VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ ÁNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HÓA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2021

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ ÁNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HÓA

Ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính. Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN VĂN CƯỜNG

HÀ NỘI, NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là công trình

nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm

tính chính xác, trung thực và không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu

khách trong cùng lĩnh vực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thị Ánh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................ 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................... 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ............................................. 5 7. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC ............................ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của ma túy, người nghiện ma túy và biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................ 7 1.2. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................... 13 1.3. Mục đích, vai trò của áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ................................................................................ 17 1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ........................................................ 18 1.5. Các quy định pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ......................................................................... 19 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ....................................................................... 36 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HÓA .................................... 37 2.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Thanh Hóa nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh nói riêng .............................................................. 37 2.2. Thực trạng người nghiện ma túy, công tác cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ......................................................................................... 40 2.3. Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa .................. 44 2.4. Đánh giá chung về thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ..................................................................................... 51 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ....................................................................... 65 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HÓA ................................................................................................................ 66

3.1. Quan điểm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa ... 66 3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ......................................................................... 67 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện trong áp dụng về biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ............................................................................................... 73 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ....................................................................... 78 KẾT LUẬN ............................................................................................ 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................. 85

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

LĐ-TB&XH: Lao động – Thương binh và xã hội

UBND: Ủy ban Nhân dân

UBMTTQ: Ủy ban mặt trận Tổ quốc

UBTVQH: Ủy ban Thường vụ Quốc hội

TAND: Tòa án nhân dân.

XLHC: Xử lý hành chính.

XLVPHC: Xử lý vi phạm hành chính.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ma tuý đã và đang trở thành hiểm họa lớn của nhân loại. Hậu quả do ma

tuý gây ra rất nghiêm trọng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, là nguyên

nhân làm phát sinh các loại tội phạm, đe doạ sự ổn định, phồn vinh và sự

trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Người nghiện ma túy có hiện tượng trẻ

hóa và không ngừng tăng cao, khó kiểm soát; công tác thống kê, quản lý người

nghiện ma tuý còn thiếu chặt chẽ; chất lượng cai nghiện còn nhiều hạn chế...

Để hạn chế những ảnh hưởng của ma túy đến cuộc sống, xã hội thì yêu cầu

bắt buộc là những người nghiện ma túy sau khi đã được cai nghiện tại cộng

đồng, gia đình hoặc người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định sẽ được

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong 04 biện pháp

xử lý VPHC được quy định trong Luật XLVPHC năm 2012 (có hiệu lực từ

ngày 01/7/2013), được áp dụng với người nghiện ma túy, với mục đích là

bắt buộc cai nghiện, để chữa bệnh giúp người bị nghiện lao động, học nghề,

học văn hóa dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc, giúp họ sớm hòa

nhập cộng đồng.

Theo thống kê của Bộ Công an, tính đến tháng 12/2020, cả nước có trên

235.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, tổng số học viên đang được

cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện là 93.724 người (trong đó có 31.480 người

đang cai nghiện bắt buộc theo quyết định của Tòa án, 3.845 người nghiện

đang chờ lập hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc); cả nước hiện có 113

cơ sở cai nghiện (trong đó 97 cơ sở công lập và 16 cơ sở ngoài công lập).

TAND là một trong những chủ thể có thẩm quyền triển khai các biện pháp

phòng, chống ma túy, trong đó có việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Theo Báo cáo của TAND tối cao,

1

sau khi Luật XLVPHC có hiệu lực, từ năm 2016 - 2020, TAND cấp huyện đã

giải quyết 113.235/113.251 (đạt tỷ lệ 99,9%) hồ sơ đề nghị áp dụng các biện

pháp XLHC (trong năm 2020, TAND cấp huyện đã giải quyết 27.635/27.651

hồ sơ); TAND cấp tỉnh đã giải quyết 100% khiếu nại đối với quyết định của

TAND cấp huyện về áp dụng các biện pháp XLHC [31, tr7].

Tuy nhiên, thực tiễn trong thời gian qua còn nhiều khó khăn, vướng mắc,

nhất là các văn bản quy định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục, hồ sơ, quá trình

xem xét, giải quyết tại Tòa án … Do đó, quá trình áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc đã bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót, chưa phù hợp

với thực tiễn cần phải có sự tháo gỡ, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật sát

với thực tiễn, bảo đảm quyền con người, quyền tự do và tính công khai, dân

chủ, minh bạch, công bằng.

Xuất phát từ thực tiễn cũng như yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta

trong thời gian tới, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận, chỉ ra những điểm

thiếu đồng bộ, chưa hợp lý, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của

việc áp dụng biện pháp XLVPHC là hết sức cần thiết. Kết quả việc TAND

áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có thể rút

ra những kinh nghiệm tốt cho cuộc đấu tranh phòng, chống ma túy; đồng

thời những hạn chế của quá trình này có thể là những bài học và đặt ra

những vấn đề cần giải quyết trên phương diện pháp lý. Chính vì vậy, học

viên lựa chọn nghiên cứu đề tài luận văn: “Áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Tòa án nhân dân

cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa”.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Liên quan đến đề tài này có một số công trình nghiên cứu nổi bật sau:

Luận văn thạc sĩ “Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” (năm 2017) của tác giả Lê Thị Lan

Phương, bảo vệ thành công tại Học viện khoa học xã hội. Đây là đề tài có tính

2

khái quát cao, phân tích được bản chất của vấn đề áp dụng biện pháp đưa

người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng

và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện biện pháp. Tuy nhiên,

luận văn chưa đi sâu vào nghiên cứu những vướng mắc về quy định pháp luật

khi các cơ quan thực hiện hoạt động áp dụng pháp luật đối với biện pháp trên.

Luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa bệnh đến biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” năm 2012 của tác giả Phạm Tiến

Thành tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. Tác giả đã làm rõ được các biện

pháp XLHC; sự cần thiết và chuyển hóa như thế nào từ biện pháp đưa vào cơ

sở chữa bệnh sang đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; tuy nhiên, nội dung của

luận văn chưa nêu lên được điểm nổi bật khi áp dụng biện pháp có phù hợp hay

không và các giải pháp để áp dụng biện pháp này có hiệu quả hơn.

Luận văn thạc sĩ “Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

tại tỉnh Ninh Bình” năm 2020 của tác giả Lưu Hồng Ngọc Hiền tại Đại học

Luật Thành phố Hồ Chí Minh; đây là luận văn thuộc loại ứng dụng, tác giả đi

sâu vào phân tích các quy định và vướng mắc trong quá trình áp dụng biện

pháp này ở giai đoạn lập hồ sơ và xem xét hồ sơ; luận văn nghiên cứu về các

bất cập của quy định pháp luật nhưng lại chưa đi vào nghiên cứu các yếu tố

khác ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp.

Ngoài ra, còn một số các đề tài và bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.

Các công trình nghiên cứu đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin lớn về

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng chưa có đề tài nào nghiên

cứu tổng thể ý luận và thực tiễn về áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn tại TAND cấp huyện nói chung, TAND

cấp huyện tại tỉnh Thanh Hóa nói riêng.

Tác giả hi vọng, đây sẽ là luận văn có tính khoa học, nghiên cứu một cách

có hệ thống trên cả phương diện lý luận và thực tiễn; góp phần nâng cao hiệu

quả việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc thuộc thẩm quyền TAND cấp huyện trên phạm vi cả nước; góp phần ngăn

chặn, đẩy lùi tiến tới xây dựng cộng đồng không còn người nghiện ma túy.

3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Đề tài nghiên cứu, làm sáng tỏ vấn đề lý luận, quy phạm

pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND

xem xét, quyết định; chỉ ra những điểm còn thiếu đồng bộ, chưa hợp lý,

những khó khăn trong thực tiễn; từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng

cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật.

- Nhiệm vụ

+ Nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận, pháp luật cơ bản trong quá

trình áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

+ Đánh giá đúng thực trạng và việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND xem xét, quyết định tại tỉnh Thanh Hóa.

+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao

hiệu quả việc áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc do TAND xem xét, quyết định cho các địa phương trong cả nước nói

chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc từ thực tiễn TAND cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa.

- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

tại TAND cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa.

+ Về thời gian: Từ năm 2014 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận: Với phạm vi nghiên cứu như trên, việc nghiên cứu

và hoàn thành luận văn trước hết dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác -

Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và

pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp.

- Phương pháp nghiên cứu:

4

+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng hầu

hết trong toàn bộ các chương của luận văn và tập trung nhất trong chương 1, 3

trong việc trình bày các khái niệm cơ bản về áp dụng pháp luật đối với áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

+ Phương pháp so sánh, liệt kê: Được sử dụng làm sáng tỏ những khác

biệt của vấn đề từ đó rút ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập, phương

pháp này được sử dụng trong chương 2, 3 nhằm khái quát hóa thực trạng

pháp luật về áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

+ Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng trong việc

hoàn thiện khung pháp lý để việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn, phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở

chương 2.

+ Phương pháp phân tích vụ việc điển hình: Được sử dụng thông qua

việc đưa ra các vụ việc trên thực tế minh chứng cho việc áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở Chương 2 của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Về ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ các vấn đề liên quan đến quá trình

áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa xem xét, quyết định; thông qua việc dẫn

chứng các quy phạm pháp luật hiện hành quy định về biện pháp này, từ đó

góp phần làm rõ lý luận khoa học cơ sở pháp lý về biện pháp trên; đồng thời

đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện khoa học pháp lý chuyên ngành.

- Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp các luận điểm có giá trị tham

khảo trong việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để bảo

đảm việc áp dụng pháp luật đối với biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc hiệu quả hơn; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho các

đối tượng quan tâm đến biện pháp trên.

5

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của

luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và các quy định của pháp luật về

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa.

Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh

Thanh Hóa.

6

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC

1.1. Khái niệm, đặc điểm của ma túy, người nghiện ma túy và biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ma túy và người nghiện ma túy

1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ma túy

Theo định nghĩa của Tổ chức Liên Hợp Quốc: Ma túy được hiểu là “các

chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, khi xâm nhập vào cơ thể sẽ làm

thay đổi trạng thái tâm sinh lý của người sử dụng”.

Theo Tổ chức Y tế thế giới: Ma túy theo nghĩa rộng nhất là “Mọi thực

thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp khác với tất cả những cái được

đòi hỏi, để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ

làm biến đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật”.

Theo khái niệm khoa học: Ma túy là các chất có nguồn gốc tự nhiên

(morphin...); bán tổng hợp (heroin được bán tổng hợp từ morphin) hay tổng

hợp (amphetamine) có tác dụng lên hệ thần kinh trung ương gây cảm giác

như giảm đau, hưng phấn hay cảm thấy dễ chịu... mà khi dùng nhiều lần thì

sẽ phải sử dụng lại nó nếu không sẽ rất khó chịu.

Ở Việt Nam không có một sự nhất quán chung trong việc sử dụng danh

xưng này cho các chất thuộc loại này. Luật Phòng, chống ma tuý của Việt

Nam được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000 (sửa đổi bổ sung năm 2008),

cũng đưa ra khái niệm ma túy thông qua định nghĩa về chất ma túy là:“Các

chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do

Chính phủ ban hành” [21, 43, Điều 2].

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về ma

tuý theo hướng liệt kê: “Ma tuý bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao

7

coca, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, XLR-11,

các chất ma túy khác ở thể rắn hoặc thể lỏng” [26, 42, Điều 2]

Từ những định nghĩa được đưa ra trên đây, có thể khái quát một cách

chung nhất rằng: Ma túy là tên gọi chung của các chất kích thích có nguồn

gốc tự nhiên hoặc nhân tạo, khi đưa vào cơ thể sống, được sử dụng nhiều lần

có thể gây nghiện và sẽ làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý người đó;

nếu lạm dụng ma tuý, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và

nguy hại cho người sử dụng, cho gia đình và cộng đồng.

1.1.1.2. Khái niệm và dấu hiệu nhận biết người nghiện ma túy

* Khái niệm

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), nghiện ma túy được định nghĩa như

sau: “Nghiện ma tuý là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc thể chất

hoặc cả hai khi một người sử dụng ma tuý lặp đi lặp lại theo chu kỳ hoặc

dùng kéo dài liên tục một thứ ma tuý và tình trạng lệ thuộc này làm thay đổi

cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy sự bức bách phải dùng ma tuý

để có được những hiệu ứng ma tuý về mặt tâm thần của ma tuý và thoát khỏi

sự khó chịu, vật vã do thiếu ma tuý. Tình trạng lệ thuộc này có thể kèm theo

hiện tượng quen ma tuý hoặc không và một người có thể bị lệ thuộc vào nhiều

loại ma tuý”.

Dưới góc độ của các nhà xây dựng luật, Luật Phòng, chống ma túy

quy định: “Người nghiện ma túy là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây

nghiện, thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này” [21, 43, Khoản

11, Điều 2].

* Dấu hiệu nhận biết người nghiện ma túy

- Dấu hiệu bất thường của người vừa mới sử dụng Heroin: Sau khi sử

dụng Heroin từ 5 – 10 phút, biểu hiện phổ biến nhất là mắt đỏ và trông ướt

long lanh, sau đó chuyển qua sụp mi mắt, ngồi tại chỗ, mắt lim dim, gãi chân

tay, vò đầu, bứt tóc… thể hiện rõ nhất trong trường hợp dùng thuốc phiện pha

8

lẫn seduxen. Sau 15 – 20 phút, mắt đỏ ướt, đồng tử teo, giọng nói khàn khàn,

uống nhiều nước lạnh, tâm lý ở trạng thái hưng phấn cao, nói nhiều, cử chỉ

thiếu chính xác. Nếu có tật thì tật thường xuyên xuất hiện ở mức cao như vuốt

mũi, nhổ râu, cắn móng tay… Sau 90 phút, người sử dụng heroin tìm chỗ yên

tĩnh để thưởng thức cơn phê. Lúc này họ nằm như ngủ, nhưng không ngủ, lại

hút nhiều thuốc lá, tàn thuốc vung vãi...

- Dấu hiệu bất thường của người nghiện heroin: Người nghiện ma túy

thường có giờ giấc sinh hoạt thất thường, mỗi ngày, cứ đến một khung giờ

nhất định nào đó, dù đang bận việc gì cũng tìm cách, kiếm cớ để đi khỏi nhà;

thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người. Tâm trạng thường lo

lắng, bồn chồn, đôi khi nói nhiều, hay nói dối loanh quoanh, chống đối, cáu

gắt; hay ngáp vặt, người lừ đừ, mệt mỏi, ngại lao động, bỏ vệ sinh cá nhân.

Đối với người sử dụng heroin nặng, còn có biểu hiện giảm sút sức khoẻ rõ rệt,

thường xuyên ngáp vặt, mắt lờ đờ, da tái, môi thâm, cơ thể hôi hám, ngại

tắm... Trên người có dấu kim trên mu bàn tay, cổ tay, mặt trong khuỷu tay,

mặt trong mắt cá chân, ở bẹn, ở cổ… Nhu cầu tiêu tiền ngày một nhiều, sử

dụng tiền không có lý do chính đáng, thường xuyên xin tiền, bán đồ đạc cá

nhân, gia đình, nợ nần nhiều, ăn cắp vặt, hay lục túi người khác.

- Dấu hiệu của nghiện ma túy tổng hợp dạng kích thích: Xuất hiện

những hiện tượng như nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu oxy, sốt, đau

đầu, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi,

run, loạng choạng, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên

thù địch và các triệu chứng của rối loạn lo âu, hoang tưởng và các ảo giác có

thể xảy ra. Đối với người sử dụng các loại Amphetamin mới, còn có các triệu

chứng nhịp tim nhanh, run, khô miệng, dị cảm, co cơ, đổ mồ hôi, lơ mơ, mệt

mỏi, mất ngủ, choáng váng, ảo thị, nhìn không rõ, hay giật mình, khó tập

trung, có cơn nóng lạnh, đánh trống ngực, nhạy cảm với lạnh, dễ cáu kỉnh...

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của cơ sở cai nghiện bắt buộc

9

1.1.2.1. Khái niệm

Cơ sở cai nghiện bắt buộc là nơi cách ly có thời hạn đối với những đối

tượng bị nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục

tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp

này nhưng không có nơi cư trú ổn định nhằm tách họ ra khỏi cộng đồng theo

quy định của pháp luật nhằm cải tạo họ trở thành người bình thường.

Qua từng năm số lượng đối tượng nghiện ma túy ngày càng tăng nhanh,

cá biệt có những nơi tăng đột biến khó kiểm soát dẫn đến tình trạng tệ nạn xã

hội ngày càng diễn biến phức tạp, đe dọa đến nền kinh tế và cuộc sống của

người dân địa phương. Mặc khác, việc xử phạt hành chính chưa đủ sức răng

đe và giáo dục mạnh, cai nghiện ngoài cộng đồng từ nhiều nguyên nhân khác

nhau nên hiệu quả mang lại chưa cao; do đó, việc hình thành, mở rộng các cơ

sở cai nghiện bắt buộc là rất cần thiết.

Cơ sở cai nghiện bắt buộc được thành lập dựa trên quy định tại Nghị

định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ về thành lập, tổ chức

lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Cơ sở cai nghiện ma túy công lập là

đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở LĐ - TB & XH, có tư cách pháp nhân, trụ

sở, con dấu, tài khoản riêng theo quy định của pháp luật; chịu sự chỉ đạo,

quản lý trực tiếp về chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức, nhân sự, tài chính và cơ

sở vật chất của Sở LĐ - TB & XH. Để khắc phục tình trạng quá tải tại các cơ

sở công lập, một số địa phương đã xây dựng nên cơ sở cai nghiện ngoài công

lập và hoạt động dựa trên nguồn ngân sách của địa phương đó.

Ngoài chức năng chính là cai nghiện, các cơ sở cai nghiện hiện nay còn

có nhiệm vụ tái thiết lao động cho người nghiện. Sau những đợt điều trị,

người nghiện sẽ được học, được lao động, được học nghề... ngay tại cơ sở

cai nghiện. Nếu ý thức chấp hành tốt, quyết tâm cai nghiện, có ý chí thì đây

chính là lực lượng người lao động đông đảo đóng góp cho xã hội sau khi trở

về cộng đồng.

10

1.1.2.2. Đặc điểm

Thứ nhất, các cơ sở cai nghiện bắt buộc là tổ chức được hình thành theo

quy định của pháp luật và hoạt động dựa trên nguồn ngân sách nhà nước.

Thứ hai, đây là nơi tập trung của những người bị nghiện nhằm mục đích

khám, chữa bệnh và điều trị cắt cơn; tư vấn, dạy nghề và hỗ trợ tái hòa nhập

cộng đồng theo quy định của pháp luật.

Thứ ba, cơ sở cai nghiện tồn tại dưới hai hình thức đó là: Cơ sở cai

nghiện công lập và cơ cở cai nghiện ngoài công lập được hình thành và hoạt

động với chức năng như nhau, chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền. Cơ sở cai nghiện công lập và ngoài công lập đều áp dụng cho đối

tượng cai nghiện bắt buộc và cai nghiện tự nguyện.

1.1.3. Khái niệm và đặc điểm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.1.3.1. Khái niệm

Theo quyển từ điển tiếng Việt thì “Biện pháp” là “cách làm, cách giải

quyết một vấn đề cụ thể”. Như vậy có thể hiểu rằng, biện pháp đưa người

nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cách thức mà cơ quan có thẩm quyền

áp dụng trực tiếp lên người bị nghiện bằng phương pháp cưỡng chế nhằm

mục đích đảm bảo trật tự xã hội trong giới hạn pháp luật cho phép.

Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp

XLHC được quy định tại Luật XLVPHC năm 2012 [23, Điều 95]. Đây là biện

pháp do TAND cấp huyện xem xét, quyết định, được áp dụng đối với người

nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này

nhưng không có nơi cư trú ổn định.

Về cơ bản, quy định về biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại

Luật XLVPHC 2012 được xây dựng theo hướng kế thừa các quy định của

biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh của Pháp lệnh XLVPHC 2002. Mục đích

11

của biện pháp này cũng được quy định như Pháp lệnh là “đưa người vi phạm

vào cơ sở để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của

cơ sở”. Về hình thức, cơ cấu các điều luật được thể hiện cơ bản giống như

Pháp lệnh XLVPHC năm 2002. Về nội dung, có hai điểm sửa đổi lớn là: (1)

hạn chế đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh chỉ bao gồm

người nghiện ma túy; (2) sửa đổi trình tự, thủ tục áp dụng theo hướng công

khai, minh bạch hơn nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của công dân.

1.1.3.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

Thứ nhất, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp có

tính cưỡng chế hành chính nhà nước khi tước bỏ một số quyền nhân thân của

người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định; biện pháp này do cơ

quan có thẩm quyền thi hành bằng cưỡng chế Nhà nước, từ giai đoạn lập hồ

sơ đến giai đoạn xem xét, đề nghị và giai đoạn áp dụng biện pháp trên là do

các cơ quan có thẩm quyền thực hiện như Công an xã, Phòng LĐ – TB & XH,

TAND cấp huyện và chỉ có những cơ quan được pháp luật quy định mới được

quyền áp dụng biện pháp này. Tính cưỡng chế còn được thể hiện ở chỗ biện

pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với người bị áp dụng, đây cũng là

biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc nhất trong bốn biện pháp XLHC

vì nó hạn chế quyền tự do nhân thân của người bị áp dụng trong một khoảng

thời gian nhất định.

Thứ hai, biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có tính

pháp lý, bởi lẽ nó được quy định trong các văn bản pháp quy như Luật, Pháp

lệnh, Nghị định… Biện pháp này cũng do các cơ quan có thẩm quyền áp dụng

theo quy định của pháp luật. Nghĩa là chỉ có các chủ thể được pháp luật quy

định mới có thể tiến hành áp dụng biện pháp này.

Thứ ba, đây là biện pháp chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không áp

dụng đối với các tổ chức như những biện pháp XPVPHC khác. Đối tượng áp

12

dụng là công dân Việt Nam được xác định là nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở

lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn

nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất

định. Đây là nhóm đối tượng nếu không kịp thời phát hiện và đưa đi cai

nghiện, thì sẽ gây ra những hành vi nguy hiểm, đe dọa trật tự an ninh trật tự

cũng như tính mạng của con người. Biện pháp này được áp dụng ngay sau

khi bị xử phạt hành chính, hoặc được cai nghiện tại cộng đồng mà vẫn tiếp

tục tái nghiện.

Đối với trường hợp người nước ngoài vi phạm tại lãnh thổ Việt Nam thì

thực hiện theo quy định tại khoản 7 Điều 21 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP

ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt VPHC trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an

toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; cháy, phòng và chữa; phòng, chống

bạo lực gia đình; thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử

phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ tư, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này rất chặt chẽ, linh hoạt;

đảm bảo tính minh bạch trong quá trình xử lý, đồng thời tránh tình trạng vi

phạm các quyền con người trong quá trình áp dụng vì đối tượng bị áp dụng sẽ

phải chịu sự quản lý và hạn chế một số quyền tự do cá nhân nhất định.

1.2. Sự hình thành và phát triển của các quy phạm pháp luật về áp

dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Quốc hội đã ban hành rất nhiều văn bản về

XLVPHC, trong đó có “biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh” của Pháp lệnh

XLVPHC trước đây và biện pháp “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” theo

Luật XLVPHC hiện nay. Nguồn gốc ban đầu là biện pháp cưỡng chế đặc biệt

được xuất phát từ Nghị quyết số 49-NQ/TVQH ngày 20/6/1961 của UBTVQH

nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa về việc tập trung giáo dục cải tạo những

phần tử có hành động nguy hại cho xã hội; trong đó, quy định việc tập trung để

13

giáo dục cải tạo những phần tử phản cách mạng ngoan cố, có hành động

phương hại đến an ninh chung; những phần tử lưu manh chuyên nghiệp, từ 18

tuổi trở lên, có hành động nguy hại cho xã hội, đã được giáo dục nhiều lần mà

không chịu hối cải, nhưng xét không cần đưa ra TAND xử phạt [37, khoản 1].

Ngày 27/5/1977, Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị

định số 143/CP về Điều lệ xử phạt vi cảnh. Đây được coi là văn bản pháp lý đầu

tiên về vấn đề XLVPHC ở nước ta. Trong đó, có quy định các vấn đề cơ bản về

xử phạt VPHC cũng như các biện pháp xử lý khác nhằm ngăn chặn người có

hành vi vi phạm pháp luật ở mức độ thường xuyên nhưng chưa truy cứu trách

nhiệm hình sự [16, Điều 2]. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, vấn

đề XLVPHC đã được điều chỉnh bởi một văn bản ở cấp độ Pháp lệnh.

Ngày 30/11/1989, Hội đồng nhà nước (nay là UBTVQH) đã ban hành

Pháp lệnh XLVPHC. Đây là văn bản pháp lý quy định tương đối đầy đủ và

cơ bản về các biện pháp xử phạt VPHC cũng như biện pháp XLHC khác.

Sau một thời gian thi hành, để đáp ứng được yêu cầu trong công tác đấu

tranh chống các vi phạm pháp luật, ngày 06/7/1995, UBTVQH đã ban hành

Pháp lệnh XLVPHC mới; trong đó, quy định biện pháp XLHC “đưa vào cơ

sở chữa bệnh” [38, Điều 20 và Điều 24]; đây là một trong năm biện pháp

XLHC khác (cùng với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; biện pháp

đưa vào trường giáo dưỡng; biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục và biện pháp

quản chế hành chính).

Khi Quốc hội ban hành Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 giữ nguyên tên

gọi như pháp lệnh cũ [39, Điều 22 và Điều 26]. Đây là tiền đề hình thành tên

gọi “biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” theo Luật XLVPHC năm

2012. Pháp lệnh cũng quy định một trình tự tương đối chặt chẽ về quy trình

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh với ba cấp thực hiện từ UBND

cấp xã cho đến cấp tỉnh ra quyết định. Việc này bảo đảm tính chặt chẽ, chính

xác của việc áp dụng biện pháp, tuy nhiên, việc quy định nhiều cấp thực hiện

14

và áp dụng thủ tục này làm cho quá trình áp dụng trở nên rườm rà, thiếu sự

linh hoạt và nhanh chóng.

Về mặt hình thức, tên gọi “biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”

được quy định chính thức tại Luật XLVPHC năm 2012: “Đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc là biện pháp XLHC áp dụng đối với người có hành vi vi phạm

quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa bệnh, lao động, học văn hóa, học

nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc” [23, khoản 1, Điều 95];

điểm mới Luật XPVPHC là đã sửa đổi trình tự, thủ tục áp dụng theo hướng

công khai, minh bạch hơn nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của công dân.

Về đối tượng, thời gian áp dụng, Pháp lệnh XLVPHC và các văn bản

pháp luật trước Luật XLVPHC năm 2012 quy định đối tượng bị áp dụng biện

pháp này bao gồm: (i) người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp

này nhưng không có nơi cư trú nhất định; (ii) người bán dâm có tính chất

thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư

trú nhất định [39, Điều 6].

Như vậy, đối tượng được áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh

theo Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn đã có những quan niệm chưa chính

xác về người nghiện ma túy và người bán dâm. Theo đó, những đối tượng

nghiện nặng không có khả năng cai nghiện ở nhà hoặc cai nghiện tại cộng

đồng cũng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Đây là quy định

chưa chính xác, bởi xác định một đối tượng là nghiện nặng hay không thì

chưa có các quy chuẩn cụ thể để áp dụng, đồng thời việc đánh giá khả năng

cai nghiện của đối tượng tại nhà hoặc cộng đồng cũng còn thiếu những chuẩn

mực để đánh giá. Phần lớn các đối tượng nghiện có cai nghiện thành công

không phụ thuộc vào ý chí của chính họ. Ngoài ra, việc Pháp lệnh XLVPHC

năm 1995 dùng cụm từ “người mại dâm” là chưa chính xác. Bởi, mại dâm

15

hiểu theo nghĩa thông thường là sự trao đổi tình dục có thu tiền; trong nội

hàm của khái niệm mại dâm bao hàm cả hành vi mua dâm, bán dâm và các

hành vi hỗ trợ khác như môi giới, tổ chức... Như vậy, việc các văn bản dùng

cụm từ “người mại dâm” là chưa đảm bảo tính chính xác về khoa học, bởi

biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh áp dụng đối với người mua dâm, trong khi

đó người môi giới, tổ chức hoạt động mại dâm thì bị xử lý hình sự.

Năm 2012, Luật XLVPHC được ban hành đã quy định đối tượng áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ còn là người nghiện ma

túy [23, khoản 1, Điều 96]; bỏ đối tượng người bán dâm bởi lẽ: Mại dâm

không còn được coi là “bệnh” mà là một vấn đề xã hội nên chỉ là đối tượng

của XLHC; quy định người bán dâm bị hạn chế quyền tự do vì hành vi bán

dâm được đánh giá là quá nghiêm khắc bởi hành vi vi phạm của họ không

nghiêm trọng, không gây nguy hiểm cho xã hội đến mức phải hạn chế tự do.

Đồng thời đối tượng bị áp dụng biện pháp này bao gồm người từ đủ 16 tuổi

trở lên, tức là người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi. Đối với đối

tượng này, Công ước quốc tế về quyền trẻ em và các nghị định thư liên quan

không coi là đối tượng vi phạm pháp luật, mà coi là nhóm đối tượng bị tổn

thương, cần có sự bảo vệ của xã hội và được đối xử như nạn nhân, không bị

áp dụng bất cứ hình thức xử phạt nào. Trong thực tế, nhiều người bán dâm là

nạn nhân của các vụ buôn bán người, bóc lột tình dục, lại bị đối xử như đối

tượng vi phạm pháp luật. Vì những lý do này, Luật XLVPHC đã không quy

định người bán dâm là đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Điểm tương đồng giữa Luật XLVPHC với Pháp lệnh

XLVPHC là thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ

12 tháng đến 24 tháng.

Về cơ bản, quy định “biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh” trước đây và

“biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” hiện nay được xây dựng theo

hướng kế thừa các quy định của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002 (sửa đổi, bổ

16

sung năm 2008). Mục đích của biện pháp này vẫn được quy định như Pháp

lệnh hiện hành là đưa người vi phạm vào cơ sở để chữa bệnh, lao động, học

văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở; biện pháp này có tính cưỡng chế

cao; người bị nghiện sẽ phải sinh sống, học tập, lao động, dưới sự quản lý

nghiêm ngặt, điều này đã hạn chế một phần quyền con người khi áp dụng nên

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem là biện pháp XLHC

nghiêm khắc nhất.

1.3. Mục đích, vai trò của áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thứ nhất, việc áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc đối với những đối

tượng này nhằm giáo dục tư tưởng người bị nghiện, chữa bệnh cho các đối

tượng để cảm hóa, giúp đỡ họ cai nghiện thành công, nỗ lực lao động, học

văn hóa trong cơ sở cai nghiện; giáo dục về đạo đức, tư tưởng, lối sống cũng

như phục hồi sức khỏe tạo điều kiện để họ trở thành công dân có ích và sớm

tái hòa nhập cộng đồng. Có thể nói đây là mục đích đầu tiên và quan trọng

của biện pháp này, bắt nguồn từ tính nhân đạo sâu sắc của pháp luật nước ta.

Thứ hai, nhằm trừng phạt đối với người có hành vi vi phạm. Biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một biện pháp tính cưỡng chế tương đối

cao khi nội dung của nó là tước bỏ một số quyền nhân thân của người bị áp

dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Tính trừng phạt của biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hết sức cần thiết, thể hiện tính nghiêm

minh của pháp luật; bởi vì, đối tượng bị áp dụng biện pháp này là những đối

tượng nghiện ma túy, đã bị áp dụng các biện pháp XLHC khác ở cấp độ nhẹ

hơn nhưng vẫn tái phạm hoặc các đối tượng này không có nơi cư trú ổn định.

Các đối tượng này thường có những hành vi vi phạm pháp luật, gây ảnh

hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tính trừng phạt của

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc buộc chủ thể vi phạm thỏa mãn

các điều kiện tại Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 phải chịu những hậu quả

17

pháp lý bất lợi là hạn chế một phần quyền tự do và chịu sự quản lý giám sát

của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thứ ba, áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm mục

đích phòng ngừa khả năng tái phạm của các đối tượng nghiện ma túy thông

qua sự kết hợp giữa giáo dục và trừng trị, lôi cuốn các lực lượng xã hội tham

gia đấu tranh và phòng ngừa vi phạm, thúc đẩy dư luận xã hội lên tiếng. Mục

đích phòng ngừa bao gồm phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng; nhằm răn

đe, cảnh báo và ngăn ngừa sự vi phạm của các đối tượng khác trong xã hội,

khi đang có dấu hiệu vi phạm pháp luật; mặt khác, đối tượng bị áp dụng sẽ

hạn chế được việc họ tái phạm vì đã bị cách ly ra khỏi xã hội một thời gian và

được giáo dục về ý thức chấp hành pháp luật.

Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn

có vai trò to lớn trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi

ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; tăng cường

pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự quản lý hành chính nhà nước, trật tự pháp

luật; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

1.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng biện pháp xử lý

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.4.1. Yếu tố pháp luật

Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem là một

trong những “chính sách” ưu tiên trong việc đẩy lùi tệ nạn ma túy ngoài cộng

đồng và bảo đảm an ninh trật tự xã hội. Do đó, cần có những chính sách cụ

thể, quy định chặt chẽ kèm theo những văn bản hướng dẫn rõ ràng, phù hợp

với điều kiện phát triển của địa phương, tình hình người nghiện của địa

phương đó cũng như tính thống nhất áp dụng trên phạm vi toàn quốc. Như

vậy mới bảo đảm thực hiện tốt việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc đạt hiệu quả cao nhất.

1.4.2. Yếu tố kinh tế

18

Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xây dựng, mở rộng

các cơ sở điều trị nghiện và thực hiện thành công biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

phụ thuộc vào nhiều yếu tố về cơ sở vật chất, chất lượng, số lượng đội ngũ

cán bộ cũng như thuốc men, công tác giáo dục, dạy nghề sau chữa bệnh... đòi

hỏi cần phải có nguồn ngân sách dồi dào và ổn định, đầu tư kinh tế đồng bộ

về mọi mặt, nâng mức lương hợp lý cho đội ngũ khám chữa bệnh…

1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội

Tâm lý của một bộ phận người dân là e ngại, sợ tiếp xúc với người

nghiện, một bộ phận khác lại có thái độ phản ứng gay gắt, thậm chí là tiêu cực

dẫn tới những cử chỉ lăng mạ, xúc phạm chính gia đình có con em bị nghiện.

Chính vì vậy, các đối tượng nghiện và gia đình họ thường che dấu tình trạng

nghiện, xấu hổ không đi cai nghiện, dẫn đến tình trạng nghiện ngày càng nặng

nề, ảnh hưởng đến cuộc sống của bản thân người nghiện, gia đình họ và tình

hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, pháp luật về XLHC luôn có những

chính sách để khuyến khích, bảo vệ, tạo điều kiện cho người nghiện đi cai

nghiện cũng như tuyên truyền để nhân dân chung tay vào công cuộc vận động

người nghiện đi cai và giúp đỡ để họ tái hòa nhập cộng đồng.

1.5. Các quy định pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.5.1. Nguyên tắc, đối tượng, thời hiệu, thẩm quyền áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

1.5.1.1. Nguyên tắc áp dụng

Một là, cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc nếu thuộc đối tượng được quy định tại Điều 96 Luật

XLVPHC năm 2012; nghĩa là: Chỉ khi một người có hành vi sử dụng trái

phép chất ma túy thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 96 thì mới bị

áp dụng biện pháp trên. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ giúp các cơ quan có thẩm

19

quyền dễ dàng xác định được đối tượng, hạn chế sự tùy tiện khi áp dụng pháp

luật và hạn chế được việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân.

Hai là, tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền,

công bằng, đúng quy định của pháp luật. Đây là yêu cầu mang tính “bắt

buộc”, bởi lẽ bản chất của biện pháp này là hạn chế quyền tự do, danh dự,

nhân phẩm của công dân; vì thế, các cơ quan chức năng phải thận trọng,

khách quan, công bằng, phù hợp với chủ trương, chính sách cải cách tư pháp

của Đảng và Nhà nước, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là các công

ước quốc tế về quyền con người; do đó, khi tuân thủ đúng nguyên tắc này sẽ

giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc nhanh chóng, tránh việc ảnh

hưởng kéo dài đến quyền lợi của công dân cũng như hạn chế tình trạng ban

hành quyết định không đúng, không có căn cứ pháp luật.

Yêu cầu “nhanh chóng” đòi hỏi mọi hoạt động từ lúc lập hồ sơ đến giai

đoạn tư vấn, xem xét, đề nghị và áp dụng đều phải tiến hành nhanh, trong

hoặc trước thời hạn luật định; vì vậy, mỗi chủ thể với thẩm quyền riêng phải

nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ được phân công.

Yêu cầu “công khai” là việc bảo đảm cho những người tham gia tiến

hành việc xem xét, áp dụng và đối tượng bị áp dụng biện pháp khi xác minh,

thu thập chứng cứ đều được tiến hành công khai.

Yêu cầu “khách quan” đòi hỏi các chứng cứ trong hồ sơ phải xem xét

một cách toàn diện, đầy đủ; trên cơ sở vô tư, không thiên vị, vụ lợi cá nhân.

Yêu cầu “đúng thẩm quyền” là việc các cơ quan đã được pháp luật quy

định tham gia vào quá trình xây dựng hồ sơ và áp dụng biện pháp thì chỉ được

làm những gì pháp luật quy định về thẩm quyền của mình.

Yêu cầu “công bằng” là làm sao cho thời hạn đối tượng bị áp dụng biện

pháp phải tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm.

Yêu cầu “đúng quy định của pháp luật” là việc xử lý đúng hành vi, áp

dụng đúng quy định và trình tự thủ tục luật định.

20

Ba là, việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân

thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng.

Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải đánh giá được

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà đối tượng thực hiện,

xác định hành vi ấy là vi phạm hành chính hay hình sự để có chế tài xử lý,

tránh gây oan sai. Đặc điểm nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đều

được quy định trong pháp luật hành chính; những đặc điểm trên có ảnh hưởng

đến khả năng cải tạo, giáo dục; vì thế, khi áp dụng biện pháp, các cơ quan có

thẩm quyền phải xem xét để áp dụng phù hợp, tránh tình trạng đối tượng có

nhân thân tốt, vi phạm lần đầu lại bị áp dụng thời hạn như người có nhân thân

xấu, có nhiều tình tiết tăng nặng.

Bốn là, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính là người

nghiện ma túy và thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Cá nhân

bị áp dụng biện pháp XLHC có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện

hợp pháp chứng minh mình không thuộc diện bị áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Trên thực tế, không ít những trường hợp khi xem xét, quyết định áp dụng

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có sự chủ quan, áp đặt của chủ thể có thẩm

quyền; việc xem xét thường dựa vào hồ sơ, chứng cứ do cơ quan lập hồ sơ thu

thập, xây dựng. Tuy nhiên, trong trường hợp hồ sơ được xây dựng không đảm bảo

tính khách quan, công bằng, không có căn cứ pháp lý rõ ràng thì quyết định của

Tòa án sẽ không đúng và xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ, bình đẳng trong mối quan hệ pháp luật

giữa một bên là chủ thể nhân danh Nhà nước, một bên là công dân có hành vi vi

phạm. Trách nhiệm chứng minh hành vi vi phạm thuộc về Nhà nước, tránh tình

trạng các chủ thể có thẩm quyền dùng quyền lực để áp đặt lên đối tượng.

21

1.5.1.2. Đối tượng bị áp dụng

Đối tượng bị áp dụng khi đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là những cá

nhân riêng biệt, bị cơ quan chức năng phát hiện, bằng nghiệp vụ cụ thể để xác

định tình trạng nghiện và áp dụng những biện pháp nhằm ngăn chặn kịp thời

để tránh gây ra những hậu quả khôn lường cho xã hội. Tuy nhiên, không phải

đối tượng nào khi bị nghiện cũng đều đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tùy

theo từng độ tuổi, mức độ vi phạm, tần suất sử dụng ma túy mà sẽ có những

biện pháp áp dụng khác nhau.

Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008)

quy định:

1. Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện tại gia

đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà

vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

2. Việc đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được

thực hiện theo quyết định của Chủ tịch UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh. Thời hạn cai nghiện ma tuý tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ một năm đến

hai năm.

3. Người nghiện ma tuý tự nguyện làm đơn xin cai nghiện thì được nhận

vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc và không bị coi là XLVPHC.

4. Tổ chức và hoạt động của cơ sở cai nghiện bắt buộc, chế độ cai nghiện

bắt buộc, thủ tục đưa người nghiện ma tuý đi cai nghiện bắt được quy định tại

khoản 1 Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật về XLVPHC

[21, 43, Điều 28].

Theo khoản 1, Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012, Điều 3, Nghị định số

221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013; Điều 1, Nghị định số 136/2018/NĐ-CP

ngày 09/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng

22

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; thì có thể chia đối tượng

áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thành các nhóm sau:

Nhóm thứ nhất, người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú

ổn định, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời

hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp

giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.

Nhóm thứ hai, người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú

ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do

nghiện ma túy.

Nhóm thứ ba, người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp dụng

biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy nhưng không có

nơi cư trú ổn định.

Xuất phát từ tính nhân văn và mục đích nhân đạo của pháp luật, trong

một số trường hợp, các đối tượng nghiện ma túy đã tái vi phạm nhiều lần vẫn

có thể được miễn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng

những đối tượng trên sẽ phải chịu sự quản lý nghiêm ngặc của cơ quan chức

năng tại cộng đồng. Khoản 2, Điều 96, Luật XLVPHC năm 2012 và Điều 5,

Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định về việc không lập hồ sơ đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp sau:

- Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;

- Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;

- Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi

được UBND cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận;

- Người đang tham gia các chương trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng

theo quy định tại khoản 3, Điều 16, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày

19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành

Luật XLVPHC;

23

- Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được quy

định tại khoản 2, Điều 3, Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012

của Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

thuốc thay thế.

Như vậy, quy định của Luật XLVPHC đã có những thay đổi cơ bản so

với Pháp lệnh XLVPHC trước đây về đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nếu như trước đây, theo quy định tại Điều 26,

Pháp lệnh XLVPHC 2002 quy định hai loại đối tượng bị áp dụng biện pháp

đưa vào CSCB bao gồm: Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, người

bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này

nhưng không có nơi cư trú nhất định, thì nay đối với biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc theo Luật XLVPHC thì chỉ áp dụng đối với đối tượng là

người nghiện ma túy.

1.5.1.3. Thời hiệu, thời hạn áp dụng

Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định các chủ thể tham gia vào

quan hệ không thể thoả thuận để kéo dài hoặc rút ngắn thời hạn này.

Theo quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 6, Luật XLVPHC năm 2012 và

Điều 4, Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy

định thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03

tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép lần cuối

bị phát hiện và lập biên bản theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật

XLVPHC và Điều 8 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013.

Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến

thời điểm khác. Trong quan hệ pháp luật, thời hạn là sự liên hệ pháp lý đặc

biệt theo đó quan hệ pháp luật được phát sinh.

Theo quy định tại khoản 2, Điều 95, Luật XLVPHC năm 2012 thì thời

hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ 12 tháng đến 24

24

tháng. Khoản 2, Điều 7, Luật XLVPHC cũng quy định thời hạn được coi là

chưa bị áp dụng biện pháp XLHC nếu cá nhân bị áp dụng biện pháp XLHC

mà trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện

pháp hành chính hoặc 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp

dụng biện pháp XLHC mà không tái phạm thì được coi là chưa bị áp dụng

biện pháp XLHC.

Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 quy định:“Trong thời hạn 15 ngày,

kể từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ đề nghị của cơ quan có thẩm quyền, Tòa án

phải ra một trong các quyết định quy định tại điểm h khoản 2 Điều 20 của

Pháp lệnh này; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng

không quá 30 ngày” [40, Điều 7].

Thời hiệu, thời hạn theo quy định của pháp luật sẽ đề cao trách nhiệm

của cơ quan chức năng trong việc thực thi pháp luật, đồng thời giúp cơ quan

có thẩm quyền xác định được mốc thời gian cụ thể mà từ đó đưa ra quyết định

có hay không việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện.

1.5.1.4. Thẩm quyền áp dụng

Việc phân định thẩm quyền xử lý của các cơ quan trong quá trình áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một vấn đề hết

sức quan trọng; các cơ quan có thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ của mình

trong một trình tự, thủ tục chung thì quyết định áp dụng mới đúng quy định

của pháp luật được. Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một biện

pháp XLHC liên quan trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân nên

Luật XLVPHC quy định chặt chẽ thẩm quyền áp dụng biện pháp trên theo

hướng ở mỗi giai đoạn thực hiện do một cơ quan chức năng phụ trách; trong

đó trình tự, thủ tục lập hồ sơ, xem xét, ra quyết định phải được tiến hành tại

TAND cụ thể như sau:

- Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc

25

Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc được quy định như sau [23, Điều 103]:

a) Đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch UBND

cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

b) Đối với người nghiện ma túy không cư trú tại nơi người đó có hành vi vi

phạm pháp luật thì Chủ tịch UBND cấp xã phải xác minh; trường hợp xác định

được nơi cư trú thì có trách nhiệm chuyển người đó kèm theo biên bản vi phạm

về địa phương để xử lý; trường hợp không xác định được nơi cư trú của người

đó thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

c) Công an cấp xã có trách nhiệm giúp Chủ tịch UBND cùng cấp thu

thập các tài liệu và lập hồ sơ đề nghị quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều

103, Luật XLVPHC.

Trường hợp người nghiện ma túy vi phạm do cơ quan Công an cấp

huyện hoặc cơ quan Công an cấp tỉnh trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong

các vụ vi phạm pháp luật mà thuộc đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc theo quy định tại Điều 96 của Luật XLVPHC thì cơ quan Công an đang

thụ lý vụ việc tiến hành xác minh, thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người đó.

Điều 8, Chương II, Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 quy

định cụ thể trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc các trường hợp cần phải xác minh, thu thập tài liệu.

Quy định buộc xác minh nơi cư trú của đối tượng nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho công tác xử lý, công tác quản lý sau khi đối tượng chấp hành

xong quyết định, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách của địa phương nơi đối

tượng thực hiện hành vi vi phạm.

Như vậy, chủ thể có thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bao gồm:

26

Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã;

Cơ quan công an (cấp huyện, cấp tỉnh).

- Thẩm quyền trong việc kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị và xem

xét, quyết định đề nghị áp dụng đưa đi cai nghiện bắt buộc

Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định Trưởng phòng Tư pháp

cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ và phải bảo đảm

phù hợp, đầy đủ theo quy định của pháp luật XLVPHC. Kết quả kiểm tra phải

được thể hiện bằng văn bản và gửi Trưởng phòng LĐ – TB & XH cùng cấp

[12, Điều 12].

- Thẩm quyền đề nghị xem xét áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc

Luật XLVPCH năm 2012 và Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định

chế độ áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc quy định

cơ quan có thẩm quyền đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc là Trưởng phòng LĐ - TB & XH cùng cấp sau khi đã có văn bản

kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đã được Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện

xác nhận [12, Điều 13]. Theo đó, trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận

được hồ sơ đề nghị của Trưởng phòng tư pháp, Trưởng phòng Lao động –

Thương binh và xã hội phải đối chiếu hồ sơ đề nghị với nội dung văn bản

kiểm tra tính pháp lý để từ đó đưa ra quyết định có hay không việc đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người bị nghiện.

- Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc.

Luật XLVPHC nói chung và Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 quy

định thẩm quyền xem xét, áp dụng biện pháp XLHC theo đó:

(1) Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC

là TAND cấp huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở.

27

(2) TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét lại quyết định của TAND cấp

huyện bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị [22, Điều 105 và 38, Điều 3].

Tòa án phải chấp hành và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc xem xét,

quyết định áp dụng biện pháp XLHC được quy định tại Điều 2, Pháp lệnh số

09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của UBTVQH về trình tự thủ tục xem

xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại TAND.

Việc chuyển quyền quyết định đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc từ UBND cấp huyện sang TAND cấp huyện là một bước chuyển cơ

bản từ các quyết định mang tính thủ tục hành chính sang việc thụ lý, xem xét

và phán quyết của một cơ quan thực hiện quyền tư pháp bằng con đường “tư

pháp hóa” việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đây là

quá trình chuyển từ cơ chế XLHC sang cơ chế xử lý theo trình tự tố tụng. Với

cơ chế này, người áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có cơ

hội để thực hiện quyền được tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình. Hơn nữa sự chuyển giao thẩm quyền từ UBND cấp

huyện sang TAND cấp huyện đã nâng cao hơn việc bảo đảm quyền con người

trong quá trình xem xét, quyết định đưa hay không đưa một người nghiện ma

túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thông qua các bước thụ lý hồ sơ và họp xét

quyết định chính thức theo đề nghị của các cơ quan chức năng.

Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định thẩm quyền của TAND cấp

huyện trong việc ra quyết định chấm dứt thi hành quyết định áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mà quyết định này sẽ do Giám đốc cơ

sở cai nghiện bắt buộc cấp Giấy chứng nhận đã chấp hành xong quyết định áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

1.5.2. Trình tự, thủ tục quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền của Tòa án

nhân dân cấp huyện

28

Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện được thực hiện theo Pháp lệnh số

09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của UBTVQH quy định trình tự,

thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại TAND, cụ thể

như sau:

- Khi nhận được hồ sơ cơ quan có thẩm quyền chuyển đến, Tòa án phải

vào sổ giao nhận và xem xét tính pháp lý. Trong trường hợp phát hiện ra sai

sót, Tòa án sẽ ra văn bản đề nghị làm rõ một số nội dung trong hồ sơ, trưởng

phòng Lao động-Thương binh và Xã hội có trách nhiệm trả lời bằng văn bản

và nêu rõ lý do. Trường hợp không có vấn đề gì, trình tự xử lý như sau:

- Trong thời hạn 01 ngày làm việc Tòa án phải thụ lý và phân công một

Thẩm phán giải quyết [40, Điều 8]. Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán

xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC. Thẩm phán được phân công

phải từ chối xem xét, quyết định nếu có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể

không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Trường hợp Thẩm phán được phân công

không thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hoặc thuộc trường hợp phải từ chối

xem xét, quyết định thì Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán khác xem xét,

quyết định áp dụng biện pháp XLHC [40, Điều 9].

- Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Tòa án phải thông

báo việc thụ lý bằng văn bản cho cơ quan đề nghị, người bị đề nghị hoặc

người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề

nghị là người chưa thành niên và Viện kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo

phải có đầy đủ các nội dung chính được quy định tại khoản 2, Điều 11, Pháp

lệnh số 09 [40, Điều 11].

- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, thẩm phán được phân công phải

Kiểm tra hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp XLHC về các nội dung sau đây:

a) Tài liệu trong hồ sơ đề nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 100,

khoản 2 Điều 102 hoặc khoản 2 Điều 104 của Luật XLVPHC;

29

b) Thời hiệu áp dụng biện pháp XLHC theo quy định tại khoản 2 Điều 6

của Luật XLVPHC;

c) Thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

XLHC. Trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể tham vấn ý kiến của chuyên

gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học và đại diện UBND cấp xã nơi người bị

đề nghị áp dụng biện pháp XLHC cư trú để làm rõ tình trạng sức khỏe, tâm

lý, điều kiện sống, học tập của họ.

Sau khi nghiên cứu, căn cứ vào kết quả kiểm tra hồ sơ, Thẩm phán phải

quyết định về một trong các nội dung sau đây:

(a) Yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ;

(b) Đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp

XLHC khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 15, Pháp lệnh này.

(c) Mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC [45, Điều 12].

Đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp XLHC, kể từ ngày nhận

được thông báo thụ lý cho đến thời điểm Tòa án mở phiên họp, người bị đề

nghị, cha mẹ hoặc người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành

niên, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị có quyền

cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án đã thụ lý thông qua bưu điện hoặc trực

tiếp tại Tòa án [40, Điều 13].

- Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định mở phiên

họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC (trong trường hợp có lý do

chính đáng thì Toà án có thể mở phiên họp trong thời hạn 10 ngày).

+ Quyết định mở phiên họp phải có các nội dung chính được quy định tại

khoản 2, Điều 16, Pháp lệnh số 09 [40, Điều 16].

+ Thành phần phiên họp gồm [40, Điều 17]:

a) Người tiến hành phiên họp: Thẩm phán và Thư ký phiên họp.

b) Người tham gia phiên họp: Đại diện cơ quan đề nghị, Kiểm sát viên,

người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc người

30

giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên, người bảo vệ quyền,

lợi ích hợp pháp của người bị đề nghị.

c) Trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu đại diện cơ quan LĐ - TB & XH

cấp huyện, người giám định, người phiên dịch, chuyên gia y tế, giáo dục, tâm

lý, đại diện của nhà trường nơi người bị đề nghị là người chưa thành niên học

tập, đại diện UBND cấp xã nơi người bị đề nghị cư trú hoặc những người

khác tham gia phiên họp để trình bày ý kiến về các vấn đề có liên quan.

+ Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp được quy định cụ thể là:

“1. Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp tiến hành các công

việc sau đây:

a) Phổ biến nội quy phiên họp;

b) Kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án yêu cầu tham dự

phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo cáo Thẩm

phán để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp.

2. Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:

a) Thẩm phán tuyên bố khai mạc phiên họp;

b) Thẩm phán phải giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham

gia phiên họp. Trường hợp có yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán

phải xem xét; nếu có căn cứ thì tạm dừng phiên họp và báo cáo Chánh án

Tòa án xem xét, quyết định. Nếu phải thay đổi Thẩm phán mà không có Thẩm

phán khác thay thế thì phải hoãn phiên họp. Việc hoãn phiên họp được thực

hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 19 của Pháp lệnh này;

c) Đại diện cơ quan đề nghị trình bày nội dung đề nghị xem xét, quyết

định áp dụng biện pháp XLHC;

d) Người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, cha mẹ hoặc

người giám hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên trình bày ý kiến

về nội dung đề nghị của cơ quan đề nghị;

31

đ) Người tham gia phiên họp trình bày ý kiến về điều kiện áp dụng biện

pháp XLHC, nhân thân của người bị đề nghị; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ;

hình thức, biện pháp đã giáo dục; đề nghị hoặc không đề nghị áp dụng biện

pháp XLHC; thời gian áp dụng biện pháp XLHC;

e) Đại diện cơ quan đề nghị, người bị đề nghị, cha mẹ hoặc người giám

hộ của người bị đề nghị là người chưa thành niên, người bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của người bị đề nghị tranh luận về việc áp dụng biện pháp XLHC;

g) Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong việc

xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC;

h) Thẩm phán công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện

pháp XLHC hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện

pháp XLHC nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 15 của Pháp lệnh này”

[40,Điều 20].

Như vậy, thủ tục áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc bằng phiên họp giải quyết. Việc quy định Tòa án phải mở phiên họp khi

áp dụng biện pháp XLHC trên với sự tham gia của các thành phần bắt buộc

nhằm đảm bảo tính khách quan và yêu cầu về tính “tư pháp hóa”.

+ Ngoài ra, Pháp lệnh còn quy định Quyền và nghĩa vụ của người tham

gia phiên họp [40, Điều 18]; Tham gia phiên họp xem xét, quyết định áp dụng

biện pháp XLHC [40, Điều 19]; Biên bản phiên họp [40, Điều 21]; Nội dung

quyết định áp dụng, không áp dụng biện pháp XLHC và các quyết định khác

[40, Điều 22]; Hiệu lực các quyết định của Tòa án [40, Điều 23]...

* Một số trường hợp khác:

- Trình tự, thủ tục của TAND trong nhận, thụ lý hồ sơ đề nghị hoãn hoặc

miễn áp dụng biện pháp XLHC quy định [40, Điều 26]:

+ Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ kèm

theo đơn đề nghị, Tòa án phải thụ lý và phân công Thẩm phán xem xét, giải

quyết, đồng thời thông báo cho cơ quan đề nghị và Viện kiểm sát cùng cấp.

32

+ Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm

phán phải xem xét và ra quyết định; trường hợp cần thiết, cơ quan đề nghị,

Viện kiểm sát cùng cấp có ý kiến bằng văn bản trước khi Tòa án ra quyết định.

+ Sau khi xem xét hồ sơ kèm theo đơn đề nghị, Thẩm phán ra một trong

các quyết định sau đây:

a) Chấp nhận đơn đề nghị hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp dụng

biện pháp XLHC;

b) Không chấp nhận đơn đề nghị hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định

áp dụng biện pháp XLHC.

+ Quyết định về việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định áp dụng biện

pháp XLHC có các nội dung chính quy định tại khoản 5 Pháp lệnh.

+ Quyết định hoãn hoặc miễn chấp hành biện pháp XLHC có hiệu lực thi

hành kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị quy định tại

Điều 31 của Pháp lệnh và phải được gửi cho người được quy định tại khoản 3

Điều 111 của Luật XLVPHC và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 02

ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.

- Trình tự, thủ tục của TAND trong giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc

miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp XLHC còn lại [40,

Điều 27]:

+ Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc, Giám

đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc phải gửi văn bản đề nghị cho TAND nơi có trường

giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc kèm theo tài liệu

chứng minh người đang chấp hành biện pháp XLHC thuộc một trong các trường

hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 112 của Luật XLVPHC;

+ Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị

giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện

pháp XLHC còn lại, Tòa án phải thụ lý và phân công Thẩm phán xem xét,

giải quyết, đồng thời thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp.

33

+ Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm

phán phải xem xét và ra quyết định; trường hợp cần thiết, cơ quan đề nghị,

Viện kiểm sát cùng cấp có ý kiến bằng văn bản trước khi Tòa án ra quyết định.

+ Sau khi xem xét hồ sơ, Thẩm phán ra một trong các quyết định sau đây:

a) Chấp nhận đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành

phần thời gian áp dụng biện pháp XLHC còn lại;

b) Không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp

hành phần thời gian áp dụng biện pháp XLHC còn lại.

+ Quyết định về việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành

phần thời gian áp dụng biện pháp XLHC còn lại có các nội dung được quy

định tại khoản 5 Điều 27 Pháp lệnh này.

+ Quyết định về việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành

phần thời gian áp dụng biện pháp XLHC còn lại có hiệu lực thi hành kể từ

ngày hết thời hạn khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều

31 của Pháp lệnh này và phải được gửi cho người được quy định tại khoản 3

Điều 112 của Luật XLVPHC và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 02

ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định.

- Trình tự, thủ tục của TAND trong hủy bỏ quyết định hoãn hoặc tạm

đình chỉ chấp hành quyết định áp dụng biện pháp XLHC [40, Điều 28]:

+ Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản thông

báo của UBND cấp xã, Tòa án xem xét hủy bỏ quyết định hoãn hoặc tạm đình

chỉ và buộc người đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ phải chấp hành quyết

định áp dụng biện pháp XLHC.

+ Quyết định buộc chấp hành quyết định áp dụng biện pháp XLHC có

hiệu lực thi hành ngay và phải được gửi cho những người có liên quan theo

quy định tại khoản 3 Điều 113 của Luật XLVPHC và Viện kiểm sát cùng cấp

trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định và phải bao gồm

các nội dung quy định tại khoản 4, Điều 28, Pháp lệnh này.

34

- Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị quyết định

của Tòa án [40, Điều 33]:

+ Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại

hoặc văn bản kiến nghị, kháng nghị, Tòa án đã xem xét, quyết định áp dụng

biện pháp XLHC phải gửi đơn hoặc văn bản kiến nghị, kháng nghị kèm theo

hồ sơ cho Tòa án cấp trên trực tiếp để xem xét, giải quyết; đồng thời, thông

báo về việc khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị cho cá nhân, cơ quan có liên

quan và Viện kiểm sát cùng cấp.

+ Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại

hoặc văn bản kiến nghị, kháng nghị kèm theo hồ sơ, Tòa án cấp trên trực tiếp

phải thụ lý và phân công Thẩm phán xem xét, giải quyết, đồng thời thông báo

cho người khiếu nại, cơ quan kiến nghị và Viện kiểm sát cùng cấp.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm

phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết. Thành phần, trình tự tiến hành

phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị đối với quyết

định của Tòa án cơ bản giống với với phiên họp xem xét, quyết định áp dụng

biện pháp XLHC.

- Trình tự, thủ tục của TAND trong việc giải quyết khiếu nại hành vi của người

có thẩm quyền của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp XLHC [40, Điều 41]:

+ Khiếu nại hành vi của Thẩm phán, Thư ký Tòa án do Chánh án Tòa án

cấp huyện giải quyết trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được

khiếu nại; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có

quyền khiếu nại đến Tòa án cấp tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ

ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Tòa án cấp tỉnh phải xem xét, giải quyết.

Quyết định của Chánh án Tòa án cấp tỉnh là quyết định cuối cùng.

+ Khiếu nại hành vi của Chánh án TAND cấp huyện do Chánh án TAND

cấp tỉnh giải quyết trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được

khiếu nại. Quyết định của Chánh án Tòa án cấp tỉnh là quyết định cuối cùng.

35

+ Khiếu nại hành vi của Chánh án, Thẩm phán, Thư ký Tòa án cấp tỉnh

do Chánh án Tòa án cấp tỉnh giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể

từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Tòa án cấp tỉnh phải xem xét, giải

quyết. Quyết định của Chánh án Tòa án cấp tỉnh là quyết định cuối cùng.

+ Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án phải

gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức đã khiếu nại

và Viện kiểm sát cùng cấp.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có vai trò quan

trọng trong việc đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và chữa bệnh cho

những người nghiện, giúp họ có thể tái hòa nhập cộng đồng dễ dàng hơn.

Việc hiểu rõ các vấn đề khái quát chung về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc là làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, thời hiệu, thời

hạn, thẩm quyền cũng như trình tự thủ tục áp dụng sẽ là tiền đề cho việc

nghiên cứu, hướng tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về biện pháp.

36

Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HÓA 2.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Thanh Hóa nói chung và Tòa án nhân

dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh nói riêng

2.1.1. Đặc điểm tình hình

Thanh Hoá là một tỉnh lớn của Bắc Trung Bộ, với diện tích

11.1114,6km2, là tỉnh có diện tích lớn thứ 5 trong cả nước. Phía Bắc tiếp giáp

03 tỉnh gồm: Sơn La, Hoà Bình, Ninh Bình với đường ranh giới dài 175km;

phía Nam tiếp giáp Nghệ An với đường ranh giới dài 160 km; phía Đông tiếp

giáp Biển Đông với chiều dài đường bờ biển 102 km và phía Tây tiếp giáp

tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào với đường biên giới

dài 192km; Thanh Hóa là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất cả nước với 27

đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương (bao gồm: 2 thành phố, 1 thị xã

và 24 huyện), 635 xã, phường, thị trấn (trong đó có 573 xã xây dựng nông

thôn mới) và 3.888 thôn, bản, tổ dân phố (trong đó: 184 xã miền núi và 12 thị

trấn miền núi). Theo Báo cáo kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019

của Ban Chỉ đạo tổng điều tra Dân số và Nhà ở Trung ương công bố, dân số

toàn tỉnh Thanh Hóa là 3.640.128 người, 979.951 hộ dân cư, đứng thứ 3 cả

nước về dân số, gồm 7 dân tộc anh em cùng sinh sống là Kinh, Thái, Mường,

Thổ, Dao, H’Mông, Khơ Mú.

Theo báo cáo tình hình thực hiện kinh tế - xã hội năm 2020 của Ủy ban

nhân dân tỉnh Thanh Hóa, mặc dù là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề của đại

dịch Covid-19, song tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn ước đạt

6,08% (đây là mức tăng trưởng cao nhất khu vực Bắc Trung Bộ); quy mô nền

kinh tế của tỉnh Thanh Hóa đã đứng thứ 8 cả nước và từng bước trở thành cực

tăng trưởng mới ở phía Bắc của Tổ quốc [34, tr1].

37

Chất lượng các hoạt động văn hóa - xã hội có chuyển biến rõ nét; an sinh

xã hội được chăm lo, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện.

2.1.2. Đặc điểm tình hình, tổ chức, biên chế của Tòa án nhân dân cấp

huyện, tỉnh Thanh Hóa

Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Thanh Hóa được thành lập và hoạt động

theo Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946, ở giai đoạn này cơ cấu Thẩm phán được

Chính phủ bổ nhiệm, cấp huyện có 01 Thẩm phán, 01 Lục sự; cấp tỉnh có

Chánh án, Biện lý, Dự thẩm và Lục sự, các Tòa án từng bước đi vào hoạt

động trong điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị thiếu thốn, đội ngũ cán bộ

Tòa án phần lớn chưa được đào tạo qua trường lớp.

Trong 75 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà

nước, mà trực tiếp là Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, TAND Tối cao, TAND hai cấp

tỉnh Thanh Hóa không ngừng lớn mạnh và trưởng thành trong từng thời kỳ

cách mạng, xứng đáng là một cơ quan nòng cốt của các huyện; phục vụ có

hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước và đã hoàn thành tốt

nhiệm vụ, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP của Chính phủ, biên chế được phân

bổ của TAND hai cấp tỉnh Thanh Hóa có 406 cán bộ, công chức và lao động

hợp đồng. Ttrong đó: Cấp tỉnh là 65 người gồm 59 công chức (13 thẩm phán),

06 lao động hợp đồng; cấp huyện là 341 người gồm 287 công chức (118 thẩm

phán), 54 lao động hợp đồng.

Hiện nay, tỉnh Thanh Hóa có 27 TAND cấp huyện (trong đó có 11 huyện

miền núi); biên chế đến ngày 30/12/2020 là 344 công chức, trong đó: Cấp tỉnh

có 60 người (14 thẩm phán); cấp huyện có 284 người (111 thẩm phán).

Về trình độ chuyên môn, đối với các chức danh tư pháp trong TAND cấp

huyện, tỉnh Thanh Hóa số cán bộ có bằng Đại học Luật đạt tỷ lệ 91.2%, trong

đó có 15 đồng chí có trình độ Thạc sĩ các chuyên ngành luật.

38

Về trình độ chính trị, 75 đồng chí (đạt 25%) lãnh đạo TAND cấp huyện

và cán bộ có chức danh tư pháp tại TAND các huyện đều có trình độ Trung

cấp chính trị trở lên. Để nâng cao trình độ chính trị cho công chức đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ hiện nay, TAND các huyện chú trọng đến việc cử công

chức theo học các lớp chính trị trung cấp, cao cấp.

Nhìn chung, đội ngũ cán bộ, công chức trong TAND cấp huyện, tỉnh

Thanh Hóa có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với chủ trương, chính

sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thẩm phán là nhân vật trọng tâm

trong hoạt động xét xử đã thường xuyên tu dưỡng tự rèn luyện mình, giữ

chuẩn mực đạo đức thanh liêm, chính trực, nâng cao trách nhiệm, đạo đức

nghề nghiệp, đưa ra những phán xét công minh.

Về cơ sở vật chất: TAND cấp huyện đã được cấp trên đầu tư xây dựng

trụ sở , bố trí cơ sở vật chất trang thiết bị đầy đủ, hiện đại cho phòng xét xử,

bố trí vị trí chỗ ngồi của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố

tụng, đặc biệt là quy định về trang phục xét xử của Thẩm phán theo từng cấp

đã tạo được sự uy nghiêm nơi công đường xử án, xứng đáng là nơi đưa ra

những phán xét công bằng, công khai, minh bạch. Công tác ứng dụng công

nghệ thông tin vào hoạt động của Tòa án được đẩy mạnh.... Nhìn chung cơ sở

vật chất về cơ bản đã đáp ứng đầy đủ cho yêu cầu công tác.

Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quy định tại Điều 2 Luật

Tổ chức TAND 2014.

Điều 44 Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định, TAND cấp huyện có

các nhiệm vụ và quyền hạn như sau:

- Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật.

- Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật.

Đánh giá chung, trong những năm qua, TAND cấp huyện, tỉnh Thanh

Hoá đã tập trung cao độ, tổ chức triển khai và thực hiện có hiệu quả cao các

nhiệm vụ, nội bộ đoàn kết một lòng, chú trọng áp dụng sáng kiến kinh

39

nghiệm, giải pháp công tác vào công tác chuyên môn, đổi mới tác phong làm

việc. Kết quả đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra.

2.2. Thực trạng người nghiện ma túy, công tác cai nghiện ma túy

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

Với dân số đông, vị trí địa lý thuận lợi cùng với chính sách thu hút đầu

tư, những năm qua, Thanh Hóa đã thu hút số lượng lớn dân nhập cư đến sinh

sống và làm việc. Đây là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển kinh tế, xã

hội của tỉnh nhưng đồng thời cũng là nguyên nhân gây ra nhiều yếu tố phức

tạp, trong đó có tình trạng nghiện ma túy đang ngày càng khó kiểm soát và

gia tăng mạnh trên địa bàn các huyện trong tỉnh; số người nghiện, sử dụng ma

túy ở ngoài cộng đồng còn nhiều, các đối tượng nghiện ma túy lợi dụng nhà

nghỉ, nhà trọ, vùng địa hình phức tạp để mua bán và sử dụng ma túy... Thanh

Hoá hiện có 7.468 người nghiện ma tuý có hồ sơ (trong đó có 6.778 người

nghiện đang sống ngoài cộng đồng, 576 người đang cai nghiện tại cơ sở cai

nghiện của tỉnh, 160 người nghiện đang bị giam giữ tại Trại tạm giam Công

an tỉnh), có ở cả 27/27 huyện thị, thành phố và xã, phường, thị trấn [29].

Chất ma túy được sử dụng trái phép có xu hướng chuyển dần từ heroin

sang ma túy tổng hợp. Nguy hiểm hơn là xuất hiện một số loại ma túy mới,

trong đó có loại ma túy không nằm trong danh mục các loại ma túy do Chính

phủ quy định. Tình trạng nghiện ma túy tổng hợp, nhất là ma túy đá gia tăng

do phần lớn thanh thiếu niên nhận thức sai lệch về việc sử dụng ma túy đá sẽ

không gây nghiện mà không biết rằng trong khi ma túy tổng hợp, nhất là ma

túy đá, thường tạo ra ảo giác mạnh và kéo dài, đối tượng sử dụng không

kiểm soát được nhận thức và hành vi, có nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật,

gây hệ lụy lớn cho gia đình và xã hội. Hiện nay số người nghiện ma tuý tổng

hợp dạng đá trên địa bàn toàn tỉnh khoảng 1.017 người, chiếm 15,1% tổng số

người nghiện ma tuý toàn tỉnh [29].

40

Hai thành phố Thanh Hóa và Sầm Sơn là địa bàn có nhiều đối tượng

nghiện nhất. Sỡ dĩ như vậy vì đây là khu hành chính, du lịch nghỉ dưỡng tập

trung đông dân cư, tại đây có nhiều nhà nghỉ, khách sạn, quán karaoke, giao

thông thuận lợi; tiếp theo là Quan Hóa, Hoằng Hóa, Nông Cống, Triệu Sơn,

Tĩnh Gia...; đối tượng sử dụng ma túy đang ngày càng trẻ hóa; thành phần

người nghiện ma tuý đang sống ngoài xã hội đa dạng bao gồm học sinh, sinh

viên, cán bộ công chức, công nhân, nông dân và số lao động tự do là 4.561

người chiếm 67,75% [29].

Công tác cai nghiện ma túy ở các địa phương đã được các cấp ủy, chính

quyền chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện ở các cấp. Nhiều văn bản chỉ đạo

sát sao về công tác cai nghiện tại gia đình và cộng đồng được ban hành, đưa

công tác phòng chống ma túy nói chung, cai nghiện phục hồi cho người nghiện

ma túy nói riêng vào các Nghị quyết, Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa

phương, chỉ đạo xây dựng các mô hình cai nghiện và quản lý sau cai, xã hội

hóa công tác cai nghiện; phát động toàn dân tham gia vận động, giúp đỡ, quản

41

lý, hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng; đẩy mạnh công tác xây

dựng đơn vị không có tệ nạn ma túy, mại dâm...

Tất cả các huyện, xã, thị trấn đều thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống ma

túy, mại dâm và HIV/AIDS; nhiều địa phương đã quan tâm, chỉ đạo, có cách

làm sáng tạo, năng động, đầu tư mạnh mẽ các nguồn lực cho công tác cai

nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng; từ năm 2016 đến nay, UBND tỉnh,

huyện, Ban Chỉ đạo 138 và các sở, ngành, trong đó có TAND cấp huyện đã

ban hành trên 200 văn bản các loại để chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện công tác

cai nghiện ma túy tại cộng đồng và bắt buộc. Công an các cấp đã chủ động

điều tra, nắm tình hình người nghiện và phối hợp với các lực lượng có liên

quan lập hồ sơ đưa người nghiện đi cai nghiện bắt buộc, mở hồ sơ quản lý

người sử dụng ma túy, từ đó đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa

phương nhiều kế hoạch, đề án trong quản lý người nghiện ở địa bàn cư trú.

Các cơ sở cai nghiện ma túy của tỉnh thường xuyên nắm bắt diễn biến tư

tưởng của học viên, kịp thời ngăn chặn các hành vi tiêu cực, xử lý nghiêm

những hành vi vi phạm nội quy, quy chế để giáo dục răn đe các học viên

khác. Công tác cai nghiện được đổi mới theo hướng đa chức năng vừa cai

nghiện bắt buộc, vừa cai nghiện tự nguyện, vừa điều trị thay thế bằng

Methadone và vừa có một phần làm cơ sở xã hội tiếp nhận người nghiện

không có nơi cư trú ổn định trong thời gian lập hồ sơ đưa đi cai nghiện bắt

buộc theo quyết định của Toà án và kết nối các dịch vụ điều trị tại cộng đồng.

Tính đến ngày 10/4/2021, các cơ sở cai nghiện ma tuý đã điều trị cai nghiện

cho 786 người, trong đó số tiếp nhận, điều trị cai nghiện mới là 107 người

(bao gồm 41 người cai nghiện tự nguyện, 76 người cai nghiện bắt buộc). Số

hết thời hạn cai nghiện trở về cộng đồng là 102 người. Ngoài ra, Trung tâm

Cung cấp dịch vụ công tác xã hội và cơ sở cai nghiện ma tuý số 1 đang tổ

chức điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone cho

109 người [29].

42

Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc vẫn đang còn nhiều khó khăn, vướng mắc; chưa đáp ứng được yêu cầu

nhiệm vụ đặt ra đó là: Việc tổ chức thực hiện các biện pháp liên quan còn

chưa đồng bộ; công tác cai nghiện phục hồi chưa được một số địa phương

thực sự quan tâm; việc lập thủ tục hồ sơ thời gian đầu còn lúng túng; các văn

bản quy định, hướng dẫn thi hành, nhất là đưa các đối tượng đi cai nghiện bắt

buộc về trình tự, thủ tục hồ sơ, biểu mẫu chưa có hướng dẫn cụ thể và thống

nhất chung dẫn đến phương pháp lập hồ sơ của từng địa phương, đơn vị khác

nhau nên khi chuyển hồ sơ đến tòa án gây khó khăn trong việc xem xét tính

hợp pháp của hồ sơ, một số hồ sơ tòa án phải trả do chưa đủ điều kiện; quá

trình xem xét, giải quyết tại tòa án đối với những đối tượng đưa đi cai nghiện

bắt buộc có nơi cư trú ổn định gặp nhiều khó khăn trong công tác tống đạt,

giao nhận các văn bản tố tụng do các đối tượng này thường vắng mặt tại gia

đình… việc thiết lập hồ sơ chưa chặt chẽ và khi tiếp nhận hồ sơ, tòa án phải

đến địa phương để truy tìm đối tượng để có cơ sở xem xét. Chính quyền địa

phương và gia đình không quan tâm đến việc này nên gây khó khăn cho công

tác của tòa án. Các đối tượng khi nắm được thì bỏ trốn, không có mặt tại

phiên họp, thậm chí không chấp hành Quyết định nên nhiều đối tượng vẫn

chưa đưa đi cai nghiện bắt buộc được...

Nhìn chung công tác cai nghiện trong những năm qua đã được chính

quyền địa phương quan tâm thực hiện. Mặc dù tỷ lệ tái nghiện còn cao song

được nhân dân đồng tình ủng hộ, người nghiện được động viên, quan tâm. Các

hoạt động hỗ trợ giúp đỡ người cai nghiện ngày càng được tăng cường như:

Thăm hỏi, chăm sóc sức khỏe, tư vấn chống tái nghiện và hỗ trợ học nghề, tạo

việc làm thông qua chương trình xóa đói giảm nghèo, dạy nghề cho lao động

nông thôn... từ đó giúp cho nhiều người nghiện quyết tâm cai nghiện, vươn lên

trở thành công dân có ích cho xã hội, tình hình TTATXH được củng cố...

43

2.3. Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa

Thực hiện Luật XLVPCH năm 2012, Nghị định số 221/NĐ-CP của

Chính phủ, công tác áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều quả nổi bật, tạo ra những

chuyển biến tích cực trong công tác đấu tranh phòng chống ma túy, góp phần

đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Trong những kết quả đó có đóng góp không

nhỏ của hệ thống TAND cấp huyện, với thẩm quyền được pháp luật quy định,

các đơn vị đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trên địa

bàn thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ quy trình áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

2.3.1. Thực trạng lập hồ sơ, xem xét và đề nghị áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

2.3.1.1. Thực trạng lập hồ sơ

Đối với các biện pháp XLHC thuộc thẩm quyền quyết định của TAND

cấp huyện, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện được áp dụng nhiều nhất, phù

hợp với từng loại đối tượng, đúng thủ tục theo quy định của pháp luật, cơ bản

phù hợp với thực tiễn và huy động được sự tham gia của cộng đồng xã hội.

Theo báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC 6 tháng đầu năm 2019

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thì tổng số đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 159 đối tượng,

tăng 43,24% so với cùng kỳ năm 2018.

Tuy nhiên, xét tổng thể, trong khi số lượng người nghiện ma túy vẫn tiếp

tục tăng lên, nhưng việc lập hồ sơ áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc vẫn còn hạn chế. Số lượng người bị nghiện ma túy đưa đi cơ

sở cai nghiện chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số người nghiện trên toàn tỉnh.

Như vậy có thể thấy đối tượng nghiện ma túy được đưa vào cơ sở cai nghiện

tăng lên và số lượng người nghiện ngoài cộng đồng cũng giảm nhưng giảm

44

chậm. Số lượng người nghiện ngoài cộng đồng, người nghiện chưa bị phát

hiện vẫn còn nhiều.

2.3.1.2. Thực trạng giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng biện

pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

* Thực trạng về kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ

Thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc thuộc Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện được quy đinh:

“Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Trưởng phòng Tư pháp

cấp huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ. Kết quả kiểm tra

phải được thể hiện bằng văn bản và gửi Trưởng phòng LĐ - TB & XH cùng

cấp” [12, khoản 2, Điều 12].

Bộ Tư pháp quy định việc kiểm tra tính pháp lý của Trưởng phòng Tư

pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp XLHC đưa vào

trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc: “Trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề

nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục

bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Trưởng phòng Tư pháp cấp

huyện có trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ đề nghị theo quy định

tại Điều 17 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và quy định tại các Mục 1, 2 và 3

Chương II của Thông tư này” [09, khoản 2 Điều 5].

Theo báo cáo của TAND tỉnh Thanh Hóa đánh giá chung, việc lập hồ

sơ xem xét và đề nghị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc của các đơn vị cơ bản bảo đảm được yêu cầu đề ra; tuy nhiên vẫn

còn hồ sơ phải trả lại do chưa áp dụng đúng biểu mẫu; chưa xác định cụ thể

nơi cư trú để áp dụng luật cho phù hợp... những hồ sơ bị trả lại đã được các

đơn vị khẩn trương hoàn chỉnh, bổ sung, bảo đảm yêu cầu.

* Thực trạng xem xét, đề nghị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc

45

Thẩm quyền xem xét, quyết định việc chuyển hồ sơ đề nghị áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc Trưởng phòng LĐ – TB

& XH được quy định như sau: “Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận

được hồ sơ đề nghị của Trưởng phòng Tư pháp, Trưởng phòng LĐ - TB &

XH đối chiếu hồ sơ đề nghị theo quy định tại Điều 9 Nghị định này với nội

dung văn bản kiểm tra tính pháp lý của Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện”

[12, khoản 1, Điều 13].

Thực tế hiện nay, trên địa bàn các huyện, Phòng Tư pháp, Phòng LĐ –

TB & XH tiếp nhận hồ sơ đề nghị kiểm tra tính pháp lý, áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với số lượng lớn, thực hiện cùng một lúc,

trong khi biên chế trung bình hiện nay của Phòng Tư pháp chỉ từ 03 – 05

người, Phòng LĐ – TB & XH từ 05 - 07 người và phải đảm nhiệm nhiều

nhiệm vụ khác, dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong việc vừa bảo đảm thời gian,

vừa bảo đảm chất lượng thẩm định.

Luật XLVPHC năm 2020 không quy định các chức danh có thẩm quyền

trong việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp XLHC, trong đó có biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được giao quyền cho cấp phó. Tuy

nhiên, trong thực tế đã nảy sinh những khó khăn vướng mắc vì một số trường

hợp các đồng chí được luật pháp giao thẩm quyền xem xét, áp dụng biện pháp

(Trưởng phòng) đi công tác hay nghỉ phép dài ngày không thể thực hiện thẩm

quyền của mình trong thời hạn luật định. Điều này dẫn đến việc cơ quan có

thẩm quyền lúng túng và thường chọn phương án giải quyết bằng cách đưa

Phó Trưởng phòng ký rồi chuyển hồ sơ qua Tòa án huyện.

2.3.1.3. Thực trạng giai đoạn ban hành quyết định áp dụng biện pháp xử

lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Tòa án nhân dân cấp

huyện, tỉnh Thanh Hóa

Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 và Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ

46

Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính

trị xác định: Tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm

sự bình đẳng của công dân và cơ quan công quyền trước TAND cũng như

thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, tiến tới các chuẩn mực

quốc tế về quyền con người theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, hạn

chế việc ban hành quyết định áp dụng mang tính khép kín, đơn phương của cơ

quan nhà nước có thẩm quyền. Luật XLVPHC quy định chuyển thẩm quyền

xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC (đưa vào trường giáo

dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc)

sang cơ quan tư pháp (TAND cấp huyện) là một cải cách lớn và có ý nghĩa rất

sâu sắc. Điều này giúp tăng uy tín quốc gia trong việc bảo đảm thực hiện các

cam kết quốc tế, giúp doanh nghiệp gián tiếp hưởng lợi về đầu tư và việc

tham gia các hiệp định thương mại; giảm khiếu nại, tố cáo; hiệu quả thi hành

của quyết định áp dụng do đối tượng và gia đình bị áp dụng đồng tình với

quyết định, tự nguyện thi hành cao hơn trước; tiết kiệm được chi phí nếu tránh

được việc bị áp dụng sai pháp luật. Do đó để đưa người nghiện vào cai nghiện

tập trung tại những cơ sở cai nghiện bắt buộc thì chỉ khi nào có quyết định

của TAND có hiệu lực pháp luật thì mới có giá trị pháp lý, ngoài Tòa án thì

không có cơ quan nào khác được quyền ra quyết định áp dụng đưa người

nghiện vào cai nghiện tại những cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Sau khi tiếp nhận hồ sơ đề nghị của Phòng LĐ – TB & XH, TAND cấp

huyện trên địa bàn tỉnh đã triển khai nghiêm túc, chặt chẽ các trình tự, thủ tục

xem xét, quyết định áp dụng biện pháp tại Tòa. 100% các hồ sơ đều được

TAND tiếp nhận, mở sổ theo dõi, phân công Thẩm phán xem xét, thụ lý ngay,

không có hồ sơ quá hạn theo luật định; bảo đảm các nguyên tắc được luật

định. Đây là một trong những điểm nổi bật trong quá trình áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi các ngành chức năng đã phối hợp rất

tốt từ khi lập hồ sơ cho đến khi ban hành và thi hành quyết định.

47

Theo báo cáo của TAND tỉnh Thanh Hóa, trong giai đoạn 2014 – 2020,

TAND các huyện đã thụ lý 1.133 hồ sơ; giải quyết 1.127 hồ sơ, đạt 99.4%

(trong đó, quyết định áp dụng biện pháp XLHC 1.084 hồ sơ). Chỉ tính riêng

trong năm 2019, có 152 đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2018. Các Quyết định của

TAND cấp huyện ban hành đa số không bị cơ quan đề nghị, Viện kiểm sát

ĐVT: Người.

Về độ tuổi

Về dân tộc

Trình độ văn hóa

Nội dung phân loại

16 – 18 Trên 18 Kinh Khác THCS THPT Khác

Giới tính nữ

nhân dân cấp huyện, người đề nghị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị [32].

Số lượng

04

1.080

992

162

146

147

791

05

Bảng phân loại đặc điểm đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHV đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Bên cạnh đó những kết quả đạt được, từ năm 2014 đến năm 2020,

TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong quá trình giải quyết đã

đình chỉ 42 hồ sơ, không áp dụng biện pháp XLHC 01 hồ sơ, 253 thông báo

yêu cầu bổ sung tài liệu chứng cứ vì hồ sơ đề nghị thiếu tài liệu chứng minh

về nhân thân của người bị đề nghị [32].

Ví dụ: Ngày 03/01/2020, TAND huyện Thường Xuân đã thụ lý hồ sơ số

11/2019/TB-TLHS ngày 16/12/2019 đối với anh Vi Anh Thức, sinh ngày

25/12/1993; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; hộ khẩu

thường trú: Thôn Dín, xã Xuân Thắng, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa;

chỗ ở hiện nay: Không xác định; nghề nghiệp: Không có việc làm ổn định; là

con ông Vi Ngọc Đoản và bà Cầm Thị Thêm; tiền án: Không; tiền sự: 01.

Trong toàn bộ hồ sơ đều thể hiện Vi Anh Thức đã bị áp dụng biện pháp XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 01 lần, nhưng trong hồ sơ đề nghị lại cơ

quan đề nghị không cung cấp được Giấy chứng nhận về việc đã chấp hành

xong quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

48

Căn cứ theo khoản 1 Điều 14 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 quy định

“Thẩm phán yêu cầu cơ quan đề nghị bổ sung tài liệu, chứng cứ trong các

trường hợp sau đây: Khi tài liệu chứng minh hành vi vi phạm của người bị đề

nghị, tài liệu về nhân thân, tình trạng sức khỏe của người bị đề nghị chưa rõ

hoặc có mâu thuẫn mà không thể bổ sung, làm rõ tại phiên họp”. TAND huyện

Thường Xuân đã phải ban hành thông báo yêu cầu bổ sung tài liệu chứng cứ,

cụ thể là Giấy chứng nhận về việc đã chấp hành xong quyết định áp dụng biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Vi Anh Thức.

Với trường hợp nêu trên, chưa đến 02 ngày kể từ ngày nhận được yêu

cầu, TAND huyện Thường Xuân đã nhận được tài liệu, chứng cứ yêu cầu bổ

sung, hoàn thiện hồ sơ để ban hành quyết định mở phiên họp xem xét, quyết

định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện đối với Vi Anh

Thức. Có thể thấy được thiếu sót trong quá trình lập hồ sơ và xem xét, đề nghị

áp dụng của các cơ quan cần phải rút kinh nghiệm.

Tuy nhiên, thực tiễn phát sinh nhiều vấn đề cần được hướng dẫn cụ thể

như sau: Hiện nay các cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc thường nằm cách rất

xa trụ sở Tòa án; trước khi chuyển hồ sơ đến Tòa án có nhiều trường hợp

nghiện ma túy nặng (ngáo đá) phải đưa vào cơ sở nghiện ma túy bắt buộc

trước để cắt cơn giải độc, sau đó cơ quan lập hồ sơ và cơ quan đề nghị mới

chuyển toàn bộ hồ sơ cho Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biệp pháp đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Một ví dụ cụ thể đã được tiến hành giải quyết tại TAND huyện Thường

Xuân nơi tác giả công tác đó là: Đối tượng Lương Xuân Quý, sinh ngày

19/8/1985; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 8/12; hộ khẩu

thường trú: Thôn Ngọc Sơn, xã Lương Sơn, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh

Hóa; chỗ ở hiện nay: Không xác định; nghề nghiệp: Không có việc làm ổn

định; là con ông Lương Xuân Hoà và bà Hà Thị Tư; tiền án, tiền sự: Không.

Trong các ngày 01, 06 và 10/11/2019, Công an xã Lương Sơn đã lập biên bản

49

xác minh có sự chứng kiến của Bí thư Chi bộ thôn Ngọc Sơn, xã Lương Sơn

và đại diện gia đình đối tượng (cụ thể mẹ đẻ của Lương Xuân Quý là bà Hà

Thị Tư) về việc Lương Xuân Quý nghiện ma túy đã lâu, thường xuyên tụ tập,

lang thang cùng các đối tượng nghiện ma túy và thường xuyên bỏ nhà đi khỏi

địa phương, kèm theo đó là Giấy báo cáo của bà Hà Thị Tư mẹ đẻ đối tương

Lương Xuân Quý. Ngày 11/11/2019, Chủ tịch UBND xã Lương Sơn, huyện

Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa ra quyết định số 207/QĐ - UBND về việc giao

cho Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 Thanh Hóa quản lý người bị đề nghị áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian chờ

lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Hồ sơ

đã được Phòng Tư pháp huyện Thường Xuân thẩm định tính pháp lý và

chuyển Phòng LĐ – TB & XH huyện Thường Xuân xem xét đề nghị. Ngày

11/12/2019, TAND Thường Xuân thụ lý hồ sơ đề nghị xem xét, quyết định áp

dụng biện pháp XLHC đối với Lương Xuân Quý. Ngày 16/12/2019, TAND

huyện Quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện; ngay sau đó, các quyết định đã được chuyển

tới Lương Xuân Quý tại cơ sở cai nghiện ma túy số 1 thuận lợi.

Có thể thấy việc giao đối tượng nghiện ma túy đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc trước để cắt cơn giải nghiện, sau đó cơ quan lập hồ sơ và cơ quan đề

nghị chuyển toàn bộ hồ sơ cho Tòa án xem xét, quyết định đảm bảo trật tự an

toàn xã hội và thuận lợi hơn cho các cơ quan tiến hành các hoạt động tống đạt

và thi hành quyết định. Những trường hợp như vậy giảm thiểu được việc các

đối tượng trốn tránh hoặc bỏ trốn khỏi địa phương, dẫn tới khó thực hiện

quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Từ khi thụ lý đến khi Tòa án ra quyết định áp dụng có 15 ngày thời gian rất

ngắn; trong khi đó các thủ tục bắt buộc yêu cầu chặt chẽ, nhưng khoảng cách

giữa trung tâm cai nghiện rất xa trụ sở Tòa án (có nơi hàng trăm km) và Tòa án

phải tống đạt nhiều văn bản cho đương sự dẫn đến rất khó khăn cho Tòa án.

50

Một thực tế mà luận văn muốn đề cập là việc triệu tập các đối tượng để

tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng nhưng các đối tượng nghiện ma túy

thường không hợp tác. Ví dụ như trên địa bàn Thường Xuân là huyện có diện

tích rộng, một số xã như Bát Mọt cách trung tâm thị trấn 70 km, xã Yên Nhân

cách trung tâm thị trấn 45km việc đi lại gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời

gian và khi đến tống đạt các đối tượng thường không có mặt ở địa phương.

Qua thực tế một số ví dụ nêu trên có thể thấy rằng: TAND cấp huyện

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã nỗ lực không ngừng trong việc nhanh chóng

tiếp nhận hồ sơ, xem xét và ban hành quyết định áp dụng biện pháp XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhằm ngăn chặn, răn đe và hạn chế số

lượng người nghiện và tái nghiện.

2.4. Đánh giá chung về thực hiện biện pháp xử lý hành chính đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

Tính đến nay, biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do

TAND cấp huyện xem xét, quyết định đã được triển khai thực hiện hơn 9 năm

trên phạm vi toàn quốc; thể hiện tính chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa; tinh thần thượng tôn pháp luật; bảo vệ quyền con người; mỗi người dân

đều có quyền bình đẳng trước pháp luật. Đồng thời, việc áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với những người sử dụng trái

phép chất ma túy còn góp phần cải thiện tình hình sức khỏe cho người nghiện

ma túy; ngăn chặn sự gia tăng của tệ nạn ma túy; bảo đảm trật tự, an toàn xã

hội; góp phần kiềm chế gia tăng người nghiện mới và tạo điều kiện cho người

nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Có thể nói đây là chế tài ưu việt của

pháp luật xã hội chủ nghĩa, mang đậm tính nhân văn, nhân đạo, cao cả, …

Áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc do TAND

cấp huyện xem xét, quyết định trong những năm qua đã đạt được một số kết

quả đáng ghi nhận như sau:

51

Thứ nhất, trong quá trình phát hiện và lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cơ bản được thực hiện đúng theo

quy trình pháp luật quy định, không bỏ qua giai đoạn nào, nên hầu hết các

đối tượng sau khi phát hiện ra đã và đang có hành vi tái nghiện đều bị cơ

quan có thẩm quyền đưa đi cai. Ngay khi thụ lý của Tòa án thì việc giao,

tống đạt các văn bản tố tụng cho cơ quan và người bị đề nghị, mở phiên họp

đúng thời hạn theo quy định pháp luật, việc xem xét áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thực hiện khách quan; việc quyết

định áp dụng thời hạn được căn cứ trên cơ sở tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ,

hành vi vi phạm và nhân thân của người nghiện. Do đó các Quyết định ban

hành không bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.

Thứ hai, với số lượng người nghiện đông và tình hình nghiện diễn biến

phức tạp nên cơ quan Công an, Phòng LĐ - TB & XH và Tòa án cấp huyện đã

phối hợp chặt chẽ, rút ngắn thời gian trong việc đưa người nghiện và cơ sở cai

nghiện bắt buộc mà không vi phạm pháp luật trong thời gian đợi Tòa án ban

hành quyết định. Khi hồ sơ chuyển qua Tòa án đã được sắp xếp khoa học, gọn

gàng, được đánh bút lục và lập danh mục tài liệu từng hồ sơ. Các hồ sơ được

thiết lập cơ bản đảm bảo đúng quy định của pháp luật về đối tượng áp dụng;

thành phần hồ sơ; trình tự, thủ tục lập, kiểm tra, đối chiếu và xem xét hồ sơ;

thời hạn, thời hiệu; sử dụng đúng biểu mẫu. Bên cạnh các tài liệu quy định tại

Nghị định số 136/2016/NĐ-CP; cơ quan lập hồ sơ đã chọn lọc, bổ sung một

số tài liệu cần thiết nhằm bảo đảm tính khách quan, dân chủ và toàn diện; nhờ

vậy trong vòng 05 – 07 ngày kể từ ngày thụ lý, Tòa án huyện đã có thể ban

hành quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc.

Thứ ba, các Thẩm phán được phân công xem xét, quyết định áp dụng

biện pháp XLHC có kiến thức, hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học

giáo dục và hoạt động phòng ngừa người chưa thành niên vi phạm pháp luật;

52

áp dụng đúng nguyên tắc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC; do

đó không có việc phải từ chối, thay đổi thẩm pháp, Thư ký phiên họp; các

quyết định áp dụng (hoặc không áp dụng) biện pháp XLHC của TAND cấp

huyện luôn nhận được sự đồng tình, đánh giá cao; không có tình trạng khiếu

nại, kiến nghị, kháng nghị.

Thứ tư, số người được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc năm sau cao

hơn năm trước; số người được tiếp cận với các dịch vụ cai nghiện tăng, hình

thức cai nghiện đa dạng tại trung tâm, tại gia đình, cộng đồng. Đặc biệt số

người cai nghiện tự nguyện so với trước đây tăng rõ rệt cũng đã góp một phần

không nhỏ vào mục tiêu phòng, chống tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện, giải

quyết được lượng lớn số người nghiện còn tồn tại ngoài cộng đồng; kiềm chế,

không gia tăng số nghiện mới, giảm số người tái nghiện, tái phạm; đảm bảo

an ninh trật tự, an toàn xã hội. Ngành Công an, Y tế, Tòa án, Tư pháp, LĐ -

TB & XH đã phối hợp tốt trong công tác tham mưu cho UBND các huyện chỉ

đạo các ngành có liên quan làm tốt công tác đưa người nghiện vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc, góp phần phòng ngừa tội phạm.

Nguyên nhân đạt được:

Một là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn, các văn bản hướng

dẫn liên quan được quy định rõ ràng, phân định rõ thẩm quyền cho các cơ

quan; trong đó là việc thay đổi thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc từ UBND cấp huyện sang TAND cấp huyện là yếu tố lịch

sử, phù hợp với Hiến pháp và tinh thần “cải cách tư pháp” ở nước ta.

Hai là, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trên địa bàn các huyện, đặc

biệt là công tác, lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các xã, thị trấn nên

những giải pháp để đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được

thực hiện nhanh chóng, linh hoạt, khắc phục những bất cập từ các văn bản

hướng dẫn, bước đầu đã đạt kết quả nhất định. Công tác cai nghiện được sự

đồng lòng tham gia của hệ thống chính trị và của cả cộng đồng.

53

Ba là, các cơ quan được giao nhiệm vụ trong quá trình áp dụng biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn huyện đã chủ

động phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ và tránh trường hợp thời

gian lập hồ sơ, xem xét, áp dụng biện pháp bị kéo dài ra. Trong những năm

qua, các huyện trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa thường xuyên tổ chức những

cuộc họp rút kinh nghiệm khi có vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật

XLVPHC và Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13; hàng quý luôn có những

cuộc họp liên ngành giữa các cơ quan để có những giải pháp hoàn thiện hơn

công tác áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Bốn là, các cấp chính quyền trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã chú trọng

đến công tác nâng cao năng lực chuyên môn cho cán bộ phụ trách công tác áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngoài các đợt tập

huấn do UBND tỉnh tổ chức, UBND các huyện còn kết hợp với các cơ quan

khác tổ chức các buổi tập huấn để giải đáp những vướng mắc trong quá trình

áp dụng biện pháp, tìm cách giải quyết theo hướng linh động phù hợp với tình

hình trên địa bàn. Công tác tuyên truyền, phổ biến về áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc ở các xã, thị trấn đã được quan tâm

đúng mức và triển khai đồng bộ.

2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.4.2.1. Hạn chế từ các quy định của pháp luật

Thứ nhất: Về đối tượng áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc

Theo quy định tại Điều 96 Luật XLVPHC, Nghị định số 136/2016/NĐ-

CP ngày 30/10/2016 của Chính phủ có thể thấy, điều kiện trước tiên để áp

dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc về độ tuổi của người nghiện ma túy phải

từ đủ 18 tuổi. Nhưng thực tế hiện nay số người sử dụng ma tuý tổng hợp ngày

càng tăng, đặc biệt là giới trẻ, học sinh, sinh viên.

54

Vậy người nghiện ma túy chưa đủ 18 tuổi không thuộc đối tượng điều

chỉnh của các quy định nêu trên thì sẽ được điều chỉnh bởi quy định nào?

Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2008)

quy định:

I) Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi đã được cai

nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã,

phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì

được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ.

II) Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi tự nguyện hoặc

được gia đình làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở

cai nghiện bắt buộc dành riêng cho họ [21, 43, Điều 29].

Luật Phòng, chống ma túy cũng quy định thẩm quyền quyết định áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với nhóm này là Chủ

tịch UBND cấp huyện.

Tuy nhiên, tại khoản 1, Điều 96 của Luật XLVPHC chỉ quy định áp dụng

biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma

túy từ đủ 18 tuổi trở lên và thẩm quyền quyết định là TAND cấp huyện. Do

vậy, việc áp dụng biện pháp với người dưới 18 tuổi nghiện ma túy sẽ thực hiện

theo quy định của Luật Phòng, chống ma túy hay là Luật XLVPHC? Hiện nay,

do có sự không thống nhất trong các quy định tại các văn bản quy phạm pháp

luật nêu trên nên các địa phương rất lúng túng trong việc xử lý đối tượng người

nghiện ma túy từ đủ 12 đến dưới 18 tuổi, trong khi đây là nhóm đối tượng lẽ ra

phải được quan tâm đặc biệt hơn, cần được cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý,

chữa bệnh kịp thời, nếu để đến 6 năm sau mới áp dụng biện pháp XLHC đối

với người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi tại thời điểm bị nghiện thì tình trạng

nghiện của đối tượng sẽ ngày càng nặng, khó chữa trị hơn.

Ngoài ra, theo Nghị định số 221 để áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc thì người nghiện phải đã được cai nghiện ma túy tại

55

cộng đồng hoặc bị đưa ra khỏi chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc

phiện bằng thuốc thay thế, nhưng theo Nghị định 136 thì không quy định điều

kiện này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là vậy khi nào thì áp các quy định của Nghị

định 94 quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiện ma túy

tại cộng đồng? Hay cứ bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện

thì cho đi cai nghiện bắt buộc ngay mà không cần thiết phải áp dụng hình thức

cai nghiện tự nguyện hoặc cai nghiện bắt buộc tại gia đình, cộng đồng? Nếu

vậy, sẽ nảy sinh tình trạng người có thẩm quyền lập hồ sơ có thể có nhiều

hướng xử lý khác nhau: hoặc là đề nghị Chủ tịch UBND xã, phường áp dụng

biện pháp cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc là đề nghị Tòa án áp dụng

biện pháp cai nghiện bắt buộc. Có ý kiến cho rằng điều này cũng gây khó

khăn cho Tòa án trong việc có quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt

buộc hay không đối với trường hợp người nghiện ma túy chưa được áp dụng

biện pháp cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng theo Nghị định 94.

Thứ hai, về việc xác định nơi cư trú và nơi thường xuyên sinh sống

Nguyên nhân của sự thiếu thống nhất về việc xác định nơi cư trú của cá

nhân trước hết là do các văn bản quy phạm pháp luật quy định về vấn đề này

còn có sự khác nhau một cách cơ bản.

Luật XLVPHC năm 2012 với Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ sung

năm 2013) chưa có sự thống nhất về việc xác định “nơi cư trú ổn định” của

đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Theo khoản 1 Điều 96, Luật XLVPHC thì đối tượng bị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc gồm 02 nhóm:

Những người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện.

Những người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú ổn định.

Khoản 1 Điều 2, Nghị định số 221/2013/NĐ-CP giải thích “nơi cư trú ổn

56

định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng phải là nơi người đó

hiện đang thường xuyên sinh sống”. Như vậy, một công dân muốn được xác

định có “nơi cư trú ổn định” thì phải thỏa mãn đồng thời hai điều kiện: (i) có

đăng ký thường trú hoặc tạm trú; (ii) đang thường xuyên sinh sống tại nơi đăng

ký thường trú hoặc tạm trú. Nếu thiếu một trong hai điều kiện này thì xem như

không có “nơi cư trú ổn định” và có thể bị áp dụng biện pháp “đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc” mặc dù chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,

thị trấn. Quy định này thể hiện sự nhân văn của Nhà nước trong việc thực hiện

chính sách cai nghiện đối với người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định.

Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này vào thực tiễn vẫn còn nhiều vướng mắc.

Cụ thể, đối với người nghiện ma túy “có nơi cư trú và đã cư trú lâu dài tại nơi

đó nhưng không đăng ký thường trú hoặc tạm trú” thì sẽ giải quyết thế nào? Có

đưa những đối tượng này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hay không?

Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “1. Nơi cư trú của cá nhân là nơi

người đó thường xuyên sinh sống. 2. Trường hợp không xác định được nơi cư

trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người

đó đang sinh sống” [25, Điều 40]. Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã

không căn cứ vào tiêu chí về yếu tố quản lý hành chính là nơi đăng ký hộ

khẩu thường trú, tạm trú khi xác định nơi cư trú của cá nhân.

Trong khi đó Luật Cư trú (được ban hành ngày 29/11/2006 có hiệu lực

thi hành từ ngày 01/7/2007) lại quy định: (1) Nơi cư trú của công dân là chỗ

ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là

nơi thường trú hoặc tạm trú,… Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống

thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng

ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký

thường trú và đã đăng ký tạm trú; (2) Trường hợp không xác định được nơi

cư trú của công dân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của

công dân là nơi người đó đang sinh sống” [28, Điều 12].

57

Như vậy, Luật Cư trú đã dựa vào hai tiêu chí song song đó là nơi thường

xuyên sinh sống và nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú để xác định nơi cư

trú của công dân. Luật Cư trú và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định

công dân có nghĩa vụ đăng ký thường trú và đăng ký tạm trú để thực hiện việc

quản lý nhân khẩu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vì những lý do khác nhau mà

nhiều công dân không đăng ký thường trú hoặc tạm trú. Luật Cư trú đã có lý

khi đưa ra giải pháp để xác định nơi cư trú của công dân “là nơi người đó

đang sinh sống và có xác nhận của công an xã, phường, thị trấn” trong

trường hợp họ không thực hiện thủ tục đăng ký thường trú hoặc tạm trú.

Như vậy có thể thấy rằng các văn bản pháp luật có liên quan đến việc

xác định “nơi cư trú” đang có sự vênh nhau. Vậy, trong thực tiễn áp dụng,

căn cứ xác định nơi cư trú để áp dụng biện pháp XLHC nên căn cứ vào quy

định nào là đúng? Đây là một trong những bất cập cần phải giải quyết.

Quy định của pháp luật về “nơi thường xuyên sinh sống” để áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng không rõ ràng. Như đã

trình bày, Nghị định số 221/2013/NĐ-CP xác định “nơi cư trú ổn định” theo

tiêu chí “nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú” và “nơi thường xuyên sinh

sống”. Tuy nhiên, như thế nào để được coi là “thường xuyên sinh sống” thì

Luật XLVPHC lẫn Nghị định số 221/2013/NĐ-CP hoàn toàn bỏ ngỏ. Sự thiếu

sót này dễ dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất, tùy tiện bởi việc

xác định người nghiện ma túy có “thường xuyên sinh sống” tại nơi thường trú

hoặc tạm trú hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể

lập hồ sơ xác nhận chứ không dựa trên một tiêu chí cụ thể. Trường hợp này,

mức tối thiểu mà công dân đã sinh sống ở một nơi để được xem là “thường

xuyên sinh sống” là bao nhiêu: ba tháng, sáu tháng, một năm hay phải lâu hơn

nữa? Rõ ràng là rất khó để trả lời cho câu hỏi này. Tất cả dường như chỉ phụ

thuộc vào kiến thức, trình độ và đạo đức của mỗi cơ quan lập hồ sơ và thẩm

phán được phân công thụ lý vụ việc, để xác định cho từng trường hợp cụ thể

58

mà không thể có một “mẫu số chung” cho mọi trường hợp. Tuy nhiên, hoạt

động áp dụng pháp luật cần có cơ sở pháp lý rõ ràng, cụ thể chứ không thể chỉ

dựa vào lòng tin và đức nhân của người áp dụng pháp luật.

Việc xác định người nghiện không có nơi cư trú ổn định cũng rất khó

khăn vì trên thực tế có nhiều người nghiện ma túy sống lang thang lúc ở địa

bàn này, lúc sang địa bàn khác (có thể trong cùng địa bàn huyện hoặc khác

huyện) nên việc lập hồ sơ quản lý đối với những người nghiện này thường

rất khó khăn. Các văn bản pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể như thế nào

là không có nơi cư trú ổn định gây lúng túng trong việc lập hồ sơ đề nghị áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thứ ba, về xác định tình trạng nghiện ma túy

Việc xác định tình trạng nghiện ma túy của người có hành vi sử dụng trái

phép chất ma túy là điều kiện tiên quyết để xem xét có xử lý người sử dụng

trái phép ma túy không. Trong giai đoạn lập hồ sơ giáo dục tại xã, cơ quan lập

hồ sơ phải xác định tình trạng nghiện ma túy hiện tại của họ. Việc xác định

tình trạng nghiện ma túy được thực hiện theo quy định của Bộ Y tế, Bộ LĐ –

TB & XH, Bộ Công an về thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình

trạng nghiện ma túy.

Thông tư số 17/2015/ TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA ngày 09/7/2015 của

Bộ Y tế - Bộ LĐ – TB & XH – Bộ Công an quy định thẩm quyền, thủ tục và

quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy đã đưa ra các biểu mẫu và cụ thể

hóa cũng như sửa đổi các văn bản về xác định tình trạng nghiện ma túy trước

đây để người có thẩm quyền dễ thực hiện hơn. Tuy nhiên, vẫn còn những

vướng mắc, đó là: Nhiều loại ma túy không thuộc nhóm ATS, đặc biệt là

Methamphetamin (ma túy đá) và nhóm OPIATS đã được sử dụng ở nước ta

song chưa có hướng dẫn chẩn đoán nghiện; trong 6 triệu chứng theo hướng dẫn

của Bộ Y tế thì có tới 5 triệu chứng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người

cần xác định nghiện, họ phải hợp tác, trả lời đúng vấn đề của mình khi được

59

hỏi và chỉ có một triệu chứng “hội chứng cai” là phản ảnh khách quan. Song

hầu hết các đối tượng thuộc diện bị áp dụng biện pháp XLHC không hợp tác,

họ không trả lời đúng tình trạng nghiện của mình, hơn nữa, để xác định hội

chứng cai đòi hỏi phải giữ người cần xác định nghiện không cho họ sử dụng

ma túy trong thời gian 48 giờ đối với người xác định nghiện OPIAT và 72 giờ

đối với người xác định nghiện ATS. Tuy nhiên, luật pháp không quy định việc

giữ người gây khó khăn cho công tác xác định tình trạng nghiện.

Hiện nay, Bộ Y tế cũng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ

tục xác định tình trạng nghiện ma túy, đồng thời, chưa tổ chức tập huấn vấn

đề này nên đến nay các y, bác sỹ tại các phòng khám địa phương vẫn chưa có

chứng chỉ theo quy định, do đó việc xác định tình trạng người nghiện ma túy

để đưa đi giáo dục đối với xã, phường, thị trấn cũng như xác định tình trạng

nghiện ma túy để đưa đối tượng đi cai nghiện bắt buộc gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, về trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng hiện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiên bắt buộc

Theo quy định hiện nay là rất phức tạp, qua nhiều cơ quan hành chính,

gây khó khăn và mất nhiều thời gian. Thời gian nhanh nhất là mất hơn 01

tháng, nếu không cũng phải kéo dài đến 03 tháng và hết thời hiệu XLVPHC

và sẽ không đưa được người vào cai nghiện bắt buộc. Việc lập thủ tục hồ sơ

xem xét áp dụng XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian đầu còn

gặp nhiều lúng túng trong việc triển khai thực hiện ở các đơn vị xã, phường.

Các văn bản quy định, hướng dẫn thi hành Luật XLVPHC, nhất là đưa các đối

tượng nghiện ma túy đi cai nghiện bắt buộc về trình tự, thủ tục hồ sơ, biểu

mẫu chưa có hướng dẫn cụ thể và thống nhất chung dẫn đến phương pháp lập

hồ sơ của từng phường, xã khác nhau nên khi chuyển hồ sơ đến tòa án rất khó

khăn cho việc xem xét tính hợp pháp của hồ sơ áp dụng XLHC, dẫn đến một

số hồ sơ Tòa án phải trả do chưa đủ điều kiện. Quá trình xem xét, giải quyết

tại Tòa án đối với những đối tượng đưa đi cai nghiện bắt buộc có nơi cư trú

60

ổn định gặp nhiều khó khăn trong công tác tống đạt, giao nhận các văn bản tố

tụng do các đối tượng này thường vắng mặt tại gia đình, bỏ trốn, không có

mặt tại phiên họp, thậm chí không chấp hành Quyết định. Các gia đình hoặc

chính quyền địa phương cũng không quản lý được các đối tượng này…dẫn

đến kéo dài thời gian giải quyết của Tòa án. Sau khi hoàn thành việc lập hồ sơ

đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ quan lập hồ

sơ thông báo bằng văn bản về việc lập hồ sơ cho người bị đề nghị áp dụng

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hoặc người đại diện hợp pháp

của họ. Thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của người nghiện

với thời gian để đọc hồ sơ là 05 ngày trước khi chuyển cho các cơ quan xem

xét là khó khả thi, người nghiện dễ bỏ trốn trước khi Tòa án mở phiên họp.

Thứ năm, về thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

Theo Luật XLVPHC, đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định

thì Chủ tịch UBND cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện

pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong khi đó tại Nghị định số

221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 lại quy định Công an cấp xã nơi người đó

có hành vi vi phạm lập biên bản về hành vi sử dụng trái phép ma túy của người

đó và tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Như vậy, chưa có sự thống nhất về người có

thẩm quyền trong việc lập hồ sơ đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Thứ sáu, về thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo quy định tại Luật XLVPHC:“Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối

hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 của Luật này” [23, điểm d

khoản 1 Điều 6]. Với quy định này, hiện nay có những cách hiểu khác nhau.

Thực tiễn cho thấy, việc lập hồ sơ đưa các đối tượng theo quy định vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc phải trải qua nhiều quy trình, cụ thể, đối tượng được yêu

61

cầu test ma túy tại trung tâm y tế dự phòng, nếu dương tính với chất ma túy sẽ

được viết tự khai và cán bộ công an lấy lời khai, xác minh nơi cư trú. Sau đó,

công an sẽ mời đối tượng để tống đạt quyết định giao cho địa phương. Hết ba

tháng giáo dục tại xã phường, nếu không hiệu quả thì trưởng công an xã,

phường, sẽ đề nghị chủ tịch UBND xã, phường lập hồ sơ đưa đối tượng đi cai

nghiện bắt buộc theo Nghị định 221/2013/ NĐ-CP trong thời gian 24 tháng.

Tuy nhiên, hiện nay các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có văn bản

hướng dẫn đầy đủ, nên trong thực tiễn áp dụng vẫn còn nhiều vướng mắc.

Thứ bảy, về quyết định không áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc

Trong trường hợp đối tượng bị Phòng LĐ – TB & XH đề nghị Tòa án

xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC nhưng tại phiên họp đối tượng

hoặc người nhà đối tượng cung cấp được các tài liệu, chứng cứ chứng minh

về việc đối tượng bị đề nghị có nơi cư trú ổn định hoặc đang bị áp dụng biện

pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đang áp dụng biện pháp cai nghiện

tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng theo quy định của Luật phòng, chống

ma túy thì Tòa án ra quyết định không áp dụng biện pháp XLHC đối với đối

tượng này. Do các phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC

đều được mở tại Trung tâm Giáo dục – Lao động và dạy nghề nên Tòa án

không thể cấp ngay quyết định không áp dụng biện pháp XLHC cho đối

tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp XLHC. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ

trả tự do cho đối tượng bị đề nghị áp dụng ngay tại phiên họp hay giao trả đối

tượng cho Trung tâm Giáo dục – Lao động và dạy nghề tiếp tục quản lý cho

đến khi nhận được quyết định không áp dụng biện pháp XLHC của Tòa án?

Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 quy định về việc gửi quyết định của

Tòa án: “Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày công bố quyết định,

Tòa án phải gửi quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp XLVPHC

cho người được quy định tại Điều 107 của Luật XLVPHC và Viện kiểm sát

62

cùng cấp” [12, Khoản 1 Điều 24]. Vậy trong thời gian chờ nhận được Quyết

định không áp dụng biện pháp XLHC của Tòa án, Trung tâm Giáo dục – Lao

động và Dạy nghề sẽ căn cứ vào quy định nào để tiếp tục quản lý đối tượng

đã được Tòa án tuyên không áp dụng biện pháp XLHC?

2.4.2.2. Hạn chế từ thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh

Hóa nói chung, của Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng

Hiện nay, Thanh Hoá tổ chức thực hiện các biện pháp liên quan đến

công tác áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đang

còn chưa đồng bộ. Công tác cai nghiện phục hồi chưa được các cấp uỷ, chính

quyền một số địa phương thực sự quan tâm. Đội ngũ cán bộ trực tiếp làm

công tác lập, thẩm định, thẩm tra hồ sơ đều quá tải do chưa được tập huấn

chuyên sâu và còn kiêm nhiệm nên khi tác nghiệp còn nhiều thiếu sót.

Nhiều trường hợp đang tham gia điều trị methadone nhưng họ vẫn sử dụng

nhiều loại ma túy khác như: ATS, cần sa, cỏ mỹ, … và không thể xử lý được do

các chế tài chưa thống nhất. Việc xác định tình trạng nghiện ma túy gặp nhiều

khó khăn do có sự không tương thích giữa quy định tại Luật XLVPHC và các

đòi hỏi về chuyên môn, kỹ thuật trong việc xác định tình trạng nghiện.

Quá trình xem xét, giải quyết tại TAND cấp huyện đối với những đối

tượng đưa đi cai nghiện bắt buộc có nơi cư trú ổn định gặp nhiều khó khăn

trong công tác tống đạt, giao nhận các văn bản tố tụng của tòa án cho các đối

tượng nghiện ma túy do các đối tượng này thường vắng mặt tại gia đình. Các

gia đình hoặc chính quyền địa phương cũng không quản lý được các đối

tượng này…dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết của Tòa án…

Công tác phối hợp trao đổi thông tin giữa Tòa án với các cơ quan chức

năng chưa kịp thời, chưa có quy chế rõ ràng, còn có biểu hiện thành tích.

Ý thức trách nhiệm của một số Thư ký, Thẩm phán Tòa án được phân

công thụ lý hồ sơ chưa cao, chưa chịu khó nghiên cứu, tìm hiểu về các hồ sơ;

một số nơi còn để xảy ra tình trạng chậm chễ trong việc thụ lý hồ sơ đề nghị.

63

Kiến thức chuyên sâu về một số vấn đề liên quan đến ma túy, người

nghiện ma túy còn hạn chế dẫn tới lúng túng trong quá trình áp dụng pháp

luật tại Tòa án.

Với những quy định còn bất cập, trong khi nhân lực của Tòa án ít, việc

giải quyết số lượng án ngày càng tăng đang gây ra nhiều khó khăn, trở ngại

trong hoạt động của Tòa.

2.4.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

Một là, các quy định của pháp luật về áp dụng biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc không rõ ràng, cụ thể.

Hai là, về yếu tố kinh tế, tỉnh Thanh Hóa là một huyện có nền kinh tế

đang trên đà phát triển; tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, diện tích rộng, dân

cư tập trung ở một số vùng nhất định, nhiều dân tộc sinh sống trên địa bàn;

nền kinh tế giữa các huyện có sự phát triển không đồng nhất; ngân sách cho

công tác cai nghiện bắt buộc không nhiều gây khó khăn rất lớn trong quá trình

áp dụng pháp luật.

Ba là, về yếu tố tâm lý xã hội, dân số trên địa bàn các huyện sống thành

từng nhóm ở từng vùng nên rất khó khăn trong công tác tuyên truyền về tác

hại của ma túy và việc cần thiết phải đưa người nghiện đi cai nghiện. Tâm lý

chung là người nghiện còn che dấu tình trạng nghiện, gia đình người nghiện

còn “bao che” cho người nghiện vì tâm lý xấu hổ, không muốn mọi người

biết con, em mình bị nghiện. Số người nghiện bên ngoài còn đông và số

người nghiện chưa bị phát hiện chắc rằng sẽ còn đông hơn rất nhiều vì tâm lý

của người dân hiện nay.

Thứ tư, công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự còn bộc lộ nhiều tồn

tại, nhất là quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện, đặc biệt là trong việc

cho thuê nhà trọ cho công nhân, học sinh sinh viên, các đối tượng dễ dàng ẩn

náu để trốn tránh lực lượng chức năng; thực hiện hành vi nghiện ma túy.

64

Thứ năm, sự vào cuộc của các ngành, các cấp chưa thực sự quyết liệt; tổ

chức, biên chế cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ còn thiếu ở tất cả các

lực lượng có liên quan. Việc huy động người dân tham gia vào công tác

phòng chống ma túy, phát hiện và báo cho cơ quan có thẩm quyền tình hình

nghiện tại khu dân cư còn bị động do xuất phát từ tâm lý e ngại và sợ trả

thù…nên việc đưa người nghiện đi cai còn gặp nhiều khó khăn.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc do TAND cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua về cơ bản là

nhanh chóng và thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tình

hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn vẫn còn diễn biến khá phức tạp.

Vì vậy, việc đấu tranh phòng, chống loại tệ nạn này vẫn là cuộc chiến gian

nan; đòi hỏi các lực lượng cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức,

trách nhiệm cho cán bộ và nhân dân về nguy cơ, tác hại và hậu quả của tệ nạn

ma túy để mỗi người tự giác, tích cực tham gia vào công tác phòng, chống ma

túy, tạo nên phong trào hành động sâu rộng trong cộng đồng, từng bước giảm

thiểu tệ nạn này. Trong thời gian tới, TAND cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa phải

tiếp tục làm tốt hơn nữa việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC

đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt thuộc theo đúng chức năng, thẩm

quyền đã được pháp luật quy định.

65

CHƯƠNG 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, TỈNH THANH HÓA

3.1. Quan điểm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc từ thực tiễn Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Thanh Hóa

Một là, việc đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện là nhiệm vụ chung

của toàn xã hội, chính vì vậy, cần có sự chung tay, giúp sức của cả cộng đồng.

Các địa phương cần bám sát vào tình hình thực tiễn để có những chủ trương,

chính sách phù hợp. Nhà nước cần ban hành quy chế phối hợp giữa các ban

ngành, tổ chức chính trị - xã hội, trong đó đề cao vai trò của tổ chức Đoàn

TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHPN, MTTQ là những tổ chức gần với quần

chúng nhân dân nên việc vận động sẽ dễ dàng hơn; việc tuyên truyền các chủ

trương, chính sách của Nhà nước nhận được sự đồng tình hơn của quần

chúng. Bên cạnh sự phối hợp, tham gia của hệ thống chính trị thì cần phải chú

trọng đào tạo, tập huấn, thi hành pháp luật cho những người được giao quyền

thực hiện cũng như cần sự giúp sức, đồng lòng từ cá nhân, tổ chức, tập thể thì

việc đưa người đi cai mới hiệu quả và triệt để.

Hai là, thực hiện đồng bộ giữa các biện pháp phòng chống ma túy và

biện pháp đưa người nghiện đi cai; chú trọng đối tượng là học sinh khi còn

ngồi trên ghế nhà trường, chủ động công tác thực hiện tuyên truyền kết hợp

với giáo dục, tổ chức các buổi sinh hoạt, nói chuyện về ma túy mở rộng đến

khu dân cư, đặc biệt là nơi có nhiều phòng trọ, nhà nghỉ, khách sạn…Việc

vận động nhân dân tại nơi đây tham gia phòng chống ma túy là rất quan trọng

và cần thiết.

Ba là, kế thừa, phát huy những kinh nghiệm tốt đã và đang làm được, các

cơ quan có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ trực tiếp áp dụng biện pháp XLHC

cần nhận thấy những ưu, khuyết điểm, thông qua thực tiễn tích lũy kinh

66

nghiệm để giải quyết công việc một cách nhanh chóng, kịp thời tháo gỡ khó

khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các biện pháp đưa người nghiện đi cai

tại cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đổi mới nhận thức trong công tác lãnh đạo, chỉ

đạo để công tác này ngày càng thực hiện có hiệu quả.

3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thứ nhất, sửa đổi tiêu chí “nơi cư trú ổn định” trong Nghị định số

221/2013/NĐ-CP. Theo đó, “nơi cư trú ổn định” cần được xác định theo tinh

thần của Luật Cư trú năm 2020. Bởi vì, Luật Cư trú là văn bản có giá trị pháp

lý cao nhất điều chỉnh về vấn đề cư trú của công dân nên mọi quy định liên

quan đến cư trú trong các văn bản pháp luật khác cần phải được chuẩn hóa

theo Luật Cư trú: “Nơi cư trú của công dân bao gồm nơi thường trú, nơi tạm

trú; Trường hợp không xác định được nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi cư

trú của công dân là nơi ở hiện tại được xác định theo quy định tại khoản 1

Điều 19 của Luật này” [28; Điều 11]. Như vậy, nơi cư trú của công dân là nơi

công dân sinh sống ổn định, lâu dài và đã được đăng ký thường trú (nơi

thường trú); là nơi công dân sinh sống trong một khoảng thời gian nhất định

ngoài nơi thường trú và đã được đăng ký tạm trú (nơi tạm trú) [28; Điều 3].

Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định: “Nơi cư trú của cá nhân là nơi

người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định được nơi cư

trú của cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều này thì nơi cư trú là nơi người

đó đang sinh sống” [25; Điều 40]. Như vậy, Bộ luật Dân sự cũng căn cứ vào

tiêu chí là “nơi thường xuyên sinh sống” để xác định nơi cư trú của công dân.

Do đó, tác giả đề nghị khoản 1 Điều 2 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP cần sửa

đổi như sau:“Nơi cư trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm

trú, trường hợp chưa thực hiện đăng ký thường trú hoặc đăng ký tạm trú thì

nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống theo xác nhận của công an xã,

phường, thị trấn, nhưng phải là nơi người đó hiện đang thường xuyên sinh

67

sống”. Đồng thời, các văn bản Luật cũng cần có sự giải thích rõ ràng thế nào

là “thường xuyên sinh sống” để việc xác định điều kiện “cư trú ổn định” thật

sự khách quan và thống nhất.

Tác giả kiến nghị có thể quy định như sau: “Nơi người nghiện ma túy

thường xuyên sinh sống là nơi người đó đã cư trú liên tục từ sáu tháng trở lên

tính đến thời điểm bị phát hiện sử dụng chất ma túy”. Quy định “cư trú liên

tục từ sáu tháng trở lên” là hợp lý và phù hợp với tinh thần của Luật Cư trú.

Cụ thể, khoản 5 Điều 30 Luật Cư trú quy định: “Trường hợp người đã đăng

ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm việc, lao động, học tập từ sáu tháng

trở lên tại địa phương đã đăng ký tạm trú thì cơ quan đã cấp sổ tạm trú phải

xóa tên người đó trong sổ đăng ký tạm trú”. Mặc dù Luật Cư trú không giải

thích cụ thể thế nào là “thường xuyên sinh sống” nhưng thông qua quy định

này có thể thấy Luật Cư trú đã gián tiếp thừa nhận tiêu chí để coi một người

“thường xuyên sinh sống” tại một nơi nào đó là họ đã sinh sống tại nơi đó từ

sáu tháng trở lên.

Thứ hai, cần loại bỏ mâu thuẫn trong thủ tục đưa người đã có quyết định

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp này

không có nơi cư trú ổn định. Sửa đổi Điều 9 Nghị định số 211/2013/NĐ-CP

theo hướng bỏ loại giấy tờ mang tính bắt buộc trong hồ sơ đưa người nghiện

ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là “giấy xác nhận hết thời gian cai

nghiện tại gia đình hoặc tại cộng đồng của Chủ tịch UBND cấp xã”. Theo đó,

nên quy định lại là “giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện tại gia đình hoặc

tại cộng đồng của Chủ tịch UBND cấp xã” chỉ áp dụng đối với người đã từng

tham gia chương trình cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc tại cộng đồng nhưng

vẫn còn nghiện. Đối với người không tham gia chương trình cai nghiện ma túy

tại gia đình hoặc tại cộng đồng thì không bắt buộc phải có loại giấy tờ này.

Sửa đổi Điều 10 Nghị định 221/NĐ-CP 2013 theo hướng rút bớt thẩm

quyền xác định đối tượng nghiện. Vì hồ sơ từ khi được lập phải qua nhiều cơ

68

quan thẩm định như: Cơ quan Công an, Phòng Tư pháp, Phòng LĐ – TB &

XH, dẫn đến Tòa án tin vào cơ quan lập hồ sơ nên nghiên cứu hồ sơ không kỹ

và khi ra quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa người nghiện vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc, đối tượng có khiếu nại mới phát hiện cơ quan lập hồ sơ

có nhiều sai sót. Khi đó Tòa án buộc phải yêu cầu cơ quan lập hồ sơ chỉnh sửa

hồ sơ trong khi đối tượng đã bị đưa vào cơ sở quản lý nên khó có thể trả lại hồ

sơ; yêu cầu cơ quan lập hồ sơ bổ sung đầy đủ các tài liệu chứng minh về tình

trạng nghiện hay nơi cư trú của đối tượng hoặc hồ sơ có thể hiện nhưng căn

cứ chứng minh không vững dẫn đến đối tượng khiếu nại.

Thứ ba, về xác định đối tượng áp dụng của biện pháp đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc. Cần bổ sung thêm đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC

đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại khoản 1 Điều 96 Luật XLVPHC năm

2012 đó là người đã từng cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng

nhưng vẫn còn nghiện, cụ thể như sau:“Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị

áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc

đã cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng mà vẫn còn nghiện hoặc

chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú ổn định”. Quy

định như vậy sẽ đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tệ nạn xã hội cũng như

yêu cầu quản lý các đối tượng nghiện của các địa phương, bởi lẽ nếu không

áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với những

đối tượng này địa phương sẽ rất khó kiểm soát tình hình nghiện.

Cần mở rộng độ tuổi của đối tượng bị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc. Luật XLVPHC năm 2012 nên có sự điều chỉnh về

độ tuổi và đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; cụ

thể là bổ sung đối tượng áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên. Đối chiếu với các quy định của

Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) thì người từ đủ 14

69

tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội rất nghiêm trọng và đặc

biệt nghiêm trọng. Như vậy, việc mở rộng đối tượng bị áp dụng biện pháp

hành chính đối với người từ đủ 14 tuổi về mặt pháp lý là phù hợp, đảm bảo

tính đồng bộ của hệ thống tư pháp đối với người chưa thành niên, về mặt thực

tiễn thì đảm bảo được yêu cầu phòng, chống tệ nạn xã hội. Mặc dù, trong giai

đoạn hiện nay, các cơ sở cai nghiện ma túy chưa đáp ứng được nhu cầu của

thực tiễn như về cơ sở vật chất, trang thiết bị, chất lượng điều trị, tình trạng

quá tải xảy ra ở nhiều nơi. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy từ đủ 14 tuổi đến dưới

18 tuổi là điều cần thiết và để phù hợp với đặc điểm thể chất, tâm sinh lý của

người chưa thành niên, cần đầu tư xây dựng khu riêng biệt dành cho độ tuổi

dưới 18 trong các cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc.

Đối với người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi, Luật Phòng, chống ma túy có

quy định việc đưa đối tượng này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng đây

không phải là biện pháp XLHC. Tuy nhiên, thực tế cho thấy những đối tượng

này còn quá nhỏ, nhưng để họ sống ngoài cộng đồng mà không được sự quản

lý chặt chẽ thì tình trạng nghiện sẽ càng nặng hơn. Do vậy, ngoài khu dành

cho người nghiện từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi, thì trong các cơ sở cai nghiện bắt

buộc cần xây dựng thêm khu vực dành cho người từ đủ 12 đến dưới 14 tuổi bị

nghiện. Và phải quy định rõ trình tự, thủ tục đưa người từ đủ 12 đến dưới 14

tuổi đi cai nghiện.

Thứ tư, cần ban hành Nghị quyết quy định về đối tượng nghiện ma túy

thuộc loại côn đồ, hung hãn. Như trên đã phân tích, trong Luật XLVPHC và

các văn bản pháp luật hành chính có liên quan đều không giải thích thế nào là

“côn đồ hung hãn” nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc thống nhất áp dụng

pháp luật ở các TAND cấp huyện.

Thứ năm, cần hoàn thiện hệ thống biểu mẫu sử dụng trong áp dụng biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

70

Mặc dù đã có hướng dẫn về biểu mẫu trong việc xem xét, quyết định áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại TAND thì theo

Nghị quyết số 04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 của Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao; tuy nhiên, các địa phương vẫn ban hành các biểu mẫu khác

nhau để áp dụng. Cho nên cần xác định rõ việc sử dụng biểu mẫu để tránh

tình trạng áp dụng khác nhau. Việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện các quy

định của pháp luật về biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là

một việc làm hết sức cần thiết, để cho các quy định được áp dụng thống nhất,

rõ ràng trên thực tế.

Thứ sáu, về quy định Kiểm sát viên tham gia phiên họp

Theo quy định của Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 thì “Kiểm sát viên

tham gia phiên họp phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong việc xem

xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC” [40, Điểm g khoản 2 Điều 20].

Tuy nhiên, theo quan điểm tác giả để thống nhất và tương thích với các

quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tố tụng hành chính

năm 2015 cụ thể:

Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về phát biểu của Kiểm

sát viên: “Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối

đáp xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng

của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố

tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm

Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Ngay

sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến

cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án”.

Điều 190 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định về phát biểu của

Kiểm sát viên: “Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp

xong, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của

Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố

71

tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm

Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Ngay

sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến

cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án”.

Do đó khi Kiểm sát viên tham gia phiên họp không chỉ phát biểu ý kiến về

việc tuân theo pháp luật mà còn phát biểu ý kiến về mặt nội dung giải quyết vụ

việc. Việc phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về nội dung áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là điều cần thiết sẽ giúp Tòa án hiểu

rõ vấn đề để tìm ra chân lý khi giải quyết vụ việc, quy định cho phép Kiểm sát

viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án là hoàn toàn phù hợp. Ngoài ra,

việc quy định như trên sẽ thống nhất với nội dung trách nhiệm và quyền hạn

của Kiểm sát viên trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân năm 2014 và Luật tổ chức TAND năm 2014. Do đó, để đảm bảo nhanh

chóng, khách quan, công khai minh bạch cần quy định thêm vào Pháp lệnh số

09 về trách nhiệm cho Kiểm sát viên đó là ngay sau khi kết thúc phiên họp,

Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ áp

dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Theo quy định Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 của

UBTVQH khi tham gia phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử

lý hành chính: “Người tham gia phiên họp quy định tại khoản 2 Điều 17 của

Pháp lệnh này phải có mặt tại phiên họp; trường hợp đại diện cơ quan đề

nghị, Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp” [40, khoản 1 Điều 19].

Pháp luật đã quy định cho cơ quan Viện kiểm sát và Kiểm sát viên chức năng

kiểm sát. Do đó chủ thể này phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng

nhiệm vụ được giao theo đúng quy định pháp luật nếu không thực hiện đúng

thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Điều đó có nghĩa là không thể vì bất

kỳ lý do gì mà sự vắng mặt của Kiểm sát viên có thể làm trì hoãn việc xem

xét áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Do đó, việc

72

quy định Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên họp là điều không cần

thiết nhằm đảm bảo cho việc giải quyết việc xem xét áp dụng biện pháp

XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được nhanh chóng, kịp thời, đề cao

trách nhiệm của Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát. Tác giả kiến nghị TAND tối

cao nên ban hành văn bản hướng dẫn điểm g khoản 2 Điều 20 Pháp lệnh số

09/2014/UBTVQH13 theo hướng Kiểm sát viên tham gia phiên họp phát biểu

ý kiến về việc tuân theo pháp luật và nội dung trong việc xem xét, quyết định

áp dụng biện pháp XLHC. Ngay sau khi kết thúc phiên họp, Kiểm sát viên

phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ áp dụng biện

pháp xử phạt hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; đồng thời ban

hành văn bản hướng dẫn khoản 1 Điều 19 Pháp lệnh số 09 theo hướng khi

Kiểm sát viên vắng mặt tại phiên họp áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp mà không cần Kiểm

sát viên tham gia phiên họp.

Ngoài ra, TAND tối cao cũng cần ban hành văn bản hướng dẫn theo

hướng cần trích xuất đối tượng nghiện ma túy về trụ sở Tòa án để mở phiên

họp áp dụng biện pháp XLVPHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như vậy sẽ

đảm bảo thẩm quyền của Tòa án và đảm bảo đúng quy định pháp luật.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án

nhân dân cấp huyện trong áp dụng về biện pháp đưa người nghiện vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc

3.3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo nội bộ đơn vị trong

quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện

bắt buộc

Để biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện

nhanh gọn và có hiệu quả thì công tác lãnh đạo, chỉ đạo áp dụng biện pháp này là

một việc làm hết sức cần thiết. Chủ trương lãnh đạo của các cấp chính quyền,

cấp ủy trên địa bàn phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật

73

của Nhà nước; đồng thời phải phù hợp với tình hình thực tế của địa phương để

có những chỉ đạo đúng đắn. Công tác này đòi hỏi sự chung sức, đồng lòng của

các cấp, các ngành trên địa bàn; cơ quan có thẩm quyền phải bám sát vào tình

hình thực tế của địa phương, đưa ra quy định, hướng dẫn phù hợp.

Đối với các trường hợp pháp luật về XLHC không quy định hoặc quy

định chưa cụ thể, rõ ràng thì Chánh án TAND huyện phải có sự chỉ đạo Thẩm

phán, Thư ký thụ lý vụ việc phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan đề ra

giải pháp để thống nhất giải quyết vấn đề.

3. 3.2. Tiếp tục tập trung thực hiện tốt các giải pháp đột phá để nâng

cao chất lượng công tác xét xử nói chung, công tác xem xét, quyết định

áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào sơ sở cai nghiện bắt buộc

nói riêng

Chánh án và cán bộ, công chức TAND cấp huyện cần quán triệt, xác định

việc nâng cao chất lượng xét xử là nhiệm vụ chính trị quan trọng của đơn vị;

cần tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch và chỉ đạo quyết liệt đơn vị thực

hiện đồng bộ công tác trọng tâm theo chỉ thị được ban hành từng năm của

Chánh án TAND tối cao.

Thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các giải pháp trên sẽ bảo đảm các phán

quyết của Tòa án chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đảm bảo

quyền con người, quyền công dân; không làm oan người vô tội và không bỏ

lọt tội phạm cũng như gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân; góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các hồ sơ,

khắc phục về cơ bản việc để các hồ sơ quá hạn luật định; tỷ lệ các quyết định

bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Tòa án giảm.

3.3.3. Tăng cường công tác đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp

luật trong quá trình xem xét, áp dụng biện pháp xử lý hành chính; thực

hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong phiên họp, Thẩm phán xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật

74

TAND cấp huyện phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng cần được

quan tâm; Chánh án TAND huyện cần tập trung giải đáp các vướng mắc về

nghiệp vụ của Thẩm phán, Thư ký để kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng

mắc trong thực tiễn phiên họp. Quá trình xem xét, áp dụng biện pháp

XLVPHC, đối với những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xét xử nhưng

chưa có Nghị quyết hướng dẫn, thì Thẩm phán được giao thụ lý vụ việc cần

đổi mới, linh hoạt trong việc áp dụng pháp luật theo hướng áp dụng quy định

trong các “Tập giải đáp vướng mắc nghiệp vụ” do Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao ban hành, làm cơ sở xem xét, quyết định.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của TAND tối cao, thời gian qua, các phiên

họp của TAND cấp huyện đã được tổ chức tốt hơn. Việc tranh tụng được chú

trọng, không hạn chế thời gian dành cho tranh tụng, tôn trọng và đảm bảo cho

các bên tham gia đưa ra chứng cứ và trình bày hết các ý kiến của mình; trên

cơ sở kết quả tranh tụng, Thẩm phán đưa ra các phán quyết đúng pháp luật,

được dư luận xã hội ủng hộ. Các Thẩm phán thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp và

thực hiện đúng nguyên tắc độc lập trong xét xử; chú trọng thực hiện hết các

thẩm quyền theo quy định của pháp luật để đảm bảo giải quyết tốt vụ án.

TAND cấp huyện cần phân công các thẩm phán thụ lý hồ sơ giàu kinh

nghiệm để xem xét thụ lý khách quan, chính xác; quá trình thực hiện nhiệm

vụ cần rà soát kỹ việc lập hồ sơ, quyết định áp dụng biện pháp XLHC để

tránh trường hợp bị khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.

3.3.4. Kiện toàn, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ, công chức ngành Tòa án đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

Việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán công chức có trách nhiệm trong

việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là điều hết

sức cần thiết. Cán bộ là nhân tố quan trọng có vai trò chính trong việc xem

xét, quyết định áp dụng pháp luật.

75

Với khối lượng công việc lớn, nhưng hiện nay biên chế của TAND cấp

huyện lại quá ít, chưa đủ số lượng theo quy định. Do vậy, TAND huyện cần

tham mưu cho Tòa án các cấp sắp xếp tổ chức bộ máy đủ về số lượng, bảo đảm

được chất lượng. Đồng thời, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa

án trong sạch, vững mạnh theo tinh thần cải cách tư pháp.

Cùng với việc tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng định kỳ, lãnh đạo TAND

huyện cần khuyến khích cán bộ, công chức trong đơn vị tự học tập, trau dồi để

nâng cao trình độ chuyên môn, đặc biệt là việc tự học thông qua hoạt động rút

kinh nghiệm các phiên họp; qua đó giúp các Thẩm phán nâng cao tinh thần

trách nhiệm trong quá trình chuẩn bị, cũng như khi tổ chức phiên họp; thông

qua hoạt động rút kinh nghiệm sau phiên họp, Thẩm phán và những người

tham gia sẽ học hỏi để nâng cao về kỹ năng xử lý các tình huống và điều hành

phiên họp, cũng như trình độ nhận thức và áp dụng pháp luật.

Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng và rèn luyện phẩm chất

chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án gắn với

việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí

Minh. Góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cả về trình độ chuyên

môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ và công tác giải quyết, xét xử các loại vụ việc. Mỗi Thẩm phán phải

thấm nhuần lời dạy của Bác: “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”, phải

thực sự công minh, chính trực, đặt lợi ích của nhân dân, của Nhà nước lên

trên hết, tuyệt đối tuân thủ những quy định của hiến pháp và pháp luật, với

tinh thần thượng tôn pháp luật, khách quan, không thiên vị, tư lợi cá nhân.

Quán triệt và thực hiện tốt “Bộ Quy tắc về chuẩn mực đạo đức và ứng xử của

Thẩm phán” làm cơ sở để tự rèn luyện, cơ quan quản lý đánh giá, khen

thưởng, kỷ luật và nhân dân, xã hội giám sát hoạt động của các Thẩm phán.

3.3.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình áp dụng

biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

76

Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để cho người dân

hiểu về tác hại của ma túy; đặc biệt cần quan tâm nhiều hơn tới lứa tuổi thanh,

thiếu niên để giảm số lượng người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp

luật. Tổ chức các phiên họp giả định, các buổi nói chuyện tại các trường học

về vấn đề ma túy cũng như việc áp dụng biện pháp XLHC để nâng cao nhận

thức cho lứa tuổi còn ngồi trên ghế nhà trường. Xây dựng và triển khai thí

điểm mô hình hỗ trợ, tư vấn xã hội, pháp lý và chuyển gửi đối với người tham

gia cai nghiện ma túy với sự tham gia của Tòa án, hướng tới mô hình “Tòa hỗ

trợ cai nghiện ma túy”, nhằm tăng cường kết nối giữa các cơ quan về tư pháp,

hành pháp, y tế, xã hội để hỗ trợ, giám sát người nghiện ma túy, giúp họ tuân

thủ điều trị và cai nghiện hiệu quả.

Lãnh đạo các cơ quan chức năng cần tăng cường phân công nhiệm vụ

theo đúng thẩm quyền cho cơ quan và đơn vị có liên quan; định kỳ hàng quý,

hoặc khi có sự việc phát sinh cần họp liên ngành giữa các đơn vị có liên quan

để cùng bàn bạc, tháo gỡ những vấn đề vướng mắc trong quá trình lập hồ sơ

đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình

này, đòi hỏi các cơ quan hữu quan phải có mối liên hệ chặt chẽ để vụ việc

được giải quyết nhanh chóng, tránh trường hợp chậm trễ gây ảnh hưởng đến

quyền lợi ích hợp pháp của các đối tượng.

3.3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi

phạm trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc

Hiện nay thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa

vào cơ sở cai nghiện bắt buộc giao cho TAND cấp huyện, thẩm quyền lập hồ

sơ được giao cho Chủ tịch UBND cấp xã với sự hỗ trợ của Công an xã. Chính

vì vậy, trong quá trình thụ lý các hồ sơ đề nghị, Thẩm phán được phân công

cần thường xuyên giám sát, kiểm tra quá trình lập hồ sơ để tránh được những

vi phạm của những người áp dụng pháp luật và những sai sót của các cơ quan

có liên quan; cần tập trung kiểm tra tài liệu trong hồ sơ; thời hiệu áp dụng;

thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập hồ sơ đề nghị áp dụng.

77

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Việc áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc

thẩm quyền của TAND trong những năm qua được thực hiện đúng theo quy

định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tế áp dụng vẫn còn gặp nhiều vướng mắc

do các quy định của pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo hay chưa cụ thể; tệ

nạn ma túy ngày càng diễn biến phức tạp hơn. Vì vậy, việc đề ra các giải pháp

để hoàn thiện áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện là điều cần thiết và phải được tiến

hành một cách có hiệu quả, đồng bộ, khoa học; góp phần giải quyết kịp thời

tình trạng người nghiện ma túy đang ngày hàng gia tăng hiện nay, góp phần

giữ gìn an ninh, trật tự; giúp người nghiện trở thành người có ích cho xã hội

và còn góp phần tích cực vào công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, bảo

đảm quyền và lợi ích của công dân và toàn xã hội.

78

KẾT LUẬN

Biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện tinh thần

nhân đạo, nhân văn cao cả và là một trong những quyết định kịp thời, sáng

suốt của Đảng và Nhà nước trong công tác đẩy lùi tội phạm cũng như khám

chữa bệnh cho các đối tượng bị nghiện. Nhận thức được vai trò quan trọng và

to lớn của biện pháp, luận văn đã đi sâu vào phân tích những vấn đề lý luận và

pháp lý về áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nêu

rõ bất cập của các quy định pháp luật hiện nay có ảnh hưởng đến quá trình áp

dụng biện pháp và phân tích vấn đề cụ thể tại một số địa phương. Từ đó, nêu

ra các giải pháp để hoàn thiện áp dụng biện pháp XLHC trên theo hướng hoàn

thiện hệ thống pháp luật và một số giải pháp cụ thể áp dụng trên địa bàn tỉnh

Thanh Hóa nói riêng, cả nước nói chung./.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Công an (2019), Báo cáo tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng,

chống ma túy, Hà Nội.

2. Bộ Công an (2018), Thông tư số 05/2018/TT-BCA quy định việc thu

thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai

nghiện bắt buộc, ban hành ngày 07/2/2018, Hà Nội.

3. Bộ LĐ – TB & XH (2020), Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện năm

2020 và 5 năm 2016-2020; định hướng phát triển giai đoạn 2021-2025,

nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu năm 2021 lĩnh vực lao động, người

có công và xã hội, Hà Nội.

4. Bộ LĐ – TB & XH (2014), Thông tư 14/2014/TT-BLĐTBXH, ngày

12/6/2014 ban hành biểu mẫu về lập hồ sơ đề nghị, thi hành quyết định áp

dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và hướng dẫn xây

dựng nội quy, quy chế đối với học viên của cơ sở cai nghiện bắt buộc.

5. Bộ LĐ – TB & XH (2019), Nghị định quy định chế độ áp dụng biện

pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”, ban hành ngày 15/5/2019,

Hà Nội.

6. Bộ LĐ – TB & XH (2020), Tài liệu Hội thảo chia sẻ về công tác cai

nghiện ma túy, ngày 11/6/2020, Hà Nội.

7. Bộ LĐ – TB & XH (2018), Thông tư số 25/2018/TT-BLĐTBXH

hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, vị trí việc làm và định mức

số lượng người làm việc của cơ sở cai nghiện ma túy công lập, ban hành ngày

10/12/2018, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo tổng kết thi hành Luật XLVPHC, ban

hành ngày 08/01/2018, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 19/TT-BTP quy định việc kiểm tra

tính pháp lý của Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp

dụng các biện pháp XLHC đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ

sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, ban hành ngày

28/12/2015, Hà Nội.

10. Bộ Y tế, Bộ LĐ – TB & XH, Bộ Công an (2015), Thông tư liên tịch

số 17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA quy định thẩm quyền, thủ tục và quy

trình xác định tình trạng nghiện ma túy, ban hành ngày 9/7/2015, Hà Nội.

11. Chính phủ (2012), Nghị định quy định về thành lập, tổ chức lại, giải

thể đơn vị sự nghiệp công lập, ban hành ngày 28/6/2012, Hà Nội.

12. Chính phủ (2013), Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ

áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, ban hành ngày

30/12/2013, Hà Nội.

13. Chính phủ (2012), Nghị định số 55/2012/NĐ-CP quy định về thành

lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, ban hành ngày 28/6/2012,

Hà Nội.

14. Chính phủ (2016), Nghị định số 136/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung

một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính

phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc, ban hành ngày 09/9/2016, Hà Nội.

15. Đào Thị Thu An (2011), “Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong

dự thảo Luật XLVPHC”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20, tr.24-26.

16. Hội đồng Chính phủ (1977), Nghị định số 143/CP về Điều lệ xử phạt

vi cảnh, ban hành ngày 27/5/1977, Hà Nội.

17. Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh XLVPHC, ban hành ngày

30/11/1989, Hà Nội.

18. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (2015), Nghị quyết số

04/2015/NQ-HĐTP về việc hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật

về xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại TAND, ban hành

ngày 24/12/2015, Hà Nội.

19. Lê Thị Lan Phương (2017), Biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học

viện Khoa học xã hội.

20. Phạm Tiến Thành (2014), Từ biện pháp XLHC đưa vào cơ sở chữa

bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, Luận văn thạc sĩ, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

21. Quốc hội (2000), Luật Phòng, chống ma túy, ban hành ngày

09/12/2000, Hà Nội.

22. Quốc hội (2008), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng,

chống ma túy, ban hành ngày 03/6/2008, Hà Nội.

23. Quốc hội (2012), Luật XLVPHC, ban hành ngày 20/6/2012, Hà Nội.

24. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, ban hành ngày 24/11/2015, Hà Nội.

26. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, ban hành ngày 27/11/20215, Hà Nội.

27. Quốc hội (2017), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình

sự, ban hành ngày 20/6/2017, Hà Nội.

28. Quốc hội (2020), Luật cư trú, ban hành ngày 13/11/2020.

29. Sở LĐ – TB & XH tỉnh Thanh Hóa (2019), Tài liệu Hội nghị trao

đổi kinh nghiệm về xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ

sở cai nghiện bắt buộc, ban hành ngày 11/11/2019, Thanh Hóa.

30. Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên (2020), Tài liệu chuyên đề hướng

dẫn nghiệp vụ áp dụng biện pháp đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt

buộc, Thái Nguyên.

31. TAND tối cao (2020), Báo cáo tổng kết công tác năm 2020 và nhiệm

kỳ 2016 – 2020; phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2021 của Tòa án.

32. TAND tỉnh Thanh Hóa (2020), Báo cáo tổng kết đánh giá thực hiện

Chương trình phòng chống ma túy đến năm 2020.

33. UBND tỉnh Thanh Hóa (2015), Quyết định ban hành Quy chế phối

hợp lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, ban

hành ngày 17/7/2015, Thanh Hóa.

34. UBND tỉnh Thanh Hóa (2020), Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế -

xã hội tỉnh Thanh Hóa năm 2020, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm

2021, Thanh Hóa.

35. UBND tỉnh Thanh Hóa (2019), Báo cáo công tác thi hành pháp luật

về XLVPHC 6 tháng đầu năm 2019 trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, Thanh Hóa.

36. Ủy ban Quốc gia phòng chống AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm

(2002), Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi giai đoạn 2001-2010, Hà Nội.

37. UBTVQH nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1961), Nghị quyết về

việc tập trung giáo dục cải tạo những phần tử có hành động nguy hại cho xã

hội, ban hành ngày 20/6/1961, Hà Nội.

38. UBTVQH (1995), Pháp lệnh XLVPHC, ban hành ngày 06/7/1995,

Hà Nội.

39. UBTVQH (2002), Pháp lệnh XLVPHC, ban hành ngày 02/7/2002,

Hà Nội.

40. UBTVQH (2014), Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH quy định trình tự,

thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại TAND, ban hành

ngày 20/01/2014, Hà Nội.

41. UBTVQH (2014), Pháp lệnh về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định

áp dụng các biện pháp XLHC tại TAND, ban hành ngày 20/01/2014, Hà Nội.

42. Văn phòng Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự, ban hành ngày

10/7/20217, Hà Nội.

43. Văn phòng Quốc hội (2013), Luật phòng, chống ma túy, ban hành

ngày 23/7/2013, Hà Nội.

44. Viện ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng Việt, NXB Từ điển Bách

Khoa, Hà Nội./.