VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ TIẾN SỸ

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ TIẾN SỸ

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số

: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG

HÀ NỘI, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi với. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Người cam đoan

Võ Tiến Sỹ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ............ 7

1.1. Khái niệm hình phạt và áp dụng hình phạt .......................................................... 7

1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt ..................................................................... 12

1.3. Các căn cứ áp dụng hình phạt ............................................................................ 17

1.4. Áp dụng hình phạt trong một số trường hợp cụ thể ........................................... 22

CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI TÒA ÁN NHÂN

DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI .............................................................. 30

2.1. Tổng quan kết quả áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh

Gia Lai ....................................................................................................................... 30

2.2. Những vi phạm sai lầm trong áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư

Sê, tỉnh Gia Lai ......................................................................................................... 36

CHƯƠNG 3: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP

DỤNG HÌNH PHẠT ĐÚNG KHI XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ.......................... 53

3.1. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự ...... 53

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự ........ 57

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ cái viết tắt/ký hiệu Cụm từ đầy đủ

1 BLHS Bộ luật Hình sự

2 BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự

3 HĐXX Hội đồng xét xử

4 HTND Hội thẩm nhân dân

5 HP Hình phạt

6 TA Tòa án

7 TAND Tòa án nhân dân

8 TGPL Trợ giúp pháp lý

9 KSV Kiểm sát viên

10 VKS Viện kiểm sát

11 VKSND Viện kiểm sát nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu Tên bảng Trang bảng

Thống kê tình hình tội phạm trên địa bàn 31 2.1 huyện Chư Sê

Thống kê số liệu xét xử tại Tòa án nhân dân 33 2.2 huyện Chư Sê

Thống kê số liệu hình phạt chính được áp dụng tại 34 2.3 Tòa án nhân dân huyện Chư Sê

Thống kê số liệu hình phạt bổ sung được áp dụng tại 35 2.4 Tòa án nhân dân huyện Chư Sê

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là con đường phát triển tất yếu,

phù hợp với xu thế chung của thời đại. Trong đó, quyền tư pháp là một nguyên tắc

hiến định và có vai trò rất quan trọng. Tại Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) đã đề ra mục tiêu

của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020 là: "Xây dựng nền tư pháp

trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại,

phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp

mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [49].

Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân, cần phải

xây dựng Tòa án nhân dân (TAND) thực sự là cơ quan bảo vệ công lý, bảo vệ

quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mỗi người dân trước nguy cơ bị xâm hại bởi

hành vi trái pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cũng như từ chính các cơ quan tiến

hành tố tụng [22]. Tòa án (TA) với tính chất là cơ quan nhân danh Nhà nước thực

hiện quyền tư pháp, giải quyết các tranh chấp, xung đột xã hội thông qua hoạt động

xét xử theo những trình tự, thủ tục luật định. Thông qua bản án được tuyên bởi TA,

một người mới bị coi là có tội và phải chịu trách nhiệm bằng hình phạt (HP).

Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt

Nam hiện nay, việc nghiên cứu và đánh giá về HP cũng như thực tiễn áp dụng HP

để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định này có ý

nghĩa chính trị - xã hội to lớn và ý nghĩa khoa học, thực tiễn rất quan trọng về các

mặt lập pháp, lý luận và thực tiễn:

Về mặt lập pháp, trong bất kỳ một nhà nước pháp quyền nào, nếu như các quy

định của pháp luật hình sự nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của con

người nhằm tránh xa khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm thì các quy định về HP

nói riêng phải nhằm phục hồi lại sự công bằng xã hội, mang tính chính phòng ngừa

riêng -phòng ngừa chung, đồng thời phải thể hiện được nguyên tắc nhân đạo trong

1

quy định của pháp luật hình sự.

Về mặt lý luận, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam xung quanh

những vấn đề cần phải đánh giá thực trạng các quy định của BLHS hiện hành về hệ

thống HP cũng như việc áp dụng HP ra sao và theo những chuẩn mực nào, cũng vẫn

đang còn tồn tại nhiều ý kiến và cách hiểu khác nhau, mà vẫn chưa có một quan

điểm chính thống.

Về mặt thực tiễn, hoạt động áp dụng HP của TA ở Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi các nhà khoa học - luật gia

cũng như các cán bộ thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp hình sự cần phải tiếp tục cùng

nhau nghiên cứu để lý giải và phân tích, từ đó đề xuất các ý kiến, giải pháp cụ thể

với nhà làm luật nhằm sớm khắc phục và loại trừ những vi phạm, bất cập, hạn chế

còn tồn tại [43].

Những năm trở lại đây, tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia

Lai nói riêng cũng như trên cả nước nói chung diễn biến rất phức tạp. Quá trình điều

tra, truy tố, đưa người phạm tội ra xét xử, áp dụng HP đối với họ không chỉ nhằm

trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý

thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tuy nhiên, ngoài kết quả tích

cực đã đạt được, hoạt động áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê vẫn có những vi

phạm, hạn chế và vướng mắc. Từ những vướng mắc, hạn chế đó, tác giả muốn đưa

ra phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn để qua đó đưa ra một số giải pháp, đề

xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng HP cũng như hoàn

thiện hơn nữa các chế định của pháp luật hình sự về vấn đề này. Vì vậy, tác giả

chọn đề tài: "Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai" để nghiên

cứu và thực hiện luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề áp dụng HP đối với các vụ án hình sự đã đã thu hút được sự quan tâm

của nhiều nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn. Một số công trình

nghiên cứu tiêu biểu như:

Dương Văn Thăng (2017), “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án

2

hình sự của Tòa án Quân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Đàm Cảnh Long (2012), “Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân

(qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học

Quốc gia Hà Nội.

Lê Khánh Hưng (2010), “Các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự

Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

Lê Quang Chiều (2012), “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt

trong luật Hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Nguyễn Thành Chung (2018), “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp

luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Học viện Khoa học xã hội.

Một số bài đăng trên các báo, tạp chí và sách chuyên khảo:

Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2014), “Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với các cơ

quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm”, Khoa học

Kiểm sát, Số 3/2014, tr. 9 - 13.

GS.TS. Võ Khánh Vinh (1994), “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự

Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), “Thực trạng các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam và hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí

Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật, số 24/2008, tr. 206 - 217.

PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2018), “Luật hình sự so sánh”, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia sự thật, Hà Nội.

Tôn Thiện Phương (2015), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong

tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học – Công nghệ, số 3/2015, tr. 6 – 10.

Các công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp kiến thức lý luận, thực tiễn về

việc áp dụng HP. Tuy nhiên, hầu như các công trình nghiên cứu nêu trên đều tiếp

cận vấn đề từ những góc độ chung, một số công trình tập trung nghiên cứu về một

3

loại HP cụ thể chứ chưa tiếp cận từ thực tiễn áp dụng HP cũng như chưa cập nhật

những văn bản mới về pháp luật hình sự. Chính vì những lý do trên, trên cơ sở kế

thừa những kết quả đạt được từ các công trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ tiếp

tục nghiên cứu các vấn đề chưa được đề cập chuyên sâu, đưa ra những kết quả,

những vi phạm, sai lầm cũng như các yếu tố đảm bảo áp dụng HP và trên cơ sở đó

đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm cho việc áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án

hình sự nhằm góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật hình sự về

áp dụng HP trong thời gian tới.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu việc áp dụng HP đối với các vụ án hình

sự từ thực tiễn tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai. Phân tích những kết quả đạt

được cũng như những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng HP, nhằm đưa ra các giải

pháp nhằm bảo đảm áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn đưa ra những nhiệm vụ nghiên cứu

cụ thể như sau:

- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề chung về áp dụng HP, bao gồm: khái

niệm HP, khái niệm áp dụng HP, các nguyên tắc, căn cứ áp dụng HP cũng như áp

dụng HP trong các trường hợp cụ thể.

- Nghiên cứu phân tích, đánh giá thực tiễn việc áp dụng HP tại TAND huyện

Chư Sê, tỉnh Gia Lai, chỉ ra được nhưng kết quả, vi phạm và nguyên nhân.

- Phân tích các yếu tố tác động và đề xuất các giải pháp đảm bảo việc áp dụng

HP đúng khi xét xử vụ án hình sự.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn

về áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

4

Về không gian, luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu pháp luật về áp dụng

HP ở TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, không mở rộng ra các địa phương khác ở

trong hay ngoài Việt Nam.

Về thời gian, luận văn tập trung nghiên cứu việc áp dụng HP tại TAND huyện

Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong khoảng 05 năm gần đây.

Về nội dung, so với Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1999, thì BLHS năm 2015

đã bổ sung đối tượng pháp nhân thương mại vào khái niệm HP. Tuy nhiên, do chưa

có thực tiễn áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội nên đề tài chỉ nghiên

cứu pháp luật và thực tiễn về áp dụng HP đối với người phạm tội, không mở rộng

sang các vấn đề liên quan đến áp dụng HP đối với pháp nhân thương mại phạm tội

cũng như các vấn đề khác liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm

của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp; những luận điểm khoa học trong

các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của

một số nhà khoa học luật hình sự.

Để làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn đã sử dụng những

phương pháp sau:

- Các phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật cũng như

các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tỏ những vấn đề

chung về áp dụng HP (ở Chương 1).

- Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo

chuyên môn của các cơ quan tiến hành tố tụng ở địa phương và phương pháp quan

sát thực tế để đánh giá tiễn áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trong

05 năm gần đây (ở Chương 2).

- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để nêu ra các yếu tố tác động

và đề xuất các giải pháp bảo đảm việc áp dụng HP đúng khi xét xử vụ án hình sự (ở

Chương 3).

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là một trong số các công trình nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện

về vấn đề thực tiễn áp dụng HP từ trước đến nay, đặc biệt ở địa bàn huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai, nhất là từ khi BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực

thi hành. Luận văn cung cấp nhiều kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có

giá trị tham khảo với các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương và địa phương

trong việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao năng lực của những người tiến hành tố

tụng cũng như tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát về việc áp dụng HP khi xét xử

vụ án hình sự.

Đồng thời, luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo đối với công tác học

tập cũng như nghiên cứu về pháp luật hình sự, tố tụng hình sự ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn có kết cấu gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về áp dụng hình phạt.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai.

Chương 3: Các yếu tố tác động và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng

khi xét xử vụ án hình sự.

6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT

1.1. Khái niệm hình phạt và áp dụng hình phạt

1.1.1. Khái niệm hình phạt

BLHS (BLHS) là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm

và HP nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo

vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp

pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý

thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do

người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm

phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Người thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, trước hết phải có năng lực trách nhiệm

hình sự. Nói cách khác, người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về việc thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội mà mình đã gây ra. Khi trách nhiệm hình sự được đặt

ra đối với một người, thì nguy cơ người đó có thể phải chịu HP là khó tránh khỏi.

Dưới chế độ phong kiến ở nước ta, tính chất trừng trị của HP rất hà khắc, HP

phổ biến mang tính nhục hình, đày đoạ thể xác và chà đạp phẩm giá con người bằng

nhiều hình thức dã man (như đánh bằng roi, lăng trì, v.v..).

Ngày nay, HP trong BLHS được áp dụng như một công cụ cưỡng chế Nhà

nước để bảo vệ lợi ích của quần chúng nhân dân lao động và do vậy, tính chất giáo

dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm của HP ngày càng trở nên chủ yếu, bên cạnh

thuộc tính không thể thiếu được của nó là tính trừng trị cần thiết [63].

BLHS năm 1985 đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao cấp

và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS thời kỳ này là văn bản pháp lý

duy nhất trong đó quy định về vấn đề tội phạm và HP. Tuy nhiên, BLHS năm 1985

chưa quy định cụ thể khái niệm HP là gì? [5].

Với những thay đổi to lớn về kinh tế kéo theo sự thay đổi về xã hội, pháp luật

7

hình sự cần có sự điều chỉnh để phù hợp với những thay đổi đó. BLHS năm 1999 đã

có những khái niệm đầu tiên về HP được quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999, sửa

đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là BLHS năm 1999): “HP là biện pháp cưỡng chế

nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của

người phạm tội. HP được quy định trong BLHS và do TA quyết định”. Việc quy

định tại Chương V với 15 điều luật (các Điều 26 - 40) bằng các quy phạm riêng biệt

mà giúp cho xã hội hiểu rõ được bản chất của HP trong pháp luật hình sự quốc gia

vì lần đầu tiên (kể từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến nay) đã chính thức ghi nhận

định nghĩa pháp lý của khái niệm HP (đoạn 1 Điều 26) và đồng thời chỉ rõ mục đích

của HP là gì (Điều 27). BLHS năm 1999 cũng quy định cụ thể các HP chính, HP bổ

sung. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một HP chính và có thể

bị áp dụng một hoặc một số HP bổ sung (Điều 28 BLHS năm 1999) [8].

Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS

(sửa đổi) (BLHS năm 2015), sau đó, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt là

BLHS năm 2015). So với BLHS trước đây, BLHS hiện tại có những điểm mới quan

trọng, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm, phục vụ sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn mới. Tại

Điều 30 BLHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm HP như sau: "HP là biện pháp cưỡng

chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do TA quyết

định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ

hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó” [9].

Có thể thấy HP có những đặc trưng cơ bản như sau:

- So với các biện pháp cưỡng chế được quy định trong các văn bản hành

chính, dân sự, .v.v.. như xử phạt hành chính, bồi thường thiệt hại, v.v.. thì chỉ có HP

là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất, vì: HP đánh vào lợi ích kinh tế, HP hạn

chế hoặc tước bỏ quyền tự do thân thể, HP được ghi vào lý lịch tư pháp, cá biệt HP

còn loại bỏ quyền được sống của người phạm tội, v.v..

- HP chỉ được áp dụng với người phạm tội. "Chỉ người nào phạm một tội đã

được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 BLHS năm 2015).

8

- HP chỉ được quy định trong BLHS và do TA quyết định áp dụng bằng bản án

hình sự có hiệu lực pháp luật đối với người phạm tội.

- HP bao gồm HP chính và HP bổ sung. Người phạm tội đối với mỗi tội phạm

mà họ thực hiện thì chỉ bị áp dụng một HP chính, tuy nhiên, đối với HP bổ sung thì

họ có thể bị áp dụng một HP bổ sung hoặc nhiều hơn [59].

Như vậy, có thể định nghĩa khái niệm HP theo quy định của BLHS hiện hành

như sau: “HP là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy

định trong BLHS, do TA quyết định áp dụng đối với người phạm tội để tước bỏ hoặc

hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người đã thực hiện hành vi phạm tội. HP

không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục người phạm tội ý thức tuân theo pháp

luật và các quy tắc đạo đức của xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới; đồng thời, giáo

dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật, góp phần vào công tác phòng ngừa và

đấu tranh chống tội phạm của Nhà nước ta”.

1.1.2. Khái niệm áp dụng hình phạt

Theo Từ điển Tiếng Việt, áp dụng là “đưa vào vận dụng trong thực tế điều

nhận thức, lĩnh hội được” [68]. Tại Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, BLHS, Bộ luật

Tố tụng hình sự (BLTTHS) đều khẳng định TA là cơ quan xét xử của nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ có TA mới có quyền xét xử và ra bản án hình sự

bằng HP. Vì vậy, với việc áp dụng HP, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cụ

thể là TA sẽ áp dụng pháp luật để quyết định HP đối với người phạm tội. Quy định

này thể hiện tính kiên quyết, thận trọng của Nhà nước trong đấu tranh chống tội

phạm, đồng thời bảo đảm lợi ích chính đáng của công dân, và thể hiện sự thống nhất

giữa tội phạm và HP. Tội phạm là cơ sở phải chịu HP, ngược lại HP là hậu quả pháp

lý của tội phạm nhằm trừng trị người phạm tôi, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật.

Để đảm bảo việc áp dụng HP được thực hiện một cách khách quan, đảm bảo

HP đúng người, đúng tội thì việc quan trọng là phải đảm bảo quá trình tố tụng được

thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, cụ thể là BLTTHS. Theo quy định của

BLTTHS hiện hành, Cơ quan tiến hành tố tụng gồm Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát (VKS) và TA. BLTTHS cũng quy định cụ thể người tiến hành tố tụng gồm: Thủ

9

trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện

trưởng, Phó Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên (KSV), Kiểm tra viên; Chánh án, Phó

Chánh án TA, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký TA, Thẩm tra viên (Điều 34

BLTTHS). Đối với một vụ án hình sự, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên

mở đầu cho quá trình tố tụng hình sự (TTHS). Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ

chứng minh cho hành vi phạm tội của tội phạm thì Cơ quan điều tra đề nghị truy tố

thong qua bản kết luận điều tra. Sau khi nhận hồ sơ của Cơ quan điều tra, VKS xác

định có đủ căn cứ để truy tố thì ra quyết định truy tố bị can ra trước TA có thẩm

quyền bằng bản cáo trạng. Vụ án được TA đưa ra xét xử trong thời hạn quy định,

khi không có căn cứ để trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ

án. Đối với hoạt động xét xử của TA phải tuân thủ nghiêm theo quy định của

BLTTHS từ khi thụ lý hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và ra bản án, quyết định. Khi xét

xử phải tuân thủ các nguyên tắc: nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm

nhân dân (HTND) độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; mọi công dân đều bình đẳng

trước pháp luật; xét xử tập thể và biểu quyết theo đa số, v.v.. Kết quả sau quá trình

xét hỏi các bị cáo trong vụ án, TA phải ra quyết định đối với hành vi phạm tội đã

được tranh luận tại phiên tòa. Ở bước này, TA sẽ tiến hành xem xét, giải quyết một

vụ án hình sự cụ thể đó là: quyết định việc bị cáo có tội hay không có tội, định tội

danh cụ thể, HP và các biện pháp tư pháp cần áp dụng và các vấn đề liên quan khác

như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời

hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nếu như có kháng cáo của bị cáo hoặc kháng nghị

của VKS thì TA cấp trên trực tiếp sẽ xét xử phúc thẩm vụ án (Điều 330 BLTTHS).

Việc giám đốc thẩm vụ án hình sự được thực hiện khi VKS kháng nghị vì phát hiện

có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án thì TA có thẩm

quyền xem xét lại bản án của TA đã có hiệu lực pháp luật (Điều 370 BLTTHS). Thủ

tục Tái thẩm vụ án hình sự là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

TA nhưng bị VKS kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi

cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà TA không biết được khi ra bản án, quyết

định đó (Điều 397 BLTTHS).

10

Như vậy, áp dụng HP là kết quả của hoạt động xét xử vụ án hình sự của TA.

Để áp dụng HP một cách chính xác và khách quan, Thẩm phán TA và Hội thẩm

thuộc thành phần của HĐXX phải căn cứ vào những tài liệu có trong hồ sơ vụ án

cùng kết quả tranh tụng tại phiên tòa và căn cứ vào các quy định về HP được quy

định trong BLHS để áp dụng. HP được áp dụng đối với người phạm tội phải trải qua

quá trình tố tụng để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm,

nhân thân người phạm tội cùng các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, đồng thời,

phải đảm bảo quá trình tố tụng được đảm bảo thực hiện theo các quy định của pháp

luật, đảm bảo các cấp xét xử của TA để áp dụng HP đúng người, đúng tội.

Từ những nhận thức đã có, có thể thấy được những đặc điểm cơ bản của áp

dụng HP:

- Áp dụng HP chỉ được tiến hành khi có tội phạm được thực hiện. Không có

hành vi phạm tội xảy ra thì không có áp dụng pháp luật, áp dụng HP.

- Hoạt động áp dụng HP mang tính quyền lực Nhà nước, chủ thể trực tiếp thực

hiện quyền áp dụng HP của TA là HĐXX. Nhà nước thông qua hoạt động xét xử

của TA cùng bản án do HĐXX tuyên để quyết định một cá nhân hay tổ chức có tội

hay không. Điều 254 BLTTHS năm 2015 quy định: “HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm

phán và hai Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì

HĐXX sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo

về tội mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử

hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; 2. HĐXX

phúc thẩm gồm ba Thẩm phán”. Các phán quyết của TA được thể hiện trong bản án

về việc áp dụng HP luôn làm phát sinh hậu quả pháp lý để trừng trị, giáo dục người

phạm tội, các phán quyết này được thi hành bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước

nếu không được tự nguyện thi hành [25].

- Áp dụng HP là việc cá biệt hoá các quy định của BLHS về HP vào từng

trường hợp cụ thể, mang tính tùy nghi, tính lựa chọn để đảm bảo việc áp dụng HP

tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi phạm tội cụ thể, đảm

bảo sự mềm dẻo, hiệu quả trong việc áp dụng HP.

11

- Hoạt động áp dụng HP được thực hiện tuân theo một trình tự, thủ tục chặt

chẽ do BLTTHS quy định nhằm hạn chế TA lạm dụng quyền hạn của mình, đảm

bảo tính chính xác, khách quan trong phán quyết áp dụng HP.

Áp dụng HP đúng có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng vì việc áp dụng HP sẽ

phản ánh kết quả của quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Áp dụng HP đúng là yếu tố

tiên quyết để quyết định đến mục đích của HP có được thực hiện hay không. Nếu

HP được áp dụng quá nhẹ đối với người phạm tội sẽ tạo tâm lý coi thường pháp

luật, tạo nên thói quen phạm tội do HP không mang tính chất trừng trị thích hợp.

Tuy nhiên, nếu HP quá nặng đối với người phạm tội sẽ làm cho họ có tâm lý thù

hằn, buông xuôi, không còn niềm tin vào sự khoan hồng của pháp luật. Áp dụng HP

đối với người phạm tội sẽ luôn có những ảnh hưởng đến những người khác về ý

thức chấp hành và sống tôn trọng pháp luật.

Như vậy, với khái niệm HP đã nêu ở mục trên, có thể hiểu áp dụng HP là

“hoạt động áp dụng pháp luật hình sự tiếp theo sau khi định tội danh, thể hiện ở

việc trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xác định các tình tiết

của vụ án, nhận thức đầy đủ quy định của BLHS, HĐXX xử lựa chọn loại HP cũng

như mức HP để áp dụng đối với người phạm tội để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi

ích hợp pháp của người đã thực hiện hành vi phạm tội đối với người bị kết tội và ra

phán quyết trong bản án, tuân theo trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định”.

1.2. Các nguyên tắc áp dụng hình phạt

1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Lênin đã đưa ra định nghĩa: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc

biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ

chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên Nhà nước và mọi

công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm

chỉnh, triệt để chính xác. Mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”.

Trong xã hội phong kiến, quản lý Nhà nước như thế nào phụ thuộc vào ý chí

chủ quan của nhà vua vì vậy dễ dẫn đến sự tùy tiện. Trong xã hội dân chủ, quản lý

12

Nhà nước phải tuân theo pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp

luật là cơ sở minh bạch, công khai chống lại sự tùy tiện. Đồng thời một trong những

đặc trưng của cơ quan Nhà nước là tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến

pháp và pháp luật vì vậy nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩ phải được quán triệt

trong tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nước.

Đây là nguyên tắc pháp lí cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan, tổ chức và

công dân được quy định ở Điều 8 Hiến pháp năm 2013 như sau: “Nhà nước được tổ

chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lí xã hội bằng Hiển pháp và

pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ".

Tại Điều 2 BLHS năm 2015 đã quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã

được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.

Như vậy, trong BLHS nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện rất rõ:

chỉ khi nào hành vi của con người cụ thể đã được thực hiện, hành vi ấy được BLHS

quy định thì họ mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Việc TA áp dụng HP phải căn

cứ vào các quy định của BLHS nhằm buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm

hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra [65].

Việc áp dụng HP phải đảm bảo nguyên tắc tiên quyết là nguyên tắc pháp chế

xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm việc điều tra, truy tố là cơ sở cho việc xét xử, áp

dụng HP được nghiêm chỉnh tuân theo Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm mức HP được

áp dụng tương xứng với hành vi vi phạm, bảo đảm tính nghiêm minh triệt để của

pháp luật hình sự, đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp pháp của

công dân khi có hành vi vi phạm của người xâm phạm đến những quyền, lợi ích hợp

pháp đó [49].

Như vậy, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong áp dụng HP là việc bảo

đảm việc TA áp dụng các quy định của BLHS về HP vào từng trường hợp phạm tội

cụ thể để áp dụng HP đối với người phạm tội. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội

chủ nghĩa không những là một trong các nguyên tắc trong áp dụng HP của TA nói

riêng mà còn là nguyên tắc cơ bản, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động trong tố tụng

hình sự nói chung. Nguyên tắc này quy định tại Điều 7 BLTTHS năm 2015 như

13

sau: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật

này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử

ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”. Nguyên tắc pháp

chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong pháp luật hình sự là tất cả quyết định của

cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự nói chung và việc áp dụng

HP của TA nói riêng đều dựa trên quy định của BLHS theo trình tự, thủ tục do

BLTTHS quy định.

1.2.2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa

Đảm bảo nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc khi áp

dụng HP, được quy định rõ trong BLHS. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa

được thể hiện trong hàng loạt quy định của BLHS như ở việc áp dụng HP đối với

người phạm tội với mục đích chủ yếu nhằm: cải tạo, giáo dục họ trở thành người có

ích cho xã hội và giúp cho công tác phòng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung.

Mặt khác, khi áp dụng HP, TA sẽ căn cứ vào các đặc điểm nhân thân người phạm

tội như phụ nữ có thai, người chưa thành niên, người già yếu, bệnh tật, người đang

trong thời kỳ nuôi con nhỏ, người có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, v.v.. để

áp dụng mức HP phù hợp.

Trong lịch sử lập pháp sau gần 70 năm, BLHS năm 2015 chỉ còn giữ HP tử

hình trong 18 điều luật trong tổng số 314 điều quy định về các tội phạm (chiếm

5,73%). Cùng với việc bỏ HP tử hình ở nhiều tội danh, BLHS năm 2015 cũng mở

rộng phạm vi đối tượng không áp dụng HP tử hình thêm 02 trường hợp so với

BLHS năm 1999: người bị kết án là người tử đủ 75 tuổi trở lên và người bị kết án tử

hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít

nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức

năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Những trường

hợp này, HP tử hình chuyển thành HP tù chung thân (Điều 40). Những sửa đổi này

cho thấy một nỗ lực rất lớn trong chính sách pháp luật hình sự Việt Nam theo xu

hướng nhân đạo, nhân văn và hướng thiện, giảm tối đa các tội phạm có mức phạt tử

hình, bảo đảm tính mạng, quyền được sống của mỗi cá nhân trong xã hội.

14

Một quy định nữa cũng thể hiện rõ chính sách nhân đạo, hướng thiện trong

pháp luật hình sự là quy định về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên

phạm tội mà trước hết là độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 12 BLHS

năm 1999 thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về

tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng ở bất kỳ tội

danh nào trong BLHS. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 2015 thì người từ

đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất

nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc 28 tội danh quy định cụ thể tại

khoản 2 Điều 12 Bộ luật này. Với quy định này thì phạm vi chịu trách nhiệm hình

sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đã được thu hẹp đáng kể.

BLHS năm 2015 cũng bổ sung nguyên tắc quan trọng “TA chỉ áp dụng HP tù

có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các HP và biện pháp

giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa” (khoản 6 Điều 91). Đây là

nguyên tắc rất quan trọng định hướng cho hoạt động áp dụng pháp luật của TA, bảo

đảm tốt nhất lợi ích cho người phạm tội dưới 18 tuổi, giúp họ có cơ hội tối đa không

bị tách khỏi gia đình và cộng đồng; giúp họ có nhiều hơn cơ hội nhận được sự giúp

đỡ của gia đình, cộng đồng và xã hội để họ sớm nhận ra lỗi lầm, sớm trở thành

người có ích cho xã hội [53].

Như vậy, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên

tắc quan trọng của pháp luật hình sự nói chung cũng như của hoạt động áp dụng HP

nói riêng nhằm đảm bảo tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối thiểu của con người

dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa thể hiện được

Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, lấy con người làm nền tảng và

yếu tố tiên quyết để xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nước ta.

1.2.3. Nguyên tắc công bằng

Tại Điều 3 BLHS năm 2015 quy định: “Đối với người phạm tội: mọi hành vi

phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công

minh theo đúng pháp luật; mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật,

không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.

15

Bên cạnh đó, một số các quy định khác của BLHS là sự cụ thể hóa của nguyên tắc

công bằng như: nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, khoan hồng với người tự thú, tự

nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả thiệt hại, v.v.. [53].

Nguyên tắc công bằng trong BLHS về việc áp dụng HP được thể hiện ở việc

từ những quy định về HP, TA căn cứ để định tội danh và áp dụng HP tương ứng với

tội danh được quy định trong BLHS, cụ thể:

- Về quy định HP: HP được quy định đa dạng (cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời

hạn, v.v..) để TA tùy trường hợp mà áp dụng sao cho đảm bảo quy định của pháp

luật nhưng cũng không bị cứng nhắc với những trường hợp cụ thể. Chỉ có trách

nhiệm phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi thì mới mang lại tác

dụng tích cực.

- Về việc định tội danh: để việc định tội danh đúng với tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, trước hết phải xác định và giải thích các tình

tiết thực tế của vụ án một cách khách quan, lựa chọn đúng các quy phạm hình sự

tương ứng, đối chiếu, so sánh chính xác, đầy đủ các dấu hiệu tội phạm được quy

định trong quy phạm đó với các dấu hiệu của hành vi trong thực tế, v.v..

- Về việc áp dụng HP: trên thực tế, không thể áp dụng những HP giống nhau

một các máy móc đối với những người phạm tội giống nhau. Để kết án một cách

công bằng, để người bị kết án phải chịu HP tương xứng với tính chất, mức độ nguy

hiểm của hành vi của mình, TA phải thông qua đặc điểm về nhân thân, các tình tiết

giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội,

các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc áp dụng HP, v.v.. để đưa ra HP làm cho

người phạm tội và xã hội “tâm phục, khẩu phục’’ – đó chính là kết quả của sự công

bằng.

1.2.4. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt

Theo từ điển Tiếng Việt thì “Cá thể hóa là việc tách biệt cá nhân này với cá

nhân khác trong nhóm để phân biệt vị trí, vai trò của từng người” [68].

Từ khái niệm HP đã nêu, có thể hiểu “Cá thể hóa HP” là làm cho HP được áp

dụng phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm, phù

16

hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh phạm tội của người phạm tội [64].

Nguyên tắc pháp lý đòi hỏi TA khi xét xử, áp dụng HP phải xem xét tính chất

và mức độ nguy hiểm đối với xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội, các

tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ để áp dụng hợp lý và có chọn lọc những biện pháp

cưỡng chế hình sự đối với người phạm tội. Mục đích của nguyên tắc cá thể hóa HP

là bảo đảm các có HP đối với từng người phạm tội một cách chính xác, công bằng,

hợp lý. Áp dụng đúng đắn nguyên tắc cá thể hóa HP là tiền đề quan trọng để cải tạo,

giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa những người khác phạm tội. Nguyên tắc cá

thể hóa HP có ý nghĩa quan trọng đối với giai đoạn xét xử của TA, tương ứng với

nguyên tắc cá thể hóa ở giai đoạn điều tra, truy tố là cá thể hóa việc truy cứu trách

nhiệm hình sự, ở giai đoạn thi hành án là cá thể hóa việc chấp hành HP. Nguyên tắc

này đòi hỏi phải có sự phân hóa về vai trò của người phạm tội khi thực hiện tội

phạm, đặc biệt đối với những vụ án đồng phạm, đồng thời đối với bị cáo phạm

nhiều tội thì xét xử đối với hành vi cấu thành một tội phạm cụ thể, sau đó tổng hợp

HP đối với những tội mà người phạm tội phải chịu.

1.3. Các căn cứ áp dụng hình phạt

1.3.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự

Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015: “Khi quyết định HP, TA

căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và

tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Như vậy, một trong những căn cứ đầu tiên khi áp

dụng HP là TA phải căn cứ vào các quy định của BLHS về HP. Có thể thấy trong

quá trình xét xử vụ án hình sự sẽ luôn luôn có hai Bộ luật được áp dụng đó là BLHS

(luật nội dung) và BLTTHS (luật hình thức). Tuy nhiên, khi áp dụng HP thì TA sẽ

chỉ căn cứ duy nhất vào BLHS. Căn cứ này bao hàm hết tất cả những căn cứ còn lại,

bởi lẽ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội, các

tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, v.v.. đều là những căn cứ đã được quy định tại Bộ luật

này. Nội dung các quy định của BLHS mà TA phải tuân thủ nghiêm chỉnh khi áp

dụng HP bao gồm:

17

- Các quy định có tính nguyên tắc về tội phạm và HP trong Phần chung của

BLHS.

- Các Điều luật quy định HP đối với tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm

của BLHS [59].

Áp dụng HP là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho HP có thể đạt

được mục đích đề ra. Việc tuân thủ nghiêm chỉnh các Điều luật quy định mang tính

nguyên tắc chung về đường lối xử lý, về HP và hệ thống HP cũng như mức HP đối

với tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm có ý nghĩa rất lớn khi áp dụng HP. TA

chỉ áp dụng HP khi hành vi phạm tội đó đủ yếu tố cấu thành và được quy định trong

điều luật.

1.3.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội

Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là căn cứ để

phân chia tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội

phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, và là một trong những

căn cứ để áp dụng HP.

Khi xem xét tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, TA phải

căn cứ vào các yếu tố sau:

- Hành vi (hành động hay không hành động) nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện.

- Lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội; phương tiện phạm tội; thủ đoạn

phạm tội; thời gian và địa điểm phạm tội; khách thể xâm hại, v.v.., ví dụ: cùng dùng

vũ khí cướp tài sản, nếu trong hai vụ án có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng

trong vụ án thứ nhất A thực hiện hành vi cướp tài sản có chuẩn bị từ trước và thực

hiện cướp tài sản giữa ban ngày, nơi có nhiều dân cư, còn trong vụ án thứ hai B

thực hiện cướp tài sản lợi dụng nơi vắng vẻ, khi thấy có người đi qua mới nảy sinh

ý định thực hiện cướp tài sản, thì tuy cùng áp dụng điều khoản như nhau, nhưng

phải quyết định mức HP đối với A nặng hơn đối với B.

- Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra bao gồm những thiệt hại về tính mạng,

ảnh hưởng về sức khỏe, thiệt hại về tài sản hay gây ảnh hưởng đến tình hình an

ninh, chính trị tại địa phương, ảnh hưởng đến việc thực hiện đường lối, chính sách

18

của Đảng và Nhà nước. Ví dụ: cùng phạm tội trộm cắp tài sản, nếu trong hai vụ án

có cùng các tình tiết khác như nhau, nhưng trong vụ án thứ nhất A trộm cắp tài sản

có giá trị 55 triệu đồng, còn trong vụ án thứ hai B trộm cắp tài sản có giá trị 190

triệu đồng, thì tuy cùng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 BLHS để xử phạt các bị

cáo, song cần phải quyết định HP đối với B nặng hơn A.

- Nếu vụ án có đồng phạm, có tổ chức thì cần xem xét vị trí của từng đồng

phạm được phân công với vai trò là người tổ chức, người thực hành, người giúp

sức, v.v.. để từ đó đánh giá trách nhiệm hình sự đối với từng đồng phạm và áp dụng

HP phù hợp.

Đồng thời, cần phải lưu ý đến hoàn cảnh chính trị - xã hội nơi hành vi phạm

tội xảy ra.

1.3.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội

Nhân thân người phạm tội là toàn bộ các yếu tố về tự nhiên và xã hội có liên

quan đến người phạm tội, bao gồm: độ tuổi, giới tính, tình trạng sức khỏe (bệnh

hiểm nghèo, là người già yếu, là phụ nữ có thai hoặc con nhỏ, hoàn cảnh đặc biệt

khó khăn, v.v..), nghề nghiệp, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, quá trình công

tác, thành tích, kỷ luật, lịch sử bản thân, hoàn cảnh gia đình, những đặc điểm có

quan hệ đến các đối tượng của chính sách lớn của Đảng và Nhà nước (dân tộc ít

người; thuộc gia đình liệt sĩ, v.v..). Các yếu tố này được thể hiện trong lý lịch bị can

và các tài liệu khác có liên quan đến nhân thân người phạm tội và được các cơ quan

tiến hành tố tụng thu thập, xác minh theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy

định và là tài liệu không thể thiếu trong hồ sơ vụ án. Bản kết luận điều tra của Cơ

quan điều tra, Bản cáo trạng của VKS và bản án của TA phải ghi đầy đủ các yếu tố

về nhân thân của người phạm tội, vì đây là một trong những căn cứ để áp dụng HP,

đồng thời nhân thân của người phạm tội còn giúp đánh giá được khả năng giáo dục,

cải tạo để trở thành công dân có ích của họ, thiếu nó thì việc áp dụng HP sẽ không

được chính xác, không đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.

Nhân thân người phạm tội là tình tiết có một vai trò quan trọng trong việc áp

dụng những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm

19

tội mặc dù đây không phải là một trong những yếu tố cấu thành tội phạm. Việc căn

cứ vào nhân thân người phạm tội có ý nghĩa đối với việc đinh tội cũng như đối với

việc áp dụng khung HP khi những đặc điểm về nhân thân người phạm tội có vai trò

là phản ánh cấu thành tội phạm của tội đó. Ví dụ: Cấu thành tội phạm cơ bản của tội

giết con mới đẻ đòi hỏi chủ thể phải là người mẹ sinh ra đứa trẻ đó. Việc căn cứ vào

nhân thân người phạm tội còn xác định được trường hợp phạm tội tái phạm, tái

phạm nguy hiểm được quy định tại Điều 53 BLHS, trong đó, tái phạm nguy hiểm

trong nhiều tội phạm còn được BLHS quy định là tình tiết định khung tăng nặng

trách nhiệm hình sự.

Đồng thời, việc căn cứ vào nhân thân người người phạm tội một phần nào đó

còn làm rõ được động cơ, mục đích của hành vi phạm tội. Đa số trường hợp phạm

tội, động cơ phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng hoặc là tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc định

khung HP và áp dụng HP. Ví dụ: động cơ đê hèn của tội giết người. Giữa mục đích

phạm tội và hậu quả của tội phạm luôn có mối liên quan. Thông thường những tội

nào hậu quả khó xác định thì dấu hiệu mục đích mới có thể được phản ánh trong

cấu thành tội phạm. Ví dụ: đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, mục đích

phạm tội được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Do vậy, việc xác định

nhân thân người phạm tội làm sáng tỏ động cơ, mục đích của người phạm tội có ý

nghĩa quan trọng trong việc áp dụng HP [61].

Tuy vậy, đối với một số tội phạm thì yếu tố nhân thân của người phạm tội

không được quy định là tình tiết định tội, định khung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự cho người phạm tội thì trong trường hợp đó, TA cần phải cân

nhắc trong việc áp dụng mức HP phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành

vi phạm tội gây nên.

1.3.4. Căn cứ vào tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự

Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự ở đây là những tình

tiết đã được quy định cụ thể, rõ ràng tại Điều 51, Điều 52 BLHS. Việc quyết định

HP sẽ ảnh hưởng nếu bị cáo có nhiều tình tiết tăng nặng hoặc có nhiều tình tiết giảm

20

nhẹ. BLHS hiện hành đã quy định 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại

khoản 1 Điều 51 và 15 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 1 Điều 52.

Cùng với đó là các điều kiện khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự, hậu quả pháp lý khi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

(Điều 54 BLHS năm 2015).

Quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong BLHS thể hiện

tính chất nhân đạo của pháp luật, mang tính giáo dục trong công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm mà vẫn thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật và có

tác dụng răn đe cao. Việc quy định áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự có lợi cho bị cáo thể hiện tính độc lập của TA trong hoạt động tố tụng với các cơ

quan tiến hành tố tụng, mà trực tiếp là bản cáo trạng của VKS, mang tính có lợi cho

bị cáo.

Đối với việc áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, khi hành vi

đã thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì dù có áp dụng bao nhiêu tình tiết

tăng nặng thì TA không áp dụng tội danh nặng hơn hoặc HP nặng hơn đối với hành

vi đã cấu thành tội danh. Pháp luật hiện hành không quy định việc áp dụng các tình

tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự sẽ chịu tội danh nặng hơn hoặc định khung HP

nặng hơn mà hành vi phạm tội đã thực hiện.

Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ có thể tác động đến việc định

khung hoặc áp dụng HP. Do vậy, cần phân biệt các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

trách nhiệm hình sự với các tình tiết là dấu hiệu định tội, khi một tình tiết nào đó

được quy định tại Điều 51 hoặc 52 BLHS mà tình tiết đó đã là dấu hiệu định tội rồi

thì khi quyết định HP, TA không được coi tình tiết đó là tình tiết tăng nặng hoặc

giảm nhẹ nữa. Ví dụ: tình tiết “giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” là dấu hiệu định

tội được quy định tại Điều 126 BLHS, khi quyết định HP đối với người phạm tội

này, TA không được coi tình tiết này là tình tiết giảm nhẹ nữa [80].

Bên cạnh các căn cứ đã nêu ở trên, tại khoản 2 Điều 50 BLHS là một căn cứ

hoàn toàn mới so với những quy định trước đây, cụ thể: “Khi quyết định HP phải

21

căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội”. Do đó,

phải căn cứ vào tình hình tài sản và khả năng thi hành án là một điều tất yếu, căn cứ

vào tình hình tài sản để TA có thể áp dụng HP bổ sung là HP tiền hoặc tịch thu tài

sản, cũng như xuất phát từ thực tiễn xét xử thời gian qua đã có rất nhiều những bản

án đã tuyên nhưng không thể áp dụng vào thực tiễn được, người bị hại vẫn không

được đền bù, bồi thường vì đơn giản mức án đã tuyên không hề dựa trên tình hình

tài sản, khả năng thi hành án của người phạm tội do đó mức án được tuyên quá cao,

vượt quá khả năng đáp ứng của người thi hành mặc dù trên lý thuyết mức án đó là

hoàn toàn đúng nhưng nó không thể thực hiện được do có độ chênh lệch so với thực

tế. Căn cứ mới được quy định này sẽ góp phần hạn chế án bị tồn do không thi hành

được trên thực tế khi người có nghĩa vụ thi hành án không có đủ khả năng tài chính

để đáp ứng trong hiện tại và tương lai.

1.4. Áp dụng hình phạt trong một số trường hợp cụ thể

1.4.1. Áp dụng với trường hợp cá nhân phạm tội

Điều luật quy định hệ thống HP trong BLHS. Hệ thống HP bao gồm các loại

HP khác nhau được sắp xếp theo logic nhất định và nhằm mục đích nhất định. Theo

đó, hệ thống HP áp dụng đối với người phạm tội gồm 07 loại HP chính và 07 loại

HP bổ sung. Căn cứ chủ yếu để phân biệt HP chính và HP bổ sung là khả năng áp

dụng độc lập các loại HP đối với mỗi loại tội phạm.

HP chính là HP được TA tuyên đối với người phạm tội và mang tính chất bắt

buộc phải có, mỗi tội phạm thì điều luật sẽ quy định người phạm tội phải chịu một

HP chính cụ thể. HP chính bao gồm 07 loại là: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không

giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.

Hình phạt bổ sung là loại HP được tuyên kèm theo HP chính. HP bổ sung

không được áp dụng độc lập mà chỉ được áp dụng kèm theo HP chính, bao gồm:

cấm đảm nhiệm chức vụ; cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú;

quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng

là HP chính; trục xuất, khi không áp dụng là HP chính. Do vậy, đối với HP chính

chỉ quy định áp dụng đối với một tội phạm nhất định thì điều luật lại không giới hạn

22

HP bổ sung ở một HP mà có thể nhiều hơn. Khác với HP chính, HP bổ sung được

áp dụng không phải đối với tất cả các loại tội phạm mà chỉ đối với một số tội phạm

nhất định và cũng không phải HP bổ sung được áp dụng kèm theo bất kỳ HP chính

nào. Trong các loại HP, phạt tiền và trục xuất là hai loại HP được quy định vừa là

HP chính, vừa là HP bổ sung.

Việc quy định các HP bổ sung trong BLHS là một trong những yếu tố mở ra

khả năng pháp lý giúp cho việc cá thể hóa HP, bảo đảm tác động có lựa chọn đối

với người phạm tội tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm

và nhân thân người phạm tội. Nói một cách khác, với chức năng hỗ trợ HP chính,

HP bổ sung giúp cho TA áp dụng những biện pháp xử lý triệt để và công bằng đối

với người phạm tội, để đạ được mục đích tối đa của HP. Đối với mỗi tội phạm, TA

chỉ được áp dụng một HP chính nhưng có thể áp dụng một số HP bổ sung.

1.4.2. Áp dụng với trường hợp là người chưa thành niên

BLHS 2015 đã có thay khái niệm “người chưa thành niên phạm tội” với khái

niệm cụ thể hơn là “người dưới 18 tuổi phạm tội” và có một chương riêng quy định

cho đối tượng này tại Chương XII của BLHS. So với BLHS 1999, BLHS năm

2015 đã có thêm nguyên tắc: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm

lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi” được quy định tại Điều 91. Và suy cho cùng

thì việc xử lý và áp dụng HP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là nhằm giáo dục,

giúp đỡ họ nhận thức được lỗi lầm, sửa chữa, khắc phục một phần hậu quả do hành

vi phạm tội của mình gây ra bằng việc trở thành một công dân tốt.

Việc áp dụng HP đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi,

khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng

như nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm vì trong nhiều trường hợp, họ bị lôi

kéo, dụ dỗ thực hiện hành vi phạm tội, trong khi khả năng nhận thức về tính chất

nguy hiểm của hành vi phạm tội còn hạn chế. Do vậy, việc áp dụng HP với người

dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết, nếu họ có nhiều tình tiết giảm

nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, không thuộc trường hợp miễn trách

nhiệm hình sự theo Điều 29 BLHS thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và

23

đương nhiên không bị áp dụng HP theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.

BLHS đã quy định các HP được áp dụng đối với chủ thể của tội phạm này là:

- Cảnh cáo.

- Phạt tiền: phạt tiền được áp dụng là HP chính đối với người từ đủ 16 tuổi đến

dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức tiền phạt đối với

người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức

tiền phạt mà điều luật quy định (Điều 99 BLHS).

- Cải tạo không giam giữ: HP cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với

người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng

hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Khi áp dụng HP cải tạo không giam giữ đối với

người dưới 18 tuổi phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn

cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai

thời hạn mà điều luật quy định (Điều 100 BLHS).

- Tù có thời hạn: mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi

phạm tội được quy định như sau: Với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, mức

phạt cao nhất: không quá 18 năm tù nếu phạm vào điều luật có quy định HP tù

chung thân hoặc tử hình; không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định

tù có thời hạn. Với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, mức phạt cao nhất: không

quá 12 năm tù nếu điều luật được áp dụng có quy định HP chung thân hoặc tử hình;

không quá ½ mức phạt tù mà điều luật áp dụng quy định tù có thời hạn.

Do đó, căn cứ quy định của pháp luật thì khung HP cao nhất được áp dụng cho

người dưới 18 tuổi phạm tội là không quá 18 năm tù (Điều 101 BLHS).

Đồng thời, tại Điều 91 BLHS cũng quy định TA chỉ áp dụng HP tù có thời hạn

đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các HP và biện pháp giáo dục khác

không có tác dụng răn đe, phòng ngừa, và mức HP tù có thời hạn áp dụng với người

dưới 18 tuổi phạm tội nhẹ hơn mức án áp dụng với người từ đủ 18 tuổi phạm tội

nhằm đảm bảo mục đích giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi sữa chữa sai lầm,

phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

24

Cũng theo BLHS, người dưới 18 tuổi không bị áp dụng HP tù chung thân hoặc

tử hình cũng như không áp dụng HP bổ sung (khoản 5, khoản 6 Điều 91 BLHS).

BLHS cũng quy định việc áp dụng HP trong các trường hợp chuẩn bị phạm

tội, phạm tội chưa đạt; tổng hợp HP trong trường hợp phạm nhiều tội và tổng hợp

HP của nhiều bản án tại các Điều 102, Điều 103 và Điều 104 BLHS để cụ thể hóa

cũng như tách biệt với trường hợp người thành niên phạm tội, thống nhất với các

nguyên tắc trong việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Bên cạnh đó, pháp luật

cũng có các quy định thể hiện nguyên tắc nhân đạo về việc giảm mức HP đã tuyên

và tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi có

nhiều tiến bộ khi chấp hành HP và đã chấp hành được một khoảng thời gian nhất

định so với mức HP TA đã tuyên thì được xét giảm hoặc tha tù trước thời hạn, các

nội dung này được quy định tại Điều 105 và Điều 106 BLHS.

Như vậy, BLHS năm 2015 đã quy định rõ ràng, chi tiết hơn các trường hợp

tổng hợp HP đối với người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội tại Điều 103; đồng thời có

sự phân hóa giữa người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến

dưới 18 tuổi. Những quy định này góp phần thể hiện được tính nhân đạo truyền

thống không những trong các chính sách xã hội mà còn trong chính sách pháp luật

của Nhà nước ta nhằm giúp đỡ người phạm tội nhận ra được lỗi lầm và quay trở lại

cuộc sống để đóng góp cho xã hội.

1.4.3. Áp dụng hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội

chưa đạt

Khi áp dụng HP, TA không chỉ căn cứ vào các quy định chung về quyết định

HP mà còn phải căn cứ vào các quy định về tội phạm trong trường hợp chuẩn bị

phạm tội và phạm tội chưa đạt khi tội phạm chưa được thực hiện đến cùng. Cụ thể:

HP sẽ được áp dụng theo các điều luật quy định cụ thể đối với từng loại tội

phạm, tuy nhiên, TA sẽ xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như ý định của

phạm tội sẽ thực hiện, do một số lý do mà không thực hiện được hành vi đó. Đây là

quy định mang tính chất căn cứ cho việc áp dụng HP đối với hành vi chuẩn bị phạm

tội và phạm tội chưa đạt, phân biệt với tội phạm hoàn thành do có sự khác nhau về

25

mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và sự khác nhau về tình tiết tội phạm

không được thực hiện đến cùng. Đây cũng là căn cứ bổ sung cho căn cứ chung khi

áp dụng HP là căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.

Việc áp dụng HP sẽ căn cứ vào các điều luật tương ứng được quy định trong

BLHS nhưng bị giới hạn ở mức cao nhất của khung HP:

- Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, HP được quyết định trong phạm vi

khung HP được quy định trong các điều luật cụ thể (khoản 2 Điều 57 BLHS).

- Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy

định HP cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng HP tù không quá 20

năm; nếu là tù có thời hạn thì mức HP không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều

luật quy định (khoản 3 Điều 57 BLHS).

Việc giới hạn khung HP thể hiện sự khác nhau về bản chất hành vi do tội

phạm chưa được hoàn thành. Do vậy, khung HP áp dụng với trường hợp chuẩn bị

phạm tội và phạm tội chưa đạt sẽ thấp hơn cũng phù hợp với tính chất, mức độ nguy

hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.

1.4.4. Áp dụng hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Áp dụng HP trong trường hợp đồng phạm, TA phải tuân thủ các quy định

chung về luật nội dung cũng như luật hình thức về áp dụng HP (cụ thể là BLHS và

BLTTHS), vừa phải tuân theo các quy định bổ sung cho trường hợp phạm tội này

theo quy định tại Điều 58 BLHS. Cụ thể:

- TA căn cứ vào các quy định của BLHS về phần các tội phạm để áp dụng

theo quy định tại điều luật đó về tội danh cho những người đồng phạm. Đồng thời,

TA cũng căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi; căn cứ vào nhân thân

người phạm tội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm

căn cứ cho việc áp dụng HP đối với những người đồng phạm.

- TA căn cứ vào quy định tại Điều 58 BLHS để xét vai trò của những người

đồng phạm như người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức để

đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của từng hành vi, tác động của họ đến hoạt

động chung của vụ án đồng phạm. Đồng thời, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc

26

loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào thì TA chỉ áp dụng đối với

mỗi người đó do những tình tiết này thuộc về nhân thân người phạm tội, mang tính

chất cá biệt nên TA phải đánh giá, xem xét đầy đủ vai trò, tính chất, mức độ nguy

hiểm của hành vi của những người đồng phạm để áp dụng HP theo quy định của

pháp luật.

1.4.5. Áp dụng hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Trường hợp phạm nhiều tội được quy định tại Điều 55 BLHS là trường hợp

người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ có một hành vi phạm tội nhưng đã thỏa

mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau và bị xét xử cùng một lần về các tội phạm

đó. Theo đó, có hai trường hợp phạm nhiều tội:

Thứ nhất, trường hợp người phạm tội thực hiện các thành vi phạm tội cấu

thành các tội phạm khác nhau thì việc áp dụng HP được thực hiện theo quy định chung.

Thứ hai, trường hợp người phạm tội thực hiện một hành vi phạm tội nhưng lại

cấu thành nhiều tội khác nhau (ví dụ: giết người để cướp tài sản). Trường hợp này

cần cân nhắc áp dụng HP thông thường với tội nặng hơn, tội phạm đi kèm có thể

xem xét để giảm nhẹ hơn.

Ngoài ra, còn có ý kiến cho rằng, phạm nhiều tội còn có trường hợp thủ đoạn

phạm tội đồng thời cấu thành một tội phạm khác (ví dụ: sử dụng trái phép vũ khí

quân dụng giết người), trong một số trường hợp, thủ đoạn phạm tội còn đồng thời là

tình tiết định khung HP. Do đó, TA cần cân nhắc trước khi tổng hợp HP chung khi

áp dụng HP đối với trường hợp này do thủ đoạn phạm tội cấu thành tội phạm.

Khi xét xử đối với trường hợp phạm nhiều tội, TA áp dụng HP đối với từng tội

theo quy dịnh chung và tổng hợp HP theo Điều 55 BLHS, cụ thể:

- Đối với HP chính: nếu các HP đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc

cùng là tù có thời hạn, thì các HP đó được cộng lại thành HP chung; HP chung

không được vượt quá 03 năm đối với HP cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với

HP tù có thời hạn. Nếu các HP đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn,

thì HP cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành HP tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày

cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành HP

27

chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này. Nếu HP nặng nhất trong số các

HP đã tuyên là tù chung thân thì HP chung là tù chung thân. Nếu HP nặng nhất

trong số các HP đã tuyên là tử hình thì HP chung là tử hình. Phạt tiền không tổng

hợp với các loại HP khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành HP chung. Trục

xuất không tổng hợp với các loại HP khác.

- Đối với HP bổ sung: nếu các HP đã tuyên là cùng loại thì HP chung được

quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại HP đó; riêng đối với

HP tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành HP chung. Nếu các HP đã tuyên

là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các HP đã tuyên [27].

1.4.6. Áp dụng hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự

Theo quy định tại Điều 54 BLHS, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ cũng như

nhân thân, vai trò của người phạm tội trong vụ án mà có 03 trường hợp TA áp dụng

HP nhẹ hơn, cụ thể:

– Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS

thì TA có thể quyết định một HP dưới mức thấp nhất của khung HP được áp dụng

nhưng phải trong khung HP liền kề nhẹ hơn.

- Đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm

nhưng có vai trò không đáng kể thì TA có thể quyết định một HP dưới mức thấp

nhất của khung HP được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung HP liền

kề nhẹ hơn của điều luật.

- Trong trường hợp có đủ các điều kiện là có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ hoặc

người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò

không đáng kể nhưng điều luật chỉ có một khung HP hoặc khung HP đó là khung

HP nhẹ nhất, thì TA có thể quyết định HP dưới mức thấp nhất của khung HP hoặc

chuyển sang một HP khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được

ghi rõ trong bản án [21].

28

Tiểu kết chương 1

HP là biện pháp cưỡng chế do TA nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người

phạm tội và chỉ có TA mới có quyền này ngoài ra không một cơ quan Nhà nước nào

có quyền quyết định HP. Chủ thể trực tiếp thực hiện quyền áp dụng HP của TA là

HĐXX. HP được HĐXX tuyên đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của Nhà

nước đối với họ và hành vi do họ gây ra. Sự trừng phạt bằng HP đối với người có

hành vi phạm tội là hậu quả thực tế của việc phạm tội. Việc áp dụng HP được dựa

trên các nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ

nghĩa, nguyên tắc công bằng và nguyên tắc cá thể hóa HP. Việc áp dụng HP phải

căn cứ vào quy định của BLHS, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,

nhân thân người phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự của người phạm tội, bên cạnh đó, việc áp dụng HP cũng căn cứ vào tình

hình tài sản và khả năng thi hành án của người phạm tội. TA sẽ áp dụng HP đối với

các trường hợp cụ thể được quy định trong BLHS với trình tự, thủ tục được quy

định chặt chẽ trong BLTTHS. Việc áp dụng HP đúng sẽ tác động trực tiếp đến

người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội

mới, là tiêu chí của công lý và công bằng xã hội.

29

CHƯƠNG 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN

HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

2.1. Tổng quan kết quả áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện

Chư Sê, tỉnh Gia Lai

2.1.1. Thực trạng tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai

Huyện Chư Sê là một huyện miền núi của tỉnh Gia Lai, được thành lập vào

ngày 17/08/1981 trên cơ sở tách một phần của huyện Mang Yang. Đến ngày

27/08/2009, huyện Chư Sê được tách thành huyện Chư Sê và huyện Chư Pưh.

Huyện Chư Sê có diện tích tự nhiên 64.296,27 ha, với 15 đơn vị hành chính gồm:

01 thị trấn (Chư Sê) và 14 xã với dân số của huyện Chư Sê là 11.580 người, trong

đó đồng bào thiểu số chiếm tới 50% dân số của huyện. Huyện Chư Sê cách thành

phố Pleiku 40 km về phía nam, có Quốc lộ 14 và Quốc lộ 25 chạy qua, nối ngã ba

huyện Chư Sê với các tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Đắk Nông, tỉnh Bình Phước, tỉnh Bình

Dương, tỉnh Phú Yên và thành phố Hồ Chí Minh [68].

Với vị trí giao thông thuận lợi cho sự phát triển kinh tế cũng như có nguồn tài

nguyên đất bazan rộng lớn, khí hậu ôn hòa, tạo điều kiện phát triển các cây công

nghiệp dài ngày mang lại giá trị cao: hồ tiêu, cao su, cà phê, bông. Những năm qua,

tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện tăng lên nhanh chóng, thu ngân sách trên địa

bàn hàng năm đứng thứ hai trong tỉnh. Với mật độ dân số cao, dân số trẻ, số người ở

trong độ tuổi lao động đông đảo, không ít người trong độ tuổi lao động không có

được việc làm đã có những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội, đây cũng

chính là nguồn “bổ sung” cho tội phạm. Tình hình an ninh chính trị tiềm ẩn nhiều

yếu tố phức tạp, các đối tượng fulro lưu vong hoạt động ngày càng ranh ma tìm

cách móc nối với các thành phần bên trong, bên cạnh đó, “tin lành Đê – ga” luôn

rình rập, tìm cách chống phá. Cùng với đó, các loại tôi phạm hình sự và tệ nạn xã

hội có xu hướng diễn biến ngày càng tinh vi và phức tạp nên khó khăn chồng chất

khó khăn.

Từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năm 2019, số vụ phạm pháp hình sự bị khởi tố

30

giảm, có thể thấy được điều này qua bảng thống kê sau:

Bảng 2.1: Thống kê tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai

06 tháng Năm Năm Năm Năm đầu năm Tội phạm 2015 2016 2017 2018 2019

Tội phạm về trật tự xã hội 52 47 37 27 7

Tội phạm về xâm phạm sở hữu 47 52 47 49 24

Tội phạm về ma túy 5 4 8 2 2

Tội phạm về kinh tế - 1 1 - 1

Tội phạm về môi trường - - 2 1 2

Tội phạm xâm phạm hoạt động 2 1 - - - tư pháp

Tội phạm về tham nhũng, chức 1 1 1 2 1 vụ

107 106 96 81 37 Tổng số (vụ)

Nguồn: Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả khởi tố,

truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, Gia Lai.

Theo bảng thống kê, có thể thấy các vụ phạm pháp hình sự về xâm phạm sở

hữu xảy ra nhiều nhất qua 05 năm (từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năm 2019). Tính

chất thực hiện hành vi phạm tội về sở hữu mang tính táo bạo, manh động, như tội

phạm cướp giật tài sản, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cướp tài sản, v.v.. mức

độ xâm hại về tính mạng sức khỏe và tài sản của công dân diễn biến phức tạp.

Trong thời gian qua, tội phạm xâm phạm trật tự xã hội xét về tính chất, mức độ thiệt

hại của loại tội phạm này xảy ra rất nghiêm trọng, manh động hơn, nhất là các vụ án

giết người, cố ý gây thương tích, v.v… Bên cạnh đó mức độ nghiêm trọng của các

vụ tai nạn giao thông cũng tăng lên. Hoạt động của tội phạm ma túy diễn biến phức

tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn, xu hướng tàng trữ, mua bán, vận chuyển sử dụng

31

ma túy tổng hợp ngày càng gia tăng, tập trung vào lứa tuổi thanh thiếu niên. Đối với

tội phạm về tham nhũng, chức vụ: xảy ra ít, chủ yếu là vi phạm về tội lợi dụng chức

vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và giả mạo trong công tác.

Theo thống kê nêu trên, có thể thấy số lượng tội phạm của các năm, tội phạm

có xu hướng giảm dần, từ năm 2015 xảy ra 107 vụ phạm pháp hình sự, đến 06 tháng

đầu năm 2019 xảy ra 37 vụ, giảm 34,6%. Điều này cho thấy sự quan tâm lãnh, chỉ

đạo tích cực của cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ sở, đặc biệt là sự vào cuộc

quyết liệt của Ban chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong

trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc huyện và các xã, thị trấn tình hình an ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện Chư Sê cơ bản ổn định và giữ

vững, các vụ phạm pháp hình sự được phát hiện và xử lý kịp thời và có xu hướng giảm.

2.1.2. Kết quả áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh

Gia Lai

Hiện nay, TAND huyện Chư Sê có 15 cán bộ, công chức gồm 06 Thẩm phán,

07 Thư ký, 01 kế toán và 02 lao động hợp đồng. Tất cả đội ngũ đều có trình độ

chuyên môn cử nhân luật trở lên và được đào tạo, tập huấn kĩ năng chuyên

môn nghiệp vụ.

TAND huyện Chư Sê là đơn vị duy nhất trong hệ thống TAND hai cấp tỉnh

Gia Lai hiện có 100% cán bộ, công chức, người lao động là Đảng viên. Điều đó đã

huy động được cả hệ thống chính trị cơ quan, Chi bộ, cơ quan luôn làm tốt công tác

lãnh đạo, giáo dục về chính trị, tư tưởng cho Đảng viên, cán bộ công chức.

TAND huyện Chư Sê 05 năm liền liên tục đạt “Tập thể lao động xuất sắc”,

được tặng thưởng nhiều Bằng khen của ngành, của địa phương. Nhiều cá nhân được

trao tặng danh hiệu “Chiến sỹ thi đua cơ sở”, được tặng Bằng khen của ngành, của

địa phương, các tổ chức đoàn thể khác. Đặc biệt trong năm 2015, đơn vị đã được

trao tặng “Cờ thi đua Chính phủ” [55].

Theo quy định của BLTTHS, TAND huyện Chư Sê có thẩm quyền xét xử sơ

thẩm những tội phạm mà BLHS quy định HP từ 15 năm tù trở xuống, trừ những tội

quy định tại điểm nêu trên Điều 268 BLTTHS. Như vậy, đối với những tội phạm

32

mà BLHS quy định HP chung thân và tử hình thì TAND huyện Chư Sê không có

thẩm quyền xét xử.

Có thể thấy được số liệu xét xử cụ thể qua bảng thống kê sau đây:

Bảng 2.2: Thống kê số liệu xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê

Thống kê tội phạm (vụ/bị cáo)

Tội phạm Tội Tội phạm Tội phạm Tội Tội xâm phạm về Năm về xâm về trật tự phạm về phạm về phạm tham phạm sở xã hội ma túy kinh tế hoạt động nhũng, hữu tư pháp chức vụ

Bị Bị Bị Bị Bị Bị Vụ Vụ Vụ Vụ Vụ Vụ cáo cáo cáo cáo cáo cáo

78 76 8 - 1 - 2015 38 - 1 6 - 36

54 67 8 - 3 - 2016 32 - 1 5 - 36

49 66 7 1 - - 2017 30 1 - 6 - 36

53 76 7 - 2 2018 27 - 4 2 38

06

tháng 7 17 1 1 - 1 6 6 1 1 - 1 đầu

2019

Tổng 31 2 4 3 133 241 152 302 22 2 2 3 314/583

Số % 0,7 0,5 42,4 41,3 48,4 51,8 7 5,3 0,6 0,4 0,6 1

Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm

các vụ án hình sự”, Gia Lai.

Qua bảng thống kê, có thể thấy tội phạm về xâm phạm sở hữu chiếm tỷ lệ lớn

nhất về số vụ là 48,4% và số bị can là 51,8%; tiếp đến là tội phạm về trật tự xã hội

với số vụ chiếm 42,4%, số bị can chiếm 41,3%; tội phạm về ma túy với số vụ chiếm

7%, số bị can chiếm 5,3%; tội phạm về xâm phạm hoạt động tư pháp với số vụ

33

chiếm 0,6%, số bị can chiếm 0,7%; tội phạm về tham nhũng, chức vụ với số vụ

chiếm 1%, số bị can chiếm 0,5%; tội phạm về kinh tế với số vụ chiếm 0,6%, số bị

can chiếm 0,4%.

Qua thống kê số liệu HP chính được áp dụng tại TAND huyện Chư Sê thì HP

tù có thời hạn được áp dụng nhiều nhất trong số các HP được áp dụng.

Bảng 2.3: Thống kê số liệu hình phạt chính được áp dụng tại Tòa án nhân dân

huyện Chư Sê

Bị cáo Số liệu HP chính được áp dụng

Cải tạo Tù có Cho Năm Cảnh Phạt Trục không hưởng thời cáo tiền xuất giam giữ án treo hạn

- - 4 138 21 - 2015 163

- - 3 115 14 - 2016 132

- 5 106 11 - 2017 122

- - 4 119 15 - 2018 138

06 tháng đầu - - - 25 2 - 27 năm 2019

- 5 11 503 63 - Tổng 582

- 0,9 1,9 86,4 10,8 - Số % 100

Nguồn: Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt chính”, Gia Lai.

Qua bảng trên chúng ta thấy tỷ lê áp dụng HP tại huyện Chư Sê như sau: áp

dụng HP tiền đối với 05 bị cáo chiếm tỷ lệ 0,9%; áp dụng HP cải tạo không giam

giữ đối với 11 bị cáo chiếm 1,9%; áp dụng HP tù có thời hạn đối với 503 bị cáo

chiếm 86,4%; áp dụng HP tù nhưng cho hưởng án treo đối với 63 bị cáo chiếm

10,8%. Trong đó, HP tù có thời hạn chiếm tỷ lệ 86,4%, là HP chiếm tỷ lệ cao nhất

trong số các HP được áp dụng.

Trong đó, việc áp dụng HP bổ sung tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai bao

gồm các HP theo quy định của BLHS, tuy nhiên, về tỷ lệ áp dụng các loại HP bổ

sung được thể hiện ở bảng sau đây:

34

Bảng 2.4: Thống kê số liệu HP bổ sung được áp dụng tại TAND huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai

Số liệu HP bổ sung được áp dụng

Cấm đảm Tước nhiệm chức Tịch Bị Cấm một số Năm vụ, v.v.. Quản thu Phạt Trục cáo cư quyền hoặc làm chế tài tiền xuất trú công công việc sản dân nhất định

- - - - - 24 - 2015 163

- - - - 1 19 - 2016 132

- - - - 2 15 - 2017 122

2 - - - 1 21 - 2018 138

1 - - - - 1 - 06 tháng đầu 27

năm 2019

3 - - - 4 80 - Tổng số 87

- - - 4,6 92 - Số % 100 3,4

Nguồn: TAND huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt bổ sung”, Gia Lai.

Trong cơ cấu HP bổ sung được áp dụng tại TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia

Lai, HP giai đoạn từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năm 2019, HP tiền chiếm phần lớn

nhất là 92%, sau đó là HP tịch thu tài sản chiếm tỷ lệ 4,6%, HP cấm đảm nhiệm

chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định chiếm tỷ lệ 3,4%, các HP bổ

sung khác như cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, trục xuất (khi

không là HP chính) là không có. HP bổ sung là HP tiền được áp dụng để bổ trợ cho

HP chính nhằm tối đa hóa việc áp dụng HP tương xứng với hành vi phạm tội.

Nghiên cứu hoạt động áp dụng HP bổ sung là HP tiền đối với người phạm tội tại

TAND huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai cho thấy HP này chủ yếu được áp dụng đối với

35

bị cáo phạm tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc phạm tội về ma túy nhằm hỗ trợ

cho HP chính đã áp dụng với họ. Đối với HP tịch thu tài sản chủ yếu áp dụng với

các tội phạm cố ý gây thương tích để bảo đảm tài sản của họ khi thực hiện nghĩa vụ

bồi thường đối với bị hại. HP cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định được áp dụng “khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm

chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó thì có thể gâu nguy hại cho xã hội”

(Điều 41 BLHS), HP này áp dụng không nhiều, chỉ với 03 trường hợp, chủ yếu

được áp dụng liên quan đến các tội phạm về tham nhũng, chức vụ.

Từ những số liệu trên có thể thấy chất lượng xét xử của TA đã được nâng cao

rõ rệt, TA áp dụng đúng các quy định của pháp luật, các bản án được tuyên bảo đảm

đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, đảm bảo việc áp dụng HP tương xứng với

mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi. HP được áp dụng đã giúp trừng phạt

những đối tượng có hành vi nguy hiểm, không có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn

trọng tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người, bên cạnh đó, còn thể hiện được

tính nhân đạo của pháp luật cho những người biết nhận thức được sai lầm của mình

mà cố gắng sửa chữa, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra.

2.2. Những vi phạm sai lầm trong áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân

huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai

2.2.1. Áp dụng sai điểm, khoản, điều luật đối với hành vi của bị cáo

Ví dụ: Bản án số 32/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của TAND huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai: Vào khoảng 15 giờ 20 phút ngày 06/8/2018, tại quán nước của bà

Huỳnh Thị Tâm ở tổ dân phố 4, thị trấn Chư Sê, huyện Chư Sê, Nguyễn Công Hoan

có hành vi tàng trữ trái phép 04 tép ma túy, loại Methamphetamin, khối lượng

0,8086 gam. Hoan khai đây là 04 tép ma túy do Nguyễn Thị Khánh giao cho Hoan

để đi bán cho người khác nhưng chưa kịp bán thì bị bắt. Cơ quan Công an đã tiến

hành niêm phong 04 tép ma túy đựng trong 04 gói nilon cùng một số tài sản, đồ vật

khác.

Quá trình điều tra, tại biên bản bắt quả tang và trên cơ sở lời khai của Nguyễn

Công Hoan đều khai nhận số ma túy trên Hoan tàng trữ nhằm mục đích bán giúp

36

cho đối tượng tên Nguyễn Thị Khánh để lấy tiền công, Cơ quan Cảnh sát điều tra –

Công an huyện Chư Sê đã tiến hành xác minh, điều tra làm rõ hành vi của Nguyễn

Thị Khánh nhưng do Nguyễn Thị Khánh đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa xác

định được.

Tại Bản Cáo trạng số 29/CTr-VKS ngày 14/11/2018 của VKS nhân dân huyện

Chư Sê đã truy tố Nguyễn Công Hoan về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo

quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của BLHS năm 2015. Tại phiên tòa sơ thẩm,

bị cáo Nguyễn Công Hoan đều khai nhận bị cáo tàng trữ số ma túy trên nhằm mục

đích bán giúp cho đối tượng Nguyễn Thị Khánh để lấy tiền công, đại diện VKS

nhân dân huyện Chư Sê rút một phần Quyết định truy tố, chỉ truy tố bị cáo Nguyễn

Công Hoan về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều

251 BLHS.

Tại Bản án hình sự số 32/2018/HS-ST ngày 28/11/2018 của TAND huyện

Chư Sê đã quyết định: căn cứ khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38

của BLHS năm 2015, tuyên bố bị cáo Nguyễn Công Hoan phạm tội “Tàng trữ trái

phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công Hoan 03 năm tù.

Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: tại biên bản bắt quả tang, lời khai tại cơ

quan điều tra, quá trình xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Công Hoan đều khai nhận bị

cáo tàng trữ số ma túy trên nhằm mục đích bán giúp cho đối tượng Nguyễn Thị

Khánh để lấy tiền công. Căn cứ vào hành vi mà bị cáo đã thực hiện, vật chứng và

nhân thân của bị cáo, đủ cơ sở để khẳng định lời khai của bị cáo về việc tàng trữ trái

phép chất ma túy để bán là phù hợp với vật chứng là 0,8086 gam ma túy thu giữ

được, nên đủ cơ sở kết luận Nguyễn Công Hoan phạm tội “Mua bán trái phép chất

ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của BLHS. Do đó, TA cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về

tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của BLHS là chưa

đúng với động cơ, mục đích của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

Bản án này đã bị VKS nhân dân huyện Chư Sê kháng nghị sửa bản án sơ thẩm

về tội danh đối với bị cáo. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận

kháng nghị của VKS nhân dân huyện Chư Sê, tuyên bố bị cáo Nguyễn Công Hoan

37

phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoàn 1 Điều 251

BLHS [40].

2.2.2. Đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi phạm tội

2.2.2.1. Áp dụng hình phạt quá nhẹ đối với người phạm tội

Ví dụ: Bản án số 68/2017/HS-ST ngày 04/8/2017 của TAND huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai: Vào sáng ngày 11/11/2016, Nguyễn Đình Hà cùng vợ và bà Thiều Thị

Giang, anh Phí Ngọc Đang cùng một số thành viên gia đình của mình đều đến lô cà

phê tại làng Ring, xã H’Bông, huyện Chư Sê. Do giữa vợ chồng Hà đang có mâu

thuẫn trong việc tranh chấp vườn cà phê với anh Đang từ lâu nên phía Hà vào can

ngăn không cho phía anh Đang thu hoạch cà phê. Trong lúc anh Đang cầm tay bà

Giang lôi ra khỏi vườn cà phê thì Hà đã dùng hung khí nguy hiểm là xẻng (dài

1m06, cán làm bằng tre dài 62 cm, lưỡi được làm bằng kim loại dài 44 cm) đánh

anh Đang 02 nhát với tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 14%. Sau khi gây thương

tích, Hà cho rằng hành vi của Hà là phòng vệ chính đáng, anh Đang xâm phạm tài

sản của gia đình Hà nên việc xảy ra Hà không bồi thường.

Tại Bản án số 68/2017/HS-ST ngày 04/8/2017 của TAND huyện Chư Sê đã

quyết định: tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình Hà phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp

dụng khoản 2 Điều 104, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 của BLHS năm

1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Hà 24 tháng tù và cho hưởng án treo.

Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: bị cáo khai nguyên nhân phía gia đình bị

cáo không cho gia đình người bị hại thu hoạch cà phê và dẫn đến bị cáo đánh người

bị hại là do người bị hại thu hoạch trên đất đang có tranh chấp và do gia đình bị cáo

chăm sóc. Tuy nhiên, hồ sơ vụ án thể hiện giữa phía bị cáo và phía gia đình người

bị hại trước đây có tranh chấp nhưng đã được giải quyết bằng bản án số

39/2016/DS-ST ngày 30/6/2016 của TAND tỉnh Gia Lai, theo đó, quyền sử dụng

đất thuộc về gia đình người bị hại. Như vậy, về phía bị cáo không cho phía người bị

hại thu hoạch là thể hiện bị cáo không có ý thức chấp hành án, thực tế khi phía

người bị hại đang thu hoạch thì phía bị cáo vào ngăn cản và bị cáo gây thương tích

38

cho người bị hại, và việc này gây mấy trật tự địa phương trong thời gian dài. Không

những thế, việc bị cáo quanh co không thừa nhận hành vi phạm tội, ngoan cố cho

rằng bản thân đang bảo vệ tài sản và không xin lỗi hay bồi thường gì cho phía người

bị hại làm cho người bị hại bức xúc và thể hiện thái độ của bị cáo không biết ăn năn

hối cải, không thể tự sửa chữa lỗi lầm. Như vậy, cần thiết phải xử bị cáo mức án

nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo nhưng TA cấp sơ thẩm xử bị cáo mức

24 tháng tù, khởi điểm của khung HP là chưa nghiêm khắc, chưa phù hợp với tính

chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Bản án này đã bị người bị hại là anh Phí Ngọc Đang kháng cáo đề nghị tăng

nặng HP đối với bị cáo. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng

cáo của người bị hai, xử phạt Nguyễn Đình Hà 30 tháng tù [38].

2.2.2.2. Áp dụng hình phạt quá mức nghiêm khắc đối với người phạm tội

Ví dụ: Bản án số 20/2017/HS-ST ngày 13/3/2017 của TAND huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai: Vào lúc 22 giờ ngày 31/10/2016, Kpă Klach (sinh năm: 1997) rủ Kpă

Klanh (sinh năm: 2000) và Kpă Suên (sinh năm: 2001) đi 02 xe mô tô để trộm mủ

cao su ở nông trường cao su Ia Tiêm, huyện Chư Sê. Khi trộm cắp được 50 kg mủ

cao su chở về được khoảng 01 km thì có người đàn ông chặn lại, Kpă Klach và Kpă

Klanh nhầm tưởng là bảo vệ của nông trường cao su nên bỏ lại phương tiện xe mô

tô và mủ cao su trộm được để bỏ chạy. Sau đó, Kpă Klanh rủ Kpă Klach, Kpă Suên

quay lại để tìm lấy lại xe mô tô và bao mủ cao su bị thu giữ, Kpă Klanh chuẩn bị

cây tuýt sắt, Kpă Suên chuẩn bị dao làm công cụ quay lại chặn đánh anh Hoàng

Minh Hiếu và Trịnh Văn Nam là bảo vệ nông trường nhằm chiếm đoạt lại xe mô tô

và mủ cao su. Anh Hiếu và anh Nam bị tấn công nên buộc phải bỏ chạy, Kpă Klach

cùng đồng bọn đã chiếm đoạt xe mô tô, điện thoại di động có tổng trị giá

20.432.000 đồng.

Tại Bản án số 20/2017/HS-ST ngày 13/3/2017 của TAND huyện Chư Sê đã

quyết định: tuyên bố các bị cáo Kpă Klach, Kpă Klanh, Kpă Đông, Kpă Suên phạm

tội “Cướp tài sản”. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, điểm p khoản 1, 2 Điều 46

BLHS 1999, xử phạt Kpă Klach 08 năm tù. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133,

39

điểm p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 69, 74 BLHS 1999, xử phạt Kpă Klanh 07 năm tù,

Kpă Suên 07 năm tù.

Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: mặc dù bị cáo Kpă Klanh là người khởi

xướng quay lại để tìm lấy lại xe mô tô và bao mủ cao su bị thu giữ, cùng như chuẩn

bị công cụ để thực hiện tội phạm và là người trực tiếp dùng dao rượt đuổi, chém các

nạn nhân, nhưng bị cáo Kpă Klanh khi thực hiện tội phạm ở độ tuổi dưới 16 tuổi. Bị

cáo Kpă Suên tham gia thực hiện tội phạm ít tích cực hơn so với các đồng phạm

khác và là người có độ tuổi dưới 16 tuổi khi thực hiện tội phạm. TA cấp sơ thẩm xử

phạt mỗi bị cáo 07 năm tù là đánh giá tính chất, mức độ nguy hiển cũng như phân

hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa HP đối với các bị cáo chưa phù hợp với chế

định người phạm tội dưới 18 tuổi, quy định tại các Điều 69 và Điều 74 của BLHS

năm 1999.

Bản án này đã bị VKSND tỉnh Gia Lai kháng nghị giảm HP đối với bị cáo

Kpă Klanh, Kpă Suên, đồng thời, Kpă Klanh, Kpă Suên kháng cáo xin giảm nhẹ

HP. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của VKSND

tỉnh Gia Lai và kháng cáo của các bị cáo Kpă Klanh, Kpă Suên, xử phạt Kpă Klanh

05 năm 06 tháng tù, Kpă Suên 04 năm tù [37].

2.2.3. Đánh giá chưa đầy đủ nhân thân người phạm tội

Ví dụ: Bản án số 51/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 của TAND huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai: Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 04/7/2018, thấy 01 con bê đang ăn cỏ tại

vườn cà phê nhà ông Hai Hoàng ở thôn 1, xã Ia Pal, huyện Chư Sê không có người

trông coi, Nguyễn Văn Phương đã cầm theo khúc gỗ cao su dài khoảng 70 cm, to

bằng cổ tay người lớn đi sang, dùng khúc gỗ đập vào đầu con bê trị giá 3.750.000

đồng, rồi gọi Rơ Lan Bên đến để khiêng giúp bê về nhà Phương, Rơ Lan Bên biết rõ

con bê này không phải của nhà Phương nhưng vẫn đồng ý khiêng con bê về nhà

Phương làm thịt và chia nhau.

Tại bản án số 51/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 của TAND huyện Chư Sê đã

quyết định: tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn Phương, Rơ Lan Bên phạm tội “Trộm

cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS

40

năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Phương 15 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều

173, các điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Rơ Lan

Bên 07 tháng tù.

Nhận thấy trong vụ án này thể hiện: Rơ Lan Bên là người giúp sức tích cực bị

cáo Nguyễn Văn Phương, nên phải chịu HP tương xứng. TA sơ thẩm đã xem xét bị

cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: đầu thú, thành khẩn khai báo, bồi

thường thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được bị hại

xin khoan hồng, nên xử phạt 07 tháng tù, chỉ trên mức khởi điểm của HP tù 01

tháng là phù hợp. Tuy nhiên, bị cáo Rơ Lan Bên là người dân tộc thiểu số, có hoàn

cảnh gia đình khó khăn, phạm tội với vai trò giúp sức, có rất nhiều tình tiết giảm

nhẹ như đã nêu trên, bản thân chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, nên

không cần cách ly ra ngoài xã hội, mà giao cho chính quyền địa phương giám sát,

giáo dục là đủ tác dụng cải tạo.

Bản án này đã bị kháng cáo của bị cáo Rơ Lan Bên xin giảm nhẹ HP, xin được

hưởng án treo. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo của bị

cáo Rơ Lan Bên, xử phạt Rơ Lan Bên 07 tháng tù nhưng cho hưởng án treo [39].

2.2.4. Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự

không đúng

Ví dụ: Bản án số 47/2015/HSST ngày 27/7/2015 của TAND huyện Chư Sê,

tỉnh Gia Lai: Vào lúc 21 giờ ngày 16/3/2015, Võ Văn Giao cùng Nguyễn Thanh

Tâm, Lê Bá Công, Nguyễn Thành Danh và Nguyễn Hữu Trọng về nhà Giao để

đánh bài “xì tố” được thua bằng tiền. Đến khoảng 02 giờ ngày 17/3/2015, Tâm,

Công, Trọng, Danh nghỉ đánh bài và tất cả ngủ tại nhà Giao đến sáng thì Giao rủ

Tâm, Công, Trọng, Danh tiếp tục đánh bài “xì tố” được thua bằng tiền. Đến khoảng

12 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện Chư Sê bắt quả tang, thu tại chiếu bạc

7.500.000 đồng cùng những đồ vật, tài liệu liên quan khác.

Tại Bản án số 47/2015/HSST ngày 27/7/2015 của TAND huyện Chư Sê đã

quyết định: tuyên bố các bị cáo Võ Văn Giao, Nguyễn Thanh Tâm, Lê Bá Công,

Nguyễn Thành Danh và Nguyễn Hữu Trọng phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản

41

1, khoản 3 Điều 248; Điều 33; điểm o, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48;

Điều 53 BLHS năm 1999; khoản 1 Điều 228 BLTTHS, xử phạt bị cáo Võ Văn Giao

10 tháng tù, xử phạt bổ sung bị cáo Võ Văn Giao 15.000.000 đồng để sung công

quỹ Nhà nước. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm o, p, q khoản 1, khoản 2

Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 41; Điều 53; Điều 60 BLHS năm 1999;

khoản 4 Điều 227 BLTTHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Tâm 09 tháng tù nhưng

cho hưởng án treo, xử phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thanh Tâm 15.000.000 đồng và

truy thu 1.800.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước. Áp dụng khoản 1, khoản 3

Điều 248; điểm o, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 41;

Điều 53; Điều 60 BLHS năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Thành Danh 10 tháng tù

nhưng cho hưởng án treo. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm o, p, q khoản

1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 41; Điều 53; Điều 60 BLHS năm

1999, xử phạt các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn Hữu Trọng, mỗi bị cáo 10 tháng tù

nhưng cho hưởng án treo. Xử phạt bổ sung các bị cáo Nguyễn Thành Danh, Lê Bá

Công, Nguyễn Hữu Trọng, mỗi bị cáo 15.000.000 đồng để sung công quỹ Nhà

nước.

Nhận thấy trong vụ án này thể hiện:

- Thứ nhất, việc TA cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn

Hữu Trọng, Nguyễn Thành Danh được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự “tự thú” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS là chưa đúng theo hướng

dẫn tại Thông tư liên ngành 05/TTLN ngày 02/6/2990 của Bộ Nội vụ, VKSND tối

cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn xét xử tại Công văn 81/2002 của

TANDTC. Trường hợp “tự thú” chỉ được áp dụng khi người thực hiện hành vi

phạm tội chưa bị phát giác, chưa có ai biết hành vi phạm tội đã xảy ra, chỉ khi người

phạm tội tự khai ra thì cơ quan chức năng mới biết. Trong vụ án này, hành vi phạm

tội đánh bạc của các bị cáo vào ngày 16/3/2015 đã có người làm chứng Nguyễn

Tiến Dũng biết nên đã khai rõ lần phạm tội này của các bị cáo cho cơ quan chức

năng nên không thuộc trường hợp tự thú mà việc khai nhận lần phạm tội này của

các bị cáo chỉ được xem là thành khẩn khai báo chứ không thuộc trường hợp “tự thú”

42

- Thứ hai, TA cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn Hữu

Trọng được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội đã tích

cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm” quy định

tại điểm q khoản 1 Điều 46 BLHS cũng không có căn cứ. Bởi vì việc người phạm

tội tích cực giúp đỡ cơ quan chức năng phát hiện và điều tra tội phạm để vụ án được

giải quyết nhanh chóng là giúp đỡ trong vụ án mà người phạm tội đang bị xử lý chứ

không phải trong các trường hợp giúp đỡ trong việc phát hiện, truy bắt tội phạm tại

địa phương hay trong các vụ án khác. Việc TA cấp sơ thẩm căn cứ vào xác nhận

của UBND xã về việc các bị cáo Công, Trọng “đã có nhiều cống hiến cho chính

quyền địa phương trong việc phát hiện, truy bắt tọi phạm cũng như giúp đỡ các cơ

quan nhà nước phát hiện nhiều vụ án trên địa bàn, được chính quyền địa phương

khen ngợi” để áp dụng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự quy định tại điểm q khoản 1 Điều 46 BLHS là không đúng. Mặt khác, ngoài

xác nhận của Ủy ban xã, thị trấn thì tại hồ sơ vụ án không thể hiện các chứng cứ về

việc các bị cáo đã được chính quyền khen tặng.

Như vậy, trong vụ án này, các bị cáo Lê Bá Công, Nguyễn Hữu Trọng và

Nguyễn Thành Danh chỉ được hưởng một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p

khoản 1 Điều 46 và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2

Điều 46 BLHS nhưng lại có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại

điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị

quyết 01/2013/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn Điều

60 về án treo thì một trong những điều kiện cho bị cáo hưởng án treo: “không có

tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của BLHS và

có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình

tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS; nếu có một tình tiết tăng

nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của

BLHS”. Đối chiếu quy định của pháp luật thì các bị cáo không đủ điều kiện được

hưởng án treo.

43

Bản án này đã bị VKSND huyện Chư Sê kháng nghị chuyển HP tù cho hưởng

án treo sang HP tù giam đối với các bị cáo Nguyễn Hữu Trọng, Lê Bá Công và

Nguyễn Thành Danh. TAND tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm đã chấp nhận kháng

nghị của VKSND huyện Chư Sê, áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm p khoản

1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 53 BLHS năm 1999, xử phạt Nguyễn Hữu

Trọng, Lê Bá Công và Nguyễn Thành Danh, mỗi bị cáo 10 tháng tù [36].

2.2.5. Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm trong áp dụng hình phạt tại

Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai

2.2.5.1. Nguyên nhân do quy định của pháp luật

BLHS vẫn còn những quy định chưa rõ ràng, gây nên nhiều cách hiểu và cách

áp dụng không thống nhất trong thực tiễn thi hành:

- Quy định về khoảng cách tối thiểu và tối đa trong một khung HP tù có thời

hạn vẫn còn quá rộng, tối thiểu là 03 tháng và tối đa là 20 năm (Điều 38 BLHS). Ưu

điểm khi quy định khoảng cách giữa mức tối thiểu và tối đa rộng là trong nhiều

trường hợp khác nhau xảy ra, HĐXX có thể áp dụng linh hoạt mức HP phù hợp với

hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện sau khi xem xét, cân nhắc các tình tiết tăng

nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Tuy nhiên, nó cũng

mang đến nhược điểm đó là sự áp dụng một cách tùy tiện, không thống nhất, thiếu

chính xác trong việc áp dụng HP tù có thời hạn, không đảm bảo tính công bằng,

quyền con người và yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Việc quy định mức

tối thiểu là 03 tháng không phát huy được hiệu quả của HP trong thực tiễn, không

kể đến đây sẽ là nguyên nhân dẫn tới tình trạng quá tải tại các cơ sở giam giữ. Thời

gian chấp hành HP tù có thời hạn là 03 tháng có đảm bảo thời gian để người bị kết

án cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội không? [25].

- Khó khăn khi áp dụng Điều 54 của BLHS để cân nhắc khi áp dụng HP tù có

thời hạn nhẹ hơn quy định của Bộ luật quy định “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm

nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này, TA có thể quyết định một HP

dưới mức thấp nhất của khung HP, v.v..”. Điều này tạo nên hai cách hiểu khác nhau

khi áp dụng trong thực tiễn: thứ nhất có thể hiểu là hai tình tiết của khoản 1 Điều 51

44

phải là hai điểm thuộc khoản 1 Điều 51, cách hiểu thứ hai là chỉ cần hai tình tiết

giảm nhẹ thuộc khoản 1 Điều 51 không cần thiết ở hai điểm khác nhau, có thể cùng

một điểm được quy định ghép nhiều tình tiết [25].

- Ngoài ra, quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm x

khoản 1 Điều 51 BLHS: “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là

cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” chưa phù hợp với thực tế. Theo Pháp lệnh số

04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng thì

người có công với cách mạng quy định như sau: “1. Người có công với cách mạng:

a) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; b) Người hoạt

động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám

năm 1945; c) Liệt sĩ; d) Bà mẹ Việt Nam anh hùng; đ) Anh hùng Lực lượng vũ trang

nhân dân; e) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến; g) Thương binh, người

hưởng chính sách như thương binh; h) Bệnh binh; i) Người hoạt động kháng chiến

bị nhiễm chất độc hóa học; k) Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến

bị địch bắt tù, đày; l) Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ

quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; m) Người có công giúp đỡ cách mạng.” (Điều 1).

Thực tiễn xét xử cho thấy tuổi bị cáo còn trẻ nên dựa trên quy định về nêu trên rất

nhiều bị cáo không thể đáp ứng được điều kiện để được hưởng tình tiết giảm nhẹ

này. Như vậy, vô hình chung đi trái với yêu cầu thực hiện chính sách hình sự hướng

thiện, giảm HP tù, tăng cường các tình tiết không phải HP tù, v.v.. trong công cuộc

cải cách tư pháp. Chính từ những thiếu sót trong các quy định của BLHS, dẫn tới

việc áp dụng HP tù có thời hạn vẫn còn những thiếu sót, ảnh hưởng đến mục đích

HP tù có thời hạn, gây bức xúc trong dư luận [25].

- Tại Điều 101 BLHS quy định: Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt

tù có thời hạn theo quy định: “ 1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi

phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định HP tù chung thân hoặc tử hình, thì

mức HP cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn

thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật

45

quy định; 2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều

luật được áp dụng quy định HP tù chung thân hoặc tử hình, thì mức HP cao nhất

được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức HP cao

nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Trước hết, việc khoản 1 và khoản 2 Điều 101 BLHS quy định “nếu điều luật

được áp dụng quy định HP chung thân hoặc tử hình...” điều này sẽ dẫn đến cách

hiểu “điều luật” được áp dụng ở đây là các điều luật được quy định trong BLHS,

điều luật nào có quy định HP chung thân hoặc tử hình thì việc quyết định HP đối

với bị cáo sẽ áp dụng theo quy định của đoạn 1, khoản 1 hoặc đoạn 1 khoản 2 của

Điều 101 BLHS mà không phân biệt điều luật đó có một hay nhiều khung HP khác

nhau hay không và áp dụng khác nhau trong thực tiễn.

Thứ hai, Điều 101 BLHS đã diễn đạt: “mức HP cao nhất không quá 18 năm

tù” hoặc “...mức HP cao nhất được áp dụng không quá ¾ ...” hoặc “...không quá ½

mức phạt tù mà điều luật quy định” là còn chưa rõ ràng, gây ra nhiều cách hiểu và

áp dụng pháp luật không thống nhất.

Cách hiểu thứ nhất cho rằng: quy định như trên của điều luật đã khống chế

mức giảm HP tối đa và mức giảm HP tối thiểu áp dụng cho người chưa thành niên

phạm tội thấp hơn so với mức HP tối đa và tối thiểu quy định cho người đã thành

niên phạm tội tương ứng. Khi truy tố, xét xử bị cáo bao giờ cũng theo một điều

khoản cụ thể trong một điều luật cụ thể nào đó được ghi nhận trong BLHS, nếu điều

khoản quy định HP tù thì bao giờ cũng có “khoảng giới hạn” “bị phạt tù từ...năm

đến...năm” . Như vậy, luật không hạn chế mức tối thiểu, song điều khoản áp dụng

có khoảng giới hạn nên cần thiết phải xác định giới hạn tối đa và giới hạn tối thiểu.

Việc nhà làm luật quy định là ¾ hay ½ ở đây cần phải được hiểu là cả mức HP tối

thiểu và mức HP tối đa. Có như vậy mới đảm bảo việc khi quyết định HP đối với

người chưa thành niên phạm tội thấp hơn trong sự so sánh với người đã thành niên

phạm tội tương ứng.

Cách hiểu thứ hai cho rằng: BLHS chỉ khống chế “mức tối đa” của khung HP

được phép áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong sự so sánh với

46

người đã thành niên phạm tội mà không khống chế mức tối thiểu. Mức HP cao nhất

mà người chưa thành niên phải chấp hành phải thấp hơn mức HP cao nhất áp dụng

cho người đã thành niên.

Thực tiễn cũng cho thấy, việc quy định tuỳ theo độ tuổi của người chưa thành

niên phạm tội mà áp dụng mức phạt tù không quá ¾ hay không quá ½ so với mức

phạt tù đã xác định của người đã thành niên phạm tội, dẫn đến việc mức HP này

thường được tuyệt đối hoá và luôn ở mức không quá, hoặc là bằng ¾ hay ½ . Nghĩa

là, TA luôn lấy ở mức cao nhất cho phép trong khi điều luật chỉ quy định mức HP

cao nhất được áp dụng “ không quá” ¾ hay ½ mức phạt tù mà điều luật quy định”

chứ không phải quy định mức phạt tù “bằng” ¾ hay ½ của mức phạt tù áp dụng đối

với người đã thành niên phạm tội [74].

Bên cạnh sự hạn chế của các quy định của pháp luật còn là sự hạn chế trong

việc hướng dẫn áp dụng pháp luật. Theo quy định ở Hiến pháp nước ta thì trong

những quyền hạn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền giải thích Hiến pháp,

luật và pháp lệnh. Tuy nhiên, trên thực tiễn thực hiện quyền hạn này thì Ủy ban

Thường vụ Quốc hội lại chưa thể làm tròn vai trò của mình vì khối lượng các văn

bản pháp luật ngày càng nhiều. Nên mọi vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật

nói chung áp dụng HP nói riêng đều dựa vào văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật

của các cơ quan tư pháp ở trung ương mà chủ yếu là TAND tối cao thông qua

thông tư liên tịch, nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Trong thực

tiễn thi hành pháp luật thì các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật còn chưa đáp

ứng được tính cần thiết ngay tại thời điểm thi hành, một điều luật quy định không rõ

ràng sẽ có nhiều cách hiểu, vận dụng khác nhau tùy theo nhận thức của chủ thể áp

dụng, do đó, dẫn đến nhiều sai lầm nghiêm trọng khi áp dụng pháp luật mà nguyên

nhân là do công tác tổng kết giải đáp những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng, thi

hành pháp luật, nói chung cũng như công tác xét xử, áp dụng HP nói chung của TA

còn chưa kịp thời.

2.2.5.2. Nguyên nhân do hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp vụ, đạo đức và

trách nhiệm của các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân

47

- Một số Thẩm phán còn chưa chú trọng trong công tác nghiên cứu văn bản

pháp luật, không cập nhật thường xuyên các văn bản hướng dẫn pháp luật nên trình

độ nghiệp vụ còn có nhiều hạn chế nhất định.

- Hiện tại, vẫn còn không ít Thẩm phán hạn chế về năng lực, trình độ chuyên

môn, nghiệp vụ, không có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tự tin, sợ trách nhiệm,

không tự quyết định được các tình huống khi xét xử, áp dụng HP do đó dễ dẫn đến

những sai lầm trong việc áp dụng HP.

- Kinh nghiệm đội ngũ Thẩm phán trong cùng một TA còn chưa đồng đều, nên

việc phân công nhiệm vụ còn có sự bất cập, những người có năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ vững vàng thường được phân công giải quyết nhiều vụ án hơn, phức tạp

hơn. Việc nghiên cứu cùng lúc nhiều vụ án làm cho việc đánh giá tính chất, mức độ

của hành vi phạm tội, các nội dung có ý nghĩa đến việc áp dụng HP không đầy đủ,

dẫn đến việc áp dụng HP không được chính xác.

- Đối với HTND, sự hạn chế về năng lực, trách nhiệm của HTND một phần

cũng xuất phát từ các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm, cơ chế

bầu, cử Hội thẩm và thực trạng hoạt động của Hội thẩm còn nhiều vấn đề vướng

mắc, bất cập khiến việc Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử của TA còn mang tính

hình thức, vẫn chưa phát huy được hết vị trí, vai trò quan trọng mà Hiến pháp và

pháp luật đã quy định [54].

- Hiện nay, TA chỉ quản lý Hội thẩm trong thời gian họ nghiên cứu hồ sơ và

tham gia xét xử. Ngoài thời gian tham gia hoạt động xét xử, Hội thẩm sinh hoạt tại

cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc địa phương nơi họ sinh sống, nên đối với một

số vụ án có tính chất nhạy cảm dễ bị tác động, sức ép và dễ phát sinh tiêu cực [54].

- Sự hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp vụ cũng như vấn đề đạo đức nghề

nghiệp chưa được coi trọng, sự thiếu trách nhiệm khiến cho không ít Thẩm phán và

Hội thẩm còn lệ thuộc vào kết quả điều tra, những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ

vụ án. Trong nhiều trường hợp, HĐXX xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ

án mà không coi trọng tới những ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự coi

trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình

48

đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Do đó, phán quyết của HĐXX còn mang tính

áp đặt, còn tình trạng xét xử oan sai, trái pháp luật; bản án, quyết định của TA cấp

dưới bị TA cấp trên sửa do áp dụng HP không đúng với tính chất, mức độ của hành

vi phạm tội [54].

2.2.5.3. Nguyên nhân từ giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử chưa thường xuyên

- Đối với công tác giám đốc xét xử trong thời gian qua cũng còn một số hạn

chế, tồn tại. Lãnh đạo TA chưa thực sự quan tâm làm tốt công tác tự kiểm tra; việc

kiểm tra công tác nghiệp vụ của TA cấp trên với TA cấp dưới cũng chưa thực sự

thường xuyên. Thực hiện kiểm tra vẫn còn mang tính qua loa, hình thức, kết thúc

kiểm tra nhưng không chỉ ra cho đối tượng kiểm tra những điểm cần rút kinh

nghiệm [58].

Kế hoạch kiểm tra chưa thực sự khoa học, nên có tình trạng đơn vị trong một

thời gian ngắn nhưng phải kiểm tra nhiều lần, ảnh hưởng đến việc triển khai thực

hiện nhiệm vụ của đơn vị.

Chưa theo dõi quá trình khắc phục các hạn chế, tồn tại sau kiểm tra.

Việc xét xử giám đốc thẩm trong một số trường hợp không định hướng đường

lối cho vòng tố tụng tiếp theo.

- Đối với công tác kiểm sát xét xử, thời gian qua, một số vụ án xét xử có sai

phạm do việc phân công KSV kiểm sát xét xử vụ án chưa phù hợp với trình độ,

năng lực và kinh nghiệm, do đó chưa nghiên cứu, đánh giá được đầy đủ chứng cứ

cũng như các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án trong việc áp dụng HP của TA. Một

số vụ án KSV không phát hiện được vi phạm dẫn đến VKS cấp trên kháng nghị.

Một số KSV còn lúng túng về kỹ năng nghiệp vụ, trình tự thủ tục tố tụng,

v.v.., dẫn đến việc Thẩm phán áp dụng pháp luật chưa chính xác nhưng KSV không

phát hiện, hoặc chậm phát hiện vi phạm, nên không kịp thời tham mưu cho Viện

trưởng kháng nghị.

Lãnh đạo Viện phụ trách về chuyên môn, nghiệp vụ chưa nắm bắt đầy đủ nội

dung vụ án, do đó thiếu sự sâu sát trong công tác chỉ đạo dẫn đến những vi phạm trong

hoạt động xét xử, áp dụng HP của TA chưa được phát hiện và khắc phục kịp thời.

49

Nhiều trường hợp còn có sự nể nang giữa KSV và Thẩm phán nên kiểm sát xét

xử chưa nghiêm dẫn đến những vi phạm trong việc áp dụng HP của TA. Quan hệ

phối hợp của các KSV Thẩm phán có vụ án còn chưa chặt chẽ, việc đánh giá chứng

cứ, tội danh không thống nhất dẫn đến việc áp dụng HP không được chính xác.

2.2.5.4. Các nguyên nhân khác

- Chưa thật sự chú trọng về nội dung của công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp

vụ về áp dụng pháp luật, áp dụng HP cho cán bộ TA cũng như HTND.

- Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể bị áp lực khác tác động, khiến họ lúng

túng khi xét xử, áp dụng HP như hiện tượng can thiệp của chính quyền địa phương,

của Chánh án TA, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử, áp lực của công luận khi

đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử.

- Hiến pháp hiện hành không quy định mối quan hệ hành chính giữa TA các

cấp, mối quan hệ giữa TA các cấp là mối quan hệ tố tụng, không có TA cấp trên và

không có TA cấp dưới mà chỉ có TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc thẩm, các TA thực

hiện chức năng giám đốc thẩm và tái thẩm và các TA thực hiện chức năng xét xử

độc lập với nhau. Tuy nhiên, hiện nay tại địa phương vẫn có việc TA cấp trên chỉ

đạo TA cấp dưới về việc giải quyết án, áp dụng HP. Tình trạng “báo cáo án”, “thỉnh

thị án” đã phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và nguyên tắc tư pháp trong hoạt động

TA, như nguyên tắc “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập”, nguyên tắc “xét xử tập

thể”, làm cho những nguyên tắc này trở nên hình thức và không được tôn trọng

[83].

- Chế độ tiền lương của Thẩm phán và chế độ, chính sách đối với Hội thẩm

chưa hợp lý, không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ.

Điều này sẽ làm cho Thẩm phán dễ bị những tác động, cám dỗ hoặc tham nhũng khi

tham gia hoạt động tố tụng, nhất là đối với việc áp dụng HP trong các vụ án hình sự.

Đối với Hội thẩm, pháp luật quy định khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền

với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như phụ cấp công vụ, phụ cấp

trách nhiệm nghề, thì Hội thẩm lại không được hưởng cũng là không hợp lý [83].

- Pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ Thẩm phán, Hội thẩm và

50

gia đình họ trong những trường hợp cần thiết. Thực tế đã có nhiều trường hợp Thẩm

phán, Hội thẩm bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí những người thân của họ

cũng bị đe dọa, trả thù [83].

- Bên cạnh đó, cơ sở vật chất, điều kiện phương tiện làm việc của một số TA

còn khó khăn, thiếu thốn, trụ sở làm việc có quy mô và diện tích nhỏ, chỉ có một

phòng xử án, không đảm bảo nhu cầu về diện tích làm việc, công năng sử dụng theo

quy định hiện nay, như bố trí lại phòng xử án theo mô hình phòng xét xử mới, trong

đó có phòng xét xử thân thiện. Tình trạng này chưa được giải quyết đã ảnh hưởng

rất lớn đến chất lượng hoạt động và tính tôn nghiêm của cơ quan bảo vệ pháp luật là TA.

- Đồng thời, một trong những nguyên nhân là do hạn chế về năng lực, trình dọ

chuyên môn của KSV tham gia tố tụng, tranh luận chưa tốt, đề xuất HP, mức HP

chưa có đầy đủ căn cứ. Bên cạnh đó, năng lực, trình độ, ý thức của những người

tham gia tố tụng khác (đặc biệt là Luật sư) cũng ảnh hưởng đến kết quả tranh tụng,

tranh luận dẫn đến có những ảnh hưởng đến việc áp dụng HP.

51

Tiểu kết chương 2

Tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai những năm gần

đây có xu hướng giảm về số lượng, nhưng ngày càng tăng về mức độ và tính chất

nguy hiểm của hành vi. Từ đó đặt ra yêu cầu áp dụng HP của TA phải thật sự

nghiêm khắc nhưng cũng nhằm giáo dục người phạm tội trở thành công dân có ích

cho xã hội. Thời gian qua, việc áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê được thực

hiện theo đúng quy định của BLHS, đảm bảo tính sự khách quan và công bằng, phù

hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi cũng như nhân thân người phạm

tội. Tuy nhiên, do hạn chế của một số quy định của BLHS cũng như các văn bản

hướng dẫn liên quan đến áp dụng HP cũng như hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp

vụ, đạo đức và trách nhiệm của một số Thẩm phán, HTND cũng như từ việc giám

đốc xét xử, kiểm sát xét xử chưa thường xuyên, chặt chẽ và một số nguyên nhân

chủ quan, khách quan khác mà việc áp dụng HP tại TAND huyện Chư Sê còn để

xảy ra vi phạm như áp dụng sai điểm, khoản, điều luật đối với người phạm tội; đánh

giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội dẫn

đến áp dụng HP quá nhẹ hoặc quá mức nghiêm khắc đối với người phạm tội. Do đó,

cần có những giải pháp cụ thể để khắc phục những vi phạm này, đảm bảo cho công

tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm được thực hiện hiệu quả.

52

CHƯƠNG 3

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG

HÌNH PHẠT ĐÚNG KHI XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án

hình sự

3.1.1. Quy định của pháp luật

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, pháp luật là công cụ thực

hiện đường lối, chính sách của Đảng, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân

dân lao động và là công cụ để quản lý của Nhà nước. Do đó, pháp luật là một trong

các yếu tố có vai trò quan trọng, quyết định trong việc bảo đảm việc áp dụng HP

đúng.

Khi áp dụng HP, TA căn cứ vào quy định của BLHS và BLTTHS, bảo đảm

xét xử đúng người, đúng tội, chính xác, khách quan, bảo đảm không ai bị coi là có

tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của TA. Do vậy, để bảo đảm áp

dụng HP đúng thì yếu tố quan trọng đầu tiên là pháp luật. Khi có các quy định của

pháp luật về HP thì TA mới căn cứ vào đó để áp dụng HP. Đồng thời, việc áp dụng

HP của TA phải được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục nhất định quy định chặt

chẽ tại BLTTHS. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 bên cạnh việc quy định các chế tài áp

dụng đối với hành vi phạm tội theo trình tự thủ tục nhất định theo quy định của

BLTTHS thì quá trình thực hiện vẫn còn nhiều vướng mắc, khó khăn, do vậy,

BLHS, BLTTHS năm 2015 cần có những văn bản hướng dẫn chi tiết việc thực hiện

hoặc những thay đổi nhất định, những hoàn thiện nhằm giải quyết những vướng

mắc, khó khăn đó để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống tội phạm, phục

vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai

đoạn mới.

3.1.2. Yếu tố về con người

Để bảo đảm việc áp dụng HP, yếu tố thực hiện quyền căn cứ vào các quy định

của pháp luật để áp dụng HP là yếu tố con người. Nếu nói yếu tố pháp luật mang

53

tính chất quy phạm, được quy định rõ ràng tại Điều luật cụ thể, thì yếu tố con người

là yếu tố mang tính chủ động, sáng tạo.

Theo quy định tại Luật tổ chức TAND 2014 tại Điều 65 về nhiệm vụ, quyền

hạn của Thẩm phán thì “Thẩm phán là người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy

định của Luật này được Chủ tịch nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ xét xử”. Như vậy,

người bảo đảm việc áp dụng HP đúng chính là Thẩm phán, người được bổ nhiệm để

làm nhiệm vụ xét xử, tiến hành hoạt động tố tụng. Đồng thời, việc xét xử của TA có

HTND tham gia (trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn do BLHS quy định)

(Điều 22 BLHS) và phải đảm bảo nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc

xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.

Để bảo đảm việc áp dụng HP đúng Thẩm phán và Hội thẩm là những người

phải có trình độ chuyên môn, năng lực, đạo đức và trách nhiệm để áp dụng HP một

cách khách quan, đúng theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, KSV và người

bào chữa cũng đóng vai trò quan trọng với vị trí một bên buộc tội, một bên gỡ tội

trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa sẽ giúp Thẩm phán, Hội thẩm đưa ra được

mức HP tương ứng hành vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời, với chức năng kiểm sát

xét xử, KSV cũng kiểm sát tính hợp pháp của các quyết định của Thẩm phán và Hội

thẩm, góp phần bảo đảm cho việc áp dụng HP đúng.

3.1.3. Kết quả điều tra truy tố đúng và đầy đủ

Theo quy định của pháp luật hình sự, Cơ quan điều tra sẽ áp dụng các biện

pháp do pháp luật quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi

phạm tội. VKS có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát đối với các hoạt

động tư pháp và TA thực hiện hoạt động xét xử. Đồng thời, để tuyên bố một người

phạm tội và áp dụng HP đối với người phạm tội thì phải trải qua ba giai đoạn: khởi

tố điều tra, truy tố và xét xử tương ứng với thẩm quyền của ba hệ thống cơ quan tiến

hành tố tụng là Cơ quan điều tra, VKS và TA. Các giai đoạn tố tụng có quan hệ chặt

chẽ với nhau, giai đoạn trước là tiền đề, cơ sở để giai đoạn sau tiếp tục thực hiện.

Điều tra vụ án hình sự là quá trình tố tụng quan trọng, quyết định việc một

54

người có phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình hay

không từ việc khởi tố bị can và thu thập các tài liệu nhằm chứng minh cho hành vi

phạm tội đó là có căn cứ và đúng sự thật.

Truy tố là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của VKS nhằm

xem xét, đánh giá lại toàn bộ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đề nghị truy tố do Cơ

quan điều tra thu thập có được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS

quy định hay không để quyết định việc truy tố bị can ra TA để xét xử, tránh việc

truy tố oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Xét xử là chức năng cơ bản và đóng vai trò quan trọng nhất trong toàn bộ quá

trình tố tụng kể từ khởi tố đến truy tố bị can để TA xét xử nhằm kiểm tra lại toàn bộ

những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án theo đúng trình tự pháp luật quy định

do Cơ quan điều tra và VKS thu thập làm căn cứ để quyết định việc một người có

tội hay không. Những vi phạm trong quá trình điều tra, truy tố như thiếu chứng cứ

chứng minh cho các tình tiết liên quan đến vụ án, vi phạm thủ tục tố tụng, bỏ lọt tội

phạm sẽ là một trong căn cứ để TA trả hồ sơ điều tra bổ sung làm kéo dài thời gian

tố tụng. Việc điều tra, truy tố đúng sẽ giúp TA căn cứ vào các tài liệu thu thập được

ở hai này để đánh giá được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, vấn đề nhân

thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người

phạm tội được chính xác, tạo tiền đề cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử

để TA có thể áp dụng HP đúng đối với người phạm tội.

3.1.4. Nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm tại địa phương

Một trong những yếu tố đảm bảo việc áp dụng HP đúng là nhằm thực hiện

nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương. Tình hình tội phạm trên

địa bàn huyện Chư Sê nhìn chung có xu hướng giảm về số lượng nhưng lại tăng về

tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Nhiều vụ án có sự tham gia của nhiều bị

cáo ở nhiều độ tuổi và các địa phương khác nhau trong cả nước, các bị can, bị cáo

phạm tội có tổ chức, sử dụng thủ đoạn tinh vi để thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo

bị xét xử có nhân thân xấu, phạm tội nhiều lần, thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm

nguy hiểm còn nhiều, tập trung ở độ tuổi thanh thiếu niên do xu hướng thích thể

55

hiện, thích ăn chơi, đua đòi theo các trào lưu mới dẫn đến việc nghiện ngập, hút

chích ma túy, thích tiêu xài hơn là lao động nên khi dùng hết tiền sẽ nảy sinh ý định

chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ nhu cầu ăn chơi của cá nhân. Đồng

thời, việc HP áp dụng đối với bị cáo chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy

hiểm của hành vi phạm tội mà các bị cáo thực hiện không có tác dụng răn đe đối với

các đối tượng đang có ý định phạm tội. Trái lại, việc áp dụng HP quá nghiêm khắc

với mức HP cao đối với bị cáo sẽ tạo ra khoảng thời gian cách ly họ quá dài với

cuộc sống, làm cho họ không có ý chí phấn đấu chấp hành án tốt HP để tái hòa nhập

lại với xã hội. Bởi sự đề phòng, coi thường từ người xung quanh, khó khăn để tìm

được công việc đảm bảo trang trải được cho cuộc sống và tuổi cũng lớn. Điều đó tác

động để họ trở lại con đường cũ, tiếp tục phạm tội [25].

Nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm nhằm đảm bảo tình hình chính trị

tại địa phương là một trong những nhiệm vụ hàng đầu nhằm giữ vững an ninh, trật

tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá

của mọi người dân. Đây cũng là một trong những yếu tố bảo đảm cho việc áp dụng

HP đúng, căn cứ vào tình hình tội phạm diễn biến tại địa phương, TA sẽ áp dụng

mức HP không những để trừng trị mà còn nhằm hướng đến sự giáo dục, ngăn ngừa

họ phạm tội mới, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và

chống tội phạm.

3.1.5. Các yếu tố khác

Bên cạnh các yếu tố nêu trên, thì còn các yếu tố sau đây bảo đảm áp dụng HP

đúng khi xét xử vụ án hình sự

- Đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong thời kỳ mới trên tinh thần Nghị

quyết 49-NQ/TW về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, xác định xây

dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,

từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

- Ảnh hưởng của truyền thông, báo chí. Thông qua truyền thông, báo chí, công

chúng sẽ biết được về các hoạt động của hệ thống TA, hiểu biết về quá trình đi đến

các quyết định pháp lý, để từ đó tôn trọng, tâm phục, khẩu phục đối với mỗi phán

56

quyết của TA, tạo ra niềm tin vào công lý.

- Sự giám sát của nhân dân. Để áp dụng HP trong quá trình xét xử các vụ án

hình sự của TA được thực hiện ngày càng tốt hơn thì tăng cường sự giám sát thông

qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử, áp dụng của TA; tăng

cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân dân là việc làm cần

thiết để cho mỗi cán bộ, Thẩm phán TA có trách nhiệm hơn đối với công việc của

mình, đồng thời giúp phát hiện nhưng vi phạm, sai sót trong công tác xét xử, áp

dụng HP để kịp thời chấn chính, khắc phục.

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng khi xét xử vụ án hình sự

3.2.1. Đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện pháp luật

Đối với việc áp dụng HP của TA, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể

hiện qua việc áp dụng HP của TA phải căn cứ vào các quy định của BLHS và theo

trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, qua việc áp dụng HP phải bảo đảm trừng trị

cũng như giáo dục người phạm tội ý thức chấp hành pháp luật, phòng ngừa họ phạm

tội mới. Do vậy, các biện pháp nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc

áp dụng HP gồm các biện pháp:

- Đẩy mạnh công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn thi hành pháp luật.

Qua đó, rà soát, loại bỏ những văn bản quy phạm pháp luật không còn thích hợp với

thực tế. Việc xây dựng pháp luật phải theo đúng thẩm quyền đã được quy định trong

Hiến pháp, trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời tạo điều

kiện thuận lợi để nhân dân tham gia vào quá trình thảo luận xây dựng pháp luật.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành pháp luật hình sự, đặc biệt là BLHS và BLTTHS. Tăng cường công tác hướng

dẫn, triển khai pháp luật nhằm bảo đảm sự thống nhất nhận thức và thực hiện từ

Trung ương đến địa phương.

- Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật cũng như tổng kết xét xử. Đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, giải thích pháp luật, nhằm hình thành và

nâng cao ý thức pháp luật cho mọi thành viên trong xã hội. TAND tối cao cần quan

tâm nhiều hơn về công tác tổng kết thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật

57

cho TAND các cấp, thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Thẩm phán,

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nâng cao chất lượng xét xử các

vụ án hình sự; triển khai hiệu quả việc công khai bản án, quyết định có hiệu lực của

TA trên Cổng thông tin điện tử. Tiến hành họp nhằm đánh giá, nhận xét những sai

lầm và kịp thời rút kinh nghiệm, kiểm điểm đối với cá nhân vi phạm trong các vụ án

bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. Cần phải

kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động thanh tra, giám sát, có kế hoạch cụ thể

phối hợp với Chánh án TAND các cấp để việc thanh tra, giám sát việc thực hiện

pháp luật được hiệu quả. TAND cấp tỉnh phải có trách nhiệm giám sát, kiểm tra

công tác nghiệp vụ của TAND cấp huyện nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm để tổ

chức họp kiểm điểm rút kinh nghiệm hay có những giải pháp thích hợp. Kết thúc

mỗi đợt kiểm tra, các đoàn kiểm tra phải tổ chức buổi rút kinh nghiệm chung đối

với đối tượng kiểm tra, phải chỉ ra những hạn chế, thiếu sót cần rút kinh nghiệm; đề

xuất với cấp có thẩm quyền xem xét xử lý đối với những trường hợp có sai lầm

nghiêm trọng; yêu cầu đối tượng kiểm tra báo cáo kết quả khắc phục các hạn chế,

thiếu sót sau một thời gian nhất định [58].

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa

phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các cấp bộ Đảng, cơ quan của Đảng từ Trung

ương tới địa phương phải thường xuyên lãnh đạo, tăng cường cán bộ có phẩm chất

và năng lực cho lĩnh vực pháp chế và kiểm tra chặt chẽ hoạt động thực hiện pháp

luật của tất cả các cơ quan nhà nước, đặc biệt là TA trong việc áp dụng HP. Mọi cơ

quan, tổ chức, Đảng viên của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và

pháp luật, không can thiệp, làm thay thẩm quyền của TA, ban hành quy định về sự

lãnh đạo của đảng đối với công tác xét xử theo hướng Đảng lãnh đạo công tác xét

xử về đường lối, chủ trương mà không được can thiệp vào hoạt động xét xử, áp

dụng HP của TA [42].

Qua đó, đối với pháp luật hình sự, dù đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng

vẫn còn những bất cập hạn chế so với đòi hỏi của thực tiễn trong công tác đấu tranh

58

phòng chống tội phạm. BLHS năm 2015 tuy rằng mới được ban hành nhưng cũng

không tránh khỏi có những bất cập, hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới đây cần phải

tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi một cách khoa học, có hệ thống, đồng bộ, cụ thể và chặt

chẽ hơn trong phần chung và phần các tội phạm, trình tự áp dụng HP, bảo đảm quy

định của pháp luật vừa chính xác, công bằng, nhân đạo và dễ áp dụng, cụ thể:

- Quy định về khoảng cách tối thiểu và tối đa trong một khung HP. Chế tài quy

định đối với các tội phạm cụ thể cần được hoàn thiện theo hướng rút ngắn khoảng

cách giữa mức tối thiểu và tối mức tối đa của khung HP, chia nhỏ các khung HP,

tăng cường chế tài tùy nghi lựa chọn giữa các HP không phải là HP tù. Bên cạnh đó,

cần sửa đổi, bổ sung nâng mức tối thiểu của HP từ 03 tháng lên thành 08 tháng vì

quy định mức HP tù có thời hạn tối thiểu là 03 tháng thì người phải chấp hành án

không có đủ thời gian để hưởng các chính sách về giảm thời hạn chấp hành HP, học

nghề, không khuyến khích được ý thức tự cải tạo của bản thân. Sửa đổi này sẽ góp

phần làm giảm tình trạng áp dụng HP trong xét xử quá nhiều, đồng thời đảm bảo

được yêu cầu cải cách tư pháp. Ngoài ra, còn khuyến khích chủ thể áp dụng HP xem

xét, áp dụng các HP nhẹ hơn HP, tạo nên sự cân đối giữa các loại HP trong hệ thống

HP [25].

- Cần ban hành hướng dẫn về cách hiểu tại Điều 54 BLHS năm 2015, theo

hướng hai tình tiết giảm nhẹ có thể thuộc hai điểm khác nhau của khoản 1 Điều 51

hoặc cùng thuộc một điểm của khoản 1 Điều 51 [25].

- Quy định về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm x khoản 1 Điều

51 BLHS cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, đảm bảo người bị áp

dụng HP được hưởng quyền lợi phù hợp với chính sách pháp luật của Nhà nước,

theo đó cần quy định điểm x như sau: “Người phạm tội là người có công với cách

mạng hoặc là cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” cần được sửa đổi, bổ sung thành:

“Người phạm tội là người có công với cách mạng; là vợ, chồng, con của người có

công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ chồng, con của liệt sĩ” [25].

- Đối với quy định tại Điều 101 BLHS, xuất phát từ những vướng mắc, bất cập

như đã phân tích ở trên thì cần thiết nên sửa đổi, bổ sung Điều 101 BLHS theo

59

hướng chỉ áp dụng cho trường hợp người chưa thành niên phạm một tội. Theo đó,

sửa đổi cụm từ “điều luật được áp dụng” thành “điều khoản được áp dụng” cho phù

hợp với thực tiễn áp dụng. Sửa quy định: “không quá ¾ hoặc không quá ½ mức

phạt tù mà điều luật quy định” thành “không quá ¾ hoặc không quá ½ mức phạt tù

cao nhất của khung HP” để tránh việc nhận thức và áp dụng pháp luật không thống

nhất. Như vậy, điều luật mới sẽ có nội dung là: “1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến

dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều khoản được áp dụng quy định HP tù chung thân

hoặc tử hình, thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu

là tù có thời hạn thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức

phạt tù cao nhất của khung HP được áp dụng. 2. Đối với người từ đủ 14 đến dưới

16 tuổi khi phạm tội, nếu điều khoản được áp dụng quy định HP tù chung thân hoặc

tử hình, thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù, nếu là tù

có thời hạn thì mức HP cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt

tù cao nhất của khung HP được áp dụng” [74].

3.2.2. Nâng cao năng lực của người áp dụng hình phạt

 Thứ nhất, nâng cao chất lượng của đội ngũ Thẩm phán

- Kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ Tòa án các cấp. Lãnh đạo TA phải tổ

chức thực hiện tốt quy chế tuyển chọn, đào tạo và sử dụng cán bộ, công chức và

Thẩm phán TA. Quá trình tuyển chọn này phải được sàng lọc và chứng minh từ

thực tế xét xử, từ chất lượng các bản án hình sự đã xét xử, được sự đánh giá cao của

đồng nghiệp, cấp trên và kể cả cơ quan tố tụng khác, Luật sư, Hội thẩm, v.v.., kịp

thời phát hiện những công chức, Thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở trường về

xét xử án hình sự để giúp đỡ, bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu họ xét xử án hình sự.

- Nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học, các ứng

dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ Thẩm phán. Có chính sách khuyến khích

Thẩm phán tích cực học tập để nâng cao trình độ của mình, đáp ứng với nhiệm vụ

được giao. Kịp thời cập nhật các văn bản pháp luật chuyên ngành, văn bản pháp luật

liên quan lên website của ngành để Thẩm phán, công chức thuận lợi tra cứu, cập

nhật văn bản mới.

60

- Thường xuyên tổ chức tập huấn chuyên ngành về pháp luật, kỹ năng nghiệp

vụ khi xét xử, áp dụng HP. Tích cực nghiên cứu xây dựng các đề tài khoa học, các

chuyên đề về xét xử như phương pháp nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng xét hỏi, v.v.. tại

phiên tòa để áp dụng đúng mức HP đối với hành vi phạm tội. Thường xuyên tổ chức

hội thảo chuyên môn, rút kinh nghiệm xét xử với nhiều phạm vi đối tượng khác

nhau. Tổ chức các phiên tòa mẫu, yêu cầu các Thẩm phán khác dự và đóng góp ý kiến.

- Có chế độ đãi ngộ thỏa đáng và sử dụng hợp lý đội ngũ Thẩm phán. Chỉ khi

mức lương của Thẩm phán đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của bản thân và gia

đình thì họ mới yên tâm công tác, đầu tư thời gian nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu

hồ sơ vụ án, hạn chế bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực, vô tư, khách quan trong

việc thực hiện nhiệm vụ của mình.

- Thực hiện chế độ khen thưởng bằng vật chất tương xứng với hiệu quả công

tác, chất lượng, số lượng các vụ án đã xét xử hàng năm. Xây dựng các danh hiệu,

như Thẩm phán nhân dân, Thẩm phán ưu tú, v.v.. để xã hội tôn vinh những Thẩm

phán mẫu mực.

- Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của từng Thẩm

phán. Có cơ chế tạo áp lực để Thẩm phán phải luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm

vụ được giao, thay thế những Thẩm phán không đáp ứng được yêu cầu như: xử oan

người vô tội, xử sai tội danh, bỏ lọt tội phạm, v.v.. Kỷ luật nghiêm những Thẩm

phán thiếu tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân, có thái độ dọa nạt, vòi vĩnh, đòi

hối lộ, v.v.. Thực hiện tốt các biện pháp như: tích cực luân chuyển cán bộ, tạo điều

kiện cho cán bộ được trực tiếp tham gia hoạt động thực tiễn, mạnh dạn giao cho

Thẩm phán nhất là Thẩm phán mới được bổ nhiệm làm Chủ tọa phiên tòa để từng

bước nâng cao trình độ của họ, thường xuyên tổ chức các phiên tòa xét xử điển hình

do Thẩm phán có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử để các Thẩm phán khác

học tập rút kinh nghiệm.

- Các tổ chức Đảng ở TA các cấp phải hết sức coi trọng công tác giáo dục

chính trị, lãnh đạo tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện tốt lời Bác Hồ dạy: “Phụng công thủ pháp, chí công,

61

vô tư”, quán triệt quan điểm đường lối của Đảng, chủ trương chính sách của Nhà

nước cho đội ngũ cán bộ, Thẩm phán TA.

- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ công tác xét xử của

TA như xây dựng trụ sở, mở rộng phòng xử án, trang bị đầy đủ các phương tiện

phục vụ và hỗ trợ cho công tác xét xử, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin,

phấn đấu đến năm 2020 triển khai Đề án TA điện tử để ngày càng đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ xét xử trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

 Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ Hội thẩm nhân dân

- Lãnh đạo TA hàng năm cần phải có kế hoạch quan tâm đầu tư kinh phí để

bồi dưỡng nâng cao trình độ pháp lý cho đội ngũ HTND. Vì khi HTND có sự am

hiểu pháp lý như Thẩm phán thì chắc chắn rằng, trong quá trình giải quyết vụ án,

HTND sẽ không lúng túng, khi phán quyết bản án sẽ khách quan, khoa học, giải

quyết tốt được vấn đề Thẩm phán và HTND ngang quyền nhau trong quá trình giải

quyết vụ án.

- Quy định rõ ràng hơn về tiêu chuẩn lựa chọn HTND vì điều này sẽ ảnh

hưởng trực tiếp đến quá trình xét xử; quy định rõ về cách thức lựa chọn, cách thức

thành lập đoàn HTND, quy định một cách rõ ràng quyền và nghĩa vụ pháp lý cho

Hội thẩm; sáu tháng hoặc một năm, TA cần có hội nghị tổng kết tình hình xét xử

của Hội thẩm. Thông qua các cuộc hội nghị để đánh giá chất lượng hoạt động của

HTND, Đoàn Hội thẩm, từ đó có hướng giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng

mắc của HTND.

- Pháp luật cần quy định trước thời gian khai mạc phiên tòa yêu cầu HTND

phải có thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án mới được tham gia xét xử.

- Một điều hết sức quan trọng nữa là cần phải cải thiện thu nhập của HTND để

khuyến khích HTND nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực nghiên cứu hồ sơ,

tham gia xét xử. Kinh phí hoạt động của Đoàn HTND cần phải độc lập không phụ

thuộc vào TA như hiện nay, để đoàn Hội thẩm chủ động chi trực tiếp cho các Hội

thẩm tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử. Mặt khác cũng là để tạo điều kiện cho

HTND độc lập khi xét xử, giao việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa cho Đoàn

62

Hội thẩm. Tránh tình trạng Hội thẩm không theo định hướng của Thẩm phán khi

nghị án thì ít được mời tham gia xét xử hoặc để tiết kiệm kinh phí, thời gian TA bố

trí cho Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ quá ít so với yêu cầu.

 Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên

- Lãnh đạo VKS phải quán triệt, triển khai cho đội ngũ cán bộ, công chức

tham dự các phiên tòa rút kinh nghiệm để học tập, có kinh nghiệm thực tiễn, cử

KSV có năng lực, kinh nghiệm hướng dẫn, kèm cặp công chức mới tuyển dụng

nhằm từng bước nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức.

Thường xuyên có chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm về công tác thực hành quyền

công tố, kiểm sát tại phiên tòa như: án tham nhũng, ma túy, người chưa thành niên

phạm tội, v.v..

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ KSV nhằm

nâng cao trình độ chuyên môn.

- Xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ, KSV có vi phạm pháp luật trong

hoạt động thực hành quyền công tố.

- Cấp trên cần quan tâm, đầu tư các phương tiện vật chất, kỹ thuật để phục vụ

tốt hơn cho công tác chuyên môn cho mỗi cán bộ KSV.

- Xây dựng định mức lương và chế độ đãi ngộ phù hợp để cải thiện hơn đời

sống vật chất và tinh thần của KSV đồng thời cần phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng,

đãi ngộ người có tài trong ngành.

- Đổi mới công tác thi đua khen thưởng, thi tuyển chọn KSV, lãnh đạo theo

hướng chú trọng nguyên tắc lựa chọn được người thực chất có đức, có tài.

- Bản thân mỗi KSV cần không ngừng cập nhật, nâng cao các loại kiến thức,

bao gồm kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội làm cơ sở cho việc thực hiện chức

năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử.

3.2.3. Phát triển và nâng cao năng lực của đội ngũ người bào chữa

- Đối với việc đào tạo đội ngũ Luật sư:

+ Nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật nhằm tạo nguồn chuẩn đầu vào

cho đào tạo Luật sư; phát triển, thành lập một số trường đào tạo Luật sư, từ đó tạo ra

63

sự cạnh tranh để nâng cao chất lượng đào tạo Luật sư; mở rộng việc đào tạo, bồi

dưỡng kiến thức hội nhập, kỹ năng nghề, Anh ngữ, pháp luật quốc tế, v.v.. cho đội

ngũ Luật sư.

+ Ban hành quy định nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp

của Luật sư. Đồng thời, Nhà nước cần tạo những điều kiện thuận lợi cho hoạt động

của Luật sư và có biện pháp bảo vệ hoạt động nghề nghiệp của Luật sư.

+ Nhà nước cần có chính sách linh hoạt hơn về mức phí chi trả cho Luật sư chỉ

định và không nên đưa ra một mức thù lao áp đặt.

+ Tăng cường công tác thanh, kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các tổ chức,

hoạt động Luật sư [79].

- Đối với việc phát triển Trợ giúp viên pháp lý:

+ Tăng cường công tác công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TGPL

đến tận cơ sở, các cơ quan, đoàn thể, chính quyền địa phương, nhất đối tượng được

TGPL là người đồng bào dân tộc thiểu số hiểu rõ hơn về chính sách TGPL của

Đảng và Nhà nước dành cho họ [84].

+ Nâng cao năng lực của đội ngũ thực hiện TGPL, tăng cường cả về số lượng

và chất lượng Trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt là đối với những người có nhiều kinh

nghiệm, nhiều thời gian công tác pháp luật trong các cơ quan Nhà nước.

+ Bản thân những Trợ giúp viên pháp lý cần nâng trình độ chuyên môn nghiệp

vụ, tăng cường việc tiếp xúc với người được TGPL khi tham gia bào chữa nhằm

giúp họ bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

+ Tăng cường phối hợp, hợp tác chặt chẽ và đồng bộ giữa Trợ giúp viên pháp

lý, và các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan công an, VKS, TA) như bảo đảm thực

hiện quy định của pháp luật về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng và chỉ

định người bào chữa [72].

- Đối với Bào chữa viên nhân dân: hiện nay, việc thành lập, tổ chức cũng như

hoạt động của Bào chữa viên nhân dân chưa được quy định cụ thể ở văn bản pháp lý

nào. Do vậy, cần sớm xây dựng những quy phạm pháp luật quy định thống nhất về

Bào chữa viên nhân dân. Bên cạnh đó, ban hành quy chế hoặc điều lệ mẫu về tổ

64

chức và hoạt động của Bào chữa viên nhân dân theo hướng giao cho Uỷ ban Mặt

trận Tổ quốc đứng ra thành lập và quản lý về mặt tổ chức; Bộ Tư pháp chịu trách

nhiệm về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ bào chữa.

Bên cạnh việc phát triển, nâng cao năng lực của đội ngũ người bào chữa, bản

thân bị cáo và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự cần

có sự hợp tác tốt với người bào chữa khi tham gia bào chữa hay bảo vệ cho mình

trong vụ án hình sự.

3.2.4. Giải pháp giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử và xây dựng án lệ

- Về giám đốc xét xử:

+ Tăng cường công tác giám đốc kiểm tra đối với hoạt động xét xử các VAHS

của TA cấp dưới để kịp thời phát hiện và khắc phục ngay đối với những sai sót

trong quá trình giải quyết, áp dụng HP.

+ Đối với những bản án, quyết định bị hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán,

HĐXX gây thiệt hại nghiêm trọng tới lợi ích của nhà nước, tập thể; quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân, gây bất bình trong dư luận thì phải tổ chức ngay việc kiểm

điểm, làm rõ trách nhiệm để có biện pháp xử lý nghiêm khắc.

+ Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi công vụ của cán bộ,

công chức, nhất là đối với Thẩm phán.

+ Thường xuyên tiến hành việc kiểm điểm trách nhiệm đối với Thẩm phán về

các sai sót trong hoạt động xét xử.

- Về kiểm sát xét xử:

+ Kiểm sát chặt chẽ biên bản phiên tòa, bản án của TA.

+ Tiếp tục tăng cường chất lượng kháng nghị của VKS địa phương, VKS cấp

dưới cần phối hợp chặt chẽ với các đơn vị nghiệp vụ trực thuộc VKS cấp trên, VKS

cấp cao để đảm bảo chất lượng công tác kháng nghị.

+ Phải hoàn thiện các quy định về các căn cứ kháng nghị phúc thẩm trong

BLTTHS và cần phải cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn liên ngành của VKS

tối cao và TAND tối cao nhằm hạn chế nhận thức khác nhau về các căn cứ kháng

nghị giữa TA và VKS từ đó hạn chế tình trạng TA bác kháng nghị của VKS.

65

+ Cần phải có những biện pháp tác động đến việc chậm gửi bản án cho VKS.

Việc TA chậm gửi bản án cho VKS có ảnh hưởng lớn đến thời hạn kháng nghị bản

án của VKS cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Như vậy thời gian bắt đầu tính thời hiệu

kháng nghị phải từ khi VKS nhận được bản án mới bảo đảm tốt quyền năng pháp lý

trong việc kháng nghị của VKS. Điều này cần được sớm quy định sửa đổi trong

BLTTHS.

- Về xây dựng án lệ:

+ Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc phát

triển án lệ, thiệt lập án lệ của TAND tối cao.

+ Cải tiến cách viết và thông qua các bản án, quyết định của TA, đặc biệt là

Quyết định Giám đốc thẩm của TAND tối cao.

+ Tăng cường việc sử dụng án lệ trong thực tiễn xét xử, thành lập bộ phận

chuyên trách để tuyển tập án lệ, nên dùng án lệ bổ sung cho quy định pháp luật là

cần thiết.

+ Nên tạo thêm một cơ chế nữa cho các chủ thể khác như các nhà nghiên cứu

pháp luật, luật sư, v.v.. được quyền gửi văn bản tới TA có thẩm quyền đề nghị cơ

quan này xem xét để đề xuất với TAND tối cao xem xét, nhằm để đưa một vụ án cụ

thể trở thành thành án lệ [82].

3.2.5. Nâng cao chất lượng hồ sơ điều tra và chất lượng tranh tụng tại

phiên tòa

- Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát trong quá trình khởi tố, điều tra, xử lý

án hình sự để đảm bảo việc xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội

thể hiện trong hồ sơ điều tra một cách đầy đủ, làm cơ sở cho việc xét xử, áp dụng

HP của TA được chính xác.

- Ba ngành Công an – VKS – TA cần tăng cường sự phối hợp trong giải quyết

các vụ án hình sự gắn với sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, với việc thực hiện nhiệm vụ

chính trị của địa phương, bằng việc ký kết các quy chế phối hợp liên ngành trên

nguyên tắc bảo đảm tính độc lập khi xét xử.

- Trong quá trình xét xử, Thẩm phán, HTND phối hợp với KSV, người bào

66

chữa trong việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, thực hiện xét hỏi, tranh luận

tại phiên tòa, v.v..

3.2.6. Tăng cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân

dân

- TA phải minh bạch, công khai các hoạt động theo quy định của pháp luật.

TA phải có trách nhiệm và những biện pháp thích hợp để cung cấp thông tin chính

xác, đầy đủ về các hoạt động của mình cho các cơ quan truyền thông, khi nhận được

đề nghị cung cấp thông tin.

- Về phía cơ quan báo chí cũng phải phản ánh các hoạt động của TA theo đúng

nguyên tắc hoạt động của báo chí là trung thực, khách quan, không định kiến, thiên vị.

- Các cơ quan báo chí cần cử các phóng viên am hiểu pháp luật, có kinh

nghiệm pháp đình theo dõi hoạt động của TA, tránh tình trạng phóng viên báo chí

có mục đích bênh vực một bên nào đó trong vụ án, dẫn đến viết bài phản ánh thiếu

khách quan, nặng định kiến, phần nào khiến dư luận hiểu không đúng về TA.

- Kịp thời đưa bản án hình sự lên mạng internet tạo điều kiện thuận lợi cho các

chủ thể giám sát hoạt động áp dụng HP của TA.

67

Tiểu kết chương 3

Trước yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới cũng như diễn biến của tình

hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp thì việc áp dụng HP của TA phải đảm

bảo các yếu tố về các quy định của pháp luật; con người; kết quả điều tra, truy tố

đúng, đầy đủ; đáp ứng được nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm và các yếu

tố khác. Trên cơ sở đó, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp từ việc đảm bảo pháp

chế xã hội chủ nghĩa và hoàn thiện một số quy định của pháp luật; nâng cao năng

lực của người áp dụng HP và của đội ngũ người bào chữa; nâng cao chất lượng

giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử và xây dựng án lệ để khắc phục tình trạng oan sai,

bỏ lọt tội phạm; nâng cao chất lượng hồ sơ điều tra cũng như chất lượng tranh tụng

tại phiên tòa; tăng cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân

dân. Trong mỗi giải pháp, việc hoàn thiện các quy định để thiết lập cơ sở pháp lý

cho hành động thực tiễn là một yêu cầu quan trọng nhằm đảm bảo mục đích của HP

là nhằm trừng trị và giáo dục người phạm tội, góp phần nâng cao ý thức pháp luật

của người dân.

68

KẾT LUẬN

Trên cở sở kết quả nghiên cứu đề tài "Áp dụng hình phạt từ thực tiễn huyện

Chư Sê, tỉnh Gia Lai", tác giả có một số kết luận như sau:

1. Áp dụng hình phạt là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự tiếp theo sau khi

định tội danh, thể hiện ở việc trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại Tòa,

xác định các tình tiết của vụ án, nhận thức đầy đủ quy định của Bộ luật Hình sự,

Hội đồng xét xử lựa chọn loại hình phạt cũng như mức hình phạt để áp dụng đối với

người phạm tội để tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người đã thực

hiện hành vi phạm tội đối với người bị kết tội và ra phán quyết trong bản án, tuân

theo trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhằm trừng trị, giáo dục

và phòng ngừa tội phạm.

2. Hoạt động áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia

Lai đã đạt được những kết quả tốt, vụ án được đưa ra xét xử đạt tỷ lệ cao, đảm bảo

xét xử đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không kết án oan người vô tội.

Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau như nhận thức, bất cập của Bộ luật

Hình sự, hạn chế trong hướng dẫn áp dụng pháp luật cũng như hạn chế về năng lực,

trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, v.v.. nên hoạt động áp dụng

hình phạt vẫn còn những hạn chế, vướng mắc: những sai sót trong việc áp dụng sai

điểm, khoản, điều luật đối với bị cáo; đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội,

nhân thân của bị cáo không đúng, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ không phù hợp

dẫn đến áp dụng hình phạt chưa công bằng, thiếu thống nhất. Điều này dẫn đến áp

dụng hình phạt chưa đáp ứng được mục đích răn đe, giáo dục, cải tạo và phòng ngừa.

3. Từ thực tiễn áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia

Lai, luận văn đã đưa ra các yêu tố tác động đến việc áp dụng HP đúng như: yếu tố

về các quy định của pháp luật, con người, kết quả điều tra đúng và đầy đủ, nhiệm vụ

đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương và các yếu tố về cơ sở hạ tầng, vật

chất, v.v.. có vai trò trong việc đảm bảo áp dụng HP đúng. Để đáp ứng được những

yếu tố đã nêu thì cần thực hiện các giải pháp như: đảm bảo pháp chế xã hội chủ

69

nghĩa và hoàn thiện pháp luật; nâng cao năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân và nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên và các giải pháp nâng cao năng

lực của đội ngũ người bào chữa; các giải pháp giám đốc xét xử, kiểm sát xét xử và

xây dựng án lệ; nâng cao chất lượng hồ sơ và chất lượng tranh tụng tại phiên tòa;

tăng cường sự giám sát của các cơ quan thông tấn, báo chí và nhân dân, v.v.. Điều

quan trọng trong số các giải pháp cần thực hiện ngay đó là việc thay đổi nhận thức.

Nhận thức đầy đủ, đúng đắn về chính sách hình sự nhân đạo, coi trọng tính phòng

ngừa, mục đích hình phạt và vai trò của hình phạt. Trên cơ sở thay đổi nhận thức,

các quy định của Bộ luật Hình sự sẽ tiếp tục được hoàn thiện để đáp ứng được yêu

cầu cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con người theo quy định của Hiến pháp.

Các đề xuất nêu trên chỉ là định hướng chủ quan của tác giả luận văn trên cơ

sở phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt tại Tòa án nhân

dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, vì vậy, rất có thể còn phiến diện hoặc chưa đầy đủ.

Tác giả luận văn hy vọng các nỗ lực nghiên cứu theo hướng này sẽ góp phần đảm

bảo và nâng cao hiệu quả việc áp dụng hình phạt khi xét xử các vụ án hình sự trên

địa bàn huyện nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung ngày càng tốt hơn./.

70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Văn bản pháp luật:

[1]. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2014), Kết luận về việc tiếp tục thực hiện

Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

[2]. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2/6/2005 của Bộ Chính

trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

[3]. Bộ Tư pháp (2017), Quyết định số 1559/QĐ-BTP ngày 27/9/2017 của Bộ Tư

pháp ban hành kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

[4]. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 06 ngày 15/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ

lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hà Nội.

[5]. Quốc hội (1985), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

[6]. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.

[7]. Quốc hội (2012), Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy

ban thường vụ Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh

ưu đãi người có công với cách mạng, Hà Nội.

[8]. Quốc hội (2013), Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (văn

bản hợp nhất Bộ luật Hình sự năm 1999 với Luật số 37/2009/QH12 ngày 19

tháng 6 năm 2009 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình

sự, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2011), Hà Nội.

[9]. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (văn

bản hợp nhất Bộ luật Hình sự năm 2015 với Luật số 12/2017/QH14 ngày 20

tháng 6 năm 2017 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật

Hình sự số 100/2015/QH13, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018),

Hà Nội.

[10]. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.

[11]. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà

Nội.

[12]. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

[13]. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.

[14]. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày

04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng

dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm

1999, Hà Nội.

[15]. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày

12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng

dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự, Hà Nội.

[16]. Tòa án nhân dân tối cao (2013), Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày

06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng

dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật Hình sự về án treo, Hà Nội.

[17]. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP ngày

16/3/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc công bố

bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của Tòa án, Hà Nội.

[18]. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày

15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc Hướng

dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo, Hà Nội.

[19]. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Hướng dẫn số 04/TANDTC-PC ngày

09/01/2018 về việc áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41

của Quốc hội, Hà Nội.

[20]. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày

18/6/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa

chọn, công bố và áp dụng án lệ, Hà Nội.

 Báo cáo, luận văn, sách chuyên khảo, tạp chí:

[21]. Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng (2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự

năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà Nội.

[22]. Bộ Tư pháp (2015), “Báo cáo kết quả tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Hình

sự”, Hà Nội.

[23]. Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), “Thực trạng các quy định của pháp luật

hình sự Việt Nam và hệ thống hình phạt và phương hướng hoàn thiện”, Tạp

chí Khoa học Đại học quốc gia Ha Nội, Kinh tế - Luật, số 24/2008, tr. 206-

217.

[24]. Lê Quang Chiều (2012), “Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình phạt

trong luật Hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học

Quốc gia Hà Nội.

[25]. Nguyễn Thành Chung (2018), “Áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo pháp

luật Hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sĩ Luật

học, Học viện Khoa học xã hội.

[26]. Đàm Cảnh Long (2012), “Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân

(qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại

học Quốc gia Hà Nội.

[27]. Nguyễn Ngọc Thượng Hiền (2018), “Áp dụng hình phạt từ thực tiễn tỉnh Bắc

Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội.

[28]. Lê Khánh Hưng (2010), “Các HP không tước tự do trong luật hình sự Việt

Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

[29]. Nguyễn Hữu Sáng (2015), “Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam

và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Đại học quốc gia Hà Nội.

[30]. PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn (2018), “Luật hình sự so sánh”, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia sự thật, Hà Nội.

[31]. Dương Văn Thăng (2017), “Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án

hình sự của TA Quân sự ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

[32]. Tòa án nhân dân tối cao (2018), “Báo cáo việc thực hiện các Nghị quyết của

Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ hợp

thứ 4 Quốc hội khóa XIV”, Hà Nội.

[33]. Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm các

vụ án hình sự”, Gia Lai.

[34]. Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt bổ sung”, Gia

Lai.

[35]. Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê hình phạt chính”, Gia Lai.

[36]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2016), “Bản án số 35/2016/HSPT ngày

06/6/2016”, Gia Lai.

[37]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2017), “Bản án số 40/2017/HS-PT ngày

23/6/2017”, Gia Lai.

[38]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2017), “Bản án số 92/2017/HS-PT ngày

21/12/2017”, Gia Lai..

[39]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2019), “Bản án số 08/2019/HS-PT ngày

21/01/2019”, Gia Lai.

[40]. Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai (2019), “Bản án số 15/2019/HS-PT ngày

28/02/2019”, Gia Lai.

[41]. Tôn Thiện Phương (2015), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong

tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học – Công nghệ, số 3/2015, tr. 6 – 10.

[42]. Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2014), “Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với các cơ

quan tư pháp trong đấu tranh phòng chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm”, Khoa

học Kiểm sát, Số 3/2014, tr. 9-13.

[43]. Lê Thị Thanh Thủy (2015), “Nguyên tắc công bằng trong luật Hình sự Việt

Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

[44]. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập

1)”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

[45]. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019), “Hướng dẫn công tác thực hành quyền

công tố, kiểm sát, điều tra, kiểm sát xét xử án trật tự xã hội năm 2019”, Hà

Nội.

[46]. Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê (2019), “Thống kê kết quả khởi tố, truy

tố, xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự”, Gia Lai.

[47]. Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1994), “Tội phạm học, Luật hình sự

và Luật tố tụng hình sự”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[48]. GS.TS. Võ Khánh Vinh (1994), “Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự

Việt Nam”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

[49]. Đoàn Ngọc Xuân (2010), “Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc

pháp chế xã hội chủ nghĩa trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học

Đại học quốc gia Hà Nội, Luật học 26, tr. 259 – 269.

 Website:

[50]. Bộ Tư pháp (2017), “Phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay- thực trạng

và một số kiến nghị”, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-

doi.aspx?ItemID=2142

[51]. Nguyễn Tư Duy (2015), “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng Hội

thẩm nhân dân”, https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/nghiep-vu/mot-so-giai-

phap-nham-nang-cao-chat-luong-hoi-tham-nhan-dan-118466.html

[52]. Nguyễn Hà Giang (2018), “Cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong đồng

phạm”,

http://lsvn.vn/nghien-cuu-trao-doi/phan-tich-nghien-cuu/ca-the-hoa-trach-nhiem-

hinh-su-trong-dong-pham-29508.html

[53]. Trần Đình Hải – Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, “Nguyên tắc “công minh”

và sự cần thiết bổ sung vào các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Hình sự”,

http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/780

[54]. Trần Thị Thu Hằng (2018), “Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật – Thực tiễn thực hiện và kiến nghị”,

https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/nguyen-tac-tham-phan-hoi-

tham-xet-xu-doc-lap-va-chi-tuan-theo-phap-luat-thuc-tien-thuc-hien-va-kien-

nghi

[55]. Lê Hiệp – Ngọc Trinh (2016), “TAND huyện Chư Sê: Giải quyết án đạt kết

quả cao”, https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/phong-trao-thi-dua/tand-huyen-

chu-se-gia-lai-giai-quyet-an-dat-ty-le-cao-136130.html

[56]. Thu Hiền (2018), “Vai trò, ý nghĩa của các giai đoạn tố tụng hình sự”,

http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/4935/Vai-tro-y-nghia-cua-cac-giai-

doan-to-tung-hinh-su

[57]. Cao Việt Hoàng, “Tòa án nhân dân với việc đảm bảo quyền con người”,

http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/hvta/27676662/27676768?pers_id=

27676164&item_id=57106600&p_details=1

[58]. https://congly.vn (2016), “Tăng cường kiểm tra, giám đốc việc xét xử”,

https://congly.vn/hoat-dong-toa-an/nghiep-vu/tang-cuong-kiem-tra-giam-doc-

viec-xet-xu-232930.html

[59]. http://hinhsu.luatviet.co (2018), “Khái niệm hình phạt theo quy định của Bộ

luật Hình sự”, http://hinhsu.luatviet.co/khai-niem-hinh-phat-theo-quy-dinh-

cua-bo-luat-hinh-su/n20161028120821402.html

[60]. http://hinhsu.luatviet.co (2019), “Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ

nghĩa trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015”,

http://hinhsu.luatviet.co/nguyen-tac-bao-dam-phap-che-xa-hoi-chu-nghia-

trong-bo-luat-to-tung-hinh-su-nam-2015/n20161028120823828.html

[61]. http://hinhsu.luatviet.co (2018), “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong luật

hình sự”, http://hinhsu.luatviet.co/van-de-nhan-than-nguoi-pham-toi-trong-

luat-hinh-su/n20161028120822243.html

[62]. https://luathoangphi.vn, “Căn cứ nào để quyết định hình phạt?”,

https://luathoangphi.vn/can-cu-nao-de-quyet-dinh-hinh-phat/

[63]. https://luathoangphi.vn (2018), “Thế nào là hình phạt?,

https://luathoangphi.vn/the-nao-la-hinh-phat/

[64]. https://luatminhkhue.vn (2015), “Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong

Luật Hình sự Việt Nam”, https://luatminhkhue.vn/nguyen-tac-phap-che-xa-

hoi-chu-nghia-trong-luat-hinh-su-viet-nam.aspx.

[65]. https://thegioiluat.vn, “Phân tích nguyên tắc pháp chế XHCN trong tổ chức và

hoạt động của Bộ máy nhà nước”, https://thegioiluat.vn/bai-viet/phan-tich-

nguyen-tac-phap-che-xhcn-trong-to-chuc-va-hoat-dong-cua-bo-may-nha-

nuoc-582/

[66]. https://nganhangphapluat.thukyluat.vn, “Cá thể hóa hình phạt là gì”,

https://nganhangphapluat.thukyluat.vn/tu-van-phap-luat/linh-vuc-khac/ca-the-

hoa-hinh-phat-la-gi-121794

[67]. http://tks.edu.vn, “Hai ý kiến về quyết định hình phạt trong Bộ luật Hình sự”,

http://tks.edu.vn/WebThongTinKhoaHoc/Detail/25?idMenu=79

[68]. https://www.wikipedia.org/

[69]. Thái Hùng – Vũ Loan (2019), “10 nội dung lớn về cải cách tư pháp của Tòa

án nhân dân năm 2019”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/thoi-su/10-noi-dung-

lon-ve-cai-cach-tu-phap-cua-toa-an-nhan-dan-nam-2019

[70]. Phùng Hưng (2018), “Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật”,

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=81&NewsId=407740

[71]. Lê Thị Kim Loan (2018), “Căn cứ quyết định hình phạt theo Điều 50 Bộ luật

Hình sự năm 2015”,

http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/Trao-doi-nghiep-vu/Can-cu-quyet-

dinh-hinh-phat-theo-Dieu-50-Bo-luat-Hinh-su-nam-2015-1985/

[72]. Hồng Nhung (2017), “Nâng cao năng lực trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố

tụng tại Đồng Nai”, http://baophapluat.vn/tu-phap/nang-cao-nang-luc-tro-

giup-phap-ly-trong-hoat-dong-to-tung-tai-dong-nai-364980.html

[73]. Nguyễn Ngọc Phương (2016), “Yêu cầu cải cách tư pháp được thể hiện trong

Bộ luật Hình sự 2015”, https://www.baoquangbinh.vn/phap-luat/201606/yeu-

cau-cai-cach-tu-phap-duoc-the-hien-trong-bo-luat-hinh-su-2015-2135639/

[74]. Hồ Nguyễn Quân, “Quyết định hình phạt tù đối với người chưa thành niên

phạm tội một số vướng mắc và giải pháp hoàn thiện”,

https://moj.gov.vn/dtvb/dtvbp/Lists/DsGopY/Attachments/784/QUY%E1%B

A%BET%20%C4%90%E1%BB%8ANH%20HP%20T%C3%99%20%C4%9

0%E1%BB%90I%20V%E1%BB%9AI%20NG%C6%AF%E1%BB%9CI%20

CTN%20PT%20M%E1%BB%98T%20S%E1%BB%90%20V%C6%AF%E1

%BB%9ANG%20M%E1%BA%AEC%20V%C3%80%20GI%E1%BA%A2I

%20PH%C3%81P%20HO%C3%80N%20THI%E1%BB%86N.doc

[75]. Hồ Nguyễn Quân, “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng

tại phiên tòa hình sự”, http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/303

[76]. Lê Văn Sua (2018), “Án lệ và vai trò của án lệ trong hoạt động xét xử của Tòa

án”, https://banan.thuvienphapluat.vn/tin-tuc/an-le-va-vai-tro-cua-an-le-trong-

hoat-dong-xet-xu-cua-toa-an-35

[77]. Trần Văn Quý (2018), “Nâng cao năng lực đội ngũ kiểm sát viên đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp hiện nay”, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-

tien/item/2430-nang-cao-nang-luc-doi-ngu-kiem-sat-vien-dap-ung-yeu-cau-

cai-cach-tu-phap-hien-nay.html

[78]. Phùng Văn Tài (2018), “Bộ luật Hình sự năm 2015 đáp ứng tốt hơn yêu cầu

bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới”,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/An-ninh-quoc-

phong/2018/50086/Bo-luat-Hinh-su-nam-2015-dap-ung-tot-hon-yeu-cau.aspx

[79]. Nguyễn Văn Tiếp (2016), “Nâng cao vị trí, vai trò đội ngũ luật sư đáp ứng

yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế”,

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=41078&print

=true

[80]. Trần Đức Thú (2018), “Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

trong BLHS năm 2015”, https://www.tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/cac-

tinh-tiet-tang-nang-giam-nhe-trach-nhiem-hinh-su-trong-blhs-nam-2015

[81]. Trần Thị Thu (2018), “Những điểm mới về chế định bào chữa, bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng

Hình sự 2015”,

http://vkscantho.vn/vkscantho/index.php/news/Trao-doi-nghiep-vu/Nhung-diem-

moi-ve-che-dinh-bao-chua-bao-ve-quyen-va-loi-ich-hop-phap-cua-bi-hai-

duong-su-theo-quy-dinh-cua-Bo-luat-To-tung-Hinh-su-2015-1872/

[82]. Nguyễn Thị Mai Trang (2018), “Án lệ – Một số vấn đề về giải thích pháp luật

ở Việt Nam”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/an-le/an-le-mot-so-van-de-ve-

giai-thich-phap-luat-o-viet-nam

[83]. Trần Hữu Tráng (2019), “Xu hướng nhân đạo và hướng thiện trong áp dụng

pháp luật hình sự”, http://lsvn.vn/nghien-cuu-trao-doi/phan-tich-nghien-

cuu/xu-huong-nhan-dao-va-huong-thien-trong-ap-dung-phap-luat-hinh-su-

29904.html

[84]. Hồng Tràng (2015), “Giải pháp nâng cao hiệu quả của Trợ giúp viên pháp lý

khi tham gia bào chữa, bảo vệ cho người đồng bào dân tộc thiểu số trong vụ

án hình sự”, https://trogiupphaply.gov.vn/tin-tuc/giai-phap-nang-cao-hieu-

qua-cua-tro-giup-vien-phap-ly-khi-tham-gia-bao-chua-bao-ve-cho-nguoi

[85]. Lê Minh Trường (2015), “Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong luật

Hình sự Việt Nam”, https://luatminhkhue.vn/nguyen-tac-phap-che-xa-hoi-chu-

nghia-trong-luat-hinh-su-viet-nam.aspx

[86]. Lâm Uyên (2018), “Áp lực đối với Thẩm phán”

,https://tapchitoaan.vn/bai-viet/suy-ngam-cuoi-tuan/ap-luc-doi-voi-tham-phan