VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THẾ ANH
TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THẾ ANH
TỘI HIẾP DÂM TRẺ EM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS ĐINH THẾ HƯNG
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn “Tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” là công
trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của TS Đinh Thế
Hưng.
Tôi xin cam đoan số liệu, thông tin và trích dẫn trong luận văn bảo đảm
độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác, các thông tin và tài liệu
trích dẫn trong luận văn được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
TRẦN THẾ ANH
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 .......................................................................................................... 6
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI ................................................................................. 6
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi. ................................................................................................................ 6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt nam về Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. ......................... 22
Chương 2 ........................................................................................................ 31
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................. 31
2.1. Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi. .............................................................................. 31
2.2. Thực tiễn định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn
Thành phố Hà Nội. ...................................................................................... 36
2.3. Những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội. ............................................. 43
2.4. Nguyên nhân của những vướng mắc khi áp dụng pháp luật về Tội hiếp
1
dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội. ........................... 48
Chương 3 ........................................................................................................ 52
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ĐẮN
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI 52
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................................................. 52
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi. ................................................................................................ 52
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi. .............................................................................. 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
CTTP Cấu thành tội phạm
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TNHS Trách nhiệm hình sự
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
3
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là đối tượng cần sự bảo vệ của toàn xã hội. Thực tiễn hiện nay,
nhóm trẻ bị xâm hại tình dục ngày càng diễn biến phức tạp cả về quy mô và
cách thức thực hiện. Xâm hại tình dục trẻ em đang là vấn nạn trên toàn Việt
Nam, hậu quả mà các em phải gánh chịu có thể là những tổn thất về sức khỏe
thể chất và tinh thần, làm giảm khả năng học tập, hòa nhập xã hội và thậm chí
có thể hủy hoại các em, ảnh hưởng đến việc trở thành con người tốt, trở thành
cha mẹ tốt trong tương lai. Từ 1/1/2015 đến 30/6/2019, cả nước đã phát hiện,
xử lý 8.442 vụ xâm hại trẻ em, với 8.709 trẻ bị xâm hại (1.672 trẻ em nam,
7.037 trẻ em nữ). Trong đó, số trẻ em bị xâm hại tình dục là 6.432 em; bạo lực
857 em; mua bán, bắt cóc, chiếm đoạt 106 em; các hình thức xâm hại khác là
1.314 em.
Riêng trong 6 tháng đầu năm 2019, số trẻ em bị xâm hại tăng đột biến,
với 1.400 trẻ bị xâm hại, gần bằng 80% số lượng trẻ em bị xâm hại trong cả
năm 2018 (1.779 trẻ). Tính trung bình, cứ 1 ngày cả nước có 7 trẻ em bị xâm
hại. Sự gia tăng đột biến này một phần phản ánh thực tế các vụ xâm hại trẻ em
ngày càng tăng, một phần do người dân, trẻ em chưa có ý thức hơn trong việc
tố giác, tố cáo hành vi xâm hại trẻ em, đồng thời công tác phát hiện, xử lý hành
vi xâm hại trẻ em cũng chưa được tăng cường hơn giai đoạn trước. Hình thức
xâm hại phổ biến nhất, để lại hậu quả nặng nề và gây bức xúc nhất, nổi lên
trong giai đoạn này là xâm hại tình dục, gần đây với số liệu thống kê cho thấy
6.364 vụ và 6.432 trẻ em là nạn nhân, chiếm tới 75,4% tổng số vụ xâm hại trẻ
em được công an các cấp tiếp nhận.
Trong đó có 2.191 trẻ bị hiếp dâm, 31 trẻ bị cưỡng dâm, 1.096 bị dâm ô,
3.114 trẻ bị giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Cá biệt, có
nhiều địa phương, số vụ trẻ em bị xâm hại tình dục chiếm trên 90% tổng số trẻ em
1
bị xâm hại, như Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang, Bến Tre và Đồng Nai.
Những báo cáo gần đây cũng cho thấy được tình hình trẻ em bị xâm
hại trong thời gian tới tiếp tục diễn biến phức tạp, nghiêm trọng và có chiều
hướng gia tăng, gây tâm lý khủng hoảng cho nạn nhân, hoang mang trong xã
hội và làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội. Trong thực tế việc
áp dụng pháp luật đối với tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi còn gặp
rất nhiều khó khăn, hạn chế trong việc định tội danh, định khung và quyết định
hình phạt dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc hàm oan. Do đó việc tìm hiểu nghiên
cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi áp dụng pháp luật đối với
tội danh này là một vấn đề rất cần thiết, đặc biệt là việc nghiên cứu thực tiễn
tại Thành phố Hà Nội một địa bàn có nhiều vụ án Hiếp dâm trẻ em đã được xét
xử. Đây là lý do để tác giả lựa chọn Đề tài luận văn: “Tội hiếp dâm trẻ em từ
thực tiễn Thành phố Hà Nội”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có nhiều công trình nghiên cứu Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi ở nhiều
phương diện và cấp độ. Để nghiên cứu Đề tài luận văn, tác giả đã tham khảo
các nhóm công trình sau đây:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm tình dục trẻ em
nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng. Tội phạm này được
giới thiệu trong Chương “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người” trong giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm) của tập thể tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, xuất bản năm
2014 đã đưa ra các dấu hiệu pháp lý của xâm phạm tình dục trẻ em nói chung
và tội Hiếp dâm trẻ em nói riêng cũng như trách nhiệm hình sự đối với tội này.
Ngoài ra, tội phạm này cũng được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự
trong các luận văn thạc sĩ luật học như: Luận văn “Các tội phạm tình dục và
đấu tranh chống các tội này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Trịnh Thị
Thu Hương, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội, năm 2004.
Bên cạnh đó, có nhiều công trình nghiên cứu dưới dạng bài viết trên các
tạp chí khoa học pháp lý bàn về tội Hiếp dâm trẻ em. Đó là các công trình: “Trẻ
2
em, hiếp dâm trẻ em- TNHS đối với bị cáo và sự không hợp lý trong quy định
tại khoản 4 Điều 112 BLHS” của Tác giả Nguyễn Quang Thái trên Tạp chí
TAND, số 17/2011; bài viết “Truy cứu trách nhiệm hình sự tội hiếp dâm, hiếp
dâm trẻ em – khó khăn, vướng mắc và kiến nghị”, của tác giả Hoàng Quảng
Lực, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2014; Đặng Xuân Nam,“Trao đổi về tội
hiếp dâm theo Điều 111 Bộ luật hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 07/2009.
Ngoài ra phải kể các công trình nghiên cứu tội Hiếp dâm trẻ em ở các
địa bàn cụ thể như: Luận văn “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Văn Hùng ( năm 2014);
“Tội hiếp dâm theo pháp luật Hình Sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau”,
của tác giả Chung Văn Kết (năm 2015); “Định tội danh tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi từ thực tiễn tỉnh An Giang”, của tác giả Lại Văn Giang…..
Thứ hai, Luận văn được nghiên cứu từ phương diện khoa học luật hình sự
cụ thể là lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt, do đó, tác giả đã tham
khảo các công trình có liên quan đến vấn đề này Trước hết là Giáo trình Lý luận
chung về định tội danh GS. TS Võ Khánh Vinh chủ biên, NXB KHXH năm 2013.
Về quyết định hình phạt tác giải tham khảo các công trình sau đây: Quyết
định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam trong sách “Tội phạm học luật
hình sự và tố tụng hình sự” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, NXB Chính trị quốc
gia,1995; “Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”, Luận văn tiến
sĩ Luật học, Hà Nội (năm 2003) của tác giả Dương Tuyết Miên... Những công
trình này sẽ là cơ sở để tác giả tiếp cận đề tài “Tội hiếp dâm trẻ en từ thực tiễn
Thành phố Hà Nội”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi dưới góc độ luật hình sự nhằm hoàn thiện pháp luật, áp dụng đúng đắn,
hiệu quả quy định của pháp luật về tội này trong thực tiễn
3
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tập trung giải
quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu chính sách pháp luật về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
nói chung và Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;
- Nghiên cứu đặc điểm pháp lý hình sự của Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi và trách nhiệm hình sự đối với tội này;
- Nghiên cứu vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt về mặt lý luận
và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội;
- Kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Lý luận của khoa học luật hình sự về Tội hiếp dâm trẻ em trước đây và
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hiện nay, các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam, thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội danh của các cơ quan tư pháp
trên địa bàn Thành phố Hà Nội
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian: Từ 2015 - 2019
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong
chính sách hình sự về tội phạm và hình phạt. Trong quá trình nghiên cứu, tác
giả áp dụng và vận dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến như: phương
pháp phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu, diễn dịch, quy nạp, thống kê.
Bên cạnh đó còn có phương pháp tọa đàm trao đổi trực tiếp với một số điều tra
4
viên, kiểm sát viên có kinh nghiệm trong đấu tranh, phòng chống tội phạm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận: Luận văn xây dựng khái niệm Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi và làm sáng tỏ dấu hiệu hiệu pháp lý hình sự cũng như vấn đề trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm này trong BLHS Việt Nam. Sau khi luận văn hoàn
thành sẽ góp phần làm sáng tỏ, bổ sung và làm giàu cho khoa học luật hình sự
nói chung và lý luận về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong khoa học luật
hình sự Việt Nam nói riêng. Những kết quả này cũng có đóng góp cho việc
hoàn thiện pháp luật về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt
Nam, đóng góp vào xây dựng các hướng dẫn, giải thích pháp luật của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền
Về thực tiễn: Luận văn phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Thành phố Hà Nội,
làm rõ được khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật đối với tội
phạm này trong thực tiễn qua đó góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
7. Kết cấu của luận văn
Trong luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung có cấu trúc gồm 3 phần tương đương với các chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi tại Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn pháp
5
luật hình sự về Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi từ thực tiễn Thành phố Hà Nội.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi.
1.1.1. Khái niệm Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có đầy đủ tính chất của tội phạm. Trước
hết đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội
này thể hiện ở việc xâm phạm đến các quyền trẻ em. Trong mọi xã hội, trẻ em
đều là đối tượng được Nhà nước và xã hội dành sự quan tâm, chăm sóc, bảo vệ
đặc biệt, bởi trẻ em là thế hệ tương lai của mỗi quốc gia và của nhân loại. Vì
vậy, việc tạo mọi điều kiện tốt nhất cho sự phát triển bình thường về thể trạng
và đi tới sự phát triển một cách toàn diện về nhân cách, lối sống, nhận thức…
chính là việc bảo đảm cho trẻ em có được các quyền cơ bản như quyền được
bảo vệ và chăm sóc, đặc biệt là quyền được bảo vệ chống lại sự lạm dụng tình
dục. Trẻ em phải được bảo vệ, tránh khỏi mọi nguy cơ bị xâm hại tình dục dưới
các hình thức khác nhau. Lạm dụng tình dục trẻ em là một tội ác bị cả xã hội
lên án, bài trừ. Quyền này đã được quy định trong Hiến pháp Việt Nam: Trẻ
em được Nhà nước, gia đình, xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tạo
điều kiện tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm những hành vi xâm
hại, hành hạ, bóc lột sức lao động, bảo lực, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng và
những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành
vi Hiếp dâm trẻ em còn được thể hiện ở phương thức, thủ đoạn phạm tội đó là
việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
được của trẻ em để giao cấu hoặc có hành vi xâm phạm quan hệ khác với trẻ
em. Chính từ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi nên cũng giống như các
tội phạm khác, Tội hiếp dâm trẻ em được tội phạm hóa (quy định) trong Bộ
6
luật Hình sự Việt Nam với tên gọi là “Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi”. Ngoài
ra, Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi còn do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện và phải chịu hình phạt nghiêm khắc.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa: “Tội Hiếp dâm người dưới
16 tuổi là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS Việt Nam
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm
đến quyền được bảo vệ chống lại sự xâm phạm tình dục của trẻ em, các quyền
khác của trẻ em và phải chịu trách nhiệm hình sự nghiêm khắc.”
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi theo BLHS 2015.
* Khách thể:
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm phạm mà
các quan hệ xã hội đó đã được Bộ luật hình sự thừa nhận bảo vệ, hành vi xâm
phạm bị coi là tội phạm là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
quan hệ xã hội được xác định, tức là hành vi có tính nguy hiểm đáng kể cho xã
hội và các hành vi đó đã được xác định tại các điều luật của BLHS1. Có thể nói
việc xác định đúng khách thể (khách thể chung, khách thể loại, khách thể trực
tiếp) có vai trò quan trọng trong quá trình xác định tội danh, làm xác tỏ bản
chất của hành vi phạm tội.
Đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì quyền được bảo vệ thân thể,
được tôn trọng về nhân phẩm, danh dự của người dưới 16 tuổi chính là khách
thể. Mặt khác, hành vi này còn xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe, quá trình
phát triển bình thường, ổn định và lành mạnh ở trẻ, gây tác động tiêu cực đến
tâm, sinh lý của trẻ trong thời gian dài, hành vi này còn dẫn đến những ảnh
hưởng tiêu cực, gây tổn thương tinh thần người bị hại cũng như gia đình, người
thân của họ. Độ tuổi nạn nhân là đặc điểm phản ánh tính nguy hiểm của tội
phạm, được thể hiện rõ qua hành vi xâm hại của người phạm tội đối với mọi
7
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội – 2019, Tr.83
trẻ em dưới 16 tuổi, độ tuổi này của trẻ là độ tuổi mà vấn đề tâm, sinh lý
đang trong quá trình hoàn thiện, còn non nớt trong nhận thức chưa thể phân
biệt hành vi xâm hại, dễ bị dụ dỗ, đe dọa hoặc không đủ năng lực thể chất để
có thể phòng vê, chống cự lại người có hành vi xâm hại tình dục.
Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, khách thể trực tiếp là quyền
được tôn trọng nhân phẩm, danh dự và quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của trẻ em, ngoài ra tội phạm còn có thể xâm phạm đến quyền được tôn trọng
và bảo vệ tính mạng, sức khỏe của trẻ em. Tội này còn xâm phạm nghiêm trọng
đến đạo đức xã hội, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xâm phạm Công
ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam đã tham gia. Đối tượng tác động là
một trong những dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi, nó có ý nghĩa trong việc phân biệt tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi với
các tội danh khác về tình dục khác cũng như xác định khung hình phạt và quyết
định mức hình phạt.
Việc nạn nhân là đối tượng phụ thuộc nhiều về vật chất và tinh thần, nên
dễ bị lợi dụng để thực hiện hành vi hiếp dâm; trường hợp hiếp dâm có tính chất
loạn luân còn ảnh hưởng đến đạo đức xã hội, luân thường đạo lý. Khách thể bị
xâm hại còn có thể là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe như làm
nạn nhân có thai, nhiễm HIV, tâm lý bất ổn dẫn đến tự sát. Như vậy, một khi
khách thể bị xâm hại thì không chỉ nguy hại về thể chất và tinh thần mà còn
gây ảnh hưởng đến đến quyền nhân thân của người bị hại, đồng thời tác động
gây ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội khác được pháp luật hình sự
bảo vệ, đó là chính là trật tự an toàn xã hội.
Độ tuổi là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc phải xác định tuổi
của nạn nhân trên cơ sở các loại giấy tờ nhân thân của họ (giấy khai sinh, giấy
chứng sinh,…), nếu trường hợp không có giấy tờ nào thì phải dùng tất cả các
8
biện pháp để có thể xác định được tuổi thật của nạn nhân, trường hợp không
còn cách nào để xác định được thì phải áp dụng nguyên tắc có lợi cho người
phạm tội.
* Về mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, gồm những
biểu hiện của tội phạm diễn ra hay tồn tại bên ngoài thế giới khách quan2. Hiếp
dâm người dưới 16 tuổi là một trường hợp đặc biệt của Tội hiếp dâm. Theo lý
luận về cấu thành tội phạm Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi là Tội ghép. Theo
đó, dấu hiệu hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm được chia làm hai
loại:
- Loại thứ nhất, đối với người từ 13 đến chưa đủ 16 tuổi. Người phạm
tội ở trường hợp này thực hiện hành vi “Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc
lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ” hoặc “Giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi”.
- Loại thứ hai, đối với người chưa đủ 13 tuổi thì hành vi hiếp dâm có hai
trường hợp. Trường hợp 1, người phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực thủ đoạn khác nhằm giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác trái ý muốn
với người chưa đủ 13 tuổi. Trường hợp 2, đối với người chưa đủ 13 tuổi thì chỉ
cần có hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác (không cần hành vi dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác). Bởi lẽ đối tượng người chưa
đủ 13 tuôi là đối tượng yêu thế, không có khả năng bảo vệ mình nên chỉ cần
hành vi giao cấu với những người này cũng cấu thành tội phạm.
Từ đó, ta phân tích rõ hơn những dấu hiệu hành vi cụ thể:
Hành vi dùng vũ lực, là hành vi có mục đích là làm tê liệt hoặc vô hiệu
hóa sự kháng cự của nạn nhân để người thực hiện hành vi phạm tội tiến hành
9
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, NXB. Công an Nhân dân, Hà Nội – 2019, Tr.116.
việc giao cấu như: vật lộn, giữ chân tay, dùng hung khí de dọa, bịt mồm, dùng
dây trói, bóp cổ, đánh đấm…Thực tế có trường hợp nạn nhân bị dùng vũ lực
tới mức ngất xỉu (chưa chết), sau khi người phạm tội thực hiện xong hành vi
thì người nạn nhân mới chết, người phạm tội hiếp dâm còn phải chịu thêm tội
danh giết người do đã bỏ mặc hậu quả xảy ra dẫn đến chết người.
Hành vi đe dọa dùng vũ lực, là hành vi của một người dùng lời nói hoặc
hành động mang tính bạo lực uy hiếp tinh thần nạn nhân, làm cho nạn nhân sợ
hãi như: dọa giết chết, dọa tính mạng sức khỏe người thân, dọa đánh, dọa chém,
dọa bắn... làm cho nạn nhân không dám phản kháng lại, để cho người phạm tội
thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của mình. Hành vi đe dọa dùng vũ lực
ở đây bao gồm đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc và trường hợp đe dọa dùng vũ
lực thông thường do luật không quy định phân loại.
Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, là trường
hợp nạn nhân vì lý do nào đó mà đã rơi vào tình trạng bị mất kiểm soát nhận
thức và hành vi, nếu như bị người khác tấn công hoặc thực hiện hành vi giao
cấu thì không thể phản kháng lại được. Tình trạng này cũng có thể do chính
người phạm tội cố ý tạo ra cho nạn nhân nhằm mục đích thực hiện hành vi giao
cấu trái với ý muốn của họ. Ví dụ: Bỏ thuốc ngủ vào nước uống làm cho nạn
nhân sau khi uống vào sẽ bị ngủ thiếp đi và không biết điều gì xảy ra xung
quanh và đối với mình, người phạm tội lợi dụng lúc này để thực hiện hành vi
giao cấu, hoặc vì lý do khách quan khác như nạn nhân bị tai nạn, say rượu bia,
bệnh tâm thần,… nên không thể tự vệ được.
Hành vi dùng thủ đoạn khác, là những thủ đoạn mà pháp luật chưa dự
liệu trước được ngoài những hành vi được quy định trong cấu thành tội hiếp dâm
nêu trên. Quy định này mang tính mở nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng
chống và xử lý tội phạm này. Ví dụ: Cho nạn nhân sử dụng ma túy, thuốc kích
dục, xem phim người lớn, và hiện nay tình trạng các thầy lang, thầy cúng trị bệnh,
10
lợi dụng sự ít hiểu biết của người dân tộc, bịa chuyện chữa bệnh bằng cách cho
giao cấu với nhau thì mới trị hết bệnh; học sinh muốn học giỏi thi đậu thì giao cấu
sẽ đạt kết quả cao… các hành vi này diễn ra khá phổ biến.
Hành vi giao cấu trái ý muốn của người bị hại, là dấu hiệu bắt buộc đối
với cấu thành tội hiếp dâm nói chung và tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói
riêng. Đầu tiên là hành vi giao cấu, theo Pháp luật hình sự, giao cấu được hiểu
là: Đưa vào bởi bộ phận sinh dục của người phạm tội hoặc trong bộ phận sinh
dục của nạn nhân. Như vậy, hành vi tình dục bằng miệng hoặc hậu môn cũng
thuộc nội hàm của khái niệm này. Tuy nhiên, hành vi đưa một cái gậy vào hậu
môn người khác không thuộc nội hàm của khái niệm giao cấu và không phạm
tội hiếp dâm mà cấu thành tội tra tấn hoặc có hành vi tàn ác theo Điều 312-7
BLHS Pháp, còn hành vi đưa dụng cụ vào miệng nạn nhân cũng không cấu
thành tội hiếp dâm, vì hành vi này không mang bản chất tình dục. Theo đạo
luật về các tội phạm tình dục của Vương Quốc Anh quy định giao cấu là hành
vi: “Cố ý đưa dương vật của mình vào âm đạo, hậu môn và miệng của người
khác”.
Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 1/10/2019 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân Tối cao lần đầu tiên đã giải thích chính thức khái niệm
giao cấu như sau: Giao cấu quy định tại khoản 1 Điều 141, khoản 1 Điều 142,
khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều 145 của Bộ luật Hình sự
là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất
kỳ mức độ xâm nhập nào. Hành vi giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định
là đã thực hiện và không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa.
Hành vi quan hệ tình dục khác, đây là dấu hiệu mới được bổ sung trong
cấu thành tội Hiếp dâm và Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong BLHS Việt Nam
2015. Theo đó, Hành vi quan hệ tình dục khác được quy định tại khoản 1 Điều
141, khoản 1 Điều 142, khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 144 và khoản 1 Điều
145 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hay khác
11
giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón
tay, ngón chân, lưỡi...), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ,
miệng, hậu môn của người khác.
Dấu hiệu quan trong nữa trong cấu thành của tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi là “trái ý muốn”. Trên thực tế, biểu hiện trái ý muốn của người bị hại được
thể hiện ra bên ngoài, có thể nhìn thấy được như vết cào cấu, tiếng kêu cứu,
trầy xước hoặc vết cắn, vùng vẫy nhằm trốn thoát, vết bẩn bùn đất... Nhưng
cũng có trường hợp nạn nhân sợ hãi, hoặc sức khỏe yếu không có khả năng
kháng cự, cho nên một vài trường hợp việc chứng minh trạng thái tâm lý trái ý
muốn nạn nhân có thể gặp trở ngại, khó khăn. Có trường hợp do có sự thỏa
thuận nên khai mình bị hiếp dâm, có trường hợp tội phạm ẩn diễn ra đã lâu
nhưng vì sợ ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm mà không tố giác nên khi phát
hiện thì đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, ngược lại có trường hợp
bị hiếp dâm thật nhưng do bị mua chuộc, hay bị đe dọa nên khai là có sự đồng
ý,... Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá cẩn trọng, khách quan,
phải căn cứ vào nhiều yếu tố khác nhau như: mối quan hệ giữa các bên, thủ
đoạn thực hiện hành vi phạm tội, hoàn cảnh cụ thể xảy ra sự việc, ý kiến
nhận xét của cơ quan, tổ chức, bạn bè, cha mẹ...nhằm hạn chế việc chủ quan,
đánh giá phiến diện, tránh trường hợp xử lý oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
Dấu hiệu về hậu quả thiệt hại:
Hành vi khách quan của tội hiếp dâm gây ra không chỉ gây thiệt hại về
vật chất, thể chất mà còn xâm hại đến các quyền nhân thân của người bị hại,
cùng với đó gây nên những tác động xấu đến các quan hệ xã hội khác được
pháp luật hình sự bảo vệ.
Các dấu hiệu khách quan không là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội
phạm như: công cụ, phương tiện thực hiện phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn
cảnh thực hiện hành vi phạm tội,..... Việc xác định các dấu hiệu này có ý nghĩa
rất quan trọng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
12
Do những dấu hiệu này giúp cho việc xác định chính xác tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, thông qua đó làm rõ được những
nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó tìm ra các biện pháp hiệu quả, tối ưu
cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Vậy nên, ở đây có hai loại hành vi mà điều luật không quy định hậu quả
xảy ra khi hành vi được thực hiện, từ quy định tại Khoản 1 Điều 142 BLHS
2015 đối chiếu cùng với những căn cứ lý luận nêu trên ta nhận thấy nó thỏa
mãn các dấu hiệu của CTTP hình thức. Mặt khác, có quan điểm cho rằng mục
đích cuối cùng của tội phạm là để “giao cấu” với người bị hại, nên khi chưa đạt
được giao cấu thì chưa thể coi là đã phạm tội hiếp dâm, do đó tội hiếp dâm có
cấu thành tội phạm vật chất.
Tác giả nhận định rằng, hành vi giao cấu trong chuỗi hành vi là không bắt
buộc và chỉ cần chủ thể có hành vi khách quan nhằm mục đích giao cấu ngoài ý
muốn của nạn nhân là đã cấu thành tội phạm, đã phạm Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi trong trường hợp phạm tội chưa đạt.
Ta thấy trong cấu thành tội phạm tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi chỉ có
dấu hiệu của mặt khách quan đó là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội mà không
nói đến hậu quả cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Ở
đây ta hiểu, do tính chất nghiêm trọng của hành vi hiếp dâm, xâm phạm vào
khách thể có tầm quan trọng đặc biệt, chỉ cần người nào thực hiện một hành vi
trong mặt khách quan nghĩa là người đó có ý định hiếp dâm người khác và có
hành động dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực nhằm mục đích giao cấu với
nạn nhân trái ý muốn của họ là đã đủ điều kiện để cấu thành tội phạm, hành vi
giao cấu và hành vi quan hệ tình dục khác không nhất thiết phải ở tình trạng
hoàn thành. Cuối cùng, mục đích là thỏa mãn nhu cầu tình dục trái ý muốn đối
với nạn nhân. Thực tế để đánh giá được điều này rất khó khăn nên trên thực tế
việc đánh giá hậu quả chỉ cần dựa vào việc đối tượng đã thực hiện đủ các thủ
đoạn, hành vi trước giao cấu, hành vi quan hệ tình dục khác và thể hiện rõ mục
13
đích giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác là đã đủ yếu tố cấu thành
tội phạm đối với tội hiếp dâm. Như vậy việc cấu thành tội phạm của tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi chỉ cần dấu hiệu là hành vi gây nguy hiểm mà không
cần hậu quả cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của tội phạm gồm có lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Mặt
chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội, thuộc về
suy nghĩ của người thực hiện hành vi phạm tội và chưa được thể hiện ra bên
ngoài, vì vậy người khác không thể cảm nhận được những điều đó thông qua
việc tiếp xúc thông thường mà cần phải có một quá trình nhận thức theo phương
pháp biện chứng. Mặt chủ quan bao gồm những nội dung cụ thể sau: dấu hiệu
bắt buộc là lỗi (lỗi vô ý, lỗi cố ý) và các dấu hiệu không bắt buộc gồm có động
cơ và mục đích.
Lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất, được phản ánh trong tất cả các cấu thành
tội phạm, là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do mình gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố
ý hoặc vô ý. Lỗi của người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là lỗi cố ý
trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp do tội danh này có cấu thành hình thức vì vậy có
thể người phạm tội biết rõ hoặc không quan tâm đến tuổi của nạn nhân.
Xét về mặt lý trí, người phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi có sự nhận
thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi dựa trên cơ sở nhận biết đối
tượng sẽ xâm hại là quyền bất khả xâm phạm tình dục của người khác, nhận
biết mức độ thực hiện hành vi, công cụ, phương tiện phạm tội cũng như các
phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm... sẽ gây nguy
hiểm, thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác.
Xét về mặt ý chí, người phạm tội có mong muốn thỏa mãn nhu cầu tình
dục của bản thân. Trong một số trường hợp, người phạm tội đã bỏ mặc cho hậu
14
quả xảy ra.
Vì vậy, cần có sự phân tích kết hợp đánh giá các chứng cứ và xác định
rõ ý thức chủ quan của người phạm tội, đồng thời dựa vào các yếu tố thuộc về
lý trí và ý chí của người phạm tội nhằm đánh giá chính xác các dấu hiệu thể
hiện mặt chủ quan của tội phạm.
* Chủ thể của tội phạm:
Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thì “Chủ thể của tội phạm là
người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện
hành vi phạm tội cụ thể”.
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận thức
bình thường về hành vi do mình thực hiện và có năng lực điều khiển được hành
vi đó.
Nếu chủ thể không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Chương
IV BLHS 2015 gồm các Điều 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26 thì phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với tội danh theo điều 142 BLHS 2015. Như vậy khi xem
xét yếu tố chủ thể đối với tội danh theo Điều 142 BLHS 2015, chúng ta cần
xem xét các góc độ sau: Chủ thể phải là một cá nhân, có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự (có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi) và đủ
tuổi theo quy định của pháp luật (Điều 12 BLHS 2015). Từ những phân tích
trên có thể đưa ra kết luận chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là bất
kỳ người nào có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 14 tuổi mà thực
hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tại Điều 142 BLHS 2015 thì
phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội đó của mình theo quy
định của điều luật.
1.1.3. Cấu thành tăng nặng của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Cấu thành tội phạm tăng nặng là loại cấu thành tội phạm mà bên cạnh
các dấu hiệu định tội còn có thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ
15
nguy hiểm cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (gọi là các dấu hiệu định khung
tăng nặng). Cấu thành tăng nặng của tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi bao gồm
các dấu hiệu sau đây:
- Có tính chất loạn luân:
Đây là tình tiết định khung bị xã hội lên án nhiều nhất, cần phải xử lý
nghiêm khắc bởi tính chất nguy hiểm lâu dài về mặt hậu quả khi thực hiện hành
vi phạm tội kèm theo tình tiết loạn luân. Xem xét về mặt sinh học do có cùng
bộ gen, nên nếu hành vi này dẫn đến sinh con thì khả năng những đứa trẻ sinh
ra bị thiếu khuyết, dị tật, khuyết tật, đần độn… do các gen lặn ẩn chứa yếu tố
di truyền xấu kết hợp gây ảnh hưởng tiêu cực đến tương lại của trẻ, đồng thời
tạo gánh nặng cho gia đình nạn nhân, cho xã hội.
Bên cạnh đó, xét về văn hóa đạo đức, tình tiết loạn luân gây ảnh hưởng
tới các giá trị đạo đức truyền thống, thuần phong mỹ tục, do hành vi đó đi ngược
lại những giá trị, quan điểm về đạo đức, văn hóa của dân tộc, bị xã hội lên án
phản đối, là sự suy đồi nghiêm trọng về đạo đức3. Vì vậy, việc quy định đây là
tình tiết định khung tăng nặng cho hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi với
khung hình phạt như tại khoản 2 là rất hợp lý và cần thiết.
- Làm nạn nhân có thai: Để xác minh tình tiết này cơ quan tiến hành tố
tụng phải xác định thai nhi là kết quả của việc giao cấu giữa người phạm tội
với nạn nhân, do thực tiễn có trường hợp nạn nhân bị hiếp dâm nhưng thai nhi
là kết quả của việc giao cấu với người khác hoặc tự nguyện giao cấu khi dưới
16 tuổi, không phải của lần bị hiếp dâm. Trường hợp không phải là kết quả từ
hành vi phạm tội thì không thể áp dụng tình tiết định khung tăng nặng này.
Nhưng thực tế cho thấy đôi khi các cơ quan tiến hành tố tụng lại bỏ qua việc
xác định về mặt khoa học mà mặc nhiên kết án hình phạt theo hành vi hiếp dâm
người dưới 16 tuổi cùng tình tiết định khung làm nạn nhân có thai dựa trên việc
thời điểm phạm tội trùng khớp với thời điểm nạn nhân mang thai.
16
3 ThS. Vũ Hải Anh, Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân, Tạp chí Nghề Luật, Số 1/2015, tr.43.
Quy định tình tiết này là tình tiết định khung tăng nặng là hợp lý và chính
xác, bởi việc mang thai sẽ dẫn đến những hậu quả cho nạn nhân về sức khỏe,
tính mạng và cả tinh thần, nếu đứa trẻ được sinh ra cũng tạo nên trách nhiệm,
ảnh hưởng không nhỏ đến đến cuộc sống sau này cho bản thân nạn nhân cũng
như gia đình, người thân của họ.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần
và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%:
Nhà làm luật đưa tình tiết định khung này vào là đúng đắn, phù hợp với
thực tiễn và hậu quả đến từ lỗi vô ý của người phạm tội trong quá trình thực
hiện hành vi gây ra thương tích cho nạn nhân, tỷ lệ thương tích và tổn hại sức
khỏe chính là tỷ lệ mất sức lao động. Để đánh giá tỷ lệ thương tích cần phải căn
cứ vào kết quả giám định y tế, giám định pháp y của Hội đồng giám định pháp
y kết luận. Nếu lỗi gây ra thương tật là lỗi cố ý, người phạm tội còn bị truy tố
thêm tội danh tại Điều 134 BLHS 2015 về tội cố ý gây thương tích.
Rối loạn tâm thần là các biểu hiện trầm cảm, người bệnh có cảm giác
căng thẳng thần kinh, phiền muộn, buồn chán, trống rỗng, trạng thái bị kích
động, luôn cảm giác mệt mỏi, lo âu, mất năng lượng, cảm giác mình có tội lỗi,
vô dụng, mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều, giảm thích thú trong các hoạt động hoặc
sở thích hàng ngày, giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều, nghĩ
về cái chết, có ý định hoặc hành vi tự sát 4.
Rối loạn hành vi là các biểu hiện không tuân theo những quy tắc xử sự
thông thường được xã hội chấp nhận ví dụ như: Cư xử hung hãn, phòng bị, sợ hãi
mọi người xung quanh, có hành động gây hại cho bản thân và người khác, vô thức
trong điều khiển hành vi và ngôn ngữ, khó thích ứng với lối sống, sinh hoạt xã
hội.
17
4 TS. Dương Tuyết Miên, Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, Trường Đại học Luật Hà Nội Số Đặc san về bình đẳng giới, Hà Nội – 2005, Tr. 35-40
- Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục,
chữa bệnh:
Trong trường hợp này điều kiện bắt buộc là người phạm tội đang có nghĩa
vụ chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh trực tiếp đối với nạn nhân. Ví dụ: quan hệ
giữa cha mẹ nuôi với con nuôi, bác sĩ với bệnh nhân, giáo viên với học sinh.
Tình tiết này được áp dụng khi người phạm tội lợi dụng chính tình cảnh, điều
kiện thuận lợi trong việc thực hiện trách nhiệm, công việc cũng như mối quan
hệ giữ mình và nạn nhân để có hành vi xâm phạm tình dục đối với người dưới
16 tuổi.
- Phạm tội 02 lần trở lên: Tức là người thực hiện hành vi phạm tội đã vi
phạm cùng một tội từ 02 lần trở lên, mà khi tách riêng mỗi lần phạm tội đó đều
có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định tại khoản 1 (khung cơ bản) của
Điều luật đó và chưa lần nào bị đưa ra xét xử, được miễn trách nhiệm hình sự,
miễn hình phạt, xóa án tích hoặc đã chấp hành xong hình phạt.
- Tái phạm nguy hiểm: Trong trường hợp là việc người phạm tội đã bị
kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc đã tái
phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Quy
định này nhằm mục đích xử lý người phạm tội không có dấu hiệu hối cải, hoàn
lương, có hành vi coi thường pháp luật, suy thoái nặng về đạo đức, cần thiết áp
dụng hình phạt tăng nặng so với khung cơ bản nhằm có thời gian nhiều hơn để
giáo dục, cải tạo và loại bỏ suy nghĩ phạm tội.
- Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có tổ chức: Việc thực hiện tội phạm có tổ
chức cho thấy sự có sắp xếp, thảo luận, giúp đỡ, liên kết với nhau về mặt chủ
quan, có sự phân hóa vại trò nhiệm vụ cụ thể về mặt khách quan để thực hiện
hành vi phạm tội; Do đó, phạm tội có tổ chức mang tính nguy hiểm cho xã hội
cực kì cao, khả năng gây tổn hại cho nạn nhân ở mức nghiêm trọng hơn rất
nhiều so với phạm tội đơn lẻ. Vì thế việc quy định tình tiết định khung tăng
18
nặng này là rất hợp lý và cần thiết.
- Đối với người dưới 10 tuổi: Việc bổ sung, ghi nhận tình tiết này là cần
thiết, phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn xã hội hiện nay, thể hiện rõ sự
phân hóa về độ tuổi của đối tượng tác động khi chủ thể thực hiện hành vi giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người ở độ tuổi dưới 13
tuổi: một là người dưới 10 tuổi, hai là người từ đủ 10 tuổi đến dưới 13 tuổi.
- Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần
và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên:
Trường hợp này tương tự với trường hợp hiếp dâm gây tổn hại sức khỏe
theo Điểm c Khoản 2 Điều 142 BLHS 2015, chỉ khác nhau ở mức độ, tỷ lệ
thương tật của nạn nhân của trường hợp này phải từ 61% trở lên.
- Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội: Chỉ áp dụng trong trường
hợp người phạm tội biết mình bị nhiễm HIV trước khi thực hiện hành vi phạm
tội. Ngược lại, nếu người phạm tội trước đó không biết mình bị nhiễm HIV thì
không áp dụng tình tiết này.
- Làm nạn nhân chết hoặc tự sát: Trường hợp áp dụng tình tiết này là khi
hậu quả nạn nhân chết là do hành vi hiếp dâm gây ra, nếu chết không phải do
bị hiếp dâm thì tùy trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm và tội tương ứng với hành vi làm nạn nhân
chết. Trường hợp nạn nhân bị người phạm tội làm cho bất tỉnh, sau đó thực hiện
hành vi giao cấu rồi bỏ mặc dẫn đến nạn nhân chết thì trường hợp này không
phải là hiếp dâm làm nạn nhân chết mà người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị
truy tố cả hai tội giết người và hiếp dâm. Trường hợp làm cho nạn nhân tự sát
trên thực tế cần xác định lý do tự sát là bị hiếp dâm, còn việc nạn nhân chết hay
không chết, không phải là dấu hiệu bắt buộc để xác định tình tiết trong trường
hợp này. Tuy nhiên nếu nạn nhân chết thì áp dụng mức hình phạt cao hơn tự
sát mà không chết.
19
1.1.4. Trách nhiệm hình sự đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của hành vi thực hiện tội phạm
mà cá nhân người phạm tội phải gánh chịu trước nhà nước và được thực hiện
bằng hình phạt và các biện pháp cưỡng chế khác theo quy định của BLHS.
Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lí, bao gồm: nghĩa vụ chịu
sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, bị kết tội, áp dụng các
biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp) và
mang án tích. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với người phạm Tội hiếp
dâm trẻ em mang đầy đủ tính chất của trách nhiệm hình nói chung là:
- Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm.
- Người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự.
- Trách nhiệm hình sự luôn được thực hiện trong phạm vi của quan hệ
pháp luật hình sự giữa hai bên với tích chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa
vụ nhất định - một bên là Nhà nước, một bên là người phạm tội.
- Trách nhiệm hình sự được xác định bởi một trình tự đặc biệt do các cơ
quan Tư pháp hình sự có thẩm quyền thực hiện, trình tự đó phải do pháp luật
tố tụng hình sự quy định.
- Trách nhiệm hình sự chỉ thể hiện trong bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật, bằng việc áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều
biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do luật hình sự quy định.
Ngoài những nội dung trên, trách nhiệm hình sự đối với Tội hiếp dâm trẻ
em còn có những đặc điểm riêng:
- Cơ sở để áp dụng trách nhiệm hình sự đối với Tội hiếp dâm trẻ em là
hành vi thực hiện đó phải thỏa mãn cấu thành của tội Hiếp dâm người dưới 16
tuổi. Điều này xuất phát từ nguyên tắc: Chỉ người nào phạm một tội đã được
Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự (quy định tại Điều
2 BLHS năm 2015). Đây là cơ sở bắt buộc khi xác định trách nhiệm hình sự
của một người. Ngoài ra, cơ sở xác định trách nhiệm hình sự còn được đặt ra
20
dưới góc độ như: cơ sở khách quan, cơ sở hình thức. Cơ sở khách quan của
trách nhiệm hình sự có thể hiểu là các dấu hiệu do luật định về một tội phạm
cụ thể mà khi một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn các
dấu hiệu để cấu thành tội phạm. Các dấu hiệu đó có thể là: lỗi, hành vi, mục
đích,... Cơ sở hình thức của trách nhiệm hình sự là các căn cứ chung mang tính
chất bắt buộc được quy định trong luật hình sự do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền đặt ra để xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Điều kiện của trách nhiệm hình sự là những căn cứ riêng cần và đủ, có
tính chất bắt buộc được quy định trong luật hình sự, mà khi hội tụ đủ các căn
cứ đó thì một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải chịu trách
nhiệm hình sự. Cụ thể là: Người đó phải là người có năng lực trách nhiệm hình
sự và người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Đối với tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, BLHS 2015 quy định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là
14 tuổi trở lên.
Đặc điểm thứ hai của trách nhiệm hình sự đối với tội Hiếp dâm người dưới
16 tuổi đó là Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm hình sự đối với tội này rất
nghiêm khắc, thể hiện chính sách hình sự xử lý nghiêm những hành vi xâm phạm
đến quyền trẻ em. Độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự của tội này là 14 tuổi,
trong khi đó nhiều tội khác thì độ tuổi phải là 16 tuổi trở lên. Tính nghiêm khắc
của trách nhiệm hình sự đối với tội này còn thể hiện trong các khung hình phạt,
theo đó mức hình phạt được quy định cụ thể như sau: Theo khoản 1 Điều 142
khung hình phạt từ 7- 15 năm tù; khoản 2 từ 12 đến 20 năm tù; khoản 3 từ 20 năm,
chung thân hoặc tử hình. Như vậy trong xu hướng giảm bớt tội danh có hình phạt
tử hình trong hoạt động xây dựng, sửa đổi và bổ sung Bộ luật hình sự thì Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi vẫn bị quy định hình phạt tử hình và đây là 1 trong 2 tội
có hình phạt tử hình trong Chương Các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm. Điều đó cho thấy quan điểm của nhà lập pháp đối với loại tội
21
phạm này, đây là loại tội phạm rất nguy hiểm cho xã hội và có xu hướng gia tăng
về thủ đoạn, hành vi cũng như hậu quả tiêu cực, do đó cần xây dựng mức hình
phạt cao, có tính răn đe, trừng trị thích đáng người phạm tội.
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt nam về Tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
1.2.1. Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm xâm phạm tình dục
trẻ em.
Nghiên cứu Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi dưới góc độ khoa học luật
hình sự cần bắt đầu từ chính sách pháp luật hình sự. Bởi lẽ, các quy định của
Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng đều phải dựa trên những quan điểm,
nguyên tắc có tính chất chỉ đạo và làm nền tảng. Chính sách hình sự đối với các
tội xâm phạm tình dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay hệ thống các quan điểm,
phương hướng có tính chỉ đạo, chiến lược của Đảng và Nhà nước trong quá
trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự đối với các tội xâm
phạm tình dục trẻ em, trong việc sử dụng hệ thống pháp luật hình sự đó vào
thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhằm phát hiện kịp thời,
xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật các hành vi phạm tội xâm
phạm đến danh dự, nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về tình dục và tự do
tình dục của trẻ em, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em được tôn
trọng và phục hồi trên thực tế. Như vậy chính sách pháp luật hình sự là một bộ
phận của chính sách hình sự đối với các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.
Theo đó, chính sách pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ
em là tư tưởng, quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước làm cơ sở cho việc
quy định về tội phạm hình phạt xâm phạm tình dục trẻ em trong đó có hành vi
hiếp dâm trẻ em. Chính sách pháp luật đối với tội xâm phạm tình dục trẻ em
được thể hiện thông qua chính sách pháp luật hình sự nói chung khi xây dựng
Bộ luật hình sự 2015 là: Tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền
con người, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã
22
hội, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm
mọi người được sống trong một môi trường xã hội lành mạnh và an toàn. Ngày
nay, những quan điểm đổi mới nhận thức về chính sách của nhà lập pháp trong
lĩnh vực Hình sự lấy tâm điểm là đổi mới quan niệm về tội phạm và hình phạt,
cơ sở của trách nhiệm hình sự, chính sách xử lý đối với một số loại tội phạm
và loại chủ thể phạm tội, đảm bảo các quy định của BLHS vừa là công cụ pháp
lý để các cơ quan chức năng đấu tranh, trấn áp tội phạm, vừa là cơ sở pháp lý để
mọi người dân tự đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, xã hội; khuyến khích mọi người dân chủ động tích cực trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em
thể hiện sự phản ứng của Nhà nước, của xã hội đối với các hành vi nguy hiểm
cho xã hội xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, tình
dục, danh dự, nhân phẩm và các quyền khác của trẻ em được thể hiện thông
qua việc hình sự hóa và phi hình sự hóa đối với loại tội này ở các giai đoạn nhất
định. Bản chất của việc tội phạm hoá chính là sự ghi nhận trong pháp luật hình
sự một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và quy định trách nhiệm hình
sự đối với người thực hiện hành vi đó; còn phi tội phạm hoá là việc loại trừ một
hành vi trước đây được coi là tội phạm khỏi các quy định của pháp luật hình sự
hiện hành và huỷ bỏ trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó.
Ví dụ trong Bộ Luật Hình sự 1985 không có tội Hiếp dâm trẻ em. Hiếp dâm trẻ
em chỉ được biết đến là tình tiết tăng nặng của Tội Hiếp dâm. Chỉ đến năm
1997, khi sửa đổi BLHS 1996 thì hành vi Hiếp dâm trẻ em mới được tội phạm
hóa thành một tội độc lập trong BLHS.
Chính sách pháp luật hình sự đối với tội xâm phạm tình dục trẻ em nói
chung và tội Hiếp dâm trẻ em nói riêng được thể hiện thông qua vấn đề trách
nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em. Quan điểm chỉ đạo là
phải quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc đối với hành vi xâm hại tình
23
dục trẻ em trong đó có tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Cùng với những chế
tài nghiêm khắc nhất, các biện pháp xử lý hình sự sẽ có tác động rất lớn đối với
những cá nhân có ý định thực hiện các hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Những chủ thể này chắc chắn sẽ phải hứng chịu những hậu quả bất lợi từ các
hình thức xử phạt có thể bị áp dụng nếu thực hiện hành vi đó. Do vậy, quy định
tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là việc sử dụng biện pháp xử lý hình sự với
mục đích làm công cụ chính, hiệu quả tác động trực tiếp đến tâm lý và hành vi
để răn đe, ngăn ngừa và trừng trị người thực hiện hành vi hiếp dâm cũng như
răn đe người có ý định thực hiện hành vi hiếp dâm.
1.2.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt nam về Tội hiếp dâm người dưới
16 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban
hành BLHS 1985.
Hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong pháp luật hình sự Việt Nam
từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 chưa được pháp điển hóa
và quy định thành tội phạm độc lập, hành vi này được quy định trong tội hiếp
dâm với tư cách là trường hợp tăng nặng của tội phạm này. Nói cách khác, pháp
luật hình sự trong giai đoạn này chưa quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
mới chỉ quy định tội hiếp dâm.
Trong giai đoạn 1945 đến trước 1954, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
mới được thành lập và phải đối mặt với nhiều khó khăn nên chưa có điều kiện
xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh. Trước tình hình
đó, để bảo đảm an ninh trật tự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số
47 ngày 10/10/1945 cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ Luật hình
An Nam, Hoàng Việt hình luật và Hình luật pháp tu chỉnh, với điều kiện “chỉ
thi hành khi nào không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính
thể dân chủ cộng hòa”, tội hiếp dâm thời bấy giờ được các cấp Tòa án xét xử
theo các luật lệ cũ5.
24
5 http://www.canhsatnhandan.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/6208/Toi-hiep-dam-nguoi-duoi-16- tuoi-trong-lich-su-phap-luat-hinh-su-Viet-Nam (Truy cập ngày 01/09/2020).
Sau chiến thắng lừng lẫy Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Thời
kỳ bấy giờ, những luật lệ của chế độ cũ được áp dụng theo Sắc lệnh số 47 không
còn phù hợp ở miền Bắc. Do vậy, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã ban hành
Thông tư số 19-VHH/HS yêu cầu các Tòa án không nên áp dụng luật của chế
độ cũ, ngày 10/7/1959 Tòa án nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 772/CTTP
đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của đế quốc và phong kiến. Tuy vậy, trong thời
gian này, Nhà nước ta vẫn chưa ban hành văn bản pháp luật hình sự quy định
cụ thể về tội hiếp dâm. Trước sự gia tăng của tội phạm hiếp dâm, trong đó có
hiếp dâm người dưới 16 tuổi, trong khi chưa có văn bản quy phạm pháp luật
điều chỉnh. Ngày 15/6/1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 hướng
dẫn việc xử lý tội hiếp dâm nhằm khác phục khuynh hướng coi nhẹ tính chất
nghiêm trọng của tội phạm này. Chỉ thị số 1024 được coi là đầu tiên, đặt nền
móng cho việc hoàn thiện và xây dựng các tội phạm về tình dục. Để các quy
định của pháp luật được đầy đủ và toàn diện, trên cơ sở tổng kết thực tiễn.
Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đã đề cập toàn diện 04 hình thức phạm tội về
tình dục bao gồm: hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm người dưới 16 tuổi); cưỡng
dâm (tức cưỡng bách giao cấu); giao cấu với người dưới 16 tuổi và dâm ô (trái
ý muốn và không có giao cấu). Trong Bản tổng kết và hướng dẫn số 329-HS2
đã xác định hành vi khách quan của tội hiếp dâm “là hành động bắt buộc người
phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc không có ý muốn của người đó
bằng cách dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay là lợi dụng
hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của người đó”. Trong
giai đoạn này, ở các vùng do Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt
Nam quản lý thì các vụ phạm tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được xét xử theo
luật pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đối với các vụ phạm tội hiếp dâm
25
người dưới 16 tuổi xảy ra trên các vùng do Chính phủ Việt Nam cộng hòa quản
lý theo xét xử theo luật pháp của Việt Nam cộng hòa, trong đó phải kể đến Bộ
hình luật ngày 20/12/1972 có quy định về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 15/3/1976, Hội
đồng chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành
Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm và hình phạt được áp dụng ở
miền Nam Việt Nam. Tuy vậy, Sắc luật số 03/SL-1976 không quy định thế nào
là hiếp dâm mà chỉ quy định hình phạt đối với người phạm tội. Trước tình hình
đó, ngày 15/4/1976, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03-BTP/TT hướng
dẫn thi hành Sắc luật số 03/SL-1976, theo đó hiếp dâm “là hành vi dùng bạo
lực hoặc hành vi uy hiếp về tinh thần để giao cấu của người phụ nữ, không có
sự thỏa thuận của người đó; là hành vi lợi dụng lúc người phụ nữ đang ngủ say,
đang bị mê sảng, hoặc có bệnh thần kinh để giao cấu với họ; hoặc là hành vi
lợi dụng sự non nớt, sự chưa hiểu biết của vị thành niên dưới 13 tuổi để giao
cấu với chúng”.
Như vậy, giai đoạn 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985, tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi đã được quy định trong một số văn bản pháp luật
và là trường hợp tăng nặng của tội hiếp dâm, các Tòa án xét xử tội phạm này
chủ yếu theo đường lối, chính sách thông qua án lệ và các bản tổng kết. Thực
trạng này đòi hỏi phải có một văn bản pháp ý chính thức quy định thống nhất
về tội phạm, trong đó có tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
1.2.3. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 1985.
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội khóa VII được thông qua ngày
27/6/1985 tại kỳ họp thứ IX và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986, đây là BLHS
đầu tiên, đánh dấu sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta. BLHS
năm 1985 được thi hành và trải qua 04 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989,
1991, 1992 và 1997. Trong BLHS năm 1985 ban đầu và trong 03 lần sửa đổi,
bổ sung sau đó vào các năm 1989, 1991 và 1992, tội hiếp dâm người dưới 16
26
tuổi chưa được quy định độc lập mà được quy định trong tội hiếp dâm tại Điều
112. Theo đó, hiếp dâm là hành vi “dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác giao cấu
với người khác trái ý muốn của họ” hoặc “mọi trường hợp giao cấu với trẻ dưới
mười ba tuổi”.
Lần sửa đổi, bổ sung thứ nhất vào năm 1989, Điều 112 không có gì thay
đổi; lần sửa đổi, bổ sung thứ 2 vào năm 1991, khoản 1, 2 và 3 Điều 112 vẫn giữ
nguyên và đã sửa đổi khoản 4 Điều 112 theo hướng tăng mức hình phạt, thể
hiện tính trừng trị nghiêm khắc đối với trường hợp giao cấu với người dưới 13
tuổi. Lần sửa đổi, bổ sung thứ 3 vào năm 1992, Điều 112 không có sự thay đổi
so với lần thứ 2. Đến lần sửa đổi, bổ sung lần thứ 4 năm 1997, hành vi hiếp
dâm người dưới 16 tuổi được tách thành tội phạm độc lập với tên gọi “tội hiếp
dâm trẻ em” quy định tại Điều 112a.
Sau khi Điều 112a được quy định, ngày 02 /01/1998 liên ngành Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ nội vụ đã ban hành
Thông tư liên tịch số 01/1998/TANDTC-VKSNDTC-BNV hướng dẫn áp dụng
Khoản 4 Điều 112a, với chủ trương: “Độ tuổi của người bị hại càng nhỏ thì
mức án xử phạt đối với người phạm tội càng cao”. Việc quy định tội hiếp dâm
trẻ em trong BLHS năm 1985 vào lần sửa đổi, bổ sung thứ 4 thể hiện sự hoàn
thiện của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm.
1.2.4. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 1999.
BLHS năm 1999 quy định tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Điều 112
với tên gọi “tội hiếp dâm trẻ em”. So với tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm
1985 được sửa đổi, bổ sung năm 1997, BLHS năm 1999 đã có những thay đổi
như sau:
Trong cấu thành tội phạm cơ bản của tội phạm hiếp dâm trẻ em, cùng
với hành vi “dùng vũ lực” hoặc “thủ đoạn khác” đã được quy định trong BLHS
27
năm 1985, BLHS năm 1999 đã bổ sung hành vi “đe dọa dùng vũ lực” và “lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân” giao cấu trái ý muốn với
người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi là hành vi khách quan của tội phạm.
Trong cấu thành tội phạm tăng nặng quy định tại Khoản 2 và Khoản 3,
BLHS năm 1999 quy định tỷ lệ thương tật đối với nạn nhân theo hướng cụ thể,
rõ ràng; bổ sung thêm các dấu hiệu định khung tăng nặng: đối với nhiều người,
biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội. Ngoài ra, BLHS năm 1999 còn quy
định hình phạt bổ sung có thể bị áp dụng đối với người phạm tội là “cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến
năm năm”.
Quá trình thi hành, BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung vào năm
2009, tội hiếp dâm trẻ em không có gì thay đổi so với BLHS năm 1999.
1.2.5. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp
thứ 10 ngày 27/11/2015. Ngày 20/6/2017, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa
XIV đã thông qua sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015 và có hiệu
lực từ ngày 01/01/2018.
Trong BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS
năm 2015), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định tại Điều 142, so với
BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã thay thế thuật ngữ
“trẻ em” bằng “người dưới 16 tuổi”. Việc quy định như vậy nhằm cụ thể hóa,
tránh gây tranh cãi về thuật ngữ pháp lý và thuận tiện cho việc áp dụng. Cùng
với đó, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong BLHS năm 2015 đã có những
điểm mới so với BLHS năm 1999 như sau:
- Trong cấu thành cơ bản, BLHS năm 2015 đã mô tả cụ thể về hành vi
hiếp dâm người dưới 16 tuổi, đó là hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác
giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi
28
đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ” hoặc hành vi “giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi”. Trong khi đó, khoản 1
Điều 112 BLHS năm 1999 không mô tả hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
muốn xác định hành vi phạm tội cần dựa vào khoản 1 Điều 111 BLHS năm
1999 quy định tội hiếp dâm.
- Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung các dấu hiệu định khung tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong cấu thành tội phạm tăng nặng của tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi, bao gồm: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân;
29
phạm tội đối với người dưới 10 tuổi.
Tiểu kết chương 1
Trong Chương 1 của luận văn, tác giả đã thực hiện việc nghiên cứu, tổng
hợp nêu ra những khái niệm và phân tích một số khía cạnh pháp lý về mặt lý
luận, các dấu hiệu đặc trưng của Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy
định tại Điều 142 BLHS 2015.
Đây cũng là cơ sở để áp dụng đúng pháp luật đối với tội danh này trên
thực tế hoạt động tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền, đồng thời là cơ sở lý
luận để tác giả vận dụng vào chương 2 và chương 3 của luận văn này. Mong
rằng kết quả nghiên cứu và phân tích trên đây góp phần vào việc nhận thức
đúng, áp dụng pháp luật một cách hiệu quả về mặt thực tế đối với quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án của các cơ quan tiến hành tố
30
tụng.
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Một số vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh, áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động
đưa ra các quyết định về tính được quy định trước (hoặc tính không được quy
định trước) của các tình tiết thực tế đã được xác định trong quy phạm pháp luật
hình sự tương ứng và việc xác định (hoặc không xác định) biện pháp mang tính
chất pháp lý hình sự trong quy phạm đó. Áp dụng pháp luật hình sự trong đó
có áp dụng pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi bao gồm 2
hoạt động: Định tội danh và quyết định hình phạt.
2.1.1. Khái niệm định tội danh.
Việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự diễn ra rất phong phú và
phức tạp, được biểu hiện qua ba giai đoạn lần lượt là: Định tội danh, định khung
hình phạt và quyết định hình phạt. Trong các giai đoạn đó, giai đoạn quan trọng
nhất của toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật hình sự là định tội danh. Do định
tội danh được tiến hành thực hiện trong tất cả các giai đoạn trong quá trình tố
tụng hình sự từ khởi tố cho đến thi hành án. Trong khi đó bước quyết định
khung hình phạt và hình phạt duy được tiến hành thực hiện trong giai đoạn xét
xử.
Định tội danh là một trong những biện pháp đưa Bộ luật hình sự đi vào
trong thực tiễn đời sống xã hội, giúp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm, từ đó góp phần thực hiện đường lối chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước Việt Nam.
Định tội danh chính là quá trình xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp (sự
đồng nhất) giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trên thực tế khách
31
quan và các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tương ứng đã được quy định
trong Bộ luật hình sự. Nói cách khác, định tội danh là quá trình xác định một
hành vi cụ thể đã thực hiện có thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được miêu tả trong
một CTTP mà BLHS đã quy định.
Phương pháp định tội danh: Chủ yếu sử dụng các phương pháp tổng hợp,
phân tích, phương pháp quy nạp, diễn dịch và quan trọng nhất là phương pháp loại
trừ.
Từ các vấn đề nêu trên cho thấy quá trình định tội danh bao gồm có các
đặc điểm sau:
- Định tội danh là quá trình nhận thức mang tính logic cao giữa lý luận và
thực tiễn. Được thể hiện với hai khía cạnh đó là: xác định tính phù hợp giữa
hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu được miêu tả trong
CTTP cụ thể của BLHS và đưa ra những đánh giá khách quan về mặt pháp lý
hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đó.
- Quá trình thực hiện việc định tội danh cần tuân thủ nghiêm túc theo các
quy phạm pháp luật của luật nội dung là BLHS và các quy phạm pháp luật của
luật hình thức là Bộ luật tố tụng hình sự.
- Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan tiến hành tố
tụng (là cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) nhằm cụ thể hoá và vận
dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào trong đời sống thực tiễn, dựa trên cơ
sở của việc xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực
hiện cùng với sự nhận thức đầy đủ, chính xác nội dung của các quy phạm pháp
luật hình sự.
- Định tội danh mang tính chất là một biểu hiện của hoạt động thực tiễn
áp dụng pháp luật hình sự.
Các giai đoạn định tội danh được tiến hành theo bốn bước sau đây:
- Bước 1: Thiết lập, xem xét và đánh giá chính xác các tình tiết của vụ án
32
đã xảy ra trong thực tiễn khách quan.
Ở bước này, đòi hỏi người có thẩm quyền thực hiện việc định tội danh
đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, không định
kiến, áp đặt, suy diễn cảm tính. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được
trong quá trình điều tra và đánh giá dựa theo quy định của BLTTHS.
Đối với mỗi một tình tiết trong vụ án hình sự, trước tiên cần đánh giá
chúng một cách độc lập để có thể thấy được sự thể hiện về tính chất của nó
thuộc loại hành vi cụ thể nào. Tiếp theo, mỗi tình tiết đó lại được đặt vào mối
quan hệ với các tình tiết khác trong vụ án, từ đó kết luận về tính chất của tình
tiết này mới là sự thể hiện chính xác về bản chất của nó đối với cả quá trình
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và quá trình giải quyết vụ án.
Đánh giá mỗi tình tiết của vụ án, cần đặt tình tiết đó vào hoàn cảnh cụ thể,
với tổng thể, biện chứng của toàn bộ quá trình phản ánh diễn biến của vụ án
hình sự đã xảy ra. Vì lẽ, cùng là một tình tiết, nhưng khi đặt trong mỗi hoàn
cảnh khác nhau thì chúng hoàn toàn khác nhau về bản chất. Nếu kết luận trên
từng tình tiết độc lập, thì không thể phản ánh chính xác bản chất của tình tiết
đó trong toàn bộ diễn biến vụ án hình sự.
- Bước 2: Nhận thức thống nhất, đầy đủ và chính xác nội dung các quy
phạm pháp luật hình sự phản ánh những dấu hiệu của CTTP về tội danh có
hướng lựa chọn.
Những dấu hiệu có trong CTTP được BLHS quy định mang tính trừu
tượng, biểu trưng và chỉ nêu khái quát những nét đặc trưng mang tính phổ biến
để điều chỉnh các quan hệ xã hội muôn hình vạn trạng trong thực tiễn. Đòi hỏi
cần có quá trình tư duy để nhận thức chính xác, kỹ lưỡng về nội dung của các
dấu hiệu trong CTTP. Có nhiều các quy phạm pháp luật hình sự chưa xác định
được thật rõ ràng ranh giới giữa chúng với nhau. Trong những trường hợp này
đòi hỏi người có thẩm quyền định tội danh phải có thể tự đánh giá dựa trên căn
33
cứ khoa học và thực tế, đảm bảo tính thuyết phục và logic. Nói một cách khác,
yêu cầu tất yếu đối với người có thẩm quyền định tội danh là phải có trình độ
pháp lý hình sự.
- Bước 3: So sánh đối chiếu hai quá trình ở hai bước 1 và 2 nói trên.
- Bước 4: Ra văn bản áp dụng pháp luật (bản án và các quyết định) có căn
cứ, đảm bảo sức thuyết phục và tính logo về 3 bước ở trên để xác định tội danh
cần phải áp dụng đối với hành vi phạm tội của chủ thể.
Qua những đặc điểm của định tội danh đã phân tích ta có thể đưa ra khái
niệm định tội danh như sau: Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có tính
lô gic, đồng thời là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS, PLTTHS.
Dựa vào cơ sở những chứng cứ, tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra
phản ánh các tình tiết thực tế của vụ án đã xảy ra để đối chiếu, so sánh và kiểm
tra để xác định mức độ phù hợp của chúng so với các dấu hiệu trong CTTP cụ
thể tương ứng mà BLHS quy định.
Ý nghĩa của định tội danh được quyết định bởi 2 xu hướng là định tội danh
đúng và định tội danh sai.
Định tội danh đúng chính là tiền đề cho hoạt động phân hóa trách nhiệm
hình sự và cá thể hóa hình phạt được công bằng, minh bạch, khách quan và có
căn cứ pháp luật. Định tội danh chính xác góp phần hỗ trợ đắc lực cho việc thực
hiện những nguyên tắc tiến bộ của Nhà nước pháp quyền đã được thừa nhận
như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đẳng
trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công minh nhân đạo và nguyên tắc không
tránh khỏi trách nhiệm. Việc định tội danh đúng là căn cứ để áp dụng chính xác
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tạm giữ, tạm giam, thẩm quyền điều
tra, truy tố, xét xử, từ đó trở thành cơ sở vững chắc, hữu hiệu cho việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Định tội danh sai dẫn đến hàng loạt những hậu quả tiêu cực có thể kể đến
như: Không đảm bảo được tính công minh, có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu
34
trách nhiệm người vô tội, bỏ lọt tội phạm, xâm phạm thô bạo danh dự nhân
phẩm, nghiêm trọng hơn là xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của công dân
cũng như quyền tự do dân chủ của công dân. Dẫn đến việc làm suy giảm uy tín
của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế Xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng tiêu cực
đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Những vụ án oan sai
chủ yếu bắt nguồn từ sự đánh giá chứng cứ phiến diện, suy diễn chủ quan, thiếu
thận trọng, nóng vội khởi tố, bắt tạm giam người bị tình nghi của cá nhân và cơ
quan có thẩm quyền. Nhận thức được tầm quan trọng này, thông qua công tác
phòng chống tội phạm của các cơ quan chức năng cho thấy, cùng với sự biến
động của tội phạm nói chung, tội phạm xâm hại tình dục nói riêng – đặc biệt là
tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều hoạt động thiết thực nhằm bảo vệ và chăm sóc phụ nữ và trẻ em.
2.1.2. Quyết định hình phạt đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Quyết định hình phạt là một công việc quan trọng trong quá trình áp
dụng pháp luật hình sự nói chung và Tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói
riêng. Quyết định hình phạt chính là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của
Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện, dựa trên những quy định của pháp luật
hình sự hiện hành cùng với những nguyên tắc nhất định, quá trình này thực hiện
tùy thuộc vào từng trường hợp nhằm xác định loại hình phạt và mức hình phạt cụ
thể áp dụng cho người phạm tội hay miễn hình phạt cho người phạm tội theo
quy định của BLHS tương đương với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi do người phạm tội thực hiện trên thực tế.
Để việc quyết định hình phạt được khách quan, chính xác thì cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền phải tuân thủ nghiêm chỉnh một số nguyên tắc nhất định.
Các nguyên tắc đó có thể kể đến là nguyên tắc: nhân đạo XHCN; pháp chế
XHCN; cá thể hóa hình phạt; công bằng.
Các nguyên tắc QĐHP là các tư tưởng chỉ đạo, định hướng chung cho
Tòa án QĐHP đối với hành vi vi phạm của người phạm tội được đúng đắn,
35
chính xác, khách quan. Muốn tạo điều kiện tốt nhất cho việc QĐHP của Tòa án
thì nhà làm luật cần cụ thể hóa trong các quy định luật hình sự các nguyên tắc
QĐHP thành các căn cứ QĐHP cụ thể, từ cơ sở đó hình phạt sẽ được quyết
định công minh, rõ ràng.
Quyết định hình phạt cần dựa trên những cơ sở pháp lý được quy định
trong BLHS mà Tòa án buộc phải tuân thủ khi QĐHP cho người phạm tội nhằm
đảm bảo hình phạt đã tuyên đạt được mục đích trừng phạt, răn đe bao gồm: Các
quy định của BLHS; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội; nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS. Để áp
dụng chính xác những căn cứ nêu trên, khi QĐHP đòi hỏi Tòa án cần có nhận
thức chính xác về nội dung, bản chất, ý nghĩa pháp lý của từng căn cứ và cùng
với mối liên hệ giữa các căn cứ này với nhau. Các căn cứ trên vừa mang tính độc
lập tương đối, vừa có mối liên hệ tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau tạo nên một
tổng thể thống nhất, là cơ sở pháp lý mà Tòa án phải tuân thủ khi QĐHP.
2.2. Thực tiễn định tội danh Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn
Thành phố Hà Nội.
Bảng Số liệu vụ án và bị cáo đưa ra xét xử về tội Hiếp dâm trẻ em và
Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Hà Nội từ 2015- 2019
Số vụ Số bị cáo Năm
2015 11 11
2016 5 5
2017 8 9
208 12 18
2019 17 19
Tổng 43 62
(Nguồn TAND TP Hà Nội)
Bảng So sánh số vụ Hiếp dâm ngưới dưới 16 tuổi của Thành phố
36
Hà Nội và cả nước
Năm 2015 2016 2017 2018 2019
Hà Nội 11 5 8 12 17
Cả 261 234 181 176 96 Nước
Tỷ lệ 4.2 2.1 4.4 6.8 17.7 (%)
300
250
200
Hà Nội
150
cả nước
%
100
50
0
2015
2016
2017
2018
2019
(Nguồn Tòa án nhân dân Tối cao và Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội)
Biểu đồ So sánh số vụ Hiếp dâm người dưới 16 tuổi của
Thành phố Hà Nội và cả nước
Qua số liệu thống kê cho thấy tình hình các vụ án hiếp dâm người dưới
16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2015 đến năm 2019, có những
thay đổi rõ rệt, có sự khác nhau rất nhiều qua từng năm. Trong 5 năm thống kê
số vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên cả nước có xu hướng giảm (261 vụ
án xuống 96 vụ án), giảm gần 2/3, tuy nhiên riêng đối với Thành phố Hà Nội
37
những năm gần đây tỷ lệ vụ án lại có chiều hướng tăng đáng kế (từ 5 vụ án lên
17 vụ án). Theo đó tỷ lệ vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi xảy ra trên địa bàn
Thành phố Hà Nội so với cả nước cũng theo đó mà tăng dần, cụ thể: năm 2015
chiếm 4.2%, năm 2016 con số này giảm xuống chỉ là 2.1%, tuy nhiên sang năm
2017 con số bắt đầu tăng nhanh lên 4.4%, năm 2018 chiếm 6.8%, sang năm
2019 con số đó chiếm tới tận 17.7%. Xét cả giai đoạn thì tại Hà Nội, tỷ lệ các
vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi có xu hướng tăng nhanh, năm 2019 tỷ lệ
này chiếm gần 1/5 so với cả nước. Điều đó thể hiện tình trạng tội phạm về Hiếp
dâm người dưới 16 tuổi đáng báo động của thành phố Hà Nội, các cơ quan chức
năng phải nhanh chóng vào cuộc, đẩy mạnh công tác đấu tranh, phòng chống
tệ nan hiếp dâm trẻ em.
Các cơ quan chức năng phải có trách nhiệm với tình hình tội phạm hiếp
dâm trẻ em tăng mạnh trong thời gian gần đây, số vụ án hiếp dâm người dưới
16 tuổi cứ tăng qua các năm là 1 tình trạng đáng báo động, thật sự là qua 5 năm
con số và tỉ lệ không những không giảm mà còn để tăng nhanh đến chóng mặt.
Theo bảng số liệu thống kê trên đồng nghĩa cho chúng ta thấy được thành
phố Hà Nội phải tăng cường bảo vệ trẻ em để giúp cho trẻ em tránh khỏi tình
trạng bị hiếp dâm, để giúp cho trẻ em có cuộc sống lành mạnh nhất, cùng với
đó đẩy lùi loại tội phạm hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên toàn bộ thành phố
Hà Nội, hay xa hơn là lãnh thổ Việt Nam chúng ta.
* Về áp dụng quy định pháp luật theo cấu thành cơ bản:
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn ta thấy, trong quá trình
giải quyết và xét xử, tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có vi phạm chiếm đa số
là ở khung cơ bản. Những dấu hiệu của hành vi do người phạm tội thực hiện
tương thích và phù hợp với dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể đơn giản được
quy định trong Bộ luật hình sự.
Khoảng 17 giờ ngày 05/4/2019, Nguyễn Bá Ư điều khiển xe mô tô BKS
99F1-211.82 đi đến nhà người quen là chị Trần Thị Th ở Thôn Đ, xã Th, huyện
38
Th, tỉnh B chơi. Khi đến cổng nhà chị Th, Ư thấy 02 con của chị Th là cháu
Nguyễn Thị Th, sinh ngày 14/10/2005 và cháu Nguyễn Bá H, sinh ngày
28/5/2010 đang chơi đá bóng ở sân. Thấy Ư đến, cháu H đi ra mở cổng cho Ư
vào nhà, vào đến sân Ư hỏi “mẹ cháu có nhà không?” Cháu Th trả lời “mẹ cháu
đi làm, mẹ cháu chưa về”. Ư dựng xe mô tô ở sân, đi vào trong nhà ngồi ở
giường, rồi gọi cháu H “Cò ơi, vào đây bác cho mười nghìn mua kẹo”. Nghe
thấy vậy, cháu H liền chạy vào trong nhà thì Ư đưa cho cháu H 02 tờ tiền loại
5.000đồng (tổng cộng 10.000đồng). Cháu H cầm tiền rồi chạy ra ngoài khoe
với Cháu Th và bảo “em đi mua kẹo đây”. Cháu Th nói “chị đi cùng với”. Lúc
này, Ư đang ngồi ở trên giường và nói vọng ra bảo Cháu Th “cháu vào đây bác
bảo” nên Cháu Th không đi cùng cháu H nữa mà đi vào trong nhà đứng ở gần
tủ kê ti vi. Ư hỏi Cháu Th “cháu có đi chơi không?”. Cháu Th trả lời “cháu
không đi”. Trong lúc Cháu Th ra bật ti vi và định lấy ruột nồi cơm điện để gần
tủ ti vi để đi nấu cơm thì Cháu Th thấy Ư cởi và kéo quần dài Ư đang mặc
xuống đầu gối còn quần đùi bên trong vẫn mặc. Lúc này, Ư không nói gì và đi
đến dùng tay trái nắm vào cổ tay phải của Cháu Th kéo Cháu Th vào ngồi ở
giường cùng với Ư. Khi Cháu Th vừa ngồi xuống giường bên tay trái trong tư
thế song song với Ư thì Ư dùng tay trái đưa ra trước mặt Cháu Th rồi gạt vào
phía ngực Cháu Th làm Cháu Th ngã nằm ngửa ra giữa giường, hai chân Cháu
Th thõng xuống đất rồi Ư nằm đè lên người Cháu Th thì Cháu Th bảo “bác đi
về đi”. Ư bảo “bác đợi mẹ mày về xong bác về”. Sau đó, Ư đứng dậy cởi quần
đùi Ư đang mặc kéo xuống đầu gối thì Cháu Th ngồi dậy. Ư lại dùng tay trái
đẩy Cháu Th nằm ngửa xuống giường. Lúc này, Ư dùng tay phải mở khuy và
kéo khóa quần bò dài màu xanh của Cháu Th đang mặc, rồi dùng hai tay kéo
cả quần dài và quần lót màu hồng của Cháu Th mặc bên trong xuống dưới. Ư
rút chân phải Cháu Th ra khỏi ống quần dài và ống quần lót bên phải, còn ống
quần dài và ống quần lót bên trái Ư kéo xuống đến đầu gối. Lúc này, Ư dùng
tay phải sờ vào bộ phận sinh dục rồi dùng ngón tay trỏ chọc sâu vào bên trong
39
âm hộ của Cháu Th. Ư thấy Cháu Th kêu “đau” nên Ư đứng dậy và đứng vào
giữa hai chân của Cháu Th, dùng hai tay đẩy hai chân Cháu Th dạng ra, tay trái
cầm dương vật nhét vào âm hộ của Cháu Th. Cháu Th dùng hai tay đẩy Ư ra
nhưng do Ư to khỏe nên không đẩy được. Mặt khác, Ư dùng một tay bịt miệng
Cháu Th nên Cháu Th không kêu gào được. Khi Ư nhét dương vật vào trong
âm hộ của Cháu Th, dập lên, dập xuống khoảng hai đến ba lần, thì Cháu Th
nghe thấy tiếng xe mô tô của chị Th đi làm về. Vì vậy, Cháu Th nói với Ư “mẹ
cháu về”. Ư vội vàng rút dương vật ra khỏi âm hộ của Cháu Th rồi đứng dậy
nép vào góc tủ để ti vi mặc lại quần rồi ngồi ở góc giường bên tay trái cạnh tủ
kê ti vi. Còn Cháu Th cũng tự mặc quần (nhưng quên không kéo khóa quần)
rồi đi ra gần tủ kê ti vi lấy ruột nồi cơm. Lúc này, chị Th đang đứng ở cửa nhà
thì nhìn thấy Cháu Th một tay cầm ruột nồi cơm điện, một tay kéo khóa quần
đang mặc. Thấy vậy, chị Th nghi ngờ Ư có hành vi hiếp dâm Cháu Th nên đã
hỏi Ư “ông vào đây làm gì?” Ư trả lời “tôi đến đây thăm hai bà và thăm hai
cháu” (ý là hỏi thăm chị Th, bạn của chị Th là chị Nguyễn Thị Th1, sinh năm
1974, trú tại thôn Kh, xã Th, huyện Th, tỉnh B và hai con của chị Th). Sau đó,
Ư đi ra sân lấy xe mô tô đi về. Chị Th đã hỏi Cháu Th về việc Ư đến nhà làm
gì nhưng Cháu Th sợ, không nói gì nên chị Th đã gọi điện thoại cho chị Th1 và
nhờ chị Th1 sang hỏi Cháu Th xem sự việc như thế nào. Khi chị Th1 đến nhà
hỏi Cháu Th thì Cháu Th đã kể cho chị Th1 biết toàn bộ hành vi mà Ư đã thực
hiện đối với Cháu Th lúc trước khi chị Th về. Vì vậy, chị Th1 bảo Cháu Th
nằm ra giường và kiểm tra bộ phận sinh dục của Cháu Th thì thấy có vết sưng
đỏ và Cháu Th kêu đau. Sau đó, chị Th bảo Cháu Th cởi quần áo đang mặc trên
người cho vào vào túi nilon và vứt đi. Khi Cháu Th cởi quần áo thì chị Th nhìn
thấy Cháu Th mặc áo phông cộc tay màu xám, có hoa văn hình con ngựa thêu
ở trước ngực, bên trong mặc áo nịt ngực màu xám; mặc quần bò dài màu xanh,
bên trong mặc quần lót màu hồng. Cùng ngày chị Th đã làm đơn trình báo Công
an huyện Thuận Thành tố cáo hành vi hiếp dâm của Nguyễn Bá Ư. Sau khi
40
nhận được tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tiến hành đưa Cháu Th
đến khám tại Bệnh viện sản nhi. Tại Biên bản khám nghiệm ngày 05/4/2019 của
Bệnh viện sản nhi có kết quả: Âm hộ vị trí 6h hơi đỏ, không chảy máu; Màng trinh
không chảy máu, hơi rộng, không rõ rách; không cho mỏ vịt nhỏ vào âm hộ kiểm
tra được vì bệnh nhân kêu đau; xét nghiệm vi sinh trên tiêu bản nhuộm soi không
phát hiện hình ảnh tinh trùng.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 142; điểm b, s khoản 1và khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự; Tòa án nhân dân huyện T đã tuyên bố bị cáo
Nguyễn Bá U phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, xử phạt Nguyễn Bá U
07 (bẩy) năm tù.
Qua những mô tả về hành vi khách quan trong diễn biến sự việc ở trên,
ta có thể thấy bị cáo Nguyễn Bá Ư là người thành niên, đã thực hiện hành vi
trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền được
bảo vệ về nhân phẩm, danh dự của trẻ em, xâm phạm đến sức khỏe và sự phát
triển bình thường của trẻ em. Hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý và
gây ra những hậu quả ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sức khỏe của người bị hại,
đặc biệt là gây tác hại nghiêm trọng đến sự phát triển đạo đức, hình thành nhân
cách và ảnh hưởng đến danh dự, phẩm giá của bị hại ở thời điểm hiện tại và cả
tương lai về sau. Bị cáo cũng nhận biết việc đe dọa dùng vũ lực để giao cấu trái
với ý muốn của người dưới 16 tuổi là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vì muốn
thỏa mãn dục vọng thấp hèn của bản thân và không có ý thức kiểm soát hành
vi của mình mà bị cáo đã bất chấp vi phạm, cho thấy trong tâm lý bị cáo có sự
coi thường luật pháp, gây bất bình và bị xã hội lên án.
* Về áp dụng quy định pháp luật theo cấu thành tăng nặng:
Ví dụ: Theo cáo trạng, khoảng 10h30 ngày 24/2/2019, sau khi bán thịt
xong, Nguyễn Trọng Trình điều khiển xe máy đi từ quận Thanh Xuân về thị
trấn Chúc Sơn, và đi theo đường tỉnh lộ 419 để về nhà ở thôn Lưu Xá, xã Hòa
Chính. Khi đi đến đoạn đường gần khu vực nghĩa trang liệt sỹ ở xã Hợp Đồng
41
(huyện Chương Mỹ), Trình nhìn thấy cháu Vũ Q (SN 2009, trú tại xã Hợp
Đồng) đang đi bộ một mình trên lề đường. Trình quan sát thấy xung quanh vắng
người, cháu Q lại không có người lớn đi kèm nên Trình đã nảy sinh ý định xâm
hại. Trình đã tiếp cận, giả là người quen của bố cháu Q, bảo bé gái lên xe máy
của Trình để y chở về. Sau đó, Trình đã đưa cháu Q đến vườn chuối ở thôn B.T,
xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ. Tại đây, Trình dùng vũ lực bóp miệng, bẻ
tay của cháu Q và thực hiện hành vi xâm hại. Hậu quả xảy ra, cháu Q bị gãy
răng số 03, gãy 1/3 xương quay tay phải, bị tổn thương tại nhiều vị trí ở vùng
kín; tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 9%.6 Bản án sơ thẩm khẳng định, hành vi của bị
cáo là đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, mà
còn xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của bị hại, gây ra hậu quả đau đớn cả
về thể xác lẫn tinh thần, gây chấn thương tâm lý, để lại di chứng lâu dài cho
cuộc sống bình thường sau này của bị hại, gây hoang mang lo lắng và bất bình
trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt, khi đối tượng bị xâm hại lại là trẻ em gái.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Trọng Trình đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm Hành vi của Bị cáo Nguyễn Trọng Trình
là đã vi phạm vào Điểm C, Khoản 3 điều 142 BLHS. Hành vi này của bị cáo
Trình đã xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người
bị hại, thể hiện sự suy đồi đạo đức của bị cáo, chà đạp lên thuần phong mỹ tục
của xã hội. Bị cáo Trình đã lợi dụng sự ngây dại, chưa có khả năng nhận thức
đầy đủ của người bị hại về quan hệ tình dục và đã thực hiện hành vi hiếp dâm
người bị hại.
Tòa án nhân dân Thành phố Nội đã quyết định tuyên phạt bị cáo Nguyễn
Trọng Trình mức án tù Chung thân về tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi". Ngoài
án phạt tù, bị cáo Trình còn bị Tòa tuyên buộc chịu trách nhiệm bồi thường cho
bị hại (do người giám hộ đại diện) số tiền 400 triệu đồng.
42
6 http://cand.com.vn/Ban-tin-113/Ban-an-chung-than-danh-cho-ga-do-te-o-huyen-Chuong-My- 561060/ (Truy cập ngày 01/09/2020).
2.3. Những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Thứ nhất, trong việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối
với nạn nhân là người dưới 16 tuổi. Mặt chủ quan của tội Hiếp dâm người dưới
16 tuổi được thể hiện qua việc thực hiện hành vi phạm tội với lỗi hoàn toàn cố
ý. Người thực hiện hành vi có khả năng nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội
phản ánh ở hành vi khách quan cùng đối tượng tác động. Trên thực tế khi điều
tra các vụ án liên quan, để xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với
trẻ em là việc làm khá phức tạp. Cùng sự phát triển nhanh chóng của xã hội
hiện nay, trẻ em được chăm sóc với điều kiện vật chất tốt nên thể chất phát triển
sớm, vóc dáng cao, lớn, ngoại hình có nhiều nét trưởng thành của người lớn.
Song song với đó là trình độ khoa học công nghệ thông tin hiện đại bùng nổ,
trẻ em được tiếp xúc từ rất sớm với các nguồn thông tin đa phương tiện phong
phú về hình thức, tạp nham về nội dung nên dù tuổi đời còn nhỏ nhưng sớm đã
có hành vi bắt chước người lớn hoặc tò mò về giới tính nhưng lại không được
cha mẹ, người thân, thầy cô hướng dẫn đúng cách. Có những trường hợp nạn
nhân đã nói sai độ tuổi hoặc cố ý nói sai để tạo điều kiện cho người phạm tội
cơ hội thực hiện hành vi giao cấu. Đối với các trường hợp như vậy, thực tiễn
việc xác định tội danh vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng nên có khi không thống nhất về tội danh đối với người phạm
tội. Có quan điểm cho rằng chỉ cần xét đến độ tuổi thực của trẻ em là độ tuổi
dưới 16 tuổi mà không cần xét đến việc người thực hiện hành vi có nhận biết
được hay không. Quan điểm khác lại cho rằng cần phải xác định cả độ tuổi thực
của trẻ em cùng với ý thức của chủ thể tội phạm (có hay không sự nhận thức
về đối tượng mình giao cấu là trẻ em).
Thứ hai, việc xác định hành vi thuộc mặt khách quan của người phạm
tội. Đối với tội phạm Hiếp dâm người dưới 16 tuổi mà đối tượng là trẻ em chưa
43
đủ 13 tuổi, nhiều trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội không thực hiện
hành vi giao cấu hoặc không đạt được mục đích giao cấu trong các lần thực
hiện tội phạm với cùng một nạn nhân. Tại khoản 4 Điều 142 BLHS quy định
“Trong mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp
dâm trẻ em……” đây là trường hợp người phạm tội có hành vi “giao cấu” với
nạn nhân, còn khi người phạm tội không thực hiện hành vi “giao cấu” mà chỉ
thực hiện các hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm của một tội
danh độc lập khác thì việc định tội danh được xác định ra sao? Có nhiều hướng
quan điểm như sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, hành vi do người phạm tội thực hiện cho
dù đạt có được hay không việc “giao cấu” với trẻ chưa đủ 13 tuổi đều thỏa mãn
quy định tại khoản 4 Điều 112 BLHS, nói cách khác thì khi người phạm tội
thực hiện nhiều lần hành vi phạm tội, cho dù có lần giao cấu được, có lần không
nhưng phạm tội với trẻ chưa đủ 13 tuổi đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo khoản 4 Điều 112 BLHS về tội Hiếp dâm trẻ em. Theo đó, các hành vi
trong tội này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, không quan trọng việc đạt được
mục đích giao cấu hay không, đây là dấu hiệu không bắt buộc khi định tội. Và
phạm tội với trẻ chưa đủ 13 tuổi, BLHS có khung hình phạt rất rộng: từ mười
hai năm đến hai mươi năm tù giam, tù chung thân hoặc tử hình. Nên qua quá
trình đánh giá, phân tích vụ án mà tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội hay xem các hành vi khác được quy định là tình tiết tăng nặng,
cá nhân, cơ quan có thẩm quyền sẽ quyết định mức hình phạt tương ứng.
- Quan điểm thứ hai, hành vi của người phạm tội đối với bị hại là trẻ chưa
đủ 13 tuổi, nếu đạt được mục đích giao cấu thì định tội Hiếp dâm người dưới
16 tuổi, nếu không đạt mục đích giao cấu mà hành vi thực hiện thỏa mãn tội
danh độc lập khác thì định thêm tội danh độc lập đó, ví dụ tội Dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi. Theo lý luận chung trong giáo trình tại các trường đại học,
tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi có đối tượng tác động là trẻ em từ đủ 13
44
đến dưới 16 tuổi. Trên cơ sở các tài liệu nghiên cứu, sách báo chuyên khảo thì
đối tượng tác động của tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là trẻ em chưa đủ
16 tuổi, có nghĩa bao gồm cả trẻ dưới 13 tuổi. Điều luật 146 BLHS thì quy định
chung chung là “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với
người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện
các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm...”.
Thực tiễn định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng ủng hộ quan
điểm thứ hai và thường xử lý theo luồng quan điểm này định thành 2 tội đối
với người phạm tội.
Do thực tiễn tồn tại nhiều cách hiểu cũng như quan điểm khác nhau nên
cách xử lý, định tội danh cũng có sự khác nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền.
Điều đó dẫn đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các cơ quan có thẩm quyền
đối với người phạm tội cũng có sự khác nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến tính
nghiêm minh, mục đích răn đe của pháp luật thông qua chế tài áp dụng đối với
người phạm tội.
Thứ ba, xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của tội phạm và tuổi
của nạn nhân. Tình hình thực tế hiện nay cho chúng ta thấy rằng, người phạm
tội và nạn nhân của tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi có xu hướng trẻ hóa, đối
nạn nhân và người phạm tội là trẻ chưa thành niên ngày càng gia tăng, trở thành
vấn đề báo động, đáng đáng quan tâm của xã hội. Đối với những vụ án hình sự
về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, việc xác định tuổi là tối quan trọng, là căn
cứ để định tội, định khung hoặc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Có
nhiều trường hợp, việc xác định tuổi là cơ sở quan trọng để định tội, ví dụ các
tội phạm quy định tại Điều 142 BLHS (tội hiếp dâm trẻ em); Điều 144 BLHS
(tội cưỡng dâm trẻ em); Điều 145 BLHS (tội giao cấu với trẻ em);... Hậu quả
gây ra bởi các vụ án hiếp dâm người dưới 16 tuổi là rất lớn và khó lường đối
với những tổn thất về tinh thần, vì vậy nên việc một người thực hiện hành vi
phạm tội này ở mức đặc biệt nghiêm trọng mà tuổi chưa đến mức chịu trách
45
nhiệm hình sự (dưới 14 tuổi) nên không phải chịu một chế tài tương xứng với
hành vi phạm tội thì có bảo đảm được tính nghiêm minh, răn đe nghiêm khắc
của luật pháp hình sự? Trong thực tiễn xét xử đã có một số trường hợp bị can
dù đã phạm tội nhiều lần nhưng do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên
vẫn không bị khởi tố xử lý mà chỉ đưa về địa phương để áp dụng các biện pháp
giáo dục, quản lý.
Đồng thời, độ tuổi của người bị hại càng nhỏ thì trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội càng cao. Mức hình phạt khác nhau ở mỗi độ tuổi, BLHS
quy định cụ thể tại các khoản 1, 2, 3, 4 của Điều 142. Tính chính xác trong việc
xác định tuổi của người bị hại càng cao thì việc ấn định khung hình phạt, lượng
hình của Hội đồng xét xử sẽ càng xác đáng và tương xứng với tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội trên thực tiễn. Ở các quận, huyện vùng
ngoại ô thành phố, nơi có lượng dân nhập cư rất nhiều, công tác kê khai, làm
giấy khai sinh không được thực hiện đầy đủ, có nhiều trường hợp đến tuổi đi
học vẫn chưa có giấy khai sinh hoặc được làm giấy khai sinh muộn từ 2 đến 5
năm sau ngày sinh (thậm chí nhiều hơn) nên thông tin trên giấy khai sinh, đặc
biệt là ngày tháng năm sinh không chính xác, tồn tại một số trường hợp người
bị hại không biết ngày tháng năm sinh của mình, khi cơ quan tiến hành tố tụng
tìm hiểu thì ngay người thân của người bị hại cũng không nhớ chính xác; vậy
nên trong trường hợp này, các cơ quan tiến hành tố tụng không thể đoán chính
xác được ngày, tháng, năm sinh của người bị hại.
Thứ tư, vướng mắc về xác định tình tiết của vụ án. Để định tội danh và
sau đó quyết định hình phạt việc xác định tình tiết của vụ án (sự thật của vụ
án) đóng vai trò quan trọng và là một khâu trong quá trình định tội danh và
quyết định hình phạt. Khi và chỉ khi xác định được tình tiết của vụ án thì mới
định tội danh và quyết định hình phạt một cách chính xác. Tuy nhiên, trong quá
trình tố tụng, việc xác định sự thật của vụ án còn nhiều vướng mắc do nguyên
46
chủ quan và khách quan.
Đối với các vụ án xâm hại tình dục trẻ em trong đó có tội Hiếp dâm người
dưới 16 tuổi thường bị người phạm tội tiến hành ở nơi vắng vẻ, chỉ có đối tượng
và nạn nhân tại hiện trường, không có người làm chứng trực tiếp, trong khi đó
các đối tượng bị tố cáo lại có thái độ ngoan cố, thiếu trung thực, khai báo quanh
co, chối tội hoặc chỉ nhận một phần hành vi phạm tội như chỉ nhận có hành vi
dâm ô nhằm chối tội vì bộ phận sinh dục của người bị hại quá nhỏ do chưa phát
triển đầy đủ, khi bị xâm hại, có phản ứng dãy dụa, hoảng loạn, la hét, kêu đau
nên hầu như hành vi giao cấu đều ở mức độ chưa đạt về hậu quả. Có bị can khai
khi thực hiện hành vi giao cấu, đã không thể đưa được dương vật vào sâu trong
âm đạo của nạn nhân, vì còn quá nhỏ, hoặc bị can chỉ có ý định cọ sát dương
vật của mình vào âm hộ của nạn nhân nhằm thỏa mãn dục vọng. Có trường hợp
bị can không nhận tội, chỉ khai nhận dùng ngón tay hay dụng cụ khác đưa vào
âm đạo của nạn nhân hoặc khai chỉ có hành vi sờ mó, hôn vào phận sinh dục
của nạn nhân,... điều này dẫn đến khó khăn cũng như gây ra quan điểm khác
nhau trong việc đánh giá chứng cứ và xác định tội danh của người thực hiện
hành vi phạm tội.
Bên cạnh đó, việc giám định xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em
còn nhiều hạn chế, bất cập. Luật Giám định tư pháp được Quốc hội khóa XIII,
kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2012, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013 không
quy định việc trưng cầu giám định pháp y về xâm hại tình dục đối với phụ nữ
và trẻ em là loại đặc biệt, cần được thực hiện nhanh để xác định thủ phạm, vì
vậy đã gây nhiều khó khăn trong quá trình tìm ra chứng cứ và gây khó khăn
cho công tác xử lý tội phạm.
Một vấn đề nữa là lời khai của trẻ em (nạn nhân) thường không được thống
nhất từ đầu đến cuối, chính xác các câu chữ 100% vì bản thân nhận thức của trẻ
về vấn đề đó không giống như người lớn để mà nhớ, mà mô tả chính xác. Cơ
47
quan chức năng lấy lý do người bị hại khai báo không nhất quán, chứng cứ, dấu
vết mờ nên không dám khởi tố vụ án, khởi tố bị can vì sợ oan sai; khi xét xử thì
lấy lý do lời khai bị hại bất nhất, không đáng tin cậy.
2.4. Nguyên nhân của những vướng mắc khi áp dụng pháp luật về Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Thứ nhất, nguyên nhân đến từ các quy định của BLHS. Tại Điều 142 về
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi còn nhiều vấn đề còn chưa thống nhất cách
hiểu, cách áp dụng (Ví dụ việc xác định độ tuổi thực của nạn nhân và người
phạm tội; xác định ý thức chủ quan, hành vi thuộc mặt khách quan, tình tiết của
vụ án; ...). Dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng có cách hiểu khác nhau,
từ đó kết quả giải quyết đối với các vụ án hình sự có cùng tính chất cũng có sự
khác nhau nhất định.
Thứ hai, Việt Nam là đất nước đang phát triển, cùng với sự biến đổi
không ngừng của các quan hệ xã hội đòi hỏi pháp luật phải có tính linh hoạt,
phù hợp với thực tiễn, dự phòng trước hướng phát triển của quan hệ xã hội cần
điều chỉnh. Tuy nhiên, do trình độ lập pháp của nước ta còn nhiều hạn chế cùng
với những khó khăn trong quá trình đổi mới đất nước, mở rộng nền kinh tế thị
trường, hội nhập quốc tế mà tuổi thọ của các văn bản pháp luật thường ngắn so
với các nước phát triển, có nền lập pháp lâu đời như Mỹ, Anh,... Các văn bản
pháp luật hình sự thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình
kinh tế - xã hội, kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chính vì lẽ đó mà khi
mỗi một văn bản pháp luật hình sự ra đời các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
phải mất một thời gian để có thể tìm hiểu, nghiên cứu áp dụng chính xác và
thống nhất những quy định mới. Trong khi đó, Hà Nội với đặc thù là Thành
phố lớn, nơi tập trung sinh sống, học tập và làm việc của rất nhiều người từ các
khu vực lân cận, vùng miền khác trên cả nước. Tình hình tội phạm Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi trên địa bàn Thành phố Hà Nội xảy ra ngày càng nhiều, mức
48
độ nguy hiểm và phức tạp cũng gia tăng, người phạm tội có nhiều thủ đoạn gây
khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Bản thân nạn nhân cũng là đối tượng
cần sự giám sát, quan tâm, chăm sóc của gia đình; với độ tuổi dưới 13 tuổi thì
công tác điều tra gặp khó khăn trong việc lấy lời khai, xác định các vấn đề nhân
thân; với độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi là lứa tuổi ham tìm hiểu, tò mò về mọi
thứ xung quanh, tâm lý nổi loạn, muốn thể hiện bản thân cùng với sự phát triển
của công nghệ thông tin mà những trẻ ở độ tuổi này rất dễ tiếp xúc với những
thông tin độc hại, bị dụ dỗ, giao thiệp với đối tượng xấu nên việc áp dụng pháp
luật cũng có nhiều trở ngại khi chính nạn nhân là người bao che, tạo điều kiện
cho người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ ba, xuất phát từ trình độ chuyên môn của cơ quan tiến hành tố tụng
còn hạn chế, công tác khám nghiệm hiện trường, giám định pháp y trong các
vụ hiếp dâm người dưới 16 tuổi chưa được kịp thời, chính xác; hoạt động lấy
lời khai, lấy ý kiến của bị hại cũng chưa khách quan do người tiến hành tố tụng
bên cạnh yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ còn phải là những người có kinh
nghiệm, có hiểu biết về tâm sinh lý của trẻ em.
Bên cạnh đó, thực tế việc đưa tin, xét xử công khai các vụ án về tội Hiếp
dâm người dưới 16 tuổi làm lộ danh tính nạn nhân, điều này không chỉ ảnh
hưởng không nhỏ đến lợi ích của người bị hại, mà còn gây bất lợi lớn đến việc
xử lý tội phạm. Do sợ ảnh hưởng đến nạn nhân mà nhiều gia đình đã chấp nhận
thỏa thuận bồi thường thay vì tố cáo hành vi của người phạm tội, người bị hại
và người đại diện trọng nhiều trường hợp cũng thiếu hợp tác với cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc khai báo 7. Nhiều trường hợp, sự việc bị phát hiện qua
các nguồn thông tin khác, cách thời điểm xảy ra một thời gian dài, chứng cứ
không thu thập được, việc giám định không thể thực hiện nên rất khó khăn
trong việc xác định sự thật khách quan, định tội danh và quyết định hình phát
khi giải quyết vụ án.
49
7 Th.S Vũ Hải Anh, “Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm Tội hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân”, Tạp chí Nghề luật, Số 1/2015, Tr.43-47.
50
Tiểu kết chương 2
Thông qua quá trình nghiên cứu thực tiễn định tội danh và áp dụng các
biện pháp trách nhiệm hình sự trong xét xử tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tác
giả cho rằng, nhìn chung công tác xét xử các vụ án hình sự này đã đúng người,
đúng tội, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm được tính răn đe, giáo dục đối
với người bị kết án và đạt mục đích đấu tranh phòng chống tội phạm đối với xã
hội, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật hình sự đồng thời đảm bảo nguyên
tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, các quy định của BLHS 1999 sau
khoảng thời gian dài áp dụng đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp vơi
sự phát triển của xã hội. Vấn đề này đã được khắc phục từ khi BLHS 2015 được
Quốc hội thông qua và có hiệu lực, song trải qua thực tiễn triển khai thực hiện
còn chưa thật sự toàn diện, khắc phục triệt để mọi tồn tại và hạn chế của BLHS
1999.
Công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hiếp dâm trẻ em của Tòa án thành phố
Hà Nội trong thực tế những năm qua cho thấy việc định tội danh và áp dụng
các biện pháp chịu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này đã đạt được những
kết quả tích cực đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
trên địa bản, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Tất cả những kết
quả đạt được và một số hạn chế còn tồn tại có nhiều nguyên nhân, bao gồm
nguyên nhân chủ quan và khách quan. Đây chính là cơ sở để từ đó tác giả
nghiên cứu, đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật
51
hình sự đối với tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ĐẮN
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Các yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi.
Yêu cầu bảo vệ quyền trẻ em: Chúng ta thấy rõ trẻ em là tương lai của
đất nước, trong độ tuổi dưới 16 tuổi là độ tuổi phát triển tốt nhất của các bé,
mang đầy nét vô tư và hồn nhiên của 1 đời người. Vì vậy, cần phải nâng niu,
quý trọng và dành tất cả những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em. Vì ở cái lứa tuổi này
các e dễ thay đồi tâm sinh lý, tinh thần của các em dễ bị ảnh hưởng, nếu các em
là nạn nhân của xâm hại tình dục thì hậu quả sẽ rất là khó lường, hầu hết sẽ ảnh
hưởng tới tâm lý của các em trong suốt phần đời về sau, khiến các em luôn
mang mặc cảm tự ti trong giao tiếp khiến cho tâm lý các em không được ổn
định. Điều đó dẫn đến làm cho tương lai của các em xấu đi.
Việt Nam được biết đến là quốc gia đầu tiên ở châu Á và là quốc gia thứ
2 trên thế giới phê chuẩn công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng
Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1989, việc không bảo lưu bất cứ điều
khoản nào thể hiện rất rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc quan
tâm bảo vệ quyền trẻ em ở mức độ cao nhất mang tầm quốc tế. Quá trình xây
dựng, ban hành BLHS 1999 với điểm mới tách riêng Tội Hiếp dâm trẻ em ra
khỏi Tội Hiếp dâm so với BLHS 1985 đã thể hiện quan điểm chú trọng bảo vệ
trẻ em và quyền trẻ em bằng pháp luật của các nhà lập pháp về cơ bản đã phù
hợp và đáp ứng được yêu cầu và quy định của hệ thống pháp luật trong nước
và quốc tế. Tiếp đó là sự ra đời của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em
52
số 25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004, Luật trẻ em số 102/2016/QH13
ngày 05/4/2016 đã chính thức ghi nhận Quyền được bảo vệ để không bị xâm
hại tình dục của trẻ em.
Trong suốt khoảng thời gian qua nhà nước đã giải quyết tình trạng trẻ
em lang thang, lao động sớm để kiếm sống, song tình trạng trẻ em bị xâm hại
tình dục vẫn xảy ra. Hoạt động bảo vệ trẻ em được tích cực thực hiện dựa trên
cơ sở củng cố, hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền trẻ
em và dịch vụ hỗ trợ, bảo vệ trẻ em nhằm hạn chế tình trạng trẻ em bị bỏ rơi,
bạo hành, bóc lột, lạm dụng, xâm hại, mua bán, ... song song với đó có những
chính sách cải thiện chất lượng và hiệu quả chăm sóc cho trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt.
Trong thời đại nền kinh tế thị trường, mở rộng hội nhập, vấn đề bảo vệ
trẻ em đặt ra nhiều thách thức mới, do vậy, trong tương lai cần củng cố và phát
triển hệ thống pháp luật về bảo vệ trẻ em và dịch vụ bảo vệ hỗ trợ trẻ em, đặc
biệt đối với pháp luật hình sự, cần tạo nên hệ thống pháp lý chặt chẽ, thực hiện
công tác phòng, chống và xử lý các loại tội phạm xâm hại tình dục bao gồm tội
hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Yêu cầu đảm bảo trật tự xã hội: Trong Nghị quyết số 08/NQ-TW, Đảng
ta đã thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo "Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu
quả và xử lí kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự... bảo đảm và tôn
trọng dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân". Nghị quyết
48/NQ-TW là “kim chỉ nam” định hướng cho Nhà nước cũng như cơ quan lập
pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền con người,
quyền tự do, dân chủ của công dân, hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối
với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; xử lí kịp thời, nghiêm minh
những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Nhận thấy rằng việc Đảng và Nhà nước ban hành các văn bản đều là những
yêu cầu mà mục tiêu cuối cùng hướng đến chính là hoàn thiện và áp dụng đúng đắn
53
các quy định của pháp luật.
Yêu cầu thực hiện bảo vệ công lý và đấu tranh phòng chống tội phạm:
Thứ nhất, về yêu cầu thực hiện bảo vệ công lý: Theo quy định tại
Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 xác định nhiệm vụ bảo vệ công lý
của cơ quan Tòa án như sau:
“Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người,quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”
Đây là sự thay đổi tích cực trong chính sách pháp luật của nhà nước, nhiệm
vụ bảo vệ công lý của tòa án được ghi nhận trong hiến pháp, đây là văn bản
quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất của Việt Nam, nội dung các văn
bản pháp lý khác không được trái với hiến pháp. Chính vì thế, hiến pháp là nền
tảng cơ sở và cũng là mục tiêu chung trong việc thực hiện bảo vệ công lý xã
hội mà Tòa án là cơ quan đi đầu phải thực hiện và có biện pháp thực hiện kịp
thời, đúng đắn.
Tòa án sử dụng hệ thống pháp luật làm công cụ cần thiết để thực hiện
nhiệm vụ duy trì và bảo vệ công lý của mình, vậy nên việc xây dựng và điều
chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật sao cho phù hợp với sự phát triển
của kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật và an ninh trật tự hiện nay sẽ
góp phần thực thi và bảo vệ pháp chế, chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền con người, quyền công dân cũng như quyền và lợi ích
hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Thứ hai, yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm. Phòng, chống tội
phạm là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cần kíp, thường xuyên, liên tục
và lâu dài nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi
hành, góp phần vào công cuộc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý, chỉ đạo
54
của Nhà nước.
Ý thức được yêu cầu cấp bách của việc phòng chống tội phạm xâm hại
tình dục trẻ em và đặc biệt là Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS
2015), so với trước đây, tại BLHS 2015 khái niệm hiếp dâm ngưới dưới 16 tuổi
đã được quy định cụ thể và chi tiết hơn, theo đó hiếp dâm người dưới 16 tuổi
là hành vi “dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan
hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của
họ” hoặc “giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
dưới 13 tuổi”. Điểm mới so với BLHS 1999 là không chỉ tội phạm đã hoàn
thành, giao cấu với nạn nhân mà ngay cả khi có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực,.. nhằm thực hiện hành vi tình dục khác thì đã đủ căn cứ cấu thành tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi. Điều này được cụ thể và chi tiết hóa trong việc mô tả
hành vi của tội phạm dưới góc độ pháp lý, hạn chế việc bỏ lọt tội phạm mà trước
đây cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc xử lý, không thống nhất
quan điểm.
Hoạt động theo dõi và nắm bắt tình hình diễn biến tội phạm đi từ quá trình
phân tích thực trạng, chỉ ra các nguyên nhân và tác động của đời sống xã hội
đến việc hình thành tội phạm là đóng góp quan trọng để Nhà nước ban hành
những chính sách pháp luật phù hợp, cùng với những biện pháp phòng chống kịp
thời, giúp cho công tác đấu tranh chống tội phạm đạt được hiệu quả, thể hiện tốt
hoạt động đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống, đảm bảo mục tiêu phát triển kinh
tế xã hội, giữ vững sự ổn định của nền chính trị.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi.
3.2.1. Giải pháp pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Thứ nhất, tiếp tục nhận thức, giải thích dấu hiệu giao cấu trong cấu
55
thành Tội hiếp dâm trẻ em.
Trước đây, thuật ngữ “giao cấu” theo Từ điển Luật học được giải thích
là hành động chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của
người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không xét
đến sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, có xuất tinh hay không. Đây là
cách hiểu và vận dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn áp
dụng pháp luật. Cách giải thích này phù hợp với quan điểm lập pháp của nhiều
nước trên thế giới. Tuy nhiên, với cách giải thích thuật ngữ “giao cấu” trong dự
thảo lại cho người đọc nhận thức rằng hành vi giao cấu chỉ áp dụng, với sự chủ
động của nam giới đối với nữ giới. Vậy việc người phạm tội đưa âm đạo vào
dương vật, không phân biệt mức độ nông hay sâu có bị coi là giao cấu hay
không? Mặc dù quan điểm của nhà làm luật đều xác định đó là hành vi giao
cấu, nhưng cách sắp xếp từ ngữ lại chưa phản ánh rõ mục đích, quan điểm của
nhà làm luật. Bên cạnh đó, một số quan điểm nghiên cứu cho rằng, không cần
thiết phải quy định thêm cụm từ “không phân biệt mức độ nông hay sâu, đã
xuất tinh hay chưa xuất tinh” vì đó là điều hiển nhiên, việc đưa dương vật vào
trong âm đạo thì nông hay sâu, xuất tinh hay chưa xuất tinh đều không phải
là dấu hiệu để định tội, đều bị coi là giao cấu. Tuy nhiên, tác giả lại cho rằng
việc giải thích rõ như trong dự thảo lại rất đầy đủ, rõ ràng, tạo sự nhận thức
thống nhất cho các cơ quan áp dụng pháp luật và đây chính là mục tiêu chung
của các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, thực tế có những vụ án mà nạn nhân chưa đầy 1 tuổi đã bị
xâm hại tình dục và do âm đạo của đứa trẻ quá nhỏ mà đối tượng không thể
đưa dương vật vào trong âm đạo của nạn nhân được nên đã gây ra những tổn
thương nghiêm trọng ở khu vực tầng sinh môn. Hay có những vụ án đối tượng
mới chỉ đưa dương vật vào vùng âm hộ, chưa đi sâu vào trong âm đạo của nạn
nhân thì đó có phải là giao cấu hay không? Rõ ràng, dưới khía cạnh lý luận,
người phạm tội chưa đưa được dương vật vào âm đạo hoặc ngược lại thì hành
56
vi đó chưa bị coi là giao cấu nên tội hiếp dâm chưa hoàn thành. Trường hợp
này, hành vi của người phạm tội chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội
hoặc phạm tội chưa đạt và trách nhiệm hình sự đặt ra nhẹ hơn so với trường
hợp tội phạm hoàn thành. Tác giả cho rằng, việc quy định về hành vi “giao
cấu” (hoàn thành) là phải có sự tiếp xúc giữa dương vật và âm đạo là phù hợp,
bảo đảm nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong từng trường hợp cụ
thể.
Cũng cần làm rõ về mặt lý luận vấn đè mục đích giao cấu. Nếu một
người “giao cấu” trái ý muốn với nạn nhân nhưng không nhằm mục đích thỏa
mãn tình dục thì có cấu thành tội hiếp dâm hay không? Ví dụ: A có mâu thuẫn
với B nên A đã bắt cóc cháu C (là con gái của B) để trả thù. Trong quá trình
giam giữ, A đã khống chế, cưỡng ép và đưa dương vật của mình vào âm đạo
của cháu C một cái rồi rút ra, với mong muốn làm cho cháu C và B tủi nhục,
đau đớn. A không có mong muốn thỏa mãn tình dục với cháu C. A có phạm
tội hiếp dâm hay không? Về lý luận hay thực tiễn xét xử đều khẳng định A
phạm tội hiếp dâm, bởi vì rõ ràng cấu thành tội phạm không xác định mục
đích nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục là dấu hiệu pháp lý bắt buộc. Người
phạm tội chỉ cần giao cấu trái ý muốn nạn nhân là cấu thành tội phạm hiếp
dâm, không cần xác định động cơ, mục đích phạm tội. Song có thể thấy rằng,
bản chất của hành vi bị coi là “giao cấu” đều hướng đến việc làm thỏa mãn
tình dục cho người thực hiện hành vi. Tác giả thiết nghĩ, để thống nhất về kỹ
thuật lập pháp trong việc giải thích thuật ngữ “giao cấu” và “hành vi quan hệ
tình dục khác” thì nên quy định thêm mục đích nhằm thỏa mãn nhu cầu tình
dục trong thuật ngữ “giao cấu”.
Từ phân tích đó có thể đưa ra khái niệm:“Giao cấu là hành vi có sự cọ
sát, tiếp xúc giữa dương vật với âm đạo, không phân biệt mức độ nông hay
sâu nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục”.
Thứ hai, giải thích thuật ngữ “hành vi quan hệ tình dục khác” quy định
57
tại khoản 1 Điều 142.
Theo Nghị quyết 06/2019/NQHĐTP thì “hành vi quan hệ tình dục
khác” là những hành vi quan hệ tình dục không phải là hành vi giao cấu
nhưng vẫn nhằm làm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội (ví dụ:
người phạm tội sử dụng tay, chân, lưỡi, miệng, các dụng cụ tình dục hoặc bất
cứ công cụ nào khác để kích thích âm đạo, dương vật hoặc hậu môn của người
bị hại hoặc người phạm tội đưa bộ phận sinh dục của mình vào miệng hoặc
hậu môn của người bị hại nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục).
Đây là nội dung có rất nhiều tranh luận, quan điểm khác nhau và cũng
là tâm tư của nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Với quy định trên thì
hành vi quan hệ tình dục khác rất dễ bị nhầm lẫn với hành vi dâm ô, đôi khi
không phân biệt được. Ví dụ: Người phạm tội chân kích thích hậu môn của
người bị hại; người phạm tội hôn vào mông của người bị hại thì thì đây là
hành vi quan hệ tình dục khác hay dâm ô? Bởi vì, đối với hành vi quan hệ tình
dục khác trong dự thảo không nêu rõ người phạm tội sẽ dùng những hành
động gì, bộ phận gì để thỏa mãn nhu cầu tình dục, miễn đó không phải là hành
vi giao cấu. Đồng thời, dự thảo có lấy ví dụ một vài trường hợp thể hiện hành
vi quan hệ tình dục khác nhưng không có nghĩa đó là tất cả những trường hợp
có thể xảy ra trên thực tế.
“Hành vi quan hệ tình dục khác” trong các tội quy định tại Điều 141,
142, 143, 144, 145 có đòi hỏi người phạm tội phải có mục đích nhằm thỏa
mãn nhu cầu tình dục. Nếu đối tượng thực hiện những hành vi có sự tác động,
tiếp xúc vào bộ phận nhạy cảm trên cơ thể trái ý muốn nạn nhân và không
nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu tình dục thì sẽ không bị coi là hành vi quan
hệ tình dục khác. Ví dụ: A ép buộc B phải dùng tay cầm vào dương vật của
mình để A đi vệ sinh. Hành vi này của A sẽ không bị coi là hành vi quan hệ
tình dục khác vì nó không nhằm thỏa mãn nhu cầu tình dục, mà có thể xem
xét về hành vi làm nhục người khác... Tuy nhiên, ranh giới của hành vi trên
58
với việc đối tượng bắt ép nạn nhân dùng tay phải kích thích dương vật của
mình nhằm thỏa mãn tình dục là rất mong manh, nhất là khi nạn nhân chưa
thực hiện các hành động kích dục và đối tượng chưa xuất tinh, thì vấn đề
chứng minh mục đích thỏa mãn nhu cầu tình dục là khó khăn nếu đối tượng
sẽ không thừa nhận mục đích thỏa mãn tình dục của mình mà có thể lấy lý do
là mâu thuẫn muốn trả thù, làm nhục nạn nhân… Vấn đề này đòi hỏi các cơ
quan tiến hành tố tụng cần phải đánh giá, xem xét rất toàn diện về các tình tiết
của vụ án để chứng minh được động cơ, mục đích của người phạm tội.
Vậy “hành vi quan hệ tình dục khác” nên được hiểu theo nghĩa nào cho
phù hợp và phân biệt được với hành vi dâm ô. Tác giả cho rằng, khi nói đến
hành vi quan hệ tình dục thì phải có sự tham gia của bộ phận sinh dục, có thể
là bộ phận sinh dục nam (dương vật) hoặc bộ phận sinh dục nữ. Nếu một hành
vi đụng chạm vào những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể nhưng không phải là
bộ phận sinh dục thì không thể bị coi là hành vi quan hệ tình dục khác. Ví dụ:
Dùng tay kích thích vào hậu môn; dùng miệng kích thích vào ngực… Tuy
nhiên, nếu mô tả cụ thể hành vi nào là quan hệ tình dục khác, hành vi nào là
dâm ô trong nhiều trường hợp là rất khó khăn. Ví dụ: Dùng miệng hôn vào bộ
phận sinh dục có thể đánh giá là dâm ô, nhưng nếu dùng lưỡi liếm vào bộ
phận sinh dục có thể đánh giá là hành vi quan hệ tình dục khác; hay nếu dùng
tay cầm, nắm, vuốt ve vào bộ phận sinh dục được cho là dâm ô, nhưng dùng
tay mà “kích dục” (cọ sát, chà sát hoặc thâm nhập) vào bộ phận sinh dục có
thể đánh giá là hành vi quan hệ tình dục khác… Do đó khi giải thích thuật ngữ
“hành vi quan hệ tình dục khác” nên theo hướng khái quát và các cơ quan tiến
hành tố tụng trong từng vụ việc sẽ đánh giá, xem xét, cân nhắc để xác định đó
có phải là hành vi quan hệ tình dục khác không, phản ánh bản chất của hành
vi phạm tội và động cơ, mục đích của người phạm tội.
Với những phân tích, đánh giá trên, có thể đưa định nghĩa :“Hành vi
quan hệ tình dục khác là những hành vi quan hệ tình dục không phải là giao
59
cấu nhưng vẫn nhằm làm thỏa mãn nhu cầu tình dục của người phạm tội, có
sự cọ sát, chà sát hoặc thâm nhập của bộ phận sinh dục hoặc vào bộ phận
sinh dục”.
Ví dụ: Người phạm tội sử dụng tay, chân, lưỡi, miệng, các dụng cụ tình
dục hoặc bất cứ công cụ nào khác để cọ sát, thâm nhập, kích thích âm đạo,
dương vật của người bị hại hoặc người phạm tội đưa bộ phận sinh dục của
mình vào miệng hoặc hậu môn của người bị hại…
Thứ ba, giải thích trường hợp lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được
của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều 142.
Theo Nghị quyết 06/2019/NQHĐTP “Lợi dụng tình trạng không thể tự
vệ được của nạn nhân là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại
đang bị ốm đau, bệnh tật, tai nạn, bị ngất hay bị mê man, bất tỉnh do sử dụng
các chất kích thích (như: rượu, bia, ma túy, thuốc an thần hoặc các chất kích
thích khác) hoặc bị tâm thần dẫn đế không thể chống cự được để giao cấu
hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”.
Nghị quyết đã nêu ra được những trường hợp phổ biến xảy ra trên thực
tế về dạng hành vi này. Tuy nhiên nếu quy định chính xác, cụ thể những trường
hợp được viện dẫn trên liệu có phản ánh đầy đủ hết được những khả năng phát
sinh trong thực tiễn hay không? Ví dụ: Người phạm tội lén lút, bí mật lợi dụng
lúc gia đình không chú ý, đã bắt cóc đứa trẻ 10 tháng tuổi. Sau đó, đối tượng
giao cấu với đứa trẻ đó. Vậy đây có được coi là lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân để giao cấu hay không? Tác giả cho rằng, đây thuộc
trường hợp lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân nhằm mục
đích giao cấu. Do đó, dự thảo nên quy định theo hướng giải thích ngắn gọn và ví
dụ một vài trường hợp phổ biến xảy ra trên thực tế, chứ không nên quy định
chính xác, cụ thể chỉ bao gồm những trường hợp trên.
Đối với trường hợp hiếp dâm người bị tâm thần. Đây là trường hợp mà
thực tiễn xét xử cũng gặp phải nhiều khó khăn, liên quan đến việc giám định
60
xem nạn nhân có phải là người tâm thần hay không và thời điểm đối tượng
thực hiện hành vi phạm tội thì nạn nhân có nhận thức được việc mình đang bị
xâm hại hay không. Một người có tiền sử bệnh tâm thần, không phải họ luôn
không nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình mà vẫn có những khoảng
thời gian nhất định họ vẫn nhận thức và điều khiển được hành vi của mình
hoặc chỉ hạn chế việc đó. Vậy người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu khi
nạn nhân là người có tiền sử bệnh tâm thần và họ nhận thức, điều khiển được
hành vi của mình, không chống cự gì đối với người phạm tội nhưng ngay sau
đó họ lại không nhận thức được thì đối tượng có phạm tội hiếp dâm không?
Và cơ quan chuyên môn có thể giám định chính xác được thời điểm người
phạm tội thực hiện hành vi thì nạn nhân có khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi hay không? Lời khai của một người tâm thần rất khó được xác định
là chứng cứ để buộc tội người khác?... Điều này làm cho hoạt động điều tra,
xử lý đối tượng rất khó khăn. Tác giả cho rằng, người tâm thần (đang bị tâm
thần hoặc đã có tiền sử về bệnh tâm thân) là những người không có khả năng
tự vệ. Nếu quy định “người bị tâm thần dẫn đến không thể chống cự được”
như trong dự thảo sẽ không bảo vệ tốt nhất cho những người đang hoặc có
tiền sử về bệnh tâm thần. Nhiều trường hợp sau khi bị đối tượng xâm hại tình
dục, nạn nhân đã trở nên hoang tưởng, rối loạn tâm thần hoặc hành vi, tình
trạng bệnh tâm thần trở nên nghiêm trọng. Do đó, một người giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người tâm thần (đang bị tâm thần
tức là không có khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi hoặc đã có tiền
sử về bệnh tâm thần) mà người phạm tội biết rõ thì người đó phạm tội hiếp
dâm. Với những phân tích, đánh giá trên, có thể hướng dẫn trường hợp: “Lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân quy định tại khoản 1 Điều
141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là việc người phạm tội lợi dụng
tình trạng nạn nhân không có đủ điều kiện, khả năng bảo vệ bản thân, chống
cự lại đối với hành vi xâm hại của người phạm tội để giao cấu hoặc thực hiện
61
hành vi quan hệ tình dục khác. Ví dụ: Người phạm tội biết rõ nạn nhân là
người tâm thần và lợi dụng tình trạng đó để giao cấu hoặc thực hiện hành vi
quan hệ tình dục khác; người phạm tội lợi dụng tình trạng nạn nhân bị ốm
đau, bệnh tật, tai nạn dẫn đến không có khả năng chống cự…”.
Thứ tư, giải thích thuật ngữ “thủ đoạn khác” khoản 1 Điều 142.
Theo Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP: “Thủ đoạn khác quy định tại
khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là những thủ đoạn
không phải dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không
thể tự vệ được của nạn nhân, như lừa gạt, dụ dỗ, hứa hẹn, dọa nạt, cho nạn
nhân sử dụng rượu bia, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích hoặc các chất
kích thích khác để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”.
Nghị quyết đã nêu ra rất nhiều thủ đoạn có thể xảy ra trên thực tế để
xác định dạng hành vi “thủ đoạn khác” trong tội hiếp dâm và tội hiếp dâm
người dưới 16 tuổi. Những thủ đọa khác này cũng có thể là những thủ đoạn
mà người phạm tội có thể thực hiện trong tội cưỡng dâm hoặc cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Điểm mấu chốt để phân biệt trong trường
hợp này là trong tội hiếp dâm thì người phạm tội đã giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình khác “trái ý muốn” của nạn nhân; còn trong tội cưỡng
dâm thì nạn nhân chỉ “miễn cưỡng” giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ
tình dục khác, chứ không trái ý muốn, tức là nạn nhân vẫn có quyền lựa chọn
việc có cho đối tượng giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác
đối với mình hay không. Vậy một người có hành vi hứa hẹn, dụ dỗ nạn nhân
có thể dẫn đến việc người đó giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác trái ý muốn với nạn nhân hay không. Tác giả chưa thể khẳng định là
không có nhưng để đưa ra một trường hợp cụ thể là khó. Thực tế cho thấy,
nhiều người trong quá trình đi chơi lên bar, đi hát karaoke đã rủ nhau sử dụng
chất ma túy rồi quan hệ tình dục với nhau. Nếu đối tượng muốn giao cấu trái
62
ý muốn với người khác nên rủ rê, dụ dỗ nạn nhân cùng sử dụng chất ma túy
để tạo kích thích, ham muốn tình dục và cùng nhau quan hệ tình dục thì việc
chứng minh có trái ý muốn nạn nhân hay là không thể.
Về bản chất của hành vi hiếp dâm đó là việc giao cấu hoặc thực hiện
hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn nạn nhân. Và dấu hiệu để nhận biết
việc “trái ý muốn” đó là do người phạm tội đã dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
lực đối với nạn nhân hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân. Tuy nhiên, trên thực tế thủ đoạn phạm tội của người phạm tội là rất đa
dạng, nếu chỉ quy định 3 dạng hành vi nêu trên khó có thể xử lý triệt để được
những hành vi xâm phạm đến quyền được bảo hộ về nhân phẩm, danh dự của
người khác. Vì vậy cần phải quy định dạng hành vi thứ 4 là “thủ đoạn khác”
để xử lý người phạm tội trong những trường hợp mà nhà làm luật chưa thể dự
liệu hết được. Điều này cũng giống như dạng “hành vi khác làm cho người bị
tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được” trong tội cướp tài sản.
Do đó, việc liệt kê những trường hợp như trong cũng chưa đầy đủ và chưa
phản ánh rõ bản chất của tội hiếp dâm so với tội cưỡng dâm, tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16
tuổi… Tác giả cho rằng, khi nói đến thủ đoạn khác trong tội hiếp dâm, tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi thì thủ đoạn đó phải hướng đến việc làm cho nạn nhân
không thể chống cự được, tê liệt về tinh thần hoặc thể chất hoặc làm nạn nhân
không có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi giao cấu hoặc thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác của người phạm tội. Với sự phân tích, đánh
giá trên, có thể hướng dẫn: “Thủ đoạn khác quy định tại khoản 1 Điều 141 và
khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội dùng
bất kỳ thủ đoạn nào, không phải dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân nhưng làm cho nạn nhân
lâm vào tình trạng không thể tự vệ, chống cự được hoặc không có khả năng
biểu lộ ý chí của mình để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục
63
khác”.
Thứ năm, giải thích thuật ngữ “trái ý muốn của nạn nhân” quy định tại
khoản 1 Điều 142.
Nghị quyết 06/2019/NQHĐTP thì Trái ý muốn của nạn nhân quy định
tại khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là người bị
hại không đồng ý, miễn cưỡng hoặc không có khả năng biểu lộ ý chí của mình
đối với hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác của người phạm
tội nhưng người phạm tội vẫn cố ý thực hiện”.
Tác giả cho rằng, “trái ý muốn” không thể được hiểu theo nghĩa miễn
cưỡng đồng ý được. Nếu giải thích thuật ngữ “trái ý muốn” là “miễn cưỡng
đồng ý” trong tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi sẽ nhầm lẫn với
sự “miễn cưỡng” trong tội cưỡng dâm, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi và không chính xác về nghĩa.
Với sự phân tích, đánh giá trên, có thể hướng dẫn:“Trái ý muốn của nạn
nhân quy định tại khoản 1 Điều 141 và khoản 1 Điều 142 của Bộ luật Hình sự là
người bị hại không đồng ý (không thuận tình) hoặc không có khả năng biểu lộ ý
chí của mình đối với hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác của
người phạm tội nhưng người phạm tội vẫn cố ý thực hiện”.
Thứ sáu, có tính chất loạn luân theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
142 BLHS 2015.
Theo hướng dẫn trường hợp phạm tội có tính chất loạn luân được hướng
dẫn là một trong các trường hợp sau đây:
“a) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu
với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em
cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;
b) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu
với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế;
c) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu
64
với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể”.
Đối với trường hợp này, nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ thực tiễn cho
rằng không phù hợp, phạm vi điều chỉnh của trường hợp này là quá rộng và
không phù hợp với tội loạn luân (Điều 184). Theo đó, hành vi loạn luân là
hành vi của người có hành vi giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng
dòng máu trực về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha
khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay có nhiều vụ
án mà giữa người phạm tội và người bị hại có mối quan hệ là con dâu, bố
chồng, mẹ vợ, con rể, con riêng của vợ hoặc chồng, bố dượng, mẹ kế. Điều
này đã gây ra nhiều bức xúc trong dư luận xã hội, làm phá vỡ trật tự đạo đức
xã hội, đạo đức trong gia đình, phá hoại hạnh phúc gia đình. Tác giả cho rằng,
trường hợp người phạm tội và người bị hại có mối quan hệ là con riêng của
vợ hoặc của chồng, bố dượng, mẹ kế là hoàn toàn không cùng dòng máu trực
hệ, mối quan hệ này không mang tính chất trong gia đình một cách thực sự,
chính thống. Đối với trường hợp người phạm tội và người bị hại có mối quan
hệ con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể lại mang theo một tính chất khác, có tính
chất trong gia đình một cách thực sự, chính thống và hệ lụy gây ra cho gia
đình, xã hội hết sức nghiêm trọng, hạnh phúc gia đình sẽ bị ảnh hưởng, thậm
chí tan vỡ. Do đó, tác giả cho rằng, việc mở rộng phạm vi trong trường hợp
“có tính chất loạn luân” đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể là phù hợp,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thể hiện sự răn đe của pháp luật, nâng cao hiệu quả
phòng ngừa đối với các tội xâm phạm tình dục. Việc mở rộng phạm vi như
vậy cũng không mâu thuẫn với tội loạn luân (Điều 184), bởi vì đây là văn bản
hướng dẫn đối với các tội phạm quy định từ Điều 141 đến Điều 147. Song
thời gian tới, đối với tội loạn luân cũng nêu được điều chỉnh, bổ sung theo
hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh như vậy cho phù hợp, thống nhất về tư
duy, kỹ thuật lập pháp.
Với sự phân tích, đánh giá trên, có thể hướng dẫn: “Có tính chất loạn
65
luân quy định tại điểme khoản 2 Điều 141, điểm a khoản 2 Điều 142, điểm d
khoản 2 Điều 143 và điểm a khoản 2 Điều 144 của Bộ luật Hình sự là một
trong các trường hợp sau đây:
a) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu
với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em
cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;
b) Người phạm tội thực hiện hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu
với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể”.
3.2.2. Các giải pháp khác
Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh, phòng ngừa tội phạm xâm hại
tình dục trẻ em, cần có sự áp dụng trên mọi mặt của đời sống xã hội như: kinh
tế, chính trị, văn hóa, giáo dục... có sự tham gia của tất cả các lực lượng trong
xã hội bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đoàn thể và quần
chúng nhân dân nhằm xóa bỏ những hiện tượng tiêu cực được xác định là
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm này. Đây là biện pháp phòng ngừa mang
tính quần chúng rộng rãi, được tiến hành bằng các biện pháp xây dựng môi
trường xã hội lành mạnh. Quá trình này tạo nên tiền đề về vật chất, tư tưởng và
tinh thần nhằm xoá bỏ những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh hành vi
phạm tội. Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền và nghĩa vụ tham gia công
tác phòng ngừa xã hội với tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Giải pháp đến từ
các hoạt động điều tra truy tố.
Bộ luật hình sự đang có hiệu lực nhìn chung đã đáp ứng yêu cầu đấu
tranh phòng chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Tuy nhiên, trong bối
cảnh mới, xã hội phát triển với nhiều hình thức, thủ đoạn phạm tội mới cho nên
một số quy định của pháp luật đã bộc lộ những bất cập, cần nghiên cứu, hoàn
thiện bổ sung. Vì vậy để nâng cao hơn nữa hiệu quả trong hoạt động điều tra
truy tố, xét xử các vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em thì nên thực hiện một số
66
giải pháp sau đây:
Thứ nhất, phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng và các cơ quan nhà nước có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự
có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em, thực hiện tốt công tác thực thi pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra cần phối
hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để làm tốt công tác thuyết phục nạn
nhân là trẻ em và gia đình không che dấu do tâm lý sợ hãi, xấu hổ để họ giúp
đỡ trong việc thu thập chứng cứ của vụ án, nâng cao chất lượng giải quyết vụ
án và tăng cường tính răn đe khi các vụ án đều được giải quyết triệt để.
Thứ ba, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm người tiến
hành tố tụng, không bao che cho kẻ có tội khi giải quyết vụ án hình sự có tội
danh xâm phạm tình dục trẻ em.
Đối với tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong thời gian tới, theo chúng
tôi cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường nhận thức đúng đắn về lý luận, pháp luật và áp dụng
pháp luật đối với Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thông qua công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về hình sự, hôn nhân gia đình, về chăm
sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em và phòng chống xâm hại tình dục cho đồng bào
dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, vùng đặc biệt khó
khăn. Đẩy mạnh hơn hoạt động thông tin, tuyên truyền Chiến lược Quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020. Việc tuyên truyền, phổ biến
pháp luật này phải có kế hoạch, lộ trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể, trong đó chú
trọng đến việc lồng ghép nội dung tuyên truyền trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ
dân phố; chương trình ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các
tổ chức, đoàn thể các cấp để mọi cá nhân thấy rõ tính nghiêm minh của luật pháp,
tự giác tuân thủ pháp luật. Đồng thời, công tác tuyên truyền cũng làm cần làm cho
mọi cá nhân hiểu rõ hành vi hiếp dâm là một tội ác và cần lên án gay gắt, tự đó có
67
ý thức tiếp thu, chủ động trang bị cho mọi người (đặc biệt là trẻ em) những kiến
thức, kĩ năng phòng vệ, xử lý tình huống trong các trường hợp bị kẻ xấu dụ dỗ,
xâm hại.
Thứ hai, nghiên cứu, đưa ra bộ chỉ số thống kê tội phạm xâm hại tình
dục trẻ em để phục vụ công tác đấu tranh phòng chống; dự báo tình hình, từ đó
có các giải pháp phòng ngừa, bảo vệ trẻ em trước những hành vi xâm hại, nhất
là đối với nhóm trẻ có nguy cơ bị xâm hại cao như trẻ em đường phố, lang
thang cơ nhỡ, trẻ em nam là nạn nhân của xâm hại tình dục. Cần quy định về
quy trình, trách nhiệm đánh giá nguy cơ và quản lý trường hợp trẻ em bị xâm
hại cũng như những quy định cụ thể về tiêu chuẩn đánh giá mức độ nguy cơ
gây tổn hại cho trẻ em của các hành vi bị xâm hại đối với trẻ em.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện những hệ thống quy trình, tiêu chuẩn,
biên pháp bảo vệ trẻ em bị xâm hại một cách hiệu quả; thống nhất và tăng cường
các hoạt động phối hợp liên ngành để xác định, điều tra, xử lý mỗi trường hợp
trẻ em bị xâm hại, trong đó cần quy định cụ thể, chi tiết, đầy đủ các thủ tục, quy
trình và trách nhiệm phòng ngừa, phát hiện, tố giác, trợ giúp, giải cứu và giải
quyết những trường hợp trẻ em bị xâm hại của cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội, nhà trường, gia đình, cá nhân có liên quan. Cần thành lập những trung tâm
tư vấn về tâm lý để giúp cho nạn nhân có thể chia sẻ, chữa trị các vấn đề tâm
lý, việc tư vấn sẽ giúp họ có thể quên quá khứ, hướng tới tương lai, từ đó có
thể dần dần sống thanh thản hơn và hoà nhập được vào cuộc sống của cộng
đồng. Hiện nay, việc vận động các nguồn hỗ trợ từ cộng đồng để thành lập
những "ngôi làng" – tổ chức giải cứu, nuôi dưỡng và trợ giúp xây dựng tương
lai cho những trẻ bị xâm hại tình dục hoặc có nguy cơ cao trở thành nạn nhân
khai thác tình dục trẻ em đã xuất hiện và đã mang lại hiệu quả tốt, giúp các em
trở về với cuộc sống bình thường, vượt qua mặc cảm, nỗi ám ảnh của quá khứ8.
68
8 https://thanhnien.vn/thoi-su/het-long-vi-nguoi-dung-nguoi-giai-cuu-tre-bi-xam-hai-1121944.html (Truy cập ngày 05/09/2020).
Những việc làm này cần được khuyến khích, nhân rộng dưới sự kiểm soát của
xã hội.
Thứ tư, chủ động xác minh, nắm tình hình, diễn biến hoạt động của tội
phạm xâm hại tình dục trẻ em, có kế hoạch phòng ngừa, ngăn chặn, theo sát và
quản lý chặt chẽ số lượng thanh thiếu niên chậm tiến, từng có tiền án, tiền sự,
các băng nhóm trên địa bàn và các đối tượng khác có nguy cơ hay xu hướng
thực hiện hành vi xâm phạm tình dục. Hỗ trợ vật chất cho những gia đình trẻ
em gái bị xâm hại tình dục thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo.
Thứ năm, tăng cường điều tra, xử lý tội phạm xâm hại tình dục trẻ em
kết hợp với công tác đấu tranh, phòng ngừa vi phạm pháp luật trong thanh thiếu
niên, học sinh và vận động nhân dân phát hiện, tố giác kịp thời các hành vi xâm
hại trẻ em, trong đó có phương pháp kết nối, khuyến khích gia đình và trẻ em
là nạn nhân tố giác tội phạm. Đối với người phạm tội cần phải bị xử lý nghiêm
khắc, kịp thời và đúng pháp luật, nêu cao tinh thần kiên quyết đấu tranh đến cùng
để không bỏ lọt tội phạm. Tổ chức tốt các phiên tòa lưu động đối với các vụ án
xâm hại tình dục trẻ em nhưng phải đảm bảo thuần phong mỹ tục, danh tính và bí
mật đời tư của nạn nhân phải được tôn trọng và bảo đảm không gây ảnh hưởng
đến đời sống sinh hoạt bình thường tại địa phương
Thứ sáu, tăng cường sự quản lý của nhà nước về trật tự xã hội, thường
xuyên thực hiện công tác kiểm tra đột xuất những cơ sở hoạt động dịch vụ văn
hóa, giải trí để ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với mọi
hành vi tuyên truyền, phát hành văn hóa phẩm đồi trụy dưới mọi hình thức. Rà
soát, đánh giá một cách toàn diện hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan
đến việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em để từ đó có sự bổ sung, điều chỉnh phù hợp
với tình hình phát triển của các quan hệ xã hội. Tăng cường quản lý nhà nước
về trật tự xã hội, kiên quyết xử lý những tụ điểm phức tạp gây mất trật tự trị an,
đặc biệt là các nhà hàng, quán hát, vũ trường, điểm matsage, quán Internet có tổ
69
chức hoặc cho người sử dụng truy cập vào những trang web xấu có nội dung khiêu
dâm, kích động tình dục, bạo lực, tuyên truyền lối sống phi đạo đức, đưa đến
những nhận thức sai lệch về hành vi xã hội.
Thứ bảy, cần tăng cường công tác hợp tác quốc tế giữa các nước, các tổ
chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ nhất là các quốc gia có chung đường
biên giới với nước ta như Trung Quốc, Lào, Camphuchia để chia sẻ kinh
nghiệm, trao đổi thông tin cần thiết nhằm hỗ trợ các nạn nhân bị xâm hại, trường
70
hợp cần thiết cần can thiệp đưa các em trở lại với gia đình.
Tiếu kết chương 3
Xuất phát từ chính tình hình thực tiễn định tội danh và áp dụng các biện
pháp trách nhiệm hình sự đối với tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trên địa bàn
thành phố Hà Nội, tác giả đã chỉ ra và phân tích những hạn chế, khó khăn cũng
như những vướng mắc trong quá trình định tội danh và quyết định quyết định
trách nhiệm hình sự. Từ đó, thông qua Chương 3 này tác giả đã trình bày, phân
tích các yêu cầu áp dụng pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi,
trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong thực tế trên phạm vi cả
nước nói chung và tại địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng.
Từ các giải pháp mang tính nền tảng, yêu cầu cần có sự phù hợp trong các
quy định của pháp luật hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật củ
thể, rõ ràng để giải thích rõ hơn và có cách hiểu thống nhất các quy định của
pháp luật, tăng cường công tác tổng kết thực tiễn xét xử để đưa ra những kinh
nghiệm cần thiết trong thực tiễn hoạt động xét xử cũng như đồng bộ cách xử lý
một số trường hợp đặc biệt mà trước đây có sự khác nhau trong cách hiểu và
áp dụng.
Nhà nước cần chú trọng và dành sự quan tâm nhiều hơn nữa trong công
tác nâng cao chất lượng đội ngũ áp dụng pháp luật, đặc biệt chú ý là nghiệp vụ
và kiến thức pháp luật của Hội thẩm nhân dân, bên cạnh vấn đề chuyên môn còn
cần chú tâm đến đạo đức hành nghề. Đồng thời công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật cho người dân, nâng cao mặt bằng dân trí về nhận thức pháp
luật cần tiếp tục được coi trọng vì bản thân pháp luật đã mang chức năng giáo dục,
tất yếu người có hiểu biết pháp luật sẽ có ý thức chấp hành pháp luật tốt hơn đa số
người có hiểu biết pháp luật hạn chế.
Ngoài ra cũng phải rèn luyện cho trẻ em những kỹ năng sống cần thiết để
71
các em có thể tự bảo vệ bản thân trong các tình huống cấp thiết cùng với đó
phải tăng cường sự giám sát của gia đình và xã hội. Qua đó giúp cho các em có
môi trường sống phát triển thuận lợi và có thể phát huy tối đa khả năng của
mình.
Từ đó, góp phần to lớn vào việc đưa pháp luật áp dụng sâu rộng trong đời
sống xã hội một cách phù hợp, đúng đắn và có hiệu quả. Đồng thời, giúp nâng
cao niềm tin của nhân dân cả nước cũng như ổn định trật tự xã hội, xã hội ngày
72
một tiến bộ và phát triển bền vững hơn.
KẾT LUẬN
Đi từ thực tiễn tình hình tội phạm xâm hại tình dục nói chung và tội Hiếp
dâm người dưới 16 tuổi nói riêng tại thành phố Hà Nội, quá trình thu thập thông
tin, nghiên cứu công tác xử lý tội phạm còn có nhiều hạn chế, vướng mắc, vấn
đề áp dụng pháp luật thiếu thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng trong công tác xử lý tội phạm đã dẫn đến hậu quả án bị hủy, thay đổi thành
tội danh khác và hình phạt còn chiếm tỷ lệ khá cao trong tổng số những vụ án
đã được tiến hành xử lý.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả trên, trong đó có nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan, mỗi nguyên nhân đều dẫn đến hậu quả
nhất định mà người gánh chịu hậu quả trước tiên là người bị kết án và những
em bé bị hiếp dâm cũng tổn thương rất nhiều về tâm lý và cuộc sống của các
em cũng sẽ bị đảo lộn rất nhiều bên cạnh đó là người làm công tác giải quyết
vụ án cũng sẽ phải hứng chịu những kết quả đó.
Do vậy, từ sự đánh giá tình hình thực tiễn cùng với các quy định của pháp
luật hình sự hiện hành về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tác giả đưa vấn đề
này vào đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, bởi tác giả nhận thấy rằng
đây là một vấn đề rất nóng, nhận sự quan tâm chú ý của toàn xã hội, tội phạm
xảy ra không chỉ riêng tại thành phố Hà Nội mà còn ở hầu như khắp các địa
phương khác trên cả nước và ngày càng có những tình tiết phức tạp, gây tranh
cãi về mặt pháp lý khi tiến hành giải quyết. Trong phạm vi luận văn, tác giả đã
có thể đưa ra những khái quát, đánh giá và phân tích chung nhất về tình hình
tôi phạm xâm hại tình dục, trong đó lấy tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi làm
trọng tâm.
Tại mở đầu luận văn này, tác giả đã giới thiệu khái quát một số vấn đề
chung liên quan cũng như lý do tại sao lựa chọn chủ đề “Tội hiếp dâm trẻ em
từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Đồng
thời, các vấn đề khác như tình hình nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu, ý nghĩa của luận văn cũng được tác giả trình bày cụ thể.
Phần nội dung của luận văn bao gồm ba chương, thông qua nội dung mỗi
chương, tác giả đã đưa đến những đánh giá khái quát và phân tích cụ thể các
vấn đề trong phạm vi nghiên cứu đề tài.
Chương 1 nêu ra những vấn lý luận và pháp luật về tội Hiếp dâm người
dưới 16 tuổi theo pháp luật hình sự Việt Nam, đây là cơ sở lý luận về mặt khoa
học pháp lý và pháp luật được áp dụng cho việc xử lý tội đối với tội danh này,
là nền tảng cho các cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng vào thực tiễn khi giải
quyết các vụ án, đồng thời giúp cho người có nhu cầu tìm hiểu pháp luật có
hiểu biết cơ bản tổng quan nhất về tội danh Hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Chương 2 của luận văn là phân tích và đánh giá thực tiễn công tác định
tội danh và áp dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự, căn cứ vào số liệu tổng
hợp của ngành Tòa án thành phố Hà Nội tác giả đã thống kê lại những điểm
cần lưu ý đối với tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, minh họa bằng các ví dụ từ
việc trích dẫn bản án màtòa án đã ban hành trong việc xử lý tội phạm, từ đó đã
làm rõ công tác định tội danh dựa trên phần lý luận tại Chương 1 cũng như áp
dụng các biện pháp trách nhiệm hình sự theo quy định đối với tội danh này. Từ
đó rút ra nhận xét, đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như
những hạn chế và nguyên nhân của thực tiễn đó, làm cơ sở để nghiên cứu, kiến
nghị các giải pháp được nêu trong nội dung của Chương 3.
Chương 3 là những quan điểm đánh giá của cá nhân tác giả về các yêu
cầu và giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng đúng đắn pháp luật hình sự về tội
Hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Phần các giải pháp cụ thể được chia làm 3 nhóm
giải pháp chính, gồm: Giải pháp về mặt pháp lý, các yêu cầu đối với pháp luật
cần sớm đáp ứng và khắc phục những thiếu sót, hạn chế và tồn tại trong việc
áp dụng pháp luật hiện nay; Giải pháp về tổ chức đội ngũ cán bộ và trách nhiệm
công tác, bên cạnh sự đồng tình với quan điểm của hầu hết các tác giả nghiên
cứu có đề tài tương tự, tác giả đã bổ sung thêm các kiến nghị mới, phù hợp với
thực tiễn hiện nay của đất nước; tác giả dành sự quan tâm và đề cao tính thiết
thực của các hội thảo khoa học chuyên ngành, hội thảo khoa học theo đề tài để
từ đó nâng cao kiến thức, góc nhìn và quan điểm thống nhất đúng đắn đối với
khoa học pháp lý nói chung và với tội danh Hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói
riêng.
Qua đề tài “Tội hiếp dâm trẻ em từ thực tiễn Thành phố Hà Nội” tác giả
hy vọng có thể đóng góp một phần nào đó giúp các cơ quan chức năng vận
dụng chính xác quy định pháp luật hình sự về tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi
trên thực tiễn trên phạm vi cả nước nói chung và tại thành phố Hà Nội nói riêng,
khắc phục những hạn chế mà luận văn đã nêu ra trong quá trình xử lý vụ án, từ
đó hạn chế được việc hủy, sửa các bản án về tội danh này. Giúp pháp luật song
hành cùng cuộc sống và mang lại hiệu quả trong việc đấu tranh với tội phạm,
tạo niềm tin vào pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và sự phối hợp,
ủng hộ của mỗi người dân trong công tác phòng chống tội phạm Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi.
Đây được đánh giá là đề tài có phạm vi nghiên rộng, nội dung phức tạp,
gây khó khăn với cả chuyên viên pháp luật và người từng công tác lâu năm
trong cơ quan có thẩm quyền, có rất nhiều tranh luận trái chiều, song lại ít tài
liệu tham khảo, lý luận và thực tiễn có nhiều điểm chưa tương thích, thống nhất
với nhau. Chính bản thân tác giả nhận thấy mình còn nhiều hạn chế về kinh
nghiệm trên thực tiễn, thời gian nghiên cứu khá gấp, do đó không thể tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót nhất định. Vì vậy rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu của Quý thầy cô cùng các bạn để luận văn này được hoàn
thiện, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp mà Đảng và nhà nước luôn quan
tâm và nỗ lực thực hiện.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
2. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1985 sửa đổi, bổ sung năm 1997;
3. Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999;
4. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
5. Luật Trẻ em năm 2016;
6. Nghị quyết số 06/2019/NQ-HPTP Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét
xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi ngày 01/10/2019 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
7. Vũ Hải Anh (2017) Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con
ngườitheo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện
Khoa học Xã hội;
8. Ban chỉ đạo tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự (1999)Tài liệu tập huấn
chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội;
9. Hoàng Thị Thanh Hà (2015) Các tội xâm hại tình dục theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Học
viện khoa học xã hội;
10. Nguyễn Minh Hương (2014) Các tội xâm hại tình dục trẻ em trong Luật
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật ĐHQG Hà Nội;
11. Trịnh Thị Thu Hương (2004) Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật
hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, Luận văn
thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
12. Trần Hà Bảo Khuyên (2015) “Về quy định đối với các tội hiếp dâm - hiếp
dâm trẻ em”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (số 11), tr.31;
13. Nguyễn Đình Lộc (2000)“Bộ luật Hình sự mới (năm 1999) và một số vấn
đề cần quan tâm”,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (số chuyên đề về Bộ luật
Hình sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1999)), tr.12;
14. Trần Văn Luyện (2000) Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
15. Uông Chu Lưu(chủ biên) (2004) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
1999 Phần các tội phạm, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
16. Dương Tuyết Miên (2015) “Bình luận các tội phạm về tình dục trong
chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con
người trong dự thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, (số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự), tr.29;
17. Bùi Thị Hằng Nga (2016) Tội hiếp dâm và hiếp dâm trẻ em theo pháp luật
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sỹ luật học,
Học viện Khoa học xã hội;
18. Đinh Văn Quế (2002) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - phần các tội
phạm, Nxb thành phố Hồ Chí Minh;
19. Công Tâm (2012) “Luật bỏ ngỏ hành vi hiếp dâm bé trai”, Báo Pháp luật
Việt Nam, (số ra ngày 19/11/2012);
20. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009) Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp
luật, Nxb.CAND, Hà Nội;
21. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam
(tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
22. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016) Tài liệu tập huấn Bộ luật hình sự
năm 2015, Tập thể tác giả, Hà Nội;
23. Trương Quang Vinh (Chủ biên) (2008) Tội phạm trong Hoàng Việt luật lệ,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội;
24. Võ Khánh Vinh (2014) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
25. Võ Khánh Vinh (2013) Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội;
26. Võ Khánh Vinh (2011) Xã hội học pháp luật - Những vấn đề cơ bản, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội;
27. ThS. Vũ Hải Anh, Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm tội
hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân, Tạp chí Nghề Luật,
Số 1/2015;
28. TS. Dương Tuyết Miên, Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội
hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, Trường Đại học Luật
Hà Nội Số Đặc san về bình đẳng giới, Hà Nội – 2005;
29. Th.S Vũ Hải Anh, “Một số vướng mắc trong xét xử trường hợp phạm Tội
hiếp dâm trẻ em chưa đủ 13 tuổi có tính chất loạn luân”, Tạp chí Nghề
luật, Số 1/2015, Tr.43-47.
30. http://www.canhsatnhandan.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/6208/Toi-
hiep-dam-nguoi-duoi-16-tuoi-trong-lich-su-phap-luat-hinh-su-Viet-Nam;
31. http://cand.com.vn/Ban-tin-113/Ban-an-chung-than-danh-cho-ga-do-te-o-
huyen-Chuong-My-561060/;
32. https://thanhnien.vn/thoi-su/het-long-vi-nguoi-dung-nguoi-giai-cuu-tre-
bi-xam-hai-1121944.html;
33. Mô hình giải cứu trẻ em bị xâm hại tình dục:
https://www.onebodyvillage.org/.