạt chính trong việc trừng trị, giáo

dục, cải tạo người bị kết án hình sự và giáo dục cộng đồng về ý thức đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Trong một số trường hợp, Hình phạt bổ sung còn

giúp Tòa án khi xét xử có được sự linh hoạt khi phải quyết định có nên áp

dụng Hình phạt bổ sung hay không hoặc nên lựa chọn loại Hình phạt bổ sung

nào đối với bị cáo trong từng vụ án hình sự cụ thể. Sự linh hoạt này có ý

14

nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình

sự trong Luật Hình sự.

BLHS Việt Nam hiện hành không có quy phạm làm rõ, định nghĩa chính

xac về Hình phạt bổ sung, các định nghĩa, khái niệm dưới đây của các học giả

nghiên cứu khoa học Luật Hình sự sẽ giúp chúng ta tiếp cận, hiểu rõ hơn về

khái niệm của chế định này:

PGS.TS Trịnh Quốc Toản từng quan niệm: Hình phạt bổ sung là biện

pháp cưỡng chế nhà nước được quy định trong luật hình sự, do Tòa án nhân

danh nhà nước tuyên kèm theo hình phạt chính trong bản án kết tội với người

bị kết án, tước bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của họ hoặc đạt

ra những nghĩa vụ pháp lý nhất định đối với họ nhằm củng cố, tăng cường

hiệu quả của hình phạt chính và phòng ngừa tội phạm [42, tr 142-150].

PGS.TS. Trần Văn Độ quan niệm: “HPBS là hình phạt được áp dụng

kèm theo Hình phạt chính nhằm tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình

phạt, đáp ứng mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng ngừa chung

và phòng ngừa riêng.” [63, tr 8].

TS. Uông Chu Lưu thì định nghĩa: “HPBS là biện pháp cưỡng chế của

Nhà nước được quy định trong BLHS do Tòa án áp dụng đối với người phạm

tội, phản ánh sự đánh giá của nhà nước về hành vi phạm tội và người đã thực

hiện hành vi đó.” [62, tr 16].

GS.TS. Võ Khánh Vinh lại cho rằng: “HPBS là hình phạt được bổ sung

thêm vào Hình phạt chính và không được tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên

kèm theo một Hình phạt chính. Tùy theo từng trường hợp cụ thể của vụ án,

kèm theo một Hình phạt chính, Tòa án có thể tuyên một hoặc vài HPBS.” [61,

tr 113].

Sau quá trình tiếp thu, phân tích các tư tưởng, quan niệm ở trên và theo

15

những lý luận khoa học về đặc điểm, nội dung, hình thức, ý nghĩa của Hình

phạt bổ sung, tác giả đưa ra nhận định về khái niệm HPBS như sau:

Hình phạt bổ sung là loại hình phạt được quy định trong Luật Hình sự

mà sau khi đã lựa chọn được hình phạt chính thì Tòa án có thể hoặc bắt buộc

phải lựa chọn để áp dụng thêm đối với người hoặc pháp nhân thương mại bị

kết án nhằm hỗ trợ cho Hình phạt chính đạt được mục đích phòng ngừa

chung và phòng ngừa riêng.

1.1.2. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt bổ sung đối với các tội xâm

phạm sở hữu

1.1.2.1. Khái niệm và các đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu

Đầu tiên để hiểu về hệ thống các hình phạt bổ sung được nghiên cứu

trong luận văn này chúng ta phải xác định được nội dung và bản chất của các

tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam.

Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do

người đủ độ tuổi chịu trách nhệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự

thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại hoặc đe dọạ gây thiệt hại cho

quan hệ sở hữu được Luật Hình sự bảo vệ.

Tội xâm phạm sở hữu là tội xâm phạm quyền sở hữu của người. Tội xâm

phạm sở hữu có thể được phân thành ba nhóm. Nhóm các tội chiếm đoạt là

nhóm chiếm số đông (8 tội) và có tính điển hình. Nhóm tội có mục đích tư lợi

nhưng không có tính chiếm đoạt gồm 2 tội và nhóm tội không có mục đích tư

lợi gồm 3 tội [65, tr 200].

Theo Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì các tội xâm phạm

sở hữu quy định các loại hành vi khách quan ở các dạng sau đây:

+ Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi của một người phạm tội cố ý

16

chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ

thể khác thành tài sản “của mình” hoặc của người khác mà mình quan tâm

[30].

+ Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản là hành vi cố tình không giao tài

sản do ngẫu nhiên mà chiếm hữu được (ví dụ như: nhặt được, được chuyển

khoản nhầm,…) sau khi chủ tài sản hay người quản lý hợp pháp tài sản hoặc

cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.

+ Hành vi sử dụng trái phép là vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác

mà khai thác giá trị, giá trị sử dụng các tài sản mà không được phép, không

được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc người có chức năng quản lý về nghiệp

vụ đối với loại tài sản bị khai thác trái phép đó.

+ Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản là những hành vi được thể hiện

thông qua đối tượng tác động làm mất hoàn toàn giá trị, giá trị sử dụng của tài

sản (hủy hoại); làm mất giá trị từng phần có thể khôi phục được (làm hư

hỏng).

+ Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản là thiếu trách

nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước hoặc vô ý gây thiệt

hại nghiêm trọng đến tài sản.

Các hành vi xâm phạm sở hữu có thể được thể hiện bằng hành động hoặc

không hành động. Riêng các tội phạm có tính chất chiếm đoạt chỉ có thể được

thực hiện bằng hành động. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và

được mô tả, khái quát thành những tội danh cụ thể.

Từ các đặc điểm của hành vi khách quan khác nhau như trên, có thể phân

loại Tội xâm phạm sở hữu thành các loại:

- Nhóm tội phạm có tính chất chiếm đoạt gồm 8 tội danh:

17

+ Tội cướp tài sản (Điều 168);

+ Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169);

+ Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170);

+ Tội cướp giật tài sản (Điều 171);

+ Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172);

+ Tội trộm cắp tài sản (Điều 173);

+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174);

+ Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175).

- Nhóm tội có mục đích tư lợi không có tính chất chiếm đoạt gồm 2 tội

danh:

+ Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176);

+ Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177).

- Nhóm tội không có tính vụ lợi, không chiếm đoạt gồm 3 tội danh:

+ Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178);

+ Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan,

tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179);

+ Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180).

1.1.2.2. Khái niệm và các đặc điểm của hình phạt bổ sung đối với các tội xâm

phạm sở hữu

Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu là những hình phạt

do Nhà nước quy định trong Bộ luật Hình sự, có thể được Tòa án áp dụng

kèm theo hình phạt chính đối với các tội phạm thuộc chương XVI phần Các

tội phạm nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính đạt được mục đích phòng ngừa

18

chung và phòng ngừa riêng.

Đối với các tội xâm phạm sở hữu, phần các tội phạm của Bộ luật hình sự

2015 quy định 05 hình phạt bổ sung có thể được áp dụng đối với nhóm tội

này là

- Phạt tiền khi không áp dụng là Hình phạt chính;

- Quản chế;

- Cấm cư trú;

- Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản;

- Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định.

* Những đặc điểm của Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm

sở hữu

Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trước hết sẽ mang

những đặc điểm chung của Hình phạt bổ sung với vai trò đứng bên cạnh, hỗ

trợ Hình phạt chính như sau:

Thứ nhất, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu không

tuyên độc lập mà chỉ được áp dụng kèm theo Hình phạt chính đối với mỗi loại

tội phạm cụ thể [64, tr 49-61].

Khoản 3 Điều 32 quy định “đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị

áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt

bổ sung”, đây là điểm khác nhau cơ bản của Hình phạt chính và Hình phạt bổ

sung được quy định rất rõ ràng trong Bộ luật Hình sự. Hình phạt bổ sung

không được áp dụng độc lập mà chỉ có thể được áp dụng kèm theo Hình phạt

chính, nếu như bị cáo không được tuyên áp dụng Hình phạt chính thì đương

nhiên không được áp dụng Hình phạt bổ sung.

Hình phạt bổ sung vốn được coi là những hình phạt không có khả năng

19

thể hiện đầy đủ sự phản ứng của nhà nước không được áp dụng một cách độc

lập và chỉ được tuyên kèm với loại hình phạt chính nào đó do BLHS quy định

[42, tr 142-150]. Do đó, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu

cũng chỉ có thể được áp dụng kèm theo Hình phạt chính khi có điều luật cụ

thể nào đó trong Chương XIV BLHS năm 2015 quy định chứ không phải

được áp dụng kèm với bất kỳ hình phạt chính nào.

Thứ hai, Hình phạt bổ sung không được áp dụng đối với tất cả các tội

xâm phạm sở hữu quy định trong Chương XIV BLHS năm 2015. Về nguyên

tắc, hình phạt bổ sung chỉ được phép áp dụng đối với những tội phạm do nhà

làm luật quy định. Trong Bộ luật hình sự, không phải tội phạm nào cũng bị

quy định áp dụng hình phạt bổ sung, trong tất cả các tội xâm phạm sở hữu

quy định tại Chương XIV, mặc dù phần lớn đều được nhà làm luật quy định

về việc áp dụng hình phạt bổ sung, song cũng có tội trong số đó lại không có

quy định này.

Thứ ba, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu là biện pháp

cưỡng chế Nhà nước ít nghiêm khắc hơn so với Hình phạt chính được áp

dụng đối với nhóm tội phạm này [64, tr 49-61].

Vai trò của Hình phạt bổ sung là tăng cường, củng cố hiệu quả cho Hình

phạt chính nên tất yếu tính nghiêm khắc của Hình phạt bổ sung không thể

nặng hơn so với Hình phạt chính được. Tuy vậy, đối với các tội xâm phạm sở

hữu Bộ luật Hình sự 2015 vẫn có một số quy định Hình phạt bổ sung có tính

nghiêm khắc hơn so với Hình phạt chính (Ví dụ như các Hình phạt chính là

phạt tiền chỉ từ 10 triệu – 50 triệu hoặc cải tạo không giam giữ mà Hình phạt

bổ sung lại là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định).

Về bản chất, Hình phạt chính là biện pháp cưỡng chế có thể tước đi tính

20

mạng, tự do thân thể, cách ly người bị kết án ra khỏi xã hội thì Hình phạt bổ

sung không đem đến những hậu quả mang tính răn đe, trừng trị như vậy mà

chủ yếu hướng về phòng ngừa, cải tạo, giáo dục người bị kết án nhiều hơn. Ở

đây chúng ta có thể thấy rõ được mức độ nghiêm khắc thấp hơn của Hình phạt

bổ sung so với Hình phạt chính.

Thứ tư, Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số Hình phạt bổ sung kèm

theo một Hình phạt chính đối với mỗi tội phạm [64, tr 49-61].

Đây là đặc điểm rất đặc trưng khác với Hình phạt chính của Hình phạt

bổ sung, Khoản 3 Điều 32 đã quy định “đối với mỗi tội phạm, người phạm tội

chỉ bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng một hoặc một số

hình phạt bổ sung”. Tuy nhiên, Tòa án chỉ có thể áp dụng Hình phạt bổ sung

chỉ khi có cơ sở là điều luật về tội phạm đó phải quy định được phép áp dụng

Hình phạt bổ sung.

Thứ năm, Hình phạt bổ sung không được áp dụng đối với người bị kết án

là người dưới 18 tuổi phạm tội [64, tr 49-61].

Khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định không áp dụng

hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, bởi vì Luật Hình sự

Việt Nam không coi đối tượng dưới 18 tuổi là người có được năng lực trách

nhiệm hình sự như người trưởng thành.

Có thể nhận thấy việc áp dụng Hình phạt bổ sung đối với người bị kết án

là người dưới 18 tuổi làm cho hiệu quả của hình phạt không đạt được, thậm

chí điều này còn được chứng minh trong thực tiễn vì khi nhưng đối tượng là

các em lứa tuổi dưới 18 phải chịu những biện pháp cưỡng chế sẽ bị tác động

xấu về cả tinh thần lẫn thể chất hoặc bị tước đi một phần tự do khiến cho quá

trình phát triển về nhân cách, năng lực không thể được diễn ra ở trong một

môi trường lành mạnh, tự nhiên.

21

Người dưới 18 tuổi là những chủ thể mà quá trình phát triển về tâm thức,

trí tuệ, thế giới quan không thực sự tương xứng với sự phát triển của thể chất,

chính vì sự biến đổi phức tạp về sinh học này dẫn đến những năng lực trách

nhiệm hình sự còn hạn chế và khó có thể đánh giá chính xác yếu tố lỗi của

hành vi. Việc quy định không áp dụng Hình phạt bổ sung đối với đối tượng

này đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của các nhà làm luật nước ta.

Thứ sáu, Hình phạt bổ sung không đòi hỏi một bộ máy thi hành án cồng

kềnh, tốn kém [42, tr 145]:

Trái với thi hành Hình phạt chính, việc thi hành Hình phạt bổ sung được

thực hiện rất đơn giản, không tốn kém của cải Nhà nước mà lại phát huy được

vai trò của chính quyền khu vực, chính quyền địa phương và hơn nữa là toàn

thể quần chúng xung quang người bị kết án trong việc giáo dục, đưa người

phải chấp hành án trở lại với cộng đồng xã hội và ngăn ngừa họ phạm tội

phạm mới. Đặc điểm này của Hình phạt bổ sung chính là ưu điểm vượt trội so

với thi hành án Hình phạt chính phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng, Tòa án và cơ quan thi hành án và để đảm bảo tính thực

thi, hiệu quả thì Nhà nước phải bỏ ra rất nhiều kinh phí của ngân sách cho

những hoạt động này, đôi khi dẫn đến những tiêu cực trong thực tiễn thi hành

án rất bất cập.

Ngoài ra, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu cũng có

những đặc điểm riêng biệt như sau:

Thứ nhất, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu chỉ được

quy định tùy nghi áp dụng mà không phải là bắt buộc áp dụng. Đối với các

hình phạt bổ sung nói chung, Bộ luật hình sự Việt Nam có hai hình thức quy

định: một là bắt buộc áp dụng và hai là có thể áp dụng [66]. Theo đó có nhiều

điều khoản quy định bắt buộc hoặc được phép tùy nghi áp dụng Hình phạt bổ

22

sung. Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm sở hữu thì các Hình phạt bổ sung

luôn được quy định dưới hình thức lựa chọn. Với những trường hợp tùy nghi

(có thể áp dụng hoặc không) này, Tòa án phải cân nhắc xem xét từng tình tiết

của vụ án, tính chất nguy hiểm của tội phạm, nhân thân người phạm tội và các

tình tiết tăng giảm khung để có thể đưa ra phán quyết về áp dụng Hình phạt

bổ sung hay không tránh những trường hợp bản án không chính xác, chưa

công bằng hoặc chưa đủ cá thể hóa hình phạt. Ví dụ đối với tất cả các Hình

phạt bổ sung có thể được áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu đều là tùy

nghi các hình phạt như phạt tiền, tịch thu tài sản hoặc là cấm đảm nhiệm chức

vụ, cấm hành nghề công viện nhất định. Việc quy định tùy nghi áp dụng Hình

phạt bổ sung là một trong những đặc điểm rất mới của Bộ luật Hình sự 2015

so với các đạo luật trước đây của nước ta hầu hết hoặc chiếm phần lớn đều

quy định bắt buộc áp dụng Hình phạt bổ sung đối với tội phạm cụ thể, đặc

điểm này đóng vai trò rất lớn trong việc cá thể hóa hình phạt cũng như phân

hóa Trách nhiệm hình sự của pháp luật.

Thứ hai, hình phạt bổ sung phạt tiền hoặc tịch thu tài sản được quy định

một cách rất phổ biến đối với các tội xâm phạm sở hữu. Theo đó, trong tất cả

các tội xâm phạm sở hữu có thể được áp dụng hình phạt bổ sung thì tội nào

cũng quy định phạt tiền là hình phạt bổ sung. Điều này có thể lý giải qua hầu

hết các khách thể và đối tượng tác động mà nhóm tội phạm này xâm hại tới,

đó đều là những quan hệ về tài sản, đều tác động trực tiếp đến tài sản và chủ

thể thường hay có mục đích chiếm đoạt hoặc tư lợi. Vì vậy, các hình phạt bổ

sung đánh vào lợi ích kinh tế như hình phạt tiền hoặc hình phạt tịch thu tài sản

áp dụng bên cạnh hình phạt chính đối với nhóm tội phạm này sẽ hỗ trợ tích

cực cho hình phạt chính đạt được hiệu quả trừng trị và giáo dục phòng ngừa.

Thứ ba, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu không nhằm

tước đi quyền tự do lãnh thổ của người nước ngoài phạm tội ở nước ta. Điều

23

này thể hiện qua việc tất cả các điều luật được quy định trong chương các tội

xâm phạm sở hữu, các nhà làm luật không quy định áp dụng Hình phạt bổ

sung trục xuất.

Thứ tư, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu không nhằm

tước quyền chính trị của người bị kết án:

Hình phạt bổ sung tước một số quyền công dân không được các nhà làm

luật quy định áp dụng đối với các tội xâm hại sở hữu. Về bản chất, đây là hình

phạt bổ sung mang tính chất chính trị, chỉ áp dụng đối với các loại tội phạm

về chính trị nhằm không cho người bị kết án hưởng một số quyền chính trị

của công dân trong thời hạn nhất định để phòng ngừa sự lợi dụng các quyền

đó để gây thiệt hại cho xã hội và Nhà nước. Các tội phạm được quy định tại

Chương XVI chỉ hướng tới các tội xâm phạm sở hữu về tài sản không mang

tính chất chính trị, tính phân hóa được thể hiện tại điểm này, hạn chế được

việc áp dụng nhầm lẫn các loại tội phạm có tính chất phức tạp, khó định tội.

1.2. Lịch sử lập pháp của các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm

sở hữu trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ tháng 8/1945 đến

trƣớc khi có Bộ luật hình sự năm 2015

Pháp điển hoá là hình thức cao nhất của hệ thống hoá pháp luật theo đó

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tập hợp, sắp xếp những văn

bản đã có theo một trình tự nhất định; đồng thời loại bỏ những quy phạm

pháp luật lỗi thời, lạc hậu, chồng chéo, xây dựng những quy phạm pháp luật

mới; khắc phục những chỗ trống đã được phát hiện trong quá trình tập hợp

văn bản, sửa đổi các quy phạm pháp luật hiện hành nhằm nâng cao hiệu lực

pháp lý của chúng. Do vậy, kết quả của công tác pháp điển hoá thông thường

là bộ luật, trong đó thể hiện một cách cơ bản nội dung của vấn đề mà pháp

luật cần điều chỉnh. Nhờ đó, sau khi pháp điển hoá, chúng ta có một văn bản

24

không những lớn về phạm vi điều chỉnh mà còn có cơ cấu bên trong hợp lý và

khoa học. Việc pháp điển hoá sẽ tạo ra một hệ thống pháp luật toàn diện, đồng

bộ và thống nhất. Đây chính là những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ

hoàn thiện hệ thống pháp luật của một quốc gia nhất định.

1.2.1. Giai đoạn từ tháng 8/1945 cho tới pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần

thứ nhất năm 1985

1.2.1.1. Giai đoạn từ tháng 8 năm 1945 đến năm 1954

Giai đoạn từ năm 1945, đánh dấu nền móng của công cuộc xây dựng

Pháp luật hình sự trong tình thế phải kết thúc việc áp dụng pháp luật của chế

độ phong kiến – thực dân trước đó. Nhà nước ta điều chỉnh những quan hệ

pháp luật chủ yếu thông qua các sắc lệnh và pháp lệnh. Trong giai đoạn này,

Nhà nước từng bước đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật xây dựng, hình

thành để hoàn thiện hệ thống pháp luật Hình phạt, Hình phạt bổ sung nói

chung và hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Chế

định Hình phạt bổ sung trong giai đoạn này có những đặc điểm nổi bật như

sau:

Thứ nhất, trong tình hình chuyển giao giữa chế độ phong kiến đã bị xóa

bỏ sang chế độ mới, chính quyền nước ta thời đó vẫn quyết định giữ lại một

số đạo luật hình sự của chế độ phong kiến thực dân nhận thấy vẫn phù hợp để

tạm thời đưa vào chế độ giai cấp mới.

Thứ hai, trong tiến tình hình thành, xây dựng chế độ mới, cùng với việc

tạm thời giữ lại một số chế định của pháp luật hình sự chế độ cũ, Nhà nước

đưa ra hệ thống văn bản pháp luật như sắc lệnh và pháp lệnh về những chế

định hình phạt bổ sung mới. Dựa trên những sắc lệnh và pháp luật của Nhà

nước, hệ thống hình phạt bổ sung đã lần đầu tiên được ban hành trong chế độ

mới. Hình phạt tiền bổ sung, hình phạt tịch thu tài sản, hình phạt cấm hành

25

nghề hoặc công việc nhất định và hình phạt tước quyền công dân là bốn hình

phạt bổ sung đầu tiên của hệ thống pháp luật chế độ mới từ sau cách mạng

tháng Tám năm 1945 của nước ta. Tuy nhiên, các quy định về hình phạt bổ

sung không được rõ ràng và cách sử dụng từ ngữ có sự không thống nhất (ví

dụ như có văn bản thể hiện một số tên gọi của khác nhau như tước tất cả

quyền công dân, mất quyền công dân,…).

Thứ ba, giai đoạn này chưa xuất hiện hình phạt bổ sung quản chế mà vẫn

áp dụng quy định về hình phạt quản thúc của chế độ cũ thực dân phong kiến

thời Pháp thuộc.

Thứ tư, pháp luật hình sự của Nước ta thời kỳ sau cách mạng tháng Tám

năm 1945 vẫn chưa hình thành được một đạo luật hoàn chỉnh, chủ yếu áp

dụng những Hình phạt bổ sung căn cứ theo các sắc lệnh, pháp lệnh của Nhà

nước quy định đối với từng tội phạm, nhóm tội phạm cụ thể. Chính vì điều đó

pháp luật hình sự vẫn chưa có tính phân hóa hình phạt rõ ràng.

1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1954 cho đến trước pháp điển hóa Bộ luật hình sự

lần thứ nhất năm 1985

Sau khi hoàn toàn độc lập, việc áp dụng những đường lối, chính sách,

quy định, án lệ của chế độ cũ không còn phù hợp, mặt khác còn là tác động

tiêu cực nhất định tới Pháp luật hình sự với vai trò đấu tranh, phòng chống tội

phạm. Cho tới khi xóa bỏ dứt điểm được việc áp dụng pháp luật chế độ thực

dân – phong kiến Pháp luật hình sự nước ta trong giai đoạn lịch sử này đã có

nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, hoàn thiện Hệ thống pháp luật nâng

cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trên cả nước.

Tiêu biểu trong thời kỳ này phải kể đến những văn bản pháp luật hình sự về

các tội xâm phạm sở hữu như: Sắc luật số 03 SL/76 ngày 15 tháng 3 năm

1976 quy định các tội phạm và hình hành; các văn bản khác quy định cụ thể

26

đối với tội phạm: Pháp lệnh 149-LCT trừng trị các tội phạm tài sản Xã hội

chủ nghĩa và Pháp lệnh 150-LCT trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của

công dân ngày 21 tháng 10 năm 1970; Sắc lệnh số 267/SL về trừng trị những

âm mưu, hành động phá hoại làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp

tác xã và của nhân dân, cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng

king tế và văn hóa ngày 15 tháng 6 năm 1956.

Trong giai đoạn lịch sử này, nhóm tội xâm phạm sở hữu được chia ra

làm 2 nhóm đối tượng tài sản bị tác động là tài sản xã hội chủ nghĩa (tài sản

của nhân dân và tài sản của tập thể) và tài sản của công dân (tài sản của cá

nhân) thể hiện tính phân hóa hình phạt rất rõ ràng. Pháp lệnh 149-LCT và

150-LCT quy định áp dụng một trong những hình phạt bổ sung cấm đảm

nhiệm chức vụ nhất định, phạt tiền, tịch thu tài sản, quản chế và cấm cư trú.

Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho tới trước khi pháp

điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất, Nhà nước ta chỉ ban hành các văn bản

pháp luật đơn lẻ quy định đối với từng tội phạm cụ thể mà còn thiếu những lý

luận về phần quy định chung nên việc áp dụng và thực hiện pháp luật giữa các

quan cơ lúc bấy giờ khó có sự thống nhất. Những quy định về phần chung này

chủ yếu được thể hiện trong các văn bản của Tòa án nhân dân tối cao hoặc các

văn bản liên ngành có vai trò làm căn cứ, kim chỉ nam cho các cơ quan thực

hiện và áp dụng các quy định về Hình phạt bổ sung.

1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến năm trước pháp điển hóa Bộ luật hình sự

lần thứ hai năm 1999

Trong giai đoạn từ sau khi pháp điển hóa lần thứ nhất tới khi pháp điển

hóa lần thứ hai, Bộ luật hình sự đã có những quy phạm riêng biệt tại một

chương độc lập của Phần chung thể hiện sự chính xác và chặt chẽ của hệ

thống hình phạt lúc bấy giờ. Hệ thống hình phạt của BLHS năm 1985 đã xuất

27

hiện chế định hình phạt có thể tùy nghi áp dụng trong các trường hợp cụ thể

tương ứng với tính chất là hình phạt chính hoặc là hình phạt bổ sung.

Về phần các tội phạm, quy định về các tội xâm phạm sở hữu vẫn giữ

nguyên tinh thần của các pháp lệch giai đoạn trước được chia ra 2 nhóm là sở

hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu công dân được quy định áp dụng 5 hình phạt

bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, phạt tiền, tịch thu tài sản, quản

chế và cấm cư trú. Những hình phạt bổ sung này được quy định mức phạt

bằng hình thức ấn định mức phạt thấp nhất - mức phạt cao nhất hoặc ấn định

mức cao nhất (Phạt tiền) đối với từng tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, đối với

nhóm tội xâm phạm sở hữu công dân, Bộ luật Hình sự 1985 không quy định

áp dụng hình phạt bổ sung là Phạt tiền, đây là một thay đổi khá nổi bật do

phạt tiền là hình phạt bổ sung phổ biến nhất của Pháp luật hình sự nước ta.

Nguyên nhân là do tỷ giá tiền tệ của nước ta đang rất nhiều biến động trong

sự thay đổi về mặt kinh tế ngày một phức tạp, Bộ luật Hình sự 1985 quy định

giá trị hàng triệu đồng so với các quy định hàng “nghìn đồng” của pháp lệnh

149-LCT và 150-LCT giai đoạn trước đó.

Quá trình hệ thống hóa, chắt lọc và kế thừa của kỹ thuật lập pháp sau

nhiều năm, pháp luật Hình sự giai đoạn này đã có nhiều thay đổi, tiến tới hoàn

thiện, hoàn chỉnh hơn. Chính sách pháp luật được thể hiện qua Bộ luật hình

sự 1985 của Nhà nước đã có tính thống nhất, xây dựng được hệ thống pháp

luật tổng thể bao gồm Hình phạt chính và hình phạt bổ sung cấu thành (được

quy định ở cả phần chung và phần riêng của tội phạm trong Bộ luật hình sự).

1.2.3. Giai đoạn từ sau pháp điển hóa lần thứ hai năm 1999 đến năm 2015

Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 là bộ luật gần nhất

với Bộ luật Hình sự hiện hành nên nó mang rất nhiều điểm tương đồng về các

quy định hình phạt nói chung và quy định hình phạt bổ sung đối với các tội

28

xâm phạm sở hữu nói riêng. Theo Khoản 2 Điều 28 BLHS 1999 quy định 07

hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu

tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không

áp dụng là hình phạt chính. Những Hình phạt bổ sung được áp dụng đối với

các tội xâm phạm sở hữu là 05 Hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ,

cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tịch

thu tài sản; Phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính.

So với các hệ thống hình phạt trước đó, hệ thống hình phạt theo Pháp

luật hình sự Việt Nam sau pháp điển hóa lần thứ hai năm 1999, các nhà khoa

học xây dựng pháp luật cũng đã điều chỉnh cụ thể hơn căn cứ và những điều

kiện áp dụng đối với từng loại hình phạt. Điều đó được thể hiện ở việc tăng

thêm về lượng các quy định về hình phạt bổ sung phạt tiền do Bộ luật Hình sự

1999 quy định hình phạt bổ sung đối với từng loại tội phạm trong từng điều

luật khác nhau, còn Bộ luật Hình sự 1985 trước đó chỉ quy định 1 điều luật

chung về Hình phạt bổ sung cho một nhóm tội (BLHS 2015 quy định 11 điều

luật về HPBS trong 13 điều luật về tội xâm phạm sở hữu, còn BLHS 1999 chỉ

quy định 02 điều luật trong 26 điều luật về nhóm tội này).

Hình phạt bổ sung “Cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề

hoặc công việc nhất định” của Bộ luật hình sự 1985 đã được sửa lại tên gọi và

được quy định trong Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 36 với cách gọi mới là

“Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” .

Thay đổi này để tránh những hiểu lầm và nâng cao tính minh bạch của ngôn

ngữ pháp luật, các nhà làm luật thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp sau

pháp điển hóa lần thứ hai này.

Điều 37, Điều 38 quy định về các hình phạt bổ sung cấm cư trú, quản

29

chế đã được quy định rõ hơn về loại Hình phạt chính có thể được áp dụng các

hình phạt bổ sung này kèm theo là hình phạt tù có thời hạn. Việc quy định cụ

thể này giúp cơ quan áp dụng pháp luật có cơ sở hơn để quyết định ban hành

hình phạt mà không phải dựa vào những án lệ hay thực tiễn xét xử trước đó.

Đối với hình phạt tiền, hình phạt bổ sung được áp dụng phổ biến nhất

đối với các tội xâm phạm sở hữu có một số điểm mới như sau:

- Cũng như các hình phạt bổ sung ở trên Bộ luật hình sự năm 1999 quy

định rõ phạm vi áp dụng của hình phạt tiền bổ sung là đối với người phạm các

tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật hình sự năm

1999 quy định. Quy định rõ ràng về hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ

sung cụ thể như vậy giúp cho việc áp dụng pháp luật của cơ quan tư pháp trở

nên khả thi hơn trong thực tiễn.

- Theo sự biến động về kinh tế nói chung và cụ thể những biến động về

giá trị đồng tiền nói riêng thì Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định về mức

phạt tiền tối thiểu là một triệu đồng – thay đổi hoàn toàn với quy định của Bộ

luật hình sự 1985 trước đó là chỉ quy định mức phạt tiền tối đa là năm trăm

triệu đồng. Điều này thể hiện tính nghiêm khắc được nâng cao của chế tài

hình sự nhưng cùng với đó các cơ quan tư pháp áp dụng pháp luật cũng không

được bỏ qua những yếu tố để xác định mức phạt tiền tương ứng với tính chất,

mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm để đưa ra những phán quyết xác

đáng nhất trong thực tế.

- Nghiêm khắc trong quy định về chế tài hình sự luôn được đề cao nhưng

bên cạnh đó các nhà làm luật cũng có những quy định mang nội dung của

nguyên tắc nhân đạo – một trong những nguyên tắc rất quan trọng của pháp

luật hình sự. Đó là việc quy định lần đầu tiên về cách thức thi hành hình phạt

tiền tại khoán 4 của Điều 30 Bộ luật hình sự năm 1999 rằng tiền nộp phạt có

30

thể được nộp một hoặc nhiều lần trong thời hạn do tòa án quyết định trong

bản án đối với chủ thể bị kết án. Với quy định mang tính nhân đạo trên đã

giúp việc thi hành bản án của người bị kết án thuận lợi hơn đáng kể so với

những quy định nghiêm khắc trước đó.

Tóm lại, trong các giai đoạn lịch sử, chế định về Hình phạt bổ sung đối

với các tội xâm phạm sở hữu xuất hiện khá sớm, được Nhà nước ta quan tâm

hoàn thiện các quy định pháp luật qua từng thời kỳ để nâng cao vị trí, vai trò

của chúng trong việc trừng trị, giáo dục và phòng ngừa các tội xâm phạm sở

hữu.

1.3. Kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về hình phạt

bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu

1.3.1. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật

hình sự Pháp

Điểm chung giữa Bộ luật hình sự nước ta và Bộ luật hình sự Cộng hòa

Pháp về cơ bản hai hệ thống pháp luật này đều quy định hình phạt tước đi

quyền tự do và hình phạt không tước đi quyền tự do.

Hình phạt bổ sung đối với tội vi cảnh trong Bộ luật hình sự Cộng hòa

Pháp: tước bằng lái xe; cấm tàng trữ hoặc mạng theo một vũ khí; tịch thu vũ

khí; thu hồi giấy phép săn bắn; tịch thu vật phẩm thực hiện phạm tội; cấm

điều khiển một số phương tiện; bắt buộc hoàn thành, chịu chi phí của bản thân

để học một khóa học nhân cao tránh nhiệm an toàn đường bộ hoặc khóa học

tư cách công dân; bắt buộc hoàn thành, chịu chi phí của bản thân để học một

khóa học nhân cao tránh nhiệm của cha mẹ; tịch thu con vật dùng để phạm

tội; cấm nuôi, giữ một con vật. Đối với tội vi cảnh cấp độ 5, cấm phát hành

séc ngoại trừ tấm sức dùng để rút tiền hoặc lao động công ích trong thời gian

31

20 - 120 tiếng nếu các văn bản dưới luật có quy định.

Theo Điều 131-10 Bộ luật hình sự năm 1992 của Cộng hòa Pháp quy

định một số Hình phạt bổ sung sau đối với cá nhân phạm trọng tội, khinh tội:

- Cấm, tước bỏ hoặc thu hồi một quyền;

- Bắt buộc chữa bệnh hoặc bắt buộc thực hiện một hành vi;

- Cấm thực hiện hành vi hoặc tích thu một tài sản;

- Tịch thu một con vật, đóng cửa một cơ sở;

- Niêm yết các quyết định đã tuyên hoặc đăng các quyết định này trên

báo viết hay bất kỳ phương tiện thông tin liên lạc cho công chúng biết bằng

phương tiện điện tử.

Đối với tội vi cảnh và khinh tội mà tội này phải chịu một hay nhiều Hình

phạt bổ sung thì Tòa án có thể tuyên một hay những Hình phạt bổ sung này

với tư cách Hình phạt chính. Còn đối với trọng tội thì các hình phạt này

không được phép tuyên với tư cách là Hình phạt chính.

Trong hệ thống hình phạt của Cộng hòa Pháp thì các hình phạt hạn chế

quyền tự do được quy định là Hình phạt bổ sung nhưng có thể là Hình phạt

chính trong trường hợp nhất định (trong khi các hình phạt này đều được quy

định là Hình phạt bổ sung trong pháp luật hình sự nước ta). Chúng ta có thể

thấy rõ được tính tùy nghi trong việc áp dụng hình phạt của pháp luật hình sự

Cộng hòa Pháp. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt cũng có các văn

bản hướng dẫn về việc bắt buộc phải áp dụng Hình phạt bổ sung cụ thể đối

với các tội phạm nguy hiểm.

1.3.2. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật

hình sự Hoa Kỳ

Về hệ thống hình phạt theo luật hình sự tại Mỹ, ở cấp liên bang và cấp

32

bang đều chia làm 2 loại Hình phạt chính và Hình phạt bổ sung:

- Loại mức hình phạt chính: phạt tiền, án treo (hay còn gọi là thử thách),

phạt tù, tử hình. Trong đó, Tòa án có thể áp dụng cả 4 Hình phạt đối với thể

nhân phạm tội và 2 hình phạt đầu tiên đối với chủ thể là pháp nhân thương

mại phạm tội;

- Loại mức hình phạt bổ sung: làm các việc vì lợi ích công cộng (lao

động công ích), tước các quyền (như quyền bầu cử, giữ chức vụ…), buộc phải

bồi thường thiệt hại gây ra, tịch thu tài sản…

Khá là bất ngờ khi pháp luật hình sự Hoa Kỳ lại quy định việc “buộc

phải bồi thường thiệt hại gây ra” là một hình phạt bổ sung, điều mà các nhà

làm luật của nước ta luôn quan niệm rằng “bồi thường thiệt hại” là một nghĩa

vụ dân sự chứ không phải là biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Nhưng cũng

không phải là không có lý, bởi vì trong trường hợp Hình phạt chính mà Tòa

án đã tuyên đã đủ tính răn đe, ngăn ngừa được việc thực hiện tội phạm sau

này,… đạt được mục đích của hình phạt thì việc khắc phục phần nào hậu quả

đã gây ra lại càng trở nên thiết thực.

Trong Modal Penal Code (Bộ luật hình sự mẫu) của liên bang Hoa kỳ,

các mục đích khái quát của hình phạt cũng được xác định:

- Khi trừng trị người bị kết án đối với hành vi về hình sự cần đảm bảo

việc quyết định hình phạt phải phù hợp với tội phạm mà người đó đã thực

hiện;

- Khi quy định tính chất ngăn ngừa hợp pháp của bản án và thủ tục công

bằng trong việc tuyên án phải đảm bảo sự đối xử công minh với tất cả những

người bị kết án bằng cách loại trừ sự bất bình đẳng không thể chấp nhận được

trong việc thi hành hình phạt;

- Ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm và đảm bảo sự tôn trọng pháp luật

33

bằng cách: Tìm phương pháp có hiệu quả để răn đe những người khác có khả

năng thực hiện tội phạm tương tự; cách ly những người có quá khứ về hình sự

lâu dài (những kẻ phạm tội hình sự chuyên nghiệp); hỗ trợ cho việc thực hiện

các chương trình cải tạo nhằm mục đích đạt được sự tự nguyện trong việc hợp

tác và tham gia của những người phạm tội vào các chương trình đó.

1.3.3. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật

hình sự Trung Quốc

Hệ thống hình phạt trong Bộ luật Hình sự của nước cộng hòa nhân dân

Trung Hoa quy định 04 Hình phạt bổ sung là: Phạt tiền; tước các quyền lợi

chính trị; tịch thu tài sản; trục xuất. Trong đó, khác với quy định của luật hình

sự nước ta thì ở đây chỉ có trục xuất là có thể được tuyên với tư cách là Hình

phạt chính hoặc Hình phạt bổ sung. Sau khi nghiên cứu hệ thống hình phạt

của Bộ luật hình sự Trung Hoa, tác giả nhận thấy có sự khác biệt về tính phân

hóa trách nhiệm hình sự giữa 2 hệ thống pháp luật do Bộ luật hình sự Trung

Hoa chỉ quy định 6 hình phạt chính và 4 hình phạt bổ sung; trong đó, có 1

hình phạt lưỡng tính. Có thể nhận thấy số lượng hình phạt của hệ thống pháp

luật nước ta đa dạng hơn và cũng chi tiết hơn khi Bộ luật hình sự nước ta còn

có điều khoản quy định về khái niệm và mục đích của hình phạt (Điều 26 và

Điều 27 BLHS 2015) còn Bộ luật hình sự Trung Hoa thì không. Tính phân

hóa trách nhiệm hình sự cao hơn giúp cho khả năng áp dụng pháp lý của Tòa

án có nhiều lựa chọn hơn, đưa ra quyết định phù hợp hơn với tính chất và

mức độ nguy hiểm đối với từng loại tội phạm để nâng cao hiệu quả, mục đích

của hình phạt.

Nhóm tội xâm phạm sở hữu được quy định cụ thể từng tội phạm trong

chương V tội xâm phạm tài sản của Bộ luật Hình sự Trung Hoa, tuy nhiên chỉ

có 02 hình phạt bổ sung được áp dụng đối với nhóm tội này là phạt tiền và

34

tịch thu tài sản. Khác với quy định về phạt tiền ở nước ta thì Bộ luật Hình sự

Trung Hoa chỉ quy định phạt tiền là Hình phạt bổ sung thay vì là hình phạt

lưỡng tính vừa có thể áp dụng là hình phạt chính vừa có thể áp dụng là Hình

phạt bổ sung của Việt Nam.

Bộ luật hình sự Trung Hoa còn chưa rõ ràng trong việc phân hóa hình

phạt khi có quy định “Các hình phạt bổ sung có thể được áp dụng độc lập”,

điều mà bất khả thi trong pháp luật hình sự của Việt Nam khi mà Hình phạt

bổ sung không thể được tuyên độc lập khi không áp dụng Hình phạt chính

được, nếu vậy thì về bản chất pháp lý Hình phạt bổ sung cũng là Hình phạt

chính rồi.

Điểm tiến bộ trong Bộ luật Hình sự cộng hòa nhân dân Trung Hoa là quy

định rất cụ thể về biện pháp cưỡng chế đối với người bị kết án khi họ không

nộp tiền phạt đúng thời hạn. Bộ luật Hình sự nước ta hiện hành cần sửa đổi và

bổ sung quy định này nhằm đảm bảo tính khả thi chấp hành của hình phạt

tiền.

1.3.4. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật

hình sự Singapore

Bộ luật hình sự Singapore cũng như của nước ta đều quy định những quy

phạm về tội phạm, hình phạt và các tội phạm riêng, tuy nhiên Bộ luật hình sự

Singapore có những quy định khá cụ thể về nội dung các tội phạm và hình

phạt trong các điều khoản. Bên cạnh cũng quy định chung có tính khái quát

cao như Bộ luật hình sự của Việt Nam thì Bộ luật hình sự Singapore có thêm

các phần giải thích và phần minh họa. Việc quy định như vậy của Bộ luật

hình sự Singapore khiến cho các quy định trở nên dễ hiểu, có thể hạn chế

được tình trạng hiểu sai hoặc hiểu không thống nhất về nội dung của điều luật

của các cơ quan thực hiện pháp luật. Cá nhân tác giả thấy đây là một vấn đề

35

cần được tiếp thu để giúp Bộ luật hình sự Việt Nam hoàn thiện hơn nữa.

Tại Điều 53 Bộ luật hình sự Singapore quy định hệ thống hình phạt gồm

những hình phạt: tử hình, tù (chung thân và có thời hạn), tịch thu tài sản, phạt

tiền và đánh roi và vẫn có một số những điểm khác nhau giữa bộ luật của

nước ta và Singapore như sau:

- Bộ luật hình sự Singapore không phân biệt hình phạt chính và hình

phạt bồ sung như Bộ luật hình sự Việt Nam, Tòa án có thể tuyên nhiều hình

phạt đối với một tội phạm do luật hình sự Singapore không có quy định mỗi

hành vi phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính (có thể bị phạt tiền hoặc

bị phạt tù hoặc cả hai hình phạt đó).

-Pháp luật hình sự nước bạn chỉ quy định các hình phạt tước đi tính

mạng hoặc tự do của người bị kết án như hình phạt trục xuất, hình phạt cảnh

cáo, hình phạt cải tạo không giam giữ, thay vào đó Bộ các nhà làm luật đã

quy định áp dụng hình phạt đánh roi. Cá nhân tác giả nhận thấy hình phạt

đánh roi này không còn phù hợp với nền văn hóa, truyền thống của nước ta

bởi nó làm chúng ta gợi nhớ đến những khổ hình, cực hình ở chế độ cũ gây

đau đớn về mặt thể xác và tính răn đe rất khắc nghiệt. Chính vì thế nên việc

quy định những hình phạt trong hệ thống pháp luật của Việt Nam như cải tạo

không giam giữ, trục xuất hay cảnh cáo phù hợp hơn rất nhiều và qua việc

nghiên cứu những quy định về cũng thể hiện sự khác biệt về kinh tế, văn hóa,

truyền thống,… của hai nước.

1.3.5. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật

hình sự Liên Bang Nga

Bộ luật Hình sự của Liên bang Nga 1996 sửa đổi 2010 quy định hệ thống

hình phạt chỉ bao gồm 01 hình phạt bổ sung thuần túy là hình phạt tước quân

hàm, chức danh chuyên môn hoặc danh hiệu và huân chương cấp Nhà nước.

36

Cùng với đó là những hình phạt bổ sung sau khi không áp dụng là Hình phạt

chính như Phạt tiền, tước quyền đảm nhiệm một số chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm cộng việc nhất định, hạn chế tự do.

Pháp luật Hình sự nói chung và hệ thống hình phạt nói riêng của Liên

bang Nga khá tương đồng với nước ta khi quy định hình phạt lưỡng tính vừa

có thể được áp dụng là Hình phạt chính vừa có thể được áp dụng là Hình phạt

bổ sung. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga quy định 11 tội xâm phạm sở hữu

được quy định tại Chương 21 cũng mang tính chất chiếm đoạt và không mang

tính chiếm đoạt, trong đó, 8/11 điều luật có quy định về việc áp dụng hình

phạt bổ sung đó là tội chiếm giữ trái pháp luật ô tô hoặc các phương tiện giao

thông vận tải khác không nhằm mục đích chiếm đoạt; tội cố ý hủy hoại hoặc

làm hư hỏng tài sản của người khác; tội vô ý hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài

sản của người khác. Chỉ có 02 Hình phạt bổ sung được các nhà làm luật Nga

quy định có thể áp dụng đối với nhóm tội này là Phạt tiền và hạn chế tự do,

hai hình phạt có thể được Tòa án tuyên bổ sung là khi không được áp dụng

với tư cách Hình phạt chính.

Tuy nhiên, ngoài những điểm tương đồng, 02 hình phạt bổ sung này có

những đặc điểm khác với Bộ luật Hình sự Việt Nam như sau:

Đầu tiên, Hình phạt bổ sung hạn chế tự do khá giống với hình phạt quản

chế của nước ta, người bị kết án bị hạn chế một số quyền tự do đi lại, tự do cư

trú hoặc quyền tham gia một số hoạt động xã hội do Tòa án quy định. Điểm

khác so với quy định của nước ta là hình phạt bổ sung hạn chế đối với các tội

xâm phạm sở hữu chỉ quy định mức phạt tối đa của hình phạt thay vì quy định

mức thấp nhất - cao nhất như Pháp luật Hình sự nước ta.

Đối với hình phạt tiền với tư cách là Hình phạt bổ sung, các nhà làm luật

của Nga ngoài việc quy định mức tiền thấp nhất và cao nhất cụ thể, họ còn

37

quy định thước đo xác định mức phạt là bằng lương hay thu nhập khác của

người bị kết án trong khoảng thời gian lao động nhất định, giúp Tòa án có

thêm căn cứ để xác định mức phạt một cách chính xác và công bằng hơn. Phạt

tiền cũng chỉ được quy định mức trần cao nhất đối với nhóm tội xâm phạm sở

hữu. Ngoài ra, Tòa án còn có thể áp dụng phạt tiền với hình thức trả góp trong

thời gian nhất nếu xem xét tính chất vụ án cần thiết phải áp dụng như vậy.

1.3.6. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật

hình sự Thụy Điển

Bộ Luật Hình sự Vương quốc Thụy Điển năm 1962 sửa đổi gần nhất vào

năm 2009, nhóm tội xâm phạm sở hữu được quy định khá là cụ thể đối với

từng trường hợp nhất định, tuy nhiên lại thiếu tính khái quát do các tội liên

quan tới quan hệ sở hữu tài sản được Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định tại

các chương khác nhau. Pháp luật Hình sự Thụy Điển không xuất hiện chế

định Hình phạt bổ sung mà chỉ quy định các biện pháp đặc biệt ngoài hình

phạt như tịch thu tài sản; phạt tiền doanh nghiệp; các biện pháp pháp lý khác

được áp dụng kèm theo Hình phạt chính căn cứ vào các hoàn cảnh cụ thể chứ

không có quy định cụ thể đối với từng tội phạm riêng biệt. Có thể thấy tính

tùy nghi rất rộng của chế định này, chất lượng, hiệu quả cũng các biện pháp

đặc biệt ngoài hình phạt phụ thuộc rất nhiều vào quyết định của Tòa án, tác

giả cho rằng đây cũng là một điểm hạn chế của pháp luật Hình sự Vương

quốc Thụy Điển. Tuy nhiên, những quy định này về bản chất là biện pháp

pháp lý mà không phải là hình phạt nên việc không quy định chặt chẽ là có

thể hiểu được do tính chất nghiêm khắc, trừng trị của chúng không bằng các

Hình phạt.

1.3.7. Các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ luật

38

hình sự Nhật Bản

Bộ luật Hình sự Nhật Bản năm 1907 sửa đổi, bổ sung gần nhất vào năm

2011, gồm 264 điều luật, hệ thống hình phạt của bộ luật này gồm những Hình

phạt chính như tử hình; phạt tù giam; cầm cố; phạt tiền; giam giữ; phạt tiền

mức nhẹ và hình phạt bổ sung là thu giữ. Có thể nhận thấy, chế định hình phạt

bổ sung của Nhật Bản không được quan tâm do chỉ có 01 hình phạt bổ sung

được quy định và việc áp dụng hình phạt bổ sung này cũng được quy định

chung cho tất cả các loại tội phạm không riêng gì các tội xâm phạm sở hữu

khi Tòa án nhận thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung này.

Điều 19 và Điều 19-2 Bộ luật Hình sự Nhật Bản quy định Tòa án có thể

áp dụng tịch thu đối với các vật sau: 1) Vật là công cụ thực hiện hiện hành vi

phạm tội; 2) Vật được cung cấp hoặc sẽ được cung cấp cho người có hành vi

phạm tội; 3) Vật phát sinh do hành vi phạm tội hoặc vật nhờ đó mà có được

hoặc có được với tính chất thù lao của hành vi phạm tội; 4) Vật nhận được

quy đổi với vật được quy định ở các điểm trước. Mặc dù là những thứ của

người không phải của phạm nhân đi nữa, nhưng sau khi gây án mà người đó

có biết về những thứ đó thì cũng có thể tịch thu được. Trường hợp không thể

tịch thu hết một phần hoặc toàn bộ những vật 3) và 4) Thì có thể truy thu số

tiền đó.

Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại các chương khác nhau của

Bộ luật Hình sự Nhật Bản như chương Tội trộm cắp và cướp của; Chương Tội

lừa đảo và hăm dọa; Chương Tội phá hủy và giấu giếm. Tính phân hóa hình

phạt khác với pháp luật Hình sự của nước ta. Hình phạt bổ sung thu giữ có thể

được áp dụng với tất cả các tội nêu trên nếu Tòa án có căn cứ cho rằng cần

thiết phải áp dụng tịch thu hoặc truy thu.

Ngoài ra, Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định hình phạt là phạt tiền mức

39

nhẹ, tác giả thấy hình phạt này khá gần với quy định hình phạt bổ sung nhưng

thực chất nó vẫn được tuyên độc lập với tư cách là Hình phạt chính, chỉ là

mức phạt nhẹ hơn Phạt tiền. Bệnh cạnh đó, Bộ luật Hình sự nước này quy

định phải thông báo trước cho người bị kết án biết về thời gian tù lao động

thay thế phạt tiền trong trường hợp bị báo không thể nộp tiền phạt, thời gian

tù lao động được tính toán quy đổi từ khoản phạt tiền mà người bị kết án phải

chấp hành. Bộ luật Hình sự nước ta nên học hỏi quy định này của pháp luật

Hình sự Nhật Bản, chế tài thay thế hình phạt tiền được dự trù sẵn trong bản án

làm nâng cao tính đảm bảo chấp hành hình phạt trong thực tế, giải quyết được

một phần gánh nặng của các cơ quan thi hành án hình sự nước ta.

Nhìn chung, pháp luật hình sự nước ngoài đều có quy định hình phạt bổ

sung đối với các tội xâm phạm sở hữu. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm

phạm sở hữu mà các nước quy định đều có nét tương đồng với pháp luật hình

sự Việt Nam, thể hiện qua nội dung các hình phạt được quy định đều mang

40

tính chất tước bỏ một số lợi ích về kinh tế của người phạm tội.

Tiểu kết chƣơng 1

Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu là những hình phạt

do Nhà nước quy định trong Bộ luật Hình sự, có thể được Tòa án áp dụng

kèm theo hình phạt chính đối với các tội phạm thuộc chương XVI phần Các

tội phạm nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính đạt được mục đích phòng ngừa

chung và phòng ngừa riêng.

Bên cạnh những đặc điểm chung của các hình phạt bổ sung, hình phạt bổ

sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có những đặc điểm riêng riêng như

sau: Thứ nhất, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu được quy

định cho phép Tòa án tùy nghi áp dụng mà không phải là bắt buộc áp dụng;

Thứ hai, hình phạt bổ sung phạt tiền hoặc tịch thu tài sản được quy định một

cách rất phổ biến đối với các tội xâm phạm sở hữu; Thứ ba, hình phạt bổ sung

đối với các tội xâm phạm sở hữu không nhằm tước đi quyền tự do lãnh thổ

của người nước ngoài phạm tội ở nước ta; Thứ tư, hình phạt bổ sung đối với

các tội xâm phạm sở hữu không nhằm tước quyền chính trị của người bị kết

án.

Vai trò của Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu là đứng

bên cạnh bổ trợ, tăng cường cho Hình phạt chính đạt mục đích của hình phạt

nói chung, góp phần không nhỏ vào việc trừng trị, giáo dục, cải tạo người bị

kết án về các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời góp phần phòng ngừa hiệu quả

đối với loại tội phạm này.

Trong các giai đoạn lịch sử hình thành pháp luật, chế định về Hình phạt

bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu xuất hiện khá sớm, được Nhà nước

ta quan tâm hoàn thiện các quy định pháp luật qua từng thời kỳ để nâng cao vị

trí, vai trò của chúng trong việc trừng trị, giáo dục và phòng ngừa các tội xâm

41

phạm sở hữu.

Tương tự như luật hình sự Việt Nam, luật hình sự nước ngoài cũng có

quy định hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu. Nội dung các

hình phạt bổ sung này cũng thường mang tính chất tước bỏ một số lợi ích về

kinh tế của người phạm tội.

Chương 1 là cơ sở lý luận tạo điều kiện cho luận văn đi sâu vào nghiên

cứu và phân tích các quy định về Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm

sở hữu và thực tiễn áp dụng những Hình phạt bổ sung này của Tòa án nhân

42

dân Thành phố Hà Nội.

CHƢƠNG 2: HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM

SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong Luật Hình

sự Việt Nam hiện hành

Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 (sau đây gọi là Bộ luật hình

sự 2015) là bộ luật Hình sự mới nhất, hiện hành của nước ta mang những

điểm mới, thay đổi, khắc phục và hoàn thiện những khuyết điểm của các Bộ

luật Hình sự trước đó. Sau đây là một số phân tích của tác giả về những quy

định mới của pháp luật hiện hành.

2.1.1. Quy định hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu thuộc

phần chung của Bộ luật Hình sự

2.1.1.1 Hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định

Điều 41 Bộ luật hình sự 2015 quy định:

“Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

được áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành

nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội.

Thời hạn cấm là từ 01 năm đến 05 năm, kể từ ngày chấp hành xong hình

phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh

cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án

được hưởng án treo.”

Nội dung của hình phạt bổ sung này là nhằm loại bỏ điều kiện phạm tội

mới bằng cách hạn chế quyền lựa chọn nghề nghiệp, công việc nhất định của

43

người bị kết án. Không có quy định cụ thể ngành nghề gì, chức vụ ra sao, điều

kiện áp dụng mang tính chất tùy nghi, đánh giá dành cho Toà án do vậy, chưa

lấy được chuẩn mực đo lường về mức độ “gây nguy hại cho xã hội” nên phạm

vi áp dụng của hình phạt này rất rộng. Tòa án cần phải xem xét, cân nhắc rất

kỹ tình tiết của vụ án đưa ra nhận định một cách toàn diện để quyết định cấm,

hạn chế chính xác quyền lựa chọn chức vụ, nghề nghiệp, công việc trong bản

án.

Điều kiện áp dụng của hình phạt được quy định chỉ được áp dụng kèm

theo Hình phạt chính là phạt tù có thời hạn, cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không

giam giữ hoặc người bị kết án được hưởng án treo và hình phạt này phải được

quy định trong điều luật về tội phạm và hình phạt mà bị cáo đã phạm (thể hiện

nguyên tắc pháp chế của Luật Hình sự, chỉ khi nào chế tài của điều luật về tội

phạm có quy định thì Tòa án mới được áp dụng hình phạt này).

Thời hạn bị cấm là từ một đến năm năm tùy theo tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của tội phạm và yêu cầu phòng ngừa. Thời hạn chấp hành

hình phạt bổ sung này được tính từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ

ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền,

cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án

treo.

2.1.1.2. Phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung

Bộ luật Hình sự quy định rõ phạm vi áp dụng của hình phạt này là hình

phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội

phạm khác do bộ luật này quy định. Quy định một cách cụ thể như vậy sẽ làm

rõ ràng thêm cho các cơ quan tư pháp trong xét xử thực tiễn.

Đối với cách thức thi hành hình phạt tiền, Bộ luật hình sự 2015 đã loại

bỏ đi quy định về tiền phạt “có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong

44

thời hạn do Tòa án quyết định trong bản án”, cách quy định như vậy thể hiện

tính nhân đạo của các nhà làm luật khi tạo điều kiện cho những người bị kết

án có hoàn cảnh khó khăn về vật chất, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng thì

việc thi hành án những bản án “nhân đạo” này lại dẫn đến những bất cập do

người bị kết án trây ì do hoàn cảnh mà không thực hiện nộp phạt, gây khó

khăn cho các cơ quan tư pháp thi hành. Nhận thấy thực tiễn xét xử cũng cho

thấy việc Tòa án đưa điều khoản này vào bản án rất hiếm nên các nhà làm luật

đã lược bớt quy định về cách thức nộp phạt này.

Điều kiện áp dụng phạt tiền bổ sung: Tòa án chỉ có thể tuyên phạt tiền

với tư cách là hình phạt bổ sung nếu điều luật có quy định áp dụng nó, Tòa án

có thể áp dụng chỉ một hoặc nhiều hoặc không áp dụng hình phạt bổ sung.

Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 quy định rõ “Hình phạt tiền được áp dụng là

hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những

tội phạm khác do Bộ luật này quy định”. Ngoài các trường hợp áp dụng với

người phạm tội về ma túy và tham nhũng, trong phần các tội phạm có 10 tội

thuộc chương các tội xâm phạm sở hữu quy định có thể áp dụng phạt tiền bổ

sung.

Mức phạt tiền:

+ Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 quy định mức tối thiểu mức phạt tiền là

một triệu đồng. Tòa án cần cân nhắc theo các quy định của Bộ luật hình sự,

nhân thân người phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và mức độ tính chất

nguy hiểm của tội phạm, đồng thời phải xem xét tới tình hình tài sản của

người phạm tội và biến động của giá cả thị trường. Từ đó, đưa ra những phán

quyết thích hợp, tương xứng để đảm bảo tính khả thi của hình phạt bổ sung.

+ Bộ luật Hình sự hiện hành nâng một số mức phạt tiền bổ sung tối thiểu

cụ thể như tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172) thay đổi mức phạt

45

tiền thấp nhất từ 05 triệu đồng thành 10 triệu đồng.

2.1.1.3. Hình phạt bổ sung tịch thu tài sản

Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của

người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước. Tịch thu tài sản chỉ được áp

dụng đối với người bị kết án về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm

trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội

phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

Điều kiện áp dụng: Áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng,

rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Điểm mới của Bộ luật hình sự

2015 so với Bộ luật Hình sự 1999 trước đó là Điều 45 đã quy định cụ thể hơn

các loại tội có thể được áp dụng tịch thu tài sản là tội phạm xâm phạm An

ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tham nhũng hoặc tội phạm khác theo điều

luật quy định.

Đối với các tội xâm phạm sở hữu, đối tượng tác động chủ yếu chính là

tài sản. Tài sản không chỉ là những tang vật trực tiếp liên quan đến tội phạm

(đương nhiên sẽ phải bị tịch thu theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự)

mà ở đây phải hiểu là tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án, nó gồm hiện

vật thực tế, tiền bạc, giấy tờ có trị giá như tiền và các quyền sở hữu tài sản

khác (quyền sở hữu nhà, đất; khoản cho vay; tài sản thế chấp, cầm cố tại các

tổ chức tín dụng,..).

Đặt cạnh những Hình phạt bổ sung khác thì hình phạt tịch thu tài sản có

tính nghiêm khắc rất cao (chỉ áp dụng đối với tội nghiêm trọng trở lên), mục

đích của Nhà nước nhằm thu hồi tài sản của người phạm tội đã thu lợi bất

chính về cho bản thân và loại bỏ điều kiện phạm tội mới tương tự gây nguy

hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, tính nhân đạo của Bộ luật hình sự đã được các

nhà làm luật thể hiện bằng quy định tịch thu tài sản những vẫn phải để cho

46

người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống, ở đây cụ thể điều kiện

sinh sống là đồ dùng sinh hoạt thường nhật như áo quần, giường tủ, thực

phẩm, thuốc thang, công cụ lao động của chính nghề và một số vật dụng thiết

yếu khác.

2.1.1.4. Hình phạt bổ sung cấm cư trú

Theo quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự 2015 , tội cấm cư trú quy định

“Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc thường

trú ở một số địa phương nhất định”. Nội dung của hình phạt bổ sung là tước

bỏ của người bị kết án quyền cư trú (tạm trú và thường trú) ở một số địa

phương nhất định trong một thời hạn nhất định. Thể hiện khá rõ nét tính

nghiêm khắc của Nhà nước khi tước bỏ quyền tự do cư trú của người bị kết

án.

Những địa phương có thể bị cấm cư trú là: Những thành phố lớn, các

khu công nghiệp tập trung; những khu vực biên giới, bò biển, hải đảo; những

khu vực có cơ sở quốc phòng quan trọng; những khu vực có các đầu mối giao

thông quan trọng.

Sở dĩ người bị kết án không được cư trú ở những địa phương nói trên vì

ở những địa phương đó, người bị kết án sẽ có khả năng sử dụng những điều

kiện vốn có của địa phương để tiếp tục phạm tội. Ngăn ngừa họ lợi dụng sự

am hiểu địa bàn, vẫn quan hệ xã hội trong khu vực đã có trước đó và một số

các điều kiện thuận lợi khác để bùng phát tội phạm mới.

Điều kiện áp dụng của hình phạt bổ sung cấm cư trú:

+ Hình phạt cấm cư trú chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt chính là

phạt tù. Đối với các hình phạt chính khác, Bộ luật Hình sự không cho phép áp

dụng kèm theo hình phạt bổ sung này. Có thể hiểu được, nếu như áp dụng

hình phạt cấm cư trú kèm theo các hình phạt chính như cảnh cáo, phạt tiền,

47

cải tạo không giam giữ rõ ràng là khập khiễng do tính nghiêm khắc của cấm

cư trú cao hơn hẳn nên vai trò của Hình phạt chính sẽ bị lấn át và không phát

huy hiệu quả của nó. Còn đối với các hình phạt chính có tính trừng trị cao như

tử hình – tước bỏ mạng sống và tù chung thân thì áp dụng kèm theo hình phạt

cấm cư trú cũng không có ý nghĩa gì nữa, mục đích của hình phạt không đạt

được.

+ Tòa án chỉ được áp dụng hình phạt bổ sung cấm cư trú trong trưởng

hợp điều luật về tội pham trong Bộ luật có quy định áp dụng nó. Khác với quy

định đối với hình phạt quản chế hoặc tước một số quyền công dân, Bộ luật

hình sự 2015 lại không quy định rõ cấm cư trú được áp dụng đối với người bị

kết án phạm loại tội nào mà chỉ quy định chung chung khiến cho phạm vi áp

dụng của hình phạt bổ sung cấm cư trú trở nên rộng hơn, đòi hỏi Tòa án phải

nhận định, xem xét kỹ hơn trước khi đưa ra phán quyết.

Thời hạn cấm cư trú là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành

xong hình phạt tù. Người bị kết án cấm cư trú nếu đã chấp hành được một

phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt thì theo đề nghị của chính quyền địa

phương nơi người đó chấp hành hình phạt, Toà án có thể quyết định miễn

chấp hành hình phạt còn lại.

2.1.1.5. Hình phạt bổ sung quản chế

Điều 43 Bộ luật Hình sự 2015 quy định hình phạt quản chế là buộc

người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa

phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân

địa phương. Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra

khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân và bị cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định.

Có thể hiểu, hình phạt quản chế chính là một hình thức cư trú bắt buộc,

48

nhưng kèm theo điều kiện là phải cải tạo ở nơi cư trú, có sự kiểm soát, giáo

dục của chính quyền và nhân dân địa phương nơi họ đến cư trú sau khi chấp

hành xong hình phạt tù.

Hình phạt bổ sung quản chế có tính trừng trị cao hơn một chút so với

hình phạt cấm cư trú đã phân tích ở trên và có thể hiểu nó là một mức hạn chế

cao hơn quyền tự do cư trú của người bị kết án. Nghiêm khắc hơn ở chỗ nữa

là không những người bị kết án chỉ được cư trú ở một địa điểm nhất định mà

người đó còn bị tước đi một số quyền công dân như quyền ứng cử đại biểu cơ

quan quyền lực nhà nước; quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước; quyền

phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân và người bị kết án còn có thể cũng

bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Bản thân hình phạt bổ sung

mà được đi kèm theo 1 đến 2 hình phạt bổ sung nữa sẽ hạn chế rất nhiều

quyền tự do của người bị kết án, Tóa án phải đưa ra phán quyết rất rõ ràng, cụ

thể trong bản án những ngành nghề, công việc nào bị cấm, quyền công dân

nào bị tước bỏ để tạo thuận lợi nhất cho cơ quan thi hành hình phạt quản chế.

Đối tượng và phạm vi áp dụng hình phạt quản chế đó là: Quản chế được

áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm

nguy hiểm hoặc trong những trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Và

hình phạt này chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt tù chứ không áp dụng

kèm theo các hình phạt chính khác. Thời hạn của quản chế từ 1 đến 5 năm kể

từ ngày người bị kết án chấp hành xong hình phạt tù.

Người chấp hành án phạt quản chế có thể được Tòa án miễn chấp hành

hình phạt khi đã chấp hành được một phần hai thời hạn án phạt và có sự cải

tạo tiến bộ theo hướng dẫn tại Điều 14 Thông tư liên tịch 09/2012/TTLT-

BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC.

49

2.1.1.6. Hình phạt bổ sung tước một số quyền công dân

Tuy hình phạt bổ sung tước một số quyền công dân không được quy

định áp dụng đối với các tội xâm phạm sở hữu nhưng hình phạt này lại có thể

được áp dụng kèm theo trong thời gian chấp hành hình phạt quản chế nên sẽ

được phân tích trong luận văn này.

Quyền công dân là những quyền mà Nhà nước trao cho cá nhân mang

quốc tịch nước đó. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, sinh mệnh chính trị của

con người rất quý. Quyền công dân là quyền thiêng liêng của mọi người, để

tham gia xây dựng chính quyền vững mạnh. Đó là quyền tự do dân chủ của

người công dân. Tuy nhiên đối với kẻ thù của nhân dân thì phải tăng cường

chuyên chính không để chúng lợi dụng quyền dân chủ của nhân dân để phá

hoại chính quyền bằng cách này hay cách khác, vì vậy tước quyền công dân

cũng là một biện pháp ngăn chặn hành động phá hoại của kẻ thù của nhân

dân. Cho nên biện pháp tước quyền công dân không thể tách rời đường lối

của Đảng và Chính phủ hiện nay là: mở rộng dân chủ, tăng cường chuyên

chính.

Nhưng Điều 44 Bộ luật hình sự 2015 chỉ quy định tước bỏ một hoặc một

số quyền về chính trị cơ bản của bị kết án đó là:

+ Quyền ứng cử đại biểu cơ quan quyền lực Nhà nước, ở đây là Quốc

hội và hội đồng nhân dân các cấp. Quy định mới này của Bộ luật hình sự

2015 so với Bộ luật hình sự 1999 đã loại bỏ việc tước đi quyền bầu cử đại

biểu cơ quan quyền lực Nhà nước.

+ Quyền được vào làm việc trong các cơ quan Nhà nước.

+ Quyền làm việc trong bất cứ đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân nào.

Về cơ bản, đây là hình phạt mang tính chất chính trị, nhằm tăng cường

hiệu quả trong phòng ngừa chung và hạn chế những khả năng xấu có thể xảy

50

ra đối với an ninh quốc gia và những lĩnh vực nhạy cảm khác, sau khi người

phạm tội do phạm vào các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác

trong những trường hợp do Bộ luật này quy định đã chấp hành xong hình phạt

tù hoặc trường hợp được hưởng án treo thì vẫn cần thiết phải tước một hoặc

một số quyền công dân.

Điều kiện áp dụng của hình phạt này là chỉ được áp dụng với bị cáo là

công dân Việt Nam trưởng thành (trên 18 tuổi) và chỉ được áp dụng đối với

người bị kết án phạt tù về tội xâm phạm An ninh quốc gia hoặc một số tội

phạm khác nếu như điều luật về tội phạm đó có quy định.

Về thời hạn tước một số quyền công dân, tuỳ theo tính chất nguy hiểm

và tội phạm mà người phạm tội đã thực hiện để ấn định trong thời hạn là từ

một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ

ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được

hưởng án treo.

2.1.2. Quy định trong chương các tội xâm phạm sở hữu thuộc phần các tội

phạm của Bộ luật Hình sự

Chương XVI thuộc Phần Các tội phạm của Bộ luật Hình sự 2015, sửa

đổi bổ sung 2017 quy định về các tội xâm phạm sở hữu. Tại đây, 11 điều luật

tội phạm được quy định có thể áp dụng Hình phạt bổ sung như sau:

51

(Bảng được thể hiện ở trang sau)

Bảng 2.1 Danh mục các điều luật quy định Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu

TT Quy định Tội phạm Quản chế Phạt tiền & Mức phạt tiền Cấm cƣ trú Tịch thu tài sản *Cấm ĐNCV, CHN; LCVNĐ

✔ ✔ ✔ Khoản 6 Điều 168 Tội cướp tài sản 1 ✔ 10 – 100 triệu

✔ ✔ ✔ Khoản 6 Điều 169 2 Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ✔ 10 – 100 triệu

✔ Khoản 5 Điều 170 Tội cưỡng đoạn tài sản 3 ✔ 10 – 100 triệu

Khoản 5 Điều 171 Tội cướp giật tài sản 4 ✔ 10 – 100 triệu

Khoản 5 Điều 172 5 Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản ✔ 10 – 100 triệu

Khoản 5 Điều 173 Tội trộm cắp tài sản 6 ✔ 5 – 50 triệu

✔ ✔ Khoản 5 Điều 174 7 Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ✔ 10 – 100 triệu

52

✔ ✔ Khoản 5 Điều 175 8 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ✔ 10 – 100 triệu

TT Quy định Tội phạm Quản chế Phạt tiền & Mức phạt tiền Cấm cƣ trú Tịch thu tài sản *Cấm ĐNCV, CHN; LCVNĐ

9 Không quy định HPBS Tội chiếm giữ trái phép tài sản

✔ 10 Khoản 4 Điều 177 Tội sử dụng trái phép tài sản ✔ 5 – 20 triệu

✔ 11 Khoản 5 Điều 178 Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản ✔ 10 – 100 triệu

12 Khoản 4 Điều 179

13 Không quy định HPBS Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản

*Cấm ĐNCV, CHN; LCVNĐ: Hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

53

Nguồn: Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

Các tội xâm phậm sở hữu của Bộ luật Hình sự 2015 hầu hết đều quy

định hình phạt bổ sung là phạt tiền, mặc dù có quy định phần lớn nhưng

không bắt buộc, tất cả các điều luật có quy định phạt tiền bổ sung thì Tòa án

đều có thể xem xét và lựa chọn một hình phạt bổ sung khác trong điều khoản

nếu có quy định như hình phạt tịch thu tài sản, cấm cư trú,…

Tổng số các điều luật có quy định Hình phạt bổ sung của các tội xâm

phạm sở hữu là 11/13 điều luật. Trong đó, phạt tiền với tư cách là HPBS được

quy định chiếm 10/11 điều luật (chiếm khoảng 91% ), hình phạt quản chế

chiếm 2/11 điều luật (khoảng 18%), cấm cư trú chiếm 2/11 điều luật (chiếm

khoảng 18%), hình phạt tịch thu tài sản chiếm 5/11 điều luật (khoảng 45%),

hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định 5/11 hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu (chiếm khoảng

45%).

Các hình phạt bổ sung quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ,

cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đều có quy định mức phạt là

thời gian từ 01 đến 05 năm. Riêng đối với hình phạt bổ sung phạt tiền thì các

nhà làm luật sử dụng cách quy định mức tối thiểu đến mức tối đa “… đồng

đến … đồng”, cách quy định mức phạt tiền theo giá trị, số tiền đã bị chiếm

làm của riêng chỉ được quy định đối với các tội về tham nhũng và không được

áp dụng quy định đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu này.

Tóm lại, với việc tập trung rà soát, nghiên cứu sửa đổi, tiếp thu góp ý,

chỉnh lý một cách toàn diện và đồng bộ với tinh thần khẩn trương, nghiêm túc

và cầu thị, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã được ban hành

với những điểm mới hết sức tiến bộ, văn minh, thể hiện trình độ lập pháp cao,

đảm bảo được các giá trị cơ bản của hệ thống pháp luật hình sự trong điều

54

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như tính nhân đạo,

công bằng, dân chủ, pháp chế. Đặc biệt, liên quan đến chương các tội xâm

phạm sở hữu, thể chế hóa quan điểm, tinh thần sửa đổi BLHS, nhà làm luật đã

hiện thực hóa hàm lượng tri thức có được từ chính sách hình sự của Đảng và

Nhà nước, kết quả nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp lý, thực tiễn công

tác đấu tranh phòng, chống tội phạm bằng việc xây dựng hệ thống quy phạm

tương đối hoàn chỉnh vừa thể hiện sự kế thừa các giá trị pháp lý sẵn có, vừa

bổ sung, cập nhật các giá trị pháp lý trong bối cảnh mới, có tiếp thu kinh

nghiệm lập pháp của các quốc gia trên thế giới, phù hợp với Điều ước quốc tế

mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Thiết nghĩ điều cốt lõi

quan trọng trong thời điểm hiện nay là các cơ quan có thẩm quyền cần tăng

cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn và giải thích để

từng bước hiện thực hóa các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung

2017) về các tội xâm phạm sở hữu vào thực tiễn góp phần bảo vệ chủ quyền

quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con

người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc,

bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi

hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa

và đấu tranh chống tội phạm.

2.2. Thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở

hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.

2.2.1. Tình hình áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở

hữu

Thực tiễn nhiều năm nay, số lần Tòa án áp dụng các Hình phạt bổ sung

là không nhiều, chiếm một lượng tỷ lệ không lớn. Dựa vào số liệu của Tòa án

nhân dân Thành phố Hà nội thì tỷ lệ số người bị kết án về tội xâm phạm sở

hữu bị áp dụng Hình phạt bổ sung so với tỷ lệ bị cáo đưa ra hầu tòa sơ thẩm

55

trong 5 năm gần đây là:

Bảng 2.2.1a: Bảng số liệu thực trạng áp dụng hình phạt bổ sung từ

năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn thành phố Hà Nội

Năm

Tổng số vụ án hình sự đã thụ lý

Tổng số vụ án xét xử sơ thẩm

Tổng số bị cáo đã bị đƣa ra xét xử sơ thẩm

Số bị cáo đã bị áp dụng HPBS

2014

8.643

7.403

11.576

527

Tổng số bị cáo vi phạm các tội xâm phạm sở hữu bị áp dụng HPBS 21

2015

8.887

7.597

11.751

634

23

2016

9.069

7.686

12.852

687

20

2017

9.097

7.718

12.967

759

32

2018

9.168

7.765

12.894

786

29

62.040

3.393

Tổng

44.864

38.169

125

Dựa vào số liệu thống kê của các bảng trên, có thể thấy tần suất áp dụng

Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có xu hướng tăng lên, tuy

nhiên vẫn ở một trừng mực nhất định ko tăng quá nhiều. Tỷ lệ số lượng bị cáo

phạm các tội xâm phạm sở hữu bị áp dụng HPBS so với tổng số bị cáo bị áp

dụng Hình phạt bổ sung các năm lần lượt như sau: năm 2014 là khoảng 4%;

năm 2015 là khoảng 3,6%; năm 2016 là khoảng 2,9%; năm 2017 là khoảng

4,2%; năm 2018 là khoảng 3,7%.

Thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội trong thời gian

qua cho thấy Hình phạt bổ sung chủ yếu được áp dụng là phạt tiền bổ sung và

hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất

định, điều này được thể hiện trong số liệu của Bảng dưới đây:

Bảng 2.2.1b: Thống kê các loại Hình phạt bổ sung được áp dụng

STT Loại Hình phạt bổ sung

Phạt tiền khi không áp dùng là HPC Số bị cáo bị áp dụng HPBS đối với các tội xâm phạm sở hữu 109 1

56

13 2 Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định

Quản chế 3 0

Cấm cư trú 4 0

Tịch thu tài sản 5 03

6 Tước một số quyền công dân 0

7 Trục xuất khi không áp dụng là HPC 0

Tổng cộng 125

Thông qua số liệu của bảng trên, có thể thấy giai đoạn từ năm 2014 đến

năm 2018, Tòa án áp dụng Hình phạt bổ sung phạt tiền là chủ yếu, chiếm tỷ lệ

rất cao (chiếm tỷ lệ 87,2%) so với tổng số bị cáo bị áp dụng HPBS đối với các

tội xâm phạm sở hữu, tuy nhiên đang có chiều hướng giảm dần. Cùng với đó

là hai hình phạt Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định và Tịch thu tài sản được cơ quan Tòa án nhân dân áp dụng với tần

suất thấp hơn lần lượt là 10,4% và 2,4%. Do tính chất của hình phạt, điều

kiện áp dụng của các quy định của chương các tội xâm phạm sở hữu hẹp hơn

những hình phạt bổ sung trên nên không có trường hợp bị cáo nào bị áp dụng

các Hình phạt bổ sung còn lại là quản chế và cấm cư trú.

2.2.2. Một số nhận xét và đánh giá

Thứ nhất, cường độ áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm

phạm sở hữu còn thấp. Chủ yếu Hình phạt bổ sung được Tòa án nhân dân

Thành phố Hà Nội áp dụng đối với những tội xâm phạm an toàn công cộng,

trật tự công cộng, còn đối với các bị cáo bị kết án về tội phạm ở các chương

khác, cụ thể là chương sở hữu chỉ chiếm tỷ lệ rất ít. Điều đó thể hiện mức độ

quan tâm chưa cao của các cán bộ xét xử đối với nhóm tội mà luận văn này

đang nghiên cứu, chưa tương xứng với mức độ quan trọng của nhóm tội này.

Thứ hai, chưa đảm bảo được nguyên tắc công bằng trong áp dụng hình

57

phạt do việc nhận thức chưa nhất quán trong công tác áp dụng các quy định

của Hình phạt bổ sung, một phần các quy định trong Bộ luật Hình sự nội

dung, điều khiện phạm vi áp dụng khá rộng dẫn đến việc Thẩm phán dễ hiểu

nhầm hay áp dụng tùy tiện. Cụ thể, vẫn còn những quan niệm áp dụng Điều

54 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 với Hình phạt bổ sung để

quyết định mức phạt tiền bổ sung dưới 1 triệu đồng khi có các điều kiện về

tình tiết giảm nhẹ, tác giả cho rằng cách hiểu như vậy là không đúng quy định

của pháp luật hình sự. Điều 54 quy định áp dụng hình phạt dưới khung hoặc

loại hình phạt khác nhẹ hơn là quy định chỉ áp dụng với Hình phạt chính, bởi

vì bản thân Hình phạt bổ sung không được quy định khung hình phạt mà chỉ

có mức phạt tối đa, tối thiểu và cũng không có căn cứ xác định cụ thể Hình

phạt bổ sung nào nhẹ hơn, nặng hơn so với các Hình phạt bổ sung khác.

Thứ ba, đối với hình phạt tiền bổ sung, các cơ quan Tòa án vẫn chưa

xem xét “tình hình tài sản của người bị kết án, sự biến động giá cả khi quyết

định hình phạt” vẫn đưa ra những phán quyết tùy tiện dẫn đến việc người bị

kết án không có khả năng chấp hành hình phạt, gây khó khăn, mất thời gian

giải quyết cho các cơ quan thi hành án.

Trên đây là những đánh giá khái quát của tác giác đối với thực trạng

công tác áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu của Tòa

án nhân dân Thành phố Hà Nội.

2.3 Những tồn tại, hạn chế về việc áp dụng các hình phạt bổ sung đối với

các tội xâm phạm sở hữu và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.

2.3.1. Những tồn tại và hạn chế

2.3.1.1. Phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung

Thứ nhất, mức độ hoàn thiện quy định về hình phạt bổ sung của Bộ luật

hình sự 2015 và càng hoàn thiện hơn nữa sau khi Bộ luật này được sửa đổi bổ

58

sung năm 2017, các nhà làm luật đã thể hiện rất rõ vai trò của hình phạt tiền

với hai tư cách là Hình phạt chính và Hình phạt bổ sung. Đối với từng tội

phạm cụ thể, phạt tiền đều được quy định mức hình phạt với tư cách Hình

phạt chính hoặc mức phạt tiền với tư cách là Hình phạt bổ sung nhưng một cơ

số hình phạt có quy định phạt tiền là Hình phạt chính nhưng lại không quy

định áp dụng hình phạt tiền bổ sung. Việc có những quy định như vậy là thiếu

sót do khi đã áp dụng Hình phạt chính là hình phạt khác rồi thì lại không có

căn cứ áp dụng thêm hình phạt tiền bổ sung nữa.

Thứ hai, theo Khoản 2 Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 quy định rõ “Hình

phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham

nhũng ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định”. Tuy các

nhà làm luật đã quy định rõ các trường hợp áp dụng phạt tiền với tư cách là

HPBS đối với người bị kết án về tham nhũng, ma túy nhưng trên thực tế áp

dụng pháp luật thì hình phạt này chủ yếu được tuyên với các tội có tính chất

vu lợi hoặc sử dụng tiền làm phương tiện thực hiện. Do đó, việc nhấn mạnh

vào tội phạm tham nhũng và ma túy là không cần thiết vì phạm vi áp dụng

của hình phạt bổ sung này rất rộng, có thể áp dụng đối với các tội xâm phạm

sở hữu, xâm phạm trật tự công cộng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi

trường,…

Thứ ba, Điều 35 Bộ luật hình sự 2015 vẫn chưa có chế tài quy định về

việc không nộp, chậm nộp hay cố tình tìm lý do để trốn tránh trách nhiệm

hình sự đối với hình phạt tiền này.

Thứ tư, đối với thời điểm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

như hiện tại của nước ta, việc quy định mức phạt tiền tối thiểu một triệu đồng

của Bộ luật hình sự 2015 là khá thấp so với tốc độ phát triển kinh tế cũng như

sự mất giá của đồng tiền hiện nay. Chúng ta có thế thấy, mức tối thiểu của

59

hình phạt tiền này chưa đủ mức độ răn đe, tính trừng phạt chưa đủ cao. Chưa

kể đến, việc quy định mức phạt tiền tối thiểu này thì quy định cho cả hình

phạt chính và hình phạt bổ sung, tới đây đã có thể nhận thấy sự không hợp lý

vì rõ ràng các nhà làm luật nên có những quy định tách biệt ví dụ như mức tối

thiểu của Hình phạt chính sẽ phải cao hơn hoặc thậm chí là gấp vài lần mức

tối thiết của Hình phạt bổ sung.

Thứ năm, trong thời buổi quốc tế hóa hội nhập toàn cầu, vai trò của phạt

tiền nói chung phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung nói riêng là rất lớn

nên việc quy định áp dụng tùy nghi hình phạt bổ sung này trong phần các tội

phạm cần phải được nâng cao nhiều hơn nữa về số lượng và nội dụng mới

tương xứng với vị trí, vai trò của nó.

Thứ sáu, đối với một số trường hợp Bộ luật hình sự 2015 có điều luật

quy định mức phạt tiền là Hình phạt bổ sung có thể cao hơn mức phạt tối

thiểu của mức phạt tiền là Hình phạt chính trong cùng một tội danh (Ví dụ

như Điều 341 tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng

con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức; Điều 342 Tội chiếm đoạt, mua bán,

tiêu hủy con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; Điều 189 tội vận chuyển trái

phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới và một số Điều luật khác). Và còn nhiều

trường hợp quy định mức tối thiểu của hình phạt bổ sung và hình phạt chính

lại bằng nhau trong cùng một tội phạm như Điều 342, Điều 259, Điều 344

cùng với trường hợp mức phạt tiền tối đa của Hình phạt chính và hình phạt bổ

sung cũng bằng nhau như Điều 285, 286, 288 hoặc cả hai mức tiền phạt được

quy định như nhau (mức phạt đều từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng đối với

cả Hình phạt chính và Hình phạt bổ sung) tại Điều 287 bộ luật này. Chúng ta

vẫn có thể tin tưởng là các cơ quan áp dụng pháp luật vẫn sẽ hiểu rõ tính tùy

nghi của những quy định này trong các trường hợp trong thực tiễn nhưng xét

về khía cạnh kỹ thuật lập pháp thì những quy định như vậy chưa thực sự phát

60

huy được nguyên tắc tính minh bạch, rõ ràng về mặt ngôn ngữ lập pháp, mức

phạt của Hình phạt bổ sung phải thấp hơn mức phạt của Hình phạt chính mới

thể hiện rõ được vai trò hỗ trợ, nâng cao hiệu quả của Hình phạt bổ sung cho

Hình phạt chính.

Thứ bảy, hình phạt tiền với tư cách là Hình phạt bổ sung hầu hết được

quy định tùy nghi áp dụng đối với các loại tội phạm, chính vì điều này dẫn

đến việc áp dụng những hình phạt này trong thực tế rất hiếm hoi do đối với

các tội xâm phạm sở hữu thì phần lớn các bị cáo đều có điều kiện, hoàn cảnh

kinh tế khá khó khăn để có thể chấp hành hình phạt với mức tiền phạt cao như

Bộ luật quy định. Việc quy định tùy nghi như vậy cũng phần nào khiến mục

đích của những nhà làm luật đặt vào những quy định này chưa thể đạt được.

Cuối cùng, biên độ của mức hình phạt tiền với tư cách Hình phạt bổ sung

trong một số quy định còn quá lớn, mức tối đa có thể gấp hàng trăm lần so với

mức tối thiểu đối với cùng một tội phạm. Việc quy định như vậy khiến cho

tính cá thể hóa hình phạt của pháp luật kém đi, cùng với nó là mức hình phạt

tiền được tuyên bị ảnh hưởng rất lớn vào việc ý chí của các cơ quan áp dụng

pháp luật dẫn đến những khả năng tiêu cực trong thực tiễn xét xử.

2.3.1.2. Hình phạt tịch thu tài sản

Các quy định về hình phạt tịch thu tài sản thì hầu hết được quy định rất

rõ ràng, đầy đủ trong Bộ luật tuy nhiên chính yếu tố này đã dẫn đến những

điểm không hợp lý khiến cho tính phân hóa, cá thể hóa hình phạt của các quy

định.

Hình phạt tịch thu tài sản được quy định ở hầu hết trong 13 Điều quy

định về tội xâm phạm sở hữu nhưng đối với Điều 175 tội làm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản quy định gần như có tính chất bắt buộc áp dụng hình phạt

bổ sung này nhưng đối với tội phạm có tính nguy hiểm cao hơn như Tội trộm

61

cắp hay cướp giật tài sản lại không quy định áp dụng hình phạt bổ sung này.

Việc quy định như thế sẽ không đảm bảo tính công bằng trong trách nhiệm

hình sự.

Tất cả các quy định về hình phạt bổ sung tịch thu tài sản đều được áp

dụng cho những tội mà hành vi thực hiện là lỗi cố ý nhưng Điều 45 lại quy

định được phép áp dụng hình phạt bổ sung này gần như hầu hết các tội phạm,

kể cả hành vi của nó là lỗi cố ý hay vô ý. Việc quy định như vậy thật sự là

không thống nhất về mặt lô gíc của vấn đề và cần được các nhà làm luật xem

xét điều chỉnh.

2.3.1.3. Hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định

Đầu tiên, theo Điều 41 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định được

áp dụng hình phạt bổ sung này khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm

chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội,

có thể thấy việc định nghĩa mang tính chất tùy nghi như vậy sẽ gặp rất nhiều

những trường hợp trong thực tiễn Tòa án sẽ khó có thể quyết định được là có

nên áp dụng hình phạt này hay không. Ví dụ xảy ra trong trường hợp 01 điều

trong chương các tội phạm quy định bắt buộc phải áp dụng hình phạt bổ sung

này nhưng theo nhận định của Tòa án thì việc để người này vẫn giữ chức vụ,

hành nghề, công việc đó trong tương lai cũng không thể gây nguy hại cho xã

hội thì sẽ gặp phải những khó khăn nhất định trong việc áp dụng hình phạt bổ

sung này. Quy định khái niệm mang tính chất tùy nghi nhưng trong một số

trường hợp lại quy định bắt buộc áp dụng mâu thuẫn với tính chất tùy nghi đó,

đây là một trong những tồn tại, hạn chế vi phạm về mặt lý luận của Bộ luật

hình sự hiện hành.

Điểm thứ hai còn hạn chế về định nghĩa của hình phạt bổ sung cấm đảm

62

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định đó là việc quy

định áp dụng hình phạt này kèm theo án treo là không đúng về bản chất pháp

lý do hình phạt bổ sung thì chỉ được ban hành kèm theo, bổ sung cho hình

phạt chính mà trong khi án treo với tư cách lại là biện pháp miễn chấp hành

hình phạt tù.

Thứ ba, Điều 41 quy định yếu tố bắt buộc để được áp dụng là khi xét

thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công

việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội. Đây là quy định mang tính chất tùy

nghi, đánh giá dành cho Toà án. Do vậy, chưa lấy được chuẩn mực đo lường

về mức độ “gây nguy hại cho xã hội” thì không áp dụng hình phạt bổ sung

này?

- Nhưng để Toà án xét thấy trong tương lai họ không thể gây nguy hại

cho xã hội, nếu vẫn để cho họ tiếp tục đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc

làm công việc đó thì vấn đề này được Tòa án căn cứ vào yếu tố nào xác định.

Vậy, Tòa án có thể áp dụng quy định về Miễn hình phạt hay không?

- Tiếp đó là về thời hạn cấm từ 1 năm đến 5 năm có đủ để người phạm

tội tự sữa chữa, khắc phục hạn chế hoặc nâng cao tay nghề mà “không gây

nguy hại cho xã hội” lần sau? Bởi từng hành vi cụ thể nên có mức chế tài

khác nhau. Vì thế, việc quy định hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm

hành nghề hoặc làm công việc nhất định mà thời hạn là từ 1 đến 5 năm là

không thể hiện hết được tinh thần về chế tài của Điều luật. Thiết nghĩ nên sửa

đổi hoặc bỏ Điều 41 Bộ luật hình sự mà quy định trực tiếp theo từng Điều luật

cụ thể mới đạt được tính răn đe chung.

Tính nghiêm khắc và trừng trị người bị kết án của hình phạt bổ sung này

là rất lớn nên việc quy định hình phạt này kèm theo các hình phạt ít có tính

nghiêm khắc hơn đặc biệt là hình phạt cảnh cáo thì tác giả nhận thấy điều này

63

không cân xứng. Việc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc của người bị kết án nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống xã hội và

đặc biệt là kinh tế của người bị kết án vì có thể đây là nguồn thu nhập chính

để kiếm sống của họ, vì vậy việc tuyên hình phạt này kèm theo hình phạt tiền

trong một số trường hợp cũng gây ra sự khập khiễng.

2.3.1.4. Hình phạt bổ sung cấm cư trú

Đầu tiên, Điều 42 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy

định “Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc

thường trú ở một số địa phương nhất định” thì tác giả không đồng ý với định

nghĩa này bởi vì cụm từ “một số” ở đấy lại một lần nữa làm sai lệch đi bản

chất pháp lý của quy định này vì “một số” được hiểu là hai hoặc nhiều hơn.

Trong khi đó, Tóa án có thể cấm người bị kết án không được phép cư trú hoặc

thường trú ở một địa phương nhất định chứ không chỉ có thể cấm cư trú ở một

số địa phương, điều này vi phạm kỹ thuật lập pháp về nguyên tắc công khai,

minh bạch của ngôn ngữ lập pháp.

Tiếp theo, quy định cấm cư trú chỉ được áp dụng kèm theo hình phạt tù

dễ gây hiểu nhầm do hình phạt tù ở đây là hình phạt tù có thời hạn hay phạt tù

chung thân, quy định như vậy là chưa rõ ràng, minh bạch. Thật ra về lo gíc lý

luận thì các nhà làm luật muốn truyền tải có thể hiểu được vì nếu người bị kết

án lãnh hình phạt tù chung thân thì về lý luận lập pháp họ sẽ không thể tái hòa

nhập với xã hội bên ngoài nữa nên việc chấp hành hình phạt cấm cư trú là

không thể. Tuy nhiên, trên thực tiễn thì hầu hết những người bị kết tù chung

thân đều được giảm án và tha tù nên hiểu nhầm đối với quy định có thể áp

dụng HPBS này với hình phạt tù chung thân là vẫn có thể xảy ra.

Ngoài ra, có thể thấy Điều 42 của BLHS quy định rất ngắn về hình phạt

bổ sung cấm cư trú, cụ thể là về điều kiện áp dụng và các loại tội phạm có thể

64

áp dụng của cấm cư trú. Đây là một sự thiếu xót khi các hình phạt bổ sung

khác như quản chế, hình phạt tiền bổ sung, tước một số quyền công dân và

tịch thu tài sản lại có những quy định này rất rõ ràng.

2.3.1.5. Hình phạt bổ sung quản chế

Tương tự hình phạt bổ sung cấm cư trú phân tích ở trên thì hình phạt

quản chế cũng quy định chỉ áp dụng kèm theo “hình phạt tù” chung chung mà

không phân biệt rõ hình phạt tù ở đây là hình phạt tù có thời hạn hay phạt tù

chung thân.

Điều 43 BLHS quy định “Trong thời gian quản chế, người bị kết án

không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo quy

định của Bộ luật này và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định”, các

nhà làm luật quy định như vậy có thể hiểu là trong thời gian quản chế người

bị kết án sẽ phải chịu bị tước một hoặc một số quyền công dân, cấm hành

nghề hoặc là công việc nhất định. Như vậy, những hình phạt này chỉ là hệ quả

pháp lý nằm trong hình phạt quản chế chứ không phải là hình phạt bổ sung vì

trong lý luận hình sự không có việc Hình phạt bổ sung đi kèm theo một hình

phạt bổ sung khác được. Việc quy định như vậy là thiếu lô gíc, sai về mặc lý

luận và cần phải có điều chỉnh.

2.3.2. Những nguyên nhân

Từ những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng những hình phạt bổ

sung đối với các tội xâm phạm sở hữu, để đưa ra được những kiến nghị, giải

pháp khắc phục hiệu quả, hợp lý. Qua nghiên cứu, đánh giá tình hình triển

khai các hình phạt bổ sung của Tòa án nhân dân từ năm 2016 đến hết năm

2018, đặc biệt là giai đoạn sau khi Bộ luật được sửa đổi, bổ sung năm 2017,

tác giả nhận ra được những căn nguyên khác nhau dẫn đến những hạn chế, tồn

tại nêu trên:

65

Thứ nhất, nguyên nhân do các quy định của pháp luật.

Các quy định mang tính chất tùy nghi của Bộ luật Hình sự là nguyên

nhân trực tiếp dẫn đến thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt bổ sung rất

hạn chế. Do tính chất không bắt buộc của hình phạt bổ sung đối với các tội

xâm phạm sở hữu mà trong đó tất cả các hình phạt bổ sung ở chương XVI đều

được quy định tùy nghi (còn có thể), chính điều này khiến cho Thẩm phán

không có căn cứ cụ thể, rõ ràng để áp dụng các hình phạt bổ sung mà chủ yếu

dựa vào nhận thức, đánh giá chủ quan của họ, nhiều khi Thẩm phán không

đưa ra áp dụng hình phạt bổ sung cũng bởi vì thói quen của đơn vị hay các

đồng nghiệp hay ý thức chủ quan cảm thấy hình phạt chính là quá đủ rồi

không cần thiết phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung nữa.

Thứ hai, nguyên nhân từ công tác giáo dục nghiệp vụ tố tụng và tranh

tra, kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật, ở đây cụ thể là áp dụng

hình phạt bổ sung của các cơ quan Tòa án các cấp.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của cơ quan Tòa án nhân dân tối

cao là đưa ra đường lối xét xử và hướng dẫn áp dụng pháp luật cho Tòa án các

cấp. Tuy vai trò của Tòa án nhân dân tối cao rất cao giúp việc áp dụng pháp

luật đạt được những thành tựu của thực tiễn xét xử và giải quyết hiệu quả các

vụ án hình sự nhưng do hệ thống bộ máy các cấp đồ sộ và hệ thống các quy

định phức tạp dẫn dến việc chậm triển khai, một số chỉ đạo chưa kịp thời

không đáp ứng được tính cấp thiết của công tác xét xử trong giai đoạn hiện

nay. Thiếu những văn bản hướng dẫn, giải thích hay nội dung văn bản vẫn

còn chung chung, không xoáy vào cụ thể vấn đề vướng mắc của các cơ quan

cấp dưới nên chưa thể tháo gỡ được những khó khăn, vấn đề mắc phải hoặc

dẫn đến việc áp dụng sai lệch, tùy tiện của các cơ quan Tòa án các cấp.

Việc quản lý, thanh kiểm tra theo ngành dọc của cơ quan cấp cao chưa

66

được thường xuyên và kịp thời. Công tác quản lý đối với từng cá nhân cán bộ

trực tiếp thực hiện chưa thực sự tốt, vẫn để xảy ra những tiêu cực, sai phạm

trong thực tiễn xét xử. Việc đào tạo nghiệp vụ, giáo dục ý thức cán bộ chưa

thực sự tốt, việc xử lý những sai phạm chưa thực sự khắt khe, nghiêm khắc

dẫn đến vẫn tồn tại tiêu cực hoặc những dấu hiệu không khách quan, công

minh trong công tác xét xử của cơ quan Tòa án các cấp mà cụ thể ở đây là cán

bộ Thẩm phán ảnh hưởng tới chất lượng chuyên môn cũng như uy tín của cơ

quan xét xử của Nhà nước.

Thứ ba, nguyên nhân từ từng cá nhân thực hiện áp dụng các quy định

của pháp luật

Toàn bộ những hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu đều

được quy định áp dụng tùy nghi, việc áp dụng hay không áp dụng tùy thuộc

hoàn toàn vào ý chí chủ quan của cán bộ Thẩm phán nên việc việc một số cán

bộ thiếu năng lực, kinh nghiệm, trách nhiệm trong công tác đã dẫn đến những

hạn chế, tồn tại xảy ra trong thực tiễn xét xử.

- Do đội ngũ số lượng Thẩm phán thiếu thốn: Cơ quan Tòa án các cấp

trải dài tất cả 63 tỉnh thành tới từng quận/huyện để xử lý, giải quyết hàng vạn

vụ việc, vụ án, vì lẽ đó tình trạng thiếu hụt Thẩm phán trước tình hình tội

phạm ngày càng phức tạp như hiện nay khiến khối lượng công việc cơ quan

Tòa án các cấp ngày càng lớn và trở nên quá tải. Việc xử lý nhiều những vụ

án phức tạp, thậm chí những án tồn đọng khiến cho không mong muốn thì các

cán bộ Thẩm phán cũng khó có thể tránh khỏi những sai sót, sai lầm trong xét

xử, làm hạn chế hiệu quả và mục đích của các hình phạt bổ sung.

- Do năng lực và kinh nghiệm của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân:

Năng lực và kinh nhiệm của các cán bộ xét xử của nước ta rất cao và chuyên

nghiệp tuy nhiên vẫn còn chưa đồng đều, nhất là đối với các tỉnh lẻ, địa

67

phương vùng sâu vùng xa. Việc các đơn vị vùng xa ít có khả năng tiếp cận

được với các cơ quan cấp cao cũng dẫn đến khả năng cập nhật kiến thức, kỹ

năng nghiệp vụ của các cán bộ Thẩm phán. Tuy nhiên, cũng không thể đề cấp

đến một bộ phận Thẩm phán chưa tích cực trong việc tìm hiểu, trau dồi kiến

thức nhất là trong thời buổi nền kinh tế phát triển chóng mặt và tình hình tội

phạm không ngừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Đối với đội ngũ

Hội thẩm nhân dân thì trên thực tế kiến thức, hiểu biết của họ thực sự chưa

được như yêu cầu của nghiệp vụ xét xử, nên cũng ảnh hưởng rất lớn tới chất

lượng của việc xét xử đưa ra phán quyết.

- Về điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, công cụ công tác của cơ quan

Tòa án các cấp: Hiện nay, sự quan tâm của Nhà nước tới đội ngũ cán bộ Tòa

án đã nhiều hơn đáng kể so với các giai đoạn trước, tuy nhiên, vẫn chưa thể

tương xứng với tính đặc thù của hoạt động xét xử. Nhất là chính sách trả

lương cho các cán bộ công chức Tòa án chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu

đời sống của họ, nhiều cán bộ thực thi pháp luật vẫn còn rất khó khăn đặt

trong thời buổi kinh tế phát triển như hiện nay. Chính những đều đó khách

quan đã ảnh hưởng đến công tác nghiệp vụ và ý thức của chủ thể thực thi

pháp luật, việc này còn có thể dẫn đến những tư duy tiêu cực trong thực tiễn

giải quyết các vụ án.

- Do phẩm chất, đạo đức, ý thức của một số Thẩm phán: Thực tiễn cho

thấy các vụ việc xử lý vi phạm, không hoàn thành nhiệm vụ của một số Thẩm

phán ngày càng gia tăng, cảnh báo chất lượng của công tác xét xử Tòa án có

dấu hiệu đi xuống. Không thể phủ nhận một số Thẩm phán có ý thức, phẩm

chất không tốt, trách nhiệm nghề nghiệp còn thiếu ảnh hưởng trực tiếp tới

công tác xét xử đưa ra phán quyết không đảm bảo được mục đích của pháp

luật cũng như giữ vững được cán cân công lý trong xã hội. Chính quyền Nhà

nước cần có những giải pháp toàn diện thay đổi, uốn nắn nhằm khắc phục vấn

68

đề này trên mọi ngõ ngách của bộ máy thực hiện quyền tư pháp.

Tiểu kết chƣơng 2

Thứ nhất, chế định Hình phạt bổ sung trong Bộ luật Hình sự năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có sự tiếp thu, kế thừa và hoàn thiện một bậc so

với các quy định trước đó, được thể hiện trong: nội dung, điều kiện, phạm vi

áp dụng cũng như về kỹ thuật lập pháp đối với các quy định về từng loại Hình

phạt bổ sung đã được sửa đổi, hoàn thiện một cách đáng kể; tần suất được sử

dụng trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015 của các Hình

phạt bổ sung đã có sự điều chỉnh tương đối hợp lý, điển hình là Hình phạt tiền

bổ sung.

Thứ hai, bên cạnh khía cạnh tích cực vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần

khắc phục như: chưa có một khái niệm pháp lý đầy đủ về Hình phạt bổ sung quy

định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, đồng thời còn

thiếu quy định một cách đầy đủ, rõ ràng về nội dung, điều kiện và phạm vi áp

dụng đối với từng loại Hình phạt bổ sung; vẫn tồn tại những mâu thuẫn, không

thống nhất nhất định và thiếu tính khả thi đối với từng Hình phạt bổ sung.

Thứ ba, từ những kết quả nghiên cứu trên, luận văn tập trung đánh giá

tình hình áp dụng Hình phạt bổ sung của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội

trong thời gian từ năm 2014 đế năm 2018. Từ đó chỉ ra được những kết quả

đạt được, những khó khăn, tồn tại, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân dẫn tới

những tồn tại, vướng mắc đó. Kết quả nghiên cứu các quy định và thực trạng

áp dụng các Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu ở chương 2

là cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý để tác giả nghiên cứu và đưa ra những kiến

nghị, giải pháp khắc phục, hoàn thiện pháp luật về Hình phạt bổ sung nói

chung, Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng đồng

thời nâng cao hiệu quả áp dụng những Hình phạt bổ sung này được đề cập tại

69

chương tiếp theo của luận văn này.

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT BỔ SUNG ĐỐI

VỚI CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU

3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy

định về hình phạt bổ sung đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu

Đất nước ta trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới tuân theo chỉ đạo của

Đảng và nhà nước từ xưa đến nay cũng đã gặt hái được nhiều thành tựu mang

tính cách mạng, tiến bộ trên hết thảy mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn

hóa, chính trị, xã hội một cách toàn diện và không ngừng trở mình phát triển

nắm vị trí cao hơn trong mắt của cường quốc năm châu. Thế giới đang thay

đổi rất nhanh. Sau Đại hội Đảng cộng sản lần thứ XII, Đảng và nhà nước đã

đưa ra những mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng

lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống pháp luật, chính

trị vững mạnh. Trước những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây

dựng Nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải nâng

cao, hoàn thiện hơn nữa các công cụ, biện pháp đấu tranh, phòng chống tội

phạm mà trong đó hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự là một trong những

biện pháp trọng yếu. Trong sự phát triển nhanh chóng, phức tạp của nền kinh

tế thị trường, tình hình các tội phạm tác động tới tài sản mà cụ thể là các tội

xâm phạm sở hữu diễn ra ngày càng phức tạp. Sau các lần pháp điển hóa Bộ

luật hình sự, chế định Hình phạt nói chung và Hình phạt bổ sung nói riêng

luôn là công cụ mạnh mẽ, sắc bén để đấu tranh, phòng chống tội phạm của

Tòa án trong công tác xét xử; tạo điều kiện cho Tòa án cá thể hóa hình phạt,

tuyên những biện pháp phù hợp, xử lý triệt để và công minh đối với đối tượng

bị kết án; củng cố, tăng cường hiệu quả cho Hình phạt nói riêng và cả hệ

70

thống hình phạt của Luật Hình sự Việt Nam nói chung.

Tuy nhiên, do các quy định pháp luật được thể hiện trong thực định còn

tồn tại dưới dạng các văn bản pháp quy rời rạc, quy định lại không rõ ràng,

thiếu tính cụ thể và đặc biệt là không thống nhất với nhau ngay kể cả trong Bộ

luật cùng với đó là thực trạng tình hình tội phạm nói chung hay các tội vi

phạm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng diễn ra rất phức tạp. Chính vì thế,

việc xác định chế tài Hình phạt nói chung và Hình phạt bổ sung nói riêng đối

với loại tội này vẫn còn gặp nhiều khó khăn cho cơ quan xét xử, như sau:

- Trong quá trình xét xử, đưa ra quyết định hình phạt vẫn còn tồn tại

nhiều trường phái quan điểm khác nhau về việc áp dụng pháp luật đối với tội

phạm.

- Những khó khăn trong thực hiện định giá tài sản do căn cứ này rất quan

trọng trong việc xác định có tội hay không có tội. Điều này cũng tạo điều kiện

cho những yếu tố tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án.

- Trong Chương XVI các tội xâm phạm sở hữu vẫn tồn tại một số điều

luật chỉ quy định tội danh mà không quy định cụ thể hành vi cấu thành tội

phạm nên việc này dẫn đến rất khó khăn trong việc áp dụng cũng như hiểu

sai, áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan pháp luật. Cụ thể những quy

định đó là: Điều 169 tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Điều 171 tội cướp

giật tài sản, Điều 172 tội công nhiên chiếm đoạt tài sản, Điều 173 tội trộm cắp

tài sản, Điều 178 tội hủy hoạt hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, Điều 180 tội vô

ý gây thiệt hại nghiệm trọng đến tài sản. Những Điều luật này chỉ quy định

chung chung, không mô tả hành vi cụ thể dẫn đến nhiều trường hợp không

phân biệt được các hành vi cấu thành tội phạm, định tội danh khó có thể chính

xác gây ra tình trạng đưa ra quyết định hình phạt không đúng người đúng tội.

Trước những vấn đề trên, nhận thức đúng tầm quan trọng của công cuộc

71

đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng và Nhà nước luôn chủ trương những

chính sách cấp thiết phải nâng cao hiệu quả, cải cách tư pháp của Nhà nước

nói chung và nhánh quyền lực tư pháp nói riêng góp phần hỗ trợ, nâng cao

tính hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạum. Tất cả các

đơn vị có thẩm quyền đều phải quán triệt quan điểm, cụ thể hóa các quy phạm

pháp luật hình sự vào đời sống thực tế, đặc biệt là những quy định về pháp

luật hình sự. Những yêu cầu về việc hoàn thiện các quy định về Hình phạt bổ

sung nhằm đáp ứng chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước như sau:

- Các quy định về Hình phạt bổ sung phải đặt tính khả thi thực tiễn của

pháp luật lên trên, quy định nâng cao hiệu quả tối đa của pháp luật trong đời

sống xã hội.

- Hoàn thiện các quy định pháp luật chặt chẽ nhưng không được dập

khuôn, cổ hủ, vẫn phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền tự do dân

chủ của công dân, của con người. Tiệm cận tới những tiến bộ của nền tư pháp

thế giới, nhân loại như công bằng, tuân theo lẽ phải, nhân đạo, pháp chế và

dân chủ.

- Nhu cầu đổi mới pháp luật để bắt kịp với đà phát triển của nền kinh tế

thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Bên cạnh đó, cấp thiết trong đấu tranh phòng, chống tội phậm xâm phạm

sở hữu trong khi tình hình tội phạm của nhóm tội phạm này vẫn luôn gia tăng

và không có dấu hiệu suy giảm về cả số lượng và tính chất nguy hiểm gây

thiệt hại cho các quan hệ xã hội, ảnh hưởng tới đời sống nhân dân. Cơ quan

Tòa án trên cả nước dần dần đã đạt được những thành tựu nhất định trong

công tác đảm bảo giải quyết vụ án hình sự hiệu quả, đưa ra những phán quyết

đúng người, đúng tội, tuân thủ pháp luật và hạn chế oan sai. Về các tội xâm

phạm sở hữu, đòi hỏi mỗi cá nhân mỗi cán bộ tiến hành tố tụng phải nhận

72

thức sâu sắc, đúng đắn các quy định pháp luật và ở đây cụ thể là các quy định

về hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu.

Cuối cùng là cấp thiết trong việc giải quyết, khắc phục những tồn tại,

hạn chế, yếu kém của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức đúng

về vị trí, vai trò của hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu. Theo

phân tích thực trạng xét xử, Tòa án các cấp chưa thực hiện tốt công tác phối

hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, vai trò của Hội thẩm nhân dân trong

phiên xét xử còn hạn chế, Thẩm phán còn chưa đáp ứng được những yêu cầu

nghiệp vụ, cần phải áp dụng chính xác các Điều, khoản trong Bộ luật Hình sự

chưa thực sự đảm bảo được tính nghiêm minh, tinh thần của Bộ luật.

Chính những lý do nêu trên, cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hình sự

và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình phạt bổ sung đối với các tội xâm

phạm sở hữu trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi,

bổ sung năm 2017 về hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu

Thứ nhất, trong các hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu,

riêng với hình phạt tiền bổ sung, thực tiễn vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau

về khái niệm của hình phạt tiền bổ sung, để tránh tình trạng hiểu sai này, các

nhà làm luật nên bổ sung quy định về khái niệm pháp lý đối với hình phạt bổ

sung này: Phạt tiền là hình thức tước đi một khoản tiền nhất định của người bị

kết án để sung công quỹ nhà nước. Ngoài ra, phạt tiền là hình phạt bổ sung

được áp dụng phổ biến cũng như hiệu quả nhất đối với các tội phạm gây thiệt

hại về vật chất và cụ thể ở đây là các tội xâm phạm sở hữu. Tác giả nhận thấy

cần phải hoàn thiện quy định để mở rộng điều kiện áp dụng, nâng cao mức

phạt của hình phạt tiền bổ sung để kịp thời thích ứng với nền kinh tế thị

trường, hội nhập toàn cầu và một phần cũng phát huy Chiến lược cải cách tư

73

pháp “mở rộng hình phạt tiền” của Bộ Chính trị (Nghị quyết 49/NQ-TW).

Thứ hai, đối với hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc

làmm công việc nhất định: Theo Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017

thì Hình phạt này có thể được áp dụng kèm theo hình phạt cảnh cáo, cải tạo

không giam giữ và phạt tù có thời hạn. Như đã đề cập trong luận văn, về bản

chất thì của cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

nhất định tính trừng trị còn nghiêm khắc hơn so với hình phạt chính là cảnh

cáo và phạt tiền. Vì vậy, quy định phạm vi áp dụng của hình phạt bổ sung này

quá rộng, không phù hợp và tương xứng với tính nghiêm khắc của nó, các nhà

làm luật nên cân nhắc sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làmm công việc nhất định về nội dung, điều

kiện và phạm vi áp dụng theo hướng hoàn thiện như tác giả đã trình bày ở

trên.

Thứ ba, Mặc dù trong các điều luật về tội phạm và hình phạt có quy định

hình phạt “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làmm công việc

nhất định” nhưng tuyệt đại đa số các quy định lại rất chung chung, ví dụ như

cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, làm những

nghề hoặc công việc nhất định mà không chỉ rõ chức vụ nào, nghề nào hoặc

công việc nào bị cấm nếu phạm tội đó nên trong những trường hợp có thể toà

án vẫn có quyền tự do lựa chọn chức vụ nghề nghiệp, công việc cụ thể để cấm

người phạm tội không làm. Tất nhiên, toà án cũng chỉ có thể cấm người phạm

tội không được đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc

cụ thể mà người đó đã lợi dụng, lạm dụng hoặc có liên quan tới tội đã phạm.

Nhưng dù sao theo quan điểm của chúng tôi, những quy định theo cách như

thế cần phải được xem xét lại. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi càng quy định cụ

thể, chính xác bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, tránh sự tùy tiện của toà án trong

áp dụng.

74

Thứ tư, Điều 42 BLHS 2015 “Cấm cư trú” chỉ quy định: Buộc người bị

kết án tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định,

như vậy Điều luật chưa quy định đầy đủ nội dung cảa hình phạt cấm cư trú.

Tuy rằng, Nghị định 53/2001/NĐ-CP hướng dẫn thi hành hình phạt này cũng

đã quy định những nghĩa vụ và quyền hạn của người bị kết án. Nhưng Nghị

định này xét cho cùng cũng chỉ là một văn bản dưới luật, mà theo nguyên tắc

pháp chế thì hình phạt phải được quy định trong BLHS, vì thế nội dung của

hình phạt cấm cư trú được quy định tại Điều 42 phải còn bao gồm cả các

nghĩa vụ bắt buộc khác hiện đang được quy định trong Nghị định

53/2001/NĐ-CP thì mới đúng, mới có thể tránh được việc áp dụng tuỳ tiện có

thể xảy ra, xâm hại đến quyền và lợi ích của người bị kết án. Ngoài ra, cũng

cần chú ý là tuyệt đại đa số các điều luật cụ thể quy định hình phạt này

thường trong sự lụa chọn với hình phạt quản chế. Vì thế, nếu không xác định

rõ ràng nội dung, phạm vi và điều kiện áp dụng hai loại hình phạt này thì e

rằng sẽ hạn chế rất nhiều đến hiệu quả trong thực tế áp dụng loại hình phạt

này.

Thứ năm, nâng cao tính phân hóa trong quy định về hình phạt bổ sung

bằng cách thu hẹp khoảng cách mức hình phạt tối thiểu, tối đa và quy định

hình phạt bổ sung trong từng khung hình phạt khác nhau để nâng cao tính cá

thể hóa, tính chính xác của hình phạt.

Thứ sáu, Điều 380 của BLHS 2015 có quy định chế tài đối với người bị

kết án không chấp hành án phạt, tuy nhiên đối với các hình phạt bổ sung như

phạt tiền khi người bị kết án không đủ điều kiện để chấp hành hay Tòa án

tuyên hình phạt tịch thu tài sản trong khi người bị kết án không sở hữu đủ giá

trị tài sản như trong bản án thì chưa có quy định xử lý những trường hợp này.

Cần có những quy định về cách thức thi hành hình phạt bổ sung mang tích

cưỡng chế, chặt chẽ nhiều hơn. Trước đây cũng có quan điểm về việc thay thế

75

hình phạt mà người bị kết án chưa thể chấp hành bằng hình phạt nghiêm khắc

hơn, tuy nhiên quan điểm đó lại không phù hợp với nguyên tắc nhân đạo của

pháp luật nước ta. Để nâng cao hiệu quả chấp hành hình phạt, có thể đưa quy

định chuyển đổi hình phạt thành lao động công ích, đóng góp sức lao động

cho hoạt động công cộng mang lại lợi ích cho địa phương và xã hội vừa đảm

bảo tính khả thi trong việc thi hành hình phạt vừa đảm bảo được tính nhân

đạo của pháp luật nước ta.

Thứ bảy, liên quan đến chế định miễn hình phạt được quy định tại Điều

59 BLHS mà theo tác giả cần phải mở rộng việc áp dụng chế định này với cả

các Hình phạt bổ sung được quy định có tính chất bắt buộc áp dụng, chứ

không chỉ áp dụng duy nhất với HPC. Khoản 6 Điều 62 BLHS chỉ quy định

miễn chấp hành phần hình phạt còn lại đối với hình phạt cấm cư trú và quản

chế trong trường hợp người bị kết án đã chấp hành được một nửa thời hạn

hình phạt và cải tạo tốt chứ không đề cập tới việc miễn chấp hành phần hình

phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định và

một số HPBS khác trong khi người bị kết án đáp ứng đầy đủ các điều kiện

tương tự. Ngoài ra, nên bổ sung những chế định miễn chấp hành hoặc giảm

mức hình phạt bổ sung do cơ quan có thẩm quyền quyết định trong các trường

hợp người bị kết án không có điều kiện thi hành hoặc căn cứ vào tình tiết

giảm nhẹ của vụ án để miễn, giảm hình phạt bổ sung cho họ.

3.3. Các kiến nghị, giải pháp khác về nâng cao hiệu quả công tác áp dụng

pháp luật các hình phạt bổ sung đối với các tội phạm xâm phạm sở hữu

3.3.1. Một số quan điểm hiện nay về việc hoàn thiện chế định Hình phạt bổ

sung trong pháp luật Hình sự Việt Nam

Việc hoàn thiện các quy định về hình phạt bổ sung trong Pháp luật

Hình sự Việt Nam là điều tất yếu. Để có thể đạt được những yêu cầu khách

76

quan để nâng cao sự toàn diện của các quy định thì cần phải dựa trên những

quan điểm, đường lối, tư tưởng chỉ đạo đúng đắn.

Thứ nhất, quán triệt các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Hoàn thiện Pháp luật hình sự nói chung và chế định hình phạt bổ sung

nói riêng cần phải được nhận thức, quán triệt tối đa những đường đối, chính

sách của Đảng, Nhà nước về đấu trang phòng, chống tội phạm để quá trình

nghiên cứu, hoạch định chính sách hình sự và xây dựng, áp dụng pháp luật

hình sự triển khai đúng đắn và phù hợp với bối cảnh của nước ta hiện nay, đặc

biệt là trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0).

“Chính sách hình sự Việt Nam trước thách thức CMCN 4.0 là các chủ

trương, đường lối, sách lược lớn của Nhà nước trong việc sử dụng pháp luật

hình sự vào hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm, định hình những

vấn đề pháp lý hình sự và cụ thể hóa các quan điểm, thái độ xử lý đối với

những vấn đề đó trên nền tảng các chính sách xã hội kết hợp với thành tựu

cách mạng khoa học và công nghệ, góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật hình sự quốc gia, đáp ứng yêu cầu xã hội trong xu thế toàn cầu hóa

và phòng, chống tội phạm.” [67].

Cuộc CMCN 4.0 là cuộc cách mạng thể hiện sự kết hợp của công nghệ

trong các lĩnh vực vật lý, số hóa và sinh học, tạo ra thời đại công nghệ thông

tin kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật đều kết nối Internet và

các hệ thống kết nối Internet diễn ra trên phạm vi toàn cầu, thúc đẩy xã hội

loài người tiến vào kỷ nguyên mới, với những thành tựu đỉnh cao, đem lại

hiệu quả cao phục vụ con người. Việt Nam có những điều kiện và cơ hội để

tranh thủ, hưởng lợi từ CMCN 4.0 đem lại cho xã hôi, phục vụ con người và

vì con người. Tuy nhiên, những thách thức trên và nhiều hơn nữa đang đặt ra

đòi hỏi chính sách hình sự phải kịp thời có sự điều chỉnh, ứng phó và cụ thể

77

hóa kịp thời trong Bộ luật hình sự quốc gia. Những động thái, nước đi đầu

tiên của Đảng, Nhà nước ứng phó với CMCN 4.0 là khởi đầu để cho những

nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới ở nước ta, qua đó, tiếp tục hoàn thiện

chính sách hình sự và phục vụ hiệu quả việc áp dụng pháp luật hình sự, bảo

đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh toàn cầu hóa và

CMCN 4.0 hiện nay.

Những quan điểm, đường lối này phải được thể hiện sâu sắc trong các

văn kiện Nghị quyết của Đảng để công cuộc hoàn thiện pháp luật hình sự

nước ta thống nhất và đi đúng hướng.

Thứ hai, đảm bảo tính thống nhất, toàn diện và khả thi của các quy định

trong Pháp luật hình sự.

Tính thống nhất, toàn diện giữa hệ thống Hình phạt chính với hệ thống

Hình phạt bổ sung và các chế định khác trong Pháp luật hình sự. Phải đồng bộ

các quy định về Hình phạt bổ sung và quy định rõ ràng, chính xác về nội hàm,

điều kiện, phạm vi áp dụng và các mức phạt của chế định Hình phạt bổ sung.

Đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với các đạo luật khác liên quan trong

hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là phải phù hợp và không được trái với

Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hoàn thiện các quy định về hình phạt bổ sung phải có tính khả thi, phù

hợp với thực tiễn, dựa trên những bất cập để khắc phục và bắt kịp được xu thế

phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.

Thứ ba, đảm bảo tính cá thể hóa trong hình phạt bổ sung và sự phân hóa

trách nhiệm hình sự

Như chúng ta đã biết, hầu hết các hình phạt bổ sung được quy định trong

Bộ luật hình sự hiện hành đều quy định tùy nghi áp dụng, vì thế phải xác định

78

mức phạt tối đa và tối thiểu tránh tình trạng khoảng cách này quá rộng hiện

nay. Đối với Hình phạt bổ sung cấm cư trú, quản chế và tước một số quyền

công dân chỉ quy định mức phạt rất hẹp từ một năm đến năm năm và không

có sự phân hóa trách nhiệm hình sự. Phải bổ sung những quy định rõ ràng để

xác định rõ ràng các loại Hình phạt bổ sung trong chế tài tùy nghi lựa chọn

đối với từng loại tội phạm cụ thể để khắc phục những quy định Hình phạt bổ

sung đối với một số ít tội phạm cụ thể hoặc là đối với quá ít loại tội phạm.

Việc quy định tùy nghi áp dụng hình phạt bổ sung cũng như khả năng

lựa chọn cơ số Hình phạt bổ suing tạo điều kiện cho cơ quan xét xử có nhiều

sự lựa chọn , dễ dàng cân nhắc lựa chọn mức phạt dựa vào các tình tiết của vụ

án nhưng mặt khác cũng tạo ra điều kiện cho sự tùy tiện và chủ quan trong

quyết định hình phạt dẫn đến tiêu cực trong xét xử. Vì lẽ đó, tính cá thể hóa

hình phạt càng phải được thể hiện rõ hơn bằng cách bổ sung những quy định

xác định giới hạn khung, trách nhiệm hình sự đối với từng loại tội phạm khác

nhau nhằm khắc phục những hạn chế đã phân tích ở trên, đảm bảo nguyên tắc

pháp chế của Luật Hình sự.

Thứ tư, rút kinh nghiệm từ những bộ luật hình sự trong quá khứ cùng với

việc kế thừa và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của quốc tế

Đây là một trong những quan điểm tất yếu và luôn luôn được các nhà

làm luật của nước ta nhận thức và áp dụng. Pháp luật hình sự nói chung và ở

đây là chế định hình phạt nói riêng luôn phải được hoàn thiện một cách kế

thừa có chọn lọc của kinh nghiệm lập pháp của các nền pháp luật tiên tiến trên

thế giới. Thực hiện tội phạm/hình sự hóa, phi tội phạm/hình sự hóa những nội

dung của chính sách hình sự của Nhà nước dựa trên tư tưởng tiên tiến pháp

luật nhân loại luôn đặt sự bảo vệ lợi ích của con người, xã hội, lợi ích chung

mà vẫn giữ được truyền thống, bản sắc dân tộc riêng kế thừa những giá trị

79

ông cha ta để lại.

Việc tiếp thu, kế thừa những kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài tuy

tiến bộ nhưng lại khác biệt về tình hình xã hội cũng như đặc tính con người

Việt Nam, vì vậy, các nhà làm luật thực hiện nghiên cứu, so sánh các hệ thống

pháp luật khác nhau để tiếp thu, kế thừa nhưng luôn phải chọn lọc kỹ lưỡng

và hoàn thiện các chế định Hình phạt bổ sung tuân theo định hướng, đường

lối chính sách của Đảng lãnh đạo để giữ vững những giá trị dân tộc cũng như

lợi ích công dân nước ta.

3.3.2. Các giải pháp khác

3.3.2.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật và giải thích pháp luật

hình phạt bổ sung

Trong giai đoạn hiện nay, còn có nhiều quan điểm cũng như cách hiểu

khác nhau về những quy định trong Bộ luật Hình sự dẫn đến những lúng túng,

vướng mắc trong thực tiễn áp dụng Hình phạt bổ sung. Tòa án nhân dân tối

cao, Hội đồng Thẩm phán Tòa tối cao trong thời gian qua cũng ban hành

những văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật tuy nhiên còn hạn chế về số

lượng và chưa kịp thời ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng chuyên môn xét xử

của các cơ quan Tòa án các cấp.

Xuất phát từ việc thiếu thốn các văn bản hướng dẫn, áp dụng pháp luật

gây ra tình trạng né tránh, cố tình không áp dụng Hình phạt bổ sung do chưa

nắm bắt được hết tinh thần của điều luật, không xác định được hướng xử lý.

Một phần cũng bởi vì sợ đưa ra quyết định sai lệch nên bỏ qua, không áp

dụng Hình phạt bổ sung đối với người bị kết án mặc dù các tình tiết của vụ án

thể hiện rằng việc áp dụng Hình phạt bổ sung là điều cần thiết để ngăn ngừa

tội phạm mới, cải tạo, giáo dục người bị kết án.

Các cơ quan lập pháp và các cơ quan áp dụng, thi hành pháp luật cần

80

phải có hệ thống văn bản hướng dẫn, giải thích về việc thi hành các hình phạt

bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu trong thực tiễn phải theo đúng tinh

thần của Bộ luật, đảm bảo tính khả thi và đặc biệt là tính rõ ràng và thống

nhất giữa các văn bản để tránh tình trạng áp dụng không nhất quán như hiện

nay.

3.3.2.2. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tư pháp và năng lực, kinh

nghiệm, trình độ nghiệp vụ các cán bộ áp dụng hình phạt bố sung

Đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước luôn đổi mới,

dần hoàn thiện các quy định pháp luật theo từng thời kỳ cùng với đó phảo có

sự quan tâm, đổi mới trong việc xây dựng và áp dụng Hình phạt bổ sung.

Giữa các cơ quan lập pháp và áp dụng pháp luật cần thiết phải có những văn

bản giải thích, hướng dẫn thi hành rõ ràng về các Hình phạt bổ sung đối với

các tội xâm phạm sở hữu để đảm bảo tính khả thi cũng như hiệu quả cũng các

Hình phạt bổ sung này.

Tích cực đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp chuyên

sâu về nghiệp vụ, giàu về kinh nghiệm và đặc biệt am hiểu sâu sắc các quy

định về nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng, mức phạt của các Hình phạt bổ

sung đối với các tội xâm phạm sở hữu. Mỗi cá nhân có năng lực tốt sẽ mang

tới việc tăng cao của hiệu quả công tác áp dụng chế định Hình phạt bổ sung

trong thực tiễn trên từng cơ quan, đơn vị các cấp. Xây dựng đội ngũ cán bộ

trong sạch, trách nhiệm, năng lực trình độ chuyên môn cao luôn là nhiệm vụ

chủ yếu trong chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước đặt ra trong các thời

kỳ để kịp thời đáp ứng được những yêu cầu giải quyết tình hình tội phạm của

xã hội hiện nay (những chính sách này đã được thể hiện trong rất nhiều văn

kiện, Nghị quyết của cơ quan lãnh đạo).

Để thực hiện được những yêu cầu đó, cấp thiết phải tăng cường và

81

chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ tư pháp theo định hướng nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, đạo đức và ý thức

pháp luật của đội ngũ cán bộ tư pháp, cụ thể ở đây là Thẩm phán Tòa án và

Hội thẩm nhân dân. Ngoài ra, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể để đáp

ứng những nhu cầu đã phân tích ở trên như sau:

Thứ nhất, tổng kết đánh giá nhằm sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo hướng

chuyên sâu theo lĩnh vực, cùng với đó là thiết lập kế hoạch giáo dục, đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ Tòa án để bố trí, khai thác năng lực đúng lĩnh vực, loại án

theo sở trường của từng cá nhân. Các cơ quan cấp cao có thẩm quyền cần

triển khai rà soát, đánh giá cán bộ hàng năm để xây dựng kế hoạch trau dồi,

trấn chỉnh, điều chuyển công tác các nhân tố phù hợp đối với từng vị trí làm

việc. Từng bước nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết đối với từng vụ án

hình sự khắc phục những hạn chế trong giai đoạn hiện tại.

Thứ hai, đẩy mạnh chính sách quan tâm, ưu tiên đối với các đơn vị địa

phương vùng xa gặp nhiều yếu tố khó khăn khách quan từ sự thiếu hụt trong

quản lý chính quyền địa phương hay khó khăn trong thu hút nguồn cán bộ có

năng lực.

Thứ ba, tích cực học hỏi, tiếp thu các kinh nghiệm xét xử, áp dụng pháp

luật của các nền tư pháp tiên tiến nước ngoài. Liên kết nhiều hơn với những

cơ sở giáo dục, cơ quan, trung tâm để đưa các cán bộ nước ta sang nước ngoài

học hỏi nhằm đổi mới đa dạng hóa loại hình đào tạo, bồi dưỡng để rút kinh

nghiệm, hoàn thiện hơn công tác xét xử, giải quyết vụ án.

Thứ tư, giáo dục cán bộ về tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, bản lĩnh

chính trị của đội ngũ cán bộ tư pháp. Thống nhất tư tưởng, đường lối trong

từng cá nhân cán bộ là điều rất quan trọng, Đảng và Nhà nước phải thường

xuyên cập nhật, đổi mới các chính sách để chỉ đạo tổ chức thường xuyên hơn

82

công tác đào tạo, bổ dưỡng cán bộ nhằm bắt kịp với vòng xoáy phát triển của

kinh tế - xã hội trong tình hình mới. Cần đi sâu vào nội dung chuyên sâu đối

với từng vị trí, chức danh công việc thực tế, tránh miên man trong lý thuyết

hướng tới đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, dày

dặn về kinh nghiệm đóng vai trò yếu tố rất quan trọng trong công cuộc tiến

hành cải cách tư pháp của Nhà nước đang thực hiện.

Thứ năm, ngoài các cán bộ Thẩm phán, Thẩm tra viên, thư ký Tòa án thì

Hội thẩm nhân dân có những kinh nghiệm và trình độ chuyên môn riêng

nhưng lại thiếu sót, hạn chế về trình độ pháp lý dẫn đến việc chất lượng xét

xử, vai trò của Hội thẩm nhân dân chưa thể đáp ứng được nhu cầu. Khác với

đội ngũ cán bộ Thẩm phán có trình độ chuyên môn pháp lý cao được đào tạo

qua trường lớp, bài bản thì ngang quyền với họ là đội ngũ Hội thẩm nhân dân

cũng có thể định tội danh, ra phán quyết có hay không có tội thì trình độ và

năng lực pháp lý của Hội thẩm nhân dân còn rất hạn chế. Phải bổ sung những

yêu cầu về việc bổ nhiệm Hội thẩm nhân dân như trình độ ít nhất phải qua

trường lớp đào tạo pháp lý, có bằng cấp, chứng chỉ đào tạo, bồi dưỡng pháp

luật. Trước những yêu cầu đó, các cơ quan lãnh đạo có thẩm quyền cần phải

rà soát lại đội ngũ Hội thẩm, nắm bắt được được trình độ, năng lực pháp lý

của họ để tổ chức những đợt tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, năng lực thường

xuyên hàng năm, dần dần nâng cao vai trò của Hội thẩm nhân dân cũng như

chất lượng xét xử, áp dụng pháp luật. Có như vậy, đội ngũ Hội thẩm nhân dân

mới tương xứng với quyền lực phán quyết ngang với Thẩm phán của họ,

quyền trực tiếp quyết định công lý, lẽ phải cũng như công bằng xã hội.

3.3.2.3. Thúc đẩy tuyên truyền, phổ biển giáo dục pháp luật

Trong thời điểm cuộc cách mạng 4.0 hiện nay, các phương tiện thông tin

đại chúng phát triển rất mạnh, hầu như bất cứ công dân nào cũng có thể tiện

83

cận được với truyền thông, báo mạng nên cần phải đẩy mạnh nâng cao hiểu

biết pháp luật để nhân dân tiếp cận, nhận thức được pháp luật nói chung và

quy định về Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.

Đặc biệt với các cơ quan pháp luật nên có sách báo, truyền thông âm thanh,

hình ảnh tại khu vực và Tòa án nhân dân cần nhiều hơn những phiên tòa xét

xử lưu động tại địa phương để nhân dân có cơ hội được tiếp cận với pháp luật.

Cá nhân người dân bình thường chỉ quan tâm tới những quy định pháp

luật khi bản thân bị vướng vào do vi phạm pháp luật hoặc ảnh hưởng đến lợi

ích cá nhân khiến họ phải bất đắc dĩ tìm hiểu pháp luật. Tiếp tục phổ biến,

tuyên truyền sâu rộng kiến thức pháp luật kết hợp giải thích những vướng

mắc để nhân dân thay đổi cách tư duy pháp luật, chủ động tuân thủ pháp luật

đồng thời tránh phạm phải những quy định cấm.

Tăng cường tham vấn nhân dân, tiếp thu những ý kiến đóng góp của

người dân vào công tác xây dựng và thực thi pháp luật. Nếu khả thi, việc này

sẽ ảnh hưởng rất tích cực tới tâm lý, cảm tình, sử tin tưởng của nhân dân đối

với pháp luật. Đồng thời qua đó nâng cao hiểu biết, ý thức pháp luật của nhân

dân, khiến thái độ chấp hành pháp luật chuyển biến theo hướng tích cực.

Nhân dân cũng sẽ ý thức thực hiện hơn với những quy định, quy phạm mà

bản thân họ đã đóng góp một phần vào đó, không còn tâm lý đổ tại cho các cơ

quan Nhà nước.

Công khai, cung cấp đầy đủ, có hệ thống nội dụng tuyên truyền pháp luật

trên các cơ sở dữ liệu điện tử công khai của các cơ quan Nhà nước. Nâng cao

khả năng phối hợp, tương tác giữa các cơ quan pháp luật từ Trung ương tới

địa phương để thống nhất cũng như cập nhật kịp thời thông tin pháp luật.

3.3.2.4. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra việc áp dụng chế định Hình

phạt bổ sung đối với các cơ quan tư pháp

84

Thực tiễn xét xử cho thấy những tồn tại, hạn chế xảy ra một phần không

nhỏ là do công tác giám đốc, kiểm tra, thanh tra hoạt động xét xử của Tòa án

nhân dân tối cao và các cơ quan tòa án cấp cao chưa thực sự triển để. Trong

giai đoạn vừa qua, Tòa án nhân dân tối cao đã thực hiện tái thiết lập bộ máy

đơn vị thanh tra, kiểm tra và tổ chức những hội nghị điểm lại những thiếu xót

trong công tác kháng nghị, giám đốc thẩm để rút kinh nghiệm, đóng góp

phương án khắc phục của các Tòa án nhân dân cấp cao.

Tương lai, các cơ quan cấp cao như Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án

nhân dân cấp cao cần tăng cường thường xuyên hơn nữa công tác kiểm tra

nghiệp vụ của các Tòa án. Hàng năm phải tổ chức tối thiếu 2 đợt thanh, kiểm

tra toàn thể công tác xét xử của Tòa án các cấp. Tuyển dụng thêm nhiều cán

bộ có năng lực và kinh nghiệm bổ sung vào các đơn vị, bộ phận thực hiện

thanh, kiểm tra, giám đốc nghiệp vụ xét xử. Ngoài ra, cơ quan Tòa án cấp

trên có thể thực hiện những đợt kiểm tra đột xuất để nắm bắt kịp thời những

tồn tại, hạn chế trong công tác thực hiện xét xử, cụ thể hơn là công tác áp

dụng các quy định của Hình phạt bố sung đối với các tội xâm phạm sở hữu.

Riêng với Tóa án nhân dân thành phố Hà Nội cần tăng cường thanh tra,

kiểm tra hoạt động chuyên môn của cơ quan Tòa án cấp huyện thuộc tỉnh

nhằm rút kinh nghiệm, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản

án có hiệu lực pháp luật nhưng tồn tại sai xót nghiêm trọng hoặc tình tiết mới

ảnh hưởng tới kết quả của vụ án nâng cao chất lượng xét xử của Tỉnh, nhất là

việc áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu. Sau đợt

kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cần tổ

chức họp đưa ra những hạn chế, thiếu sót của những đơn vị Tòa án cấp huyện

một phần khiển trách, nhắc nhở, một phần giúp cho các cơ quan Tóa án cấp

huyện tham chiếu chéo nhau để rút kinh nghiệm, đưa ra những kiến nghị, giải

85

pháp nằm khắc phục hạn chế để xảy ra.

Tòa án nhân dân tối cao cần chú trọng việc phối hợp, liên kết với các cơ

quan cấp dưới đẩy mạnh chất lượng thanh tra, kiểm tra, giám đốc xét xử nhằm

phát hiện sớm, kịp thời đẩy lùi những khó khăn, bất cập trong xét xử thực tiễn,

đặc biệt đối với việc vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ án để tránh để lại

hậu quả nghiêm trọng. Hơn nữa, phải đảm bảo giám sát khách quan của các

cơ quan do nhân dân bầu ra, tích cực công khai xét xử cũng như bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật trên cổng thông tin điện tử chính thức của đơp vị

để người dân, các tầng lớp có cơ hội tiếp cận, thanh tra, giám sát công tác xét

xử, áp dụng pháp luật. Ngoài ra, cơ quan Tòa án các cấp tiếp tục phối hợp

chặt chẽ với nhau, với các đơn vị chuyên môn để đảm bảo thực hiện công bố

bản án, thông tin pháp luật trên Cổng thông tin điện tử chính thức của đơn vị

theo tinh thần của “Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP” của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành.

3.3.2.4. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn áp dụng Hình phạt bổ sung đối

với các tội xâm phạm sở hữu

Để tăng cường hiệu quả áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm

phạm sở hữu chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến việc đánh giá tổng kết việc

áp dụng chế định này nhằm rút ra những bài học cần thiết cũng như phát huy

tối đa hiệu quả của việc áp dụng chúng tránh tình trạng hạn chế về tần suất áp

dụng trong thực tiễn hiện nay. Việc tổng kết đánh giá sẽ giúp các cơ quan lập

pháp và cơ quan áp dụng pháp luật trên thực tế có điều kiện đánh giá một

cách tổng quan và chi tiết trong việc áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các

tội xâm phạm sở hữu để từ đó sửa đổi bổ sung để hoàn thiện pháp luật cũng

như việc áp dụng đúng đắn và thống nhất pháp luật trên thực tế.

Mặt khác, trong xu thế mở rộng hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay thì

86

hợp tác giữa nước ta với các nước ngoài trên thế giới về lĩnh vực tư pháp là

rất cần thiết. Do đó, việc tăng cường sự hợp tác quốc té và trao đổi về kinh

nghiệm lập pháp hình sự nói chung, các quy định của pháp luật hình sự về

Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng có ý nghĩa quan

trọng và tất yếu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghiên cứu, tham khảo, học tập có

chọn lọc kinh nghiệm quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tham khảo trước hết pháp

luật hình sự các nước có kinh nghiệm lập pháp, các nước khu vực và các nước

có quan hệ truyền thống làm tư liệu tham khảo lập pháp. Ví dụ như Bộ luật

hình sự Trung Hoa, Bộ luật hình sự Thụy Điển, Bộ luật hình sự Nhật Bản, Bộ

luật hình sự Liên Bang Nga, Bộ luật hình sự Hoa Kỳ,… như đã phân tích ở

cuối chương 1. Những quy định này có thể tham khảo để hoàn thiện pháp luật

hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, khi tham khảo chúng ta phải có sự sửa đổi, bổ

sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với thực tiễn xét xử

và có tính đến sự đồng bộ với các văn bản và đạo luật khác liên quan trong hệ

87

thống pháp luật.

Tiểu kết chƣơng 3

Dựa trên cơ sở tìm hiểu những quy định pháp luật hiện hành và những

hạn chế tồn tại trong thực trạng áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các tội

xâm phạm sở hữu trên thực tiễn đã phân tích ở chương 2, từ đó đưa ra những

giải pháp đối với tồn tại trong tình hình tội phạm gia tăng theo chiều hướng

ngày càng phức tạp. Những giải pháp được đưa ra theo nhiều khía cạnh khác

nhau (những giải pháp về mặt hoàn thiện các quy định của BLHS và các giải

pháp khách quan khác liên quan tới xã hội hay từng cá nhân, chủ thể) giúp

cho người đọc có cơ hội tiếp cận đa dạng hơn với những giải pháp hiệu quả,

khả thi trong thực tế. Nhu cầu giải quyết, khắc phục những tồn tại, hạn chế để

nâng cao hiệu quả áp dụng Hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm sở

hữu là điều tất yếu khách quan, tạo cơ sở cho việc áp dụng Hình phạt bổ sung

được đúng tinh thần của pháp luật, tiến tới đạt được mục đích cuối cùng của

88

hình phạt bổ sung.

KẾT LUẬN CHUNG

Thứ nhất, trong thời điểm hiện nay, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ

sung năm 2017 chưa có quy định cụ thể về khái niệm pháp lý của Hình phạt

bổ sung. Căn cứ những quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học khác

nhau cần với tự phân tích, tổng hợp trên cơ sở khoa học pháp luật, tác giả đưa

ra khái niệm pháp lý của Hình phạt bổ sung như sau: “Hình phạt bổ sung là

biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do cơ quan Tòa án được phép áp dụng bổ

sung cùng với Hình phạt chính trong khi không được tuyên độc lập mà chỉ có

thể được tuyên kèm theo một Hình phạt chính. Tòa án có thể áp dụng một

hoặc một vài Hình phạt bổ sung đối với người bị kết án hoặc pháp nhân

thương mại bị kết án”.

Thứ hai, luận văn đã đưa ra được vai trò của Hình phạt bổ sung trong

mối liên hệ với Hình phạt chính cùng với đó phân tích, đối chiếu quá trình

lịch sử của chế định Hình phạt bổ sung trong Pháp luật Hình sự Việt Nam từ

giai đoạn sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi ban hành Bộ luật Hình

sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, một quá trình chuyển biến, thay đổi dựa trên

cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc của các nhà làm luật. Mặc dù đã rút kinh

nghiệm, cải cách pháp luật theo từng giai đoạn lịch sử nhưng vẫn còn để lại

một số tồn tại, hạn chế như vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm

pháp lý của các Hình phạt bổ sung; chưa quy định cụ thể, rõ ràng phạm vi,

điều kiện áp dụng của các Hình phạt bổ sung; nhiều quy định có tính khả thi

không cao.

Thứ ba, tác giả đã phân tích, đánh giá tình hình áp dụng Hình phạt bổ

sung tối với các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội

trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018. Dựa trên kết quả đơn vị đạt được,

89

tác giả đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và tìm ra những nguyên nhân làm căn

cứ định hướng khắc phục, hoàn thiện quy định Hình phạt bổ sung đối với các

tội xâm phạm sở hữu.

Thứ tư, dựa trên cơ sở lý luận pháp luật Hình sự và đối chiếu tình hình

áp dụng Hình phạt bổ sung trong thực tiễn, luận văn đã đưa ra những kiến

nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện quy định pháp luật Hình sự, nâng cao

hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Không dừng lại ở đó,

quá trình nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện các lý luận về Hình phạt

bổ sung nói chung và HPBS đối với các tội xâm phạm sở hữu nói tiêng vẫn

phải chú trọng, tiếp tục đóng góp vào nên khoa luật Hình sự của nước ta

90

trong giai đoạn tiếp theo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I- Văn kiện Đảng

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01-02-

2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24-5-

2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam đến năm 2010. định hướng đến năm 2020.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02-6-

2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược CCTP đến năm 2020.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5

khoá XI, NXB Chính trị Quốc gia.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia.

II- Văn bản pháp luật và tài liệu khác

1. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam

năm2013 và Nghị quyết 64/2013/QH13 hướng dẫn Hiến pháp năm 2013.

2. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm

1992

3. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm

1980

4. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm

91

1959

5. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm

1946

6. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

7. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003

8. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988

9. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017

10. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015

11. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009

12. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự năm 1999

13. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự năm 1985

14. Quốc hội (2015), Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015

15. Quốc hội (2006), Luật luật sư năm 2006

16. Quốc hội (2017), Luật trợ giúp pháp lý năm 2017

17. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội năm 2001

18. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Chính phủ năm 2002

19. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

20. Quốc hội (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014

21. Quốc hội (2005), Luật Công an nhân dân năm 2005

22. Quốc hội (2005), Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005

23. Quốc hội (2010), Luật Thi hành án hình sự năm 2010

92

24. Quốc hội (2009), Luật lý lịch tư pháp năm 2009

25. “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)”

của GS.TSKH Lê Văn Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005;

26. Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của PGS. TS. Trịnh

Quốc Toản (GS.TSKH Lê Văn Cảm chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007);

27. “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật

hình sự Việt Nam” của PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội, 2011;

28. “Tìm hiểu về hình phạt và quyết định hình phạt trong luật hình sự

Việt Nam” của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Chính trị Quốc gia, 2000;

29. “Chương 8 - Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt”, Trong

sách: Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam

(GS.TSKH. Đào Trí Úc chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.

30. “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” của Khoa Luật, Đại học Quốc

gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội;

31. “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà

Nội, Nxb Công an nhân dân năm 2018;

32. “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 Phần thứ nhất –

Những quy định chung” của tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Thông tin và truyền

thông năm 2017;

33. “Từ điển Luật học năm 1999”, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội;

34. “Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam” của Trịnh

93

Quốc Toản, Luận án tiến sỹ năm 2010;

35. “Hình phạt bổ sung trong Luật hình sự Việt Nam đối với các tội

phạm về ma túy – trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên” của Trương

Thị Dung, Luận văn thạc sỹ năm 2017;

36. “Phạt tiền với tư cách hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt

Nam” của Nguyễn Thị Dung, Luận văn thạc sỹ năm 2014.

37. “Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam” của Phùng Thị Hải

Ngọc, Luận văn thạc sỹ năm 2015.

38. “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất theo luật

hình sự Việt Nam” của Lê Thị Trúc Quỳnh, Luận văn thạc sỹ năm 2010.

39. “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt trong luật hình

sự Việt Nam” Lê Quang Chiều, Luận văn thạc sỹ năm 2012.

40. “Các hình phạt không tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam” của

Lê Khánh Hưng, Luận văn thạc sỹ năm 2010.

41. “Áp dụng hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Hải Dương” của Đoàn Thị Hương Nhu, Luận văn thạc sỹ năm 2018.

42. “Về vai trò của hình phạt bổ sung trong Luật hình sự”, Trịnh Quốc

Toản, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012);

43. “Hình phạt bổ sung trong tiến trình phát triển của Luật hình sự Việt

Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 4 năm 2004;

44. “Hình phạt bổ sung trong tiến trình phát triển của Luật hình sự Việt

Nam”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2005;

45. “Các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự năm 1999 và hướng

94

hoàn thiện”, Dương Tuyết Miên, Tòa án nhân dân số 4/2009;

46. “Bàn về hình phạt bổ sung đối với người bị xét xử được hưởng án

treo theo BLHS 1999” của Huỳnh Văn Út, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11

năm 2013;

47. “Hình phạt bổ sung và thực tiễn áp dụng”, Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí

tòa án nhân dân số 04 năm 2007;

48. “Lý luận và thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung quản chế, tước một

hoặc một số quyền công dân theo quy định của Bộ luật Hình sự”, Vũ Thành

Long, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11 năm 2007;

49. “Các hình phạt bổ sung trong BLHS 1999 và hướng hoàn thiện”,

Dương Tuyết Miên, Tạp chí Tòa án nhân dân số 08 năm 2009;

50. “ Hình phạt bổ sung – Thực trạng và kiến nghị”, Nguyễn Quang

Hiền, Tạp chí Nghề luật số 03 năm 2015;

51. “Phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung trong LHS nước ta và

những kiến nghị hoàn thiện”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN

số 1 năm 2006;

52. “Về khái niệm và đặc điểm của hình phạt bổ sung trong LHS”, Trịnh

Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 1 năm 2009;

53. “Nhu cầu và những quan điểm cơ bản hoàn thiện chế định hình phạt

bổ sung trong LHS Việt Nam ”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học

ĐHQGHN số 4 năm 2009;

54. “Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí

Khoa học ĐHQGHN số 23 năm 2009;

55. “Về tồn tại, hạn chế của chế định hình phạt bổ sung trong BLHS

95

1999”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 2 năm 2010;

56. “Những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hình phạt bổ sung trong

BLHS 1999 và nâng cao hiệu quả của chế định này trong thực tiễn áp dụng”,

Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 3 năm 2010;

57. “Lịch sử của chế định hình phạt bổ sung trong LHS Việt Nam từ năm

1945 đến nay”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 2 năm

2010;

58. “Về những tồn tại và hạn chế cuả chế định hình phạt bổ sung trong

BLHS hiện hành”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 1 năm

2011;

59. “Những kiến nghị hoàn thiện các quy định về hình phạt bổ sung

trong BLHS năm 1999”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí Khoa học ĐHQGHN số 7

năm 2011;

60. “Thực tiễn áp dụng hình phạt bổ sung”, Trịnh Quốc Toản, tạp chí

Khoa học ĐHQGHN số 3 năm 2012;

61. “Nguyên tắc công bằng trong Luật Hình sự Việt Nam”, Võ Khánh

Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội năm 1994;

62. “Hình phạt bổ sung trong LHS Việt Nam.” Trịnh Quốc Toản (2011),

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

63. “Một số ý kiến về quyết định hình phạt bổ sung”, Trần Văn Độ

(1990), Tòa án Nhân dân (số 7);

64. “Về khái niệm và đặc điểm của hình phạt bổ sung trong Luật hình

sự”, Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009);

65. “Luật Hình sự Việt Nam”, Phạm Văn Beo, Quyển 2, Phần các tội

96

phạm, 2010, Nxb. Chính trị Quốc gia;

66. “Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo

vệ quyền con người” của PGS.TS Trịnh Quốc Toản, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 2015;

67. “Chính sách hình sự Việt Nam trước thách thức cách mạng công

nghiệp lần thứ tư” của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt – Tạp chí tòa án điện tử,

97

đăng ngày 30 tháng 05 năm 2019.