VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THẾ THÀNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU

TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội – 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THẾ THÀNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU

TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH

Ngành:Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8380104

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN ĐỨC HẠNH

Hà Nội - 2020

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG

TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH ........ 8

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền công tố đối với vụ

án hình sự ........................................................................................................... 8

1.2. Khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

tội Cố ý gây thương tích ................................................................................... 17

1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội cố ý gây

thương tích ........................................................................................................ 29

Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG

GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TẠI TỈNH

BẮC NINH .............................................................................................................. 43

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong

giai đoạn điều tra .............................................................................................. 43

2.2. Tình hình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội cố ý gây

thương tích tại tỉnh Bắc Ninh ........................................................................... 46

2.3. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý

gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh những năm qua ................................. 49

2.4. Một số tồn tại, hạn chế khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh ........................... 58

2.5. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế: ............................................................ 59

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THỰC

HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý

GÂY THƯƠNG TÍCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH ............................. 63

3.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật ........................................................ 63

3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành

quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích ........................... 65

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 83

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS : Bộ luật hình sự

BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT : Cơ quan điều tra

THQCT : Thực hành quyền công tố

TNHS : Trách nhiệm hình sự

KSV : Kiểm sát viên

VKS : Viện kiểm sát

VKSND : Viện kiểm sát nhân dân

Bảng 2.1. Số vụ án, bị can tội Cố ý gây thương tích khởi tố trong giai đoạn

2015-2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh ............................................................. 50

Bảng 2.2. Kết quả THQCT trong khởi tố vụ án tội Cố ý gây thương tích của

VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019 ...................................... 50

Bảng 2.3. Kết quả THQCT trong khởi tố bị can tội Cố ý gây thương tích của

VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019 ...................................... 51

Bảng 2.4. Kết quả THQCT trong việc áp dụng, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn của

VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đối với tội Cố ý gây thương tích .................... 53

Bảng 2.5. Kết quả THQCT trong đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều tra về tội

Cố ý gây thương tích của Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh ......................... 54

Bảng 2.6. Kết quả THQCT trong việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra .................... 56

Bảng 2.7. Các vụ án Cố ý gây thương tích trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các cơ

quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 -2019 ........ 57

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp

là hai chức năng cơ bản của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) các cấp được

quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 2

Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Việc bảo đảm thực hiện chức năng này

cũng là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và

Nhà nước ta được thể hiện trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư

pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày

24/5/2005 về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; Nghị quyết số 49-NQ/TW

Bộ Chính trị, ngày 02/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020". Theo đó, VKSND cần tiếp tục thực hiện tốt chức năng THQCT và

kiểm sát các hoạt động tư pháp, đặc biệt là tăng cường trách nhiệm công tố

và kiểm sát hoạt động điều tra tội phạm, gắn công tố với hoạt động điều tra

nhằm bảo đảm cho mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và

xử lý kịp thời, khách quan, không để lọt tội phạm và người phạm tội,

không làm oan người vô tội, những vi phạm pháp luật trong quá trình điều

tra phải được phát hiện kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh.

Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh sát với Thủ đô Hà Nội, nằm trong vùng kinh

tế trọng điểm Bắc Bộ có hệ thống giao thông thuận lợi kết nối với các tỉnh

trong vùng. Từ khi tái lập tỉnh đến nay, Bắc Ninh đã có những bước phát

triển khá nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống vật chất và văn

hoá tinh thần của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện Tuy

nhiên, sự phát triển với tốc độ cao của kinh tế - xã hội cũng kéo theo sự

gia tăng của các loại tội phạm trên địa bàn Tỉnh, trong đó nổi lên là các

tội phạm xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng nói chung và Cố ý gây

1

thương tích nói riêng. Trong những năm qua, công tác đấu tranh phòng,

chống tội Cố ý gây thương tích được xác định là nhiệm vụ hết sức quan

trọng của chính quyền trong tỉnh Bắc Ninh nói chung và các cơ quan tư

pháp trong tỉnh trong đó có VKSND nói riêng, là điều kiện tiên quyết cho

sự phát triển kinh tế xã hội, sự ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã

hội của tỉnh Bắc Ninh.

Viện kiểm sát nhân dân hai cấp của tỉnh Bắc Ninh đã quán triệt tốt các

chủ trương về cải cách tư pháp trong việc tăng cường hoạt động công tố và

kiểm sát điều tra, đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp giải quyết các

vụ án hình sự về tội Cố ý gây thương tích và đã đạt được những kết quả đáng

ghi nhận. Các vụ án về tội Cố ý gây thương tích đã được CQĐT phát hiện,

khởi tố, điều tra và đề nghị truy tố, đình chỉ điều tra theo đúng quy định của

pháp luật, không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, bên

cạnh đó quá trình điều tra tội Cố ý gây thương tích của CQĐT vẫn còn có

những hạn chế, bất cập, vướng mắc nhất định xuất phát từ nhiều nguyên nhân,

trong đó có nguyên nhân từ việc VKSND chưa thực hiện tốt chức năng thực

hành quyền công tố. Đây là vấn đề đòi hỏi cần phải được nghiên cứu cả về

mặt lý luận và thực tiễn nhằm tìm ra những giải pháp nâng cao hơn nữa chất

lượng, hiệu quả công tác THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý

gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, từ đó có những kiến giải nhằm

góp phần thực hiện tốt chức năng này đối với các Viện kiểm sát nhân dân trên

địa bàn cả nước trong thời gian tới.

Từ các lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài “Thực hành quyền công

tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc

Ninh” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Công tác THQCT các vụ án hình sự nói chung và THQCT trong giai

đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây thương tích nói riêng là công tác quan trọng

2

của ngành Kiểm sát nhằm bảo đảm quá trình điều tra làm rõ và xử lý tội phạm

được thực hiện đúng đắn, đầy đủ theo quy định của pháp luật. Vì vậy, đây là

vấn đề đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và công bố trong các luận

án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ, giáo trình giảng dạy và các các bài viết trên tạp

chí... Quá trình nghiên cứu luận văn, học viên đã tìm hiểu và tiếp cận nghiên

cứu được một số công trình khoa học có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên

cứu của đề tài như:

- Các đề tài nghiên cứu cấp bộ nghiên cứu về lý luận, thực tiễn về công

tố, quyền thực hành công tố trong giai đoạn điều tra và chức năng buộc tội

trong tố tụng hình sự, gồm: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ

chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam hiện nay” do VKSND tối cao ban

hành năm 1999; “Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực

hành công tố về vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong công tác kiểm sát

hình sự” do Trường cao đẳng Kiểm sát nghiên cứu năm 2001, “Những giải

pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư

pháp” do Viện khoa học Kiểm sát – VKSND tối cao chủ trì.

- Sách chuyên khảo “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động

tư pháp trong giai đoạn điều tra” ban hành năm 2005; “Quyền công tố và kiểm

các hoạt động tư pháp” ban hành năm 2008 do TS. Lê Hữu Thể chủ biên.

- Các Luận án tiến sĩ "Quyền công tố ở Việt Nam" của tác giả Lê Thị

Tuyết Hoa; “Hoạt động của VKS trong điều tra vụ án hình sự theo yêu cầu

cải cách tư pháp” năm 2015 của tác giả Đoàn Tạ Cửu Long.

- Các Luận văn thạc sĩ "Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền

công tố, kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án xâm

hại tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Ngô Thị Hảo; "Thực

hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sức khỏe trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và một số kiến nghị" của tác giả Nguyễn Văn

Hùng; "Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra đối với tội Cố ý gây thương

3

tích của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh" của tác giả Vũ Công Thập;

"Kiểm sát điều tra về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh" của tác giả Hoàng

Thị Kim Oanh; Luận văn thạc sĩ "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra các vụ án hình sự và thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh " của tác giả Vũ Thị

Thanh Hằng.

- Các bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến

vấn đề quyền công tố, thực hành quyền công tố và giải pháp nâng cao chất

lượng hoạt động này như: “Một số vấn đề về quyền công tố” của TS. Trần

Văn Độ trên Tạp chí Luật học số 3/2001; “Thực hiện quyền công tố và kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của VKS” của TS. Hoàng

Thị Minh Sơn trên Tạp chí Luật học (số đặc san tố tụng hình sự) năm 2004;

“Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và

kiểm sát điều tra các vụ án hình sự” của TS. Lê Hữu Thể trên Tạp chí Kiểm

sát số 4/2005, “Một số vấn đề về thực hành quyền công tố trong Tố tụng hình

sự Việt Nam” của Vũ Đức Hạnh trên Tạp chí Khoa học kiểm sát số 5/2018,

“Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn

công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu của cải cách tư pháp” Tạp chí Kiểm

sát số 08/2012 của TS. Nguyễn Hải Phong, “Những vấn đề cơ bản về thực hành

quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố” Tạp chí Kiểm sát số 10/2017 của TS Bùi Mạnh Cường.

Nhìn chung, có thể thấy các đề tài nghiên cứu trước đó đó đề cập các

góc độ khác nhau của công tác THQCT và kiểm sát điều tra tội phạm, tuy

nhiên, chưa có đề tài nào tập trung nghiên cứu vấn đề THQCT trong giai

đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

Vì vậy, luận văn của học viên nghiên cứu về một vấn đề mới không trùng

lặp với các công trình khoa học đã được công bố. Học viên kế thừa dưới

góc độ lý luận và cách tiếp cận của những công trình nêu trên trong nghiên

4

cứu hoàn thiện luận văn của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Qua việc nghiên cứu làm rõ thực trạng THQCT trong giai đoạn điều tra

tội Cố ý gây thương tích tại tỉnh Bắc Ninh, những kết quả đã đạt được,

nguyên nhân và các tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải

pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý

gây thương tích trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng và cả

nước nói chung.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quyền công tố, THQCT, làm rõ khái

niệm, đặc điểm, nội dung, phạm vi và các điều kiện bảo đảm việc THQCT

trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây thương tích.

- Phân tích, đánh giá quy định của BLTTHS năm 2015 về THQCT

trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích; nêu được một số điểm mới

so với BLTTHS năm 2003.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn THQCT trong giai đoạn điều tra tội Cố ý

gây thương tích ở Bắc Ninh trong 05 năm (từ năm 2015 đến năm 2019).

- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong

giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, đáp

ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn THQCT trong giai

đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích tại tỉnh Bắc Ninh trong 05 năm.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về chủ thể: VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh;

Về không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Bắc Ninh;

5

Về thời gian: Đề tài nghiên cứu và lấy số liệu trong khoảng thời gian từ

năm 2015 đến năm 2019.

Về giai đoạn tố tụng: Từ khi CQĐT khởi tố vụ án cho đến khi CQĐT

kết thúc vụ án, đề nghị VKS truy tố (hoặc cho đến khi CQĐT đình chỉ vụ án);

từ khi VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung đến khi VKS nhận lại hồ

sơ.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật

biện chứng, duy vật lịch sử của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về xây dựng Nhà nước, pháp luật và những chủ trương, đường lối của

Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm, cải cách tư pháp.

- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên

đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích

và tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh; phương pháp diễn dịch; phương

pháp quy nạp; phương pháp chuyên gia; phương pháp nghiên cứu tài liệu để

tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được

nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

Luận văn đã làm sâu sắc hơn, sang rõ hơn một số vấn đề lý luận và

thực tiễn về hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra đối với tội Cố ý gây

thương tích. Đánh giá, phân tích hoạt động này từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

nhằm góp phần xây dựng, hoàn thiện, làm phong phú hơn các tri thức của

khoa học của vấn đề nghiên cứu.

Luận văn góp phần bổ sung nguồn tài liệu tham khảo cho các hoạt

động nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học

viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành tại các cơ sở đào tạo luật. Kết

quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức

chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại VKS hai cấp tỉnh Bắc

6

Ninh.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích.

Chương 2: Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong

giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thực hành quyền

công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bắc

Ninh.

7

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ

TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thực hành quyền công tố đối

với vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố

* Quyền công tố:

Khái niệm quyền công tố từ lâu được các nhà khoa học pháp lý quan

tâm nghiên cứu, có nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về quyền công tố.

Về thuật ngữ “công tố” là từ ghép Hán Việt, theo Đại từ điển tiếng

Việt, “công” có nghĩa là “thuộc về Nhà nước, tập thể; trái với “tư”; còn “tố”

có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi của người khác một cách công

khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người”; “công tố” có nghĩa

là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án”.

Qua nghiên cứu các tài liệu hiện hành có thể thấy các quan điểm về

quyền công tố như sau:

Quan điểm thứ nhất: Công tố không phải là chức năng độc lập của

VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong TTHS. Quan điểm này đó đánh đồng quyền công tố với chức năng

kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS, coi việc thực hiện quyền công tố chỉ là

một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo

pháp luật. Quan điểm này xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát nhân dân

để xem xét quyền công tố. Theo đó, tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân

theo pháp luật đều là THQCT. Đây là quan điểm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ

của các nhà tố tụng hình sự và quan điểm về TTHS của Liên Xô trước đây.

Quan điểm thứ hai: quyền công tố là quyền duy nhất của VKS thay mặt

Nhà nước để bảo vệ lợi ích công khi có các vi phạm pháp luật. Quan điểm này cho

8

rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu

tiên trong tố tụng hình sự; cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành luật thì

quyền công tố được mở rộng sang các lĩnh vực kinh tế, dân sự, lao động.

Quan điểm thứ ba: quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho

VKS truy tố người phạm tội ra trước Toà án và thực hiện việc buộc tội đó tại

phiên toà sơ thẩm. Quan điểm này lại thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi

của quyền công tố và chỉ nhấn mạnh vai trò của VKS trong việc THQCT và

được thực hiện trong tố tụng hình sự ở giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự.

Quan điểm thứ tư: quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các

cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi

hành án hỡnh sự hoặc đó là hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra, VKS, Tòa

án trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội.

Theo quan điểm này thì các cơ quan tiến hành tố tụng đều là chủ thể của

quyền công tố, không có ranh giới rạch ròi giữa các chức năng cơ bản như

điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự; xóa nhòa ranh giới giữa các

chức năng buộc tội và chức năng xét xử trong tố tụng hình sự.

Quan điểm thứ năm: quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực

hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này

thuộc về Nhà nước, chỉ có trong tố tụng hình sự, được Nhà nước giao cho một

cơ quan thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với người phạm tội. Đề làm được điều này, cơ quan THQCT (ở Việt Nam là

VKSND) phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ

để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Toà

án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà. Theo quan điểm này thì quyền công

tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có

hành vi vi phạm pháp luật mà luật hình sự coi là tội phạm. Như vậy, quyền công

tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS. Ở nước ta, quyền này Nhà nước giao cho VKSND

thực hiện. Quan điểm này phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện hành.

9

Từ các quan điểm trên, có thể hiểu:

Quyền công tố là một dạng quyền năng pháp lý trong tố tụng hình sự,

đó là quyền buộc tội mang tính Nhà nước được trao cho Viện kiểm sát thực

hiện, nhằm buộc tội đối với cá nhân hoặc pháp nhân khi có căn cứ cho rằng

các chủ thể này đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm,

quyền buộc tội này hướng tới việc truy tố ra trước Tòa án để xét xử và buộc

tội công khai trước phiên tòa

- Đặc điểm quyền công tố

Thứ nhất, quyền công tố là quyền của Nhà nước mang bản chất chính

trị của Nhà nước, nhân danh Nhà nước để buộc tội đối với người (theo nghĩa

rộng, bao gồm người có năng lực trách nhiệm hình sự và pháp nhân thương

mại) thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự. THQCT có mục đích rõ

ràng là bảo vệ lợi ích của Nhà nước, môi trường tồn tại của Nhà nước.

Thứ hai, quyền công tố không thể tách rời mà luôn gắn liền với quyền

tài phán của Toà án, đó chính là quyền cáo buộc hành vi vi phạm pháp luật

hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội và đưa người phạm tội ra

Toà án theo đó là bảo vệ sự buộc tội trước phiên toà. Quyền công tố không

đồng nhất với việc cứ nhất thiết mọi trường hợp phải đưa người phạm tội ra

Toà an, mà trên thực tế có trường hợp quyền công tố có thể được chấm dứt

khi đối tượng tác động của nó đã đủ căn cứ để chấm dứt như ở các trường

hợp người phạm tội được đình chỉ điều tra theo quy định tại Điều 248

BLTTHS; Điều 29 của BLHS.

Thứ ba, quyền công tố chỉ có thể do một cơ quan Nhà nước thực hiện

và độc lập với quyền tài phán của Toà án và ở nước ta cơ quan thực hiện

quyền này là hệ thống VKS nhân dân (bao gồm cả Viện kiểm sát quân sự

trong đó). Quyền công tố được hệ thống VKS nhân dân thực hiện trong tất cả

các giai đoạn tố tụng hình sự từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội

phạm, khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử.

10

Thứ tư, Quá trình nghiên cứu lịch sử nhà nước pháp luật nói chung, lịch

sử nhà nước pháp luật Việt Nam nói riêng chúng ta thấy rằng quyền công tố

luôn gắn liền với bản chất của Nhà nước, gắn với cách thức tổ chức quyền lực

nhà nước ở mỗi quốc gia và mô hình tố tụng.

Quan điểm của Nhà nước ta về thực hiện chiến lược cải cách tư pháp,

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã xác định: VKSND có hai

chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp

(Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014);

Về quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội lần

thức IX của Đảng đã chỉ rõ “VKS tập trung làm tốt chức năng công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp; Nghị quyết số 49 NQ/TW của Bộ chính trị

khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh: “Trước

mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”.

- Đối tượng của quyền công tố:

Đối tượng của quyền công tố là cái mà quyền công tố tác động vào, cụ

thể là xác định được hành vi phạm tội và người thực hiện hành vi phạm tội để

trừng phạt, nhằm bảo đảm trật tự xã hội và trật tự pháp luật, bảo đảm lợi ích

chung cho xã hội. Như vậy, đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người

phạm tội.

- Nội dung của quyền công tố: Nội dung của quyền công tố là sự buộc

tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội; còn việc sử dụng tổng hợp các

quyền năng pháp lý do pháp luật định nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều

phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật, không để lọt tội phạm và người

phạm tội không làm oan người vô tội là nội dung của hoạt động THQCT.

- Phạm vi của quyền công tố:

Quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu TNHS đối với người

phạm tội. Việc truy cứu TNHS diễn ra cả quá trình từ khi phát hiện tội phạm,

11

khởi tố, điều tra, truy tố, và buộc tội tại phiên tòa. Vì vậy, quyền công tố

không thể tồn tại ở lĩnh vực nào khác ngoài lĩnh vực tố tụng hình sự; phạm vi

quyền công tố bắt đầu từ khi phát hiện dấu hiệu của tội phạm và kết thúc khi

bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, tức là quyền công tố kết

thúc khi việc buộc tội không còn nữa.

* Thực hành quyền công tố:

Xuất phát từ nhận thức quyền công tố là quyền của nhà nước thực hiện

việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và chỉ có trong lĩnh

vực tố tụng hình sự. Phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm

xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Đối

tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Để đảm bảo

cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền công tố, Nhà nước ban hành các văn

bản pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố.

Các quyền năng này được giao cho cơ quan Nhà nước nào thì cơ quan đó là

cơ quan có trách nhiệm THQCT. Ở nước ta theo quy định của Hiến pháp,

Luật Tổ chức VKSND, Luật TTHS thì cơ quan được Nhà nước giao THQCT

là VKSND. Pháp luật cũng quy định quyền năng pháp lý cần thiết để VKS

thực hiện quyền năng của mình trong các giai đoạn tố tụng hình sự, như khởi

tố vụ án, khởi tố bị can, yêu cầu điều tra, trực tiếp điều tra, áp dụng, thay đổi

biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố, đọc cáo trạng, tranh tụng tại phiên

tòa…Việc sử dụng quyền năng pháp lý của VKS như nêu trên để truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội gọi là THQCT.

Vì vậy, THQCT là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các

quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố do Nhà nước quy định để

thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội

trong các giai đoạn tố tụng hình sự.

- Nội dung thực hành quyền công tố:

12

Từ nhận thức ở trên, THQCT là việc VKSND sử dụng tất cả những

quyền năng tố tụng hình sự mà pháp luật quy định để bảo đảm phát hiện kịp

thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và

người phạm tội, không làm oan người vô tội. Vậy, nội dung THQCT là những

quyền năng pháp lý của VKSND trực tiếp quyết định hoặc liên quan đến việc

cáo buộc bị can, bị cáo.

- Phạm vi thực hành quyền công tố:

Về nguyên tắc quyền công tố là nền tảng, là cơ sở để THQCT vì vậy,

phạm vi THQCT đồng nhất với phạm vi của quyền công tố. Tức là THQCT

bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án của Tòa án có hiệu lực

pháp luật không bị kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của

pháp luật TTHS.

Tuy nhiên, trên thực tế có hành vi phạm tội xảy ra nhưng chưa được

phát hiện và có trường hợp phát hiện hành vi phạm tội nhưng chưa xác định

được người thực hiện hành vi phạm tội. Về nguyên tắc thì Nhà nước có trách

nhiệm nhân danh quyền lực công để truy cứu TNHS đối với người đủ năng

lực trách nhiệm hình sự đã thực hiện hành vi phạm tội ngay cả đối với những

người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát hiện khi đang còn

thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, phạm vi quyền công tố luôn

rộng hơn phạm vi THQCT.

* Về mối quan hệ giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố.

Như đã phân tích ở trên, quyền công tố là quyền của Nhà nước thực

hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Đối tượng của quyền công

tố là tội phạm và người phạm tội. THQCT là việc Nhà nước giao cho một cơ

quan của mình những quyền năng pháp lý để thực hiện việc truy cứu TNHS

đối với người phạm tội. Theo pháp luật Việt Nam thì cơ quan Nhà nước được

được giao những quyền năng pháp lý này là VKSND.

13

Như vậy, mối quan hệ giữa quyền công tố và THQCT là mối quan hệ

giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực đó. Quyền

công tố là quyền của Nhà nước có nội dung là sự buộc tội đối với người đã thực

hiện hành vi tội phạm, còn THQCT là tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực

hiện sự buộc tội ấy. Do vậy, những căn cứ làm phát sinh quyền công tố thì cũng

làm phát sinh THQCT và những căn cứ làm chấm dứt quyền công tố thì cũng

làm chấm dứt việc THQCT.

1.1.2. Đặc điểm của thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự

Thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự có những đặc điểm cơ

bản sau:

Thứ nhất, THQCT bao gồm các hành vi và quyết định của người có

thẩm quyền. Chủ thể THQCT đối với vụ án hình sự là VKS. Hiến pháp và

pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ đều khẳng định trong bộ máy các

cơ quan nhà nước Việt Nam, VKS là cơ quan duy nhất THQCT.

Thứ hai, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có nhiệm vụ chứng

minh toàn bộ sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, bao gồm cả các

chứng cứ buộc tội và gỡ tội; quyết định hạn chế các quyền của công dân như

bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác Do đó THQCT cũng

phải luôn gắn liền với nhiệm vụ trên. Mục đích của THQCT là nhằm xem xét

có quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội hay

không, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Thứ ba, THQCT trong vụ án hình sự được tiến hành theo các trình tự,

thủ tục tố tụng chặt chẽ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. VKS phải

tuyệt đối tuân thủ, thi hành, sử dụng và áp dụng các quy định của pháp luật về

chức năng, nhiệm vụ của mình (Luật tổ chức VKSND, BLTTHS…) để giải

quyết đúng đắn vụ án.

Thứ tư, hoạt động THQCT có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động kiểm

sát điều tra, kiểm sát xét xử (kiểm sát việc tuân theo pháp luật). Tuy nhiên,

14

mặc dù đều là chức năng của VKS trong tố tụng hình sự nhưng chúng có đối

tượng, phạm vi và nội dung hoạt động khác nhau. Đối tượng của THQCT là

tội phạm và người phạm tội còn đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp

luật là hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng, người tham gia tố tụng. Mục đích và nhiệm vụ của THQCT là làm

sáng tỏ tội phạm đã xảy ra để truy cứu trách nhiệm hình sự còn mục đích,

nhiệm vụ của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là phát hiện kịp thời các hành

vi vi phạm pháp luật của các chủ thể trong tố tụng hình sự, chủ thể có liên

quan để kịp thời yêu cầu khắc phục vi phạm hoặc yêu cầu phòng ngừa các

nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm. Nội dung hoạt động của THQCT

thông qua các hình thức cơ bản như VKS ra các lệnh, quyết định, cáo trạng,

luận tội còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật thông qua các kiến nghị, yêu

cầu. Hậu quả pháp lý của THQCT sẽ dẫn đến vệc truy cứu trách nhiệm hình

sự hay không, áp dụng biện pháp ngăn chặn như thế nào còn hậu quả pháp lý

của kiểm sát việc tuân theo pháp luật dẫn đến việc xử lý các vi phạm, thiếu

sót trong việc giải quyết vụ án hình sự.

Thứ năm, THQCT trong vụ án hình sự thể hiện mối quan hệ chặt chẽ

vừa phối hợp vừa chế ước giữa VKS với CQĐT. Mối quan hệ phối hợp kéo

dài xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết

thúc vụ án hình sự và được thực hiện theo các quy định của pháp luật và theo

các quy chế phối hợp liên ngành. VKS có quyền chế ước đối với CQĐT thể

hiện qua việc VKS có quyền giám sát các hoạt động điều tra của CQĐT một

cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, từ đó yêu cầu

CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp

luật của CQĐT nhằm bảo đảm hoạt động của CQĐT trong điều tra vụ án hình

sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự

Thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự nhằm bảo đảm:

15

Thứ nhất, mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý

kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô

tội. Phòng, chống oan sai là một chủ trương quan trọng, nhất quán của Đảng

ta đặt ra cho công tác tư pháp. Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 08/11/1993 của

Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp

luật đã nêu rõ: “Đối với người phạm tội phải xử lý chính xác, nghiêm minh,

kịp thời… bắt, giam giữ đúng pháp luật và xét xử đúng người, đúng tội; chấm

dứt tình trạng bắt oan người vô tội; không trấn áp tràn lan, đồng thời không

để lọt tội phạm”. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị

về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; trong đó

nêu rõ những tồn tại của công tác tư pháp trong thời gian qua là: “Chất lượng

công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân

dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các

quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối

với Đảng, Nhà nước và các cơ quan Tư pháp”. Chỉ thị số 48-CT/TW ngày

22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới nêu rõ “Tiếp tục đẩy

mạnh cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy

tố, xét xử… nhằm phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm

tội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội” là một trong những

nhiệm vụ chủ yếu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thứ hai, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị

hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do,

danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Áp dụng biện pháp ngăn chặn

là biện pháp thể hiện sự cưỡng chế quyết liệt, mạnh mẽ của Nhà nước đối với

người phạm tội, đảm bảo cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt hiệu

quả cao nhưng nó cũng trực tiếp xâm hại đến quyền cơ bản của công dân

được quy định trong Hiến pháp, đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể.

16

BLTTHS coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố

tụng hình sự: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai

bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của

Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang”. Chỉ thị số 53/CT-TW ngày

21/3/2000 của Bộ Chính trị xác định: "Tăng cường trách nhiệm pháp lý của

Vỉện kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt, giam, giữ. Việc bắt, giam phải

được xem xét, phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể đối

với trường hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt, giam cũng đuợc thì

không bắt giam”. Điều đó đòi hỏi các biện pháp ngăn chặn phải được quy

định đầy đủ, chặt chẽ trong BLTTHS và phải đựợc thực hiện một cách

nghiêm chỉnh, triệt để, nhằm tránh tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan

người vô tội, để lọt kẻ phạm tội. VKS phải có trách nhiệm chủ động, kịp thời

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định của mình nhằm bảo

đảm việc bắt, tạm giữ, khởi tố đủ căn cứ và hợp pháp. Làm tốt công tác

THQCT trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác

có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền

tự do, dân chù của công dân.

Thứ ba, Thực hành quyền công tố đối với vụ án hình sự nhằm đảm bảo

việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,

đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật phải được phát hiện kịp thời, khắc

phục và xử lý nghiêm minh.

1.2. Khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra tội Cố ý gây thương tích

1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội

Cố ý gây thương tích

Để làm rõ khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

tội Cố ý gây thương tích, chúng ta cần làm rõ các khái niệm giai đoạn tố tụng,

giai đoạn điều tra, vụ án hình sự và vụ án hình sự Cố ý gây thương tích

17

- Giai đoạn tố tụng hình sự: Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

chưa ghi nhận định nghĩa pháp lý thế nào là giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy

nhiên, dưới góc độ khoa học khái niệm giai đoạn tố tụng hình sự có thể được

định nghĩa là: bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng

nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố

tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời

điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công

minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế

và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn

vẹn lãnh thổ Tổ quốc, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân

và tổ chức. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì tố tụng hình sự bao gồm bốn giai

đoạn, bao gồm giai đoạn khởi tố, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai

đoạn xét xử.

Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà

trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của

pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định có hay không các dấu hiệu

của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng

thời ban hành quyết định về việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự

liên quan đến hành vi đó. GS.TS Võ Khánh Vinh có đưa ra khái niệm quyết

định khởi tố vụ án hình sự, trong đó có nội dung về khởi tố vụ án hình sự:

“Quyết định khởi tố vụ án hình sự là hành vi tố tụng hình sự của một pháp

nhân (chủ thể tiến hành tố tụng) có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự biểu

hiện bằng một văn bản tố tụng hình sự xác định một sự kiện pháp lý xảy ra

trong thực tế có dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS

nhằm khởi phát những quan hệ tố tụng, mở đầu cho việc thực hiện những

hành vi tố tụng cần thiết để làm rõ sự thật khách quan về sự kiện đó. Giai

đoan khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận

được tin báo về tội phạm, kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra được một

18

trong hai quyết định là quyết định khởi tố vụ án hình sự và quyết định không

khởi tố vụ án hình sự”. Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh thì giai

đoạn khởi tố vụ án hình sự được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận

được tin báo (nguồn tin về tội phạm) và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra

quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.

Giai đoạn điều tra vụ án hình sự tra là một giai đoạn của tố tụng hình

sự, kế tiếp của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và là giai đoạn thứ hai của tố

tụng hình sự, bắt đầu từ khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ

quan có thẩm quyền điều tra. Cơ quan có thẩm quyền điều tra căn cứ vào các

quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của VKS tiến hành

các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu

các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm,

cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách

nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do

tội phạm gây nên. Giai đoạn này kết thúc khi CQĐT kết thúc điều tra chuyển

hồ sơ đến VKS để đề nghị truy tố và được VKS thụ lý hoặc kết thúc khi có

quyết định đình chỉ vụ án của cơ quan có thẩm quyền.

Giai đoạn truy tố vụ án hình sự là giai đoạn trong tố tụng hình sự, mà

trong đó Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự

tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách

qua các tài liệu của vụ án hình sự do CQĐT chuyển đến và trên cơ sở đó VKS

ra quyết định truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để

CQĐT điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ vụ án hình sự.

Giai đoạn xét xử vụ án hình sự là giai đoạn cuối cùng mà trong đó Tòa

án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến

hành xét xử theo thủ tục chung trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai tại

phiên tòa để phán xét về vấn đề tính chất tội phạm của hành vi, có tội hay

không của bị cáo; tuyên bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật

19

nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng

pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Thời điểm của giai đoạn này

được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án (quyết định truy tố theo thủ

tục rút gọn hoặc bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc

bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là nhằm xác định tội phạm và người

thực hiện hành vi phạm tội; xác định thiệt hại do tội phạm gây ra, tạo điều

kiện cần thiết cho việc giải quyết vụ án; lập hồ sơ, đề nghị truy tố bị can; xác

định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu

quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn chặn. Tuy nhiên, qua thực tiễn

hoạt động điều tra, có thể khái quát nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là xác

định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; thu thập đầy đủ chứng cứ

để chứng minh làm rõ toàn bộ vụ án; tiến hành các biện pháp cần thiết để

phục vụ cho việc điều tra, xử lý người phạm tội; xây dựng kết luận điều tra,

hoàn thiện hồ sơ vụ án và đề nghị VKS truy tố. Nhiệm vụ của giai đoạn điều

tra có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Hầu hết việc giải

quyết vụ án hình sự tại các giai đoạn sau đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ

đã thu thập được ở giai đoạn điều tra.

Chủ thể tiến hành hoạt động điều tra là CQĐT có thẩm quyền theo quy

định tại điều 163 BLTTHS, bao gồm: CQĐT của Công an nhân dân, CQĐT

của Quân đội nhân dân và CQĐT của VKSND tối cao, VKS Quân sự trung

ương. Ngoài ra còn có các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra như: các cơ quan của Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,

lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư và một số cơ quan khác của Công an nhân

dân, Quân đội nhân dân. Theo quy định pháp luật thì VKS cũng có thẩm

quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra

nhưng chỉ trong một số trường hợp. Do vậy, chủ thể chính tiến hành một số

hoạt động điều tra vụ án hình sự là các CQĐT có thẩm quyền.

20

- Vụ án hình sự: Là vụ việc mang tính hình sự mà ở đó có hành vi xâm

phạm đến các khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ hoặc có hậu quả được

mô tả trong cấu thành tội phạm và được cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án.

Vụ án hình sự có các đặc điểm sau:

Thứ nhất: Vụ án hình sự gắn liền với hoạt động khởi tố vụ án hình sự,

điều tra, truy tố, xét xử, tính từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền ra quyết

định khởi tố vụ án hình sự đến khi vụ án được giải quyết bằng bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đình chỉ vụ án của cơ

quan có thẩm quyền. Giữa các giai đoạn tố tụng này có mối quan hệ mật thiết

với nhau mà giai đoạn tố tụng trước là tiền đề của giai đoạn tố tụng sau và

giai đoạn tố tụng sau sẽ kiểm nghiệm kết quả của giai đoạn tố tụng trước.

Theo quy định tại Điều 153 BLTTHS thì các cơ quan sau có thẩm quyền khởi

tố vụ án hình sự:

CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

VKSND trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án

hình sự của CQĐT; VKS trực tiếp giải quyết nguồn tin về tội phạm và VKS

trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng

xét xử.

Hội đồng xét xử trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu

cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà

phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm.

Thứ hai: Về chủ thể tham gia vụ án gồm có các cơ quan tiến hành tố

tụng (CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra, VKS, Tòa án), người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ

quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng

Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án,

Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên; những người được giao

nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) và những người tham gia tố

21

tụng (bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có

quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bào chữa, người làm chứng, người chứng

kiến, người giám định, người phiên dịch...). Vụ án hình sự gắn liền từ thời

điểm khởi tố vụ án nên những người tố giác, người bị tố giác không phải là

chủ thể tham gia vụ án hình sự. Những người này được BLTTHS quy định rõ

quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Trong vụ án hình sự, những người

tham gia tố tụng luôn ở vị thế yếu hơn bởi những người tiến hành tố tụng

được Nhà nước trao quyền lực. Từ đó hình thành nguyên tắc suy đoán vô tội,

trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.

Thứ ba: Nhiệm vụ đặc trưng của vụ án hình sự là việc các cơ quan tiến

hành tố tụng sẽ phải chứng minh toàn diện các vấn đề như có hành vi phạm

tội xảy ra hay không, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;

thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người

thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng

lực (mất hoặc hạn chế) trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ

phạm tội; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và đặc

điểm về nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội; tính chất và mức độ

thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội;

những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn

trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt. Việc thu thập các tài liệu, chứng cứ trên

phải đảm bảo theo trình tự, thủ tục được quy định tại BLTTHS, nếu không nó

sẽ không có giá trị chứng minh.

Thứ tư: Vụ án hình sự bắt đầu khi cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ

án. Quyết định khởi tố vụ án hình sự được đưa ra sau khi xác định sự việc “có

dấu hiệu của tội phạm” mà không cần “có đủ dấu hiệu của tội phạm” bởi

quyết định khởi tố vụ án chưa đồng nghĩa với buộc tội ai đó mà chỉ mở đầu

vụ án để CQĐT có căn cứ tiến hành các hoạt động điều tra cụ thể được

BLTTHS quy định nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Vụ án hình

22

sự kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc các cơ

quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án.

Thứ năm: Thời hạn giải quyết vụ án hình sự được quy định cụ thể trong

BLTTH. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định từng thời hạn tố tụng

đối với vụ án dựa trên mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Ví dụ thời

hạn điều tra vụ án hình sự là 02 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, 03 tháng đối

với tội nghiêm trọng, 04 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm

trọng. Tùy tính chất phức tạp của vụ án mà có thể được gia hạn. Tương tự như

vậy là thời hạn truy tố, xét xử.

- Vụ án hình sự về tội Cố ý gây thương tích: Cố ý gây thương tích là

hành vi của một người xâm hại về mặt thể chất đối với người khác và tạo nên

thương tích cụ thể cho họ với lỗi cố ý (trực tiếp hoặc gián tiếp). Như việc

người phạm tội phải có hành vi tác động đến thân thể của người khác làm cho

người này bị tổn thương cơ thế như đâm, chém, đấm, đá…hành vi này trong

một số trường hợp có hình thức cũng giống như hành vi của tội giết người.

Tuy nhiên, so với tội giết người, thì sự cố ý trong trường hợp gây thương tích

không hướng tới việc tước đoạt sinh mạng người khác và có mức độ nguy

hiểm thấp hơn. Nếu xảy ra trường hợp nạn nhân chết là ngoài ý muốn chủ

quan của người phạm tội. Hành vi mà người phạm tội thực hiện không chứa

đựng nguy cơ chết người, việc chết người có mối quan hệ nhân quan gián tiếp

với hành vi. Bên cạnh đó, nạn nhân phải bị thương ở mức đáng kể do Bộ luật

hình sự quy định. Nếu thương tích không đáng kể thì chưa phải là tội phạm.

Tội Cố ý gây thương tích được quy định tại Điều 109 BLHS năm 1985,

Điều 104 BLHS năm 1999 và Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung

năm 2017. Về cơ bản, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 và BLHS

năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã được cấu tạo lại, lấy tỷ lệ thương tật

làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt. Nội

23

dung của Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cơ bản như

sau:

- Nhóm các tình tiết cơ bản định khung, phân loại tội phạm: Đây là các

tình tiết mà người phạm tội thực hiện hành vi tội phạm nếu thuộc một trong

các trường hợp đó sẽ kết hợp với hậu quả trên thực tế để làm căn cứ truy cứu

trách nhiệm hình sự, bao gồm:

Các tình tiết liên quan đến hành vi khách quan như dùng vũ khí, vật

liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho

nhiều người; dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm (điểm a, b khoản

1 Điều 134 BLHS).

Các tình tiết liên quan đến nạn nhân như đối với người dưới 16 tuổi,

phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có

khả năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người

nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình (điểm c, d khoản 1 Điều 134 BLHS).

Các tình tiết liên quan đến nhân thân của người phạm tội như đang

trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù,

đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang

chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt

buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; d)

Tái phạm nguy hiểm; (điểm g khoản 1, điểm d khoản 2 Điều 134 BLHS).

Các tình tiết liên quan đến động cơ, mục đích của người phạm tội như

lợi dụng chức vụ, quyền hạn; thuê gây thương tích hoặc gây thương tích do

được thuê; đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn

nhân (điểm e, h, k khoản 1 Điều 134 BLHS).

Các tình tiết liên quan đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi phạm tội như có tổ chức, có tính chất côn đồ, phạm tội 02 lần trở lên

(điểm đ, i khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 134 BLHS).

24

Hậu quả xảy ra trên thực tế bao gồm các mốc như dưới 11%, từ 11%

đến 30% từ 31 % đến 60%, 61% trở lên, gây thương tích cho 02 người trở lên,

làm chết người, làm chết hai người trở lên. Tùy thuộc vào hậu quả xảy ra trên

thực tế mà người phạm tội bị truy cứu TNHS ở các mức khác nhau.

- Nếu người phạm tội không thuộc các trường hợp nêu trên thì chỉ căn

cứ vào hậu quả xảy ra trên thực tế để xác định khung hình phạt làm căn cứ

truy cứu TNHS.

Ngoài ra, so với Điều 104 BLHS năm 1999 thì Điều 134 BLHS năm

2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định thêm điểm mới đó là truy cứu

TNHS đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội. Theo đó người nào chuẩn bị vũ

khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm

hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến

02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm (khoản 6 Điều 134 BLHS).

Tội Cố ý gây thương tích có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau:

Khách thể của tội phạm: Trong khoa học luật hình sự, khách thể của tội

phạm được hiểu là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội

phạm xâm hại. Trong tội Cố ý gây thương tích, khách thể trực tiếp chính là

sức khỏe của con người. Hành vi cố ý gây thương tích là hành vi cố ý làm cho

người khác bị thương. Khi nói đến sức khỏe của con người nghĩa là chúng ta

nói đến một con người đang còn sống (từ khi sinh ra cho đến trước lúc chết),

không phụ thuộc vào tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội của

người đó. Đối với trường hợp một cá nhân nào đó tự gây thương tích cho bản

thân mình vì nhiều lý do khác nhau như đế lấy tiền bảo hiểm, để trốn tránh

nghĩa vụ…thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội này. Bên cạnh đó,

một hành vi nguy hiểm xâm hại đến sức khỏe của người khác nhưng sức khỏe

của người bị xâm hại đó không phải là khách thể trực tiếp cần được bảo vệ (ví

dụ như hành vi đặt mìn tại trụ sở cơ quan Nhà nước làm cán bộ bị thương với

25

mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân, hành vi điều khiển phương tiện

giao thông không chú ý quan sát làm người khác bị thương tật trên 60%…) thì

người xâm hại đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Khủng bố nhằm chống

chính quyền nhân dân theo quy định tại Điều 113 BLHS hoặc tội Vi phạm quy

định về tham gia giao thông đường bộ quy định tại Điều 260 BLHS.

Mặt khách quan của tội phạm: Mặt khách quan của tội phạm được hiểu

là mặt bên ngoài của tội phạm, đó chính là các biểu hiện của tội phạm diễn ra

trong thế giới khách quan mà con người có thể nhận biết được. Các biểu hiện

của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội,

mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các dấu hiệu khách quan khác

có ý nghĩa quyết định đến việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm

tội như: công cụ, phương tiện, phương thức, thủ đoạn, thời gian, hoàn cảnh,

địa điểm phạm tội. Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích là những

hành vi tác động đến thân thể con người và những hành vi này có khả năng

gây ra thương tích của con người. Những hành vi này có thể bằng hành động

hoặc không hành động.

Đối với hành vi dưới hình thức hành động: Các hành vi gây thương tích

có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, có thể là trực tiếp hoặc

cũng có thể là gián tiếp, tuy nhiên, hậu quả của những tác động đó là làm tổn

thương một bộ phận hay toàn bộ cơ thể của người bị tác động hoặc gây tổn

hại hoặc làm mất một chức năng của một cơ quan nào đó trong cơ thể của

người bị tác động (què tay, cụt chân, mù mắt hoặc làm truy thai, tuyệt đường

sinh sản, dập gan, phổi...).

Đối với các hành vi trực tiếp thì có thể xảy ra trường hợp: Người phạm

tội không dùng bất kỳ công cụ, phương tiện nào, chủ yếu dùng chân tay để

đấm, đá, đánh... hoặc người phạm tội có thể sử dụng các công cụ, phương tiện

để thực hiện hành vi phạm tội như: dùng dao, súng, gậy, côn, axít...để tấn

công người bị hại.

26

Đối với các hành vi gián tiếp: Thông qua việc người phạm tội bắt người

bị hại tự gây thương tích cho bản thân họ như: bắt người bị hại tự cắt chặt tay

của mình; bắt người bị hại tự uống thuốc truy thai…

Đối với hành vi dưới hình thức không hành động (trường hợp này ít

xảy ra) ví dụ, theo y lệnh của bác sỹ, một người y tá nào đó phải cho bệnh

nhân uống hoặc tiêm thuốc đúng giờ, đúng liều lượng, do có mâu thuẫn với

người bệnh, người y tá này đã cố tình không thực hiện chỉ định của bác sỹ

nhằm làm cho bệnh tình của bệnh nhân nặng hơn…

Qua thực tiễn xét xử, chúng ta có thể rút ra nhận xét, nhìn về mặt hình

thức thì hành vi của tội Cố ý gây thương tích này cũng giống như hành vi của

tội giết người, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm của nó thấp hơn, nên nó

chỉ làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ, chứ không làm

cho nạn nhân bị chết.

Trong mọi trường hợp, giữa hành vi của người phạm tội và hậu quả xảy

ra làm tổn thương sức khoẻ của người khác phải có quan hệ nhân quả (thương

tích của người bị hại phải là hậu quả do hành vi xâm hại của người phạm tội).

Tội phạm hoàn thành từ khi gây ra vết thương đối với người khác.

Khi xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội Cố ý gây thương

tích thì kết luận giám định pháp y về tỷ lệ % thương tích của cơ quan chuyên

môn là tài liệu quan trọng nhất, là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng xác

định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và khung, khoản

truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Chủ thể của tội phạm: Đối với tội Cố ý gây thương tích, chủ thể của tội

phạm phải là một con người cụ thể (pháp nhân thương mại không phải là chủ

thể của tội này), có năng lực TNHS, đạt độ tuổi nhất định và đã thực hiện một

tội phạm. Người có đủ năng lực TNHS phải là người không bị mắc bệnh tâm

thần, hoặc bệnh hiểm nghèo làm mất khả năng nhận thức, là người có đủ khả

năng nhận thức và khả năng điều chỉnh hành vi của mình, điều đó có nghĩa là

27

người đó nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà mình

sẽ thực hiện, biết được hành vi đó đúng, sai, có phù hợp với pháp luật và đạo

đức hay không. Cơ sở pháp lý để xác định chủ thể của tội Cố ý gây thương

tích chính là Điều 12 và Điều 134 BLHS. Theo những quy định trên, chủ thể

của tội Cố ý gây thương tích phải là người có đủ điều kiện sau: Người từ đủ

16 tuổi trở lên (đối với mọi hành vi) hoặc từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (đối

với những hành vi được quy định tại khoản 3,4,5 Điều 134 BLHS) và có năng

lực trách nhiệm hình sự.

Mặt chủ quan của tội phạm: Mặt chủ quan của tội phạm được hiểu là

lỗi. Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi cố ý, nhận thức được tính chất

nguy hiểm của hành vi, thấy trước hậu quả của hành vi do mình thực hiện sẽ gây

thương tích của người khác, mong muốn (cố ý trực tiếp) hoặc ý thức để mặc cho

hậu quả đó xảy ra (cố ý gián tiếp).

Từ sự phân tích trên có thể kết luận THQCT trong giai đoạn điều tra

đối với tội Cố ý gây thương tích của VKSND là việc VKS sử dụng tổng hợp

các quyền năng pháp lý thuộc nội dung của quyền công tố để truy cứu trách

nhiệm hình sự (buộc tội mang tính Nhà nước) đối với người đã thực hiện

hành vi phạm tội xâm hại đến sức khỏe của người khác theo quy định về tội

cố ý gây thương thích của Bộ luật hình sự và được thực hiện từ CQĐT ra

quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều

tra đề nghị VKS truy tố hoặc khi vụ án được đình chỉ điều tra theo quy định

của pháp luật.

1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội

Cố ý gây thương tích

Đối tượng của THQCT là tội phạm và người bị buộc tội, bao gồm

người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo. THQCT trong giai đoạn điều

tra là một trong những nội dung cụ thể của THQCT trong tố tụng hình sự nói

chung, do đó đối tượng của THQCT trong giai đoạn điều tra cũng giống đối

28

tượng của THQCT, đó là tội phạm và người bị buộc tội, bao gồm người bị

bắt, tạm giữ, tạm giam và bị can.

Hoạt động THQCT đối với tội Cố ý gây thương tích bắt đầu từ khi

CQĐT tiến hành khởi tố vụ án hình sự và chấm dứt khi kết thúc việc điều tra,

VKS ra quyết định truy tố hoặc vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra, truy

tố theo quy định của pháp luật, tùy vào từng trường hợp cụ thể:

Thứ nhất: Trong quá trình điều tra, CQĐT ra quyết định đình chỉ điều

tra. Theo đó, việc đình chỉ điều tra được thực hiện khi có căn cứ không khởi

tố vụ án hình sự, hết thời hạn điều tra nhưng không chứng minh được bị can

đã thực hiện hành vi phạm tội, khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng

người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, các trường hợp được miễn trách nhiệm

hình sự theo quy định của BLHS.

Thứ hai: Kết thúc điều tra khi CQĐT ra bản kết luận điều tra, chuyển

hồ sơ đề nghị VKS truy tố, VKS thấy có đủ căn cứ để đình chỉ vụ án theo quy

định của pháp luật và ra quyết định đình chỉ vụ án (khởi tố theo yêu cầu của

người bị hại nhưng người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, các trường hợp được

miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS).

1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội

cố ý gây thương tích

1.3.1. Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát khi khởi

tố vụ án hình sự tội Cố ý gây thương tích

Khi THQCT trong giai đoạn khởi tố đối với tội Cố ý gây thương tích,

VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

Thứ nhất: Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, hủy bỏ quyết định tạm giữ của CQĐT.

Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp được thực hiện khi có đủ

căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm

trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người đồng phạm hoặc bị hại

29

hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận

đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần thiết phải ngăn chặn

ngay việc người đó trốn hoặc có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở

hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm

(như dấu vết máu, vân tay…) và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó

trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Ngay sau khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê

chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, KSV cần nghiên

cứu các tài liệu có trong hồ sơ để xác định đủ căn cứ báo cáo Lãnh đạo phê

chuẩn hay không phê chuẩn trong thời hạn 12 giờ. Trong một số trường

hợp cần thiết ( như chưa đủ căn cứ hoặc người bị giữ không nhận tội, các tài

liệu, chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn, người bị giữ là người nước ngoài,

người có chức sắc trong tôn giáo, là nhân sĩ, trí thức, người có uy tín trong

đồng bào dân tộc thiểu số…), KSV có thể phối hợp với CQĐT trực tiếp tiến

hành hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Hoạt động trên sẽ hạn

chế tình trạng CQĐT lạm dụng biện pháp ngăn chặn này.

Việc tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp

khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự

thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã. Đối với tội Cố

ý gây thương tích thường áp dụng biện pháp tạm giữ trong trường hợp người

phạm tội tự thú và người bị bắt theo quyết định truy nã. Ngay sau khi nhận

được quyết định tạm giữ, hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ

của CQĐT, KSV nghiên cứu và báo cáo Lãnh đạo nếu thấy việc tạm giữ không

có căn cứ thì hủy bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu CQĐT trả tự do ngay cho

người bị tạm giữ; nếu thấy có căn cứ cần phải gia hạn tạm giữ thì phê chuẩn

trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị phê chuẩn; nếu xét

thấy không cần phải tạm giữ thì ra quyết định không phê chuẩn và yêu cầu

CQĐT trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

30

Thứ hai: Yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ

án hình sự. Quá trình THQCT, khi VKS thấy vụ việc có dấu hiệu của tội Cố ý

gây thương tích thì có quyền yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự về tội Cố ý

gây thương tích. Nếu CQĐT cho rằng vụ việc không có dấu hiệu của tội phạm

hoặc có căn cứ để không khởi tố vụ án và ra quyết định không khởi tố vụ án

hình sự thì VKS có quyền hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự đó

và trực tiếp khởi tố vụ án, chuyển CQĐT để điều tra theo thẩm quyền.

Viện kiểm sát còn có quyền trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong trường

hợp khi VKS trực tiếp giải quyết nguồn tin về tội phạm, trực tiếp phát hiện

dấu hiệu của tội phạm hoặc theo yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử.

1.3.2: Hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong

giai đoạn điều tra đối với vụ án hình sự về tội Cố ý gây thương tích

Khi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự về tội Cố ý gây

thương tích, VKS có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

Thứ nhất: Thực hành quyền công tố trong việc khám nghiệm hiện

trường

Đối với tội Cố ý gây thương tích, địa điểm gây án là một trong các yếu

tố đặc biệt quan trọng, trong việc điều tra. Đây là nguồn để phát hiện, thu

lượm các dấu vết và hung khí, công cụ, phương tiện phạm tội và các tài liệu

liên quan đến vụ án, từ đó xác định được đối tượng gây án hoặc định hình

được phương án điều tra. Khi khám nghiệm hiện trường, VKS có quyền yêu

cầu ĐTV hoặc những người biết về vụ việc cung cấp các thông tin liên quan

đến vụ việc cần khám nghiệm hiện trường; yêu cầu ĐTV thu giữ, niêm phong,

bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật hoặc dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ

việc khám nghiệm; lập biên bản, chụp ảnh, vẽ sơ đồ; kiểm tra, đối chiếu giữa

sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu liên quan

khác so với thực tế hiện trường, diễn biến quá trình khám nghiệm hiện trường

31

để bảo đảm chính xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp

luật.

Thứ hai: Thực hành quyền công tố trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can

- Khởi tố vụ án: VKS có quyền yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự

hoặc trực tiếp khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn 03 ngày kể từ khi nhận

được quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội Cố ý gây thương tích cùng các

tài liệu có liên quan của CQĐT, nếu VKS thấy có căn cứ thì phân công KSV

thực hành quyền công tố, nếu thấy chưa đủ căn cứ thì yêu cầu CQĐT bổ sung

tài liệu, chứng cứ để làm rõ, nếu thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự không

có căn cứ thì ra văn bản yêu cầu CQĐT hủy bỏ quyết định đó; nếu CQĐT

không nhất trí thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự

và trực tiếp khởi tố vụ án.

Đối với trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của Hội đồng xét xử,

trong thời hạn 03 ngày nếu VKS thấy yêu cầu đó là có căn cứ thì khởi tố vụ

án và chuyển quyết định khởi tố vụ án cùng các tài liệu có liên quan đến

CQĐT để tiến hành điều tra, nếu thấy không có căn cứ thì ra quyết định

không khởi tố vụ án và chuyển quyết định đó đến Tòa án có thẩm quyền.

Bên cạnh đó, VKS có quyền yêu cầu CQĐT thay đổi, bổ sung hoặc trực

tiếp thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định

tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra; quyết định bổ

sung quyết định khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ xác định còn tội phạm

khác chưa bị khởi tố. Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định

khởi tố vụ án hình sự của CQĐT không có căn cứ thì VKS yêu cầu CQĐT

hủy bỏ quyết định đó. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết

định này. Tuy nhiên, chỉ thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự trong

trường hợp thay đổi tội danh; còn nếu hành vi của bị can phạm vào khoản

khác của tội danh đã khởi tố thì không phải ra quyết định thay đổi quyết định

khởi tố vụ án hình sự.

32

- Khởi tố bị can: Thẩm quyền khởi tố bị can chủ yếu thuộc về CQĐT.

Quyết định khởi tố bị can là cơ sở cho việc điều tra một cách toàn diện, đầy

đủ đối với người phạm tội; khởi tố bị can không đúng sẽ gây khó khăn cho

quá trình điều tra, giải quyết vụ án; xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp

của bị can, người bị hại, người liên quan... hoặc nghiêm trọng hơn là dẫn tới

oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để bảo đảm CQĐT khởi tố bị can đúng người, đúng

tội, VKS có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đối với việc ra quyết định khởi tố bị

can của CQĐT:

Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Viện kiểm sát có quyền

phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp

luật. Trong thời gian 24 giờ kể khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải

gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho VKS

cùng cấp để xét phê chuẩn. Sau khi nhận được Quyết định khởi tố bị can,

VKS có trách nhiệm kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định

khởi tố bị can trên cơ sở nghiên cứu, kiểm tra các tài liệu có trong hồ sơ vụ

án. Nếu xét thấy quyết định khởi tố bị can của CQĐT có căn cứ và hợp pháp

thì trong thời hạn 03 ngày, VKS ra Quyết định phê chuẩn khởi tố bị can và

gửi quyết định đó cho Cơ quan đã khởi tố. Nếu thấy chưa rõ căn cứ xác định

bị can phạm tội thì VKS phải yêu cầu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài liệu,

chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được

chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định

hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Còn nếu thấy quyết định khởi tố bị can của

CQĐT trái quy định pháp luật, không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì VKS ra

quyết định hủy bỏ Quyết định khởi tố bị can của CQĐT. Trong trường hợp cần

thiết, để xác minh, làm rõ căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị

can, VKS có thể trực tiếp, hỏi cung bị can, lấy lời khai những người làm chứng,

người bị hại trước khi quyết định việc phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi tố

bị can của CQĐT.

33

Quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị

can. Cùng với quy định thẩm quyền của VKS trong việc phê chuẩn hoặc hủy

bỏ Quyết định khởi tố bị can, VKS còn có thẩm quyền quyết định khởi tố bị

can hoặc yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Trường hợp phát hiện

có người đã thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm chưa bị khởi tố

thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. VKS trực tiếp ra quyết

định khởi tố bị can nếu đã yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện. Trong thời

hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, VKS phải gửi cho CQĐT để

tiến hành điều tra.

Phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố

bị can của CQĐT; Yêu cầu CQĐT hoặc trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định

quyết định khởi tố bị can. VKS thay đổi quyết định khởi tố bị can khi tiến

hành điều tra nếu có căn cứ xác định hành vi của bị can không phạm vào tội

đã bị khởi tố hoặc quyết định khởi tố ghi không đúng họ, tên, tuổi, nhân thân

của bị can. Nếu có căn cứ xác định bị can còn thực hiện hành vi khác mà

BLHS quy định là tội phạm thì CQĐT, VKS phải bổ sung quyết định quyết

định khởi tố bị can.

Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung

quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định này và tài liệu có liên

quan cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày

nhận được quyết định này, VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định

hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc yêu

cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi

ngay cho CQĐT. Trường hợp VKS yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì

trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, VKS

ra quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết

định khởi tố bị can.

34

Khi phát hiện các căn cứ phải thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị

can thì VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi

tố bị can. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay

đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi

VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, VKS phải

gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra. Trường hợp xác định được hành vi của

bị can phạm vào tội được quy định tại khoản khác nhưng cùng trong tội Cố ý

gây thương tích thì không phải thay đổi quyết định khởi tố bị can.

VKS yêu cầu CQĐT ra quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố

bị can khi phát hiện các căn cứ phải thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị

can. Nếu CQĐT không thực hiện thì VKS trực tiếp ra quyết định thay đổi

hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi VKS

ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, VKS phải gửi

cho CQĐT để tiến hành điều tra. Trường hợp xác định được hành vi của bị

can phạm vào tội được quy định tại khoản khác với khoản trong cùng một

điều luật về cùng một tội danh đã khởi tố đối với bị can thì không phải thay

đổi quyết định khởi tố bị can.

Quyết định khởi tố bị can có tác động sâu sắc tới người bị khởi tố, thể

hiện công khai việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người. Do vậy

mà pháp luật đã trao quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can cũng như

quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can cho VKS, tức là giao

quyền quyết định cuối cùng về việc khởi tố hay không khởi tố một công dân

cho VKS. Do vậy, quy định này nhằm bảo đảm việc khởi tố một công dân

đúng căn cứ, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.

Thứ ba: Đề ra yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến hành một số hoạt động

điều tra.

- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT thực hiện. Yêu cầu điều tra

là hoạt động tố tụng quan trọng trong việc gắn chức năng công tố với điều tra

35

như tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 49/ NQ-TW của Bộ chính trị. Trong quá

trình THQCT, kiểm sát điều tra vụ án hình sự, KSV đề ra yêu cầu điều tra khi

cần làm rõ về tội phạm, người phạm tội và những vấn đề phải chứng minh

trong vụ án hoặc để hoàn thiện thủ tục tố tụng. Việc đề ra yêu cầu điều tra có

ý nghĩa quan trọng đối với các KSV trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án

hình sự đối với tội Cố ý gây thương tích, đây là quyền hạn theo tố tụng và

cũng là trách nhiệm pháp lý của các KSV. Yêu cầu điều tra có thể được thực

hiện nhiều lần, bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Tuy nhiên, đối với vụ án Cố ý

gây thương tích thường phức tạp và có nhiều tình tiết phải chứng minh thì yêu

cầu điều tra cần phải được thực hiện bằng văn bản vì nó thể hiện đầy đủ ý chí,

quan điểm của KSV trong quá trình giải quyết vụ án và được lưu trong hồ sơ

tố tụng; yêu cầu điều tra bằng lời nói thường được dùng trong quá trình trực

tiếp kiểm sát các hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,

khám xét, hỏi cung bị can...Nội dung yêu cầu điều tra phải cụ thể, rõ ràng, sát

với nội dung vụ án, định hướng thu thập chứng cứ để làm rõ cấu thành tội

phạm, những vấn đề phải chứng minh trong vụ án.

Về phía CQĐT, Điều tra viên được phân công điều tra vụ án phải thực

hiện yêu cầu điều tra của KSV; nếu thấy cần thiết, Điều tra viên có thể trao

đổi với KSV để làm rõ những nội dung của yêu cầu điều tra. Trường hợp có

nội dung yêu cầu điều tra mà Điều tra viên không nhất trí thì Điều tra viên

báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; KSV báo cáo Viện trưởng, Phó

Viện trưởng VKS để thống nhất về nội dung yêu cầu điều tra. Trường hợp

CQĐT không thực hiện yêu cầu điều tra của VKS hoặc đã tiến hành các hoạt

động điều tra nhưng do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được yêu

cầu điều tra của VKS thì CQĐT phải nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra.

- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp cần

thiết. VKS có quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong

trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh,

36

quyết định của CQĐT, hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt

tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không

được khắc phục hoặc trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi

quyết định việc truy tố.

Liên quan đến nội dung VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều

tra, hiện này còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng VKS đã có

quyền đề ra yêu cầu điều tra thì không cần thiết phải trao cho VKS thẩm

quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để tránh tình trạng chồng

chéo, không xác định rõ người có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra.

Hoạt động điều tra chủ yếu được giao cho CQĐT vì đây là cơ quan chuyên

trách, có kinh nghiệm trong việc tiến hành các hoạt động điều tra. Tuy nhiên,

trong thực tiễn khi thấy cần thiết bổ sung chứng cứ, tài liệu để quyết định phê

chuẩn hoặc ra các quyết định theo quy định của BLTTHS, hoặc khi phát hiện

có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm thì VKS phải trực tiếp điều tra nếu yêu

cầu điều tra không được CQĐT thực hiện hoặc nếu có căn cứ xác định rằng

việc điều tra đó sẽ không được khách quan nếu giao cho CQĐT thực hiện.

Quy định này còn phù hợp với những chủ trương về cải cách tư pháp “không

để lọt tội phạm và người phạm tội” và “tăng cường trách nhiệm công tố trong

hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra” tại Văn kiện Đại hội

Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, KSV có quyền tiến hành một số

hoạt động như: trực tiếp hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan,

khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm

pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết. Trực tiếp lấy lời

khai người làm chứng trong trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của Điều tra

viên không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét cần làm rõ chứng

cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố

tụng của CQĐT hoặc để quyết định việc truy tố. Tổ chức đối chất và thực

37

nghiệm điều tra trong trường hợp đã yêu cầu nhưng Điều tra viên không thực

hiện hoặc khi thấy cần thiết để thu thập chứng cứ.

Ngoài ra, khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền kiến nghị

với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý bị can tạm đình chỉ chức vụ của

bị can khi xét thấy khi bị can tiếp tục giữ chức vụ gây khó khăn cho hoạt động

điều tra.

Thứ tư: Thực hành quyền công tố trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ

các biện pháp ngăn chặn

Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong TTHS được

áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong

trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang)

nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục

phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc

nhằm bảo đảm việc thi hành án.

VKS có trách nhiệm bảo đảm các các hoạt động điều tra, các biện pháp

ngăn chặn, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị bắt, tạm giữ, tạm

giam, bị can, bị cáo được tuân thủ đúng quy định của pháp luật. VKS vừa là

cơ quan có quyền quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn đồng thời cũng

là cơ quan kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn của CQĐT để bảo

vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,

cá nhân, bảo đảm việc áp dụng các biện pháp này là hợp pháp và cấn thiết.

Thông qua việc phê chuẩn, VKS có thể ngăn chặn những hoạt động xâm

phạm các quyền công dân không được pháp luật cho phép; ngăn ngừa sự lạm

quyền, lạm dụng các biện pháp cưỡng chế của CQĐT. Trong giai đoạn điều

tra, hầu hết các quyết định tố tụng của CQĐT đều phải được VKS phê chuẩn,

trừ những trường hợp đặc biệt mà nếu chờ sự phê chuẩn của VKS thì việc

thực hiện các quyết định đó sẽ có khả năng không thực hiện được. Ngoài

quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn các lệnh, quyết định áp dụng các biện

38

pháp ngăn chặn của CQĐT thì VKS còn có thẩm quyền trực tiếp áp dụng,

thay đổi, hủy bỏ một số biện pháp ngăn chặn ở giai đoạn điều tra khi thấy

không còn cần thiết hoặc trong các trường hợp có quyết định không khởi tố

vụ án hình sự hoặc có quyết định đình chỉ đối với vụ án, đối với bị can. Đối

với những biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn trong giai đoạn điều tra thì

việc hủy bỏ hoặc thay thế các biện pháp này phải do VKS quyết định.

Thứ năm: Phê chuẩn, yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp điều tra tố

tụng đặc biệt.

Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt tạo hành lang pháp lý cho CQĐT

chủ động thu thập thông tin, tài liệu, bổ sung nguồn chứng cứ quan trọng

trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Theo đó, sau khi khởi tố vụ án, trong

quá trình điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp dụng các

biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm ghi âm, ghi hình bí mật, nghe điện

thoại bí mật và thu thập bí mật dữ liệu điện tử.

Với tính chất là biện pháp điều tra đặc biệt, có tác động rất lớn tới các

quyền cơ bản của con người như quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện

thoại, điện tín... do đó biện pháp này cần phải được tiến hành với một thủ tục

chặt chẽ và chịu sự phê chuẩn, giám sát chặt chẽ của VKS. Biện pháp này chỉ

được áp dụng đối với một số loại tội phạm đặc biệt; sau khi có quyết định

khởi tố và chỉ có Thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh, Thủ trưởng CQĐT quân sự cấp

quân khu trở lên mới có quyền ra quyết định áp dụng. Sau khi ban hành, quyết

định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải được Viện trưởng

VKSND cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Việc áp dụng biện pháp điều

tra này cũng chỉ trong một thời hạn nhất định, không quá 02 tháng (có thể gia

hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định) kể từ ngày Viện trưởng

VKS phê chuẩn. Sau khi áp dụng, Thủ trưởng CQĐT đã ra quyết định áp

dụng có trách nhiệm kiểm tra chặt chẽ việc áp dụng biện pháp này, kịp thời đề

nghị VKS hủy bỏ nếu xét thấy không cần thiết. Biện pháp điều tra tố tụng đặc

39

biệt được áp dụng đối với tội Cố ý gây thương tích khi thuộc trường hợp có tổ

chức hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Thứ sáu: Thực hành quyền công tố trong tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra

VKS có trách nhiệm bảo đảm việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra đúng

quy định pháp luật. Trong vòng 02 ngày kể từ khi ra quyết định tạm đình chỉ

điều tra, CQĐT phải gửi ngay quyết định này cho VKS; nếu thấy quyết định

tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ, trái pháp luật thì VKS ra quyết định

huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ của CQĐT và yêu cầu CQĐT phục hồi điều

tra. Trong quá trình theo dõi, quản lý hồ sơ tạm đình chỉ điều tra, đối với

những trường hợp tạm đình chỉ điều tra, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách

nhiệm hình sự thì VKS phải yêu cầu CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra.

Đối với đình chỉ điều tra, do hậu quả pháp lý của quyết định đình chỉ điều tra

là chấm dứt mọi hoạt động tố tụng đối với vụ án hoặc bị can, do đó trong thời

hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ

sơ vụ án; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì VKS trả lại hồ sơ

cho CQĐT để giải quyết theo thẩm quyền; nếu quyết định đình chỉ điều tra

không có căn cứ và trái pháp luật thì ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ

điều tra của CQĐT và yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền phục hồi điều tra.

Thứ bảy: THQCT trong việc quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra,

thời hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng

biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án.

Thời hạn điều tra trong vụ án Cố ý gây thương tích là quãng thời gian

được quy định cho hoạt động điều tra mà CQĐT phải tiến hành tất cả các biện

pháp để làm rõ hành vi phạm tội và các tình tiết khác có liên quan, ra bản kết

luận điều tra đề nghị truy tố. Tuy nhiên, đối với những vụ án phức tạp thì có

thể được gia hạn thời hạn điều tra và CQĐT phải có văn bản để nghị gia hạn.

Sau khi nhận được văn bản đề nghị gia hạn cùng các tài liệu có liên quan, nếu

thấy có căn cứ thì VKS ra quyết định gia hạn.

40

Trong quá trình THQCT, nếu thấy có căn cứ chuyển vụ án để giải

quyết theo thẩm quyền thì VKS yêu cầu CQĐT có văn bản đề nghị. VKS ra

quyết định chuyển vụ án khi thuộc một trong các trường hợp: CQĐT thấy vụ

án không thuộc thẩm quyền điều tra và đề nghị chuyển vụ án, CQĐT cấp trên

rút vụ án để điều tra, Điều tra viên bị thay đổi là Thủ trưởng CQĐT và VKS

đã yêu cầu CQĐT chuyển vụ án mà CQĐT không thực hiện.

Thủ tục rút gọn nhằm mục đích đảm bảo việc giải quyết vụ án được

nhanh chóng nhưng phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục. Thủ tục rút gọn được

áp dụng đối với những vụ án đủ điều kiện như người thực hiện hành vi phạm

tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ

rõ ràng, tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, người phạm tội có

nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Thông thường, các vụ án cố ý gây thương tích

thường có nhiều tình tiết phức tạp cần phải làm rõ, người bị hại phải điều trị

thương tích, chờ kết luận giám định pháp y về thương tích nên thủ tục rút gọn

thường không được áp dụng đối với tội Cố ý gây thương tích.

Đối với trường hợp bị can là người mất hoặc hạn chế năng lực nhận

thức và điều khiển hành vi phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, trong

thời hạn 03 ngày kể từ khi nhận được văn bản đề nhị áp dụng biện pháp bắt

buộc chữa bệnh của CQĐT, VKS thấy có căn cứ thì ra quyết định áp dụng

biện pháp bắt buộc chữa bệnh và CQĐT phải ra quyết định tạm đình chỉ hoặc

đình chỉ điều tra đối với bị can. Nếu thấy chưa đủ căn cứ thì yêu cầu CQĐT

trưng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại.

Đối với trường hợp nhập hoặc tách vụ án hình sự của CQĐT, nếu VKS

thấy quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự không có căn cứ thì ra quyết

định hủy bỏ. Nếu thấy vụ án đủ điều kiện phải nhập hoặc tách vụ án hình sự

để tiến hành điều tra nhưng CQĐT không thực hiện thì VKS ra văn bản yêu

cầu CQĐT ra quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự.

41

Kết luận chương 1

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã đưa ra quan điểm của mình về

khái niệm “giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, “quyền công tố”, “thực hành

quyền công tố”. Theo đó trong khuôn khổ luận văn tác giả sẽ nghiên cứu giai

đoạn điều tra vụ án hình sự từ khi CQĐT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

Đồng thời chương 1 luận văn cũng chỉ ra phạm vi, đối tượng, nội dung, vai

trò của THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói chung và THQCT

trong giai đoạn điều tra vụ án Cố ý gây thương tích nói riêng. Nội dung của

hoạt động này bao gồm: Yêu cầu CQĐT hoặc trực tiếp khởi tố hoặc thay đổi,

bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định phê

chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết

định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định áp dụng, thay

đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn điều

tra vụ án hình sự; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra

hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong một số trường hợp để

làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện

pháp điều tra tố tụng đặc biệt; quyết định một số nội dung như: gia hạn thời

hạn điều tra, thời hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút

gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Mục đích nhằm bảo vệ chế độ xã

hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và

thống nhất.

42

Chương 2

THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN

ĐIỀU TRA TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH TẠI TỈNH BẮC NINH

2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố

trong giai đoạn điều tra

Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra được quy định trong

Hiến pháp, các luật, đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, cụ thể:

* Quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014

Hiến pháp 2013 quy định VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát

hoạt động tư pháp. Cụ thể hóa nội dung trên, Điều 3 Luật tổ chức VKSND

năm 2014 quy định: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND

trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người

phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,

kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án

hình sự” nhằm đảm bảo “Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được

phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm

và người phạm tội” và “Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm

giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật”.

Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn

của VKSND khi THQCT trong giai đoạn điều tra tại Điều 14, cơ bản gồm các

như: Yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc trực tiếp khởi tố vụ

án, khởi tố bị can; thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố

bị can; quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố, thay

đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của CQĐT; Hủy bỏ quyết định khởi

tố vụ án, quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án không có căn

cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp

43

ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; đề ra

yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra để làm rõ tội phạm,

người phạm tội; yêu cầu CQĐT truy nã bị can, áp dụng biện pháp điều tra tố

tụng đặc biệt; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong một số

trường hợp; quyết định một số nội dung như: gia hạn thời hạn điều tra; thời

hạn tạm giữ, tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp

dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

* Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự: BLTTHS quy định nhiệm vụ,

quyền hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra từ khi khởi tố đến

khi kết thúc điều tra, cụ thể:

Thứ nhất: THQCT trong hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn,

VKS có các quyền phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, hủy bỏ quyết định tạm giữ của CQĐT

(khoản 1 Điều 159 BLTTHS); áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn

chặn như bắt bị can, bị cáo để tạm giam; tạm giam; bảo lĩnh, đặt tiền để bảo

đảm và cấm đi khỏi nơi cư trú (khoản 4,5 Điều 165 BLTTHS).

Thứ hai: THQCT trong hoạt động khởi tố vụ án hình sự, VKS có các

quyền yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự (khoản 4 Điều 159 BLTTHS);

trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong một số trường hợp (khoản 3, 8 Điều 165

BLTTHS); hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố

vụ án hình sự; yêu cầu CQĐT thay đổi, bổ sung hoặc trực tiếp thay đổi, bổ

sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; yêu cầu CQĐT hoặc trực tiếp hủy bỏ

quyết định quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự

của CQĐT không có căn cứ (khoản 1, 3 Điều 165 BLTTHS).

Thứ ba: THQCT trong hoạt động khởi tố bị can, VKS có các quyền phê

chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can không có căn cứ và trái pháp luật,

phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can

của CQĐT (khoản 2 Điều 165 BLTTHS); quyết định khởi tố bị can hoặc yêu

44

cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can (khoản 1 Điều 165, khoản 4 Điều 179

BLTTHS); yêu cầu CQĐT hoặc trực tiếp thay đổi, bổ sung quyết định quyết

định khởi tố bị can (khoản 1, 2, 3 Điều 165 BLTTHS. Căn cứ thay đổi quyết

định khởi tố bị can của CQĐT, VKS được quy định Điều 180 BLTTHS.

Thứ tư: THQCT trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền trực tiếp tiến

hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp cần thiết (khoản 7 Điều 165

BLTTHS). VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra như triệu tập và

hỏi cung bị can trong một số trường hợp (khoản 4 Điều 182, khoản 4 Điều

183 BLTTHS); triệu tập và hỏi người làm chứng (khoản 5 Điều 183

BLTTHS); đối chất nếu thấy cần thiết (khoản 5 Điều 189 BLTTHS); trực tiếp

tiến hành thực nghiệm điều tra nếu cần thiết (khoản 4 Điều 204 BLTTHS)…

Thứ năm: THQCT trong hoạt động tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra,

VKS có các quyền huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ điểu tra, đình chỉ của

CQĐT và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra theo quy định nếu thấy quyết định

tạm đình chỉ điểu tra, đình chỉ điều tra không có căn cứ, trái pháp luật (khoản

1 Điều 235 BLTTHS).

Thứ sáu: VKS có quyền quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời

hạn tạm giam; quyết định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện

pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ án (khoản 9 Điều

165 BLTTHS); phê chuẩn, yêu cầu CQĐT áp dụng biện pháp điều tra tố tụng

đặc biệt (khoản 3 Điều 225 BLTTHS).

* Quy định trong các thông tư liên tịch:

Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-

VKSNDTC ngày 29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính,

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, VKSND tối cao (Thông tư số

01/2017) áp dụng khi THQCT đối với trường hợp tiếp nhận, giải quyết nguồn

tin về tội phạm.

45

Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP

ngày 22/12/2017 của VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an,

Bộ Quốc phòng (Thông tư số 02/2017) áp dụng khi THQCT đối với trường

hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày

19/10/2018 của VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (Thông tư số

04/2018) áp dụng khi THQCT đối với việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, yêu

cầu điều tra, VKS trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra, áp dụng, thay

đổi các biện pháp ngăn chặn.

Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-

BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối

cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động thương binh và Xã hội (Thông tư

số 06/2018) áp dụng khi THQCT đối với người dưới 18 tuổi.

* Quy định trong quy chế của ngành Kiểm sát: Hoạt động THQCT

trong giai đoạn điều tra của VKSND được quy định trong Quy chế Công tác

thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố kèm theo

Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối

cao (thay thế Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát

việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 03/QĐ-

VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện KSND tối cao). Quy chế quy

định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND, KSV khi thực hành quyền công tố

trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố và điều tra vụ

án hình sự.

2.2. Tình hình thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội

cố ý gây thương tích tại tỉnh Bắc Ninh

2.2.1. Một số đặc điểm cơ bản của tỉnh Bắc Ninh có ảnh hưởng, tác

động đến hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý

gây thương tích

46

* Ảnh hưởng tích cực

- Tỉnh Bắc Ninh là tỉnh có diện tích nhỏ nhất cả nước, địa hình chủ yếu

là đồng bằng nên giao thông thuận lợi, việc THQCT của KSV đảm bảo kịp

thời, hiệu quả.

- Bắc Ninh là thành phố đang phát triển, tập trung nhiều trường Đại

học, học viện, trung tâm giáo dục như trường Đại học Chính trị, Đại học Kinh

Bắc, Đại học Kinh doanh và Công nghệ, Cao đẳng Sư phạm Bắc Ninh... Đây

cũng là điểm đến của nhiều dự án cơ sở hai của các trường đại học, học viện

nổi tiếng cả nước như: Đại học Dược Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại

học Luật Hà Nội... Đây là điều kiện thuận lợi, là nguồn kiến thức giá trị để

các cán bộ VKS có điều kiện học tập, nghiên cứu.

- Bắc Ninh là nơi tập trung một đội ngũ đông đảo cán bộ, trí thức có

trình độ học vấn nên trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của dân

cư khá cao và tự giác.

- Công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ trật tự pháp luật,

đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được sự quan tâm, chỉ

đạo sát sao của các cấp ủy, Đảng và chính quyền đã thu hút đông đảo các tầng

lớp quần chúng nhân dân tham gia, góp phần không nhỏ trong việc kiềm chế,

giảm hoạt động của tội phạm và tệ nạn xã hội.

- Bắc Ninh là tỉnh có sự phát triển về kinh tế rất mạnh, với quy mô nền

kinh tế đứng thứ tư cả nước, thu ngân sách nhà nước năm 2018 là 21,6 nghìn

tỷ đồng, hiện đã được Chính phủ thông qua Đề án xây dựng Bắc Ninh trở

thành thành phố trực thuộc trung ương. Do vậy, các hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ

thuật của các cơ quan nhà nước được tăng cường, trong đó có VKS. Trong

vòng 2 năm, đã có 01 trụ sở đơn vị VKS được xây dựng mới; được phê duyệt

chủ trương xây dựng mới 03 trụ sở; tiến hành sửa chữa, cải tạo 04 trụ sở; hiện

đang xin phê duyệt chủ trương xây dựng 02 trụ sở. Kinh phí hỗ trợ hàng năm

của địa phương đối với VKS cũng được tăng cường, do đó mà các cán bộ,

47

Kiểm sát viên có điều kiện làm việc thuận lợi, yên tâm hoàn thành công tác,

nhiệm vụ được giao.

- Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh luôn được kịp thời được phổ biến,

triển khai những Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tư pháp... Do vậy

các cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp tỉnh Bắc Ninh đều xác định và nhận thức

được các yêu cầu nhiệm vụ của ngành trong giai đoạn mới để từ đó phấn đấu,

hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

- Ngành KSND tỉnh Bắc Ninh luôn xác định chính xác các nhiệm vụ

đột phá trọng tâm theo từng năm theo Chỉ thị công tác hàng năm của Viện

KSND tối cao, tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên sâu về các bộ luật, các văn

bản quy phạm pháp luật về tư pháp mới (đặc biệt về BLHS và BLTTHS năm

2015) và các lớp bồi dưỡng, nâng cao năng lực của cán bộ, kiểm sát viên hai

cấp trong THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tất cả các lĩnh vực. Do

đó chất lượng công tác kiểm sát được tăng cường, đạt nhiều kết quả tích cực.

* Ảnh hưởng tiêu cực

Là địa phương tập trung vào sản xuất công nghiệp, hiện toàn tỉnh có 16

Khu công nghiệp tập trung với tổng diện tích 6.500 ha, thu hút lao động từ

khắp các địa phương khác nhau (ước tính 277.000 người). Do đó kèm theo

với sự phát triển về kinh tế, tình hình tội phạm tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn

ra hết sức phức tạp, tội phạm ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn quy mô,

phương thức và thủ đoạn phạm tội, đặc biệt là các vụ án ma túy, trộm cắp,...

Người lao động đến từ các địa phương khác nhau trên cả nước cũng khiến

việc quản lý nhân khẩu, cho đến việc xác minh lý lịch bị can trở nên khó

khăn. Ngoài ra, tỉnh Bắc Ninh cũng là địa phương thu hút rất nhiều dự án đầu

tư nước ngoài (với tổng số 33 quốc gia khác nhau), số người nước ngoài sống

và làm việc tại tỉnh cũng khá cao (ước tính 50.000 người); do vậy đối với

trường hợp người phạm tội là người nước ngoài, việc thực hiện Cùng với đó, số

lượng vụ án hình sự phát sinh trên địa bàn khá lớn (năm 2019 số vụ án hình sự

48

được khởi tố của tỉnh Bắc Ninh đứng thứ 7 toàn quốc), do vậy mà việc khối

lượng công việc của mỗi cán bộ, Kiểm sát viên là khá cao, phải kiêm nhiệm

nhiều nhiệm vụ, dẫn đến có những thời điểm quá tải công việc, việc thực hiện

nhiệm vụ không được sâu sát, còn những sai sót khó tránh khỏi.

2.2.2. Một số đặc điểm của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh có

ảnh hưởng đến việc thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự

Viện KSND tỉnh Bắc Ninh có 08 VKS cấp huyện và 01 VKS cấp tỉnh.

Tại Viện KSND cấp tỉnh có 11 phòng nghiệp vụ và tham mưu. Năm 2019,

VKSND tỉnh Bắc Ninh được VKSND tối cao giao 172 biên chế. Đến nay

tổng toàn ngành có 194 người, trong đó: Biên chế là 168/172; Hợp đồng theo

Nghị định 68/CP là 26/30; Kiểm sát viên trung cấp là 46/48; Kiểm sát viên sơ

cấp là 58/59; Kiểm tra viên là 24. Tổng số Kiểm sát viên THQCT hai cấp

Viện KSND tỉnh Bắc Ninh là 104 Kiểm sát viên (trong đó Kiểm sát viên

trung cấp là 46 đồng chí, Kiểm sát viên sơ cấp là 58 đồng chí) và 24 Kiểm tra

viên. Đội ngũ có chức danh tư pháp hiện nay ở các phòng án hình sự nhiều

nhất cũng chỉ có 04 kiểm sát viên trung cấp, 03 Kiểm sát viên sơ cấp.VKS

cấp huyện cao nhất cũng chỉ có 08 Kiểm sát viên sơ cấp và 03 Kiểm sát viên

trung cấp. Về trình độ chuyên môn hiện nay 44 đồng chí có trình độ thạc sỹ;

133 đồng chí có trình độ đại học; 03 đồng chí có trình độ cao đẳng, trung cấp.

2.3. Kết quả hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều

tra tội Cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh những năm qua

Trong những năm qua, công tác THQCT đối với tội Cố ý gây thương

tích ở Viện KSND tỉnh Bắc Ninh đã đạt được những kết quả đáng kể, về cơ

bản đã đảm bảo đạt được: Các hành vi vi phạm và tội phạm đều được phát

hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, đạt kết quả cao, không làm oan người vô tội

và không bỏ lọt tội phạm. VKS đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ

quan tư pháp, tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, kiềm

chế sự gia tăng của tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

49

toàn xã hội trên phạm vi toàn tỉnh. VKS đã có nhiều đề xuất, yêu cầu, kiến

nghị với CQĐT và với cấp uỷ, chính quyền địa phương, tăng cường công tác

lãnh đạo, chỉ đạo trên lĩnh vực quản lý Nhà nước, kinh tế xã hội, góp phần

phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Bảng 2.1. Số vụ án, bị can tội Cố ý gây thương tích khởi tố

trong giai đoạn 2015-2019 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%)

Tổng số bị can khởi tố trong kỳ Số bị can tội Cố ý gây thương tích

Năm Tổng số vụ án khởi tố trong kỳ

2015 1.221 Số vụ án tội Cố ý gây thương tích 109 8,9 2.008 141 7,0

2016 1.272 80 6,3 1.996 81 4,6

2017 1.709 91 5,3 2.620 115 4,4

2018 1.648 84 5,1 2.438 96 4,0

2019 1.563 89 5,7 2.458 131 5,3

Tổng 7.324 453 6,2 11.520 564 4,9

Nguồn: Văn phòng TH&TKTP Viện KSND tỉnh Bắc Ninh

Qua số liệu thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2015-2019 các cơ quan

tiến hành tố tụng đã thụ lý và khởi tố một số lượng án hình sự khá lớn (7.324

vụ án/11.520 bị can). Trong đó, tội Cố ý gây thương tích chiếm tỷ lệ khá cao

(453 vụ án/564 bị can) và duy trì qua các năm. Điều này cho thấy tình hình tội

phạm Cố ý gây thương tích vẫn diễn biến phức tạp, thủ đoạn phạm tội ngày

càng tinh vi, tính chất phạm tội phức tạp, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm

trọng, nhiều vụ án có số đông đối tượng tham gia và sử dụng vũ khí nóng dao,

súng, kiếm…

* Thực hành quyền công tố trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can

Bảng 2.2. Kết quả THQCT trong khởi tố vụ án tội Cố ý gây thương tích của

VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019

50

Số vụ VKS ra QĐ khởi tố vụ án

Năm Số vụ án tội Cố ý gây thương tích Số vụ VKS yêu cầu CQĐT KTVA Số vụ VKS hủy QĐKTV A của CQĐT Số vụ VKS hủy QĐKKT VA của CQĐT

Số vụ VKS yêu cầu CQĐT thay đổi, bổ sung QĐKTVA 1 0 0 2015 109 2 0

0 0 0 2016 80 1 0

0 0 0 2017 91 2 0

0 0 0 2018 84 3 0

0 0 0 2019 89 1 0

1 0 0 Tổng 453 9 0

Nguồn: Văn phòng TH&TKTP Viện KSND tỉnh Bắc Ninh

Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã chú trọng THQCT trong việc giải

quyết nguồn tin về tội phạm của CQĐT đối với hành vi cố ý gây thương tích.

Thông qua đó phát hiện, kịp thời xử lý các vi phạm, nhất là tình trạng bỏ lọt

tội phạm. Kịp thời yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu của

tội phạm. Các yêu cầu khởi tố vụ án chủ yếu xảy ra đối với các trường hợp

nạn nhân bị thương tích khá nặng, chưa có kết luận giám định thương tích của

cơ quan chuyên môn và nạn nhân chưa có yêu cầu khởi tố vụ án nhưng qua

xem xét các tài liệu chứng cứ, (giấy chứng nhận thương tích, hồ sơ bệnh án,

dấu vết thân thể…) VKS thấy có đầy đủ dấu hiệu của tội Cố ý gây thương

tích. Điều này cho thấy Viện KSND hai cấp đã thực hiện tốt hoạt động

THQCT trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm, góp phần quan

trọng vào việc làm giảm tình trạng bỏ lọt tội phạm. Không có trường hợp nào

VKS phải trực tiếp khởi tố vụ án hay phải hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án,

quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT.

Bảng 2.3. Kết quả THQCT trong khởi tố bị can tội Cố ý gây thương tích

của VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015-2019

51

Năm

VKS hủy bỏ QĐKTBC

VKS yêu cầu CQĐT khởi tố bị can

VKS yêu cầu CQĐT thay đổi, bổ sung QĐKTBC

2015 VKS phê chuẩn KTBC tội Cố ý gây thương tích 141 1 0 0

2016 81 0 0 0

2017 115 2 0 0

2018 96 4 0 0

2019 131 3 0 0

Tổng 564 10 0 0

Nguồn: Văn phòng TH&TKTP Viện KSND tỉnh Bắc Ninh

Trong giai đoạn từ 2015-2019, Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã

phê chuẩn 464 quyết định khởi tố bị can đối với hành vi Cố ý gây thương tích.

Quá trình THQCT và kiểm sát điều tra phát hiện các trường hợp có người đã

thực hiện hành vi mà BLHS quy định là tội phạm nhưng chưa bị CQĐT khởi

tố (bỏ lọt tội phạm). Việc VKS yêu cầu CQĐT khởi tố bị can đa số xảy ra

trong trường hợp giữa Kiểm sát viên và Điều tra viên có nhận thức và đánh

giá chứng cứ khác nhau đối với hành vi của người bị tố giác đã đủ cấu thành

tội phạm hay chưa hoặc khi trong vụ án còn có đồng phạm khác. Trong giai

đoạn này, VKS không phát hiện quyết định khởi tố bị can không có căn cứ

của CQĐT, do đó VKS không ban hành Quyết định hủy bỏ Quyết định khởi

tố bị can của CQĐT.

Hoạt động THQCT trong khởi tố vụ án, khởi tố bị can của Viện KSND

hai cấp tỉnh Bắc Ninh đối với tội Cố ý gây thương tích đã được thực hiện khá

tốt, thể hiện vai trò, trách nhiệm đấu tranh với tội phạm của VKSND, không

để lọt tội phạm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và

công dân. Công tác phối hợp giữa VKS và CQĐT cùng cấp được duy trì

52

thường xuyên, góp phần bảo đảm việc khởi tố của CQĐT đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật vẫn rất cần thiết.

* Thực hành quyền công tố trong việc áp dụng, hủy bỏ biện pháp

ngăn chặn

Bảng 2.4. Kết quả THQCT trong việc áp dụng, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn

của VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đối với tội Cố ý gây thương tích

Năm

Số bị can VKS yêu cầu CQĐT bắt tạm giam

Số người VKS không phê chuẩn LTG

Số người VKS không phê chuẩn Lệnh bắt BC để TG

Số người VKS phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp

Số người VKS hủy bỏ Quyết định tạm giữ, không phê chuẩn gia hạn tạm giữ

Số người VKS không phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp 0 2015 1 3 0 0 0

2016 3 0 0 0 0 0

2017 3 0 0 0 0 0

2018 2 0 0 0 0 0

2019 2 0 0 0 0 0

Tổng 11 0 0 0 0 0

Nguồn: Văn phòng TH&TKTP Viện KSND tỉnh Bắc Ninh

Qua các số liệu thống kê cho thấy hoạt động THQCT trong việc áp

dụng các biện pháp ngăn chặn của Viện KSND tỉnh Bắc Ninh trong những

năm vừa qua đã đạt được những kết quả tích cực. Viện KSND hai cấp tỉnh

Bắc Ninh đã phê chuẩn cho tổng số 11 trường hợp bắt người bị giữ trong

trường hợp khẩn cấp liên quan đến hành vi cố ý gây thương tích để kịp thời

phục vụ cho hoạt động điều tra cũng như ngăn chặn không cho tội phạm tiếp

tục phạm tội. Do đặc thù của tội Cố ý gây thương tích CQĐT thường khởi tố

53

sau khi có kết luận giám định của cơ quan chuyên môn. Để có được kết luận

giám định cần đợi nạn nhân điều trị ổn định, sau đó mới đi giám định pháp y

được nên số trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp không nhiều.

Về cơ bản các trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp của

CQĐT đều có đủ căn cứ theo đúng quy định của pháp luật, do đó mà trong 05

năm không có trường hợp nào VKS không phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp. Các trường hợp CQĐT ra quyết định tạm giữ, gia

hạn tạm giữ (lần một và lần hai) đều đủ căn cứ, đúng quy định pháp luật. Do

đó, VKS chỉ hủy bỏ 03 Quyết định tạm giữ của CQĐT vào năm 2015 theo

quy định tại khoản 3 điều 86 BLTTHS năm 2003; không có trường hợp nào

VKS không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ nào của CQĐT. VKS đã

tiến hành phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam đối với tất cả

các trường hợp CQĐT đề nghị và đều đảm bảo có căn cứ và đúng pháp luật.

Nhìn chung, Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện và quản lý

tốt việc phê chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam, khắc phục tình trạng bắt, tạm giữ,

tạm giam thiếu căn cứ, vi phạm quyền tự do, dân chủ của công dân. Tình

trạng bắt, tạm giữ hình sự sau đó chuyển xử lý hình chính giảm hẳn, tỷ lệ bắt,

tạm giữ chuyển xử lý hình sự luôn đạt 100% trong vòng 05 năm. Việc áp

dụng các biện pháp ngăn chặn về cơ bản đã tuân thủ chặt chẽ quy định của

pháp luật, phục vụ cho hoạt động điều tra và giải quyết vụ án, bảo đảm quyền

con người, quyền công dân..

* Thực hành quyền công tố trong việc đề ra yêu cầu điều tra, trực

tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra

Bảng 2.5. Kết quả THQCT trong đề ra yêu cầu xác minh, yêu cầu điều tra

về tội Cố ý gây thương tích của Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh

Năm Số vụ án tội Cố ý gây Yêu cầu điều tra

54

2015 thương tích 109 63

2016 80 60

2017 91 85

2018 84 86

2019 89 93

Tổng 453 387

Nguồn: Văn phòng TH&TKTP – Viện KSND tỉnh Bắc Ninh

Yêu cầu điều tra là hoạt động tố tụng quan trọng trong việc gắn chức

năng với điều tra như tinh thần chỉ đạo của Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ

Chính trị. Tổng số yêu cầu điều tra của Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh

tăng dần qua các năm và tăng lên về tỷ lệ. Với đặc thù của tội Cố ý gây

thương tích, khi các bên xảy ra mâu thuẫn, xô xát thường làm đơn tố giác đến

CQĐT. Khi CQĐT khởi tố vụ án, các bên lại hòa giải được, bồi thường trách

nhiệm dân sự, người bị hại rút đơn trình báo và từ chối đi giám định thương

tích. Với nhiệm vụ không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm thì

việc ban hành yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên càng có ý nghĩa quan trọng.

Năm 2019, 100% số án mới khởi tố đều có yêu cầu điều tra, có vụ án Kiểm

sát viên đề ra 2-3 yêu cầu xác minh, yêu cầu điều tra, làm rõ những vấn đề

cần chứng minh trong vụ án hoặc để hoàn thiện thủ tục tố tụng, thể hiện vai

trò của Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra. Chất lượng yêu cầu điều tra của

Kiểm sát viên ngày càng tăng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp Kiểm sát

viên đề ra yêu cầu điều tra còn sơ sài, đề ra những yêu cầu mang tính chung

chung, hình thức, chất lượng không cao.

Theo quy định của BLTTHS thì VKS được trực tiếp tiến hành một số

hoạt động điều tra, Kiểm sát viên VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh luôn thực

hiện tốt hoạt động hỏi cung bị can trước khi quyết định truy tố, 100% vụ án

VKS ban hành quyết định truy tố trước Tòa án đều được Kiểm sát viên trực

55

tiếp hỏi cung bị can trước khi truy tố. Kiểm sát viên chủ động lấy lời khai của

người bị buộc tội trước khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hay các quyết

định tố tụng khác.

* Thực hành quyền công tố trong việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra

Bảng 2.6. Kết quả THQCT trong việc tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra

Năm

Số vụ án/bị can CQĐT đình chỉ điều tra Số vụ án/bị can CQĐT tạm đình chỉ điều tra

Số vụ án/bị can VKS hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra 0/0 Số vụ án/bị can VKS hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra 0/0 2015 24/27 22/03

2016 26/31 10/03 0/0 0/0

2017 21/31 13/0 0/0 0/0

2018 19/31 26/08 0/0 0/0

2019 23/27 15/03 0/0 0/0

86/17 0/0 Tổng 113/147 0/0

Nguồn: Văn phòng TH&TKTP – Viện KSND tỉnh Bắc Ninh

Về đình chỉ điều tra, trong 05 năm, CQĐT hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã

đình chỉ 113 vụ án/147 bị can về tội Cố ý gây thương tích. Đây đều là các vụ

án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, trong quá trình điều tra, người bị hại

rút đơn yêu cầu khởi tố nên CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án hình

sự, đình chỉ điều tra bị can. VKS kiểm sát chặt chẽ các căn cứ đình chỉ của

CQĐT. Từ đó đến nay, VKS chưa phát hiện ra trường hợp nào quyết định

đình chỉ điều tra không đủ căn cứ, trái quy định pháp luật để phải ra quyết

định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT.

Về tạm đình chỉ điều tra, trong 05 năm, CQĐT hai cấp tỉnh Bắc Ninh

đã tạm đình chỉ 86 vụ án/17 bị can, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do chưa

xác định được đối tượng gây án và bị can bỏ trốn. Cõ trường hợp tạm đình chỉ

để đưa bị can đi giám định tâm thần hoặc bắt buộc chữa bệnh. VKS chưa phát

56

hiện ra trường hợp nào quyết định tạm đình chỉ điều tra không đủ căn cứ, trái

quy định pháp luật để phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều

tra của CQĐT.

* Thực hành quyền công tố trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung

Bảng 2.7. Các vụ án Cố ý gây thương tích trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa

các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

giai đoạn 2015 -2019

Tỷ lệ

Số vụ có lỗi của VKS

Năm Tổng số vụ CQĐT kết thúc điều tra

Số vụ VKS trả HSĐTBS cho CQĐT 2 2015 71 2 2,8%

2016 81 2 2 2,5%

2017 48 0 0 0%

2018 43 1 1 2,3%

2019 47 2 2 4,2%

Tổng 290 7 7 2,0%

Nguồn: Văn phòng TH&TKTP – Viện KSND tỉnh Bắc Ninh

Trong giai đoạn 2015 – 2019, số vụ án VKS trả hồ sơ điều tra bổ sung

cho CQĐT là 07 vụ, chiếm tỷ lệ 2,0% tổng số vụ án CQĐT kết thúc điều tra

đề nghị truy tố. Vẫn còn tình trạng các vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung

với lý do thiếu chứng cứ quan trọng (như chưa xác định được hành vi, vị trí,

vai trò của người thực hiện hành vi tội phạm trong các vụ án có đồng phạm,

phạm tội có tổ chức; động cơ gây án của bị can; căn cứ quy kết trách nhiệm

của bị can; chưa thu giữ được vật chứng quan trọng của vụ án...).

Có thể thấy mặc dù tỷ lệ án trả hồ sơ điều tra bổ sung của VKSND tỉnh

Bắc Ninh vẫn khá thấp, tuy nhiên việc vẫn để xảy ra vụ án mà VKS phải trả

hồ sơ cho CQĐT đã thể hiện rõ những hạn chế trong công tác THQCT, trong

57

giai đoạn điều tra năng lực của Kiểm sát viên cũng như trong quan hệ phối

hợp giữa CQĐT và VKS.

2.4. Một số tồn tại, hạn chế khi thực hành quyền công tố trong giai

đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

Công tác THQCT trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích tại

tỉnh Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế sau:

Thứ nhất, việc sử dụng các quyền năng của VKS để khởi tố hoặc yêu

cầu khởi tố vụ án, bị can hoặc để hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định

không khởi tố không có căn cứ, trái pháp luật của CQĐT ở một số đơn vị còn

chưa hiệu quả. Có những vụ việc mà CQĐT không khởi tố, khởi tố chậm,

khởi tố không có căn cứ và không đúng, không đủ với hành vi mà đối tượng

đã thực hiện nhưng VKS không phát hiện được hoặc phát hiện được nhưng

không sử dụng một cách triệt để và có hiệu quả các quyền năng của mình để

kịp thời khắc phục nên vẫn còn xảy ra tình trạng tội phạm bị bỏ lọt, bị khởi tố

chậm; số lượng các vụ án hình sự đã khởi tố không phản ánh đúng thực trạng

số vụ phạm tội xảy ra.

Thứ hai, vẫn còn tình trạng KSV chưa làm hết trách nhiệm trong việc

thực hiện các quyền năng của VKS nên một số vụ án sau khi khởi tố bị thiếu

những chứng cứ quan trọng nhưng không còn khả năng khắc phục được dẫn

đến khó khăn trong việc xử lý, thậm chí phải đình chỉ vụ án. Kiểm sát viên

không kịp thời phát hiện những vi phạm, thiếu sót trong hồ sơ vụ án để yêu

cầu CQĐT khắc phục hoặc phát hiện nhưng bỏ mặc không xử lý, không báo cáo

lãnh đạo để có biện pháp tháo gỡ, khắc phục khó khăn dẫn đến các tài liệu, chứng

cứ thu thập được không đạt yêu cầu, chất lượng hồ sơ kém phải gia hạn điều tra,

gia hạn tạm giam, phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung.

Thứ ba, chất lượng phê chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam còn nhiều thiếu

sót: Kiểm sát viên ít khi đi sâu xem xét hồ sơ chứng cứ, hiện trường; nhiều

58

địa phương vẫn còn chủ quan dựa vào hồ sơ của CQĐT, ít trường hợp trực

tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để xác minh, kiểm tra chứng cứ.

Thứ tư, tình trạng trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung vẫn còn xảy ra khá

thường xuyên. Hàng năm vẫn còn số lượng đáng kể các vụ án phải trả hồ sơ điều

tra bổ sung với lý do chủ yếu là thiếu chứng cứ quan trọng, phải trả hồ sơ để bổ

sung chứng cứ. Có những vụ phải trả hồ sơ điều tra nhưng vẫn không khắc phục

được đầy đủ. Còn nhiều vi phạm trong việc xác định chứng cứ, tội danh và áp

dụng thủ tục tố tụng hình sự, do đó việc giải quyết kéo dài vụ án bị kéo dài.

2.5. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế:

2.5.1. Nguyên nhân khách quan:

- So với tình hình tội phạm diễn ra hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

(năm 2019 lượng án hình sự đứng thứ 7 toàn quốc) thì biên chế Kiểm sát viên

bố trí cho từng đơn vị chưa tương xứng với số lượng, yêu cầu của công việc.

Trong khi đó, yêu cầu cải cách tư pháp, quy định tố tụng hình sự hiện hành

đòi hỏi nâng cao trách nhiệm của từng Kiểm sát viên trong từng vụ việc, vụ

án từ giai đoạn tin báo đến giai đoạn xử lý xong vụ án dẫn đến áp lực rất lớn

đối với KSV để thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của mình.

- Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn chưa

đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Trong thời gian qua, tuy đã nhận được sự

quan tâm của Đảng và Nhà nước, của Lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh nhưng cơ sở

vật chất, điều kiện, trang thiết bị làm việc tại trụ sở của cán bộ ngành Kiểm

sát ở một số địa phương còn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, chưa có

đơn vị nào xây dựng được phòng ghi âm, ghi hình, đang từng bước thực hiện

được việc số hóa được hồ sơ. Chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp hiện nay

tuy đã được cải thiện vẫn chưa đáp ứng được biến động giá cả thị trường để

Kiểm sát viên yên tâm công tác, thực hiện nhiệm vụ.

- Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, tình hình tội phạm diễn ra

trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cũng ngày càng phức tạp, tuy lượng án hình sự

59

mới khởi tố có xu hướng giảm nhưng tính chất, mức độ nguy hiểm ngày càng

nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi. Nhiều vụ án có nhiều đối

tượng tham gia cấu kết với nhau theo tính chất băng, ổ, nhóm trên nhiều lĩnh

vực, địa bàn hoạt động ngày càng mở rộng. Tội phạm có xu hướng ngày càng

trẻ hóa, số vụ thanh, thiếu niên phạm tội tăng. Ngoài ra, với đặc thù là một

tỉnh có lượng người nước ngoài đến sinh sống và làm việc tại tỉnh khá đông,

công tác THQCT với các vụ án có yếu tố nước ngoài cũng là một khó khăn

không nhỏ.

2.5.2. Nguyên nhân chủ quan:

- Trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ, KSV còn

những hạn chế, yếu kém nhất định. Vẫn còn có những KSV chưa nắm vững

những quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và những văn bản liên

quan; còn lúng túng trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Khả

năng nghiên cứu hồ sơ vụ án, kỹ năng phát hiện vấn đề còn chưa tốt, tính chủ

động chưa cao, chưa thực sự bám sát quá trình điều tra, còn phụ thuộc vào kết

quả điều tra.

- Ý thức trách nhiệm của một bộ phận KSV chưa được phát huy đúng

mức với công việc được giao, chưa thực hiện đầy đủ các quy trình nghiệp vụ

cũng như quy định của BLTTHS. Yêu cầu điều tra có lúc còn sơ sài, chung

chung, không đầy đủ, rõ ràng dẫn đến kết quả điều tra chưa đáp ứng được yêu

cầu để truy tố, xét xử. Dẫn đến việc không nắm được đầy đủ, tỉ mỉ các tình

tiết buộc tội và gỡ tội của bị can, không phát hiện những chứng cứ còn thiếu,

những chứng cứ còn mâu thuẫn để kịp thời.

- Lãnh đạo một số đơn vị đôi khi còn thiếu sự kiểm tra, đôn đốc, sát sao

hoạt động của Kiểm sát viên trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, dẫn đến việc

chưa chỉ đạo kịp thời, những thiếu sót của Kiểm sát viên trong quá trình

THQCT không được phát hiện kịp thời để chấn chỉnh, khắc phục ngay, nhất

60

là đối với những vụ án cần phát huy trí tuệ tập thể, những vụ án vướng mắc

trong việc đánh giá chứng cứ, xác định giữa có tội và không có tội.

- Công tác kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ của Viện KSND tỉnh đối với

các Viện KSND cấp huyện còn nặng về tính hình thức, mang tính đối phó để

hoàn thành chỉ tiêu công tác hoặc còn hiện tượng nể nang, “anh em trong

ngành”. Còn một số trường hợp Viện KSND tỉnh trả lời thỉnh thị hay hướng

dẫn nghiệp vụ còn chung chung, chưa sát, chưa kịp thời.

- Quan hệ phối hợp giữa VKS và CQĐT, giữa Điều tra viên và Kiểm

sát viên có vụ chưa chặt chẽ, việc đánh giá chứng cứ, tội danh, nhất là đối với

những vụ án phức tạp để bổ sung, khắc phục trước khi kết thúc điều tra chưa

kịp thời.

- Công tác bố trí, sắp xếp và sử dụng cán bộ của một số đơn vị còn

chưa hợp lý, thiếu tính khoa học nên chưa phát huy được năng lực, sở trưởng

công tác của từng cán bộ, Kiểm sát viên.

- Hoạt động tổng kết rút kinh nghiệm, xây dựng chuyên đề, tổ chức các

buổi tập huấn của VKS hai cấp trong việc nâng cao chất lượng hoạt động

THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự được chú trọng thực hiện

nhưng hiệu quả không cao, còn nặng về báo cáo số liệu hoặc lý thuyết chung

chung mà chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm thực tiễn cho Kiểm sát

viên học hỏi, vận dụng vào công tác.

Kết luận chương 2

Trong chương 2, bằng kiến thức của mình, Luận văn đã phân tích,

đánh giá quy định của pháp luật hiện hành về THQCT trong giai đoạn điều tra

đối với tội Cố ý gây thương tích như về khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra

yêu cầu điều tra, yêu cầu xác minh; áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp

ngăn chặn trong giai đoạn điều tra; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án. Những phân

tích trên là cơ sở để tác giả nghiên cứu, đánh giá về thực trạng áp dụng pháp

luật về THQCT đối với tội Cố ý gây thương tích tại tỉnh Bắc Ninh hiện nay và

61

so sánh với tình hình tội phạm nói chung. Trong những năm vừa qua, mặc dù

phải kham một số lượng lớn các vụ án hình sự với quy mô ngày càng lớn, tính

chất ngày càng phức tạp nhưng nhờ sự quan tâm tạo điều kiện của Đảng và

Nhà nước, sự đôn đốc, chỉ đạo, điều hành của các đồng chí Lãnh đạo Viện

KSND hai cấp và sự cố gắng và nỗ lực của mỗi cán bộ, Kiểm sát viên, Viện

KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong

việc THQCT và kiểm sát điều tra nói chung và THQCT đối với tội Cố ý gây

thương tích nói riêng, góp phần không nhỏ vào kết quả thực hiện nhiệm vụ

của toàn ngành kiểm sát. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tồn tại những hạn chế

ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công việc mà nguyên nhân của các hạn

chế đó không chỉ có một, nó bao gồm cả các yếu tố chủ quan và khách quan

như đã nêu trên. Việc đánh giá được thực trạng chất lượng công tác THQCT,

việc tìm ra các nguyên nhân của các kết quả đạt được và của các mặt yếu kém

còn tồn tại sẽ giúp đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động THQCT

đối với tội Cố ý gây thương tích tại tỉnh Bắc Ninh.

62

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THỰC

HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

3.1. Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

Hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động THQCT trong giai

đoạn điều tra không đầy đủ, không thống nhất sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến

chất lượng THQCT đối với tội Cố ý gây thương tích của VKS. Không chỉ

những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nội dung THQCT mà cả các

quy định trong BLHS, các quy định trong các luật có liên quan khác và các

quy định pháp luật về giai đoạn tố tụng hình sự khác cũng có ý nghĩa không

nhỏ đối với hiệu quả của hoạt động THQCT. Sau đây là một đề xuất hoàn

thiện hệ thống pháp luật tố để nâng cao chất lượng công tác THQCT trong

giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích:

Một là, Cần hướng dẫn một số quy định của Điều 134 BLHS cụ thể

như: về quy định “Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm” tại điểm b

khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015. Việc pháp điển hóa tình tiết này là rất cần

thiết trong thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác bằng a-xít, hóa chất. Vì trong thực

tiễn, khi các đối tượng sử dụng a-xít, hóa chất tấn công nạn nhân, tuy nạn

nhân không chết nhưng làm cho nạn nhân tàn phế, tổn thương khủng khiếp về

tinh thần, làm cho dư luận phẩn uất. Tuy nhiên, quy định a-xít “nguy hiểm”

hoặc hóa chất “nguy hiểm” sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng. Thế nào là a-

xít nguy hiểm, tấn công vào vùng nào được xem là nguy hiểm, nếu không thu

được a-xít để giám định hàm lượng thì xử lý như thế nào…

Về quy định “người già yếu” tại điểm c khoản 1 Điều 134 BLHS.

Người như thế nào là người già yếu? Theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.4 Mục 2

Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán

63

Tòa án nhân dân tối cao thì “Người già” là người tử 70 tuổi trở lên, còn theo

hướng dẫn tại điểm a, tiểu mục 4.1 Mục 4 Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày

02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán Tòa án tối cao thì “Người quá già yếu”

là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường xuyên

đau ốm. Khái niệm “Người già yếu” đến nay vẫn chưa cụ thể.

Hai là, cần bỏ quy định về chuẩn bị phạm tội tại khoản 6 Điều 134

BLHS. Chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích được hiểu là tìm kiếm, sửa

soạn các công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện cần thiết khác để

nhằm gây thương tích cho người khác, theo đó “Người nào chuẩn bị vũ khí,

vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc

thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02

năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”. Tội phạm cố ý gây thương tích là

hành vi cố ý gây ra cho người khác bị thương tích. Thực tiễn áp dụng pháp

luật thì tỷ lệ % thương tích của người bị hại được thể hiện trong kết luận giám

định của cơ quan chuyên môn là căn cứ quan trọng nhất để xác định trách

nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt đối với người phạm tội. Nạn nhân

phải bị thương tích ở mức đáng kể thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự còn

nếu thương tích không đáng kể thì chưa phải là tội phạm và không phải chịu

trách nhiệm hình sự.

Tại khoản 1 Điều 134 BLHS cũng quy định rõ người nào cố ý gây

thương tích cho người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc

dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến

điểm k thì người đó mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự; còn nếu một người

thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho người khác làm giảm dưới 10%

sức khoẻ nhưng không thuộc quy định tại các điểm từ a đến k thì hành vi của

người đó không cấu thành tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

64

Như vậy, hành vi chuẩn bị phạm tội mới là chuẩn bị các điều kiện cần

thiết chứ chưa gây ra thương tích trên thực tế. Nếu so sánh hậu quả nguy hiểm

cho xã hội của hành vi cố ý gây thương tích trong trường hợp chuẩn bị phạm

tội và trường hợp không cấu thành tội phạm thì rõ ràng trường hợp không cấu

thành tội phạm hậu quả cho xã hội là thực tế và nguy hiểm hơn trường hợp

chuẩn bị phạm tội. Do vậy, việc bỏ truy cứu trách nhiệm đối với các trường

hợp chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích là phù hợp, vừa đảm bảo tính

công bằng trong áp dụng pháp luật, vừa khuyến khích các trường hợp đang

trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội từ bỏ hành vi phạm tội của bản thân. Nếu

hành vi chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích mà đã cấu thành một tội độc

lập khác thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm độc

lập đó.

Ba là, Viện KSND tối cao đã ban hành 04 Quy chế về THQCT và kiểm

sát điều tra, kiểm sát xét xử trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Tuy nhiên,

các Quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn cần tiếp tục được

nghiên cứu sửa đổi, bổ sung phù hợp với quy định mới của pháp luật và đảm

bảo thực hiện hiệu quả trên thực tiễn; quy định chi tiết hơn về phương pháp

tiến hành các hoạt động THQCT; làm rõ hơn vị trí, trách nhiệm của mỗi cấp

kiểm sát, của KSV, của lãnh đạo viện và quan hệ phối hợp giữa VKS và các

cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số biện pháp điều tra.

3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng công tác

thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích

3.2.1. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí minh đã từng dạy “Cán bộ là cái gốc của

mọi việc”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.

Thực hiện lời dạy của Người, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta

luôn chú trọng tới công tác tổ chức cán bộ, trong đó có công tác tổ chức cán

bộ trong các cơ quan tư pháp. Các văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết

65

số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng

tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nêu rõ việc đổi mới công tác cán

bộ là một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng để VKS làm tốt chức

năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của

Nhà nước, sự chỉ đạo của cấp ủy và Viện KSND tối cao, trong nhiều năm qua

Viện KSND tỉnh Bắc Ninh luôn xác định công tác tổ chức cán bộ là nhiệm vụ

trọng tâm đột phá của đơn vị. Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý và

công tác kiện toàn tổ chức bộ máy ở VKS hai cấp luôn được Ban Cán sự

Đảng, Lãnh đạo Viện KSND tỉnh Bắc Ninh thường xuyên quan tâm, chỉ đạo

sát sao. Việc thực hiện điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ được thực

hiện thường xuyên, dân chủ, công khai theo đúng quy trình đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ của từng đơn vị. Công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn được tập trung

đẩy mạnh, từng bước nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Kiểm sát

viên hai cấp. Nhờ những nỗ lực này, đến nay cơ cấu tổ chức bộ máy, đội ngũ

cán bộ, Kiểm sát viên Viện KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển

biến tích cực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu công tác, đặc biệt công tác

THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ

ngày càng vất vả của công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp

thì công tác tổ chức cán bộ VKS tỉnh Bắc Ninh còn bộc lộ một số hạn chế:

Việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ còn chậm, chưa được thực sự quan tâm.

Số lượng cán bộ lãnh đạo quản lý và dự nguồn quy hoạch được luân chuyển

còn ít. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm, đầu tư thực hiện

nhưng chưa thực sự hiệu quả, thiếu chiều sâu. Công tác kiện toàn bộ máy tổ

chức Viện KSND hai cấp đôi lúc còn chưa hợp lý, chưa phát huy được hết

năng lực, sở trường của từng cán bộ, Kiểm sát viên. Để khắc phục những hạn

chế trên, công tác tổ chức cán bộ cần thực hiện một số giải pháp sau:

66

- Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, chỉ có đánh giá đúng, thực chất cán

bộ mới bố trí, sử dụng cán bộ một cách hợp lý nhằm phát huy năng lực của

cán bộ. Đánh giá cán bộ là yếu tố thường xuyên trong quá trình quy hoạch,

luân chuyển, đào tạo và bố trí sử dụng cán bộ. Phải lấy hiệu quả hoạt động

thực tiễn của mỗi cán bộ, làm thước đo chủ yếu đánh giá cán bộ. Thực hiện

mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá. Đối với lãnh đạo quản

lý phải xem xét kết quả chỉ tiêu công tác của đơn vị, lĩnh vực được phân công

phụ trách để đánh giá, nhất là vai trò trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị.

Việc đánh giá phải sát thực, tránh hoặc dĩ hòa vi quý nên qua loa đại khái

hoặc thiên vị, hoặc bình quân cào bằng bởi đó đều sẽ là các nguyên nhân triệt

tiêu mọi động lực phấn đấu. Thực hiện việc đánh giá đúng năng lực, sở

trường của từng cán bộ một cách công tâm, công bằng giúp cho việc bố trí,

sắp xếp cán bộ phát huy được sở trường của mình từ đó hoàn thành tốt nhiệm

vụ được giao. Gắn với công tác đánh giá cán bộ là công tác thi đua - khen

thưởng. Công tác thi đua - khen thưởng cần thực chất, công bằng, dựa trên cơ

sở kết quả thực hiện nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tập thể.

- Quy hoạch là nền tảng của công tác cán bộ, thực hiện tốt công tác quy

hoạch nhằm bảo đảm nguồn cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức cho

giai đoạn hiện tại và những năm tiếp theo. Công tác quy hoạch cán bộ cần bảo

đảm tính “mở” và “động”. Quy hoạch “mở” là một chức danh có thể quy

hoạch một số người và một người có thể quy hoạch vào một số chức danh;

giới thiệu cán bộ vào quy hoạch không khép kín trong từng địa phương, cơ

quan, đơn vị và bảo đảm đủ tiêu chuẩn, điều kiện, triển vọng đảm nhiệm chức

danh quy hoạch ở địa phương, cơ quan, đơn vị khác. Quy hoạch “động” là

quy hoạch được rà soát thường xuyên, hằng năm có sự bổ sung, điều chỉnh

quy hoạch, đưa vào quy hoạch những nhân tố mới và đưa ra khỏi quy hoạch

những người không đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Quy hoạch cần

gắn kết với đánh giá cán bộ. Cán bộ đưa vào quy hoạch phải bảo đảm về

67

phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; có năng lực thực tiễn thể hiện qua kết

quả công tác; chủ động, sáng tạo; mức độ hoàn thành chức trách nhiệm vụ

được giao; khả năng đoàn kết, tập hợp, quy tụ cán bộ; năng lực điều hành, tổ

chức thực hiện; khả năng dự báo tình hình, xử lý những tình huống phức tạp

phát sinh trong ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị công tác. Phòng

tổ chức cán bộ cần kịp thời nắm bắt qua nhiều kênh thông tin phản ánh về cán

bộ nguồn từ cấp cơ sở, qua đó đánh giá cán bộ một cách khách quan, trung

thực, làm căn cứ tham mưu cho Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo VKS tỉnh.

- Chú trọng thực hiện tốt công tác luân chuyển, điều động, biệt phái cán

bộ, Kiểm sát viên giữa hai cấp VKS tỉnh , đặc biệt theo hướng tăng cường cho

VKS cấp huyện. Việc luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ, Kiểm sát viên

phải được tiến hành một cách dân chủ, công khai, hiệu quả; cán bộ được luân

chuyển, điều động, biệt phái cần được bố trí công việc phù hợp để phát huy

tốt nhất năng lực, kinh nghiệm công tác của mình. Đây là khâu công tác quan

trọng; bảo đảm thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có

hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ trẻ, có triển vọng được rèn

luyện trong thực tiễn; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết;

khắc phục tình trạng cục bộ trong công tác cán bộ, khép kín trong từng địa

phương cũng như phòng ngừa tiêu cực trong công tác THQCT, kiểm sát hoạt

động tư pháp của Kiểm sát viên tại các đơn vị cấp huyện.

- Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:

Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng tại chỗ. Lãnh đạo các đơn vị

cấp huyện và cấp Phòng phân công Kiểm sát viên có trình độ, năng lực, kinh

nghiệm trực tiếp kèm cặp, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Kiểm sát viên, Kiểm

tra viên mới được bổ nhiệm, chuyên viên mới được tuyển dụng theo hình thức

cầm tay chỉ việc để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và rèn luyện kỹ

năng nghề cho đội ngũ cán bộ trẻ. Tích cực phối hợp với Tòa án tổ chức các

phiên tòa rút kinh nghiệm (đặc biệt là các phiên tòa rút kinh nghiệm trực

68

tuyến) để cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp tham dự, học hỏi, nâng cao chất

lượng, kỹ năng xét hỏi, tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Tổ chức

các buổi sinh hoạt chuyên đề, trọng tâm là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên mới

được bổ nhiệm, chuyên viên mới được tuyển dụng nhằm nâng cao ý thức chủ

động tự nghiên cứu, học tập, kỹ năng trình bày, thuyết trình của đội ngũ cán

bộ trẻ. Bản thân mỗi Kiểm sát viên phải tự mình thường xuyên cập nhật, tích

lũy kinh nghiệm, trau dồi kiến thức pháp lý và về các lĩnh vực khác để phục

vụ cho việc thực hiện công tác chuyên môn; thường xuyên trao đổi, học hỏi

các Kiểm sát viên có kinh nghiệm để nâng cao kỹ năng nghê nghiệp, kinh

nghiệm của người đi trước được thế hệ sau tiếp cận và phát huy.

Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cụ thể, hiệu quả, lâu dài

và có chiều sâu, chú trọng chất lượng, không nóng vội, không chỉ chạy theo

hình thức và số lượng. Kiểm sát viên phải là người nắm vững pháp luật, có

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tốt, có các kỹ năng nghiệp vụ phục vụ tốt cho

việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Để đáp ứng được yêu cầu trên, cần

phải chú trọng phối hợp hoặc mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng các kỹ năng

nghiệp vụ hoặc quán triệt, phổ biến các bộ luật tư pháp, các văn bản pháp luật

mới cho cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp; định kỳ cử cán bộ, Kiểm sát viên tham

gia các lớp đào tạo chuyên sâu theo các chuyên đề trực tiếp phục vụ cho nhu

cầu công việc hoặc theo các chuyên đề thực tế đòi hỏi kỹ năng THQCT và

kiểm sát điều tra các loại tội phạm về trật tự, xã hội nói chung và tội Cố ý gây

thương tích nói riêng; khuyến khích, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ trẻ đã

có bằng cử nhân luật tham gia lớp đào tạo nghiệp vụ kiểm sát; đi học nâng

cao trình độ nghiệp vụ và có chế độ ưu đãi phù hợp với họ; có kế hoạch định

kỳ đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ lâu năm.

Ngoài ra, nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới cũng

như yêu cầu hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ; cần chú

trọng mở các lớp bồi dưỡng Ngoại ngữ, Tin học văn phòng, công nghệ thông

69

tin,...đặc biệt với đặc thù có nhiều người nước ngoài đang sinh sống và làm

việc tại tỉnh Bắc Ninh như hiện nay. Tích cực cử các cán bộ, Kiểm sát viên đủ

năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ tham gia các Đề án trao đổi, đào tạo

cán bộ, Kiểm sát viên các nước có nền tư pháp tiên tiến, có nền công tố mạnh

để đào tạo về kiến thức pháp luật quốc tế, kỹ năng chuyên ngành và ngoại

ngữ.

Tổ chức các cuộc thi nâng cao kỹ năng của Kiểm sát viên, đặc biệt là

về công tác THQCT như Cuộc thi viết Cáo trạng, luận tội tại phiên tòa hình

sự. Qua đó đánh giá được chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ cán

bộ, Kiểm sát viên VKS hai cấp và năng lực sở trường của từng đồng chí để có

kế hoạch phân công, bố trí cán bộ cho phù hợp.

- Một trong những khó khăn, vưỡng mắc làm hạn chế hiệu quả công tác

THQCT trong giai đoạn điều tra của ngành Kiểm sát Bắc Ninh hiện nay là do

tình trạng thiếu biên chế. Số lượng án hình sự có xu hướng tăng mỗi năm, tính

chất, mức độ nguy hiểm ngày càng phức tạp. Trong khi đó so với nhu cầu

nhân lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát hoạt

động tư pháp theo Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, nhất là việc bổ

sung các nhiệm vụ theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì nhân lực ngành

Kiểm sát nhân dân còn thiếu rất nhiều. Nhiều cán bộ, Kiểm sát viên ở một số

phòng, một số đơn vị VKS cấp huyện phải thụ lý kiểm sát số lượng án hình sự

khá lớn, đồng thời phải thực hiện rất nhiều khâu công tác khác, số lượng công

việc nhiều dẫn đến hiệu quả công việc không cao. Do đó, việc bổ sung biên

chế cho ngành Kiểm sát Bắc Ninh là điều cần thiết để nâng cao hiệu quả công

tác THQCT trong giai đoạn điều tra.

Song song với việc bổ sung biên chế, công tác cán bộ vẫn phải đáp ứng

tinh thần của Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về

tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ của cán bộ, công chức, viên chức,

thực hiện chủ trương “ít mà tinh”. Để làm được điều trên thì cần phải thực sự

70

minh bạch, khách quan trong công tác tuyển dụng công chức, bổ nhiệm các

chức danh tư pháp. Công tác tuyển dụng công chức hàng năm cần được thực

hiện một cách mở rộng, công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho những cán

bộ thật sự tốt cho ngành; ưu tiên các cán bộ đã tốt nghiệp đã tốt nghiệp chính

quy các cơ sở đào tạo Luật và Đại học Kiểm sát, đã được tuyển chọn chặt chẽ

đầu vào và được hưởng chất lượng đào tạo hàng đầu về các công tác tư pháp.

Tất nhiên khi đánh giá năng lực không tuyệt đối hóa tiêu chuẩn bằng cấp song

không thể phủ nhận rằng bằng cấp chính là những cơ sở của nền móng tri

thức mà tri thức pháp luật lại là nguồn tạo ra năng lực thực thi nhiệm vụ của

các Kiểm sát viên. Việc bổ nhiệm các chức danh tư pháp cũng cần tuân thủ

một quy trình chặt chẽ và chất lượng hơn, đảm bảo những cán bộ thực sự có

trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức mới được đảm nhiệm các chức danh tư

pháp, THQCT xuyên suốt các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự.

3.2.2. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành; nâng cao trách

nhiệm người đứng đầu; phân định trách nhiệm trong công tác thực hành

quyền công tố.

Với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, công tác điều hành và quản lý, chỉ đạo

đều đóng vai trò rất quan trọng. Đối với VKS - Cơ quan mà một trong các

nguyên tắc hoạt động cơ bản của nó là tập trung thống nhất thì vai trò của

người lãnh đạo lại càng có ý nghĩa quan trọng.Điều 7 Luật tổ chức VKSND

quy định “VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới

chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên. Viện trưởng các VKS cấp

dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao”. Điều 41

BLTTHS quy định ”Viện trưởng VKS có nhiệm vụ, quyền hạn:a) Trực tiếp tổ

chức và chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo

pháp luật trong tố tụng hình sự. Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS phải chịu

trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Viện trưởng,

Phó Viện trưởng VKS không được ủy quyền cho Kiểm sát viên thực hiện

71

nhiệm vụ, quyền hạn của mình”. Như vậy, có thể thấy rõ trong hoạt động của

VKS, công tác quản lý, chỉ đạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định

chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát. Vì vậy, để nâng cao chất lượng

THQCT, yêu cầu về việc nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của

đội ngũ lãnh đạo VKS hai cấp là yêu cầu tất yếu, trong đó bao gồm cả sự

hướng dẫn, chỉ đạo của Lãnh đạo, các Phòng nghiệp vụ VKS tỉnh và sự lãnh

đạo, chỉ đạo trực tiếp của Lãnh đạo các VKS cấp huyện.

Viện trưởng VKS các cấp là người chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo

và chịu trách nhiệm chung về toàn bộ công tác của đơn vị. Trên cơ sở quản lý

chung, Viện trưởng sẽ nắm bắt được toàn bộ các đầu việc và các vấn đề trong

đơn vị để chỉ đạo và điều hành. Ngoài ra, Viện trưởng cũng là người thường

xuyên trực tiếp các thao tác nghiệp vụ như nghe báo cáo và cho ý kiến chỉ đạo

đối với các đề xuất giải quyết án của Kiểm sát viên, bám án nhất là các vụ án

phức tạp để kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của Kiểm sát viên;

trực tiếp THQCT và kiểm sát các vụ án phức tạp, được dư luận quan tâm; chủ

trì và cho ý kiến quyết định tại các cuộc họp liên ngành thống nhất quan điểm

giải quyết án, xác định vụ án trọng điểm;... Thực tiễn cho thấy trong quan hệ

phối hợp với các cơ quan tư pháp trong công tác THQCT tiếng nói của người

lãnh đạo là vô cùng quan trọng; kiến thức nghiệp vụ vững vàng, phẩm chất

trong sáng, lập trường kiên định của người lãnh đạo cùng phương pháp làm

việc vừa linh hoạt, mềm mỏng vừa kiên quyết, dám chịu trách nhiệm của

VKS là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho các Kiếm sát viên khi thực hiện công

vụ; thể hiện vị thế của VKS. Do vậy, có thể thấy trách nhiệm của đội ngũ lãnh

đạo VKS hai cấp là vô cùng nặng nề. Để làm tốt nhiệm vụ của mình, Viện

trưởng VKS hai cấp phải là người những người nhận thức thấu đáo về chức

năng nhiệm vụ của ngành, các tư tưởng chỉ đạo, các yêu cầu của Đảng và Nhà

nước đối với công tác kiểm sát; có phẩm chất đạo đức, có vốn sống, biết nhìn

xa trông rộng, gần gũi và nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của từng cán bộ,

72

Kiểm sát viên, sâu sát với công việc, biết nhìn nhận, đánh giá một cách khách

quan và công minh để phân loại và bồi dưỡng hoặc chọn ra được các cán bộ,

Kiểm sát viên tốt; biết bố trí sắp xếp nhân lực một cách khoa học, như vậy

mới tận dụng được nguồn lực một cách tối đa. Ngoài ra còn phải là Kiểm sát

viên tốt, có kiến thức pháp lý, có tay nghề vững vàng, không chỉ biết quản lý

và trực tiếp điều hành tốt các công việc trong phạm vi trách nhiệm của mình

mà còn phải có năng lực chỉ đạo kịp thời và chính xác công tác giải quyết án

của Kiểm sát viên.

Ngoài sự lãnh đạo trực tiếp của Viện trưởng thì một yếu tố ảnh hưởng

không nhỏ ảnh hưởng đến chất lượng THQCT của VKS cấp dưới là sự hướng

dẫn, chỉ đạo của VKS cấp trên. Tuy nhiên, trên thực tế công tác này vẫn còn

mang tính hình thức và chưa thật sự hiệu quả. Công tác kiểm tra, hướng dẫn

nghiệp vụ của Viện KSND cấp trên với Viện KSND cấp dưới cần phải làm

thường xuyên, cả định kỳ và bất thường, tránh hình thức, thông qua công tác

kiểm tra kịp thời phát hiện những thiếu sót, tồn tại; để từ đó sẽ phát hiện được

các vấn đề thiếu sót thậm chí sai phạm để chỉ đạo, hướng dẫn, chấn chỉnh kịp

thời, rút kinh nghiệm chung; khắc phục tình trạng chạy theo thành tích không

báo cáo đầy đủ kết quả công tác. Những vấn đề nội dung thỉnh thị của Viện

KSND cấp dưới về những khó khăn vướng mắc như định tội danh, quan điểm

xử lý vụ án, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS, tái phạm, tái phạm

nguy hiểm, Viện KSND cấp trên cần chú ý trả lời chính xác, đúng thời hạn.

Viện KSND cấp trên dám chịu về nội dung trả lời của mình, tránh trả lời

chung chung, không cụ thể để trốn tránh trách nhiệm. Không để xảy ra trường

hợp trả lời thỉnh thị bị kéo dài, không kịp thời, không đáp ứng được yêu cầu,

gây khó khăn trong quá trình giải quyết án. Làm tốt công tác tập huấn nghiệp

vụ cho các VKS cấp dưới về các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ; thực hiện tốt các

chế độ thông tin báo cáo nghiệp vụ theo quy chế, tăng cường công tác nắm tình

hình thông qua các kênh thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng báo cáo tuần,

73

tháng, quý, 6 tháng, một năm, báo cáo chuyên đề, báo cáo tại các kỳ họp Quốc

hội và HĐND các cấp. Đồng thời, tăng cường sơ kết và tổng kết công tác chuyên

môn và cần nghiên cứu đê có các đề tài khoa học sát thực, huy động sự tham gia

đóng góp ý kiến của các VKS cấp cơ sở để tổng kết thực tiễn, tìm ra các vấn đề

vướng mắc, trên cơ sở đó hướng dẫn hoặc kiến nghị với liên ngành Trung ương có

hướng dẫn cụ thể.

Ngược lại, chất lượng và hiệu quả của công tác chỉ đạo và điều hành

của lãnh đạo VKS còn phụ thuộc nhiều vào chất lượng công tác tham mưu

của các Kiểm sát viên - những chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động THQCT

các vụ án. Vì vậy, cần đồng thời vừa đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất

lại vừa đảm bảo phát huy được tính chủ động và sáng tạo của các Kiểm sát

viên. Muốn vậy, trong quy chế nghiệp vụ của mỗi đơn vị cần phải có sự phân

định cụ thể quyền và trách nhiệm cho các cán bộ, Kiểm sát viên để nhằm vừa

tạo điều kiện cho họ phát huy năng lực, sở trường và sự độc lập, sáng tạo, tự

chịu trách nhiệm trong công việc, vừa tránh tư tưởng né tránh, đùn đẩy trách

nhiệm, ỷ lại vào cấp trên vì viện lý do thực hiện nguyên tắc tập trung thống

nhất một cách máy móc, vừa đảm bảo được tối đa nguyên tắc tập trung thống

nhất. Đó cũng chính là quan điểm chỉ đạo và là những yêu cầu, nhiệm vụ mà

Nghị quyết số 49-NQ/TW của Đảng về cải cách tư pháp đặt ra: "Phân định rõ

thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm quyền hạn tư pháp trong hoạt

động tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm

sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nghiệm vụ, nâng cao tính

độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố

tụng của mình”.

3.2.3. Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, nâng

cao mối quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS

Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình

mới, thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp

74

(Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005); Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-

VKSTC ngày 06/12/2013 về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt

động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng chống tội phạm”. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, nhằm

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm; bảo

đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,

hạn chế thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, kiên quyết không để xảy ra án oan, sai.

Ngay sau khi ban hành, Viện KSND tỉnh Bắc Ninh đã quán triệt, triển

khai đến toàn thể cán bộ, công chức, Kiểm sát viên hai cấp tỉnh Bắc Ninh để

thống nhất nhận thức về sự cần thiết và ý nghĩa của việc tăng cường công tố

trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Trong nhiều

năm, Viện KSND tỉnh Bắc Ninh luôn xác định nội dung “tăng cường trách

nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”

là nhiệm vụ trọng tâm đột phá. Viện KSND tỉnh và 08 Viện KSND cấp huyện

đều chủ động báo cáo, tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy địa phương để chủ trì

xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan tư pháp, tạo cơ sở

cho hoạt động phối hợp giữa CQĐT và VKS cùng cấp bảo đảm thực chất,

hiệu quả. VKS cũng đã tăng cường phối hợp giữa Cơ quan điều tra trong việc

thực hiện các quy định của BLTTHS, đặc biệt đối với các quy định mới liên

quan đến thẩm quyền tăng thêm; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn

chuyên sâu về phương pháp, kỹ năng THQCT trong giai đoạn điều tra; phối

hợp với các cơ quan hữu quan tổng kết thực tiễn, sửa đổi, bổ sung các quy chế

phối hợp về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn

công tố với hoạt động điều tra. Kết quả bước đầu đã tạo được sự chuyển biến

tích cực về nhận thức, góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy

tố, xét xử các vụ án hình sự; không để xảy ra án oan, sai, bỏ lọt tội phạm; hạn

chế thấp nhất án trả hồ sơ điều tra bổ sung; kịp thời phát hiện và xử lý những

75

vụ án cố ý gây thương tích phức tạp, được dư luận xã hội quan tâm,... Tuy

nhiên, việc tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công

tố với hoạt động điều tra và công tác phối hợp với CQĐT của VKS tỉnh Bắc

Ninh vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Kiểm sát viên còn thụ động, trong

một số vụ án còn chưa kịp thời đề ra yêu cầu điều tra để hỗ trợ Điều tra viên,

định hướng cho hoạt động điều tra; hoặc đã ban hành nhưng chất lượng không

đảm bảo, không kịp thời đôn đốc CQĐT thực hiện; việc xét, phê chuẩn và ban

hành các quyết định tố tụng còn để kéo dài, chưa bảo đảm chất lượng; số vụ

án VKS trả CQĐT do thiếu chứng cứ vẫn đáng kể, kéo dài thời gian giải

quyết án...

Nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm công tố trong hoạt động điều

tra, gắn công tố với hoạt động điều tra; bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người

phạm tội phải được phát hiện khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm

minh, đúng quy định của pháp luật; không làm oan người vô tội, không bỏ lọt

tội phạm,… Viện KSND tỉnh Bắc Ninh cần phải làm tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, tranh thủ triệt để sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện KSND tối

cao, từng bước tranh thủ và nang cao vai trò lãnh đạo của các cấp ủy, Đảng

trong công tác THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp.

Thứ hai, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ hơn, gắn chặt hơn với Cơ

quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra trong quá trình thực hiện quyền công tố, khởi tố, điều tra, truy tố các vụ án

hình sự. Quá trình giải quyết nếu có khó khăn, vướng mắc thì kịp thời phối

hợp thống nhất giải quyết đảm bảo đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai

hoặc bỏ lọt tội phạm.

Thứ ba, Lãnh đạo VKS hai cấp cần nâng cao trách nhiệm người đứng

dầu, thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, điều hành, thực

hiện nghiêm chế độ, quy trình duyệt bán, báo cáo án bảo đảm cơ chế giám sát

chặt chẽ. Phải thận trọng hơn, kiên quyết hơn trong việc xét phê chuẩn, ban

76

hành các quyết định tố tụng; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng,

phẩm chất đạo đức, bản lĩnh và lương tâm nghề nghiệp cho đội ngũ Kiểm sát

viên trong ngành; quan tâm đúng mức và thực hiện có hiệu quả công tác thanh

tra, kiểm tra, bảo đảm liêm chính, công khai, minh bạch, phòng ngừa tiêu cực

trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.

Thứ tư, Kiểm sát viên phải thường xuyên đổi mới phương pháp

THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, đảm bảo THQCT sớm hơn,

chặt chẽ hơn; có sự phối hợp chặt chẽ hơn, gắn chặt hơn với Điều tra viên

trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ. Chủ động, kịp thời đề ra các yêu

cầu điều tra chất lượng, hỗ trợ, định hướng cho hoạt động điều tra; tăng cường

hoạt động trực tiếp kiểm sát việc thu thập chứng cứ của Kiểm sát viên và thực

hiện tốt thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra (hỏi cung, lấy lời

khai...) để đánh giá tính khách quan của các chứng cứ do CQĐT thu thập.

Không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

Thứ năm, tăng cường phối hợp với các cơ quan tư pháp, đặc biệt là

CQĐT rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các Quy chế phối hợp liên

ngành cho phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương và quy định mới của

pháp luật, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho Kiểm sát viên, Điều tra viên trong

quá trình giải quyết vụ án; duy trì việc tổ chức các cuộc họp liên ngành nhằm

bàn bạc, trao đổi, thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, tìm ra giải

pháp khắc phục các vướng mắc, thống nhất quan điểm về nhận thức và áp

dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án, đồng thời kiểm điểm chỉ rõ trách

nhiệm để xảy ra thiếu sót của Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để

rút kinh nghiệm. Định kỳ tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết thực hiện các

quy chế phối hợp liên ngành, rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết.

Thứ sáu, nâng cao nhận thức lý luận về THQCT trong giai đoạn điều

tra tội Cố ý gây thương tích, tăng cường khả năng, năng lực THQCT của

KSV. KSV cần nhận thức đúng đắn về trách nhiệm công tố trong hoạt động

77

điều tra. Trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra là sự chủ động của

VKS đối với hoạt động điều tra. KSV phải áp dụng mọi biện pháp theo quy

định của pháp luật một cách chủ động, kịp thời kiểm sát chặt chẽ các thủ tục

tố tụng và kết quả các hoạt động điều tra, khắc phục tình trạng thụ động chờ

chuyển hồ sơ đến mới nghiên cứu, xét phê chuẩn hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ

sung. Bên cạnh đó, cần tăng cường kỹ năng THQCT và KSĐT. Cụ thể, VKS

phải chủ động phối hợp với CQĐT ngay từ khi khởi tố vụ án, chủ động đề ra

yêu cầu điều tra để ĐTV thu thập, củng cố chứng cứ, điều tra mở rộng vụ án.

Quyết định việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên cơ sở kiểm soát chặt

chẽ các căn cứ áp dụng thay đổi, hủy bỏ; chủ động phối hợp chặt chẽ với Điều

tra viên rà soát, đánh giá chứng cứ và các thủ tục, biện pháp tố tụng đã áp

dụng trước khi kết thúc điều tra. Mặt khác, mỗi KSV phải tự mình thường

xuyên cập nhật, tích lũy kinh nghiệm, học hỏi KSV có kinh nghiệm... nhằm

đảm bảo có đội ngũ cán bộ, KSV đủ năng lực, trình độ chính trị, chuyên môn

nghiệp vụ, có ý thức trách nhiệm, đạo đức lối sống thực hiện công tác thực

hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ngang tầm với yêu cầu

nhiệm vụ trong tình hình mới.

3.2.4. Tăng cường về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho VKS

và hoàn thiện chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát.

Một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác

kiểm sát nói chung và công tác THQCT nói riêng là cơ sở vật chất, phương

tiện làm việc và chế độ chính sách đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát.

Đảng ta đã chỉ đạo tạo điều kiện rất nhiều cho các hoạt động của các cơ quan

tư pháp “Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đảm bảo cho các cơ quan tư pháp có

đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp lý với cán bộ

tư pháp.. ". Với tinh thần trên, trong những năm qua, Viện KSND tỉnh đã

nhận được nhiều sự quan tâm, hỗ trợ, đầu tư về cơ sở vật chất của địa phương

và Viện KSND tối cao, cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc của Viện

78

KSND tỉnh và các đơn vị Viện KSND cấp huyện đã có sự cải thiện rõ rệt.

Hầu hết các trụ sở làm việc của Viện KSND hai cấp được sửa chữa, cải tạo

hoặc xây mới; mua sắm các trang thiết bị làm việc đủ để phục vụ các công tác

chuyên môn. Chính sách đãi ngộ đối với cán bộ ngành Kiểm sát được quan

tâm tạo điều kiện, các khoản tiền trực, tiền bồi dưỡng phiên tòa, công tác

phí... được tăng lên theo thời giá.

Tuy nhiên cơ sở vật chất, điều kiện, trang thiết bị làm việc tại trụ sở

làm việc của Viện KSND hai cấp nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ quy định trong các đạo luật tư pháp mới. Hiện chưa có đơn vị nào

xây dựng được phòng ghi âm, ghi hình, các trang thiết bị ghi âm, ghi hình

phục vụ cho công tác điều tra, kiểm sát, xét xử cũng chưa được trang bị đầy

đủ, đồng bộ; chưa thực hiện được việc số hóa được hồ sơ,... Một số cơ sở vật

chất, thiết bị, phương tiện phục vụ công tác còn thiếu như: nhà công vụ, xe ô

tô, công cụ hỗ trợ. So với yêu cầu nhiệm vụ thì chế độ trách nhiệm của các

Kiểm sát viên VKS rất nặng nề trong khi đó đồng lương lại thấp, chính sách

đãi ngộ chưa thỏa đáng cho nên đời sống của cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều

khó khăn, nhiều cán bộ, Kiểm sát viên phải chật vật toan lo cho cuộc sống

hàng ngày nên không yên tâm và không nhiệt tình dồn tâm sức cho công tác

chuyên môn nên ảnh hưởng một phần đáng kể đến chất lượng công tác.

Do vậy, cần phải có hướng đầu tư và hỗ trợ hơn nữa để đảm bảo cơ sở

vật chất và các phương tiện làm việc cho VKS như xây dựng, nâng cấp các

trụ sở làm việc cho Viện KSND tỉnh và các VKS cấp huyện; tăng cường đầu

tư và trang bị cơ sở vật chất và các phương tiện để phục vụ công việc, tăng

nguồn kinh phí cấp để hoạt động, chi phí cho việc mua sắm các sách báo tài

liệu để nghiên cứu phục vụ công tác nghiệp vụ. Cần có chính sách tháo gỡ ở

tầm vĩ mô nhằm cải thiện chế độ phụ cấp, đãi ngộ thỏa đáng tương xứng với

khối lượng và tính chất công việc đối với cán bộ kiểm sát.

79

Kết luận chương 3

Để nâng cao chất lượng THQCT đối với tội Cố ý gây thương tích, tác

giả đã đưa ra một số đề xuất hoàn thiện pháp luật, trong đó nhấn mạnh việc

hướng dẫn các quy định được quy định hoàn toàn mới để việc áp dụng các

quy định này được hiệu quả, thống nhất. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một

số giải pháp khác như: đổi mới công tác tổ chức cán bộ, công tác đánh giá cán

bộ; đổi mới phương thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ; chú trọng công tác đào

tạo tại chỗ nhằm nâng cao năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác

THQCT trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Đổi mới công tác quản lý, chỉ

đạo, điều hành; nâng cao trách nhiệm người đứng đầu; phân định trách nhiệm

trong công tác THQCT; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều

tra, gắn công tố với hoạt động điều tra và nâng cao mối quan hệ phối hợp giữa

CQĐT và VKS. Mặt khác, các giải pháp liên quan đến vấn đề cơ sở vật chất

như tiền lương, chế độ, điều kiện cơ sở vật chất cũng là một vấn đề quan

trọng. Các giải pháp này góp phần tạo tâm lý ổn định, khích lệ tinh thần cho

các cán bộ Kiểm sát, nâng cao chất lượng công tác THQCT đối với tội Cố ý

gây thương tích.

80

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm nói chung, tội phạm Cố

ý gây thương tích nói riêng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có nhiều diễn biến

phức tạp. Do đó, công tác điều tra thu thập chứng cứ của các cơ quan tiến

hành tố tụng hình sự nói chung, hoạt động của VKSND trong giai đoạn điều

tra nói riêng đối với loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh

những thành tích đã đạt được, hoạt động THQCT của VKSND hai cấp tỉnh

Bắc Ninh trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích còn có nhiều số

thiếu sót, vi phạm như: Bỏ lọt tội phạm, chưa thực sự kiểm soát được tình

hình tội phạm ngày tăng với diễn biến phức tạp; chưa thực sự đáp ứng được

tình hình mới hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu một cách cơ bản hoạt động

của VKSND trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích tỉnh Bắc Ninh,

từ việc nghiên cứu đó có thể đề ra những biện pháp để nâng cao chất lượng

hoạt động THQCT của VKSND và việc xử lý đối với loại tội phạm cũng có

ý nghĩa hết sức thiết thực đối với công tác THQCT ở giai đoạn điều tra vụ án

hình sự của các VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh.

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận về

hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra của VKSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh

về tội Cố ý gây thương tích có thể đánh giá một cách khách quan thực trạng

hoạt động của VKSND trong THQCT ở giai đoạn điều tra tội phạm trên địa

bàn tỉnh Bắc Ninh những năm gần đây. Việc nghiên cứu này chỉ ra những

điểm tích cực, điểm hạn chế, thấy được nguyên nhân của những hạn chế và

những vướng mắc trong quá trình THQCT trong giai đoạn điều tra tội Cố ý

gây thương tích ở tỉnh Bắc Ninh. Qua đó, chúng ra có thể đề ra những kiến

nghị và đề xuất những giải pháp quan trọng làm cơ sở để hoàn thiện về mặt

lý luận và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THQCT đối với

loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

Việc nghiên cứu đề tài không những làm rõ được những vấn đề lý

81

luận về hoạt động THQCT của VKSND trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây

thương tích mà còn góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về hoạt động của

VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự và hoàn thiện khoa học

THQCT hình sự ở nước ta trong thời kỳ cải cách tư pháp. Về mặt thực tiễn,

những nội dung nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho hoạt

động nghiên cứu khoa học, giảng dạy, đào tạo Kiểm sát viên, phục vụ công

tác nghiên cứu hoàn thiện pháp luật; nhất là pháp luật TTHS; góp phần bảo

đảm chất lượng THQCT của VKSND trong công tác đấu tranh phòng, chống

tội phạm nói chung và tội Cố ý gây thương tích nói riêng.

Trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, tác giả không thể giải quyết

trọn vẹn tất cả các khía cạnh của mọi vấn đề về THQCT trong giai đoạn điều

tra. Tuy nhiên, bằng việc nghiên cứu, phân tích, trên cơ sở những quy định

của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và các số liệu thống kê kết quả thực

hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích của Viện

KSND hai cấp tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần đây, Luận văn về cơ bản

đã tiếp cận một cách hệ thống và khá toàn diện về vấn đề “Thực hành quyền

công tố trong giai đoạn điều tra tội Cố ý gây thương tích từ thực tiễn tỉnh Bắc

Ninh”.

Luận văn hoàn thành được là do sự nỗ lực, cố gắng của bản thân; sự

giúp đỡ nghiêm túc và tinh thần đầy trách nhiệm của các thầy cô, các đồng

nghiệp trong ngành kiểm sát và đặc biệt là sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn

khoa học luận văn này. Tuy nhiên, do điều kiện nghiên cứu và kiến thức của

bản thân còn nhiều hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót

nhất định. Tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các

nhà khoa học để luận văn được hoàn thiện hơn./.

82

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ

Chính trị (khóa IX) về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong

thời gian tới, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm

2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị (khóa IX) về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2013), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ

Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,

Hà Nội.

5. Lê Cảm (2004), Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng

hình sự, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội.

6. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh (2019), Niên giám thống kê năm 2019, Bắc

Ninh.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

83

lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

13. Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Trần Văn Độ (2001), Một số vấn đề về quyền công tố, Tạp chí Luật học,

Hà Nội.

15. Ngô Thị Hảo (2015), Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công

tố, kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án xâm

hại tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

16. Vũ Thị Thanh Hằng (2019), Thực hành quyền công tố trong giai đoạn

điều tra các vụ án hình sự và thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc

sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

17. Vũ Đức Hạnh, (2018), Một số vấn đề về thực hành quyền công tố trong

Tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học kiểm sát, Hà Nội.

18. Lê Thị Tuyết Hoa (2003), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ

Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

19. Nguyễn Văn Hùng (2016), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

các tội xâm phạm sức khỏe trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh - Thực trạng và

một số kiến nghị, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

20. Hoàng Thị Kim Oanh (2016), Kiểm sát điều tra về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn thành phố Bắc

Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã

hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

21. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

22. Quốc hội (2015), Luật Tổ chức Viện kiểm sát năm 2014, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

23. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015, NXB Hồng Đức, Hà Nội.

84

24. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

25. Hoàng Thị Minh Sơn (2004), Thực hiện quyền công tố và kiểm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của VKS, Tạp chí Luật học, Hà

Nội.

26. Phạm Thái (2017), Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận

án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí

Minh.

27. Vũ Công Thập (2011), Áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra đối với

tội Cố ý gây thương tích của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh"

của tác giả Vũ Công Thập, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

28. Lê Hữu Thể (2005), "Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên

quan tới phân loại tội phạm", Tạp chí Kiểm sát.

29. Lê Hữu Thể (2006), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, Tạp chí Kiểm sát.

30. Phạm Thị Thúy (2016), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ

án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc

sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

31. Hà Mạnh Trí (2003), "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đẩy mạnh cải cách tư pháp", Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội

32. Trường Đại học kiểm sát Hà Nội (2010), Giáo trình Đào tạo nghiệp vụ

kiểm sát, tập 3, NXB Tư pháp, Hà Nội.

33. Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2016), Báo cáo tình hình phát triển kinh

tế - xã hội, phương hướng, nhiệm vụ đến năm 2020, Bắc Ninh.

34. Võ Khánh Vinh (2004), Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

85

35. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2015,2016,2017,2018,2019), Báo

cáo tổng kết hàng năm, Bắc Ninh.

36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng (2018),

Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018

quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực

hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hà Nội.

37. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Quy chế Công tác thực hành quyền công

tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết

định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020, của Viện trưởng VKSND tối

cao, Hà Nội.

86