VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ TIẾN SỸ
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VÕ TIẾN SỸ
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số
: 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi với. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Người cam đoan
Võ Tiến Sỹ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ............ 7
1.1. Khái niệm hình phạt và áp dụng hình phạt .......................................................... 7
1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt ..................................................................... 12
1.3. Các căn cứ áp dụng hình phạt ............................................................................ 17
1.4. Áp dụng hình phạt trong một số trường hợp cụ thể ........................................... 22
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI TÒA ÁN NHÂN
DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI .............................................................. 30
2.1. Tổng quan kết quả áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh
Gia Lai ....................................................................................................................... 30
2.2. Những vi phạm sai lầm trong áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư
Sê, tỉnh Gia Lai ......................................................................................................... 36
CHƯƠNG 3: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT ĐÚNG KHI XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ.......................... 53
3.1. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự ...... 53
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự ........ 57
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ
1 BLHS Bộ luật Hình sự
2 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
3 HĐXX Hội đồng xét xử
4 HTND Hội thẩm nhân dân
5 HP Hình phạt
6 TA Tòa án
7 TAND Tòa án nhân dân
8 TGPL Trợ giúp pháp lý
9 KSV Kiểm sát viên
10 VKS Viện kiểm sát
11 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu Tên bảng Trang bảng
Thống kê tình hình tội phạm trên địa bàn 31 2.1 huyện Chư Sê
Thống kê số liệu xét xử tại Tòa án nhân dân 33 2.2 huyện Chư Sê
Thống kê số liệu hình phạt chính được áp dụng tại 34 2.3 Tòa án nhân dân huyện Chư Sê
Thống kê số liệu hình phạt bổ sung được áp dụng tại 35 2.4 Tòa án nhân dân huyện Chư Sê
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là con đường phát triển tất yếu,
phù hợp với xu thế chung của thời đại. Trong đó, quyền tư pháp là một nguyên tắc
hiến định và có vai trò rất quan trọng. Tại Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) đã đề ra mục tiêu
của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 là: "Xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,
phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp
mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [49].
Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, cần phải
xây dựng Tòa án nhân dân (TAND) thực sự là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mỗi người dân trước nguy cơ bị xâm hại bởi
hành vi trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cũng như từ chính các cơ quan tiến
hành tố tụng [22]. Tòa án (TA) với tính chất là cơ quan nhân danh Nhà nước thực
hiện quyền tư pháp, giải quyết các tranh chấp, xung đột xã hội thông qua hoạt động
xét xử theo những trình tự, thủ tục luật định. Thông qua bản án được tuyên bởi TA,
một người mới bị coi là có tội và phải chịu trách nhiệm bằng hình phạt (HP).
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt
Nam hiện nay, việc nghiên cứu và đánh giá về HP cũng như thực tiễn áp dụng HP
để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định này có ý
nghĩa chính trị - xã hội to lớn và ý nghĩa khoa học, thực tiễn rất quan trọng về các
mặt lập pháp, lý luận và thực tiễn:
Về mặt lập pháp, trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền nào, nếu như các quy
định của pháp luật hình sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của con
người nhằm tránh xa khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm thì các quy định về HP
nói riêng phải nhằm phục hồi lại sự công bằng xã hội, mang tính chính phòng ngừa
riêng -phòng ngừa chung, đồng thời phải thể hiện được nguyên tắc nhân đạo trong
1
quy định của pháp luật hình sự.
Về mặt lý luận, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam xung quanh
những vấn đề cần phải đánh giá thực trạng các quy định của BLHS hiện hành về hệ
thống HP cũng như việc áp dụng HP ra sao và theo những chuẩn mực nào, cũng vẫn
đang còn tồn tại nhiều ý kiến và cách hiểu khác nhau, mà vẫn chưa có một quan
điểm chính thống.
Về mặt thực tiễn, hoạt động áp dụng HP của TA ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi các nhà khoa học - luật gia
cũng như các cán bộ thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp hình sự cần phải tiếp tục cùng
nhau nghiên cứu để lý giải và phân tích, từ đó đề xuất các ý kiến, giải pháp cụ thể
với nhà làm luật nhằm sớm khắc phục và loại trừ những vi phạm, bất cập, hạn chế
còn tồn tại [43].
Những năm trở lại đây, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai nói riêng cũng như trên cả nước nói chung diễn biến rất phức tạp. Quá trình điều
tra, truy tố, đưa người phạm tội ra xét xử, áp dụng HP đối với họ không chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý
thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tuy nhiên, ngoài kết quả tích
cực đã đạt được, hoạt động áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê vẫn có những vi
phạm, hạn chế và vướng mắc. Từ những vướng mắc, hạn chế đó, tác giả muốn đưa
ra phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn để qua đó đưa ra một số giải pháp, đề
xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng HP cũng như hoàn
thiện hơn nữa các chế định của pháp luật hình sự về vấn đề này. Vì vậy, tác giả
chọn đề tài: "Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai" để nghiên
cứu và thực hiện luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề áp dụng HP đối với các vụ án hình sự đã đã thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn. Một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu như:
Dương Văn Thăng (2017), “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án
2
hình sự của Tòa án Quân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Đàm Cảnh Long (2012), “Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
(qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Lê Khánh Hưng (2010), “Các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự
Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lê Quang Chiều (2012), “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt
trong luật Hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Nguyễn Thành Chung (2018), “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp
luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội.
Một số bài đăng trên các báo, tạp chí và sách chuyên khảo:
Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2014), “Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với các cơ
quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm”, Khoa học
Kiểm sát, Số 3/2014, tr. 9 - 13.
GS.TS. Võ Khánh Vinh (1994), “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự
Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), “Thực trạng các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam và hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí
Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật, số 24/2008, tr. 206 - 217.
PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2018), “Luật hình sự so sánh”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia sự thật, Hà Nội.
Tôn Thiện Phương (2015), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong
tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học – Công nghệ, số 3/2015, tr. 6 – 10.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp kiến thức lý luận, thực tiễn về
việc áp dụng HP. Tuy nhiên, hầu như các công trình nghiên cứu nêu trên đều tiếp
cận vấn đề từ những góc độ chung, một số công trình tập trung nghiên cứu về một
3
loại HP cụ thể chứ chưa tiếp cận từ thực tiễn áp dụng HP cũng như chưa cập nhật
những văn bản mới về pháp luật hình sự. Chính vì những lý do trên, trên cơ sở kế
thừa những kết quả đạt được từ các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ tiếp
tục nghiên cứu các vấn đề chưa được đề cập chuyên sâu, đưa ra những kết quả,
những vi phạm, sai lầm cũng như các yếu tố đảm bảo áp dụng HP và trên cơ sở đó
đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm cho việc áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án
hình sự nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật hình sự về
áp dụng HP trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu việc áp dụng HP đối với các vụ án hình
sự từ thực tiễn tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Phân tích những kết quả đạt
được cũng như những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng HP, nhằm đưa ra các giải
pháp nhằm bảo đảm áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn đưa ra những nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể như sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề chung về áp dụng HP, bao gồm: khái
niệm HP, khái niệm áp dụng HP, các nguyên tắc, căn cứ áp dụng HP cũng như áp
dụng HP trong các trường hợp cụ thể.
- Nghiên cứu phân tích, đánh giá thực tiễn việc áp dụng HP tại TAND huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai, chỉ ra được nhưng kết quả, vi phạm và nguyên nhân.
- Phân tích các yếu tố tác động và đề xuất các giải pháp đảm bảo việc áp dụng
HP đúng khi xét xử vụ án hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
về áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4
Về không gian, luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu pháp luật về áp dụng
HP ở TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, không mở rộng ra các địa phương khác ở
trong hay ngoài Việt Nam.
Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu việc áp dụng HP tại TAND huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong khoảng 05 năm gần đây.
Về nội dung, so với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, thì BLHS năm 2015
đã bổ sung đối tượng pháp nhân thương mại vào khái niệm HP. Tuy nhiên, do chưa
có thực tiễn áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội nên đề tài chỉ nghiên
cứu pháp luật và thực tiễn về áp dụng HP đối với người phạm tội, không mở rộng
sang các vấn đề liên quan đến áp dụng HP đối với pháp nhân thương mại phạm tội
cũng như các vấn đề khác liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp; những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của
một số nhà khoa học luật hình sự.
Để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn đã sử dụng những
phương pháp sau:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật cũng như
các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề
chung về áp dụng HP (ở Chương 1).
- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo
chuyên môn của các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương và phương pháp quan
sát thực tế để đánh giá tiễn áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong
05 năm gần đây (ở Chương 2).
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để nêu ra các yếu tố tác động
và đề xuất các giải pháp bảo đảm việc áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự (ở
Chương 3).
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một trong số các công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện
về vấn đề thực tiễn áp dụng HP từ trước đến nay, đặc biệt ở địa bàn huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai, nhất là từ khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực
thi hành. Luận văn cung cấp nhiều kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có
giá trị tham khảo với các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương và địa phương
trong việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao năng lực của những người tiến hành tố
tụng cũng như tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát về việc áp dụng HP khi xét xử
vụ án hình sự.
Đồng thời, luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo đối với công tác học
tập cũng như nghiên cứu về pháp luật hình sự, tố tụng hình sự ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về áp dụng hình phạt.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Các yếu tố tác động và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng
khi xét xử vụ án hình sự.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
1.1. Khái niệm hình phạt và áp dụng hình phạt
1.1.1. Khái niệm hình phạt
BLHS (BLHS) là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm
và HP nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp
pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý
thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, trước hết phải có năng lực trách nhiệm
hình sự. Nói cách khác, người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình đã gây ra. Khi trách nhiệm hình sự được đặt
ra đối với một người, thì nguy cơ người đó có thể phải chịu HP là khó tránh khỏi.
Dưới chế độ phong kiến ở nước ta, tính chất trừng trị của HP rất hà khắc, HP
phổ biến mang tính nhục hình, đày đoạ thể xác và chà đạp phẩm giá con người bằng
nhiều hình thức dã man (như đánh bằng roi, lăng trì, v.v..).
Ngày nay, HP trong BLHS được áp dụng như một công cụ cưỡng chế Nhà
nước để bảo vệ lợi ích của quần chúng nhân dân lao động và do vậy, tính chất giáo
dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm của HP ngày càng trở nên chủ yếu, bên cạnh
thuộc tính không thể thiếu được của nó là tính trừng trị cần thiết [63].
BLHS năm 1985 đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao cấp
và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS thời kỳ này là văn bản pháp lý
duy nhất trong đó quy định về vấn đề tội phạm và HP. Tuy nhiên, BLHS năm 1985
chưa quy định cụ thể khái niệm HP là gì? [5].
Với những thay đổi to lớn về kinh tế kéo theo sự thay đổi về xã hội, pháp luật
7
hình sự cần có sự điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi đó. BLHS năm 1999 đã
có những khái niệm đầu tiên về HP được quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999, sửa
đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là BLHS năm 1999): “HP là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội. HP được quy định trong BLHS và do TA quyết định”. Việc quy
định tại Chương V với 15 điều luật (các Điều 26 - 40) bằng các quy phạm riêng biệt
mà giúp cho xã hội hiểu rõ được bản chất của HP trong pháp luật hình sự quốc gia
vì lần đầu tiên (kể từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến nay) đã chính thức ghi nhận
định nghĩa pháp lý của khái niệm HP (đoạn 1 Điều 26) và đồng thời chỉ rõ mục đích
của HP là gì (Điều 27). BLHS năm 1999 cũng quy định cụ thể các HP chính, HP bổ
sung. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một HP chính và có thể
bị áp dụng một hoặc một số HP bổ sung (Điều 28 BLHS năm 1999) [8].
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS
(sửa đổi) (BLHS năm 2015), sau đó, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là
BLHS năm 2015). So với BLHS trước đây, BLHS hiện tại có những điểm mới quan
trọng, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm, phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn mới. Tại
Điều 30 BLHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm HP như sau: "HP là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do TA quyết
định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [9].
Có thể thấy HP có những đặc trưng cơ bản như sau:
- So với các biện pháp cưỡng chế được quy định trong các văn bản hành
chính, dân sự, .v.v.. như xử phạt hành chính, bồi thường thiệt hại, v.v.. thì chỉ có HP
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, vì: HP đánh vào lợi ích kinh tế, HP hạn
chế hoặc tước bỏ quyền tự do thân thể, HP được ghi vào lý lịch tư pháp, cá biệt HP
còn loại bỏ quyền được sống của người phạm tội, v.v..
- HP chỉ được áp dụng với người phạm tội. "Chỉ người nào phạm một tội đã
được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 BLHS năm 2015).
8
- HP chỉ được quy định trong BLHS và do TA quyết định áp dụng bằng bản án
hình sự có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội.
- HP bao gồm HP chính và HP bổ sung. Người phạm tội đối với mỗi tội phạm
mà họ thực hiện thì chỉ bị áp dụng một HP chính, tuy nhiên, đối với HP bổ sung thì
họ có thể bị áp dụng một HP bổ sung hoặc nhiều hơn [59].
Như vậy, có thể định nghĩa khái niệm HP theo quy định của BLHS hiện hành
như sau: “HP là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy
định trong BLHS, do TA quyết định áp dụng đối với người phạm tội để tước bỏ hoặc
hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người đã thực hiện hành vi phạm tội. HP
không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp
luật và các quy tắc đạo đức của xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới; đồng thời, giáo
dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật, góp phần vào công tác phòng ngừa và
đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước ta”.
1.1.2. Khái niệm áp dụng hình phạt
Theo Từ điển Tiếng Việt, áp dụng là “đưa vào vận dụng trong thực tế điều
nhận thức, lĩnh hội được” [68]. Tại Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, BLHS, Bộ luật
Tố tụng hình sự (BLTTHS) đều khẳng định TA là cơ quan xét xử của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có TA mới có quyền xét xử và ra bản án hình sự
bằng HP. Vì vậy, với việc áp dụng HP, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cụ
thể là TA sẽ áp dụng pháp luật để quyết định HP đối với người phạm tội. Quy định
này thể hiện tính kiên quyết, thận trọng của Nhà nước trong đấu tranh chống tội
phạm, đồng thời bảo đảm lợi ích chính đáng của công dân, và thể hiện sự thống nhất
giữa tội phạm và HP. Tội phạm là cơ sở phải chịu HP, ngược lại HP là hậu quả pháp
lý của tội phạm nhằm trừng trị người phạm tôi, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật.
Để đảm bảo việc áp dụng HP được thực hiện một cách khách quan, đảm bảo
HP đúng người, đúng tội thì việc quan trọng là phải đảm bảo quá trình tố tụng được
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, cụ thể là BLTTHS. Theo quy định của
BLTTHS hiện hành, Cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát (VKS) và TA. BLTTHS cũng quy định cụ thể người tiến hành tố tụng gồm: Thủ
9
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện
trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên (KSV), Kiểm tra viên; Chánh án, Phó
Chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA, Thẩm tra viên (Điều 34
BLTTHS). Đối với một vụ án hình sự, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên
mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự (TTHS). Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ
chứng minh cho hành vi phạm tội của tội phạm thì Cơ quan điều tra đề nghị truy tố
thong qua bản kết luận điều tra. Sau khi nhận hồ sơ của Cơ quan điều tra, VKS xác
định có đủ căn cứ để truy tố thì ra quyết định truy tố bị can ra trước TA có thẩm
quyền bằng bản cáo trạng. Vụ án được TA đưa ra xét xử trong thời hạn quy định,
khi không có căn cứ để trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án. Đối với hoạt động xét xử của TA phải tuân thủ nghiêm theo quy định của
BLTTHS từ khi thụ lý hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và ra bản án, quyết định. Khi xét
xử phải tuân thủ các nguyên tắc: nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân (HTND) độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật; xét xử tập thể và biểu quyết theo đa số, v.v.. Kết quả sau quá trình
xét hỏi các bị cáo trong vụ án, TA phải ra quyết định đối với hành vi phạm tội đã
được tranh luận tại phiên tòa. Ở bước này, TA sẽ tiến hành xem xét, giải quyết một
vụ án hình sự cụ thể đó là: quyết định việc bị cáo có tội hay không có tội, định tội
danh cụ thể, HP và các biện pháp tư pháp cần áp dụng và các vấn đề liên quan khác
như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nếu như có kháng cáo của bị cáo hoặc kháng nghị
của VKS thì TA cấp trên trực tiếp sẽ xét xử phúc thẩm vụ án (Điều 330 BLTTHS).
Việc giám đốc thẩm vụ án hình sự được thực hiện khi VKS kháng nghị vì phát hiện
có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì TA có thẩm
quyền xem xét lại bản án của TA đã có hiệu lực pháp luật (Điều 370 BLTTHS). Thủ
tục Tái thẩm vụ án hình sự là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
TA nhưng bị VKS kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi
cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà TA không biết được khi ra bản án, quyết
định đó (Điều 397 BLTTHS).
10
Như vậy, áp dụng HP là kết quả của hoạt động xét xử vụ án hình sự của TA.
Để áp dụng HP một cách chính xác và khách quan, Thẩm phán TA và Hội thẩm
thuộc thành phần của HĐXX phải căn cứ vào những tài liệu có trong hồ sơ vụ án
cùng kết quả tranh tụng tại phiên tòa và căn cứ vào các quy định về HP được quy
định trong BLHS để áp dụng. HP được áp dụng đối với người phạm tội phải trải qua
quá trình tố tụng để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm,
nhân thân người phạm tội cùng các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, đồng thời,
phải đảm bảo quá trình tố tụng được đảm bảo thực hiện theo các quy định của pháp
luật, đảm bảo các cấp xét xử của TA để áp dụng HP đúng người, đúng tội.
Từ những nhận thức đã có, có thể thấy được những đặc điểm cơ bản của áp
dụng HP:
- Áp dụng HP chỉ được tiến hành khi có tội phạm được thực hiện. Không có
hành vi phạm tội xảy ra thì không có áp dụng pháp luật, áp dụng HP.
- Hoạt động áp dụng HP mang tính quyền lực Nhà nước, chủ thể trực tiếp thực
hiện quyền áp dụng HP của TA là HĐXX. Nhà nước thông qua hoạt động xét xử
của TA cùng bản án do HĐXX tuyên để quyết định một cá nhân hay tổ chức có tội
hay không. Điều 254 BLTTHS năm 2015 quy định: “HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm
phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì
HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo
về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử
hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; 2. HĐXX
phúc thẩm gồm ba Thẩm phán”. Các phán quyết của TA được thể hiện trong bản án
về việc áp dụng HP luôn làm phát sinh hậu quả pháp lý để trừng trị, giáo dục người
phạm tội, các phán quyết này được thi hành bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước
nếu không được tự nguyện thi hành [25].
- Áp dụng HP là việc cá biệt hoá các quy định của BLHS về HP vào từng
trường hợp cụ thể, mang tính tùy nghi, tính lựa chọn để đảm bảo việc áp dụng HP
tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội cụ thể, đảm
bảo sự mềm dẻo, hiệu quả trong việc áp dụng HP.
11
- Hoạt động áp dụng HP được thực hiện tuân theo một trình tự, thủ tục chặt
chẽ do BLTTHS quy định nhằm hạn chế TA lạm dụng quyền hạn của mình, đảm
bảo tính chính xác, khách quan trong phán quyết áp dụng HP.
Áp dụng HP đúng có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng vì việc áp dụng HP sẽ
phản ánh kết quả của quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Áp dụng HP đúng là yếu tố
tiên quyết để quyết định đến mục đích của HP có được thực hiện hay không. Nếu
HP được áp dụng quá nhẹ đối với người phạm tội sẽ tạo tâm lý coi thường pháp
luật, tạo nên thói quen phạm tội do HP không mang tính chất trừng trị thích hợp.
Tuy nhiên, nếu HP quá nặng đối với người phạm tội sẽ làm cho họ có tâm lý thù
hằn, buông xuôi, không còn niềm tin vào sự khoan hồng của pháp luật. Áp dụng HP
đối với người phạm tội sẽ luôn có những ảnh hưởng đến những người khác về ý
thức chấp hành và sống tôn trọng pháp luật.
Như vậy, với khái niệm HP đã nêu ở mục trên, có thể hiểu áp dụng HP là
“hoạt động áp dụng pháp luật hình sự tiếp theo sau khi định tội danh, thể hiện ở
việc trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xác định các tình tiết
của vụ án, nhận thức đầy đủ quy định của BLHS, HĐXX xử lựa chọn loại HP cũng
như mức HP để áp dụng đối với người phạm tội để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích hợp pháp của người đã thực hiện hành vi phạm tội đối với người bị kết tội và ra
phán quyết trong bản án, tuân theo trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định”.
1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Lênin đã đưa ra định nghĩa: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc
biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên Nhà nước và mọi
công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, triệt để chính xác. Mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.
Trong xã hội phong kiến, quản lý Nhà nước như thế nào phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của nhà vua vì vậy dễ dẫn đến sự tùy tiện. Trong xã hội dân chủ, quản lý
12
Nhà nước phải tuân theo pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp
luật là cơ sở minh bạch, công khai chống lại sự tùy tiện. Đồng thời một trong những
đặc trưng của cơ quan Nhà nước là tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật vì vậy nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩ phải được quán triệt
trong tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Đây là nguyên tắc pháp lí cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan, tổ chức và
công dân được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiển pháp và
pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ".
Tại Điều 2 BLHS năm 2015 đã quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã
được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Như vậy, trong BLHS nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện rất rõ:
chỉ khi nào hành vi của con người cụ thể đã được thực hiện, hành vi ấy được BLHS
quy định thì họ mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc TA áp dụng HP phải căn
cứ vào các quy định của BLHS nhằm buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra [65].
Việc áp dụng HP phải đảm bảo nguyên tắc tiên quyết là nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm việc điều tra, truy tố là cơ sở cho việc xét xử, áp
dụng HP được nghiêm chỉnh tuân theo Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm mức HP được
áp dụng tương xứng với hành vi vi phạm, bảo đảm tính nghiêm minh triệt để của
pháp luật hình sự, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp pháp của
công dân khi có hành vi vi phạm của người xâm phạm đến những quyền, lợi ích hợp
pháp đó [49].
Như vậy, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong áp dụng HP là việc bảo
đảm việc TA áp dụng các quy định của BLHS về HP vào từng trường hợp phạm tội
cụ thể để áp dụng HP đối với người phạm tội. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội
chủ nghĩa không những là một trong các nguyên tắc trong áp dụng HP của TA nói
riêng mà còn là nguyên tắc cơ bản, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong tố tụng
hình sự nói chung. Nguyên tắc này quy định tại Điều 7 BLTTHS năm 2015 như
13
sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật
này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”. Nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong pháp luật hình sự là tất cả quyết định của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự nói chung và việc áp dụng
HP của TA nói riêng đều dựa trên quy định của BLHS theo trình tự, thủ tục do
BLTTHS quy định.
1.2.2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Đảm bảo nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc khi áp
dụng HP, được quy định rõ trong BLHS. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
được thể hiện trong hàng loạt quy định của BLHS như ở việc áp dụng HP đối với
người phạm tội với mục đích chủ yếu nhằm: cải tạo, giáo dục họ trở thành người có
ích cho xã hội và giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung.
Mặt khác, khi áp dụng HP, TA sẽ căn cứ vào các đặc điểm nhân thân người phạm
tội như phụ nữ có thai, người chưa thành niên, người già yếu, bệnh tật, người đang
trong thời kỳ nuôi con nhỏ, người có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, v.v.. để
áp dụng mức HP phù hợp.
Trong lịch sử lập pháp sau gần 70 năm, BLHS năm 2015 chỉ còn giữ HP tử
hình trong 18 điều luật trong tổng số 314 điều quy định về các tội phạm (chiếm
5,73%). Cùng với việc bỏ HP tử hình ở nhiều tội danh, BLHS năm 2015 cũng mở
rộng phạm vi đối tượng không áp dụng HP tử hình thêm 02 trường hợp so với
BLHS năm 1999: người bị kết án là người tử đủ 75 tuổi trở lên và người bị kết án tử
hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít
nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức
năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Những trường
hợp này, HP tử hình chuyển thành HP tù chung thân (Điều 40). Những sửa đổi này
cho thấy một nỗ lực rất lớn trong chính sách pháp luật hình sự Việt Nam theo xu
hướng nhân đạo, nhân văn và hướng thiện, giảm tối đa các tội phạm có mức phạt tử
hình, bảo đảm tính mạng, quyền được sống của mỗi cá nhân trong xã hội.
14
Một quy định nữa cũng thể hiện rõ chính sách nhân đạo, hướng thiện trong
pháp luật hình sự là quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
phạm tội mà trước hết là độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 12 BLHS
năm 1999 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng ở bất kỳ tội
danh nào trong BLHS. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 2015 thì người từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc 28 tội danh quy định cụ thể tại
khoản 2 Điều 12 Bộ luật này. Với quy định này thì phạm vi chịu trách nhiệm hình
sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã được thu hẹp đáng kể.
BLHS năm 2015 cũng bổ sung nguyên tắc quan trọng “TA chỉ áp dụng HP tù
có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các HP và biện pháp
giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa” (khoản 6 Điều 91). Đây là
nguyên tắc rất quan trọng định hướng cho hoạt động áp dụng pháp luật của TA, bảo
đảm tốt nhất lợi ích cho người phạm tội dưới 18 tuổi, giúp họ có cơ hội tối đa không
bị tách khỏi gia đình và cộng đồng; giúp họ có nhiều hơn cơ hội nhận được sự giúp
đỡ của gia đình, cộng đồng và xã hội để họ sớm nhận ra lỗi lầm, sớm trở thành
người có ích cho xã hội [53].
Như vậy, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên
tắc quan trọng của pháp luật hình sự nói chung cũng như của hoạt động áp dụng HP
nói riêng nhằm đảm bảo tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối thiểu của con người
dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa thể hiện được
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, lấy con người làm nền tảng và
yếu tố tiên quyết để xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nước ta.
1.2.3. Nguyên tắc công bằng
Tại Điều 3 BLHS năm 2015 quy định: “Đối với người phạm tội: mọi hành vi
phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công
minh theo đúng pháp luật; mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.
15
Bên cạnh đó, một số các quy định khác của BLHS là sự cụ thể hóa của nguyên tắc
công bằng như: nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, khoan hồng với người tự thú, tự
nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại, v.v.. [53].
Nguyên tắc công bằng trong BLHS về việc áp dụng HP được thể hiện ở việc
từ những quy định về HP, TA căn cứ để định tội danh và áp dụng HP tương ứng với
tội danh được quy định trong BLHS, cụ thể:
- Về quy định HP: HP được quy định đa dạng (cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời
hạn, v.v..) để TA tùy trường hợp mà áp dụng sao cho đảm bảo quy định của pháp
luật nhưng cũng không bị cứng nhắc với những trường hợp cụ thể. Chỉ có trách
nhiệm phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi thì mới mang lại tác
dụng tích cực.
- Về việc định tội danh: để việc định tội danh đúng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, trước hết phải xác định và giải thích các tình
tiết thực tế của vụ án một cách khách quan, lựa chọn đúng các quy phạm hình sự
tương ứng, đối chiếu, so sánh chính xác, đầy đủ các dấu hiệu tội phạm được quy
định trong quy phạm đó với các dấu hiệu của hành vi trong thực tế, v.v..
- Về việc áp dụng HP: trên thực tế, không thể áp dụng những HP giống nhau
một các máy móc đối với những người phạm tội giống nhau. Để kết án một cách
công bằng, để người bị kết án phải chịu HP tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi của mình, TA phải thông qua đặc điểm về nhân thân, các tình tiết
giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội,
các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc áp dụng HP, v.v.. để đưa ra HP làm cho
người phạm tội và xã hội “tâm phục, khẩu phục’’ – đó chính là kết quả của sự công
bằng.
1.2.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Cá thể hóa là việc tách biệt cá nhân này với cá
nhân khác trong nhóm để phân biệt vị trí, vai trò của từng người” [68].
Từ khái niệm HP đã nêu, có thể hiểu “Cá thể hóa HP” là làm cho HP được áp
dụng phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, phù
16
hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh phạm tội của người phạm tội [64].
Nguyên tắc pháp lý đòi hỏi TA khi xét xử, áp dụng HP phải xem xét tính chất
và mức độ nguy hiểm đối với xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để áp dụng hợp lý và có chọn lọc những biện pháp
cưỡng chế hình sự đối với người phạm tội. Mục đích của nguyên tắc cá thể hóa HP
là bảo đảm các có HP đối với từng người phạm tội một cách chính xác, công bằng,
hợp lý. Áp dụng đúng đắn nguyên tắc cá thể hóa HP là tiền đề quan trọng để cải tạo,
giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa những người khác phạm tội. Nguyên tắc cá
thể hóa HP có ý nghĩa quan trọng đối với giai đoạn xét xử của TA, tương ứng với
nguyên tắc cá thể hóa ở giai đoạn điều tra, truy tố là cá thể hóa việc truy cứu trách
nhiệm hình sự, ở giai đoạn thi hành án là cá thể hóa việc chấp hành HP. Nguyên tắc
này đòi hỏi phải có sự phân hóa về vai trò của người phạm tội khi thực hiện tội
phạm, đặc biệt đối với những vụ án đồng phạm, đồng thời đối với bị cáo phạm
nhiều tội thì xét xử đối với hành vi cấu thành một tội phạm cụ thể, sau đó tổng hợp
HP đối với những tội mà người phạm tội phải chịu.
1.3. Các căn cứ áp dụng hình phạt
1.3.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015: “Khi quyết định HP, TA
căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Như vậy, một trong những căn cứ đầu tiên khi áp
dụng HP là TA phải căn cứ vào các quy định của BLHS về HP. Có thể thấy trong
quá trình xét xử vụ án hình sự sẽ luôn luôn có hai Bộ luật được áp dụng đó là BLHS
(luật nội dung) và BLTTHS (luật hình thức). Tuy nhiên, khi áp dụng HP thì TA sẽ
chỉ căn cứ duy nhất vào BLHS. Căn cứ này bao hàm hết tất cả những căn cứ còn lại,
bởi lẽ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội, các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, v.v.. đều là những căn cứ đã được quy định tại Bộ luật
này. Nội dung các quy định của BLHS mà TA phải tuân thủ nghiêm chỉnh khi áp
dụng HP bao gồm:
17
- Các quy định có tính nguyên tắc về tội phạm và HP trong Phần chung của
BLHS.
- Các Điều luật quy định HP đối với tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm
của BLHS [59].
Áp dụng HP là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho HP có thể đạt
được mục đích đề ra. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh các Điều luật quy định mang tính
nguyên tắc chung về đường lối xử lý, về HP và hệ thống HP cũng như mức HP đối
với tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm có ý nghĩa rất lớn khi áp dụng HP. TA
chỉ áp dụng HP khi hành vi phạm tội đó đủ yếu tố cấu thành và được quy định trong
điều luật.
1.3.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ để
phân chia tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội
phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, và là một trong những
căn cứ để áp dụng HP.
Khi xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, TA phải
căn cứ vào các yếu tố sau:
- Hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện.
- Lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội; phương tiện phạm tội; thủ đoạn
phạm tội; thời gian và địa điểm phạm tội; khách thể xâm hại, v.v.., ví dụ: cùng dùng
vũ khí cướp tài sản, nếu trong hai vụ án có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng
trong vụ án thứ nhất A thực hiện hành vi cướp tài sản có chuẩn bị từ trước và thực
hiện cướp tài sản giữa ban ngày, nơi có nhiều dân cư, còn trong vụ án thứ hai B
thực hiện cướp tài sản lợi dụng nơi vắng vẻ, khi thấy có người đi qua mới nảy sinh
ý định thực hiện cướp tài sản, thì tuy cùng áp dụng điều khoản như nhau, nhưng
phải quyết định mức HP đối với A nặng hơn đối với B.
- Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra bao gồm những thiệt hại về tính mạng,
ảnh hưởng về sức khỏe, thiệt hại về tài sản hay gây ảnh hưởng đến tình hình an
ninh, chính trị tại địa phương, ảnh hưởng đến việc thực hiện đường lối, chính sách
18
của Đảng và Nhà nước. Ví dụ: cùng phạm tội trộm cắp tài sản, nếu trong hai vụ án
có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng trong vụ án thứ nhất A trộm cắp tài sản
có giá trị 55 triệu đồng, còn trong vụ án thứ hai B trộm cắp tài sản có giá trị 190
triệu đồng, thì tuy cùng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS để xử phạt các bị
cáo, song cần phải quyết định HP đối với B nặng hơn A.
- Nếu vụ án có đồng phạm, có tổ chức thì cần xem xét vị trí của từng đồng
phạm được phân công với vai trò là người tổ chức, người thực hành, người giúp
sức, v.v.. để từ đó đánh giá trách nhiệm hình sự đối với từng đồng phạm và áp dụng
HP phù hợp.
Đồng thời, cần phải lưu ý đến hoàn cảnh chính trị - xã hội nơi hành vi phạm
tội xảy ra.
1.3.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên
quan đến người phạm tội, bao gồm: độ tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe (bệnh
hiểm nghèo, là người già yếu, là phụ nữ có thai hoặc con nhỏ, hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, v.v..), nghề nghiệp, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, quá trình công
tác, thành tích, kỷ luật, lịch sử bản thân, hoàn cảnh gia đình, những đặc điểm có
quan hệ đến các đối tượng của chính sách lớn của Đảng và Nhà nước (dân tộc ít
người; thuộc gia đình liệt sĩ, v.v..). Các yếu tố này được thể hiện trong lý lịch bị can
và các tài liệu khác có liên quan đến nhân thân người phạm tội và được các cơ quan
tiến hành tố tụng thu thập, xác minh theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy
định và là tài liệu không thể thiếu trong hồ sơ vụ án. Bản kết luận điều tra của Cơ
quan điều tra, Bản cáo trạng của VKS và bản án của TA phải ghi đầy đủ các yếu tố
về nhân thân của người phạm tội, vì đây là một trong những căn cứ để áp dụng HP,
đồng thời nhân thân của người phạm tội còn giúp đánh giá được khả năng giáo dục,
cải tạo để trở thành công dân có ích của họ, thiếu nó thì việc áp dụng HP sẽ không
được chính xác, không đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
Nhân thân người phạm tội là tình tiết có một vai trò quan trọng trong việc áp
dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm
19
tội mặc dù đây không phải là một trong những yếu tố cấu thành tội phạm. Việc căn
cứ vào nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc đinh tội cũng như đối với
việc áp dụng khung HP khi những đặc điểm về nhân thân người phạm tội có vai trò
là phản ánh cấu thành tội phạm của tội đó. Ví dụ: Cấu thành tội phạm cơ bản của tội
giết con mới đẻ đòi hỏi chủ thể phải là người mẹ sinh ra đứa trẻ đó. Việc căn cứ vào
nhân thân người phạm tội còn xác định được trường hợp phạm tội tái phạm, tái
phạm nguy hiểm được quy định tại Điều 53 BLHS, trong đó, tái phạm nguy hiểm
trong nhiều tội phạm còn được BLHS quy định là tình tiết định khung tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
Đồng thời, việc căn cứ vào nhân thân người người phạm tội một phần nào đó
còn làm rõ được động cơ, mục đích của hành vi phạm tội. Đa số trường hợp phạm
tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng hoặc là tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định
khung HP và áp dụng HP. Ví dụ: động cơ đê hèn của tội giết người. Giữa mục đích
phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối liên quan. Thông thường những tội
nào hậu quả khó xác định thì dấu hiệu mục đích mới có thể được phản ánh trong
cấu thành tội phạm. Ví dụ: đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, mục đích
phạm tội được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Do vậy, việc xác định
nhân thân người phạm tội làm sáng tỏ động cơ, mục đích của người phạm tội có ý
nghĩa quan trọng trong việc áp dụng HP [61].
Tuy vậy, đối với một số tội phạm thì yếu tố nhân thân của người phạm tội
không được quy định là tình tiết định tội, định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì trong trường hợp đó, TA cần phải cân
nhắc trong việc áp dụng mức HP phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành
vi phạm tội gây nên.
1.3.4. Căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự
Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự ở đây là những tình
tiết đã được quy định cụ thể, rõ ràng tại Điều 51, Điều 52 BLHS. Việc quyết định
HP sẽ ảnh hưởng nếu bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng hoặc có nhiều tình tiết giảm
20
nhẹ. BLHS hiện hành đã quy định 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại
khoản 1 Điều 51 và 15 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 52.
Cùng với đó là các điều kiện khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, hậu quả pháp lý khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
(Điều 54 BLHS năm 2015).
Quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong BLHS thể hiện
tính chất nhân đạo của pháp luật, mang tính giáo dục trong công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm mà vẫn thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật và có
tác dụng răn đe cao. Việc quy định áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự có lợi cho bị cáo thể hiện tính độc lập của TA trong hoạt động tố tụng với các cơ
quan tiến hành tố tụng, mà trực tiếp là bản cáo trạng của VKS, mang tính có lợi cho
bị cáo.
Đối với việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, khi hành vi
đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì dù có áp dụng bao nhiêu tình tiết
tăng nặng thì TA không áp dụng tội danh nặng hơn hoặc HP nặng hơn đối với hành
vi đã cấu thành tội danh. Pháp luật hiện hành không quy định việc áp dụng các tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự sẽ chịu tội danh nặng hơn hoặc định khung HP
nặng hơn mà hành vi phạm tội đã thực hiện.
Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có thể tác động đến việc định
khung hoặc áp dụng HP. Do vậy, cần phân biệt các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự với các tình tiết là dấu hiệu định tội, khi một tình tiết nào đó
được quy định tại Điều 51 hoặc 52 BLHS mà tình tiết đó đã là dấu hiệu định tội rồi
thì khi quyết định HP, TA không được coi tình tiết đó là tình tiết tăng nặng hoặc
giảm nhẹ nữa. Ví dụ: tình tiết “giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” là dấu hiệu định
tội được quy định tại Điều 126 BLHS, khi quyết định HP đối với người phạm tội
này, TA không được coi tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ nữa [80].
Bên cạnh các căn cứ đã nêu ở trên, tại khoản 2 Điều 50 BLHS là một căn cứ
hoàn toàn mới so với những quy định trước đây, cụ thể: “Khi quyết định HP phải
21
căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội”. Do đó,
phải căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án là một điều tất yếu, căn cứ
vào tình hình tài sản để TA có thể áp dụng HP bổ sung là HP tiền hoặc tịch thu tài
sản, cũng như xuất phát từ thực tiễn xét xử thời gian qua đã có rất nhiều những bản
án đã tuyên nhưng không thể áp dụng vào thực tiễn được, người bị hại vẫn không
được đền bù, bồi thường vì đơn giản mức án đã tuyên không hề dựa trên tình hình
tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội do đó mức án được tuyên quá cao,
vượt quá khả năng đáp ứng của người thi hành mặc dù trên lý thuyết mức án đó là
hoàn toàn đúng nhưng nó không thể thực hiện được do có độ chênh lệch so với thực
tế. Căn cứ mới được quy định này sẽ góp phần hạn chế án bị tồn do không thi hành
được trên thực tế khi người có nghĩa vụ thi hành án không có đủ khả năng tài chính
để đáp ứng trong hiện tại và tương lai.
1.4. Áp dụng hình phạt trong một số trường hợp cụ thể
1.4.1. Áp dụng với trường hợp cá nhân phạm tội
Điều luật quy định hệ thống HP trong BLHS. Hệ thống HP bao gồm các loại
HP khác nhau được sắp xếp theo logic nhất định và nhằm mục đích nhất định. Theo
đó, hệ thống HP áp dụng đối với người phạm tội gồm 07 loại HP chính và 07 loại
HP bổ sung. Căn cứ chủ yếu để phân biệt HP chính và HP bổ sung là khả năng áp
dụng độc lập các loại HP đối với mỗi loại tội phạm.
HP chính là HP được TA tuyên đối với người phạm tội và mang tính chất bắt
buộc phải có, mỗi tội phạm thì điều luật sẽ quy định người phạm tội phải chịu một
HP chính cụ thể. HP chính bao gồm 07 loại là: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
Hình phạt bổ sung là loại HP được tuyên kèm theo HP chính. HP bổ sung
không được áp dụng độc lập mà chỉ được áp dụng kèm theo HP chính, bao gồm:
cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú;
quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng
là HP chính; trục xuất, khi không áp dụng là HP chính. Do vậy, đối với HP chính
chỉ quy định áp dụng đối với một tội phạm nhất định thì điều luật lại không giới hạn
22
HP bổ sung ở một HP mà có thể nhiều hơn. Khác với HP chính, HP bổ sung được
áp dụng không phải đối với tất cả các loại tội phạm mà chỉ đối với một số tội phạm
nhất định và cũng không phải HP bổ sung được áp dụng kèm theo bất kỳ HP chính
nào. Trong các loại HP, phạt tiền và trục xuất là hai loại HP được quy định vừa là
HP chính, vừa là HP bổ sung.
Việc quy định các HP bổ sung trong BLHS là một trong những yếu tố mở ra
khả năng pháp lý giúp cho việc cá thể hóa HP, bảo đảm tác động có lựa chọn đối
với người phạm tội tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
và nhân thân người phạm tội. Nói một cách khác, với chức năng hỗ trợ HP chính,
HP bổ sung giúp cho TA áp dụng những biện pháp xử lý triệt để và công bằng đối
với người phạm tội, để đạ được mục đích tối đa của HP. Đối với mỗi tội phạm, TA
chỉ được áp dụng một HP chính nhưng có thể áp dụng một số HP bổ sung.
1.4.2. Áp dụng với trường hợp là người chưa thành niên
BLHS 2015 đã có thay khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” với khái
niệm cụ thể hơn là “người dưới 18 tuổi phạm tội” và có một chương riêng quy định
cho đối tượng này tại Chương XII của BLHS. So với BLHS 1999, BLHS năm
2015 đã có thêm nguyên tắc: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm
lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” được quy định tại Điều 91. Và suy cho cùng
thì việc xử lý và áp dụng HP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm giáo dục,
giúp đỡ họ nhận thức được lỗi lầm, sửa chữa, khắc phục một phần hậu quả do hành
vi phạm tội của mình gây ra bằng việc trở thành một công dân tốt.
Việc áp dụng HP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi,
khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng
như nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm vì trong nhiều trường hợp, họ bị lôi
kéo, dụ dỗ thực hiện hành vi phạm tội, trong khi khả năng nhận thức về tính chất
nguy hiểm của hành vi phạm tội còn hạn chế. Do vậy, việc áp dụng HP với người
dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết, nếu họ có nhiều tình tiết giảm
nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, không thuộc trường hợp miễn trách
nhiệm hình sự theo Điều 29 BLHS thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và
23
đương nhiên không bị áp dụng HP theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.
BLHS đã quy định các HP được áp dụng đối với chủ thể của tội phạm này là:
- Cảnh cáo.
- Phạt tiền: phạt tiền được áp dụng là HP chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức
tiền phạt mà điều luật quy định (Điều 99 BLHS).
- Cải tạo không giam giữ: HP cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với
người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng
hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Khi áp dụng HP cải tạo không giam giữ đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn
cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai
thời hạn mà điều luật quy định (Điều 100 BLHS).
- Tù có thời hạn: mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội được quy định như sau: Với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, mức
phạt cao nhất: không quá 18 năm tù nếu phạm vào điều luật có quy định HP tù
chung thân hoặc tử hình; không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định
tù có thời hạn. Với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, mức phạt cao nhất: không
quá 12 năm tù nếu điều luật được áp dụng có quy định HP chung thân hoặc tử hình;
không quá ½ mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn.
Do đó, căn cứ quy định của pháp luật thì khung HP cao nhất được áp dụng cho
người dưới 18 tuổi phạm tội là không quá 18 năm tù (Điều 101 BLHS).
Đồng thời, tại Điều 91 BLHS cũng quy định TA chỉ áp dụng HP tù có thời hạn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các HP và biện pháp giáo dục khác
không có tác dụng răn đe, phòng ngừa, và mức HP tù có thời hạn áp dụng với người
dưới 18 tuổi phạm tội nhẹ hơn mức án áp dụng với người từ đủ 18 tuổi phạm tội
nhằm đảm bảo mục đích giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi sữa chữa sai lầm,
phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
24
Cũng theo BLHS, người dưới 18 tuổi không bị áp dụng HP tù chung thân hoặc
tử hình cũng như không áp dụng HP bổ sung (khoản 5, khoản 6 Điều 91 BLHS).
BLHS cũng quy định việc áp dụng HP trong các trường hợp chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt; tổng hợp HP trong trường hợp phạm nhiều tội và tổng hợp
HP của nhiều bản án tại các Điều 102, Điều 103 và Điều 104 BLHS để cụ thể hóa
cũng như tách biệt với trường hợp người thành niên phạm tội, thống nhất với các
nguyên tắc trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng có các quy định thể hiện nguyên tắc nhân đạo về việc giảm mức HP đã tuyên
và tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi có
nhiều tiến bộ khi chấp hành HP và đã chấp hành được một khoảng thời gian nhất
định so với mức HP TA đã tuyên thì được xét giảm hoặc tha tù trước thời hạn, các
nội dung này được quy định tại Điều 105 và Điều 106 BLHS.
Như vậy, BLHS năm 2015 đã quy định rõ ràng, chi tiết hơn các trường hợp
tổng hợp HP đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội tại Điều 103; đồng thời có
sự phân hóa giữa người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi. Những quy định này góp phần thể hiện được tính nhân đạo truyền
thống không những trong các chính sách xã hội mà còn trong chính sách pháp luật
của Nhà nước ta nhằm giúp đỡ người phạm tội nhận ra được lỗi lầm và quay trở lại
cuộc sống để đóng góp cho xã hội.
1.4.3. Áp dụng hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt
Khi áp dụng HP, TA không chỉ căn cứ vào các quy định chung về quyết định
HP mà còn phải căn cứ vào các quy định về tội phạm trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt khi tội phạm chưa được thực hiện đến cùng. Cụ thể:
HP sẽ được áp dụng theo các điều luật quy định cụ thể đối với từng loại tội
phạm, tuy nhiên, TA sẽ xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như ý định của
phạm tội sẽ thực hiện, do một số lý do mà không thực hiện được hành vi đó. Đây là
quy định mang tính chất căn cứ cho việc áp dụng HP đối với hành vi chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt, phân biệt với tội phạm hoàn thành do có sự khác nhau về
25
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và sự khác nhau về tình tiết tội phạm
không được thực hiện đến cùng. Đây cũng là căn cứ bổ sung cho căn cứ chung khi
áp dụng HP là căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Việc áp dụng HP sẽ căn cứ vào các điều luật tương ứng được quy định trong
BLHS nhưng bị giới hạn ở mức cao nhất của khung HP:
- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, HP được quyết định trong phạm vi
khung HP được quy định trong các điều luật cụ thể (khoản 2 Điều 57 BLHS).
- Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy
định HP cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng HP tù không quá 20
năm; nếu là tù có thời hạn thì mức HP không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều
luật quy định (khoản 3 Điều 57 BLHS).
Việc giới hạn khung HP thể hiện sự khác nhau về bản chất hành vi do tội
phạm chưa được hoàn thành. Do vậy, khung HP áp dụng với trường hợp chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt sẽ thấp hơn cũng phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
1.4.4. Áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm
Áp dụng HP trong trường hợp đồng phạm, TA phải tuân thủ các quy định
chung về luật nội dung cũng như luật hình thức về áp dụng HP (cụ thể là BLHS và
BLTTHS), vừa phải tuân theo các quy định bổ sung cho trường hợp phạm tội này
theo quy định tại Điều 58 BLHS. Cụ thể:
- TA căn cứ vào các quy định của BLHS về phần các tội phạm để áp dụng
theo quy định tại điều luật đó về tội danh cho những người đồng phạm. Đồng thời,
TA cũng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi; căn cứ vào nhân thân
người phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm
căn cứ cho việc áp dụng HP đối với những người đồng phạm.
- TA căn cứ vào quy định tại Điều 58 BLHS để xét vai trò của những người
đồng phạm như người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức để
đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi, tác động của họ đến hoạt
động chung của vụ án đồng phạm. Đồng thời, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc
26
loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào thì TA chỉ áp dụng đối với
mỗi người đó do những tình tiết này thuộc về nhân thân người phạm tội, mang tính
chất cá biệt nên TA phải đánh giá, xem xét đầy đủ vai trò, tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi của những người đồng phạm để áp dụng HP theo quy định của
pháp luật.
1.4.5. Áp dụng hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Trường hợp phạm nhiều tội được quy định tại Điều 55 BLHS là trường hợp
người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ có một hành vi phạm tội nhưng đã thỏa
mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau và bị xét xử cùng một lần về các tội phạm
đó. Theo đó, có hai trường hợp phạm nhiều tội:
Thứ nhất, trường hợp người phạm tội thực hiện các thành vi phạm tội cấu
thành các tội phạm khác nhau thì việc áp dụng HP được thực hiện theo quy định chung.
Thứ hai, trường hợp người phạm tội thực hiện một hành vi phạm tội nhưng lại
cấu thành nhiều tội khác nhau (ví dụ: giết người để cướp tài sản). Trường hợp này
cần cân nhắc áp dụng HP thông thường với tội nặng hơn, tội phạm đi kèm có thể
xem xét để giảm nhẹ hơn.
Ngoài ra, còn có ý kiến cho rằng, phạm nhiều tội còn có trường hợp thủ đoạn
phạm tội đồng thời cấu thành một tội phạm khác (ví dụ: sử dụng trái phép vũ khí
quân dụng giết người), trong một số trường hợp, thủ đoạn phạm tội còn đồng thời là
tình tiết định khung HP. Do đó, TA cần cân nhắc trước khi tổng hợp HP chung khi
áp dụng HP đối với trường hợp này do thủ đoạn phạm tội cấu thành tội phạm.
Khi xét xử đối với trường hợp phạm nhiều tội, TA áp dụng HP đối với từng tội
theo quy dịnh chung và tổng hợp HP theo Điều 55 BLHS, cụ thể:
- Đối với HP chính: nếu các HP đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc
cùng là tù có thời hạn, thì các HP đó được cộng lại thành HP chung; HP chung
không được vượt quá 03 năm đối với HP cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với
HP tù có thời hạn. Nếu các HP đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn,
thì HP cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành HP tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày
cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành HP
27
chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này. Nếu HP nặng nhất trong số các
HP đã tuyên là tù chung thân thì HP chung là tù chung thân. Nếu HP nặng nhất
trong số các HP đã tuyên là tử hình thì HP chung là tử hình. Phạt tiền không tổng
hợp với các loại HP khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành HP chung. Trục
xuất không tổng hợp với các loại HP khác.
- Đối với HP bổ sung: nếu các HP đã tuyên là cùng loại thì HP chung được
quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại HP đó; riêng đối với
HP tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành HP chung. Nếu các HP đã tuyên
là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các HP đã tuyên [27].
1.4.6. Áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự
Theo quy định tại Điều 54 BLHS, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ cũng như
nhân thân, vai trò của người phạm tội trong vụ án mà có 03 trường hợp TA áp dụng
HP nhẹ hơn, cụ thể:
– Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS
thì TA có thể quyết định một HP dưới mức thấp nhất của khung HP được áp dụng
nhưng phải trong khung HP liền kề nhẹ hơn.
- Đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm
nhưng có vai trò không đáng kể thì TA có thể quyết định một HP dưới mức thấp
nhất của khung HP được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung HP liền
kề nhẹ hơn của điều luật.
- Trong trường hợp có đủ các điều kiện là có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ hoặc
người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò
không đáng kể nhưng điều luật chỉ có một khung HP hoặc khung HP đó là khung
HP nhẹ nhất, thì TA có thể quyết định HP dưới mức thấp nhất của khung HP hoặc
chuyển sang một HP khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được
ghi rõ trong bản án [21].
28
Tiểu kết chương 1
HP là biện pháp cưỡng chế do TA nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người
phạm tội và chỉ có TA mới có quyền này ngoài ra không một cơ quan Nhà nước nào
có quyền quyết định HP. Chủ thể trực tiếp thực hiện quyền áp dụng HP của TA là
HĐXX. HP được HĐXX tuyên đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của Nhà
nước đối với họ và hành vi do họ gây ra. Sự trừng phạt bằng HP đối với người có
hành vi phạm tội là hậu quả thực tế của việc phạm tội. Việc áp dụng HP được dựa
trên các nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ
nghĩa, nguyên tắc công bằng và nguyên tắc cá thể hóa HP. Việc áp dụng HP phải
căn cứ vào quy định của BLHS, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của người phạm tội, bên cạnh đó, việc áp dụng HP cũng căn cứ vào tình
hình tài sản và khả năng thi hành án của người phạm tội. TA sẽ áp dụng HP đối với
các trường hợp cụ thể được quy định trong BLHS với trình tự, thủ tục được quy
định chặt chẽ trong BLTTHS. Việc áp dụng HP đúng sẽ tác động trực tiếp đến
người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội
mới, là tiêu chí của công lý và công bằng xã hội.
29
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI
2.1. Tổng quan kết quả áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai
2.1.1. Thực trạng tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
Huyện Chư Sê là một huyện miền núi của tỉnh Gia Lai, được thành lập vào
ngày 17/08/1981 trên cơ sở tách một phần của huyện Mang Yang. Đến ngày
27/08/2009, huyện Chư Sê được tách thành huyện Chư Sê và huyện Chư Pưh.
Huyện Chư Sê có diện tích tự nhiên 64.296,27 ha, với 15 đơn vị hành chính gồm:
01 thị trấn (Chư Sê) và 14 xã với dân số của huyện Chư Sê là 11.580 người, trong
đó đồng bào thiểu số chiếm tới 50% dân số của huyện. Huyện Chư Sê cách thành
phố Pleiku 40 km về phía nam, có Quốc lộ 14 và Quốc lộ 25 chạy qua, nối ngã ba
huyện Chư Sê với các tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông, tỉnh Bình Phước, tỉnh Bình
Dương, tỉnh Phú Yên và thành phố Hồ Chí Minh [68].
Với vị trí giao thông thuận lợi cho sự phát triển kinh tế cũng như có nguồn tài
nguyên đất bazan rộng lớn, khí hậu ôn hòa, tạo điều kiện phát triển các cây công
nghiệp dài ngày mang lại giá trị cao: hồ tiêu, cao su, cà phê, bông. Những năm qua,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện tăng lên nhanh chóng, thu ngân sách trên địa
bàn hàng năm đứng thứ hai trong tỉnh. Với mật độ dân số cao, dân số trẻ, số người ở
trong độ tuổi lao động đông đảo, không ít người trong độ tuổi lao động không có
được việc làm đã có những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội, đây cũng
chính là nguồn “bổ sung” cho tội phạm. Tình hình an ninh chính trị tiềm ẩn nhiều
yếu tố phức tạp, các đối tượng fulro lưu vong hoạt động ngày càng ranh ma tìm
cách móc nối với các thành phần bên trong, bên cạnh đó, “tin lành Đê – ga” luôn
rình rập, tìm cách chống phá. Cùng với đó, các loại tôi phạm hình sự và tệ nạn xã
hội có xu hướng diễn biến ngày càng tinh vi và phức tạp nên khó khăn chồng chất
khó khăn.
Từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năm 2019, số vụ phạm pháp hình sự bị khởi tố
30
giảm, có thể thấy được điều này qua bảng thống kê sau:
Bảng 2.1: Thống kê tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai
06 tháng Năm Năm Năm Năm đầu năm Tội phạm 2015 2016 2017 2018 2019
Tội phạm về trật tự xã hội 52 47 37 27 7
Tội phạm về xâm phạm sở hữu 47 52 47 49 24
Tội phạm về ma túy 5 4 8 2 2
Tội phạm về kinh tế - 1 1 - 1
Tội phạm về môi trường - - 2 1 2
Tội phạm xâm phạm hoạt động 2 1 - - - tư pháp
Tội phạm về tham nhũng, chức 1 1 1 2 1 vụ
107 106 96 81 37 Tổng số (vụ)
Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả khởi tố,
truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, Gia Lai.
Theo bảng thống kê, có thể thấy các vụ phạm pháp hình sự về xâm phạm sở
hữu xảy ra nhiều nhất qua 05 năm (từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năm 2019). Tính
chất thực hiện hành vi phạm tội về sở hữu mang tính táo bạo, manh động, như tội
phạm cướp giật tài sản, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản, v.v.. mức
độ xâm hại về tính mạng sức khỏe và tài sản của công dân diễn biến phức tạp.
Trong thời gian qua, tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xét về tính chất, mức độ thiệt
hại của loại tội phạm này xảy ra rất nghiêm trọng, manh động hơn, nhất là các vụ án
giết người, cố ý gây thương tích, v.v… Bên cạnh đó mức độ nghiêm trọng của các
vụ tai nạn giao thông cũng tăng lên. Hoạt động của tội phạm ma túy diễn biến phức
tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, xu hướng tàng trữ, mua bán, vận chuyển sử dụng
31
ma túy tổng hợp ngày càng gia tăng, tập trung vào lứa tuổi thanh thiếu niên. Đối với
tội phạm về tham nhũng, chức vụ: xảy ra ít, chủ yếu là vi phạm về tội lợi dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và giả mạo trong công tác.
Theo thống kê nêu trên, có thể thấy số lượng tội phạm của các năm, tội phạm
có xu hướng giảm dần, từ năm 2015 xảy ra 107 vụ phạm pháp hình sự, đến 06 tháng
đầu năm 2019 xảy ra 37 vụ, giảm 34,6%. Điều này cho thấy sự quan tâm lãnh, chỉ
đạo tích cực của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở, đặc biệt là sự vào cuộc
quyết liệt của Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc huyện và các xã, thị trấn tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Chư Sê cơ bản ổn định và giữ
vững, các vụ phạm pháp hình sự được phát hiện và xử lý kịp thời và có xu hướng giảm.
2.1.2. Kết quả áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh
Gia Lai
Hiện nay, TAND huyện Chư Sê có 15 cán bộ, công chức gồm 06 Thẩm phán,
07 Thư ký, 01 kế toán và 02 lao động hợp đồng. Tất cả đội ngũ đều có trình độ
chuyên môn cử nhân luật trở lên và được đào tạo, tập huấn kĩ năng chuyên
môn nghiệp vụ.
TAND huyện Chư Sê là đơn vị duy nhất trong hệ thống TAND hai cấp tỉnh
Gia Lai hiện có 100% cán bộ, công chức, người lao động là Đảng viên. Điều đó đã
huy động được cả hệ thống chính trị cơ quan, Chi bộ, cơ quan luôn làm tốt công tác
lãnh đạo, giáo dục về chính trị, tư tưởng cho Đảng viên, cán bộ công chức.
TAND huyện Chư Sê 05 năm liền liên tục đạt “Tập thể lao động xuất sắc”,
được tặng thưởng nhiều Bằng khen của ngành, của địa phương. Nhiều cá nhân được
trao tặng danh hiệu “Chiến sỹ thi đua cơ sở”, được tặng Bằng khen của ngành, của
địa phương, các tổ chức đoàn thể khác. Đặc biệt trong năm 2015, đơn vị đã được
trao tặng “Cờ thi đua Chính phủ” [55].
Theo quy định của BLTTHS, TAND huyện Chư Sê có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm những tội phạm mà BLHS quy định HP từ 15 năm tù trở xuống, trừ những tội
quy định tại điểm nêu trên Điều 268 BLTTHS. Như vậy, đối với những tội phạm
32
mà BLHS quy định HP chung thân và tử hình thì TAND huyện Chư Sê không có
thẩm quyền xét xử.
Có thể thấy được số liệu xét xử cụ thể qua bảng thống kê sau đây:
Bảng 2.2: Thống kê số liệu xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê
Thống kê tội phạm (vụ/bị cáo)
Tội phạm Tội Tội phạm Tội phạm Tội Tội xâm phạm về Năm về xâm về trật tự phạm về phạm về phạm tham phạm sở xã hội ma túy kinh tế hoạt động nhũng, hữu tư pháp chức vụ
Bị Bị Bị Bị Bị Bị Vụ Vụ Vụ Vụ Vụ Vụ cáo cáo cáo cáo cáo cáo
78 76 8 - 1 - 2015 38 - 1 6 - 36
54 67 8 - 3 - 2016 32 - 1 5 - 36
49 66 7 1 - - 2017 30 1 - 6 - 36
53 76 7 - 2 2018 27 - 4 2 38
06
tháng 7 17 1 1 - 1 6 6 1 1 - 1 đầu
2019
Tổng 31 2 4 3 133 241 152 302 22 2 2 3 314/583
Số % 0,7 0,5 42,4 41,3 48,4 51,8 7 5,3 0,6 0,4 0,6 1
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự”, Gia Lai.
Qua bảng thống kê, có thể thấy tội phạm về xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn
nhất về số vụ là 48,4% và số bị can là 51,8%; tiếp đến là tội phạm về trật tự xã hội
với số vụ chiếm 42,4%, số bị can chiếm 41,3%; tội phạm về ma túy với số vụ chiếm
7%, số bị can chiếm 5,3%; tội phạm về xâm phạm hoạt động tư pháp với số vụ
33
chiếm 0,6%, số bị can chiếm 0,7%; tội phạm về tham nhũng, chức vụ với số vụ
chiếm 1%, số bị can chiếm 0,5%; tội phạm về kinh tế với số vụ chiếm 0,6%, số bị
can chiếm 0,4%.
Qua thống kê số liệu HP chính được áp dụng tại TAND huyện Chư Sê thì HP
tù có thời hạn được áp dụng nhiều nhất trong số các HP được áp dụng.
Bảng 2.3: Thống kê số liệu hình phạt chính được áp dụng tại Tòa án nhân dân
huyện Chư Sê
Bị cáo Số liệu HP chính được áp dụng
Cải tạo Tù có Cho Năm Cảnh Phạt Trục không hưởng thời cáo tiền xuất giam giữ án treo hạn
- - 4 138 21 - 2015 163
- - 3 115 14 - 2016 132
- 5 106 11 - 2017 122
- - 4 119 15 - 2018 138
06 tháng đầu - - - 25 2 - 27 năm 2019
- 5 11 503 63 - Tổng 582
- 0,9 1,9 86,4 10,8 - Số % 100
Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt chính”, Gia Lai.
Qua bảng trên chúng ta thấy tỷ lê áp dụng HP tại huyện Chư Sê như sau: áp
dụng HP tiền đối với 05 bị cáo chiếm tỷ lệ 0,9%; áp dụng HP cải tạo không giam
giữ đối với 11 bị cáo chiếm 1,9%; áp dụng HP tù có thời hạn đối với 503 bị cáo
chiếm 86,4%; áp dụng HP tù nhưng cho hưởng án treo đối với 63 bị cáo chiếm
10,8%. Trong đó, HP tù có thời hạn chiếm tỷ lệ 86,4%, là HP chiếm tỷ lệ cao nhất
trong số các HP được áp dụng.
Trong đó, việc áp dụng HP bổ sung tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai bao
gồm các HP theo quy định của BLHS, tuy nhiên, về tỷ lệ áp dụng các loại HP bổ
sung được thể hiện ở bảng sau đây:
34
Bảng 2.4: Thống kê số liệu HP bổ sung được áp dụng tại TAND huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai
Số liệu HP bổ sung được áp dụng
Cấm đảm Tước nhiệm chức Tịch Bị Cấm một số Năm vụ, v.v.. Quản thu Phạt Trục cáo cư quyền hoặc làm chế tài tiền xuất trú công công việc sản dân nhất định
- - - - - 24 - 2015 163
- - - - 1 19 - 2016 132
- - - - 2 15 - 2017 122
2 - - - 1 21 - 2018 138
1 - - - - 1 - 06 tháng đầu 27
năm 2019
3 - - - 4 80 - Tổng số 87
- - - 4,6 92 - Số % 100 3,4
Nguồn: TAND huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt bổ sung”, Gia Lai.
Trong cơ cấu HP bổ sung được áp dụng tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai, HP giai đoạn từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năm 2019, HP tiền chiếm phần lớn
nhất là 92%, sau đó là HP tịch thu tài sản chiếm tỷ lệ 4,6%, HP cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định chiếm tỷ lệ 3,4%, các HP bổ
sung khác như cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, trục xuất (khi
không là HP chính) là không có. HP bổ sung là HP tiền được áp dụng để bổ trợ cho
HP chính nhằm tối đa hóa việc áp dụng HP tương xứng với hành vi phạm tội.
Nghiên cứu hoạt động áp dụng HP bổ sung là HP tiền đối với người phạm tội tại
TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai cho thấy HP này chủ yếu được áp dụng đối với
35
bị cáo phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc phạm tội về ma túy nhằm hỗ trợ
cho HP chính đã áp dụng với họ. Đối với HP tịch thu tài sản chủ yếu áp dụng với
các tội phạm cố ý gây thương tích để bảo đảm tài sản của họ khi thực hiện nghĩa vụ
bồi thường đối với bị hại. HP cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định được áp dụng “khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm
chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gâu nguy hại cho xã hội”
(Điều 41 BLHS), HP này áp dụng không nhiều, chỉ với 03 trường hợp, chủ yếu
được áp dụng liên quan đến các tội phạm về tham nhũng, chức vụ.
Từ những số liệu trên có thể thấy chất lượng xét xử của TA đã được nâng cao
rõ rệt, TA áp dụng đúng các quy định của pháp luật, các bản án được tuyên bảo đảm
đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, đảm bảo việc áp dụng HP tương xứng với
mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi. HP được áp dụng đã giúp trừng phạt
những đối tượng có hành vi nguy hiểm, không có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn
trọng tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, bên cạnh đó, còn thể hiện được
tính nhân đạo của pháp luật cho những người biết nhận thức được sai lầm của mình
mà cố gắng sửa chữa, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra.
2.2. Những vi phạm sai lầm trong áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân
huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
2.2.1. Áp dụng sai điểm, khoản, điều luật đối với hành vi của bị cáo
Ví dụ: Bản án số 32/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của TAND huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai: Vào khoảng 15 giờ 20 phút ngày 06/8/2018, tại quán nước của bà
Huỳnh Thị Tâm ở tổ dân phố 4, thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, Nguyễn Công Hoan
có hành vi tàng trữ trái phép 04 tép ma túy, loại Methamphetamin, khối lượng
0,8086 gam. Hoan khai đây là 04 tép ma túy do Nguyễn Thị Khánh giao cho Hoan
để đi bán cho người khác nhưng chưa kịp bán thì bị bắt. Cơ quan Công an đã tiến
hành niêm phong 04 tép ma túy đựng trong 04 gói nilon cùng một số tài sản, đồ vật
khác.
Quá trình điều tra, tại biên bản bắt quả tang và trên cơ sở lời khai của Nguyễn
Công Hoan đều khai nhận số ma túy trên Hoan tàng trữ nhằm mục đích bán giúp
36
cho đối tượng tên Nguyễn Thị Khánh để lấy tiền công, Cơ quan Cảnh sát điều tra –
Công an huyện Chư Sê đã tiến hành xác minh, điều tra làm rõ hành vi của Nguyễn
Thị Khánh nhưng do Nguyễn Thị Khánh đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa xác
định được.
Tại Bản Cáo trạng số 29/CTr-VKS ngày 14/11/2018 của VKS nhân dân huyện
Chư Sê đã truy tố Nguyễn Công Hoan về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của BLHS năm 2015. Tại phiên tòa sơ thẩm,
bị cáo Nguyễn Công Hoan đều khai nhận bị cáo tàng trữ số ma túy trên nhằm mục
đích bán giúp cho đối tượng Nguyễn Thị Khánh để lấy tiền công, đại diện VKS
nhân dân huyện Chư Sê rút một phần Quyết định truy tố, chỉ truy tố bị cáo Nguyễn
Công Hoan về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều
251 BLHS.
Tại Bản án hình sự số 32/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của TAND huyện
Chư Sê đã quyết định: căn cứ khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38
của BLHS năm 2015, tuyên bố bị cáo Nguyễn Công Hoan phạm tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công Hoan 03 năm tù.
Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: tại biên bản bắt quả tang, lời khai tại cơ
quan điều tra, quá trình xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Công Hoan đều khai nhận bị
cáo tàng trữ số ma túy trên nhằm mục đích bán giúp cho đối tượng Nguyễn Thị
Khánh để lấy tiền công. Căn cứ vào hành vi mà bị cáo đã thực hiện, vật chứng và
nhân thân của bị cáo, đủ cơ sở để khẳng định lời khai của bị cáo về việc tàng trữ trái
phép chất ma túy để bán là phù hợp với vật chứng là 0,8086 gam ma túy thu giữ
được, nên đủ cơ sở kết luận Nguyễn Công Hoan phạm tội “Mua bán trái phép chất
ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của BLHS. Do đó, TA cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về
tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của BLHS là chưa
đúng với động cơ, mục đích của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.
Bản án này đã bị VKS nhân dân huyện Chư Sê kháng nghị sửa bản án sơ thẩm
về tội danh đối với bị cáo. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận
kháng nghị của VKS nhân dân huyện Chư Sê, tuyên bố bị cáo Nguyễn Công Hoan
37
phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoàn 1 Điều 251
BLHS [40].
2.2.2. Đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội
2.2.2.1. Áp dụng hình phạt quá nhẹ đối với người phạm tội
Ví dụ: Bản án số 68/2017/HS-ST ngày 04/8/2017 của TAND huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai: Vào sáng ngày 11/11/2016, Nguyễn Đình Hà cùng vợ và bà Thiều Thị
Giang, anh Phí Ngọc Đang cùng một số thành viên gia đình của mình đều đến lô cà
phê tại làng Ring, xã H’Bông, huyện Chư Sê. Do giữa vợ chồng Hà đang có mâu
thuẫn trong việc tranh chấp vườn cà phê với anh Đang từ lâu nên phía Hà vào can
ngăn không cho phía anh Đang thu hoạch cà phê. Trong lúc anh Đang cầm tay bà
Giang lôi ra khỏi vườn cà phê thì Hà đã dùng hung khí nguy hiểm là xẻng (dài
1m06, cán làm bằng tre dài 62 cm, lưỡi được làm bằng kim loại dài 44 cm) đánh
anh Đang 02 nhát với tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 14%. Sau khi gây thương
tích, Hà cho rằng hành vi của Hà là phòng vệ chính đáng, anh Đang xâm phạm tài
sản của gia đình Hà nên việc xảy ra Hà không bồi thường.
Tại Bản án số 68/2017/HS-ST ngày 04/8/2017 của TAND huyện Chư Sê đã
quyết định: tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình Hà phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp
dụng khoản 2 Điều 104, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 của BLHS năm
1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Hà 24 tháng tù và cho hưởng án treo.
Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: bị cáo khai nguyên nhân phía gia đình bị
cáo không cho gia đình người bị hại thu hoạch cà phê và dẫn đến bị cáo đánh người
bị hại là do người bị hại thu hoạch trên đất đang có tranh chấp và do gia đình bị cáo
chăm sóc. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện giữa phía bị cáo và phía gia đình người
bị hại trước đây có tranh chấp nhưng đã được giải quyết bằng bản án số
39/2016/DS-ST ngày 30/6/2016 của TAND tỉnh Gia Lai, theo đó, quyền sử dụng
đất thuộc về gia đình người bị hại. Như vậy, về phía bị cáo không cho phía người bị
hại thu hoạch là thể hiện bị cáo không có ý thức chấp hành án, thực tế khi phía
người bị hại đang thu hoạch thì phía bị cáo vào ngăn cản và bị cáo gây thương tích
38
cho người bị hại, và việc này gây mấy trật tự địa phương trong thời gian dài. Không
những thế, việc bị cáo quanh co không thừa nhận hành vi phạm tội, ngoan cố cho
rằng bản thân đang bảo vệ tài sản và không xin lỗi hay bồi thường gì cho phía người
bị hại làm cho người bị hại bức xúc và thể hiện thái độ của bị cáo không biết ăn năn
hối cải, không thể tự sửa chữa lỗi lầm. Như vậy, cần thiết phải xử bị cáo mức án
nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo nhưng TA cấp sơ thẩm xử bị cáo mức
24 tháng tù, khởi điểm của khung HP là chưa nghiêm khắc, chưa phù hợp với tính
chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Bản án này đã bị người bị hại là anh Phí Ngọc Đang kháng cáo đề nghị tăng
nặng HP đối với bị cáo. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng
cáo của người bị hai, xử phạt Nguyễn Đình Hà 30 tháng tù [38].
2.2.2.2. Áp dụng hình phạt quá mức nghiêm khắc đối với người phạm tội
Ví dụ: Bản án số 20/2017/HS-ST ngày 13/3/2017 của TAND huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai: Vào lúc 22 giờ ngày 31/10/2016, Kpă Klach (sinh năm: 1997) rủ Kpă
Klanh (sinh năm: 2000) và Kpă Suên (sinh năm: 2001) đi 02 xe mô tô để trộm mủ
cao su ở nông trường cao su Ia Tiêm, huyện Chư Sê. Khi trộm cắp được 50 kg mủ
cao su chở về được khoảng 01 km thì có người đàn ông chặn lại, Kpă Klach và Kpă
Klanh nhầm tưởng là bảo vệ của nông trường cao su nên bỏ lại phương tiện xe mô
tô và mủ cao su trộm được để bỏ chạy. Sau đó, Kpă Klanh rủ Kpă Klach, Kpă Suên
quay lại để tìm lấy lại xe mô tô và bao mủ cao su bị thu giữ, Kpă Klanh chuẩn bị
cây tuýt sắt, Kpă Suên chuẩn bị dao làm công cụ quay lại chặn đánh anh Hoàng
Minh Hiếu và Trịnh Văn Nam là bảo vệ nông trường nhằm chiếm đoạt lại xe mô tô
và mủ cao su. Anh Hiếu và anh Nam bị tấn công nên buộc phải bỏ chạy, Kpă Klach
cùng đồng bọn đã chiếm đoạt xe mô tô, điện thoại di động có tổng trị giá
20.432.000 đồng.
Tại Bản án số 20/2017/HS-ST ngày 13/3/2017 của TAND huyện Chư Sê đã
quyết định: tuyên bố các bị cáo Kpă Klach, Kpă Klanh, Kpă Đông, Kpă Suên phạm
tội “Cướp tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, điểm p khoản 1, 2 Điều 46
BLHS 1999, xử phạt Kpă Klach 08 năm tù. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133,
39
điểm p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 69, 74 BLHS 1999, xử phạt Kpă Klanh 07 năm tù,
Kpă Suên 07 năm tù.
Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: mặc dù bị cáo Kpă Klanh là người khởi
xướng quay lại để tìm lấy lại xe mô tô và bao mủ cao su bị thu giữ, cùng như chuẩn
bị công cụ để thực hiện tội phạm và là người trực tiếp dùng dao rượt đuổi, chém các
nạn nhân, nhưng bị cáo Kpă Klanh khi thực hiện tội phạm ở độ tuổi dưới 16 tuổi. Bị
cáo Kpă Suên tham gia thực hiện tội phạm ít tích cực hơn so với các đồng phạm
khác và là người có độ tuổi dưới 16 tuổi khi thực hiện tội phạm. TA cấp sơ thẩm xử
phạt mỗi bị cáo 07 năm tù là đánh giá tính chất, mức độ nguy hiển cũng như phân
hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa HP đối với các bị cáo chưa phù hợp với chế
định người phạm tội dưới 18 tuổi, quy định tại các Điều 69 và Điều 74 của BLHS
năm 1999.
Bản án này đã bị VKSND tỉnh Gia Lai kháng nghị giảm HP đối với bị cáo
Kpă Klanh, Kpă Suên, đồng thời, Kpă Klanh, Kpă Suên kháng cáo xin giảm nhẹ
HP. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của VKSND
tỉnh Gia Lai và kháng cáo của các bị cáo Kpă Klanh, Kpă Suên, xử phạt Kpă Klanh
05 năm 06 tháng tù, Kpă Suên 04 năm tù [37].
2.2.3. Đánh giá chưa đầy đủ nhân thân người phạm tội
Ví dụ: Bản án số 51/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 của TAND huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai: Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 04/7/2018, thấy 01 con bê đang ăn cỏ tại
vườn cà phê nhà ông Hai Hoàng ở thôn 1, xã Ia Pal, huyện Chư Sê không có người
trông coi, Nguyễn Văn Phương đã cầm theo khúc gỗ cao su dài khoảng 70 cm, to
bằng cổ tay người lớn đi sang, dùng khúc gỗ đập vào đầu con bê trị giá 3.750.000
đồng, rồi gọi Rơ Lan Bên đến để khiêng giúp bê về nhà Phương, Rơ Lan Bên biết rõ
con bê này không phải của nhà Phương nhưng vẫn đồng ý khiêng con bê về nhà
Phương làm thịt và chia nhau.
Tại bản án số 51/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 của TAND huyện Chư Sê đã
quyết định: tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Phương, Rơ Lan Bên phạm tội “Trộm
cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS
40
năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Phương 15 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều
173, các điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Rơ Lan
Bên 07 tháng tù.
Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: Rơ Lan Bên là người giúp sức tích cực bị
cáo Nguyễn Văn Phương, nên phải chịu HP tương xứng. TA sơ thẩm đã xem xét bị
cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: đầu thú, thành khẩn khai báo, bồi
thường thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được bị hại
xin khoan hồng, nên xử phạt 07 tháng tù, chỉ trên mức khởi điểm của HP tù 01
tháng là phù hợp. Tuy nhiên, bị cáo Rơ Lan Bên là người dân tộc thiểu số, có hoàn
cảnh gia đình khó khăn, phạm tội với vai trò giúp sức, có rất nhiều tình tiết giảm
nhẹ như đã nêu trên, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, nên
không cần cách ly ra ngoài xã hội, mà giao cho chính quyền địa phương giám sát,
giáo dục là đủ tác dụng cải tạo.
Bản án này đã bị kháng cáo của bị cáo Rơ Lan Bên xin giảm nhẹ HP, xin được
hưởng án treo. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của bị
cáo Rơ Lan Bên, xử phạt Rơ Lan Bên 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo [39].
2.2.4. Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự
không đúng
Ví dụ: Bản án số 47/2015/HSST ngày 27/7/2015 của TAND huyện Chư Sê,
tỉnh Gia Lai: Vào lúc 21 giờ ngày 16/3/2015, Võ Văn Giao cùng Nguyễn Thanh
Tâm, Lê Bá Công, Nguyễn Thành Danh và Nguyễn Hữu Trọng về nhà Giao để
đánh bài “xì tố” được thua bằng tiền. Đến khoảng 02 giờ ngày 17/3/2015, Tâm,
Công, Trọng, Danh nghỉ đánh bài và tất cả ngủ tại nhà Giao đến sáng thì Giao rủ
Tâm, Công, Trọng, Danh tiếp tục đánh bài “xì tố” được thua bằng tiền. Đến khoảng
12 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện Chư Sê bắt quả tang, thu tại chiếu bạc
7.500.000 đồng cùng những đồ vật, tài liệu liên quan khác.
Tại Bản án số 47/2015/HSST ngày 27/7/2015 của TAND huyện Chư Sê đã
quyết định: tuyên bố các bị cáo Võ Văn Giao, Nguyễn Thanh Tâm, Lê Bá Công,
Nguyễn Thành Danh và Nguyễn Hữu Trọng phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản
41
1, khoản 3 Điều 248; Điều 33; điểm o, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48;
Điều 53 BLHS năm 1999; khoản 1 Điều 228 BLTTHS, xử phạt bị cáo Võ Văn Giao
10 tháng tù, xử phạt bổ sung bị cáo Võ Văn Giao 15.000.000 đồng để sung công
quỹ Nhà nước. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm o, p, q khoản 1, khoản 2
Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 41; Điều 53; Điều 60 BLHS năm 1999;
khoản 4 Điều 227 BLTTHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Tâm 09 tháng tù nhưng
cho hưởng án treo, xử phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thanh Tâm 15.000.000 đồng và
truy thu 1.800.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước. Áp dụng khoản 1, khoản 3
Điều 248; điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 41;
Điều 53; Điều 60 BLHS năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Danh 10 tháng tù
nhưng cho hưởng án treo. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm o, p, q khoản
1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 41; Điều 53; Điều 60 BLHS năm
1999, xử phạt các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn Hữu Trọng, mỗi bị cáo 10 tháng tù
nhưng cho hưởng án treo. Xử phạt bổ sung các bị cáo Nguyễn Thành Danh, Lê Bá
Công, Nguyễn Hữu Trọng, mỗi bị cáo 15.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà
nước.
Nhận thấy trong vụ án này thể hiện:
- Thứ nhất, việc TA cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn
Hữu Trọng, Nguyễn Thành Danh được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự “tự thú” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS là chưa đúng theo hướng
dẫn tại Thông tư liên ngành 05/TTLN ngày 02/6/2990 của Bộ Nội vụ, VKSND tối
cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn xét xử tại Công văn 81/2002 của
TANDTC. Trường hợp “tự thú” chỉ được áp dụng khi người thực hiện hành vi
phạm tội chưa bị phát giác, chưa có ai biết hành vi phạm tội đã xảy ra, chỉ khi người
phạm tội tự khai ra thì cơ quan chức năng mới biết. Trong vụ án này, hành vi phạm
tội đánh bạc của các bị cáo vào ngày 16/3/2015 đã có người làm chứng Nguyễn
Tiến Dũng biết nên đã khai rõ lần phạm tội này của các bị cáo cho cơ quan chức
năng nên không thuộc trường hợp tự thú mà việc khai nhận lần phạm tội này của
các bị cáo chỉ được xem là thành khẩn khai báo chứ không thuộc trường hợp “tự thú”
42
- Thứ hai, TA cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn Hữu
Trọng được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội đã tích
cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm” quy định
tại điểm q khoản 1 Điều 46 BLHS cũng không có căn cứ. Bởi vì việc người phạm
tội tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện và điều tra tội phạm để vụ án được
giải quyết nhanh chóng là giúp đỡ trong vụ án mà người phạm tội đang bị xử lý chứ
không phải trong các trường hợp giúp đỡ trong việc phát hiện, truy bắt tội phạm tại
địa phương hay trong các vụ án khác. Việc TA cấp sơ thẩm căn cứ vào xác nhận
của UBND xã về việc các bị cáo Công, Trọng “đã có nhiều cống hiến cho chính
quyền địa phương trong việc phát hiện, truy bắt tọi phạm cũng như giúp đỡ các cơ
quan nhà nước phát hiện nhiều vụ án trên địa bàn, được chính quyền địa phương
khen ngợi” để áp dụng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự quy định tại điểm q khoản 1 Điều 46 BLHS là không đúng. Mặt khác, ngoài
xác nhận của Ủy ban xã, thị trấn thì tại hồ sơ vụ án không thể hiện các chứng cứ về
việc các bị cáo đã được chính quyền khen tặng.
Như vậy, trong vụ án này, các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn Hữu Trọng và
Nguyễn Thành Danh chỉ được hưởng một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p
khoản 1 Điều 46 và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2
Điều 46 BLHS nhưng lại có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại
điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị
quyết 01/2013/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn Điều
60 về án treo thì một trong những điều kiện cho bị cáo hưởng án treo: “không có
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của BLHS và
có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS; nếu có một tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của
BLHS”. Đối chiếu quy định của pháp luật thì các bị cáo không đủ điều kiện được
hưởng án treo.
43
Bản án này đã bị VKSND huyện Chư Sê kháng nghị chuyển HP tù cho hưởng
án treo sang HP tù giam đối với các bị cáo Nguyễn Hữu Trọng, Lê Bá Công và
Nguyễn Thành Danh. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng
nghị của VKSND huyện Chư Sê, áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm p khoản
1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 53 BLHS năm 1999, xử phạt Nguyễn Hữu
Trọng, Lê Bá Công và Nguyễn Thành Danh, mỗi bị cáo 10 tháng tù [36].
2.2.5. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm trong áp dụng hình phạt tại
Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai
2.2.5.1. Nguyên nhân do quy định của pháp luật
BLHS vẫn còn những quy định chưa rõ ràng, gây nên nhiều cách hiểu và cách
áp dụng không thống nhất trong thực tiễn thi hành:
- Quy định về khoảng cách tối thiểu và tối đa trong một khung HP tù có thời
hạn vẫn còn quá rộng, tối thiểu là 03 tháng và tối đa là 20 năm (Điều 38 BLHS). Ưu
điểm khi quy định khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa rộng là trong nhiều
trường hợp khác nhau xảy ra, HĐXX có thể áp dụng linh hoạt mức HP phù hợp với
hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện sau khi xem xét, cân nhắc các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Tuy nhiên, nó cũng
mang đến nhược điểm đó là sự áp dụng một cách tùy tiện, không thống nhất, thiếu
chính xác trong việc áp dụng HP tù có thời hạn, không đảm bảo tính công bằng,
quyền con người và yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Việc quy định mức
tối thiểu là 03 tháng không phát huy được hiệu quả của HP trong thực tiễn, không
kể đến đây sẽ là nguyên nhân dẫn tới tình trạng quá tải tại các cơ sở giam giữ. Thời
gian chấp hành HP tù có thời hạn là 03 tháng có đảm bảo thời gian để người bị kết
án cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội không? [25].
- Khó khăn khi áp dụng Điều 54 của BLHS để cân nhắc khi áp dụng HP tù có
thời hạn nhẹ hơn quy định của Bộ luật quy định “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm
nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này, TA có thể quyết định một HP
dưới mức thấp nhất của khung HP, v.v..”. Điều này tạo nên hai cách hiểu khác nhau
khi áp dụng trong thực tiễn: thứ nhất có thể hiểu là hai tình tiết của khoản 1 Điều 51
44
phải là hai điểm thuộc khoản 1 Điều 51, cách hiểu thứ hai là chỉ cần hai tình tiết
giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 51 không cần thiết ở hai điểm khác nhau, có thể cùng
một điểm được quy định ghép nhiều tình tiết [25].
- Ngoài ra, quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm x
khoản 1 Điều 51 BLHS: “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là
cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” chưa phù hợp với thực tế. Theo Pháp lệnh số
04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng thì
người có công với cách mạng quy định như sau: “1. Người có công với cách mạng:
a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; b) Người hoạt
động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945; c) Liệt sĩ; d) Bà mẹ Việt Nam anh hùng; đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân; e) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến; g) Thương binh, người
hưởng chính sách như thương binh; h) Bệnh binh; i) Người hoạt động kháng chiến
bị nhiễm chất độc hóa học; k) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến
bị địch bắt tù, đày; l) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; m) Người có công giúp đỡ cách mạng.” (Điều 1).
Thực tiễn xét xử cho thấy tuổi bị cáo còn trẻ nên dựa trên quy định về nêu trên rất
nhiều bị cáo không thể đáp ứng được điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ
này. Như vậy, vô hình chung đi trái với yêu cầu thực hiện chính sách hình sự hướng
thiện, giảm HP tù, tăng cường các tình tiết không phải HP tù, v.v.. trong công cuộc
cải cách tư pháp. Chính từ những thiếu sót trong các quy định của BLHS, dẫn tới
việc áp dụng HP tù có thời hạn vẫn còn những thiếu sót, ảnh hưởng đến mục đích
HP tù có thời hạn, gây bức xúc trong dư luận [25].
- Tại Điều 101 BLHS quy định: Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt
tù có thời hạn theo quy định: “ 1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi
phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định HP tù chung thân hoặc tử hình, thì
mức HP cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn
thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật
45
quy định; 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều
luật được áp dụng quy định HP tù chung thân hoặc tử hình, thì mức HP cao nhất
được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức HP cao
nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.
Trước hết, việc khoản 1 và khoản 2 Điều 101 BLHS quy định “nếu điều luật
được áp dụng quy định HP chung thân hoặc tử hình...” điều này sẽ dẫn đến cách
hiểu “điều luật” được áp dụng ở đây là các điều luật được quy định trong BLHS,
điều luật nào có quy định HP chung thân hoặc tử hình thì việc quyết định HP đối
với bị cáo sẽ áp dụng theo quy định của đoạn 1, khoản 1 hoặc đoạn 1 khoản 2 của
Điều 101 BLHS mà không phân biệt điều luật đó có một hay nhiều khung HP khác
nhau hay không và áp dụng khác nhau trong thực tiễn.
Thứ hai, Điều 101 BLHS đã diễn đạt: “mức HP cao nhất không quá 18 năm
tù” hoặc “...mức HP cao nhất được áp dụng không quá ¾ ...” hoặc “...không quá ½
mức phạt tù mà điều luật quy định” là còn chưa rõ ràng, gây ra nhiều cách hiểu và
áp dụng pháp luật không thống nhất.
Cách hiểu thứ nhất cho rằng: quy định như trên của điều luật đã khống chế
mức giảm HP tối đa và mức giảm HP tối thiểu áp dụng cho người chưa thành niên
phạm tội thấp hơn so với mức HP tối đa và tối thiểu quy định cho người đã thành
niên phạm tội tương ứng. Khi truy tố, xét xử bị cáo bao giờ cũng theo một điều
khoản cụ thể trong một điều luật cụ thể nào đó được ghi nhận trong BLHS, nếu điều
khoản quy định HP tù thì bao giờ cũng có “khoảng giới hạn” “bị phạt tù từ...năm
đến...năm” . Như vậy, luật không hạn chế mức tối thiểu, song điều khoản áp dụng
có khoảng giới hạn nên cần thiết phải xác định giới hạn tối đa và giới hạn tối thiểu.
Việc nhà làm luật quy định là ¾ hay ½ ở đây cần phải được hiểu là cả mức HP tối
thiểu và mức HP tối đa. Có như vậy mới đảm bảo việc khi quyết định HP đối với
người chưa thành niên phạm tội thấp hơn trong sự so sánh với người đã thành niên
phạm tội tương ứng.
Cách hiểu thứ hai cho rằng: BLHS chỉ khống chế “mức tối đa” của khung HP
được phép áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong sự so sánh với
46
người đã thành niên phạm tội mà không khống chế mức tối thiểu. Mức HP cao nhất
mà người chưa thành niên phải chấp hành phải thấp hơn mức HP cao nhất áp dụng
cho người đã thành niên.
Thực tiễn cũng cho thấy, việc quy định tuỳ theo độ tuổi của người chưa thành
niên phạm tội mà áp dụng mức phạt tù không quá ¾ hay không quá ½ so với mức
phạt tù đã xác định của người đã thành niên phạm tội, dẫn đến việc mức HP này
thường được tuyệt đối hoá và luôn ở mức không quá, hoặc là bằng ¾ hay ½ . Nghĩa
là, TA luôn lấy ở mức cao nhất cho phép trong khi điều luật chỉ quy định mức HP
cao nhất được áp dụng “ không quá” ¾ hay ½ mức phạt tù mà điều luật quy định”
chứ không phải quy định mức phạt tù “bằng” ¾ hay ½ của mức phạt tù áp dụng đối
với người đã thành niên phạm tội [74].
Bên cạnh sự hạn chế của các quy định của pháp luật còn là sự hạn chế trong
việc hướng dẫn áp dụng pháp luật. Theo quy định ở Hiến pháp nước ta thì trong
những quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền giải thích Hiến pháp,
luật và pháp lệnh. Tuy nhiên, trên thực tiễn thực hiện quyền hạn này thì Ủy ban
Thường vụ Quốc hội lại chưa thể làm tròn vai trò của mình vì khối lượng các văn
bản pháp luật ngày càng nhiều. Nên mọi vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật
nói chung áp dụng HP nói riêng đều dựa vào văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
của các cơ quan tư pháp ở trung ương mà chủ yếu là TAND tối cao thông qua
thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Trong thực
tiễn thi hành pháp luật thì các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật còn chưa đáp
ứng được tính cần thiết ngay tại thời điểm thi hành, một điều luật quy định không rõ
ràng sẽ có nhiều cách hiểu, vận dụng khác nhau tùy theo nhận thức của chủ thể áp
dụng, do đó, dẫn đến nhiều sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật mà nguyên
nhân là do công tác tổng kết giải đáp những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng, thi
hành pháp luật, nói chung cũng như công tác xét xử, áp dụng HP nói chung của TA
còn chưa kịp thời.
2.2.5.2. Nguyên nhân do hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp vụ, đạo đức và
trách nhiệm của các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
47
- Một số Thẩm phán còn chưa chú trọng trong công tác nghiên cứu văn bản
pháp luật, không cập nhật thường xuyên các văn bản hướng dẫn pháp luật nên trình
độ nghiệp vụ còn có nhiều hạn chế nhất định.
- Hiện tại, vẫn còn không ít Thẩm phán hạn chế về năng lực, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, không có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tự tin, sợ trách nhiệm,
không tự quyết định được các tình huống khi xét xử, áp dụng HP do đó dễ dẫn đến
những sai lầm trong việc áp dụng HP.
- Kinh nghiệm đội ngũ Thẩm phán trong cùng một TA còn chưa đồng đều, nên
việc phân công nhiệm vụ còn có sự bất cập, những người có năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ vững vàng thường được phân công giải quyết nhiều vụ án hơn, phức tạp
hơn. Việc nghiên cứu cùng lúc nhiều vụ án làm cho việc đánh giá tính chất, mức độ
của hành vi phạm tội, các nội dung có ý nghĩa đến việc áp dụng HP không đầy đủ,
dẫn đến việc áp dụng HP không được chính xác.
- Đối với HTND, sự hạn chế về năng lực, trách nhiệm của HTND một phần
cũng xuất phát từ các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm, cơ chế
bầu, cử Hội thẩm và thực trạng hoạt động của Hội thẩm còn nhiều vấn đề vướng
mắc, bất cập khiến việc Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử của TA còn mang tính
hình thức, vẫn chưa phát huy được hết vị trí, vai trò quan trọng mà Hiến pháp và
pháp luật đã quy định [54].
- Hiện nay, TA chỉ quản lý Hội thẩm trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và
tham gia xét xử. Ngoài thời gian tham gia hoạt động xét xử, Hội thẩm sinh hoạt tại
cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh sống, nên đối với một
số vụ án có tính chất nhạy cảm dễ bị tác động, sức ép và dễ phát sinh tiêu cực [54].
- Sự hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp vụ cũng như vấn đề đạo đức nghề
nghiệp chưa được coi trọng, sự thiếu trách nhiệm khiến cho không ít Thẩm phán và
Hội thẩm còn lệ thuộc vào kết quả điều tra, những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ
vụ án. Trong nhiều trường hợp, HĐXX xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ
án mà không coi trọng tới những ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự coi
trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình
48
đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Do đó, phán quyết của HĐXX còn mang tính
áp đặt, còn tình trạng xét xử oan sai, trái pháp luật; bản án, quyết định của TA cấp
dưới bị TA cấp trên sửa do áp dụng HP không đúng với tính chất, mức độ của hành
vi phạm tội [54].
2.2.5.3. Nguyên nhân từ giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử chưa thường xuyên
- Đối với công tác giám đốc xét xử trong thời gian qua cũng còn một số hạn
chế, tồn tại. Lãnh đạo TA chưa thực sự quan tâm làm tốt công tác tự kiểm tra; việc
kiểm tra công tác nghiệp vụ của TA cấp trên với TA cấp dưới cũng chưa thực sự
thường xuyên. Thực hiện kiểm tra vẫn còn mang tính qua loa, hình thức, kết thúc
kiểm tra nhưng không chỉ ra cho đối tượng kiểm tra những điểm cần rút kinh
nghiệm [58].
Kế hoạch kiểm tra chưa thực sự khoa học, nên có tình trạng đơn vị trong một
thời gian ngắn nhưng phải kiểm tra nhiều lần, ảnh hưởng đến việc triển khai thực
hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Chưa theo dõi quá trình khắc phục các hạn chế, tồn tại sau kiểm tra.
Việc xét xử giám đốc thẩm trong một số trường hợp không định hướng đường
lối cho vòng tố tụng tiếp theo.
- Đối với công tác kiểm sát xét xử, thời gian qua, một số vụ án xét xử có sai
phạm do việc phân công KSV kiểm sát xét xử vụ án chưa phù hợp với trình độ,
năng lực và kinh nghiệm, do đó chưa nghiên cứu, đánh giá được đầy đủ chứng cứ
cũng như các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án trong việc áp dụng HP của TA. Một
số vụ án KSV không phát hiện được vi phạm dẫn đến VKS cấp trên kháng nghị.
Một số KSV còn lúng túng về kỹ năng nghiệp vụ, trình tự thủ tục tố tụng,
v.v.., dẫn đến việc Thẩm phán áp dụng pháp luật chưa chính xác nhưng KSV không
phát hiện, hoặc chậm phát hiện vi phạm, nên không kịp thời tham mưu cho Viện
trưởng kháng nghị.
Lãnh đạo Viện phụ trách về chuyên môn, nghiệp vụ chưa nắm bắt đầy đủ nội
dung vụ án, do đó thiếu sự sâu sát trong công tác chỉ đạo dẫn đến những vi phạm trong
hoạt động xét xử, áp dụng HP của TA chưa được phát hiện và khắc phục kịp thời.
49
Nhiều trường hợp còn có sự nể nang giữa KSV và Thẩm phán nên kiểm sát xét
xử chưa nghiêm dẫn đến những vi phạm trong việc áp dụng HP của TA. Quan hệ
phối hợp của các KSV Thẩm phán có vụ án còn chưa chặt chẽ, việc đánh giá chứng
cứ, tội danh không thống nhất dẫn đến việc áp dụng HP không được chính xác.
2.2.5.4. Các nguyên nhân khác
- Chưa thật sự chú trọng về nội dung của công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp
vụ về áp dụng pháp luật, áp dụng HP cho cán bộ TA cũng như HTND.
- Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể bị áp lực khác tác động, khiến họ lúng
túng khi xét xử, áp dụng HP như hiện tượng can thiệp của chính quyền địa phương,
của Chánh án TA, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử, áp lực của công luận khi
đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử.
- Hiến pháp hiện hành không quy định mối quan hệ hành chính giữa TA các
cấp, mối quan hệ giữa TA các cấp là mối quan hệ tố tụng, không có TA cấp trên và
không có TA cấp dưới mà chỉ có TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc thẩm, các TA thực
hiện chức năng giám đốc thẩm và tái thẩm và các TA thực hiện chức năng xét xử
độc lập với nhau. Tuy nhiên, hiện nay tại địa phương vẫn có việc TA cấp trên chỉ
đạo TA cấp dưới về việc giải quyết án, áp dụng HP. Tình trạng “báo cáo án”, “thỉnh
thị án” đã phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và nguyên tắc tư pháp trong hoạt động
TA, như nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập”, nguyên tắc “xét xử tập
thể”, làm cho những nguyên tắc này trở nên hình thức và không được tôn trọng
[83].
- Chế độ tiền lương của Thẩm phán và chế độ, chính sách đối với Hội thẩm
chưa hợp lý, không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ.
Điều này sẽ làm cho Thẩm phán dễ bị những tác động, cám dỗ hoặc tham nhũng khi
tham gia hoạt động tố tụng, nhất là đối với việc áp dụng HP trong các vụ án hình sự.
Đối với Hội thẩm, pháp luật quy định khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền
với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như phụ cấp công vụ, phụ cấp
trách nhiệm nghề, thì Hội thẩm lại không được hưởng cũng là không hợp lý [83].
- Pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm và
50
gia đình họ trong những trường hợp cần thiết. Thực tế đã có nhiều trường hợp Thẩm
phán, Hội thẩm bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí những người thân của họ
cũng bị đe dọa, trả thù [83].
- Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc của một số TA
còn khó khăn, thiếu thốn, trụ sở làm việc có quy mô và diện tích nhỏ, chỉ có một
phòng xử án, không đảm bảo nhu cầu về diện tích làm việc, công năng sử dụng theo
quy định hiện nay, như bố trí lại phòng xử án theo mô hình phòng xét xử mới, trong
đó có phòng xét xử thân thiện. Tình trạng này chưa được giải quyết đã ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng hoạt động và tính tôn nghiêm của cơ quan bảo vệ pháp luật là TA.
- Đồng thời, một trong những nguyên nhân là do hạn chế về năng lực, trình dọ
chuyên môn của KSV tham gia tố tụng, tranh luận chưa tốt, đề xuất HP, mức HP
chưa có đầy đủ căn cứ. Bên cạnh đó, năng lực, trình độ, ý thức của những người
tham gia tố tụng khác (đặc biệt là Luật sư) cũng ảnh hưởng đến kết quả tranh tụng,
tranh luận dẫn đến có những ảnh hưởng đến việc áp dụng HP.
51
Tiểu kết chương 2
Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai những năm gần
đây có xu hướng giảm về số lượng, nhưng ngày càng tăng về mức độ và tính chất
nguy hiểm của hành vi. Từ đó đặt ra yêu cầu áp dụng HP của TA phải thật sự
nghiêm khắc nhưng cũng nhằm giáo dục người phạm tội trở thành công dân có ích
cho xã hội. Thời gian qua, việc áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê được thực
hiện theo đúng quy định của BLHS, đảm bảo tính sự khách quan và công bằng, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cũng như nhân thân người phạm
tội. Tuy nhiên, do hạn chế của một số quy định của BLHS cũng như các văn bản
hướng dẫn liên quan đến áp dụng HP cũng như hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp
vụ, đạo đức và trách nhiệm của một số Thẩm phán, HTND cũng như từ việc giám
đốc xét xử, kiểm sát xét xử chưa thường xuyên, chặt chẽ và một số nguyên nhân
chủ quan, khách quan khác mà việc áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê còn để
xảy ra vi phạm như áp dụng sai điểm, khoản, điều luật đối với người phạm tội; đánh
giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội dẫn
đến áp dụng HP quá nhẹ hoặc quá mức nghiêm khắc đối với người phạm tội. Do đó,
cần có những giải pháp cụ thể để khắc phục những vi phạm này, đảm bảo cho công
tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm được thực hiện hiệu quả.
52
CHƯƠNG 3
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐÚNG KHI XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án
hình sự
3.1.1. Quy định của pháp luật
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, pháp luật là công cụ thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân lao động và là công cụ để quản lý của Nhà nước. Do đó, pháp luật là một trong
các yếu tố có vai trò quan trọng, quyết định trong việc bảo đảm việc áp dụng HP
đúng.
Khi áp dụng HP, TA căn cứ vào quy định của BLHS và BLTTHS, bảo đảm
xét xử đúng người, đúng tội, chính xác, khách quan, bảo đảm không ai bị coi là có
tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của TA. Do vậy, để bảo đảm áp
dụng HP đúng thì yếu tố quan trọng đầu tiên là pháp luật. Khi có các quy định của
pháp luật về HP thì TA mới căn cứ vào đó để áp dụng HP. Đồng thời, việc áp dụng
HP của TA phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục nhất định quy định chặt
chẽ tại BLTTHS. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 bên cạnh việc quy định các chế tài áp
dụng đối với hành vi phạm tội theo trình tự thủ tục nhất định theo quy định của
BLTTHS thì quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vướng mắc, khó khăn, do vậy,
BLHS, BLTTHS năm 2015 cần có những văn bản hướng dẫn chi tiết việc thực hiện
hoặc những thay đổi nhất định, những hoàn thiện nhằm giải quyết những vướng
mắc, khó khăn đó để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm, phục
vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai
đoạn mới.
3.1.2. Yếu tố về con người
Để bảo đảm việc áp dụng HP, yếu tố thực hiện quyền căn cứ vào các quy định
của pháp luật để áp dụng HP là yếu tố con người. Nếu nói yếu tố pháp luật mang
53
tính chất quy phạm, được quy định rõ ràng tại Điều luật cụ thể, thì yếu tố con người
là yếu tố mang tính chủ động, sáng tạo.
Theo quy định tại Luật tổ chức TAND 2014 tại Điều 65 về nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán thì “Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy
định của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử”. Như vậy,
người bảo đảm việc áp dụng HP đúng chính là Thẩm phán, người được bổ nhiệm để
làm nhiệm vụ xét xử, tiến hành hoạt động tố tụng. Đồng thời, việc xét xử của TA có
HTND tham gia (trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do BLHS quy định)
(Điều 22 BLHS) và phải đảm bảo nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc
xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
Để bảo đảm việc áp dụng HP đúng Thẩm phán và Hội thẩm là những người
phải có trình độ chuyên môn, năng lực, đạo đức và trách nhiệm để áp dụng HP một
cách khách quan, đúng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, KSV và người
bào chữa cũng đóng vai trò quan trọng với vị trí một bên buộc tội, một bên gỡ tội
trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa sẽ giúp Thẩm phán, Hội thẩm đưa ra được
mức HP tương ứng hành vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời, với chức năng kiểm sát
xét xử, KSV cũng kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định của Thẩm phán và Hội
thẩm, góp phần bảo đảm cho việc áp dụng HP đúng.
3.1.3. Kết quả điều tra truy tố đúng và đầy đủ
Theo quy định của pháp luật hình sự, Cơ quan điều tra sẽ áp dụng các biện
pháp do pháp luật quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi
phạm tội. VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát đối với các hoạt
động tư pháp và TA thực hiện hoạt động xét xử. Đồng thời, để tuyên bố một người
phạm tội và áp dụng HP đối với người phạm tội thì phải trải qua ba giai đoạn: khởi
tố điều tra, truy tố và xét xử tương ứng với thẩm quyền của ba hệ thống cơ quan tiến
hành tố tụng là Cơ quan điều tra, VKS và TA. Các giai đoạn tố tụng có quan hệ chặt
chẽ với nhau, giai đoạn trước là tiền đề, cơ sở để giai đoạn sau tiếp tục thực hiện.
Điều tra vụ án hình sự là quá trình tố tụng quan trọng, quyết định việc một
54
người có phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình hay
không từ việc khởi tố bị can và thu thập các tài liệu nhằm chứng minh cho hành vi
phạm tội đó là có căn cứ và đúng sự thật.
Truy tố là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của VKS nhằm
xem xét, đánh giá lại toàn bộ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đề nghị truy tố do Cơ
quan điều tra thu thập có được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS
quy định hay không để quyết định việc truy tố bị can ra TA để xét xử, tránh việc
truy tố oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Xét xử là chức năng cơ bản và đóng vai trò quan trọng nhất trong toàn bộ quá
trình tố tụng kể từ khởi tố đến truy tố bị can để TA xét xử nhằm kiểm tra lại toàn bộ
những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án theo đúng trình tự pháp luật quy định
do Cơ quan điều tra và VKS thu thập làm căn cứ để quyết định việc một người có
tội hay không. Những vi phạm trong quá trình điều tra, truy tố như thiếu chứng cứ
chứng minh cho các tình tiết liên quan đến vụ án, vi phạm thủ tục tố tụng, bỏ lọt tội
phạm sẽ là một trong căn cứ để TA trả hồ sơ điều tra bổ sung làm kéo dài thời gian
tố tụng. Việc điều tra, truy tố đúng sẽ giúp TA căn cứ vào các tài liệu thu thập được
ở hai này để đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, vấn đề nhân
thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội được chính xác, tạo tiền đề cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử
để TA có thể áp dụng HP đúng đối với người phạm tội.
3.1.4. Nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm tại địa phương
Một trong những yếu tố đảm bảo việc áp dụng HP đúng là nhằm thực hiện
nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương. Tình hình tội phạm trên
địa bàn huyện Chư Sê nhìn chung có xu hướng giảm về số lượng nhưng lại tăng về
tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Nhiều vụ án có sự tham gia của nhiều bị
cáo ở nhiều độ tuổi và các địa phương khác nhau trong cả nước, các bị can, bị cáo
phạm tội có tổ chức, sử dụng thủ đoạn tinh vi để thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo
bị xét xử có nhân thân xấu, phạm tội nhiều lần, thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm
nguy hiểm còn nhiều, tập trung ở độ tuổi thanh thiếu niên do xu hướng thích thể
55
hiện, thích ăn chơi, đua đòi theo các trào lưu mới dẫn đến việc nghiện ngập, hút
chích ma túy, thích tiêu xài hơn là lao động nên khi dùng hết tiền sẽ nảy sinh ý định
chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu ăn chơi của cá nhân. Đồng
thời, việc HP áp dụng đối với bị cáo chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện không có tác dụng răn đe đối với
các đối tượng đang có ý định phạm tội. Trái lại, việc áp dụng HP quá nghiêm khắc
với mức HP cao đối với bị cáo sẽ tạo ra khoảng thời gian cách ly họ quá dài với
cuộc sống, làm cho họ không có ý chí phấn đấu chấp hành án tốt HP để tái hòa nhập
lại với xã hội. Bởi sự đề phòng, coi thường từ người xung quanh, khó khăn để tìm
được công việc đảm bảo trang trải được cho cuộc sống và tuổi cũng lớn. Điều đó tác
động để họ trở lại con đường cũ, tiếp tục phạm tội [25].
Nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm nhằm đảm bảo tình hình chính trị
tại địa phương là một trong những nhiệm vụ hàng đầu nhằm giữ vững an ninh, trật
tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá
của mọi người dân. Đây cũng là một trong những yếu tố bảo đảm cho việc áp dụng
HP đúng, căn cứ vào tình hình tội phạm diễn biến tại địa phương, TA sẽ áp dụng
mức HP không những để trừng trị mà còn nhằm hướng đến sự giáo dục, ngăn ngừa
họ phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
3.1.5. Các yếu tố khác
Bên cạnh các yếu tố nêu trên, thì còn các yếu tố sau đây bảo đảm áp dụng HP
đúng khi xét xử vụ án hình sự
- Đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong thời kỳ mới trên tinh thần Nghị
quyết 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, xác định xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Ảnh hưởng của truyền thông, báo chí. Thông qua truyền thông, báo chí, công
chúng sẽ biết được về các hoạt động của hệ thống TA, hiểu biết về quá trình đi đến
các quyết định pháp lý, để từ đó tôn trọng, tâm phục, khẩu phục đối với mỗi phán
56
quyết của TA, tạo ra niềm tin vào công lý.
- Sự giám sát của nhân dân. Để áp dụng HP trong quá trình xét xử các vụ án
hình sự của TA được thực hiện ngày càng tốt hơn thì tăng cường sự giám sát thông
qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử, áp dụng của TA; tăng
cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân dân là việc làm cần
thiết để cho mỗi cán bộ, Thẩm phán TA có trách nhiệm hơn đối với công việc của
mình, đồng thời giúp phát hiện nhưng vi phạm, sai sót trong công tác xét xử, áp
dụng HP để kịp thời chấn chính, khắc phục.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự
3.2.1. Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện pháp luật
Đối với việc áp dụng HP của TA, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể
hiện qua việc áp dụng HP của TA phải căn cứ vào các quy định của BLHS và theo
trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, qua việc áp dụng HP phải bảo đảm trừng trị
cũng như giáo dục người phạm tội ý thức chấp hành pháp luật, phòng ngừa họ phạm
tội mới. Do vậy, các biện pháp nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc
áp dụng HP gồm các biện pháp:
- Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn thi hành pháp luật.
Qua đó, rà soát, loại bỏ những văn bản quy phạm pháp luật không còn thích hợp với
thực tế. Việc xây dựng pháp luật phải theo đúng thẩm quyền đã được quy định trong
Hiến pháp, trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân tham gia vào quá trình thảo luận xây dựng pháp luật.
Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành pháp luật hình sự, đặc biệt là BLHS và BLTTHS. Tăng cường công tác hướng
dẫn, triển khai pháp luật nhằm bảo đảm sự thống nhất nhận thức và thực hiện từ
Trung ương đến địa phương.
- Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật cũng như tổng kết xét xử. Đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật, nhằm hình thành và
nâng cao ý thức pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội. TAND tối cao cần quan
tâm nhiều hơn về công tác tổng kết thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật
57
cho TAND các cấp, thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán,
Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nâng cao chất lượng xét xử các
vụ án hình sự; triển khai hiệu quả việc công khai bản án, quyết định có hiệu lực của
TA trên Cổng thông tin điện tử. Tiến hành họp nhằm đánh giá, nhận xét những sai
lầm và kịp thời rút kinh nghiệm, kiểm điểm đối với cá nhân vi phạm trong các vụ án
bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. Cần phải
kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động thanh tra, giám sát, có kế hoạch cụ thể
phối hợp với Chánh án TAND các cấp để việc thanh tra, giám sát việc thực hiện
pháp luật được hiệu quả. TAND cấp tỉnh phải có trách nhiệm giám sát, kiểm tra
công tác nghiệp vụ của TAND cấp huyện nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm để tổ
chức họp kiểm điểm rút kinh nghiệm hay có những giải pháp thích hợp. Kết thúc
mỗi đợt kiểm tra, các đoàn kiểm tra phải tổ chức buổi rút kinh nghiệm chung đối
với đối tượng kiểm tra, phải chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần rút kinh nghiệm; đề
xuất với cấp có thẩm quyền xem xét xử lý đối với những trường hợp có sai lầm
nghiêm trọng; yêu cầu đối tượng kiểm tra báo cáo kết quả khắc phục các hạn chế,
thiếu sót sau một thời gian nhất định [58].
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp bộ Đảng, cơ quan của Đảng từ Trung
ương tới địa phương phải thường xuyên lãnh đạo, tăng cường cán bộ có phẩm chất
và năng lực cho lĩnh vực pháp chế và kiểm tra chặt chẽ hoạt động thực hiện pháp
luật của tất cả các cơ quan nhà nước, đặc biệt là TA trong việc áp dụng HP. Mọi cơ
quan, tổ chức, Đảng viên của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật, không can thiệp, làm thay thẩm quyền của TA, ban hành quy định về sự
lãnh đạo của đảng đối với công tác xét xử theo hướng Đảng lãnh đạo công tác xét
xử về đường lối, chủ trương mà không được can thiệp vào hoạt động xét xử, áp
dụng HP của TA [42].
Qua đó, đối với pháp luật hình sự, dù đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng
vẫn còn những bất cập hạn chế so với đòi hỏi của thực tiễn trong công tác đấu tranh
58
phòng chống tội phạm. BLHS năm 2015 tuy rằng mới được ban hành nhưng cũng
không tránh khỏi có những bất cập, hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới đây cần phải
tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi một cách khoa học, có hệ thống, đồng bộ, cụ thể và chặt
chẽ hơn trong phần chung và phần các tội phạm, trình tự áp dụng HP, bảo đảm quy
định của pháp luật vừa chính xác, công bằng, nhân đạo và dễ áp dụng, cụ thể:
- Quy định về khoảng cách tối thiểu và tối đa trong một khung HP. Chế tài quy
định đối với các tội phạm cụ thể cần được hoàn thiện theo hướng rút ngắn khoảng
cách giữa mức tối thiểu và tối mức tối đa của khung HP, chia nhỏ các khung HP,
tăng cường chế tài tùy nghi lựa chọn giữa các HP không phải là HP tù. Bên cạnh đó,
cần sửa đổi, bổ sung nâng mức tối thiểu của HP từ 03 tháng lên thành 08 tháng vì
quy định mức HP tù có thời hạn tối thiểu là 03 tháng thì người phải chấp hành án
không có đủ thời gian để hưởng các chính sách về giảm thời hạn chấp hành HP, học
nghề, không khuyến khích được ý thức tự cải tạo của bản thân. Sửa đổi này sẽ góp
phần làm giảm tình trạng áp dụng HP trong xét xử quá nhiều, đồng thời đảm bảo
được yêu cầu cải cách tư pháp. Ngoài ra, còn khuyến khích chủ thể áp dụng HP xem
xét, áp dụng các HP nhẹ hơn HP, tạo nên sự cân đối giữa các loại HP trong hệ thống
HP [25].
- Cần ban hành hướng dẫn về cách hiểu tại Điều 54 BLHS năm 2015, theo
hướng hai tình tiết giảm nhẹ có thể thuộc hai điểm khác nhau của khoản 1 Điều 51
hoặc cùng thuộc một điểm của khoản 1 Điều 51 [25].
- Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm x khoản 1 Điều
51 BLHS cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo người bị áp
dụng HP được hưởng quyền lợi phù hợp với chính sách pháp luật của Nhà nước,
theo đó cần quy định điểm x như sau: “Người phạm tội là người có công với cách
mạng hoặc là cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” cần được sửa đổi, bổ sung thành:
“Người phạm tội là người có công với cách mạng; là vợ, chồng, con của người có
công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” [25].
- Đối với quy định tại Điều 101 BLHS, xuất phát từ những vướng mắc, bất cập
như đã phân tích ở trên thì cần thiết nên sửa đổi, bổ sung Điều 101 BLHS theo
59
hướng chỉ áp dụng cho trường hợp người chưa thành niên phạm một tội. Theo đó,
sửa đổi cụm từ “điều luật được áp dụng” thành “điều khoản được áp dụng” cho phù
hợp với thực tiễn áp dụng. Sửa quy định: “không quá ¾ hoặc không quá ½ mức
phạt tù mà điều luật quy định” thành “không quá ¾ hoặc không quá ½ mức phạt tù
cao nhất của khung HP” để tránh việc nhận thức và áp dụng pháp luật không thống
nhất. Như vậy, điều luật mới sẽ có nội dung là: “1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều khoản được áp dụng quy định HP tù chung thân
hoặc tử hình, thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu
là tù có thời hạn thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức
phạt tù cao nhất của khung HP được áp dụng. 2. Đối với người từ đủ 14 đến dưới
16 tuổi khi phạm tội, nếu điều khoản được áp dụng quy định HP tù chung thân hoặc
tử hình, thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù, nếu là tù
có thời hạn thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt
tù cao nhất của khung HP được áp dụng” [74].
3.2.2. Nâng cao năng lực của người áp dụng hình phạt
Thứ nhất, nâng cao chất lượng của đội ngũ Thẩm phán
- Kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ Tòa án các cấp. Lãnh đạo TA phải tổ
chức thực hiện tốt quy chế tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ, công chức và
Thẩm phán TA. Quá trình tuyển chọn này phải được sàng lọc và chứng minh từ
thực tế xét xử, từ chất lượng các bản án hình sự đã xét xử, được sự đánh giá cao của
đồng nghiệp, cấp trên và kể cả cơ quan tố tụng khác, Luật sư, Hội thẩm, v.v.., kịp
thời phát hiện những công chức, Thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở trường về
xét xử án hình sự để giúp đỡ, bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu họ xét xử án hình sự.
- Nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, các ứng
dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ Thẩm phán. Có chính sách khuyến khích
Thẩm phán tích cực học tập để nâng cao trình độ của mình, đáp ứng với nhiệm vụ
được giao. Kịp thời cập nhật các văn bản pháp luật chuyên ngành, văn bản pháp luật
liên quan lên website của ngành để Thẩm phán, công chức thuận lợi tra cứu, cập
nhật văn bản mới.
60
- Thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên ngành về pháp luật, kỹ năng nghiệp
vụ khi xét xử, áp dụng HP. Tích cực nghiên cứu xây dựng các đề tài khoa học, các
chuyên đề về xét xử như phương pháp nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng xét hỏi, v.v.. tại
phiên tòa để áp dụng đúng mức HP đối với hành vi phạm tội. Thường xuyên tổ chức
hội thảo chuyên môn, rút kinh nghiệm xét xử với nhiều phạm vi đối tượng khác
nhau. Tổ chức các phiên tòa mẫu, yêu cầu các Thẩm phán khác dự và đóng góp ý kiến.
- Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng và sử dụng hợp lý đội ngũ Thẩm phán. Chỉ khi
mức lương của Thẩm phán đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của bản thân và gia
đình thì họ mới yên tâm công tác, đầu tư thời gian nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu
hồ sơ vụ án, hạn chế bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực, vô tư, khách quan trong
việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Thực hiện chế độ khen thưởng bằng vật chất tương xứng với hiệu quả công
tác, chất lượng, số lượng các vụ án đã xét xử hàng năm. Xây dựng các danh hiệu,
như Thẩm phán nhân dân, Thẩm phán ưu tú, v.v.. để xã hội tôn vinh những Thẩm
phán mẫu mực.
- Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của từng Thẩm
phán. Có cơ chế tạo áp lực để Thẩm phán phải luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm
vụ được giao, thay thế những Thẩm phán không đáp ứng được yêu cầu như: xử oan
người vô tội, xử sai tội danh, bỏ lọt tội phạm, v.v.. Kỷ luật nghiêm những Thẩm
phán thiếu tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân, có thái độ dọa nạt, vòi vĩnh, đòi
hối lộ, v.v.. Thực hiện tốt các biện pháp như: tích cực luân chuyển cán bộ, tạo điều
kiện cho cán bộ được trực tiếp tham gia hoạt động thực tiễn, mạnh dạn giao cho
Thẩm phán nhất là Thẩm phán mới được bổ nhiệm làm Chủ tọa phiên tòa để từng
bước nâng cao trình độ của họ, thường xuyên tổ chức các phiên tòa xét xử điển hình
do Thẩm phán có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử để các Thẩm phán khác
học tập rút kinh nghiệm.
- Các tổ chức Đảng ở TA các cấp phải hết sức coi trọng công tác giáo dục
chính trị, lãnh đạo tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện tốt lời Bác Hồ dạy: “Phụng công thủ pháp, chí công,
61
vô tư”, quán triệt quan điểm đường lối của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà
nước cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán TA.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác xét xử của
TA như xây dựng trụ sở, mở rộng phòng xử án, trang bị đầy đủ các phương tiện
phục vụ và hỗ trợ cho công tác xét xử, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin,
phấn đấu đến năm 2020 triển khai Đề án TA điện tử để ngày càng đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xét xử trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ Hội thẩm nhân dân
- Lãnh đạo TA hàng năm cần phải có kế hoạch quan tâm đầu tư kinh phí để
bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho đội ngũ HTND. Vì khi HTND có sự am
hiểu pháp lý như Thẩm phán thì chắc chắn rằng, trong quá trình giải quyết vụ án,
HTND sẽ không lúng túng, khi phán quyết bản án sẽ khách quan, khoa học, giải
quyết tốt được vấn đề Thẩm phán và HTND ngang quyền nhau trong quá trình giải
quyết vụ án.
- Quy định rõ ràng hơn về tiêu chuẩn lựa chọn HTND vì điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình xét xử; quy định rõ về cách thức lựa chọn, cách thức
thành lập đoàn HTND, quy định một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ pháp lý cho
Hội thẩm; sáu tháng hoặc một năm, TA cần có hội nghị tổng kết tình hình xét xử
của Hội thẩm. Thông qua các cuộc hội nghị để đánh giá chất lượng hoạt động của
HTND, Đoàn Hội thẩm, từ đó có hướng giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng
mắc của HTND.
- Pháp luật cần quy định trước thời gian khai mạc phiên tòa yêu cầu HTND
phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án mới được tham gia xét xử.
- Một điều hết sức quan trọng nữa là cần phải cải thiện thu nhập của HTND để
khuyến khích HTND nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực nghiên cứu hồ sơ,
tham gia xét xử. Kinh phí hoạt động của Đoàn HTND cần phải độc lập không phụ
thuộc vào TA như hiện nay, để đoàn Hội thẩm chủ động chi trực tiếp cho các Hội
thẩm tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử. Mặt khác cũng là để tạo điều kiện cho
HTND độc lập khi xét xử, giao việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa cho Đoàn
62
Hội thẩm. Tránh tình trạng Hội thẩm không theo định hướng của Thẩm phán khi
nghị án thì ít được mời tham gia xét xử hoặc để tiết kiệm kinh phí, thời gian TA bố
trí cho Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ quá ít so với yêu cầu.
Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên
- Lãnh đạo VKS phải quán triệt, triển khai cho đội ngũ cán bộ, công chức
tham dự các phiên tòa rút kinh nghiệm để học tập, có kinh nghiệm thực tiễn, cử
KSV có năng lực, kinh nghiệm hướng dẫn, kèm cặp công chức mới tuyển dụng
nhằm từng bước nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức.
Thường xuyên có chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm về công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát tại phiên tòa như: án tham nhũng, ma túy, người chưa thành niên
phạm tội, v.v..
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn.
- Xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ, KSV có vi phạm pháp luật trong
hoạt động thực hành quyền công tố.
- Cấp trên cần quan tâm, đầu tư các phương tiện vật chất, kỹ thuật để phục vụ
tốt hơn cho công tác chuyên môn cho mỗi cán bộ KSV.
- Xây dựng định mức lương và chế độ đãi ngộ phù hợp để cải thiện hơn đời
sống vật chất và tinh thần của KSV đồng thời cần phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng,
đãi ngộ người có tài trong ngành.
- Đổi mới công tác thi đua khen thưởng, thi tuyển chọn KSV, lãnh đạo theo
hướng chú trọng nguyên tắc lựa chọn được người thực chất có đức, có tài.
- Bản thân mỗi KSV cần không ngừng cập nhật, nâng cao các loại kiến thức,
bao gồm kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội làm cơ sở cho việc thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.
3.2.3. Phát triển và nâng cao năng lực của đội ngũ người bào chữa
- Đối với việc đào tạo đội ngũ Luật sư:
+ Nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật nhằm tạo nguồn chuẩn đầu vào
cho đào tạo Luật sư; phát triển, thành lập một số trường đào tạo Luật sư, từ đó tạo ra
63
sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng đào tạo Luật sư; mở rộng việc đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức hội nhập, kỹ năng nghề, Anh ngữ, pháp luật quốc tế, v.v.. cho đội
ngũ Luật sư.
+ Ban hành quy định nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp
của Luật sư. Đồng thời, Nhà nước cần tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của Luật sư và có biện pháp bảo vệ hoạt động nghề nghiệp của Luật sư.
+ Nhà nước cần có chính sách linh hoạt hơn về mức phí chi trả cho Luật sư chỉ
định và không nên đưa ra một mức thù lao áp đặt.
+ Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các tổ chức,
hoạt động Luật sư [79].
- Đối với việc phát triển Trợ giúp viên pháp lý:
+ Tăng cường công tác công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TGPL
đến tận cơ sở, các cơ quan, đoàn thể, chính quyền địa phương, nhất đối tượng được
TGPL là người đồng bào dân tộc thiểu số hiểu rõ hơn về chính sách TGPL của
Đảng và Nhà nước dành cho họ [84].
+ Nâng cao năng lực của đội ngũ thực hiện TGPL, tăng cường cả về số lượng
và chất lượng Trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt là đối với những người có nhiều kinh
nghiệm, nhiều thời gian công tác pháp luật trong các cơ quan Nhà nước.
+ Bản thân những Trợ giúp viên pháp lý cần nâng trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, tăng cường việc tiếp xúc với người được TGPL khi tham gia bào chữa nhằm
giúp họ bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
+ Tăng cường phối hợp, hợp tác chặt chẽ và đồng bộ giữa Trợ giúp viên pháp
lý, và các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan công an, VKS, TA) như bảo đảm thực
hiện quy định của pháp luật về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng và chỉ
định người bào chữa [72].
- Đối với Bào chữa viên nhân dân: hiện nay, việc thành lập, tổ chức cũng như
hoạt động của Bào chữa viên nhân dân chưa được quy định cụ thể ở văn bản pháp lý
nào. Do vậy, cần sớm xây dựng những quy phạm pháp luật quy định thống nhất về
Bào chữa viên nhân dân. Bên cạnh đó, ban hành quy chế hoặc điều lệ mẫu về tổ
64
chức và hoạt động của Bào chữa viên nhân dân theo hướng giao cho Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc đứng ra thành lập và quản lý về mặt tổ chức; Bộ Tư pháp chịu trách
nhiệm về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bào chữa.
Bên cạnh việc phát triển, nâng cao năng lực của đội ngũ người bào chữa, bản
thân bị cáo và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự cần
có sự hợp tác tốt với người bào chữa khi tham gia bào chữa hay bảo vệ cho mình
trong vụ án hình sự.
3.2.4. Giải pháp giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử và xây dựng án lệ
- Về giám đốc xét xử:
+ Tăng cường công tác giám đốc kiểm tra đối với hoạt động xét xử các VAHS
của TA cấp dưới để kịp thời phát hiện và khắc phục ngay đối với những sai sót
trong quá trình giải quyết, áp dụng HP.
+ Đối với những bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán,
HĐXX gây thiệt hại nghiêm trọng tới lợi ích của nhà nước, tập thể; quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, gây bất bình trong dư luận thì phải tổ chức ngay việc kiểm
điểm, làm rõ trách nhiệm để có biện pháp xử lý nghiêm khắc.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của cán bộ,
công chức, nhất là đối với Thẩm phán.
+ Thường xuyên tiến hành việc kiểm điểm trách nhiệm đối với Thẩm phán về
các sai sót trong hoạt động xét xử.
- Về kiểm sát xét xử:
+ Kiểm sát chặt chẽ biên bản phiên tòa, bản án của TA.
+ Tiếp tục tăng cường chất lượng kháng nghị của VKS địa phương, VKS cấp
dưới cần phối hợp chặt chẽ với các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKS cấp trên, VKS
cấp cao để đảm bảo chất lượng công tác kháng nghị.
+ Phải hoàn thiện các quy định về các căn cứ kháng nghị phúc thẩm trong
BLTTHS và cần phải cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn liên ngành của VKS
tối cao và TAND tối cao nhằm hạn chế nhận thức khác nhau về các căn cứ kháng
nghị giữa TA và VKS từ đó hạn chế tình trạng TA bác kháng nghị của VKS.
65
+ Cần phải có những biện pháp tác động đến việc chậm gửi bản án cho VKS.
Việc TA chậm gửi bản án cho VKS có ảnh hưởng lớn đến thời hạn kháng nghị bản
án của VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Như vậy thời gian bắt đầu tính thời hiệu
kháng nghị phải từ khi VKS nhận được bản án mới bảo đảm tốt quyền năng pháp lý
trong việc kháng nghị của VKS. Điều này cần được sớm quy định sửa đổi trong
BLTTHS.
- Về xây dựng án lệ:
+ Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc phát
triển án lệ, thiệt lập án lệ của TAND tối cao.
+ Cải tiến cách viết và thông qua các bản án, quyết định của TA, đặc biệt là
Quyết định Giám đốc thẩm của TAND tối cao.
+ Tăng cường việc sử dụng án lệ trong thực tiễn xét xử, thành lập bộ phận
chuyên trách để tuyển tập án lệ, nên dùng án lệ bổ sung cho quy định pháp luật là
cần thiết.
+ Nên tạo thêm một cơ chế nữa cho các chủ thể khác như các nhà nghiên cứu
pháp luật, luật sư, v.v.. được quyền gửi văn bản tới TA có thẩm quyền đề nghị cơ
quan này xem xét để đề xuất với TAND tối cao xem xét, nhằm để đưa một vụ án cụ
thể trở thành thành án lệ [82].
3.2.5. Nâng cao chất lượng hồ sơ điều tra và chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa
- Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong quá trình khởi tố, điều tra, xử lý
án hình sự để đảm bảo việc xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội
thể hiện trong hồ sơ điều tra một cách đầy đủ, làm cơ sở cho việc xét xử, áp dụng
HP của TA được chính xác.
- Ba ngành Công an – VKS – TA cần tăng cường sự phối hợp trong giải quyết
các vụ án hình sự gắn với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của địa phương, bằng việc ký kết các quy chế phối hợp liên ngành trên
nguyên tắc bảo đảm tính độc lập khi xét xử.
- Trong quá trình xét xử, Thẩm phán, HTND phối hợp với KSV, người bào
66
chữa trong việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, thực hiện xét hỏi, tranh luận
tại phiên tòa, v.v..
3.2.6. Tăng cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân
dân
- TA phải minh bạch, công khai các hoạt động theo quy định của pháp luật.
TA phải có trách nhiệm và những biện pháp thích hợp để cung cấp thông tin chính
xác, đầy đủ về các hoạt động của mình cho các cơ quan truyền thông, khi nhận được
đề nghị cung cấp thông tin.
- Về phía cơ quan báo chí cũng phải phản ánh các hoạt động của TA theo đúng
nguyên tắc hoạt động của báo chí là trung thực, khách quan, không định kiến, thiên vị.
- Các cơ quan báo chí cần cử các phóng viên am hiểu pháp luật, có kinh
nghiệm pháp đình theo dõi hoạt động của TA, tránh tình trạng phóng viên báo chí
có mục đích bênh vực một bên nào đó trong vụ án, dẫn đến viết bài phản ánh thiếu
khách quan, nặng định kiến, phần nào khiến dư luận hiểu không đúng về TA.
- Kịp thời đưa bản án hình sự lên mạng internet tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ thể giám sát hoạt động áp dụng HP của TA.
67
Tiểu kết chương 3
Trước yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới cũng như diễn biến của tình
hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp thì việc áp dụng HP của TA phải đảm
bảo các yếu tố về các quy định của pháp luật; con người; kết quả điều tra, truy tố
đúng, đầy đủ; đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm và các yếu
tố khác. Trên cơ sở đó, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp từ việc đảm bảo pháp
chế xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện một số quy định của pháp luật; nâng cao năng
lực của người áp dụng HP và của đội ngũ người bào chữa; nâng cao chất lượng
giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử và xây dựng án lệ để khắc phục tình trạng oan sai,
bỏ lọt tội phạm; nâng cao chất lượng hồ sơ điều tra cũng như chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa; tăng cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân
dân. Trong mỗi giải pháp, việc hoàn thiện các quy định để thiết lập cơ sở pháp lý
cho hành động thực tiễn là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo mục đích của HP
là nhằm trừng trị và giáo dục người phạm tội, góp phần nâng cao ý thức pháp luật
của người dân.
68
KẾT LUẬN
Trên cở sở kết quả nghiên cứu đề tài "Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện
Chư Sê, tỉnh Gia Lai", tác giả có một số kết luận như sau:
1. Áp dụng hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự tiếp theo sau khi
định tội danh, thể hiện ở việc trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại Tòa,
xác định các tình tiết của vụ án, nhận thức đầy đủ quy định của Bộ luật Hình sự,
Hội đồng xét xử lựa chọn loại hình phạt cũng như mức hình phạt để áp dụng đối với
người phạm tội để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người đã thực
hiện hành vi phạm tội đối với người bị kết tội và ra phán quyết trong bản án, tuân
theo trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm trừng trị, giáo dục
và phòng ngừa tội phạm.
2. Hoạt động áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai đã đạt được những kết quả tốt, vụ án được đưa ra xét xử đạt tỷ lệ cao, đảm bảo
xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không kết án oan người vô tội.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau như nhận thức, bất cập của Bộ luật
Hình sự, hạn chế trong hướng dẫn áp dụng pháp luật cũng như hạn chế về năng lực,
trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, v.v.. nên hoạt động áp dụng
hình phạt vẫn còn những hạn chế, vướng mắc: những sai sót trong việc áp dụng sai
điểm, khoản, điều luật đối với bị cáo; đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội,
nhân thân của bị cáo không đúng, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ không phù hợp
dẫn đến áp dụng hình phạt chưa công bằng, thiếu thống nhất. Điều này dẫn đến áp
dụng hình phạt chưa đáp ứng được mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa.
3. Từ thực tiễn áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia
Lai, luận văn đã đưa ra các yêu tố tác động đến việc áp dụng HP đúng như: yếu tố
về các quy định của pháp luật, con người, kết quả điều tra đúng và đầy đủ, nhiệm vụ
đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương và các yếu tố về cơ sở hạ tầng, vật
chất, v.v.. có vai trò trong việc đảm bảo áp dụng HP đúng. Để đáp ứng được những
yếu tố đã nêu thì cần thực hiện các giải pháp như: đảm bảo pháp chế xã hội chủ
69
nghĩa và hoàn thiện pháp luật; nâng cao năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân và nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên và các giải pháp nâng cao năng
lực của đội ngũ người bào chữa; các giải pháp giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử và
xây dựng án lệ; nâng cao chất lượng hồ sơ và chất lượng tranh tụng tại phiên tòa;
tăng cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân dân, v.v.. Điều
quan trọng trong số các giải pháp cần thực hiện ngay đó là việc thay đổi nhận thức.
Nhận thức đầy đủ, đúng đắn về chính sách hình sự nhân đạo, coi trọng tính phòng
ngừa, mục đích hình phạt và vai trò của hình phạt. Trên cơ sở thay đổi nhận thức,
các quy định của Bộ luật Hình sự sẽ tiếp tục được hoàn thiện để đáp ứng được yêu
cầu cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người theo quy định của Hiến pháp.
Các đề xuất nêu trên chỉ là định hướng chủ quan của tác giả luận văn trên cơ
sở phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân
dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, vì vậy, rất có thể còn phiến diện hoặc chưa đầy đủ.
Tác giả luận văn hy vọng các nỗ lực nghiên cứu theo hướng này sẽ góp phần đảm
bảo và nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình phạt khi xét xử các vụ án hình sự trên
địa bàn huyện nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung ngày càng tốt hơn./.
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật:
[1]. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2014), Kết luận về việc tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
[2]. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
[3]. Bộ Tư pháp (2017), Quyết định số 1559/QĐ-BTP ngày 27/9/2017 của Bộ Tư
pháp ban hành kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
[4]. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 06 ngày 15/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ
lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hà Nội.
[5]. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
[6]. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
[7]. Quốc hội (2012), Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh
ưu đãi người có công với cách mạng, Hà Nội.
[8]. Quốc hội (2013), Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (văn
bản hợp nhất Bộ luật Hình sự năm 1999 với Luật số 37/2009/QH12 ngày 19
tháng 6 năm 2009 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình
sự, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011), Hà Nội.
[9]. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (văn
bản hợp nhất Bộ luật Hình sự năm 2015 với Luật số 12/2017/QH14 ngày 20
tháng 6 năm 2017 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Hình sự số 100/2015/QH13, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018),
Hà Nội.
[10]. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.
[11]. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà
Nội.
[12]. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
[13]. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
[14]. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng
dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm
1999, Hà Nội.
[15]. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng
dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
[16]. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày
06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng
dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật Hình sự về án treo, Hà Nội.
[17]. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày
16/3/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc công bố
bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của Tòa án, Hà Nội.
[18]. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày
15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng
dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo, Hà Nội.
[19]. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Hướng dẫn số 04/TANDTC-PC ngày
09/01/2018 về việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41
của Quốc hội, Hà Nội.
[20]. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày
18/6/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ, Hà Nội.
Báo cáo, luận văn, sách chuyên khảo, tạp chí:
[21]. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.
[22]. Bộ Tư pháp (2015), “Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Hình
sự”, Hà Nội.
[23]. Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), “Thực trạng các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam và hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp
chí Khoa học Đại học quốc gia Ha Nội, Kinh tế - Luật, số 24/2008, tr. 206-
217.
[24]. Lê Quang Chiều (2012), “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt
trong luật Hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[25]. Nguyễn Thành Chung (2018), “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp
luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sĩ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội.
[26]. Đàm Cảnh Long (2012), “Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân
(qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội.
[27]. Nguyễn Ngọc Thượng Hiền (2018), “Áp dụng hình phạt từ thực tiễn tỉnh Bắc
Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.
[28]. Lê Khánh Hưng (2010), “Các HP không tước tự do trong luật hình sự Việt
Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
[29]. Nguyễn Hữu Sáng (2015), “Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Đại học quốc gia Hà Nội.
[30]. PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2018), “Luật hình sự so sánh”, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia sự thật, Hà Nội.
[31]. Dương Văn Thăng (2017), “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của TA Quân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
[32]. Tòa án nhân dân tối cao (2018), “Báo cáo việc thực hiện các Nghị quyết của
Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ hợp
thứ 4 Quốc hội khóa XIV”, Hà Nội.
[33]. Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự”, Gia Lai.
[34]. Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt bổ sung”, Gia
Lai.
[35]. Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt chính”, Gia Lai.
[36]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2016), “Bản án số 35/2016/HSPT ngày
06/6/2016”, Gia Lai.
[37]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2017), “Bản án số 40/2017/HS-PT ngày
23/6/2017”, Gia Lai.
[38]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2017), “Bản án số 92/2017/HS-PT ngày
21/12/2017”, Gia Lai..
[39]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2019), “Bản án số 08/2019/HS-PT ngày
21/01/2019”, Gia Lai.
[40]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2019), “Bản án số 15/2019/HS-PT ngày
28/02/2019”, Gia Lai.
[41]. Tôn Thiện Phương (2015), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong
tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học – Công nghệ, số 3/2015, tr. 6 – 10.
[42]. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2014), “Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với các cơ
quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm”, Khoa
học Kiểm sát, Số 3/2014, tr. 9-13.
[43]. Lê Thị Thanh Thủy (2015), “Nguyên tắc công bằng trong luật Hình sự Việt
Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
[44]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập
1)”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
[45]. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), “Hướng dẫn công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát, điều tra, kiểm sát xét xử án trật tự xã hội năm 2019”, Hà
Nội.
[46]. Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả khởi tố, truy
tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, Gia Lai.
[47]. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), “Tội phạm học, Luật hình sự
và Luật tố tụng hình sự”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[48]. GS.TS. Võ Khánh Vinh (1994), “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự
Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
[49]. Đoàn Ngọc Xuân (2010), “Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học 26, tr. 259 – 269.
Website:
[50]. Bộ Tư pháp (2017), “Phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay- thực trạng
và một số kiến nghị”, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-
doi.aspx?ItemID=2142
[51]. Nguyễn Tư Duy (2015), “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Hội
thẩm nhân dân”, https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/nghiep-vu/mot-so-giai-
phap-nham-nang-cao-chat-luong-hoi-tham-nhan-dan-118466.html
[52]. Nguyễn Hà Giang (2018), “Cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong đồng
phạm”,
http://lsvn.vn/nghien-cuu-trao-doi/phan-tich-nghien-cuu/ca-the-hoa-trach-nhiem-
hinh-su-trong-dong-pham-29508.html
[53]. Trần Đình Hải – Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Nguyên tắc “công minh”
và sự cần thiết bổ sung vào các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Hình sự”,
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/780
[54]. Trần Thị Thu Hằng (2018), “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị”,
https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguyen-tac-tham-phan-hoi-
tham-xet-xu-doc-lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat-thuc-tien-thuc-hien-va-kien-
nghi
[55]. Lê Hiệp – Ngọc Trinh (2016), “TAND huyện Chư Sê: Giải quyết án đạt kết
quả cao”, https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/phong-trao-thi-dua/tand-huyen-
chu-se-gia-lai-giai-quyet-an-dat-ty-le-cao-136130.html
[56]. Thu Hiền (2018), “Vai trò, ý nghĩa của các giai đoạn tố tụng hình sự”,
http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/4935/Vai-tro-y-nghia-cua-cac-giai-
doan-to-tung-hinh-su
[57]. Cao Việt Hoàng, “Tòa án nhân dân với việc đảm bảo quyền con người”,
http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676662/27676768?pers_id=
27676164&item_id=57106600&p_details=1
[58]. https://congly.vn (2016), “Tăng cường kiểm tra, giám đốc việc xét xử”,
https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/nghiep-vu/tang-cuong-kiem-tra-giam-doc-
viec-xet-xu-232930.html
[59]. http://hinhsu.luatviet.co (2018), “Khái niệm hình phạt theo quy định của Bộ
luật Hình sự”, http://hinhsu.luatviet.co/khai-niem-hinh-phat-theo-quy-dinh-
cua-bo-luat-hinh-su/n20161028120821402.html
[60]. http://hinhsu.luatviet.co (2019), “Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”,
http://hinhsu.luatviet.co/nguyen-tac-bao-dam-phap-che-xa-hoi-chu-nghia-
trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-2015/n20161028120823828.html
[61]. http://hinhsu.luatviet.co (2018), “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong luật
hình sự”, http://hinhsu.luatviet.co/van-de-nhan-than-nguoi-pham-toi-trong-
luat-hinh-su/n20161028120822243.html
[62]. https://luathoangphi.vn, “Căn cứ nào để quyết định hình phạt?”,
https://luathoangphi.vn/can-cu-nao-de-quyet-dinh-hinh-phat/
[63]. https://luathoangphi.vn (2018), “Thế nào là hình phạt?,
https://luathoangphi.vn/the-nao-la-hinh-phat/
[64]. https://luatminhkhue.vn (2015), “Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
Luật Hình sự Việt Nam”, https://luatminhkhue.vn/nguyen-tac-phap-che-xa-
hoi-chu-nghia-trong-luat-hinh-su-viet-nam.aspx.
[65]. https://thegioiluat.vn, “Phân tích nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và
hoạt động của Bộ máy nhà nước”, https://thegioiluat.vn/bai-viet/phan-tich-
nguyen-tac-phap-che-xhcn-trong-to-chuc-va-hoat-dong-cua-bo-may-nha-
nuoc-582/
[66]. https://nganhangphapluat.thukyluat.vn, “Cá thể hóa hình phạt là gì”,
https://nganhangphapluat.thukyluat.vn/tu-van-phap-luat/linh-vuc-khac/ca-the-
hoa-hinh-phat-la-gi-121794
[67]. http://tks.edu.vn, “Hai ý kiến về quyết định hình phạt trong Bộ luật Hình sự”,
http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/25?idMenu=79
[68]. https://www.wikipedia.org/
[69]. Thái Hùng – Vũ Loan (2019), “10 nội dung lớn về cải cách tư pháp của Tòa
án nhân dân năm 2019”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/thoi-su/10-noi-dung-
lon-ve-cai-cach-tu-phap-cua-toa-an-nhan-dan-nam-2019
[70]. Phùng Hưng (2018), “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật”,
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=407740
[71]. Lê Thị Kim Loan (2018), “Căn cứ quyết định hình phạt theo Điều 50 Bộ luật
Hình sự năm 2015”,
http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/Trao-doi-nghiep-vu/Can-cu-quyet-
dinh-hinh-phat-theo-Dieu-50-Bo-luat-Hinh-su-nam-2015-1985/
[72]. Hồng Nhung (2017), “Nâng cao năng lực trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố
tụng tại Đồng Nai”, http://baophapluat.vn/tu-phap/nang-cao-nang-luc-tro-
giup-phap-ly-trong-hoat-dong-to-tung-tai-dong-nai-364980.html
[73]. Nguyễn Ngọc Phương (2016), “Yêu cầu cải cách tư pháp được thể hiện trong
Bộ luật Hình sự 2015”, https://www.baoquangbinh.vn/phap-luat/201606/yeu-
cau-cai-cach-tu-phap-duoc-the-hien-trong-bo-luat-hinh-su-2015-2135639/
[74]. Hồ Nguyễn Quân, “Quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên
phạm tội một số vướng mắc và giải pháp hoàn thiện”,
https://moj.gov.vn/dtvb/dtvbp/Lists/DsGopY/Attachments/784/QUY%E1%B
A%BET%20%C4%90%E1%BB%8ANH%20HP%20T%C3%99%20%C4%9
0%E1%BB%90I%20V%E1%BB%9AI%20NG%C6%AF%E1%BB%9CI%20
CTN%20PT%20M%E1%BB%98T%20S%E1%BB%90%20V%C6%AF%E1
%BB%9ANG%20M%E1%BA%AEC%20V%C3%80%20GI%E1%BA%A2I
%20PH%C3%81P%20HO%C3%80N%20THI%E1%BB%86N.doc
[75]. Hồ Nguyễn Quân, “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng
tại phiên tòa hình sự”, http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/303
[76]. Lê Văn Sua (2018), “Án lệ và vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa
án”, https://banan.thuvienphapluat.vn/tin-tuc/an-le-va-vai-tro-cua-an-le-trong-
hoat-dong-xet-xu-cua-toa-an-35
[77]. Trần Văn Quý (2018), “Nâng cao năng lực đội ngũ kiểm sát viên đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp hiện nay”, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-
tien/item/2430-nang-cao-nang-luc-doi-ngu-kiem-sat-vien-dap-ung-yeu-cau-
cai-cach-tu-phap-hien-nay.html
[78]. Phùng Văn Tài (2018), “Bộ luật Hình sự năm 2015 đáp ứng tốt hơn yêu cầu
bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới”,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/An-ninh-quoc-
phong/2018/50086/Bo-luat-Hinh-su-nam-2015-dap-ung-tot-hon-yeu-cau.aspx
[79]. Nguyễn Văn Tiếp (2016), “Nâng cao vị trí, vai trò đội ngũ luật sư đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế”,
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=41078&print
=true
[80]. Trần Đức Thú (2018), “Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
trong BLHS năm 2015”, https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/cac-
tinh-tiet-tang-nang-giam-nhe-trach-nhiem-hinh-su-trong-blhs-nam-2015
[81]. Trần Thị Thu (2018), “Những điểm mới về chế định bào chữa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng
Hình sự 2015”,
http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/Trao-doi-nghiep-vu/Nhung-diem-
moi-ve-che-dinh-bao-chua-bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-phap-cua-bi-hai-
duong-su-theo-quy-dinh-cua-Bo-luat-To-tung-Hinh-su-2015-1872/
[82]. Nguyễn Thị Mai Trang (2018), “Án lệ – Một số vấn đề về giải thích pháp luật
ở Việt Nam”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/an-le/an-le-mot-so-van-de-ve-
giai-thich-phap-luat-o-viet-nam
[83]. Trần Hữu Tráng (2019), “Xu hướng nhân đạo và hướng thiện trong áp dụng
pháp luật hình sự”, http://lsvn.vn/nghien-cuu-trao-doi/phan-tich-nghien-
cuu/xu-huong-nhan-dao-va-huong-thien-trong-ap-dung-phap-luat-hinh-su-
29904.html
[84]. Hồng Tràng (2015), “Giải pháp nâng cao hiệu quả của Trợ giúp viên pháp lý
khi tham gia bào chữa, bảo vệ cho người đồng bào dân tộc thiểu số trong vụ
án hình sự”, https://trogiupphaply.gov.vn/tin-tuc/giai-phap-nang-cao-hieu-
qua-cua-tro-giup-vien-phap-ly-khi-tham-gia-bao-chua-bao-ve-cho-nguoi
[85]. Lê Minh Trường (2015), “Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong luật
Hình sự Việt Nam”, https://luatminhkhue.vn/nguyen-tac-phap-che-xa-hoi-chu-
nghia-trong-luat-hinh-su-viet-nam.aspx
[86]. Lâm Uyên (2018), “Áp lực đối với Thẩm phán”
,https://tapchitoaan.vn/bai-viet/suy-ngam-cuoi-tuan/ap-luc-doi-voi-tham-phan