VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG QUANG TOÀN

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LƯƠNG QUANG TOÀN KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

Hà Nội, năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu của

riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Đặng Quang Phương.

Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đều đảm bảo độ tin cậy, trung thực và

chính xác. Các kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố

trong bất kỳ công trình nào khác.

Với lời cam đoan này, tôi kính mong Giám đốc Học viện Khoa học

xã hội và Hội đồng chấm luận văn cho phép tôi bảo vệ luận văn.

Trân trọng cám ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lương Quang Toàn

MỤC LỤC

NỘI DUNG Trang

MỞ ĐẦU........................................................................................... 1

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự

về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm................................... 7

1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm................................................................................................... 7

1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm....................................................... 18

Chương 2: Thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng..................................... 37

2.1. Tổng quan thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.......................................... 37

2.2. Những vi phạm, sai lầm trong kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và nguyên nhân 49

Chương 3: Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm........................................ 59

3.1. Các yêu cầu cần nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm................................................................................... 59

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm................................................................................... 65

KẾT LUẬN...................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS: Bộ luật Hình sự.

BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự.

BLDS: Bộ luật Dân sự.

BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự.

ĐCS: Đảng Cộng sản.

HLPL: Hiệu lực pháp luật.

TCTAND: Tổ chức Tòa án nhân dân.

TAND: Tòa án nhân dân.

TANDCC: Tòa án nhân dân cấp cao.

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao.

TAQS: Tòa án quân sự.

TNHS: Trách nhiệm hình sự.

TTHS: Tố tụng hình sự.

VKSND: Viện kiểm sát nhân dân.

VKSNDCC: Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.

VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

VKSQS: Viện kiểm sát quân sự.

XHCN: Xã hội chủ nghĩa.

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG Trang

Bảng 2.1: Bảng kết quả xử lý đơn đề nghị, văn bản đề nghị giám

đốc thẩm đối với các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng........ 38

Bảng 2.2: Kết quả giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm tại

TANDCC tại Đà Nẵng...................................................................... 39

Bảng 2.3. Bảng số liệu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

TANDCC tại Đà Nẵng phải giải quyết từ 2016-2019...................... 40

Bảng 2.4. Tỷ lệ quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

của Chánh án Tòa án các cấp và Viện trưởng VKS được UBTP

TANDCC tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm từ 2016 - 2019........ 47

Bảng 2.5: Kết quả giải quyết, xét xử các vụ án hình sự của các

Tòa án thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại Đà

Nẵng................................................................................................... 50

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Với tính chất: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp

luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [46, Đ370], cho thấy kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một hoạt động để kiểm tra lại tính hợp

pháp, tính đúng đắn của bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có HLPL, để

từ đó Tòa án cấp trên kịp thời sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng

pháp luật của Tòa án cấp dưới, hướng dẫn Tòa án cấp dưới khắc phục những

sai lầm, thiếu sót, đồng thời thống nhất việc áp dụng pháp luật. Do vậy có thể

nói kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong TTHS có vai trò, ý nghĩa hết

sức quan trọng nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định

của pháp luật, đảm bảo pháp chế XHCN. Cũng thông qua quá trình hoạt động

thực tiễn trong thời gian qua đã cho thấy công tác kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn

nhiều hạn chế như: chất lượng kháng nghị chưa cao, điều này thể hiện ở một

số bản kháng nghị không nêu được căn cứ kháng nghị, dẫn đến phải rút kháng

nghị hoặc bị Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị; nhiều

trường hợp phát hiện căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa kịp

thời nên bị quá thời hạn kháng nghị hoặc khi quyết định kháng nghị thì người

bị kết án đã chấp hành xong bản án, quyết định; việc kiểm tra bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật, cũng như việc giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị

giám đốc thẩm chưa triệt để nên số lượng vụ án có quyết định kháng nghị

giám đốc thẩm còn có phần hạn chế,... Một trong những nguyên nhân của tình

trạng trên là do còn có những quy định của BLTTHS liên quan đến kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chưa thật sự phù hợp, chưa cụ thể và rõ ràng,

1

như các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; đối tượng kháng nghị;

thời hạn kháng nghị; bổ sung kháng nghị, rút kháng nghị; hệ quả của kháng

nghị nhưng lại chưa có hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền, nên trong

quá trình áp dụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là sau khi

BLTTHS năm 2015 được ban hành. Bên cạnh đó còn phải kể đến một số

nguyên nhân như: trình độ, năng lực của một số cán bộ làm công tác giám

đốc thẩm có phần hạn chế; chế độ đãi ngộ, trang thiết bị, cơ sở vật chất đối

với họ còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cũng làm ảnh hưởng đến

chất lượng của hoạt động kháng nghị nói trên.

Kể từ ngày được thành lập cho đến nay, TANDCC tại Đà Nẵng đã làm

tốt chức năng, nhiệm vụ của mình được quy định tại Điều 29 Luật TCTAND,

trong đó có công tác giám đốc thẩm các loại vụ án, đặc biệt là các vụ án hình

sự. Thông qua hoạt động giám đốc thẩm đối với các vụ án hình sự do các

TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm,

đã có hiệu lực pháp luật, cho thấy các hoạt động TTHS được tiến hành ngày

một minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền và lợi ích chính đáng của những

người tham gia tố tụng được đảm bảo hơn, xu thế mở rộng và đề cao tranh tụng

tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, qua thực tiễn hoạt động TTHS cho thấy vẫn

còn một số bản án, quyết định của Tòa án sau khi có hiệu lực pháp luật mới

phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật, vi phạm

nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc kết luận của bản án, quyết định không

phù hợp với những tình tiết khách qua của vụ án, đã làm thay đổi cơ bản nội

dung bản án, quyết định đó, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của

người tham gia tố tụng, nên phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Từ những lý do trên, học viên chọn đề tài: “Kháng nghị giám đốc

thẩm từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng” làm luận văn thạc

2

sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong thời gian qua, việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã được sự quan tâm của nhiều nhà

nghiên cứu dưới các góc độ là các đề tài nghiên cứu cấp bộ, luận án, luận

văn, bình luận khoa học, sách chuyên khảo… Trong phạm vi khả năng của

mình, học viên đã nghiên cứu và tìm hiểu một số công trình nghiên cứu trong

quá trình thực hiện đề tài luận văn như sau:

- Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm cần

phải kể đến như: Đề tài khoa học cấp Bộ của TANDTC: “Nâng cao hiệu quả

công tác giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự”, do ThS. Đinh Văn Quế chủ

biên, năm 2005 [35]; Luận văn Thạc sĩ: “Nguyên tắc giám đốc việc xét xử

trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Dương Thị Ánh, năm 2015

[2]; Luận văn Thạc sĩ: “Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn ”,

của tác giả Quản Thị Ngọc Thảo, năm 2007 [64]; sách chuyên khảo: “Giám

đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác

giả Đinh Văn Quế, năm 1997 [32].

- Các công trình chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp, liên quan một phần đến

quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã được công bố trên các

tạp chí chuyên ngành như: Bài viết:“Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu

hoàn thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án

các cấp” của tác giả Nguyễn Văn Hiện, Tạp chí TAND, số 3 năm 1997 [19];

bài viết: “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm” của tác giả Nguyễn Quang

Hiền, Tạp chí TAND, số 7 năm 2009 [17]; bài viết: “Thực trạng thi hành quy

định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn

thiện” của tác giả Nguyễn Văn Trượng, Tạp chí TAND, số 7 năm 2011 [69].

- Các công trình có phạm vi nghiên cứu liên quan đến đề tài như: Luận

3

văn Thạc sĩ: “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”, của tác giả Nguyễn

Thành An, Học viện khoa học xã hội, năm 2018 [1]; Luận văn Thạc sĩ:

“Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực

tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, của tác giả Trần Minh Tú, Học viện khoa học xã hội,

năm 2018 [71]; Luận văn Thạc sĩ: “Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm

trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Như Thắng, Khoa Luật

Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014 [65]; Bài viết: “Căn cứ để kháng nghị

giám đốc thẩm trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, của tác giả Nguyễn

Trung Kiên, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 07 năm 2019 [26], ...

Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá đối với thực

tiễn công tác giám đốc thẩm nói chung và công tác kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm nói riêng tại TANDCC tại Đà Nẵng.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận

về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam, nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự

về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và thực tiễn thi hành tại TANDCC

tại Đà Nẵng. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, luận văn sẽ tập trung giải

quyết các nhiệm vụ:

Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

vụ án hình sự về khái niệm, ý nghĩa, căn cứ, thời hạn, trình tự, thủ tục,...; phân

tích, đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về kháng nghị theo thủ

4

tục giám đốc thẩm.

Hai là, đánh giá toàn diện thực trạng kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm vụ án hình sự của TANDCC tại Đà Nẵng trong thời gian từ tháng năm

2016 đến năm 2019, từ đó rút ra những kết quả đạt được, những vi phạm, sai

lầm trong việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự cũng như

việc áp dụng quy định này trên thực tế tại TANDCC tại Đà Nẵng hiện nay.

Ba là, đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm vụ án hình sự đối với TANDCC tại Đà Nẵng trong thời

gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận, các quy định về kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

và thực tiễn thi hành tại TANDCC tại Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu một số vấn đề về lý luận và hoạt động áp dụng

pháp luật quy định về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự

tại TANDCC tại Đà Nẵng đối với các TAND thuộc phạm vi thẩm quyền theo

lãnh thổ trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -

LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của

Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước

pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân và các quan điểm chỉ

đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.

Trong quá trình nghiên cứu luận văn có sử dụng các phương pháp

nghiên cứu như: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, điều tra

5

xã hội học... Ngoài ra, học viên còn tham khảo ý kiến chuyên gia, cán bộ trực

tiếp làm công tác giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng và nghiên cứu

tiểu hồ sơ, hồ sơ vụ án được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn

thiện lý luận khoa học về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hình sự

trong khoa học luật TTHS Việt Nam như: làm rõ khái niệm kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm; làm sáng tỏ các quy định của BLTTHS về căn cứ

kháng nghị, thời hạn, trình tự... của kháng nghị theo thủ giám đốc thẩm, có so

sánh với kháng nghị theo thủ tục tái thẩm; phân tích thực tiễn công tác kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đánh giá. Qua đó chỉ ra những bất cập

trong các quy định của pháp luật hiện hành; những hạn chế, vướng mắc trong

quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như chỉ ra nguyên nhân của những vi

phạm, sai lầm và hạn chế để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất

lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

- Về mặt thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo, phục vụ

hoạt động nghiên cứu và học tập. Kết quả của đề tài có thể được vận dụng

trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà

Nẵng nói riêng và trong hệ thống TAND nói chung.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục cùng Danh mục tài liệu tham

khảo thì nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật tố tụng hình sự về kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Chương 2. Thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại Tòa án

nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Chương 3. Các yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng kháng

6

nghị giám theo thủ tục đốc thẩm.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH

SỰ VỀ KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM

1.1. Những vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm

1.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm

1.1.1.1. Khái niệm kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và Điều 27 BLTTHS năm 2015 đều

quy định: “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo”. Đó là nguyên

tắc “hai cấp xét xử” trong xét xử các loại vụ án nói chung và xét xử án hình

sự nói riêng. Quy định này mang tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự

của nước ta và là một bảo đảm pháp lý rất cần thiết trong công tác xét xử của

các Tòa án, để việc xét xử của hệ thống Tòa án được chính xác và đúng đắn

hơn. Thông qua hai cấp xét xử, những nội dung trong vụ án sẽ thêm một lần

nữa được đưa ra xem xét, phân tích, đánh giá kỹ càng và đầy đủ hơn, từ đó

các phán quyết của Tòa án đảm bảo tính công minh, đúng pháp luật. Tuy

nhiên, trong thực tế không phải mọi phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp

luật đều đảm bảo tính khách quan, chính xác, đúng đắn với quy định của pháp

luật. Vì vậy, BLTTHS có những quy định về xét lại bản án và quyết định đã

có hiệu lực pháp luật, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm.

Giám đốc thẩm là một thủ tục tố tụng đặc biệt, “là xét lại bản án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có

vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [46, Đ370].

Theo đó, để giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm thì trước hết phải có

kháng nghị của người có thẩm quyền, được ban hành theo trình tự, thủ tục

7

nhất định và có nội dung theo quy định của BLTTHS. Đây là một văn bản tố

tụng mang tính chất pháp lý, là cơ sở để xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc

thẩm.

Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản năm

2005 do Nguyễn Văn Xô làm chủ biên thì: “Kháng nghị là bày tỏ ý kiến để

phản đối một việc gì” [74, tr345]. Trong liệt kê của tác giả có ví dụ “Bản

kháng nghị”. Như vậy, kháng nghị ở đây được hiểu là ý kiến phản đối một

việc gì đó nhưng được thể hiện bằng văn bản.

Cũng đề cập đến khái niệm kháng nghị, nhưng tác giả Nguyễn Duy

Lãm đã đưa ra khái niệm kháng nghị trong “Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông

dụng”, do Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 1996 như sau: “Kháng nghị

là việc người có thẩm quyền bằng văn bản của mình gửi đến Tòa án cấp có thẩm

quyền làm ngừng hiệu lực phán quyết của Tòa án trong bản án hoặc quyết định

để xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm làm cho vụ

án được xét xử chính xác, khách quan và đúng pháp luật” [27, tr.192]. Tuy

nhiên, theo chúng tôi thì khái niệm này chưa hoàn toàn chính xác, bởi theo

quy định của pháp luật về TTHS thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

không mặc nhiên làm ngừng hiệu lực pháp luật của bản án hoặc quyết định,

trừ khi người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ra quyết định tạm

đình chỉ thi hành đối với bản án, quyết định bị kháng nghị.

Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Như Thắng cũng đã đưa ra

khái niệm về kháng nghị như sau: “Kháng nghị trong TTHS là hoạt động tố

tụng của người có thẩm quyền, thể hiện bằng văn bản bày tỏ sự phản đối, bản

án, quyết định của Tòa án và đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản

án, quyết định đó, nhằm làm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy định

của pháp luật” [65, tr.12]. Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với khái niệm về

8

kháng nghị này, vì tác giả đã gắn kháng nghị với hoạt động tố tụng, thể hiện

đầy đủ nội hàm của khái niệm và đúng với thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm

và cả tái thẩm.

Đối với khái niệm về giám đốc thẩm, vẫn còn có nhiều quan điểm khác

nhau trong các nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn áp dụng

pháp luật. Có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt

để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị

người có thẩm quyền kháng nghị vì phát hiện có sai lầm nghiêm trọng trong

việc xử lý vụ án” [65, Tr10]; có quan điểm lại cho rằng: “Giám đốc thẩm là

hình thức đặc thù để kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp của các quyết định,

bản án của Tòa án” [72]; hoặc có quan điểm cho rằng: “Giám đốc thẩm là

một giai đoạn TTHS, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ án mà bản

án đã có HLPL về vụ án đó bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật

trong việc xử lý vụ án, nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo

đảm cho việc áp dụng thống nhất pháp luật..”. [68]; hay: “Giám đốc thẩm là

một thủ tục đặc biệt được áp dụng để phát hiện và khắc phục bản án, quyết

định giải quyết vụ án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm

nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết” [71, tr.6].

Nhìn chung, các quan điểm này đều cho rằng giám đốc thẩm là việc xét lại

bản án, quyết định của Tòa án đã có HLPL, nhưng có quan điểm thì cho rằng

giám đốc thẩm là một giai đoạn TTHS, quan điểm khác thì cho rằng đó là một

thủ tục tố tụng.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của

pháp luật về tố tụng hình sự trong BLTTHS, học viên cho rằng “Giám đốc

thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật

nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.

9

Trong khi đó, theo khoản 2 Điều 104 Hiến pháp năm 2013 và khoản 2

Điều 21 Luật TCTAND năm 2014 thì giám đốc việc xét xử của các Tòa án

khác là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của TANDTC. BLTTHS năm

2015 đã bỏ quy định “Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án cấp

dưới” [46, Đ21] mà BLTTHS năm 2003 đã quy định. Như vậy có nghĩa rằng

hoạt động giám đốc việc xét xử chỉ do TANDTC thực hiện, nhằm kiểm tra

tính đúng đắn về hoạt động xét xử của các Tòa án. Thông qua hoạt động giám

đốc việc xét xử, TANDTC có thể phát hiện những vi phạm, sai lầm trong hoạt

động xét xử để kịp thời nhắc nhở, rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục;

tổng kết kinh nghiệm xét xử để hướng dẫn áp dụng pháp luật một cách thống

nhất và phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại

theo thủ tục giám đốc thẩm để thông báo cho người có thẩm quyền kháng

nghị. Theo nghĩa này, hoạt động giám đốc việc xét xử là hoạt động mang tính

hành chính hơn là hoạt động tố tụng cụ thể; còn giám đốc thẩm là một hoạt

động tố tụng có tính chất “thủ tục tố tụng đặc biệt”. Khác với BLTTHS 2003,

giám đốc việc xét xử được quy định là một nguyên tắc cơ bản thì BLTTHS

2015 lại không quy định nguyên tắc này.

Thực tiễn thi hành BLTTHS, để giám đốc thẩm một vụ án hình sự thì

cần có nhiều hoạt động tố tụng như: phát hiện bản án, quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;

ra quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị; xét xử

giám đốc thẩm,… Trong các hoạt động này thì hoạt động kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm là quan trọng nhất, vì không có hoạt động này thì thủ tục

giám đốc thẩm không diễn ra.

Trong nghiên cứu của mình, tác giả Trần Minh Tú đã đưa ra khái niệm

về kháng nghị giám đốc thẩm: “Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình

sự là việc người có thẩm quyền ban hành một văn bản tố tụng can thiệp trực

10

tiếp vào một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật do có sai lầm nghiêm trọng trong quá trình xử lý vụ án. Kháng nghị

giám đốc thẩm làm phát sinh việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm có thể

dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm dứt hiệu lực pháp luật của một phần hay toàn

bộ bản án, quyết định bị kháng nghị” [71, tr.9]. Còn tác giả Đinh Văn Quế

cho rằng: “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là quyết định của người có

thẩm quyền đối với một phần hoặc toàn bộ bản án hay quyết định đã có HLPL

để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm” [37].

Như vậy, các quan điểm đều cho rằng kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền được quy định trong

BLTTHS để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại những bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ cho rằng bản án, quyết định có vi

phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Người có thẩm

quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được pháp luật tố tụng giới hạn

là những chủ thể nhất định. Bên cạnh đó, BLTTHS cũng quy định các dấu

hiệu đặc trưng của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như căn cứ, thời

hạn, trình tự…

Từ các luận điểm trên, học viên cho rằng: Kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm trong tố tụng hình sự là hoạt động của người có thẩm quyền được

quy định trong BLTTHS, bằng một văn bản tố tụng nêu rõ lý do và mục đích,

đề nghị Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật nhưng có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải

quyết vụ án. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong một số trường hợp

sẽ làm phát sinh việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định và việc xét lại

theo thủ tục giám đốc thẩm, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được đúng quy

định của pháp luật.

11

1.1.1.2. Ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Trong hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm thể hiện tính ưu việt của chính sách pháp luật hình sự Việt

Nam. Đây được coi là một “công cụ” hữu hiệu nhằm khắc phục, sửa chữa

những sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để

đảm bảo tính đúng đắn, hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những

người tham gia tố tụng, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt

động tố tụng hình sự, làm cho công tác áp dụng pháp luật nói chung và áp

dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết, xét xử các vụ án hình sự nói riêng

ngày càng thống nhất.

Thông qua công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, các nguyên

tắc cơ bản của BLTTHS được bảo đảm thực hiện, góp phần bảo đảm công

bằng xã hội, là một kênh thông tin quan trọng để nhân dân giám sát hoạt động

xét xử của Tòa án. Thông qua đó, các nguyên nhân dẫn đến vi phạm trong bản

án, quyết định như quy định của pháp luật còn chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc còn

có bất cập, khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn dẫn đến nhận thức khác nhau

của những người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng,... được tập hợp

để từ đó có những đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, hoàn thiện

hoặc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.

1.1.2. Trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Trình tự là sự sắp xếp theo thứ tự trước, sau, hay là thứ tự diễn ra từ

đầu đến cuối. Trong một hoạt động nhất định thì trình tự là các bước tiến hành

những công việc theo thứ tự trước, sau để đạt được một mục tiêu cụ thể. Để

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với một vụ án hình sự cụ thể cũng

cần phải theo một trình tự nhất định, theo quy định của BLTTHS. Cụ thể:

Một là: Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa

12

án có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Theo đó, người bị

kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật

trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo

cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh

đó, đối với Tòa án, VKS, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

mình, khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định đã có

HLPL thì thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị biết để xem xét,

quyết định có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay không.

Hai là: Thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi

phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc thông báo được thực

hiện sau khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm

nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Khi đó, người bị kết án, cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thể lựa chọn hình thức thông báo hoặc là bằng văn bản hoặc

là trình bày trực tiếp; và có thể thông báo với người có thẩm quyền kháng

nghị hoặc với Tòa án, VKS nơi gần nhất. Quá trình thông báo, người thông

báo có thể cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh nội

dung thông báo của mình. Nếu việc thông báo bằng văn bản thì cần nêu đầy

đủ nội dung: ngày, tháng năm thông báo; tên, địa chỉ cơ quan, tổ chức, cá

nhân thông báo; bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có vi

phạm pháp luật cần được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; nội dung của

vi phạm pháp luật được phát hiện và kiến nghị đối với người có thẩm quyền

xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Văn bản thông báo của cá

nhân thì phải được ký tên hoặc điểm chỉ; văn bản của cơ quan, tổ chức thì

người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu. Đối với việc thông báo

bằng trình bày trực tiếp thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản.

Ba là: Tiếp nhận thông báo bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Việc này được thực

13

hiện bởi Tòa án, Viện kiểm sát. Theo đó, khi nhận được thông báo, kể cả

bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp, thì Tòa án, Viện kiểm sát phải vào sổ

nhận thông báo; sau đó gửi ngay thông báo (văn bản hoặc biên bản nếu trình

bày trực tiếp) cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho người phát hiện bản án, quyết

định có vi phạm được biết.

Bốn là: Chuyển hồ sơ vụ án có bản án, quyết định được thông báo có

vi phạm. Sau khi tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu

lực pháp luật có vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án, Viện kiểm

sát có thẩm quyền nếu xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để giải

quyết theo thủ tục giám đốc thẩm thì yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ

án chuyển hồ sơ để nghiên cứu. Việc yêu cầu này được thể hiện bằng văn bản

và trong thực tiễn thường là quyết định rút hồ sơ vụ án. Trong thời hạn 07

ngày, Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án phải chuyển hồ sơ cho cơ quan có yêu

cầu. Trường hợp cả Tòa án và VKS cùng yêu cầu thì Tòa án quản lý hồ sơ

chuyển cho cơ quan có yêu cầu trước và thông báo cho cơ quan yêu cầu sau.

Năm là: Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi xem xét, nếu

xét thấy có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, người có thẩm

quyền kháng nghị ban hành quyết định kháng nghị giám đốc thẩm và trong

trường hợp cần thiết thì ban hành quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án,

quyết định bị kháng nghị; đồng thời gửi các quyết định đến cá nhân, cơ quan,

tổ chức có liên quan ngay sau khi được ban hành.

1.1.3. Phân biệt kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng

nghị theo thủ tục tái thẩm

Trong hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam, cùng tính chất là thủ tục xét

lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, ngoài thủ tục giám

đốc thẩm còn có thủ tục tái thẩm. Khác với xét lại bản án, quyết định Tòa án

14

đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp

luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án là thủ tục giám đốc thẩm, thì

việc xét lại bản án, quyết định Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng

nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung

của bản án, quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định

đó chính là thủ tục tái thẩm. Do đó, kháng nghị theo hai thủ tục này cũng có

những điểm khác nhau về căn cứ để kháng nghị, về chủ thể kháng nghị, về

trình tự kháng nghị.

1.1.3.1. Về căn cứ để kháng nghị

Các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng nghị

theo thủ tục tái thẩm đều được quy định trong BLTTHS năm 2015. Khi có

một trong những căn cứ được liệt kê thì người có thẩm quyền kháng nghị có

quyền ban hành quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc quyết

định kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Trong đó:

- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có 03 căn cứ. Theo

đó tại Điều 371 BLTTHS năm 2015 quy định gồm: “Kết luận trong bản án,

quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ

án; Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử

dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; Có sai lầm nghiêm

trọng trong việc áp dụng pháp luật”. [46, Đ371].

- Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có 04 căn cứ. Theo đó tại

Điều 371 BLTTHS năm 2015 quy định gồm: “Có căn cứ chứng minh lời khai

của người làm chứng, kết luận giám định, kết luận định giá tài sản, lời dịch

của người phiên dịch, bản dịch thuật có những điểm quan trọng không đúng

sự thật; Có tình tiết mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm do

không biết được mà kết luận không đúng làm cho bản án, quyết định của Tòa

án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ án; Vật

15

chứng, biên bản về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, biên bản hoạt động tố

tụng khác hoặc những chứng cứ, tài liệu, đồ vật khác trong vụ án bị giả mạo

hoặc không đúng sự thật; Những tình tiết khác làm cho bản án, quyết định

của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật không đúng sự thật khách quan của vụ

án” [46, Đ398].

1.1.3.2. Về chủ thể kháng nghị

Chủ thể kháng nghị là người có thẩm quyền kháng nghị. Đây là những

chủ thể nhất định được quy định bởi pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định

của BLTTHS năm 2015, những người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm bao gồm: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC,

Chánh án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung ương, Chánh án

TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC; còn người có thẩm quyền kháng nghị

theo thủ tục tái thẩm chỉ bao gồm: Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng

VKSQS Trung ương và Viện trưởng VKSNDCC. Như vậy, giới hạn chủ thể

kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hẹp hơn chủ thể kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm.

Cụ thể theo Điều 373 BLTTHS năm 2015, chủ thể kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật của TANDCC hoặc bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa

án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC; Chánh án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung ương có

quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của TAQS cấp quân khu, TAQS khu vực; Chánh án TANDCC,

Viện trưởng VKSNDCC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện

trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Theo Điều 400 BLTTHS năm 2015

16

thì chủ thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm: Viện trưởng VKSNDTC có

quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC; Viện trưởng VKSQS trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục

tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp

quân khu, khu vực; Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục tái

thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh,

cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ [46].

1.1.3.3. Về trình tự kháng nghị

Trình tự kháng nghị theo thủ tục tái thẩm về cơ bản cũng bao gồm các

bước như trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đã đề cập cụ thể ở

tiểu mục 1.1.2 nêu trên. Tuy nhiên, do quy định giới hạn chủ thể có quyền

quyết định kháng nghị tái thẩm nên trình tự cũng có sự khác biệt nhất định.

Bên cạnh đó là việc quy định bổ sung trong trình tự kháng nghị theo thủ tục

tái thẩm là thủ tục xác minh tình tiết mới. Theo đó, trình tự kháng nghị theo

thủ tục tái thẩm bao gồm: (1) Phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực có tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án,

quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án, quyết định đó. Chủ thể

phát hiện là người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi cá nhân, hay nói cách

khác là mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền phát hiện tình tiết mới để đề nghị

xem xét lại vụ án theo thủ tục tái thẩm. (2) Người phát hiện bản án, quyết

định có tình tiết mới thông báo cho Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Trong trường

hợp Tòa án nhận được thông báo hoặc tự mình phát hiện ra tình tiết mới của

vụ án thì phải thông báo bằng văn bản cho Viện trưởng VKS có thẩm quyền

kháng nghị. (3) Tiếp nhận thông báo việc phát hiện bản án, quyết định có tình

tiết mới. Thủ tục này không được quy định chi tiết trong BLTTHS năm 2015

nên được thực hiện như đối với trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc

17

thẩm theo quy định theo Điều 403 BLTTHS năm 2015. (4) Sau khi tiếp nhận

thông báo việc phát hiện bản án, quyết định có tình tiết mới, Viện trưởng

VKS có thẩm quyền quyết định kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh

các tình tiết mới đã được thông báo. Ở thủ tục này, VKS có thẩm quyền

kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nếu xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ

vụ án để giải quyết thì yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án chuyển hồ sơ

để nghiên cứu, việc chuyển hồ sơ vụ án cũng được thực hiện tương tự như

trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong quá trình VKS xác

minh những tình tiết mới của vụ án, nếu xét thấy cần thiết có quyền yêu cầu

Cơ quan điều tra có thẩm quyền xác minh và chuyển kết quả xác minh cho

mình. (5) Khi có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm, Viện trưởng

VKS có thẩm quyền ban hành quyết định kháng nghị tái thẩm. Quyết định

này phải được gửi đến cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan ngay sau khi

được ban hành.

1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm

1.2.1. Quy định về căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm

Căn cứ này được quy định cụ thể tại Điều 371 BLTTHS năm 2015.

Theo đó, các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án có thể bị kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ sau:

“1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp

với những tình tiết khách quan của vụ án;

2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố,

xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;

3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”. [46].

So với BLTTHS năm 2003, quy định của BLTTHS năm 2015 đã được

18

bỏ bớt một căn cứ, đó là: “Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc

không đầy đủ” [45, Đ273]. Chúng tôi cho rằng việc bỏ căn cứ này là hợp lý,

bởi nếu việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ thì sẽ

dẫn đến kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với

những tình tiết khách quan của vụ án.

Để làm rõ hơn về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các căn cứ

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, chúng tôi xin được đánh giá, phân

tích như sau:

Thứ nhất: Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp

với những tình tiết khách quan của vụ án.

Tình tiết khách quan của vụ án là những tình tiết có thật xảy ra trong vụ

án, được những người tiến hành tố tụng thu thập, chứng minh trong quá trình

giải quyết vụ án, có trong hồ sơ vụ án, được Tòa án thẩm tra công khai tại

phiên tòa. Các tình tiết này trong thực tiễn được diễn giải ở phần nội dung

trong bản án. Còn kết luận trong bản án, quyết định là những quan điểm, nhận

định, đánh giá của Tòa án về nội dung vụ án, các tình tiết liên quan, các

chứng cứ, tài liệu để chứng minh tội phạm và quyết định về tội danh, hình

phạt, án phí, bồi thường thiệt hại,… Các kết luận thể hiện sự hiểu biết, ý chí,

nhận thức chủ quan của Hội đồng xét xử khi xem xét, đánh giá trong quá trình

giải quyết vụ án và trong bản án, quyết định là phần nhận định và quyết định

của Tòa án. Như vậy, để kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án được

phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án thì Tòa án phải xem xét

thận trọng, đánh giá toàn diện các mặt, các mối quan hệ của mỗi tình tiết

trong vụ án và phải đặt các tình tiết trong vụ án trong mối quan hệ biện

chứng; phải lấy sự thật làm căn cứ để kết luận, đánh giá về vụ án, không được

suy diễn hoặc có kết luận mang tính chủ quan, áp đặt về vụ án khi chưa xem

xét, đánh giá toàn bộ các tình tiết của vụ án. Điều này cũng có nghĩa rằng,

19

trong phần nhận định, trong phần quyết định của bản án, quyết định phải có

những đánh giá, nhận xét, phân tích, nhận định và quyết định phù hợp với

những tình tiết khách quan đã thu thập được trong hồ sơ vụ án và đã được

xem xét tại phiên toà hoặc những tình tiết khách quan đã được làm rõ tại

phiên toà qua xét hỏi, tranh luận. Có như vậy mới bảo đảm thực hiện được

một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2015 là “Xác định sự

thật của vụ án” [46, Đ15]. Nếu kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án

không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án sẽ dẫn đến việc giải

quyết vụ án không chính xác, không bảo đảm “xác định sự thật của vụ án” thì

cần phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Trung Kiên cho rằng:

“kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với các tình tiết

khách quan là việc các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm các quy định

của pháp luật trong quá trình chứng minh tội phạm, các vi phạm này hoàn

toàn có thể bị phát hiện trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án và xét xử

nhưng Tòa án không phát hiện ra dẫn đến việc ra bản án không đúng với sự

thật khách quan của vụ án. Hậu quả là các bản án, quyết định này phải bị

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo tính đúng pháp luật” [26,

tr.17]. Chúng tôi cho rằng đây là nhận thức hoàn toàn phù hợp với quy định

của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành.

Thứ hai: Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy

tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.

Khác với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã có quy định như

thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Theo đó, vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực

hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, do

20

đó đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia

tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện

của vụ án [46, Đ4].

- Về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra:

Điều này chủ yếu được thể hiện ở các mặt như: thành phần, trình tự, thủ tục

không đúng quy định của BLTTHS khi khám nghiệm hiện trường, khám

nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra; nhập hoặc

tách vụ án không đúng quy định theo Điều 170 BLTTHS năm 2015; không

trưng cầu giám định hoặc trưng cầu giám định không đúng cơ quan chuyên

môn theo quy định của BLTTHS để xác định: nguyên nhân chết người, cơ chế

gây thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe; trình trạng tâm thần của bị can,

người bị hại, người làm chứng khi có nghi ngờ về năng lực chịu trách nhiệm

hình sự của bị can, khả năng nhận thức, tính đúng đắn của lời khai của người

người bị hại, người làm chứng về các tình tiết khách quan của vụ án; xác định

tuổi của bị can, người bị hại; xác định chất, khối lượng hoặc hàm lượng của

chất độc, ma túy, chất nổ, chất phóng xạ, xác định tiền giả; việc giám định

không do giám định viên quy định bởi BLTTHS tiến hành giám định.

Việc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra còn

có thể là việc Điều tra viên có hành vi bức cung, nhục hình đối với bị can

trong quá trình điều tra; cơ quan điều tra không yêu cầu Đoàn Luật sư phân

công Văn phòng Luật sư cử Luật sư tham gia bào chữa cho bị can trong quá

trình điều tra đối với các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo

quy định (trừ trường hợp bị can, người đại diện hợp pháp của bị can đã mời

hoặc từ chối người bào chữa)…

Các vi phạm này trong thực tiễn thường được phát hiện, khắc phục

trong giai đoạn truy tố và xét xử, hậu quả sẽ là trả hồ sơ để điều tra bổ sung,

21

hoặc đình chỉ vụ án, hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội.

- Về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn truy tố: Kế

tiếp giai đoạn điều tra, trên cơ sở hồ sơ do Cơ quan điều tra thu thập, căn cứ

quy định của BLTTHS, VKS có thể ra một trong các quyết định: Truy tố bị

can ra Tòa án để xét xử, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc ra quyết định

tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án. Hoạt động truy tố của VKS được thông qua bản

cáo trạng, thể hiện các nội dung truy tố người nào có hành vi phạm tội, phạm

tội danh nào, đề xuất khung hình phạt như thế nào, trách nhiệm bồi thường

thiệt hại,… Các vi phạm ở giai đoạn này tuy ít xảy nhưng trong thực tiễn

không phải là không có. Chẳng hạn như việc truy tố sai thẩm quyền, tách vụ

án trong giai đoạn truy tố không đúng quy định, truy tố người không thực

hiện hành vi phạm tội,… Trên thực tế, các vi phạm trong giai đoạn truy tố

thường được phát hiện và khắc phục trong giai đoạn xét xử.

- Về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử:

Trong thực tiễn công tác giám đốc thẩm, việc phát hiện các vi phạm này phổ

biến hơn các vi phạm trong giai đoạn khởi tố, điều tra hoặc truy tố. Việc vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử cũng được thể hiện

một cách đa dạng. Chẳng hạn như xét xử sai thẩm quyền, xác định sai tư cách

của người tham gia tố tụng, khi xét xử không đưa đầy đủ những người tham

gia tố tụng (cần thiết) vào tham gia tố tụng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến

quyền lợi và nghĩa vụ của họ hoặc không đảm bảo việc làm rõ sự thật khách

quan của vụ án…

Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử còn thể

hiện trong việc vi phạm quy định về giới hạn xét xử, không đình chỉ vụ án đối

với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại theo khoản 1 Điều 155

BLTTHS năm 2015 nhưng người bị hại đã rút yêu cầu trước khi mở phiên tòa

22

sơ thẩm, kháng cáo quá hạn mà không có lý do chính đáng theo quy định của

BLTTHS nhưng Tòa án cấp phúc thẩm vẫn chấp nhận và tiến hành các thủ

tục tố tụng, mở phiên tòa phúc thẩm.

Khi giải quyết vụ án hình sự Tòa án không xem xét giải quyết vấn đề

dân sự trong vụ án hình sự, trong khi đã có đủ căn cứ chứng minh để giải

quyết vấn đề dân sự, mà lại tách ra để giải quyết một vụ án dân sự riêng biệt

dẫn đến việc xem xét trách nhiệm hình sự của bị cáo bị ảnh hưởng cũng là vi

phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử.

Tòa án phân công Hội đồng xét xử sơ thẩm, phúc thẩm không đúng quy

định không đúng quy định của BLTTHS cũng là một vi phạm nghiêm trọng

thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử. Ví dụ một số trường hợp như: khi xét

xử sơ thẩm đối với vụ án “có bị cáo về tội mà BLHS quy định mức cao nhất

của khung hình phạt là chung thân hoặc tử hình”, nhưng lại chỉ phân công

Hội đồng xét xử gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm là vi phạm quy định tại

khoản 1 Điều 254 BLTTHS năm 2015; hoặc khi xét xử sơ thẩm vụ án có

người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng lại không phân công “Hội thẩm nhân dân

là giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có

kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi” tham gia Hội đồng xét xử

[60]; hoặc Hội đồng xét xử có Thẩm phán hoặc Hội thẩm đã từng tham gia

Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng vụ án đó với

tư cách là Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm

tra viên, Thư ký Tòa án.

Thứ ba: Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Căn cứ này trong BLTTHS năm 2015 đã có sự thay đổi, mở rộng hơn

so với BLTTHS năm 2003, quy định “sai lầm nghiêm trọng trong việc áp

dụng pháp luật” chung đã được thay thế cho “sai lầm nghiêm trọng trong việc

áp dụng Bộ luật Hình sự”. Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật

23

được hiểu bao gồm: Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình

sự, sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dân sự trong giải quyết

vụ án hình sự và sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định khác

của pháp luật khác trong giải quyết vụ án hình sự. Trong đó:

- Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật hình sự, là sai lầm

khi áp dụng BLHS. Điều đó thể hiện qua việc kết án người không có hành vi

phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu thành tội phạm, kết án người chưa đủ

tuổi chịu trách nhiệm hình sự, định tội danh sai, áp dụng sai hình phạt hoặc

sai khung hình phạt, bỏ lọt tội phạm, cho hưởng án treo không đúng quy định

của BLHS…

- Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dân sự trong giải

quyết vụ án hình sự, thể hiện trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến

tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. Vi phạm này thường xảy ra

như: Buộc người không có trách nhiệm bồi thường phải bồi thường thiệt hại,

xác định các khoản bồi thường, mức bồi thường không đúng quy định của

pháp luật. Chẳng hạn như việc Tòa án khi xét xử các vụ án về chiếm đoạt tài

sản lại không quyết định việc trả lại, bồi thường đối với tài sản bị chiếm đoạt;

trong vụ án xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm lại

không kết luận và quyết định việc bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm; hay không xem xét, quyết định việc

cấp dưỡng trong vụ án xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe hoặc vụ án vi

phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà người bị hại

đã chết…

Vấn đề này trước đây đã được hướng dẫn cụ thể tại Công văn số

121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao và Nghị quyết

số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC

24

hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và giải quyết các vấn đề

liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự. Tuy nhiên,

trong thực tiễn xét xử vẫn có một số Tòa án mắc phải các sai lầm trên.

- Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định khác của pháp

luật khác trong giải quyết vụ án hình sự. Đó là các sai lầm khi áp dụng các

luật chuyên ngành như: Luật giám định tư pháp, Luật công chứng, Luật giao

thông đường bộ, Luật bảo vệ môi trường, các nghị quyết của Hội đồng Thẩm

phán TANDTC và các văn bản quy phạm pháp luật khác trong giải quyết một

vụ án hình sự cụ thể.

1.2.2. Quy định về thời hạn và chủ thể có thẩm quyền kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm

1.2.2.1. Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

Tại khoản 1 Điều 379 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc kháng nghị

theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời

hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật” [46, Đ379].

Điều đó có nghĩa rằng, khi kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đề nghị

sửa án hoặc hủy án để điều tra, truy tố hoặc xét xử lại về một loại tội danh có

khung hình phạt nặng hơn, hoặc tăng hình phạt, hoặc tăng khung hình phạt

hoặc không cho bị cáo được hưởng án treo, tăng bồi thường đối với bị cáo,…

thì không được kháng nghị khi đã quá 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật. Còn việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết

án thì có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trong trường hợp người bị

kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

Khi nghiên cứu về vấn đề này, tác giả Nguyễn Như Thắng cho rằng:

Quy định thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không chỉ về phần

trách nhiệm hình sự của người bị kết án, mà còn bao gồm các biện pháp tư

pháp (như tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội, tịch thu vật,

25

tiền do phạm tội mà có, tịch thu vật Nhà nước cấm buôn bán, lưu hành…) nếu

có lợi cho người bị kết án thì có thể kháng nghị bất cứ lúc nào, còn ngược lại

thì thời hạn kháng nghị là 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật [65]; tác giả Trần Minh Tú thì bổ sung: Nếu đã ban hành kháng nghị

theo hướng bất lợi cho người bị kết án thì trước khi mở phiên tòa hoặc tại

phiên tòa giám đốc thẩm, người đã ban hành kháng nghị vẫn có quyền thay

đổi, bổ sung kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án đó mà không

bị giới hạn về thay đổi, bổ sung kháng nghị [71]. Chúng tôi cho rằng, các

quan điểm trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của BLTTHS năm 2015.

Kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án cần được hiểu là kháng

nghị để xét xử về một tội danh ít nghiêm trọng hơn, chuyển từ khung hình

phạt cao xuống khung hình phạt thấp, chuyển hình phạt tù sang cho hưởng án

treo hoặc áp dụng hình phạt khác như cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh

cáo,…

Tuy chưa có quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc của thời hạn 01

năm trong thời hạn kháng nghị theo thủ giám đốc thẩm như thế nào, nhưng

theo chúng tôi thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là 0 giờ của

ngày kế tiếp ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và thời điểm kết

thúc là 24 giờ ngày cuối cùng tròn 01 năm tính từ ngày bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật. Ví dụ, bản án phúc thẩm tuyên án (có hiệu lực pháp luật)

ngày 01/02/2020, thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị bắt đầu từ 0

giờ ngày 02/02/2020 và thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị là 24 giờ ngày

01/02/2021. Nếu ngày kết thúc thời hạn kháng nghị là ngày nghỉ hoặc ngày lễ

“thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là ngày cuối cùng của thời

hạn” [46, Đ134].

Tại khoản 3 Điều 379 BLTTHS năm 2015 quy định: “Việc kháng nghị

về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định

26

của pháp luật về tố tụng dân sự” [46, k3Đ379]. Như vậy, khi kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm về vấn đề dân sự có liên quan đến đương sự (gồm

nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến

vụ án hình sự) thì được thực hiện theo quy định của BLTTDS về thời hạn

kháng nghị. Theo Điều 334 BLTTDS năm 2015 thì người có thẩm quyền

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm có quyền kháng nghị trong thời hạn

03 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Thời hạn này

được kéo dài thêm 02 năm nếu đương sự đã có đơn đề nghị giám đốc thẩm

trong thời hạn 03 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và

sau khi hết thời hạn 03 năm đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị; hoặc bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật, xâm phạm

nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba,

xâm phạm lợi ích cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để

khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực đó [46, Đ334].

1.2.2.2. Về chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm

Theo quy định tại Điều 373 BLTTHS năm 2015, các chủ thể có quyền

kháng nghị bao gồm: Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC; Chánh

án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung ương; Chánh án TANDCC,

Viện trưởng VKSNDCC; nhưng được phân cấp cụ thể. Trong đó:

“1. Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của TANDCC; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội

đồng Thẩm phán TANDTC.

2. Chánh án TAQS trung ương, Viện trưởng VKSQS trung

27

ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của TAQS cấp quân khu, TAQS khu

vực.

3. Chánh án TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC có quyền

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi

thẩm quyền theo lãnh thổ. [46, Đ373]

So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung chủ thể

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Chánh án TANDCC, Viện

trưởng VKSNDCC; đồng thời bỏ quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm của Chánh án TAND và Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Chánh án TAQS

và Viện trưởng VKSQS cấp quân khu.

Trong thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật, chủ thể kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm còn được mở rộng đến Phó Chánh án Tòa án nếu được

Chánh án phân công hoặc ủy quyền và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nếu

được Viện trưởng phân công hoặc ủy quyền.

1.2.3. Quy định về trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

- Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực cần xem xét lại theo

thủ tục giám đốc thẩm:

Tại Điều 372 BLTTHS năm 2015 quy định: “Người bị kết án, cơ quan,

tổ chức và mọi cá nhân có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có

thẩm quyền kháng nghị” [46, Đ372]. Theo quy định này thì mọi cơ quan, tổ

chức, cá nhân đều có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản

án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho người có

thẩm quyền kháng nghị được quy định tại Điều 373. Việc không hạn chế

28

quyền phát hiện các vi phạm như nêu trên nhằm đảm bảo quyền giám sát của

toàn xã hội đối với hoạt động giải quyết, xét xử các loại vụ án nói chung và

đối với án hình sự nói riêng của Tòa án.

Đối với TAND cấp tỉnh, tuy không còn thẩm quyền kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm như quy định tại BLTTHS năm 2003, nhưng thông qua

thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND

cấp huyện, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì kiến nghị Chánh án

TANDTC hoặc Chánh án TANDCC xem xét kháng nghị.

Đối với TAQS cấp quân khu, cũng không có thẩm quyền kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm như quy định tại BLTTHS năm 2003, nhưng

thông qua thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của TAQS cấp khu vực, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật thì kiến nghị

Chánh án TAQS trung ương xem xét kháng nghị.

Ngoài ra, khi thực hiệc công tác giám đốc việc xét xử, kiểm sát việc xét

xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà Tòa án, Viện kiểm sát phát hiện vi

phạm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo

ngay cho người có thẩm quyền kháng nghị được biết để xem xét kháng nghị.

Tuy thủ tục này đã được quy định chi tiết và đầy đủ hơn BLTTHS năm

2003, nhưng theo học viên vẫn cần phải quy định bổ sung đối với việc kiến

nghị của TAND cấp tỉnh là cả kiến nghị với Viện trưởng VKSNDTC, Viện

trưởng VKSNDCC cho phù hợp với quy định về quyền phát hiện bản án,

quyết định có vi phạm và thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;

và đối với việc kiến nghị của TAQS cấp quân khu cần bổ sung thêm cả việc

kiến nghị với Viện trưởng VKSNDTC và Chánh án TANDTC cho phù hợp

với quy định về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

- Thủ tục thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

29

pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm

Đây là quy định mới so với BLTTHS năm 2003. Theo đó, tại Điều 374

BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án,

quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án, cơ quan,

tổ chức, cá nhân thông báo bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp với người

có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tòa án, Viện kiểm sát nơi gần nhất kèm

theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có)” [46, k1Đ374]. Quy định mang tính

tùy nghi đối với việc thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực

pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm có thể bằng văn bản hoặc có

thể thông qua trình bày trực tiếp nhằm tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức thực

hiện quyền phát hiện vi phạm trong bản án, quyết định; kịp thời phát hiện bản

án có vi phạm cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm để hạn chế đến mức

thấp nhất tình trạng oan sai hoặc giảm thiểu thiệt hại về quyền và lợi ích hợp

pháp của cá nhân, tổ chức có liên quan. Khi thông báo bằng văn bản thì nội

dung thông báo theo quy định tại khoản 2 Điều 374 BLTTHS năm 2015. Văn

bản phải được điểm chỉ hoặc ký tên nếu người thông báo là cá nhân; nếu là cơ

quan, tổ chức thông báo thì người có phải có chữ ký của người đại diện theo

pháp luật và con dấu của cơ quan, tổ chức đó.

- Thủ tục tiếp nhận thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm

Đây cũng là một quy định mới so với BLTTHS năm 2003 và thủ tục

này được quy định tại Điều 375 BLTTHS năm 2015. Theo đó, khi Tòa án,

Viện kiểm sát nhận được thông báo bằng văn bản thì phải vào sổ nhận thông

báo; nếu nhận thông báo thông qua trình bày trực tiếp thì phải lập biên bản,

đồng thời lập biên bản thu giữ vật chứng, tài liệu hoặc đồ vật nếu được người

thông báo cung cấp. Sau khi nhận được thông báo từ người thông báo, Tòa

án, Viện kiểm sát phải gửi văn bản thông báo, biên bản sự việc thông báo và

30

biên bản thu giữ vật chứng, tài liệu hoặc đồ vật (nếu có) đến người có thẩm

quyền kháng nghị; đồng thời thông báo nội dung này bằng văn bản đến người

phát hiện bản án, quyết định có sai lầm cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc

thẩm được biết..

Các biên bản được lập trong quy định này được thực hiện theo Điều

133 BLTTHS năm 2015. Nội dung biên bản phải theo mẫu thống nhất, ghi rõ

địa điểm, giờ, ngày, tháng, năm lập biên bản, những người tham gia lập biên

bản, nội dung lập biên bản,....

- Chuyển hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm

Đây cũng là một quy định mới nữa so với BLTTHS năm 2003 và được

quy định tại Điều 376 BLTTHS năm 2015. Điều luật quy định rằng: “Trường

hợp cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ án để xem xét kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm thì Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản

để Tòa án đang quản lý hồ sơ chuyển hồ sơ vụ án” [46, Đ376]. Như vậy, việc

yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án phải bằng văn bản (thường là quyết định rút hồ

sơ). Khi nhận được văn bản yêu cầu thì Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án phải

chuyển hồ sơ cho cơ quan yêu cầu trong vòng 07 ngày kể từ ngày nhận được

văn bản yêu cầu. Điều luật cũng quy định về trường hợp cả Tòa án và Viện

kiểm sát cùng có văn bản yêu cầu chuyển hồ sơ để nghiên cứu, xem xét kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án phải

chuyển cho cơ quan yêu cầu trước và phải thông báo việc đã chuyển hồ sơ

cho cơ quan có yêu cầu sau biết. Việc chuyển hồ sơ và thông báo việc đã

chuyển hồ sơ trong quy định này là nghĩa vụ phải thực hiện của Tòa án đang

quản lý hồ sơ vụ án.

1.2.4. Quy định về quyết định kháng nghị giám đốc thẩm và các

vấn đề liên quan

31

1.2.4.1. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm

Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm được quy định tại Điều 378

BLTTHS năm 2015. Theo đó, quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải có

đầy đủ các các nội dung chính như:

“1. Số, ngày, tháng năm của quyết định;

2. Người có thẩm quyền ra quyết định;

3. Số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định bị kháng nghị;

4. Nhận xét, phân tích những vi phạm pháp luật, sai lầm của

bản án, quyết định bị kháng nghị;

5. Căn cứ pháp luật để quyết định kháng nghị;

6. Quyết định kháng nghị toàn bộ hay một phần bản án, quyết

định;

7. Tên của Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án;

8. Yêu cầu của người kháng nghị” [46, Đ 378].

So với quy định của BLTTHS năm 2003 chưa quy định việc kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải bằng quyết định cụ thể mà chỉ quy định

một cách chung chung: “kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải nêu rõ

lý do” [45, Đ277], thì BLTTHS năm 2015 đã pháp điển hóa thành một điều

luật cụ thể được quy định trong BLTTHS hiện hành. Như vậy, nội dung quyết

định kháng nghị phải chỉ rõ được bản án, quyết định có vi phạm nghiêm trọng

cần phải xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm; phải đánh giá, phân tích và

nhận xét các vi phạm pháp luật, sai lầm của bản án, quyết định là căn cứ để

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và phải chỉ rõ Tòa án có thẩm quyền

giám đốc thẩm...

1.2.4.2. Tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định bị kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm

Thủ tục này theo BLTTHS năm 2015 so với BLTTHS năm 2003 được

32

quy định cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau là BLTTHS năm 2015 được hoàn

thiện hơn về mặt câu chữ. Theo đó, việc tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết

định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Điều 377

BLTTHS năm 2015. Điều luật này quy định người ra quyết định kháng nghị

giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực phá luật có quyền

quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó. Việc tạm đình chỉ thi

hành có thể là đối với toàn bộ bản án, quyết định hoặc một phần bản án, quyết

định tùy thuộc vào việc kháng nghị đối với toàn bộ hoặc một phần bản án,

quyết định. Thời hạn tạm đình chỉ tính từ ngày ra quyết định cho đến khi Tòa

án có thẩm quyền giải quyết xong thủ tục giám đốc thẩm. Tuy không có quy

định cụ thể về thời điểm ban hành và hình thức của quyết định tạm đình chỉ,

nhưng thông thường quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định được

ban hành đồng thời cùng thời điểm hoặc sau thời điểm đã ban hành quyết

định kháng nghị giám đốc thẩm; quyết định tạm đình chỉ có thể ban hành

bằng một văn bản riêng hoặc được quyết định ngay trong quyết định kháng

nghị giám đốc thẩm, nhưng thường thấy hơn cả là bằng một quyết định riêng.

Cũng tại điều luật này còn quy định quyết định tạm đình chỉ thi hành

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án bị kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm phải được gửi cho Tòa án, Viện kiểm sát nơi đã xét xử sơ

thẩm hoặc phúc thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền. Việc quy định

như vậy là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn công tác giám đốc thẩm nói chung

và kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nói riêng. Nó đảm bảo cho cơ quan

thi hành án có thẩm quyền thi hành bản án, quyết định có vi phạm, sai lầm

(nếu có) tạm thời dừng việc thi hành, tránh trường hợp có thể dẫn đến oan sai

hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân có liên

quan. Tuy nhiên, quy định này cũng chưa thật đầy đủ trong trường hợp

TANDTC kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định giám

33

đốc thẩm của TANDCC hoặc TAQS trung ương.

1.2.4.3. Gửi quyết định kháng nghị giám đốc thẩm

Thủ tục gửi quyết định kháng nghị giám đốc thẩm chưa được quy định

trong BLTTHS năm 2003 và chỉ mới được quy định BLTTHS năm 2015, tại

Điều 380. Theo đó, sau khi thấy có căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm, người có thẩm quyền ban hành quyết định kháng nghị và phải gửi ngay

cho Tòa án có bản án, quyết định bị kháng nghị, người bị kết án, cơ quan thi

hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền, những người có

quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan đến nội dung kháng nghị. Điều luật cũng

quy định việc gửi kèm hồ sơ vụ án đến Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm

khi gửi quyết định giám đốc thẩm:

- Trường hợp Chánh án TANDTC kháng nghị thì quyết định kháng

nghị và hồ sơ vụ án phải gửi ngay cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm.

Nếu kháng nghị đối với bản án, quyết định phúc thẩm hoặc quyết định giám

đốc thẩm của TANDCC, TAQS trung ương thì hồ sơ vụ án gửi và quyết định

kháng nghị đến VKSNDTC. Nếu Chánh án TANDTC kháng nghị đối với bản

án, quyết định của TAND cấp tỉnh, cấp huyện thì hồ sơ vụ án và quyết định

kháng nghị được gửi tới TANDCC có thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ hoặc

nếu kháng nghị đối với bản án, quyết định của TAQS cấp quân khu, cấp khu

vực thì hồ sơ vụ án cùng quyết định kháng nghị được gửi đến TAQS trung

ương. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo quyết định kháng nghị thì

TANDCC, TAQS trung ương phải gửi hồ sơ vụ án kèm theo quyết định

kháng nghị đến VKS cùng cấp; trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được

hồ sơ thì VKS phải gửi trả lại hồ sơ cho Tòa án.

- Trường hợp Chánh án TANDCC, Chánh án TAQS trung ương kháng

nghị thì phải gửi ngay hồ sơ vụ án và quyết định kháng nghị đến VKS cùng

cấp; trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ thì VKS phải gửi trả

34

lại hồ sơ cho Tòa án.

- Trường hợp Viện trưởng VKSNDTC, Viện trưởng VKSNDCC, Viện

trưởng VKSQS trung ương kháng nghị thì quyết định kháng nghị và hồ sơ vụ

án phải được gửi ngay cho Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm. Nếu Viện

trưởng VKSNDTC kháng nghị đối với bản án, quyết định phúc thẩm hoặc

quyết định giám đốc thẩm của TANDCC, TAQS trung ương thì hồ sơ vụ án

và quyết định kháng nghị gửi đến TANDTC; nếu kháng nghị đối với bản án,

quyết định của TAND cấp tỉnh, cấp huyện thì hồ sơ vụ án và quyết định

kháng nghị được gửi tới TANDCC có thẩm quyền theo phạm vi lãnh thổ hoặc

nếu kháng nghị đối với bản án, quyết định của TAQS cấp quân khu, cấp khu

vực thì hồ sơ vụ án cùng quyết định kháng nghị được gửi đến TAQS trung

ương. Nếu Viện trưởng VKSNDCC hoặc Viện trưởng VKSQS trung ương

kháng nghị thì hồ sơ vụ án và quyết định kháng nghị được gửi đến Tòa án

cùng cấp.

1.2.4.4. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị

Vấn đề thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị của người có thẩm quyền

kháng nghị giám đốc thẩm được quy định tại Điều 381 BLTTHS năm 2015.

Trong đó, việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị có thể được thực hiện

trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm. Riêng việc bổ sung,

thay đổi kháng nghị chỉ được thực hiện khi còn trong thời hạn kháng nghị.

Khi bổ sung, thay đổi hoặc rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa giám đốc

thẩm thì phải bằng quyết định; khi thực hiện tại phiên tòa giám đốc thẩm thì

được ghi vào biên bản phiên tòa.

Hậu quả pháp lý khi người kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị trước khi

mở phiên tòa và tại phiên tòa giám đốc thẩm đều là việc phải đình chỉ xét xử

giám đốc thẩm. Tuy nhiên, thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử giám

đốc thẩm khi người kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa

35

giám đốc thẩm là Chánh án Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm; còn việc

rút toàn bộ kháng nghị thực hiện tại phiên tòa giám đốc thẩm thì Hội đồng xét

xử giám đốc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm [46, Đ381].

So với quy định về thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị của BLTTHS năm

2003 chỉ được quy định bằng một khoản trong điều luật quy định chung về

kháng nghị giám đốc thẩm thì BLTTHS năm 2015 đã được quy định bằng

một điều luật riêng, chi tiết và cụ thể, đồng thời đã mở rộng thời điểm thay

đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị giám đốc thẩm so với BLTTHS năm 2003,

đó là ngoài việc thực hiện trước khi mở phiên tòa thì còn có thể thực hiện tại

phiên tòa giám đốc thẩm.

Tiểu kết Chương 1

Với Chương 1 của luận văn, bằng quá trình nghiên cứu các vấn đề lý

luận về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, cùng với việc nghiên cứu,

đánh giá và tiếp thu có chọn lọc những vấn đề lý luận được công bố tại các

công trình nghiên cứu về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nói riêng và

thủ tục giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

nói chung, chúng tôi đã đưa ra khái niệm của riêng mình về kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm. Việc làm rõ về mặt lý luận đối với trình tự kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm, phân biệt điểm giống và khác nhau giữ kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với kháng nghị theo thủ tục tái thẩm về căn

cứ, chủ thể và trình tự kháng nghị; đồng thời phân tích, đánh giá các quy định

của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành liên quan đến kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm, rút ra ý nghĩa của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm sẽ

góp phần quan trọng để chúng ta có thêm nhận thức, hiểu biết đúng đắn về

vấn đề này và làm cơ sở cho việc đánh giá thực tiễn kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng sẽ được trình bày tại Chương 2 của

36

luận văn.

Chương 2

THỰC TIỄN KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC

THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

2.1. Tổng quan thực tiễn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng

2.1.1. Kết quả phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật cần xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng

Theo Nghị quyết số 975/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban

thường vụ Quốc hội khóa XIII thành lập TANDCC, TANDCC tại Đà Nẵng

có phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đối với 12 tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương với tổng cộng 12 TAND cấp tỉnh, 135 TAND cấp huyện. Theo

pháp luật tố tụng hình sự, thẩm quyền giám đốc thẩm các vụ án hình sự của

UBTP TANDCC tại Đà Nẵng được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 382

BLTTHS năm 2015 và thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

của Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng được quy định tại khoản 3 Điều 373

BLTTHS năm 2015. Việc phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm của các Tòa án thuộc thẩm

quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại Đà Nẵng chủ yếu thông qua công tác

giải quyết đơn đề nghị, văn bản kiến nghị giám đốc thẩm. Ngoài ra, một số

bản án, quyết định cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm được phát hiện

thông qua công tác giám đốc việc xét xử của các đoàn kiểm tra của TANDTC

khi tổ chức kiểm tra tại một số địa phương và kiến nghị Chánh án TANDCC

tại Đà Nẵng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Công tác giải quyết đơn

đề nghị, kiến nghị đối với bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm hiện nay tại TANDCC tại Đà Nẵng,

cùng với việc thực hiện đầy đủ các quy định tại BLTTHS năm 2015, Luật

37

TCTAND năm 2014 thì còn được thực hiện theo Quy chế giải quyết đơn đề

nghị, kiến nghị, thông báo đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TAND ban hành kèm

theo Quyết định số 625/QĐ-CA ngày 06/9/2016 của Chánh án TANDTC

(thường được gọi bằng Quy chế 625).

- Đối với công tác thụ lý đơn đề nghị, kiến nghị giám đốc thẩm:

Bảng 2.1: Bảng kết quả xử lý đơn đề nghị, văn bản đề nghị giám đốc thẩm

đối với các vụ án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng

Năm

Số đơn đề nghị, VB đề nghị GĐT

Đơn, VB thụ lý để giải quyết

Đơn, VB không thuộc thẩm quyền hoặc trùng lặp

Tỷ lệ thụ lý để giải quyết so với tổng số đơn, VB đề nghị GĐT

2016 391 234 157 40,15%

2017 425 271 154 36,23%

2018 343 178 165 48,10%

2019 310 215 95 30,64%

Tổng 1.469 898 571 38,86%

(Nguồn số liệu: TANDCC tại Đà Nẵng)

Qua báo cáo tổng kết công tác các năm 2016, 2017, 2018 và 2019 (năm

công tác được tính từ ngày 01/10 của năm trước đến 30/9 của năm liền kề)

của TANDCC tại Đà Nẵng, cho thấy đơn vị đã tiếp nhận tổng cộng 1.469 đơn

đề nghị, kiến nghị, thông báo đối với bản án, quyết định hình sự đã có hiệu

lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, chỉ có

571 đơn đề nghị, văn bản kiến nghị được đưa vào thụ lý để xem xét giải

quyết, còn 898 đơn đề nghị, văn bản kiến nghị không thuộc thẩm quyền hoặc

trùng lặp. Như vậy, số đơn đề nghị, văn bản kiến nghị thông báo đối với bản

án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm

được thụ lý để giải quyết chỉ chiếm tỷ lệ là 38,86% so với tổng số đơn, văn

bản đã nhận; số lượng đơn đề nghị, văn bản kiến nghị không thuộc thẩm

38

quyền hoặc trùng lặp là tương đối nhiều.

- Kết quả giải quyết đơn đề nghị, văn bản kiến nghị giám đốc thẩm:

Bảng 2.2: Kết quả giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm

tại TANDCC tại Đà Nẵng

Kết quả giải quyết

Năm

Tỷ lệ kháng nghị so với số vụ việc đã giải quyết Thông báo không KN Quyết định KN Xử lý khác Số đơn đề nghị, văn bản kiến nghị đã giải quyết

119 2016 102 16 1 13,44%

172 2017 109 25 38 14,53%

110 2018 42 51 27 46,36%

174 2019 55 5 114 2,87%

575 Tổng 305 97 173 16,86%

(Nguồn số liệu: TANDCC tại Đà Nẵng)

Qua bảng số liệu trên cho thấy, trong 04 năm từ năm 2016 đến 2019,

Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng đã ban hành 97 quyết định kháng nghị giám

đốc thẩm, chiếm tỷ lệ 16,86% so với số đơn đề nghị, văn bản kiến nghị giám

đốc thẩm đã giải quyết; đã ban hành 305 thông báo trả lời không quyết định

kháng nghị giám đốc thẩm, chiếm tỷ lệ 53,04% so với số đơn đề nghị, văn

bản kiến nghị giám đốc thẩm đã giải quyết. Đối chiếu số liệu hàng năm thì

thấy tỷ lệ quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hàng năm là dưới 17% so với

số đơn đề nghị, văn bản kiến nghị giám đốc thẩm đã giải quyết. Số lượng

quyết định giám đốc thẩm tăng, giảm không đều giữa các năm, trong đó năm

2018 có số lượng quyết định kháng nghị giám đốc thẩm tăng đột biến. Qua

nghiên cứu các bản quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, thấy rằng cuối năm

2017, TANDTC tổ chức nhiều đoàn kiểm tra đi kiểm tra công tác chuyên môn

của các Tòa án địa phương, sau khi phát hiện các bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật có vi phạm, sai lầm nên đã có văn bản thông báo với Chánh

39

án TANDCC tại Đà Nẵng để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Năm 2018,

TANDCC tại Đà Nẵng chủ yếu tập trung nghiên cứu, giải quyết đối với các

vụ án do các đoàn kiểm tra phát hiện nên số lượng quyết định kháng nghị của

năm này là rất lớn, với 51 vụ việc.

2.1.2. Tổng quan kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại

TANDCC tại Đà Nẵng

Thực tiễn công tác giám đốc thẩm từ năm 2016 đến 2019, TANDCC tại

Đà Nẵng phải giải quyết, xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản

án, quyết định của các Tòa án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đã có

hiệu lực pháp luật và bị kháng nghị của Chánh án TANDTC, Chánh án

TANDCC tại Đà Nẵng và Viện trưởng VKSNDCC tại Đà Nẵng. Cụ thể như

bảng thống kê sau:

Bảng 2.3. Bảng số liệu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

TANDCC tại Đà Nẵng phải giải quyết từ 2016-2019

Năm

Kháng nghị của Chánh án TANDCC

Kháng nghị của Viện trưởng VKSNDCC

Kháng nghị của Chánh án TANDTC

2016

16

7

1

2017

25

27

2

2018

51

55

0

2019

5

39

0

Tổng

97

128

3

(Nguồn số liệu: TANDCC tại Đà Nẵng)

Bảng thống kê trên cho thấy, trong 04 năm qua có tổng cộng 228 vụ có

quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền mà TANDCC

tại Đà Nẵng phải giải quyết, xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong đó,

Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng kháng nghị đối với 97 vụ, chiếm tỷ lệ

42,54%; Viện trưởng VKSNDCC tại Đà Nẵng kháng nghị 128 vụ, chiếm tỷ lệ

40

56,14% và Chánh án TANDTC kháng nghị là 03 vụ, chiếm tỷ lệ 1,32%.

Trong tổng số 97 quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án

TANDCC tại Đà Nẵng thì có 44 kháng nghị đối với bản án, quyết định hình

sự sơ thẩm của Tòa án cấp huyện, chiếm tỷ lệ 45,36%; 03 kháng nghị đối với

bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp tỉnh, chiếm tỷ lệ 3,09% và 50

kháng nghị đối với bản án, quyết định phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh, chiếm

tỷ lệ 51,55%. Các trường hợp bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chủ

yếu là những tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, xâm

phạm về quyền sở hữu,… Trong số này, các căn cứ để kháng nghị như:

- Kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách

quan của vụ án. Căn cứ này chủ yếu thể hiện thông qua việc đánh giá chứng

cứ của cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa đầy đủ, dẫn đến quyết định tội danh

không đúng với hành vi khách quan của tội phạm; hoặc kết luận những vấn đề

liên quan đến vụ án nhưng chưa được điều tra đầy đủ dẫn đến quyết định hình

phạt không đủ tác dụng giáo dục, răn đe đối với người bị kết án cũng như

phòng ngừa chung,…

Ví dụ: Vì mâu thuẫn giữa hai nhóm tại quán nhậu, Nguyễn Văn Bảo đã

dùng dao đâm, chém nhiều nhát vào các vùng trọng yếu trên cơ thể nạn nhân

là Lê Viết Tuấn, dẫn đến anh Tuấn bị thương thủng ruột, thủng cơ hoành trái,

thủng màng phổi trái, vết thương thành ngực trái, vết thương vùng đỉnh đầu,

phòi tạng, tràn máu màng phổi,… thương tật 55% nhưng cấp sơ thẩm chỉ xử

phạt Bảo về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người

khác” theo Điều 134 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hoàng

Quốc Tỉnh, cùng nhóm của Bảo, khi biết mâu thuẫn giữa hai nhóm nhậu vẫn

chuẩn bị dao, nhận thức được Bảo có thể sẽ dùng dao gây án nhưng vẫn đưa

cho Bảo, sau đó bỏ ra về, nhưng cấp sơ thẩm xác định hành vi của Tỉnh chưa

cấu thành tội phạm và đề nghị cơ quan chức năng xử phạt hành chính.

41

Nguyễn Văn Bảo bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại sức khỏe cho người khác” theo Bản án hình sự sơ thẩm số

10/2018/HSST ngày 20/3/2018 của TAND huyện Núi Thành. Bảo kháng cáo

xin giảm nhẹ hình phạt nhưng sau đó lại rút kháng cáo nên TAND tỉnh Quảng

Nam ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 115/2018/HSPT-QĐ ngày

24/5/2018 và có văn bản đề nghị Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng kháng nghị

giám đốc thẩm bản án số 10 nêu trên. Tại Quyết định thay đổi, bổ sung kháng

nghị số 03/KN-HS ngày 13/8/2018 của Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng đề

nghị UBTP TANCC tại Đà Nẵng hủy bản án số 10 nêu trên để điều tra lại đối

với Bảo về tội “Giết người” và Tỉnh phạm tội “Giết người” với vai trò đồng

phạm, giúp sức.

Quyết định giám đốc thẩm số 15/2019/HS-GĐT ngày 24/4/2019, UBTP

TANDCC tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị, hủy Quyết định đình chỉ xét xử

phúc thẩm số 115 và Bản án hình sự sơ thẩm số 10 nêu trên để điều tra lại.

- Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét

xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Căn cứ này

chủ yếu thể hiện trong việc cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm không thực hiện hoặc

thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy định, trình tự đã được quy định

trong BLTTHS để giải quyết một vụ án hình sự. Điều đó đã ảnh hưởng đến

việc xác định sự thật khách quan của vụ án, đồng thời gây ảnh hưởng hoặc

xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ

chức có liên quan đến vụ án…

Ví dụ: Ngày 17/12/2015, vợ chồng Mai Văn Duy và Phan Thị Thê đã lén

lút chiếm đoạt tài sản của cha, mẹ Duy số tiền 127 triệu đồng và số vàng: 10

khâu nhẫn tròn, 6 sợi dây chuyền 01 cái lắc và 07 khâu nhẫn có gắn đá trang

trí. Theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Phú

Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế thì số vàng trên có trị giá 65.833.296đ. Tại Bản

42

án hình sự sơ thẩm số 25/2016/HSST ngày 06/7/2016 của TAND huyện Phú

Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế xử phạt Mai Văn Duy 01 năm 06 tháng tù, Phan

Thị Thê 01 năm 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, cùng về tội “Trộm cắp

tài sản”. Trong hạn luật định, Mai Văn Duy có kháng cáo xin giảm nhẹ hình

phạt. Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 104/2016/HSPT ngày 19/9/2016,

TAND tỉnh Thừa Thiên - Huế chấp nhận kháng cáo cáo, xử phạt Duy 01 năm

03 tháng tù.

Tại Kháng nghị giám đốc thẩm số 13/2017/KN-HS ngày 05/5/2017,

Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số

104 nêu trên, đề nghị UBTP TANDCC tại Đà Nẵng hủy bản án phúc thẩm và

sơ thẩm để điều tra lại, với nhận định: Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự

huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế căn cứ Quyết định số 24/2015/QĐ-

BTC ngày 18/4/2005 cả Bộ Tài chính, về việc ban hành 03 tiêu chuẩn thẩm

định giá Việt Nam, Quyết định số 32/2008/QĐ-BTC ngày 29/5/2008 của Bộ

Tài chính về việc ban hành chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản cố định trong

các cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và các tổ chức có sử dụng

ngân sách Nhà nước để làm căn cứ định giá tài sản là không đúng; các văn

bản này cũng đã hết hiệu lực pháp luật tại thời điểm định giá. Ngoài ra, Hội

đồng định giá còn lấy đơn giá vàng tại Cổng thông tin vật giá ngày

17/12/2015 để xác định giá cũng không đúng vì Cổng thông tin vật giá không

phải là căn cứ pháp lý để xác định giá vàng, mà phải căn cứ vào văn bản do

cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và phụ thuộc thị trường nơi tài

sản bị xâm phạm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 28/2017/HS-GĐT ngày 03/7/2017,

UBTP TANDCC tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị của Chánh án

TANDCC tại Đà Nẵng, hủy bản án phúc thẩm và sơ thẩm để điều tra lại.

- Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Căn cứ này

43

chủ yếu thể hiện ở việc cấp sơ thẩm và phúc thẩm có sai lầm trong việc áp

dụng pháp luật hình sự về định tội danh; xử lý đối với người chưa thành niên;

cho hưởng án treo không đúng quy định của luật hình sự và hướng dẫn của

HĐTP TANDTC; áp dụng pháp luật dân sự trong giải quyết vụ án hình sự…

Ví dụ: Trần Bảo Quốc, sinh ngày 30/10/1997, không có giấy phép lái xe,

nhưng ngày 22/8/2015, đã điều khiển xe mô tô trên đường liên xã, lấn sang

phần đường ngược chiều và gây tai nạn với xe mô tô do ông Trương Quang

Thanh điều khiển. Hậu quả vụ tai nạn, ông Thanh bị thương nặng và chết

ngày 25/8/2015, Quốc bị thương và hai xe mô tô bị hư hỏng nặng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19/2016/HSST ngày 24/5/2016, TAND

huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa đã áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm

b, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 BLHS năm 1999, xử phạt Trần

Bảo Quốc 02 năm 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự, áp dụng các Điều 604,

605, 610 BLDS năm 2005, buộc Quốc phải bồi thường khoản tiền chi phí hợp

lý cho việc cứu chữa và mai táng phí cho người bị hại là 49.277.263đ và bồi

thường tổn thất về tinh thần cho những người đại diện hợp pháp của người bị

hại 46 triệu đồng; cấp dưỡng cho hai con của người bị hại mỗi tháng 01 triệu

đồng từ ngày 25/8/2015 cho đến khi đủ 18 tuổi.

Trong hạn luật định, bị cáo kháng cáo đề nghị giảm bồi thường, đại diện

hợp pháp của người bị hại kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt nhưng lại rút

kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm. Tại bản án hình sự phúc thẩm số

165/2016/HSPT ngày 16/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã

không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngày 19/12/2017, Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng có Quyết định kháng

nghị số 01/2017/KN-HS, đề nghị UBTP TANDCC tại Đà Nẵng xét xử theo

thủ tục giám đốc thẩm và hủy bản án sơ thẩm, phúc thẩm nêu trên, với lý do:

+ Tại thời điểm phạm tội, Trần Bảo Quốc mới 17 tuổi 10 tháng 22 ngày

44

nên thuộc trường hợp người chưa thành niên phạm tội, nhưng khi quyết định

hình phạt Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm đều không áp dụng các quy định tại

Điều 69, Điều 74 BLHS năm 1999 là không đúng quy định của pháp luật.

+ Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 BLDS năm 2005: “Người từ đủ

mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường

bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải

bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình”. Cơ quan điều tra khi điều

tra và Tòa án khi xét xử đã không xác minh làm rõ Quốc có tài sản để bồi

thường hay không, trường hợp không có hoặc không đủ để bồi thường thì

phải xem xét trách nhiệm bồi thường của cha, mẹ Quốc. Khi xét xử, Tòa án

đã không đưa cha, mẹ của Quốc vào tham gia tố tụng với tư cách người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót.

+ Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp rút kháng cáo nhưng

Tòa án chỉ ghi nhận trong bản án mà không quyết định đình chỉ xét xử phúc

thẩm đối với kháng cáo là sai lầm nghiêm trọng, vi phạm Điều 238 BLTTHS

năm 2003.

Quyết định giám đốc thẩm số 11/2018/HS-GĐT ngày 03/4/2018 của

UBTP TANDCC tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị, hủy cả bản án sơ

thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ về TAND huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa

xét xử lại theo thủ tục chung.

Ngoài ra, việc kháng nghị tại TANDCC tại Đà Nẵng còn có căn cứ do

chính sách pháp luật hình sự thay đổi, hành vi phạm tội của người bị kết án

không còn được coi là nguy hiểm cho xã hội nữa, cần kháng nghị để xem xét

theo thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo quyền lợi của người bị kết án.

Ví dụ: Ngày 03/01/2017, Nguyễn Khoa Trường đã mua của một người

không rõ lai lịch 175 cây thuốc lá hiệu JET không có nguồn gốc, hóa đơn hợp

pháp với giá 30.275.000đ về cất giấu. Ngày 05/01/2017, khi Trường mang số

45

thuốc trên đi tiêu thụ thì bị bắt quả tang. Trường bị xử phạt 06 tháng tù về tội

“Buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 BLHS năm 1999 tại Bản án sơ

thẩm số 31/2017 ngày 23/6/2017 của TAND thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh

Hòa. Tại Quyết định kháng nghị số 21/2017/KN-HS ngày 08/9/2017 của

Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng đề nghị hủy bản án sơ thẩm số 31 do có thay

đổi về chính sách hình sự theo BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017

và hướng dẫn “không xác định thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm và không

xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu

nhập lậu trong nội địa theo quy định tại Điều 155 BLHS năm 1999” theo

Công văn số 154/TANDTC-PC ngày 25/7/2017 của TANDTC về việc xử lý

hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 04/2017/HS-GĐT ngày 12/12/2017

UBTP TANDCC tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị, hủy bản án sơ thẩm

nêu trên và chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt hành

chính theo quy định.

2.1.3. Kết quả xét xử giám đốc thẩm

Từ năm 2016 đến năm 2019, TANDCC tại Đà Nẵng đã giải quyết, xét

xử theo thủ tục giám đốc thẩm đối với 184 bản án, quyết định đã có hiệu lực

bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, trong đó có 03 quyết định kháng

nghị giám đốc thẩm của Chánh án TANDTC, 76 quyết định kháng nghị giám

đốc thẩm của Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng và 105 quyết định kháng nghị

giám đốc thẩm của Viện trưởng VKSNDCC tại Đà Nẵng. Ngoài việc có 11

quyết định kháng nghị của Chánh án TAND các cấp và 09 quyết định kháng

nghị của Viện trưởng VKSNDCC tại Đà Nẵng được đình chỉ xét xử giám đốc

thẩm do rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa thì UBTP TANDCC tại Đà

Nẵng đã đưa ra xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm đối với 164 vụ. Số vụ án

được đưa ra xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm ít nhất là năm 2016 (với 16

46

vụ) và nhiều nhất là năm 2019 (với 65 vụ). So với tổng số các quyết định

kháng nghị giám đốc thẩm được đưa ra xét xử thì quyết định kháng nghị của

Chánh án là 68 vụ, chiếm tỷ lệ 39,02% và quyết định kháng nghị của Viện

trưởng là 96 vụ, chiếm tỷ lệ 60,98%, thể hiện cụ thể tại bảng thống kê dưới

đây:

Bảng 2.4. Tỷ lệ quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của

Chánh án Tòa án các cấp và Viện trưởng VKS được UBTP TANDCC tại Đà

Nẵng xét xử giám đốc thẩm từ 2016 - 2019

Chánh án kháng nghị giám đốc thẩm

Viện trưởng kháng nghị giám đốc thẩm

Năm

Vụ

Tỷ lệ

Vụ

Tỷ lệ

2016

13

50%

13

50%

2017

20

58,82%

14

41,18%

2018

12

30,77%

27

69,23%

2019

23

35,38%

42

64,62%

Tổng

68

39,02%

96

60,98%

(Nguồn số liệu: TANDCC tại Đà Nẵng)

* Kết quả chung: Kết quả xét xử giám đốc thẩm của UBTP TANDCC

tại Đà Nẵng được phân tích theo thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

như sau:

- Không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật đối với 17 vụ, chiếm tỷ lệ 10,37% so với tổng số vụ án xét

xử giám đốc thẩm; trong đó, năm 2016 là 02 vụ, năm 2018 là 05 vụ và năm

2019 là 10 vụ.

- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản

án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc

thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật đối với 42 vụ, chiếm tỷ lệ 25,60% so

với tổng số vụ án xét xử giám đốc thẩm; trong đó, năm 2016 là 04 vụ, năm

47

2017 là 10 vụ, năm 2018 là 16 vụ và năm 2019 là 12 vụ.

- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc

xét xử lại đối với 93 vụ, chiếm tỷ lệ 56,71% so với tổng số vụ án xét xử giám

đốc thẩm; trong đó, năm 2016 là 20 vụ, năm 2017 là 23 vụ, năm 2018 là 14

vụ và năm 2019 là 35 vụ.

- Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án đối

với 05 vụ, chiếm tỷ lệ 3,05% so với tổng số vụ án xét xử giám đốc thẩm;

trong đó năm 2018 là 01 vụ và năm 2019 là 04 vụ. Các vụ án này đều thuộc

trường hợp phi hình sự hóa hành vi phạm tội trước đó do có sự thay đổi chính

sách pháp luật hình sự

- Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đối với 07 vụ, chiếm

tỷ lệ 4,27% so với tổng số vụ án xét xử giám đốc thẩm. Các vụ án này đều

được xét xử năm 2019.

Đáng lưu ý là 17 vụ án mà Hội đồng xét xử giám đốc thẩm TANDCC

tại Đà Nẵng không chấp nhận kháng nghị, giữ nguyên bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật đều là các vụ án do Viện trưởng VKSNDCC tại Đà

Nẵng quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

* Kết quả xét xử giám đốc thẩm đối với quyết định kháng nghị của

Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng: Trong số 68 vụ án do Chánh án TANDCC

tại Đà Nẵng quyết định kháng nghị giám đốc thẩm được xét xử giám đốc

thẩm thì: Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản

án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc

thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật đối với 10 vụ, tỷ lệ là 14,7%; hủy bản

án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại đối với

52 vụ, tỷ lệ là 76,47%; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và

đình chỉ vụ án đối với 02 vụ, tỷ lệ là 2,94%; sửa bản án, quyết định đã có hiệu

48

lực pháp luật đối với 04 vụ, tỷ lệ là 5,89%.

2.2. Những vi phạm, sai lầm trong kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng và nguyên nhân

2.2.1. Những vi phạm, sai lầm

Chính thức đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 2015, là một cấp Tòa án

mới được thành lập theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật TCTAND

năm 2014, TANDCC tại Đà Nẵng đã từng bước được kiện toàn về cơ cấu tổ

chức và dần được bổ sung đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn nghiệp

vụ nên hoạt động chuyên môn ngày càng đi vào ổn định, có chất lượng, tỷ lệ

giải quyết, xét xử các loại vụ việc theo thẩm quyền đạt chỉ tiêu TANDTC và

Quốc hội đề ra. Công tác giám đốc thẩm luôn được lãnh đạo TANDCC tại Đà

Nẵng quan tâm, ưu tiên giải quyết nên tỷ lệ giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị

giám đốc thẩm hàng năm đều đạt trên 60%, tỷ lệ xét xử giám đốc thẩm luôn

đạt từ 80% trở lên, chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dần

được nâng lên. Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được thì trong thời gian

qua, công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà

Nẵng cũng có những vi phạm, sai lầm và hạn chế nhất định, đó là:

Thứ nhất: Số lượng các vụ án được xem xét để kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm còn thấp.

Để có cơ sở đánh giá, so sánh, đối chiếu giữa số lượng vụ án hình sự

được TANDCC tại Đà Nẵng xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, chúng tôi

đã thu thập và tổng hợp số lượng các án hình sự do các Tòa án thuộc thẩm

49

quyền theo lãnh thổ, như bảng thống kê dưới đây:

Bảng 2.5: Kết quả giải quyết, xét xử các vụ án hình sự của các Tòa án

thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại Đà Nẵng.

Tổng cộng (vụ) Năm

Cấp huyện GQ, XX (vụ) 8.027 Cấp tỉnh GQ, XX (vụ) 3.084 11.111 2016

7.595 2.757 10.352 2017

8.117 3.166 11.283 2018

7.573 3.049 10.622 2019

31.312 12.056 43.368 Tổng

(Nguồn số liệu: Các đơn vị Trưởng Cụm thi đua số III TAND từ 2016 - 2019)

Thông qua số liệu trên bảng thống kê trên cho thấy từ năm 2016 - 2019,

các Tòa án thuộc phạm vi thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại

Đà Nẵng (Tòa án cấp tỉnh và cấp huyện của 12 tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương) đã giải quyết, xét xử 43.368 vụ án hình sự, trong đó cấp huyện là

31.312 vụ và cấp tỉnh 12.056 vụ [13]. Do số lượng vụ án hình sự cấp tỉnh giải

quyết không phân biệt giữa án sơ thẩm và phúc thẩm, không phản ánh rõ số

lượng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên chỉ có cơ sở so sánh

tổng số lượng vụ án hình sự các Tòa án thuộc phạm vi thẩm quyền đã giải

quyết, xét xử với số lượng vụ án hình sự thụ lý để xem xét theo thủ tục giám

đốc thẩm của TANDCC tại Đà Nẵng, tỷ lệ này chỉ chiếm 1,32%; còn nếu so

sánh với số bản án, quyết định đã bị Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng kháng

nghị giám đốc thẩm thì tỷ lệ này là 0,18%. Như vậy, số lượng bản án, quyết

định được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và số lượng các bản án, quyết

định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các Tòa án thuộc phạm

vi thẩm quyền theo lãnh thổ của TANDCC tại Đà Nẵng là rất thấp.

Thứ hai: Trường hợp phải rút kháng nghị còn tương đối nhiều.

Chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được thể hiện rõ nét

50

nhất thông qua số lượng các quyết định kháng nghị bị Hội đồng giám đốc

thẩm không chấp nhận (bác kháng nghị) hoặc người có thẩm quyền phải rút

quyết định kháng nghị của mình, kể cả trước khi mở phiên tòa và tại phiên

tòa. Nếu số lượng số quyết định kháng nghị không được chấp nhận hoặc được

người có thẩm quyền rút kháng nghị càng nhiều thì chất lượng kháng nghị

càng thấp và ngược lại. Tuy các quyết định kháng nghị của Chánh án

TANDCC tại Đà Nẵng không có trường hợp nào bị Hội đồng giám đốc thẩm

bác kháng nghị, nhưng tỷ lệ rút quyết định kháng nghị trước khi mở phiên tòa

giám đốc thẩm là tương đối cao, với 11 quyết định trong tổng số 97 quyết

định kháng nghị giám đốc thẩm đã được ban hành, chiếm tỷ lệ 11,34%.

Trong đó, có trường hợp người có thẩm quyền kháng nghị và đơn vị

tham mưu đã không kiểm tra việc thi hành bản án, quyết định đang được xem

xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nên dẫn đến tình trạng kháng nghị

để điều tra lại hoặc xét xử lại để đảm bảo đúng quy định của pháp luật, nhưng

khi kháng nghị thì bị cáo đã chấp hành xong hình phạt nên phải rút kháng

nghị. Ví dụ: Vụ án Huỳnh Điệp bị TAND tỉnh Quảng Nam xét xử theo Bản

án hình sự phúc thẩm số 171/2017/HSPT với mức án 30 tháng tù về tội “Lợi

dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Chánh án TANDCC tại

Đà Nẵng đã quyết định kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án nêu trên tại

Quyết định kháng nghị số 37/2018/KN-HS ngày 16/7/2018. Tuy nhiên, sau đó

phát hiện Huỳnh Điệp đã chấp hành xong hình phạt của bản án phúc thẩm đã

tuyên, thậm chí chấp hành xong cả phần trách nhiệm bồi thường dân sự, nên

Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng đã phải ban hành Quyết định số

03/2018/QĐ-TA ngày 23/11/2018 để rút quyết định kháng nghị nêu trên.

Hoặc, có trường hợp cán bộ tham mưu đề xuất quyết định kháng nghị

khi chưa có đầy đủ nhận thức pháp luật, kỹ năng áp dụng pháp luật, khả năng

nghiên cứu hồ sơ; người có thẩm quyền kháng nghị lại thiếu kiểm tra khi ban

51

hành quyết định kháng nghị, dẫn đến tình trạng sau khi nhận thức lại và kiểm

tra toàn bộ hồ sơ vụ án phải quyết định rút kháng nghị. Ví dụ: Vụ án “Trộm

cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” xảy ra Công

ty CP dịch vụ cáp treo Bà Nà do TAND huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

xét xử tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2016/HSST ngày 22/4/2016. Quyết

định kháng nghị giám đốc thẩm số 16/2016/KN-HS ngày 26/8/2016 của

Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng kháng nghị đề nghị hủy bản án nói trên và

cho rằng hành vi của các bị cáo trong vụ án chưa đủ yếu tố cấu thành tội mà

Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên. Tuy nhiên, sau khi xác định lại hành vi các bị

cáo dùng tay che mắt thần bộ cảm biến của máy kiểm soát vé, làm cho Công

ty không biết được việc số người vào cổng thực tế cao hơn số vé đã bán, để

quay vòng vé và bán lại cho một bị cáo khác, gây thiệt hại cho Công ty CP

dịch vụ cáp treo Bà Nà 72 triệu đồng, phù hợp với các tội danh mà Tòa án cấp

sơ thẩm đã tuyên nên Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng đã phải ban hành

Quyết định số 02/2017/QĐ-TA ngày 08/12/2017 để rút quyết định kháng nghị

nêu trên.

Thứ ba: Còn có tình trạng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ không

đầy đủ dẫn đến việc quyết định kháng nghị chỉ được Hội đồng giám đốc thẩm

chấp nhận một phần. Ví dụ: Vụ án Hoàng Huy Hoàng bị TAND thành phố

Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế xử phạt 07 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về

điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Bản án hình sự sơ thẩm số

45/2017/HSST ngày 24/01/2017 và được TAND tỉnh Thừa Thiên - Huế cho

hưởng án treo theo Bản án hình sự phúc thẩm số 59/2017/HSPT ngày

23/5/2017. Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị

giám đốc thẩm số 20/2018/KN-HS ngày 18/5/2018 kháng nghị bản án phúc

thẩm nêu trên và đề nghị hủy cả bản án phúc thẩm và sơ thẩm, với lý do:

Hành vi điều khiển ô tô không giảm tốc độ và không nhường đường cho xe từ

52

phía ưu tiên khi đi vào khu vực đường giao nhau có vòng xuyến, xe ô tô của

Hoàng gây tai nạn làm 01 người bị thương nặng và sau đó chết tại bệnh viện

thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Việc áp dụng khoản 1 Điều 202 BTHS

năm 1999 để xử phạt bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm

chỉ xử phạt bị cáo 07 tháng tù và Tòa án cấp phúc thẩm cho bị cáo được

hưởng án treo là quá nhẹ, không đáp ứng được yêu cầu công tác đấu tranh

phòng, chống loại tội phạm này. Tại Quyết định giám đốc thẩm số

75/2018/HS-GĐT ngày 26/11/2018 của UBTP TANDCC tại Đà Nẵng cho

rằng: Bị cáo bị xét xử theo khoản 1 Điều 202 BLHS năm 1999 có căn cứ;

khoản 1 Điều 202 có khung hình phạt từ 06 tháng đến 05 năm tù, bị cáo có

nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt

bị cáo 07 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, tại giai đoạn phúc thẩm bị cáo

không có tình tiết giảm nhẹ mới mà Tòa án cấp phúc thẩm cho bị cáo hưởng

án treo là chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm

tội. Vì vậy, Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận một phần kháng nghị, hủy

bản án bản án phúc thẩm và giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

Thứ tư: Hình thức, nội dung của quyết định kháng nghị giám đốc thẩm

vẫn còn có những thiếu sót, cả về kỹ thuật trình bày, sử dụng ngôn từ và lỗi

chính tả.

Ở giai đoạn này, các bản án, quyết định được xem xét theo thủ tục giám

đốc thẩm đều đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng một số quyết định kháng nghị

giám đốc thẩm vẫn nêu: “Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đối với bị cáo:” là

chưa chính xác, mà cần gọi là “đối với người bị kết án”. Chẳng hạn như các

Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 05/2019/KN-HS ngày 01/7/2019, số

33/2018/KN-HS ngày 14/6/2018 hay số 16/2016/KN-HS ngày 26/8/2016,…

Công tác quản lý, lấy số phát hành quyết định kháng nghị giám đốc

thẩm còn chưa chặt chẽ, thiếu tính chuyên nghiệp như việc lấy trùng số quyết

53

định kháng nghị hoặc xác định mốc thời gian để bắt đầu lấy số quyết định.

Chẳng hạn như ngày 10/4/2018, Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng đã ban

hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 09/2018/KN-HS đối với Bản

án hình sự sơ thẩm số 33/2017/HSST ngày 17/5/2017 của TAND thành phố

Kon Tum, tỉnh Kon Tum; nhưng trước đó, vào ngày 12/3/2018, Chánh án

TANDCC tại Đà Nẵng cũng đã ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc

thẩm số 09/2018/KN-HS đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2017/HSST

ngày 30/5/2017 của TAND thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Việc xác định

mốc để bắt đầu lấy số quyết định còn chưa thống nhất giữa các năm. Có năm

thì thời điểm bắt đầu lấy số quyết định vào đầu năm công tác, có năm lại lấy

vào đầu năm dương lịch…

2.2.2. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm, hạn chế

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những vi phạm, sai lầm và hạn chế

trong hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà

Nẵng, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân như sau:

2.2.2.1. Nguyên nhân do quy định của pháp luật

Việc ban hành BLTTHS năm 2015, BLHS năm 2015 và BLHS sửa đổi,

bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2017) là một bước tiến mới trong hoạt động

lập pháp của Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Đã có nhiều

quy định mới lần đầu tiên được pháp điển hóa, nhiều nội dung quy định rõ

ràng hơn,… Tuy nhiên, các văn bản pháp luật trên còn có những bất cập, hạn

chế nhất định. Chẳng hạn như nhiều quy định về cấu thành tội phạm trong

BLHS còn mang tính tổng quát, thiếu miêu tả các dấu hiệu đặc trưng riêng có

nên còn có những nhận thức và áp dụng khác nhau trong thực tiễn hoạt động

áp dụng pháp luật. Nhiều nhóm tội có dấu hiệu cấu thành tội phạm gần như

tương tự nên dễ bị nhầm lẫn, như dấu hiệu dùng vũ lực và các hành vi khác để

chiếm đoạt tài sản của tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 với tội “Cưỡng đoạt

54

tài sản” theo Điều 170 BLHS năm 2017, như dấu hiệu về tội “Giết người”

theo Điều 123 với tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho

người” khác theo Điều 134 BLHS năm 2017; khoảng định khung hình phạt

của các loại tội phạm trong BLHS vẫn còn quá rộng dẫn đến việc áp dụng còn

mang tính tùy nghi và phụ thuộc phần lớn vào ý chí chủ quan của người áp

dụng pháp luật. Hay như việc quy định căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm

tại khoản 3 Điều 371 BLTTHS năm 2015 là quá rộng dẫn đến tình trạng lúng

túng khi áp dụng và gây chồng lấn với chính khoản 2 của điều luật. Hoặc quy

định tại Điều 372 BLTTHS năm 2015 về phát hiện và thông báo cho người có

thẩm quyền về bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng cần

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một quyền, nhưng lại hạn chế việc

kiến nghị của TAND cấp tỉnh sau khi thực hiện kiểm tra bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện phát hiện có vi phạm pháp luật lại

chỉ kiến nghị với Chánh án TANDCC, Chánh án TANDTC xem xét kháng

nghị; hạn chế việc kiến nghị của TAQS cấp quân khu sau khi thực hiện kiểm

tra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TAQS khu vực phát hiện có

vi phạm pháp luật chỉ kiến nghị với Chánh án TAQS trung ương xem xét

kháng nghị là chưa phù hợp. Ngoài ra, theo BLTTHS thì chỉ có Chánh án Tòa

án và Viện trưởng Viện kiểm sát mới là người có thẩm quyền quyết định

kháng nghị giám đốc thẩm. Tuy nhiên, theo Luật TCTAND thì Phó Chánh án

Tòa án giúp Chánh án thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh

án, Luật TCVKSND thì Phó Viện trưởng thực hiện nhiệm vụ theo sự phân

công của Viện trưởng và thực tế các Phó Chánh án và Phó Viện trưởng vẫn

ký quyết định kháng nghị. Vấn đề ngày không được ghi nhận trong BLTTHS

là một thiếu sót.

Bên cạnh đó, việc giải thích, hướng dẫn áp dụng đối với một số nội

dung quy định về giám đốc thẩm còn chưa được kịp thời, nên thực tiễn việc

55

áp dụng còn có khăn nhất định, một số trường hợp còn lúng túng và nhận thức

không thống nhất. Một số vướng mắc về nghiệp vụ chuyên môn chưa được

hướng dẫn kịp thời, nên việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn xét xử gặp nhiều

khó khăn, nhiều trường hợp khi giải quyết những vấn đề cụ thể bị lúng túng,

hoặc nhận thức khác nhau cho nên kết quả giải quyết không đồng nhất, ảnh

hưởng đến chất lượng xét xử.

2.2.2.2. Nguyên nhân từ đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm

Như đã đánh giá ở tiểu mục 2.1.1 ở trên, trong 04 năm, từ 2016 - 2019,

tại TANDCC tại Đà Nẵng đã tiếp nhận tổng cộng 1.469 đơn đề nghị, văn bản

kiến nghị giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực

pháp luật của các Tòa án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Tuy nhiên,

chỉ có 38,86% đơn đề nghị, văn bản kiến nghị đủ điều kiện thụ lý để xem xét

theo thủ tục giám đốc thẩm. Nếu so với tổng số lượng các vụ án hình sự mà

các Tòa án thuộc phạm vi thẩm quyền đã xét xử thì số lượng đơn đề nghị, văn

bản kiến nghị như trên là tương đối ít, nhưng so với quy mô tổ chức và số

lượng công chức của TANDCC tại Đà Nẵng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ thực

hiện nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến lĩnh vực này, thì số lượng trên là tương

đối lớn, gây nhiều áp lực từ tiếp nhận, xử lý đến nghiên cứu hồ sơ và xem xét

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh đó, còn có tới 898 đơn đề

nghị, văn bản kiến nghị giám đốc thẩm (chiếm 51,14%) không thuộc thẩm

quyền hoặc trùng lặp cho thấy chất lượng thông báo bản án, quyết định của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm là

tương đối thấp. Nhiều thông báo khi đưa vào thụ lý để xem xét theo thủ tục

giám đốc thẩm chưa thể hiện rõ các nội dung vi phạm pháp luật làm căn cứ

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo quy định nên lại mất rất nhiều

thời gian xác minh, yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ bổ sung,… Có thông

báo lại gửi đồng thời đến nhiều cơ quan có thẩm quyền xem xét theo thủ tục

56

giám đốc thẩm, dẫn đến tình trạng không rút được hồ sơ và phải chờ kết quả

giải quyết của các cơ quan khác nên việc xem xét lại bản án, quyết định theo

thủ tục giám đốc thẩm bị kéo dài.

2.2.2.3. Nguyên nhân từ tổ chức và con người

Ở TANDCC tại Đà Nẵng, công tác kiểm tra các bản án, quyết định hình

sự đã có hiệu lực pháp luật để tham mưu xem xét kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm được giao cho Phòng Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành

chính, gia đình và người chưa thành niên (gọi tắt là Phòng Giám đốc, kiểm tra

1). Hiện nay, Phòng Giám đốc, kiểm tra 1 chỉ có 09 biên chế, gồm 01 Thẩm

tra viên chính, 01 Thẩm tra viên và 07 Thư ký Tòa án, trong đó có 01 Trưởng

phòng và 01 Phó Trưởng phòng. Lực lượng nghiên cứu để tham mưu xem xét

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ tập trung ở 07 Thư ký Tòa án,

thực hiện kiểm tra đối với bản án, quyết định phần lớn là do Thẩm phán trung

cấp, thậm chí là Thẩm phán cao cấp giải quyết, xét xử. Ngoài việc kiểm tra,

nghiên cứu đối với các vụ án hình sự thì những người này còn phải nghiên

cứu cả về lĩnh vực hành chính, hôn nhân và gia đình. Vì vậy, việc tổ chức

công tác kiểm tra để tham mưu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các vụ

án hình sự tại TANDCC tại Đà Nẵng còn bộc lộ những hạn chế nhất định.

Còn có nhiều Thư ký Tòa án mới được điều động từ các Tòa án địa phương,

chưa qua kinh nghiệm thực tiễn làm công tác giám đốc, kiểm tra. Có Thư ký

mới được tuyển dụng chưa lâu và mới chỉ thực hiện nhiệm vụ thư ký phiên

tòa sơ thẩm tại Tòa án cấp huyện nên trình độ chuyên môn, năng lực áp dụng

pháp luật chưa cao. Mỗi Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án thường được giao

tham mưu đối với cả ba lĩnh vực thuộc Phòng phụ trách nên không có điều

kiện để tập trung chuyên sâu giải quyết một loại án, dẫn đến công tác nghiên

cứu, đánh giá chứng cứ, phân tích căn cứ để đề nghị xem xét kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm còn có nhiều thiếu sót, khả năng phát hiện những

57

trường hợp sai lầm cần phải khắc phục chưa đầy đủ và kịp thời; xây dựng nội

dung tờ trình, quyết định kháng nghị và quyết định giám đốc thẩm còn chưa

thật sự đảm bảo yêu cầu về chất lượng.

Tiểu kết Chương 2

Chương 2 của luận văn, chúng tôi đã khái quát thực tiễn kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm

2019. Thông qua đó, chúng tôi có những đánh giá, phân tích những mặt tích

cực, các kết quả đã đạt được, đồng thời chỉ ra những vi phạm, sai lầm và hạn

chế, thiếu sót trong hoạt động kiểm tra, giám đốc đối với các bản án, quyết

định hình sự đã có hiệu lực của các Tòa án thuộc phạm vi thẩm quyền theo

lãnh thổ để xem xét đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại

TANDCC tại Đà Nẵng. Từ những vi phạm, sai lầm và hạn chế, thiếu sót này,

chúng tôi tập trung phân tích để chỉ ra nguyên nhân của nó. Những lập luận,

đánh giá đều có số liệu hoặc vụ án cụ thể để chứng minh.

Các kết quả nghiên cứu tại Chương 2 của luận văn sẽ làm căn cứ để học

viên đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng nói riêng và của TAND nói chung, sẽ

58

được đề cập tại Chương 3 của luận văn.

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM

3.1. Các yêu cầu cần nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm

3.1.1. Yêu cầu của hiến pháp

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa 13 thông qua tại kỳ họp thứ 6

ngày 28/11/2013, đây được coi là một sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng

của nước ta. Hiến pháp mới ra đời là sự thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

và các nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị như: Nghị quyết số 08-NQ/TW

ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây dựng

và hoàn thiện hệ thống tư pháp Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lực cải cách tư

pháp đến năm 2020, trong đó đáng chú ý là việc “…xác định Tòa án có vị trí

trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm…” [6].

Trên cơ sở kế thừa và phát triển Điều 126 và Điều 127 Hiến pháp năm

1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục xác định TAND là cơ quan xét xử, đồng

thời quy định bổ sung chức năng là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo

đó, tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là

cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện

quyền tư pháp” [42]. Việc ghi nhận ngoài chức năng là cơ quan xét xử thì

TAND còn thực hiện quyền tư pháp, đã cho thấy có những bước tiến mới về

tư duy lập pháp của Việt Nam, là sự phát triển của quá trình nhận thức, phù

hợp với xu hướng chung của thế giới. Nó nhằm phân định quyền lực nhà nước

59

theo hướng giữa cơ quan thực hiện quyền tư pháp là TAND với các cơ quan

lập pháp và hành pháp. Với ý nghĩa đó thì chỉ Tòa án mới có quyền xét xử và

thực hiện quyền tư pháp. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án có thể

giải quyết những vụ việc liên quan đến quyền con người, quyền công dân

nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ quy định tại khoản 3 Điều 102 của Hiến pháp:

“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” [42].

Khoản 2 Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân gồm

Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định” [42]. Khác với

Hiến pháp năm 1992, quy định về tổ chức của Tòa án trong Hiến pháp năm

2013 đã được tinh gọn hơn, tạo hành lang pháp lý cơ bản để Luật TCTAND

quy định cơ cấu tổ chức TAND theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của

Bộ Chính trị, trong đó có việc quy định TAND gồm: TANDTC, TANDCC,

TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện và các Tòa án quân sự [40]. Như vậy, lần

đầu tiên TANDCC được quy định và là một cấp Tòa án. Đây là cấp Tòa án

mới và được luật hóa từ chính nhiệm vụ của cải cách tư pháp theo tinh thần

Nghị quyết 49-NQ/TW: “…không phụ thuộc vào đơn vị hành chính…” [6].

Đối với các phán quyết của Tòa án, Hiến pháp cũng ghi nhận tại Điều

106: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải

được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan tổ chức, cá nhân hữu quan

phải nghiêm chỉnh chấp hành” [42]. Đây là quy định không mới so với Hiến

pháp năm 1992, nhưng đã được sửa đổi cho phù hợp trước bối cảnh nước ta

ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới không chỉ về kinh tế, văn hóa mà cả

hội nhập trong lĩnh vực pháp luật. Theo đó, bản án, quyết định của Tòa án là

các văn bản tố tụng được Tòa án ban hành để giải quyết một vụ án nhất định.

Trong lĩnh vực hình sự thì nó là sự kết luận của Tòa án về việc có tội hay

60

không có tội, quyết định về hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Quy

định này một lần nữa đề cao vị trí của Tòa án trong hoạt động thực hiện chức

năng xét xử và quyền tư pháp của mình. Phán quyết của Tòa án phải được tôn

trọng và thi hành. Đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của các

cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các tổ chức và cá nhân có liên quan đến

việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

Tuy nhiên, như đã phân tích tại Chương 1, không phải mọi bản án,

quyết định của Tòa án đều đảm bảo chính xác, đúng pháp luật. Để kịp thời

phát hiện, sửa chữa những sai lầm này thì hoạt động kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm được tổ chức thực hiện mang tính tất yếu khách quan, đặc biệt

trong hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các vụ án hình

sự. Việc nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chính là

để ngày càng hạn chế những sai lầm trong hoạt động xét xử của Tòa án, để

Tòa án thực hiện tốt hơn chức năng là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư

pháp của mình. Có như vậy, mỗi phán quyết của Tòa án đảm bảo đúng pháp

luật, được các tổ chức, cá nhân tôn trọng và được thi hành. Và vì vậy, nâng

cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng chính là một

trong những yêu cầu của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

3.1.2. Yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa

Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn trọng, tuân thủ, chấp hành nghiêm

túc và đầy đủ hiến pháp, pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được ghi nhận tại Điều 8 Hiến pháp

năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp

luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập

trung dân chủ” [42]. Trong tố tụng hình sự, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ

nghĩa được quy định tại Điều 7 BLTTHS năm 2015: “Mọi hoạt động tố tụng

hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải

61

quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn

cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định” [46]. Đây là một nguyên tắc

mang tính định hướng cho việc tổ chức các hoạt động tố tụng trong quá trình

giải quyết vụ án hình sự. Nó đòi hỏi phải thực hiện các bảo đảm để tăng

cường pháp chế khi tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm xác định sự thật

khách quan của vụ án, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. Mọi hoạt

động về tố tụng hình sự phải được những người tiến hành tố tụng, cơ quan

tiến hành tố tụng hình sự thực hiện theo quy định của BLTTHS; nếu vi phạm

mà dẫn đến sai lầm trong việc giải quyết vụ án thì được coi là căn cứ để

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm đối với các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cũng phải

tuân thủ các quy định của BLTTHS. Có như vậy thì nguyên tắc pháp chế xã

hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự mới được đảm bảo thực hiện.

Cũng thông qua kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, những vi

phạm, sai lầm (nếu có) trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

được chỉ ra để từ đó có cơ hội sửa chữa, khắc phục, định hướng lại công tác

áp dụng pháp luật được đúng đắn và thống nhất. Nâng cao chất lượng kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng chính là một trong những yêu cầu của

pháp chế xã hội chủ nghĩa đặt ra.

3.1.3. Yêu cầu bảo vệ quyền con người

Trong hoạt động tố tụng hình sự, quyền con người rất dễ bị xâm phạm

và hậu quả của nó thường rất nghiêm trọng cả về vật chất lẫn tinh thần. Việc

quy định trong Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ

cơ bản của công dân là Chương 2, chỉ sau Chương 1 về chế độ chính trị đã

cho thấy vị trí đặc biệt của quyền con người nói chung và việc bảo vệ quyền

con người nói riêng. Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “…các quyền con

62

người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được

công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [42].

Đối với Tòa án, Hiến pháp cũng quy định những nhiệm vụ đầu tiên là bảo vệ

công lý, bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, BLTTHS

năm 2015 đã có những quy định hoàn thiện hơn liên quan đến đảm bảo quyền

con người. Trong đó có các nguyên tắc cơ bản được quy định như: Tôn trọng,

bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tại Điều 8;

bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật tại Điều 9; bảo đảm quyền bất khả

xâm phạm về thân thể tại Điều 10; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm, tài sản của cá nhân tại Điều 11; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về

chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật

thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân tại Điều 12; suy đoán vô tội tại Điều

13; không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm tại Điều 14; bảo đảm quyền bào

chữa của người bị tạm buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại,

đương sự tại Điều 16…[46]. Trong hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm, bảo vệ quyền con người cũng được thể hiện thông qua việc trao

quyền phát hiện bản án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm để thông báo, đề

nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; nghĩa vụ

của các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp nhận đơn, thông báo đề nghị

kháng nghị và thông báo việc chuyển đơn, tài liệu liên quan đến người có

thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc hoặc quyết định kháng nghị

giám đốc thẩm phải được gửi đến những người có liên quan,… Thông qua

hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, các bản án, quyết định

được cho là có vi phạm, sai lầm một lần nữa được xem xét lại nhằm kịp thời

phát hiện để sửa chữa, khắc phục, từ đó đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án

đúng người, đúng tội, tránh tình trạng oan sai, việc áp dụng tội danh và hình

phạt phù hợp với hành vi phạm tội và hậu quả gây ra, thậm chí là minh oan

63

cho người bị kết án đã chết,… Như vậy, để đảm bảo quyền con người thì việc

nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng là một yêu

cầu, một đòi hỏi mang tính tất yếu, khách quan trong hoạt động tố tụng theo

quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành.

3.1.4. Yêu cầu phòng, chống tội phạm

Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ cơ bản của BLHS

và BLTTHS. Trong đó, tại Điều 2 BLTTHS năm 2015 quy định về nhiệm vụ

của BLTTHS: “Bộ luật Tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính

xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn

chặn tội phạm…” [46]. Đồng thời, Bộ Chính trị cũng đã ban hành Chỉ thị số

48-CT/TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Qua đó đã cho thấy công

tác phòng, chống tội phạm có vai trò quan trọng trong tình hình hiện nay, góp

phần giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, phục vụ đắc lực cho

thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong hoạt động này đòi hỏi

phải có sự phối kết hợp chặt chẽ của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và

mọi công dân.

Với yêu cầu phòng, chống tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, chức

năng của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện, điều

tra, xử lý tội phạm trên cơ sở tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử lý

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp

luật, không để lọt người phạm tội, tránh làm oan người vô tội. Với các Tòa

án, thông qua hoạt động giải quyết xét xử các loại vụ án đảm bảo công minh,

đúng pháp luật để từ đó phát hiện, tổng kết thực tiễn về nguyên nhân, điều

kiện của tội phạm để Chính phủ, các cấp, các ngành có đầy đủ các thông tin,

cơ sở khoa học tin cậy, kịp thời có những biện pháp phòng, chống tội phạm

phù hợp với tình hình thực tiễn xã hội. Trong các hoạt động này có hoạt động

64

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định hình sự

do phát hiện có vi phạm, sai lầm trong việc giải quyết vụ án, góp phần để vụ

án được giải quyết một cách công minh, đúng pháp luật. Do đó, việc nâng cao

chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một đòi hỏi khách quan

nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm của nước ta hiện nay.

3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật

Như đã phân tích ở phần Mở đầu của luận văn, trong những năm qua

công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm còn có những hạn chế, chưa

đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng, Nhà nước đã đề ra. Trong

thực tiễn, khi nghiên cứu vấn đề này, học viên thấy rằng số lượng các vụ án

hình sự mà Tòa án giải quyết, xét xử hàng năm là rất lớn, nhưng số bản án,

quyết định được xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và quyết

định kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm là rất ít, chiếm tỷ

lệ không đáng kể. Một trong những nguyên nhân của vấn đề này là do một số

quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và đặc biệt là một số quy định

về kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm còn chưa đầy đủ, rõ ràng. Vì vậy,

việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật có liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm

là yêu cầu cấp bách hiện nay, để từ đó có thể đạt được những hiệu quả trong

việc khắc phục, sửa chữa những vi phạm, sai lầm trong các bản án, quyết định

của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trong đó:

- Đối với BLTTHS năm 2015: Với việc quy định của khoản 3 Điều 371

BLTTHS năm 2015 mở rộng căn cứ: “Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp

dụng pháp luật” là hợp lý hơn so với quy định của BLTTHS năm 2003. Tuy

nhiên quy định như vậy thì phạm vi căn cứ lại quá rộng. Bởi việc áp dụng

pháp luật sẽ bao gồm các bộ luật, các luật, các nghị định, các thông tư, các

65

văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật, trong đó có cả việc áp dụng BLTTHS

về thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử là căn cứ thứ hai của kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm như đã nói trên, gây nên sự chồng chéo trong

quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung đối với

căn cứ này cho phù hợp với thực tiễn khách quan. Việc sửa đổi nội dung này,

chúng tôi đồng tình với đề xuất của tác giả Nguyễn Trung Kiên là: “…3. Có

sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự và

Bộ luật Dân sự” [26].

Ngoài ra, chúng tôi cho rằng, theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì

giai đoạn khởi tố bị can, khởi tố vụ án là độc lập so với giai đoạn điều tra và

được quy định tại các chương khác nhau của BLTTHS. Các giai đoạn này

phải được tiến hành theo những thủ tục nhất định theo quy định. Nếu xảy ra vi

phạm nghiêm trọng trong quá trình khởi tố vụ án, khởi tố bị can như: Quyết

định khởi tố bị can, khởi tố vụ án không có được VKS cùng cấp phê duyệt;

khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 155 BLTTHS năm 2015 nhưng

không có yêu cầu của người bị hại, hoặc yêu cầu của đại diện người bị hại khi

người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc

thể chất… có thể dẫn tới sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Vì

vậy cần thiết phải quy định căn cứ vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong

khởi tố vào căn cứ này.

Đối với việc quy định tại Điều 372 BLTTHS năm 2015 về phát hiện

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc

thẩm. Như đã phân tích tại tiểu mục 2.2.2.1 của Chương 2, học viên cho rằng

để tránh việc hạn chế quyền phát hiện và kiến nghị xem xét theo thủ tục giám

đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực của TAND cấp huyện do

TAND cấp tỉnh thực hiện việc kiểm tra và phát hiện có vi phạm; hoặc trong

trường hợp TAND cấp tỉnh xét thấy việc nếu đề nghị Chánh án TANDCC và

66

Chánh án TANDTC xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là không

khách quan, vô tư thì có thể thông báo và kiến nghị đối với người có thẩm

quyền của VKSND. Do đó, đề nghị sửa đổi đoạn 1 khoản 2 Điều 372 như sau:

“2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh … kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp

cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

cấp cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét kháng nghị”.

Cũng với lý do tương tự này, đề xuất sửa đổi đoạn 2 khoản 2 Điều 372: “Tòa

án quân sự cấp quân khu…. kiến nghị Chánh án Tòa án quân sự trung ương,

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung

ương, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét kháng nghị”.

Bên cạnh đó cũng cần sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2015 theo hướng

tạo hành lang pháp lý để Phó Chánh án TANDTC, Phó Chánh án TANDCC,

Phó Viện trưởng VKSNDTC, Phó Viện trưởng VKSNDCC là những người

có thẩm quyền quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi được

Chánh án hoặc Viện trưởng phân công hoặc ủy quyền để phù hợp với Luật

TCTAND, Luật TCVKSND.

- Đối với BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Với

những đánh giá về nguyên nhân của những quy định của pháp luật dẫn đến

những vi phạm, sai lầm của hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

tại tiểu mục 2.2.2.2 của Chương 2 ở trên, học viên đề xuất cần tiếp tục nghiên

cứu hoàn thiện việc quy định chi tiết các dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với

các nhóm tội có cấu thành tội phạm gần như tương tự để tránh nhầm lẫn khi

áp dụng như tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 và tội “Cưỡng đoạt tài sản”

theo Điều 170, tội “Giết người” theo Điều 123 và tội “Cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người” khác theo Điều 134,… Bên cạnh đó là

việc nghiên cứu quy định khoảng định khung hình phạt của các loại tội phạm

trong BLHS hẹp hơn để tránh việc áp dụng mang tính tùy nghi của những

67

người có thẩm quyền.

Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần kịp thời quan tâm đến

công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để từ đó giải thích, hướng dẫn áp

dụng trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung, đối với một số nội dung quy

định về giám đốc thẩm nói riêng để nhận thức áp dụng pháp luật của những cá

nhân, cơ quan có liên quan được thống nhất, đảm bảo cho các kết quả giải

quyết, xử lý các vụ việc được đồng nhất, tăng cường chất lượng xét xử.

3.2.2. Nâng cao chất lượng xét xử của hệ thống Tòa án

Với nghĩa chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm không chỉ

thể hiện thông qua số lượng bản án, quyết định có hiệu lực được phát hiện có

vi phạm, sai lầm, mà còn thể hiện thông qua vấn đề chỉ ra chính xác những vi

phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án để làm căn cứ kháng

nghị. Nếu chất lượng xét xử của hệ thống Tòa án thấp, nhiều bản án, quyết

định phải xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì sẽ gây áp lực

đối với đội ngũ tham mưu và người có thẩm quyền kháng nghị. Điều này sẽ

dẫn đến các khả năng như: không kịp thời phát hiện hoặc không chỉ rõ và đầy

đủ các vi phạm, sai lầm là căn cứ để kháng nghị; chất lượng xây dựng tờ

trình, quyết định kháng nghị không cao,… Vì vậy, việc nâng cao chất lượng

xét xử của hệ thống Tòa án cũng là một giải pháp để nâng cao chất lượng

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Để nâng cao chất lượng xét xử, đầu tiên, tại các đơn vị Tòa án phải tăng

cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị. Lãnh đạo

và cấp ủy các đơn vị phải xem công tác giải quyết, xét xử các loại vụ án nói

chung và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự nói riêng là nhiệm vụ

trọng tâm, xuyên suốt trong năm công tác; phải đặt ra các chỉ tiêu, tiêu chí

giải quyết, xét xử cụ thể đối với những người tiến hành tố tụng như Thẩm

68

phán, Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án. Thường xuyên tổ chức thanh tra, kiểm

tra trong nội bộ đơn vị để kịp thời phát hiện và xử lý những khó khăn, thiếu

sót hoặc những vi phạm trong chuyên môn nghiệp vụ.

Chức năng của Tòa án trong hoạt động tố tụng hình sự là xét xử, có vai

trò là người đứng giữa các bên buộc tội và bên bào chữa để đưa ra phán quyết

giải quyết vụ án. Do vậy, theo hiến định, chỉ có Tòa án mới có quyền thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm pháp lý thuộc về chức năng xét xử.

Để nâng cao chất lượng xét xử của hệ thống Tòa án thì khi xét xử Tòa án phải

luôn coi trọng và bảo đảm thực hiện các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp,

BHTTHS và BLHS như: Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm,

nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án,

nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và

lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự,… Trong đó, quan điểm chỉ đạo về

chiến lược cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

cũng xác định: “…nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử,

coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” [6]. Hoạt động tranh tụng tại

phiên tòa được coi là định hướng mới trong thực hiện mô hình tố tụng xét hỏi

sang tranh tụng, để từ đó BLTTHS năm 2015 có quy định: “Bản án, quyết

định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết

quả tranh tụng tại phiên tòa” [46]. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên

tòa là vấn đề bảo đảm tính hợp hiến và phù hợp với đòi hỏi, yêu cầu thực tế

của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

Có thể nói “tranh tụng trong xét xử” là một trong những nguyên tắc rất

quan trọng đảm bảo cho việc ra phán quyết của Tòa án được công minh, đúng

đắn. Phiên tòa được tranh tụng đúng nghĩa sẽ giúp cho Hội đồng xét xử có cái

nhìn toàn diện, khách quan các diễn biến của vụ án, từ đó có cơ sở đưa ra

phán quyết cuối cùng đúng người, đúng tội, không oan, sai; làm rõ được các

69

vấn đề có kháng cáo, kháng nghị. Tăng cường và nâng cao chất lượng tranh

tụng tại phiên tòa sẽ tạo được sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia tố tụng,

thông qua tranh tụng để làm sáng tỏ vụ việc mà không làm mất đi đặc trưng

mô hình tố tụng hiện có. Như vậy, để nâng cao chất lượng xét xử của hệ

thống Tòa án cần thiết phải nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa.

Ngoài ra, muốn nâng cao chất lượng xét xử còn phải nâng cao năng lực, trình

độ đội ngũ cán bộ sẽ được đề cập ở phần sau đây của luận văn.

3.2.3. Hoàn thiện tổ chức bộ máy giúp việc

Hiện nay, theo quy định của BLTTHS năm 2015, thẩm quyền kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án, quyết định hình sự của

Tòa án đã có hiệu lực pháp luật do có vi phạm pháp luật trong các TAND

được trao quyền cho Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án

TANDCC, Viện trưởng VKSNDCC. Đơn vị tham mưu, giúp việc cho người

có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm tại TANDTC là Vụ

Giám đốc, kiểm tra về hình sự, hành chính (được gọi tắt là Vụ Giám đốc,

kiểm tra 1), tại VKSNDTC là Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

hình sự (được gọi tắt là Vụ 7), tại TANDCC là Phòng Giám đốc, kiểm tra về

hình sự, hành chính (có nơi thì phòng này có thêm nhiệm vụ giám đốc, kiểm

tra về gia đình và người chưa thành niên - được gọi tắt là Phòng Giám đốc,

kiểm tra 1), tại VKSNDCC là Phòng Thực hành quyền công tố và kiểm sát

xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự thuộc Viện thực hành quyền

công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (được gọi tắt là Viện 1).

Trên tinh thần của yêu cầu về cải cách tư pháp của Bộ Chính trị, Hiến

pháp năm 2013 đã có những thay đổi trong cơ cấu tổ chức của các TAND,

trong đó tổ chức thêm cấp Tòa án mới là TADNCC. Do vậy, kể từ khi các

TANDCC đi vào hoạt động thì nó là một cấp Tòa án mới hoàn toàn độc lập so

70

với cấp hành chính, không phải chịu sự ràng buộc, chi phối của các cơ quan

hành chính tại địa phương, đáp ứng được yêu cầu về tiêu chí “không phụ

thuộc vào đơn vị hành chính” của Nghị quyết số 49-NQ/TW.

Tại TANDCC tại Đà Nẵng, đơn vị tham mưu, giúp việc cho Chánh án

quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là Phòng Giám đốc, kiểm

tra về hình sự, hành chính, gia đình và người chưa thành niên (gọi tắt là

Phòng GĐKT 1). Như đã phân tích tại tiểu mục 2.2.2.3 của Chương 2, Phòng

GĐKT 1 hiện nay phải tham mưu đồng thời cả ba lĩnh vực nên cán bộ không

có điều kiện chuyên sâu nghiên cứu về một loại án, lực lượng cán bộ nghiên

cứu không nhiều, kinh nghiệm và năng lực của nhiều cán bộ còn có phần hạn

chế, cán bộ nghiên cứu chủ yếu là Thẩm tra viên và Thư ký Tòa án nhưng lại

thẩm tra hồ sơ vụ án do các Thẩm phán trung cấp, thậm chí là Thẩm phán cao

cấp giải quyết xét xử, lãnh đạo phòng mới chỉ giữ ngạch Thẩm tra viên,… dẫn

đến việc chỉ ra các căn cứ kháng nghị còn thiếu chuẩn xác, thậm chí là việc bỏ

sót căn cứ kháng nghị dẫn đến việc trả lời không có căn cứ kháng nghị nhưng

sau đó lại bị cấp trên quyết định kháng nghị. Vì vậy nên quy định đơn vị giúp

việc theo quy mô chỉ tham mưu với một lĩnh vực nhất định để có điều kiện

tập trung chuyên sâu hơn; cần tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm

tra hồ sơ có đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để tránh bị quá

tải; cần quy định lãnh đạo Phòng GĐKT tại các TANDCC có ngạch Thẩm

phán trung cấp hoặc Thẩm tra viên chính trở lên để tương đồng với trình độ

người giải quyết, xét xử các vụ án có bản án, quyết định bị đề nghị kháng

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

3.2.4. Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ

Trong hoạt động tham mưu, giúp việc để đề nghị kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm chủ yếu là lực lượng Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án.

Do đó, muốn nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì

71

phải nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ này.

Trong thời gian qua, hệ thống Tòa án đã có hành lang pháp lý cơ bản

đảm bảo cho việc nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức,

viên chức nói chung và đội ngũ cán bộ làm công tác xem xét kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm nói riêng, đó là Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công chức, viên chức TAND được ban hành kèm theo Quyết định số 636/QĐ-

TANDTC ngày 15/4/2018 của Chánh án TANDTC. Sau khi quy chế được

ban hành, TANDTC đã duy trì công tác tập huấn chuyên môn bằng hình thức

hội nghị trực tuyến hàng tháng, Lãnh đạo và các Thẩm phán TANDTC đã

trực tiếp quán triệt những nội dung pháp luật mới được ban hành hoặc sửa đổi

bổ sung, tập trung giải đáp những thắc mắc trong công tác áp dụng pháp luật

tại các Tòa án đối với từng nội dung cụ thể; Học viện Tòa án đã tổ chức nhiều

khóa đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ: Nghiệp vụ xét xử, nghiệp vụ Thư ký viên,

Thư ký viên chính, nghiệp vụ Thẩm tra viên, Thẩm tra viên chính, quản lý

năng lực lãnh đạo quản lý cấp phòng, cấp vụ; các Tòa án đã chủ động trong

công tác cử cán bộ đi học các lớp cao học, nghiên cứu sinh và các lớp nâng

cao lý luận chính trị. Vì vậy, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ đã được

nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, để tiếp tục nâng cao năng lực, trình độ đối với

cán bộ hệ thống Tòa án nói chung và đối với đội ngũ cán bộ làm công tác xem

xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời gian tới, chúng tôi xin

đề xuất một số giải pháp như sau:

Một là, phải coi trọng công tác rèn luyện phẩm chất đạo đức, tư tưởng

chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật. Trong đó, phải thường xuyên quán triệt và

triển khai có hiệu quả các nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng,

Bộ Chính trị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái

về chính trị, đạo đức, những biểu hiện tiêu cực. Gắn việc rèn luyện đội ngũ

cán bộ Tòa án với các mục tiêu cụ thể để lực lượng này thật sự là những cán

72

bộ bản lĩnh, kỷ cương, công tâm và có trách nhiệm trong công việc. Cấp ủy

Đảng và lãnh đạo các Tòa án cần phải kịp thời nắm bắt được diễn biến tư

tưởng chính trị và những biểu hiện lệch lạc trong suy nghĩ và hành động để

kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn để ổn định tư tưởng, giữ gìn đoàn kết nội bộ; nếu

có vi phạm cần phải được xử lý kịp thời, đặc biệt là đối với các cán bộ là đảng

viên, là người giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo.

Hai là, tăng cường hơn nữa công tác tập huấn nghiệp vụ để nâng cao

trình độ nghiệp vụ cho cán bộ. Việc tập huấn cần thực hiện theo hướng vừa có

tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn và phù hợp với từng đối tượng. Hoạt

động này cần tổ chức thường xuyên, có cả tổ chức theo phương thức ngắn

ngày, có cả tập huấn chuyên sâu theo từng chuyên đề. Đối với cán bộ làm

công tác xem xét để tham mưu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cần tập

trung vào kỹ năng phát hiện các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm: phát hiện những vi phạm trong việc điều tra, truy tố, xét xử của các cơ

quan tiến hành tố tụng, của những người tiến hành tố tụng; bên cạnh đó là

việc bồi dưỡng kỹ năng soạn thảo, trình bày văn bản để đảm bảo về mặt hình

thức, bố cục, nội dung, sử dụng từ ngữ,… đối với các tờ trình, quyết định

kháng nghị, quyết định giám đốc thẩm.

Ba là, chú trọng chất lượng công tác tuyển dụng đầu vào. Đây chính là

một trong những tiền đề cơ bản để có được đội ngũ cán bộ có năng lực, trình

độ chuyên môn cao sau này. Trong đó, trước khi tuyển dụng cần phải xác

định đầy đủ tiêu chuẩn, số lượng cần tuyển dụng; phải có cơ chế sơ tuyển với

đầy đủ các kỹ năng chuyên môn của lĩnh vực cần tuyển; khi tuyển dụng cần tổ

chức bài bản, quy mô, có kế hoạch cụ thể; đặc biệt coi trọng khâu ra đề và

phải thực sự nghiêm túc trong công tác coi thi, chấm thi,… Sau tuyển dụng

cần tiếp tục đào tạo để trình độ, năng lực của cán bộ phù hợp và đáp ứng được

73

yêu cầu nhiệm vụ của vị trí công tác.

3.2.5. Phổ biến, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đề nghị xem xét

theo thủ tục giám đốc thẩm

Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì không chỉ người bị kết án

mà mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền phát hiện vi phạm pháp luật trong bản

án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án để thông báo cho người có thẩm

quyền biết. Vì vậy, cần thiết phải có những biện pháp, cách thức phổ biến,

tuyên truyền pháp luật phù hợp nhằm nâng cao kiến thức pháp luật trong nhân

dân để họ nhận thức rõ và thực hiện tốt hơn quyền, trách nhiệm đề nghị xem

xét theo thủ tục giám đốc thẩm của mình, tránh hiện tượng “cầu may” trong

việc gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm. Qua thực tiễn hàng năm tại TANDCC

tại Đà Nẵng, số lượng đơn đề nghị, kiến nghị giám đốc thẩm là rất lớn, nhưng

số lượng đơn trùng lặp hoặc không thuộc thẩm quyền lại tương đối nhiều, số

đơn có đủ điều kiện xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì phần

lớn lại không có căn cứ kháng nghị nên người có thẩm quyền thông báo

không quyết định kháng nghị (trả lời đơn). Theo thống kê của TANDCC tại

Đà Nẵng, từ năm 2016 đến năm 2019, số đơn đề nghị, văn bản kiến nghị giám

đốc thẩm nói chung là 10.506 đơn nhưng chỉ có 3.350 đơn, văn bản đủ điều

kiện thụ lý để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (chiếm tỷ lệ

33,60%), trong đó có tới 2.361 đơn đề nghị, kiến nghị được thông báo không

có căn cứ kháng nghị (chiếm tỷ lệ 70,50%). Vì vậy, công tác tuyên truyền,

phổ biến pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng phát

hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật làm căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để

74

thông báo cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định việc kháng nghị.

Tiểu kết Chương 3

BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung các quy định về giám

đốc thẩm nói chung và kháng nghị theo thủ tục gám đốc thẩm nói riêng để

hoàn thiện hơn theo yêu cầu cải cách tư pháp của Bộ Chính trị đặt ra. Việc

nâng cao chất lượng công tác kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một

đòi hỏi mang tính khách quan trong tình hình mới. Trên cơ sở đánh giá những

nguyên nhân vi phạm, sai lầm và hạn chế của công tác này từ thực tiễn

TANDCC tại Đà Nẵng tại Chương 2 của luận văn, cùng với những yêu cầu

của việc nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, học

viên đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác này. Các

giải pháp đó là: cần phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hình sự, về tố tụng

hình sự; nâng cao chất lượng hoạt động xét xử giải quyết, xét xử của hệ thống

Tòa án; hoàn thiện về tổ chức bộ máy giúp việc, tham mưu; nâng cao năng

lực và trình độ của đội ngũ cán bộ; tăng cường công tác phổ biến, nâng cao

nhận thức pháp luật đối với nhân dân trong việc đề nghị xem xét theo thủ tục

giám đốc thẩm.

Hy vọng rằng, cùng với nhiều giải pháp đồng bộ mà hệ thống Tòa án

nói chung, TANDCC tại Đà Nẵng nói riêng đang tiến hành thì những giải

pháp của học viên sẽ có tác dụng tích cực trong hoạt động kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm, góp phần hoàn thành chỉ tiêu công tác giải quyết đơn

đề nghị giám đốc thẩm mà Quốc hội đề ra, tạo động lực cho việc hoàn thành

75

nhiệm vụ chung của hệ thống Tòa án.

KẾT LUẬN

Từ các kết quả nghiên cứu trong luận văn cho thấy:

Tuy các quy định của BLTTHS năm 2015 về kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm đã mang lại những hiệu quả nhất định trong khắc phục những

vi phạm, sai lầm trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án hình sự nhưng

qua thực tiễn vẫn còn bộc lộ những hạn chế, có quy định chưa thật sự hoàn

thiện dẫn đến còn có cách nhận thức, cách hiểu không thống nhất trong hoạt

động áp dụng pháp luật. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về

tố tụng hình sự nói chung và các quy định về kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm nói riêng là những đòi hỏi thực tế và cần thiết.

Thông qua việc làm rõ về mặt lý luận liên quan đến kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự như về khái niệm, ý nghĩa, trình

tự, phân tích các quy định của BLTTHS năm 2015 về kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm để cho thấy cái nhìn toàn diện hơn về quy định này. Bên cạnh

đó, luận văn cũng đã đánh giá, phân tích thực trạng hoạt động kháng nghị

theo thủ tục giám đốc thẩm tại TANDCC tại Đà Nẵng để làm rõ những kết

quả đã đạt được, rút ra một số vi phạm, sai lầm, hạn chế và nguyên nhân; qua

đó cho thấy việc phải nâng cao chất lượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm là nhu cầu cần thiết hiện nay. Từ đó học viên đã có những nhận định về

yêu cầu phải nâng cao chất lượng hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm, đồng thời đề ra một số giải pháp để thực hiện tốt các yêu cầu này.

Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện đề tài luận văn, mặc dù đã có

nhiều cố gắng trong phạm vi khả năng cho phép, nhưng chắc chắn các kết quả

nghiên cứu của luận văn sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế, khiếm

khuyết; các giải pháp để nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm trong

luận văn chưa phải là đầy đủ và toàn diện. Vì vậy, học viên mong muốn nhận

76

được nhiều ý kiến đóng góp của các Thày, Cô giáo, các chuyên gia pháp luật,

các học giả, các đồng nghiệp để luận văn hoàn thiện hơn nữa và hoàn thành

tốt các nhiệm vụ nghiên cứu.

Qua đây, chúng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban Giám

đốc Học viện Khoa học xã hội, Ban Chủ nhiệm Khoa Luật - Học viện Khoa

học xã thội và các Thày, Cô giáo đã tham gia giảng dạy và tạo mọi điều kiện

giúp đỡ để tôi hoàn thành khóa học, đặc biệt là Tiến sĩ Đặng Quang Phương

đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành

luận văn này. Ngoài ra, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các tác giả đã có

những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài để tôi có những tài liệu

77

tham khảo quý giá, hữu ích trong quá trình thực hiện luận văn./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thành An (2018), “Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố

tụng hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng”,

Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.

2. Dương Thị Ánh (2015), “Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật

tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại

học Quốc gia Hà Nội.

3. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương (2014), Báo cáo tổng kết 08

năm thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 12/3/2014, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ban hành ngày

02/01/2002, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng

và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định

hướng đến năm 2020, ban hành ngày 24/5/2005, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, ban hành ngày 2/6/2005, Hà Nội.

7. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình

sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

8. Lê Cảm (2006), “Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người

bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”, Tạp chí TAND, (11,

12, 13 và 14).

9. Chánh án TANDTC (2011), Công văn số 340/TANDTC-BTK quy định

về trách nhiệm của các Tòa án trong việc phát hiện, kiến nghị xem xét

bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm,ban hành

ngày 25/11/2011, Hà Nội.

10. Chánh án TANDTC (2016), Quyết định số 625/QĐ-CA ban hành Quy

chế giải quyết đơn đề nghị, kiến nghị, thông báo đối với bản án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm,

tái thẩm tại Tòa án nhân dân, ban hành ngày 06/9/2016, Hà Nội.

11. Chánh án TANDTC (2016), Quyết định số 140/QĐ-TANDTC ban

hành kế hoạch triển khai thi hành BLTTHS trong TAND, ban hành

ngày 26/02/2016, Hà Nội.

12. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên, 2013), Giáo trình Luật TTHS Việt Nam,

Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

13. Cụm thi đua số III Tòa án nhân dân (2016, 2017, 2018, 2019), Báo

cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng.

14. Ngô Cường (2013), “Thủ tục giám đốc thẩm của Việt Nam: quá trình

phát triển và kiến nghị sửa đổi”, Tạp chí Kiểm sát, số 15 và số 17.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - sự thật, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

17. Nguyễn Quang Hiền (2009), “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc

thẩm”, Tạp chí TAND, số 07.

18. Mai Thanh Hiếu (2006), “Điều kiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm trong luật TTHS Việt Nam và Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Luật

học, số 04.

19. Nguyễn Văn Hiện (1997), “Vấn đề thực tiễn, lý luận và yêu cầu hoàn

thiện thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm các vụ án hình sự của Tòa án

các cấp”, Tạp chí TAND, số 03.

20. Nguyễn Văn Hiện (1998), “Tiếp tục hoàn thiện các quy định về giám

đốc thẩm và tái thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử của

Tòa án”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 04.

21. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2005), Nghị quyết số 05/2005/NQ-

HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử

phúc thẩm” của BLTTHS, ban hành ngày 08/12/2005, Hà Nội.

22. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2006), Nghị quyết số 03/2006/HĐTP

về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ban hành ngày 08/7/2006, Hà

Nội.

23. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2013), Nghị quyết số 01/2013/NQ-

HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 60 BLHS về án treo, ban hành ngày

06/11/2013, Hà Nội.

24. Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2018), Nghị quyết số 02/2018/NQ-

HĐTP về án treo, ban hành ngày 15/5/2018, Hà Nội.

25. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), “Cần một cách nhìn mới về thủ tục giám

đốc thẩm trong TTHS”, Tạp chí Kiểm sát, số 20.

26. Nguyễn Trung Kiên (2019), “Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Nhân lực

khoa học xã hội, số 07.

27. Nguyễn Duy Lãm (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

28. Nguyễn Quang Lộc (2006), “Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc

thẩm khi hủy bản án, quyết định đã có HLPL theo pháp luật tố tụng -

những vướng mắc cần tháo gỡ”, Tạp chí TAND, số 21.

29. Phan Thanh Mai (2006), “Một số ý kiến về căn cứ kháng nghị giám

đốc thẩm theo Điều 273 BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Luật học, số 2.

30. Phan Thị Thanh Mai (2006), “Một số ý kiến về thẩm quyền kháng

nghị giám đốc thẩm”, Tạp chí Luật học, số 11.

31. Hương Nhung (2005), “Những khó khăn, vướng mắc khi thực hiện các

quy định của BLTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm

và thi hành bản án, quyết định của Tòa án”, Tạp chí Kiểm sát, số 24.

32. Đinh Văn Quế (1997), Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những

vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Đinh Văn Quế (2003), Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, Nxb Tổng

hợp thành phố Hồ Chí Minh.

34. Đinh Văn Quế (2004), “Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo

BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND, số 22.

35. Đinh Văn Quế (2005), “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về “dân

sự” trong vụ án hình sự”, Tạp chí TAND, số 9.

36. Đinh Văn Quế (Chủ nhiệm đề tài, 2005), Nâng cao hiệu quả công tác

giám đốc việc xét xử các vụ án hình sự, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội.

37. Đinh Văn Quế (2007), Bình luận khoa học BLTTHS, Nxb Tổng hợp

thành phố Hồ Chí Minh.

38. Đinh Văn Quế (2008), “Thấy gì qua một số vụ án bị kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí TAND, số 20.

39. Lê Kim Quế (2006), “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp

chí TAND, số 14.

40. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1981, 1992 , 2002, 2014),

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội

41. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1981, 1992 , 2002, 2014),

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

42. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1980, 1992, 2013), Hiến

pháp, Hà Nội.

43. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1985, 1999, 2009, 2015,

2017), BLHS, Hà Nội.

44. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (1988), BLTTHS, Hà Nội.

45. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2003), BLTTHS, Hà Nội.

46. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2015), BLTTHS, Hà Nội.

47. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2004), Bộ luật Tố tụng

dân sự, Hà Nội.

48. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2011), Bộ luật Tố tụng

dân sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.

49. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2015), Bộ luật Tố tụng

dân sự, Hà Nội.

50. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1960), Luật tổ chức

TAND, Hà Nội.

51. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1960), Luật tổ chức

VKSND, Hà Nội.

52. TANDCC tại Đà Nẵng (2016-2019), báo cáo tổng kết công tác

chuyên môn các năm công tác của TANDCC tại Đà Nẵng.

53. TANDCC tại Đà Nẵng (2016-2019), các quyết định kháng nghị giám

đốc thẩm của Chánh án TANDCC tại Đà Nẵng.

54. TANDCC tại Đà Nẵng (2016-2019), các quyết định giám đốc thẩm

của Ủy ban Thẩm phán.

55. TANDTC (2003), Công văn số 121/2003/KHXX về giải quyết các vấn

đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự, ban

hành ngày 19/9/2003, Hà Nội.

56. TANDTC (2004), Công văn số 117/2004/KHXX về việc triển khai thi

hành BLTTHS năm 2003, ban hành ngày 22/7/2004, Hà Nội.

57. TANDTC (2004), Công văn số 148/TANDTC-PC Triển khai, thi hành

Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc

hội, ban hành ngày 12/7/2017, Hà Nội.

58. TANDTC (1964), Thông tư số 6-TC về trình tự giám đốc xét xử, ban

hành ngày 23/7/1964, Hà Nội.

59. TANDTC (2018), Thông tư số 02/2018/TT-TANDTC quy định chi tiết

việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18

thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên, ban

hành ngày 21/9/2018, Hà Nội.

60. TANDTC (2016, 2017, 2018, 2019), Báo cáo tổng kết công tác ngành

Tòa án, Hà Nội.

61. TANDTC (2016-2019), các án lệ về hình sự đã được công bố tại trang

tin điện tử về án lệ < https://anle.toaan.gov.vn>.

62. TANDTC (2009), Sổ tay Thẩm phán, Nxb Lao động, Hà Nội.

63. Đào Xuân Tiến (2014), Trách nhiệm kháng nghị giám đốc thẩm, tái

thẩm các vụ án kinh tế, dân sự

,

(01/10/2014).

64. Quản Thị Ngọc Thảo (2007), Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận

và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Hà Nội.

65. Nguyễn Như Thắng (2014), Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm

trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học

Quốc gia Hà Nội.

66. Đặng Văn Thực (2014), “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm

trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhìn dưới góc độ pháp luật tố

tụng hình sự một số nước trên thế giới”

thu-tuc-giam-doc-tham-trong-Bo-luat-to-tung-hinh-su-Viet-Nam-

nhin-duoi-goc-do-phap-luat-to-tung-hinh-su-mot-so-nuoc-tren-the-

gioi>, (02/4/2014).

67. Trường Đại học luật Hà Nội (1999), Giáo trình luật TTHS, Nxb Công

an nhân dân.

68. Nguyễn Văn Trượng (1996), Giám đốc thẩm trong Tố tụng hình sự,

Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội.

69. Nguyễn Văn Trượng (2010), “Thực trạng thực hiện quy định của

BLTTHS về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm và những vấn

đề cần hoàn thiện”, Tạp chí TAND, số 23.

70. Nguyễn Văn Trượng (2011), “Thực trạng thi hành quy định của

BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn

thiện”, Tạp chí TAND, số 7.

71. Trần Minh Tú (2018), Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố

tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ,

Học viện Khoa học xã hội.

72. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp quyền của chúng ta trong sự

nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

73. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2004), Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

74. Nguyễn Văn Xô (chủ biên, 2005), Từ điển Tiếng Việt 2005, Nxb

Thanh niên, Hà Nội.