VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

N G U Y Ễ N T H

Y Ế N

NGUYỄN THỊ YẾN

CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ

THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ì

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ì

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

L U Ậ T H N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H N H S Ự

K H Ó A X

Hà Nội, năm 2021

…,, năm

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ YẾN

CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ

THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. DƯƠNG TUYẾT MIÊN

Hà Nội, năm 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

số liệu kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất

cứ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo

tính chính xác, trung thực và tin cậy. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã

thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Học viện

Khoa học xã hội.

Tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội xem

xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

TAND : Tòa án nhân dân

HĐXX : Hội đồng xét xử

TNHS : Trách nhiệm hình sự

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1. Thống kê các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trong Phần các

tội phạm của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Bảng 2.1. Thống kê áp dụng hình phạt chính tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc

Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

Bảng 2.2. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù tại Tòa

án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

Bảng 2.3. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù theo

nhóm tội tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................... 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 7

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................................ 7

7. Kết cấu luận văn .................................................................................................... 7

PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 9

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ...................................................................................................................................... 9

1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. ................................................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn .......... 9

1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ... 11

1.1.3. Ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ...... 14

1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. .............................................................................................. 15

1.2.1. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985 ................................................................................................................. 15

1.2.2. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào năm 1989, 1991, 1992, và 1997- sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985) ...................................................................... 19

1.2.3. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999) ............................................................................................................... 21

1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của BLHS Việt Nam năm 2015 .................................................................................. 24

1.3.1. Hình phạt cảnh cáo ................................................................................ 26

1.3.2. Hình phạt tiền ........................................................................................ 28

1.3.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ ......................................................... 31

1.3.4. Hình phạt trục xuất ................................................................................ 36

Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 39

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TẠI TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NÀY ............ 41

2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ................................. 41

2.1.1. Khái quát một số đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Bắc Ninh ......................................................................................................................... 41

2.1.2. Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ................................ 42

2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh..................... 56

2.2.1. Những vướng mắc về pháp luật hình sự trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh .............. 56

2.2.2. Những vướng mắc, tồn tại khác trong thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ........................................................... 60

2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ...................................................................................... 64

2.3.1. Các giải pháp hoàn thiện BLHS năm 2015 ........................................... 64

2.3.2. Các giải pháp khác ................................................................................ 68

Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 73

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 75

PHỤ LỤC LUẬN VĂN ........................................................................................... 79

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt

Nam, nước ta đã tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hóa và đạt được nhiều kết

quả đáng ghi nhận, đặc biệt là sự phát triển về kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định “Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách

quan, lôi cuốn càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,

vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà

không thể một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết mà không có sự hợp tác đa

phương” [12, tr.617]. Tuy nhiên, kinh tế càng phát triển thì xã hội lại càng xảy ra

nhiều vấn đề nhức nhối, đặc biệt là sự diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm.

Luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa

và chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích

của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ

nghĩa. Nếu nói Luật hình sự là công cụ để đấu tranh, phòng ngừa tội phạm thì hình

phạt lại là công cụ để đảm bảo tính giáo dục, răn đe ở mức độ cao đối với người

phạm tội và là một chế tài nghiêm khắc, một chế định cơ bản của luật hình sự. Hình

phạt là trách nhiệm pháp lý thể hiện sự lên án và sự trừng trị của Nhà nước mà

người phạm tội phải gánh chịu đối với những hành vi phạm tội do mình gây ra. Hệ

thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam bao gồm các hình phạt chính và các

hình phạt bổ sung. Trong đó, các hình phạt chính là biện pháp cơ bản có tính chất

quyết định của hình phạt, cùng với hình phạt bổ sung làm tăng thêm hiệu quả trong

công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong các hình phạt chính, các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vai trò đắc lực trong việc thể hiện và phát

huy nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, từ đó thực hiện một cách tốt nhất nguyên tắc

công bằng trong xử lý tội phạm. Các hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy

hiểm khác nhau thì mức xử lý cũng phải khác nhau.

1

Để đạt được hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm trong giai đoạn

hiện nay và cũng để thể hiện sự tôn trọng tinh thần của các điều ước quốc tế đặc biệt

là các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời

phù hợp với xu hướng chung của thế giới, Bộ luật hình sự năm 2015 đã có một số

thay đổi so với Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó có các quy định về các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, các Tòa

án mà cụ thể là Hội đồng xét xử khi quyết định áp dụng các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn cũng còn gặp nhiều vướng mắc cũng như vẫn còn tồn

tại một số thiếu sót trong hoạt động, từ đó ảnh hưởng nhất định đến việc áp dụng có

hiệu quả các hình phạt này.

Vì vậy, nghiên cứu đánh giá một cách tổng thể các quy định của Bộ luật hình

sụ về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tìm ra những điểm bất

cập thông qua việc tìm hiểu thực tiễn từ địa phương nơi mình công tác là TAND

tỉnh Bắc Ninh, từ đó đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định này là vấn đề cấp

thiết. Vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù

có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vai trò quan trọng

trong luật hình sự Việt Nam, vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở

những mức độ khác nhau nghiên cứu về hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn, điển hình một số công trình như sau:

* Về sách chuyên khảo, sách bình luận và giáo trình có các công trình sau:

1) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, NXB Công an

nhân dân, Hà Nội, 2001;

2) Ths. Đinh Văn Quế, “Tìm hiểu tội phạm và hình phạt trong Luật hình sự Việt

Nam”, NXB Phương Đông, 2010;

2

3) PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, “Hoàn thiện các quy định của phần chung Bộ luật

hình sự trước yêu cầu mới của đất nước”, NXB Chính trị quốc gia, Hà

Nội,2012;

4) PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, “Tội phạm và trách nhiệm hình sự”, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, 2013;

5) PGS.TS Trịnh Quốc Toản, “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam

dưới góc độ bảo vệ quyền con người”, NXB Chính trị quốc gia, 2015;

6) GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa

đổi bổ sung năm 2017 phần chung”, NXB Tư Pháp, 2017;

7) PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa – TS. Phan Anh Tuấn, “Bình luận khoa học

những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017”,

NXB Hồng Đức, 2017;

8) TS Lê Trung Kiên, “Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và Trung

Quốc”, NXB Tư Pháp, 2018.

Ngoài các sách chuyên khảo, bình luận nói trên còn có Giáo trình Luật hình

sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo về luật như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa

Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Học viện Tòa án… đều có đề cập đến các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

*Về luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ luật học có các công trình sau:

1) Lê Văn Hường, “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam”, luận văn

thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2000;

2) Nguyễn Sơn, “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam”, luận án tiến

sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003;

3) Phạm Thị Hiền, “Hình phạt cải tạo không giam giữ trong Luật hình sự Việt

Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2007;

4) Lê Thị Trúc Quỳnh, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất

theo Luật hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2010;

5) Lê Khánh Hưng, “Các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt

Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2010;

3

6) Đinh Thị Hoài Phương, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt cảnh

cáo theo Luật hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học

Quốc gia Hà Nội 2010;

7) Lê Thanh Hùng, “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo Luật hình sự Việt Nam

và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, luận văn thạc sĩ luật học,

Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014;

8) Nguyễn Minh Khuê, “Các hình phạt chính không tước tự do trong luật hình sự Việt

Nam”, luận án tiến sĩ Luật học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2014;

9) Phùng Thị Hải Ngọc, “Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt Nam” luận văn

thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia, Hà Nội 2015;

10) Nông Thế Chiến, “Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự Việt

Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2016;

11) Nguyễn Minh Tuấn,“Hình phạt trục xuất trong Luật hình sự Việt Nam”, luận

văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí

Minh, 2017;

12) Phạm Ngọc Toàn, “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định của Bộ luật

hình sự năm 2015”, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà

Nội, 2019;

13) Nguyễn Việt Xô, “Hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật Hình sự năm

2015”, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2019.

*Về các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học có các công trình sau:

1) Dương Tuyết Miên, “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù”, Tạp chí Tòa án nhân dân , số 19/2008;

2) Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt, “Thực trạng các quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí khoa học

ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008);

3) Đỗ Văn Chỉnh, “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân

, số 05/2009;

4) Nguyễn Văn Trượng, “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn áp dụng hình phạt cải

tạo không giam giữ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04/2009;

4

5) Trịnh Quốc Toản, “Một số vấn đề lý luận về hình phạt trong Luật hình sự”, Tạp

chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 27 (2011);

6) Lý Văn Tầm, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt cải

tạo không giam giữ”, Tạp chí kiểm sát nhân dân, số 13/2013;

7) Nguyễn Minh Khuê, “Hiệu quả của các hình phạt chính trong hệ thống hình

phạt của Việt Nam – đánh giá dưới góc độ chi phí xã hội”, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, số 01/2014;

8) Dương Tuyết Miên, “Về phạt tiền và cải tạo không giam giữ”, Tạp chí Luật học

số 03/2015;

9) Nguyễn Thị Ánh Hồng, “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các hình

phạt chính không tước tự do”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 08/2015;

10) Nguyễn Thị Ánh Hồng, “Một số thành công và hạn chế trong quy định của Bộ

luật hình sự năm 2015 về các hình phạt chính không tước tự do”, Tạp chí Khoa

học pháp lý, 2016;

11) Nguyễn Nhật Khanh, Nguyễn Phương Thảo, Trần Văn Thượng, “Hình phạt

trục xuất trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Một số

bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2018;

12) Nguyễn Phương Thảo, “Bất cập và hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về

hình thức xử phạt trục xuất”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2019;

13) Dương Thị Hồng Thuận,“Hoàn thiện quy định về một số loại hình phạt chính

tại phần chung của Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015”, Tạp chí Pháp luật và

thực tiễn, 2019;

14) Đinh Văn,“Bộ luật Hình sự đã quy định, nhưng vì sao hình phạt tiền vẫn ít

được áp dụng?”, tạp chí Khoa học Pháp lý, 2020.

Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng, đến thời điểm hiện nay, các công trình

khoa học nói trên là các tài liệu quý, đã gợi mở cho tác giả luận văn nhiều ý tưởng

trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu trên cho đến nay,

vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của BLHS Việt Nam năm

2015 và thực tiễn áp dụng các hình phạt này tại tỉnh Bắc Ninh dưới cấp độ luận văn

5

Thạc sĩ, chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế, từ đó đưa ra đề xuất hoàn thiện

quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Do vậy, việc

nghiên cứu các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh

Bắc Ninh là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 về

các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tìm ra vướng mắc trong quá

trình áp dụng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp

nhằm hoàn thiện các quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn trong Bộ luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao

hiệu quả của các hình phạt này trong thực tiễn áp dụng.

Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung làm rõ những nội dung

nghiên cứu sau:

- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn;

- Phân tích quy định của BLHS năm 2015 về các hình phạt chính nhẹ hơn

hình phạt tù có thời hạn;

- Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù

có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh;

- Làm rõ những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình áp dụng các hình phạt

đó từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh;

- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt này trong

thực tiễn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quy định của BLHS năm 2015 về các

hình phạt chính nhẹ hơn phạt tù có thời hạn, thực tiễn áp dụng các hình phạt này tại

tỉnh Bắc Ninh.

Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự, chủ yếu nghiên cứu các quy

định của BLHS Việt Nam 2015 về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

6

hạn và nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt đó tại tỉnh Bắc Ninh. Do việc áp

dụng các hình phạt chính chỉ được thực hiện trong giai đoạn xét xử khi quyết định

hình phạt của Hội đồng xét xử nên phần thực tiễn áp dụng, tác giả cũng chỉ nghiên

cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong

quá trình xét xử tại hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền để nghiên

cứu đề tài.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương

pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…để tổng

hợp và làm sáng tỏ các tri thức khoa học hình sự và luận chứng các vấn đề nghiên

cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Đây là công trình nghiên cứu khoa học đề cập tương đối hệ thống và toàn

diện về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm

2015. Luận văn phân tích các khái niệm, đặc điểm, mục đích, điều kiện áp dụng về

các hình phạt này, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời cũng chỉ ra các đặc

điểm cơ bản của các hình phạt này.

Kết quả nghiên cứu mà luận văn đạt được góp phần tăng cường việc áp dụng và

nâng cao chất lượng trong việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn trong thực tiễn xét xử. Là tài liệu tham khảo cần thiết trong việc nghiên cứu,

hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù

có thời hạn cũng như làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và nghiên

cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong cả nước.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

2 chương:

7

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn

1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn

1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của

BLHS Việt Nam năm 2015

Tiểu kết chương 1

Chương 2: Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù

có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các

hình phạt này

2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh

2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn

hình phạt tù có thời hạn

Tiểu kết chương 2

8

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP

LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI

HẠN

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn

hình phạt tù có thời hạn

1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Hiện nay, khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

chưa được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam. Để hiểu được khái niệm này

thì trước hết cần phải hiểu khái niệm hình phạt.

Trong lĩnh vực khoa học luật hình sự, hình phạt là một trong những đối

tượng nghiên cứu chủ yếu, trong đó việc làm sáng tỏ khái niệm hình phạt là một vấn

đề hết sức quan trọng. Ở Việt Nam, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của khoa

học luật hình sự trên thế giới và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của nước

ta, các nhà nghiên cứu Luật hình sự đã đưa ra những quan niệm về hình phạt như

sau:

“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy

định trong Luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm,

nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội

phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân”[14].

“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất do luật quy định được

Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định trong bản án đối với người có lỗi

trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các

quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án”[45].

Có thể thấy, các khái niệm trên đều thống nhất với nhau ở nội hàm, hình phạt

là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước do Tòa án áp dụng có nội

dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người phạm tội nhằm mục đích

giáo dục, cải tạo và trừng trị người phạm tội và phòng ngừa chung. Điều này là phù

9

hợp với khái niệm pháp lý về hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS năm

2015:“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy

định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp

nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,

pháp nhân thương mại đó.”

Trong luật hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và

hình phạt bổ sung trong đó các hình phạt chính đóng vai trò trụ cột trong việc trừng

trị, cũng như cải tạo giáo dục người phạm tội, còn các hình phạt bổ sung đóng vai

trò hỗ trợ cho hiệu lực của các hình phạt chính. Việc BLHS quy định các hình phạt

có mức độ nghiêm khắc khác nhau nhằm tạo điều kiện cho Toà án tuỳ từng trường

hợp phạm tội cụ thể để lựa chọn hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Hình phạt được quy định trong mỗi khung

hình phạt chính là sự phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được

quy định cũng như yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đối với tội đó.

“Một hệ thống hình phạt có nhiều hình phạt khác nhau thì việc xử lý càng chính xác

và do vậy càng tiến gần tới mục đích của hình phạt…”. [20, tr.271]

Về bản chất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trước hết

cũng mang những đặc điểm của hình phạt nói chung nhưng nó cũng mang đặc điểm

riêng của mình thể hiện ở chỗ các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

tuy là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước nhưng tính chất

nghiêm khắc này nhẹ hơn so với hình phạt tù có thời hạn (cũng như tù chung thân,

tử hình), không tước tự do của người bị kết án và chỉ áp dụng đối với cá nhân người

phạm tội. Vai trò của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất có ý

nghĩa. Nó không chỉ thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta mà còn góp phần

thể hiện tốt nguyên tắc cá thể hoá hình phạt. “Bởi vậy, khi quyết định hình phạt đối

với những trường hợp phạm tội cụ thể, trong một số trường hợp, nếu áp dụng hình

phạt tù với họ thì quá nặng và không thể đạt được mục đích của hình phạt. Trong

những trường hợp này, nếu xét thấy không cần cách ly người phạm tội ra khỏi đời

sống xã hội thì Tòa án có thể xem xét để họ được cải tạo, giáo dục trong môi trường

cộng đồng”[20, tr.271].

10

Trên cơ sở phân tích nêu trên, có thể hiểu khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn như sau:

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là những biện pháp

cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được áp dụng đối với người phạm tội, có

mức độ nghiêm khắc thấp hơn hình phạt tù có thời hạn, được BLHS quy định và do

Tòa án quyết định áp dụng nhằm tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của người phạm

tội.

1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt nên

trước hết, nó mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt. Bên cạnh đó, nó còn có một

số đặc điểm riêng để phân biệt giữa các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn với các hình phạt chính khác.

Thứ nhất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng có

những đặc điểm chung của hình phạt. Cụ thể như sau:

+ Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước (tước bỏ hoặc hạn

chế quyền và lợi ích của người phạm tội).

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, tức là

không có một chế tài nào nghiêm khắc hơn hình phạt. Tính nghiêm khắc nhất của

hình phạt thể hiện ở nội dung tước bỏ, hạn chế quyền và lợi ích của người bị kết án

như quyền sở hữu, quyền tự do và có thể cả quyền sống của con người…Các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn do là hình phạt, nên cũng mang tính

cưỡng chế nghiêm khắc, thể hiện ở chỗ nó có thể gây tổn thất về tinh thần cho

người bị kết án (cảnh cáo), hoặc tước bỏ hoặc hạn chế lợi ích kinh tế của họ (phạt

tiền); hoặc buộc họ phải cải tạo tại cộng đồng dưới sự giám sát của cơ quan có thẩm

quyền (cải tạo không giam giữ) hoặc buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong

thời hạn nhất định (trục xuất). Bên cạnh đó, người bị kết án hình phạt trên còn chịu

án tích.

11

Khi xem xét, so sánh riêng lẻ giữa một số hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt

tù có thời hạn với một số hình phạt bổ sung và với một số biện pháp cưỡng chế

không phải cưỡng chế hình sự, chúng ta cũng không thể phủ nhận một thực tế rằng

một số hình phạt bổ sung hoặc một số biện pháp cưỡng chế không phải cưỡng chế

hình sự cho thấy mức độ nghiêm khắc có thể cao hơn một số hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn, ví dụ hình phạt cảnh cáo với tư cách là hình phạt chính

so với hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung hoặc với tư cách là hình thức

xử lý hành chính. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn vẫn là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc

hơn so với các biện pháp cưỡng chế nhà nước không phải cưỡng chế hình sự và so

với hình phạt bổ sung. Sự nghiêm khắc hơn của hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt

tù có thời hạn thể hiện ở chỗ các hình phạt này, dù nặng hay nhẹ khi được áp dụng

đều dẫn đến hậu quả pháp lý là người bị kết án phải chịu án tích trong một khoảng

thời gian nhất định theo quy định pháp luật, hậu quả pháp lý của án tích nặng nề

hơn các chế tài khác.

+ Được quy định trong BLHS và do Toà án quyết định áp dụng bằng bản án

kết tội có hiệu lực pháp luật.

Khoản 1 Điều 2 BLHS năm 2015 có quy định:“Chỉ người nào phạm một tội

đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.” Như vậy,

tính được quy định trong BLHS là yếu tố bắt buộc khi xem xét việc một người có

phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Ngoài BLHS ra, không có một đạo luật

nào được quy định tội phạm và hình phạt mà chỉ người nào phạm một tội đã được

BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Tội phạm và hình phạt luôn đi

liền với nhau. Đã thực hiện tội phạm thì về mặt nguyên tắc phải chịu hình phạt và

ngược lại hình phạt chỉ áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội bị Luật hình sự coi là tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự

bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, chính xác, khách quan, bảo đảm không ai bị

coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Hình phạt

do Tòa án quyết định phải được tuyên một cách công khai bằng một bản án và phải

12

là kết quả của một phiên tòa xét xử hình sự với đầy đủ trình tự, thủ tục do Luật tố

tụng hình sự quy định.

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt, do

vậy, các hình phạt này cũng được quy định trong BLHS (tại các Điều 34, 35, 36,

37). Các hình này do Toà án quyết định áp dụng bằng bản án kết tội có hiệu lực

pháp luật.

+ Được áp dụng độc lập và mỗi tội phạm chỉ được tuyên một hình phạt chính.

Khoản 3 Điều 32 BLHS năm 2015 có quy định: Đối với mỗi tội phạm, người

phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số

hình phạt bổ sung.

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt chính

nên nó cũng có đặc điểm của các hình phạt chính. Đó là hình phạt áp dụng đối với

người phạm tội và được Tòa án tuyên độc lập phù hợp với tính chất, mức độ nguy

hiểm của tội phạm mà chủ thể phạm tội đã thực hiện, về nguyên tắc mỗi tội phạm

chỉ có thể tuyên một hình phạt chính. Trong phần các tội phạm của BLHS, ở mỗi tội

phạm được quy định một hay nhiều loại hình phạt chính và Tòa án lựa chọn một

trong các hình phạt chính mà điều luật quy định để áp dụng đối với người phạm tội

nhưng phải đảm bảo hình phạt này là phù hợp, tương xứng với tính chất và mức độ

nguy hiểm của tội phạm mà chủ thể đó đã thực hiện.

Thứ hai, đặc điểm riêng biệt của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt

tù có thời hạn

So với hình phạt tù có thời hạn, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn có mức độ nghiêm khắc thấp hơn, (cũng như thấp hơn cả hình phạt tù

chung thân, tử hình).

Theo tinh thần tại Điều 32 BLHS năm 2015, các hình phạt chính trong BLHS

được sắp xếp theo trình tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc. Các hình phạt chính

này tuy đều tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội, nhưng có mức

độ nghiêm khắc khác nhau trong đó, cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất và tử hình là

hình phạt nặng nhất. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có mức

13

độ nghiêm khắc thấp hơn tù có thời hạn (cũng như tù chung thân, tử hình) bởi vì

người bị kết án các hình phạt này không bị tước tự do có thời hạn hay vĩnh viễn

hoặc bị tước đoạt tính mạng. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

có thể gây ra những tổn thất nhất định về mặt tinh thần đối với người phạm tội

thông qua việc khiển trách công khai của nhà nước (hình phạt cảnh cáo), hoặc cũng

có thể buộc họ phải chịu cải tạo tại cộng đồng dưới hoạt động giám sát, giáo dục

của cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc hoặc cư trú (hình phạt cải tạo không

giam giữ), hoặc tước bỏ lợi ích của người phạm tội là một khoản tiền nhất định

(hình phạt tiền, việc khấu trừ thu nhập ở hình phạt cải tạo không giam giữ); hoặc

tước quyền cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (trục xuất). Trong khi đó, hình phạt tù có

thời hạn lại tước tự do trong một thời hạn nhất định của người phạm tội, hình phạt

tù chung thân thì tước tự do vĩnh viễn, hình phạt tử hình thì tước bỏ tính mạng của

người phạm tội. Do đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn thể

hiện tính cưỡng chế và nội dung trừng trị thấp hơn hình phạt tù có thời hạn (cũng

như tù chung thân, tử hình).

1.1.3. Ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Trong hệ thống hình phạt chính áp dụng với cá nhân phạm tội trong luật hình

sự Việt Nam thì hệ thống hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vị trí

rất quan trọng, cùng với các hình phạt chính khác như tù có thời hạn, tù chung thân,

tử hình thì loại hình phạt này góp phần làm cho hệ thống hình phạt cân đối, tương

xứng và hoàn thiện hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm,

phù hợp với xu hướng phát triển chung của hệ thống hình phạt hiện đại. Việc quy

định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tạo điều kiện bảo đảm

cho việc xét xử được công bằng bởi sự quy định đa dạng các loại hình phạt, bảo

đảm cho Tòa án tuỳ từng trường hợp cụ thể lựa chọn được hình phạt phù hợp với

tích chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ TNHS và nhân thân người phạm tội; đồng thời góp phần làm tăng

hiệu quả của hình phạt, khắc phục được những hạn chế của hình phạt chính tước tự

do quá phụ thuộc vào các cơ sở giam giữ, nhân lực của Nhà nước và chi phí cho

việc tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án. Do

14

vậy, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là công cụ hữu hiệu trong

phòng chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp

pháp của công dân.

Việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng góp

phần thể hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong các

Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp, đó là giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình

phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp

dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới và phù

hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, góp phần thể

hiện tốt các nguyên tắc khác nhau của BLHS như nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc

công bằng, nguyên tắc phân hóa TNHS và cá thể hoá hình phạt. Tính nhân đạo

trong pháp luật hình sự thể hiện ở việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội với

mục đích chủ yếu nhằm: cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội và

giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung. Tính công bằng và

phân hóa TNHS thể hiện việc người phạm tội sẽ được tuyên hình phạt phù hợp với

tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ TNHS tương ứng.

1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn

hình phạt tù có thời hạn.

1.2.1. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS

năm 1985

Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,

mở ra trang sử mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Để bảo vệ chính quyền nhà

nước còn non trẻ, cần phải xây dựng hệ thống pháp luật và sử dụng pháp luật, trong

đó pháp luật hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng như một công cụ sắc bén, hữu

hiệu để trấn áp sự phản kháng của bọn phản động, bảo vệ thành quả cách mạng.

Trong giai đoạn đó, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các sắc lệnh như sắc lệnh số

15

27 ngày 28/02/1946 quy định trừng trị những hành vi bắt cóc, tống tiền và ám sát;

sắc lệnh số 202 – SL ngày 15/10/1946 quy định việc buôn bán vàng bạc…

Bên cạnh những văn bản mới ban hành, Nhà nước ta còn cho phép sử dụng

những văn bản pháp luật hình sự cũ, đó là các điều luật của Bộ luật hình sự Bắc Kỳ,

Bộ luật hình sự Trung Kỳ và Bộ luật hình sự áp dụng ở Nam Kỳ mà không trái nội

dung nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (theo sắc lệnh số 47

ngày 10/10/1945).

Qua các văn bản pháp luật hình sự nói trên thì chúng ta chưa có văn bản

pháp luật hình sự nào trong thời kỳ này quy định về hệ thống hình phạt. Tuy nhiên,

qua các sắc lệnh, sắc luật, pháp lệnh và một số văn bản pháp luật khác thì các hình

phạt chính được áp dụng trong giai đoạn này gồm: Tử hình, tù chung thân, tù có

thời hạn, cảnh cáo, quản chế, phạt tiền. Trong đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, quản chế.

Đối với hình phạt cảnh cáo: Theo các văn bản pháp luật thời kỳ này thì

cảnh cáo vừa là biện pháp xử lý hành chính, vừa là hình phạt. Về khía cạnh hình

phạt thì cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất được áp dụng đối với người phạm tội như

“Tội vi phạm quyền bầu cử và ứng cử của công dân” Điều 61 pháp lệnh số 1/LCT

ngày 18/01/1961 pháp lệnh về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp quy định:

“Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại đến

quyền tự do bầu cử và ứng cử của công dân, thì tuỳ mức độ nặng nhẹ mà có thể bị

cảnh cáo hoặc bị phạt tù, nặng nhất là 2 năm.”

Đối với hình phạt tiền: Trong giai đoạn này có nhiều văn bản quy định hình

phạt tiền là hình phạt chính, được áp dụng trong trường hợp phạm tội không thật

nguy hiểm, đáng được chiếu cố, khoan hồng, với những tội có tính chất vụ lợi. Ví dụ

như: tại Điều 5 và Điều 8 Sắc luật số 202/SL ngày 15/10/1946 quy định về việc buôn

bán vàng bạc cho phép phạt tiền gấp ba hoặc năm lần số vàng gian lận; tại khoản 1

Điều 3 sắc lệnh số 61/SL ngày 05/7/1947, về ấn định thể thức xuất cảng, nhập nội các

tư bản, quy định phạt tiền gấp ba số tư bản định xuất cảng hay nhập nội.

16

Đối với hình phạt quản chế: “Quản chế là dùng quyền lực của chính quyền

và của nhân dân để xử trí những phần tử đã phạm tội với cách mạng, với nhân dân

những tội chưa đáng phạt tù, hoặc đã mãn hạn tù nhưng chưa thực sự hối cải”

(Điều 1 Sắc lệnh số 175 ngày 18/8/1953). Phương châm của quản chế là: Kết hợp

kiểm soát của chính quyền với kiểm soát của nhân dân và kết hợp giáo dục với bắt

buộc lao động để sinh sống. Hạng người sẽ bị quản chế bao gồm: Địa chủ, cường

hào có tội nhẹ; Bọn đã làm gián điệp, bọn đã tham gia đảng phái phản động, nói

chung bọn đã làm tay sai cho địch nhưng tội nhẹ mà nay chưa thực sự hối cải; Bọn

lưu manh trước kia đã chuyên sinh sống bằng trộm cắp; Kẻ đã mãn hạn tù nhưng

chưa thực sự hối cải.

Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta toàn

thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Từ đây, cách mạng Việt Nam chuyển sang

một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất, cùng thực hiện một nhiệm

vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Ngày 25/4/1976,

trên 23 triệu cử tri của nước Việt Nam thống nhất đã nô nức làm nghĩa vụ công dân

của mình, bầu những đại biểu xứng đáng vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất

của nước Việt Nam. Ngày 02/7/1976, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ nhất, đã ra

Nghị quyết giao cho Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm hướng dẫn áp dụng pháp

luật thống nhất trong cả nước. Căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng Chính phủ thì

các văn bản pháp luật hiện hành ở cả hai miền đều được áp dụng trong cả nước.

Những văn bản quy phạm pháp luật trước đây đã ban hành ở miền Bắc tiếp tục được

áp dụng. Những năm đầu của thập kỷ 80, cùng với việc ban hành Hiến pháp nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam có ban hành nhiều luật. Hội đồng nhà nước có ban hành các sắc

lệnh trong đó có sắc lệnh về tội phạm và hình phạt như pháp lệnh ngày 20/5/1981

trừng trị tội hối lộ, pháp lệnh ngày 30/6/1982 trừng trị các tội buôn lậu, làm giả,

kinh doanh trái phép.

Điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là hình phạt “Cải tạo không giam giữ”

bắt đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự và trong phần quy

định trách nhiệm của người trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Khoản 1 Điều 6 của pháp

17

lệnh ngày 30/6/1982 có quy định: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc

không đúng với nội dung được phép…thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 03

tháng đến 02 năm…”Điều 69 của Luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30/12/1981, quy định: “Người nào

đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành những quy định…thì tùy

theo mức độ nặng nhẹ mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị cải tạo không

giam giữ từ ba tháng đến hai năm”.

Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự từ năm 1975 đến năm 1985 thì

thấy, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy định và áp

dụng trong giai đoạn này gồm có: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ.

Nhận xét: Từ những phân tích ở trên có thể rút ra những đặc điểm của các

hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam

trước khi pháp điển hóa luật hình sự như sau: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn được quy định theo chiều hướng phát triển nhưng chưa được rõ

ràng, thiếu nội dung và điều kiện áp dụng, chưa phân biệt rõ biện pháp xử lý hành

chính và hình phạt. Do chưa có hệ thống hình phạt hoàn chỉnh, các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không thể sắp xếp vào trật tự được do chúng không

có mối quan hệ chuyển tiếp với hình phạt tù, cho nên giữa các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù có một khoảng cách lớn về tính cưỡng

chế và hậu quả pháp lý khi áp dụng. Trong thời kỳ đầu, khi quản chế còn được coi

là hình phạt chính thì giữa hình phạt tù và hình phạt quản chế còn có bước chuyển

tiếp nhất định (tước tự do của hình phạt tù và hạn chế tự do của hình phạt quản chế)

cho đến khi quản chế chỉ được áp dụng là hình phạt bổ sung thì tính cưỡng chế và

hậu quả pháp lý giữa các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và hình

phạt tù có thời hạn càng được mở rộng. Thực tế, trong giai đoạn này, các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất ít được áp dụng. Đối với những trường

hợp mà có thể cải tạo giáo dục tại địa phương mà không cần cách ly ra khỏi xã hội,

Tòa án thường áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

18

1.2.2. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

trong BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào năm 1989, 1991, 1992, và 1997-

sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985)

Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở nền kinh tế bao cấp

và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là

nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt. Để đáp ứng và phục vụ

cho công cuộc đổi mới của đất nước, luật hình sự buộc phải có những thay đổi

mang tính phát triển, điều đó được thể hiện qua những sửa đổi, bổ sung của BLHS

cụ thể: BLHS năm 1985 có hiệu lực từ ngày 01/01/1986, đã trải qua 04 lần sửa đổi,

bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, chính thức hết hiệu lực vào ngày

01/7/2000.

Tại khoản 1 Điều 21 BLHS năm 1985 quy định về các hình phạt chính, trong

đó các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn bao gồm: Cảnh cáo; phạt

tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội.

Hình phạt cảnh cáo: hình phạt cảnh cáo được quy định tại Điều 22 với nội

dung: "Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều

tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt".

Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt và được áp dụng đối

với các điều kiện:

Thứ nhất, người phạm tội ít nghiêm trọng: Trong đó, theo BLHS năm 1985

thì tội ít nghiêm trọng được xác định là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà

mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến năm năm tù.

Thứ hai, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.

Thứ ba, người phạm tội chưa đến mức miễn hình phạt theo quy định tại

khoản 2 Điều 48 BLHS: "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường

hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ nói ở Điều 38, đáng được khoan hồng đặc

biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự".

19

Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985 thì có 40 tội danh quy định về

hình phạt cảnh cáo. Trong các lần sửa đổi sau đó của BLHS năm 1985 thì quy định

này vẫn giữ nguyên.

Hình phạt tiền: Điều 23 BLHS năm 1985 có quy định: "Phạt tiền được áp

dụng đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi, các tội có dùng tiền làm

phương tiện hoạt động trong những trường hợp khác do luật này quy định. Chỉ

trong trường hợp có Điều luật quy định thì phạt tiền mới được áp dụng là hình phạt

chính. Mức phạt tiền được quyết định theo mức độ nghiêm trọng của tội đã phạm,

đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội". Có thể thấy, quy định

này chưa thể hiện hình phạt tiền được áp dụng đối với loại tội phạm nào cũng như

mức tối thiểu và mức tối đa của số tiền phạt được áp dụng. BLHS năm 1985 quy

định không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội và không

quy định cách thức nộp tiền.

Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985 thì có 9/209 tội có quy định

hình phạt tiền là hình phạt chính, chiếm tỉ lệ 4,3% trên tổng số điều luật.

Hình phạt cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1985 quy định có hai loại là:

cải tạo không giam giữ (Điều 24 BLHS năm 1985) và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của

quân đội (Điều 70 BLHS năm 1985).

Về điều kiện áp dụng: Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến

hai năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng.

Nếu người bị kết án đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam được trừ vào thời

hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giam bằng ba

ngày cải tạo không giam giữ.

Nghĩa vụ của người bị kết án: Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa

vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và có thể bị khấu trừ một phần thu

nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước.

Đối với người chưa thành niên phạm tội khi áp dụng hình phạt cải tạo không

giam giữ thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

20

1.2.3. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - sau đây gọi tắt là BLHS

năm 1999)

BLHS năm 1999 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2000, được xây

dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So

với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương

đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam. BLHS năm

1999 quy định các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn gồm có: Cảnh

cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất.

Hình phạt cảnh cáo

Điều 29 BLHS năm 1999 có quy định: "Cảnh cáo được áp dụng đối với

người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức

miễn hình phạt". Có thể thấy điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo trong BLHS

năm 1999 được quy định tương tự như trong BLHS năm 1985. Tuy nhiên, về nội

hàm có những điểm khác biệt như: tội ít nghiêm trọng được xác định là tội phạm

gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội

ấy là đến ba năm tù. Và điều kiện, chưa đến mức miễn hình phạt được quy định chặt

chẽ hơn (điều kiện miễn hình phạt được quy định trong BLHS năm 1999 chỉ bao

gồm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 (do luật ấn định) thay vì có

thể do Tòa án xác định như trong BLHS năm 1985).

Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 thì hình phạt cảnh cáo được

quy định tại Điều 37 của BLHS năm 1999.

Hình phạt tiền

Điều 30 BLHS năm 1999 có quy định: "1. Phạt tiền được áp dụng là hình

phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,

trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật

này quy định. 2. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm

các tội về tham nhũng, ma tuý hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

3. Mức phạt tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội

21

phạm được thực hiện, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự

biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng. 4. Tiền phạt có thể

được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án quyết định trong bản

án". Như vậy, BLHS năm 1999 đã mở rộng phạm vi áp dụng và quy định rõ hơn

điều kiện áp dụng hình phạt tiền: Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với

người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng,

trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Đồng

thời, quy định cụ thể mức phạt tiền được quyết định theo tính chất và mức độ

nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, có xét đến tình hình tài sản của người

phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng và cách

thức thực hiện là có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án

quyết định trong bản án.

Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 có 68 tội quy định hình phạt

tiền là hình phạt chính, tăng hơn 8 lần so với BLHS năm 1985. Thể hiện xu thế mở

rộng việc áp dụng hình phạt tiền.

Đồng thời, BLHS năm 1999 cũng quy định phạt tiền được áp dụng là hình

phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi,

nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức phạt tiền đối với người chưa

thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định

(Điều 72).

Hình phạt cải tạo không giam giữ

Trong BLHS năm 1999 thì hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định

tại Điều 31:"Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với

người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy

định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy

không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị

tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp

hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba

ngày cải tạo không giam giữ” (Khoản 1 Điều 31 BLHS năm 1999).

22

Như vậy, so với BLHS năm 1985 thì hình phạt cải tạo không giam giữ được

áp dụng không chỉ với người phạm tội ít nghiêm trọng (mức cao nhất của khung

hình phạt đến 3 năm) mà còn được áp dụng đối với cả những người phạm tội

nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 7 năm). BLHS năm 1999 đã

bổ sung thêm 02 điều kiện áp dụng để tạo thuận lợi cho việc thi hành là: người

phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng và Tòa án xét

thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Đồng thời BLHS năm

1999 quy định về trách nhiệm của gia đình người bị kết án và trong trường hợp đặc

biệt Tòa án có thể miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ trong bản án, thể

hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta.

Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 thì hình phạt cải tạo không

giam giữ được áp dụng đối với 143 điều luật trên tổng số 283 điều luật quy định về

các tội danh, chiếm tỷ lệ 50,53%.

Đối với người dưới 18 tuổi (người chưa thành niên): Khi áp dụng hình phạt

cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ

thu nhập của người đó, điểm này giống với BLHS năm 1985.

Hình phạt trục xuất

BLHS năm 1999 lần đầu tiên ghi nhận hình phạt trục xuất:"Trục xuất là buộc

người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam. Trục xuất được Toà án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ

sung trong từng trường hợp cụ thể" ( Điều 32 BLHS năm 1999).

Trong BLHS năm 1999 không thể hiện rõ phạm vi, điều kiện áp dụng hình

phạt trục xuất là như thế nào. Trong phần các tội phạm cũng không có điều luật nào

quy định về hình phạt trục xuất trong CTTP.

Nhận xét: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy

định ngày càng hoàn thiện hơn trong pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt là trong

BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn ngày càng được mở rộng phạm vi áp dụng phù hợp với xu hướng chung

của thế giới là tăng cường việc áp dụng các hình phạt không tước tự do trên cơ sở

23

“thuyết ngăn ngừa” thay vì “thuyết trừng phạt” trước đây. Đặc biệt, xã hội ngày

càng phát triển, thì sẽ xuất hiện một số loại tội phạm liên quan đến người nước

ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Do vậy, BLHS ngày càng hoàn thiện các

quy định về hình phạt trong đó có các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

và phù hợp với xu hướng chung của thế giới, trong đó có việc xuất hiện hình phạt

trục xuất.

1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định

của BLHS Việt Nam năm 2015

Theo quy định tại Điều 32 BLHS Việt Nam năm 2015, các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội bao gồm: 1) Cảnh cáo, 2)

Phạt tiền, 3) Cải tạo không giam giữ, 4) Trục xuất.

Về cơ cấu trong tổng số 314 điều luật quy định các tội phạm cụ thể, trong đó

có 298 điều luật có quy định hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù chiếm tỷ lệ

65,92%, trong đó có 25/314 (tỷ lệ 7,96%) điều luật quy định hình phạt cảnh cáo,

95/314 (tỷ lệ 30,25%) điều luật quy định hình phạt tiền, 178/314 (tỷ lệ 56,68%) điều

luật có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ, còn về hình phạt trục xuất không

có điều luật nào quy định trực tiếp.

Bảng 1.1 Thống kê các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trong Phần

các tội phạm của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Tổng Cải tạo

số Cảnh Phạt không Trục Chương Tên chương điều cáo tiền giam xuất

luật giữ

XIII Các tội xâm phạm an ninh quốc 14 0 0 0 0 gia

XIV Các tội xâm phạm tính mạng,

sức khỏe, nhân phẩm, danh dự 34 3 6 15 0

con người

24

XV Các tội xâm phạm quyền tự do, 11 3 3 11 0 dân chủ của công dân

13 2 3 9 XVI Các tội xâm phạm sở hữu 0

XVII Các tội xâm phạm chế độ hôn 7 4 2 6 0 nhân và gia đình

XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản 48 2 35 33 0 lý kinh tế

12 0 12 6 XIX Các tội phạm về môi trường 0

13 0 1 0 XX Các tội phạm về ma túy 0

XXI Các tội xâm phạm an toàn công 69 1 23 40 0 cộng, trật tự công cộng

XXII Các tội xâm phạm trật tự quản 22 7 7 16 0 lý hành chính

14 1 2 9 XXIII Các tội phạm về chức vụ 0

XXIV Các tội xâm phạm hoạt động tư 24 2 2 12 0 pháp

XXV Các tội xâm phạm nghĩa vụ

trách nhiệm của quân nhân và

trách nhiệm của người phối 28 0 0 21 0

thuộc với quân đội trong chiến

đấu, phục vụ chiến đấu

XXVI Các tội phá hoại hòa bình,

chống loài người và tội phạm 5 0 0 0 0

chiến tranh

314 25 95 178 0 Tổng số điều luật

(Nguồn: BLHS năm 2015)

25

1.3.1. Hình phạt cảnh cáo

Trong hệ thống hình phạt của nhà nước ta thì cảnh cáo là hình phạt chính nhẹ

nhất. Trong BLHS hiện hành chưa đưa ra khái niệm về hình phạt cảnh cáo. Theo

Đại Từ điển Tiếng Việt, thì cảnh cáo được hiểu là “nghiêm khắc phê bình trước tập

thể”[51, tr.256].

Hiện nay, trong khoa học luật hình sự nước ta, khái niệm hình phạt cảnh cáo

còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:

“Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội

về tội phạm họ đã thực hiện”[31, tr.295].

“Cảnh cáo là hình phạt công khai lên án, phê phán của Tòa án đối với

người phạm tội”[16, tr.32].

“Cảnh cáo là hình phạt khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án

tuyên đối với người bị kết án”[19, tr.30].

Các quan niệm trên tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng tất cả đều khẳng

định được nội dung và bản chất pháp lý của hình phạt cảnh cáo là sự khiển trách

công khai của nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội về hành vi phạm

tội của họ. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống các hình phạt chính đối

với cá nhân phạm tội vì nó không tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ quyền lợi nào của

người bị kết án như quyền tự do, quyền sống, quyền sở hữu tài sản mà chỉ gây tổn

thất về tinh thần đối với họ. Như vậy, có thể hiểu: “Cảnh cáo là sự khiển trách công

khai của Nhà nước đối với người phạm tội về tội phạm mà họ đã thực hiện, do Tòa

án quyết định áp dụng đối với người phạm tội, trong những trường hợp do BLHS

quy định.”

Mặc dù, hình phạt cảnh cáo chỉ gây ra tổn thất về tinh thần cho người phạm

tội nhưng nó vẫn nặng hơn các chế tài hành chính vì nó là hình phạt, nó để hậu quả

pháp lý cho người phạm tội là án tích.

Điều 34 BLHS năm 2015 quy định như sau: “Cảnh cáo được áp dụng đối

với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến

26

mức miễn hình phạt”. Theo quy định tại Điều 34 BLHS 2015 thì hình phạt cảnh cáo

chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất: Tội phạm thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 thì: “Tội phạm ít nghiêm

trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức

cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền,

phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”. Việc xác định là tội phạm ít

nghiêm trọng cần căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn,

tuy nhiên, đây là một khái niệm khó đánh giá. Trong thực tiễn, cơ quan có thẩm

quyền phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt để xác định, cần chú ý

việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng không phải căn cứ vào hình phạt cao nhất

của điều luật quy định đối với tội đó mà phải căn cứ vào mức cao nhất của khung

hình phạt.

Cảnh cáo là hình phạt có tính cưỡng chế thấp nhất trong các hình phạt chính

nên đối tượng bị áp dụng hình phạt này trước hết phải là những trường hợp phạm tội

ít nghiêm trọng, đó là những tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội

không lớn, hậu quả của hành vi gây lên chưa ảnh hưởng nặng nề đến đời sống xã

hội, nền kinh tế và chế độ chính trị của đất nước. Việc quy định như vậy cũng đảm

bảo hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Thứ hai: Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ.

Có nhiều tình tiết giảm nhẹ tức là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự trở lên. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại

Điều 51 BLHS năm 2015. Từ quy định này, về lý thuyết, người phạm tội có thể

được áp dụng hình phạt chính là cảnh cáo nếu có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ, dù

các tình tiết này có thể là tình tiết giảm nhẹ được quy định ở khoản 1 hay khoản 2

Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, nếu là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51

BLHS 2015 thì Toà án phải ghi rõ trong bản án.

Thứ ba: Tội phạm mà người đó thực hiện chưa đến mức miễn hình phạt.

27

Điều 59 BLHS năm 2015 có quy định: “Người phạm tội có thể được miễn

hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ

luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách

nhiệm hình sự”, như vậy, người phạm tội được miễn hình phạt khi họ có nhiều tình

tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và họ “đáng được

khoan hồng đặc biệt”, còn người bị áp dụng hình phạt cảnh cáo thì không được

khoan hồng đặc biệt, vì vậy họ không được miễn hình phạt. Như vậy, ranh giới giữa

miễn hình phạt và áp dụng hình phạt cảnh cáo là rất nhỏ, đòi hỏi Tòa án phải rất

thận trọng khi quyết định hình phạt.

Nhận xét: Điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo trong BLHS năm 2015 về

cơ bản giữ nguyên quy định trong BLHS năm 1999. Việc áp dụng hình phạt cảnh

cáo có xu hướng thu hẹp phạm vi từ BLHS năm 1985 (37 tội danh) đến BLHS năm

2015 (25 tội danh).

1.3.2. Hình phạt tiền

Hình phạt tiền theo quy định của BLHS 2015 vừa là hình phạt chính vừa là

hình phạt bổ sung. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ phân tích về hình phạt tiền

dưới góc độ là hình phạt chính.

Cũng như hình phạt cảnh cáo, trong BLHS năm 2015 không đưa ra khái

niệm hình phạt tiền.Trong Từ điển luật hình sự, hình phạt tiền được hiểu là “Buộc

người bị kết án phải nộp sung quỹ nhà nước khoản tiền nhất định”[16; Tr.195].

Khái niệm hình phạt tiền cũng được một số nhà nghiên cứu đề cập trong một số

giáo trình, sách báo pháp lý chuyên ngành như sau:

“Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất

định vào ngân sách nhà nước”[31, tr.296].

“Phạt tiền được hiểu là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà

nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người bị kết án về những

tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một khoản tiền nhất định

của họ sung vào công quỹ của Nhà nước, thông qua đó giáo dục, cải tạo họ trở

28

thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời thực hiện

phòng ngừa, giáo dục chung”[42, tr.84].

“Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình

phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa án quyết

định trong những trường hợp do luật định mà theo đó người bị kết án bị tước một

số tiền tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời xem xét đến tình hình

tài sản của người bị kết án và sự biến động của giá cả”[28, tr.11].

Về cơ bản, các quan điểm nêu trên là thống nhất, nội dung của hình phạt tiền

là sự tước bỏ một khoản tiền nhất định của người bị kết án để sung công quỹ Nhà

nước, qua đó nhằm đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung và

Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối

với người phạm tội. Với nội dung này thì có thể hiểu “hình phạt tiền là hình phạt có

mục đích trừng trị về kinh tế được áp dụng đối với người bị kết án phạm một số tội

do Bộ luật hình sự quy định, nhằm tước đoạt các khoản tiền nhất định, qua đó giáo

dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời thực hiện giáo dục,

phòng ngừa chung”[43, tr.326 – 327].

Theo quy định tại Điều 35 BLHS năm 2015 quy định phạm vi áp dụng hình

phạt tiền căn cứ theo nhóm tội nhất định, đó là: Nhóm tội phạm ít nghiêm trọng, tội

phạm nghiêm trọng; nhóm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,

môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ

luật này quy định. Theo đó, hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với

95 tội danh. Như vậy, so với quy định về hình phạt tiền tại Điều 30 của BLHS năm

1999, quy định hiện hành đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền đối với cả tội

nghiêm trọng và thậm chí là rất nghiêm trọng (bên cạnh quy định BLHS năm 1999

chỉ áp dụng với tội ít nghiêm trọng). Đối với trường hợp người phạm tội ít nghiêm

trọng, nghiêm trọng việc quy định và áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính

không bị giới hạn về nhóm tội phạm. Đối với trường hợp người phạm tội rất nghiêm

trọng thì bị giới hạn về nhóm tội phạm. Tuy nhiên thuật ngữ “và một số tội phạm

khác do Bộ luật này quy định” dẫn đến phạm vi áp dụng hình phạt tiền cho các tội

phạm rất nghiêm trọng không bị giới hạn một cách rõ ràng về nhóm tội phạm.

29

Trong phần các tội phạm trong BLHS năm 2015, hình phạt tiền được áp

dụng là hình phạt chính đối với 112/314 tội phạm cụ thể, chiếm tỉ lệ hơn 35%, tập

trung vào các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm

sở hữu; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội phạm về môi trường; các

tội xâm phạm an toàn cộng cộng, trật tự công cộng và các tội xâm phạm trật tự quản

lý hành chính. Như vậy, có thể thấy hình phạt tiền có xu hướng được mở rộng phạm

vi các tội danh được áp dụng từ BLHS năm 1985 với 09 tội danh lên con số 76 tội

danh trong BLHS năm 1999 (sửa đổi năm 2009), thì đến BLHS năm 2015 là 112 tội

danh được áp dụng.

Mặc dù Điều 35 BLHS năm 2015 chỉ quy định phạm vi áp dụng hình phạt

tiền căn cứ theo nhóm tội nhất định mà không quy định kèm các điều kiện áp dụng

khác. Tuy nhiên, theo tinh thần của Điều 32 BLHS năm 2015, các hình phạt chính

được sắp xếp từ điểm a đến điểm g tại khoản 1 Điều 32 BLHS năm 2015 theo thứ tự

từ nhẹ tới nặng, thì hình phạt tiền chỉ nặng hơn hình phạt cảnh cáo và nhẹ hơn các

hình phạt còn lại. Do vậy, trong thực tiễn áp dụng, để người phạm tội được áp dụng

hình phạt chính là hình phạt tiền thì người phạm tội phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ

theo quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, việc chưa có văn bản nào

hướng dẫn về điều kiện áp dụng hình phạt tiền dẫn đến việc áp dụng hình phạt tiền

chưa được thống nhất và đôi khi chưa đạt được mục đích của hình phạt.

Về mức phạt: Khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 chỉ quy định mức thấp nhất của

hình phạt tiền là một triệu đồng, mức tối đa tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể

quy định trong phần các tội phạm của BLHS. Đây là một quy định cần thiết, thể

hiện tính nghiêm khắc của chế tài hình sự so với các chế tài khác như chế tài hành

chính, chế tài dân sự... Đồng thời quy định về mức tiền phạt phải được căn cứ vào

tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm thực hiện đồng thời có xét đến tình

hình tài sản của người phạm tội và sự biến động của giá cả. Quy định này làm cho

hình phạt tiền khi áp dụng có khả năng thực hiện được trên thực tế, giúp phát huy

được hiệu quả của loại hình phạt này.

Mặc dù trong hệ thống các hình phạt theo BLHS hiện hành, không chỉ có

phạt tiền là biện pháp tác động nhất định về mặt kinh tế đối với người bị kết án, mà

30

còn có các hình phạt khác như: Cải tạo không giam giữ hay tịch thu tài sản. Tuy

nhiên, khác với hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tịch thu tài sản, sự tác

động về mặt kinh tế của hình phạt tiền là sự tác động chính, trực tiếp chứ không

phải là những nội dung hạn chế các quyền và lợi ích áp dụng kèm theo. Trong bối

cảnh nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, việc tồn tại hình phạt tiền

với tính chất là hình phạt chính có ý nghĩa rất quan trọng vì đối với các tội phạm có

tính chất kinh tế với mục đích mà người phạm tội hướng tới là lợi nhuận. Biện pháp

trừng phạt có tính chất kinh tế đối với hành vi phạm tội của họ sẽ tước bỏ khả năng,

cơ hội tái phạm tội của họ; tạo điều kiện để bản thân người phạm tội có khả năng

tiếp tục lao động khắc phục hậu quả của tội phạm.

Phạt tiền với tính chất là một hình phạt chính khác với phạt tiền với tính chất

là một biện pháp xử lý vi phạm hành chính ở chỗ: Là một biện pháp xử lý vi phạm

hành chính, phạt tiền có thể áp dụng đối với người vi phạm các quy định về an toàn

giao thông, vi phạm các quy định về an toàn lao động, vi phạm các quy định về

phòng cháy… Người có thẩm quyền áp dụng phạt tiền hành chính là các Cơ quan

quản lý hành chính nhà nước. Còn với tính chất là một hình phạt (hình phạt chính),

phạt tiền không thể do các Cơ quan quản lý hành chính nhà nước áp dụng, mà phải do

Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên phạt trên cơ sở các quy định của BLHS hiện hành.

Ngoài ra, người bị kết án hình phạt tiền còn phải chịu hậu quả pháp lý là án tích, đây

cũng là điểm khác nhau quan trọng nhất giữa hình phạt với các chế tài khác.

1.3.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ

Hình phạt cải tạo không giam giữ được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt

Nam trước năm 1985, tức là trước khi có BLHS đầu tiền của nước ta ra đời, sau đó

hình phạt này được ghi nhận trong tất cả các BLHS của nước ta từ trước đến nay.

Việc ghi nhận hình phạt cải tạo không giam giữ trong BLHS thể hiện quan điểm

nhân đạo và chính sách hình sự của nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi

do họ thực hiện, đồng thời chứng tỏ khả năng tự giáo dục, cải tạo trở thành người có

ích cho xã hội của họ.

Hiện nay, trong khoa học luật hình sự ở nước ta, khái niệm hình phạt cải tạo

không giam giữ còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể là:

31

“Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cải

tạo, giáo dục tại nơi làm việc, học tập, cư trú dưới sự giám sát của cơ quan, tổ

chức nơi họ làm việc, học tập hoặc của chính quyền địa phương, nơi họ cư

trú”[31, tr.297].

“Buộc người phạm tội phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà

nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện

những nghĩa vụ nhất định”[16, tr.29].

“Cải tạo không giam giữ là không buộc người phạm tội phải cách ly khỏi xã

hội mà họ được chung sống với gia đình như những người khác dưới sự giám sát

của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi người đó làm việc hoặc

thường trú”[23, tr.178].

Như vậy, các quan điểm trên đều khẳng định cải tạo không giam giữ là hình

phạt buộc người bị kết án phải cải tạo tại cộng đồng dưới sự giám sát của cơ quan

có thẩm quyền, họ không bị tước tự do. Những trường hợp bị áp dụng hình phạt này

phải có nơi cư trú rõ ràng. Trên cơ sở phân tích các quan điểm khoa học trên kết

hợp với việc phân tích các quy định pháp luật có liên quan, dưới góc độ khoa học

luật hình sự có thể hiểu khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ như sau: Hình

phạt cải tạo không giam giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc

nhất của Nhà nước, được quy định trong BLHS, người bị kết án không bị cách ly ra

khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính

quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục, khi họ phạm một tội ít

nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng có nơi cư trú rõ ràng và Tòa án xét thấy không

cần thiết phải cách ly khỏi xã hội.

Về điều kiện áp dụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015,

hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội khi có

đủ các yếu tố sau đây:

Phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1

Điều 9 BLHS năm 2015: BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng loại hình

phạt này đến loại tội phạm rất nghiêm trọng nếu người phạm tội là người dưới 18

32

tuổi theo quy định tại Điều 100 BLHS 2015. Theo quy định này thì hình phạt cải tạo

không giam giữ được áp dụng cho người dưới 18 tuổi như sau: 1) người từ đủ 16

tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm

trọng, phạm tội nghiêm trọng. 2) Người tử đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất

nghiêm trọng. Đây là một điểm mới của BLHS 2015 so với BLHS 1999, cụ thể có

sự phân định rõ phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các

nhóm độ tuổi khác nhau.

Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng:

Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, Tòa án giao người bị phạt cải tạo

không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Do đó, việc BLHS quy

định người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng là hợp

lý, vừa tạo điều kiện thuận lợi giúp người bị kết án có thể lao động cải tạo tốt, vừa

là điều kiện áp dụng hình phạt hiệu quả. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm

phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát,

giáo dục người đó. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình là tạo điều kiện quan

tâm, giúp đỡ người bị kết án có thể cải tạo trở thành công dân tốt cho xã hội, thông

qua sự chia sẻ này người bị kết án sẽ dần xóa bỏ những mặc cảm trong quá khứ và

từ đó có quyết tâm lao động, cải tạo tốt. Bản chất của cải tạo không giam giữ là

không tước tự do của người bị kết án nhưng mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo

người phạm tội vẫn đạt được khi người bị kết án chịu sự giám sát của cơ quan nhà

nước hoặc tổ chức xã hội, gia đình nơi người đó làm việc hoặc cư trú.

Về thời hạn áp dụng: Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến

03 năm. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm

giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01

ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Việc BLHS quy định

cách quy đổi thời gian tạm giữ, tạm giam sang thời gian chấp hành hình phạt cải tạo

không giam giữ là hợp lí, đảm bảo quyền lợi cho người bị kết án cũng như đảm bảo

việc áp dụng pháp luật một cách công bằng. Hơn nữa, việc quy đổi này cũng tạo

33

tính thống nhất khi tổng hợp hình phạt chung mà một trong các hình phạt mà người

phạm tội bị tuyên là hình phạt cải tạo không giam giữ.

Về nghĩa vụ của người bị kết án: Trong thời gian chấp hành án, người bị kết

án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị

khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Việc khấu trừ

thu nhập được thực hiện hàng tháng. Toà án cần căn cứ vào tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, thu nhập thực tế và tình hình tài

sản cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định mức khấu trừ cụ

thể là bao nhiêu. Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người

đang thực hiện nghĩa vụ quân sự và người dưới 18 tuổi phạm tội (khoản 3 Điều 36

và Điều 100 BLHS 2015). Ngoài ra, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập,

nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án đối với các trường hợp khác.

Về cơ bản, BLHS năm 2015 đã kế thừa quy định về hình phạt cải tạo không

giam giữ của BLHS năm 1999, đồng thời có ba điểm sửa đổi, bổ sung, đó là:

Thứ nhất, cụ thể hóa nội dung tại khoản 4 Điều 36 BLHS năm 2015:"...Trường

hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm

trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao

động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động

phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong

01 tuần". Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có

thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm

nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng". Như vậy có thể thấy

quy định này thể hiện quan điểm giáo dục cải tạo người phạm tội thông qua lao

động. Xác định cụ thể thời gian lao động phục vụ cộng đồng là không quá 4 giờ/một

ngày và không quá 5 ngày/một tuần. Điều luật cũng quy định rõ: không áp dụng

biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với năm đối tượng người bị kết án cải

tạo không giam giữ sau đây: (1) phụ nữ đang có thai; (2) phụ nữ đang nuôi con dưới

06 tháng tuổi; (3) người già yếu; (4) người bị bệnh hiểm nghèo; (5) người khuyết tật

nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Nhìn chung, đây là những đối tượng yếu thế,

cần có chính sách bảo vệ đặc biệt.

34

Thứ hai, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 36: Không khấu trừ thu nhập đối

với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đây là quy định

thể hiện sự nhân văn, nhân đạo vì quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự, người đó

không có thu nhập hàng tháng để có khả năng thực hiện nghĩa vụ này.

Thứ ba, có sự phân định rõ phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam

giữ đối với các nhóm độ tuổi khác nhau đối với những người phạm tội dưới 18 tuổi.

Trong phần các tội phạm của BLHS năm 2015 thì có 208 tội danh quy định về

áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ so với 143 tội danh trong BLHS năm 1999.

Thể hiện xu thể mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt này trong thực tế hiện nay.

Cần phân biệt giữa hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo: Mặc dù cả

hai trường hợp này, người bị kết án đều không bị cách ly ra khỏi xã hội mà được

giáo dục, cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi

người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú nhưng hai chế

tài này vẫn có điểm khác. Cụ thể:

Về tính chất pháp lý: cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, còn án treo

chỉ là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

Về điều kiện áp dụng: Cải tạo không giam giữ có thể được áp dụng từ 06

tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng

mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng; đối với án treo thi khi

xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình

tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án

cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách;

Ngoài ra, còn có điểm khác nhau nữa là: trong trường hợp người bị kết án

phạm tội mới khi đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và bị phạt tù,

thì khi tổng hợp hình phạt khác loại, phải qui đổi cải tạo không giam giữ thành tù

có thời hạn theo nguyên tắc 3 ngày cải tạo không giam giữ bằng 01 ngày tù có thời

hạn, sau đó, tổng hợp theo quy định chung. Còn trong thời gian thử thách của án

treo mà phạm tội mới thì Tòa án buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù

35

của bản án cho hưởng án treo, sau đó tổng hợp với hình phạt của bản án mới thành

hình phạt chung.

Tuy nhiên, về vấn đề áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù

nhưng cho hưởng án treo hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau: Có quan

điểm cho rằng do hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn nếu người phạm tội không đủ điều kiện được hưởng án treo (quy

định chi tiết tại Nghị quyết số 02/2018/NĐ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng

thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo)

thì đương nhiên cũng không thể áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ

đối với người phạm tội đó; quan điểm khác lại cho rằng người phạm tội không đủ

điều kiện để được hưởng án treo ví dụ như có nhân thân xấu (có tiền sự) nhưng vẫn

có thể áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ vì pháp luật không cấm. Về

vấn đề này, trong thực tiễn áp dụng một số Tòa án vẫn áp dụng hình phạt chính là cải

tạo không giam giữ đối với một số trường hợp người phạm tội không đủ điều kiện

được hưởng án treo nhưng hành vi phạm tội mang tính chất giản đơn, tính chất và

mức độ cho xã hội không lớn và đảm bảo đủ các điều kiện để áp dụng hình phạt

chính là cải tạo không giam giữ theo quy định pháp luật. Về vấn đề này, tác giả cho

rằng việc áp dụng như vậy là hợp lý vì khi xem xét áp dụng hình phạt chính trước hết

phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nếu đủ điều kiện

để áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tức là chưa xem xét đến việc áp dụng

hình phạt tù có thời hạn. Do chưa xem xét đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn

nên việc có hay không cho người phạm tội được hưởng án treo chưa đặt ra ở đây.

1.3.4. Hình phạt trục xuất

Hình phạt trục xuất được quy định lần đầu tiên trong BLHS năm 1999 và tiếp

tục được ghi nhận trong BLHS năm 2015. Việc ghi nhận hình phạt trục xuất là hình

phạt chính trong BLHS là thực sự cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của xã hội bởi trong

quá trình hội nhập quốc tế, số lượng người nước ngoài vào Việt Nam làm việc, du

lịch, công tác, học tập ngày càng nhiều và trong đó có một số người đã phạm tội ở

Việt Nam. Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt là cơ sở pháp

lý để Toà án có thể lựa chọn và áp dụng hình phạt này đối với người nước ngoài

36

phạm tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn tác dụng ngăn ngừa một cách triệt

để khả năng phạm tội mới của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.

Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về hình phạt trục xuất. Cụ thể:

“Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án trong thời hạn nhất

định phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”[31, tr.298].

“Trục xuất là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong luật

hình sự do Tòa án quyết định áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội với nội

dung buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

nhằm giáo dục người nước ngoài có ý thức tôn trọng pháp luật Việt Nam; phòng

ngừa tội phạm”[42, tr.98].

Điều 37 BLHS năm 2015 quy định về hình phạt trục xuất như sau:

“Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung

trong từng trường hợp cụ thể”.

Tuy khác nhau về chi tiết, nhưng các quan điểm trên đều khẳng định, hình phạt

trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Việt Nam.

Trong tổng số 314 điều luật Phần các tội phạm của BLHS thì không có một

điều luật về tội phạm cụ thể nào quy định về hình phạt trục xuất. Đây là một điểm

rất đặc biệt, theo tác giả, việc chỉ quy định hình phạt trục xuất tại Điều 37 BLHS

Phần chung mà không có quy định cụ thể ở các điều luật của Phần các tội phạm là

xuất phát từ tính chất phức tạp của việc xử lý người phạm tội là người nước ngoài;

do vậy để đảm bảo tính linh hoạt trong áp dụng do vậy, quy định như trên của

BLHS là hợp lý. Xét về kĩ thuật lập pháp, có thể coi đây như một trường hợp ngoại

lệ nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Mặt khác, việc không quy định cụ thể trong bất kỳ điều luật nào trong phần

các tội phạm của BLHS cũng có nghĩa trục xuất có thể áp dụng đối với người nước

ngoài phạm bất kỳ tội nào được quy định trong BLHS. Người nước ngoài khi đến

Việt Nam cư trú hoặc học tập, công tác có hành vi xâm phạm tới các quan hệ xã hội

37

được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy

nhiên, không phải mọi trường hợp người nước ngoài phạm tội theo pháp luật hình

sự Việt Nam thì hình phạt trục xuất sẽ luôn áp dụng bình đẳng như nhau. Bởi vì,

theo quy định tại khoản 2 Điều 5 BLHS năm 2015 thì đối với người nước ngoài

phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng

được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo

điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc

theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo

quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước

quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự

của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Theo quy định tại Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn

thi hành hình phạt trục xuất thì người bị trục xuất có nghĩa vụ rời khỏi lãnh thổ Việt

Nam đúng thời hạn được ghi trong quyết định thi hành án, nếu không thuộc trường

hợp được kéo dài thời hạn. Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam, chịu sự

quản lý, giám sát của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh; không được tự ý rời khỏi nơi

quản lý, giám sát do cơ quan quản lý xuất nhập cảnh chỉ định bằng văn bản; nộp các

giấy tờ cần thiết để thi hành án theo yêu cầu của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh;

nhanh chóng chấp hành các nghĩa vụ khác và hoàn thành các thủ tục cần thiết để rời

khỏi lãnh thổ Việt Nam đúng thời hạn; tự chịu chi phí về phương tiện xuất cảnh.

Cũng giống như hình phạt tiền, hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính và

vừa là hình phạt bổ sung. Với tư cách là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt

Bộ luật Hình sự, nếu xếp theo thứ tự thì hình phạt trục xuất nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn và nặng hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Hình phạt trục xuất cũng nó

tính đặc thù riêng của nó là chủ thể mà nó hướng đến là người nước ngoài phạm tội

trên lãnh thổ Việt Nam.

Trục xuất không chỉ được quy định là hình phạt mà còn được quy định là

hình thức xử phạt được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.

Mặc dù đều buộc người nước ngoài phạm tội phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong

thời hạn nhất định nhưng hình phạt trục xuất và hình thức trục xuất có một số điểm

38

khác nhau cơ bản sau: Hình phạt trục xuất được ghi nhận trong hệ thống hình phạt

của BLHS Việt Nam được áp dụng đối với người nước ngoài phạm một trong các

tội được quy định trong BLHS Việt Nam, là một trong các biện pháp cưỡng chế

nghiêm khắc nhất của Nhà nước đối với người phạm tội. Về nguyên tắc, người phải

chịu hình phạt này phải mang án tích (mặc dù BLHS năm 2015 chưa quy định vấn

đề án tích cũng như xóa án tích đối với trường hợp bị áp dụng hình phạt chính là

trục xuất). Trong Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản khác có liên quan

đến việc xử phạt vi phạm hành chính, hình thức xử phạt trục xuất là một trong các

biện pháp áp dụng đối với người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật hành

chính. Người bị áp dụng hình thức xử phạt hành chính trục xuất thì không phải chịu

án tích. Ngoài ra, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng hình phạt trục xuất

đối với người phạm tội; còn chủ thể có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục

xuất theo thủ tục hành chính là Giám đốc Công an cấp tỉnh và Cục trưởng cục quản

lý xuất nhập cảnh (theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày

02/10/2013 quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải

người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp

luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất).

Tiểu kết chương 1

Từ những nội dung nghiên cứu tại chương I của Luận văn, tác giả rút ra một

số kết luận sau đây:

Thứ nhất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là những biện

pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được áp dụng đối với người phạm tội,

có mức độ nghiêm khắc thấp hơn hình phạt tù có thời hạn, được BLHS quy định và

do Tòa án quyết định áp dụng nhằm tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của người phạm

tội.

Thứ hai, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình

phạt nói chung nên mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt. Ngoài ra, nó còn có

một số đặc điểm riêng biệt đó là không tước tự do của người bị kết án và mức độ

nghiêm khắc thấp hơn so với hình phạt tù có thời hạn.

39

Thứ ba, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù ở Việt Nam gồm có bốn

hình phạt đó là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có vai trò quan trọng bởi pháp luật hình sự Việt

Nam ngày càng chuyển dịch theo hướng đảm bảo tính nhân đạo, tăng cường bảo

đảm quyền con người nhằm phù hợp với yêu cầu của Hiến pháp năm 2013, các

Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và xu hướng chung của pháp luật hình

sự hiện nay trên thế giới. Các hình phạt này đã góp phần làm phong phú, đa dạng hệ

thống hình phạt nói chung và hình phạt chính nói riêng, đáp ứng yêu cầu xử lý tội

phạm một cách khách quan, chính xác làm cơ sở nền tảng cho việc quyết định hình

phạt của Tòa án, đảm bảo được sự phân hóa trách nhiệm hình sự, xét xử một cách

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

40

Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ

HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TẠI TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC GIẢI

PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NÀY

2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

2.1.1 Khái quát một số đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh

Tỉnh Bắc Ninh được tái lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, có diện tích

822,7 Km2 là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thủ

đô Hà Nội, trong tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.

Theo niên giám thống kê tháng 12/2018, dân số Bắc Ninh là 1.247.454 người, là địa

phương có mật độ dân số đứng thứ 03/63 tỉnh, thành phố. Tỉnh có 8 đơn vị hành

chính, bao gồm: Thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn và 6 huyện: Tiên Du, Yên

Phong, Thuận Thành, Quế Võ, Gia Bình và Lương Tài với 126 đơn vị hành chính

cấp xã, trong đó có 94 xã, 26 phường và 6 thị trấn. Sau hơn 20 năm tái lập, từ một

tỉnh nông nghiệp thuần túy, đến nay Bắc Ninh đã cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp

theo hướng hiện đại, với nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đứng trong tốp đầu cả

nước. Kinh tế trong năm 2019 phát triển toàn diện, tổng sản phẩm (GRDP) tăng nhẹ

1,1% với quy mô tiếp tục duy trì vị trí thứ 7 toàn quốc, đạt 119.832 tỷ đồng (giá so

sánh năm 2010). Thu nhập bình quân đầu người đạt 73,3 triệu đồng, đứng thứ 5 cả

nước. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong xã

hội cũng trở lên rõ rệt, tạo ra những mâu thuẫn, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng,

hoạt động tội phạm ngày càng tinh vi.

Trong điều kiện chung của đất nước, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh có sự

phát triển, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có chiều hướng gia tăng,

tính chất và mức độ phạm tội cũng như hình thức sử dụng ngày càng tinh vi và đa

dạng hơn. Diễn biến của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh đã và đang gây ra

những tác hại về kinh tế - chính trị - xã hội; ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân

dân và truyền thống đạo đức cũng như hình ảnh của vùng quê Kinh Bắc văn hiến

lâu đời. Những điều kiện tự nhiên, sự chuyển biến về kinh tế - văn hóa – xã hội

trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật trong

41

hoạt động xét xử vụ án hình sự nói chung và việc áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn

hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng.

2.1.2. Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020

Trong 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020, hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc

Ninh đã xét xử sơ thẩm tổng số 7176 vụ án, 11915 bị cáo, trong đó Tòa án áp dụng hình

phạt chính là các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với 592 bị cáo, Tòa án

áp dụng hình phạt chính là tù có thời hạn (bao gồm cả các trường hợp Tòa án cho hưởng

án treo) hoặc tù chung thân hoặc tử hình đối với 11323 bị cáo, chi tiết theo bảng:

Bảng 2.1 Thống kê áp dụng hình phạt chính tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc

Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

Năm

Số bị

Hình phạt chính nhẹ hơn hình

Hình phạt tù có thời hạn, tù

cáo

phạt tù

chung thân, tử hình

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

2016

1825

81

1744

96,6%

4,4%

2017

2461

110

95,5%

4,5%

2351

2018

2659

120

2539

95,5%

4,5%

2019

2287

115

2172

95,0%

5,0%

2020

2683

166

2517

93,8%

6,2%

Tổng

11915

592

11323

95%

5,0%

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)

Bảng 2.2: Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù tại Tòa

án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

42

Hình phạt

Hình phạt cải tạo

Hình phạt tiền

Trục xuất

cảnh cáo

không giam giữ

Số bị

Năm

cáo

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

2016

1825

0%

79

4,3%

2

0

0,1%

0

0%

2017

2461

0%

108

4,4%

2

0

0,1%

0

0%

2018

2659

0%

117

4,4%

3

0

0,1%

0

0%

2019

2287

0%

108

4,7%

7

0

0,3%

0

0%

5

0,4%

0

0%

2020

2683

0,2%

150

5,6%

11

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)

Bảng 2.3. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù theo

nhóm tội tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

STT

Nhóm tội

(Số bị

(Số bị

(Số bị

(Số bị

(Số bị

cáo)

cáo)

cáo)

cáo)

cáo)

1

Xâm phạm sở hữu

3

0

3

9

11

Xâm phạm tính

mạng, sức khỏe,

0

2

1

1

0

5

nhân phẩm, danh

dự của con người

Xâm phạm an toàn

3

công cộng, trật tự

74

108

114

104

143

công cộng

Xâm phạm trật tự

1

4

0

1

0

1

quản lý hành chính

Xâm phạm trật tự

3

5

1

1

2

6

quản lý kinh tế

Khác

0

6

0

0

0

0

43

Tổng

81

110

120

115

166

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)

Nhận xét chung:

Thứ nhất, qua bảng số liệu 2.1 thì thấy: Tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt

chính được áp dụng đối với người phạm tội trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm

2020 thì tổng số bị cáo được áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù là 592 bị

cáo, chiếm tỷ lệ 5,0% tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt. Tỷ lệ bị cáo được áp

dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn so với bị cáo bị áp dụng các

hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình và so với tổng số

bị cáo bị xét xử ở từng năm (từ 2016 đến 2020) đều nhỏ hơn 8% mặc dù trong hệ

thống hình phạt, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù chiếm 4/7 hình phạt chính

(tỷ lệ: 57%). Tỷ lệ này chênh lệch nguyên nhân chính do tỷ lệ áp dụng hình phạt tù

có thời hạn cao, chiếm trung bình khoảng 95%.

Tỷ lệ áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với

người phạm tội trong các năm gần đây mặc dù thấp nhưng có xu hướng tăng nhẹ,

đặc biệt vào các năm 2019, 2020.

Thứ hai, qua bảng số liệu 2.2 thì thấy: Tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người phạm tội trong giai

đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 thì hình phạt tiền có tỷ lệ áp dụng cao nhất, sau đó

là hình phạt cải tạo không giam giữ, tiếp đến là hình phạt cảnh cáo và cuối cùng là

hình phạt trục xuất. Trong đó hình phạt tiền chiếm tỷ lệ cao nhất và là hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn chủ yếu được áp dụng, tỷ lệ áp dụng hình

phạt tiền ở các năm đều trên 4%, trong khi tỷ lệ áp dụng các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn khác đều dưới 0,5%, trong đó thấp nhất là hình phạt

trục xuất chưa được áp dụng lần nào, hình phạt cảnh cáo chỉ đến năm 2020 mới

được áp dụng, trong các năm từ 2016 đến năm 2019 đều không được áp dụng.

Thứ ba, qua bảng số liệu 2.3 thì thấy trong tổng số bị cáo bị Tòa án hai cấp

tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 thì các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng ở 05 nhóm tội là xâm

phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người;

44

xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công công;

xâm phạm trật tự quản lý hành chính; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trong đó

chủ yếu là áp dụng ở nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng

(năm nào cũng chiếm tỷ lệ trên 85%) (chủ yếu là tội “Đánh bạc” và tội “Gá bạc”).

Ngoài ra, theo thống kê của Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh về

kết quả xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh thì không có bị cáo

nào mà đang áp dụng một trong các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn lại bị cấp phúc thẩm chuyển sang loại hình phạt tù có thời hạn và cũng không

có trường hợp nào tại cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt chính là tù có thời hạn, tù

chung thân hoặc tử hình mà cấp phúc thẩm chuyển hình phạt chính thành một trong

các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn mà chỉ có một số trường hợp

cấp sơ thẩm đang áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng không cho hưởng án treo,

cấp phúc thẩm chuyển thành hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.

Kết quả khảo sát 50 bản án của hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cho

thấy việc áp dụng hình phạt và quyết định hình phạt cơ bản đều đúng người, đúng

tội và đúng pháp luật về điều kiện, căn cứ và thủ tục áp dụng các loại hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đều đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên,

trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có điều kiện tại

Bắc Ninh vẫn còn một số ý kiến tranh luận.

Dưới đây, tác giả xin phân tích về việc áp dụng từng loại hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm

2016 đến năm 2020, cụ thể như sau:

*Đối với hình phạt cảnh cáo

Theo số liệu thống kê tại các bảng 2.2 và bảng 2.3 cho thấy: Tại Bắc Ninh,

trong các năm từ 2016 đến năm 2020, tỷ lệ áp dụng hình phạt cảnh cáo so với các

hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và so với tổng hình phạt chính là

rất thấp, từ năm 2016 đến năm 2019 hình phạt cảnh cáo đều không được áp dụng,

chỉ đến năm 2020 hình phạt này mới được áp dụng và cũng chỉ chiếm tỷ lệ 0,2%

trên tổng số bị cáo bị xét xử trong cùng năm.

45

Mặc dù, Điều 34 BLHS năm 2015 có quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối

với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến

mức miễn hình phạt”, tuy nhiên trong thực tiễn tại Bắc Ninh, hình phạt này rất ít

được áp dụng và nếu có được áp dụng thì cũng chỉ được áp dụng đối với người phạm

tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phạm tội và tội phạm thực hiện với lỗi vô ý.

Ví dụ 1: Bản án số 274/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân

thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Tóm tắt nội dung vụ án: Bùi Hữu Thanh là chủ Cửa hàng rửa xe Sonax, công

việc của Thanh là rửa xe và lau dọn xe theo yêu cầu của khách hàng. Khoảng 08 giờ

30 phút ngày 19/12/2018, khi Thanh đang rửa xe ô tô nhãn hiệu Mercedes của

khách hàng là công ty TNHH AS C&T thì có khách hàng khác là anh Trần Quang

Hiếu mang chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Cerato (là tài sản hợp pháp của Công ty

TNHH kiến trúc và nội thất BANIBOMES) đến để rửa. Do công việc bận nên anh

Hiếu đỗ xe tại sân rửa và đưa chìa khóa xe ô tô cho Thanh và bảo Thanh “Cháu để

xe ở đây, chú rửa xe cho cháu”. Sau khi rửa xong chiếc xe Mercedes trên cầu rửa,

Thanh ra vị trí chiếc xe Kia Cerato mở cửa và ngồi vào ghế lái, đồng thời gọi cho

anh Giang là nhân viên cửa hàng lên ngồi ghế phụ để hướng dẫn Thanh lái ô tô, vì

chưa được đào tạo lái xe nên Thanh bắt đầu đạp chân phanh để nổ máy thì xe vẫn

đứng im ở vị trí ban đầu, sau đó Thanh vào số tiến và nhả chân phanh nhưng do

đoạn dốc nên xe không di chuyển, thấy thế Thanh đạp chân ga nhưng do Thanh đạp

chân ga quá mạnh nên xe Kia Cerato do Thanh điều khiển lao thẳng về phía trước

và đâm vào đuôi xe Mercedes đang đỗ trên cầu rửa làm chiếc xe này lao về phía

trước và đâm vào tường, hậu quả làm 02 xe ô tô hư hỏng. Theo kết luận định giá tài

sản thì tổng thiệt hại hai xe ô tô là 271.800.000 đồng.

Bị cáo Thanh đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại có đơn đề

nghị giảm nhẹ hình phạt và xử lý bị cáo bằng hình thức thấp nhất.

Hội đồng xét xử đã căn cứ vào khoản 1 Điều 180; Điều 34; điểm b, i, s khoản

1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS. Tuyên bố bị cáo Bùi Hữu Thanh phạm tội “Vô ý

gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản”. Xử phạt cảnh cáo bị cáo Bùi Hữu Thanh.

46

Trường hợp trên là một trong rất ít trường hợp được áp dụng hình phạt chính

là hình phạt cảnh cáo ở tỉnh Bắc Ninh, ngoài việc bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng,

nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thì bị cáo còn phạm tội với lỗi vô ý, đã khắc phục

toàn bộ thiệt hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, trong quá trình điều tra cũng

như tại phiên tòa người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Hình phạt cảnh cáo sở dĩ được áp dụng rất ít ở Bắc Ninh nói riêng và ở nước

ta nói chung là bởi: Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính, hình

phạt cảnh cáo không tước hoặc hạn chế quyền hay lợi ích cụ thể nào của người bị

kết án nên tính nghiêm khắc của hình phạt có phần hạn chế. Do vậy, mặc dù được

quy định trong BLHS nhưng trên thực tế hình phạt cảnh cáo rất khó phát huy được

tác dụng, các nhà áp dụng pháp luật chưa thấy tác dụng của hình phạt này trong

giáo dục cải tạo người phạm tội, thậm chí còn cho rằng áp dụng hình phạt cảnh cáo

coi như bị cáo không phải chịu hình phạt. Mặt khác trên thực tế người bị áp dụng

hình phạt cảnh cáo không khác biệt quá lớn với người được miễn hình phạt nên có

thể tạo tâm lý e ngại cho Tòa án khi áp dụng. Bên cạnh đó, tâm lý xã hội hiện nay

thường cho rằng áp dụng hình phạt cảnh cáo là khoan hồng, hoặc là biểu hiện của

tiêu cực nên có thể ảnh hưởng đến tâm lý của người áp dụng pháp luật. Tuy nhiên,

việc năm 2020, tại Bắc Ninh, hình phạt cảnh cáo đã được áp dụng (so với 04 năm

trước từ năm 2016 đến năm 2019) đã một phần khẳng định vai trò của loại hình phạt

này bởi lẽ mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn

giáo dục họ trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Do vậy, đối với một

số trường hợp cụ thể, hình phạt cảnh cáo vẫn thể hiện được vai trò riêng của nó so

với các loại hình phạt chính khác, nó thể hiện rõ nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.

Hơn nữa, trong một số trường hợp cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung mà nếu

không tuyên hình phạt chính thì Tòa án không được áp dụng hình phạt bổ sung. Có

lẽ cũng chính vì lẽ đó mà mặc dù đã có một số quan điểm cho rằng nên loại bỏ cảnh

cáo ra khỏi hệ thống hình phạt nhưng BLHS 2015 vẫn tiếp tục ghi nhận cảnh cáo là

một trong các hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội.

*Đối với hình phạt tiền

47

Tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù thì hình phạt

tiền là hình phạt được áp dụng nhiều nhất, nhiều hơn hẳn so với các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn khác, tỷ lệ áp dụng hình phạt chính là hình phạt

tiền mỗi năm (trong các năm từ 2016 đến 2020) đều trên 4% trong khi tỷ lệ áp dụng

các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn khác đều dưới 1%. Tỷ lệ áp

dụng hình phạt tiền là hình phạt chính có xu hướng tăng, trong hai năm trở lại đây:

2019, 2020 thì tăng nhiều hơn. Tuy nhiên, hình phạt tiền nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất

thấp trong thực tiễn áp dụng các hình phạt chính. Tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền là

hình phạt chính khoảng 4% là chưa đánh giá hết vai trò của hình phạt tiền, nếu so

sánh với tỷ lệ quy định hình phạt tiền trong chế tài của quy phạm pháp luật hình sự

thì BLHS năm 2015 có 95/314 (tỷ lệ 30,25%) điều luật có quy định hình phạt tiền là

hình phạt chính.

Mặt khác, hình phạt tiền được quy định là hình phạt chính trong rất nhiều tội

của BLHS, tuy nhiên, thực tiễn loại hình phạt này cũng chỉ được áp dụng chủ yếu

trong nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trong đó chiếm

phần lớn là tội “Đánh bạc” và tội “Gá bạc”.

Qua khảo sát một số bản án ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm

2020, có thể thấy việc áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền tại tỉnh Bắc Ninh

như sau:

Thứ nhất, hình phạt tiền chưa được quan tâm trong việc áp dụng là hình phạt

chính, rất nhiều trường hợp các bị cáo đủ điều kiện để áp dụng hình phạt chính là

hình phạt tiền và việc áp dụng hình phạt tiền là phù hợp hơn nhưng Tòa án lại áp

dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

Ví dụ: Bản án số: 58/2017/HSST ngày 07/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện

Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Tóm tắt nội dung vụ án: Lợi dụng chủ trương, chính sách của nhà nước đối với

người có công với cách mạng, trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2006,

Nguyễn Văn Nở mặc dù biết rõ Trần Danh Trọng và Nguyễn Bá Sộ không đủ điều

kiện và tiêu chuẩn để xét duyệt làm chế độ thương binh theo quy định của nhà nước,

48

nhưng Nở vẫn móc nối với Lê Đình Thảo dùng thủ đoạn gian dối để hoàn thiện các

thủ tục, hồ sơ làm chế độ “thương binh giả” cho hai đối tượng trên. Tổng số tiền Nở

đã giúp Trọng và Sộ chiếm đoạt của nhà nước là 119.329.000đ.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai

báo, ăn năn hối cải và đã tự nguyện nộp lại một phần số tiền thu lời bất chính; ngoài

ra bị cáo còn có thời gian tham gia quân ngũ, tự nguyện ra đầu thú và có anh trai là

liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, p

khoản 1 và 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 của BLHS.

Hội đồng xét xử đã: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Nở phạm tội “Lừa đảo

chiếm đoạt tài sản”; áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, khoản 2

Điều 46; điểm i khoản 1 Điều 48; Điều 60 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn

Văn Nở 30 (Ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60

tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nhận xét: Từ bản án trên ta thấy, trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Văn Nở có

đủ điều kiện để áp dụng hình phạt chính là phạt tiền; bị cáo có nhiều tình tiết giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự. Mặt khác, mục đích phạm tội của bị cáo là lợi nhuận nên

theo quan điểm của tác giả, biện pháp trừng phạt có tính chất kinh tế là phạt tiền sẽ

phù hợp hơn trong trường hợp này, tất nhiên vẫn phải khẳng định lại một điều là

Tòa án xử như vậy là không sai.

Thứ hai, BLHS năm 2015 có quy định, khi quyết định mức phạt tiền đối với

người phạm tội, Tòa án phải xét đến tình hình tài sản, khả năng thi hành của người

phạm tội. Tuy nhiên, tại Bắc Ninh, trong quá trình xây dựng hồ sơ vụ án các cơ

quan tiến hành tố tụng đều không xem xét đến vấn đề này, trong hồ sơ vụ án thường

không có bút lục nào thể hiện về vấn đề này, trong bản án của Tòa án cũng không

đề cập tới nội dung này.

Ví dụ 3: Bản án số 76/2020/HS-ST ngày 20/3/2020 của Tòa án nhân dân thị

xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng 17 giờ ngày 05/02/2020, bị cáo Nguyễn Văn

H đã sử dụng máy trò chơi điện tử “bắn cá” của quán X – Game để đánh bạc với các

49

đối tượng Nguyễn Văn H 200.000 đồng, Nguyễn Khánh Đ 100.000 đồng, Nguyễn

Văn A1 3.100.000 đồng, Trần Văn C1 2.500.000 đồng, Nguyễn Văn T2 200.000

đồng, Dương Văn C 100.000 đồng, Vi Văn T1 100.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo

đánh bạc với các đối tượng là 6.300.000 đồng.

Đối với bị cáo Nguyễn Văn H, HĐXX đã tuyên bị cáo Nguyễn Văn H phạm

tội “Đánh bạc” và xử phạt bị cáo 25.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án,

trong bản án và trong biên bản phiên tòa đều không thể hiện tình hình tài sản cũng

như khả năng thi hành của bị cáo H. Do vậy, không thể nói là HĐXX đã xem xét

đến tình hình tài sản và khả năng thi hành của bị cáo đã quyết định xử phạt bị cáo

25.000.000 đồng.

Thứ ba, khác với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 không quy định việc Tòa

án ấn định trong bản án việc nộp tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần

trong thời hạn. Tuy nhiên, tại Bắc Ninh, một số trường hợp Tòa án vẫn ấn định việc

nộp tiền phạt trong bản án, việc ấn định này theo tác giả là cần thiết. Tuy nhiên, có

những trường hợp, Tòa án ấn định việc bị cáo phải nộp số tiền phạt khá lớn và phải

thực hiện trong một lần nhưng trong hồ sơ vụ án và trong quá trình xét xử không có

tài liệu thể hiện tình hình tài sản của bị cáo để chứng minh khả năng thi hành án.

Ví dụ 4: Bản án số: 04/2020/HSST ngày 07/02/2020 của Tòa án nhân dân

huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Nội dung vụ án: Hoàng Thị Lành và Lê Quang Ngận có thỏa thuận trước với

nhau về việc đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, số đề. Theo đó Ngận sẽ ghi các số

lô, số đề của người chơi rồi tổng hợp lại thành các tờ cáp, sau đó chụp ảnh và gửi

hình ảnh các tờ cáp lô, cáp đề cho Lành qua ứng dụng Zalo. Ngày 30/12/2019,

Ngận đã ghi số lô, số đề cho nhiều người khác nhau và tổng hợp trên 04 tờ cáp để

gửi cho Lành theo thỏa thuận. Đến 18 giờ 10 phút ngày 30/12/2019, khi Ngận đã

chuyển thành công các tờ cáp số 01, 02, 04 cho Lành và Lành đã nhắn tin xác nhận,

còn tờ cáp số 03 thì Ngận chưa kịp chuyển cho Lành thì bị phát hiện và bắt quả

tang. Tổng số tiền đánh bạc trên tờ cáp số 01, 02, 04 là: 36.352.500 đồng. Tổng số

tiền đánh bạc trên cả bốn tờ cáp 01, 02, 03, 04 là: 42.440.000 đồng.

50

Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tính đến thời

điểm phạm tội lần này đều là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Các

bị cáo đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần

đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo; bị cáo Ngận sau khi

phạm tội đã tự nguyện nộp đủ số tiền đánh bạc để thể hiện sự ăn năn hối cải, có em

trai ruột là liệt sỹ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại

điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

HĐXX đã tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị Lành, Lê Quang Ngận phạm tội

“Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 (bị cáo Ngận áp

dụng thêm khoản 2 Điều 51); Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Hoàng Thị Lành

75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu đồng). Xử phạt: Lê Quang Ngận 70.000.000đ (bảy

mươi triệu đồng). Nộp làm một lần trong vòng một tháng kể từ ngày bản án có hiệu

lực pháp luật để sung vào ngân sách nhà nước.

Nhận xét: Trong vụ án trên việc Tòa án áp dụng hình phạt chính là phạt tiền và

mức phạt tiền đối với từng bị cáo là hợp lý. Tuy nhiên việc ấn định các bị cáo phải

thi hành hình phạt tiền trong vòng một tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp

luật là chưa đủ căn cứ, chưa có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện khả năng thi hành án

của các bị cáo. Có chăng nếu trong hồ sơ vụ án không thể hiện thì Hội đồng xét xử

nên làm rõ nội dung này tại phiên tòa và ghi rõ vào trong biên bản phiên tòa.

*Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ

Từ các bảng số liệu 2.2 và 2.3 cho thấy, tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tỷ lệ áp dụng hình phạt cải tạo không giam

giữ đứng thứ hai, chỉ sau tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền và tỷ lệ áp dụng loại hình phạt

chính này chênh lệch khá lớn so với tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền. Tỷ lệ áp dụng hình

phạt cải tạo không giam giữ trong các năm từ 2015 đến 2020 theo thứ tự như sau:

0,1% (2016); 0,1% (2017); 0,1% (2018); 0,3% (2019); 0,4% (2020). Nhìn chung tỷ

lệ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại Bắc Ninh thấp nhưng có xu hướng

tăng dần trong các năm gần đây.

51

Mặc dù hiện nay pháp luật hình sự nước ta đã mở rộng phạm vi và điều kiện

áp dụng hình phạt này, cũng như xem trọng việc cải tạo, giáo dục hơn trừng trị, tuy

nhiên việc áp dụng loại hình phạt chính này tại Bắc Ninh vẫn chưa được quan tâm

đúng mức. Thực tiễn nghiên cứu một số vụ án hình sự được xét xử trong thời gian

qua tại hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh, tác giả thấy rằng:

Thứ nhất, có nhiều trường hợp người phạm tội có đủ các điều kiện để được

áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng HĐXX không lựa chọn loại hình

phạt này mà lại xử phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo. Như đã phân tích ở phần

chương I, mặc dù cũng không bắt người phạm tội cách ly khỏi xã hội nhưng hình

phạt cải tạo không giam giữ khác với hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và hình

phạt này nhẹ hơn hình phạt tù cho hưởng án treo.

Ví dụ: Bản án số: 39/2019/HS - ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân

huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Tóm tắt nội dung vụ án: Trong khoảng thời gian từ 21 giờ đến 22 giờ ngày

25/02/2019, tại phòng ngủ tầng hai nhà ở của anh Vũ Cao Sao ở thôn Ích Phú, xã

Song Giang, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Văn Thủy, Vũ Cao Thế, Vũ

Cao Bẩy, Vũ Cao Sàn, Ngô Văn Lâm đã đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình

thức đánh “liêng” với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 7.650.000 đồng.

Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tính đến

trước thời điểm phạm tội lần này đều chưa có tiền án. Bị cáo Thủy đã từng bị xử

phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”, mặc dù đã được xóa nhưng vẫn bị coi là có

nhân thân xấu; các bị cáo còn lại đều có nhân thân tốt. Các bị cáo đều có hai tình

tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng; thành khẩn khai báo; bị cáo Thủy, Thế, Sàn có thêm tình tiết tham gia quân

ngũ, hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các

bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, tội phạm mà các bị cáo thực hiện là do nhất thời,

hoàn cảnh phạm tội là khi nhà trong họ có ma chay, các bị cáo ở lại để phụ giúp.

52

Hội đồng xét xử đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Thủy, Vũ Cao Thế, Vũ

Cao Bẩy, Vũ Cao Sàn, Ngô Văn Lâm phạm tội “Đánh bạc” và áp dụng hình phạt

chính là phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với cả 05 bị cáo.

Nhận xét: Từ bản án trên ta thấy, các bị cáo trong vụ án này đều đủ điều kiện

để áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ, trừ bị cáo Thủy có nhân thân

xấu (có tiền sự nhưng đã được xóa), các bị cáo khác đều có nhân thân tốt; các bị cáo

đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ, số tiền đánh bạc không lớn; các bị cáo đều có nơi

cư trú rõ ràng. Do vậy, theo tác giả trong trường hợp này Tòa án hoàn toàn có thể áp

dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ.

Thứ hai, việc cá thể hóa hình phạt trong một số vụ án có đồng phạm chưa cao.

Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự có đồng phạm, vai trò của các bị cáo trong

các vụ án này khác nhau, đặc biệt là giữa bị cáo có vai trò chính và bị cáo có vai trò

thứ yếu nhưng khi quyết định hình phạt HĐXX lại không cá thể hóa hình phạt bằng

cách áp dụng các hình phạt chính khác nhau mà thường lựa chọn việc áp dụng hình

phạt chính là phạt tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian khác nhau (Đây là thực

trạng chung trong việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

tại Bắc Ninh).

Ví dụ: Bản án số: 39/2019/HS - ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân

huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (nêu trên).

Nhận xét: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn. Các bị

cáo nhất thời phạm tội, không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau trong quá

trình thực hiện tội phạm do vậy không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Các bị

cáo có vai trò chênh lệch không lớn, tuy nhiên bị cáo Thủy là người có nhân thân

xấu, do vậy HĐXX hoàn toàn có thể áp dụng các hình phạt chính khác nhau để cá

thể hóa hình phạt. Ví dụ bị cáo Thủy áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam

giữ, các bị cáo còn lại áp dụng hình phạt chính là phạt tiền.

Thứ ba, BLHS năm 2015 cho phép áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ

đối với những trường hợp có nhân thân xấu (ví dụ như: có tiền sự), tuy nhiên, thực

tiễn khảo sát tại Bắc Ninh, rất ít trường hợp bị cáo có nhân thân xấu là được áp

53

dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ (hoặc một trong các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn khác). Dưới đây là một trong số ít bản án mà bị

cáo có nhân thân xấu được áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ (đặc

điểm này áp dụng đối với cả việc áp dụng hình phạt chính là phạt tiền).

Ví dụ: Bản án số 36/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện

Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.

Tóm tắt nội dung vụ án: Vào ngày 02/8/2018, Nguyễn Văn Tuấn đã cùng với

Nguyễn Viết Diện, Lưu Văn Đăng, Bùi Văn Tú chơi đánh bạc ăn tiền dưới hình

thức “tiến lên Miền Nam” tại đường ngách cạnh nhà chị Nguyễn Thị Ngọc ở thôn

Cao Thọ, xã Vạn Ninh, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Tổng số tiền thu trên người

bị cáo và các đối tượng mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc

là: 1.170.000 đồng (Một triệu một trăm bẩy mươi nghìn đồng). Mặc dù, số tiền này

dưới mức 5.000.000 đồng nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi “Đánh bạc” lần

này, Nguyễn Văn Tuấn đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc

– đây là tình tiết định tội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS. Trong quá trình điều tra cũng như

tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và

thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo

quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 BLHS.

HĐXX đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tuấn phạm tội “Đánh bạc”. Áp

dụng: khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử

phạt Nguyễn Văn Tuấn 10 (Mười) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo

không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người

bị kết án (UBND xã Vạn Ninh, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) nhận được quyết

định thi hành án.

Nhận xét: trong vụ án trên, bị cáo Nguyễn Văn Tuấn đã cùng các đối tượng

khác thực hiện hành vi đánh bạc nhưng tổng số tiền đánh bạc ít, trong đó số tiền bị

cáo sử dụng vào việc đánh bạc là ít nhất, các bị cáo khác không bị truy cứu TNHS

mà chỉ bị xử phạt hành chính, việc bị cáo bị truy cứu TNHS là do trước đó bị cáo đã

54

có một tiền sự về hành vi đánh bạc. Mặt khác, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tội

phạm mà bị cáo thực hiện là do nhất thời, bị cáo có cư trú rõ ràng. Do vậy, việc bị

cáo Tuấn mặc dù có nhân thân xấu nhưng HĐXX vẫn áp dụng hình phạt chính là

cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là phù hợp.

Thứ tư, việc ấn định thời gian cải tạo không giam giữ trong các vụ án chưa

có sự thống nhất.

Ví dụ: Bản án số: 36/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân

huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (nêu trên), HĐXX đã xử phạt Nguyễn Văn Tuấn 10

(Mười) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày

cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định

thi hành án.

Tuy nhiên, cũng cùng là Tòa án nhân dân huyện Gia Bình xét xử, tại Bản án

số 09/2016/HSST ngày 15/4/2016, HĐXX đã tuyên bố các bị cáo Lê Văn Lân, Trần

Thị Hằng, Hồ Thị Chuyển, Ngô Văn Hà, Nguyễn Đình Thành, Nguyễn Thị Lan

phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”; tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Hiền,

Nguyễn An Nam, Nguyễn Quang Điệp, Bùi Thị Nhung phạm tội “trốn thuế” và

trong đó có hai bị cáo là Nguyễn Quang Điệp và Bùi Thị Nhung được áp dụng hình

phạt chính là “cải tạo không giam giữ” nhưng thời gian cải tạo không giam giữ lại

được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Thứ năm, về việc khấu trừ thu nhập, trong một số vụ án tại tỉnh Bắc Ninh,

khi áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ, Tòa án không buộc các bị

cáo phải khấu trừ thu nhập nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lý do

mà Tòa án không khấu trừ thu nhập.

Ví dụ: Tại Bản án số: 36/2018/HSST ngày 11/9/2018 và bản án số

09/2016/HSST ngày 15/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh

(nêu trên), HĐXX đều không khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo bị áp dụng hình

phạt chính là cải tạo không giam giữ với lý do là các bị cáo không có nguồn thu nhập

ổn định, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng

55

minh về vấn đề này. Hơn nữa, việc HĐXX không khấu trừ thu nhập với các bị cáo

với lý do không có nguồn thu nhập ổn định theo quan điểm của tác giả là chưa hợp lý.

*Đối với hình phạt trục xuất

Hình phạt trục xuất là hình phạt dành cho đối tượng là người nước ngoài.

Chính sách hội nhập với thế giới của nước ta đã tạo điều kiện cho người nước ngoài

đến Việt Nam du lịch, đầu tư, kinh doanh và làm việc ngày càng nhiều, tạo ra nhiều

thay đổi nhất định về kinh tế, văn hóa, xã hội. Bắc Ninh cũng là một địa bàn thu hút

đầu tư trong cả nước, tuy nhiên thực tiễn xét xử từ năm 2016 đến năm 2020, tại tỉnh

Bắc Ninh chưa có trường hợp nào áp dụng hình phạt chính là trục xuất. Điều đó cho

thấy hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính chưa thực sự phát huy được

vai trò của mình.

2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh

2.2.1. Những vướng mắc về pháp luật hình sự trong quá trình áp dụng

các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh

*Đối với hình phạt tiền

Thứ nhất, hình phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung tuy

nhiên quy định của BLHS chưa có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là

hình phạt chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt. Về

nguyên tắc hình phạt chính phải có mức độ nghiêm khắc hơn hình phạt bổ sung, nên

khi quy định về hình phạt tiền phải có sự phân định rõ ràng. Có như vậy mới thực

hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong khi áp dụng hình phạt tiền đối

với người phạm tội. Tuy nhiên, mức phạt tiền giữa hình phạt chính và hình phạt bổ

sung ở một số tội không có chênh lệch quá nhiều. Ví dụ: Đối với tội “Đánh bạc”

theo quy định Điều 321 BLHS năm 2015 thì mức thấp nhất của khung hình phạt khi

áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền là 20.000.000 đồng, trong khi đó hình phạt

tiền là hình phạt bổ sung đã có mức khởi điểm là 10.000.000 đồng và tối đa là

50.000.000 đồng tức là hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung có mức phạt

đôi khi cao hơn cả hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính. Vì vậy có quan

56

điểm cho rằng: “Cần có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là hình phạt

chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt… Cụ thể phải quy

định rõ mức tối thiểu và tối đa của phạt tiền với tính chất là hình phạt chính phải

cao hơn mức tối thiểu và tối đa của phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung”[32;

Tr.274-276]. Tác giả cho rằng quan điểm trên là hợp lý vì về bản chất, hình phạt bổ

sung chỉ là hỗ trợ, củng cố hiệu lực của hình phạt chính, do vậy, mức độ nghiêm

khắc không thể ngang bằng với hình phạt chính.

Thứ hai, về căn cứ quyết định mức phạt tiền: Khoản 3 Điều 30 BLHS năm

2015 và Khoản 2 Điều 50 BLHS năm 2015 quy định để quyết định mức phạt tiền

đối với người phạm tội, Tòa án phải xét đến tình hình tài sản, khả năng thi hành của

người phạm tội. Tuy nhiên, tình hình tài sản và khả năng thi hành của người phạm

tội được xác định bằng cách nào thì lại không có quy định cụ thể. Do đó, đối với

những trường hợp người phạm tội không có nghề nghiệp ổn định, là lao động tự

do… mức thu nhập của họ không thể xác định một cách cụ thể, dẫn đến việc thì khi

tuyên mức phạt tiền đối với người phạm tội, Tòa án không thể đưa ra một mức phạt

tiền phù hợp nhất với tình hình tài sản của người phạm tội. Nếu như mức phạt tiền

cao so với tình hình tài sản của người phạm tội sẽ dẫn đến việc khó thi hành trên

thực tế, ngược lại, trường hợp mức phạt tiền thấp không đảm bảo được tính nghiêm

minh, răn đe của hình phạt.

Thứ ba, việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam khi áp dụng hình phạt

chính là phạt tiền.

Các hình phạt chính khác như tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ đều quy

định việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành án. Riêng

hình phạt chính là phạt tiền lại không quy định về việc khấu trừ này. Để đảm bảo

quyền lợi chính đáng của người phạm tội, việc khấu trừ thời gian tạm giam, tạm giữ

đối với hình phạt tiền là cần thiết. Về vấn đề này cần có quy định cụ thể về cách

khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam của người phạm tội, mức khấu trừ là bao nhiêu

cũng cần tính toán kỹ lưỡng sao cho vừa phù hợp với quy định khác của pháp luật

vừa đảm bảo tính công bằng.

57

Thứ tư, hiện nay tại một số điều luật trong phần các tội phạm còn quy định

khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một khung hình phạt quá

rộng. Điều này không đảm bảo nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, đồng thời

có thể tạo cơ sở cho sự tùy tiện trong việc áp dụng hình phạt này.

Ví dụ: Về tội “Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam” tại khoản 1 Điều

239 BLHS năm 2015 có mức phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính tối thiểu là

200.000.000 đồng trong khi tối đa là 1.000.000.000 đồng (chênh lệch 800.000.000

đồng). Do đó, có quan điểm cho rằng: “Cần thu hẹp khoảng cách giữa mức tối thiểu

và tối đa trong một số điều luật hoặc phân hóa chúng trong các khung hình phạt

khác nhau như đối với hình phạt tù có thời hạn, tạo điều kiện cho việc quyết định

một hình phạt nghiêm khắc và công bằng”[18, tr.42]. Tác giả đồng ý với quan điểm

trên và cho rằng BLHS cần khắc phục hạn chế này.

Thứ năm, việc dẫn chiếu tại Điều 35 BLHS về hình phạt tiền chưa khớp với

các quy định khác trong BLHS.

Cụm từ “trật tự công cộng, an toàn công cộng” tại Điểm b khoản 1 Điều 35

BLHS 2015 chưa khớp với tên nhóm tội “an toàn công cộng, trật tự công cộng” được

quy định tại Chương 21 BLHS 2015. Do vậy, cần chỉnh sửa lại cho thống nhất.

Thứ sáu, chưa có quy định về việc chuyển đổi giữa hình phạt tiền với hình

phạt khác nếu người phạm tội không chấp hành hình phạt tiền.

Hiện nay, pháp luật ở một số nước trên thế giới có quy định về việc nếu

người phạm tội không chấp hành hình phạt chính là phạt tiền mặc dù đã áp dụng

nhiều biện pháp cưỡng chế thì sẽ bắt họ phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn với

mức quy đổi tương ứng. Ví dụ như quy định của BLHS Pháp: "...trong trường hợp

người bị kết án không nộp tiền phạt, theo quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa

Pháp, người bị kết án bị áp dụng biện pháp giam giữ tại nhà (tù tại gia). Tùy thuộc

vào số lượng tiền phạt, thời hạn giam giữ được ấn định từ 5 ngày đến 2 tháng...

[50, tr.257]. Việc pháp luật hình sự Việt Nam chưa có quy định về vấn đề này, dẫn

đến việc nhiều trường hợp không thể thi hành hình phạt trên thực tế, điều này sẽ làm

giảm hiệu quả của hình phạt.

58

* Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ

Thứ nhất, như đã trình bày ở phần thực trạng, tại Bắc Ninh về thời điểm tính

thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ chưa có sự thống nhất giữa các

Tòa án mà thậm chí là giữa các Thẩm phán trong cùng một Tòa án cũng chưa có sự

thống nhất. Hiện nay, vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau về vấn đề này như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thời điểm này cần tính từ ngày tuyên án sơ

thẩm (hoặc tính từ ngày tuyên án phúc thẩm nếu Tòa án phúc thẩm áp dụng hình

phạt cải tạo không giam giữ).

Quan điểm thứ hai cho rằng: Thời điểm này được tính từ ngày bản án có hiệu

lực pháp luật (tức là ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị đối với bản án sơ thẩm

hoặc ngày tuyên án phúc thẩm).

Quan điểm thứ ba cho rằng: Thời điểm này được tính từ ngày cơ quan, tổ chức

được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án.

Thứ hai, về việc miễn việc khấu trừ thu nhập: Pháp luật hình sự có quy định

trong những trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập và

phải ghi rõ lý do trong bản án. Tuy nhiên, do Luật và các văn bản hướng dẫn thi

hành Luật đều không có quy định cụ thể như thế nào là trường hợp đặc biệt, việc

này đã dẫn đến việc áp dụng tùy tiện đối với việc khấu trừ thu nhập nói chung và

miễn việc khấu trừ thu nhập nói riêng. Tại Bắc Ninh, một số bản án không áp dụng

việc khấu trừ thu nhập đối với người phạm tội trong khi hồ sơ vụ án không có bất

cứ tài liệu nào chứng minh liên quan đến vấn đề này, thậm chí trong biên bản phiên

tòa cũng không thể hiện việc Hội đồng xét xử có hỏi đến vấn đề này, trong bản án

cũng thường chỉ nhận định chung chung lý do miễn việc khấu trừ thu nhập là do bị

cáo không có thu nhập ổn định.

Thứ ba, về điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ

Một trong các điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là“nếu xét

thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội”, đây là điều kiện

mang tính định tính, phụ thuộc vào sự đánh giá của Hội đồng xét xử. Việc không có

văn bản hướng dẫn gây khó khăn cho Tòa án trong việc áp dụng loại hình phạt này

59

cũng như làm cho loại hình phạt này ít được áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và

trên cả nước nói chung.

* Đối với hình phạt trục xuất

Hình phạt trục xuất được quy định trong BLHS năm 2015 là một trong các

hình phạt chính. Tuy nhiên, Điều 37 BLHS năm 2015 lại không quy định những

điều kiện, tiêu chí cụ thể để áp dụng hình phạt trục xuất, đồng thời cũng không quy

định hình phạt này tại các điều luật cụ thể của phần các tội phạm. Điều đó có nghĩa,

khi người nước ngoài phạm bất cứ một tội danh nào được quy định trong BLHS đều

có thể bị áp dụng loại hình phạt này. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở sự

cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau, Tòa án sẽ vận dụng điều luật để đưa ra quyết định

việc áp dụng hình phạt trục xuất đối với người phạm tội. Vấn đề này cũng có ý kiến

trái chiều, có ý kiến cho rằng “BLHS năm 2015 nên có quy định về hình phạt trục

xuất được áp dụng với những tội danh nào”[29, tr.19]. Tuy nhiên cũng có quan

điểm ngược lại là: “Điều này là không cần thiết, vì tính phức tạp trong việc xử lý

người phạm tội là người nước ngoài, nên có thể coi đây là trường hợp ngoại lệ. Tòa

án có thể căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của từng bị cáo đối với từng

vụ án mà toàn quyền quyết định áp dụng hay không áp dụng hình phạt này đối với

bị cáo là người nước ngoài”[50, tr.23]. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, việc

BLHS không quy định những điều kiện, tiêu chí cụ thể, phạm vi áp dụng để áp dụng

hình phạt trục xuất cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến việc hình phạt trục xuất

rất ít được áp dụng trên thực tế.

2.2.2. Những vướng mắc, tồn tại khác trong thực tiễn áp dụng các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

Thứ nhất, công tác giải thích hướng dẫn áp dụng pháp luật trong hoạt động

áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án nhân dân

còn nhiều hạn chế.

Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao đã có rất nhiều văn bản hướng

dẫn áp dụng pháp luật như: Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định

60

của BLHS trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ, Nghị

quyết số 07/2019/NQ-HĐTP ngày 25/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án

nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 299 và Điều 300 của

BLHS…tuy nhiên vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào về việc áp dụng các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn để hướng dẫn áp dụng những vấn đề vướng

mắc về pháp luật hình sự như đã nêu ở mục 2.2.1. Điều đó dẫn đến nhận thức về

việc hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn của các Thẩm phán ở Bắc

Ninh nói riêng ở với nước ta nói chung còn khác nhau nên việc áp dụng loại hình

phạt này cũng khác nhau.

Mặc dù không có nhiệm vụ giải thích pháp luật, nhưng TAND tỉnh Bắc Ninh

cũng như các Tòa án cấp tỉnh khác đều có nhiệm vụ kiểm tra bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật. Trong quá trình đó, Tòa án tỉnh hoàn toàn có thể chỉ ra những

bản án, quyết định được áp dụng không thống nhất để từ đó thống nhất việc áp dụng

pháp luật nói chung và pháp luật về hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn trong một số trường hợp cụ thể, đảm bảo đường lối giải quyết vụ án. Hoặc trong

những buổi đào tạo, tập huấn, Tòa án tỉnh Bắc Ninh cũng có thể lồng ghép các nội

dung về việc áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên,

công tác này tại Bắc Ninh chưa được quan tâm đúng mức.

Thứ hai, về chủ thể áp dụng pháp luật

Chất lượng của đội ngũ Thẩm phán: Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về

cải cách tư pháp, trong đó xác định “Toà án là trung tâm, xét xử là hoạt động trọng

tâm”, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh,

chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần cải cách tư pháp tại

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” là vô

cùng cấp thiết. Trong những năm gần đây, đội ngũ Thẩm phán ở Bắc Ninh đã được

bổ sung về số lượng cũng như nâng cao về chất lượng về chính trị, đạo đức, trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kinh nghiệm xã hội và thực tiễn công tác nhằm

mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo

61

vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư

pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Tuy nhiên, do BLHS hiện hành mới được áp dụng trong thực tiễn nên có một

số quy định trong đó có các quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn quan điểm của các Thẩm phán còn khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp

luật chưa thống nhất. Một số quan điểm rằng để việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù được thực thi trên thực tế nhiều hơn có chăng nên quy định rõ ràng

về những trường hợp “phải áp dụng” các loại hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn, theo tác giả là không nên vì pháp luật hình sự đã có hướng “mở”, việc có áp

dụng hay không phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nó cũng là cái “tài” và cái

“tầm” của người áp dụng pháp luật. Do vậy, cần tập trung vào việc xây dựng đội ngũ

áp dụng pháp luật nói chung, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán riêng.

Về chế định Hội thẩm Tòa án nhân dân: Cũng như thực trạng chung trong cả

nước, tại Bắc Ninh, Hội thẩm nhân dân là lực lượng kiêm nhiệm, trình độ pháp lý

không cao, không chuyên nghiệp nhưng luôn là số đông trong hoạt động xét xử sơ

thẩm các vụ án và ngang quyền với Thẩm phán theo quy định pháp luật. Trong quá

trình xét xử, ý kiến của các Hội thẩm thường phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán

chủ tọa phiên tòa. Chính những bất cập nêu trên của chế định Hội thẩm Tòa án nhân

dân đã và đang là một trong những bất cập trong việc áp dụng pháp luật nói chung

và việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng.

Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn chưa được quan tâm.

Tại tỉnh Bắc Ninh, so với các quy định pháp luật về hình phạt tù có thời hạn,

các quy định pháp luật về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được

cộng đồng biết đến rất ít. Nếu nói đến hình phạt mà được giáo dục, cải tạo tại địa

phương, đa phần mọi người đều nghĩ đến hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng

án treo mà ít người nghĩ đến hình phạt cải tạo không giam giữ; hình phạt cảnh cáo,

phạt tiền thì lại cho rằng là xử phạt hành chính. Một trong các nguyên nhân mà các

hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ít được áp dụng tại Bắc Ninh là do

nhận thức của người dân ở đây về các quy định này còn hạn chế nên khi Tòa án áp

62

dụng loại hình phạt này còn có một số quan điểm cho rằng xử sai, có tiêu cực… mà

mạng xã hội ngày càng phát triển, đa phần các bản án đều được đăng công khai trên

cổng thông tin điện tử của Tòa án, đặc biệt là đối với những vụ án mà dư luận quan

tâm thì HĐXX lại càng e ngại trong việc áp dụng các loại hình phạt này.

Xét xử lưu động là một trong những hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp

luật của Tòa án. Tuy nhiên, một thực tế là tại tỉnh Bắc Ninh, các vụ án được xét xử

lưu động đa phần là những vụ án rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và

hình phạt áp dụng đối với các bị cáo thường là tù có thời hạn. Do vậy, người dân

thường chỉ biết loại hình phạt này mà ít biết đến hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt

tù có thời hạn.

Do vậy, để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, ngoài việc xây dựng một hệ

thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, còn cần

sử dụng nhiều biện pháp khác để hình thành và phát triển ý thức xã hội. Một trong

các biện pháp đó là tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Thứ tư, về công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động của TAND trong đó có

hoạt động áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

Hiện nay, tại hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trong hệ

thống Tòa án nói chung, việc thanh tra kiểm tra trong hệ thống Tòa án thường được

thực hiện bằng cách thu hồ sơ của một năm của Tòa án cấp dưới, thực hiện kiểm tra

rà soát các hồ sơ đó (công tác giám đốc kiểm tra). Ngoài ra, còn thực hiện việc kiểm

tra theo vụ việc và không mang tính chất thường xuyên đối với những hồ sơ mà

Viện kiểm sát có kiến nghị hoặc có những hồ sơ Tòa án cấp cao rút hồ sơ hoặc

những vụ án mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay,

trong kết luận kiểm tra của TAND tỉnh Bắc Ninh thường chỉ nhắc nhở, rút kinh

nghiệm nếu Thẩm phán áp dụng các hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án

treo không đúng hoặc áp dụng mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt mà bị

cáo phải chịu chứ không rút kinh nghiệm về việc tại sao Thẩm phán lại không áp

dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với những trường

hợp đủ điều kiện áp dụng.

63

Ngoài việc thanh tra, kiểm tra trong hệ thống Tòa án, Tòa án còn phải báo

cáo trước Hội đồng nhân dân, tuy nhiên, cũng như các kết luận của Tòa án tỉnh, Hội

đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Hội đồng nhân dân các quận, huyện, thành phố

trong tỉnh Bắc Ninh cũng tập trung giám sát công tác xét xử của Tòa án, các vụ án

có hủy sửa… chứ không xem xét đến việc tại sao Tòa án lại không áp dụng hình

phạt chính là một trong các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn

Việc hoàn thiện quy định của luật thực định sẽ giúp nâng cao hiệu quả áp

dụng pháp luật và ngược lại nếu không hoàn thiện mà cứ để cho luật thực định ngày

càng lạc hậu không phát triển, có nhiều khiếm khuyết sẽ là những trở ngại, gây khó

khăn cho hoạt động này và thường trở thành nguyên nhân của những vướng mắc,

tồn tại, hạn chế trong thực tiễn công tác của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Pháp luật

dù có hoàn thiện đến đâu đi nữa, cơ sở vật chất có đầy đủ như thế nào thì cũng chỉ

mới là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là yếu tố con người. Yếu tố con người

quyết định chủ yếu đến việc áp dụng pháp luật được chính xác và đạt được đúng

mục đích khi áp dụng pháp luật. Qua nghiên cứu quy định về các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm 2015, thực tiễn áp dụng các hình

phạt này tại tỉnh Bắc Ninh và những khó khăn vướng mắc tồn tại trong thực tiễn áp

dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tác giả xin đưa ra một số

kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù

có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và ở nước ta nói chung như sau:

2.3.1. Các giải pháp hoàn thiện BLHS năm 2015

* Đối với hình phạt tiền

Thứ nhất, cần có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là hình phạt

chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt. Về nguyên tắc,

hình phạt chính phải có mức độ nghiêm khắc cao hơn hình phạt bổ sung, vì hình

phạt bổ sung có vai trò củng cố hiệu lực của hình phạt chính và điều này cần được

thể hiện thông qua mức phạt. Do vậy, cần phải sửa đổi Điều 35 BLHS năm 2015

64

theo hướng phải quy định mức tối thiểu của phạt tiền với tính chất là hình phạt

chính phải cao hơn mức tối đa của phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung.

Thứ hai, về mức phạt tiền và căn cứ quyết định mức phạt tiền

Cần ban hành văn bản hướng dẫn để xác định tình hình tài sản của người

phạm tội, đặc biệt đối với những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, lao động

tự do để Tòa án làm cơ sở quyết định mức phạt tiền đối với người phạm tội được

chính xác, phù hợp hơn, làm tăng tính khả thi cũng như hiệu quả của hình phạt tiền

trên thực tế. Có thể quy định mức phạt tiền theo số đơn vị thu nhập ngày và có thể

quy định “Tòa án có thẩm quyền xác định mức thu nhập bình quân/ngày của người

bị kết án phạt tiền, trên cơ sở đó cứ một ngày tạm giữ, tạm giam sẽ được khấu trừ

một khoản tiền tương ứng với một ngày công lao động của người đó. Trong trường

hợp người bị kết án không có thu nhập hoặc có thu nhập không đáng kể hoặc thu

nhập không ổn định thì việc xác định mức khấu trừ trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam

theo ngày phải dựa vào mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định nhưng không

được vượt quá số tiền phạt”.

Về mức phạt tiền: BLHS Việt Nam quy định mức phạt được tuyên theo một

số tiền cụ thể, nên sửa đổi quy định mức phạt tiền theo số đơn vị thu nhập ngày bởi

những người có mức thu nhập khác nhau, họ sẽ có đánh giá khác nhau về mức phạt.

Ví dụ: Đối với người có thu nhập bình quân 300.000 đồng/ngày thì họ thấy rằng

mức phạt 30.000.000 đồng có thể là phù hợp, nhưng ngược lại vẫn là mức phạt

30.000.000 đồng ấy, đối với một người có thu nhập bình quân 3.000.000 đồng/ngày

thì số tiền đó không phải lớn, họ chỉ cần bỏ ra 10 ngày làm việc là có thể có được.

Thứ ba, thu hẹp khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một

khung hình phạt. Như đã phân tích tại phần 2.2, hiện nay tại một số điều luật trong

phần các tội phạm của BLHS còn quy định khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu

và tối đa trong một khung hình phạt quá rộng. Để đảm bảo nguyên tắc phân hóa

trách nhiệm hình sự đồng thời tránh sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật nên

quy định mức tối đa không quá 02 lần mức tối thiểu.

Thứ tư, để đảm bảo tính thống nhất giữa Điều 35 BLHS năm 2015 và tên

nhóm tội được quy định tại Chương 21 BLHS năm 2015 sửa cụm từ “trật tự công

65

cộng, an toàn công cộng” tại Điểm b khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015 thành cụm

từ “an toàn công cộng, trật tự công cộng”.

Thứ năm, bổ sung quy định về việc chuyển đổi giữa hình phạt tiền với hình

phạt khác nếu người phạm tội không chấp hành hình phạt tiền.

Về vấn đề này, ngoài pháp luật của Pháp đã trình bày tại mục 2.2, pháp luật

của một số nước trên thế giới cũng có quy định những biện pháp cưỡng chế hoặc

thay thế hình phạt tiền khi người bị kết án không có khả năng hoặc cố tình không

thực hiện hình. Ví dụ: Trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Thụy Sĩ: "...trong trường

hợp biện pháp cưỡng chế nộp phạt tỏ ra không có hiệu quả. Thẩm phán thay phạt

tiền bằng hình phạt bắt giam theo tỷ lệ cứ 1 ngày giam bằng 30 ph răng”. Theo

Điều 368 Bộ luật hình sự Cộng hòa Tây Ban Nha "..Đối với những trường hợp đặc

biệt, nếu sau khi bản án được tuyên, tình trạng tài sản của người bị kết án xấu đi

một cách rõ rệt, căn cứ vào Điều 51 Bộ luật hình sự Cộng hòa Tây Ban Nha, Tòa

án có thể giới hạn lại mức phạt tiền. Nếu không nộp được khoản tiền phạt đã ấn

định, người bị kết án bị áp dụng hình phạt bị bắt giam vào những ngày nghỉ theo tỷ

lệ 2 ngày lương bằng 1 ngày bắt giam. Theo sự đồng ý của người bị kết án, Tòa án

có thể quyết định cho họ được lao động công ích thay cho phạt tiền. Trong trường

hợp người bị kết án không nộp đủ mức tiền phạt tương ứng với hậu quả đã gây ra,

họ bị phạt tù đến 1 năm"[47, tr.255].

Có thể bổ sung quy định theo hướng trong trường hợp người bị kết án không

chấp hành hình phạt tiền thì Tòa án có thể quyết định cho họ được lao động công

ích thay cho phạt tiền hoặc bị phạt tù với thời gian quy đổi 01 ngày tù tương đương

với 04 thu nhập trung bình/ngày nhưng không được cao hơn mức cao nhất của

khung hình phạt (tù có thời hạn) áp dụng với hành vi phạm tội đó. Bởi lẽ hiện nay

BLHS năm 2015 đang áp dụng mức quy đổi 01 ngày tù tương đương với 03 ngày

cải tạo không giam giữ mà trong hệ thống hình phạt Việt Nam hình phạt tiền thấp

hơn hình phạt cải tạo không giam giữ.

*Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ

Thứ nhất, cần quy định cụ thể về thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không

giam giữ. Việc thống nhất việc tính thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không

66

giam giữ có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc xác định

thời hạn chấp hành xong hình phạt, liên quan đến việc xác định tiền án, nhân thân

của người phạm tội, có tổng hợp hình phạt hay không trong trường hợp người phạm

tội tiếp tục phạm tội mới…Do vậy, không thể để tình trạng không thống nhất về

cách tính thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hiện nay, điều này

dẫn tới việc không đảm bảo được sự công bằng giữa các bị cáo.

Theo quan điểm của tác giả, cần thống nhất “thời hạn chấp hành hình phạt

cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục

người bị kết án nhận được quyết định thi hành án”. Bởi lẽ tương tự như thời hạn

chấp hành hình phạt tù có thời hạn được tính từ ngày bắt thi hành án (hoặc từ ngày

tạm giữ tạm giam bị cáo nếu bị cáo không được tại ngoại), thời gian chấp hành hình

phạt cải tạo không giam giữ cũng được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam và cũng

được trừ khi tổng hợp hình phạt tương tự như hình phạt tù có thời hạn (03 ngày cải

tạo không giam giữ tương đương với 01 ngày tù). Mặt khác, đối với hình phạt cải

tạo không giam giữ, người bị kết án sẽ được giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân

quản lý và phải thực hiện một số những nghĩa vụ như bị khấu trừ một phần thu nhập

từ 5% đến 20% thu nhập hàng tháng sung quỹ Nhà nước, phải thực hiện một số

công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ nếu

người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong

thời gian chấp hành hình phạt… Do vậy, chỉ đến lúc có quyết định thi hành án thì

người bị kết án mới phải thực hiện những nghĩa vụ trên.

Thứ hai, quy định cụ thể về các trường hợp đặc biệt có thể được miễn việc

khấu trừ thu nhập theo quy định tại khoản 3 Điều 36 BLHS năm 2015. Nghĩa vụ

khấu trừ thu nhập là một trong những điểm riêng biệt của hình phạt cải tạo không

giam giữ mà cũng là một trong các nghĩa vụ mà người bị kết án phải thực hiện với

nhà nước. Nếu mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực

hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không

giam giữ để thay thế cho nghĩa vụ khấu trừ thu nhập. Vì vậy, nếu tùy tiện trong việc

miễn việc khấu trừ thu nhập sẽ không đảm bảo được các mục đích của hình phạt cải

tạo không giam giữ. Mặt khác, BLHS năm 2015 đã sử dụng từ “các trường hợp đặc

67

biệt” tức là việc miễn trừ thu nhập được áp dụng với số ít người phạm tội. Do vậy,

cần quy định rõ các trường hợp đặc biệt được miễn trừ thu nhập và nên quy định

theo hướng liệt kê, không để quy định chung chung.

Ngoài ra, cần có hướng dẫn cụ thể điều kiện "nếu xét thấy không cần thiết phải

cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội" quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015.

* Đối với hình phạt trục xuất

Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với nội dung: trục xuất được áp dụng đối

với loại tội phạm nào; trường hợp nào áp dụng là hình phạt chính, trường hợp nào

áp dụng là hình phạt bổ sung; sau thời gian bao lâu thì người bị trục xuất có thể

được nhập cảnh vào Việt Nam... để thống nhất áp dụng trong thực tiễn.

Quy định cụ thể phạm vi áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính theo

hướng chỉ áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính đối với những tội ít

nghiêm trọng và nghiêm trọng do vô ý. Bởi vì tính chất nguy hiểm cho xã hội của

hành vi đã xảy ra chưa đến mức đặc biệt nghiêm trọng, có thể do sự thiếu hiểu biết

về pháp luật của Việt Nam của người phạm tội hoặc cũng có thể do cố ý gây ra

nhưng huy quả không đáng kể. Việc quyết định trục xuất người phạm tội trong

trường hợp này nhằm mục đích ngăn ngừa tội phạm, đồng thời cũng coi như một

biện pháp nhân đạo đối với người phạm tội.

BLHS cần quy định bổ sung vấn đề án tích đối với người bị kết án trục xuất

cũng như việc xóa án tích đối với những trường hợp này.

2.3.2. Các giải pháp khác

Thứ nhất, tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong đó

có các quy định pháp luật về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

Để đảm bảo thống nhất việc áp dụng pháp luật, TAND tối cao cần cần tăng

cường ban hành các Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phối hợp

với các cơ quan có liên quan xây dựng văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành pháp

luật, trong đó có những quy định liên quan đến các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn.

68

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn,

công bố và áp dụng án lệ, không chỉ dừng lại việc phát triển án lệ từ các quyết định

giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, lãnh đạo TAND

tối cao khuyến khích phát hiện các bản án của các Tòa án mang tính chuẩn mực

trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình huống thực tế phức tạp, hiện còn có

những vướng mắc hoặc cách hiểu khác nhau để đề xuất phát triển làm án lệ, đặc biệt

là những án lệ liên quan đến việc quyết định hình phạt, việc vận dụng và áp dụng

hình phạt trong thực tiễn.

TAND tỉnh Bắc Ninh mặc dù không có nhiệm vụ giải thích pháp luật nhưng

trong các kết luận kiểm tra nghiệp vụ, các buổi đào tạo, tập huấn, TAND tỉnh Bắc

Ninh cần lồng ghép các nội dung về việc áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt

tù có thời hạn để đảm bảo áp dụng thống nhất khi quyết định hình phạt.

Thứ hai, nâng cao năng lực của những người áp dụng pháp luật, đặc biệt là

đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

Chất lượng của nền tư pháp xét cho cùng là do cán bộ tư pháp quyết định, vì

họ là những người trực tiếp "cầm cân nảy mực". Mỗi sai sót trong thực thi công vụ

của cán bộ tư pháp đều ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị và lợi ích, thậm chí cả

tính mạng của người dân. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ các

Thẩm phán thanh liêm, chính trực, công tâm, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi

về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật phải là ưu tiên hàng đầu của các cơ quan tư pháp.

Một số biện pháp để nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp là:

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đào tạo tại chỗ, đào tạo

trực tuyến. Hiện nay, TAND tối cao đã tổ chức các buổi học tập, trao đổi, rút kinh

nghiệm trực tuyến trong cả nước vào thứ hai của tuần cuối cùng trong tháng (có lịch

cụ thể từng tháng trên cổng thông tin điện tử của Tòa án). Thúc đẩy phong trào tự

học tập, tự nghiên cứu, trao đổi kỹ năng nghiệp vụ của các cán bộ, công chức trong

hệ thống Tòa án.

Bên cạnh năng lực chuyên môn, yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến tính

đúng đắn trong việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng các hình phạt chính

69

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng là đạo đức và trách nhiệm của Thẩm

phán. Do vậy cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo

đức cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án.

Ngoài ra, cần quan tâm đến điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ thích đáng cho

cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán.

Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, chỉ có đánh giá đúng, thực chất cán bộ mới

bố trí, sử dụng cán bộ một cách hợp lý nhằm phát huy năng lực của cán bộ. Trong

việc tuyển chọn Thẩm phán, mạnh dạn cử những người dù trẻ nhưng có đức, có tài

đi thi Thẩm phán và không tái bổ nhiệm Thẩm phán đối với những Thẩm phán

không hoàn thành nhiệm vụ.

Đối với hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh, để nâng cao chất lượng đội

ngũ các Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp

trên có thể thực hiện một số biện pháp như: tổng hợp các vướng mắc về từng vấn đề

của đơn vị trong đó có vấn đề áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn sau đó tự tập huấn hoặc mời các chuyên gia tập huấn; đối với những vướng mắc

về từng trường hợp cụ thể, có thể gửi văn bản đến Tòa án nhân dân tối cao, sau khi

nhận được trả lời thì thông báo nội dung trả lời đó đến từng đơn vị trong hệ thống

Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh; Gửi các kết luận kiểm tra của Tòa án tỉnh đối với các

Tòa án huyện cho nhau cũng như gửi các kết luận kiểm tra của Tòa án tối cao đối

với Tòa án tỉnh cho các Tòa án huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh…

Thứ ba, bảo đảm về tranh tụng tại phiên tòa

Để bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa các cơ quan tiến hành tố tụng cần

nghiêm chỉnh thực hiện các Nghị quyết của Đảng liên quan đến nguyên tắc tranh

tụng như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW

ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW

ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện

Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI, XII của Đảng; Nghị quyết số 111/2015/QH13

ngày 27/11/2015 và quy định của pháp luật về nguyên tắc tranh tụng được quy định

trong BLTTHS năm 2015.

70

Về thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, TAND tối cao cần tiếp tục hướng dẫn các

tiêu chí đặt ra đối với phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo đảm việc tranh

tụng tại phiên tòa được chú trọng, các Tòa án không hạn chế thời gian dành cho

tranh tụng, tôn trọng, đảm bảo cho các bên tham gia tố tụng đưa ra chứng cứ, trình

bày hết các ý kiến của mình; trên cơ sở kết quả tranh tụng.

Để đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần

thực hiện tốt các biện pháp trên, đồng thời quán triệt đến toàn bộ Thẩm phán phải

coi trọng kết quả tranh tụng tại phiên tòa, tránh tình trạng “án tại hồ sơ”; tổ chức

phiên tòa rút kinh nghiệm.

Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và

pháp luật về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng trong

nhân dân.

Một trong các biện pháp hữu hiệu để hình thành và phát triển ý thức xã hội

đó là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật ở Bắc Ninh nói riêng và ở nước ta nói chung có thể thông qua một số

hình thức như việc xét xử lưu động, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tuyên truyền

thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh của thôn, xã,

huyện, tỉnh, tuyên truyền trên các trang web chính thống… Ngoài ra còn có thể đưa

vào các chương trình giảng dạy, không chỉ đối với những người đã thành niên mà

đối với cả các đối tượng còn nhỏ tuổi. Khi người dân đã được nâng cao hiểu biết nội

dung, ý nghĩa, mục đích của hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng thì có thể cùng chính quyền các cấp giám sát,

trở thành cánh tay đắc lực của chính quyền giám sát hoạt động tố tụng, cổ vũ hoặc

lên án thông qua dư luận xã hội. Hơn nữa, việc người dân hiểu rõ hơn về các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng giúp cho các nhà áp dụng pháp

luật mạnh dạn hơn trong việc áp dụng các loại hình phạt này.

Thứ năm, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật trong đó

có các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

71

Để tăng cường hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn tại Bắc Ninh nói riêng và ở nước ta nói chung, hệ thống Tòa án cần phải

quan tâm hơn nữa công tác kiểm tra, tổng kết thực tiễn áp dụng, thực tiễn kinh

nghiệm xét xử, hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và

đường lối xét xử. Trong đó cần trú trọng nhắc nhở việc áp dụng các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù trong những trường hợp mà các bị cáo đủ điều kiện áp dụng.

Thứ sáu, tăng cường giám sát của Cơ quan có thẩm quyền đối với công tác

xét xử của TAND.

Không chỉ chịu sự chỉ đạo của Tòa án nhân dân cấp trên, Tòa án nhân dân

cấp huyện, cấp tỉnh còn chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Do vậy,

để nâng cao chất lượng công tác xét xử, Hội đồng nhân dân các cấp cũng cần tăng

cường công tác giám sát đối với hoạt động của Tòa án, xem xét, thẩm tra báo cáo

của Tòa án cùng cấp và chất vấn người đứng đầu Tòa án, trước mỗi kỳ họp hội

đồng nhân dân. Tăng cường các cuộc giám sát chuyên đề và giám sát đột xuất. Qua

đó đã theo sát, bắt kịp diễn biến thực tiễn, phản ánh được bức tranh tình hình an

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như hiệu quả hoạt động của bộ máy các cơ

quan tư pháp đặc biệt là Tòa án như: Giám sát công tác xét xử các vụ án có bản án,

quyết định bị huỷ, sửa của TAND... Trong đó quan tâm tới việc có hay không áp

dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm là phát huy quyền

làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; tổ chức triển khai thực hiện giám sát

hoạt động của các cơ quan tư pháp tập trung vào các nội dung: Hoạt động của các cơ

quan tư pháp, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước thực hiện các hoạt động

tư pháp. Phối hợp với hệ thống Toà án thực hiện hiệp thương giới thiệu để Hội đồng

nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện bầu Hội thẩm TAND, để đảm bảo công tác xét xử của

Toà án có sự tham gia của hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp luật, đặc biệt là

trong thực hiện tăng thẩm quyền xét xử đối với Toà án cấp huyện.

Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên

truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Trong một nền tư pháp của nhân

dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về hoạt động xét xử và giám sát hành

72

vi của các Thẩm phán. Các tổ chức chính trị - xã hội có thể đóng vai trò giám sát tư

pháp để làm tăng trách nhiệm của các Thẩm phán.

Tiểu kết chương 2

Từ những kết quả nghiên cứu ở chương 2 của luận văn, tác giả rút ra một số

kết luận sau:

Thứ nhất, thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần đây cho thấy tỷ lệ áp dụng các hình phạt

chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn quá thấp so với tỷ lệ áp dụng hình phạt tù có

thời hạn; có nhiều trường hợp người phạm tội có đủ các điều kiện để được áp dụng

một trong các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nhưng HĐXX lại lựa chọn

áp dụng cho bị cáo hưởng án treo. Trong các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có

thời hạn, hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu, các hình phạt khác ít được áp dụng

hơn trong đó hình phạt trục xuất chưa được áp dụng lần nào. Tỷ lệ áp dụng từng loại

hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời loại về cơ bản là có xu hướng tăng.

Thứ hai, trên cơ sở phân tích tình hình áp dụng, những vướng mắc, bất cập

trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh

Bắc Ninh, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn như: kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các

quy định của pháp luật hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời

hạn, các giải pháp nhằm nâng cao của người áp dụng pháp luật và hiểu biết của

cộng đồng, các giải pháp tăng cường giám sát của các cơ quan có thẩm quyền đối

với hoạt động của Tòa án…

KẾT LUẬN

Trên cơ sở nghiên cứu“Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, tác giả đi đến một số kết luận chủ yếu sau:

Thứ nhất, luận văn đã đưa ra khái niệm, đặc điểm của các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong đó đặc điểm riêng biệt, nổi bật nhất đó là các

hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế nghiêm

khắc của Nhà nước, tuy nhiên tính chất nghiêm khắc này nhẹ hơn so với hình phạt

73

tù có thời hạn và không tước tự do của người bị kết án. Đồng thời, luận văn cũng đã

phân tích, làm rõ một số vấn đề như khái niệm, một số đặc điểm, điều kiện áp

dụng… của từng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.

Thứ hai, luận văn nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay

cho thấy các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy định từ khá

sớm. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử của đất nước cho nên nội dung cũng như kỹ thuật

lập pháp của những quy định này chưa được hoàn thiện ngay mà còn một số hạn chế

cũng như tính phổ biến chưa cao. Cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các quy

định này đã dần được hoàn thiện và phạm vi áp dụng cũng mở rộng hơn.

Thứ ba, luận văn đã nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020 qua đó

đánh giá những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ

hơn hình phạt tù có thời hạn tại Bắc Ninh, bao gồm các vướng mắc trong các quy

định pháp luật hình sự và các vướng mắc khác như về chủ thể áp dụng pháp luật, về

ý thức pháp luật… Đồng thời, luận văn cũng đưa ra một số những kiến nghị hoàn

thiện quy định của BLHS và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn

hình phạt tù có thời hạn.

Quá trình áp dụng những quy định của luật hình sự về các hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn vào thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và

ở nước ta nói chung cho thấy vai trò to lớn của các quy định này trong công tác đấu

tranh phòng chống tội phạm đặc biệt là trong việc cá thể hóa hình phạt. Tác giả hy

vọng cùng với những phân tích, đánh giá và việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện

nói trên, tương lai không xa, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn sẽ

phát huy được vai trò, ý nghĩa cũng như hiệu quả áp dụng trong thực tiễn

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002),

Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, về chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật.

3. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao (2011), Thông tư liên tịch số

07/2011/TTLT-BCA-BQP-BNG ngày 16/11/2011 hướng dẫn thi hành án phạt

trục xuất.

4. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự

hình sự 2015, Nxb. Thế giới, TP. Hồ Chí Minh.

5. Đỗ Văn Chỉnh (2009), hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân

dân –TANDTC, số 5, tháng 3/2009, Hà Nội.

6. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 200-SL ngày 15

tháng 10 năm 1946 quy định việc buộc bán vàng bạc, Hà Nội.

7. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1948), Sắc lệnh số 205/SL ngày 18

tháng 8 năm 1948 về ấn định thể lệ trục xuất ngoài kiều, Hà Nội.

8. Chính phủ (2011), Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001, hướng dẫn thi

hành hình phạt trục xuất, Hà Nội.

9. Chính phủ (2000), Nghị định 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc

thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

10. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần

chung), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

11. Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), Thực trạng các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí

Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 206-217, Hà Nội.

12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,

VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.

75

13. TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt

Nam qua tham khảo Bộ luật Hình sự Trung Quốc, Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên, 2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội.

15. Nguyễn Ngọc Hòa (1999), Mục đích của hình phạt, Tạp chí Luật học (số 01),

tr.16-17, Hà Nội.

16. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

17. Nguyễn Thị Ánh Hồng (2015), Hoàn thiện quy định của BLHS về các hình phạt

chính không tước tự do, Tài liệu Hội thảo quốc tế: Sửa đổi BLHS, BLTTHS

theo Hiến pháp 2013 và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, Trường Đại học

luật Tp. HCM.

18. Nguyễn Thanh Hương (2016), Hình phạt tiền trong BLHS Việt Nam – một số

vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp – Trường Đại học Luật Hà Nội.

19. Trần Minh Hưởng (2007), Tìm hiểu hình phạt và các biện pháp tư pháp trong

luật hình sự Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

20. Dương Tuyết Miên (2009), bài viết “Hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam

năm 1999 về hệ thống hình phạt trong xu thế hội nhập quốc tế” đăng trong sách

chuyên khảo Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển

bền vững, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

21. Dương Tuyết Miên, “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt chính

nhẹ hơn hình phạt tù”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2008.

22. TS. Đặng Quang Phương (Chủ nhiệm đề tài, 1996), Cơ sở lý luận và thực tiễn

nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù

và tử hình, Hà Nội.

23. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 phần chung,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

24. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

76

25. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

26. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội .

27. Quốc hội (2005), Luật Cư trú, Hà Nội.

28. Nguyễn Sơn (1998), Điều kiện và thực tiễn áp dụng thi hành hình phạt tiền là

hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân.

29. Phạm Xuân Thụy (2017), “Một số ý kiến về việc hoàn thiện quy định của Bộ

luật hình sự về hình phạt trục xuất”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (8).

30. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội.

31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự phần chung, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội

nhập quốc tế và phát triển bền vững”, NXB. Công an nhân dân Hà Nội.

33. Trường Đại học Luật TP.HCM (2012), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam -

Phần Chung, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.

34. Nguyễn Đức Tuấn, Uông Chu Lưu (1995), Hình phạt trong Luật hình sự Việt

Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (2019), Bản án số

274/2019/HS-ST ngày 18/11/2019, Bắc Ninh.

36. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2017), Bản án số:

58/2017/HSST ngày 07/7/2017, Bắc Ninh.

37. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số

36/2018/HSST ngày 11/9/2018, Bắc Ninh.

38. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2019), Bản án số: 39/2019/HS

- ST ngày 30/5/2019, Bắc Ninh.

39. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2020), Bản án số:

04/2020/HSST ngày 07/02/2020, Bắc Ninh.

77

40. Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (2020), Bản án số 76/2020/HS-

ST ngày 20/3/2020, Bắc Ninh.

41. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày

15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo, Hà Nội.

42. Trịnh Quốc Toản (2015), Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam

dưới góc độ bảo vệ quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

43. Trịnh Tiến Việt ( 2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc

gia – Sự thật, Hà Nội.

44. Võ Khánh Vinh (1994), Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

45. Võ Khánh Vinh (1994), “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam”,

NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.

46. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần Chung), Nxb.

Công an nhân dân, Hà Nội.

47. Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật hình sự so sánh, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Hồ Sỹ Sơn (2007), Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt nhìn từ hệ

thống pháp luật Anh-Mỹ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm khoa

học xã hội Việt Nam, 2007, số 2 (226).

49. Hồ Sỹ Sơn (2009), Chế định hình phạt trong bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp và

một số gợi mở nhằm hoàn thiện bộ luật hình sự nước ta, Tạp chí Nhà nước và

Pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, số 3 (251).

50. Đỗ Thanh Xuân (2015), “Về hình phạt trục xuất”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (2)

51. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,

78

PHỤ LỤC LUẬN VĂN

Bảng số 1.1 thống kê các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trong Phần các tội

phạm của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Tổng Cải tạo

số Cảnh Phạt không Trục Chương Tên chương điều cáo tiền giam xuất

luật giữ

XIII Các tội xâm phạm an ninh quốc 14 0 0 0 0 gia

XIV Các tội xâm phạm tính mạng,

sức khỏe, nhân phẩm, danh dự 34 3 6 15 0

con người

XV Các tội xâm phạm quyền tự do, 11 3 3 11 0 dân chủ của công dân

XVI Các tội xâm phạm sở hữu 13 2 3 9 0

XVII Các tội xâm phạm chế độ hôn 7 4 2 6 0 nhân và gia đình

XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản 48 2 35 33 0 lý kinh tế

XIX Các tội phạm về môi trường 12 0 12 6 0

XX Các tội phạm về ma túy 13 0 1 0 0

XXI Các tội xâm phạm an toàn công 69 1 23 40 0 cộng, trật tự công cộng

XXII Các tội xâm phạm trật tự quản 22 7 7 16 0 lý hành chính

XXIII Các tội phạm về chức vụ 14 1 2 9 0

XXIV Các tội xâm phạm hoạt động tư 24 2 2 12 0

79

pháp

XXV Các tội xâm phạm nghĩa vụ

trách nhiệm của quân nhân và

trách nhiệm của người phối 28 0 0 21 0

thuộc với quân đội trong chiến

đấu, phục vụ chiến đấu

XXVI Các tội phá hoại hòa bình,

chống loài người và tội phạm 5 0 0 0 0

chiến tranh

314 25 95 178 0 Tổng số điều luật

(Nguồn: BLHS năm 2015)

Bảng 2.1 Thống kê áp dụng hình phạt chính tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh

từ năm 2016 đến năm 2020

Hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt

Hình phạt tù có thời hạn, tù chung

thân, tử hình

Năm

Số bị cáo

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

2016

1825

81

1744

96,6%

4,4%

2017

2461

110

2351

95,5%

4,5%

2018

2659

120

2539

95,5%

4,5%

2019

2287

115

2172

95,0%

5,0%

2020

2683

166

2517

93,8%

6,2%

Tổng

11915

592

11323

95%

5,0%

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)

Bảng 2.2 Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù tại Tòa

án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

80

Hình phạt cảnh

Hình phạt cải tạo

Hình phạt tiền

Trục xuất

cáo

không giam giữ

Số bị

Năm

cáo

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

Số

Tỷ lệ

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

lượng

(%)

2016

1825

0

0%

79

4,3%

2

0,1%

0

0%

2017

2461

0

0%

108

4,4%

2

0,1%

0

0%

2018

2659

0

0%

117

4,4%

3

0,1%

0

0%

2019

2287

0

0%

108

4,7%

7

0,3%

0

0%

5

150

5,6%

11

0,4%

0

0%

2020

2683

0,2%

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)

Bảng 2.3. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù theo

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020

STT

Nhóm tội

(Số bị cáo)

(Số bị cáo)

(Số bị cáo)

(Số bị cáo)

(Số bị cáo)

3

9

11

1

Xâm phạm sở hữu

3

0

Xâm phạm tính

mạng, sức khỏe, nhân

1

0

5

2

0

1

phẩm, danh dự của

con người

Xâm phạm an toàn

3

công cộng, trật tự

74

108

114

104

143

công cộng

Xâm phạm trật tự quản

1

0

1

1

4

0

lý hành chính

Xâm phạm trât tự

1

2

6

3

5

1

quản lý kinh tế

0

0

0

Khác

0

6

0

Tổng

81

110

120

115

166

nhóm tội tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020

(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)

81