VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THẾ ANH

TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THẾ ANH

TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS ĐINH THẾ HƯNG

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn “Tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” là công

trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS Đinh Thế

Hưng.

Tôi xin cam đoan số liệu, thông tin và trích dẫn trong luận văn bảo đảm

độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa

từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông tin và tài liệu

trích dẫn trong luận văn được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

TRẦN THẾ ANH

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1 .......................................................................................................... 6

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM

NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ................................................................................. 6

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi. ................................................................................................................ 6

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt nam về Tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. ......................... 22

Chương 2 ........................................................................................................ 31

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM

NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................. 31

2.1. Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi. .............................................................................. 31

2.2. Thực tiễn định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn

Thành phố Hà Nội. ...................................................................................... 36

2.3. Những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về Tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội. ............................................. 43

2.4. Nguyên nhân của những vướng mắc khi áp dụng pháp luật về Tội hiếp

1

dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội. ........................... 48

Chương 3 ........................................................................................................ 52

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ĐẮN

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI 52

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................. 52

3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi. ................................................................................................ 52

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi. .............................................................................. 55

KẾT LUẬN .................................................................................................... 73

2

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật hình sự

CQĐT Cơ quan điều tra

CTTP Cấu thành tội phạm

TAND Tòa án nhân dân

TANDTC Tòa án nhân dân tối cao

TNHS Trách nhiệm hình sự

VKSND Viện kiểm sát nhân dân

3

VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trẻ em là đối tượng cần sự bảo vệ của toàn xã hội. Thực tiễn hiện nay,

nhóm trẻ bị xâm hại tình dục ngày càng diễn biến phức tạp cả về quy mô và

cách thức thực hiện. Xâm hại tình dục trẻ em đang là vấn nạn trên toàn Việt

Nam, hậu quả mà các em phải gánh chịu có thể là những tổn thất về sức khỏe

thể chất và tinh thần, làm giảm khả năng học tập, hòa nhập xã hội và thậm chí

có thể hủy hoại các em, ảnh hưởng đến việc trở thành con người tốt, trở thành

cha mẹ tốt trong tương lai. Từ 1/1/2015 đến 30/6/2019, cả nước đã phát hiện,

xử lý 8.442 vụ xâm hại trẻ em, với 8.709 trẻ bị xâm hại (1.672 trẻ em nam,

7.037 trẻ em nữ). Trong đó, số trẻ em bị xâm hại tình dục là 6.432 em; bạo lực

857 em; mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt 106 em; các hình thức xâm hại khác là

1.314 em.

Riêng trong 6 tháng đầu năm 2019, số trẻ em bị xâm hại tăng đột biến,

với 1.400 trẻ bị xâm hại, gần bằng 80% số lượng trẻ em bị xâm hại trong cả

năm 2018 (1.779 trẻ). Tính trung bình, cứ 1 ngày cả nước có 7 trẻ em bị xâm

hại. Sự gia tăng đột biến này một phần phản ánh thực tế các vụ xâm hại trẻ em

ngày càng tăng, một phần do người dân, trẻ em chưa có ý thức hơn trong việc

tố giác, tố cáo hành vi xâm hại trẻ em, đồng thời công tác phát hiện, xử lý hành

vi xâm hại trẻ em cũng chưa được tăng cường hơn giai đoạn trước. Hình thức

xâm hại phổ biến nhất, để lại hậu quả nặng nề và gây bức xúc nhất, nổi lên

trong giai đoạn này là xâm hại tình dục, gần đây với số liệu thống kê cho thấy

6.364 vụ và 6.432 trẻ em là nạn nhân, chiếm tới 75,4% tổng số vụ xâm hại trẻ

em được công an các cấp tiếp nhận.

Trong đó có 2.191 trẻ bị hiếp dâm, 31 trẻ bị cưỡng dâm, 1.096 bị dâm ô,

3.114 trẻ bị giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Cá biệt, có

nhiều địa phương, số vụ trẻ em bị xâm hại tình dục chiếm trên 90% tổng số trẻ em

1

bị xâm hại, như Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang, Bến Tre và Đồng Nai.

Những báo cáo gần đây cũng cho thấy được tình hình trẻ em bị xâm

hại trong thời gian tới tiếp tục diễn biến phức tạp, nghiêm trọng và có chiều

hướng gia tăng, gây tâm lý khủng hoảng cho nạn nhân, hoang mang trong xã

hội và làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội. Trong thực tế việc

áp dụng pháp luật đối với tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi còn gặp

rất nhiều khó khăn, hạn chế trong việc định tội danh, định khung và quyết định

hình phạt dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc hàm oan. Do đó việc tìm hiểu nghiên

cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi áp dụng pháp luật đối với

tội danh này là một vấn đề rất cần thiết, đặc biệt là việc nghiên cứu thực tiễn

tại Thành phố Hà Nội một địa bàn có nhiều vụ án Hiếp dâm trẻ em đã được xét

xử. Đây là lý do để tác giả lựa chọn Đề tài luận văn: “Tội hiếp dâm trẻ em từ

thực tiễn Thành phố Hà Nội”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Có nhiều công trình nghiên cứu Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi ở nhiều

phương diện và cấp độ. Để nghiên cứu Đề tài luận văn, tác giả đã tham khảo

các nhóm công trình sau đây:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em

nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng. Tội phạm này được

giới thiệu trong Chương “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,

danh dự của con người” trong giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội

phạm) của tập thể tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, xuất bản năm

2014 đã đưa ra các dấu hiệu pháp lý của xâm phạm tình dục trẻ em nói chung

và tội Hiếp dâm trẻ em nói riêng cũng như trách nhiệm hình sự đối với tội này.

Ngoài ra, tội phạm này cũng được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự

trong các luận văn thạc sĩ luật học như: Luận văn “Các tội phạm tình dục và

đấu tranh chống các tội này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Trịnh Thị

Thu Hương, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, năm 2004.

Bên cạnh đó, có nhiều công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết trên các

tạp chí khoa học pháp lý bàn về tội Hiếp dâm trẻ em. Đó là các công trình: “Trẻ

2

em, hiếp dâm trẻ em- TNHS đối với bị cáo và sự không hợp lý trong quy định

tại khoản 4 Điều 112 BLHS” của Tác giả Nguyễn Quang Thái trên Tạp chí

TAND, số 17/2011; bài viết “Truy cứu trách nhiệm hình sự tội hiếp dâm, hiếp

dâm trẻ em – khó khăn, vướng mắc và kiến nghị”, của tác giả Hoàng Quảng

Lực, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2014; Đặng Xuân Nam,“Trao đổi về tội

hiếp dâm theo Điều 111 Bộ luật hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 07/2009.

Ngoài ra phải kể các công trình nghiên cứu tội Hiếp dâm trẻ em ở các

địa bàn cụ thể như: Luận văn “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam

từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Văn Hùng ( năm 2014);

“Tội hiếp dâm theo pháp luật Hình Sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau”,

của tác giả Chung Văn Kết (năm 2015); “Định tội danh tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh An Giang”, của tác giả Lại Văn Giang…..

Thứ hai, Luận văn được nghiên cứu từ phương diện khoa học luật hình sự

cụ thể là lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt, do đó, tác giả đã tham

khảo các công trình có liên quan đến vấn đề này Trước hết là Giáo trình Lý luận

chung về định tội danh GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, NXB KHXH năm 2013.

Về quyết định hình phạt tác giải tham khảo các công trình sau đây: Quyết

định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam trong sách “Tội phạm học luật

hình sự và tố tụng hình sự” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, NXB Chính trị quốc

gia,1995; “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn tiến

sĩ Luật học, Hà Nội (năm 2003) của tác giả Dương Tuyết Miên... Những công

trình này sẽ là cơ sở để tác giả tiếp cận đề tài “Tội hiếp dâm trẻ en từ thực tiễn

Thành phố Hà Nội”.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của Tội hiếp dâm người dưới

16 tuổi dưới góc độ luật hình sự nhằm hoàn thiện pháp luật, áp dụng đúng đắn,

hiệu quả quy định của pháp luật về tội này trong thực tiễn

3

3.2. Nhiệm vụ

Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải

quyết các nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu chính sách pháp luật về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em

nói chung và Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;

- Nghiên cứu đặc điểm pháp lý hình sự của Tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi và trách nhiệm hình sự đối với tội này;

- Nghiên cứu vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt về mặt lý luận

và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội;

- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự

về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Lý luận của khoa học luật hình sự về Tội hiếp dâm trẻ em trước đây và

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hiện nay, các quy định của pháp luật hình sự

Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội danh của các cơ quan tư pháp

trên địa bàn Thành phố Hà Nội

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Phạm vi thời gian: Từ 2015 - 2019

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật

lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong

chính sách hình sự về tội phạm và hình phạt. Trong quá trình nghiên cứu, tác

giả áp dụng và vận dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: phương

pháp phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, thống kê.

Bên cạnh đó còn có phương pháp tọa đàm trao đổi trực tiếp với một số điều tra

4

viên, kiểm sát viên có kinh nghiệm trong đấu tranh, phòng chống tội phạm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận: Luận văn xây dựng khái niệm Tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi và làm sáng tỏ dấu hiệu hiệu pháp lý hình sự cũng như vấn đề trách nhiệm

hình sự đối với tội phạm này trong BLHS Việt Nam. Sau khi luận văn hoàn

thành sẽ góp phần làm sáng tỏ, bổ sung và làm giàu cho khoa học luật hình sự

nói chung và lý luận về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong khoa học luật

hình sự Việt Nam nói riêng. Những kết quả này cũng có đóng góp cho việc

hoàn thiện pháp luật về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt

Nam, đóng góp vào xây dựng các hướng dẫn, giải thích pháp luật của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền

Về thực tiễn: Luận văn phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật

hình sự về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Thành phố Hà Nội,

làm rõ được khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với tội

phạm này trong thực tiễn qua đó góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này.

7. Kết cấu của luận văn

Trong luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham

khảo, phần nội dung có cấu trúc gồm 3 phần tương đương với các chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi.

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi tại Thành phố Hà Nội.

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn pháp

5

luật hình sự về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Thành phố Hà Nội.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi.

1.1.1. Khái niệm Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có đầy đủ tính chất của tội phạm. Trước

hết đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội

này thể hiện ở việc xâm phạm đến các quyền trẻ em. Trong mọi xã hội, trẻ em

đều là đối tượng được Nhà nước và xã hội dành sự quan tâm, chăm sóc, bảo vệ

đặc biệt, bởi trẻ em là thế hệ tương lai của mỗi quốc gia và của nhân loại. Vì

vậy, việc tạo mọi điều kiện tốt nhất cho sự phát triển bình thường về thể trạng

và đi tới sự phát triển một cách toàn diện về nhân cách, lối sống, nhận thức…

chính là việc bảo đảm cho trẻ em có được các quyền cơ bản như quyền được

bảo vệ và chăm sóc, đặc biệt là quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng tình

dục. Trẻ em phải được bảo vệ, tránh khỏi mọi nguy cơ bị xâm hại tình dục dưới

các hình thức khác nhau. Lạm dụng tình dục trẻ em là một tội ác bị cả xã hội

lên án, bài trừ. Quyền này đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam: Trẻ

em được Nhà nước, gia đình, xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tạo

điều kiện tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm những hành vi xâm

hại, hành hạ, bóc lột sức lao động, bảo lực, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng và

những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành

vi Hiếp dâm trẻ em còn được thể hiện ở phương thức, thủ đoạn phạm tội đó là

việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ

được của trẻ em để giao cấu hoặc có hành vi xâm phạm quan hệ khác với trẻ

em. Chính từ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi nên cũng giống như các

tội phạm khác, Tội hiếp dâm trẻ em được tội phạm hóa (quy định) trong Bộ

6

luật Hình sự Việt Nam với tên gọi là “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Ngoài

ra, Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi còn do người có năng lực trách nhiệm hình

sự thực hiện và phải chịu hình phạt nghiêm khắc.

Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa: “Tội Hiếp dâm người dưới

16 tuổi là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS Việt Nam

do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm

đến quyền được bảo vệ chống lại sự xâm phạm tình dục của trẻ em, các quyền

khác của trẻ em và phải chịu trách nhiệm hình sự nghiêm khắc.”

1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của Tội hiếp dâm người dưới

16 tuổi theo BLHS 2015.

* Khách thể:

Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm mà

các quan hệ xã hội đó đã được Bộ luật hình sự thừa nhận bảo vệ, hành vi xâm

phạm bị coi là tội phạm là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho

quan hệ xã hội được xác định, tức là hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã

hội và các hành vi đó đã được xác định tại các điều luật của BLHS1. Có thể nói

việc xác định đúng khách thể (khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực

tiếp) có vai trò quan trọng trong quá trình xác định tội danh, làm xác tỏ bản

chất của hành vi phạm tội.

Đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì quyền được bảo vệ thân thể,

được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự của người dưới 16 tuổi chính là khách

thể. Mặt khác, hành vi này còn xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe, quá trình

phát triển bình thường, ổn định và lành mạnh ở trẻ, gây tác động tiêu cực đến

tâm, sinh lý của trẻ trong thời gian dài, hành vi này còn dẫn đến những ảnh

hưởng tiêu cực, gây tổn thương tinh thần người bị hại cũng như gia đình, người

thân của họ. Độ tuổi nạn nhân là đặc điểm phản ánh tính nguy hiểm của tội

phạm, được thể hiện rõ qua hành vi xâm hại của người phạm tội đối với mọi

7

1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội – 2019, Tr.83

trẻ em dưới 16 tuổi, độ tuổi này của trẻ là độ tuổi mà vấn đề tâm, sinh lý

đang trong quá trình hoàn thiện, còn non nớt trong nhận thức chưa thể phân

biệt hành vi xâm hại, dễ bị dụ dỗ, đe dọa hoặc không đủ năng lực thể chất để

có thể phòng vê, chống cự lại người có hành vi xâm hại tình dục.

Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, khách thể trực tiếp là quyền

được tôn trọng nhân phẩm, danh dự và quyền bất khả xâm phạm về thân thể

của trẻ em, ngoài ra tội phạm còn có thể xâm phạm đến quyền được tôn trọng

và bảo vệ tính mạng, sức khỏe của trẻ em. Tội này còn xâm phạm nghiêm trọng

đến đạo đức xã hội, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xâm phạm Công

ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã tham gia. Đối tượng tác động là

một trong những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội hiếp dâm người dưới

16 tuổi, nó có ý nghĩa trong việc phân biệt tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với

các tội danh khác về tình dục khác cũng như xác định khung hình phạt và quyết

định mức hình phạt.

Việc nạn nhân là đối tượng phụ thuộc nhiều về vật chất và tinh thần, nên

dễ bị lợi dụng để thực hiện hành vi hiếp dâm; trường hợp hiếp dâm có tính chất

loạn luân còn ảnh hưởng đến đạo đức xã hội, luân thường đạo lý. Khách thể bị

xâm hại còn có thể là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe như làm

nạn nhân có thai, nhiễm HIV, tâm lý bất ổn dẫn đến tự sát. Như vậy, một khi

khách thể bị xâm hại thì không chỉ nguy hại về thể chất và tinh thần mà còn

gây ảnh hưởng đến đến quyền nhân thân của người bị hại, đồng thời tác động

gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội khác được pháp luật hình sự

bảo vệ, đó là chính là trật tự an toàn xã hội.

Độ tuổi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc phải xác định tuổi

của nạn nhân trên cơ sở các loại giấy tờ nhân thân của họ (giấy khai sinh, giấy

chứng sinh,…), nếu trường hợp không có giấy tờ nào thì phải dùng tất cả các

8

biện pháp để có thể xác định được tuổi thật của nạn nhân, trường hợp không

còn cách nào để xác định được thì phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho người

phạm tội.

* Về mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, gồm những

biểu hiện của tội phạm diễn ra hay tồn tại bên ngoài thế giới khách quan2. Hiếp

dâm người dưới 16 tuổi là một trường hợp đặc biệt của Tội hiếp dâm. Theo lý

luận về cấu thành tội phạm Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi là Tội ghép. Theo

đó, dấu hiệu hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm được chia làm hai

loại:

- Loại thứ nhất, đối với người từ 13 đến chưa đủ 16 tuổi. Người phạm

tội ở trường hợp này thực hiện hành vi “Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc

lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao

cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến

dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ” hoặc “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi

quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi”.

- Loại thứ hai, đối với người chưa đủ 13 tuổi thì hành vi hiếp dâm có hai

trường hợp. Trường hợp 1, người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng

vũ lực thủ đoạn khác nhằm giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác trái ý muốn

với người chưa đủ 13 tuổi. Trường hợp 2, đối với người chưa đủ 13 tuổi thì chỉ

cần có hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác (không cần hành vi dùng

vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác). Bởi lẽ đối tượng người chưa

đủ 13 tuôi là đối tượng yêu thế, không có khả năng bảo vệ mình nên chỉ cần

hành vi giao cấu với những người này cũng cấu thành tội phạm.

Từ đó, ta phân tích rõ hơn những dấu hiệu hành vi cụ thể:

Hành vi dùng vũ lực, là hành vi có mục đích là làm tê liệt hoặc vô hiệu

hóa sự kháng cự của nạn nhân để người thực hiện hành vi phạm tội tiến hành

9

2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội – 2019, Tr.116.

việc giao cấu như: vật lộn, giữ chân tay, dùng hung khí de dọa, bịt mồm, dùng

dây trói, bóp cổ, đánh đấm…Thực tế có trường hợp nạn nhân bị dùng vũ lực

tới mức ngất xỉu (chưa chết), sau khi người phạm tội thực hiện xong hành vi

thì người nạn nhân mới chết, người phạm tội hiếp dâm còn phải chịu thêm tội

danh giết người do đã bỏ mặc hậu quả xảy ra dẫn đến chết người.

Hành vi đe dọa dùng vũ lực, là hành vi của một người dùng lời nói hoặc

hành động mang tính bạo lực uy hiếp tinh thần nạn nhân, làm cho nạn nhân sợ

hãi như: dọa giết chết, dọa tính mạng sức khỏe người thân, dọa đánh, dọa chém,

dọa bắn... làm cho nạn nhân không dám phản kháng lại, để cho người phạm tội

thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của mình. Hành vi đe dọa dùng vũ lực

ở đây bao gồm đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và trường hợp đe dọa dùng vũ

lực thông thường do luật không quy định phân loại.

Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, là trường

hợp nạn nhân vì lý do nào đó mà đã rơi vào tình trạng bị mất kiểm soát nhận

thức và hành vi, nếu như bị người khác tấn công hoặc thực hiện hành vi giao

cấu thì không thể phản kháng lại được. Tình trạng này cũng có thể do chính

người phạm tội cố ý tạo ra cho nạn nhân nhằm mục đích thực hiện hành vi giao

cấu trái với ý muốn của họ. Ví dụ: Bỏ thuốc ngủ vào nước uống làm cho nạn

nhân sau khi uống vào sẽ bị ngủ thiếp đi và không biết điều gì xảy ra xung

quanh và đối với mình, người phạm tội lợi dụng lúc này để thực hiện hành vi

giao cấu, hoặc vì lý do khách quan khác như nạn nhân bị tai nạn, say rượu bia,

bệnh tâm thần,… nên không thể tự vệ được.

Hành vi dùng thủ đoạn khác, là những thủ đoạn mà pháp luật chưa dự

liệu trước được ngoài những hành vi được quy định trong cấu thành tội hiếp dâm

nêu trên. Quy định này mang tính mở nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng

chống và xử lý tội phạm này. Ví dụ: Cho nạn nhân sử dụng ma túy, thuốc kích

dục, xem phim người lớn, và hiện nay tình trạng các thầy lang, thầy cúng trị bệnh,

10

lợi dụng sự ít hiểu biết của người dân tộc, bịa chuyện chữa bệnh bằng cách cho

giao cấu với nhau thì mới trị hết bệnh; học sinh muốn học giỏi thi đậu thì giao cấu

sẽ đạt kết quả cao… các hành vi này diễn ra khá phổ biến.

Hành vi giao cấu trái ý muốn của người bị hại, là dấu hiệu bắt buộc đối

với cấu thành tội hiếp dâm nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói

riêng. Đầu tiên là hành vi giao cấu, theo Pháp luật hình sự, giao cấu được hiểu

là: Đưa vào bởi bộ phận sinh dục của người phạm tội hoặc trong bộ phận sinh

dục của nạn nhân. Như vậy, hành vi tình dục bằng miệng hoặc hậu môn cũng

thuộc nội hàm của khái niệm này. Tuy nhiên, hành vi đưa một cái gậy vào hậu

môn người khác không thuộc nội hàm của khái niệm giao cấu và không phạm

tội hiếp dâm mà cấu thành tội tra tấn hoặc có hành vi tàn ác theo Điều 312-7

BLHS Pháp, còn hành vi đưa dụng cụ vào miệng nạn nhân cũng không cấu

thành tội hiếp dâm, vì hành vi này không mang bản chất tình dục. Theo đạo

luật về các tội phạm tình dục của Vương Quốc Anh quy định giao cấu là hành

vi: “Cố ý đưa dương vật của mình vào âm đạo, hậu môn và miệng của người

khác”.

Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 1/10/2019 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân Tối cao lần đầu tiên đã giải thích chính thức khái niệm

giao cấu như sau: Giao cấu quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142,

khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự

là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất

kỳ mức độ xâm nhập nào. Hành vi giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định

là đã thực hiện và không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa.

Hành vi quan hệ tình dục khác, đây là dấu hiệu mới được bổ sung trong

cấu thành tội Hiếp dâm và Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt Nam

2015. Theo đó, Hành vi quan hệ tình dục khác được quy định tại khoản 1 Điều

141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều

145 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hay khác

11

giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón

tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ,

miệng, hậu môn của người khác.

Dấu hiệu quan trong nữa trong cấu thành của tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi là “trái ý muốn”. Trên thực tế, biểu hiện trái ý muốn của người bị hại được

thể hiện ra bên ngoài, có thể nhìn thấy được như vết cào cấu, tiếng kêu cứu,

trầy xước hoặc vết cắn, vùng vẫy nhằm trốn thoát, vết bẩn bùn đất... Nhưng

cũng có trường hợp nạn nhân sợ hãi, hoặc sức khỏe yếu không có khả năng

kháng cự, cho nên một vài trường hợp việc chứng minh trạng thái tâm lý trái ý

muốn nạn nhân có thể gặp trở ngại, khó khăn. Có trường hợp do có sự thỏa

thuận nên khai mình bị hiếp dâm, có trường hợp tội phạm ẩn diễn ra đã lâu

nhưng vì sợ ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm mà không tố giác nên khi phát

hiện thì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, ngược lại có trường hợp

bị hiếp dâm thật nhưng do bị mua chuộc, hay bị đe dọa nên khai là có sự đồng

ý,... Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá cẩn trọng, khách quan,

phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau như: mối quan hệ giữa các bên, thủ

đoạn thực hiện hành vi phạm tội, hoàn cảnh cụ thể xảy ra sự việc, ý kiến

nhận xét của cơ quan, tổ chức, bạn bè, cha mẹ...nhằm hạn chế việc chủ quan,

đánh giá phiến diện, tránh trường hợp xử lý oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

Dấu hiệu về hậu quả thiệt hại:

Hành vi khách quan của tội hiếp dâm gây ra không chỉ gây thiệt hại về

vật chất, thể chất mà còn xâm hại đến các quyền nhân thân của người bị hại,

cùng với đó gây nên những tác động xấu đến các quan hệ xã hội khác được

pháp luật hình sự bảo vệ.

Các dấu hiệu khách quan không là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội

phạm như: công cụ, phương tiện thực hiện phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn

cảnh thực hiện hành vi phạm tội,..... Việc xác định các dấu hiệu này có ý nghĩa

rất quan trọng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

12

Do những dấu hiệu này giúp cho việc xác định chính xác tính chất, mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, thông qua đó làm rõ được những

nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó tìm ra các biện pháp hiệu quả, tối ưu

cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Vậy nên, ở đây có hai loại hành vi mà điều luật không quy định hậu quả

xảy ra khi hành vi được thực hiện, từ quy định tại Khoản 1 Điều 142 BLHS

2015 đối chiếu cùng với những căn cứ lý luận nêu trên ta nhận thấy nó thỏa

mãn các dấu hiệu của CTTP hình thức. Mặt khác, có quan điểm cho rằng mục

đích cuối cùng của tội phạm là để “giao cấu” với người bị hại, nên khi chưa đạt

được giao cấu thì chưa thể coi là đã phạm tội hiếp dâm, do đó tội hiếp dâm có

cấu thành tội phạm vật chất.

Tác giả nhận định rằng, hành vi giao cấu trong chuỗi hành vi là không bắt

buộc và chỉ cần chủ thể có hành vi khách quan nhằm mục đích giao cấu ngoài ý

muốn của nạn nhân là đã cấu thành tội phạm, đã phạm Tội hiếp dâm người dưới

16 tuổi trong trường hợp phạm tội chưa đạt.

Ta thấy trong cấu thành tội phạm tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi chỉ có

dấu hiệu của mặt khách quan đó là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không

nói đến hậu quả cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Ở

đây ta hiểu, do tính chất nghiêm trọng của hành vi hiếp dâm, xâm phạm vào

khách thể có tầm quan trọng đặc biệt, chỉ cần người nào thực hiện một hành vi

trong mặt khách quan nghĩa là người đó có ý định hiếp dâm người khác và có

hành động dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm mục đích giao cấu với

nạn nhân trái ý muốn của họ là đã đủ điều kiện để cấu thành tội phạm, hành vi

giao cấu và hành vi quan hệ tình dục khác không nhất thiết phải ở tình trạng

hoàn thành. Cuối cùng, mục đích là thỏa mãn nhu cầu tình dục trái ý muốn đối

với nạn nhân. Thực tế để đánh giá được điều này rất khó khăn nên trên thực tế

việc đánh giá hậu quả chỉ cần dựa vào việc đối tượng đã thực hiện đủ các thủ

đoạn, hành vi trước giao cấu, hành vi quan hệ tình dục khác và thể hiện rõ mục

13

đích giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác là đã đủ yếu tố cấu thành

tội phạm đối với tội hiếp dâm. Như vậy việc cấu thành tội phạm của tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi chỉ cần dấu hiệu là hành vi gây nguy hiểm mà không

cần hậu quả cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.

* Mặt chủ quan của tội phạm:

Mặt chủ quan của tội phạm gồm có lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Mặt

chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội, thuộc về

suy nghĩ của người thực hiện hành vi phạm tội và chưa được thể hiện ra bên

ngoài, vì vậy người khác không thể cảm nhận được những điều đó thông qua

việc tiếp xúc thông thường mà cần phải có một quá trình nhận thức theo phương

pháp biện chứng. Mặt chủ quan bao gồm những nội dung cụ thể sau: dấu hiệu

bắt buộc là lỗi (lỗi vô ý, lỗi cố ý) và các dấu hiệu không bắt buộc gồm có động

cơ và mục đích.

Lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất, được phản ánh trong tất cả các cấu thành

tội phạm, là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội

của mình và đối với hậu quả do mình gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố

ý hoặc vô ý. Lỗi của người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là lỗi cố ý

trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp do tội danh này có cấu thành hình thức vì vậy có

thể người phạm tội biết rõ hoặc không quan tâm đến tuổi của nạn nhân.

Xét về mặt lý trí, người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có sự nhận

thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi dựa trên cơ sở nhận biết đối

tượng sẽ xâm hại là quyền bất khả xâm phạm tình dục của người khác, nhận

biết mức độ thực hiện hành vi, công cụ, phương tiện phạm tội cũng như các

phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm... sẽ gây nguy

hiểm, thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác.

Xét về mặt ý chí, người phạm tội có mong muốn thỏa mãn nhu cầu tình

dục của bản thân. Trong một số trường hợp, người phạm tội đã bỏ mặc cho hậu

14

quả xảy ra.

Vì vậy, cần có sự phân tích kết hợp đánh giá các chứng cứ và xác định

rõ ý thức chủ quan của người phạm tội, đồng thời dựa vào các yếu tố thuộc về

lý trí và ý chí của người phạm tội nhằm đánh giá chính xác các dấu hiệu thể

hiện mặt chủ quan của tội phạm.

* Chủ thể của tội phạm:

Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thì “Chủ thể của tội phạm là

người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện

hành vi phạm tội cụ thể”.

Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận thức

bình thường về hành vi do mình thực hiện và có năng lực điều khiển được hành

vi đó.

Nếu chủ thể không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Chương

IV BLHS 2015 gồm các Điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 thì phải chịu trách

nhiệm hình sự đối với tội danh theo điều 142 BLHS 2015. Như vậy khi xem

xét yếu tố chủ thể đối với tội danh theo Điều 142 BLHS 2015, chúng ta cần

xem xét các góc độ sau: Chủ thể phải là một cá nhân, có đầy đủ năng lực trách

nhiệm hình sự (có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi) và đủ

tuổi theo quy định của pháp luật (Điều 12 BLHS 2015). Từ những phân tích

trên có thể đưa ra kết luận chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là bất

kỳ người nào có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi mà thực

hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tại Điều 142 BLHS 2015 thì

phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội đó của mình theo quy

định của điều luật.

1.1.3. Cấu thành tăng nặng của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Cấu thành tội phạm tăng nặng là loại cấu thành tội phạm mà bên cạnh

các dấu hiệu định tội còn có thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ

15

nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (gọi là các dấu hiệu định khung

tăng nặng). Cấu thành tăng nặng của tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi bao gồm

các dấu hiệu sau đây:

- Có tính chất loạn luân:

Đây là tình tiết định khung bị xã hội lên án nhiều nhất, cần phải xử lý

nghiêm khắc bởi tính chất nguy hiểm lâu dài về mặt hậu quả khi thực hiện hành

vi phạm tội kèm theo tình tiết loạn luân. Xem xét về mặt sinh học do có cùng

bộ gen, nên nếu hành vi này dẫn đến sinh con thì khả năng những đứa trẻ sinh

ra bị thiếu khuyết, dị tật, khuyết tật, đần độn… do các gen lặn ẩn chứa yếu tố

di truyền xấu kết hợp gây ảnh hưởng tiêu cực đến tương lại của trẻ, đồng thời

tạo gánh nặng cho gia đình nạn nhân, cho xã hội.

Bên cạnh đó, xét về văn hóa đạo đức, tình tiết loạn luân gây ảnh hưởng

tới các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục, do hành vi đó đi ngược

lại những giá trị, quan điểm về đạo đức, văn hóa của dân tộc, bị xã hội lên án

phản đối, là sự suy đồi nghiêm trọng về đạo đức3. Vì vậy, việc quy định đây là

tình tiết định khung tăng nặng cho hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi với

khung hình phạt như tại khoản 2 là rất hợp lý và cần thiết.

- Làm nạn nhân có thai: Để xác minh tình tiết này cơ quan tiến hành tố

tụng phải xác định thai nhi là kết quả của việc giao cấu giữa người phạm tội

với nạn nhân, do thực tiễn có trường hợp nạn nhân bị hiếp dâm nhưng thai nhi

là kết quả của việc giao cấu với người khác hoặc tự nguyện giao cấu khi dưới

16 tuổi, không phải của lần bị hiếp dâm. Trường hợp không phải là kết quả từ

hành vi phạm tội thì không thể áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này.

Nhưng thực tế cho thấy đôi khi các cơ quan tiến hành tố tụng lại bỏ qua việc

xác định về mặt khoa học mà mặc nhiên kết án hình phạt theo hành vi hiếp dâm

người dưới 16 tuổi cùng tình tiết định khung làm nạn nhân có thai dựa trên việc

thời điểm phạm tội trùng khớp với thời điểm nạn nhân mang thai.

16

3 ThS. Vũ Hải Anh, Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân, Tạp chí Nghề Luật, Số 1/2015, tr.43.

Quy định tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng là hợp lý và chính

xác, bởi việc mang thai sẽ dẫn đến những hậu quả cho nạn nhân về sức khỏe,

tính mạng và cả tinh thần, nếu đứa trẻ được sinh ra cũng tạo nên trách nhiệm,

ảnh hưởng không nhỏ đến đến cuộc sống sau này cho bản thân nạn nhân cũng

như gia đình, người thân của họ.

- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần

và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%:

Nhà làm luật đưa tình tiết định khung này vào là đúng đắn, phù hợp với

thực tiễn và hậu quả đến từ lỗi vô ý của người phạm tội trong quá trình thực

hiện hành vi gây ra thương tích cho nạn nhân, tỷ lệ thương tích và tổn hại sức

khỏe chính là tỷ lệ mất sức lao động. Để đánh giá tỷ lệ thương tích cần phải căn

cứ vào kết quả giám định y tế, giám định pháp y của Hội đồng giám định pháp

y kết luận. Nếu lỗi gây ra thương tật là lỗi cố ý, người phạm tội còn bị truy tố

thêm tội danh tại Điều 134 BLHS 2015 về tội cố ý gây thương tích.

Rối loạn tâm thần là các biểu hiện trầm cảm, người bệnh có cảm giác

căng thẳng thần kinh, phiền muộn, buồn chán, trống rỗng, trạng thái bị kích

động, luôn cảm giác mệt mỏi, lo âu, mất năng lượng, cảm giác mình có tội lỗi,

vô dụng, mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều, giảm thích thú trong các hoạt động hoặc

sở thích hàng ngày, giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều, nghĩ

về cái chết, có ý định hoặc hành vi tự sát 4.

Rối loạn hành vi là các biểu hiện không tuân theo những quy tắc xử sự

thông thường được xã hội chấp nhận ví dụ như: Cư xử hung hãn, phòng bị, sợ hãi

mọi người xung quanh, có hành động gây hại cho bản thân và người khác, vô thức

trong điều khiển hành vi và ngôn ngữ, khó thích ứng với lối sống, sinh hoạt xã

hội.

17

4 TS. Dương Tuyết Miên, Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, Trường Đại học Luật Hà Nội Số Đặc san về bình đẳng giới, Hà Nội – 2005, Tr. 35-40

- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục,

chữa bệnh:

Trong trường hợp này điều kiện bắt buộc là người phạm tội đang có nghĩa

vụ chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh trực tiếp đối với nạn nhân. Ví dụ: quan hệ

giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, bác sĩ với bệnh nhân, giáo viên với học sinh.

Tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội lợi dụng chính tình cảnh, điều

kiện thuận lợi trong việc thực hiện trách nhiệm, công việc cũng như mối quan

hệ giữ mình và nạn nhân để có hành vi xâm phạm tình dục đối với người dưới

16 tuổi.

- Phạm tội 02 lần trở lên: Tức là người thực hiện hành vi phạm tội đã vi

phạm cùng một tội từ 02 lần trở lên, mà khi tách riêng mỗi lần phạm tội đó đều

có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 (khung cơ bản) của

Điều luật đó và chưa lần nào bị đưa ra xét xử, được miễn trách nhiệm hình sự,

miễn hình phạt, xóa án tích hoặc đã chấp hành xong hình phạt.

- Tái phạm nguy hiểm: Trong trường hợp là việc người phạm tội đã bị

kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc đã tái

phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Quy

định này nhằm mục đích xử lý người phạm tội không có dấu hiệu hối cải, hoàn

lương, có hành vi coi thường pháp luật, suy thoái nặng về đạo đức, cần thiết áp

dụng hình phạt tăng nặng so với khung cơ bản nhằm có thời gian nhiều hơn để

giáo dục, cải tạo và loại bỏ suy nghĩ phạm tội.

- Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có tổ chức: Việc thực hiện tội phạm có tổ

chức cho thấy sự có sắp xếp, thảo luận, giúp đỡ, liên kết với nhau về mặt chủ

quan, có sự phân hóa vại trò nhiệm vụ cụ thể về mặt khách quan để thực hiện

hành vi phạm tội; Do đó, phạm tội có tổ chức mang tính nguy hiểm cho xã hội

cực kì cao, khả năng gây tổn hại cho nạn nhân ở mức nghiêm trọng hơn rất

nhiều so với phạm tội đơn lẻ. Vì thế việc quy định tình tiết định khung tăng

18

nặng này là rất hợp lý và cần thiết.

- Đối với người dưới 10 tuổi: Việc bổ sung, ghi nhận tình tiết này là cần

thiết, phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn xã hội hiện nay, thể hiện rõ sự

phân hóa về độ tuổi của đối tượng tác động khi chủ thể thực hiện hành vi giao

cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người ở độ tuổi dưới 13

tuổi: một là người dưới 10 tuổi, hai là người từ đủ 10 tuổi đến dưới 13 tuổi.

- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần

và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên:

Trường hợp này tương tự với trường hợp hiếp dâm gây tổn hại sức khỏe

theo Điểm c Khoản 2 Điều 142 BLHS 2015, chỉ khác nhau ở mức độ, tỷ lệ

thương tật của nạn nhân của trường hợp này phải từ 61% trở lên.

- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội: Chỉ áp dụng trong trường

hợp người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV trước khi thực hiện hành vi phạm

tội. Ngược lại, nếu người phạm tội trước đó không biết mình bị nhiễm HIV thì

không áp dụng tình tiết này.

- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát: Trường hợp áp dụng tình tiết này là khi

hậu quả nạn nhân chết là do hành vi hiếp dâm gây ra, nếu chết không phải do

bị hiếp dâm thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu

trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm và tội tương ứng với hành vi làm nạn nhân

chết. Trường hợp nạn nhân bị người phạm tội làm cho bất tỉnh, sau đó thực hiện

hành vi giao cấu rồi bỏ mặc dẫn đến nạn nhân chết thì trường hợp này không

phải là hiếp dâm làm nạn nhân chết mà người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị

truy tố cả hai tội giết người và hiếp dâm. Trường hợp làm cho nạn nhân tự sát

trên thực tế cần xác định lý do tự sát là bị hiếp dâm, còn việc nạn nhân chết hay

không chết, không phải là dấu hiệu bắt buộc để xác định tình tiết trong trường

hợp này. Tuy nhiên nếu nạn nhân chết thì áp dụng mức hình phạt cao hơn tự

sát mà không chết.

19

1.1.4. Trách nhiệm hình sự đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của hành vi thực hiện tội phạm

mà cá nhân người phạm tội phải gánh chịu trước nhà nước và được thực hiện

bằng hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác theo quy định của BLHS.

Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ chịu

sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, bị kết tội, áp dụng các

biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và

mang án tích. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với người phạm Tội hiếp

dâm trẻ em mang đầy đủ tính chất của trách nhiệm hình nói chung là:

- Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.

- Người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự.

- Trách nhiệm hình sự luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ

pháp luật hình sự giữa hai bên với tích chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa

vụ nhất định - một bên là Nhà nước, một bên là người phạm tội.

- Trách nhiệm hình sự được xác định bởi một trình tự đặc biệt do các cơ

quan Tư pháp hình sự có thẩm quyền thực hiện, trình tự đó phải do pháp luật

tố tụng hình sự quy định.

- Trách nhiệm hình sự chỉ thể hiện trong bản án kết tội của Tòa án đã

có hiệu lực pháp luật, bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều

biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định.

Ngoài những nội dung trên, trách nhiệm hình sự đối với Tội hiếp dâm trẻ

em còn có những đặc điểm riêng:

- Cơ sở để áp dụng trách nhiệm hình sự đối với Tội hiếp dâm trẻ em là

hành vi thực hiện đó phải thỏa mãn cấu thành của tội Hiếp dâm người dưới 16

tuổi. Điều này xuất phát từ nguyên tắc: Chỉ người nào phạm một tội đã được

Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự (quy định tại Điều

2 BLHS năm 2015). Đây là cơ sở bắt buộc khi xác định trách nhiệm hình sự

của một người. Ngoài ra, cơ sở xác định trách nhiệm hình sự còn được đặt ra

20

dưới góc độ như: cơ sở khách quan, cơ sở hình thức. Cơ sở khách quan của

trách nhiệm hình sự có thể hiểu là các dấu hiệu do luật định về một tội phạm

cụ thể mà khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn các

dấu hiệu để cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu đó có thể là: lỗi, hành vi, mục

đích,... Cơ sở hình thức của trách nhiệm hình sự là các căn cứ chung mang tính

chất bắt buộc được quy định trong luật hình sự do các cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền đặt ra để xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội

có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.

Điều kiện của trách nhiệm hình sự là những căn cứ riêng cần và đủ, có

tính chất bắt buộc được quy định trong luật hình sự, mà khi hội tụ đủ các căn

cứ đó thì một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu trách

nhiệm hình sự. Cụ thể là: Người đó phải là người có năng lực trách nhiệm hình

sự và người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Đối với tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi, BLHS 2015 quy định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là

14 tuổi trở lên.

Đặc điểm thứ hai của trách nhiệm hình sự đối với tội Hiếp dâm người dưới

16 tuổi đó là Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với tội này rất

nghiêm khắc, thể hiện chính sách hình sự xử lý nghiêm những hành vi xâm phạm

đến quyền trẻ em. Độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự của tội này là 14 tuổi,

trong khi đó nhiều tội khác thì độ tuổi phải là 16 tuổi trở lên. Tính nghiêm khắc

của trách nhiệm hình sự đối với tội này còn thể hiện trong các khung hình phạt,

theo đó mức hình phạt được quy định cụ thể như sau: Theo khoản 1 Điều 142

khung hình phạt từ 7- 15 năm tù; khoản 2 từ 12 đến 20 năm tù; khoản 3 từ 20 năm,

chung thân hoặc tử hình. Như vậy trong xu hướng giảm bớt tội danh có hình phạt

tử hình trong hoạt động xây dựng, sửa đổi và bổ sung Bộ luật hình sự thì Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi vẫn bị quy định hình phạt tử hình và đây là 1 trong 2 tội

có hình phạt tử hình trong Chương Các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh

dự, nhân phẩm. Điều đó cho thấy quan điểm của nhà lập pháp đối với loại tội

21

phạm này, đây là loại tội phạm rất nguy hiểm cho xã hội và có xu hướng gia tăng

về thủ đoạn, hành vi cũng như hậu quả tiêu cực, do đó cần xây dựng mức hình

phạt cao, có tính răn đe, trừng trị thích đáng người phạm tội.

1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt nam về Tội hiếp dâm người dưới 16

tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.

1.2.1. Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm xâm phạm tình dục

trẻ em.

Nghiên cứu Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi dưới góc độ khoa học luật

hình sự cần bắt đầu từ chính sách pháp luật hình sự. Bởi lẽ, các quy định của

Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng đều phải dựa trên những quan điểm,

nguyên tắc có tính chất chỉ đạo và làm nền tảng. Chính sách hình sự đối với các

tội xâm phạm tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay hệ thống các quan điểm,

phương hướng có tính chỉ đạo, chiến lược của Đảng và Nhà nước trong quá

trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự đối với các tội xâm

phạm tình dục trẻ em, trong việc sử dụng hệ thống pháp luật hình sự đó vào

thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhằm phát hiện kịp thời,

xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật các hành vi phạm tội xâm

phạm đến danh dự, nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về tình dục và tự do

tình dục của trẻ em, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em được tôn

trọng và phục hồi trên thực tế. Như vậy chính sách pháp luật hình sự là một bộ

phận của chính sách hình sự đối với các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.

Theo đó, chính sách pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ

em là tư tưởng, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước làm cơ sở cho việc

quy định về tội phạm hình phạt xâm phạm tình dục trẻ em trong đó có hành vi

hiếp dâm trẻ em. Chính sách pháp luật đối với tội xâm phạm tình dục trẻ em

được thể hiện thông qua chính sách pháp luật hình sự nói chung khi xây dựng

Bộ luật hình sự 2015 là: Tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền

con người, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã

22

hội, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm

mọi người được sống trong một môi trường xã hội lành mạnh và an toàn. Ngày

nay, những quan điểm đổi mới nhận thức về chính sách của nhà lập pháp trong

lĩnh vực Hình sự lấy tâm điểm là đổi mới quan niệm về tội phạm và hình phạt,

cơ sở của trách nhiệm hình sự, chính sách xử lý đối với một số loại tội phạm

và loại chủ thể phạm tội, đảm bảo các quy định của BLHS vừa là công cụ pháp

lý để các cơ quan chức năng đấu tranh, trấn áp tội phạm, vừa là cơ sở pháp lý để

mọi người dân tự đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, bảo vệ lợi ích của nhà

nước, xã hội; khuyến khích mọi người dân chủ động tích cực trong công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm.

Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em

thể hiện sự phản ứng của Nhà nước, của xã hội đối với các hành vi nguy hiểm

cho xã hội xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, tình

dục, danh dự, nhân phẩm và các quyền khác của trẻ em được thể hiện thông

qua việc hình sự hóa và phi hình sự hóa đối với loại tội này ở các giai đoạn nhất

định. Bản chất của việc tội phạm hoá chính là sự ghi nhận trong pháp luật hình

sự một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và quy định trách nhiệm hình

sự đối với người thực hiện hành vi đó; còn phi tội phạm hoá là việc loại trừ một

hành vi trước đây được coi là tội phạm khỏi các quy định của pháp luật hình sự

hiện hành và huỷ bỏ trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó.

Ví dụ trong Bộ Luật Hình sự 1985 không có tội Hiếp dâm trẻ em. Hiếp dâm trẻ

em chỉ được biết đến là tình tiết tăng nặng của Tội Hiếp dâm. Chỉ đến năm

1997, khi sửa đổi BLHS 1996 thì hành vi Hiếp dâm trẻ em mới được tội phạm

hóa thành một tội độc lập trong BLHS.

Chính sách pháp luật hình sự đối với tội xâm phạm tình dục trẻ em nói

chung và tội Hiếp dâm trẻ em nói riêng được thể hiện thông qua vấn đề trách

nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Quan điểm chỉ đạo là

phải quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc đối với hành vi xâm hại tình

23

dục trẻ em trong đó có tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Cùng với những chế

tài nghiêm khắc nhất, các biện pháp xử lý hình sự sẽ có tác động rất lớn đối với

những cá nhân có ý định thực hiện các hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Những chủ thể này chắc chắn sẽ phải hứng chịu những hậu quả bất lợi từ các

hình thức xử phạt có thể bị áp dụng nếu thực hiện hành vi đó. Do vậy, quy định

tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là việc sử dụng biện pháp xử lý hình sự với

mục đích làm công cụ chính, hiệu quả tác động trực tiếp đến tâm lý và hành vi

để răn đe, ngăn ngừa và trừng trị người thực hiện hành vi hiếp dâm cũng như

răn đe người có ý định thực hiện hành vi hiếp dâm.

1.2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt nam về Tội hiếp dâm người dưới

16 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban

hành BLHS 1985.

Hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam

từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 chưa được pháp điển hóa

và quy định thành tội phạm độc lập, hành vi này được quy định trong tội hiếp

dâm với tư cách là trường hợp tăng nặng của tội phạm này. Nói cách khác, pháp

luật hình sự trong giai đoạn này chưa quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi,

mới chỉ quy định tội hiếp dâm.

Trong giai đoạn 1945 đến trước 1954, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

mới được thành lập và phải đối mặt với nhiều khó khăn nên chưa có điều kiện

xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh. Trước tình hình

đó, để bảo đảm an ninh trật tự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số

47 ngày 10/10/1945 cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ Luật hình

An Nam, Hoàng Việt hình luật và Hình luật pháp tu chỉnh, với điều kiện “chỉ

thi hành khi nào không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính

thể dân chủ cộng hòa”, tội hiếp dâm thời bấy giờ được các cấp Tòa án xét xử

theo các luật lệ cũ5.

24

5 http://www.canhsatnhandan.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/6208/Toi-hiep-dam-nguoi-duoi-16- tuoi-trong-lich-su-phap-luat-hinh-su-Viet-Nam (Truy cập ngày 01/09/2020).

Sau chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc xây dựng

chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thời

kỳ bấy giờ, những luật lệ của chế độ cũ được áp dụng theo Sắc lệnh số 47 không

còn phù hợp ở miền Bắc. Do vậy, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã ban hành

Thông tư số 19-VHH/HS yêu cầu các Tòa án không nên áp dụng luật của chế

độ cũ, ngày 10/7/1959 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 772/CTTP

đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của đế quốc và phong kiến. Tuy vậy, trong thời

gian này, Nhà nước ta vẫn chưa ban hành văn bản pháp luật hình sự quy định

cụ thể về tội hiếp dâm. Trước sự gia tăng của tội phạm hiếp dâm, trong đó có

hiếp dâm người dưới 16 tuổi, trong khi chưa có văn bản quy phạm pháp luật

điều chỉnh. Ngày 15/6/1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 hướng

dẫn việc xử lý tội hiếp dâm nhằm khác phục khuynh hướng coi nhẹ tính chất

nghiêm trọng của tội phạm này. Chỉ thị số 1024 được coi là đầu tiên, đặt nền

móng cho việc hoàn thiện và xây dựng các tội phạm về tình dục. Để các quy

định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện, trên cơ sở tổng kết thực tiễn.

Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đã đề cập toàn diện 04 hình thức phạm tội về

tình dục bao gồm: hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm người dưới 16 tuổi); cưỡng

dâm (tức cưỡng bách giao cấu); giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô (trái

ý muốn và không có giao cấu). Trong Bản tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2

đã xác định hành vi khách quan của tội hiếp dâm “là hành động bắt buộc người

phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc không có ý muốn của người đó

bằng cách dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay là lợi dụng

hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của người đó”. Trong

giai đoạn này, ở các vùng do Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt

Nam quản lý thì các vụ phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được xét xử theo

luật pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đối với các vụ phạm tội hiếp dâm

25

người dưới 16 tuổi xảy ra trên các vùng do Chính phủ Việt Nam cộng hòa quản

lý theo xét xử theo luật pháp của Việt Nam cộng hòa, trong đó phải kể đến Bộ

hình luật ngày 20/12/1972 có quy định về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 15/3/1976, Hội

đồng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành

Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở

miền Nam Việt Nam. Tuy vậy, Sắc luật số 03/SL-1976 không quy định thế nào

là hiếp dâm mà chỉ quy định hình phạt đối với người phạm tội. Trước tình hình

đó, ngày 15/4/1976, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03-BTP/TT hướng

dẫn thi hành Sắc luật số 03/SL-1976, theo đó hiếp dâm “là hành vi dùng bạo

lực hoặc hành vi uy hiếp về tinh thần để giao cấu của người phụ nữ, không có

sự thỏa thuận của người đó; là hành vi lợi dụng lúc người phụ nữ đang ngủ say,

đang bị mê sảng, hoặc có bệnh thần kinh để giao cấu với họ; hoặc là hành vi

lợi dụng sự non nớt, sự chưa hiểu biết của vị thành niên dưới 13 tuổi để giao

cấu với chúng”.

Như vậy, giai đoạn 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985, tội

hiếp dâm người dưới 16 tuổi đã được quy định trong một số văn bản pháp luật

và là trường hợp tăng nặng của tội hiếp dâm, các Tòa án xét xử tội phạm này

chủ yếu theo đường lối, chính sách thông qua án lệ và các bản tổng kết. Thực

trạng này đòi hỏi phải có một văn bản pháp ý chính thức quy định thống nhất

về tội phạm, trong đó có tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

1.2.3. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 1985.

Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội khóa VII được thông qua ngày

27/6/1985 tại kỳ họp thứ IX và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986, đây là BLHS

đầu tiên, đánh dấu sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta. BLHS

năm 1985 được thi hành và trải qua 04 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989,

1991, 1992 và 1997. Trong BLHS năm 1985 ban đầu và trong 03 lần sửa đổi,

bổ sung sau đó vào các năm 1989, 1991 và 1992, tội hiếp dâm người dưới 16

26

tuổi chưa được quy định độc lập mà được quy định trong tội hiếp dâm tại Điều

112. Theo đó, hiếp dâm là hành vi “dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu

với người khác trái ý muốn của họ” hoặc “mọi trường hợp giao cấu với trẻ dưới

mười ba tuổi”.

Lần sửa đổi, bổ sung thứ nhất vào năm 1989, Điều 112 không có gì thay

đổi; lần sửa đổi, bổ sung thứ 2 vào năm 1991, khoản 1, 2 và 3 Điều 112 vẫn giữ

nguyên và đã sửa đổi khoản 4 Điều 112 theo hướng tăng mức hình phạt, thể

hiện tính trừng trị nghiêm khắc đối với trường hợp giao cấu với người dưới 13

tuổi. Lần sửa đổi, bổ sung thứ 3 vào năm 1992, Điều 112 không có sự thay đổi

so với lần thứ 2. Đến lần sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 năm 1997, hành vi hiếp

dâm người dưới 16 tuổi được tách thành tội phạm độc lập với tên gọi “tội hiếp

dâm trẻ em” quy định tại Điều 112a.

Sau khi Điều 112a được quy định, ngày 02 /01/1998 liên ngành Tòa án

nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ nội vụ đã ban hành

Thông tư liên tịch số 01/1998/TANDTC-VKSNDTC-BNV hướng dẫn áp dụng

Khoản 4 Điều 112a, với chủ trương: “Độ tuổi của người bị hại càng nhỏ thì

mức án xử phạt đối với người phạm tội càng cao”. Việc quy định tội hiếp dâm

trẻ em trong BLHS năm 1985 vào lần sửa đổi, bổ sung thứ 4 thể hiện sự hoàn

thiện của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống

tội phạm.

1.2.4. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 1999.

BLHS năm 1999 quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Điều 112

với tên gọi “tội hiếp dâm trẻ em”. So với tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm

1985 được sửa đổi, bổ sung năm 1997, BLHS năm 1999 đã có những thay đổi

như sau:

Trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm hiếp dâm trẻ em, cùng

với hành vi “dùng vũ lực” hoặc “thủ đoạn khác” đã được quy định trong BLHS

27

năm 1985, BLHS năm 1999 đã bổ sung hành vi “đe dọa dùng vũ lực” và “lợi

dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân” giao cấu trái ý muốn với

người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi là hành vi khách quan của tội phạm.

Trong cấu thành tội phạm tăng nặng quy định tại Khoản 2 và Khoản 3,

BLHS năm 1999 quy định tỷ lệ thương tật đối với nạn nhân theo hướng cụ thể,

rõ ràng; bổ sung thêm các dấu hiệu định khung tăng nặng: đối với nhiều người,

biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội. Ngoài ra, BLHS năm 1999 còn quy

định hình phạt bổ sung có thể bị áp dụng đối với người phạm tội là “cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến

năm năm”.

Quá trình thi hành, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung vào năm

2009, tội hiếp dâm trẻ em không có gì thay đổi so với BLHS năm 1999.

1.2.5. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp

thứ 10 ngày 27/11/2015. Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa

XIV đã thông qua sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và có hiệu

lực từ ngày 01/01/2018.

Trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS

năm 2015), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142, so với

BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã thay thế thuật ngữ

“trẻ em” bằng “người dưới 16 tuổi”. Việc quy định như vậy nhằm cụ thể hóa,

tránh gây tranh cãi về thuật ngữ pháp lý và thuận tiện cho việc áp dụng. Cùng

với đó, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong BLHS năm 2015 đã có những

điểm mới so với BLHS năm 1999 như sau:

- Trong cấu thành cơ bản, BLHS năm 2015 đã mô tả cụ thể về hành vi

hiếp dâm người dưới 16 tuổi, đó là hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực

hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác

giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi

28

đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ” hoặc hành vi “giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi”. Trong khi đó, khoản 1

Điều 112 BLHS năm 1999 không mô tả hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi,

muốn xác định hành vi phạm tội cần dựa vào khoản 1 Điều 111 BLHS năm

1999 quy định tội hiếp dâm.

- Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung các dấu hiệu định khung tăng

nặng trách nhiệm hình sự trong cấu thành tội phạm tăng nặng của tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi, bao gồm: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân;

29

phạm tội đối với người dưới 10 tuổi.

Tiểu kết chương 1

Trong Chương 1 của luận văn, tác giả đã thực hiện việc nghiên cứu, tổng

hợp nêu ra những khái niệm và phân tích một số khía cạnh pháp lý về mặt lý

luận, các dấu hiệu đặc trưng của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy

định tại Điều 142 BLHS 2015.

Đây cũng là cơ sở để áp dụng đúng pháp luật đối với tội danh này trên

thực tế hoạt động tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời là cơ sở lý

luận để tác giả vận dụng vào chương 2 và chương 3 của luận văn này. Mong

rằng kết quả nghiên cứu và phân tích trên đây góp phần vào việc nhận thức

đúng, áp dụng pháp luật một cách hiệu quả về mặt thực tế đối với quá trình

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án của các cơ quan tiến hành tố

30

tụng.

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM

NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi.

Theo GS.TS Võ Khánh Vinh, áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động

đưa ra các quyết định về tính được quy định trước (hoặc tính không được quy

định trước) của các tình tiết thực tế đã được xác định trong quy phạm pháp luật

hình sự tương ứng và việc xác định (hoặc không xác định) biện pháp mang tính

chất pháp lý hình sự trong quy phạm đó. Áp dụng pháp luật hình sự trong đó

có áp dụng pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi bao gồm 2

hoạt động: Định tội danh và quyết định hình phạt.

2.1.1. Khái niệm định tội danh.

Việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự diễn ra rất phong phú và

phức tạp, được biểu hiện qua ba giai đoạn lần lượt là: Định tội danh, định khung

hình phạt và quyết định hình phạt. Trong các giai đoạn đó, giai đoạn quan trọng

nhất của toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật hình sự là định tội danh. Do định

tội danh được tiến hành thực hiện trong tất cả các giai đoạn trong quá trình tố

tụng hình sự từ khởi tố cho đến thi hành án. Trong khi đó bước quyết định

khung hình phạt và hình phạt duy được tiến hành thực hiện trong giai đoạn xét

xử.

Định tội danh là một trong những biện pháp đưa Bộ luật hình sự đi vào

trong thực tiễn đời sống xã hội, giúp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống

tội phạm, từ đó góp phần thực hiện đường lối chính sách hình sự của Đảng và

Nhà nước Việt Nam.

Định tội danh chính là quá trình xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp (sự

đồng nhất) giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trên thực tế khách

31

quan và các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tương ứng đã được quy định

trong Bộ luật hình sự. Nói cách khác, định tội danh là quá trình xác định một

hành vi cụ thể đã thực hiện có thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được miêu tả trong

một CTTP mà BLHS đã quy định.

Phương pháp định tội danh: Chủ yếu sử dụng các phương pháp tổng hợp,

phân tích, phương pháp quy nạp, diễn dịch và quan trọng nhất là phương pháp loại

trừ.

Từ các vấn đề nêu trên cho thấy quá trình định tội danh bao gồm có các

đặc điểm sau:

- Định tội danh là quá trình nhận thức mang tính logic cao giữa lý luận và

thực tiễn. Được thể hiện với hai khía cạnh đó là: xác định tính phù hợp giữa

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu được miêu tả trong

CTTP cụ thể của BLHS và đưa ra những đánh giá khách quan về mặt pháp lý

hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đó.

- Quá trình thực hiện việc định tội danh cần tuân thủ nghiêm túc theo các

quy phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS và các quy phạm pháp luật của

luật hình thức là Bộ luật tố tụng hình sự.

- Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố

tụng (là cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) nhằm cụ thể hoá và vận

dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào trong đời sống thực tiễn, dựa trên cơ

sở của việc xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực

hiện cùng với sự nhận thức đầy đủ, chính xác nội dung của các quy phạm pháp

luật hình sự.

- Định tội danh mang tính chất là một biểu hiện của hoạt động thực tiễn

áp dụng pháp luật hình sự.

Các giai đoạn định tội danh được tiến hành theo bốn bước sau đây:

- Bước 1: Thiết lập, xem xét và đánh giá chính xác các tình tiết của vụ án

32

đã xảy ra trong thực tiễn khách quan.

Ở bước này, đòi hỏi người có thẩm quyền thực hiện việc định tội danh

đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, không định

kiến, áp đặt, suy diễn cảm tính. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được

trong quá trình điều tra và đánh giá dựa theo quy định của BLTTHS.

Đối với mỗi một tình tiết trong vụ án hình sự, trước tiên cần đánh giá

chúng một cách độc lập để có thể thấy được sự thể hiện về tính chất của nó

thuộc loại hành vi cụ thể nào. Tiếp theo, mỗi tình tiết đó lại được đặt vào mối

quan hệ với các tình tiết khác trong vụ án, từ đó kết luận về tính chất của tình

tiết này mới là sự thể hiện chính xác về bản chất của nó đối với cả quá trình

thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và quá trình giải quyết vụ án.

Đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, cần đặt tình tiết đó vào hoàn cảnh cụ thể,

với tổng thể, biện chứng của toàn bộ quá trình phản ánh diễn biến của vụ án

hình sự đã xảy ra. Vì lẽ, cùng là một tình tiết, nhưng khi đặt trong mỗi hoàn

cảnh khác nhau thì chúng hoàn toàn khác nhau về bản chất. Nếu kết luận trên

từng tình tiết độc lập, thì không thể phản ánh chính xác bản chất của tình tiết

đó trong toàn bộ diễn biến vụ án hình sự.

- Bước 2: Nhận thức thống nhất, đầy đủ và chính xác nội dung các quy

phạm pháp luật hình sự phản ánh những dấu hiệu của CTTP về tội danh có

hướng lựa chọn.

Những dấu hiệu có trong CTTP được BLHS quy định mang tính trừu

tượng, biểu trưng và chỉ nêu khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến

để điều chỉnh các quan hệ xã hội muôn hình vạn trạng trong thực tiễn. Đòi hỏi

cần có quá trình tư duy để nhận thức chính xác, kỹ lưỡng về nội dung của các

dấu hiệu trong CTTP. Có nhiều các quy phạm pháp luật hình sự chưa xác định

được thật rõ ràng ranh giới giữa chúng với nhau. Trong những trường hợp này

đòi hỏi người có thẩm quyền định tội danh phải có thể tự đánh giá dựa trên căn

33

cứ khoa học và thực tế, đảm bảo tính thuyết phục và logic. Nói một cách khác,

yêu cầu tất yếu đối với người có thẩm quyền định tội danh là phải có trình độ

pháp lý hình sự.

- Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình ở hai bước 1 và 2 nói trên.

- Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật (bản án và các quyết định) có căn

cứ, đảm bảo sức thuyết phục và tính logo về 3 bước ở trên để xác định tội danh

cần phải áp dụng đối với hành vi phạm tội của chủ thể.

Qua những đặc điểm của định tội danh đã phân tích ta có thể đưa ra khái

niệm định tội danh như sau: Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính

lô gic, đồng thời là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, PLTTHS.

Dựa vào cơ sở những chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra

phản ánh các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra để đối chiếu, so sánh và kiểm

tra để xác định mức độ phù hợp của chúng so với các dấu hiệu trong CTTP cụ

thể tương ứng mà BLHS quy định.

Ý nghĩa của định tội danh được quyết định bởi 2 xu hướng là định tội danh

đúng và định tội danh sai.

Định tội danh đúng chính là tiền đề cho hoạt động phân hóa trách nhiệm

hình sự và cá thể hóa hình phạt được công bằng, minh bạch, khách quan và có

căn cứ pháp luật. Định tội danh chính xác góp phần hỗ trợ đắc lực cho việc thực

hiện những nguyên tắc tiến bộ của Nhà nước pháp quyền đã được thừa nhận

như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng

trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không

tránh khỏi trách nhiệm. Việc định tội danh đúng là căn cứ để áp dụng chính xác

quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm giữ, tạm giam, thẩm quyền điều

tra, truy tố, xét xử, từ đó trở thành cơ sở vững chắc, hữu hiệu cho việc bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

Định tội danh sai dẫn đến hàng loạt những hậu quả tiêu cực có thể kể đến

như: Không đảm bảo được tính công minh, có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu

34

trách nhiệm người vô tội, bỏ lọt tội phạm, xâm phạm thô bạo danh dự nhân

phẩm, nghiêm trọng hơn là xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của công dân

cũng như quyền tự do dân chủ của công dân. Dẫn đến việc làm suy giảm uy tín

của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế Xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng tiêu cực

đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Những vụ án oan sai

chủ yếu bắt nguồn từ sự đánh giá chứng cứ phiến diện, suy diễn chủ quan, thiếu

thận trọng, nóng vội khởi tố, bắt tạm giam người bị tình nghi của cá nhân và cơ

quan có thẩm quyền. Nhận thức được tầm quan trọng này, thông qua công tác

phòng chống tội phạm của các cơ quan chức năng cho thấy, cùng với sự biến

động của tội phạm nói chung, tội phạm xâm hại tình dục nói riêng – đặc biệt là

tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã

có nhiều hoạt động thiết thực nhằm bảo vệ và chăm sóc phụ nữ và trẻ em.

2.1.2. Quyết định hình phạt đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong quá trình áp

dụng pháp luật hình sự nói chung và Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói

riêng. Quyết định hình phạt chính là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của

Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện, dựa trên những quy định của pháp luật

hình sự hiện hành cùng với những nguyên tắc nhất định, quá trình này thực hiện

tùy thuộc vào từng trường hợp nhằm xác định loại hình phạt và mức hình phạt cụ

thể áp dụng cho người phạm tội hay miễn hình phạt cho người phạm tội theo

quy định của BLHS tương đương với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội

của hành vi do người phạm tội thực hiện trên thực tế.

Để việc quyết định hình phạt được khách quan, chính xác thì cơ quan, cá

nhân có thẩm quyền phải tuân thủ nghiêm chỉnh một số nguyên tắc nhất định.

Các nguyên tắc đó có thể kể đến là nguyên tắc: nhân đạo XHCN; pháp chế

XHCN; cá thể hóa hình phạt; công bằng.

Các nguyên tắc QĐHP là các tư tưởng chỉ đạo, định hướng chung cho

Tòa án QĐHP đối với hành vi vi phạm của người phạm tội được đúng đắn,

35

chính xác, khách quan. Muốn tạo điều kiện tốt nhất cho việc QĐHP của Tòa án

thì nhà làm luật cần cụ thể hóa trong các quy định luật hình sự các nguyên tắc

QĐHP thành các căn cứ QĐHP cụ thể, từ cơ sở đó hình phạt sẽ được quyết

định công minh, rõ ràng.

Quyết định hình phạt cần dựa trên những cơ sở pháp lý được quy định

trong BLHS mà Tòa án buộc phải tuân thủ khi QĐHP cho người phạm tội nhằm

đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng phạt, răn đe bao gồm: Các

quy định của BLHS; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội; nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS. Để áp

dụng chính xác những căn cứ nêu trên, khi QĐHP đòi hỏi Tòa án cần có nhận

thức chính xác về nội dung, bản chất, ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ và cùng

với mối liên hệ giữa các căn cứ này với nhau. Các căn cứ trên vừa mang tính độc

lập tương đối, vừa có mối liên hệ tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau tạo nên một

tổng thể thống nhất, là cơ sở pháp lý mà Tòa án phải tuân thủ khi QĐHP.

2.2. Thực tiễn định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn

Thành phố Hà Nội.

Bảng Số liệu vụ án và bị cáo đưa ra xét xử về tội Hiếp dâm trẻ em và

Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Hà Nội từ 2015- 2019

Số vụ Số bị cáo Năm

2015 11 11

2016 5 5

2017 8 9

208 12 18

2019 17 19

Tổng 43 62

(Nguồn TAND TP Hà Nội)

Bảng So sánh số vụ Hiếp dâm ngưới dưới 16 tuổi của Thành phố

36

Hà Nội và cả nước

Năm 2015 2016 2017 2018 2019

Hà Nội 11 5 8 12 17

Cả 261 234 181 176 96 Nước

Tỷ lệ 4.2 2.1 4.4 6.8 17.7 (%)

300

250

200

Hà Nội

150

cả nước

%

100

50

0

2015

2016

2017

2018

2019

(Nguồn Tòa án nhân dân Tối cao và Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội)

Biểu đồ So sánh số vụ Hiếp dâm người dưới 16 tuổi của

Thành phố Hà Nội và cả nước

Qua số liệu thống kê cho thấy tình hình các vụ án hiếp dâm người dưới

16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2019, có những

thay đổi rõ rệt, có sự khác nhau rất nhiều qua từng năm. Trong 5 năm thống kê

số vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên cả nước có xu hướng giảm (261 vụ

án xuống 96 vụ án), giảm gần 2/3, tuy nhiên riêng đối với Thành phố Hà Nội

37

những năm gần đây tỷ lệ vụ án lại có chiều hướng tăng đáng kế (từ 5 vụ án lên

17 vụ án). Theo đó tỷ lệ vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi xảy ra trên địa bàn

Thành phố Hà Nội so với cả nước cũng theo đó mà tăng dần, cụ thể: năm 2015

chiếm 4.2%, năm 2016 con số này giảm xuống chỉ là 2.1%, tuy nhiên sang năm

2017 con số bắt đầu tăng nhanh lên 4.4%, năm 2018 chiếm 6.8%, sang năm

2019 con số đó chiếm tới tận 17.7%. Xét cả giai đoạn thì tại Hà Nội, tỷ lệ các

vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi có xu hướng tăng nhanh, năm 2019 tỷ lệ

này chiếm gần 1/5 so với cả nước. Điều đó thể hiện tình trạng tội phạm về Hiếp

dâm người dưới 16 tuổi đáng báo động của thành phố Hà Nội, các cơ quan chức

năng phải nhanh chóng vào cuộc, đẩy mạnh công tác đấu tranh, phòng chống

tệ nan hiếp dâm trẻ em.

Các cơ quan chức năng phải có trách nhiệm với tình hình tội phạm hiếp

dâm trẻ em tăng mạnh trong thời gian gần đây, số vụ án hiếp dâm người dưới

16 tuổi cứ tăng qua các năm là 1 tình trạng đáng báo động, thật sự là qua 5 năm

con số và tỉ lệ không những không giảm mà còn để tăng nhanh đến chóng mặt.

Theo bảng số liệu thống kê trên đồng nghĩa cho chúng ta thấy được thành

phố Hà Nội phải tăng cường bảo vệ trẻ em để giúp cho trẻ em tránh khỏi tình

trạng bị hiếp dâm, để giúp cho trẻ em có cuộc sống lành mạnh nhất, cùng với

đó đẩy lùi loại tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên toàn bộ thành phố

Hà Nội, hay xa hơn là lãnh thổ Việt Nam chúng ta.

* Về áp dụng quy định pháp luật theo cấu thành cơ bản:

Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn ta thấy, trong quá trình

giải quyết và xét xử, tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có vi phạm chiếm đa số

là ở khung cơ bản. Những dấu hiệu của hành vi do người phạm tội thực hiện

tương thích và phù hợp với dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể đơn giản được

quy định trong Bộ luật hình sự.

Khoảng 17 giờ ngày 05/4/2019, Nguyễn Bá Ư điều khiển xe mô tô BKS

99F1-211.82 đi đến nhà người quen là chị Trần Thị Th ở Thôn Đ, xã Th, huyện

38

Th, tỉnh B chơi. Khi đến cổng nhà chị Th, Ư thấy 02 con của chị Th là cháu

Nguyễn Thị Th, sinh ngày 14/10/2005 và cháu Nguyễn Bá H, sinh ngày

28/5/2010 đang chơi đá bóng ở sân. Thấy Ư đến, cháu H đi ra mở cổng cho Ư

vào nhà, vào đến sân Ư hỏi “mẹ cháu có nhà không?” Cháu Th trả lời “mẹ cháu

đi làm, mẹ cháu chưa về”. Ư dựng xe mô tô ở sân, đi vào trong nhà ngồi ở

giường, rồi gọi cháu H “Cò ơi, vào đây bác cho mười nghìn mua kẹo”. Nghe

thấy vậy, cháu H liền chạy vào trong nhà thì Ư đưa cho cháu H 02 tờ tiền loại

5.000đồng (tổng cộng 10.000đồng). Cháu H cầm tiền rồi chạy ra ngoài khoe

với Cháu Th và bảo “em đi mua kẹo đây”. Cháu Th nói “chị đi cùng với”. Lúc

này, Ư đang ngồi ở trên giường và nói vọng ra bảo Cháu Th “cháu vào đây bác

bảo” nên Cháu Th không đi cùng cháu H nữa mà đi vào trong nhà đứng ở gần

tủ kê ti vi. Ư hỏi Cháu Th “cháu có đi chơi không?”. Cháu Th trả lời “cháu

không đi”. Trong lúc Cháu Th ra bật ti vi và định lấy ruột nồi cơm điện để gần

tủ ti vi để đi nấu cơm thì Cháu Th thấy Ư cởi và kéo quần dài Ư đang mặc

xuống đầu gối còn quần đùi bên trong vẫn mặc. Lúc này, Ư không nói gì và đi

đến dùng tay trái nắm vào cổ tay phải của Cháu Th kéo Cháu Th vào ngồi ở

giường cùng với Ư. Khi Cháu Th vừa ngồi xuống giường bên tay trái trong tư

thế song song với Ư thì Ư dùng tay trái đưa ra trước mặt Cháu Th rồi gạt vào

phía ngực Cháu Th làm Cháu Th ngã nằm ngửa ra giữa giường, hai chân Cháu

Th thõng xuống đất rồi Ư nằm đè lên người Cháu Th thì Cháu Th bảo “bác đi

về đi”. Ư bảo “bác đợi mẹ mày về xong bác về”. Sau đó, Ư đứng dậy cởi quần

đùi Ư đang mặc kéo xuống đầu gối thì Cháu Th ngồi dậy. Ư lại dùng tay trái

đẩy Cháu Th nằm ngửa xuống giường. Lúc này, Ư dùng tay phải mở khuy và

kéo khóa quần bò dài màu xanh của Cháu Th đang mặc, rồi dùng hai tay kéo

cả quần dài và quần lót màu hồng của Cháu Th mặc bên trong xuống dưới. Ư

rút chân phải Cháu Th ra khỏi ống quần dài và ống quần lót bên phải, còn ống

quần dài và ống quần lót bên trái Ư kéo xuống đến đầu gối. Lúc này, Ư dùng

tay phải sờ vào bộ phận sinh dục rồi dùng ngón tay trỏ chọc sâu vào bên trong

39

âm hộ của Cháu Th. Ư thấy Cháu Th kêu “đau” nên Ư đứng dậy và đứng vào

giữa hai chân của Cháu Th, dùng hai tay đẩy hai chân Cháu Th dạng ra, tay trái

cầm dương vật nhét vào âm hộ của Cháu Th. Cháu Th dùng hai tay đẩy Ư ra

nhưng do Ư to khỏe nên không đẩy được. Mặt khác, Ư dùng một tay bịt miệng

Cháu Th nên Cháu Th không kêu gào được. Khi Ư nhét dương vật vào trong

âm hộ của Cháu Th, dập lên, dập xuống khoảng hai đến ba lần, thì Cháu Th

nghe thấy tiếng xe mô tô của chị Th đi làm về. Vì vậy, Cháu Th nói với Ư “mẹ

cháu về”. Ư vội vàng rút dương vật ra khỏi âm hộ của Cháu Th rồi đứng dậy

nép vào góc tủ để ti vi mặc lại quần rồi ngồi ở góc giường bên tay trái cạnh tủ

kê ti vi. Còn Cháu Th cũng tự mặc quần (nhưng quên không kéo khóa quần)

rồi đi ra gần tủ kê ti vi lấy ruột nồi cơm. Lúc này, chị Th đang đứng ở cửa nhà

thì nhìn thấy Cháu Th một tay cầm ruột nồi cơm điện, một tay kéo khóa quần

đang mặc. Thấy vậy, chị Th nghi ngờ Ư có hành vi hiếp dâm Cháu Th nên đã

hỏi Ư “ông vào đây làm gì?” Ư trả lời “tôi đến đây thăm hai bà và thăm hai

cháu” (ý là hỏi thăm chị Th, bạn của chị Th là chị Nguyễn Thị Th1, sinh năm

1974, trú tại thôn Kh, xã Th, huyện Th, tỉnh B và hai con của chị Th). Sau đó,

Ư đi ra sân lấy xe mô tô đi về. Chị Th đã hỏi Cháu Th về việc Ư đến nhà làm

gì nhưng Cháu Th sợ, không nói gì nên chị Th đã gọi điện thoại cho chị Th1 và

nhờ chị Th1 sang hỏi Cháu Th xem sự việc như thế nào. Khi chị Th1 đến nhà

hỏi Cháu Th thì Cháu Th đã kể cho chị Th1 biết toàn bộ hành vi mà Ư đã thực

hiện đối với Cháu Th lúc trước khi chị Th về. Vì vậy, chị Th1 bảo Cháu Th

nằm ra giường và kiểm tra bộ phận sinh dục của Cháu Th thì thấy có vết sưng

đỏ và Cháu Th kêu đau. Sau đó, chị Th bảo Cháu Th cởi quần áo đang mặc trên

người cho vào vào túi nilon và vứt đi. Khi Cháu Th cởi quần áo thì chị Th nhìn

thấy Cháu Th mặc áo phông cộc tay màu xám, có hoa văn hình con ngựa thêu

ở trước ngực, bên trong mặc áo nịt ngực màu xám; mặc quần bò dài màu xanh,

bên trong mặc quần lót màu hồng. Cùng ngày chị Th đã làm đơn trình báo Công

an huyện Thuận Thành tố cáo hành vi hiếp dâm của Nguyễn Bá Ư. Sau khi

40

nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tiến hành đưa Cháu Th

đến khám tại Bệnh viện sản nhi. Tại Biên bản khám nghiệm ngày 05/4/2019 của

Bệnh viện sản nhi có kết quả: Âm hộ vị trí 6h hơi đỏ, không chảy máu; Màng trinh

không chảy máu, hơi rộng, không rõ rách; không cho mỏ vịt nhỏ vào âm hộ kiểm

tra được vì bệnh nhân kêu đau; xét nghiệm vi sinh trên tiêu bản nhuộm soi không

phát hiện hình ảnh tinh trùng.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 142; điểm b, s khoản 1và khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Tòa án nhân dân huyện T đã tuyên bố bị cáo

Nguyễn Bá U phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, xử phạt Nguyễn Bá U

07 (bẩy) năm tù.

Qua những mô tả về hành vi khách quan trong diễn biến sự việc ở trên,

ta có thể thấy bị cáo Nguyễn Bá Ư là người thành niên, đã thực hiện hành vi

trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền được

bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe và sự phát

triển bình thường của trẻ em. Hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý và

gây ra những hậu quả ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sức khỏe của người bị hại,

đặc biệt là gây tác hại nghiêm trọng đến sự phát triển đạo đức, hình thành nhân

cách và ảnh hưởng đến danh dự, phẩm giá của bị hại ở thời điểm hiện tại và cả

tương lai về sau. Bị cáo cũng nhận biết việc đe dọa dùng vũ lực để giao cấu trái

với ý muốn của người dưới 16 tuổi là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vì muốn

thỏa mãn dục vọng thấp hèn của bản thân và không có ý thức kiểm soát hành

vi của mình mà bị cáo đã bất chấp vi phạm, cho thấy trong tâm lý bị cáo có sự

coi thường luật pháp, gây bất bình và bị xã hội lên án.

* Về áp dụng quy định pháp luật theo cấu thành tăng nặng:

Ví dụ: Theo cáo trạng, khoảng 10h30 ngày 24/2/2019, sau khi bán thịt

xong, Nguyễn Trọng Trình điều khiển xe máy đi từ quận Thanh Xuân về thị

trấn Chúc Sơn, và đi theo đường tỉnh lộ 419 để về nhà ở thôn Lưu Xá, xã Hòa

Chính. Khi đi đến đoạn đường gần khu vực nghĩa trang liệt sỹ ở xã Hợp Đồng

41

(huyện Chương Mỹ), Trình nhìn thấy cháu Vũ Q (SN 2009, trú tại xã Hợp

Đồng) đang đi bộ một mình trên lề đường. Trình quan sát thấy xung quanh vắng

người, cháu Q lại không có người lớn đi kèm nên Trình đã nảy sinh ý định xâm

hại. Trình đã tiếp cận, giả là người quen của bố cháu Q, bảo bé gái lên xe máy

của Trình để y chở về. Sau đó, Trình đã đưa cháu Q đến vườn chuối ở thôn B.T,

xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ. Tại đây, Trình dùng vũ lực bóp miệng, bẻ

tay của cháu Q và thực hiện hành vi xâm hại. Hậu quả xảy ra, cháu Q bị gãy

răng số 03, gãy 1/3 xương quay tay phải, bị tổn thương tại nhiều vị trí ở vùng

kín; tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 9%.6 Bản án sơ thẩm khẳng định, hành vi của bị

cáo là đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, mà

còn xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của bị hại, gây ra hậu quả đau đớn cả

về thể xác lẫn tinh thần, gây chấn thương tâm lý, để lại di chứng lâu dài cho

cuộc sống bình thường sau này của bị hại, gây hoang mang lo lắng và bất bình

trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt, khi đối tượng bị xâm hại lại là trẻ em gái.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Trọng Trình đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm

người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm Hành vi của Bị cáo Nguyễn Trọng Trình

là đã vi phạm vào Điểm C, Khoản 3 điều 142 BLHS. Hành vi này của bị cáo

Trình đã xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người

bị hại, thể hiện sự suy đồi đạo đức của bị cáo, chà đạp lên thuần phong mỹ tục

của xã hội. Bị cáo Trình đã lợi dụng sự ngây dại, chưa có khả năng nhận thức

đầy đủ của người bị hại về quan hệ tình dục và đã thực hiện hành vi hiếp dâm

người bị hại.

Tòa án nhân dân Thành phố Nội đã quyết định tuyên phạt bị cáo Nguyễn

Trọng Trình mức án tù Chung thân về tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi". Ngoài

án phạt tù, bị cáo Trình còn bị Tòa tuyên buộc chịu trách nhiệm bồi thường cho

bị hại (do người giám hộ đại diện) số tiền 400 triệu đồng.

42

6 http://cand.com.vn/Ban-tin-113/Ban-an-chung-than-danh-cho-ga-do-te-o-huyen-Chuong-My- 561060/ (Truy cập ngày 01/09/2020).

2.3. Những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về Tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Thứ nhất, trong việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối

với nạn nhân là người dưới 16 tuổi. Mặt chủ quan của tội Hiếp dâm người dưới

16 tuổi được thể hiện qua việc thực hiện hành vi phạm tội với lỗi hoàn toàn cố

ý. Người thực hiện hành vi có khả năng nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội

phản ánh ở hành vi khách quan cùng đối tượng tác động. Trên thực tế khi điều

tra các vụ án liên quan, để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với

trẻ em là việc làm khá phức tạp. Cùng sự phát triển nhanh chóng của xã hội

hiện nay, trẻ em được chăm sóc với điều kiện vật chất tốt nên thể chất phát triển

sớm, vóc dáng cao, lớn, ngoại hình có nhiều nét trưởng thành của người lớn.

Song song với đó là trình độ khoa học công nghệ thông tin hiện đại bùng nổ,

trẻ em được tiếp xúc từ rất sớm với các nguồn thông tin đa phương tiện phong

phú về hình thức, tạp nham về nội dung nên dù tuổi đời còn nhỏ nhưng sớm đã

có hành vi bắt chước người lớn hoặc tò mò về giới tính nhưng lại không được

cha mẹ, người thân, thầy cô hướng dẫn đúng cách. Có những trường hợp nạn

nhân đã nói sai độ tuổi hoặc cố ý nói sai để tạo điều kiện cho người phạm tội

cơ hội thực hiện hành vi giao cấu. Đối với các trường hợp như vậy, thực tiễn

việc xác định tội danh vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau giữa các cơ quan

tiến hành tố tụng nên có khi không thống nhất về tội danh đối với người phạm

tội. Có quan điểm cho rằng chỉ cần xét đến độ tuổi thực của trẻ em là độ tuổi

dưới 16 tuổi mà không cần xét đến việc người thực hiện hành vi có nhận biết

được hay không. Quan điểm khác lại cho rằng cần phải xác định cả độ tuổi thực

của trẻ em cùng với ý thức của chủ thể tội phạm (có hay không sự nhận thức

về đối tượng mình giao cấu là trẻ em).

Thứ hai, việc xác định hành vi thuộc mặt khách quan của người phạm

tội. Đối với tội phạm Hiếp dâm người dưới 16 tuổi mà đối tượng là trẻ em chưa

43

đủ 13 tuổi, nhiều trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội không thực hiện

hành vi giao cấu hoặc không đạt được mục đích giao cấu trong các lần thực

hiện tội phạm với cùng một nạn nhân. Tại khoản 4 Điều 142 BLHS quy định

“Trong mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp

dâm trẻ em……” đây là trường hợp người phạm tội có hành vi “giao cấu” với

nạn nhân, còn khi người phạm tội không thực hiện hành vi “giao cấu” mà chỉ

thực hiện các hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm của một tội

danh độc lập khác thì việc định tội danh được xác định ra sao? Có nhiều hướng

quan điểm như sau:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, hành vi do người phạm tội thực hiện cho

dù đạt có được hay không việc “giao cấu” với trẻ chưa đủ 13 tuổi đều thỏa mãn

quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS, nói cách khác thì khi người phạm tội

thực hiện nhiều lần hành vi phạm tội, cho dù có lần giao cấu được, có lần không

nhưng phạm tội với trẻ chưa đủ 13 tuổi đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự

theo khoản 4 Điều 112 BLHS về tội Hiếp dâm trẻ em. Theo đó, các hành vi

trong tội này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, không quan trọng việc đạt được

mục đích giao cấu hay không, đây là dấu hiệu không bắt buộc khi định tội. Và

phạm tội với trẻ chưa đủ 13 tuổi, BLHS có khung hình phạt rất rộng: từ mười

hai năm đến hai mươi năm tù giam, tù chung thân hoặc tử hình. Nên qua quá

trình đánh giá, phân tích vụ án mà tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của

hành vi phạm tội hay xem các hành vi khác được quy định là tình tiết tăng nặng,

cá nhân, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định mức hình phạt tương ứng.

- Quan điểm thứ hai, hành vi của người phạm tội đối với bị hại là trẻ chưa

đủ 13 tuổi, nếu đạt được mục đích giao cấu thì định tội Hiếp dâm người dưới

16 tuổi, nếu không đạt mục đích giao cấu mà hành vi thực hiện thỏa mãn tội

danh độc lập khác thì định thêm tội danh độc lập đó, ví dụ tội Dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi. Theo lý luận chung trong giáo trình tại các trường đại học,

tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có đối tượng tác động là trẻ em từ đủ 13

44

đến dưới 16 tuổi. Trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu, sách báo chuyên khảo thì

đối tượng tác động của tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là trẻ em chưa đủ

16 tuổi, có nghĩa bao gồm cả trẻ dưới 13 tuổi. Điều luật 146 BLHS thì quy định

chung chung là “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với

người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện

các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm...”.

Thực tiễn định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng ủng hộ quan

điểm thứ hai và thường xử lý theo luồng quan điểm này định thành 2 tội đối

với người phạm tội.

Do thực tiễn tồn tại nhiều cách hiểu cũng như quan điểm khác nhau nên

cách xử lý, định tội danh cũng có sự khác nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền.

Điều đó dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các cơ quan có thẩm quyền

đối với người phạm tội cũng có sự khác nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến tính

nghiêm minh, mục đích răn đe của pháp luật thông qua chế tài áp dụng đối với

người phạm tội.

Thứ ba, xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của tội phạm và tuổi

của nạn nhân. Tình hình thực tế hiện nay cho chúng ta thấy rằng, người phạm

tội và nạn nhân của tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có xu hướng trẻ hóa, đối

nạn nhân và người phạm tội là trẻ chưa thành niên ngày càng gia tăng, trở thành

vấn đề báo động, đáng đáng quan tâm của xã hội. Đối với những vụ án hình sự

về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, việc xác định tuổi là tối quan trọng, là căn

cứ để định tội, định khung hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Có

nhiều trường hợp, việc xác định tuổi là cơ sở quan trọng để định tội, ví dụ các

tội phạm quy định tại Điều 142 BLHS (tội hiếp dâm trẻ em); Điều 144 BLHS

(tội cưỡng dâm trẻ em); Điều 145 BLHS (tội giao cấu với trẻ em);... Hậu quả

gây ra bởi các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi là rất lớn và khó lường đối

với những tổn thất về tinh thần, vì vậy nên việc một người thực hiện hành vi

phạm tội này ở mức đặc biệt nghiêm trọng mà tuổi chưa đến mức chịu trách

45

nhiệm hình sự (dưới 14 tuổi) nên không phải chịu một chế tài tương xứng với

hành vi phạm tội thì có bảo đảm được tính nghiêm minh, răn đe nghiêm khắc

của luật pháp hình sự? Trong thực tiễn xét xử đã có một số trường hợp bị can

dù đã phạm tội nhiều lần nhưng do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên

vẫn không bị khởi tố xử lý mà chỉ đưa về địa phương để áp dụng các biện pháp

giáo dục, quản lý.

Đồng thời, độ tuổi của người bị hại càng nhỏ thì trách nhiệm hình sự đối

với người phạm tội càng cao. Mức hình phạt khác nhau ở mỗi độ tuổi, BLHS

quy định cụ thể tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều 142. Tính chính xác trong việc

xác định tuổi của người bị hại càng cao thì việc ấn định khung hình phạt, lượng

hình của Hội đồng xét xử sẽ càng xác đáng và tương xứng với tính chất và mức

độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trên thực tiễn. Ở các quận, huyện vùng

ngoại ô thành phố, nơi có lượng dân nhập cư rất nhiều, công tác kê khai, làm

giấy khai sinh không được thực hiện đầy đủ, có nhiều trường hợp đến tuổi đi

học vẫn chưa có giấy khai sinh hoặc được làm giấy khai sinh muộn từ 2 đến 5

năm sau ngày sinh (thậm chí nhiều hơn) nên thông tin trên giấy khai sinh, đặc

biệt là ngày tháng năm sinh không chính xác, tồn tại một số trường hợp người

bị hại không biết ngày tháng năm sinh của mình, khi cơ quan tiến hành tố tụng

tìm hiểu thì ngay người thân của người bị hại cũng không nhớ chính xác; vậy

nên trong trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể đoán chính

xác được ngày, tháng, năm sinh của người bị hại.

Thứ tư, vướng mắc về xác định tình tiết của vụ án. Để định tội danh và

sau đó quyết định hình phạt việc xác định tình tiết của vụ án (sự thật của vụ

án) đóng vai trò quan trọng và là một khâu trong quá trình định tội danh và

quyết định hình phạt. Khi và chỉ khi xác định được tình tiết của vụ án thì mới

định tội danh và quyết định hình phạt một cách chính xác. Tuy nhiên, trong quá

trình tố tụng, việc xác định sự thật của vụ án còn nhiều vướng mắc do nguyên

46

chủ quan và khách quan.

Đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em trong đó có tội Hiếp dâm người

dưới 16 tuổi thường bị người phạm tội tiến hành ở nơi vắng vẻ, chỉ có đối tượng

và nạn nhân tại hiện trường, không có người làm chứng trực tiếp, trong khi đó

các đối tượng bị tố cáo lại có thái độ ngoan cố, thiếu trung thực, khai báo quanh

co, chối tội hoặc chỉ nhận một phần hành vi phạm tội như chỉ nhận có hành vi

dâm ô nhằm chối tội vì bộ phận sinh dục của người bị hại quá nhỏ do chưa phát

triển đầy đủ, khi bị xâm hại, có phản ứng dãy dụa, hoảng loạn, la hét, kêu đau

nên hầu như hành vi giao cấu đều ở mức độ chưa đạt về hậu quả. Có bị can khai

khi thực hiện hành vi giao cấu, đã không thể đưa được dương vật vào sâu trong

âm đạo của nạn nhân, vì còn quá nhỏ, hoặc bị can chỉ có ý định cọ sát dương

vật của mình vào âm hộ của nạn nhân nhằm thỏa mãn dục vọng. Có trường hợp

bị can không nhận tội, chỉ khai nhận dùng ngón tay hay dụng cụ khác đưa vào

âm đạo của nạn nhân hoặc khai chỉ có hành vi sờ mó, hôn vào phận sinh dục

của nạn nhân,... điều này dẫn đến khó khăn cũng như gây ra quan điểm khác

nhau trong việc đánh giá chứng cứ và xác định tội danh của người thực hiện

hành vi phạm tội.

Bên cạnh đó, việc giám định xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em

còn nhiều hạn chế, bất cập. Luật Giám định tư pháp được Quốc hội khóa XIII,

kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 không

quy định việc trưng cầu giám định pháp y về xâm hại tình dục đối với phụ nữ

và trẻ em là loại đặc biệt, cần được thực hiện nhanh để xác định thủ phạm, vì

vậy đã gây nhiều khó khăn trong quá trình tìm ra chứng cứ và gây khó khăn

cho công tác xử lý tội phạm.

Một vấn đề nữa là lời khai của trẻ em (nạn nhân) thường không được thống

nhất từ đầu đến cuối, chính xác các câu chữ 100% vì bản thân nhận thức của trẻ

về vấn đề đó không giống như người lớn để mà nhớ, mà mô tả chính xác. Cơ

47

quan chức năng lấy lý do người bị hại khai báo không nhất quán, chứng cứ, dấu

vết mờ nên không dám khởi tố vụ án, khởi tố bị can vì sợ oan sai; khi xét xử thì

lấy lý do lời khai bị hại bất nhất, không đáng tin cậy.

2.4. Nguyên nhân của những vướng mắc khi áp dụng pháp luật về Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

Thứ nhất, nguyên nhân đến từ các quy định của BLHS. Tại Điều 142 về

Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi còn nhiều vấn đề còn chưa thống nhất cách

hiểu, cách áp dụng (Ví dụ việc xác định độ tuổi thực của nạn nhân và người

phạm tội; xác định ý thức chủ quan, hành vi thuộc mặt khách quan, tình tiết của

vụ án; ...). Dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng có cách hiểu khác nhau,

từ đó kết quả giải quyết đối với các vụ án hình sự có cùng tính chất cũng có sự

khác nhau nhất định.

Thứ hai, Việt Nam là đất nước đang phát triển, cùng với sự biến đổi

không ngừng của các quan hệ xã hội đòi hỏi pháp luật phải có tính linh hoạt,

phù hợp với thực tiễn, dự phòng trước hướng phát triển của quan hệ xã hội cần

điều chỉnh. Tuy nhiên, do trình độ lập pháp của nước ta còn nhiều hạn chế cùng

với những khó khăn trong quá trình đổi mới đất nước, mở rộng nền kinh tế thị

trường, hội nhập quốc tế mà tuổi thọ của các văn bản pháp luật thường ngắn so

với các nước phát triển, có nền lập pháp lâu đời như Mỹ, Anh,... Các văn bản

pháp luật hình sự thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình

kinh tế - xã hội, kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chính vì lẽ đó mà khi

mỗi một văn bản pháp luật hình sự ra đời các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền

phải mất một thời gian để có thể tìm hiểu, nghiên cứu áp dụng chính xác và

thống nhất những quy định mới. Trong khi đó, Hà Nội với đặc thù là Thành

phố lớn, nơi tập trung sinh sống, học tập và làm việc của rất nhiều người từ các

khu vực lân cận, vùng miền khác trên cả nước. Tình hình tội phạm Hiếp dâm

người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội xảy ra ngày càng nhiều, mức

48

độ nguy hiểm và phức tạp cũng gia tăng, người phạm tội có nhiều thủ đoạn gây

khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Bản thân nạn nhân cũng là đối tượng

cần sự giám sát, quan tâm, chăm sóc của gia đình; với độ tuổi dưới 13 tuổi thì

công tác điều tra gặp khó khăn trong việc lấy lời khai, xác định các vấn đề nhân

thân; với độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi là lứa tuổi ham tìm hiểu, tò mò về mọi

thứ xung quanh, tâm lý nổi loạn, muốn thể hiện bản thân cùng với sự phát triển

của công nghệ thông tin mà những trẻ ở độ tuổi này rất dễ tiếp xúc với những

thông tin độc hại, bị dụ dỗ, giao thiệp với đối tượng xấu nên việc áp dụng pháp

luật cũng có nhiều trở ngại khi chính nạn nhân là người bao che, tạo điều kiện

cho người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm.

Thứ ba, xuất phát từ trình độ chuyên môn của cơ quan tiến hành tố tụng

còn hạn chế, công tác khám nghiệm hiện trường, giám định pháp y trong các

vụ hiếp dâm người dưới 16 tuổi chưa được kịp thời, chính xác; hoạt động lấy

lời khai, lấy ý kiến của bị hại cũng chưa khách quan do người tiến hành tố tụng

bên cạnh yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ còn phải là những người có kinh

nghiệm, có hiểu biết về tâm sinh lý của trẻ em.

Bên cạnh đó, thực tế việc đưa tin, xét xử công khai các vụ án về tội Hiếp

dâm người dưới 16 tuổi làm lộ danh tính nạn nhân, điều này không chỉ ảnh

hưởng không nhỏ đến lợi ích của người bị hại, mà còn gây bất lợi lớn đến việc

xử lý tội phạm. Do sợ ảnh hưởng đến nạn nhân mà nhiều gia đình đã chấp nhận

thỏa thuận bồi thường thay vì tố cáo hành vi của người phạm tội, người bị hại

và người đại diện trọng nhiều trường hợp cũng thiếu hợp tác với cơ quan tiến

hành tố tụng trong việc khai báo 7. Nhiều trường hợp, sự việc bị phát hiện qua

các nguồn thông tin khác, cách thời điểm xảy ra một thời gian dài, chứng cứ

không thu thập được, việc giám định không thể thực hiện nên rất khó khăn

trong việc xác định sự thật khách quan, định tội danh và quyết định hình phát

khi giải quyết vụ án.

49

7 Th.S Vũ Hải Anh, “Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm Tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân”, Tạp chí Nghề luật, Số 1/2015, Tr.43-47.

50

Tiểu kết chương 2

Thông qua quá trình nghiên cứu thực tiễn định tội danh và áp dụng các

biện pháp trách nhiệm hình sự trong xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tác

giả cho rằng, nhìn chung công tác xét xử các vụ án hình sự này đã đúng người,

đúng tội, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm được tính răn đe, giáo dục đối

với người bị kết án và đạt mục đích đấu tranh phòng chống tội phạm đối với xã

hội, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật hình sự đồng thời đảm bảo nguyên

tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, các quy định của BLHS 1999 sau

khoảng thời gian dài áp dụng đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp vơi

sự phát triển của xã hội. Vấn đề này đã được khắc phục từ khi BLHS 2015 được

Quốc hội thông qua và có hiệu lực, song trải qua thực tiễn triển khai thực hiện

còn chưa thật sự toàn diện, khắc phục triệt để mọi tồn tại và hạn chế của BLHS

1999.

Công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hiếp dâm trẻ em của Tòa án thành phố

Hà Nội trong thực tế những năm qua cho thấy việc định tội danh và áp dụng

các biện pháp chịu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này đã đạt được những

kết quả tích cực đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm

trên địa bản, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Tất cả những kết

quả đạt được và một số hạn chế còn tồn tại có nhiều nguyên nhân, bao gồm

nguyên nhân chủ quan và khách quan. Đây chính là cơ sở để từ đó tác giả

nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật

51

hình sự đối với tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ĐẮN

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người

dưới 16 tuổi.

Yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em: Chúng ta thấy rõ trẻ em là tương lai của

đất nước, trong độ tuổi dưới 16 tuổi là độ tuổi phát triển tốt nhất của các bé,

mang đầy nét vô tư và hồn nhiên của 1 đời người. Vì vậy, cần phải nâng niu,

quý trọng và dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em. Vì ở cái lứa tuổi này

các e dễ thay đồi tâm sinh lý, tinh thần của các em dễ bị ảnh hưởng, nếu các em

là nạn nhân của xâm hại tình dục thì hậu quả sẽ rất là khó lường, hầu hết sẽ ảnh

hưởng tới tâm lý của các em trong suốt phần đời về sau, khiến các em luôn

mang mặc cảm tự ti trong giao tiếp khiến cho tâm lý các em không được ổn

định. Điều đó dẫn đến làm cho tương lai của các em xấu đi.

Việt Nam được biết đến là quốc gia đầu tiên ở châu Á và là quốc gia thứ

2 trên thế giới phê chuẩn công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng

Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1989, việc không bảo lưu bất cứ điều

khoản nào thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc quan

tâm bảo vệ quyền trẻ em ở mức độ cao nhất mang tầm quốc tế. Quá trình xây

dựng, ban hành BLHS 1999 với điểm mới tách riêng Tội Hiếp dâm trẻ em ra

khỏi Tội Hiếp dâm so với BLHS 1985 đã thể hiện quan điểm chú trọng bảo vệ

trẻ em và quyền trẻ em bằng pháp luật của các nhà lập pháp về cơ bản đã phù

hợp và đáp ứng được yêu cầu và quy định của hệ thống pháp luật trong nước

và quốc tế. Tiếp đó là sự ra đời của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em

52

số 25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004, Luật trẻ em số 102/2016/QH13

ngày 05/4/2016 đã chính thức ghi nhận Quyền được bảo vệ để không bị xâm

hại tình dục của trẻ em.

Trong suốt khoảng thời gian qua nhà nước đã giải quyết tình trạng trẻ

em lang thang, lao động sớm để kiếm sống, song tình trạng trẻ em bị xâm hại

tình dục vẫn xảy ra. Hoạt động bảo vệ trẻ em được tích cực thực hiện dựa trên

cơ sở củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền trẻ

em và dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ trẻ em nhằm hạn chế tình trạng trẻ em bị bỏ rơi,

bạo hành, bóc lột, lạm dụng, xâm hại, mua bán, ... song song với đó có những

chính sách cải thiện chất lượng và hiệu quả chăm sóc cho trẻ em có hoàn cảnh

đặc biệt.

Trong thời đại nền kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập, vấn đề bảo vệ

trẻ em đặt ra nhiều thách thức mới, do vậy, trong tương lai cần củng cố và phát

triển hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em và dịch vụ bảo vệ hỗ trợ trẻ em, đặc

biệt đối với pháp luật hình sự, cần tạo nên hệ thống pháp lý chặt chẽ, thực hiện

công tác phòng, chống và xử lý các loại tội phạm xâm hại tình dục bao gồm tội

hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Yêu cầu đảm bảo trật tự xã hội: Trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, Đảng

ta đã thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo "Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu

quả và xử lí kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự... bảo đảm và tôn

trọng dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân". Nghị quyết

48/NQ-TW là “kim chỉ nam” định hướng cho Nhà nước cũng như cơ quan lập

pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền con người,

quyền tự do, dân chủ của công dân, hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối

với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; xử lí kịp thời, nghiêm minh

những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nhận thấy rằng việc Đảng và Nhà nước ban hành các văn bản đều là những

yêu cầu mà mục tiêu cuối cùng hướng đến chính là hoàn thiện và áp dụng đúng đắn

53

các quy định của pháp luật.

Yêu cầu thực hiện bảo vệ công lý và đấu tranh phòng chống tội phạm:

Thứ nhất, về yêu cầu thực hiện bảo vệ công lý: Theo quy định tại

Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 xác định nhiệm vụ bảo vệ công lý

của cơ quan Tòa án như sau:

“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con

người,quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”

Đây là sự thay đổi tích cực trong chính sách pháp luật của nhà nước, nhiệm

vụ bảo vệ công lý của tòa án được ghi nhận trong hiến pháp, đây là văn bản

quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất của Việt Nam, nội dung các văn

bản pháp lý khác không được trái với hiến pháp. Chính vì thế, hiến pháp là nền

tảng cơ sở và cũng là mục tiêu chung trong việc thực hiện bảo vệ công lý xã

hội mà Tòa án là cơ quan đi đầu phải thực hiện và có biện pháp thực hiện kịp

thời, đúng đắn.

Tòa án sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ cần thiết để thực hiện

nhiệm vụ duy trì và bảo vệ công lý của mình, vậy nên việc xây dựng và điều

chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sao cho phù hợp với sự phát triển

của kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật và an ninh trật tự hiện nay sẽ

góp phần thực thi và bảo vệ pháp chế, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích

của Nhà nước, quyền con người, quyền công dân cũng như quyền và lợi ích

hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Thứ hai, yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm. Phòng, chống tội

phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cần kíp, thường xuyên, liên tục

và lâu dài nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi

hành, góp phần vào công cuộc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ lợi ích của

Nhà nước dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý, chỉ đạo

54

của Nhà nước.

Ý thức được yêu cầu cấp bách của việc phòng chống tội phạm xâm hại

tình dục trẻ em và đặc biệt là Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS

2015), so với trước đây, tại BLHS 2015 khái niệm hiếp dâm ngưới dưới 16 tuổi

đã được quy định cụ thể và chi tiết hơn, theo đó hiếp dâm người dưới 16 tuổi

là hành vi “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể

tự vệ của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan

hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của

họ” hoặc “giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người

dưới 13 tuổi”. Điểm mới so với BLHS 1999 là không chỉ tội phạm đã hoàn

thành, giao cấu với nạn nhân mà ngay cả khi có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng

vũ lực,.. nhằm thực hiện hành vi tình dục khác thì đã đủ căn cứ cấu thành tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi. Điều này được cụ thể và chi tiết hóa trong việc mô tả

hành vi của tội phạm dưới góc độ pháp lý, hạn chế việc bỏ lọt tội phạm mà trước

đây cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc xử lý, không thống nhất

quan điểm.

Hoạt động theo dõi và nắm bắt tình hình diễn biến tội phạm đi từ quá trình

phân tích thực trạng, chỉ ra các nguyên nhân và tác động của đời sống xã hội

đến việc hình thành tội phạm là đóng góp quan trọng để Nhà nước ban hành

những chính sách pháp luật phù hợp, cùng với những biện pháp phòng chống kịp

thời, giúp cho công tác đấu tranh chống tội phạm đạt được hiệu quả, thể hiện tốt

hoạt động đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh

tế xã hội, giữ vững sự ổn định của nền chính trị.

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi.

3.2.1. Giải pháp pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật.

Thứ nhất, tiếp tục nhận thức, giải thích dấu hiệu giao cấu trong cấu

55

thành Tội hiếp dâm trẻ em.

Trước đây, thuật ngữ “giao cấu” theo Từ điển Luật học được giải thích

là hành động chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của

người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không xét

đến sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, có xuất tinh hay không. Đây là

cách hiểu và vận dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn áp

dụng pháp luật. Cách giải thích này phù hợp với quan điểm lập pháp của nhiều

nước trên thế giới. Tuy nhiên, với cách giải thích thuật ngữ “giao cấu” trong dự

thảo lại cho người đọc nhận thức rằng hành vi giao cấu chỉ áp dụng, với sự chủ

động của nam giới đối với nữ giới. Vậy việc người phạm tội đưa âm đạo vào

dương vật, không phân biệt mức độ nông hay sâu có bị coi là giao cấu hay

không? Mặc dù quan điểm của nhà làm luật đều xác định đó là hành vi giao

cấu, nhưng cách sắp xếp từ ngữ lại chưa phản ánh rõ mục đích, quan điểm của

nhà làm luật. Bên cạnh đó, một số quan điểm nghiên cứu cho rằng, không cần

thiết phải quy định thêm cụm từ “không phân biệt mức độ nông hay sâu, đã

xuất tinh hay chưa xuất tinh” vì đó là điều hiển nhiên, việc đưa dương vật vào

trong âm đạo thì nông hay sâu, xuất tinh hay chưa xuất tinh đều không phải

là dấu hiệu để định tội, đều bị coi là giao cấu. Tuy nhiên, tác giả lại cho rằng

việc giải thích rõ như trong dự thảo lại rất đầy đủ, rõ ràng, tạo sự nhận thức

thống nhất cho các cơ quan áp dụng pháp luật và đây chính là mục tiêu chung

của các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật.

Tuy nhiên, thực tế có những vụ án mà nạn nhân chưa đầy 1 tuổi đã bị

xâm hại tình dục và do âm đạo của đứa trẻ quá nhỏ mà đối tượng không thể

đưa dương vật vào trong âm đạo của nạn nhân được nên đã gây ra những tổn

thương nghiêm trọng ở khu vực tầng sinh môn. Hay có những vụ án đối tượng

mới chỉ đưa dương vật vào vùng âm hộ, chưa đi sâu vào trong âm đạo của nạn

nhân thì đó có phải là giao cấu hay không? Rõ ràng, dưới khía cạnh lý luận,

người phạm tội chưa đưa được dương vật vào âm đạo hoặc ngược lại thì hành

56

vi đó chưa bị coi là giao cấu nên tội hiếp dâm chưa hoàn thành. Trường hợp

này, hành vi của người phạm tội chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội

hoặc phạm tội chưa đạt và trách nhiệm hình sự đặt ra nhẹ hơn so với trường

hợp tội phạm hoàn thành. Tác giả cho rằng, việc quy định về hành vi “giao

cấu” (hoàn thành) là phải có sự tiếp xúc giữa dương vật và âm đạo là phù hợp,

bảo đảm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong từng trường hợp cụ

thể.

Cũng cần làm rõ về mặt lý luận vấn đè mục đích giao cấu. Nếu một

người “giao cấu” trái ý muốn với nạn nhân nhưng không nhằm mục đích thỏa

mãn tình dục thì có cấu thành tội hiếp dâm hay không? Ví dụ: A có mâu thuẫn

với B nên A đã bắt cóc cháu C (là con gái của B) để trả thù. Trong quá trình

giam giữ, A đã khống chế, cưỡng ép và đưa dương vật của mình vào âm đạo

của cháu C một cái rồi rút ra, với mong muốn làm cho cháu C và B tủi nhục,

đau đớn. A không có mong muốn thỏa mãn tình dục với cháu C. A có phạm

tội hiếp dâm hay không? Về lý luận hay thực tiễn xét xử đều khẳng định A

phạm tội hiếp dâm, bởi vì rõ ràng cấu thành tội phạm không xác định mục

đích nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục là dấu hiệu pháp lý bắt buộc. Người

phạm tội chỉ cần giao cấu trái ý muốn nạn nhân là cấu thành tội phạm hiếp

dâm, không cần xác định động cơ, mục đích phạm tội. Song có thể thấy rằng,

bản chất của hành vi bị coi là “giao cấu” đều hướng đến việc làm thỏa mãn

tình dục cho người thực hiện hành vi. Tác giả thiết nghĩ, để thống nhất về kỹ

thuật lập pháp trong việc giải thích thuật ngữ “giao cấu” và “hành vi quan hệ

tình dục khác” thì nên quy định thêm mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu tình

dục trong thuật ngữ “giao cấu”.

Từ phân tích đó có thể đưa ra khái niệm:“Giao cấu là hành vi có sự cọ

sát, tiếp xúc giữa dương vật với âm đạo, không phân biệt mức độ nông hay

sâu nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục”.

Thứ hai, giải thích thuật ngữ “hành vi quan hệ tình dục khác” quy định

57

tại khoản 1 Điều 142.

Theo Nghị quyết 06/2019/NQHĐTP thì “hành vi quan hệ tình dục

khác” là những hành vi quan hệ tình dục không phải là hành vi giao cấu

nhưng vẫn nhằm làm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội (ví dụ:

người phạm tội sử dụng tay, chân, lưỡi, miệng, các dụng cụ tình dục hoặc bất

cứ công cụ nào khác để kích thích âm đạo, dương vật hoặc hậu môn của người

bị hại hoặc người phạm tội đưa bộ phận sinh dục của mình vào miệng hoặc

hậu môn của người bị hại nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục).

Đây là nội dung có rất nhiều tranh luận, quan điểm khác nhau và cũng

là tâm tư của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Với quy định trên thì

hành vi quan hệ tình dục khác rất dễ bị nhầm lẫn với hành vi dâm ô, đôi khi

không phân biệt được. Ví dụ: Người phạm tội chân kích thích hậu môn của

người bị hại; người phạm tội hôn vào mông của người bị hại thì thì đây là

hành vi quan hệ tình dục khác hay dâm ô? Bởi vì, đối với hành vi quan hệ tình

dục khác trong dự thảo không nêu rõ người phạm tội sẽ dùng những hành

động gì, bộ phận gì để thỏa mãn nhu cầu tình dục, miễn đó không phải là hành

vi giao cấu. Đồng thời, dự thảo có lấy ví dụ một vài trường hợp thể hiện hành

vi quan hệ tình dục khác nhưng không có nghĩa đó là tất cả những trường hợp

có thể xảy ra trên thực tế.

“Hành vi quan hệ tình dục khác” trong các tội quy định tại Điều 141,

142, 143, 144, 145 có đòi hỏi người phạm tội phải có mục đích nhằm thỏa

mãn nhu cầu tình dục. Nếu đối tượng thực hiện những hành vi có sự tác động,

tiếp xúc vào bộ phận nhạy cảm trên cơ thể trái ý muốn nạn nhân và không

nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tình dục thì sẽ không bị coi là hành vi quan

hệ tình dục khác. Ví dụ: A ép buộc B phải dùng tay cầm vào dương vật của

mình để A đi vệ sinh. Hành vi này của A sẽ không bị coi là hành vi quan hệ

tình dục khác vì nó không nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục, mà có thể xem

xét về hành vi làm nhục người khác... Tuy nhiên, ranh giới của hành vi trên

58

với việc đối tượng bắt ép nạn nhân dùng tay phải kích thích dương vật của

mình nhằm thỏa mãn tình dục là rất mong manh, nhất là khi nạn nhân chưa

thực hiện các hành động kích dục và đối tượng chưa xuất tinh, thì vấn đề

chứng minh mục đích thỏa mãn nhu cầu tình dục là khó khăn nếu đối tượng

sẽ không thừa nhận mục đích thỏa mãn tình dục của mình mà có thể lấy lý do

là mâu thuẫn muốn trả thù, làm nhục nạn nhân… Vấn đề này đòi hỏi các cơ

quan tiến hành tố tụng cần phải đánh giá, xem xét rất toàn diện về các tình tiết

của vụ án để chứng minh được động cơ, mục đích của người phạm tội.

Vậy “hành vi quan hệ tình dục khác” nên được hiểu theo nghĩa nào cho

phù hợp và phân biệt được với hành vi dâm ô. Tác giả cho rằng, khi nói đến

hành vi quan hệ tình dục thì phải có sự tham gia của bộ phận sinh dục, có thể

là bộ phận sinh dục nam (dương vật) hoặc bộ phận sinh dục nữ. Nếu một hành

vi đụng chạm vào những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể nhưng không phải là

bộ phận sinh dục thì không thể bị coi là hành vi quan hệ tình dục khác. Ví dụ:

Dùng tay kích thích vào hậu môn; dùng miệng kích thích vào ngực… Tuy

nhiên, nếu mô tả cụ thể hành vi nào là quan hệ tình dục khác, hành vi nào là

dâm ô trong nhiều trường hợp là rất khó khăn. Ví dụ: Dùng miệng hôn vào bộ

phận sinh dục có thể đánh giá là dâm ô, nhưng nếu dùng lưỡi liếm vào bộ

phận sinh dục có thể đánh giá là hành vi quan hệ tình dục khác; hay nếu dùng

tay cầm, nắm, vuốt ve vào bộ phận sinh dục được cho là dâm ô, nhưng dùng

tay mà “kích dục” (cọ sát, chà sát hoặc thâm nhập) vào bộ phận sinh dục có

thể đánh giá là hành vi quan hệ tình dục khác… Do đó khi giải thích thuật ngữ

“hành vi quan hệ tình dục khác” nên theo hướng khái quát và các cơ quan tiến

hành tố tụng trong từng vụ việc sẽ đánh giá, xem xét, cân nhắc để xác định đó

có phải là hành vi quan hệ tình dục khác không, phản ánh bản chất của hành

vi phạm tội và động cơ, mục đích của người phạm tội.

Với những phân tích, đánh giá trên, có thể đưa định nghĩa :“Hành vi

quan hệ tình dục khác là những hành vi quan hệ tình dục không phải là giao

59

cấu nhưng vẫn nhằm làm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội, có

sự cọ sát, chà sát hoặc thâm nhập của bộ phận sinh dục hoặc vào bộ phận

sinh dục”.

Ví dụ: Người phạm tội sử dụng tay, chân, lưỡi, miệng, các dụng cụ tình

dục hoặc bất cứ công cụ nào khác để cọ sát, thâm nhập, kích thích âm đạo,

dương vật của người bị hại hoặc người phạm tội đưa bộ phận sinh dục của

mình vào miệng hoặc hậu môn của người bị hại…

Thứ ba, giải thích trường hợp lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được

của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 142.

Theo Nghị quyết 06/2019/NQHĐTP “Lợi dụng tình trạng không thể tự

vệ được của nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại

đang bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn, bị ngất hay bị mê man, bất tỉnh do sử dụng

các chất kích thích (như: rượu, bia, ma túy, thuốc an thần hoặc các chất kích

thích khác) hoặc bị tâm thần dẫn đế không thể chống cự được để giao cấu

hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”.

Nghị quyết đã nêu ra được những trường hợp phổ biến xảy ra trên thực

tế về dạng hành vi này. Tuy nhiên nếu quy định chính xác, cụ thể những trường

hợp được viện dẫn trên liệu có phản ánh đầy đủ hết được những khả năng phát

sinh trong thực tiễn hay không? Ví dụ: Người phạm tội lén lút, bí mật lợi dụng

lúc gia đình không chú ý, đã bắt cóc đứa trẻ 10 tháng tuổi. Sau đó, đối tượng

giao cấu với đứa trẻ đó. Vậy đây có được coi là lợi dụng tình trạng không thể

tự vệ được của nạn nhân để giao cấu hay không? Tác giả cho rằng, đây thuộc

trường hợp lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân nhằm mục

đích giao cấu. Do đó, dự thảo nên quy định theo hướng giải thích ngắn gọn và ví

dụ một vài trường hợp phổ biến xảy ra trên thực tế, chứ không nên quy định

chính xác, cụ thể chỉ bao gồm những trường hợp trên.

Đối với trường hợp hiếp dâm người bị tâm thần. Đây là trường hợp mà

thực tiễn xét xử cũng gặp phải nhiều khó khăn, liên quan đến việc giám định

60

xem nạn nhân có phải là người tâm thần hay không và thời điểm đối tượng

thực hiện hành vi phạm tội thì nạn nhân có nhận thức được việc mình đang bị

xâm hại hay không. Một người có tiền sử bệnh tâm thần, không phải họ luôn

không nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình mà vẫn có những khoảng

thời gian nhất định họ vẫn nhận thức và điều khiển được hành vi của mình

hoặc chỉ hạn chế việc đó. Vậy người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu khi

nạn nhân là người có tiền sử bệnh tâm thần và họ nhận thức, điều khiển được

hành vi của mình, không chống cự gì đối với người phạm tội nhưng ngay sau

đó họ lại không nhận thức được thì đối tượng có phạm tội hiếp dâm không?

Và cơ quan chuyên môn có thể giám định chính xác được thời điểm người

phạm tội thực hiện hành vi thì nạn nhân có khả năng nhận thức và điều khiển

hành vi hay không? Lời khai của một người tâm thần rất khó được xác định

là chứng cứ để buộc tội người khác?... Điều này làm cho hoạt động điều tra,

xử lý đối tượng rất khó khăn. Tác giả cho rằng, người tâm thần (đang bị tâm

thần hoặc đã có tiền sử về bệnh tâm thân) là những người không có khả năng

tự vệ. Nếu quy định “người bị tâm thần dẫn đến không thể chống cự được”

như trong dự thảo sẽ không bảo vệ tốt nhất cho những người đang hoặc có

tiền sử về bệnh tâm thần. Nhiều trường hợp sau khi bị đối tượng xâm hại tình

dục, nạn nhân đã trở nên hoang tưởng, rối loạn tâm thần hoặc hành vi, tình

trạng bệnh tâm thần trở nên nghiêm trọng. Do đó, một người giao cấu hoặc

thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tâm thần (đang bị tâm thần

tức là không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi hoặc đã có tiền

sử về bệnh tâm thần) mà người phạm tội biết rõ thì người đó phạm tội hiếp

dâm. Với những phân tích, đánh giá trên, có thể hướng dẫn trường hợp: “Lợi

dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều

141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là việc người phạm tội lợi dụng

tình trạng nạn nhân không có đủ điều kiện, khả năng bảo vệ bản thân, chống

cự lại đối với hành vi xâm hại của người phạm tội để giao cấu hoặc thực hiện

61

hành vi quan hệ tình dục khác. Ví dụ: Người phạm tội biết rõ nạn nhân là

người tâm thần và lợi dụng tình trạng đó để giao cấu hoặc thực hiện hành vi

quan hệ tình dục khác; người phạm tội lợi dụng tình trạng nạn nhân bị ốm

đau, bệnh tật, tai nạn dẫn đến không có khả năng chống cự…”.

Thứ tư, giải thích thuật ngữ “thủ đoạn khác” khoản 1 Điều 142.

Theo Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP: “Thủ đoạn khác quy định tại

khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là những thủ đoạn

không phải dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không

thể tự vệ được của nạn nhân, như lừa gạt, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa nạt, cho nạn

nhân sử dụng rượu bia, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích hoặc các chất

kích thích khác để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”.

Nghị quyết đã nêu ra rất nhiều thủ đoạn có thể xảy ra trên thực tế để

xác định dạng hành vi “thủ đoạn khác” trong tội hiếp dâm và tội hiếp dâm

người dưới 16 tuổi. Những thủ đọa khác này cũng có thể là những thủ đoạn

mà người phạm tội có thể thực hiện trong tội cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm

người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Điểm mấu chốt để phân biệt trong trường

hợp này là trong tội hiếp dâm thì người phạm tội đã giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình khác “trái ý muốn” của nạn nhân; còn trong tội cưỡng

dâm thì nạn nhân chỉ “miễn cưỡng” giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ

tình dục khác, chứ không trái ý muốn, tức là nạn nhân vẫn có quyền lựa chọn

việc có cho đối tượng giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác

đối với mình hay không. Vậy một người có hành vi hứa hẹn, dụ dỗ nạn nhân

có thể dẫn đến việc người đó giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình

dục khác trái ý muốn với nạn nhân hay không. Tác giả chưa thể khẳng định là

không có nhưng để đưa ra một trường hợp cụ thể là khó. Thực tế cho thấy,

nhiều người trong quá trình đi chơi lên bar, đi hát karaoke đã rủ nhau sử dụng

chất ma túy rồi quan hệ tình dục với nhau. Nếu đối tượng muốn giao cấu trái

62

ý muốn với người khác nên rủ rê, dụ dỗ nạn nhân cùng sử dụng chất ma túy

để tạo kích thích, ham muốn tình dục và cùng nhau quan hệ tình dục thì việc

chứng minh có trái ý muốn nạn nhân hay là không thể.

Về bản chất của hành vi hiếp dâm đó là việc giao cấu hoặc thực hiện

hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn nạn nhân. Và dấu hiệu để nhận biết

việc “trái ý muốn” đó là do người phạm tội đã dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ

lực đối với nạn nhân hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn

nhân. Tuy nhiên, trên thực tế thủ đoạn phạm tội của người phạm tội là rất đa

dạng, nếu chỉ quy định 3 dạng hành vi nêu trên khó có thể xử lý triệt để được

những hành vi xâm phạm đến quyền được bảo hộ về nhân phẩm, danh dự của

người khác. Vì vậy cần phải quy định dạng hành vi thứ 4 là “thủ đoạn khác”

để xử lý người phạm tội trong những trường hợp mà nhà làm luật chưa thể dự

liệu hết được. Điều này cũng giống như dạng “hành vi khác làm cho người bị

tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được” trong tội cướp tài sản.

Do đó, việc liệt kê những trường hợp như trong cũng chưa đầy đủ và chưa

phản ánh rõ bản chất của tội hiếp dâm so với tội cưỡng dâm, tội giao cấu hoặc

thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16

tuổi… Tác giả cho rằng, khi nói đến thủ đoạn khác trong tội hiếp dâm, tội hiếp

dâm người dưới 16 tuổi thì thủ đoạn đó phải hướng đến việc làm cho nạn nhân

không thể chống cự được, tê liệt về tinh thần hoặc thể chất hoặc làm nạn nhân

không có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi giao cấu hoặc thực

hiện hành vi quan hệ tình dục khác của người phạm tội. Với sự phân tích, đánh

giá trên, có thể hướng dẫn: “Thủ đoạn khác quy định tại khoản 1 Điều 141 và

khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội dùng

bất kỳ thủ đoạn nào, không phải dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi

dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân nhưng làm cho nạn nhân

lâm vào tình trạng không thể tự vệ, chống cự được hoặc không có khả năng

biểu lộ ý chí của mình để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục

63

khác”.

Thứ năm, giải thích thuật ngữ “trái ý muốn của nạn nhân” quy định tại

khoản 1 Điều 142.

Nghị quyết 06/2019/NQHĐTP thì Trái ý muốn của nạn nhân quy định

tại khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là người bị

hại không đồng ý, miễn cưỡng hoặc không có khả năng biểu lộ ý chí của mình

đối với hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác của người phạm

tội nhưng người phạm tội vẫn cố ý thực hiện”.

Tác giả cho rằng, “trái ý muốn” không thể được hiểu theo nghĩa miễn

cưỡng đồng ý được. Nếu giải thích thuật ngữ “trái ý muốn” là “miễn cưỡng

đồng ý” trong tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi sẽ nhầm lẫn với

sự “miễn cưỡng” trong tội cưỡng dâm, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến

dưới 16 tuổi và không chính xác về nghĩa.

Với sự phân tích, đánh giá trên, có thể hướng dẫn:“Trái ý muốn của nạn

nhân quy định tại khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là

người bị hại không đồng ý (không thuận tình) hoặc không có khả năng biểu lộ ý

chí của mình đối với hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác của

người phạm tội nhưng người phạm tội vẫn cố ý thực hiện”.

Thứ sáu, có tính chất loạn luân theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều

142 BLHS 2015.

Theo hướng dẫn trường hợp phạm tội có tính chất loạn luân được hướng

dẫn là một trong các trường hợp sau đây:

“a) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu

với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em

cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;

b) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu

với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế;

c) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu

64

với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể”.

Đối với trường hợp này, nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ thực tiễn cho

rằng không phù hợp, phạm vi điều chỉnh của trường hợp này là quá rộng và

không phù hợp với tội loạn luân (Điều 184). Theo đó, hành vi loạn luân là

hành vi của người có hành vi giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng

dòng máu trực về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha

khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay có nhiều vụ

án mà giữa người phạm tội và người bị hại có mối quan hệ là con dâu, bố

chồng, mẹ vợ, con rể, con riêng của vợ hoặc chồng, bố dượng, mẹ kế. Điều

này đã gây ra nhiều bức xúc trong dư luận xã hội, làm phá vỡ trật tự đạo đức

xã hội, đạo đức trong gia đình, phá hoại hạnh phúc gia đình. Tác giả cho rằng,

trường hợp người phạm tội và người bị hại có mối quan hệ là con riêng của

vợ hoặc của chồng, bố dượng, mẹ kế là hoàn toàn không cùng dòng máu trực

hệ, mối quan hệ này không mang tính chất trong gia đình một cách thực sự,

chính thống. Đối với trường hợp người phạm tội và người bị hại có mối quan

hệ con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể lại mang theo một tính chất khác, có tính

chất trong gia đình một cách thực sự, chính thống và hệ lụy gây ra cho gia

đình, xã hội hết sức nghiêm trọng, hạnh phúc gia đình sẽ bị ảnh hưởng, thậm

chí tan vỡ. Do đó, tác giả cho rằng, việc mở rộng phạm vi trong trường hợp

“có tính chất loạn luân” đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể là phù hợp,

đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thể hiện sự răn đe của pháp luật, nâng cao hiệu quả

phòng ngừa đối với các tội xâm phạm tình dục. Việc mở rộng phạm vi như

vậy cũng không mâu thuẫn với tội loạn luân (Điều 184), bởi vì đây là văn bản

hướng dẫn đối với các tội phạm quy định từ Điều 141 đến Điều 147. Song

thời gian tới, đối với tội loạn luân cũng nêu được điều chỉnh, bổ sung theo

hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh như vậy cho phù hợp, thống nhất về tư

duy, kỹ thuật lập pháp.

Với sự phân tích, đánh giá trên, có thể hướng dẫn: “Có tính chất loạn

65

luân quy định tại điểme khoản 2 Điều 141, điểm a khoản 2 Điều 142, điểm d

khoản 2 Điều 143 và điểm a khoản 2 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là một

trong các trường hợp sau đây:

a) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu

với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em

cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;

b) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu

với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể”.

3.2.2. Các giải pháp khác

Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh, phòng ngừa tội phạm xâm hại

tình dục trẻ em, cần có sự áp dụng trên mọi mặt của đời sống xã hội như: kinh

tế, chính trị, văn hóa, giáo dục... có sự tham gia của tất cả các lực lượng trong

xã hội bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đoàn thể và quần

chúng nhân dân nhằm xóa bỏ những hiện tượng tiêu cực được xác định là

nguyên nhân, điều kiện của tội phạm này. Đây là biện pháp phòng ngừa mang

tính quần chúng rộng rãi, được tiến hành bằng các biện pháp xây dựng môi

trường xã hội lành mạnh. Quá trình này tạo nên tiền đề về vật chất, tư tưởng và

tinh thần nhằm xoá bỏ những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh hành vi

phạm tội. Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền và nghĩa vụ tham gia công

tác phòng ngừa xã hội với tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Giải pháp đến từ

các hoạt động điều tra truy tố.

Bộ luật hình sự đang có hiệu lực nhìn chung đã đáp ứng yêu cầu đấu

tranh phòng chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Tuy nhiên, trong bối

cảnh mới, xã hội phát triển với nhiều hình thức, thủ đoạn phạm tội mới cho nên

một số quy định của pháp luật đã bộc lộ những bất cập, cần nghiên cứu, hoàn

thiện bổ sung. Vì vậy để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong hoạt động điều tra

truy tố, xét xử các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em thì nên thực hiện một số

66

giải pháp sau đây:

Thứ nhất, phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành

tố tụng và các cơ quan nhà nước có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự

có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em, thực hiện tốt công tác thực thi pháp luật.

Thứ hai, các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra cần phối

hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để làm tốt công tác thuyết phục nạn

nhân là trẻ em và gia đình không che dấu do tâm lý sợ hãi, xấu hổ để họ giúp

đỡ trong việc thu thập chứng cứ của vụ án, nâng cao chất lượng giải quyết vụ

án và tăng cường tính răn đe khi các vụ án đều được giải quyết triệt để.

Thứ ba, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm người tiến

hành tố tụng, không bao che cho kẻ có tội khi giải quyết vụ án hình sự có tội

danh xâm phạm tình dục trẻ em.

Đối với tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong thời gian tới, theo chúng

tôi cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường nhận thức đúng đắn về lý luận, pháp luật và áp dụng

pháp luật đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thông qua công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hình sự, hôn nhân gia đình, về chăm

sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em và phòng chống xâm hại tình dục cho đồng bào

dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, vùng đặc biệt khó

khăn. Đẩy mạnh hơn hoạt động thông tin, tuyên truyền Chiến lược Quốc gia về

bình đẳng giới giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020. Việc tuyên truyền, phổ biến

pháp luật này phải có kế hoạch, lộ trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể, trong đó chú

trọng đến việc lồng ghép nội dung tuyên truyền trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ

dân phố; chương trình ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các

tổ chức, đoàn thể các cấp để mọi cá nhân thấy rõ tính nghiêm minh của luật pháp,

tự giác tuân thủ pháp luật. Đồng thời, công tác tuyên truyền cũng làm cần làm cho

mọi cá nhân hiểu rõ hành vi hiếp dâm là một tội ác và cần lên án gay gắt, tự đó có

67

ý thức tiếp thu, chủ động trang bị cho mọi người (đặc biệt là trẻ em) những kiến

thức, kĩ năng phòng vệ, xử lý tình huống trong các trường hợp bị kẻ xấu dụ dỗ,

xâm hại.

Thứ hai, nghiên cứu, đưa ra bộ chỉ số thống kê tội phạm xâm hại tình

dục trẻ em để phục vụ công tác đấu tranh phòng chống; dự báo tình hình, từ đó

có các giải pháp phòng ngừa, bảo vệ trẻ em trước những hành vi xâm hại, nhất

là đối với nhóm trẻ có nguy cơ bị xâm hại cao như trẻ em đường phố, lang

thang cơ nhỡ, trẻ em nam là nạn nhân của xâm hại tình dục. Cần quy định về

quy trình, trách nhiệm đánh giá nguy cơ và quản lý trường hợp trẻ em bị xâm

hại cũng như những quy định cụ thể về tiêu chuẩn đánh giá mức độ nguy cơ

gây tổn hại cho trẻ em của các hành vi bị xâm hại đối với trẻ em.

Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện những hệ thống quy trình, tiêu chuẩn,

biên pháp bảo vệ trẻ em bị xâm hại một cách hiệu quả; thống nhất và tăng cường

các hoạt động phối hợp liên ngành để xác định, điều tra, xử lý mỗi trường hợp

trẻ em bị xâm hại, trong đó cần quy định cụ thể, chi tiết, đầy đủ các thủ tục, quy

trình và trách nhiệm phòng ngừa, phát hiện, tố giác, trợ giúp, giải cứu và giải

quyết những trường hợp trẻ em bị xâm hại của cơ quan nhà nước, tổ chức xã

hội, nhà trường, gia đình, cá nhân có liên quan. Cần thành lập những trung tâm

tư vấn về tâm lý để giúp cho nạn nhân có thể chia sẻ, chữa trị các vấn đề tâm

lý, việc tư vấn sẽ giúp họ có thể quên quá khứ, hướng tới tương lai, từ đó có

thể dần dần sống thanh thản hơn và hoà nhập được vào cuộc sống của cộng

đồng. Hiện nay, việc vận động các nguồn hỗ trợ từ cộng đồng để thành lập

những "ngôi làng" – tổ chức giải cứu, nuôi dưỡng và trợ giúp xây dựng tương

lai cho những trẻ bị xâm hại tình dục hoặc có nguy cơ cao trở thành nạn nhân

khai thác tình dục trẻ em đã xuất hiện và đã mang lại hiệu quả tốt, giúp các em

trở về với cuộc sống bình thường, vượt qua mặc cảm, nỗi ám ảnh của quá khứ8.

68

8 https://thanhnien.vn/thoi-su/het-long-vi-nguoi-dung-nguoi-giai-cuu-tre-bi-xam-hai-1121944.html (Truy cập ngày 05/09/2020).

Những việc làm này cần được khuyến khích, nhân rộng dưới sự kiểm soát của

xã hội.

Thứ tư, chủ động xác minh, nắm tình hình, diễn biến hoạt động của tội

phạm xâm hại tình dục trẻ em, có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn, theo sát và

quản lý chặt chẽ số lượng thanh thiếu niên chậm tiến, từng có tiền án, tiền sự,

các băng nhóm trên địa bàn và các đối tượng khác có nguy cơ hay xu hướng

thực hiện hành vi xâm phạm tình dục. Hỗ trợ vật chất cho những gia đình trẻ

em gái bị xâm hại tình dục thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo.

Thứ năm, tăng cường điều tra, xử lý tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

kết hợp với công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật trong thanh thiếu

niên, học sinh và vận động nhân dân phát hiện, tố giác kịp thời các hành vi xâm

hại trẻ em, trong đó có phương pháp kết nối, khuyến khích gia đình và trẻ em

là nạn nhân tố giác tội phạm. Đối với người phạm tội cần phải bị xử lý nghiêm

khắc, kịp thời và đúng pháp luật, nêu cao tinh thần kiên quyết đấu tranh đến cùng

để không bỏ lọt tội phạm. Tổ chức tốt các phiên tòa lưu động đối với các vụ án

xâm hại tình dục trẻ em nhưng phải đảm bảo thuần phong mỹ tục, danh tính và bí

mật đời tư của nạn nhân phải được tôn trọng và bảo đảm không gây ảnh hưởng

đến đời sống sinh hoạt bình thường tại địa phương

Thứ sáu, tăng cường sự quản lý của nhà nước về trật tự xã hội, thường

xuyên thực hiện công tác kiểm tra đột xuất những cơ sở hoạt động dịch vụ văn

hóa, giải trí để ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với mọi

hành vi tuyên truyền, phát hành văn hóa phẩm đồi trụy dưới mọi hình thức. Rà

soát, đánh giá một cách toàn diện hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan

đến việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em để từ đó có sự bổ sung, điều chỉnh phù hợp

với tình hình phát triển của các quan hệ xã hội. Tăng cường quản lý nhà nước

về trật tự xã hội, kiên quyết xử lý những tụ điểm phức tạp gây mất trật tự trị an,

đặc biệt là các nhà hàng, quán hát, vũ trường, điểm matsage, quán Internet có tổ

69

chức hoặc cho người sử dụng truy cập vào những trang web xấu có nội dung khiêu

dâm, kích động tình dục, bạo lực, tuyên truyền lối sống phi đạo đức, đưa đến

những nhận thức sai lệch về hành vi xã hội.

Thứ bảy, cần tăng cường công tác hợp tác quốc tế giữa các nước, các tổ

chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ nhất là các quốc gia có chung đường

biên giới với nước ta như Trung Quốc, Lào, Camphuchia để chia sẻ kinh

nghiệm, trao đổi thông tin cần thiết nhằm hỗ trợ các nạn nhân bị xâm hại, trường

70

hợp cần thiết cần can thiệp đưa các em trở lại với gia đình.

Tiếu kết chương 3

Xuất phát từ chính tình hình thực tiễn định tội danh và áp dụng các biện

pháp trách nhiệm hình sự đối với tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn

thành phố Hà Nội, tác giả đã chỉ ra và phân tích những hạn chế, khó khăn cũng

như những vướng mắc trong quá trình định tội danh và quyết định quyết định

trách nhiệm hình sự. Từ đó, thông qua Chương 3 này tác giả đã trình bày, phân

tích các yêu cầu áp dụng pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi,

trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp

luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong thực tế trên phạm vi cả

nước nói chung và tại địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng.

Từ các giải pháp mang tính nền tảng, yêu cầu cần có sự phù hợp trong các

quy định của pháp luật hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật củ

thể, rõ ràng để giải thích rõ hơn và có cách hiểu thống nhất các quy định của

pháp luật, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử để đưa ra những kinh

nghiệm cần thiết trong thực tiễn hoạt động xét xử cũng như đồng bộ cách xử lý

một số trường hợp đặc biệt mà trước đây có sự khác nhau trong cách hiểu và

áp dụng.

Nhà nước cần chú trọng và dành sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công

tác nâng cao chất lượng đội ngũ áp dụng pháp luật, đặc biệt chú ý là nghiệp vụ

và kiến thức pháp luật của Hội thẩm nhân dân, bên cạnh vấn đề chuyên môn còn

cần chú tâm đến đạo đức hành nghề. Đồng thời công tác tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật cho người dân, nâng cao mặt bằng dân trí về nhận thức pháp

luật cần tiếp tục được coi trọng vì bản thân pháp luật đã mang chức năng giáo dục,

tất yếu người có hiểu biết pháp luật sẽ có ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn đa số

người có hiểu biết pháp luật hạn chế.

Ngoài ra cũng phải rèn luyện cho trẻ em những kỹ năng sống cần thiết để

71

các em có thể tự bảo vệ bản thân trong các tình huống cấp thiết cùng với đó

phải tăng cường sự giám sát của gia đình và xã hội. Qua đó giúp cho các em có

môi trường sống phát triển thuận lợi và có thể phát huy tối đa khả năng của

mình.

Từ đó, góp phần to lớn vào việc đưa pháp luật áp dụng sâu rộng trong đời

sống xã hội một cách phù hợp, đúng đắn và có hiệu quả. Đồng thời, giúp nâng

cao niềm tin của nhân dân cả nước cũng như ổn định trật tự xã hội, xã hội ngày

72

một tiến bộ và phát triển bền vững hơn.

KẾT LUẬN

Đi từ thực tiễn tình hình tội phạm xâm hại tình dục nói chung và tội Hiếp

dâm người dưới 16 tuổi nói riêng tại thành phố Hà Nội, quá trình thu thập thông

tin, nghiên cứu công tác xử lý tội phạm còn có nhiều hạn chế, vướng mắc, vấn

đề áp dụng pháp luật thiếu thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan tiến hành tố

tụng trong công tác xử lý tội phạm đã dẫn đến hậu quả án bị hủy, thay đổi thành

tội danh khác và hình phạt còn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số những vụ án

đã được tiến hành xử lý.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả trên, trong đó có nguyên nhân

khách quan và nguyên nhân chủ quan, mỗi nguyên nhân đều dẫn đến hậu quả

nhất định mà người gánh chịu hậu quả trước tiên là người bị kết án và những

em bé bị hiếp dâm cũng tổn thương rất nhiều về tâm lý và cuộc sống của các

em cũng sẽ bị đảo lộn rất nhiều bên cạnh đó là người làm công tác giải quyết

vụ án cũng sẽ phải hứng chịu những kết quả đó.

Do vậy, từ sự đánh giá tình hình thực tiễn cùng với các quy định của pháp

luật hình sự hiện hành về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tác giả đưa vấn đề

này vào đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, bởi tác giả nhận thấy rằng

đây là một vấn đề rất nóng, nhận sự quan tâm chú ý của toàn xã hội, tội phạm

xảy ra không chỉ riêng tại thành phố Hà Nội mà còn ở hầu như khắp các địa

phương khác trên cả nước và ngày càng có những tình tiết phức tạp, gây tranh

cãi về mặt pháp lý khi tiến hành giải quyết. Trong phạm vi luận văn, tác giả đã

có thể đưa ra những khái quát, đánh giá và phân tích chung nhất về tình hình

tôi phạm xâm hại tình dục, trong đó lấy tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi làm

trọng tâm.

Tại mở đầu luận văn này, tác giả đã giới thiệu khái quát một số vấn đề

chung liên quan cũng như lý do tại sao lựa chọn chủ đề “Tội hiếp dâm trẻ em

từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Đồng

thời, các vấn đề khác như tình hình nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên

cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp luận và phương pháp

nghiên cứu, ý nghĩa của luận văn cũng được tác giả trình bày cụ thể.

Phần nội dung của luận văn bao gồm ba chương, thông qua nội dung mỗi

chương, tác giả đã đưa đến những đánh giá khái quát và phân tích cụ thể các

vấn đề trong phạm vi nghiên cứu đề tài.

Chương 1 nêu ra những vấn lý luận và pháp luật về tội Hiếp dâm người

dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam, đây là cơ sở lý luận về mặt khoa

học pháp lý và pháp luật được áp dụng cho việc xử lý tội đối với tội danh này,

là nền tảng cho các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng vào thực tiễn khi giải

quyết các vụ án, đồng thời giúp cho người có nhu cầu tìm hiểu pháp luật có

hiểu biết cơ bản tổng quan nhất về tội danh Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Chương 2 của luận văn là phân tích và đánh giá thực tiễn công tác định

tội danh và áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự, căn cứ vào số liệu tổng

hợp của ngành Tòa án thành phố Hà Nội tác giả đã thống kê lại những điểm

cần lưu ý đối với tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, minh họa bằng các ví dụ từ

việc trích dẫn bản án màtòa án đã ban hành trong việc xử lý tội phạm, từ đó đã

làm rõ công tác định tội danh dựa trên phần lý luận tại Chương 1 cũng như áp

dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự theo quy định đối với tội danh này. Từ

đó rút ra nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như

những hạn chế và nguyên nhân của thực tiễn đó, làm cơ sở để nghiên cứu, kiến

nghị các giải pháp được nêu trong nội dung của Chương 3.

Chương 3 là những quan điểm đánh giá của cá nhân tác giả về các yêu

cầu và giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng đúng đắn pháp luật hình sự về tội

Hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Phần các giải pháp cụ thể được chia làm 3 nhóm

giải pháp chính, gồm: Giải pháp về mặt pháp lý, các yêu cầu đối với pháp luật

cần sớm đáp ứng và khắc phục những thiếu sót, hạn chế và tồn tại trong việc

áp dụng pháp luật hiện nay; Giải pháp về tổ chức đội ngũ cán bộ và trách nhiệm

công tác, bên cạnh sự đồng tình với quan điểm của hầu hết các tác giả nghiên

cứu có đề tài tương tự, tác giả đã bổ sung thêm các kiến nghị mới, phù hợp với

thực tiễn hiện nay của đất nước; tác giả dành sự quan tâm và đề cao tính thiết

thực của các hội thảo khoa học chuyên ngành, hội thảo khoa học theo đề tài để

từ đó nâng cao kiến thức, góc nhìn và quan điểm thống nhất đúng đắn đối với

khoa học pháp lý nói chung và với tội danh Hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói

riêng.

Qua đề tài “Tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” tác giả

hy vọng có thể đóng góp một phần nào đó giúp các cơ quan chức năng vận

dụng chính xác quy định pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi

trên thực tiễn trên phạm vi cả nước nói chung và tại thành phố Hà Nội nói riêng,

khắc phục những hạn chế mà luận văn đã nêu ra trong quá trình xử lý vụ án, từ

đó hạn chế được việc hủy, sửa các bản án về tội danh này. Giúp pháp luật song

hành cùng cuộc sống và mang lại hiệu quả trong việc đấu tranh với tội phạm,

tạo niềm tin vào pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và sự phối hợp,

ủng hộ của mỗi người dân trong công tác phòng chống tội phạm Hiếp dâm

người dưới 16 tuổi.

Đây được đánh giá là đề tài có phạm vi nghiên rộng, nội dung phức tạp,

gây khó khăn với cả chuyên viên pháp luật và người từng công tác lâu năm

trong cơ quan có thẩm quyền, có rất nhiều tranh luận trái chiều, song lại ít tài

liệu tham khảo, lý luận và thực tiễn có nhiều điểm chưa tương thích, thống nhất

với nhau. Chính bản thân tác giả nhận thấy mình còn nhiều hạn chế về kinh

nghiệm trên thực tiễn, thời gian nghiên cứu khá gấp, do đó không thể tránh khỏi

những hạn chế và thiếu sót nhất định. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến

đóng góp quý báu của Quý thầy cô cùng các bạn để luận văn này được hoàn

thiện, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng và nhà nước luôn quan

tâm và nỗ lực thực hiện.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;

2. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997;

3. Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999;

4. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

5. Luật Trẻ em năm 2016;

6. Nghị quyết số 06/2019/NQ-HPTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét

xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi ngày 01/10/2019 của Hội

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

7. Vũ Hải Anh (2017) Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con

ngườitheo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện

Khoa học Xã hội;

8. Ban chỉ đạo tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự (1999)Tài liệu tập huấn

chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội;

9. Hoàng Thị Thanh Hà (2015) Các tội xâm hại tình dục theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Học

viện khoa học xã hội;

10. Nguyễn Minh Hương (2014) Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong Luật

hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội;

11. Trịnh Thị Thu Hương (2004) Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật

hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, Luận văn

thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;

12. Trần Hà Bảo Khuyên (2015) “Về quy định đối với các tội hiếp dâm - hiếp

dâm trẻ em”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 11), tr.31;

13. Nguyễn Đình Lộc (2000)“Bộ luật Hình sự mới (năm 1999) và một số vấn

đề cần quan tâm”,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề về Bộ luật

Hình sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1999)), tr.12;

14. Trần Văn Luyện (2000) Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân

phẩm, danh dự của con người, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

15. Uông Chu Lưu(chủ biên) (2004) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

1999 Phần các tội phạm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;

16. Dương Tuyết Miên (2015) “Bình luận các tội phạm về tình dục trong

chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con

người trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Dân chủ và pháp

luật, (số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự), tr.29;

17. Bùi Thị Hằng Nga (2016) Tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em theo pháp luật

hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sỹ luật học,

Học viện Khoa học xã hội;

18. Đinh Văn Quế (2002) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội

phạm, Nxb thành phố Hồ Chí Minh;

19. Công Tâm (2012) “Luật bỏ ngỏ hành vi hiếp dâm bé trai”, Báo Pháp luật

Việt Nam, (số ra ngày 19/11/2012);

20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009) Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp

luật, Nxb.CAND, Hà Nội;

21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam

(tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

22. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016) Tài liệu tập huấn Bộ luật hình sự

năm 2015, Tập thể tác giả, Hà Nội;

23. Trương Quang Vinh (Chủ biên) (2008) Tội phạm trong Hoàng Việt luật lệ,

Nxb. Tư pháp, Hà Nội;

24. Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội

phạm), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

25. Võ Khánh Vinh (2013) Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội;

26. Võ Khánh Vinh (2011) Xã hội học pháp luật - Những vấn đề cơ bản, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội;

27. ThS. Vũ Hải Anh, Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm tội

hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân, Tạp chí Nghề Luật,

Số 1/2015;

28. TS. Dương Tuyết Miên, Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội

hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, Trường Đại học Luật

Hà Nội Số Đặc san về bình đẳng giới, Hà Nội – 2005;

29. Th.S Vũ Hải Anh, “Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm Tội

hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân”, Tạp chí Nghề

luật, Số 1/2015, Tr.43-47.

30. http://www.canhsatnhandan.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/6208/Toi-

hiep-dam-nguoi-duoi-16-tuoi-trong-lich-su-phap-luat-hinh-su-Viet-Nam;

31. http://cand.com.vn/Ban-tin-113/Ban-an-chung-than-danh-cho-ga-do-te-o-

huyen-Chuong-My-561060/;

32. https://thanhnien.vn/thoi-su/het-long-vi-nguoi-dung-nguoi-giai-cuu-tre-

bi-xam-hai-1121944.html;

33. Mô hình giải cứu trẻ em bị xâm hại tình dục:

https://www.onebodyvillage.org/.