VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
N G U Y Ễ N T H
Ị
Y Ế N
NGUYỄN THỊ YẾN
CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ
THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ì
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Ì
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
L U Ậ T H N H S Ự V À T Ố T Ụ N G H N H S Ự
K H Ó A X
Hà Nội, năm 2021
…,, năm
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ YẾN
CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ
THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. DƯƠNG TUYẾT MIÊN
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất
cứ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, trung thực và tin cậy. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Học viện
Khoa học xã hội.
Tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Học viện Khoa học xã hội xem
xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
HĐXX : Hội đồng xét xử
TNHS : Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Thống kê các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trong Phần các
tội phạm của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Bảng 2.1. Thống kê áp dụng hình phạt chính tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc
Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
Bảng 2.2. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù tại Tòa
án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
Bảng 2.3. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù theo
nhóm tội tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................................ 7
7. Kết cấu luận văn .................................................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 9
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ...................................................................................................................................... 9
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. ................................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn .......... 9
1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ... 11
1.1.3. Ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ...... 14
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. .............................................................................................. 15
1.2.1. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985 ................................................................................................................. 15
1.2.2. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào năm 1989, 1991, 1992, và 1997- sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985) ...................................................................... 19
1.2.3. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999) ............................................................................................................... 21
1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của BLHS Việt Nam năm 2015 .................................................................................. 24
1.3.1. Hình phạt cảnh cáo ................................................................................ 26
1.3.2. Hình phạt tiền ........................................................................................ 28
1.3.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ ......................................................... 31
1.3.4. Hình phạt trục xuất ................................................................................ 36
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 39
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TẠI TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NÀY ............ 41
2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ................................. 41
2.1.1. Khái quát một số đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Bắc Ninh ......................................................................................................................... 41
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ................................ 42
2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh..................... 56
2.2.1. Những vướng mắc về pháp luật hình sự trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh .............. 56
2.2.2. Những vướng mắc, tồn tại khác trong thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ........................................................... 60
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ...................................................................................... 64
2.3.1. Các giải pháp hoàn thiện BLHS năm 2015 ........................................... 64
2.3.2. Các giải pháp khác ................................................................................ 68
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 73
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 75
PHỤ LỤC LUẬN VĂN ........................................................................................... 79
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nước ta đã tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hóa và đạt được nhiều kết
quả đáng ghi nhận, đặc biệt là sự phát triển về kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định “Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách
quan, lôi cuốn càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà
không thể một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết mà không có sự hợp tác đa
phương” [12, tr.617]. Tuy nhiên, kinh tế càng phát triển thì xã hội lại càng xảy ra
nhiều vấn đề nhức nhối, đặc biệt là sự diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm.
Luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nếu nói Luật hình sự là công cụ để đấu tranh, phòng ngừa tội phạm thì hình
phạt lại là công cụ để đảm bảo tính giáo dục, răn đe ở mức độ cao đối với người
phạm tội và là một chế tài nghiêm khắc, một chế định cơ bản của luật hình sự. Hình
phạt là trách nhiệm pháp lý thể hiện sự lên án và sự trừng trị của Nhà nước mà
người phạm tội phải gánh chịu đối với những hành vi phạm tội do mình gây ra. Hệ
thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam bao gồm các hình phạt chính và các
hình phạt bổ sung. Trong đó, các hình phạt chính là biện pháp cơ bản có tính chất
quyết định của hình phạt, cùng với hình phạt bổ sung làm tăng thêm hiệu quả trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong các hình phạt chính, các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vai trò đắc lực trong việc thể hiện và phát
huy nguyên tắc cá thể hoá hình phạt, từ đó thực hiện một cách tốt nhất nguyên tắc
công bằng trong xử lý tội phạm. Các hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy
hiểm khác nhau thì mức xử lý cũng phải khác nhau.
1
Để đạt được hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm trong giai đoạn
hiện nay và cũng để thể hiện sự tôn trọng tinh thần của các điều ước quốc tế đặc biệt
là các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời
phù hợp với xu hướng chung của thế giới, Bộ luật hình sự năm 2015 đã có một số
thay đổi so với Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó có các quy định về các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, các Tòa
án mà cụ thể là Hội đồng xét xử khi quyết định áp dụng các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn cũng còn gặp nhiều vướng mắc cũng như vẫn còn tồn
tại một số thiếu sót trong hoạt động, từ đó ảnh hưởng nhất định đến việc áp dụng có
hiệu quả các hình phạt này.
Vì vậy, nghiên cứu đánh giá một cách tổng thể các quy định của Bộ luật hình
sụ về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tìm ra những điểm bất
cập thông qua việc tìm hiểu thực tiễn từ địa phương nơi mình công tác là TAND
tỉnh Bắc Ninh, từ đó đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định này là vấn đề cấp
thiết. Vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vai trò quan trọng
trong luật hình sự Việt Nam, vì vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở
những mức độ khác nhau nghiên cứu về hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn, điển hình một số công trình như sau:
* Về sách chuyên khảo, sách bình luận và giáo trình có các công trình sau:
1) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, 2001;
2) Ths. Đinh Văn Quế, “Tìm hiểu tội phạm và hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam”, NXB Phương Đông, 2010;
2
3) PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, “Hoàn thiện các quy định của phần chung Bộ luật
hình sự trước yêu cầu mới của đất nước”, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội,2012;
4) PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, “Tội phạm và trách nhiệm hình sự”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2013;
5) PGS.TS Trịnh Quốc Toản, “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
dưới góc độ bảo vệ quyền con người”, NXB Chính trị quốc gia, 2015;
6) GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017 phần chung”, NXB Tư Pháp, 2017;
7) PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa – TS. Phan Anh Tuấn, “Bình luận khoa học
những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017”,
NXB Hồng Đức, 2017;
8) TS Lê Trung Kiên, “Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và Trung
Quốc”, NXB Tư Pháp, 2018.
Ngoài các sách chuyên khảo, bình luận nói trên còn có Giáo trình Luật hình
sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo về luật như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Học viện Tòa án… đều có đề cập đến các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
*Về luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ luật học có các công trình sau:
1) Lê Văn Hường, “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam”, luận văn
thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2000;
2) Nguyễn Sơn, “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam”, luận án tiến
sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003;
3) Phạm Thị Hiền, “Hình phạt cải tạo không giam giữ trong Luật hình sự Việt
Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2007;
4) Lê Thị Trúc Quỳnh, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất
theo Luật hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2010;
5) Lê Khánh Hưng, “Các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt
Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2010;
3
6) Đinh Thị Hoài Phương, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt cảnh
cáo theo Luật hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội 2010;
7) Lê Thanh Hùng, “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo Luật hình sự Việt Nam
và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014;
8) Nguyễn Minh Khuê, “Các hình phạt chính không tước tự do trong luật hình sự Việt
Nam”, luận án tiến sĩ Luật học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2014;
9) Phùng Thị Hải Ngọc, “Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt Nam” luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia, Hà Nội 2015;
10) Nông Thế Chiến, “Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự Việt
Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2016;
11) Nguyễn Minh Tuấn,“Hình phạt trục xuất trong Luật hình sự Việt Nam”, luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí
Minh, 2017;
12) Phạm Ngọc Toàn, “Hình phạt cải tạo không giam giữ theo quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015”, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội, 2019;
13) Nguyễn Việt Xô, “Hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015”, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2019.
*Về các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học có các công trình sau:
1) Dương Tuyết Miên, “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù”, Tạp chí Tòa án nhân dân , số 19/2008;
2) Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt, “Thực trạng các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008);
3) Đỗ Văn Chỉnh, “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Tòa án nhân dân
, số 05/2009;
4) Nguyễn Văn Trượng, “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn áp dụng hình phạt cải
tạo không giam giữ”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04/2009;
4
5) Trịnh Quốc Toản, “Một số vấn đề lý luận về hình phạt trong Luật hình sự”, Tạp
chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 27 (2011);
6) Lý Văn Tầm, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt cải
tạo không giam giữ”, Tạp chí kiểm sát nhân dân, số 13/2013;
7) Nguyễn Minh Khuê, “Hiệu quả của các hình phạt chính trong hệ thống hình
phạt của Việt Nam – đánh giá dưới góc độ chi phí xã hội”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 01/2014;
8) Dương Tuyết Miên, “Về phạt tiền và cải tạo không giam giữ”, Tạp chí Luật học
số 03/2015;
9) Nguyễn Thị Ánh Hồng, “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các hình
phạt chính không tước tự do”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 08/2015;
10) Nguyễn Thị Ánh Hồng, “Một số thành công và hạn chế trong quy định của Bộ
luật hình sự năm 2015 về các hình phạt chính không tước tự do”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, 2016;
11) Nguyễn Nhật Khanh, Nguyễn Phương Thảo, Trần Văn Thượng, “Hình phạt
trục xuất trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Một số
bất cập và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2018;
12) Nguyễn Phương Thảo, “Bất cập và hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về
hình thức xử phạt trục xuất”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2019;
13) Dương Thị Hồng Thuận,“Hoàn thiện quy định về một số loại hình phạt chính
tại phần chung của Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015”, Tạp chí Pháp luật và
thực tiễn, 2019;
14) Đinh Văn,“Bộ luật Hình sự đã quy định, nhưng vì sao hình phạt tiền vẫn ít
được áp dụng?”, tạp chí Khoa học Pháp lý, 2020.
Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng, đến thời điểm hiện nay, các công trình
khoa học nói trên là các tài liệu quý, đã gợi mở cho tác giả luận văn nhiều ý tưởng
trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu trên cho đến nay,
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của BLHS Việt Nam năm
2015 và thực tiễn áp dụng các hình phạt này tại tỉnh Bắc Ninh dưới cấp độ luận văn
5
Thạc sĩ, chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế, từ đó đưa ra đề xuất hoàn thiện
quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Do vậy, việc
nghiên cứu các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 về
các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tìm ra vướng mắc trong quá
trình áp dụng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn trong Bộ luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả của các hình phạt này trong thực tiễn áp dụng.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung làm rõ những nội dung
nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn;
- Phân tích quy định của BLHS năm 2015 về các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn;
- Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh;
- Làm rõ những vướng mắc còn tồn tại trong quá trình áp dụng các hình phạt
đó từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh;
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt này trong
thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quy định của BLHS năm 2015 về các
hình phạt chính nhẹ hơn phạt tù có thời hạn, thực tiễn áp dụng các hình phạt này tại
tỉnh Bắc Ninh.
Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự, chủ yếu nghiên cứu các quy
định của BLHS Việt Nam 2015 về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
6
hạn và nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt đó tại tỉnh Bắc Ninh. Do việc áp
dụng các hình phạt chính chỉ được thực hiện trong giai đoạn xét xử khi quyết định
hình phạt của Hội đồng xét xử nên phần thực tiễn áp dụng, tác giả cũng chỉ nghiên
cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong
quá trình xét xử tại hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền để nghiên
cứu đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương
pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…để tổng
hợp và làm sáng tỏ các tri thức khoa học hình sự và luận chứng các vấn đề nghiên
cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu khoa học đề cập tương đối hệ thống và toàn
diện về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm
2015. Luận văn phân tích các khái niệm, đặc điểm, mục đích, điều kiện áp dụng về
các hình phạt này, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời cũng chỉ ra các đặc
điểm cơ bản của các hình phạt này.
Kết quả nghiên cứu mà luận văn đạt được góp phần tăng cường việc áp dụng và
nâng cao chất lượng trong việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn trong thực tiễn xét xử. Là tài liệu tham khảo cần thiết trong việc nghiên cứu,
hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn cũng như làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và nghiên
cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong cả nước.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương:
7
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn
1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của
BLHS Việt Nam năm 2015
Tiểu kết chương 1
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
hình phạt này
2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn
Tiểu kết chương 2
8
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI
HẠN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn
1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
Hiện nay, khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
chưa được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam. Để hiểu được khái niệm này
thì trước hết cần phải hiểu khái niệm hình phạt.
Trong lĩnh vực khoa học luật hình sự, hình phạt là một trong những đối
tượng nghiên cứu chủ yếu, trong đó việc làm sáng tỏ khái niệm hình phạt là một vấn
đề hết sức quan trọng. Ở Việt Nam, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của khoa
học luật hình sự trên thế giới và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của nước
ta, các nhà nghiên cứu Luật hình sự đã đưa ra những quan niệm về hình phạt như
sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy
định trong Luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm,
nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội
phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân”[14].
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất do luật quy định được
Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định trong bản án đối với người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các
quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án”[45].
Có thể thấy, các khái niệm trên đều thống nhất với nhau ở nội hàm, hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước do Tòa án áp dụng có nội
dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người phạm tội nhằm mục đích
giáo dục, cải tạo và trừng trị người phạm tội và phòng ngừa chung. Điều này là phù
9
hợp với khái niệm pháp lý về hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS năm
2015:“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy
định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,
pháp nhân thương mại đó.”
Trong luật hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và
hình phạt bổ sung trong đó các hình phạt chính đóng vai trò trụ cột trong việc trừng
trị, cũng như cải tạo giáo dục người phạm tội, còn các hình phạt bổ sung đóng vai
trò hỗ trợ cho hiệu lực của các hình phạt chính. Việc BLHS quy định các hình phạt
có mức độ nghiêm khắc khác nhau nhằm tạo điều kiện cho Toà án tuỳ từng trường
hợp phạm tội cụ thể để lựa chọn hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Hình phạt được quy định trong mỗi khung
hình phạt chính là sự phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được
quy định cũng như yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đối với tội đó.
“Một hệ thống hình phạt có nhiều hình phạt khác nhau thì việc xử lý càng chính xác
và do vậy càng tiến gần tới mục đích của hình phạt…”. [20, tr.271]
Về bản chất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trước hết
cũng mang những đặc điểm của hình phạt nói chung nhưng nó cũng mang đặc điểm
riêng của mình thể hiện ở chỗ các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
tuy là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước nhưng tính chất
nghiêm khắc này nhẹ hơn so với hình phạt tù có thời hạn (cũng như tù chung thân,
tử hình), không tước tự do của người bị kết án và chỉ áp dụng đối với cá nhân người
phạm tội. Vai trò của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất có ý
nghĩa. Nó không chỉ thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta mà còn góp phần
thể hiện tốt nguyên tắc cá thể hoá hình phạt. “Bởi vậy, khi quyết định hình phạt đối
với những trường hợp phạm tội cụ thể, trong một số trường hợp, nếu áp dụng hình
phạt tù với họ thì quá nặng và không thể đạt được mục đích của hình phạt. Trong
những trường hợp này, nếu xét thấy không cần cách ly người phạm tội ra khỏi đời
sống xã hội thì Tòa án có thể xem xét để họ được cải tạo, giáo dục trong môi trường
cộng đồng”[20, tr.271].
10
Trên cơ sở phân tích nêu trên, có thể hiểu khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn như sau:
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là những biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được áp dụng đối với người phạm tội, có
mức độ nghiêm khắc thấp hơn hình phạt tù có thời hạn, được BLHS quy định và do
Tòa án quyết định áp dụng nhằm tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội.
1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt nên
trước hết, nó mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt. Bên cạnh đó, nó còn có một
số đặc điểm riêng để phân biệt giữa các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn với các hình phạt chính khác.
Thứ nhất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng có
những đặc điểm chung của hình phạt. Cụ thể như sau:
+ Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước (tước bỏ hoặc hạn
chế quyền và lợi ích của người phạm tội).
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, tức là
không có một chế tài nào nghiêm khắc hơn hình phạt. Tính nghiêm khắc nhất của
hình phạt thể hiện ở nội dung tước bỏ, hạn chế quyền và lợi ích của người bị kết án
như quyền sở hữu, quyền tự do và có thể cả quyền sống của con người…Các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn do là hình phạt, nên cũng mang tính
cưỡng chế nghiêm khắc, thể hiện ở chỗ nó có thể gây tổn thất về tinh thần cho
người bị kết án (cảnh cáo), hoặc tước bỏ hoặc hạn chế lợi ích kinh tế của họ (phạt
tiền); hoặc buộc họ phải cải tạo tại cộng đồng dưới sự giám sát của cơ quan có thẩm
quyền (cải tạo không giam giữ) hoặc buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong
thời hạn nhất định (trục xuất). Bên cạnh đó, người bị kết án hình phạt trên còn chịu
án tích.
11
Khi xem xét, so sánh riêng lẻ giữa một số hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn với một số hình phạt bổ sung và với một số biện pháp cưỡng chế
không phải cưỡng chế hình sự, chúng ta cũng không thể phủ nhận một thực tế rằng
một số hình phạt bổ sung hoặc một số biện pháp cưỡng chế không phải cưỡng chế
hình sự cho thấy mức độ nghiêm khắc có thể cao hơn một số hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn, ví dụ hình phạt cảnh cáo với tư cách là hình phạt chính
so với hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung hoặc với tư cách là hình thức
xử lý hành chính. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn vẫn là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc
hơn so với các biện pháp cưỡng chế nhà nước không phải cưỡng chế hình sự và so
với hình phạt bổ sung. Sự nghiêm khắc hơn của hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn thể hiện ở chỗ các hình phạt này, dù nặng hay nhẹ khi được áp dụng
đều dẫn đến hậu quả pháp lý là người bị kết án phải chịu án tích trong một khoảng
thời gian nhất định theo quy định pháp luật, hậu quả pháp lý của án tích nặng nề
hơn các chế tài khác.
+ Được quy định trong BLHS và do Toà án quyết định áp dụng bằng bản án
kết tội có hiệu lực pháp luật.
Khoản 1 Điều 2 BLHS năm 2015 có quy định:“Chỉ người nào phạm một tội
đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.” Như vậy,
tính được quy định trong BLHS là yếu tố bắt buộc khi xem xét việc một người có
phải chịu trách nhiệm hình sự hay không. Ngoài BLHS ra, không có một đạo luật
nào được quy định tội phạm và hình phạt mà chỉ người nào phạm một tội đã được
BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Tội phạm và hình phạt luôn đi
liền với nhau. Đã thực hiện tội phạm thì về mặt nguyên tắc phải chịu hình phạt và
ngược lại hình phạt chỉ áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị Luật hình sự coi là tội phạm.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự
bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, chính xác, khách quan, bảo đảm không ai bị
coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Hình phạt
do Tòa án quyết định phải được tuyên một cách công khai bằng một bản án và phải
12
là kết quả của một phiên tòa xét xử hình sự với đầy đủ trình tự, thủ tục do Luật tố
tụng hình sự quy định.
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt, do
vậy, các hình phạt này cũng được quy định trong BLHS (tại các Điều 34, 35, 36,
37). Các hình này do Toà án quyết định áp dụng bằng bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật.
+ Được áp dụng độc lập và mỗi tội phạm chỉ được tuyên một hình phạt chính.
Khoản 3 Điều 32 BLHS năm 2015 có quy định: Đối với mỗi tội phạm, người
phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số
hình phạt bổ sung.
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt chính
nên nó cũng có đặc điểm của các hình phạt chính. Đó là hình phạt áp dụng đối với
người phạm tội và được Tòa án tuyên độc lập phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm mà chủ thể phạm tội đã thực hiện, về nguyên tắc mỗi tội phạm
chỉ có thể tuyên một hình phạt chính. Trong phần các tội phạm của BLHS, ở mỗi tội
phạm được quy định một hay nhiều loại hình phạt chính và Tòa án lựa chọn một
trong các hình phạt chính mà điều luật quy định để áp dụng đối với người phạm tội
nhưng phải đảm bảo hình phạt này là phù hợp, tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm của tội phạm mà chủ thể đó đã thực hiện.
Thứ hai, đặc điểm riêng biệt của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn
So với hình phạt tù có thời hạn, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn có mức độ nghiêm khắc thấp hơn, (cũng như thấp hơn cả hình phạt tù
chung thân, tử hình).
Theo tinh thần tại Điều 32 BLHS năm 2015, các hình phạt chính trong BLHS
được sắp xếp theo trình tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc. Các hình phạt chính
này tuy đều tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội, nhưng có mức
độ nghiêm khắc khác nhau trong đó, cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất và tử hình là
hình phạt nặng nhất. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có mức
13
độ nghiêm khắc thấp hơn tù có thời hạn (cũng như tù chung thân, tử hình) bởi vì
người bị kết án các hình phạt này không bị tước tự do có thời hạn hay vĩnh viễn
hoặc bị tước đoạt tính mạng. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
có thể gây ra những tổn thất nhất định về mặt tinh thần đối với người phạm tội
thông qua việc khiển trách công khai của nhà nước (hình phạt cảnh cáo), hoặc cũng
có thể buộc họ phải chịu cải tạo tại cộng đồng dưới hoạt động giám sát, giáo dục
của cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc hoặc cư trú (hình phạt cải tạo không
giam giữ), hoặc tước bỏ lợi ích của người phạm tội là một khoản tiền nhất định
(hình phạt tiền, việc khấu trừ thu nhập ở hình phạt cải tạo không giam giữ); hoặc
tước quyền cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (trục xuất). Trong khi đó, hình phạt tù có
thời hạn lại tước tự do trong một thời hạn nhất định của người phạm tội, hình phạt
tù chung thân thì tước tự do vĩnh viễn, hình phạt tử hình thì tước bỏ tính mạng của
người phạm tội. Do đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn thể
hiện tính cưỡng chế và nội dung trừng trị thấp hơn hình phạt tù có thời hạn (cũng
như tù chung thân, tử hình).
1.1.3. Ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
Trong hệ thống hình phạt chính áp dụng với cá nhân phạm tội trong luật hình
sự Việt Nam thì hệ thống hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vị trí
rất quan trọng, cùng với các hình phạt chính khác như tù có thời hạn, tù chung thân,
tử hình thì loại hình phạt này góp phần làm cho hệ thống hình phạt cân đối, tương
xứng và hoàn thiện hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm,
phù hợp với xu hướng phát triển chung của hệ thống hình phạt hiện đại. Việc quy
định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tạo điều kiện bảo đảm
cho việc xét xử được công bằng bởi sự quy định đa dạng các loại hình phạt, bảo
đảm cho Tòa án tuỳ từng trường hợp cụ thể lựa chọn được hình phạt phù hợp với
tích chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS và nhân thân người phạm tội; đồng thời góp phần làm tăng
hiệu quả của hình phạt, khắc phục được những hạn chế của hình phạt chính tước tự
do quá phụ thuộc vào các cơ sở giam giữ, nhân lực của Nhà nước và chi phí cho
việc tái hòa nhập cộng đồng của người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án. Do
14
vậy, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là công cụ hữu hiệu trong
phòng chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng góp
phần thể hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong các
Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp, đó là giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình
phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp
dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới và phù
hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, góp phần thể
hiện tốt các nguyên tắc khác nhau của BLHS như nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc
công bằng, nguyên tắc phân hóa TNHS và cá thể hoá hình phạt. Tính nhân đạo
trong pháp luật hình sự thể hiện ở việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội với
mục đích chủ yếu nhằm: cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội và
giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung. Tính công bằng và
phân hóa TNHS thể hiện việc người phạm tội sẽ được tuyên hình phạt phù hợp với
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS tương ứng.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn.
1.2.1. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS
năm 1985
Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
mở ra trang sử mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Để bảo vệ chính quyền nhà
nước còn non trẻ, cần phải xây dựng hệ thống pháp luật và sử dụng pháp luật, trong
đó pháp luật hình sự có vai trò đặc biệt quan trọng như một công cụ sắc bén, hữu
hiệu để trấn áp sự phản kháng của bọn phản động, bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong giai đoạn đó, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các sắc lệnh như sắc lệnh số
15
27 ngày 28/02/1946 quy định trừng trị những hành vi bắt cóc, tống tiền và ám sát;
sắc lệnh số 202 – SL ngày 15/10/1946 quy định việc buôn bán vàng bạc…
Bên cạnh những văn bản mới ban hành, Nhà nước ta còn cho phép sử dụng
những văn bản pháp luật hình sự cũ, đó là các điều luật của Bộ luật hình sự Bắc Kỳ,
Bộ luật hình sự Trung Kỳ và Bộ luật hình sự áp dụng ở Nam Kỳ mà không trái nội
dung nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (theo sắc lệnh số 47
ngày 10/10/1945).
Qua các văn bản pháp luật hình sự nói trên thì chúng ta chưa có văn bản
pháp luật hình sự nào trong thời kỳ này quy định về hệ thống hình phạt. Tuy nhiên,
qua các sắc lệnh, sắc luật, pháp lệnh và một số văn bản pháp luật khác thì các hình
phạt chính được áp dụng trong giai đoạn này gồm: Tử hình, tù chung thân, tù có
thời hạn, cảnh cáo, quản chế, phạt tiền. Trong đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, quản chế.
Đối với hình phạt cảnh cáo: Theo các văn bản pháp luật thời kỳ này thì
cảnh cáo vừa là biện pháp xử lý hành chính, vừa là hình phạt. Về khía cạnh hình
phạt thì cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất được áp dụng đối với người phạm tội như
“Tội vi phạm quyền bầu cử và ứng cử của công dân” Điều 61 pháp lệnh số 1/LCT
ngày 18/01/1961 pháp lệnh về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp quy định:
“Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại đến
quyền tự do bầu cử và ứng cử của công dân, thì tuỳ mức độ nặng nhẹ mà có thể bị
cảnh cáo hoặc bị phạt tù, nặng nhất là 2 năm.”
Đối với hình phạt tiền: Trong giai đoạn này có nhiều văn bản quy định hình
phạt tiền là hình phạt chính, được áp dụng trong trường hợp phạm tội không thật
nguy hiểm, đáng được chiếu cố, khoan hồng, với những tội có tính chất vụ lợi. Ví dụ
như: tại Điều 5 và Điều 8 Sắc luật số 202/SL ngày 15/10/1946 quy định về việc buôn
bán vàng bạc cho phép phạt tiền gấp ba hoặc năm lần số vàng gian lận; tại khoản 1
Điều 3 sắc lệnh số 61/SL ngày 05/7/1947, về ấn định thể thức xuất cảng, nhập nội các
tư bản, quy định phạt tiền gấp ba số tư bản định xuất cảng hay nhập nội.
16
Đối với hình phạt quản chế: “Quản chế là dùng quyền lực của chính quyền
và của nhân dân để xử trí những phần tử đã phạm tội với cách mạng, với nhân dân
những tội chưa đáng phạt tù, hoặc đã mãn hạn tù nhưng chưa thực sự hối cải”
(Điều 1 Sắc lệnh số 175 ngày 18/8/1953). Phương châm của quản chế là: Kết hợp
kiểm soát của chính quyền với kiểm soát của nhân dân và kết hợp giáo dục với bắt
buộc lao động để sinh sống. Hạng người sẽ bị quản chế bao gồm: Địa chủ, cường
hào có tội nhẹ; Bọn đã làm gián điệp, bọn đã tham gia đảng phái phản động, nói
chung bọn đã làm tay sai cho địch nhưng tội nhẹ mà nay chưa thực sự hối cải; Bọn
lưu manh trước kia đã chuyên sinh sống bằng trộm cắp; Kẻ đã mãn hạn tù nhưng
chưa thực sự hối cải.
Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta toàn
thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Từ đây, cách mạng Việt Nam chuyển sang
một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất, cùng thực hiện một nhiệm
vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Ngày 25/4/1976,
trên 23 triệu cử tri của nước Việt Nam thống nhất đã nô nức làm nghĩa vụ công dân
của mình, bầu những đại biểu xứng đáng vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
của nước Việt Nam. Ngày 02/7/1976, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ nhất, đã ra
Nghị quyết giao cho Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm hướng dẫn áp dụng pháp
luật thống nhất trong cả nước. Căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng Chính phủ thì
các văn bản pháp luật hiện hành ở cả hai miền đều được áp dụng trong cả nước.
Những văn bản quy phạm pháp luật trước đây đã ban hành ở miền Bắc tiếp tục được
áp dụng. Những năm đầu của thập kỷ 80, cùng với việc ban hành Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có ban hành nhiều luật. Hội đồng nhà nước có ban hành các sắc
lệnh trong đó có sắc lệnh về tội phạm và hình phạt như pháp lệnh ngày 20/5/1981
trừng trị tội hối lộ, pháp lệnh ngày 30/6/1982 trừng trị các tội buôn lậu, làm giả,
kinh doanh trái phép.
Điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là hình phạt “Cải tạo không giam giữ”
bắt đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự và trong phần quy
định trách nhiệm của người trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Khoản 1 Điều 6 của pháp
17
lệnh ngày 30/6/1982 có quy định: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc
không đúng với nội dung được phép…thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 03
tháng đến 02 năm…”Điều 69 của Luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30/12/1981, quy định: “Người nào
đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành những quy định…thì tùy
theo mức độ nặng nhẹ mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị cải tạo không
giam giữ từ ba tháng đến hai năm”.
Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự từ năm 1975 đến năm 1985 thì
thấy, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy định và áp
dụng trong giai đoạn này gồm có: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ.
Nhận xét: Từ những phân tích ở trên có thể rút ra những đặc điểm của các
hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam
trước khi pháp điển hóa luật hình sự như sau: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn được quy định theo chiều hướng phát triển nhưng chưa được rõ
ràng, thiếu nội dung và điều kiện áp dụng, chưa phân biệt rõ biện pháp xử lý hành
chính và hình phạt. Do chưa có hệ thống hình phạt hoàn chỉnh, các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không thể sắp xếp vào trật tự được do chúng không
có mối quan hệ chuyển tiếp với hình phạt tù, cho nên giữa các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù có một khoảng cách lớn về tính cưỡng
chế và hậu quả pháp lý khi áp dụng. Trong thời kỳ đầu, khi quản chế còn được coi
là hình phạt chính thì giữa hình phạt tù và hình phạt quản chế còn có bước chuyển
tiếp nhất định (tước tự do của hình phạt tù và hạn chế tự do của hình phạt quản chế)
cho đến khi quản chế chỉ được áp dụng là hình phạt bổ sung thì tính cưỡng chế và
hậu quả pháp lý giữa các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và hình
phạt tù có thời hạn càng được mở rộng. Thực tế, trong giai đoạn này, các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất ít được áp dụng. Đối với những trường
hợp mà có thể cải tạo giáo dục tại địa phương mà không cần cách ly ra khỏi xã hội,
Tòa án thường áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
18
1.2.2. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
trong BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào năm 1989, 1991, 1992, và 1997-
sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985)
Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở nền kinh tế bao cấp
và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là
nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt. Để đáp ứng và phục vụ
cho công cuộc đổi mới của đất nước, luật hình sự buộc phải có những thay đổi
mang tính phát triển, điều đó được thể hiện qua những sửa đổi, bổ sung của BLHS
cụ thể: BLHS năm 1985 có hiệu lực từ ngày 01/01/1986, đã trải qua 04 lần sửa đổi,
bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, chính thức hết hiệu lực vào ngày
01/7/2000.
Tại khoản 1 Điều 21 BLHS năm 1985 quy định về các hình phạt chính, trong
đó các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn bao gồm: Cảnh cáo; phạt
tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội.
Hình phạt cảnh cáo: hình phạt cảnh cáo được quy định tại Điều 22 với nội
dung: "Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt".
Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt và được áp dụng đối
với các điều kiện:
Thứ nhất, người phạm tội ít nghiêm trọng: Trong đó, theo BLHS năm 1985
thì tội ít nghiêm trọng được xác định là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến năm năm tù.
Thứ hai, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Thứ ba, người phạm tội chưa đến mức miễn hình phạt theo quy định tại
khoản 2 Điều 48 BLHS: "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường
hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ nói ở Điều 38, đáng được khoan hồng đặc
biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự".
19
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985 thì có 40 tội danh quy định về
hình phạt cảnh cáo. Trong các lần sửa đổi sau đó của BLHS năm 1985 thì quy định
này vẫn giữ nguyên.
Hình phạt tiền: Điều 23 BLHS năm 1985 có quy định: "Phạt tiền được áp
dụng đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi, các tội có dùng tiền làm
phương tiện hoạt động trong những trường hợp khác do luật này quy định. Chỉ
trong trường hợp có Điều luật quy định thì phạt tiền mới được áp dụng là hình phạt
chính. Mức phạt tiền được quyết định theo mức độ nghiêm trọng của tội đã phạm,
đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội". Có thể thấy, quy định
này chưa thể hiện hình phạt tiền được áp dụng đối với loại tội phạm nào cũng như
mức tối thiểu và mức tối đa của số tiền phạt được áp dụng. BLHS năm 1985 quy
định không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội và không
quy định cách thức nộp tiền.
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985 thì có 9/209 tội có quy định
hình phạt tiền là hình phạt chính, chiếm tỉ lệ 4,3% trên tổng số điều luật.
Hình phạt cải tạo không giam giữ: BLHS năm 1985 quy định có hai loại là:
cải tạo không giam giữ (Điều 24 BLHS năm 1985) và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của
quân đội (Điều 70 BLHS năm 1985).
Về điều kiện áp dụng: Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến
hai năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam được trừ vào thời
hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giam bằng ba
ngày cải tạo không giam giữ.
Nghĩa vụ của người bị kết án: Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa
vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và có thể bị khấu trừ một phần thu
nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước.
Đối với người chưa thành niên phạm tội khi áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ thì không khấu trừ thu nhập của người đó.
20
1.2.3. Khái quát về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - sau đây gọi tắt là BLHS
năm 1999)
BLHS năm 1999 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2000, được xây
dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So
với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương
đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam. BLHS năm
1999 quy định các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn gồm có: Cảnh
cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; trục xuất.
Hình phạt cảnh cáo
Điều 29 BLHS năm 1999 có quy định: "Cảnh cáo được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức
miễn hình phạt". Có thể thấy điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo trong BLHS
năm 1999 được quy định tương tự như trong BLHS năm 1985. Tuy nhiên, về nội
hàm có những điểm khác biệt như: tội ít nghiêm trọng được xác định là tội phạm
gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến ba năm tù. Và điều kiện, chưa đến mức miễn hình phạt được quy định chặt
chẽ hơn (điều kiện miễn hình phạt được quy định trong BLHS năm 1999 chỉ bao
gồm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 (do luật ấn định) thay vì có
thể do Tòa án xác định như trong BLHS năm 1985).
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 thì hình phạt cảnh cáo được
quy định tại Điều 37 của BLHS năm 1999.
Hình phạt tiền
Điều 30 BLHS năm 1999 có quy định: "1. Phạt tiền được áp dụng là hình
phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật
này quy định. 2. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm
các tội về tham nhũng, ma tuý hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
3. Mức phạt tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội
21
phạm được thực hiện, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự
biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng. 4. Tiền phạt có thể
được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án quyết định trong bản
án". Như vậy, BLHS năm 1999 đã mở rộng phạm vi áp dụng và quy định rõ hơn
điều kiện áp dụng hình phạt tiền: Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng,
trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Đồng
thời, quy định cụ thể mức phạt tiền được quyết định theo tính chất và mức độ
nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, có xét đến tình hình tài sản của người
phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng và cách
thức thực hiện là có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án
quyết định trong bản án.
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 có 68 tội quy định hình phạt
tiền là hình phạt chính, tăng hơn 8 lần so với BLHS năm 1985. Thể hiện xu thế mở
rộng việc áp dụng hình phạt tiền.
Đồng thời, BLHS năm 1999 cũng quy định phạt tiền được áp dụng là hình
phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi,
nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức phạt tiền đối với người chưa
thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định
(Điều 72).
Hình phạt cải tạo không giam giữ
Trong BLHS năm 1999 thì hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định
tại Điều 31:"Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy
định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy
không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị
tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp
hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba
ngày cải tạo không giam giữ” (Khoản 1 Điều 31 BLHS năm 1999).
22
Như vậy, so với BLHS năm 1985 thì hình phạt cải tạo không giam giữ được
áp dụng không chỉ với người phạm tội ít nghiêm trọng (mức cao nhất của khung
hình phạt đến 3 năm) mà còn được áp dụng đối với cả những người phạm tội
nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt đến 7 năm). BLHS năm 1999 đã
bổ sung thêm 02 điều kiện áp dụng để tạo thuận lợi cho việc thi hành là: người
phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng và Tòa án xét
thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Đồng thời BLHS năm
1999 quy định về trách nhiệm của gia đình người bị kết án và trong trường hợp đặc
biệt Tòa án có thể miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ trong bản án, thể
hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta.
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 thì hình phạt cải tạo không
giam giữ được áp dụng đối với 143 điều luật trên tổng số 283 điều luật quy định về
các tội danh, chiếm tỷ lệ 50,53%.
Đối với người dưới 18 tuổi (người chưa thành niên): Khi áp dụng hình phạt
cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ
thu nhập của người đó, điểm này giống với BLHS năm 1985.
Hình phạt trục xuất
BLHS năm 1999 lần đầu tiên ghi nhận hình phạt trục xuất:"Trục xuất là buộc
người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Trục xuất được Toà án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ
sung trong từng trường hợp cụ thể" ( Điều 32 BLHS năm 1999).
Trong BLHS năm 1999 không thể hiện rõ phạm vi, điều kiện áp dụng hình
phạt trục xuất là như thế nào. Trong phần các tội phạm cũng không có điều luật nào
quy định về hình phạt trục xuất trong CTTP.
Nhận xét: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy
định ngày càng hoàn thiện hơn trong pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt là trong
BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn ngày càng được mở rộng phạm vi áp dụng phù hợp với xu hướng chung
của thế giới là tăng cường việc áp dụng các hình phạt không tước tự do trên cơ sở
23
“thuyết ngăn ngừa” thay vì “thuyết trừng phạt” trước đây. Đặc biệt, xã hội ngày
càng phát triển, thì sẽ xuất hiện một số loại tội phạm liên quan đến người nước
ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Do vậy, BLHS ngày càng hoàn thiện các
quy định về hình phạt trong đó có các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
và phù hợp với xu hướng chung của thế giới, trong đó có việc xuất hiện hình phạt
trục xuất.
1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định
của BLHS Việt Nam năm 2015
Theo quy định tại Điều 32 BLHS Việt Nam năm 2015, các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội bao gồm: 1) Cảnh cáo, 2)
Phạt tiền, 3) Cải tạo không giam giữ, 4) Trục xuất.
Về cơ cấu trong tổng số 314 điều luật quy định các tội phạm cụ thể, trong đó
có 298 điều luật có quy định hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù chiếm tỷ lệ
65,92%, trong đó có 25/314 (tỷ lệ 7,96%) điều luật quy định hình phạt cảnh cáo,
95/314 (tỷ lệ 30,25%) điều luật quy định hình phạt tiền, 178/314 (tỷ lệ 56,68%) điều
luật có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ, còn về hình phạt trục xuất không
có điều luật nào quy định trực tiếp.
Bảng 1.1 Thống kê các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trong Phần
các tội phạm của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Tổng Cải tạo
số Cảnh Phạt không Trục Chương Tên chương điều cáo tiền giam xuất
luật giữ
XIII Các tội xâm phạm an ninh quốc 14 0 0 0 0 gia
XIV Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự 34 3 6 15 0
con người
24
XV Các tội xâm phạm quyền tự do, 11 3 3 11 0 dân chủ của công dân
13 2 3 9 XVI Các tội xâm phạm sở hữu 0
XVII Các tội xâm phạm chế độ hôn 7 4 2 6 0 nhân và gia đình
XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản 48 2 35 33 0 lý kinh tế
12 0 12 6 XIX Các tội phạm về môi trường 0
13 0 1 0 XX Các tội phạm về ma túy 0
XXI Các tội xâm phạm an toàn công 69 1 23 40 0 cộng, trật tự công cộng
XXII Các tội xâm phạm trật tự quản 22 7 7 16 0 lý hành chính
14 1 2 9 XXIII Các tội phạm về chức vụ 0
XXIV Các tội xâm phạm hoạt động tư 24 2 2 12 0 pháp
XXV Các tội xâm phạm nghĩa vụ
trách nhiệm của quân nhân và
trách nhiệm của người phối 28 0 0 21 0
thuộc với quân đội trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu
XXVI Các tội phá hoại hòa bình,
chống loài người và tội phạm 5 0 0 0 0
chiến tranh
314 25 95 178 0 Tổng số điều luật
(Nguồn: BLHS năm 2015)
25
1.3.1. Hình phạt cảnh cáo
Trong hệ thống hình phạt của nhà nước ta thì cảnh cáo là hình phạt chính nhẹ
nhất. Trong BLHS hiện hành chưa đưa ra khái niệm về hình phạt cảnh cáo. Theo
Đại Từ điển Tiếng Việt, thì cảnh cáo được hiểu là “nghiêm khắc phê bình trước tập
thể”[51, tr.256].
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự nước ta, khái niệm hình phạt cảnh cáo
còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:
“Cảnh cáo là sự khiển trách công khai của Nhà nước đối với người phạm tội
về tội phạm họ đã thực hiện”[31, tr.295].
“Cảnh cáo là hình phạt công khai lên án, phê phán của Tòa án đối với
người phạm tội”[16, tr.32].
“Cảnh cáo là hình phạt khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án
tuyên đối với người bị kết án”[19, tr.30].
Các quan niệm trên tuy khác nhau về cách diễn đạt nhưng tất cả đều khẳng
định được nội dung và bản chất pháp lý của hình phạt cảnh cáo là sự khiển trách
công khai của nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội về hành vi phạm
tội của họ. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống các hình phạt chính đối
với cá nhân phạm tội vì nó không tước bỏ hoặc hạn chế bất cứ quyền lợi nào của
người bị kết án như quyền tự do, quyền sống, quyền sở hữu tài sản mà chỉ gây tổn
thất về tinh thần đối với họ. Như vậy, có thể hiểu: “Cảnh cáo là sự khiển trách công
khai của Nhà nước đối với người phạm tội về tội phạm mà họ đã thực hiện, do Tòa
án quyết định áp dụng đối với người phạm tội, trong những trường hợp do BLHS
quy định.”
Mặc dù, hình phạt cảnh cáo chỉ gây ra tổn thất về tinh thần cho người phạm
tội nhưng nó vẫn nặng hơn các chế tài hành chính vì nó là hình phạt, nó để hậu quả
pháp lý cho người phạm tội là án tích.
Điều 34 BLHS năm 2015 quy định như sau: “Cảnh cáo được áp dụng đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến
26
mức miễn hình phạt”. Theo quy định tại Điều 34 BLHS 2015 thì hình phạt cảnh cáo
chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất: Tội phạm thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 thì: “Tội phạm ít nghiêm
trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức
cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền,
phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”. Việc xác định là tội phạm ít
nghiêm trọng cần căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn,
tuy nhiên, đây là một khái niệm khó đánh giá. Trong thực tiễn, cơ quan có thẩm
quyền phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt để xác định, cần chú ý
việc xác định tội phạm ít nghiêm trọng không phải căn cứ vào hình phạt cao nhất
của điều luật quy định đối với tội đó mà phải căn cứ vào mức cao nhất của khung
hình phạt.
Cảnh cáo là hình phạt có tính cưỡng chế thấp nhất trong các hình phạt chính
nên đối tượng bị áp dụng hình phạt này trước hết phải là những trường hợp phạm tội
ít nghiêm trọng, đó là những tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn, hậu quả của hành vi gây lên chưa ảnh hưởng nặng nề đến đời sống xã
hội, nền kinh tế và chế độ chính trị của đất nước. Việc quy định như vậy cũng đảm
bảo hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Thứ hai: Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Có nhiều tình tiết giảm nhẹ tức là phải có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trở lên. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại
Điều 51 BLHS năm 2015. Từ quy định này, về lý thuyết, người phạm tội có thể
được áp dụng hình phạt chính là cảnh cáo nếu có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ, dù
các tình tiết này có thể là tình tiết giảm nhẹ được quy định ở khoản 1 hay khoản 2
Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, nếu là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51
BLHS 2015 thì Toà án phải ghi rõ trong bản án.
Thứ ba: Tội phạm mà người đó thực hiện chưa đến mức miễn hình phạt.
27
Điều 59 BLHS năm 2015 có quy định: “Người phạm tội có thể được miễn
hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ
luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách
nhiệm hình sự”, như vậy, người phạm tội được miễn hình phạt khi họ có nhiều tình
tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 và họ “đáng được
khoan hồng đặc biệt”, còn người bị áp dụng hình phạt cảnh cáo thì không được
khoan hồng đặc biệt, vì vậy họ không được miễn hình phạt. Như vậy, ranh giới giữa
miễn hình phạt và áp dụng hình phạt cảnh cáo là rất nhỏ, đòi hỏi Tòa án phải rất
thận trọng khi quyết định hình phạt.
Nhận xét: Điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo trong BLHS năm 2015 về
cơ bản giữ nguyên quy định trong BLHS năm 1999. Việc áp dụng hình phạt cảnh
cáo có xu hướng thu hẹp phạm vi từ BLHS năm 1985 (37 tội danh) đến BLHS năm
2015 (25 tội danh).
1.3.2. Hình phạt tiền
Hình phạt tiền theo quy định của BLHS 2015 vừa là hình phạt chính vừa là
hình phạt bổ sung. Trong phạm vi đề tài này, tác giả sẽ phân tích về hình phạt tiền
dưới góc độ là hình phạt chính.
Cũng như hình phạt cảnh cáo, trong BLHS năm 2015 không đưa ra khái
niệm hình phạt tiền.Trong Từ điển luật hình sự, hình phạt tiền được hiểu là “Buộc
người bị kết án phải nộp sung quỹ nhà nước khoản tiền nhất định”[16; Tr.195].
Khái niệm hình phạt tiền cũng được một số nhà nghiên cứu đề cập trong một số
giáo trình, sách báo pháp lý chuyên ngành như sau:
“Phạt tiền là hình phạt buộc người phạm tội phải nộp một khoản tiền nhất
định vào ngân sách nhà nước”[31, tr.296].
“Phạt tiền được hiểu là một trong những biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước được Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với người bị kết án về những
tội phạm do luật hình sự quy định với nội dung là tước một khoản tiền nhất định
của họ sung vào công quỹ của Nhà nước, thông qua đó giáo dục, cải tạo họ trở
28
thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới, đồng thời thực hiện
phòng ngừa, giáo dục chung”[42, tr.84].
“Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình
phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa án quyết
định trong những trường hợp do luật định mà theo đó người bị kết án bị tước một
số tiền tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời xem xét đến tình hình
tài sản của người bị kết án và sự biến động của giá cả”[28, tr.11].
Về cơ bản, các quan điểm nêu trên là thống nhất, nội dung của hình phạt tiền
là sự tước bỏ một khoản tiền nhất định của người bị kết án để sung công quỹ Nhà
nước, qua đó nhằm đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung và
Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối
với người phạm tội. Với nội dung này thì có thể hiểu “hình phạt tiền là hình phạt có
mục đích trừng trị về kinh tế được áp dụng đối với người bị kết án phạm một số tội
do Bộ luật hình sự quy định, nhằm tước đoạt các khoản tiền nhất định, qua đó giáo
dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời thực hiện giáo dục,
phòng ngừa chung”[43, tr.326 – 327].
Theo quy định tại Điều 35 BLHS năm 2015 quy định phạm vi áp dụng hình
phạt tiền căn cứ theo nhóm tội nhất định, đó là: Nhóm tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng; nhóm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ
luật này quy định. Theo đó, hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với
95 tội danh. Như vậy, so với quy định về hình phạt tiền tại Điều 30 của BLHS năm
1999, quy định hiện hành đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền đối với cả tội
nghiêm trọng và thậm chí là rất nghiêm trọng (bên cạnh quy định BLHS năm 1999
chỉ áp dụng với tội ít nghiêm trọng). Đối với trường hợp người phạm tội ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng việc quy định và áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính
không bị giới hạn về nhóm tội phạm. Đối với trường hợp người phạm tội rất nghiêm
trọng thì bị giới hạn về nhóm tội phạm. Tuy nhiên thuật ngữ “và một số tội phạm
khác do Bộ luật này quy định” dẫn đến phạm vi áp dụng hình phạt tiền cho các tội
phạm rất nghiêm trọng không bị giới hạn một cách rõ ràng về nhóm tội phạm.
29
Trong phần các tội phạm trong BLHS năm 2015, hình phạt tiền được áp
dụng là hình phạt chính đối với 112/314 tội phạm cụ thể, chiếm tỉ lệ hơn 35%, tập
trung vào các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm
sở hữu; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội phạm về môi trường; các
tội xâm phạm an toàn cộng cộng, trật tự công cộng và các tội xâm phạm trật tự quản
lý hành chính. Như vậy, có thể thấy hình phạt tiền có xu hướng được mở rộng phạm
vi các tội danh được áp dụng từ BLHS năm 1985 với 09 tội danh lên con số 76 tội
danh trong BLHS năm 1999 (sửa đổi năm 2009), thì đến BLHS năm 2015 là 112 tội
danh được áp dụng.
Mặc dù Điều 35 BLHS năm 2015 chỉ quy định phạm vi áp dụng hình phạt
tiền căn cứ theo nhóm tội nhất định mà không quy định kèm các điều kiện áp dụng
khác. Tuy nhiên, theo tinh thần của Điều 32 BLHS năm 2015, các hình phạt chính
được sắp xếp từ điểm a đến điểm g tại khoản 1 Điều 32 BLHS năm 2015 theo thứ tự
từ nhẹ tới nặng, thì hình phạt tiền chỉ nặng hơn hình phạt cảnh cáo và nhẹ hơn các
hình phạt còn lại. Do vậy, trong thực tiễn áp dụng, để người phạm tội được áp dụng
hình phạt chính là hình phạt tiền thì người phạm tội phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ
theo quy định tại Điều 51 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, việc chưa có văn bản nào
hướng dẫn về điều kiện áp dụng hình phạt tiền dẫn đến việc áp dụng hình phạt tiền
chưa được thống nhất và đôi khi chưa đạt được mục đích của hình phạt.
Về mức phạt: Khoản 3 Điều 35 BLHS năm 2015 chỉ quy định mức thấp nhất của
hình phạt tiền là một triệu đồng, mức tối đa tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể
quy định trong phần các tội phạm của BLHS. Đây là một quy định cần thiết, thể
hiện tính nghiêm khắc của chế tài hình sự so với các chế tài khác như chế tài hành
chính, chế tài dân sự... Đồng thời quy định về mức tiền phạt phải được căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm thực hiện đồng thời có xét đến tình
hình tài sản của người phạm tội và sự biến động của giá cả. Quy định này làm cho
hình phạt tiền khi áp dụng có khả năng thực hiện được trên thực tế, giúp phát huy
được hiệu quả của loại hình phạt này.
Mặc dù trong hệ thống các hình phạt theo BLHS hiện hành, không chỉ có
phạt tiền là biện pháp tác động nhất định về mặt kinh tế đối với người bị kết án, mà
30
còn có các hình phạt khác như: Cải tạo không giam giữ hay tịch thu tài sản. Tuy
nhiên, khác với hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tịch thu tài sản, sự tác
động về mặt kinh tế của hình phạt tiền là sự tác động chính, trực tiếp chứ không
phải là những nội dung hạn chế các quyền và lợi ích áp dụng kèm theo. Trong bối
cảnh nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế, việc tồn tại hình phạt tiền
với tính chất là hình phạt chính có ý nghĩa rất quan trọng vì đối với các tội phạm có
tính chất kinh tế với mục đích mà người phạm tội hướng tới là lợi nhuận. Biện pháp
trừng phạt có tính chất kinh tế đối với hành vi phạm tội của họ sẽ tước bỏ khả năng,
cơ hội tái phạm tội của họ; tạo điều kiện để bản thân người phạm tội có khả năng
tiếp tục lao động khắc phục hậu quả của tội phạm.
Phạt tiền với tính chất là một hình phạt chính khác với phạt tiền với tính chất
là một biện pháp xử lý vi phạm hành chính ở chỗ: Là một biện pháp xử lý vi phạm
hành chính, phạt tiền có thể áp dụng đối với người vi phạm các quy định về an toàn
giao thông, vi phạm các quy định về an toàn lao động, vi phạm các quy định về
phòng cháy… Người có thẩm quyền áp dụng phạt tiền hành chính là các Cơ quan
quản lý hành chính nhà nước. Còn với tính chất là một hình phạt (hình phạt chính),
phạt tiền không thể do các Cơ quan quản lý hành chính nhà nước áp dụng, mà phải do
Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên phạt trên cơ sở các quy định của BLHS hiện hành.
Ngoài ra, người bị kết án hình phạt tiền còn phải chịu hậu quả pháp lý là án tích, đây
cũng là điểm khác nhau quan trọng nhất giữa hình phạt với các chế tài khác.
1.3.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ
Hình phạt cải tạo không giam giữ được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt
Nam trước năm 1985, tức là trước khi có BLHS đầu tiền của nước ta ra đời, sau đó
hình phạt này được ghi nhận trong tất cả các BLHS của nước ta từ trước đến nay.
Việc ghi nhận hình phạt cải tạo không giam giữ trong BLHS thể hiện quan điểm
nhân đạo và chính sách hình sự của nhà nước ta đối với người phạm tội và hành vi
do họ thực hiện, đồng thời chứng tỏ khả năng tự giáo dục, cải tạo trở thành người có
ích cho xã hội của họ.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự ở nước ta, khái niệm hình phạt cải tạo
không giam giữ còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể là:
31
“Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, buộc người phạm tội phải cải
tạo, giáo dục tại nơi làm việc, học tập, cư trú dưới sự giám sát của cơ quan, tổ
chức nơi họ làm việc, học tập hoặc của chính quyền địa phương, nơi họ cư
trú”[31, tr.297].
“Buộc người phạm tội phải tự cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện
những nghĩa vụ nhất định”[16, tr.29].
“Cải tạo không giam giữ là không buộc người phạm tội phải cách ly khỏi xã
hội mà họ được chung sống với gia đình như những người khác dưới sự giám sát
của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương nơi người đó làm việc hoặc
thường trú”[23, tr.178].
Như vậy, các quan điểm trên đều khẳng định cải tạo không giam giữ là hình
phạt buộc người bị kết án phải cải tạo tại cộng đồng dưới sự giám sát của cơ quan
có thẩm quyền, họ không bị tước tự do. Những trường hợp bị áp dụng hình phạt này
phải có nơi cư trú rõ ràng. Trên cơ sở phân tích các quan điểm khoa học trên kết
hợp với việc phân tích các quy định pháp luật có liên quan, dưới góc độ khoa học
luật hình sự có thể hiểu khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ như sau: Hình
phạt cải tạo không giam giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc
nhất của Nhà nước, được quy định trong BLHS, người bị kết án không bị cách ly ra
khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính
quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục, khi họ phạm một tội ít
nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng có nơi cư trú rõ ràng và Tòa án xét thấy không
cần thiết phải cách ly khỏi xã hội.
Về điều kiện áp dụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015,
hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với người phạm tội khi có
đủ các yếu tố sau đây:
Phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng theo quy định tại khoản 1
Điều 9 BLHS năm 2015: BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng loại hình
phạt này đến loại tội phạm rất nghiêm trọng nếu người phạm tội là người dưới 18
32
tuổi theo quy định tại Điều 100 BLHS 2015. Theo quy định này thì hình phạt cải tạo
không giam giữ được áp dụng cho người dưới 18 tuổi như sau: 1) người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm
trọng, phạm tội nghiêm trọng. 2) Người tử đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất
nghiêm trọng. Đây là một điểm mới của BLHS 2015 so với BLHS 1999, cụ thể có
sự phân định rõ phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các
nhóm độ tuổi khác nhau.
Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng:
Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, Tòa án giao người bị phạt cải tạo
không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Do đó, việc BLHS quy
định người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng là hợp
lý, vừa tạo điều kiện thuận lợi giúp người bị kết án có thể lao động cải tạo tốt, vừa
là điều kiện áp dụng hình phạt hiệu quả. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm
phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát,
giáo dục người đó. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình là tạo điều kiện quan
tâm, giúp đỡ người bị kết án có thể cải tạo trở thành công dân tốt cho xã hội, thông
qua sự chia sẻ này người bị kết án sẽ dần xóa bỏ những mặc cảm trong quá khứ và
từ đó có quyết tâm lao động, cải tạo tốt. Bản chất của cải tạo không giam giữ là
không tước tự do của người bị kết án nhưng mục đích trừng trị và giáo dục cải tạo
người phạm tội vẫn đạt được khi người bị kết án chịu sự giám sát của cơ quan nhà
nước hoặc tổ chức xã hội, gia đình nơi người đó làm việc hoặc cư trú.
Về thời hạn áp dụng: Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến
03 năm. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm
giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01
ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. Việc BLHS quy định
cách quy đổi thời gian tạm giữ, tạm giam sang thời gian chấp hành hình phạt cải tạo
không giam giữ là hợp lí, đảm bảo quyền lợi cho người bị kết án cũng như đảm bảo
việc áp dụng pháp luật một cách công bằng. Hơn nữa, việc quy đổi này cũng tạo
33
tính thống nhất khi tổng hợp hình phạt chung mà một trong các hình phạt mà người
phạm tội bị tuyên là hình phạt cải tạo không giam giữ.
Về nghĩa vụ của người bị kết án: Trong thời gian chấp hành án, người bị kết
án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị
khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Việc khấu trừ
thu nhập được thực hiện hàng tháng. Toà án cần căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, thu nhập thực tế và tình hình tài
sản cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội để quyết định mức khấu trừ cụ
thể là bao nhiêu. Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người
đang thực hiện nghĩa vụ quân sự và người dưới 18 tuổi phạm tội (khoản 3 Điều 36
và Điều 100 BLHS 2015). Ngoài ra, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập,
nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án đối với các trường hợp khác.
Về cơ bản, BLHS năm 2015 đã kế thừa quy định về hình phạt cải tạo không
giam giữ của BLHS năm 1999, đồng thời có ba điểm sửa đổi, bổ sung, đó là:
Thứ nhất, cụ thể hóa nội dung tại khoản 4 Điều 36 BLHS năm 2015:"...Trường
hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm
trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao
động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động
phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong
01 tuần". Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có
thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm
nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng". Như vậy có thể thấy
quy định này thể hiện quan điểm giáo dục cải tạo người phạm tội thông qua lao
động. Xác định cụ thể thời gian lao động phục vụ cộng đồng là không quá 4 giờ/một
ngày và không quá 5 ngày/một tuần. Điều luật cũng quy định rõ: không áp dụng
biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với năm đối tượng người bị kết án cải
tạo không giam giữ sau đây: (1) phụ nữ đang có thai; (2) phụ nữ đang nuôi con dưới
06 tháng tuổi; (3) người già yếu; (4) người bị bệnh hiểm nghèo; (5) người khuyết tật
nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng. Nhìn chung, đây là những đối tượng yếu thế,
cần có chính sách bảo vệ đặc biệt.
34
Thứ hai, bổ sung quy định tại khoản 3 Điều 36: Không khấu trừ thu nhập đối
với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự. Đây là quy định
thể hiện sự nhân văn, nhân đạo vì quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự, người đó
không có thu nhập hàng tháng để có khả năng thực hiện nghĩa vụ này.
Thứ ba, có sự phân định rõ phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ đối với các nhóm độ tuổi khác nhau đối với những người phạm tội dưới 18 tuổi.
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 2015 thì có 208 tội danh quy định về
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ so với 143 tội danh trong BLHS năm 1999.
Thể hiện xu thể mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt này trong thực tế hiện nay.
Cần phân biệt giữa hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo: Mặc dù cả
hai trường hợp này, người bị kết án đều không bị cách ly ra khỏi xã hội mà được
giáo dục, cải tạo tại địa phương dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức nơi
người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú nhưng hai chế
tài này vẫn có điểm khác. Cụ thể:
Về tính chất pháp lý: cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, còn án treo
chỉ là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Về điều kiện áp dụng: Cải tạo không giam giữ có thể được áp dụng từ 06
tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng
mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng; đối với án treo thi khi
xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình
tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án
cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách;
Ngoài ra, còn có điểm khác nhau nữa là: trong trường hợp người bị kết án
phạm tội mới khi đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và bị phạt tù,
thì khi tổng hợp hình phạt khác loại, phải qui đổi cải tạo không giam giữ thành tù
có thời hạn theo nguyên tắc 3 ngày cải tạo không giam giữ bằng 01 ngày tù có thời
hạn, sau đó, tổng hợp theo quy định chung. Còn trong thời gian thử thách của án
treo mà phạm tội mới thì Tòa án buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù
35
của bản án cho hưởng án treo, sau đó tổng hợp với hình phạt của bản án mới thành
hình phạt chung.
Tuy nhiên, về vấn đề áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù
nhưng cho hưởng án treo hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau: Có quan
điểm cho rằng do hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn nếu người phạm tội không đủ điều kiện được hưởng án treo (quy
định chi tiết tại Nghị quyết số 02/2018/NĐ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo)
thì đương nhiên cũng không thể áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ
đối với người phạm tội đó; quan điểm khác lại cho rằng người phạm tội không đủ
điều kiện để được hưởng án treo ví dụ như có nhân thân xấu (có tiền sự) nhưng vẫn
có thể áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ vì pháp luật không cấm. Về
vấn đề này, trong thực tiễn áp dụng một số Tòa án vẫn áp dụng hình phạt chính là cải
tạo không giam giữ đối với một số trường hợp người phạm tội không đủ điều kiện
được hưởng án treo nhưng hành vi phạm tội mang tính chất giản đơn, tính chất và
mức độ cho xã hội không lớn và đảm bảo đủ các điều kiện để áp dụng hình phạt
chính là cải tạo không giam giữ theo quy định pháp luật. Về vấn đề này, tác giả cho
rằng việc áp dụng như vậy là hợp lý vì khi xem xét áp dụng hình phạt chính trước hết
phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nếu đủ điều kiện
để áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tức là chưa xem xét đến việc áp dụng
hình phạt tù có thời hạn. Do chưa xem xét đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn
nên việc có hay không cho người phạm tội được hưởng án treo chưa đặt ra ở đây.
1.3.4. Hình phạt trục xuất
Hình phạt trục xuất được quy định lần đầu tiên trong BLHS năm 1999 và tiếp
tục được ghi nhận trong BLHS năm 2015. Việc ghi nhận hình phạt trục xuất là hình
phạt chính trong BLHS là thực sự cần thiết, đáp ứng đòi hỏi của xã hội bởi trong
quá trình hội nhập quốc tế, số lượng người nước ngoài vào Việt Nam làm việc, du
lịch, công tác, học tập ngày càng nhiều và trong đó có một số người đã phạm tội ở
Việt Nam. Việc quy định hình phạt trục xuất trong hệ thống hình phạt là cơ sở pháp
lý để Toà án có thể lựa chọn và áp dụng hình phạt này đối với người nước ngoài
36
phạm tội với mục đích không chỉ trừng trị mà còn tác dụng ngăn ngừa một cách triệt
để khả năng phạm tội mới của người nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam.
Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về hình phạt trục xuất. Cụ thể:
“Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án trong thời hạn nhất
định phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”[31, tr.298].
“Trục xuất là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được quy định trong luật
hình sự do Tòa án quyết định áp dụng đối với người nước ngoài phạm tội với nội
dung buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
nhằm giáo dục người nước ngoài có ý thức tôn trọng pháp luật Việt Nam; phòng
ngừa tội phạm”[42, tr.98].
Điều 37 BLHS năm 2015 quy định về hình phạt trục xuất như sau:
“Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung
trong từng trường hợp cụ thể”.
Tuy khác nhau về chi tiết, nhưng các quan điểm trên đều khẳng định, hình phạt
trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Việt Nam.
Trong tổng số 314 điều luật Phần các tội phạm của BLHS thì không có một
điều luật về tội phạm cụ thể nào quy định về hình phạt trục xuất. Đây là một điểm
rất đặc biệt, theo tác giả, việc chỉ quy định hình phạt trục xuất tại Điều 37 BLHS
Phần chung mà không có quy định cụ thể ở các điều luật của Phần các tội phạm là
xuất phát từ tính chất phức tạp của việc xử lý người phạm tội là người nước ngoài;
do vậy để đảm bảo tính linh hoạt trong áp dụng do vậy, quy định như trên của
BLHS là hợp lý. Xét về kĩ thuật lập pháp, có thể coi đây như một trường hợp ngoại
lệ nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Mặt khác, việc không quy định cụ thể trong bất kỳ điều luật nào trong phần
các tội phạm của BLHS cũng có nghĩa trục xuất có thể áp dụng đối với người nước
ngoài phạm bất kỳ tội nào được quy định trong BLHS. Người nước ngoài khi đến
Việt Nam cư trú hoặc học tập, công tác có hành vi xâm phạm tới các quan hệ xã hội
37
được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ thì phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên, không phải mọi trường hợp người nước ngoài phạm tội theo pháp luật hình
sự Việt Nam thì hình phạt trục xuất sẽ luôn áp dụng bình đẳng như nhau. Bởi vì,
theo quy định tại khoản 2 Điều 5 BLHS năm 2015 thì đối với người nước ngoài
phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng
được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo
điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc
theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo
quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước
quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự
của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Theo quy định tại Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn
thi hành hình phạt trục xuất thì người bị trục xuất có nghĩa vụ rời khỏi lãnh thổ Việt
Nam đúng thời hạn được ghi trong quyết định thi hành án, nếu không thuộc trường
hợp được kéo dài thời hạn. Tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam, chịu sự
quản lý, giám sát của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh; không được tự ý rời khỏi nơi
quản lý, giám sát do cơ quan quản lý xuất nhập cảnh chỉ định bằng văn bản; nộp các
giấy tờ cần thiết để thi hành án theo yêu cầu của cơ quan quản lý xuất nhập cảnh;
nhanh chóng chấp hành các nghĩa vụ khác và hoàn thành các thủ tục cần thiết để rời
khỏi lãnh thổ Việt Nam đúng thời hạn; tự chịu chi phí về phương tiện xuất cảnh.
Cũng giống như hình phạt tiền, hình phạt trục xuất vừa là hình phạt chính và
vừa là hình phạt bổ sung. Với tư cách là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt
Bộ luật Hình sự, nếu xếp theo thứ tự thì hình phạt trục xuất nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn và nặng hơn hình phạt cải tạo không giam giữ. Hình phạt trục xuất cũng nó
tính đặc thù riêng của nó là chủ thể mà nó hướng đến là người nước ngoài phạm tội
trên lãnh thổ Việt Nam.
Trục xuất không chỉ được quy định là hình phạt mà còn được quy định là
hình thức xử phạt được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Mặc dù đều buộc người nước ngoài phạm tội phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong
thời hạn nhất định nhưng hình phạt trục xuất và hình thức trục xuất có một số điểm
38
khác nhau cơ bản sau: Hình phạt trục xuất được ghi nhận trong hệ thống hình phạt
của BLHS Việt Nam được áp dụng đối với người nước ngoài phạm một trong các
tội được quy định trong BLHS Việt Nam, là một trong các biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước đối với người phạm tội. Về nguyên tắc, người phải
chịu hình phạt này phải mang án tích (mặc dù BLHS năm 2015 chưa quy định vấn
đề án tích cũng như xóa án tích đối với trường hợp bị áp dụng hình phạt chính là
trục xuất). Trong Luật xử lý vi phạm hành chính và các văn bản khác có liên quan
đến việc xử phạt vi phạm hành chính, hình thức xử phạt trục xuất là một trong các
biện pháp áp dụng đối với người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật hành
chính. Người bị áp dụng hình thức xử phạt hành chính trục xuất thì không phải chịu
án tích. Ngoài ra, Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng hình phạt trục xuất
đối với người phạm tội; còn chủ thể có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục
xuất theo thủ tục hành chính là Giám đốc Công an cấp tỉnh và Cục trưởng cục quản
lý xuất nhập cảnh (theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày
02/10/2013 quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải
người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp
luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất).
Tiểu kết chương 1
Từ những nội dung nghiên cứu tại chương I của Luận văn, tác giả rút ra một
số kết luận sau đây:
Thứ nhất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là những biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được áp dụng đối với người phạm tội,
có mức độ nghiêm khắc thấp hơn hình phạt tù có thời hạn, được BLHS quy định và
do Tòa án quyết định áp dụng nhằm tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội.
Thứ hai, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình
phạt nói chung nên mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt. Ngoài ra, nó còn có
một số đặc điểm riêng biệt đó là không tước tự do của người bị kết án và mức độ
nghiêm khắc thấp hơn so với hình phạt tù có thời hạn.
39
Thứ ba, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù ở Việt Nam gồm có bốn
hình phạt đó là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất. Các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có vai trò quan trọng bởi pháp luật hình sự Việt
Nam ngày càng chuyển dịch theo hướng đảm bảo tính nhân đạo, tăng cường bảo
đảm quyền con người nhằm phù hợp với yêu cầu của Hiến pháp năm 2013, các
Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và xu hướng chung của pháp luật hình
sự hiện nay trên thế giới. Các hình phạt này đã góp phần làm phong phú, đa dạng hệ
thống hình phạt nói chung và hình phạt chính nói riêng, đáp ứng yêu cầu xử lý tội
phạm một cách khách quan, chính xác làm cơ sở nền tảng cho việc quyết định hình
phạt của Tòa án, đảm bảo được sự phân hóa trách nhiệm hình sự, xét xử một cách
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
40
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ
HƠN HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TẠI TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NÀY
2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
2.1.1 Khái quát một số đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh được tái lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, có diện tích
822,7 Km2 là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam, nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thủ
đô Hà Nội, trong tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Theo niên giám thống kê tháng 12/2018, dân số Bắc Ninh là 1.247.454 người, là địa
phương có mật độ dân số đứng thứ 03/63 tỉnh, thành phố. Tỉnh có 8 đơn vị hành
chính, bao gồm: Thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn và 6 huyện: Tiên Du, Yên
Phong, Thuận Thành, Quế Võ, Gia Bình và Lương Tài với 126 đơn vị hành chính
cấp xã, trong đó có 94 xã, 26 phường và 6 thị trấn. Sau hơn 20 năm tái lập, từ một
tỉnh nông nghiệp thuần túy, đến nay Bắc Ninh đã cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp
theo hướng hiện đại, với nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đứng trong tốp đầu cả
nước. Kinh tế trong năm 2019 phát triển toàn diện, tổng sản phẩm (GRDP) tăng nhẹ
1,1% với quy mô tiếp tục duy trì vị trí thứ 7 toàn quốc, đạt 119.832 tỷ đồng (giá so
sánh năm 2010). Thu nhập bình quân đầu người đạt 73,3 triệu đồng, đứng thứ 5 cả
nước. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong xã
hội cũng trở lên rõ rệt, tạo ra những mâu thuẫn, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng,
hoạt động tội phạm ngày càng tinh vi.
Trong điều kiện chung của đất nước, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh có sự
phát triển, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có chiều hướng gia tăng,
tính chất và mức độ phạm tội cũng như hình thức sử dụng ngày càng tinh vi và đa
dạng hơn. Diễn biến của tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh đã và đang gây ra
những tác hại về kinh tế - chính trị - xã hội; ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân
dân và truyền thống đạo đức cũng như hình ảnh của vùng quê Kinh Bắc văn hiến
lâu đời. Những điều kiện tự nhiên, sự chuyển biến về kinh tế - văn hóa – xã hội
trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật trong
41
hoạt động xét xử vụ án hình sự nói chung và việc áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
Trong 05 năm từ năm 2016 đến năm 2020, hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc
Ninh đã xét xử sơ thẩm tổng số 7176 vụ án, 11915 bị cáo, trong đó Tòa án áp dụng hình
phạt chính là các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với 592 bị cáo, Tòa án
áp dụng hình phạt chính là tù có thời hạn (bao gồm cả các trường hợp Tòa án cho hưởng
án treo) hoặc tù chung thân hoặc tử hình đối với 11323 bị cáo, chi tiết theo bảng:
Bảng 2.1 Thống kê áp dụng hình phạt chính tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc
Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
Năm
Số bị
Hình phạt chính nhẹ hơn hình
Hình phạt tù có thời hạn, tù
cáo
phạt tù
chung thân, tử hình
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
2016
1825
81
1744
96,6%
4,4%
2017
2461
110
95,5%
4,5%
2351
2018
2659
120
2539
95,5%
4,5%
2019
2287
115
2172
95,0%
5,0%
2020
2683
166
2517
93,8%
6,2%
Tổng
11915
592
11323
95%
5,0%
(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)
Bảng 2.2: Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù tại Tòa
án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
42
Hình phạt
Hình phạt cải tạo
Hình phạt tiền
Trục xuất
cảnh cáo
không giam giữ
Số bị
Năm
cáo
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
2016
1825
0%
79
4,3%
2
0
0,1%
0
0%
2017
2461
0%
108
4,4%
2
0
0,1%
0
0%
2018
2659
0%
117
4,4%
3
0
0,1%
0
0%
2019
2287
0%
108
4,7%
7
0
0,3%
0
0%
5
0,4%
0
0%
2020
2683
0,2%
150
5,6%
11
(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)
Bảng 2.3. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù theo
nhóm tội tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2020
STT
Nhóm tội
(Số bị
(Số bị
(Số bị
(Số bị
(Số bị
cáo)
cáo)
cáo)
cáo)
cáo)
1
Xâm phạm sở hữu
3
0
3
9
11
Xâm phạm tính
mạng, sức khỏe,
0
2
1
1
0
5
nhân phẩm, danh
dự của con người
Xâm phạm an toàn
3
công cộng, trật tự
74
108
114
104
143
công cộng
Xâm phạm trật tự
1
4
0
1
0
1
quản lý hành chính
Xâm phạm trật tự
3
5
1
1
2
6
quản lý kinh tế
Khác
0
6
0
0
0
0
43
Tổng
81
110
120
115
166
(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)
Nhận xét chung:
Thứ nhất, qua bảng số liệu 2.1 thì thấy: Tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt
chính được áp dụng đối với người phạm tội trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm
2020 thì tổng số bị cáo được áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù là 592 bị
cáo, chiếm tỷ lệ 5,0% tổng số bị cáo bị áp dụng hình phạt. Tỷ lệ bị cáo được áp
dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn so với bị cáo bị áp dụng các
hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình và so với tổng số
bị cáo bị xét xử ở từng năm (từ 2016 đến 2020) đều nhỏ hơn 8% mặc dù trong hệ
thống hình phạt, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù chiếm 4/7 hình phạt chính
(tỷ lệ: 57%). Tỷ lệ này chênh lệch nguyên nhân chính do tỷ lệ áp dụng hình phạt tù
có thời hạn cao, chiếm trung bình khoảng 95%.
Tỷ lệ áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với
người phạm tội trong các năm gần đây mặc dù thấp nhưng có xu hướng tăng nhẹ,
đặc biệt vào các năm 2019, 2020.
Thứ hai, qua bảng số liệu 2.2 thì thấy: Tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người phạm tội trong giai
đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 thì hình phạt tiền có tỷ lệ áp dụng cao nhất, sau đó
là hình phạt cải tạo không giam giữ, tiếp đến là hình phạt cảnh cáo và cuối cùng là
hình phạt trục xuất. Trong đó hình phạt tiền chiếm tỷ lệ cao nhất và là hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn chủ yếu được áp dụng, tỷ lệ áp dụng hình
phạt tiền ở các năm đều trên 4%, trong khi tỷ lệ áp dụng các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn khác đều dưới 0,5%, trong đó thấp nhất là hình phạt
trục xuất chưa được áp dụng lần nào, hình phạt cảnh cáo chỉ đến năm 2020 mới
được áp dụng, trong các năm từ 2016 đến năm 2019 đều không được áp dụng.
Thứ ba, qua bảng số liệu 2.3 thì thấy trong tổng số bị cáo bị Tòa án hai cấp
tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 thì các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn chỉ được áp dụng ở 05 nhóm tội là xâm
phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người;
44
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công công;
xâm phạm trật tự quản lý hành chính; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trong đó
chủ yếu là áp dụng ở nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
(năm nào cũng chiếm tỷ lệ trên 85%) (chủ yếu là tội “Đánh bạc” và tội “Gá bạc”).
Ngoài ra, theo thống kê của Văn phòng Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh về
kết quả xét xử phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh thì không có bị cáo
nào mà đang áp dụng một trong các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn lại bị cấp phúc thẩm chuyển sang loại hình phạt tù có thời hạn và cũng không
có trường hợp nào tại cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt chính là tù có thời hạn, tù
chung thân hoặc tử hình mà cấp phúc thẩm chuyển hình phạt chính thành một trong
các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn mà chỉ có một số trường hợp
cấp sơ thẩm đang áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhưng không cho hưởng án treo,
cấp phúc thẩm chuyển thành hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án treo.
Kết quả khảo sát 50 bản án của hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cho
thấy việc áp dụng hình phạt và quyết định hình phạt cơ bản đều đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật về điều kiện, căn cứ và thủ tục áp dụng các loại hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đều đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên,
trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có điều kiện tại
Bắc Ninh vẫn còn một số ý kiến tranh luận.
Dưới đây, tác giả xin phân tích về việc áp dụng từng loại hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh trong thời gian từ năm
2016 đến năm 2020, cụ thể như sau:
*Đối với hình phạt cảnh cáo
Theo số liệu thống kê tại các bảng 2.2 và bảng 2.3 cho thấy: Tại Bắc Ninh,
trong các năm từ 2016 đến năm 2020, tỷ lệ áp dụng hình phạt cảnh cáo so với các
hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và so với tổng hình phạt chính là
rất thấp, từ năm 2016 đến năm 2019 hình phạt cảnh cáo đều không được áp dụng,
chỉ đến năm 2020 hình phạt này mới được áp dụng và cũng chỉ chiếm tỷ lệ 0,2%
trên tổng số bị cáo bị xét xử trong cùng năm.
45
Mặc dù, Điều 34 BLHS năm 2015 có quy định: “Cảnh cáo được áp dụng đối
với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến
mức miễn hình phạt”, tuy nhiên trong thực tiễn tại Bắc Ninh, hình phạt này rất ít
được áp dụng và nếu có được áp dụng thì cũng chỉ được áp dụng đối với người phạm
tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phạm tội và tội phạm thực hiện với lỗi vô ý.
Ví dụ 1: Bản án số 274/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 của Tòa án nhân dân
thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
Tóm tắt nội dung vụ án: Bùi Hữu Thanh là chủ Cửa hàng rửa xe Sonax, công
việc của Thanh là rửa xe và lau dọn xe theo yêu cầu của khách hàng. Khoảng 08 giờ
30 phút ngày 19/12/2018, khi Thanh đang rửa xe ô tô nhãn hiệu Mercedes của
khách hàng là công ty TNHH AS C&T thì có khách hàng khác là anh Trần Quang
Hiếu mang chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Cerato (là tài sản hợp pháp của Công ty
TNHH kiến trúc và nội thất BANIBOMES) đến để rửa. Do công việc bận nên anh
Hiếu đỗ xe tại sân rửa và đưa chìa khóa xe ô tô cho Thanh và bảo Thanh “Cháu để
xe ở đây, chú rửa xe cho cháu”. Sau khi rửa xong chiếc xe Mercedes trên cầu rửa,
Thanh ra vị trí chiếc xe Kia Cerato mở cửa và ngồi vào ghế lái, đồng thời gọi cho
anh Giang là nhân viên cửa hàng lên ngồi ghế phụ để hướng dẫn Thanh lái ô tô, vì
chưa được đào tạo lái xe nên Thanh bắt đầu đạp chân phanh để nổ máy thì xe vẫn
đứng im ở vị trí ban đầu, sau đó Thanh vào số tiến và nhả chân phanh nhưng do
đoạn dốc nên xe không di chuyển, thấy thế Thanh đạp chân ga nhưng do Thanh đạp
chân ga quá mạnh nên xe Kia Cerato do Thanh điều khiển lao thẳng về phía trước
và đâm vào đuôi xe Mercedes đang đỗ trên cầu rửa làm chiếc xe này lao về phía
trước và đâm vào tường, hậu quả làm 02 xe ô tô hư hỏng. Theo kết luận định giá tài
sản thì tổng thiệt hại hai xe ô tô là 271.800.000 đồng.
Bị cáo Thanh đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại có đơn đề
nghị giảm nhẹ hình phạt và xử lý bị cáo bằng hình thức thấp nhất.
Hội đồng xét xử đã căn cứ vào khoản 1 Điều 180; Điều 34; điểm b, i, s khoản
1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS. Tuyên bố bị cáo Bùi Hữu Thanh phạm tội “Vô ý
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản”. Xử phạt cảnh cáo bị cáo Bùi Hữu Thanh.
46
Trường hợp trên là một trong rất ít trường hợp được áp dụng hình phạt chính
là hình phạt cảnh cáo ở tỉnh Bắc Ninh, ngoài việc bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng,
nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thì bị cáo còn phạm tội với lỗi vô ý, đã khắc phục
toàn bộ thiệt hại, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, trong quá trình điều tra cũng
như tại phiên tòa người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Hình phạt cảnh cáo sở dĩ được áp dụng rất ít ở Bắc Ninh nói riêng và ở nước
ta nói chung là bởi: Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính, hình
phạt cảnh cáo không tước hoặc hạn chế quyền hay lợi ích cụ thể nào của người bị
kết án nên tính nghiêm khắc của hình phạt có phần hạn chế. Do vậy, mặc dù được
quy định trong BLHS nhưng trên thực tế hình phạt cảnh cáo rất khó phát huy được
tác dụng, các nhà áp dụng pháp luật chưa thấy tác dụng của hình phạt này trong
giáo dục cải tạo người phạm tội, thậm chí còn cho rằng áp dụng hình phạt cảnh cáo
coi như bị cáo không phải chịu hình phạt. Mặt khác trên thực tế người bị áp dụng
hình phạt cảnh cáo không khác biệt quá lớn với người được miễn hình phạt nên có
thể tạo tâm lý e ngại cho Tòa án khi áp dụng. Bên cạnh đó, tâm lý xã hội hiện nay
thường cho rằng áp dụng hình phạt cảnh cáo là khoan hồng, hoặc là biểu hiện của
tiêu cực nên có thể ảnh hưởng đến tâm lý của người áp dụng pháp luật. Tuy nhiên,
việc năm 2020, tại Bắc Ninh, hình phạt cảnh cáo đã được áp dụng (so với 04 năm
trước từ năm 2016 đến năm 2019) đã một phần khẳng định vai trò của loại hình phạt
này bởi lẽ mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn
giáo dục họ trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Do vậy, đối với một
số trường hợp cụ thể, hình phạt cảnh cáo vẫn thể hiện được vai trò riêng của nó so
với các loại hình phạt chính khác, nó thể hiện rõ nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.
Hơn nữa, trong một số trường hợp cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung mà nếu
không tuyên hình phạt chính thì Tòa án không được áp dụng hình phạt bổ sung. Có
lẽ cũng chính vì lẽ đó mà mặc dù đã có một số quan điểm cho rằng nên loại bỏ cảnh
cáo ra khỏi hệ thống hình phạt nhưng BLHS 2015 vẫn tiếp tục ghi nhận cảnh cáo là
một trong các hình phạt chính áp dụng đối với người phạm tội.
*Đối với hình phạt tiền
47
Tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù thì hình phạt
tiền là hình phạt được áp dụng nhiều nhất, nhiều hơn hẳn so với các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn khác, tỷ lệ áp dụng hình phạt chính là hình phạt
tiền mỗi năm (trong các năm từ 2016 đến 2020) đều trên 4% trong khi tỷ lệ áp dụng
các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn khác đều dưới 1%. Tỷ lệ áp
dụng hình phạt tiền là hình phạt chính có xu hướng tăng, trong hai năm trở lại đây:
2019, 2020 thì tăng nhiều hơn. Tuy nhiên, hình phạt tiền nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất
thấp trong thực tiễn áp dụng các hình phạt chính. Tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền là
hình phạt chính khoảng 4% là chưa đánh giá hết vai trò của hình phạt tiền, nếu so
sánh với tỷ lệ quy định hình phạt tiền trong chế tài của quy phạm pháp luật hình sự
thì BLHS năm 2015 có 95/314 (tỷ lệ 30,25%) điều luật có quy định hình phạt tiền là
hình phạt chính.
Mặt khác, hình phạt tiền được quy định là hình phạt chính trong rất nhiều tội
của BLHS, tuy nhiên, thực tiễn loại hình phạt này cũng chỉ được áp dụng chủ yếu
trong nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trong đó chiếm
phần lớn là tội “Đánh bạc” và tội “Gá bạc”.
Qua khảo sát một số bản án ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm
2020, có thể thấy việc áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền tại tỉnh Bắc Ninh
như sau:
Thứ nhất, hình phạt tiền chưa được quan tâm trong việc áp dụng là hình phạt
chính, rất nhiều trường hợp các bị cáo đủ điều kiện để áp dụng hình phạt chính là
hình phạt tiền và việc áp dụng hình phạt tiền là phù hợp hơn nhưng Tòa án lại áp
dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.
Ví dụ: Bản án số: 58/2017/HSST ngày 07/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện
Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Tóm tắt nội dung vụ án: Lợi dụng chủ trương, chính sách của nhà nước đối với
người có công với cách mạng, trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến năm 2006,
Nguyễn Văn Nở mặc dù biết rõ Trần Danh Trọng và Nguyễn Bá Sộ không đủ điều
kiện và tiêu chuẩn để xét duyệt làm chế độ thương binh theo quy định của nhà nước,
48
nhưng Nở vẫn móc nối với Lê Đình Thảo dùng thủ đoạn gian dối để hoàn thiện các
thủ tục, hồ sơ làm chế độ “thương binh giả” cho hai đối tượng trên. Tổng số tiền Nở
đã giúp Trọng và Sộ chiếm đoạt của nhà nước là 119.329.000đ.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải và đã tự nguyện nộp lại một phần số tiền thu lời bất chính; ngoài
ra bị cáo còn có thời gian tham gia quân ngũ, tự nguyện ra đầu thú và có anh trai là
liệt sỹ nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, p
khoản 1 và 03 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 của BLHS.
Hội đồng xét xử đã: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Nở phạm tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”; áp dụng điểm e khoản 2 Điều 139; điểm b, p khoản 1, khoản 2
Điều 46; điểm i khoản 1 Điều 48; Điều 60 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn
Văn Nở 30 (Ba mươi) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60
tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Nhận xét: Từ bản án trên ta thấy, trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Văn Nở có
đủ điều kiện để áp dụng hình phạt chính là phạt tiền; bị cáo có nhiều tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự. Mặt khác, mục đích phạm tội của bị cáo là lợi nhuận nên
theo quan điểm của tác giả, biện pháp trừng phạt có tính chất kinh tế là phạt tiền sẽ
phù hợp hơn trong trường hợp này, tất nhiên vẫn phải khẳng định lại một điều là
Tòa án xử như vậy là không sai.
Thứ hai, BLHS năm 2015 có quy định, khi quyết định mức phạt tiền đối với
người phạm tội, Tòa án phải xét đến tình hình tài sản, khả năng thi hành của người
phạm tội. Tuy nhiên, tại Bắc Ninh, trong quá trình xây dựng hồ sơ vụ án các cơ
quan tiến hành tố tụng đều không xem xét đến vấn đề này, trong hồ sơ vụ án thường
không có bút lục nào thể hiện về vấn đề này, trong bản án của Tòa án cũng không
đề cập tới nội dung này.
Ví dụ 3: Bản án số 76/2020/HS-ST ngày 20/3/2020 của Tòa án nhân dân thị
xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng 17 giờ ngày 05/02/2020, bị cáo Nguyễn Văn
H đã sử dụng máy trò chơi điện tử “bắn cá” của quán X – Game để đánh bạc với các
49
đối tượng Nguyễn Văn H 200.000 đồng, Nguyễn Khánh Đ 100.000 đồng, Nguyễn
Văn A1 3.100.000 đồng, Trần Văn C1 2.500.000 đồng, Nguyễn Văn T2 200.000
đồng, Dương Văn C 100.000 đồng, Vi Văn T1 100.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo
đánh bạc với các đối tượng là 6.300.000 đồng.
Đối với bị cáo Nguyễn Văn H, HĐXX đã tuyên bị cáo Nguyễn Văn H phạm
tội “Đánh bạc” và xử phạt bị cáo 25.000.000 đồng. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án,
trong bản án và trong biên bản phiên tòa đều không thể hiện tình hình tài sản cũng
như khả năng thi hành của bị cáo H. Do vậy, không thể nói là HĐXX đã xem xét
đến tình hình tài sản và khả năng thi hành của bị cáo đã quyết định xử phạt bị cáo
25.000.000 đồng.
Thứ ba, khác với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 không quy định việc Tòa
án ấn định trong bản án việc nộp tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần
trong thời hạn. Tuy nhiên, tại Bắc Ninh, một số trường hợp Tòa án vẫn ấn định việc
nộp tiền phạt trong bản án, việc ấn định này theo tác giả là cần thiết. Tuy nhiên, có
những trường hợp, Tòa án ấn định việc bị cáo phải nộp số tiền phạt khá lớn và phải
thực hiện trong một lần nhưng trong hồ sơ vụ án và trong quá trình xét xử không có
tài liệu thể hiện tình hình tài sản của bị cáo để chứng minh khả năng thi hành án.
Ví dụ 4: Bản án số: 04/2020/HSST ngày 07/02/2020 của Tòa án nhân dân
huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Nội dung vụ án: Hoàng Thị Lành và Lê Quang Ngận có thỏa thuận trước với
nhau về việc đánh bạc dưới hình thức chơi số lô, số đề. Theo đó Ngận sẽ ghi các số
lô, số đề của người chơi rồi tổng hợp lại thành các tờ cáp, sau đó chụp ảnh và gửi
hình ảnh các tờ cáp lô, cáp đề cho Lành qua ứng dụng Zalo. Ngày 30/12/2019,
Ngận đã ghi số lô, số đề cho nhiều người khác nhau và tổng hợp trên 04 tờ cáp để
gửi cho Lành theo thỏa thuận. Đến 18 giờ 10 phút ngày 30/12/2019, khi Ngận đã
chuyển thành công các tờ cáp số 01, 02, 04 cho Lành và Lành đã nhắn tin xác nhận,
còn tờ cáp số 03 thì Ngận chưa kịp chuyển cho Lành thì bị phát hiện và bắt quả
tang. Tổng số tiền đánh bạc trên tờ cáp số 01, 02, 04 là: 36.352.500 đồng. Tổng số
tiền đánh bạc trên cả bốn tờ cáp 01, 02, 03, 04 là: 42.440.000 đồng.
50
Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tính đến thời
điểm phạm tội lần này đều là người có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Các
bị cáo đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần
đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo; bị cáo Ngận sau khi
phạm tội đã tự nguyện nộp đủ số tiền đánh bạc để thể hiện sự ăn năn hối cải, có em
trai ruột là liệt sỹ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại
điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
HĐXX đã tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị Lành, Lê Quang Ngận phạm tội
“Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 (bị cáo Ngận áp
dụng thêm khoản 2 Điều 51); Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Hoàng Thị Lành
75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu đồng). Xử phạt: Lê Quang Ngận 70.000.000đ (bảy
mươi triệu đồng). Nộp làm một lần trong vòng một tháng kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật để sung vào ngân sách nhà nước.
Nhận xét: Trong vụ án trên việc Tòa án áp dụng hình phạt chính là phạt tiền và
mức phạt tiền đối với từng bị cáo là hợp lý. Tuy nhiên việc ấn định các bị cáo phải
thi hành hình phạt tiền trong vòng một tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật là chưa đủ căn cứ, chưa có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện khả năng thi hành án
của các bị cáo. Có chăng nếu trong hồ sơ vụ án không thể hiện thì Hội đồng xét xử
nên làm rõ nội dung này tại phiên tòa và ghi rõ vào trong biên bản phiên tòa.
*Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ
Từ các bảng số liệu 2.2 và 2.3 cho thấy, tại Bắc Ninh, trong số các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tỷ lệ áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ đứng thứ hai, chỉ sau tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền và tỷ lệ áp dụng loại hình phạt
chính này chênh lệch khá lớn so với tỷ lệ áp dụng hình phạt tiền. Tỷ lệ áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ trong các năm từ 2015 đến 2020 theo thứ tự như sau:
0,1% (2016); 0,1% (2017); 0,1% (2018); 0,3% (2019); 0,4% (2020). Nhìn chung tỷ
lệ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ tại Bắc Ninh thấp nhưng có xu hướng
tăng dần trong các năm gần đây.
51
Mặc dù hiện nay pháp luật hình sự nước ta đã mở rộng phạm vi và điều kiện
áp dụng hình phạt này, cũng như xem trọng việc cải tạo, giáo dục hơn trừng trị, tuy
nhiên việc áp dụng loại hình phạt chính này tại Bắc Ninh vẫn chưa được quan tâm
đúng mức. Thực tiễn nghiên cứu một số vụ án hình sự được xét xử trong thời gian
qua tại hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh, tác giả thấy rằng:
Thứ nhất, có nhiều trường hợp người phạm tội có đủ các điều kiện để được
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng HĐXX không lựa chọn loại hình
phạt này mà lại xử phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo. Như đã phân tích ở phần
chương I, mặc dù cũng không bắt người phạm tội cách ly khỏi xã hội nhưng hình
phạt cải tạo không giam giữ khác với hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và hình
phạt này nhẹ hơn hình phạt tù cho hưởng án treo.
Ví dụ: Bản án số: 39/2019/HS - ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân
huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Tóm tắt nội dung vụ án: Trong khoảng thời gian từ 21 giờ đến 22 giờ ngày
25/02/2019, tại phòng ngủ tầng hai nhà ở của anh Vũ Cao Sao ở thôn Ích Phú, xã
Song Giang, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Văn Thủy, Vũ Cao Thế, Vũ
Cao Bẩy, Vũ Cao Sàn, Ngô Văn Lâm đã đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình
thức đánh “liêng” với tổng số tiền dùng để đánh bạc là 7.650.000 đồng.
Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tính đến
trước thời điểm phạm tội lần này đều chưa có tiền án. Bị cáo Thủy đã từng bị xử
phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”, mặc dù đã được xóa nhưng vẫn bị coi là có
nhân thân xấu; các bị cáo còn lại đều có nhân thân tốt. Các bị cáo đều có hai tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm
trọng; thành khẩn khai báo; bị cáo Thủy, Thế, Sàn có thêm tình tiết tham gia quân
ngũ, hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các
bị cáo đều có nơi cư trú rõ ràng, tội phạm mà các bị cáo thực hiện là do nhất thời,
hoàn cảnh phạm tội là khi nhà trong họ có ma chay, các bị cáo ở lại để phụ giúp.
52
Hội đồng xét xử đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Thủy, Vũ Cao Thế, Vũ
Cao Bẩy, Vũ Cao Sàn, Ngô Văn Lâm phạm tội “Đánh bạc” và áp dụng hình phạt
chính là phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với cả 05 bị cáo.
Nhận xét: Từ bản án trên ta thấy, các bị cáo trong vụ án này đều đủ điều kiện
để áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ, trừ bị cáo Thủy có nhân thân
xấu (có tiền sự nhưng đã được xóa), các bị cáo khác đều có nhân thân tốt; các bị cáo
đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ, số tiền đánh bạc không lớn; các bị cáo đều có nơi
cư trú rõ ràng. Do vậy, theo tác giả trong trường hợp này Tòa án hoàn toàn có thể áp
dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ.
Thứ hai, việc cá thể hóa hình phạt trong một số vụ án có đồng phạm chưa cao.
Trong quá trình xét xử các vụ án hình sự có đồng phạm, vai trò của các bị cáo trong
các vụ án này khác nhau, đặc biệt là giữa bị cáo có vai trò chính và bị cáo có vai trò
thứ yếu nhưng khi quyết định hình phạt HĐXX lại không cá thể hóa hình phạt bằng
cách áp dụng các hình phạt chính khác nhau mà thường lựa chọn việc áp dụng hình
phạt chính là phạt tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian khác nhau (Đây là thực
trạng chung trong việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
tại Bắc Ninh).
Ví dụ: Bản án số: 39/2019/HS - ST ngày 30/5/2019 của Tòa án nhân dân
huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (nêu trên).
Nhận xét: Đây là vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn. Các bị
cáo nhất thời phạm tội, không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau trong quá
trình thực hiện tội phạm do vậy không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Các bị
cáo có vai trò chênh lệch không lớn, tuy nhiên bị cáo Thủy là người có nhân thân
xấu, do vậy HĐXX hoàn toàn có thể áp dụng các hình phạt chính khác nhau để cá
thể hóa hình phạt. Ví dụ bị cáo Thủy áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam
giữ, các bị cáo còn lại áp dụng hình phạt chính là phạt tiền.
Thứ ba, BLHS năm 2015 cho phép áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
đối với những trường hợp có nhân thân xấu (ví dụ như: có tiền sự), tuy nhiên, thực
tiễn khảo sát tại Bắc Ninh, rất ít trường hợp bị cáo có nhân thân xấu là được áp
53
dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ (hoặc một trong các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn khác). Dưới đây là một trong số ít bản án mà bị
cáo có nhân thân xấu được áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ (đặc
điểm này áp dụng đối với cả việc áp dụng hình phạt chính là phạt tiền).
Ví dụ: Bản án số 36/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện
Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Tóm tắt nội dung vụ án: Vào ngày 02/8/2018, Nguyễn Văn Tuấn đã cùng với
Nguyễn Viết Diện, Lưu Văn Đăng, Bùi Văn Tú chơi đánh bạc ăn tiền dưới hình
thức “tiến lên Miền Nam” tại đường ngách cạnh nhà chị Nguyễn Thị Ngọc ở thôn
Cao Thọ, xã Vạn Ninh, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Tổng số tiền thu trên người
bị cáo và các đối tượng mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc
là: 1.170.000 đồng (Một triệu một trăm bẩy mươi nghìn đồng). Mặc dù, số tiền này
dưới mức 5.000.000 đồng nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi “Đánh bạc” lần
này, Nguyễn Văn Tuấn đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc
– đây là tình tiết định tội.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS. Trong quá trình điều tra cũng như
tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo
quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 BLHS.
HĐXX đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tuấn phạm tội “Đánh bạc”. Áp
dụng: khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 36 Bộ luật hình sự. Xử
phạt Nguyễn Văn Tuấn 10 (Mười) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo
không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người
bị kết án (UBND xã Vạn Ninh, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) nhận được quyết
định thi hành án.
Nhận xét: trong vụ án trên, bị cáo Nguyễn Văn Tuấn đã cùng các đối tượng
khác thực hiện hành vi đánh bạc nhưng tổng số tiền đánh bạc ít, trong đó số tiền bị
cáo sử dụng vào việc đánh bạc là ít nhất, các bị cáo khác không bị truy cứu TNHS
mà chỉ bị xử phạt hành chính, việc bị cáo bị truy cứu TNHS là do trước đó bị cáo đã
54
có một tiền sự về hành vi đánh bạc. Mặt khác, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tội
phạm mà bị cáo thực hiện là do nhất thời, bị cáo có cư trú rõ ràng. Do vậy, việc bị
cáo Tuấn mặc dù có nhân thân xấu nhưng HĐXX vẫn áp dụng hình phạt chính là
cải tạo không giam giữ đối với bị cáo là phù hợp.
Thứ tư, việc ấn định thời gian cải tạo không giam giữ trong các vụ án chưa
có sự thống nhất.
Ví dụ: Bản án số: 36/2018/HSST ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân
huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (nêu trên), HĐXX đã xử phạt Nguyễn Văn Tuấn 10
(Mười) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày
cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định
thi hành án.
Tuy nhiên, cũng cùng là Tòa án nhân dân huyện Gia Bình xét xử, tại Bản án
số 09/2016/HSST ngày 15/4/2016, HĐXX đã tuyên bố các bị cáo Lê Văn Lân, Trần
Thị Hằng, Hồ Thị Chuyển, Ngô Văn Hà, Nguyễn Đình Thành, Nguyễn Thị Lan
phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”; tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Hiền,
Nguyễn An Nam, Nguyễn Quang Điệp, Bùi Thị Nhung phạm tội “trốn thuế” và
trong đó có hai bị cáo là Nguyễn Quang Điệp và Bùi Thị Nhung được áp dụng hình
phạt chính là “cải tạo không giam giữ” nhưng thời gian cải tạo không giam giữ lại
được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Thứ năm, về việc khấu trừ thu nhập, trong một số vụ án tại tỉnh Bắc Ninh,
khi áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ, Tòa án không buộc các bị
cáo phải khấu trừ thu nhập nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho lý do
mà Tòa án không khấu trừ thu nhập.
Ví dụ: Tại Bản án số: 36/2018/HSST ngày 11/9/2018 và bản án số
09/2016/HSST ngày 15/4/2016 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
(nêu trên), HĐXX đều không khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo bị áp dụng hình
phạt chính là cải tạo không giam giữ với lý do là các bị cáo không có nguồn thu nhập
ổn định, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào chứng
55
minh về vấn đề này. Hơn nữa, việc HĐXX không khấu trừ thu nhập với các bị cáo
với lý do không có nguồn thu nhập ổn định theo quan điểm của tác giả là chưa hợp lý.
*Đối với hình phạt trục xuất
Hình phạt trục xuất là hình phạt dành cho đối tượng là người nước ngoài.
Chính sách hội nhập với thế giới của nước ta đã tạo điều kiện cho người nước ngoài
đến Việt Nam du lịch, đầu tư, kinh doanh và làm việc ngày càng nhiều, tạo ra nhiều
thay đổi nhất định về kinh tế, văn hóa, xã hội. Bắc Ninh cũng là một địa bàn thu hút
đầu tư trong cả nước, tuy nhiên thực tiễn xét xử từ năm 2016 đến năm 2020, tại tỉnh
Bắc Ninh chưa có trường hợp nào áp dụng hình phạt chính là trục xuất. Điều đó cho
thấy hình phạt trục xuất với tư cách là hình phạt chính chưa thực sự phát huy được
vai trò của mình.
2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Những vướng mắc về pháp luật hình sự trong quá trình áp dụng
các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh
*Đối với hình phạt tiền
Thứ nhất, hình phạt tiền vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung tuy
nhiên quy định của BLHS chưa có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là
hình phạt chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt. Về
nguyên tắc hình phạt chính phải có mức độ nghiêm khắc hơn hình phạt bổ sung, nên
khi quy định về hình phạt tiền phải có sự phân định rõ ràng. Có như vậy mới thực
hiện triệt để nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong khi áp dụng hình phạt tiền đối
với người phạm tội. Tuy nhiên, mức phạt tiền giữa hình phạt chính và hình phạt bổ
sung ở một số tội không có chênh lệch quá nhiều. Ví dụ: Đối với tội “Đánh bạc”
theo quy định Điều 321 BLHS năm 2015 thì mức thấp nhất của khung hình phạt khi
áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền là 20.000.000 đồng, trong khi đó hình phạt
tiền là hình phạt bổ sung đã có mức khởi điểm là 10.000.000 đồng và tối đa là
50.000.000 đồng tức là hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung có mức phạt
đôi khi cao hơn cả hình phạt tiền với tư cách là hình phạt chính. Vì vậy có quan
56
điểm cho rằng: “Cần có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là hình phạt
chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt… Cụ thể phải quy
định rõ mức tối thiểu và tối đa của phạt tiền với tính chất là hình phạt chính phải
cao hơn mức tối thiểu và tối đa của phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung”[32;
Tr.274-276]. Tác giả cho rằng quan điểm trên là hợp lý vì về bản chất, hình phạt bổ
sung chỉ là hỗ trợ, củng cố hiệu lực của hình phạt chính, do vậy, mức độ nghiêm
khắc không thể ngang bằng với hình phạt chính.
Thứ hai, về căn cứ quyết định mức phạt tiền: Khoản 3 Điều 30 BLHS năm
2015 và Khoản 2 Điều 50 BLHS năm 2015 quy định để quyết định mức phạt tiền
đối với người phạm tội, Tòa án phải xét đến tình hình tài sản, khả năng thi hành của
người phạm tội. Tuy nhiên, tình hình tài sản và khả năng thi hành của người phạm
tội được xác định bằng cách nào thì lại không có quy định cụ thể. Do đó, đối với
những trường hợp người phạm tội không có nghề nghiệp ổn định, là lao động tự
do… mức thu nhập của họ không thể xác định một cách cụ thể, dẫn đến việc thì khi
tuyên mức phạt tiền đối với người phạm tội, Tòa án không thể đưa ra một mức phạt
tiền phù hợp nhất với tình hình tài sản của người phạm tội. Nếu như mức phạt tiền
cao so với tình hình tài sản của người phạm tội sẽ dẫn đến việc khó thi hành trên
thực tế, ngược lại, trường hợp mức phạt tiền thấp không đảm bảo được tính nghiêm
minh, răn đe của hình phạt.
Thứ ba, việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam khi áp dụng hình phạt
chính là phạt tiền.
Các hình phạt chính khác như tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ đều quy
định việc khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành án. Riêng
hình phạt chính là phạt tiền lại không quy định về việc khấu trừ này. Để đảm bảo
quyền lợi chính đáng của người phạm tội, việc khấu trừ thời gian tạm giam, tạm giữ
đối với hình phạt tiền là cần thiết. Về vấn đề này cần có quy định cụ thể về cách
khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam của người phạm tội, mức khấu trừ là bao nhiêu
cũng cần tính toán kỹ lưỡng sao cho vừa phù hợp với quy định khác của pháp luật
vừa đảm bảo tính công bằng.
57
Thứ tư, hiện nay tại một số điều luật trong phần các tội phạm còn quy định
khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một khung hình phạt quá
rộng. Điều này không đảm bảo nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, đồng thời
có thể tạo cơ sở cho sự tùy tiện trong việc áp dụng hình phạt này.
Ví dụ: Về tội “Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam” tại khoản 1 Điều
239 BLHS năm 2015 có mức phạt tiền khi áp dụng là hình phạt chính tối thiểu là
200.000.000 đồng trong khi tối đa là 1.000.000.000 đồng (chênh lệch 800.000.000
đồng). Do đó, có quan điểm cho rằng: “Cần thu hẹp khoảng cách giữa mức tối thiểu
và tối đa trong một số điều luật hoặc phân hóa chúng trong các khung hình phạt
khác nhau như đối với hình phạt tù có thời hạn, tạo điều kiện cho việc quyết định
một hình phạt nghiêm khắc và công bằng”[18, tr.42]. Tác giả đồng ý với quan điểm
trên và cho rằng BLHS cần khắc phục hạn chế này.
Thứ năm, việc dẫn chiếu tại Điều 35 BLHS về hình phạt tiền chưa khớp với
các quy định khác trong BLHS.
Cụm từ “trật tự công cộng, an toàn công cộng” tại Điểm b khoản 1 Điều 35
BLHS 2015 chưa khớp với tên nhóm tội “an toàn công cộng, trật tự công cộng” được
quy định tại Chương 21 BLHS 2015. Do vậy, cần chỉnh sửa lại cho thống nhất.
Thứ sáu, chưa có quy định về việc chuyển đổi giữa hình phạt tiền với hình
phạt khác nếu người phạm tội không chấp hành hình phạt tiền.
Hiện nay, pháp luật ở một số nước trên thế giới có quy định về việc nếu
người phạm tội không chấp hành hình phạt chính là phạt tiền mặc dù đã áp dụng
nhiều biện pháp cưỡng chế thì sẽ bắt họ phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn với
mức quy đổi tương ứng. Ví dụ như quy định của BLHS Pháp: "...trong trường hợp
người bị kết án không nộp tiền phạt, theo quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa
Pháp, người bị kết án bị áp dụng biện pháp giam giữ tại nhà (tù tại gia). Tùy thuộc
vào số lượng tiền phạt, thời hạn giam giữ được ấn định từ 5 ngày đến 2 tháng...
[50, tr.257]. Việc pháp luật hình sự Việt Nam chưa có quy định về vấn đề này, dẫn
đến việc nhiều trường hợp không thể thi hành hình phạt trên thực tế, điều này sẽ làm
giảm hiệu quả của hình phạt.
58
* Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ
Thứ nhất, như đã trình bày ở phần thực trạng, tại Bắc Ninh về thời điểm tính
thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ chưa có sự thống nhất giữa các
Tòa án mà thậm chí là giữa các Thẩm phán trong cùng một Tòa án cũng chưa có sự
thống nhất. Hiện nay, vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau về vấn đề này như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thời điểm này cần tính từ ngày tuyên án sơ
thẩm (hoặc tính từ ngày tuyên án phúc thẩm nếu Tòa án phúc thẩm áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ).
Quan điểm thứ hai cho rằng: Thời điểm này được tính từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật (tức là ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị đối với bản án sơ thẩm
hoặc ngày tuyên án phúc thẩm).
Quan điểm thứ ba cho rằng: Thời điểm này được tính từ ngày cơ quan, tổ chức
được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án.
Thứ hai, về việc miễn việc khấu trừ thu nhập: Pháp luật hình sự có quy định
trong những trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập và
phải ghi rõ lý do trong bản án. Tuy nhiên, do Luật và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật đều không có quy định cụ thể như thế nào là trường hợp đặc biệt, việc
này đã dẫn đến việc áp dụng tùy tiện đối với việc khấu trừ thu nhập nói chung và
miễn việc khấu trừ thu nhập nói riêng. Tại Bắc Ninh, một số bản án không áp dụng
việc khấu trừ thu nhập đối với người phạm tội trong khi hồ sơ vụ án không có bất
cứ tài liệu nào chứng minh liên quan đến vấn đề này, thậm chí trong biên bản phiên
tòa cũng không thể hiện việc Hội đồng xét xử có hỏi đến vấn đề này, trong bản án
cũng thường chỉ nhận định chung chung lý do miễn việc khấu trừ thu nhập là do bị
cáo không có thu nhập ổn định.
Thứ ba, về điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
Một trong các điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là“nếu xét
thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội”, đây là điều kiện
mang tính định tính, phụ thuộc vào sự đánh giá của Hội đồng xét xử. Việc không có
văn bản hướng dẫn gây khó khăn cho Tòa án trong việc áp dụng loại hình phạt này
59
cũng như làm cho loại hình phạt này ít được áp dụng tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và
trên cả nước nói chung.
* Đối với hình phạt trục xuất
Hình phạt trục xuất được quy định trong BLHS năm 2015 là một trong các
hình phạt chính. Tuy nhiên, Điều 37 BLHS năm 2015 lại không quy định những
điều kiện, tiêu chí cụ thể để áp dụng hình phạt trục xuất, đồng thời cũng không quy
định hình phạt này tại các điều luật cụ thể của phần các tội phạm. Điều đó có nghĩa,
khi người nước ngoài phạm bất cứ một tội danh nào được quy định trong BLHS đều
có thể bị áp dụng loại hình phạt này. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, trên cơ sở sự
cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau, Tòa án sẽ vận dụng điều luật để đưa ra quyết định
việc áp dụng hình phạt trục xuất đối với người phạm tội. Vấn đề này cũng có ý kiến
trái chiều, có ý kiến cho rằng “BLHS năm 2015 nên có quy định về hình phạt trục
xuất được áp dụng với những tội danh nào”[29, tr.19]. Tuy nhiên cũng có quan
điểm ngược lại là: “Điều này là không cần thiết, vì tính phức tạp trong việc xử lý
người phạm tội là người nước ngoài, nên có thể coi đây là trường hợp ngoại lệ. Tòa
án có thể căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của từng bị cáo đối với từng
vụ án mà toàn quyền quyết định áp dụng hay không áp dụng hình phạt này đối với
bị cáo là người nước ngoài”[50, tr.23]. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, việc
BLHS không quy định những điều kiện, tiêu chí cụ thể, phạm vi áp dụng để áp dụng
hình phạt trục xuất cũng là một phần nguyên nhân dẫn đến việc hình phạt trục xuất
rất ít được áp dụng trên thực tế.
2.2.2. Những vướng mắc, tồn tại khác trong thực tiễn áp dụng các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
Thứ nhất, công tác giải thích hướng dẫn áp dụng pháp luật trong hoạt động
áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại Tòa án nhân dân
còn nhiều hạn chế.
Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao đã có rất nhiều văn bản hướng
dẫn áp dụng pháp luật như: Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
60
của BLHS trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ, Nghị
quyết số 07/2019/NQ-HĐTP ngày 25/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 299 và Điều 300 của
BLHS…tuy nhiên vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào về việc áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn để hướng dẫn áp dụng những vấn đề vướng
mắc về pháp luật hình sự như đã nêu ở mục 2.2.1. Điều đó dẫn đến nhận thức về
việc hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn của các Thẩm phán ở Bắc
Ninh nói riêng ở với nước ta nói chung còn khác nhau nên việc áp dụng loại hình
phạt này cũng khác nhau.
Mặc dù không có nhiệm vụ giải thích pháp luật, nhưng TAND tỉnh Bắc Ninh
cũng như các Tòa án cấp tỉnh khác đều có nhiệm vụ kiểm tra bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật. Trong quá trình đó, Tòa án tỉnh hoàn toàn có thể chỉ ra những
bản án, quyết định được áp dụng không thống nhất để từ đó thống nhất việc áp dụng
pháp luật nói chung và pháp luật về hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn trong một số trường hợp cụ thể, đảm bảo đường lối giải quyết vụ án. Hoặc trong
những buổi đào tạo, tập huấn, Tòa án tỉnh Bắc Ninh cũng có thể lồng ghép các nội
dung về việc áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên,
công tác này tại Bắc Ninh chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ hai, về chủ thể áp dụng pháp luật
Chất lượng của đội ngũ Thẩm phán: Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về
cải cách tư pháp, trong đó xác định “Toà án là trung tâm, xét xử là hoạt động trọng
tâm”, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh,
chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần cải cách tư pháp tại
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” là vô
cùng cấp thiết. Trong những năm gần đây, đội ngũ Thẩm phán ở Bắc Ninh đã được
bổ sung về số lượng cũng như nâng cao về chất lượng về chính trị, đạo đức, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh, kinh nghiệm xã hội và thực tiễn công tác nhằm
mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo
61
vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.
Tuy nhiên, do BLHS hiện hành mới được áp dụng trong thực tiễn nên có một
số quy định trong đó có các quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn quan điểm của các Thẩm phán còn khác nhau dẫn đến việc áp dụng pháp
luật chưa thống nhất. Một số quan điểm rằng để việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù được thực thi trên thực tế nhiều hơn có chăng nên quy định rõ ràng
về những trường hợp “phải áp dụng” các loại hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn, theo tác giả là không nên vì pháp luật hình sự đã có hướng “mở”, việc có áp
dụng hay không phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nó cũng là cái “tài” và cái
“tầm” của người áp dụng pháp luật. Do vậy, cần tập trung vào việc xây dựng đội ngũ
áp dụng pháp luật nói chung, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán riêng.
Về chế định Hội thẩm Tòa án nhân dân: Cũng như thực trạng chung trong cả
nước, tại Bắc Ninh, Hội thẩm nhân dân là lực lượng kiêm nhiệm, trình độ pháp lý
không cao, không chuyên nghiệp nhưng luôn là số đông trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án và ngang quyền với Thẩm phán theo quy định pháp luật. Trong quá
trình xét xử, ý kiến của các Hội thẩm thường phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa. Chính những bất cập nêu trên của chế định Hội thẩm Tòa án nhân
dân đã và đang là một trong những bất cập trong việc áp dụng pháp luật nói chung
và việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng.
Thứ ba, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn chưa được quan tâm.
Tại tỉnh Bắc Ninh, so với các quy định pháp luật về hình phạt tù có thời hạn,
các quy định pháp luật về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được
cộng đồng biết đến rất ít. Nếu nói đến hình phạt mà được giáo dục, cải tạo tại địa
phương, đa phần mọi người đều nghĩ đến hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng
án treo mà ít người nghĩ đến hình phạt cải tạo không giam giữ; hình phạt cảnh cáo,
phạt tiền thì lại cho rằng là xử phạt hành chính. Một trong các nguyên nhân mà các
hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ít được áp dụng tại Bắc Ninh là do
nhận thức của người dân ở đây về các quy định này còn hạn chế nên khi Tòa án áp
62
dụng loại hình phạt này còn có một số quan điểm cho rằng xử sai, có tiêu cực… mà
mạng xã hội ngày càng phát triển, đa phần các bản án đều được đăng công khai trên
cổng thông tin điện tử của Tòa án, đặc biệt là đối với những vụ án mà dư luận quan
tâm thì HĐXX lại càng e ngại trong việc áp dụng các loại hình phạt này.
Xét xử lưu động là một trong những hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp
luật của Tòa án. Tuy nhiên, một thực tế là tại tỉnh Bắc Ninh, các vụ án được xét xử
lưu động đa phần là những vụ án rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và
hình phạt áp dụng đối với các bị cáo thường là tù có thời hạn. Do vậy, người dân
thường chỉ biết loại hình phạt này mà ít biết đến hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn.
Do vậy, để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, ngoài việc xây dựng một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, còn cần
sử dụng nhiều biện pháp khác để hình thành và phát triển ý thức xã hội. Một trong
các biện pháp đó là tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
Thứ tư, về công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động của TAND trong đó có
hoạt động áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
Hiện nay, tại hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh nói riêng và trong hệ
thống Tòa án nói chung, việc thanh tra kiểm tra trong hệ thống Tòa án thường được
thực hiện bằng cách thu hồ sơ của một năm của Tòa án cấp dưới, thực hiện kiểm tra
rà soát các hồ sơ đó (công tác giám đốc kiểm tra). Ngoài ra, còn thực hiện việc kiểm
tra theo vụ việc và không mang tính chất thường xuyên đối với những hồ sơ mà
Viện kiểm sát có kiến nghị hoặc có những hồ sơ Tòa án cấp cao rút hồ sơ hoặc
những vụ án mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, một thực tế hiện nay,
trong kết luận kiểm tra của TAND tỉnh Bắc Ninh thường chỉ nhắc nhở, rút kinh
nghiệm nếu Thẩm phán áp dụng các hình phạt tù có thời hạn nhưng cho hưởng án
treo không đúng hoặc áp dụng mức hình phạt thấp hơn so với mức hình phạt mà bị
cáo phải chịu chứ không rút kinh nghiệm về việc tại sao Thẩm phán lại không áp
dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn đối với những trường
hợp đủ điều kiện áp dụng.
63
Ngoài việc thanh tra, kiểm tra trong hệ thống Tòa án, Tòa án còn phải báo
cáo trước Hội đồng nhân dân, tuy nhiên, cũng như các kết luận của Tòa án tỉnh, Hội
đồng nhân dân tỉnh Bắc Ninh và Hội đồng nhân dân các quận, huyện, thành phố
trong tỉnh Bắc Ninh cũng tập trung giám sát công tác xét xử của Tòa án, các vụ án
có hủy sửa… chứ không xem xét đến việc tại sao Tòa án lại không áp dụng hình
phạt chính là một trong các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn
Việc hoàn thiện quy định của luật thực định sẽ giúp nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật và ngược lại nếu không hoàn thiện mà cứ để cho luật thực định ngày
càng lạc hậu không phát triển, có nhiều khiếm khuyết sẽ là những trở ngại, gây khó
khăn cho hoạt động này và thường trở thành nguyên nhân của những vướng mắc,
tồn tại, hạn chế trong thực tiễn công tác của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Pháp luật
dù có hoàn thiện đến đâu đi nữa, cơ sở vật chất có đầy đủ như thế nào thì cũng chỉ
mới là điều kiện cần, còn điều kiện đủ chính là yếu tố con người. Yếu tố con người
quyết định chủ yếu đến việc áp dụng pháp luật được chính xác và đạt được đúng
mục đích khi áp dụng pháp luật. Qua nghiên cứu quy định về các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm 2015, thực tiễn áp dụng các hình
phạt này tại tỉnh Bắc Ninh và những khó khăn vướng mắc tồn tại trong thực tiễn áp
dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tác giả xin đưa ra một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và ở nước ta nói chung như sau:
2.3.1. Các giải pháp hoàn thiện BLHS năm 2015
* Đối với hình phạt tiền
Thứ nhất, cần có sự phân biệt rõ giữa phạt tiền với tính chất là hình phạt
chính và phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung về mức phạt. Về nguyên tắc,
hình phạt chính phải có mức độ nghiêm khắc cao hơn hình phạt bổ sung, vì hình
phạt bổ sung có vai trò củng cố hiệu lực của hình phạt chính và điều này cần được
thể hiện thông qua mức phạt. Do vậy, cần phải sửa đổi Điều 35 BLHS năm 2015
64
theo hướng phải quy định mức tối thiểu của phạt tiền với tính chất là hình phạt
chính phải cao hơn mức tối đa của phạt tiền với tính chất là hình phạt bổ sung.
Thứ hai, về mức phạt tiền và căn cứ quyết định mức phạt tiền
Cần ban hành văn bản hướng dẫn để xác định tình hình tài sản của người
phạm tội, đặc biệt đối với những đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, lao động
tự do để Tòa án làm cơ sở quyết định mức phạt tiền đối với người phạm tội được
chính xác, phù hợp hơn, làm tăng tính khả thi cũng như hiệu quả của hình phạt tiền
trên thực tế. Có thể quy định mức phạt tiền theo số đơn vị thu nhập ngày và có thể
quy định “Tòa án có thẩm quyền xác định mức thu nhập bình quân/ngày của người
bị kết án phạt tiền, trên cơ sở đó cứ một ngày tạm giữ, tạm giam sẽ được khấu trừ
một khoản tiền tương ứng với một ngày công lao động của người đó. Trong trường
hợp người bị kết án không có thu nhập hoặc có thu nhập không đáng kể hoặc thu
nhập không ổn định thì việc xác định mức khấu trừ trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam
theo ngày phải dựa vào mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định nhưng không
được vượt quá số tiền phạt”.
Về mức phạt tiền: BLHS Việt Nam quy định mức phạt được tuyên theo một
số tiền cụ thể, nên sửa đổi quy định mức phạt tiền theo số đơn vị thu nhập ngày bởi
những người có mức thu nhập khác nhau, họ sẽ có đánh giá khác nhau về mức phạt.
Ví dụ: Đối với người có thu nhập bình quân 300.000 đồng/ngày thì họ thấy rằng
mức phạt 30.000.000 đồng có thể là phù hợp, nhưng ngược lại vẫn là mức phạt
30.000.000 đồng ấy, đối với một người có thu nhập bình quân 3.000.000 đồng/ngày
thì số tiền đó không phải lớn, họ chỉ cần bỏ ra 10 ngày làm việc là có thể có được.
Thứ ba, thu hẹp khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu và tối đa trong một
khung hình phạt. Như đã phân tích tại phần 2.2, hiện nay tại một số điều luật trong
phần các tội phạm của BLHS còn quy định khoảng cách giữa mức phạt tiền tối thiểu
và tối đa trong một khung hình phạt quá rộng. Để đảm bảo nguyên tắc phân hóa
trách nhiệm hình sự đồng thời tránh sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật nên
quy định mức tối đa không quá 02 lần mức tối thiểu.
Thứ tư, để đảm bảo tính thống nhất giữa Điều 35 BLHS năm 2015 và tên
nhóm tội được quy định tại Chương 21 BLHS năm 2015 sửa cụm từ “trật tự công
65
cộng, an toàn công cộng” tại Điểm b khoản 1 Điều 35 BLHS năm 2015 thành cụm
từ “an toàn công cộng, trật tự công cộng”.
Thứ năm, bổ sung quy định về việc chuyển đổi giữa hình phạt tiền với hình
phạt khác nếu người phạm tội không chấp hành hình phạt tiền.
Về vấn đề này, ngoài pháp luật của Pháp đã trình bày tại mục 2.2, pháp luật
của một số nước trên thế giới cũng có quy định những biện pháp cưỡng chế hoặc
thay thế hình phạt tiền khi người bị kết án không có khả năng hoặc cố tình không
thực hiện hình. Ví dụ: Trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Thụy Sĩ: "...trong trường
hợp biện pháp cưỡng chế nộp phạt tỏ ra không có hiệu quả. Thẩm phán thay phạt
tiền bằng hình phạt bắt giam theo tỷ lệ cứ 1 ngày giam bằng 30 ph răng”. Theo
Điều 368 Bộ luật hình sự Cộng hòa Tây Ban Nha "..Đối với những trường hợp đặc
biệt, nếu sau khi bản án được tuyên, tình trạng tài sản của người bị kết án xấu đi
một cách rõ rệt, căn cứ vào Điều 51 Bộ luật hình sự Cộng hòa Tây Ban Nha, Tòa
án có thể giới hạn lại mức phạt tiền. Nếu không nộp được khoản tiền phạt đã ấn
định, người bị kết án bị áp dụng hình phạt bị bắt giam vào những ngày nghỉ theo tỷ
lệ 2 ngày lương bằng 1 ngày bắt giam. Theo sự đồng ý của người bị kết án, Tòa án
có thể quyết định cho họ được lao động công ích thay cho phạt tiền. Trong trường
hợp người bị kết án không nộp đủ mức tiền phạt tương ứng với hậu quả đã gây ra,
họ bị phạt tù đến 1 năm"[47, tr.255].
Có thể bổ sung quy định theo hướng trong trường hợp người bị kết án không
chấp hành hình phạt tiền thì Tòa án có thể quyết định cho họ được lao động công
ích thay cho phạt tiền hoặc bị phạt tù với thời gian quy đổi 01 ngày tù tương đương
với 04 thu nhập trung bình/ngày nhưng không được cao hơn mức cao nhất của
khung hình phạt (tù có thời hạn) áp dụng với hành vi phạm tội đó. Bởi lẽ hiện nay
BLHS năm 2015 đang áp dụng mức quy đổi 01 ngày tù tương đương với 03 ngày
cải tạo không giam giữ mà trong hệ thống hình phạt Việt Nam hình phạt tiền thấp
hơn hình phạt cải tạo không giam giữ.
*Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ
Thứ nhất, cần quy định cụ thể về thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không
giam giữ. Việc thống nhất việc tính thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không
66
giam giữ có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc xác định
thời hạn chấp hành xong hình phạt, liên quan đến việc xác định tiền án, nhân thân
của người phạm tội, có tổng hợp hình phạt hay không trong trường hợp người phạm
tội tiếp tục phạm tội mới…Do vậy, không thể để tình trạng không thống nhất về
cách tính thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hiện nay, điều này
dẫn tới việc không đảm bảo được sự công bằng giữa các bị cáo.
Theo quan điểm của tác giả, cần thống nhất “thời hạn chấp hành hình phạt
cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục
người bị kết án nhận được quyết định thi hành án”. Bởi lẽ tương tự như thời hạn
chấp hành hình phạt tù có thời hạn được tính từ ngày bắt thi hành án (hoặc từ ngày
tạm giữ tạm giam bị cáo nếu bị cáo không được tại ngoại), thời gian chấp hành hình
phạt cải tạo không giam giữ cũng được khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam và cũng
được trừ khi tổng hợp hình phạt tương tự như hình phạt tù có thời hạn (03 ngày cải
tạo không giam giữ tương đương với 01 ngày tù). Mặt khác, đối với hình phạt cải
tạo không giam giữ, người bị kết án sẽ được giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
quản lý và phải thực hiện một số những nghĩa vụ như bị khấu trừ một phần thu nhập
từ 5% đến 20% thu nhập hàng tháng sung quỹ Nhà nước, phải thực hiện một số
công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ nếu
người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong
thời gian chấp hành hình phạt… Do vậy, chỉ đến lúc có quyết định thi hành án thì
người bị kết án mới phải thực hiện những nghĩa vụ trên.
Thứ hai, quy định cụ thể về các trường hợp đặc biệt có thể được miễn việc
khấu trừ thu nhập theo quy định tại khoản 3 Điều 36 BLHS năm 2015. Nghĩa vụ
khấu trừ thu nhập là một trong những điểm riêng biệt của hình phạt cải tạo không
giam giữ mà cũng là một trong các nghĩa vụ mà người bị kết án phải thực hiện với
nhà nước. Nếu mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực
hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không
giam giữ để thay thế cho nghĩa vụ khấu trừ thu nhập. Vì vậy, nếu tùy tiện trong việc
miễn việc khấu trừ thu nhập sẽ không đảm bảo được các mục đích của hình phạt cải
tạo không giam giữ. Mặt khác, BLHS năm 2015 đã sử dụng từ “các trường hợp đặc
67
biệt” tức là việc miễn trừ thu nhập được áp dụng với số ít người phạm tội. Do vậy,
cần quy định rõ các trường hợp đặc biệt được miễn trừ thu nhập và nên quy định
theo hướng liệt kê, không để quy định chung chung.
Ngoài ra, cần có hướng dẫn cụ thể điều kiện "nếu xét thấy không cần thiết phải
cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội" quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS năm 2015.
* Đối với hình phạt trục xuất
Cần có văn bản hướng dẫn cụ thể đối với nội dung: trục xuất được áp dụng đối
với loại tội phạm nào; trường hợp nào áp dụng là hình phạt chính, trường hợp nào
áp dụng là hình phạt bổ sung; sau thời gian bao lâu thì người bị trục xuất có thể
được nhập cảnh vào Việt Nam... để thống nhất áp dụng trong thực tiễn.
Quy định cụ thể phạm vi áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính theo
hướng chỉ áp dụng hình phạt trục xuất là hình phạt chính đối với những tội ít
nghiêm trọng và nghiêm trọng do vô ý. Bởi vì tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi đã xảy ra chưa đến mức đặc biệt nghiêm trọng, có thể do sự thiếu hiểu biết
về pháp luật của Việt Nam của người phạm tội hoặc cũng có thể do cố ý gây ra
nhưng huy quả không đáng kể. Việc quyết định trục xuất người phạm tội trong
trường hợp này nhằm mục đích ngăn ngừa tội phạm, đồng thời cũng coi như một
biện pháp nhân đạo đối với người phạm tội.
BLHS cần quy định bổ sung vấn đề án tích đối với người bị kết án trục xuất
cũng như việc xóa án tích đối với những trường hợp này.
2.3.2. Các giải pháp khác
Thứ nhất, tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong đó
có các quy định pháp luật về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
Để đảm bảo thống nhất việc áp dụng pháp luật, TAND tối cao cần cần tăng
cường ban hành các Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phối hợp
với các cơ quan có liên quan xây dựng văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành pháp
luật, trong đó có những quy định liên quan đến các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn.
68
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn,
công bố và áp dụng án lệ, không chỉ dừng lại việc phát triển án lệ từ các quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, lãnh đạo TAND
tối cao khuyến khích phát hiện các bản án của các Tòa án mang tính chuẩn mực
trong áp dụng pháp luật để giải quyết các tình huống thực tế phức tạp, hiện còn có
những vướng mắc hoặc cách hiểu khác nhau để đề xuất phát triển làm án lệ, đặc biệt
là những án lệ liên quan đến việc quyết định hình phạt, việc vận dụng và áp dụng
hình phạt trong thực tiễn.
TAND tỉnh Bắc Ninh mặc dù không có nhiệm vụ giải thích pháp luật nhưng
trong các kết luận kiểm tra nghiệp vụ, các buổi đào tạo, tập huấn, TAND tỉnh Bắc
Ninh cần lồng ghép các nội dung về việc áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn để đảm bảo áp dụng thống nhất khi quyết định hình phạt.
Thứ hai, nâng cao năng lực của những người áp dụng pháp luật, đặc biệt là
đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
Chất lượng của nền tư pháp xét cho cùng là do cán bộ tư pháp quyết định, vì
họ là những người trực tiếp "cầm cân nảy mực". Mỗi sai sót trong thực thi công vụ
của cán bộ tư pháp đều ảnh hưởng đến sinh mạng chính trị và lợi ích, thậm chí cả
tính mạng của người dân. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ các
Thẩm phán thanh liêm, chính trực, công tâm, vững vàng về bản lĩnh chính trị, giỏi
về nghiệp vụ, tinh thông pháp luật phải là ưu tiên hàng đầu của các cơ quan tư pháp.
Một số biện pháp để nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ tư pháp là:
Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đào tạo tại chỗ, đào tạo
trực tuyến. Hiện nay, TAND tối cao đã tổ chức các buổi học tập, trao đổi, rút kinh
nghiệm trực tuyến trong cả nước vào thứ hai của tuần cuối cùng trong tháng (có lịch
cụ thể từng tháng trên cổng thông tin điện tử của Tòa án). Thúc đẩy phong trào tự
học tập, tự nghiên cứu, trao đổi kỹ năng nghiệp vụ của các cán bộ, công chức trong
hệ thống Tòa án.
Bên cạnh năng lực chuyên môn, yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến tính
đúng đắn trong việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng các hình phạt chính
69
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng là đạo đức và trách nhiệm của Thẩm
phán. Do vậy cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo
đức cho đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án.
Ngoài ra, cần quan tâm đến điều kiện làm việc, chế độ đãi ngộ thích đáng cho
cán bộ, công chức trong hệ thống Tòa án đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán.
Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, chỉ có đánh giá đúng, thực chất cán bộ mới
bố trí, sử dụng cán bộ một cách hợp lý nhằm phát huy năng lực của cán bộ. Trong
việc tuyển chọn Thẩm phán, mạnh dạn cử những người dù trẻ nhưng có đức, có tài
đi thi Thẩm phán và không tái bổ nhiệm Thẩm phán đối với những Thẩm phán
không hoàn thành nhiệm vụ.
Đối với hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh, để nâng cao chất lượng đội
ngũ các Thẩm phán, Thư ký, Thẩm tra viên, bên cạnh việc thực hiện các biện pháp
trên có thể thực hiện một số biện pháp như: tổng hợp các vướng mắc về từng vấn đề
của đơn vị trong đó có vấn đề áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn sau đó tự tập huấn hoặc mời các chuyên gia tập huấn; đối với những vướng mắc
về từng trường hợp cụ thể, có thể gửi văn bản đến Tòa án nhân dân tối cao, sau khi
nhận được trả lời thì thông báo nội dung trả lời đó đến từng đơn vị trong hệ thống
Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh; Gửi các kết luận kiểm tra của Tòa án tỉnh đối với các
Tòa án huyện cho nhau cũng như gửi các kết luận kiểm tra của Tòa án tối cao đối
với Tòa án tỉnh cho các Tòa án huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh…
Thứ ba, bảo đảm về tranh tụng tại phiên tòa
Để bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa các cơ quan tiến hành tố tụng cần
nghiêm chỉnh thực hiện các Nghị quyết của Đảng liên quan đến nguyên tắc tranh
tụng như Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW
ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI, XII của Đảng; Nghị quyết số 111/2015/QH13
ngày 27/11/2015 và quy định của pháp luật về nguyên tắc tranh tụng được quy định
trong BLTTHS năm 2015.
70
Về thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, TAND tối cao cần tiếp tục hướng dẫn các
tiêu chí đặt ra đối với phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo đảm việc tranh
tụng tại phiên tòa được chú trọng, các Tòa án không hạn chế thời gian dành cho
tranh tụng, tôn trọng, đảm bảo cho các bên tham gia tố tụng đưa ra chứng cứ, trình
bày hết các ý kiến của mình; trên cơ sở kết quả tranh tụng.
Để đảm bảo việc tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh cần
thực hiện tốt các biện pháp trên, đồng thời quán triệt đến toàn bộ Thẩm phán phải
coi trọng kết quả tranh tụng tại phiên tòa, tránh tình trạng “án tại hồ sơ”; tổ chức
phiên tòa rút kinh nghiệm.
Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và
pháp luật về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng trong
nhân dân.
Một trong các biện pháp hữu hiệu để hình thành và phát triển ý thức xã hội
đó là tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật ở Bắc Ninh nói riêng và ở nước ta nói chung có thể thông qua một số
hình thức như việc xét xử lưu động, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, tuyên truyền
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài phát thanh của thôn, xã,
huyện, tỉnh, tuyên truyền trên các trang web chính thống… Ngoài ra còn có thể đưa
vào các chương trình giảng dạy, không chỉ đối với những người đã thành niên mà
đối với cả các đối tượng còn nhỏ tuổi. Khi người dân đã được nâng cao hiểu biết nội
dung, ý nghĩa, mục đích của hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn nói riêng thì có thể cùng chính quyền các cấp giám sát,
trở thành cánh tay đắc lực của chính quyền giám sát hoạt động tố tụng, cổ vũ hoặc
lên án thông qua dư luận xã hội. Hơn nữa, việc người dân hiểu rõ hơn về các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng giúp cho các nhà áp dụng pháp
luật mạnh dạn hơn trong việc áp dụng các loại hình phạt này.
Thứ năm, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật trong đó
có các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
71
Để tăng cường hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn tại Bắc Ninh nói riêng và ở nước ta nói chung, hệ thống Tòa án cần phải
quan tâm hơn nữa công tác kiểm tra, tổng kết thực tiễn áp dụng, thực tiễn kinh
nghiệm xét xử, hướng dẫn các Tòa án cấp dưới áp dụng thống nhất pháp luật và
đường lối xét xử. Trong đó cần trú trọng nhắc nhở việc áp dụng các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù trong những trường hợp mà các bị cáo đủ điều kiện áp dụng.
Thứ sáu, tăng cường giám sát của Cơ quan có thẩm quyền đối với công tác
xét xử của TAND.
Không chỉ chịu sự chỉ đạo của Tòa án nhân dân cấp trên, Tòa án nhân dân
cấp huyện, cấp tỉnh còn chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Do vậy,
để nâng cao chất lượng công tác xét xử, Hội đồng nhân dân các cấp cũng cần tăng
cường công tác giám sát đối với hoạt động của Tòa án, xem xét, thẩm tra báo cáo
của Tòa án cùng cấp và chất vấn người đứng đầu Tòa án, trước mỗi kỳ họp hội
đồng nhân dân. Tăng cường các cuộc giám sát chuyên đề và giám sát đột xuất. Qua
đó đã theo sát, bắt kịp diễn biến thực tiễn, phản ánh được bức tranh tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cũng như hiệu quả hoạt động của bộ máy các cơ
quan tư pháp đặc biệt là Tòa án như: Giám sát công tác xét xử các vụ án có bản án,
quyết định bị huỷ, sửa của TAND... Trong đó quan tâm tới việc có hay không áp
dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
Mặt trận Tổ quốc các cấp thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm là phát huy quyền
làm chủ của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; tổ chức triển khai thực hiện giám sát
hoạt động của các cơ quan tư pháp tập trung vào các nội dung: Hoạt động của các cơ
quan tư pháp, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức Nhà nước thực hiện các hoạt động
tư pháp. Phối hợp với hệ thống Toà án thực hiện hiệp thương giới thiệu để Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện bầu Hội thẩm TAND, để đảm bảo công tác xét xử của
Toà án có sự tham gia của hội thẩm nhân dân theo quy định của pháp luật, đặc biệt là
trong thực hiện tăng thẩm quyền xét xử đối với Toà án cấp huyện.
Tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên
truyền, cung cấp thông tin về hoạt động tư pháp. Trong một nền tư pháp của nhân
dân thì nhân dân phải được tiếp cận thông tin về hoạt động xét xử và giám sát hành
72
vi của các Thẩm phán. Các tổ chức chính trị - xã hội có thể đóng vai trò giám sát tư
pháp để làm tăng trách nhiệm của các Thẩm phán.
Tiểu kết chương 2
Từ những kết quả nghiên cứu ở chương 2 của luận văn, tác giả rút ra một số
kết luận sau:
Thứ nhất, thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn tại tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần đây cho thấy tỷ lệ áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn quá thấp so với tỷ lệ áp dụng hình phạt tù có
thời hạn; có nhiều trường hợp người phạm tội có đủ các điều kiện để được áp dụng
một trong các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn nhưng HĐXX lại lựa chọn
áp dụng cho bị cáo hưởng án treo. Trong các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn, hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu, các hình phạt khác ít được áp dụng
hơn trong đó hình phạt trục xuất chưa được áp dụng lần nào. Tỷ lệ áp dụng từng loại
hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời loại về cơ bản là có xu hướng tăng.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích tình hình áp dụng, những vướng mắc, bất cập
trong quá trình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh
Bắc Ninh, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn như: kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các
quy định của pháp luật hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn, các giải pháp nhằm nâng cao của người áp dụng pháp luật và hiểu biết của
cộng đồng, các giải pháp tăng cường giám sát của các cơ quan có thẩm quyền đối
với hoạt động của Tòa án…
KẾT LUẬN
Trên cơ sở nghiên cứu“Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”, tác giả đi đến một số kết luận chủ yếu sau:
Thứ nhất, luận văn đã đưa ra khái niệm, đặc điểm của các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong đó đặc điểm riêng biệt, nổi bật nhất đó là các
hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế nghiêm
khắc của Nhà nước, tuy nhiên tính chất nghiêm khắc này nhẹ hơn so với hình phạt
73
tù có thời hạn và không tước tự do của người bị kết án. Đồng thời, luận văn cũng đã
phân tích, làm rõ một số vấn đề như khái niệm, một số đặc điểm, điều kiện áp
dụng… của từng hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
Thứ hai, luận văn nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn thời kỳ sau Cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay
cho thấy các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy định từ khá
sớm. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử của đất nước cho nên nội dung cũng như kỹ thuật
lập pháp của những quy định này chưa được hoàn thiện ngay mà còn một số hạn chế
cũng như tính phổ biến chưa cao. Cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các quy
định này đã dần được hoàn thiện và phạm vi áp dụng cũng mở rộng hơn.
Thứ ba, luận văn đã nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020 qua đó
đánh giá những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn tại Bắc Ninh, bao gồm các vướng mắc trong các quy
định pháp luật hình sự và các vướng mắc khác như về chủ thể áp dụng pháp luật, về
ý thức pháp luật… Đồng thời, luận văn cũng đưa ra một số những kiến nghị hoàn
thiện quy định của BLHS và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn.
Quá trình áp dụng những quy định của luật hình sự về các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn vào thực tiễn xét xử tại tỉnh Bắc Ninh nói riêng và
ở nước ta nói chung cho thấy vai trò to lớn của các quy định này trong công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm đặc biệt là trong việc cá thể hóa hình phạt. Tác giả hy
vọng cùng với những phân tích, đánh giá và việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện
nói trên, tương lai không xa, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn sẽ
phát huy được vai trò, ý nghĩa cũng như hiệu quả áp dụng trong thực tiễn
74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2002),
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005, về chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật.
3. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao (2011), Thông tư liên tịch số
07/2011/TTLT-BCA-BQP-BNG ngày 16/11/2011 hướng dẫn thi hành án phạt
trục xuất.
4. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
hình sự 2015, Nxb. Thế giới, TP. Hồ Chí Minh.
5. Đỗ Văn Chỉnh (2009), hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân
dân –TANDTC, số 5, tháng 3/2009, Hà Nội.
6. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 200-SL ngày 15
tháng 10 năm 1946 quy định việc buộc bán vàng bạc, Hà Nội.
7. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (1948), Sắc lệnh số 205/SL ngày 18
tháng 8 năm 1948 về ấn định thể lệ trục xuất ngoài kiều, Hà Nội.
8. Chính phủ (2011), Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001, hướng dẫn thi
hành hình phạt trục xuất, Hà Nội.
9. Chính phủ (2000), Nghị định 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc
thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ.
10. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần
chung), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
11. Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), Thực trạng các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008) 206-217, Hà Nội.
12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI,
VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
75
13. TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Hoàn thiện hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự Việt
Nam qua tham khảo Bộ luật Hình sự Trung Quốc, Hà Nội.
14. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên, 2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội.
15. Nguyễn Ngọc Hòa (1999), Mục đích của hình phạt, Tạp chí Luật học (số 01),
tr.16-17, Hà Nội.
16. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Ánh Hồng (2015), Hoàn thiện quy định của BLHS về các hình phạt
chính không tước tự do, Tài liệu Hội thảo quốc tế: Sửa đổi BLHS, BLTTHS
theo Hiến pháp 2013 và tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, Trường Đại học
luật Tp. HCM.
18. Nguyễn Thanh Hương (2016), Hình phạt tiền trong BLHS Việt Nam – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt nghiệp – Trường Đại học Luật Hà Nội.
19. Trần Minh Hưởng (2007), Tìm hiểu hình phạt và các biện pháp tư pháp trong
luật hình sự Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
20. Dương Tuyết Miên (2009), bài viết “Hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam
năm 1999 về hệ thống hình phạt trong xu thế hội nhập quốc tế” đăng trong sách
chuyên khảo Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế và phát triển
bền vững, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
21. Dương Tuyết Miên, “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 19/2008.
22. TS. Đặng Quang Phương (Chủ nhiệm đề tài, 1996), Cơ sở lý luận và thực tiễn
nâng cao hiệu quả của các biện pháp tư pháp và các hình phạt không phải là tù
và tử hình, Hà Nội.
23. Đinh Văn Quế (2000), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 phần chung,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
24. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
76
25. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội .
27. Quốc hội (2005), Luật Cư trú, Hà Nội.
28. Nguyễn Sơn (1998), Điều kiện và thực tiễn áp dụng thi hành hình phạt tiền là
hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân.
29. Phạm Xuân Thụy (2017), “Một số ý kiến về việc hoàn thiện quy định của Bộ
luật hình sự về hình phạt trục xuất”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (8).
30. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật hình sự phần chung, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội
nhập quốc tế và phát triển bền vững”, NXB. Công an nhân dân Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật TP.HCM (2012), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam -
Phần Chung, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam.
34. Nguyễn Đức Tuấn, Uông Chu Lưu (1995), Hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (2019), Bản án số
274/2019/HS-ST ngày 18/11/2019, Bắc Ninh.
36. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2017), Bản án số:
58/2017/HSST ngày 07/7/2017, Bắc Ninh.
37. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2018), Bản án số
36/2018/HSST ngày 11/9/2018, Bắc Ninh.
38. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2019), Bản án số: 39/2019/HS
- ST ngày 30/5/2019, Bắc Ninh.
39. Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh (2020), Bản án số:
04/2020/HSST ngày 07/02/2020, Bắc Ninh.
77
40. Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (2020), Bản án số 76/2020/HS-
ST ngày 20/3/2020, Bắc Ninh.
41. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày
15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo, Hà Nội.
42. Trịnh Quốc Toản (2015), Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
dưới góc độ bảo vệ quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
43. Trịnh Tiến Việt ( 2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc
gia – Sự thật, Hà Nội.
44. Võ Khánh Vinh (1994), Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
45. Võ Khánh Vinh (1994), “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam”,
NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.
46. Võ Khánh Vinh (2008), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần Chung), Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội.
47. Hồ Sỹ Sơn (2018), Luật hình sự so sánh, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
48. Hồ Sỹ Sơn (2007), Khái niệm hình phạt và mục đích của hình phạt nhìn từ hệ
thống pháp luật Anh-Mỹ, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam, 2007, số 2 (226).
49. Hồ Sỹ Sơn (2009), Chế định hình phạt trong bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp và
một số gợi mở nhằm hoàn thiện bộ luật hình sự nước ta, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, Viện Nhà nước và pháp luật, số 3 (251).
50. Đỗ Thanh Xuân (2015), “Về hình phạt trục xuất”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (2)
51. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
78
PHỤ LỤC LUẬN VĂN
Bảng số 1.1 thống kê các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trong Phần các tội
phạm của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Tổng Cải tạo
số Cảnh Phạt không Trục Chương Tên chương điều cáo tiền giam xuất
luật giữ
XIII Các tội xâm phạm an ninh quốc 14 0 0 0 0 gia
XIV Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự 34 3 6 15 0
con người
XV Các tội xâm phạm quyền tự do, 11 3 3 11 0 dân chủ của công dân
XVI Các tội xâm phạm sở hữu 13 2 3 9 0
XVII Các tội xâm phạm chế độ hôn 7 4 2 6 0 nhân và gia đình
XVIII Các tội xâm phạm trật tự quản 48 2 35 33 0 lý kinh tế
XIX Các tội phạm về môi trường 12 0 12 6 0
XX Các tội phạm về ma túy 13 0 1 0 0
XXI Các tội xâm phạm an toàn công 69 1 23 40 0 cộng, trật tự công cộng
XXII Các tội xâm phạm trật tự quản 22 7 7 16 0 lý hành chính
XXIII Các tội phạm về chức vụ 14 1 2 9 0
XXIV Các tội xâm phạm hoạt động tư 24 2 2 12 0
79
pháp
XXV Các tội xâm phạm nghĩa vụ
trách nhiệm của quân nhân và
trách nhiệm của người phối 28 0 0 21 0
thuộc với quân đội trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu
XXVI Các tội phá hoại hòa bình,
chống loài người và tội phạm 5 0 0 0 0
chiến tranh
314 25 95 178 0 Tổng số điều luật
(Nguồn: BLHS năm 2015)
Bảng 2.1 Thống kê áp dụng hình phạt chính tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh
từ năm 2016 đến năm 2020
Hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
Hình phạt tù có thời hạn, tù chung
tù
thân, tử hình
Năm
Số bị cáo
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
2016
1825
81
1744
96,6%
4,4%
2017
2461
110
2351
95,5%
4,5%
2018
2659
120
2539
95,5%
4,5%
2019
2287
115
2172
95,0%
5,0%
2020
2683
166
2517
93,8%
6,2%
Tổng
11915
592
11323
95%
5,0%
(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)
Bảng 2.2 Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù tại Tòa
án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
80
Hình phạt cảnh
Hình phạt cải tạo
Hình phạt tiền
Trục xuất
cáo
không giam giữ
Số bị
Năm
cáo
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
lượng
(%)
2016
1825
0
0%
79
4,3%
2
0,1%
0
0%
2017
2461
0
0%
108
4,4%
2
0,1%
0
0%
2018
2659
0
0%
117
4,4%
3
0,1%
0
0%
2019
2287
0
0%
108
4,7%
7
0,3%
0
0%
5
150
5,6%
11
0,4%
0
0%
2020
2683
0,2%
(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)
Bảng 2.3. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù theo
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Năm 2020
STT
Nhóm tội
(Số bị cáo)
(Số bị cáo)
(Số bị cáo)
(Số bị cáo)
(Số bị cáo)
3
9
11
1
Xâm phạm sở hữu
3
0
Xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân
1
0
5
2
0
1
phẩm, danh dự của
con người
Xâm phạm an toàn
3
công cộng, trật tự
74
108
114
104
143
công cộng
Xâm phạm trật tự quản
1
0
1
1
4
0
lý hành chính
Xâm phạm trât tự
1
2
6
3
5
1
quản lý kinh tế
0
0
0
Khác
0
6
0
Tổng
81
110
120
115
166
nhóm tội tại Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
(Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh)
81