VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG CAO CƯỜNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG CAO CƯỜNG

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,

THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự

Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS NGHIÊM XUÂN MINH

HÀ NỘI, năm 2020

Tôi xin cam đoan những số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn

toàn trung thực, các thông tin trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng và không trùng lắp với

các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.

Tác giả

Dương Cao Cường

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY

THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA

NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................ 8

1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác ................................................................................ 8

1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác .................................................................. 20

1.3. Các cơ quan có thẩm quyền và nội dung áp dụng các quy định của pháp

luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác ................................................................................................... 28

CHƯƠNG 2. TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP

DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI

QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........................................... 38

2.1. Tình hình có liên quan đến Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng............. 38

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà

Nẵng............................................................................................................. 44

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về áp dụng pháp luật trong xét xử tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác ............ 50

CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC

GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ....................... 53

3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................... 53

3.2. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định của

pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác của các cơ quan tiến hành tố tụng ........................................ 66

KẾT LUẬN ................................................................................................. 67

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung trên

địa bàn quận Sơn Trà giai đoạn từ năm 2015 – 2019 .................................... 41

Bảng 2.2. Thực trạng áp dụng các chế tài đối với các bị cáo phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ năm 2015 đến

năm 2019 trên địa bàn quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng. .......................... 42

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về thân

thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Đây là những quyền cơ bản

Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều

20 thì: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo

hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức,

nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe,

xúc phạm danh dự, nhân phẩm [1]”

Bộ luật hình sự với vai trò là công cụ hữu hiệu để để đấu tranh phòng

ngừa tội phạm, bảo vệ tính mạng, thân thể của mọi công dân. Các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đã quy định các tại

Chương XIV BLHS năm 2015 bao gồm 07 tội danh được quy định tại các điều

từ 134 đến Điều 140 Bộ luật hình sự.

Trong thời đại kinh tế thị trường, tình hình tội phạm trên thế giới nói

chung và ở Việt Nam nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp do đó các cơ quan

tư pháp, kiên quyết đấu tranh phòng chống các loại tội phạm nói chung và

phòng chống tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người

khác nói riêng. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa và sự mở rộng hợp tác giao lưu quốc tế thì những

năm gần đây nhóm tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe có xu hướng gia tăng

trong đó tội cố ý gây thương tích đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe con người,

gây bất ổn cho xã hội, là tội phạm thường xuyên diễn ra và là mối quan tâm

nhức nhối cùa cả nước nói chung và trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà

Nẵng nói riêng.

Trong những năm qua, các Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà,

1

thành phố Đà Nẵng đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình khi tích cực phát hiện,

điều tra, truy tố và đưa ra xét xử nhiều vụ án cố ý gây thương tích kịp thời, đảm

bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử tội phạm cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tòa án gặp

không ít những vướng mắc, lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn

chưa thống nhất các quy định của BLHS trong hoạt động xét xử. Chính những

lý do này dẫn đến việc định sai tội danh và quyết định hình phạt chưa công

bằng và khách quan trong một số vụ án. Nhằm hạn chế tình trạng này và nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến

hành tố tụng quận Sơn Trà trong việc giải quyết các vụ án nói chung cũng như

các vụ phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà các cơ quan tố tụng quận Sơn

Trà đang cố gắng thực hiện trong tình hình hiện nay.

Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ thực tiễn quận Sơn Trà, thành

phố Đà Nẵng” để làm để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe người khác đã được một số nhà khoa học và cán bộ

làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học. Việc

nghiên cứu đề tài liên quan đến tội phạm này đã có nhiều đề tài khoa học, luận

văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ, một số giáo trình giảng dạy và được đăng tải thường

xuyên và liên tục trên các tạp chí chuyên ngành, báo, đài, các cổng thông tin

điện tử. Tác giả đã tiếp cận một số đề tài về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe người khác trong những năm gần đây như:

Về giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo có: Giáo trình Luật hình sự

Việt Nam phần các tội phạm cụ thể của Trường Đại học Luật TP. HCM năm

2

2015; của Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội năm 2015; của Đại học Luật Hà

Nội năm 2017…;

Một số luận văn, luận án liên quan như: Luận văn thạc sĩ “Tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Dương Mai Phương, Học

viện Khoa học xã hội, năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Tội cố ý gây thương tích

hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Thị Hòa, Học viện Khoa

học xã hội, năm 2017; ….

Các bài viết như: “Một số quy định của pháp luật liên quan đến việc xác

định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

theo Điều 104 Bộ luật hình sự” Bùi Văn Thịnh, Vũ Bá Xiêm, Tạp chí Tòa án

nhân dân, số 18 năm 2014, trang 29-31; “Một số khó khăn, vướng mắc trong

việc áp dụng điều 104 Bộ luật hình sự” Trần Minh Hường, Tạp chí Kiểm sát,

số 10/2011, trang 24-29; Phân biệt tội "Giết người" với tội "Cố ý gây thương

tích hoặc gây tốn hại cho sức khoẻ của người khác" trong trường hợp dẫn đến

chết người” Nguyễn Nông, Tạp chí Kiềm sát, số 21/2005, trang 25-27 “Kiến

nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác

trong BLHS năm 2015 và những giải pháp bảo đảm áp dụng” của tác giả

Nguyễn Duy Hữu, Tạp chí Tòa án nhân dân số 24 năm 2016…

Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe người khác không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, qua

tìm hiểu cho thấy việc nghiên cứu về loại tội phạm này hoặc mang tính tổng

quát, hoặc mang tính riêng biệt ở từng địa phương chưa có một công trình nào

đi sâu nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu ở mức độ luận văn Thạc sĩ luật học trên

địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Như vậy, có thể xác định đề tài mà

luận văn lựa chọn không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công

3

bố có liên quan.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng

về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên

địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2015 đến năm

2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cũng như kiến

nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách phù hợp hơn nhằm

nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn quận

Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:

+ Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận, các khái niệm, dấu hiệu pháp

lý về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan.

+ Trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà,

thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015 - 2019, từ đó chỉ ra những hạn chế, vướng

mắc, bất cập, cũng như nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc, bất cập

này;

+ Đề xuất hệ thống giải pháp khoa học để góp phần hoàn quy định của

pháp luật, nâng cao việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng

và các cơ quan tiến hành tố tụng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

4

Đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định trong

Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 và thực tiễn hoạt động áp dụng

pháp luật của Cơ quan THTT quận Sơn Trà với tội này.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Phạm vi về đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của

pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác

và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội này đối với đối tượng phạm tội của cơ

quan tố tụng ở quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

+ Phạm vi về chủ thể: Cơ quan tiến hành tố tụng quận Sơn Trà, thành

phố Đà Nẵng trong áp dụng pháp luật về tội danh này với người phạm tội.

+ Về địa bàn nghiên cứu: địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

+ Về thời gian: giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn trên cơ sở phương pháp luận của phép duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về đấu

tranh phòng chống tội phạm để làm sáng tỏ các nội dung cần nghiên cứu của

luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, bình luận,

so sánh thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu… trong quá trình nghiên cứu,

các phương pháp này được vận dụng một cách linh hoạt và đan xen lẫn nhau

trong quá trình nghiên cứu để tạo ra kết quả nghiên cứu. Nghiên cứu các vụ án

đã được khởi tố tại cơ quan Công an; những bản án đã xét xử của Tòa án nhân

dân và các báo cáo sơ kết, tổng kết liên quan đến tội cố ý gây thương tích hoặc

5

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà. Đồng thời kết hợp,

đánh giá các số liệu, tư liệu trong các bài viết, các công trình nghiên cứu khoa

học đã được công bố liên quan tới công tác phòng ngừa tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài không những góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực

tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác tại quận Sơn Trà mà còn góp phần làm phong phú thêm

lý luận chuyên ngành luật hình sự về tội phạm cụ thể.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài là một công trình nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn

về tội cố ý gây thương tích xảy ra trên địa bàn quận Sơn Trà. Bên cạnh đó, nội

dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài liệu

tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn chuyên đề, nâng cao

hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng

khi giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ

lục thì nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1. Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam.

Chương 2. Tình hình có liên quan và thực trạng áp dụng pháp luật hình

sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình

6

sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

CHƯƠNG 1

7

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác

1.1.1. Khái niệm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác

Sức khỏe là tài sản vô giá của mỗi con người. Có nhiều cách hiểu khác

nhau về sức khỏe. Theo cách hiểu thông thường hiện nay, sức khỏe được hiểu

là tình trạng cơ thể bình thường, không có bệnh tật hoặc không có thương tật

ảnh hưởng đến thể chất bình thường của con người. Quan điểm khác lại cho

rằng: “Sức khỏe của con người là tình trạng sức lực của con người đang sống

trong điều kiện bình thường, cho nên sức khỏe thực ra là trạng thái tâm lý, sự

hoạt động hài hòa trong cơ thể tạo nên khả năng chống lại bệnh tật” [11, tr.206,

207].

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì:

“Sức khỏe của con người là trạng thái đầy đủ về thể chất, tâm thần mà

không chỉ có nghĩa là không có bệnh hay thương tật; cho phép mỗi người thích

ứng nhanh chóng với các biến đổi của môi trường, giữ được lâu dài khả năng

lao động và lao động có hiệu quả” [10, tr.835].

Xâm phạm sức khỏe con người là tác động bên ngoài làm cho người bị

xâm hại mất đi một phần hay toàn bộ sức lực có sẵn của chính người đó gây

ảnh hưởng đến quá trình sinh hoạt làm việc bình thường của họ. Hành vi này

xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của con người, đến quyền được bảo vệ về sức

khoẻ của con người được pháp luật ghi nhận. Hành vi dùng sức mạnh vật chất

8

bằng nhiều phương pháp tác động lên thân thể của con người làm cho họ có

những thương tích. Thương tích này có thể là vết thương thẩm mỹ, nghiêm

trọng hơn có thể mất đi một hoặc nhiều bộ phận trên cơ thể như mất bàn tay,

cánh tay, bàn chân...để lại cơ thể không lành lặn. Hành vi gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể

của con người làm cho tình trạng sức khỏe của nạn nhân yếu đi không còn duy

trì bình thường như trước. Tổn hại cho sức khỏe của người khác mặc dù không

để lại vết thương hoặc làm mất chức năng hoạt động của một bộ phận cơ thể

của nạn nhân nhưng làm giảm chức năng hoạt động của bộ phận đó.

Như vậy, có thể hiểu “gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác” là hành vi bằng nhiều phương pháp, cách thức khác nhau tác động

lên cơ thể của người khác làm cho họ mất đi một phần hoặc toàn bộ sức lực của

họ.

Tác giả đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe dựa trên cơ sở các phân tích nêu trên các quy định tại Điều 134 BLHS

năm 2015 như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm quyền được pháp

luật bảo hộ về sức khỏe của con người, do người có năng lực trách nhiệm hình

sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý”.

1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác

- Khách thể của tội phạm: khách thể trực tiếp chính là sức khỏe con

người. Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp

luật hình sự bảo vệ và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến nên cũng như những

tội xâm phạm đến quyền sở hữu khác. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS 2015 có

quy định xâm phạm quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người. Bất kỳ ai

9

xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của con người đều bị trừng trị thích

đáng nên điều luật cũng quy định hình phạt nghiêm khắc nhất là chung thân,

thể hiện thái độ của nhà nước với tội phạm này một cách kiên quyết.

- Mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình

sự quy định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể

nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình

sự bao gồm các yếu tố sau: hành vi khách quan; hậu quả nguy hiểm cho xã hội

và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác và hậu quả xảy ra trên thực tế. Trong đó, hành vi

khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là dấu hiệu cơ bản và quan trọng nhất, các dấu hiệu khác như: hậu

quả, mối quan hệ nhân quả, công cụ, phương tiện phạm tội… chỉ có ý nghĩa

khi có hành vi khách quan.

Tội cố ý gây thương tích được thể hiện qua hành vi dùng vũ lực có hoặc

không sử dụng vũ khí hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể ngưòi khác gây

tổn thương cho họ. Hành vi này có thể được thực hiện với công cụ, phương

tiện, vũ khí để phạm tội như đâm, chém, bắn…hoặc không có công cụ, phương

tiện phạm tội như dùng tay chân đấm, đá hoặc có thể thông qua các phương

tiện phạm tội khác như dùng xe lao vào người, thả súc vật cắn. hành vi khách

quan của tội này thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.

Hậu quả của tội cố ý gây thương tích cho người khác là để lại vết thương

và được xác nhận bằng kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân.

Đây là thiệt hại gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền được bảo vệ về sức

khỏe của con người được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất, là những

thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác. Việc xác định có hậu

quả xảy ra trên thực tế có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội, đảm bảo xét

10

xử đúng người đúng tội và có vai trò quan trọng trong việc quyết định hình

phạt.

Nếu tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11%, không gây cố tật

thì không phải chịu TNHS. Tỷ lệ thương tật hoặc tổn hại sức khỏe từ 11% trở

lên thị bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, có một số trường hợp tỷ lệ thương tật

hoặc tổn hại sức khỏe không đến 11% nhưng lại thuộc một trong các trường

hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 thì hành vi đó vẫn bị truy

cứu TNHS. Như vậy, hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ

lệ thương tật từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp sau

thì cũng phạm tội:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả

năng gây nguy hại cho nhiều người

Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 được chia thành 4 tình tiết tương

ứng với việc người phạm tội dùng “vũ khí”, “vật liệu nổ” (đây là hai tình tiết

mới bổ sung), “hung khí nguy hiểm” và “thủ đoạn có khả năng gây nguy hại

cho nhiều người”. Về nội hàm của quy định thì “vũ khí” thuộc một trong các

dạng của “hung khí nguy hiểm”, do vậy, so với quy định cũ, điểm a khoản 1

Điều 134 Bộ luật hình sự mới chỉ có bổ sung thêm việc dùng “vật liệu nổ” là

tình tiết định khung cơ bản. Tình tiết này, trước khi được sửa đổi năm 2017 thì

điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định là “Dùng hung khí

nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên”.

Một vấn đề nữa chúng ta cần lưu ý về sự thay đổi ở nội dung của tình tiết

“dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người” của quy định cũ với tình tiết

“dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người” của quy định mới.

Việc bổ sung từ “có khả năng” vào tình tiết này giải quyết dứt điểm vướng mắc

trong thực tiễn trước đây là người phạm tội có “dùng thủ đoạn” nhưng thực tế

sau khi tội phạm hoàn thành thì “chưa xảy ra hậu quả gây nguy hại cho nhiều

11

người” – điều này dẫn đến thiếu thống nhất và tạo sự lúng túng trong áp dụng

pháp luật, nhất là trong hoạt động tố tụng; quy định mới này xác định rõ là

không cần chờ đến hậu quả “gây nguy hại cho nhiều người” xảy ra, mà chỉ cần

chứng minh được “thủ đoạn” đó đã được thực hiện và “có khả năng” gây nguy

hại cho nhiều người.

b) Dùng a - xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm

Hóa chất nguy hiểm được định nghĩa tại Khoản 5 Điều 3 Thông tư

04/2012/TT-BCT quy định phân loại và ghi nhãn hóa chất do Bộ trưởng Bộ

Công thương ban hành, bao gồm các đặc tính như dễ nổ, ăn mòn mạnh, oxy

hóa mạnh.

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,

ốm đau hoặc không có khả năng tự vệ

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già

yếu hoặc người không có khả năng tự vệ. Đây là tình tiết định khung tăng nặng

trách nhiệm hình sự mới đối với cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác để đáp ứng yêu cầu của việc đấu tranh phòng, chống tội

phạm này trong tình hình hiện nay, được áp dụng đối với hành vi cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được thực hiện từ

ngày 01/01/2018. Tình tiết này là tổng hợp của 4 dấu hiệu định khung có tính

chất nguy hiểm tương đương nhau được quy định chung trong cùng một điểm

của điều luật, đó là: phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phạm tội với phụ nữ

mà biết là có thai, phạm tội với người già yếu và phạm tội với người không có

khả năng tự vệ.

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi. BLHS hiện hành đã cụ thể hóa quy

định về giới hạn độ tuổi, trong đó thay thế thuật ngữ “trẻ em” trước đây bằng

thuật ngữ xác định rõ độ tuổi là “người dưới 16 tuổi”. Quy định này tạo sự rõ

ràng, thống nhất trong việc áp dụng quy định của BLHS. Xuất phát từ quan

12

điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai của đất nước, bảo vệ những người khó

có khả năng tự vệ trước những hành vi xâm hại của tội phạm làm tổn hại lớn

cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần cho đối tượng đặc biệt này.

Việc xác định độ tuổi của người dưới 16 tuổi thực hiện theo quy định tại Điều

417 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 [36]. Phạm tội đối với người dưới 16

tuổi là tình tiết khách quan nên chỉ cần xác định bị hại là người dưới 16 tuổi thì

người phạm tội đã bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà không cần người phạm

tội phải nhận thức được đối tượng mình thực hiện hành vi cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là người dưới 16 tuổi.

Phạm tội đối với phụ nữ mà biết là có thai. Phụ nữ có thai cũng là đối

tượng cần được bảo vệ đặc biệt. Tuy nhiên, đây là tình tiết thuộc ý thức chủ

quan của người phạm tội “mà biết”, tức là phải xác định người phạm tội biết bị

hại là người đang có thai mà vẫn thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đối với người đó mới áp dụng tình tiết

tăng nặng này. Việc biết của người phạm tội có thể do bị cáo và mọi người đều

nhìn thấy được (thai đã lớn) hoặc biết được, nghe được từ các nguồn thông tin

khác nhau về việc người phụ nữ đó đang mang thai.

Phạm tội đối với người già yếu. Đây không phải là tình tiết thuộc ý thức

chủ quan của người phạm tội nên không đòi hỏi người phạm tội phải biết người

mà mình xâm phạm là người già yếu, chỉ cần xác định người bị xâm phạm là

người già yếu thì người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo tình tiết

định khung tăng nặng này. Người già được nhắc đến trong Bộ luật hình sự 1999

được hiểu là người từ 70 tuổi trở lên (theo hướng dẫn tại Nghị quyết

01/2006/NQ-HĐTP) đến khi Bộ luật hình sự 2015 được ban hành thì đã không

còn thuật ngữ người già mà chỉ còn người đủ 70 tuổi trở lên. Tuy nhiên, có thể

suy ra, người già được xác định là người đủ 70 tuổi trở lên. Vì vậy, khi xem xét

quyết định áp dụng tình tiết phạm tội đối với người già yếu, Tòa án phải căn cứ

13

vào mỗi trường hợp cụ thể để đánh giá tình trạng sức khỏe và độ tuổi của người

bị hại tại thời điểm bị tội phạm xâm hại để quyết định áp dụng hay không. Học

viên đồng tình với quan điểm cho rằng, “người già yếu phải là người từ đủ 70

tuổi trở lên và đang ở trong tình trạng ốm đau hoặc không trong tình trạng ốm

đau nhưng là người yếu”[40].

Phạm tội đối với người không có khả năng tự vệ. Đây cũng là tình tiết

thuộc dấu hiệu khách quan nên không yêu cầu người phạm tội biết bị hại có

phải là người không có khả năng tự vệ hay không. Quy định này cũng chưa có

văn bản hướng dẫn có giá trị pháp lý của cơ quan có thẩm quyền.”

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo mình, người nuôi dưỡng, chữa

bệnh cho mình

Là những người có quan hệ ruột thịt hoặc nuôi dưỡng, dạy dỗ đối với

người thực hiện hành vi phạm tội, với việc quy định này nhằm đề cao giá trị

đạo đức trong xã hội trước hành vi phạm tội.

đ) Có tổ chức

Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp

đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc

một số hành và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Theo quy định tại

khoản 2 Điều 17 BLHS thì người tổ chức, người thực hành, người xúi giục,

người giúp sức.

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn

Đây là quy định mới được bổ sung tại điểm e khoản 1 Điều 134. Việc bổ

sung quy định này nhằm hướng tới việc đảm bảo nhân quyền, đảm bảo quyền

và lợi cho công dân tốt hơn, đảm bảo sự nghiêm chỉnh trong thực hiện nhiệm

vụ của các đối tượng có nghề nghiệp đặc thù như bảo vệ, vệ sỹ …

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án

phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

14

hoặc đang chấp hành hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở

giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

Người phạm tội lúc này đang bị tước một số quyền tự do như đang chấp

hành án hình sự hoặc hành chính cần có thái độ tôn trọng pháp luật một cách

cao nhất thì lại tiếp tục thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác. BLHS năm 2015 đã thêm và sửa đổi như bổ sung các

trường hợp “đang chấp hành án phạt tù”. Đồng thời sửa trường hợp đang bị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục thành đang chấp hành biện pháp tư pháp

giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm

hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cho phù hợp với thực tế. So với Bộ luật hình

sự năm 2015, tình tiết này cũng được sửa lại cho đầy đủ và rõ nghĩa.

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

hoặc gây thương tích tổn hại sức khỏe cho sức khỏe của người khác do được

thuê

Tình tiết này cơ bản giống với Điều 104 BLHS năm 1999 tuy nhiên có

sự bổ sung thêm gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo nội dung Điều

luật. Đây là trường hợp phạm tội được xem là nghiêm trọng hơn so với bình

thường nên dù thương tích hoặc tổn hại đến sức khỏe gây ra dưới 11% thì người

phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 134.

i) Có tính tính chất côn đồ

Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 và tại Hội nghị tổng kết công

tác ngành Tòa án năm 1995 giải thích “có tính chất côn đồ” là hành động của

những tên:

- Coi thường pháp luật;

- Luôn phá rối trật tự trị an;

15

- Sẵn sàng và thích dùng vũ lực để uy hiếp người khác;

- Vô cớ hoặc chỉ vì một duyên cớ nhỏ nhặt là đâm chém, thậm chí giết

người, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự người khác.

Hiện nay, Án lệ số 17/2018/AL có xác định yếu tố được đánh giá là “có

tính chất côn đồ” là việc: “chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với nhau

mà tội phạm đã dùng mã tấu chém nhiều nhát vào những vùng trọng yếu trên

cơ thể của nạn nhân.”

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân

Quy định tại BLHS năm 1999 xác định đây là tình tiết tăng nặng do mục

đích của người phạm tội là “để cản trở người thi hành công vụ”. Trên thực tế

xét xử thì nhiều trường hợp chứng minh mục đích “để cản trở” này không thực

sự rõ ràng, phần nhiều phụ thuộc vào lời khai của người phạm tội. Như vậy,

cần chú ý 02 điểm mới phát sinh là: Điểm mới thứ nhất là không cần chứng

minh người phạm tội gây thương tích cho người bị hại nhằm mục đích cản trở

người thi hành công vụ hay không, chỉ cần người bị hại là người đang thi hành

công vụ là đủ điều kiện để áp dụng và cũng không cần chứng minh hoạt động

công vụ của người bị hại đang thi hành có liên quan đến người phạm tội hay

không; điểm mới thứ hai là xác định rõ thời điểm người bị hại bị gây thương

tích, gây tổn hại sức khỏe là “đang” thi hành công vụ.

- Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của tội phạm ở đây là hoạt động tâm lý bên trong của người

phạm tội bao gồm lỗi, động cơ, mục đích. Người phạm tội thực hiện hành vi

với mong muốn hay để mặc cho kết quả xảy ra, mong muốn cho người khác bị

thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe do đó lỗi được xác định phải là lỗi cố ý.

Dấu hiệu về động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong

cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác.

16

- Chủ thể của tội phạm.

Chủ thể của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác là chủ thể thường, tức là bất cứ ai có năng lực trách nhiệm hình sự

đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Như vậy người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác là người đủ từ 14 tuổi trở lên, khi thực hiện hành vi phạm

tội không bị mắc bệnh tâm thần, có khả năng nhận thức, và có thể điều khiển

hành vi của mình. Bởi vì, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm rất nghiêm

trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên theo quy định tại Điều 12

Bộ luật Hình sự thì nếu người từ đủ 14 tuổi nhưng dưới 16 tuổi nếu phạm tội

quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự thì vẫn phải chịu trách

nhiệm hình sự về hành vi của mình.

1.1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác với các tội phạm khác có liên quan

1.1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong trường hợp làm chết người với tội giết người đều có những dấu hiệu giống

nhau như:

- Hậu quả chết người xảy ra, thực hiện do lỗi cố ý.

- Đều có hành vi khách quan như đánh, đâm, chém, bắn…

Trong Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS), tội giết người và tội cố ý gây

thương tích gây hậu quả chết người được quy định tại Điều 123 và Điều 134.

Hai tội danh này có những điểm khác nhau như sau:

- Mục đích của hành vi phạm tội:

+ Tội giết người: Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước

17

đoạt tính mạng của nạn nhân.

+ Tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Người phạm tội thực hiện

hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. Việc nạn nhân

chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.

- Xác định mức độ, cường độ tấn công:

+ Tội cố ý gây thương tích làm chết người theo Khoản 4: cường độ tấn

công, mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập.

+ Tội giết người: Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn

công mạnh có thể gây ra hậu chết người cao hơn.

- Vị trí tác động trên cơ thể:

+ Tội giết người: Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng

đầu, ngực, bụng…

+ Tối cố ý gây thương tích dẫn đến chết người: Thường là những vị trí

không gây nguy hiểm chết người như vùng vai, tay, chân, v.v...

- Vũ khí, hung khí sử dụng và các tác nhân khác.

+ Xác định hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: Việc xác

định vũ khí, hung khí tấn công như súng, dao, gậy…cũng là yếu tố quan trọng

nhằm phân biệt hai tội này.

- Yếu tố lỗi:

+ Tội giết người: Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý bao gồm

cả cố ý trực tiếp lẫn gián tiếp.

+ Tội cố ý gây thương tích gây hậu quả chết người người thực hiện hành

vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra, tức là họ cố ý bởi hành vi của

mình nhưng vô ý với hậu quả xảy ra.

- Trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả

năng làm chết người mà vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra muốn sao

cũng được, nếu hậu quả là gây thương tích thì định tội cố ý gây thương tích,

18

nếu hậu quả là chết người thì người phạm tội phạm vào tội giết người.

1.1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm về phạm tội trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, dựa trên các quy định về các tội phạm cụ

thể, có thể hiểu phạm tội trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là: trường

hợp người bị kích động mạnh về tâm lý do hành vi trái pháp luật của người

khác đối với mình hoặc đối với người thân thích của mình dẫn đến làm mất khả

năng hạn chế và điều khiển hành vi mà thực hiện hành vi phạm tội đối với người

đang có hành vi trái pháp luật nêu trên.

Hai tội phạm này có nhiều điểm giống nhau như sau:

+ Khách thể đều xâm phạm đến là những quan hệ xã hội được pháp luật

hình sự bảo và bị các hành vi phạm tội xâm hại đến mà cụ thể là quyền được

bảo hộ về sức khỏe của con người.

+ Hai tội đều đều đòi hỏi tỷ lệ thương tật nhất định mà nạn nhân gánh

chịu vì đều là tội phạm có cấu thành vật chất.

+ Đều thực hiện với lỗi cố ý.

+ Chủ thể của tội phạm đều là chủ thể thường.

Tuy nhiên, giữa hai tội này có những điểm khác nhau cụ thể:

+ Trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội là dấu hiệu

bắt buộc trong cấu thành tội phạm trong khi tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác thì không, nếu có thì chỉ áp dụng xam là

tình tiết giảm nhẹ.

+ Nạn nhân phải là người đã thực hiện hành vi trái pháp luật nghiêm

trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội còn nạn

nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

19

là bất kỳ ai.

+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì tỷ lệ thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% mới cấu

thành tội phạm còn ở Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác là từ 11% trở lên.

1.1.3.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định

về phòng vệ chính đáng như sau: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì

bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích

của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người

đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không

phải là tội phạm.

Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là: hành vi chống trả rõ ràng quá

mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi xâm hại.

Giữa hại tội này có một số điểm để phân biệt đó là:

+ Hậu quả của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì tỷ lệ thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31%

mới cấu thành tội phạm.

+ Chủ thể thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức

khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng do động cơ

phòng vệ chính đáng nhưng đã vượt quá giới hạn cho phép.

+ Về phía nạn nhân: là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích

20

của nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác.

Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể.

1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác

1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự trong giai đoạn trước khi ban

hành Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

1.2.1.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước năm 1985

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân

Chủ Cộng Hòa non trẻ vừa ra đời đã phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, vừa

từng bước xây dựng xã hội mới. Đặc điểm của giai đoạn này là áp dụng pháp

luật cũ của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới nhưng đảm bảo nguyên

tắc dân chủ, công bằng. Đặc điểm cơ bản của giai đoạn này là áp dụng pháp

luật của đế quốc và phong kiến theo tinh thần mới với nguyên tắc đảm bảo dân

chủ, công bằng. Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước đã ban

hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành quả cách mạng là công cụ hữu

hiệu nhất, đặc biệt đã thể hiện chính sách hình sự đối với các hành vi xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đây cũng là giai đoạn

đánh dấu bước phát triển quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam.

Nhiệm vụ nổi bật của pháp luật hình sự ở thời kỳ này là phục vụ cuộc

kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc đi đến thắng lợi, trừng trị bọn

việt gian phản động làm tay sai cho thực dân Pháp, bảo vệ chính quyền non trẻ,

bảo vệ các quan hệ xã hội mới được thiết lập và duy trì. Trong điều kiện như

vậy, nhà nước đã kịp thời ban hành một số văn bản pháp luật phục vụ cho những

nhiệm vụ cấp bách. Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1946 của Chủ tịch Hồ Chí

Minh tạm thời giữ lại các luật lệ tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ cho đến khi ban

hành các văn bản pháp luật thống nhất trong toàn quốc quy định: “Những điều

khoản trong các luật lệ cũ được tạm thời giữ lại do sắc lệnh này chỉ được thi

21

hành khi nào không trái với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam và

chính thể dân chủ cộng hoà”. Theo nội dung của sắc lệnh, khi xét xử, Tòa án

xét xử theo Luật hình cũ mà thực dân Phong kiến đề ra nhưng không được trái

với nguyên tắc độc lập của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Do vậy, ở

giai đoạn 1945-1954, việc xét xử các tội phạm nói chung vẫn dựa theo luật hình

cũ để xét xử. Đó là Bộ hình luật Bắc Kỳ năm 1923, Bộ hình luật Nam Kỳ năm

1912 và Bộ Hình luật Trung Kỳ năm 1933.

Năm 1954 với chiến thắng Điện Biên Phủ cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi. Cách mạnh Việt Nam chuyển

sang một giai đoạn mới, đất nước bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc hoàn toàn

giải phóng tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng

chiến chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.

Do điều kiện kinh tế văn hóa xã hội ở miền Bắc đã có nhiều biến đổi về

căn bản so với trước đó nên toàn bộ hệ thống pháp luật của chế độ cũ không

được áp dụng nữa. Ngày 19/01/1955, Thủ tưởng Chính phủ đã ban hành Thông

Tư số 442/TTg về việc trừng trị một số tội trên cơ sở tổng kết việc áp dụng luật

lệ cũ và án lệ. Nội dung của Thông tư yêu cầu khi xét xử các tội phạm nói chung

phải theo đường lối chính sách của Đảng. Thông tư này có hướng dẫn về tội cố

ý gây thương tích.

Năm 1976, sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, để kịp thời đáp ứng

yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm

thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03/SL ngày 15

tháng 3 năm 1976 quy định về tội phạm và hình phạt (sau tháng 12/1976 văn

bản này được áp dụng cho các nước và được sử dụng cho đến khi BLHS năm

1985 ra đời và có hiệu lực). Tại Điều 5 của Sắc luật số 03 quy định các tội xâm

phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong đó có tội

cố ý gây thương tích. Để nhận thức Sắc luật được đúng đắn và để việc áp dụng

22

được thống nhất, ngày 15/04/1976 Bộ tư pháp ban hành Thông tư số 03/BTP-

TT hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL/1976 trong đó hướng dẫn cụ thể tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Tóm lại, trước khi BLHS năm 1985 chưa ra đời thì việc quy định các tội

phạm nói chung và trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác ở các văn bản quy dưới luật nên giá trị pháp lý của những

văn bản đó chưa cao đồng thời các quy định còn quá chung chung, không cụ

thể rõ ràng dẫn đến việc áp dụng khó thống nhất, việc xét xử gặp nhiều vướng

mắc và do vậy cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng xét xử cũng như hiệu

quả của công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999

Với sự quan tâm của nhà nước, quá trình pháp điển hóa ở Việt Nam được

đẩy mạnh trong giai đoạn 1982-1986 mà đỉnh cao của nó là sự ra đời của một

bộ luật thống nhất, duy nhất xác định tội phạm và hình phạt - Bộ luật Hình sự

năm 1985. Sau nhiều ngày tháng dự thảo, ngày 27/06/1985 Quốc Hội đã thông

qua BLHS 1985 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Trong bộ luật này, các tội

xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm được quy định tại chương

II với những chế tài hết sức nghiêm khắc. Điều 109 BLHS năm 1985 quy định

về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác như sau:

1- Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của

người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ

ba tháng đến ba năm.

2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai

năm đến bảy năm:

a) Gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của

người khác;

b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

23

c) Có tính chất côn đồn hoặc tái phạm nguy hiểm;

3- Phạm tội gây cố tật nặng dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp

đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm.

4- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản 2,

ở khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật nghiêm

trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù

từ ba tháng đến hai năm” [6].

1.2.1.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999

đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

Kế thừa và phát triển những nguyên tắc, chế định pháp luật hình sự của

Nhà nước ta, nhất là BLHS năm 1985, cũng như những bài học trong hoạt động

tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những

thập kỷ qua dự kiến những diễn biến mới của tình hình tội phạm, ngày

21/12/1999 Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS năm 1999. Tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy

định tại Điều 104 BLHS năm 1999 như sau:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc

một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba

năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều

người;

b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người

khác không có khả năng tự vệ;

24

đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

e) Có tổ chức;

g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc

một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1

Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến

60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a

đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt

nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung

thân[7]”.

Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999, tội cố ý gây thương tích

cùng được quy định chung với tội cố ý gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

tại cùng điều luật thuộc chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân

phẩm, danh dự của con người. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội

phạm này được quy định cụ thể hơn để phân biệt với trường hợp cố ý gây

thương tích là vi phạm. Đồng thời, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng đã tách một

số trường hợp cố ý gây thương tích có tình tiết định khung giảm nhẹ khỏi tội

cố ý gây thương tích nói chung để quy định thành các tội danh riêng. Đó là tội

cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, tội cố ý gây

25

thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng...

Điều 104 BLHS 1999 bổ sung một số tình tiết tăng nặng định khung hình

phạt so với BLHS năm 1985 tại như sau: Đối với trẻ em hoặc người chưa thành

niên; Đối với ông, bà, cha, mẹ, cô giáo của mình; Thuê người khác phạm tội

hoặc phạm tội thuê; Đối với những người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do

công vụ của nạn nhân.

BLHS năm 1985 hình phạt tù tối đa đến 20 năm, còn BLHS năm 1999

đã tăng lên mức tù chung thân.

1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017) về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Quy định về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác được Bộ luật hình sự năm 2015 thay đổi nhiều nội dung, đồng thời

cũng được sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề vào năm 2017. Trong đó, nội dung

chính được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là cơ cấu lại số khung hình phạt, giảm

từ 7 khoản xuống còn 6 khoản, thay đổi mức hình phạt của từng khung cho phù

hợp với sự thay đổi của số khung, đồng thời sửa đổi, bổ sung các tình tiết định

khung tăng nặng từ khoản 2 đến khoản 5, pháp điển hóa các hướng dẫn tại Nghị

quyết số 01/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao (về các tình tiết quy định tại Điều 104 Bộ luật

hình sự) nhằm đảm bảo các quy định này được rõ ràng và thống nhất khi áp

dụng vào thực tiễn.

Điều 134 Bộ luật hình sự mới quy định cơ cấu lại số khung hình phạt,

giảm từ 7 khoản xuống còn 6 khoản. Mức hình phạt thay đổi của từng khung

cho phù hợp với sự thay đổi của số khung nhưng mức hình phạt thấp nhất và

cao nhất không thay đổi.

Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung các tình tiết mới như: dùng vũ

khí, vật liệu nổ; dùng a xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm; lợi dụng chức vụ,

26

quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp

hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

do được thuê.

Loại bỏ các tình tiết Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối

với cùng một người hoặc đối với nhiều người; tái phạm nguy hiểm. Đây là

những tình tiết định tội trong trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% (Khoản 1 Điều

134); là tình tiết định khung tăng nặng tại Khoản 2; Khoản 3; Khoản 4; Khoản

5.

Sửa đổi các tình tiết: “Đối với trẻ em” thành “Đối với người dưới 16

tuổi”, “phụ nữ đang có thai” thành “phụ nữ mà biết là có thai”; “Để cản trở

người thi hành công vụ” thành “Đối với người thi hành công vụ”.

Bổ sung một số tình tiết mới là những tình tiết định khung tăng nặng là:

“phạm tội hai lần trở lên; tái phạm nguy hiểm; “gây thương tích làm biến dạng

vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

Cụ thể hóa các tình tiết dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp

đặc biệt nghiêm trọng khác là: “phạm tội dẫn đến chết nhiều người” thành “làm

chết hai người trở lên”; “trường hợp đặt biệt nghiêm trọng khác” thành “gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn

thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường

hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”

Về hình phạt, Điều 134 BLHS năm 2015 có 06 khung hình phạt (tăng 02

khung so với BLHS 1999) đồng thời đã rút ngắn khoảng cách khung hình phạt.

Khoản 2 đã giảm mức hình phạt tù tối đa từ 07 năm xuống thành 06 năm; khoản

3 có hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; khoản 4 có hình phạt tù từ 07 năm đến

14 năm; khoản 5 có hình phạt tù từ 12 năm đến đến 20 năm hoặc tù chung thân.

27

Đây là những điểm mới có lợi đối với người phạm tội cố ý gây thương tích mà

chúng ta phải lưu ý khi áp dụng pháp luật và quyết định hình phạ.

– Khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự mới là một quy định hoàn toàn mới.

Nội dung quy định này là xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội Cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong giai đoạn

chuẩn bị phạm tội. Tuy nhiên, không phải bất cứ trường hợp nào chuẩn bị phạm

tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đều bị

khởi tố, tru tố, xét xử theo khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự mới. Theo đó,

người nào chuẩn bị phạm tội thuộc 01 trong 6 trường hợp sau đây thì bị truy

cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự mới: Vũ khí;

vật liệu nổ; hung khí nguy hiểm; a xít nguy hiểm; hóa chất nguy hiểm; thành

lập hoặc tham gia nhóm tội phạm.

1.3. Các cơ quan có thẩm quyền và nội dung áp dụng các quy định

của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác

1.3.1. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động áp dụng pháp

luật hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác

Các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động áp dụng PLHS bao gồm

CQĐT, VKS và Tòa án.

- Cơ quan điều tra.

Khi có một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra thì cần phải có cơ quan

tiến hành điều tra làm rõ sự việc. Thông qua việc điều tra này giúp cung cấp

thông tin, chứng cứ để phục vụ cho hoạt động tố tụng, xét xử diễn ra thành

công.

Trong Sắc lệnh số 23/SL ngày 21.02.1946 về hợp nhất Sở cảnh sát và Sở

(Ty) Liêm phóng thành một cơ quan có tên là Việt Nam Công an vụ đã quy

28

định rõ cơ quan Việt Nam Công an vụ tiến hành điều tra về những hành động

trái phép liên quan đến sự an toàn của quốc gia; truy tầm can phạm để giúp toà

án trong sự trừng trị. Trách nhiệm điều tra trong quân đội nhân dân được giao

cho các cấp chỉ huy trong quân đội theo Sắc lệnh số 163 ngày 23/8/1946 về tổ

chức Toà án binh lâm thời. Trách nhiệm điều tra của Viện kiểm sát nhân dân

được thể hiện trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Từ năm

1988, hệ thống các Cơ quan điều tra được quy định tại Điều 27 Bộ luật tố tụng

hình sự đầu tiên. Kế thừa quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Pháp

lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1989, cụ thể hóa quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003 về Cơ quan điều tra, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự được

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 20/8/2004 đã quy định về tổ chức

điều tra hình sự như sau: 1) Trong công an nhân dân có các cơ quan điều tra:

Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an; cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp

tỉnh; cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện; cơ quan an ninh điều tra Bộ

công an; cơ quan an ninh điều tra công an cấp tỉnh; 2) Trong quân đội nhân dân

có các cơ quan điều tra: cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều

tra hình sự quân khu và cấp tương đương, Cơ quan điều tra hình sự khu vực;

Cơ quan an ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan an ninh điều tra quân khu

và cấp tương đương; 3) Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có các cơ quan điều

tra: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện

kiểm sát quân sự trung ương.

Ngoài ra, theo Pháp lệnh còn có một số cơ quan š khác được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm

lâm, lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác trong lực lượng công an nhân

dân và quân đội nhân dân.

Các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều

tra trong khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội

29

thì tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu nhằm kịp thời phát hiện tội

phạm và người thực hiện hành vi phạm tội rồi chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều

tra có thẩm quyền…

- Cơ quan Viện kiểm sát

Chức năng của Viện kiểm sát (sau đây viết tắt là VKS) là thực hành

quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn

Viện kiểm sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có đủ năng lực hành

vi vi phạm pháp luật, thực hiện đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp

luật; tránh bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không được gây oan sai; đồng thời giám

sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan tư pháp khác. Ngoài ra, với phạm

vi chức năng, nhiệm vụ của mình Viện kiểm sát thực hiện giám sát các biện

pháp và chương trình phòng ngừa tội phạm; kịp thời phát hiện những vi phạm

pháp luật của các chủ thể và có biện pháp xử lý đúng pháp luật.

- Tòa án nhân dân

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp [11, Đ.102].

Đối với hoạt động áp dụng PLHS, chủ thể là các cơ quan có thẩm quyền

giải quyết vụ án hình sự - các cơ quan tiến hành TTHS. Tùy thuộc vào những

điều kiện lịch sử cụ thể và những khác biệt về văn hóa, các cơ quan này có thể

được tổ chức khác nhau ở những giai đoạn khác nhau hoặc ở những nước khác

nhau. Tuy nhiên, dù được tổ chức theo bất cứ hình thức nào thì chúng cũng

xoay quanh một trục chính được xác định bởi ba chức năng chủ yếu là điều tra,

truy tố và xét xử. Trong đó, xét xử là chức năng được hình thành sớm nhất, có

lịch sử lâu đời nhất và có tính phổ biến nhất. Các chức năng này đến lượt mình

lại là nội dung của "quyền lực tư pháp" một trong ba nhánh chủ yếu của quyền

lực nhà nước.

Tư pháp là quyền lực xét xử dựa trên cơ sở của pháp luật đối với các

30

hành vi vi phạm pháp luật cũng như đối với những tranh tụng phát sinh trong

đời sống xã hội. Như vậy, việc thực hiện quyền tư pháp có bản chất là hoạt

động ADPL của nhà nước thông qua bộ máy tư pháp. Do thuở ban đầu, pháp

luật đều mang tính hình sự và điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng cách quy định

về tội phạm về hình phạt nên quyền tư pháp lúc đầu cũng mang tính chất hình

sự và có bản chất là hoạt động áp dụng PLHS. Dần dần về sau này, khi pháp

luật trở nên phong phú hơn do phải thích ứng để điều chỉnh các quan hệ xã hội

ngày càng phức tạp hơn thì trong bản thân hệ thống pháp luật bắt đầu xuất hiện

sự phân chia thành các ngành luật và ly khai khỏi PLHS. Do vậy cũng được mở

rộng sang các lĩnh vực pháp luật khác chứ không phải chỉ trong lĩnh vực hình

sự. Điều đó có nghĩa là quyền lực xét xử của tòa được trải rộng trên các lĩnh

vực của đời sống xã hội cùng với quá trình mở rộng và phân chia trong nội tại

của hệ thống pháp luật. Trong các lĩnh vực pháp luật về kinh tế, dân sự, hành

chính hay lao động..., tòa án chỉ là một trong các chủ thể của bộ máy nhà nước

có thẩm quyền ADPL chỉ khi để xét xử khi phát sinh những tranh chấp hay vi

phạm. Bộ máy hành pháp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ADPL để

hướng dẫn cho việc thực hiện pháp luật của các chủ thể có liên quan. Tuy nhiên

trong lĩnh vực hình sự, vai trò của tòa án có vị trí đặc biệt. Tòa án tập trung

trong tay gần như toàn bộ quyền lực để áp dụng PLHS. Tất cả các hoạt động

như điều tra, công tố... trong lĩnh vực hình sự đều nằm trong một hệ thống thống

nhất dẫn đến hoạt động áp dụng PLHS của Tòa án. Tất nhiên, mỗi cơ quan tham

gia vào hoạt động áp dụng PLHS ở phạm vi và mức độ khác nhau, có vai trò

khác nhau nhưng nếu tiếp cận trên phương diện lịch sử có thể thấy từ xa xưa

Tòa án là cơ quan duy nhất nắm giữ quyền lực tư pháp - một trong ba nhánh

quyền lực cơ bản của Nhà nước.

1.3.2. Nội dung của hoạt động áp dụng PLHS đối với tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

31

Điều 2 của BLHS năm 2015 quy định về cơ sở của TNHS như sau: “chỉ

người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách

nhiệm hình sự [11]”. Như vậy, hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự là cơ

sở pháp lý cho hoạt động áp dụng PLHS đối với tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Áp dụng pháp luật trong hoạt động nhằm cụ thể hóa những quy định của

pháp luật hình sự, nội dung của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự phụ thuộc

vào chính các quy phạm phá luật hình sự. Một cách khái quát và dê hiểu thì là

pháp luật hình sự quy định điều gì thì việc áp dụng pháp luật hình sự sẽ cá biệt

hóa những quy định đó trong những quan hệ xã hội cụ thể và cho các chủ thể

cụ thể khi được chuyển hóa vào thực tế, việc ADPL hình sự cũng chính là việc

chuyển hóa hai nội dung về tội phạm và hình phạt vào các trường hợp cụ thể

thành hai nội dung tương ứng là định tội danh và quyết định hình phạt.

- Định tội danh

Định tội danh là giai đoạn cơ bản của hoạt động áp dụng pháp luật hình

sự. Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lí quan

trọng. Việc định tội phải dựa trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết

của hành vi phạm tội đã thực hiện, cấu thành tội phạm và đối tượng phạm tội

thông qua hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng. Xác

định tội danh đúng mới áp dụng đúng luật, xử đúng người, đúng tội mới có tác

dụng răn đe, giáo dục.

Thứ nhất, việc định tội danh với các cấu thành tội phạm na ná giống

nhau, ví dụ như: tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người chỉ cách nhau

một chút về ý thức đã gây ra những hậu quả và hậu quả thế nào mà có thể là

tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm

trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

32

Thứ hai, việc định tội danh là một tội hay nhiều tội trong hành vi phạm

tội cũng là một vấn đề cần hiểu rõ và xác định đúng. Ví dụ như: việc cố ý gây

thương tích và cướp tài sản và gây thương tích hay sử dụng vũ khí quân dụng

trái phép giết người...

Việc định tội mặc dù vẫn đúng quy trình trong tố tụng, tuy nhiên cũng

có một vài trường hợp khó tránh những nội tâm duy ý chí của những người, cơ

quan tiến hành tố tụng khi nhận định vấn đề.

Bộ luật hình sự là văn bản pháp lý duy nhất quy định về tội phạm và

hình phạt. Vì vậy, Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lí duy nhất của việc định tội

danh, khi định tội danh, người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể

quy định về tội phạm để xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm

hay không.

- Quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là xác định loại và mức hình phạt cụ thể để áp dụng

đối với người phạm tội cụ thể. Khi quyết định hình phạt căn cứ vào quy định

của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng

nặng trách nhiệm hình sự để lượng hình. Chế định này được quy định tương

đối hoàn chỉnh trong luật hình sự Việt Nam kể từ khi có Bộ luật hình sự năm

1999. Chế định này tiếp tục được các nhà lập pháp hoàn thiện trong các lần sửa

đổi, bổ sung Bộ luật hình sự qua các năm. Để có thể quyết định hình phạt chính

xác, toà án phải dựa vào các căn cứ: Các quy định có tính nguyên tắc về tội

phạm và hình phạt trong Phần chung của Bộ luật Hình sự; Điều luật quy định

hình phạt đối với tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình

sự; Trước khi quyết định hình phạt, Toà án phải xác định xem bị cáo bị xét xử

về tội gì và trên cơ sở điều khoản nào của Bộ luật Hình sự; Toà án quyết định

hình phạt đôi với người phạm tội và việc quyết định hình phạt phải căn cứ vào

33

các qui định của Phần chung Bộ luật Hình sự như “nguyên tắc xử lý” (Điều 3

Bộ luật Hình sự), vấn đề chuẩn bị phạm tội (Điều 17 Bộ luật Hình sự), phạm

tội chưa đạt (Điều 18 Bộ luật Hình sự), vấn đề đồng phạm (Điều 20 Bộ luật

Hình sự). Ngoài một số quy định khác có tính nguyên tắc của Phần chung Bộ

luật Hình sự mà Toà án cũng phải xem xét như mục đích hình phạt (Điều 27

Bộ luật Hình sự), nội dung, phạm vi và điều kiện của từng loại hình phạt (các

điều từ 29 đến Điều 40 của Bộ luật Hình sự)…

1.3.3. Mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong

hoạt động áp dụng PLHS đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác

Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động áp

dụng PLHS đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác trong tố tụng hình sự là mối quan hệ trên cơ sở chức năng nhiệm vụ

của từng cơ quan theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với từng cơ

quan thì sẽ có có từng luật điều chỉnh quy định riêng về vị trí, chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và trên cơ sở đó, giữa các cơ quan này xây dựng các Quy chế

phối hợp. Để công tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết vụ án được tiến

hành đúng pháp luật thì cần có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và có hiệu

quả giữa Viện KSND, Cơ quan điều tra và Tòa án nhân dân. Việc phối hợp từ

khâu công tác tiếp nhận, xử lý tin báo được thực hiện thông qua nhiều hình thức

như: Phối hợp theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; phối hợp trong

xây dựng quy chế; qua trao đổi với bằng điện thoại, mạng điện tử. Ngoài ra

việc phối hợp còn thể hiện thông qua chức năng riêng có của Ngành kiểm sát

đó là Kiểm sát việc giải quyết vụ án trong họat động tư pháp nói chung và trong

tố tụng hình sự nói riêng. Việc phối hợp càng nhịp nhàng gắn kết thì hiệu quả

công tác giải quyết vụ án cố ý gây thương tích ngày càng được nâng cao.

Thực tiễn tại địa phương, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (chủ

34

yếu là Cơ quan Cảnh sát điều tra) đã phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm

qua “hoạt động nghiệp vụ”, mặc dù đã tiến hành kiểm tra, xác minh nhưng

không tiến hành thụ lý, phân công người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và

không chuyển nguồn tin đến Viện kiểm sát để Viện kiểm sát thụ lý, phân công

Kiểm sát viên theo quy định. Có một số vụ việc kéo dài, không giải quyết triệt

để; một số vụ đã vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng trong quá trình

kiểm tra, xác minh, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia tố tụng. Do

pháp luật hiện hành (BLTTHS, TTLT số 01/2017) không quy định về trình tự,

thủ tục thụ lý và giải quyết nguồn tin này nên VKSND cũng không có căn cứ

để ban hành Kiến nghị khắc phục vi phạm và yêu cầu Cơ quan CSĐT thụ lý,

giải quyết theo đúng quy định của TTLT số 01/2017 và BLTTHS về trình tự và

thời hạn giải quyết theo Điều 147 BLTTHS. Tình trạng này cho thấy chỉ trong

thời gian ngắn xảy ra nhiều hành vi cố ý gây thương tích tác động nhiều nguyên

nhân khác nhau như mâu thuẫn trong đời sống sinh hoạt, làm ăn hoặc do bản

tính côn đồ sẵn sàng gây án chỉ vì những nguyên cơ nhỏ nhặt.

Nhìn chung, trong giai đoan 2015-2019, các cơ quan tiến hành tố tụng

quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng đã thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ của mình và

giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác phối hợp để thu thập thông

tin tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác để điều tra, xử lý. Qua các vụ án, bị can đã bị cơ quan tiến hành tố

tụng quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng xét xử đúng pháp luật, đúng tội, đúng người

phạm tội trong thời gian qua. Chưa có trường hợp nào oan sai, so với thực tiễn

thời gian này việc điều tra, xử lý chưa phát hiện vẫn còn tương đối, cộng với số

lượng vụ mà người bị hại không trình báo hoặc người bị hại từ chối giám định

thương tích thì nhận thấy trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác này còn hạn chế,

35

chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

Tiểu kết Chương 1

Chương 1 của Luận văn tác giả đã nghiên cứu, phân tích khái niệm, dấu

hiệu pháp lý của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam. Tác giả cũng đã phân tích làm rõ

các dấu hiệu định khung tăng nặng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác và nghiên cứu, phân tích các quy định của

pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác trong tiến trình lịch sử lập pháp từ năm 1945 đến nay

và so sánh với một số tội khác. Từ những nghiên cứu, phân tích về mặt lý luận

và pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác tác giả đã đánh giá, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về áp

dụng pháp luật tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của

người khác như khái niệm, đặc điểm, vai trò của áp dụng pháp luật đối với tội

phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Với

việc phân tích mang tính lý luận về nhận thức đối với áp dụng pháp luật tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ làm nền

tảng, tiền đề để tác giả đi sâu vào thực tiễn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tại

36

chương 2.

CHƯƠNG 2

TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC

GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

TẠI QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Tình hình có liên quan đến Tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

2.1.1. Đặc điểm quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

Sau khi tách tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành

phố Đà Nẵng, Quận Sơn Trà được thành lập vào ngày 23/01/1997 là một quận

có ba mặt giáp sông, biển Phía Bắc và Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp

Vũng Thùng (Vịnh Đà Nẵng) và sông Hàn, phía Nam giáp quận Ngũ Hành

Sơn. Quận Sơn Trà là một trong 8 quận, huyện của thành phố Đà Nẵng, có diện

37

tích tự nhiên 5.931,79 ha, dân số 127.677 người, chiếm 14,26 % dân số thành

phố Đà Nẵng. Quận Sơn Trà hiện có 7 phường, là một quận vừa có vị trí thuận

lợi về phát triển kinh tế vừa là địa bàn quan trọng về quốc phòng – an ninh, có

bờ biển đẹp, là khu vực tập trung các cơ sở quốc phòng, có vị trí quan trọng

trong chiến lược an ninh khu vực và quốc gia.

Quận Sơn Trà cả 3 mặt giáp biển và sông, có nhiều bãi tắm đẹp tạo dọc

bờ biển, kết hợp với những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và giá trị được nâng

lên nhiều lần bởi các bãi tắm và các cảnh quan này không xa trung tâm thành

phố, cách nội thành Đà Nẵng chưa đầy 2km, có ý nghĩa rất lớn cho sự phát triển

du lịch và nghỉ dưỡng.

Quận Sơn Trà có tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã

hội được đảm bảo, công tác quốc phòng an ninh được giữ vững không để xảy

ra những sự việc có tính bất ngờ và không có các điểm nóng về tệ nạn xã hội.

Sơn Trà có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng của thành phố Đà Nẵng và

cả nước. Với các lợi thế về điều kiện tự nhiên, nên đây cũng là địa bàn rất thuận

lợi trong việc phát triển kinh tế. Đặc biệt các hoạt động dịch vụ, du lịch trong

thời gian qua phát triển mạnh mẽ. Do đó, công tác đảm bảo an ninh trật tự,

phòng chống tội phạm trên địa bàn khá phức tạp, đòi hỏi sự tập trung, bám sát

của các cơ quan chức năng. Với đặc điểm dân cư đông đúc và nhiều thành phần

khiến cho các loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phát triển. Quận Sơn Trà cũng là khu

vực tập trung nhiều thành phần tội phạm có tiền án, tiền sự, nhiều đối tượng

không có công ăn việc làm, thường xuyên tụ tập ăn chơi, dẫn tới phát sinh các

mâu thuẫn trong quá trình sinh sống diễn ra phổ biến tạo ra nguy cơ tội phạm

xâm hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm phát triển đặc biệt là những

hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

2.1.2. Khái quát về thực tiễn tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

38

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

từ năm 2015 đến năm 2019

Từ năm 2015 đến 2019, riêng án hình sự, đơn vị thụ lý 689 vụ /1067 bị

cáo phạm các loại tội. Trong số 689 vụ án hình sự đã thụ lý và xét xử thì đa số

tập trung vào các tội như: “Đánh bạc”, “Cố ý gây thương tích”, “Vi phạm quy

định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, “Trộm cắp tài sản”,

“Cướp giật tài sản”.

Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng khi thành lập đến nay đã hai

lần chia tách khi có thay đổi về địa giới hành chính, cán bộ phải tăng cường

cho đơn vị Tòa án mới chia tách. Năm 2019, biên chế được cấp trên phân bổ là

16 người, trong đó có 07 Thẩm phán, 07 Thư ký, 01 kế toán và 01 văn thư. Tuy

nhiên đến thời điểm này, số lượng cán bộ có 15 người trong đó có 06 Thẩm

phán, 07 Thư ký, 01 kế toán và 01 văn thư. Như vậy, trong khi khối lượng công

việc giải quyết tăng nhiều mỗi năm, với số lượng Thẩm phán như thế, thì việc

hoàn thành nhiệm vụ là công việc rất khó khăn, đòi hỏi tất cả cán bộ công chức

phải nỗ lực, tăng công suất công việc, đầu tư thời gian nhiều hơn. Tòa án nhân

dân quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng đã thụ lý 133 vụ án về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại sức cho khỏe của người khác, kịp thời đưa ra xét xử nhiều vụ

án nổi cộm, nhiều vụ xâm phạm tính mạng, sức khỏe, gây hậu quả đặc biệt

nghiêm trọng được dư luận quan tâm, chú ý. Hoàn thành những nhiệm vụ được

giao góp phần tích cực vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đặc biệt

là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Trong

công tác xét xử ngành Toà án quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng đẩy mạnh thực hiện

tranh tụng, lấy kết quả tranh tụng tại phiên toà làm căn cứ phán quyết của Hội

đồng xét xử nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử, giải quyết án.

Trong những năm vừa qua các Cơ quan điều tra, VKSND, TAND quận

Sơn Trà, TP Đà Nẵng đã thực hiện tương đối tốt nhiệm vụ của trong công tác

39

phối hợp để thu thập thông tin tội phạm về tội cố ý gây thương tích để điều tra,

truy tố, xét xử. Qua các vụ án, TAND quận Sơn Trà xét xử đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật, tranh làm oan người vô tội nhưng cũng không để xảy ra bỏ

lọt tội phạm. Thẩm phán, cán bộ công chức ngành Tòa án nhân dân quận Sơn

Trà, thành phố Đà Nẵng quyết tâm phấn đấu, không ngừng học tập, rèn luyện

để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, xứng đáng với vai trò,

vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp, cơ quan thực hiện quyền

tư pháp; kế thừa, nối tiếp truyền thống vẻ vang của ngành được xây dựng, cống

hiến qua các thế hệ cán bộ lãnh đạo, công chức ngành đi trước.

Tuy nhiên, trên thực tiễn tại nhiều quận huyện, Cơ quan có thẩm quyền

tiến hành tố tụng (chủ yếu là Cơ quan Cảnh sát điều tra) đã phát hiện hành vi

có dấu hiệu tội phạm qua “hoạt động nghiệp vụ”, mặc dù đã tiến hành kiểm tra,

xác minh nhưng không tiến hành thụ lý, phân công người có thẩm quyền tiến

hành tố tụng và không chuyển nguồn tin đến Viện kiểm sát để Viện kiểm sát

thụ lý, phân công Kiểm sát viên theo quy định. Có một số vụ việc kéo dài,

không giải quyết triệt để; một số vụ đã vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục

tố tụng trong quá trình kiểm tra, xác minh, ảnh hưởng đến quyền lợi của người

tham gia tố tụng.

Bên cạnh đó, việc truy tố và xét xử các bị cáo, còn nhiều quan điểm khác

nhau chưa thống nhất trong việc xử lý tội phạm, là một trong những nguyên

nhân dẫn đến tình trạng số lượng vụ án trả điều tra bổ sung vẫn tiếp diễn làm

giảm hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

Theo số liệu thống kê được từ TAND quận Sơn Trà trong 05 năm giai

đoạn từ 2015 đến 2019. TAND quận Sơn Trà đã đưa ra xét xử tổng số 689 vụ

/1067 bị cáo. Trong số đó các vụ về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

40

sức khỏe của người khác là 133 vụ án/218 bị cáo. Cụ thể:

Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khoẻ của người khác với tình hình tội phạm nói chung

trên địa bàn quận Sơn Trà giai đoạn từ năm 2015 – 2019

Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại Tội phạm hình sự Tỷ lệ cho sức khỏe của Năm người khác

Số vụ Số bị Số vụ Số bị Số bị cáo Số vụ án cáo án cáo án

21 35 16.03 17.15 2015 131 204

27 47 21.09 25.13 2016 128 187

25 43 18.38 20.37 2017 136 211

29 42 20.42 18.34 2018 142 229

31 51 20.39 21.61 2019 152 236

Tổng số 1067 133 218 19.30 20.43 689

Nguồn: Báo cáo tổng kết qua các năm TAND quận Sơn Trà

So sánh giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm về cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong thời gian

41

qua, có xu hướng gia tăng.

Bảng 2.2. Thực trạng áp dụng các chế tài đối với các bị cáo phạm tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác từ năm 2015

đến năm 2019 trên địa bàn quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng.

Giải Quyết Hình phạt

Phạt tù Phạt Phạt tù

Cải

trên 15 Phạt tù từ trên 3

tạo

năm đến tù đến trên 7

Án

Năm

không

năm Vụ Bị cáo

treo

chung 03 đến

giam

đến 7 thân năm 15

giữ

năm năm

00 00 07 20 08 00 2015 21 35

00 00 12 26 09 00 2016 27 47

04 00 09 15 15 00 2017 25 43

00 00 08 28 06 00 2018 29 42

01 00 03 30 17 00 2019 31 51

05 00 39 119 55 00

Tổng số 133

218

Nguồn: Báo cáo tổng kết qua các năm TAND quận Sơn Trà

- Về giới tính:

Trong vòng 5 năm qua số bị cáo phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bản quận Sơn Trà đại đa số là nam

giới với tỉ lệ 91%.

- Về độ tuổi:

Độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất. Phần lớn các bị can, bị cáo

đều là người có có trình độ văn hóa thấp (có những trường hợp không được đi

học và bỏ học từ khi con nhỏ tuổi), không có nghề nghiệp hoặc có nhưng lười

lao động chân chính, không chịu tu dưỡng rèn luyện đạo đức, những ham muốn

42

đua đòi.

- Về nghề nghiệp của các bị cáo:

Tình trạng nghề nghiệp của các bị cáo chiếm tỉ lệ cao nhất là nhóm các

ngành nghề không ổn định.

- Về trình độ học vấn:

Đa số các bị cáo phạm tội có trình độ học vấn thấp.

* Đặc điểm về địa bàn, phương thức, thủ đoạn phạm tội.

Tình hình hoạt động của tội cố ý gây thương tích trên địa bàn quận Sơn

Trà diễn biến phức tạp trên cả 7 phường. Về phương thức, thủ đoạn hoạt động

của tội phạm thường là: thường diễn ra trắng trợn, công khai, manh động, liều

lĩnh, nhiều hành vi côn đồ, càn quấy, thể hiện sự hung hãn, quyết thực hiện

hành vi phạm tội đến cùng với việc sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ, hung khí

nguy hiểm như mã tấu, dao phóng, súng tự chế,...với những nguyên nhân do

xung đột va chạm, do thù tức hoặc mâu thuẫn cá nhân hoặc xuất phát từ các

hoạt động bảo kê, đòi nợ thuê cũng như việc tranh giành địa bàn hoạt động, mối

làm ăn của các băng nhóm xã hội.

Thông qua thực tiễn công tác xét xử, tấc giả nhận thấy tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mức độ ngày càng tăng cả về số

lượng lẫn tính chất phức tạp, thủ đoạn thực hiện ngày càng manh động, côn đồ, liều

lĩnh, bất chấp hậu quả tội phạm gây ra ngày càng nghiêm trọng.

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành

phố Đà Nẵng

Trong 05 năm qua, nhìn chung việc áp dụng pháp luật hình sự về tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại quận Sơn

Trà, thành phố Đà Nẵng chưa có trường hợp nào xét xử oan người không có tội

hoặc bỏ lọt tội phạm, thực hiện đúng và đầy đủ thủ tục tố tụng, không để án

43

quá hạn luật định. Cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình định tội danh đối

với bị cáo đã đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ,

các tình tiết phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án hình

sự để xem xét, định tội danh một cách đầy đủ, chính xác, các tình tiết trong

hành vi phạm tội đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm đã được quy định

trong Điều 134 BLHS. Thực tiễn định tội danh Tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố

Đà Nẵng trong những năm vừa qua cho thấy đa số các tòa án đều định tội danh

đúng theo các dấu hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm và điều này được thể

hiện thông qua rất nhiều các vụ án.

- Về định tội danh

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HS-ST ngày 19/3/2018, TAND

quận Sơn Trà như sau:

“Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 03/3/2017, khi anh Nguyễn Vương K đi

ngang qua nhà ông Nguyễn Công A thì gặp ông A ở trước nhà. Do có mâu

thuẫn trước đó trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa 02 gia đình

nên giữa ông A và anh K đã xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Theo lời khai của ông

A thì trong lúc cãi vã anh K đã dùng dao gây thương tích tại tay của ông An

(kết quả giám định tỷ lệ thương tích là 02%). Nghe tiếng ồn ào bà D (vợ ông

A) từ trong nhà, cầm theo 01 cây cào loại 08 răng đi đến chỗ anh Khương và

ông An đang cãi nhau. Nhìn thấy tay của ông A bị thương và anh K đang cầm

dao thì bà D yêu cầu anh K bỏ dao xuống, nhưng ông K không bỏ mà vẫn tiếp

tục cầm dao giơ lên và hướng về phía ông A, nên bà D đã dùng cào bổ trúng

đầu của ông K gây vỡ lún sọ với tỷ lệ thương tích 40%. Con dao không thu giữ

được.

Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2018/HS-ST ngày 19/3/2018, TAND quận

Sơn Trà. Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, v, o, x khoản 1, 2 Điều 51;

44

khoản 1 Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Thị D 04 năm 06 tháng tù về tội:

"Cố ý gây thương tích". Ngoài ra, Bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử

lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Trong thời hạn luật định, bị cáo D kháng cáo kêu oan. Bản án phúc thẩm

xử phạt bị cáo 03 năm cải tạo không giam giữ về tội "Cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh" quy định tại khoản 1 Điều 135 BLHS.[1]”

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có đủ cơ sở xác định việc

bị cáo D đã dùng cào đánh vào đầu anh K gây thương tích 40% là đúng sự thật.

Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi gây thương tích cho anh K thì việc anh

K tấn công ông A gây thương tích 02% trước đó đã kết thúc. Lời khai của ông

A và bị cáo D đều thể hiện: Khi bị cáo D dùng cào đánh trúng đầu của anh K

thì anh K chỉ đang có hành vi cầm dao giơ lên và hướng về phía ông A mà

không phải đang dùng dao đánh, chém. Cũng theo lời khai của bị cáo D thì

khoảng thời gian bị cáo chứng kiến anh K cầm dao hướng về phía ông A kéo

dài khoảng 03 phút, nhưng suốt thời gian này anh K cũng không có động tác

đánh, chém nào trúng vào người ông A. Vì vậy, hành vi của bị cáo D không

thuộc trường hợp phòng về chính đáng.

Nếu chỉ xét riêng hành vi bị cáo D thực hiện hành vi dùng cào đánh vào

đầu anh K trong ngày 03/3/2018 thì chưa đủ để xác định thuộc trường hợp tinh

thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, cấp phúc thẩm đã có sự xem xét, đánh giá

một cách toàn diện quá trình mâu thuẫn kéo dài và nhiều lần giữa hai gia đình

có sự tác động và gây ảnh hưởng đến tâm lý của bị cáo khi thực hiện hành vi

phạm tội. Nên đã sửa tội danh theo hướng có lợi cho bị cáo so với bản án sơ

thẩm là phù hợp.

Ví dụ: Vụ án Nguyễn Văn K dùng ống tuýp sắt đánh Phạm Văn Đ sinh

do va chạm giao thông vào ngày 7/9/2014. Tuy nhiên, đến ngày 12/5/2015,

45

Phạm Văn Đ mới có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Do hai bên không thỏa

thuận được mức bồi thời nên thời gian từ khi gây án đến lúc nhận được tin báo

kéo dài hơn 8 tháng. Trong vụ án này, CQĐT, VKSND Quận Sơn Trà đã gặp

rất nhiều khó khăn trong công tác xác minh thu thập hồ sơ, tài liệu, chứng cứ

để làm rõ về hành vi phạm tội, cũng như vấn đề xác định chính xác tỉ lệ thương

tích của bị hại.

Kết luận giám định là chứng cứ (điểm d Điều 87 BLTTHS năm 2015) để

xác định có hay không có hành vi phạm tội, cơ chế hình thành dấu vết, tính chất

và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; những tình tiết liên quan đến

việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt và

những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án, để đảm bảo việc xử

lý vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Trong thực tế điều tra,

truy tố, xét xử còn có khó khăn, vướng mắc trong giải quyết vụ án “Cố ý gây

thương tích”. Khi giám định lại thì cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng kết quả

giám định nào (kết quả giám định lần đầu; kết quả giám định lại lần thứ nhất

hay kết quả giám định lại lần thứ hai…) để làm căn cứ truy tố và xét xử đối với

hành vi phạm tội ?...

- Về quyết định hình phạt

Nhìn chung, quyết định hình phạt mà TAND quận Sơn Trà áp dụng đối

với người bị kết án về tội này là có căn cứ, phù hợp với đặc điểm nhân thân của

bị cáo, tính chất. mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kết quả xét xử phúc thẩm, tỷ lệ

y án sơ thẩm chiếm 75,32% đã chứng minh việc áp dụng hình phạt của cấp sơ

thẩm là có căn cứ. Tuy nhiên đối với một số vụ án, mức phạt tù mà TAND quận

Sơn Trà xử phạt bị cáo chưa thật sự thỏa đáng và phù hợp với tính chất, mức

độ mà hành vi bị cáo đã gây ra. Tòa án đã cân nhắc không đúng căn cứ “tính

chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” nên khi quyết định

46

hình phạt cho bị cáo thiếu chính xác dẫn đến tuyên phạt mức án quá nhẹ, không

có tính răn đe, giáo dục các bị cáo hoặc quá nặng, không cá thể hóa hình phạt.

Ví dụ: Bản án hình sự phúc thẩm số: 15/2018/HS-PT ngày 29/01/2018

của TAND TP Đà Nẵng với nội dung như sau [2]:

“Khoảng 22h, ngày 28/5/2017, Võ Văn Đ sau khi ngồi nhậu tại tầng 2,

khu lán trại công nhân xây dựng số 63 đường Nguyễn Công Trứ, phường An

Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng thì tiểu tiện xuống phía dưới. Lúc

này, anh Nguyễn Văn Q, Đặng Văn L và Trần Ngọc T đang ngồi sinh hoạt ở

tầng dưới lán trại thấy nước tiểu chảy xuống nên anh Q nhìn lên phía trên và

nói với Đ “Không được tiểu bậy ở đây nữa”. Khi Đ nghe anh Q nói vậy liền

nhổ nước bọt xuống dưới. Thấy vậy, Q, T và L đi lên tầng 2 tìm Đ nói chuyện.

Sau khi tiểu và nhổ nước bọt xuống tầng dưới, Đ sợ người ở tầng dưới lên gây

gỗ nên lấy 01 con dao (cán bằng nhựa, lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 20cm)

cho vào túi quần rồi đi xuống tầng 1. Khi Đ đi đến chân cầu thang tầng 1 thì

gặp nhóm của Q. Đ thấy Q, L và T thì quay người định đi lên. Thấy vậy, Q chạy

đến ôm và xoay người Đ lại và nói “Thằng ni tiểu tiện khi nãy”. Lúc này, Đ

liền rút 01 con dao đã chuẩn bị sẵn đâm vào bụng của Q và làm con dao rơi

xuống đất. Thấy Đ đâm Q, L và T xông vào dùng tay, chân đánh Đ. Đ vùng bỏ

chạy. Nguyễn Văn Q được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Sơn Trà”.

Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 248/GĐ-PY ngày

26/7/2017 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng kết luận về thương tích

của Nguyễn Văn Q như sau: Vết thương thấu bụng, thủng ruột non và mạc treo,

gây tràn máu khoang ổ bụng. Tỷ lệ thương tích là 59%.

Tại Bản án sơ thẩm số 111/2017/HSST ngày 21/11/2017 Tòa án nhân

dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã quyết định [3]:

Áp dụng: Khoản 3 Điều 104; Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ

luật Hình sự

47

Xử phạt: Võ Văn Đ 07 (bảy) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời

hạn tù tính từ ngày bắt giam, ngày 29/5/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584; 591 Bộ luật dân sự 2015:

Buộc bị cáo Võ Văn Đ phải tiếp tục bồi thường số tiền 25.000.000 đồng cho

anh Nguyễn Văn Q.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí

và thông báo quyền kháng cáo bản án.

Ngày 25/11/2017, bị cáo Võ Văn Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình

phạt. Ngày 27/11/2017, người bị hại Nguyễn Văn Q có đơn kháng cáo với nội

dung:

Bản án sơ thẩm xử phạt Võ Văn Đ 07 năm tù và buộc bị cáo bồi thường

số tiền 60.00.000 đồng là quá nhẹ chưa tương xứng với tỷ lệ thương tích 59%

của người bị hại. Đề nghị tăng hình phạt và tăng mức bồi thường về dân sự lên

100.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị hại Nguyễn Văn Q rút đơn kháng cáo.

Bị cáo Võ Văn Đ thừa nhận bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố

ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng

tội, bị cáo chỉ xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa có quan điểm về việc giải

quyết vụ án như sau:

Tại phiên tòa người bị hại Nguyễn Văn Q tự nguyện xin rút đơn kháng

cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu

cầu kháng cáo của người bị hại.

Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Văn Đ: Bị cáo

đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm, đâm 01 nhát vào vùng bụng của

người bị hại Nguyễn Văn Q gây thương tích 59%. Bản án sơ thẩm đã xử phạt

bị cáo 07 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng tội, mức án

48

phù hợp, không nặng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng

cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Luật sư Trần Q bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh mà Bản án sơ

thẩm đã xét xử bị cáo. Tuy nhiên luật sư cho rằng mức án 07 năm tù mà cấp sơ

thẩm xử phạt bị cáo là nặng. Bởi lẽ sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, thành

khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường cho người bị hại

được 35 triệu đồng. Sau khi xử sơ thẩm gia đình bị cáo tiếp tục bồi thường thêm

10 triệu đồng. Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, có cha bị đau nặng, bị cáo

là lao động chính trong gia đình. Mặt khác cấp sơ thẩm chưa áp dụng quy định

có lợi tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 đối với bị cáo. Do đó đề nghị

Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm cho bị cáo một phần

hình phạt.

Nhận định của HĐXX: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Văn Đ đã

khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời

khai của người bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, thể

hiện: Khoảng 22 giờ ngày 28/5/2017 tại khu lán trại công nhân xây dựng số 63

đường Nguyễn Công Trứ, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà

Nẵng, Võ Văn Đ đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm đâm 01 nhát

vào vùng bụng của anh Nguyễn Văn Q gây thương tích 59%. Do đó bản án sơ

thẩm số 111/2017/HSST ngày 21/11/2017, Tòa án nhân dân quận Sơn Trà,

thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Võ Văn Đ về tội “Cố ý gây thương tích”

là có căn cứ, đúng tội. Tuy nhiên tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại

khoản 3 Điều 104 Bộ luật Hình sự 1999 có khung hình phạt từ 05 đến 15 năm

tù, nhưng theo quy định định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật sự Hình sự 2015 thì

khung hình phạt chỉ từ 05 đến 10 năm tù. Do đó, cấp sơ thẩm không áp dụng

quy định có lợi của Bộ luật Hình sự 2015 để xét xử bị cáo là thiếu sót. Bộ luật

Hình sự 2015 đã có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2018, vì vậy Hội đồng xét

49

xử sẽ áp dụng Nghị quyết 41/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội để xét xử bị

cáo theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế về áp dụng pháp luật trong xét

xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

Về nguyên nhân khách quan

Thứ nhất: Quy định của BLHS còn nhiều điểm chưa rõ ràng dù đã được

quy định một cách cụ thể trong BLHS nhưng việc xác định tội danh cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác lại khó xác định. Cụ

thể: Tội giết người (chưa đạt) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác đều có những dấu hiệu giống nhau như hậu quả gây

thương tích nặng cho bị hại, thực hiện do lỗi cố ý và đều có hành vi khách quan

như đánh, đâm, chém… nên khó phân biệt.

Thứ hai: Để xảy ra những hạn chế, tồn tại nêu trên một phần là do dịch

bệnh Covid – 19 bùng phát kéo dài đã ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực

hiện một số nhiệm vụ của đơn vị. Bên cạnh đó, trong kỳ trên địa bàn thành phố

phát sinh nhiều vụ, việc có tính chất phức tạp, cần có thời gian để xác minh,

giải quyết.

Thứ ba: cơ sở vật chất, kinh phí đầu tư các trang thiết bị, phương tiện làm

việc phục vụ công tác chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, chế độ, chính sách

đối với người làm công tác xét xử còn chưa được quan tâm, chú trọng và chưa

tương xứng.

- Về nguyên nhân chủ quan:

- Một số người tiến hành tố tụng chưa chú ý hết các quy định mới của

BLHS năm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, dẫn đến nhầm lẫn trong

quá trình áp dụng.

- Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, có một số vụ án còn cải sửa,

phần lớn lý do cải sửa là do: Hội đồng xét xử sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá

50

đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đánh giá chứng cứ chưa toàn

diện hoặc giải quyết bồi thường không đúng theo quy định của Bộ luật dân sự.

Một số trường hợp hội đồng xét xử còn nặng, nhẹ, chưa đánh giá đầy đủ tính

chất, đúng mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, chưa xem xét đầy đủ các tình

tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo.

- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với những người tiến hành tó

tụng thực hiện nhiệm vụ chưa được thực hiện một cách thường xuyên và có

hiệu quả.

Tiểu kết Chương 2

Trong Chương 2, luận văn đã khái quát được tình hình xét xử tội phạm

đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Từ đó phân tích, đánh giá, nhận xét các

vụ án thực tiễn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Đánh giá những điểm hạn

chế, thiếu sót mà cơ quan tiến hành tố tụng đã định tội danh và quyết định hình

phạt. Từ đó, đưa ra những yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp

luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác tại Chương 3 sao cho thực tiễn xét xử được minh bạch, công bằng hơn,

giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng nhìn nhận được những vấn đề mà mình

đang mắc phải, hay có những kỳ vọng để pháp luật Việt Nam nói chung và quy

định về đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng được hoàn thiện hơn,

51

phù hợp với hoàn cảnh của Nhà nước ta.

CHƯƠNG 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT

HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI

CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

3.1. Yêu cầu đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Để tiếp tục hoàn thiện BLHS nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng theo tiến trình cải cách tư

pháp, cần phải nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, một mặt thể chế hóa

cụ thể chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp đã đề ra trong Nghị quyết 48,

Nghị quyết 49 của Bộ chính trị, đồng thời phải kế thừa những giá trị lịch sử nền

tư pháp trước đây quy định về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác và gắn liền với thực tiễn của đất nước, trong điều kiện tiếp

tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước của dân do dân và vì dân.

Do vậy, để tiếp tục hoàn thiện các quy định về tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam theo yêu

cầu cải cách tư pháp và phù hợp với thực tiễn cần đáp ứng các yêu cầu sau:

Thứ nhất, yêu cầu bảo đảm thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp

năm 2013 về quyền con người và quyền cơ bản của công dân

Hiến pháp năm 2013 đã có những thay đổi hết sức quan trọng về quyền

con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Lần đầu tiên Hiến pháp đã

làm rõ hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân”. Sự tách bạch

này đã góp phần củng cố lý luận về quyền con người, quyền công dân, làm cơ

sở để tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này cũng như áp dụng vào thực tiễn. Có thể

nói, Hiến pháp năm 2013 như một “làn gió mới” tiếp tục khẳng định chế độ

dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có chọn lọc phù hợp với điều kiện thực tiễn

52

của Việt Nam đối với các qui định về quyền con người trong các văn bản pháp

luật quốc tế, ghi nhận một số quyền mới. Với phương châm “tôn trọng và bảo

vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất

nước và quyền làm chủ của nhân dân” đã được thể hiện ngày càng đầy đủ hơn

về những nội dung liên quan quyền con người và quyền và nghĩa vụ cơ bản của

công dân trong các bản Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ đã chứng minh

Việt Nam luôn quan tâm đến công dân cũng như luôn quan tâm đến việc phát

triển con người Việt Nam, phù hợp với cách tiếp cận của Liên hợp quốc trong

việc thực hiện quyền con người nhằm xây dựng, kết mối quan hệ đại đoàn kết

toàn dân tộc ngày càng phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh.

Để bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam bên

cạnh việc nghiên cứu góp phần làm rõ những quy định của Hiến pháp về quyền

con người, quyền công dân, thiết nghĩ chúng ta phải hoàn thiện tất cả các văn

bản quy phạm pháp luật từ Luật, pháp lệnh đến các văn bản dưới luật theo tinh

thần về quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp,

đồng thời mọi cơ quan nhà nước, tổ chức khi thực hiện mọi hoạt động cần phải

tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Thứ hai, yêu cầu cải cách tư pháp

Qua 15 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020, quận Sơn Trà có nhiều cố gắng, nỗ lực trong

công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược cải cách tư pháp, từ

đó, công tác cải cách tư pháp của quận đạt nhiều kết quả quan trọng. Trong 15

năm qua, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW tại quạn Sơn Trà

được tổ chức một cách đồng bộ, toàn diện. Chất lượng, hiệu quả các hoạt động

tư pháp, trọng tâm là hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng

lên rõ rệt. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tư pháp,

53

nhất là đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp được củng cố, tăng cả về số lượng,

chất lượng. Vai trò của các hoạt động bổ trợ tư pháp từng bước được khẳng

định. Sự phối, kết hợp của các cấp, các ngành, nhất là các cơ quan tư pháp trong

thực thi nhiệm vụ ngày càng được tăng cường và phát huy hiệu quả; góp phần

giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế -

xã hội của quận Sơn Trà...

TAND luôn phải quán triệt những phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư

pháp nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân,

vì TAND là một thiết chế trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, là

cơ quan xét xử, có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết các vụ

án hình sự, trong đó có vụ án về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khỏe của người khác.

Thứ ba, yêu cầu đưa các quy định của Bộ luật hình sự 2015 đi vào cuộc

sống

Để triển khai thi hành BLHS năm 2015 và Nghị quyết của Quốc hội về

việc thi hành BLHS, TAND quận Sơn Trà đã chủ động xây dựng kế hoạch triển

khai thi hành BLHS năm 2015. Trong đó, xác định cụ thể các nhiệm vụ, nhất

là rà soát để kịp thời triển khai ngay các quy định có hiệu lực từ khi Chủ tịch

nước công bố; tổ chức quán triệt và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để phổ

biến, tập huấn BLHS năm 2015, đồng thời rà soát các văn bản quy phạm pháp

luật để kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành mới.

Với việc triển khai đồng bộ các nhiệm vụ nêu trên, BLHS năm 2015 sẽ

sớm đi vào cuộc sống, thật sự phát huy vai trò là công cụ hữu hiệu của Nhà

nước trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp

phần bảo vệ an toàn, trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập quốc tế.

54

Thứ tư, yêu cầu hội nhập quốc tế

Để phát huy tối đa hiệu lực trong đấu tranh phòng, chống tội phạm thì

việc nội luật hóa các quy định có liên quan trong các điều ước quốc tế mà Việt

Nam vào pháp luật hình sự nước ta cần được tiếp tục nghiên cứu tiến hành,

đồng thời các cơ quan chức năng như Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ,

Tòa án nhân dân tối cao và một số cơ quan khác cần nhanh chóng ban hành các

văn bản hướng dẫn thi hành BLHS 2015, Luật sửa đổi bổ sung một số điều

BLHS 2015 cũng như triển khai áp dụng trong thực tiễn. Ngoài các quy định

được đề cập nêu trên, trong BLHS 2015 còn có một số quy định khác được xây

dựng trên tinh thần nội luật hóa các điều ước quốc tế mà trong phạm vi bài viết

này chưa đề cập cụ thể.

Thứ năm, cụ thể hóa được chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước

trong đấu tranh phòng, chống đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác

Giữa pháp luật và đường lối của Đảng có mối liên hệ khăng khít, thể hiện

ở những điểm sau:

1. Đường lối của Đảng là tư tưởng xuyên suốt chỉ đạo cho việc xây dựng

các văn bản quy phạm pháp luật.

2. Đường lối của Đảng không thay thế vai trò của pháp luật.

3. Sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tất yếu gắn chặt

với quá trình thể chế hoá đường lối của Đảng vào thực tiễn hoạt động của bộ

máy nhà nước.

Nói cách khác, hệ thống pháp luật ở nước ta thể hiện kết quả quá trình

thể chế hoá đường lối của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời

gian qua, Đảng và Nhà nước ta ngày càng quan tâm đến xử lý tội phạm nói

chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

nói riêng cho nên đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh đấu

55

tranh phòng, chống tội phạm này. Các chủ trương, chính sách này được thể hiện

qua hàng loạt các Nghị quyết, các văn bản pháp luật, trong đó có BLHS với

quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người

khác. Chính vì thế, để thể chế hóa hơn nữa các chủ trương, chính sách này của

Đảng và Nhà nước đi vào thực tế sâu rộng hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng được

nguyện vọng của nhân dân trong việc phòng, chống tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì việc hoàn thiện các quy định

của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh hiện nay.

3.2. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng quy định

của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác của các cơ quan tiến hành tố tụng

3.2.1. Bổ sung, hoàn thiện các quy định cụ thể về tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

- Đánh giá, bổ sung và hoàn thiện các quy định của BLHS 2015 về tội cố

ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

Thứ nhất: Theo Điều 134 Bộ luật hình sự mới thì tình tiết định khung

“Phạm tội 02 lần trở lên” và “Tái phạm nguy hiểm” chỉ quy định ở Khoản 2,

không phải là tình tiết định khung ở khoản 3, khoản 4, khoản 5 với yêu cầu kèm

theo mức hậu quả tương ứng. Đây là tình tiết định khung gắn liền với nhân thân

người phạm tội, thể hiện mức độ chấp hành pháp luật của người phạm tội, mà

theo nhận thức của chúng tôi thì mức độ nghiêm trọng của các tình tiết này có

phần cao hơn nhiều tình tiết định khung quy định từ điểm a đến điểm k khoản

1. Khi áp dụng Điều 134 Bộ luật hình sự mới vào thực tiễn sẽ phát sinh tình

huống một người phạm tội gây ra hậu quả gây thương tích cho 01 người mà tỷ

lệ thương tích từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích cho 02 người mà mỗi

người tỷ lệ thương tích mỗi người từ 11% đến 30% mà thuộc trường hợp Phạm

56

tội 02 lần trở lên hoặc Tái phạm nguy hiểm thì không bị xét xử theo khoản 3

Điều 134, trong khi đó nếu họ thuộc các trường hợp từ điểm a đến điểm k khoản

1 Điều 134 thì lại bị xét xử theo khoản 3 Điều 134 (bất cập này phát sinh tương

tự khi xảy ra tình huống cần xem xét quyết định hình phạt ở khoản 4, khoản 5

của điều luật). Điều này dễ tạo nên sự không công bằng trong quyết định hình

phạt, nhất là việc quyết định hình phạt đối với những trường hợp phạm tội nhiều

lần, các đối tượng nguy hiểm, coi thường pháp luật.

Thứ hai: Tình tiết định khung “Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt

của 01 người từ 61% trở lên” chỉ quy định ở điểm b khoản 4 Điều 134. Trong

khi đây là mức hậu quả được xác định riêng do tính nghiêm trọng cao của nó

ảnh hưởng đến sức khỏe của người bị hại. Nhưng tình tiết này không phải là

tình tiết định khung ở khoản 5 với yêu cầu kèm theo điều kiện tương ứng. Điều

này dẫn đến một người phạm tội gây ra hậu quả gây thương tích cho 02 người

mà tỷ lệ tổn thương cơ thể mỗi người từ 61% trở lên mà thuộc trường hợp “Gây

thương tích làm biến dạng vùng mặt của 01 người trở lên” thì không bị xét xử

theo khoản 5 Điều 134; trong khi đó nếu họ thuộc các trường hợp từ điểm a đến

điểm k khoản 1 Điều 134 thì bị xét xử theo khoản 5 Điều 134.

Thứ ba: Hậu quả chết 01 người bị xét xử theo khoản 4 Điều 134. Nhưng

hậu quả này kèm theo các tình tiết định khung tăng nặng từ điểm a đến điểm k

khoản 1, các điểm c, d khoản 2 ( Phạm tội 2 lần trở lên, Tái phạm nguy hiểm),

điểm b khoản 4 (Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của một người, thậm

chí nhiều người…) hoặc kèm theo hậu quả 01 người bị thương tích từ 11 đến

60 % hoặc nhiều người bị thương tích mà trong đó mỗi người từ 31 đến 60%

thì lại không quy định ở khoản 5. Điều này dẫn đến mất công bằng rõ ràng khi

quyết định hình phạt đối với trường hợp gây hậu quả chết người với trường hợp

không gây chết người nhưng gây thương tích cho 02 người trở lên mà tỷ lệ

thương tích mỗi người từ 61% trở lên. Bởi lẽ theo quy định tại Điều 134 Bộ

57

luật hình sự mới thì trường hợp hậu quả gây thương tích cho 02 người trở lên,

mà mỗi người tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, thuộc một trong các trường

hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 thì bị xét xử theo điểm b

khoản 5 Điều 134. Có nghĩa rằng, nếu gây ra hậu quả 02 người bị thương từ

61% trở lên thì có thể bị xét xử nặng hơn trường hợp gây hậu quả 01 người chết

và 01 người bị thương từ 61% trở lên, chưa kể đến trường hợp người phạm tội

còn thuộc các tình tiết tăng nặng quy định tại các điểm c, d khoản 2, điểm b

khoản 4 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Để các quy định của pháp luật có tính khả thi trong thực tiễn, kết cấu của

điều luật được chặt chẽ, không mâu thuẫn với các quy định khác, quan điểm cá

nhân tác giả cho rằng các cơ quan chức năng cần thống nhất hướng dẫn, giải

thích để áp dụng điều luật cho chính xác; đồng thời nên cân nhắc, xem xét bỏ

khoản 6 của Điều 134 BLHS năm 2015 và không nên truy cứu trách nhiệm hình

sự đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội cố ý gây thương tích. Nếu các hành vi

chuẩn bị phạm tội được nêu tại khoản 6 Điều 134 BLHS năm 2015 mà đủ yếu

tố cấu thành của một tội độc lập nào đó được quy định trong Bộ luật Hình sự

thì sẽ áp dụng xử lý theo tội phạm đó.

- Đánh giá và hoàn thiện các quy định của BLTTHS 2015

Để triển khai thi hành BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết của Quốc hội

về việc thi hành BLHS, các cơ quan tố tụng quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai thi hành BLTTHS năm 2015. Trong

đó, xác định cụ thể các nhiệm vụ, nhất là rà soát để kịp thời triển khai ngay các

quy định có hiệu lực từ khi Chủ tịch nước công bố; tổ chức quán triệt và chuẩn

bị các điều kiện cần thiết để phổ biến, tập huấn BLTTHS năm 2015, đồng thời

rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời đề nghị sửa đổi, bổ sung,

bãi bỏ hoặc ban hành mới.

Với việc triển khai đồng bộ các nhiệm vụ nêu trên, BLTTHS năm 2015

58

sẽ sớm đi vào cuộc sống, thật sự phát huy vai trò là công cụ hữu hiệu của Nhà

nước trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp

phần bảo vệ an toàn, trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,

bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường và tăng cường hội nhập quốc tế.

Theo quan điểm của chúng tôi nên quy định Viện kiểm sát là cơ quan

đầu mối tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố; bởi lẽ, Viện

kiểm sát là cơ quan giữ quyền công tố nên cần phải nắm được đầu vào của tội

phạm để đảm bảo mọi hành vi phạm pháp đều phải được phát hiện và xử lý kịp

thời. Cần quy định các cơ quan, tổ chức, Tòa án, Cơ quan điều tra khi nhận

được tin báo, tố giác tội phạm phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát bằng văn

bản. Viện kiểm sát có thể trực tiếp tiến hành xác minh tin báo, tố giác tội phạm

hoặc đề ra yêu cầu giải quyết tin báo, tố giác tội phạm và chuyển cho Cơ quan

điều tra tiến hành xác minh. Trong quá trình Cơ quan điều tra giải quyết tin

báo, tố giác tội phạm Viện kiểm sát phải có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo

pháp luật việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội

phạm và kiến nghị khởi tố. Hiện nay có một vướng mắc là đối tượng kiểm sát

việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm chỉ là Cơ quan điều tra; tuy nhiên, trên

thực tế Công an phường khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm cũng tiến hành

xác minh nếu thấy có dấu hiệu tội phạm mới báo cáo Cơ quan điều tra xử lý

theo thẩm quyền còn không họ sẽ xử lý hành chính. Cần có cơ chế phối hợp để

Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra cùng tiến hành kiểm tra, giám sát việc tiếp

nhận tin báo, tố giác tội phạm của Công an phường và có quy định trong Bộ

luật tố tụng hình sự để Viện kiểm sát có thẩm quyền kiểm sát việc tiếp nhận và

giải quyết tin báo, tố giác tội phạm của các cơ quan khác được giao tiến hành

một số hoạt động điều tra.

3.2.2. Tăng cường tổng kết thực tiễn giữa các cơ quan tố tụng về cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

59

TAND tối cao cần Nghiên cứu sớm ban hành áp dụng án lệ về tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Thẩm phán căn

cứ vào đó để giải thích và vận dụng pháp luật về tội cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác rất đa dạng, do có nhiều văn bản quy

phạm pháp luật quy định, và một số văn bản quy phạm pháp luật quy định

không rõ ràng, quy định không phù hợp với tình hình thực tế.

Với án lệ các vụ việc được giải quyết nhanh chóng hơn khi chưa có luật

thành văn điều chỉnh góp phần nâng cao trình độ người tiến hành tố tụng và

người tham gia tố tụng, thông qua việc không ngừng cập nhật liên tục án lệ để

giải quyết.

3.2.3. Nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức công vụ đối

với đội ngũ cán bộ có thẩm quyền

3.2.3.1. Thực hiện chặt chẽ việc tiêu chuẩn hoá Thẩm phán và Hội thẩm

Xây dựng đội ngũ các bộ làm công tác xét xử trong sạch, đủ năng lực,

trình độ chuyên môn theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm

2014, đồng thời từng bước nâng cao tiêu chuẩn đối với Thẩm phán chuyên

nghiệp. Cần phải có cơ chế thu hút, tuyển chọn những người có tâm huyết làm

công tác xét xử, mở rộng nguồn để bổ nhiệm Thẩm phán ưu tiên tuyển dụng

những sinh viên xuất sắc trong quá trình học tập. Việc thi tuyển thẩm phán phải

thực chất, dân chủ, công khai để chọn ra những người thực sự có năng lực.

Tòa án phải đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ để bố trí, sử dụng cán bộ

hợp lý; xác định lại nhu cầu biên chế của từng đơn vị phù hợp với yêu cầu,

nhiệm vụ để xây dựng đội ngũ cán bộ bản lĩnh. Việc tuyển dụng cán bộ, công

chức Tòa án được thực hiện thông qua thi tuyển, cán bộ được tuyển dụng làm

Thư ký Tòa án là nguồn cán bộ để bổ nhiệm đội ngũ Thẩm phán. Thủ tục xem

xét và bổ nhiệm Thẩm phán và cán bộ có chức danh tư pháp của Tòa án nhân

dân được đổi mới, tiến hành kịp thời, bảo đảm các tiêu chuẩn về chính trị, đạo

60

đức phẩm chất và chuyên môn nghiệp vụ. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo Tòa án các

cấp được kiện toàn, bổ sung, bảo đảm công tác chỉ đạo, điều hành việc thực

hiện các nhiệm vụ của cơ quan Tòa án. Công tác luân chuyển cán bộ cần được

quan tâm thực hiện. Việc điều động cán bộ đẩy mạnh để tăng cường cho các

đơn vị có số lượng án lớn phải giải quyết. Công tác quy hoạch cán bộ có chức

danh tư pháp được thực hiện theo đúng hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung

ương nhằm sử dụng đúng đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự kế cận giữa các thế hệ

cán bộ có chức danh tư pháp của các Tòa án.

Cán bộ xét xử nói chung và thẩm phán nói riêng là thành phần không thể

thiếu trong mỗi phiên toà xét xử. Do vậy, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo

đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán là

yêu cầu quan trọng. Thẩm phán là người nhân danh công lý được giao nhiệm

vụ thay mặt Nhà nước để đưa ra phán quyết có tính chất bắt buộc đối với bất

kỳ cá nhân, tổ chức có liên quan. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm

công tác xét xử có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp giỏi và có

phẩm chất đạo đức tốt là yêu cầu cấp thiết, một giải pháp có ý nghĩa rất quan

trọng để nâng cao chất lượng xét xử án hình sự.

3.2.3.2. Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ

Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ Điều tra viên,

Kiểm sát viên, thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có năng lực, phẩm chất để thực

hiện tốt hoạt động áp dụng pháp luật các loại tội phạm nói chung và nhóm tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác nói riêng; quan

tâm bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán có bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có tinh thần kiên

quyết đấu tranh bảo vệ công lý, bảo vệ nền pháp chế Xã Hội Chủ Nghĩa; có

phẩm chất đạo đức trong sáng, lương tâm, trách nhiệm, tận tụy và tự giác cao

với công việc; thường xuyên tập huấn, rèn luyện kỹ theo hướng chuyên sâu.

61

Cần có sự quan tâm bố trí đủ lực lượng tránh để tình trạng quá tải trong

việc khắc phục tình trạng không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án khi được phân công

giải quyết do lực lượng bố trí không đồng đều, thiếu lực lượng dẫn đến quá tải

công việc.

3.2.3.3. Tăng cường trách nhiệm trong hoạt động điều tra, gắn công tố

với hoạt động điều tra

Tuy đã đạt rất nhiều kết quả tốt, nhưng vẫn còn tình trạng án bị trả điều

tra bổ sung, bị huỷ, sửa. Nguyên nhân là do một số cán bộ, Kiểm sát viên chưa

làm hết trách nhiệm, còn thiếu chủ động; chưa nắm được, hiểu được hoạt động

thực hành quyền công tố là gì, việc gắn hoạt động thực hành quyền công tố vào

hoạt động điều tra như thế nào cho đạt hiệu quả; chưa nắm đầy đủ các quy định

về trình tự, thủ tục tố tụng, chưa nắm được các quy định của pháp luật hình sự,

pháp luật tố tụng và các ngành luật liên quan dẫn tới không biết được để thực

hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra.

3.2.3.4. Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất

Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã nêu rõ:

“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ

công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã

hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến

hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [7]. Do đó, để bảo đảm thực hiện tốt công

tác xét xử cần quan tâm hơn nữa đến việc tăng cường điều kiện cơ sở vật chất,

phương tiện làm việc cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung

và Tòa án các cấp nói riêng là một yêu cầu cấp thiết.

Trong mọi hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung

và toà án nói riêng đều cần có kinh phí và cơ sở vật chất để tổ chức thực hiện

các chức năng, nhiệm vụ. Các yếu tố này ảnh hưởng lớn tới hiệu lực, hiệu quả

hoạt động của cơ quan. Đối với xây dựng pháp luật, yếu tố kinh phí và cơ sở

62

vật chất có tác động lớn tới chất lượng xây dựng pháp luật của các cơ quan nhà

nước, cá nhân có thẩm quyền bởi nếu kinh phí, cơ sở vật chất không đủ, không

phù hợp thì các chủ thể có thẩm quyền khó có thể bảo đảm tiến độ triển khai

nhiệm vụ, cũng như các cơ quan, tổ chức và người dân khó có thể thực hiện

quyền tham gia xây dựng pháp luật theo quy định.

Hiện đại hóa các phương tiện làm việc và cơ sở vật chất phục vụ cho

công tác xét xử là vô cùng cấp thiết trong bối cảnh tình hình hiện nay. Tăng

cường việc cấp tài liệu nghiên cứu, sách báo, tạp chí về khoa học pháp lý cho

các Thẩm phán và cán bộ, nhất là các tạp chí lý luận chuyên ngành để họ có thể

kịp thời nắm bắt được những thành tựu và sự phát triển của khoa học pháp lý

trong tình hình mới. Trang bị cơ sở vật chất như: hiện đại hóa phòng xét xử của

các TAND, nâng cấp trụ sở, phòng làm việc của ván bộ, đảm bảo cho hoạt động

xét xử tại phiên tòa được thuận lợi, an toàn, phòng xét xử phải thể hiện được

tính nghiêm trang, tạo ra niềm tin công lý cho những người tham dự phiên tòa.

Công tác bảo vệ cho Tòa án và các phiên tòa cũng cần phải được chú trọng,

đảm bảo các hiện tượng gây rối tại phiên tòa ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm ở

nơi công đường không còn xảy ra.

Đổi mới chế độ về tiền lương, chính sách đãi ngộ đối với thẩm phán, cán

bộ công chức ngành Tòa án. Bên cạnh việc tăng cường điều kiện, phương tiện

cơ sở vật chất, Nhà nước phải chú trọng đến việc hoàn thiện các chế độ chính

sách đối với Thẩm phán và cán bộ ngành Tòa án.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, TAND là “cơ quan xét xử của

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” nhưng

Tòa án lại được xếp lương vào cùng khu vực cơ quan hành chính nhà nước.

Việc quy định ngạch, bậc lương của các chức danh tư pháp như ngạch, bậc

lương của công chức hành chính khác là chưa tương xứng với vị trí, vai trò,

trách nhiệm cao của Toà án và tính chất lao động phức tạp, nặng nhọc và đặc

63

thù của ngành Toà án.

Một số bất hợp lý của hệ thống tiền lương hiện hành chưa tạo được sự

yên tâm công tác lâu dài và thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao đối

với đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án như: định mức khoán kinh phí đối với

công chức làm việc trong TAND; mức lương tối thiểu chậm được điều chỉnh;

bảng lương có quá nhiều bậc, khoảng cách giữa các bậc ngắn, việc trả lương

chủ yếu dựa theo bằng cấp và thâm niên công tác…

Chế độ tiền lương chưa thể hiện đúng sự quan tâm của Đảng và Nhà nước

đối với công tác Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp (Tòa án là trung tâm,

xét xử là trọng tâm), chưa đáp ứng yêu cầu của hoạt động xét xử và yêu cầu

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, phòng, chống tham nhũng và cải

cách tư pháp ở nước ta theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và

Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến

năm 2020.

Chế độ tiền lương, mức đãi ngộ thấp đối với cán bộ, công chức Toà án

hiện nay chưa phải là bảo đảm hữu hiệu để Toà án thực hiện nguyên tắc “Khi

xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Việc giải quyết tiền lương và phụ cấp chưa đồng bộ so với yêu cầu xây

dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án trong sạch, vững mạnh theo yêu cầu

cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế; không tạo được tính cạnh tranh trong đội

64

ngũ cán bộ, công chức, làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động công vụ.

65

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, tình hình tội phạm nói chung, tội phạm cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trên địa

bàn quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng có nhiều diễn biến phức tạp cả về số lượng lẫn

tính chất phức tạp của vụ án. Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận của tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác; thực tiễn

áp dụng pháp luật đã chỉ ra những thiếu sót, bất cập trong quy định pháp luật

hiện hành. Luận văn cũng đã đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp hình sự về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, chỉ ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân

của những tồn tại hạn chế đó trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự về tội

n. Luận văn đã đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự

về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tác giả

hy vọng, các kiến nghị của Luận văn sẽ góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật

hình sự Việt Nam về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe

của người khác vào thực tiễn qua đó nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống

tội phạm này trên phạm vi cả nước nói chung và tại quận Sơn Trà, thành phố

Đà Nẵng nói riêng. Qua việc đề xuất những giải pháp, tác giả mong muốn góp

phần nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn

66

quận Sơn Trà.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bản án số 13/2018/HS-ST ngày 19/3/2018, TAND quận Sơn Trà

2. Bản án hình sự phúc thẩm số: 15/2018/HS-PT ngày 29-01-2018 của TAND

TP Đà Nẵng

3. Bản án sơ thẩm số 111/2017/HSST ngày 21/11/2017 Tòa án nhân dân quận

Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

4. Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng, (2017) (chủ biên), Bình luận khoa học

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb. Thế giới,

5. Công văn số 03/TATC ngày 22/10/1987

6. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

7. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

8. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

9. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

10. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

11. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

12. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

13. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày

14/9/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC, Hà Nội

14. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.

15. Trần Văn Hưởng (2013), Bình luận khoa học luật hình sự Việt Nam (có

sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

16. Hội đồng Quốc gia (2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển

Bách khoa, Hà Nội.

17. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2018), Bình luận khoa học BLHS năm 2015

được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm) - Quyển 1, Nxb Tư

Pháp, Hà Nội

18. Nghị quyết số 49-NQ/TW này 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020

19. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam,

Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

20. Trần Văn Hưởng (2013), Bình luận khoa học luật hình sự Việt Nam (có

sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

21. Hội đồng Quốc gia (2003), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển

Bách khoa, Hà Nội.

22. Đặng Thị Hương Dung, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật

hình sự Việt Nam;

23. Đỗ Đức Hồng Hà, “Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích”,

Tạp chí toà án nhân dân, số 3/2004;

24. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2002), Đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại địa bàn tỉnh

Thừa Thiên Huế, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội

25. Lương Minh Phương (2013), Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các

tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người của Toà án nhân dân ở tỉnh

Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

26. Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam Phần

các tội phạm, tập I, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

27. Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt của Hội

đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

28. Tòa án nhân dân tối cao (1986), Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986

của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một

số quy định trong phần các tội phạm của bộ luật hình sự, Hà Nội.

29. Lê Đình Tĩnh (2014), Các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến

sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ,

Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,

30. Phạm Minh Tuyên (2018), “Một số ý kiến về tội Cố ý gây thương tích hoặc

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 Bộ luật

hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12/2018.

31. Thông tư số 442-TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ

32. Thông tư số 03-BTP/TT ngày 20/4/1976 của Bộ Tư pháp Chính phủ cách

mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

33. Thông tư số 12/TTLB liên bộ Bộ Y tế. Bộ Lao động - Thương binh và xã

hội ngày 26-7-1995 quy định về tiêu chuẩn thương tật và tiêu chuẩn bệnh

tật mới

34. Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày

02/01/1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung

một số điều của BLHS

35. Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12 tháng 6 năm 2014 Thông tư quy định

về phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập

II), Nxb. CAND, Hà Nội;