ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC HÂN Hßa gi¶i tranh chÊp d©n sù ë ViÖt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT NGUYỄN NGỌC HÂN

Hßa gi¶i tranh chÊp d©n sù ë ViÖt Nam

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số

: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tiến Vinh

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố

trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn

trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và trung thực.

Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các

nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc

gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét

để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Ngọc Hân

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH 6

CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm tranh chấp dân sự và hòa giải tranh chấp dân sự 6

1.1.1. Tranh chấp dân sự và giải quyết tranh chấp dân sự 6

1.1.2. Hòa giải tranh chấp dân sự 10

1.2. Phân loại, đặc điểm và ý nghĩa của các loại hình hòa giải 13

tranh chấp dân sự ở Việt Nam

1.2.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự 14

1.2.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án 15

1.2.3. Hòa giải ở cơ sở 17

1.2.4. Ý nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự 19

1.3. Kinh nghiệm quốc tế về hòa giải tranh chấp dân sự 20

1.3.1. Hòa giải tại Singapore 20

1.3.2. Hòa giải tại Hàn Quốc 23

1.3.3. Hòa giải tại Đức 26

1.3.4. Quá trình hình thành và phát triển hòa giải tranh chấp dân sự 28

tại Việt Nam

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HÒA GIẢI 32

TRANH CHẤP DÂN SỰ

2.1. Thực trạng quy định pháp luật 32

2.1.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự 32

2.1.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án 48

2.1.3. Hòa giải ở cơ sở 54

2.2. Thực trạng thực thi pháp luật 61

2.2.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự 61

2.2.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án 64

2.2.3. Hòa giải cơ sở 66

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP 70

LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HÒA GIẢI

TRANH CHẤP DÂN SỰ

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả 70

hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự

3.1.1. Cải cách tư pháp 70

3.1.2. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 74

3.1.3. Tôn trọng quyền tự do định đoạt 75

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật về hòa 78

giải tranh chấp dân sự

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS : Bộ luật Dân sự

BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐXX : Hội đồng xét xử

TAND : Tòa án nhân dân

TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao

TTDS : Tố tụng dân sự

UBND : Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, cùng với sự vận động, phát triển không ngừng của xã hội,

đời sống kinh tế - xã hội của người Việt Nam có những biến đổi sâu sắc,

mạnh mẽ. Các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột xã hội có chiều hướng gia

tăng với những diện mạo mới, đòi hỏi phải được giải quyết bằng những phương

thức thích hợp. Hòa giải là một trong những phương thức góp phần giải quyết

hài hòa và có hiệu quả các mâu thuẫn, tranh chấp đó. Phương thức này đã tồn

tại và phát huy vai trò của nó trong đời sống xã hội. Nếu như tranh chấp bị xem

như những biểu hiện tiêu cực phá vỡ sự hòa thuận và bình yên của cộng đồng

thì hòa giải lại được xem như mặt tích cực, là sự gìn giữ, củng cố trật tự công

cộng. Hiện nay, nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới đang có xu

hướng sử dụng hòa giải nhiều hơn, đây là một phương thức giải quyết tranh

chấp có nhiều ưu điểm hơn so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác.

Với cách thức thân thiện, đồng thuận trên nguyên tắc mềm dẻo, chia sẻ,

cảm thông thì hòa giải góp phần hàn gắn những mâu thuẫn, rạn nứt, nâng cao

ý thức pháp luật của người dân, ngăn ngừa các tranh chấp trong tương lai. Hòa

giải góp phần giúp giải quyết các tranh chấp mà không phải trải qua các thủ

tục rườm rà theo quy định tại luật tố tụng, tiết kiệm chi phí, thời gian, công

sức của các bên. Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật, thì hòa giải chỉ dừng

lại ở việc quy định đó là một phương thức giải quyết tranh chấp cho nên trong

thực tiễn áp dụng, phương thức này chưa thể hiện hết ưu điểm vốn có của mình.

Với những l ý do trên, tôi xin lựa chọn đề tài: "Hòa giải tranh chấp

dân sự ở Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Hòa giải tranh chấp dân sự không phải là một đề tài mới. Đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến vấn đề này như: Luận án

1

tiến sĩ Luật học: "Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự, Một số

vấn đề lý luận và thực tiễn", của Trần Văn Quảng, Trường Đại học Luật Hà

Nội, 2004; Luận án tiến sĩ Luật học: "Hòa giải trong giải quyết tranh chấp

kinh tế tại Tòa án ở Việt Nam", của Đào Thị Xuân Lan, Viện Nghiên cứu Nhà

nước và Pháp luật, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Chế định hòa

giải trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Bùi Anh Tuấn, Khoa Luật -

Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Kỹ năng giải

quyết tranh chấp dân sự bằng hòa giải ", của Trần Thị Quỳnh Nga, Khoa

Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017...

Bên cạnh công trình nghiên cứu dưới hình thức luận văn, luận án, thì vấn

đề lý luận về hòa giải cũng được đề cập khái quát trong Giáo trình Luật tố tụng

dân sự (TTDS) của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật Thành

phố Hồ Chí Minh... Ngoài ra còn có một số bài viết về thực tiễn hòa giải các

vụ việc dân sự của các tác giả được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND),

Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Báo Công lý như: "Hòa giải và

tự thỏa thuận trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động" của Phan Hữu Thư, Tạp

chí Dân chủ và pháp luật, số 2/1999; "Bàn về phạm vi điều chỉnh của Luật hòa

giải cơ sở", của Trần Huy Liệu, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề

pháp luật về hòa giải, 2012; "Kỹ năng hòa giải các tranh chấp dân sự tại Tòa

án theo mô hình thí điểm của Tòa án nhân dân tối cao", của Tống Anh Hào, Tạp

chí TAND, số 13/2018; "Vai trò quan trọng của hòa giải trong giải quyết

tranh chấp dân sự", của Toàn Vũ, Báo Điện tử Công lý, ngày 24/01/2019...

3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào một số vấn đề lý luận

cơ bản về hòa giải tranh chấp dân sự như khái niệm, phân loại, đặc điểm, ý

nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự, những quy định pháp luật về hòa giải

tranh chấp dân sự và thực tiễn thực hiện. Tranh chấp dân sự là một lĩnh vực

khá rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu

2

của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về hòa giải tranh chấp dân sự dưới góc độ là

một phương thức giải quyết tranh chấp (không nghiên cứu hòa giải tranh chấp

dân sự dưới góc độ là một thủ tục tố tụng hay là một chế định pháp luật). Tác

giả tập trung vào ba loại hình hòa giải tranh chấp dân sự ở Việt Nam là: hòa

giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án (trước tố tụng), hòa giải theo thủ tục

TTDS (tại Tòa án) và hòa giải ở cơ sở (ngoài Tòa án), chỉ ra được ưu, nhược

điểm của ba loại hình hòa giải này. Ngoài ra, khi triển khai nghiên cứu về

thực tiễn thực hiện hòa giải tranh chấp dân sự, luận văn có những nghiên cứu,

đánh giá tổng quan về thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải vụ án dân sự tại

Trung tâm hòa giải tại Tòa án - một loại hình hòa giải mới tại Việt Nam.

Thông qua việc nghiên cứu trong phạm vi được đề ra ở trên, tác giả

mong muốn cho người đọc thấy được ưu điểm, ý nghĩa của phương thức hòa

giải so với các phương thức giải quyết tranh chấp dân sự khác. Trên cơ sở đó,

nghiên cứu thực trạng hòa giải của ba loại hình hòa giải ở nước ta hiện nay để

có thể đánh giá được mức độ hiệu quả của các quy định pháp luật trong thực

tế. Đồng thời, dựa vào thực trạng đó để nghiên cứu về nguyên nhân của thực

trạng trên từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận như khái niệm, phân

loại, đặc điểm, ý nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự.

- Nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp

dân sự, chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật quy định về hòa giải tranh

chấp dân sự.

- Khảo sát thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự

và chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện hoạt

động này trong thực tiễn.

- Trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và những hạn chế,

khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện hòa giải tranh chấp dân sự, đề

3

xuất những phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp

luật và thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình

nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp này được sử

dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về hòa giải.

Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Phương pháp này được

luận văn áp dụng khi nghiên cứu về các quan điểm về giải quyết tranh chấp

bằng hòa giải; các quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới và

Việt Nam. Từ lý luận về giải quyết tranh chấp bằng hòa giải của các nước và

Việt Nam đang áp dụng, luận văn so sánh với hiệu quả trên thực tế để rút ra

những ưu điểm, hạn chế của việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải này. Qua

đó giúp cho đề tài đề xuất những giải pháp, quan điểm hoàn thiện pháp luật và

tăng cường thực thi biện pháp bằng hòa giải khi có tranh chấp dân sự xảy ra.

Qua đó giúp luận văn có những phân tích, phản ánh rõ hơn từ nhu cầu của

thực tiễn và các giải pháp bảo đảm thực hiện giải quyết tranh chấp bằng hòa

giải này mang tính khả thi.

Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để

triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến hòa giải, đặc biệt là các kiến

nghị hoàn thiện. Cụ thể như trên cở sở đưa ra những kiến nghị mang tính khái

quát, súc tích người viết dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của

kiến nghị đó…

4

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Có thể nói, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu khoa học khá toàn

diện, có hệ thống và mới nhất ở cấp độ luận văn thạc sĩ về hòa giải tranh chấp

dân sự. Đề tài luận văn có những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn sau đây:

Làm rõ khái niệm hòa giải tranh chấp dân sự theo pháp luật và cơ sở

lý luận, cơ sở thực tiễn của hòa giải tranh chấp dân sự khi coi hòa giải là một

phương thức giải quyết tranh chấp dân sự.

Làm rõ các quy định pháp luật, nội dung cơ bản của hoạt động hòa

giải tranh chấp dân sự thông qua ba loại hình hòa giải: Hòa giải tại Trung tâm

hòa giải tại Tòa án, hòa giải theo thủ tục TTDS và hòa giải ở cơ sở, chỉ ra

được ưu điểm, nhược điểm của ba loại hình hòa giải này.

Chỉ ra được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật hòa

giải tranh chấp dân sự; những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc, khó

khăn trong thực tiễn thực hiện hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.

Đề xuất được những kiến nghị xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ

chức thực hiện có hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hòa giải tranh chấp dân sự ở

Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hòa giải tranh chấp dân sự

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao

hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.

5

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP DÂN SỰ

Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm tranh chấp dân sự và hòa giải tranh chấp dân sự

1.1.1. Tranh chấp dân sự và giải quyết tranh chấp dân sự

Xã hội hiện đại ngày càng xuất hiện nhiều mối quan hệ phức tạp, luôn

tiềm ẩn và không thể tránh khỏi những mâu thuẫn, bất hòa. Có nhiều nguyên

nhân dẫn đến những mâu thuẫn, bất hòa đó nhưng nguyên nhân chủ yếu là do

một trong các bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Khi đó

xung đột giữa các bên sẽ xảy ra hay nói đúng hơn là giữa các bên có tranh

chấp. Vậy, "tranh chấp" nói chung được hiểu là sự bất đồng, mâu thuẫn về

quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan.

Trong cuộc sống hàng ngày, việc xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong giao

lưu dân sự là điều không thể tránh khỏi. Tranh chấp phát sinh từ nhiều quan

hệ xã hội khác nhau như quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan

hệ kinh doanh, thương mại, hay quan hệ lao động. "Tranh chấp dân sự" là tranh

chấp giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, chịu sự điều

chỉnh của luật dân sự. Phổ biến có các loại tranh chấp dân sự sau: tranh chấp

về quyền sở hữu, về hợp đồng dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng…

Có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau tùy thuộc vào

bối cảnh và hình thức giải quyết mà các bên tìm kiếm. Những phương thức

giải quyết tranh chấp này bao gồm: hòa giải, thương lượng, trọng tài, tố tụng

tại Tòa án và các hình thức khác.

Phương thức thương lượng:

Thương lượng là phương thức giải quyết đầu tiên trong quá trình giải

quyết tranh chấp, thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp chủ động gặp gỡ

nhau, bàn bạc, thỏa thuận về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi bên.

6

Pháp luật về giải quyết tranh chấp không có quy định bắt buộc các bên

phải tiến hành thương lượng. Do đó, từ quy trình tổ chức, thực hiện, sự có mặt

của các bên, quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các chủ thể, kết quả thương

lượng không hề có sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật. Tất cả đều phụ

thuộc vào thiện chí tự giải quyết của các bên. Trường hợp đạt được thỏa thuận

trong cuộc họp thương lượng, sau đó có một trong các bên không tuân thủ,

các bên cũng không thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện

cưỡng chế.

Phương thức thương lượng rất được các chủ thể ưu tiên lựa chọn ngay

khi xảy ra tranh chấp, bởi phương thức này không chịu sự điều chỉnh của

pháp luật, không bị gò bó bởi các quy định chặt chẽ về quy trình tổ chức

thương lượng, thành phần tham gia, thời gian thực hiện, cũng như không tốn

kém tiền bạc. Do sự tự giải quyết với nhau, nên tranh chấp không bị làm lớn,

không ảnh hưởng đến uy tín của các bên. Cũng bởi không có sự điều chỉnh

của quy phạm pháp luật nên không có sự cưỡng chế thi hành đối với kết quả

thương lượng.

Phương thức trọng tài:

Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một phương thức giải quyết

tranh chấp không thể thiếu trong quá trình phát triển của các quan hệ kinh tế

và được các chủ thể ưa chuộng.

Phương thức trọng tài do chính các bên trong tranh chấp thỏa thuận

lựa chọn, nhưng sẽ được tiến hành theo quy trình pháp luật quy định. Trong

phương thức trọng tài sẽ có một Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư

cách là một bên trung gian, độc lập nhằm giải quyết các mẫu thuẫn, tranh

chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.

Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh

hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên, tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời

gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến

7

hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không

được công bố công khai rộng rãi. Theo nguyên tắc này, các bên có thể giữ

được bí mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Phán quyết của

trọng tài có tính chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải

quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán

quyết thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa

án nào. Đồng thời, phán quyết của trọng tài có tính bắt buộc thi hành với các

bên. Khi đã hết thời hạn tự nguyện thi hành nhưng có một trong các bên

không thực hiện, bên còn lại có quyền gửi đơn yêu cầu cơ quan thi hành án

dân sự cưỡng chế thi hành phán quyết của trọng tài.

Tuy nhiên giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương

đối cao, vụ việc kéo dài thì chi phí trọng tài cũng cao. Việc thi hành phán

quyết của trọng tài không phải lúc nào cũng thuận lợi, trôi chảy.

Phương thức tố tụng tại Tòa án:

Tố tụng tại Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống

nhất và cũng hiệu quả nhất. Đây là phương thức có sự tham gia giải quyết của

đại diện quyền lực nhà nước là TAND. Vì vậy quy trình giải quyết tranh chấp

phải tuân thủ quy định chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Đồng thời, bản án,

quyết định của Tòa án được đảm bảo thi hành bằng hệ thống cơ quan thi hành

án của nhà nước.

Trong thực tiễn pháp lý, khi các phương thức thương lượng, hòa giải,

trọng tài không đem lại kết quả, các chủ thể mới lựa chọn đến Tòa án giải

quyết, bởi tính rườm rà, phức tạp, thiếu linh hoạt của quy trình giải quyết

tranh chấp tại Tòa án.

So với các phương thức giải quyết tranh chấp trên thì hòa giải là

phương thức có nhiều ưu điểm hơn:

Thứ nhất, hòa giải có thể được tiến hành trong nhiều môi trường khác

nhau, thủ tục có thể được thỏa thuận và điều chỉnh cho thích nghi. Tính linh

8

hoạt đem lại lợi thế là các bên được bày tỏ ý kiến xem quá trình nào thì phù

hợp với họ; cho phép có những điều chỉnh khi bản chất của tranh chấp và các

bên tranh chấp đòi hỏi phải vậy; tránh khả năng về việc có những yêu cầu về

thủ tục kỹ thuật quá phức tạp. Ngược lại, phương thức tố tụng Tòa án có một

cách thức tổ chức cứng nhắc hơn, có những quy định và thủ tục cố hữu. Có

một vài yếu tố mang tính kỹ thuật đòi hỏi rất cao, buộc các bên phải nghiêm

chỉnh chấp hành cả trong thời gian trước và đang diễn ra quá trình xét xử. Một

sự khác biệt quan trọng giữa hòa giải và tố tụng là những thông tin và chứng

cứ nào có thể được sử dụng, sử dụng và kiểm chứng như thế nào. Trong tố

tụng, vấn đề này được điều chỉnh theo quy định về chứng cứ và thủ tục để

đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy. Trong hòa giải thường không có quy

định nào về chứng cứ và cũng không có quy định về kiểm chứng cũng như

xem xét về mặt thủ tục. Chỉ có những quy định thủ tục mở về phương pháp

nói chuyện và giao tiếp. Các bên tranh chấp được phép kể chuyện của họ nếu

thấy phù hợp và có thể biểu lộ tình cảm mà không bị bài bác và bị cho là không

có ý nghĩa.Tuy nhiên cũng có những giới hạn đối với tính linh hoạt của hoạt

động hòa giải. Mặc dù nó không phải là một quá trình cứng nhắc, nhưng khi các

Hòa giải viên hướng dẫn, các bên vẫn phải có sự thống nhất cao trong các giai

đoạn khác nhau. Các Hòa giải viên phải thực hiện một cách có hệ thống qua

từng giai đoạn của hoạt động hòa giải theo trình tự cụ thể. Điều này giúp khai

thác được từng điểm mạnh trong toàn bộ quá trình hòa giải, vì mỗi một giai

đoạn trong quá trình đó đều có cái lý lẽ riêng của nó. Vì thế, mặc dù có sự

linh hoạt, nhưng hòa giải mang tính tổ chức hơn so với những cuộc đàm phán

có tính chất tùy tiện. Một trong những đóng góp của một Hòa giải viên là có

thể xác lập trật tự trong những cuộc đàm phán vô tổ chức và thiếu thống nhất.

Thứ hai, trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi,

đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình. Quá trình hòa

giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về tranh chấp. Sự

9

tham gia trực tiếp của các bên tranh chấp trong hòa giải là rất cần thiết vì nó

đề cao được tinh thần trách nhiệm của các bên đối với các lựa chọn của mình.

Không một phương thức giải quyết tranh chấp nào có thể đảm bảo sự tham

gia trực tiếp của các bên được như phương thức hòa giải, các bên đánh giá rất

cao "quyền tự quyết" của phương thức này dù tranh chấp chưa được giải quyết.

Bảo đảm được bí mật, ít ảnh hưởng đến hoạt động của cá nhân, pháp nhân.

Thứ ba, khi đưa ra quyết định, Tòa án và các trọng tài viên đều dựa

vào các quy phạm pháp luật, nghĩa là các quy tắc và nguyên tắc được quy

định trong các đạo luật. Trong hòa giải, các bên không viện dẫn các quy phạm

để định hướng giải quyết, nhưng các quy phạm lại có thể được các bên rút ra

từ chính kết quả giải quyết vụ việc.

Thứ tư, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp dân sự hiệu quả,

nhanh nhất, đơn giản nhất, ít tốn kém nhất (tiết kiệm được nhân lực, chi phí,

thời gian). Hòa giải là sự lựa chọn được ưu tiên trong giải quyết tranh chấp

bởi tính nhanh gọn, hiệu quả bền vững, củng cố được mối quan hệ tình cảm

giữa con người với con người.

1.1.2. Hòa giải tranh chấp dân sự

Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp truyền thống và

phổ biến trong đời sống xã hội. Trong khoa học pháp lý, hòa giải được hiểu

dưới nhiều góc độ khác nhau.

Dưới góc độ là một thủ tục giải quyết tranh chấp thì thủ tục hòa giải là

trình tự mà các bên tham gia bao gồm các bên tranh chấp và bên trung gian

hòa giải cần tuân theo để đạt được tự nguyện thỏa thuận giải quyết mâu thuẫn,

tranh chấp đang tồn tại giữa các bên.

Dưới góc độ pháp lý, hòa giải là một chế định pháp luật. Theo Giáo

trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học Luật Hà Nội thì:

"Chế định pháp luật là một tập hợp được cấu trúc từ nhóm các quy phạm pháp

luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau thuộc

10

cùng một loại" [24]. Theo định nghĩa này, chế định hòa giải là một tập hợp

các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá

trình hòa giải giải quyết tranh chấp.

Dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp, hòa giải là

hoạt động của một bên trung gian nhằm giúp đỡ các bên tranh chấp thỏa thuận

với nhau về giải quyết tranh chấp.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, người viết chỉ chú trọng

nghiên cứu hòa giải dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp.

Tuy nhiên, dù dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp thì trước

đây cũng như hiện nay có nhiều quan điểm về hòa giải, cụ thể như sau:

Theo Từ điển tiếng Việt, "hòa giải là việc thuyết phục các bên đồng ý

chấm dứt xung đột, xích mích một cách ổn thỏa" [25, tr. 430]. Khái niệm này

đề cập đến hành động và mục đích của hòa giải, nhưng chưa nêu được đầy đủ

các yếu tố như bản chất, nội dung, và chủ thể của hòa giải.

Theo Từ điển Luật học Anh - Mỹ của Black: "Hòa giải là một quá trình

giải quyết tranh chấp mang tính chất riêng tư, trong đó, Hòa giải viên là người

thứ ba trung gian giúp các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận" [32, tr. 350].

Tương tự như vậy, từ điển Luật học của Cộng hòa Pháp giải thích:

"Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự giúp đỡ của người

trung gian thứ ba (Hòa giải viên) để giúp đưa ra các đề nghị giải quyết một

cách thân thiện" [33, tr. 378].

Hai từ điển nêu trên đưa ra định nghĩa về hòa giải khá tương đồng nhau

khi cả hai định nghĩa đều thể hiện ba yếu tố đó là: thứ nhất, có sự tranh chấp

giữa các bên; thứ hai, có sự tham gia của bên thứ ba trung lập để đưa ra ý kiến

tư vấn; thứ ba, có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp.

Ngoài ra, trong khoa học pháp lý, có quan điểm cho rằng: "hòa giải là

quá trình giải quyết những tranh chấp, bất đồng giữa các bên. Trong quá trình

hòa giải cần đến bên thứ ba với vai trò trung lập, làm trung gian giúp các bên

11

tranh chấp giải quyết được những bất đồng và đạt được một thỏa thuận phù

hợp với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tự nguyện thực hiện những

thỏa thuận đó" [11]. Theo quan điểm này, hòa giải có mục đích giải quyết

thành công tranh chấp. Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp hòa giải

đều thành công. Khi đó, dù mâu thuẫn chưa được giải quyết hoàn toàn nhưng

các bên tranh chấp cũng có cơ hội hiểu rõ hơn nội dung tranh chấp, bày tỏ ý

chí của mình với đối phương và cũng được nghe ý kiến của đối phương về vụ

tranh chấp. Từ đó, hai bên có thể phần nào tìm được tiếng nói chung và làm

giảm mức độ mâu thuẫn.

Từ các quan điểm trên, có thể khái quát: hòa giải tranh chấp dân sự là

phương thức giải quyết tranh chấp thông qua sự tham gia của bên thứ ba,

đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết phục các bên tranh chấp tìm

kiếm các giải pháp nhằm chấm dứt xung đột.

Qua đó thấy được có hai sự khác biệt cơ bản giữa hòa giải tranh chấp

dân sự với hòa giải tranh chấp thương mại đó là: trong hòa giải tranh chấp

thương mại các quan hệ tranh chấp mang tính thương mại, giữa các bên hay ít

nhất một bên là thương nhân và quyền tự do ý chí trong hòa giải tranh chấp

dân sự được thừa nhận rộng rãi hơn. Cụ thể:

- Về quan hệ tranh chấp:

Hòa giải tranh chấp dân sự: các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ

nhân thân hoặc quan hệ tài sản được luật dân sự điều chỉnh mà không phải là

các tranh chấp thương mại.

Hòa giải tranh chấp thương mại: các tranh chấp giữa các bên phát sinh

từ hoạt động thương mại; tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có

hoạt động thương mại và tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định

được giải quyết bằng hòa giải thương mại.

- Về cơ quan, tổ chức tiến hành hòa giải: Ngoài Tòa án và Trung tâm

hòa giải tại Tòa án thì:

12

Hòa giải tranh chấp dân sự: còn được hòa giải ở Ủy ban nhân dân (UBND)

cấp xã.

Hòa giải tranh chấp thương mại: còn được hòa giải tại Trung tâm

Trọng tài thương mại, Trung tâm Hòa giải Việt Nam (VMC) - thuộc Trung

tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).

- Về thủ tục hòa giải:

Hòa giải tranh chấp dân sự trong một số loại tranh chấp là thủ tục bắt

buộc trước khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án (thủ tục tiền tố tụng) như: Hòa

giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã. Còn với các tranh chấp thương mại

thì không phải qua hòa giải ở giai đoạn này.

- Quyền tự do ý chí trong hòa giải tranh chấp dân sự được thừa nhận

rộng rãi hơn: chủ thể tham gia hòa giải tranh chấp dân sự thường là hai cá

nhân nên trong quá trình hòa giải họ có thể tự đưa ra được các quyết định của

mình, tự do thể hiện ý chí của mình trong quá trình hòa giải. Còn chủ thể

tham gia hòa giải tranh chấp thương mại thường là hai pháp nhân nên trong

quá trình hòa giải, những người đại diện theo ủy quyền cho pháp nhân đó

không được tự do thể hiện ý chí của mình, chỉ được đưa ra các quyết định

trong phạm vi được ủy quyền. Những vấn đề quan trọng được đề cập đến

trong buổi hòa giải, họ không thể tự quyết định được mà phải được sự đồng ý

của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân đó.

1.2. Phân loại, đặc điểm và ý nghĩa của các loại hình hòa giải

tranh chấp dân sự ở Việt Nam

Theo quy định của pháp luật hiện hành, hòa giải tranh chấp dân sự ở

Việt Nam có thể phân loại thành hai loại: hòa giải theo thủ tục tố tụng, tại Tòa

án và hòa giải ngoài tố tụng, ngoài Tòa án. Một số cơ chế hòa giải ngoài Tòa

án (ngoài tố tụng) như: Hòa giải cơ sở theo quy định của Luật hòa giải ở cơ

sở; hòa giải tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao động tập thể (về

quyền, lợi ích) theo quy định của Bộ luật Lao động; hòa giải thương mại theo

13

quy định của Luật Thương mại và Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày

24/02/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại; hòa giải tranh chấp đất đai

tại UBND cấp xã theo quy định của Luật Đất đai; hòa giải của tổ chức đại

diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan theo quy định của Luật Sở hữu trí

tuệ; hòa giải giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người tiêu

dùng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Ngoài hai loại trên, hiện nay ở Việt Nam cũng đang áp dụng cơ chế

hòa giải mới trước tố tụng, tại Tòa án đó là Trung tâm hòa giải tại Tòa án.

Tuy dự thảo về Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án vẫn đang trong quá trình

hoàn thiện nhưng cơ chế này đã và đang được nước ta áp dụng thí điểm ở một

số tỉnh thành trên cả nước.

Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu ba hình

thức hòa giải đó là: Hòa giải theo thủ tục TTDS, hòa giải tại Trung tâm hòa

giải tại Tòa án và hòa giải ở cơ sở.

1.2.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự

Hòa giải theo thủ tục TTDS được tiến hành sau khi Tòa án thụ lý vụ

án, do Tòa án nhân dân có thẩm quyền thực hiện. Theo pháp luật TTDS Việt

Nam, hòa giải được coi là một nguyên tắc, là một thủ tục bắt buộc mà Tòa án

phải tiến hành trước khi đưa vụ việc ra phiên tòa sơ thẩm (trừ trường hợp

pháp luật quy định không được hòa giải và những trường hợp không tiến hành

hòa giải được). Tòa án giữ một vị trí đặc biệt, với vai trò là trung gian có

nhiệm vụ tổ chức cho các bên đương sự thỏa thuận với nhau. Khi hòa giải,

Tòa án giải thích cho các đương sự về các quy định của pháp luật liên quan

tới các vấn đề tranh chấp, các chính sách của Nhà nước, động viên, giúp đỡ

họ tháo gỡ những vấn đề vướng mắc. Dấu hiệu về vai trò của Tòa án là dấu

hiệu đặc trưng để phân biệt hòa giải trong TTDS do Tòa án tiến hành với

trường hợp các đương sự tự hòa giải. Tuy nhiên, xét về thực tế thì kết quả

thỏa thuận mà các bên đạt được nhiều khi là hệ quả gián tiếp từ việc giải thích

14

pháp luật hoặc hoạt động hòa giải trước đó của Tòa án. Còn dấu hiệu về hoạt

động TTDS được tiến hành sau khi Tòa án thụ lý vụ án là cơ sở để phân biệt

hòa giải trong TTDS với hòa giải ngoài TTDS do các chủ thể khác như trọng

tài, tổ hòa giải cơ sở, hòa giải viên thực hiện.

Hòa giải là một thủ tục tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ

án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Xuất phát từ ý nghĩa to lớn của việc hòa

giải thành, pháp luật TTDS của chúng ta đã coi hòa giải là một thủ tục, có tính

bắt buộc phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, tại các

giai đoạn khác của quá trình tố tụng, pháp luật không cấm đoán nên Tòa án

vẫn có thể tiến hành hòa giải nếu xét thấy việc hòa giải là cần thiết và có khả

năng hòa giải thành. Việc bắt buộc tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa

sơ thẩm xuất phát từ những cơ sở nhất định. Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm,

Tòa án phải tiến hành xác minh, hoạt động này đã giúp Thẩm phán nắm được

nội dung vụ việc, hiểu được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, đây là cơ sở

để Tòa án tiến hành hòa giải hiệu quả nhất.

Hòa giải vụ án dân sự được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp

luật quy định. Việc quy định thủ tục hòa giải các vụ việc dân sự nhằm đảm

bảo tính khách quan, công bằng, bảo đảm sự bình đằng giữa các đương sự

trong quá trình giải quyết vụ án. Các quy định của pháp luật TTDS về thủ tục

hòa giải là cơ sở để tiến hành hòa giải các vụ án dân sự và bắt buộc Tòa án và

những người khác tham gia hòa giải các vụ án dân sự phải tuân thủ các quy

định về thủ tục triệu tập các đương sự tham gia hòa giải, thông báo hòa giải,

trình tự tiến hành hòa giải và thủ tục ra quyết định công nhận sự thỏa thuận

của các đương sự.

Kết quả hòa giải có tính chất bắt buộc thi hành và có giá trị pháp lý.

1.2.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án

So với các hoạt động hòa giải khác thì phạm vi và đối tượng hòa giải

tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án được mở rộng hơn rất nhiều.

15

Về phạm vi, Hòa giải viên của Trung tâm hòa giải tại Tòa án được

quyền hòa giải các vụ việc trong phạm vi của thẩm quyền của Tòa án cấp đó,

trong khi hòa giải ở cơ sở chỉ thực hiện hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp

xảy ra tại cơ sở đó, tức là chỉ hòa giải các tranh chấp trong phạm vi thôn,

làng, ấp, bản, tổ dân phố, khu phố, khối phố... Không những thế, về đối

tượng, Hòa giải viên của Trung tâm hòa giải tại Tòa án được quyền hòa giải

các tranh chấp về: dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao động kể cả

trường hợp thuận tình ly hôn. Còn UBND xã, phường chỉ hòa giải các tranh

chấp về đất đai; Hòa giải viên lao động, Hội đồng trọng tài lao động chỉ hòa

giải các tranh chấp về lao động; Hòa giải viên thương mại chỉ hòa giải các

tranh chấp về thương mại...

Tiếp đó, hòa giải tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án thực hiện

trước khi Tòa án thụ lý vụ việc dân sự theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân

tối cao (TANDTC), khác một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

(BLTTDS). Theo quy định hiện nay, hòa giải ngoài Tòa án là hòa giải không

gắn với tố tụng, còn hòa giải tại Tòa án là hòa giải trong quá trình tố tụng.

Riêng hòa giải thí điểm tại Tòa án là việc hòa giải được thực hiện sau khi

người khởi kiện nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhưng chưa thụ lý vụ án theo

quy định của BLTTDS hoặc các bên có yêu cầu Trung tâm hòa giải, đối thoại

tại Tòa án thực hiện việc hòa giải, các bên chưa nộp đơn khởi kiện tại Tòa án.

Hay nói cách khác, hòa giải thí điểm tại Tòa án là hòa giải "tiền tố

tụng", cho nên việc thực hiện hòa giải này được tiến hành tại Trung tâm hòa

giải, đối thoại do Tòa án thành lập, được thực hiện theo trình tự, thủ tục theo

hướng dẫn của TANDTC tại Công văn số 310/TANDTC-PC ngày 11/10/2018

hướng dẫn về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải,

đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại

TAND. Một số hướng dẫn của Công văn này khác với quy định của BLTTDS

như về bảo mật thông tin, xử lý kết quả hòa giải, xác định thời hiệu...

16

Không những thế, hòa giải tại Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án

do Hòa giải viên tiến hành độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, nhưng

được sự hỗ trợ của Tòa án. Hòa giải viên do Tòa án lựa chọn và công nhận;

Tòa án có trách nhiệm tập huấn, hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp

vụ, kỹ năng hòa giải, ký và tống đạt các giấy tờ có liên quan đến hòa giải...

Cuối cùng là phương thức hòa giải vô cùng linh hoạt. Bởi lẽ, về thời

gian và địa điểm tiến hành hòa giải do Hòa giải viên quyết định, không bắt

buộc phải thu thập chứng cứ đầy đủ rồi mới tiến hành hòa giải, có thể tiến

hành hòa giải ngoài phòng hòa giải của Trung tâm hòa giải nếu các bên tranh

chấp đều đồng ý. Khi hòa giải, Hòa giải viên được phép linh hoạt trong sử

dụng phương thức hòa giải, trừ những biện pháp vi phạm điều cấm của luật và

trái đạo đức xã hội. Đó có thể là: Hòa giải viên thực hiện việc họp kín, họp

chung linh hoạt; Hòa giải viên có thể giải thích, phân tích... để giúp các bên

hiểu đúng bản chất đối với các vấn đề đang tranh chấp để tự nguyện thỏa

thuận giải pháp thích hợp.

Như vậy có thể hiểu, linh hoạt là một đặc điểm nổi bật của phương

pháp hòa giải khi thực hiện thí điểm, nó không bị gò bó theo trình tự, thủ tục

quy định cứng nhắc của BLTTDS. Hòa giải viên tiến hành hòa giải mà không

lo lắng vi phạm nguyên tắc "chưa xử đã xét" như khi Thẩm phán tiến hành hòa

giải trong tố tụng. Đây là điểm thuận lợi lớn của việc hòa giải thực hiện theo

mô hình thí điểm so với hòa giải trong tố tụng được tiến hành bởi Thẩm phán.

1.2.3. Hòa giải ở cơ sở

Với ý nghĩa là phương thức giúp các bên thỏa thuận, tự nguyện giải

quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn

đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý

truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa, hạn chế

vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư, có

thể rút ra một số đặc điểm của hòa giải ở cơ sở như sau:

17

Một là, hòa giải ở cơ sở là hoạt động thuyết phục vận động, giúp đỡ

các bên tranh chấp thông cảm hiểu nhau hơn, tự dàn xếp, thỏa thuận để xóa

bỏ tranh chấp, nối lại tình cảm gắn bó từ gia đình, xóm giềng, góp phần giữ

gìn ổn định, trật tự an toàn xã hội ở cơ sở xã, phường, thị trấn.

Hai là, hòa giải ở cơ sở được tiến hành do một hoặc một số tổ viên tổ

hòa giải hoặc người có uy tín đối với các bên tranh chấp tiến hành gọi chung

là hòa giải viên. Đây là những người nhiệt tình, tâm huyết, có tinh thần trách

nhiệm cao đối với cộng đồng, ở nhiều độ tuổi khác nhau, hoạt động không có

lương, phụ cấp của Nhà nước khi tham gia hòa giải.

Ba là, phạm vi của hoạt động hòa giải ở cơ sở là những tranh chấp nhỏ

trong cộng đồng dân cư được giới hạn theo quy định của pháp luật.

Bốn là, hòa giải ở cơ sở không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp

phải tiến hành hòa giải, không nhất thiết phải lập biên bản nếu các bên không

yêu cầu. Thời gian, địa điểm tiến hành hòa giải không cố định, linh hoạt đảm

bảo thuận lợi cho việc hòa giải hoặc phù hợp với nguyện vọng của các bên.

Năm là, hòa giải ở cơ sở thường được thực hiện linh hoạt, có sự kết

hợp vận dụng quy định của pháp luật với phong tục, tập quán truyền thống,

kinh nghiệm của dân gian, hiệu quả là có tính thuyết phục cao, mang lại kết

quả ổn thỏa, lâu bền.

Sáu là, hòa giải ở cơ sở là một biện pháp tốt để trực tiếp tổ chức tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp lý, xây dựng lối sống văn

hóa cho mọi người.

Với bản chất và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc vì con người, hòa giải ở cơ

sở vượt qua được những thay đổi của các thể chế chính trị, ngày càng khẳng

định được vai trò, ý nghĩa to lớn của mình trong đời sống xã hội. Đó chính là

lý do tại sao hòa giải ở cơ sở được mọi người dân chấp nhận. Đây cũng là một

trong những đặc điểm của hòa giải ở cơ sở.

18

1.2.4. Ý nghĩa của hòa giải tranh chấp dân sự

Nếu giải quyết tranh chấp bằng biện pháp xét xử, khi kết thúc phiên

tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) phải ra bản án tuyên chấp nhận hoặc không

chấp nhận yêu cầu của đương sự; phán quyết của Hội đồng Trọng tài cũng

vậy. Hay nói một cách khác, việc xét xử của Tòa án, sự phán quyết của Trọng

tài sẽ có bên thắng, bên thua, thậm chí có nhiều trường hợp cả hai bên đều

thua, các bên đều không hài lòng (như trường hợp Tòa án chỉ chấp nhận một

phần yêu cầu của người khởi kiện thì nguyên đơn và bị đơn đều không mong

muốn). Ngược lại, nếu các tranh chấp được giải quỵết bằng biện pháp hòa giải,

có nghĩa là các bên hoàn toàn tự nguyện thỏa thuận về những giải pháp giải

quyết tranh chấp. Như vậy khi hòa giải thành thì các nội dung giải quyết tranh

chấp là ý chí của các bên, các chủ thể tranh chấp đều mong muốn, hài lòng.

Hay nói cách khác, khi hòa giải thành sẽ không có kẻ thắng, người thua, thậm

chí có người còn nói hòa giải thành là giúp cho các bên tranh chấp "đều thắng".

Đối với bản án, khi thi hành thường gặp nhiều trở ngại khó khăn vì

nhiều đương sự khi bị bản án tuyên buộc thực hiện, nghĩa không tự nguyện thi

hành. Ngược lại, đối với những nội dung thỏa thuận khi hòa giải thành là ý

chí của các bên tranh chấp nên thường là tự giác thi hành. Trong thực tế nhiều

vụ tranh chấp sau khi hòa giải thành các bên không cần yêu cầu Tòa án công

nhận, họ tự nguyện thực hiện theo các nội dung đã thỏa thuận, và thực hiện

một cách dễ dàng, nhanh chóng. Trường hợp phải thi hành án thì thực tiễn đã

cho thấy thi hành các "Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự" lúc

nào cũng thuận lợi nhanh chóng hơn những bản án. Từ những phân tích nói

trên đã thể hiện hòa giải thành là một phương thức giải quyết các tranh chấp

dân sự tốt nhất, ổn thỏa nhất.

Tiếp đó, có thể nói, hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp tiết

kiệm nhất, hiệu quả nhất, ít tốn kém về thời gian, về nhân lực và chi phí tố

tụng của cơ quan nhà nước, của các bên tranh chấp. Bởi khi tiến hành hòa giải

19

không bắt buộc phải xác minh, thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ; nhiều

trường hợp chỉ sau thụ lý chỉ cần một thời gian ngắn đã hòa giải giải quyết

xong tranh chấp; việc hòa giải chủ yếu do một hòa giải viên, một Thẩm phán

hay một người khác có nhiệm vụ hòa giải tiến hành... Ngược lại đối với

những vụ án (giải quyết theo TTDS), trước khi xét xử phải yêu cầu các đương

sự cung cấp, giao nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ, trường hợp thấy cần thiết

Thẩm phán phải áp dụng các biện pháp để thu thập chứng cứ làm rõ những

tình tiết của vụ án; thời gian chuẩn bị xét xử thường kéo dài. Khi xét xử,

HĐXX ít nhất là 3 người (trừ những vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn),

nhiều vụ án phải mở phiên tòa nhiều lần mới xét xử xong, thậm chí không ít

vụ án phải qua nhiều vòng tố tụng (sơ thẩm, phúc thẩm; giám đốc thẩm lại trở

về sơ, phúc thẩm…). Đồng thời, theo pháp luật về hòa giải hiện nay thì khi

hòa giải ngoài tố tụng, các bên tranh chấp không phải nộp tiền chi phí (trừ hòa

giải thương mại). Trong TTDS nếu hòa giải thành trước khi mở phiên tòa thì

các đương sự chỉ chịu 50% án phí dân sự sơ thẩm. Cho nên nếu hòa giải thành

sẽ giúp các bên không phải nộp hoặc giảm tiền nộp án phí.

Mặt khác, nếu sau khi hòa giải thành, các bên tự nguyện thi hành sẽ

không cần đến việc giải quyết của cơ quan Thi hành án dân sự. Như vậy sẽ

giảm áp lực, sự quá tải cho cơ quan Thi hành án và các bên tranh chấp không

phải mất một khoản tiền để chi phí thi hành án.

Hòa giải thành là tăng cường sự đoàn kết trong nhân dân, góp phần

giữ gìn an ninh trật tự. Quá trình hòa giải là các bên gặp nhau, trao đổi làm

cho các bên hiểu nhau hơn, nếu hòa giải thành thì sự thân thiện của các bên

càng cao, sẽ làm triệt tiêu các các mâu thuẫn. Như vậy sẽ tăng cường sự đoàn

kết của các cá nhân, pháp nhân, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

1.3. Kinh nghiệm quốc tế về hòa giải tranh chấp dân sự

1.3.1. Hòa giải tại Singapore

Hòa giải xuất hiện ở Singapore từ khi bắt đầu có cư dân sống trên

quốc đảo này. Chính phủ Singapore cũng đóng vai trò tích cực trong việc thúc

20

đẩy hòa giải ở Singapore và khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng hòa

giải trước khi đưa vụ việc ra Tòa án. Tháng 01/1998, Luật về Trung tâm Hòa

giải cộng đồng có hiệu lực. Bộ Pháp luật giám sát các trung tâm này và vẫn

giữ vai trò thúc đẩy hòa giải và ADR nói chung. Các sáng kiến thúc đẩy hòa

giải khác được đưa ra bởi Văn phòng Tổng Công tố viên, theo đó, tất cả các

cơ quan nhà nước nên sử dụng hòa giải là sự lựa chọn đầu tiên để giải quyết

tranh chấp và trong các hợp đồng của Chính phủ cần có điều khoản về giải

quyết tranh chấp tại Trung tâm Hòa giải Singapore.

Điều ấn tượng nhất trong quá trình phát triển của hòa giải ở Singapore

là tốc độ triển khai các chương trình hòa giải. Chỉ trong một thời gian ngắn,

hòa giải đã nhanh chóng trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp

được sử dụng rộng rãi bởi Tòa án, các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và các

cá nhân.

Ở Singapore có hai loại hình hòa giải chủ yếu là hòa giải gắn với Tòa

án (court-annexed mediation) và hòa giải tư (private mediation). Hòa giải gắn

với Tòa án là hình thức hòa giải được tiến hành sau khi các bên đã bắt đầu

quá trình tố tụng tại Tòa án. Loại hình hòa giải này chủ yếu được thực hiện tại

các Tòa án cấp dưới (Subordinate Courts) và được điều phối bởi Trung tâm

Giải quyết tranh chấp thay thế (Primary Dispute Resolution Centre - PDRC).

Hòa giải tư ở Singapore chủ yếu được thực hiện bởi Trung tâm Hòa giải

Singapore (SMC) - một tổ chức phi lợi nhuận thuộc Học viện Luật Singapore.

Ngoài ra, ở Singapore còn tồn tại loại hình hòa giải thứ ba, được tiến hành

trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức, hiệp hội, như các Trung tâm Hòa

giải cộng đồng, Hiệp hội Người tiêu dùng Singapore.

Mới đây, các Tòa án quốc gia đã thành lập Trung tâm giải quyết tranh

chấp đóng vai trò là trung tâm ADR Tòa án một cửa, cung cấp các dịch vụ

ADR tổng hợp cho các loại tranh chấp khác nhau được gửi tới Tòa án. Trung

tâm này hiện nay đang đa dạng hóa đội ngũ Hòa giải viên để bao gồm cả

21

những người có kiến thức chuyên môn về một lĩnh vực cụ thể và để ghi nhận

sự quan tâm hoặc lĩnh vực chuyên môn cụ thể của họ [28]. Hầu hết Hòa giải

viên Tòa án sẽ được đào tạo cả về luật và hòa giải, trong khi những người

khác có thể được đào tạo về hòa giải và chuyên môn khác. Từ đội ngũ Hòa

giải viên đa dạng này, mỗi vụ việc có thể chọn được Hòa giải viên phù hợp để

tối ưu hóa việc sử dụng các nguồn lực tư pháp khan hiếm và nâng cao năng

lực của Tòa án để cung cấp hòa giải cho nhiều vụ việc hơn mà vẫn giữ được

chất lượng cao.

Thêm vào đó, bên cạnh việc phát triển các chương trình hòa giải Tòa

án, Tòa án quốc gia hiện đang tìm cách hỗ trợ phát triển các dịch vụ hòa giải

bên ngoài Tòa án. Để làm được điều này, Tòa án quốc gia đã và đang hợp tác

với những người và đơn vị cung cấp hòa giải khác để giải quyết những vụ

việc phù hợp thông qua hòa giải ngoài Tòa án. Tòa án quốc gia đã phối hợp

với Hội luật gia Singapore và Trung tâm công lý cộng đồng để xây dựng đề

án với tên gọi Dự án Công lý sơ cấp. Theo đề án này, các dịch vụ pháp lý cơ

bản sẽ được cung cấp với mức phí cố định bởi một nhóm luật sư là những

người sẽ đánh giá vụ việc về mức độ phù hợp đối với ADR, bao gồm cả hòa

giải, và chuyển vụ án tới những chương trình hòa giải phù hợp với mục tiêu

giải quyết vụ việc mà không cần đến thủ tục tố tụng.

Một thay đổi mới đây trong mô hình công lý là việc đưa vào áp dụng

các mức phí ADR Tòa án đối với việc khiếu kiện dân sự có giá ngạch lớn. Như

vậy để hỗ trợ sự phát triển của hòa giải tư nhân và giúp người dân nhận biết

được giá trị của hòa giải là một dịch vụ chuyên nghiệp. Các bên trong khiếu kiện

có giá ngạch từ 60,000 đến 250,000 đô la Singapore mà lựa chọn sử dụng ADR

của Tòa án thì mỗi bên sẽ phải trả một mức phí cố định cho Tòa án [29]. Tất

cả những khiếu kiện khác vẫn sẽ được cung cấp dịch vụ ADR Tòa án miễn phí.

Tiêu chuẩn hòa giải: Tất cả Hòa giải viên Tòa án, bao gồm Thẩm

phán, cán bộ Tòa án và Hòa giải viên tình nguyện đều bị ràng buộc bởi Bộ

22

quy tắc đạo đức và các nguyên tắc cơ bản về hòa giải Tòa án của Tòa án quốc

gia và được hướng dẫn bởi Tuyên bố Công lý của Tòa án quốc gia [34]. Bộ

quy tắc nêu rõ sứ mệnh của Tòa án quốc gia là "giúp người sử dụng Tòa án

giải quyết những khác biệt của họ thông qua việc cùng giải quyết vấn đề

trong một môi trường không đối đầu". Nó còn nêu rõ những giá trị chung giúp

định hình việc tiến hành hòa giải, ví dụ như công bằng; khả năng tiếp cận; tính

độc lập, vô tư và liêm chính; và khả năng đáp ứng. Những giá trị củng cố cho

hòa giải Tòa án còn bao gồm sự tôn trọng và trao quyền. Hòa giải viên cũng

được hướng dẫn bởi hướng dẫn của Tòa án về Thông lệ hòa giải tốt nhất. Tài

liệu nội bộ này đề ra những bước rõ ràng trong mỗi giai đoạn hòa giải, với các

thông lệ được khuyến nghị và lưu ý về những thông lệ mang tính rủi ro.

Về kết quả hòa giải: Để đảm bảo khả năng thi hành của những thỏa

thuận đạt được sau khi hòa giải tại Tòa, các điều khoản trong thỏa thuận được

ghi lại trước một Thẩm phán tại Tòa. Thông thường, trong thỏa thuận sẽ có

một điều khoản quy định rằng nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ trong

thỏa thuận thì bên còn lại có quyền đề nghị Tòa án ban hành lệnh yêu cầu thi

hành thỏa thuận ngay lập tức.

1.3.2. Hòa giải tại Hàn Quốc

Hòa giải tại Hàn Quốc được xem là một phương thức giải quyết tranh

chấp thay thế (ADR). Tùy theo chủ thể phụ trách hoặc cách thức tiến hành mà

ADR được phân loại thành ADR dưới hình thức tư pháp, ADR dưới hình thức

hành chính, ADR dưới hình thức tư nhân [30]. ADR dưới hình thức tư pháp là

ADR được tiến hành tại Tòa án hoặc thông qua Tòa án. ADR dưới hình thức

hành chính là việc giải quyết tranh chấp tại từng hội đồng, ủy ban được bố trí

tại chính phủ hoặc cơ quan trực thuộc chính phủ. ADR dưới hình thức tư nhân

là việc các cơ quan, tổ chức thuộc lĩnh vực tư nhân hoặc cá nhân thử giải

quyết tranh chấp. Ở Hàn Quốc, ADR dưới hình thức tư nhân vẫn chưa phát

triển. Hàn Quốc chủ yếu thực hiện ADR dưới hình thức hành chính và ADR

dưới hình thức tư pháp.

23

Hàn Quốc thực hiện cả "chế định hòa giải phụ thuộc vào Tòa án" và

chế định hòa giải liên kết ngoài Tòa án (ADR phụ thuộc vào Tòa án - được

tiến hành trong Tòa án và ADR liên kết ngoài Tòa án - được tiến hành bên

ngoài Tòa án thông qua Tòa án). Chế định hòa giải không được quy định

trong Luật TTDS mà được quy định trong Luật hòa giải tư pháp tranh chấp

dân sự.

- Về phạm vi hòa giải theo Luật hòa giải tư pháp tranh chấp dân sự bao

gồm: yêu cầu hòa giải của đương sự và quyết định đưa ra hòa giải của HĐXX.

- Về chủ thể tiến hành hòa giải:

Thẩm phán phụ trách hòa giải: quản lý toàn bộ vụ án yêu cầu hòa giải

và vụ án được HĐXX chuyển cho Thẩm phán phụ trách hòa giải để đưa ra

hòa giải. Thẩm phán phụ trách hòa giải xử lý các công việc như: Thành lập

ban hòa giải và quyết định phương thức hoạt động của ban hòa giải; phân

công vụ việc hòa giải; khuyến khích đưa vụ án ra hòa giải và quản lý vụ án

được đưa ra hòa giải; chỉ đạo, giám sát công việc hỗ trợ cần thiết cho công tác

hòa giải phù hợp; bồi dưỡng Hòa giải viên; lập và thực hiện kế hoạch đẩy

mạnh thủ tục hòa giải; báo cáo liên quan đến công tác hòa giải; các công việc

cần thiết khác để đẩy mạnh thủ tục hòa giải. Trong quá trình xử lý công tác

hòa giải, ngoài Thẩm phán phụ trách hòa giải, vai trò hỗ trợ công việc cho

Thẩm phán phụ trách hòa giải của cán bộ Tòa án cũng rất quan trọng. Chánh

án Tòa án chỉ đạo cán bộ Tòa án phụ trách hòa giải chỉ chuyên trách công tác

hòa giải trong phạm vi có thể nhằm hỗ trợ quản lý vụ việc hòa giải một cách

tích cực.

Ban hòa giải: Hòa giải bởi ban hòa giải là phương thức tiến hành hòa

giải bởi ban hòa giải được thành lập gồm trưởng ban hòa giải và hai Hòa giải

viên trở lên. Thông thường, một Hòa giải viên là luật sư và một Hòa giải viên

không phải là luật sư. Hòa giải viên được Chánh án Tòa án các cấp lựa chọn

trong số những người phù hợp trong khu vực thẩm quyền.

24

Gần đây, hòa giải theo hình thức "Phương thức tiến hành hòa giải bởi

một Hòa giải viên" đang được thực hiện độc lập với hòa giải bởi ban hòa giải.

Phương thức tiến hành hòa giải bởi một Hòa giải viên là hình thức Hòa giải

viên hỗ trợ công việc cho Thẩm phán phụ trách hòa giải chứ không phải là

hình thức chế định hòa giải độc lập. Tuy nhiên trên thực tế, chế định này có ý

nghĩa ở điểm Hòa giải viên không phải là Thẩm phán chủ động tiến hành thủ

tục hòa giải.

Hòa giải viên thường trực là Hòa giải viên có quyền hạn giải quyết các

vụ việc hòa giải như Thẩm phán phụ trách hòa giải. Khác với Hòa giải viên

thông thường là Hòa giải viên làm việc ở một ngành nghề khác và chỉ đến

Tòa án để giải quyết vụ việc hòa giải mỗi khi có vụ việc hòa giải. Cùng với

việc thực hiện chế định Hòa giải viên thường trực, Tòa án các cấp đã thành

lập trung tâm hòa giải là nơi các Hòa giải viên thường trực làm việc nhằm xử

lý hiệu quả công việc hòa giải.

Hòa giải viên phụ trách là Hòa giải viên đến tòa làm việc theo các thứ

trong tuần hoặc hai đến ba ngày một tuần và thực hiện công tác hòa giải. Hiện

tại, tất cả mọi Tòa án ở Hàn Quốc đang thực hiện chế định này. Hòa giải viên

phụ trách đảm bảo tính liên tục của công việc thông qua công tác định kỳ tại

Tòa án, nhận ủy thác tiến hành công việc từ Thẩm phán phụ trách hòa giải và

tiến hành thủ tục hòa giải theo phương thức tiến hành hòa giải bởi một Hòa

giải viên trên thực tế. Khác với Hòa giải viên thường trực, Hòa giải viên phụ

trách không có quyền hạn thực hiện thủ tục hòa giải một cách độc lập.

- Trình tự, thủ tục hòa giải:

+ Bắt đầu thủ tục hòa giải: Vụ án yêu cầu hòa giải: khi vụ án được tiếp

nhận, Thẩm phán phụ trách hòa giải phân loại vụ án theo nội dung của vụ án

rồi phân loại vụ việc hòa giải mà bản thân trực tiếp giải quyết và vụ án Hòa

giải viên thường trực giải quyết.

Vụ án được đưa ra hòa giải: vụ án mà HĐXX nếu thấy cần thiết quyết

định đưa ra hòa giải trong quá trình giải quyết rồi tiến hành thủ tục hòa giải.

25

Quyết định của HĐXX không cần có sự đồng ý của đương sự. Đây cũng là

quy định khuyến khích, tạo cơ hội để được hòa giải, nhờ đó mà số vụ việc hòa

giải tăng mạnh. Không có quy định, tiêu chuẩn, nguyên tắc nào để lựa chọn

vụ án đưa ra hòa giải. Các yếu tố thường được xem xét, đánh giá như tỷ lệ hòa

giải thành loại hình vụ án, nội dung vụ án, ý chí của đương sự, mối quan hệ

giữa các đương sự…

+ Tiến hành hòa giải: Trong số những vụ án yêu cầu hòa giải và vụ án

được đưa ra hòa giải, vụ án do Thẩm phán phụ trách hòa giải giải quyết được

tiến hành theo: hình thức Thẩm phán phụ trách hòa giải trực tiếp tiến hành

hòa giải; hình thức Hòa giải viên thường trực trực tiếp tiến hành hòa giải; hình

thức ban hòa giải tiến hành thủ tục hòa giải; phương thức tiến hành hòa giải

bởi một Hòa giải viên mà Hòa giải viên phụ trách hoặc Hòa giải viên tiến

hành thủ tục hòa giải trên thực tế; hòa giải liên kết ngoài Tòa án do cơ quan

giải quyết tranh chấp bên ngoài tiến hành thủ tục hòa giải trên thực tế. Thẩm

phán phụ trách hòa giải hoặc HĐXX quyết định tiến hành hòa giải theo

phương thức nào.

+ Kết thúc hòa giải: Trường hợp vụ án không phù hợp với hòa giải

hoặc trường hợp đương sự yêu cầu hòa giải với mục đích không chính đáng,

Thẩm phán phụ trách hòa giải có thể kết thúc vụ án bằng "Quyết định không

tiến hành hòa giải". Trường hợp khi các đương sự đạt được thỏa thuận, nội

dung đó được viết vào biên bản và cùng lúc đó thủ tục hòa giải kết thúc.

Trường hợp các đương sự không đạt được thỏa thuận, người hòa giải như

Thẩm phán phụ trách hòa giải có thể kết thúc vụ án bằng "Quyết định thay

cho hòa giải" hoặc hòa giải không thành. Nếu kết thúc bằng hòa giải không

thành thì thủ tục hòa giải kết thúc.

1.3.3. Hòa giải tại Đức

Ở Đức, Luật Hòa giải được thông qua vào ngày 21/7/2012 (có hiệu

lực từ ngày 26/7/2012, được sửa đổi ngày 31/8/2015). Theo Luật này, hòa giải

26

là một thủ tục tin cậy và được tiến hành theo trình tự mà qua đó các bên có

tranh chấp, với sự trợ giúp của một hoặc nhiều Hòa giải viên, tự nguyện và tự

chịu trách nhiệm thống nhất giải quyết tranh chấp đó. Số lượng vụ án dân sự

hòa giải tại Tòa án ở Đức khá cao, chiếm khoảng 50% số việc hòa giải.

- Phạm vi hòa giải tại Tòa án:

Hòa giải tại Tòa án được áp dụng cho tất cả vụ án dân sự, hành chính,

lao động và an sinh xã hội (trừ án hình sự). Hòa giải tại Tòa chỉ tiến hành khi

có đơn khởi kiện và đã được Tòa thụ lý trong phạm vi thẩm quyền của mình.

- Chính sách của nhà nước đối với hoạt động hòa giải:

Để khuyến khích hòa giải, nhà nước phải dự kiến ngân sách bổ sung

cho Tòa án thực hiện dịch vụ hòa giải như đầu tư cho các Thẩm phán hòa

giải, đào tạo bổ sung kỹ năng đào tạo, cung cấp tranh thiết bị cho các phòng

hòa giải tại Tòa (khác với thiết kế phòng xử án)…

Liên bang và các tiểu bang có thể thỏa thuận với nhau về các dự án

nghiên cứu khoa học nhằm cung cấp sự hỗ trợ tài chính cho việc hòa giải ở

các bang.

Lệ phí hòa giải: Hòa giải ngoài Tòa phải trả phí; hòa giải tại Tòa thì

không phải nộp phí phát sinh ngoài án phí đã nộp cho Tòa án khi khởi kiện.

- Chủ thể tiến hành hoạt động hòa giải:

Hòa giải trong tố tụng tại Tòa án được tiến hành bởi Thẩm phán xử lý

vụ việc, nếu hòa giải thành thì Tòa sẽ ra quyết định hòa giải thành;

Hòa giải trước quá trình tố tụng tại Tòa án được tiến hành bởi một

Thẩm phán hòa giải.

- Trình tự, thủ tục hòa giải:

+ Bắt đầu hòa giải: Thủ tục hòa giải được tiến hành ở Tòa sơ cấp và

Tòa trung cấp, tại các phiên sơ thẩm và phúc thẩm và tại Tòa cấp cao. Sau khi

thụ lý, lãnh đạo Tòa án gợi ý các bên tiến hành hòa giải bởi một Thẩm phán

tại Tòa, họ chuyển vụ việc đã thụ lý cho một Thẩm phán hòa giải. Việc hòa

27

giải được tiến hành khi các bên chấp thuận hòa giải, khi đó thủ tục tố tụng tại

Tòa tạm dừng.

+ Tiến hành hòa giải: Các bên có tranh chấp lựa chọn Hòa giải viên.

Hòa giải viên phải bảo đảm các bên tranh chấp đã tìm hiểu về nguyên tắc,

trình tự và thủ tục của quá trình hòa giải và tự nguyện tham gia hòa giải. Hòa

giải viên hỗ trợ việc liên hệ giữa các bên và bảo đảm là các bên này tuân thủ

đúng mực và hợp lý nội dung hòa giải. Hòa giải viên cũng có thể thống nhất

với các bên có tranh chấp để tiến hành các cuộc trao đổi riêng rẽ với từng bên.

Ngoài các bên tranh chấp thì bên thứ ba chỉ được tham gia vào quá trình hòa

giải khi được các bên có tranh chấp đồng ý. Các bên tranh chấp có thể chấm

dứt việc hòa giải bất kỳ lúc nào. Hòa giải viên cũng có thể chấm dứt hòa giải

nếu nhận thấy các bên không thể đi đến thống nhất về việc giải quyết tranh

chấp. Trường hợp đạt được thỏa thuận thì Hòa giải viên tác động để các bên

nắm được sự việc, hiểu được nội dung của thỏa thuận và tự đưa ra thỏa thuận.

Hòa giải viên cũng lưu ý các bên có tranh chấp tham gia hòa giải và không có

tư vấn chuyên môn, có thể nhờ tư vấn chuyên môn bên ngoài kiểm tra thỏa

thuận hòa giải, nếu có nhu cầu. Nếu các bên nhất trí thì thỏa thuận đạt được

có thể được đưa vào một văn bản cuối cùng.

- Công nhận kết quả hòa giải thành:

Đối với hòa giải trước tố tụng tại Tòa, nếu hòa giải thành, các bên có

thể đề nghị Tòa án thông qua một quyết định công nhận hòa giải thành.

1.3.4. Quá trình hình thành và phát triển hòa giải tranh chấp dân

sự tại Việt Nam

Trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, phương thức hòa giải luôn tồn

tại với các cộng đồng người Việt và trở thành một trong những thiết chế

truyền thống để giải quyết các tranh chấp. Ngay từ thời phong kiến, với đặc

điểm của quốc gia thuần nông, các quan hệ pháp luật dân sự, thương mại

không thực sự phát triển, các quy định về pháp luật dân sự chỉ là một bộ phận

28

trong một đạo luật chung của triều đình với các quy định pháp luật hình sự

đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, các quy định về hòa giải đã hình thành, điển

hình là trong Quốc triều Hình luật (Bộ luật Hồng Đức) - Điều 672 của Bộ luật

này quy định ở cấp xã, xã quan xử những vụ tranh chấp nhỏ nhặt trong làng

xã với mục đích nhằm hòa giải giữa các đương sự, giảm bớt các vụ kiện tụng,

loại bớt gánh nặng cho các quan chức cấp trên. Trong Bộ luật Gia Long (thời

Nguyễn) cũng quy định buộc cấp xã giải quyết các vụ việc nhỏ, các tranh

chấp xích mích giữa các bên bằng hòa giải. Bên cạnh các quy định trong pháp

luật của triều đình, lệ làng, hương ước cũng có nhiều quy định về hòa giải phù

hợp với tâm lý, tình cảm, với truyền thống trọng tình, trọng đức, trọng văn

trong văn hóa của người Việt để giải quyết các tranh chấp dựa trên sự tự

nguyện, hợp tác và thiện chí giữa các bên mà không sử dụng quyền lực để áp

đặt với nhau.

Sau Cách mạng tháng Tám thành công, thể lệ hòa giải cũng được giữ

lại và cũng được coi là một giai đoạn tố tụng bắt buộc. Nghiên cứu quá trình

hình thành và phát triển của hoạt động hòa giải vụ án dân sự trong quá trình

xây dựng Nhà nước và pháp luật Việt Nam có thể thấy được vị trí và tầm quan

trọng của hòa giải trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Cuộc cải cách Tư

pháp lần thứ nhất bắt đầu với việc lập hội đồng hòa giải ở cấp huyện và sau

đó là việc ban hành các Sắc lệnh, Thông tư quy định về vấn đề hòa giải trong

TTDS. Văn bản pháp luật đầu tiên tại Việt Nam quy định về hòa giải là Sắc

lệnh số 13 về tổ chức Tòa án ngày 21/01/1946, quy định: "Ban tư pháp xã có

quyền hòa giải tất cả các vụ việc dân sự và thương mại. Nếu hòa giải được Ban

tư pháp xã có thể lập biên bản hòa giải có các ủy viên và những đương sự ký".

Khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới với sự phát triển kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, các quan hệ xã hội ngày

càng đa dạng và phức tạp hơn trước, nhu cầu giải quyết nhanh chóng, kịp thời

và đúng pháp luật các tranh chấp dân sự là cần thiết. Việc giải quyết các tranh

29

chấp, yêu cầu dân sự cần thiết phải được điều chỉnh bằng một văn bản thống

nhất và có hiệu lực pháp lý cao. Trước yêu cầu đó, Pháp lệnh Thủ tục giải

quyết các vụ án dân sự đã được Hội đồng Nhà nước thông qua ngày

29/11/1989 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1990. Đây là văn bản pháp

luật TTDS có hiệu lực pháp lý cao nhất từ trước tới bấy giờ. Tại Điều 43,

Điều 44 Pháp lệnh đã quy định về hòa giải và thủ tục hòa giải. Pháp lệnh Thủ

tục giải quyết các vụ án dân sự và các hướng dẫn việc thực hiện các quy định

về hòa giải trong Pháp lệnh này đã tạo thành khung pháp lý quan trọng trong

pháp luật TTDS nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hòa

giải các vụ án dân sự.

Trong giai đoạn xây dựng đất nước, sự ra đời của BLTTDS 2005 cũng

như BLTTDS 2015 là sự kiện quan trọng trong đời sống pháp luật Việt Nam,

đánh dấu những bước phát triển của pháp luật TTDS. Ngoài ra, Luật hòa giải

ở cơ sở 2013, Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/02/2017 của Chính phủ

về hòa giải thương mại, Hòa giải giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,

dịch vụ và người tiêu dùng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người

tiêu dùng... là những văn bản pháp luật được cập nhật để giúp cho hoạt động

hòa giải được tốt hơn. Với chủ trương khuyến khích việc giải quyết tranh

chấp thông qua thương lượng, hòa giải, các nhà làm luật đã rất chú trọng

trong việc quy định các điều khoản về hòa giải theo hướng quy định chi tiết,

cụ thể và mở rộng hơn, đồng thời luôn đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự

định đoạt của đương sự. Như vậy, có thể thấy hòa giải là một hoạt động được

thực hiện xuyên suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án dân sự.

Tiểu kết chƣơng 1

Tại Chương 1, tác giả đã tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về

hòa giải tranh chấp dân sự như khái niệm, phân loại, đặc điểm, ý nghĩa của

hòa giải tranh chấp dân sự (tập trung vào ba loại hình hòa giải đó là: Hòa giải

tại Tòa án, Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án và Hòa giải ở cơ sở).

30

Việc phân tích này đã góp phần khẳng định sự cần thiết và ý nghĩa quan trọng

của hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự hiện nay. Đồng thời, trong chương

này, tác giả cũng đã nêu ra kinh nghiệm về hòa giải của một số nước trên thế

giới, từ đó rút ra một số kinh nghiệm nên áp dụng tại Việt Nam như: cần sớm

ban hành Luật Hòa giải nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống

pháp luật; Mở rộng thêm nhiều Trung tâm hòa giải tại Tòa án, ngoài tố tụng

giảm bớt áp lực cho hệ thống Tòa án khi giải quyết các tranh chấp dân sự;

Cần có sự kết nối giữa hòa giải tại tòa án và các hình thức hòa giải khác,

phạm vi ứng dụng và chức năng của Phương thức giải quyết tranh chấp thay

thế (ADR) cần được mở rộng và việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ

cho Hòa giải viên là rất quan trọng, cần có chương trình, tài liệu cụ thể cho

từng đối tượng làm công tác hòa giải, bảo đảm sự tương thích giữa tính chất

phức tạp của các tranh chấp ngày càng tăng với trình độ của Hòa giải viên.

Ngoài ra, việc nghiên cứu những vấn đề này sẽ giúp cho chúng ta có một cái

nhìn toàn diện và sâu sắc hơn khi nghiên cứu pháp luật hiện hành về hòa giải

tranh chấp dân sự. Những nội dung được trình bày trong Chương 1 sẽ là cơ

sở, tiền đề cho việc phân tích, đánh giá luật thực định, thực tiễn thực hiện hòa

giải tranh chấp dân sự và đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện và bảo đảm

thực hiện có hiệu quả hoạt động này.

31

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP DÂN SỰ

2.1. Thực trạng quy định pháp luật

2.1.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự

2.1.1.1. Chủ thể hòa giải

a. Thẩm phán

Thẩm phán chính là người chủ trì phiên hòa giải. Thẩm phán là người

xây dựng kế hoạch hòa giải, chủ động xác định thời gian, địa điểm, nội dung,

thành phần hòa giải, hướng dẫn, giải thích pháp luật, nội dung tranh chấp, từ

đó giúp đỡ các đương sự họ để có thể thỏa thuận được với nhau các vấn đề còn

xung đột, tranh chấp, mâu thuẫn trong vụ án. Điều 208, Điều 209, Điều 210

BLTTDS năm 2015 đã quy định cụ thể những công việc mà Thẩm phán phải

tiến hành tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ

và hòa giải, đó là phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật

có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ

của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành hoặc không thành

để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Phiên họp bảo

đảm sự minh bạch, công khai để đương sự trong vụ án có cơ hội tiếp cận toàn

bộ chứng cứ, tài liệu một cách bình đẳng, trực tiếp từ đó phân tích, nhận định

một cách toàn diện, khách quan vụ án, những điểm có lợi, bất lợi đối với mình

tạo tiền đề giúp buổi hòa giải đạt được hiệu quả cao nhất.

b. Thư ký Tòa án

Thư ký Tòa án đóng vai trò là người trợ giúp Thẩm phán, báo cáo

Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp và

ghi biên bản hòa giải. Biên bản hòa giải có ý nghĩa quan trọng về thủ tục, là

cơ sở để Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo

32

quy định của pháp luật. Việc ghi biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải của thư ký phải đầy đủ nội dung theo

Điều 211 BLTTDS năm 2015.

Như vậy, việc hòa giải là nhằm giúp cho các đương sự thực hiện

quyền tự định đoạt của họ và làm cho việc giải quyết vụ án đạt được hiệu quả

cao mà không phải xét xử. Vì vậy, BLTTDS quy định rất rõ là người tiến

hành hòa giải phải là Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, còn Thư

ký chỉ là người giúp việc và phải có mặt trong phiên hòa giải để ghi biên bản

hòa giải. Việc quy định này là cần thiết vì hòa giải là để cho đương sự tự giải

quyết với nhau trước bằng cách thương lượng thỏa thuận và sự thỏa thuận này

phải được Tòa án công nhận bằng một quyết định và quyết định này có giá trị

bắt buộc đối với các bên đương sự và nó cũng đòi hỏi cả sự tôn trọng của xã hội.

2.1.1.2. Phạm vi hòa giải

a. Những vụ án dân sự không được hòa giải

Những vụ án dân sự không được hòa giải là những vụ án mà pháp luật

không cho phép hòa giải vì việc hòa giải trái với mục đích xét xử của các vụ

án này bởi nếu hòa giải là đồng nghĩa với việc tạo điều kiện cho các bên vi

phạm pháp luật hoặc việc hòa giải dễ bị lợi dụng để xâm phạm tài sản công.

Đối với những vụ án này, Tòa án không thông báo hòa giải, không tổ chức

hòa giải và trong hồ sơ vụ án không có biên bản hòa giải. Điều 206 BLTTDS

2015 quy định những vụ án dân sự không được hòa giải bao gồm: yêu cầu đòi

bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước và những vụ án dân

sự phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức

xã hội.

Thứ nhất, đối với yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài

sản của Nhà nước. Tòa án không tiến hành hòa giải vì tài sản của Nhà nước

thuộc sở hữu toàn dân. Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của

Nhà nước là trường hợp tài sản của Nhà nước bị thiệt hại do hành vi trái pháp

33

luật, do hợp đồng vô hiệu, do vi phạm nghĩa vụ dân sự… gây ra và người

được giao chủ sở hữu đối với tài sản của Nhà nước đó có yêu cầu đòi bồi

thường. Vì đối tượng bị gây thiệt hại ở đây là tài sản của Nhà nước, thuộc sở

hữu toàn dân mà do đó bất cứ hành vi nào gây thiệt hại đến tài sản của Nhà

nước đều là trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường. Người gây

thiệt hại không có quyền điều đình, thương lượng thỏa thuận với Nhà nước về

trách nhiệm bồi thường của mình. Tuy nhiên, nếu người gây thiệt hại tự

nguyện bồi thường và việc bồi thường phù hợp với pháp luật thì Tòa án có thể

chấp nhận. Theo hướng dẫn tại Điều 15 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP

ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một

số quy định trong phần thức hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ

thẩm" của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của BLTTDS (sau đây gọi tắt là "Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP")

thì phạm vi hòa giải đối với vụ án yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài

sản của Nhà nước quy định như sau:

Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn

vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước do Nhà

nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có

yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại tài sản này, Tòa án không được hòa

giải để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh

nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư

của các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư

mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài

sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản

xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó,

Tòa án tiến hành hòa giải để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc

giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

34

Sở dĩ khi có yêu cầu bồi thường thiệt hại liên quan đến tài sản của Nhà

nước góp vốn tại các loại hình doanh nghiệp thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải

trước khi mở phiên tòa sơ thẩm bởi lẽ tài sản nhà nước góp vốn theo Luật Doanh

nghiệp vào các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thì các doanh

nghiệp này phải có quyền tự chủ, tự quyết đối với tài sản của doanh nghiệp mình.

Do đó mà việc hòa giải khi có tranh chấp xảy ra trong trường hợp này là phù

hợp với quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp.

Thứ hai, đối với những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự vi

phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. Tòa án cũng không được

hòa giải các vụ án này. Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự (BLDS)

năm 2015 thì giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của

pháp luật và trái đạo đức xã hội thì giao dịch đó là giao dịch vô hiệu. Hậu quả

pháp lý của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 137 BLDS năm 2015 cụ

thể như sau: "giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm

dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khôi

phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận". Vì vậy,

các bên tham gia giao dịch không thể thỏa thuận để tiếp tục thực hiện hành vi

vi phạm pháp luật của mình. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay nhiều giao

dịch dân sự trái pháp luật có những nguyên nhân khách quan nên khi giải

quyết vụ án Tòa án phải xem xét thận trọng để bảo vệ quyền lợi chính đáng

của đương sự. Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số

05/2012/NQ-HĐTP:

Tòa án không được hòa giải, nếu việc hòa giải nhằm mục

đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường hợp các

bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô

hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Tòa án vẫn phải

tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải

quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó [18].

35

Bởi việc tiến hành hòa giải trong trường hợp này là việc thống nhất

phương thức khôi phục lại tình trạng ban đầu của giao dịch dân sự hoặc

phương án hoàn trả lại tài sản.

b. Những vụ án không tiến hành hòa giải được

Thực tiễn hòa giải xuất hiện những trường hợp mặc dù vụ án dân sự

đó phải hòa giải nhưng do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan mà

Tòa án không thể tiến hành được hoạt động hòa giải. Đây là những trường

hợp không tiến hành hòa giải được. Theo quy định tại Điều 207 BLTTDS

năm 2015, những vụ án không tiến hành hòa giải được bao gồm các trường

hợp sau:

Thứ nhất, trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt. Bị

đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chủ thể bị động và bất lợi khi

tham gia tố tụng và thường có ý thức trốn tránh. Đối với chủ thể này thì chỉ

cần có dấu hiệu cố tình vắng mặt không tham gia hòa giải đến hai lần mà

không cần xét tới lý do vắng mặt thì pháp luật cho phép Tòa án tiếp tục tiến

hành giải quyết vụ án mà không cần hòa giải. Việc không tiến hành hòa giải

được trong trường hợp này là do ý chí chủ quan của bị đơn. Vị thế của bị đơn

là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khởi

kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự. Vị thế của người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng

việc giải quyết vụ án dân sự có quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Có thể nhận thấy

một điểm chung giữa vị thế của bị đơn và vị thế của người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan là đa phần họ đều ở thế bị động trong vụ án dân sự. Do đó, khi

Tòa án triệu tập hòa giải đến lần thứ hai mà họ vẫn cố tình vắng mặt có nghĩa

là họ không hề có thiện chí muốn hòa giải và việc tiếp tục triệu tập hòa giải

cho đến khi có mặt đầy đủ của các đương sự chỉ là sự lãng phí thời gian dẫn

đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án mà không đạt được hiệu quả như mong

36

muốn. Do đó, trong trường hợp này, Tòa án lập biên bản về việc vụ án không

tiến hành hòa giải được và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Thứ hai, nếu đương sự vắng mặt với lý do chính đáng mà không thể

tham gia phiên hòa giải được thì trong trường hợp này Tòa án vẫn phải quyết

định đưa vụ án ra xét xử mà không tiến hành hòa giải được. Đương sự ở đây

được hiểu là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Lý do chính đáng là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác

xảy ra như: do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện,

một bên đương sự đang ở trong trại cải tạo hoặc ở nước ngoài hoặc do nơi cư

trú của các đương sự ở các nơi có khoảng cách địa lý xa nhau đi lại khó khăn,

chi phí tốn kém... khiến cho đương sự không thể có mặt tham gia phiên hòa

giải được. Khác với trường hợp trên, trường hợp này, việc không tiến hành

hòa giải được là do sự tác động của các yếu tố khách quan dẫn đến việc các

đương sự dù muốn hay không cũng không thể tham gia hòa giải. Việc gặp

phải trở ngại khách quan hay trường hợp bất khả kháng có thể xảy ra đối với

bất kỳ ai, dù là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan. Do vậy có thể hiểu rằng, trường hợp có nguyên đơn, hoặc bị đơn, hoặc

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thể tham gia hòa giải được vì có

lý do chính đáng thì đều thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.

Thứ ba, trường hợp đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là

người mất năng lực hành vi dân sự thì Tòa án cũng không tiến hành hòa giải

được. Quan hệ hôn nhân là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân và

không thể chuyển giao hay ủy quyền cho cá nhân khác đại diện tham gia. Khi

giải quyết vụ án ly hôn mà một bên là vợ hoặc chồng là người mất năng lực

hành vi dân sự thì thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được bởi một

người mất năng lực hành vi dân sự là một người do bị bệnh tâm thần hoặc

mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi và có quyết

định của Tòa án tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên

37

cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần. Người mất năng lực hành vi dân sự

không thể hiện được ý chí, suy nghĩ của bản thân nên việc tổ chức phiên hòa

giải cũng không có giá trị và không đạt được mục đích của hòa giải. Trường

hợp này Tòa án không tiến hành hòa giải mà Tòa án sẽ xét xử trên cơ sở

chứng cứ của hồ sơ.

Thứ tư, một trong các đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải: Để

đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên đương sự, xuất phát từ thực tiễn xét

xử, BLTTDS 2015 đã bổ sung trường hợp khi giải quyết vụ án dân sự mà một

trong các bên đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải thì Tòa án không

phải tiến hành hòa giải. Quy định này là phù hợp, tôn trọng quyền tự định

đoạt của đương sự, thể hiện rõ bản chất của vụ án dân sự "Việc dân sự cốt ở

đôi bên". Bởi khi đương sự có đề nghị không tiến hành hòa giải đã thể hiện ý

chí không thiện chí hòa giải nên việc tổ chức phiên hòa giải cũng mang tính

hình thức không có hiệu quả trong thực tiễn.

Trong tất cả những trường hợp không hòa giải được, Tòa án đều phải

lập biên bản không hòa giải được, trong hồ sơ vụ án phải có tài liệu chứng minh

đầy đủ lý do không hòa giải được, sau đó đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa. Ví

dụ: Đối với trường hợp bị đơn đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để hòa giải mà

vẫn cố tình vắng mặt thì tại hồ sơ phải có tài liệu thể hiện Tòa án đã triệu tập

hợp lệ hai lần và phải lập biên bản hòa giải không được; đối với các trường hợp

có lý do chính đáng khác thì trong hồ sơ cũng phải có những tài liệu thể hiện lý

do đó… Như vậy, trong các trường hợp này, Tòa án không ra quyết định công

nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, trong trường hợp các đương sự

tự hòa giải hoặc rút đơn kiện mà qua việc kiểm tra thấy hoàn toàn tự nguyện

và phù hợp với những quy định của pháp luật, Tòa án có thể ra quyết định

đình chỉ việc giải quyết vụ án theo khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015.

Như vậy, những trường hợp không hòa giải được là những trường hợp

liên quan đến việc vắng mặt của đương sự và liên quan đến ý chí, năng lực

38

hành vi của đương sự. Trong những trường hợp này nếu Tòa án cố tình hòa

giải thì việc hòa giải cũng không đạt kết quả và mục đích của hòa giải. Quy

định này của BLTTDS giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng,

thuận tiện.

2.1.1.3. Thủ tục hòa giải

a. Thủ tục hòa giải trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

- Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

chứng cứ và hòa giải (Điều 208 BLTTDS)

Trước khi mở phiên họp kiểm tra và phiên hòa giải, Thẩm phán được

giao nhiệm vụ giải quyết vụ án phải thông báo cho đương sự, người đại diện,

người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm

tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp. Tuy nhiên, BLTTDS không

quy định cụ thể thời gian, địa điểm để tiến hành mở phiên họp, số lượng phiên

họp vì vậy Thẩm phán có thể tổ chức phiên họp vào bất cứ thời điểm nào

trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sau khi Thẩm phán cho rằng tài liệu chứng cứ

đã đầy đủ, nội dung quan hệ tranh chấp đã được xác định rõ… Về địa điểm

tiến hành mở phiên họp sẽ được tổ chức tại trụ sở Tòa án nơi giải quyết vụ án.

Trong một số trường hợp cần thiết hoặc để tạo điều kiện thuận lợi cho các

đương sự Thẩm phán có thể tổ chức phiên họp ngoài trụ sở Tòa án, cũng

giống với việc thu thập lấy lời khai ngoài trụ sở thì phiên họp cần phải có sự

chứng kiến và xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường,

thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản. Nội dung biên bản phiên họp

được thực hiện theo Điều 211 BLTTDS. Thẩm phán có thể mở một phiên họp

duy nhất (khi có đủ điều kiện theo quy định), hoặc mở nhiều phiên họp (khi

xét thấy các bên có thể hòa giải được) tuy nhiên số lượng phiên họp cần được

tổ chức hợp lý để không làm mất nhiều thời gian công sức của đương sự.

Thông báo về nội dung phiên họp kiểm tra: Thẩm phán cần thông báo

tới đương sự các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; phạm vi yêu cầu của các đương

39

sự… để đương sự chủ động hơn trong việc tự mình thu thập tài liệu, giao nộp

bổ sung chứng cứ, đề nghị Tòa án tiến hành xác minh thu thập thêm chứng cứ

hoặc sửa đổi bổ sung, rút yêu của mình tại phiên họp.

Thông báo về nội dung phiên hòa giải: Thẩm phán cần phải nêu cụ thể

nội dung các vấn đề cần hòa giải giữa các đương sự. Nội dung này cần phải

đầy đủ rõ ràng những vấn đề mà các bên đã thống nhất, vấn đề các bên chưa

thống nhất được xác định trong quá trình lấy lời khai và nghiên cứu hồ sơ tài

liệu của Thẩm phán.

- Thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

chứng cứ và hòa giải (Điều 209 BLTTDS)

Thành phần tham dự phiên họp bao gồm: Thẩm phán được phân công

giải quyết vụ án chủ trì phiên họp, thư ký ghi biên bản, các đương sự hoặc

người đại diện hợp pháp của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự (nếu có), người phiên dịch (nếu có). Hoặc trong trường

hợp cần thiết Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức có liên quan

tham gia phiên họp là những người được tín nhiệm, có chuyên môn, nhiều

kinh nghiệm liên quan tới nội dung tranh chấp mà khi họ tham gia phiên hòa

giải sẽ đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên vì họ không phải là đương sự trong vụ án

nên Thẩm phán vẫn phải tiến hành hòa giải khi họ vắng mặt.

Các đương sự phải tham gia phiên họp theo thông báo của Tòa án.

Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án

triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến

hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, không

tiến hành phiên hòa giải (thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được) và

thông báo kết quả phiên họp cho đương sự vắng mặt.

Trong vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt, nhưng các

đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp

đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm

40

phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt. Để bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp cho đương sự vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ

nhất, Thẩm phán phải mở lại phiên họp và thông báo nội dung phiên họp

trước đó cho đương sự.

Trong trường hợp, các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có

mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên họp và

thông báo việc hoãn và thời gian mở lại phiên họp cho đương sự (thời gian

mở lại không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử).

- Các vấn đề cần làm rõ tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,

công khai chứng cứ và hòa giải

Giao nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án: Là quyền và cũng là nghĩa vụ

của đương sự để chứng minh cho yêu cầu của mình. Kiểm tra việc giao nộp

tài liệu chứng cứ là việc xem xét các chứng cứ được các đương sự giao nộp

cho Tòa án có đầy đủ, hợp lệ hay không. Tài liệu chứng cứ có thể do các

đương sự tự mình thu thập hoặc các văn bản thể hiện quan điểm của mình về

nội dung vụ án. Khi giao nộp Tòa án phải lập biên bản về việc giao nộp tài

liệu chứng cứ theo quy định tại Điều 96 BLTTDS.

Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ: Là việc các đương sự có quyền được

biết, được ghi chép, được sao chụp tài liệu trong hồ sơ (khoản 8 Điều 70);

Được thông báo về những tài liệu mà Tòa án thu thập được (khoản 5 Điều 97).

Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải sao gửi tài

liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác (khoản 5 Điều 96) trên thực tế rất ít khi

đương sự thực hiện nghĩa vụ này và cũng rất khó để xác minh được họ đã

thực hiện đầy đủ hay không, trong khi BLTTDS không quy định cụ thể việc

thực hiện cũng như hậu quả pháp lý của việc không thực hiện nghĩa vụ sao

gửi tài liệu cho những đương sự khác. Kiểm tra việc tiếp cận chứng cứ nhằm

giúp các đương sự biết được các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn

cứ vào đó thể đưa ra những lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình.

41

Kiểm tra việc công khai tài liệu của Tòa án: Các tài liệu chứng cứ mà

Tòa án đã thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án như: Biên bản lấy lời

khai, đối chất của các đương sự, kết quả trưng cầu giám định, định giá tài sản,

xem xét thẩm định tại chỗ (nếu có)… và tài liệu chứng cứ khác do đương sự

giao nộp phải được Tòa án công khai. Từ đó đương sự có thể yêu cầu Tòa án

tiến hành thu thập thêm tài liệu chứng cứ hoặc giao nộp thêm tài liệu chứng

cứ cho Tòa án nếu thấy cần thiết hoặc yêu cầu Tòa án công khai tài liệu chứng

cứ đương sự đã giao nộp nhưng không được công khai (trừ những tài liệu

không được công khai) mà không có trong hồ sơ vụ án.

Nội dung Phiên hòa giải: Hòa giải là việc các đương sự tự thống nhất

với nhau về việc giải quyết toàn bộ hoặc một số vấn đề trong vụ án qua đó

làm rõ yêu cầu của đương sự, căn cứ mà các bên đưa ra để chứng minh cho

yêu cầu của mình, những ý kiến đối đáp của các bên để làm sáng tỏ nội dung

tình tiết trong vụ án… Kết quả của Phiên hòa giải còn mang ý nghĩa làm rõ

yêu cầu, các tình tiết, quan hệ tranh chấp, những vấn đề các bên đã thống nhất

và chưa thống nhất giúp cho HĐXX giải quyết vụ án đúng đắn trong trường

hợp phải mở phiên tòa xét xử, từ đó nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động

của Tòa án.

Trước khi kết thúc phiên hòa giải Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải

xem xét lập biên bản hòa giải thành hoặc không thành về việc giải quyết vụ án

tại phiên hòa giải.

b. Thủ tục hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm

Thủ tục hòa giải là thủ tục bắt buộc phải tiến hành trong thời hạn

chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, việc không tiến hành hòa giải và hòa giải không

thành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không làm mất đi quyền tự thỏa thuận,

định đoạt của các đương sự. Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm các

bên đương sự vẫn có quyền tự thỏa thuận và Tòa án luôn khuyến khích tạo

điều kiện để các bên hòa giải, tự thỏa thuận.

42

Tại phiên tòa sơ thẩm, pháp luật tố tụng không buộc Tòa án phải tiến

hành phiên hòa giải theo trình tự, thủ tục quy định tại Chương III của

BLTTDS 2015; tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào việc pháp luật tố tụng không có

quy định trực tiếp về hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm để cho rằng tại phiên tòa

sơ thẩm thì hoạt động hòa giải không diễn ra là không chính xác. Bởi mặc dù

pháp luật tố tụng không có quy định trực tiếp về việc hòa giải nhưng việc hòa

giải vẫn hiện hữu thông qua việc Chủ tọa phiên tòa hỏi các đương sự có thỏa

thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không? (khoản 1 Điều 246

BLTTDS 2015). Việc Tòa án hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau

về việc giải quyết vụ án thực chất là việc Tòa án kiểm tra, xác thực lại xem

các đương sự có tự hòa giải được với nhau hay không.

Điểm khác biệt của hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm so với trong thời

hạn chuẩn bị xét xử chính là sự chủ động, vai trò của Tòa án đối với việc hòa

giải của các đương sự. Hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm được coi như việc các

đương sự tự chủ động tìm sự đồng nhất trong quan điểm giải quyết vụ án,

trong trường hợp này Tòa án chỉ là bên công nhận sự thỏa thuận của các

đương sự nếu sự thỏa thuận này không vi phạm điều cấm của luật và không

trái đạo đức xã hội. Các đương sự tự mình thương lượng với nhau về các vấn

đề của vụ án, tự gặp nhau để giải quyết tranh chấp không phụ thuộc vào thời

gian, địa điểm nhất định về trình tự, thủ tục, hoàn toàn không có sự tham gia

của Tòa án.

Đến phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa kiểm chứng lại

sự thỏa thuận của các đương sự, trong trường hợp các đương sự thỏa thuận về

việc giải quyết vụ án thì HĐXX ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của

các đương sự. Việc hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm cần phải lưu ý một số nội

dung sau:

Về thời điểm hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm: Căn cứ theo quy định tại

BLTTDS 2015 thì việc hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc

43

giải quyết vụ án hay không do Chủ tọa phiên tòa hỏi và được thực hiện trong

phần thủ tục bắt đầu phiên tòa (Điều 246, mục 2, Chương XIV BLTTDS 2015).

Sau khi tiến hành khai mạc phiên tòa và thực hiện các thủ tục theo Điều 239

BLTTDS 2015, Chủ tọa phiên tòa hỏi và giải quyết về việc thay đổi, bổ sung,

rút yêu cầu; Chủ tọa phiên tòa tiến hành hỏi các đương sự có thỏa thuận được

với nhau về việc giải quyết vụ án hay không. Việc hỏi các đương sự có thỏa

thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không là hoạt động cuối trong

phần thủ tục bắt đầu phiên tòa; việc các đương sự không hòa giải được trong

giai đoạn này chính là tiền đề cho hoạt động tiếp theo là tranh tụng tại phiên tòa.

Mặc dù BLTTDS 2015 đã quy định rõ việc hỏi các đương sự có thỏa

thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án hay không được thực hiện tại

thủ tục bắt đầu phiên tòa, nhưng tại phần III - Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa

của Biểu mẫu số 48 Ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP

ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về mẫu Biên bản phiên

tòa sơ thẩm là không có nội dung thể hiện việc hỏi này. Tại phần III biểu mẫu

số 48, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã quy định cứng các nội dung trong

phần này mà không hề có nội dung mở để người sử dụng có thể bổ sung nội

dung như các phần khác trong biểu mẫu. Đây chính là điểm hạn chế trong

biểu mẫu số 48 ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày

13/012017 cần được Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem xét sửa đổi.

c. Thủ tục hòa giải tại cấp phúc thẩm

Tương tự như tại phiên tòa sơ thẩm, khi quá trình tố tụng đến giai

đoạn phiên tòa phúc thẩm thì các đương sự vẫn không mất quyền tự thỏa

thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên do tính chất của xét xử

phúc thẩm là việc Tòa án cấp phúc thẩm trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,

quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo,

kháng nghị nên việc hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm có một số điểm khác

biệt cần lưu ý sau:

44

Nội dung hòa giải: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và tại

phiên tòa sơ thẩm, Tòa án chỉ ban hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận

khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án

(kể cả phần án phí); trong trường hợp các đương sự đã thỏa thuận được với

nhau về việc giải quyết vụ án nhưng không thỏa thuận được với nhau về nghĩa

vụ chịu án phí thì Tòa án không được ban hành quyết định công nhận sự thỏa

thuận mà tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung. Tại phiên tòa phúc

thẩm, chỉ cần các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án

(không thỏa thuận được nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm) và thỏa thuận này

không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội thì HĐXX

phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và HĐXX sẽ tự mình

xác định nghĩa vụ chịu án phí dựa trên nội dung thỏa thuận của các đương sự.

2.1.1.4. Kết quả của việc hòa giải

a. Hình thức và hậu quả pháp lý của hòa giải trong giai đoạn xét xử

sơ thẩm

Căn cứ vào kết quả hòa giải tại phiên họp hòa giải, Thẩm phán sẽ ra

một trong các quyết định là đưa vụ án ra xét xử hoặc công nhận sự thỏa thuận

của đương sự.

Đối với trường hợp hòa giải không thành, nếu Tòa án không có căn cứ

để tạm định chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án thì Tòa án ra quyết định đưa vụ

án ra xét xử theo thủ tục chung. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp

khi hòa giải không thành Thẩm phán đều ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ

thẩm. Trong trường hợp hòa giải không thành nhưng thời hạn chuẩn bị xét xử

vẫn còn và xét thấy vẫn có khả năng hòa giải thì Thẩm phán có thể tiếp tục

hòa giải lần thứ hai hoặc thứ ba.

Đối với trường hợp hòa giải thành, theo quy định tại Điều 212

BLTTDS 2015, hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành

mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán

45

chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công

ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. So sánh với thủ tục

công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án thì đối với thủ tục này, Thẩm

phán sẽ ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Bản

chất của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định

công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án là hoàn toàn khác nhau. Trong

khi quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là việc ghi nhận sự

thỏa thuận của các đương sự về việc giải quyết tranh chấp, tức là ghi nhận nội

dung giải quyết tranh chấp thì quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài

Tòa án là việc công nhận kết quả giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động

hòa giải của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác mà không phải là Tòa án.

b. Hình thức và hậu quả pháp lý của hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm

Tương tự như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, khi các đương sự thỏa

thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì HĐXX

sẽ xem xét và thảo luận tại phòng nghị án; nếu nội dung thỏa thuận của các

đương sự là hoàn toàn tự nguyện không vi phạm điều cấm của luật, không trái

đạo đức xã hội thì HĐXX ban hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của

các đương sự về việc giải quyết vụ án. Quyết định này có hiệu lực thi hành

ngay mà không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.

c. Hình thức công nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa phúc thẩm

Hòa giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm được

ghi nhận dưới hình thức quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm do vụ án đang tồn tại một bản án dân sự sơ

thẩm nên HĐXX phúc thẩm không thể ban hành quyết định công nhận sự

thỏa thuận của các đương sự được; bởi khi ban hành quyết định công nhận sự

thỏa thuận không làm mất hiệu lực của bản án sơ thẩm nên sẽ tồn tại song song

01 bản án sơ thẩm và 01 quyết định về việc giải quyết cùng một vụ án. Do đó,

khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên

46

tòa phúc thẩm thì HĐXX sẽ ban hành Bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, có

nội dung trong phần quyết định là công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận

sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương

sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa

thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc

giải quyết toàn bộ vụ án. Trong trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 210 của

BLTTDS 2015 mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải

quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và

được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền,

nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh

hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có

giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng

mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản.

Theo quy định tại Điều 213 BLTTDS năm 2015, quyết định công

nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được

ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quyết

định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự chỉ có thể bị kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm

lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Sở dĩ BLTTDS quy định quyết định công nhận sự thỏa thuận của

đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành là vì quyết định công

nhận sự thỏa thuận của đương sự dựa trên sự hòa giải tự nguyện của các bên

và được tiến hành theo một thủ tục chặt chẽ do luật định. Mặt khác, trước khi

Tòa án ra quyết định, đương sự đã có một thời gian cần thiết là bảy ngày để

suy nghĩ cân nhắc lại những điều đã cam kết thỏa thuận, nếu xét thấy điều

cam kết thỏa thuận tại phiên hòa giải có gì bất lợi và chưa chín chắn thì vẫn

có quyền xin thay đổi để đưa ra giải pháp khác. Chính vì có khoảng thời gian

47

để suy nghĩ đó mà quyết định công nhận sau khi ban hành có hiệu lực pháp

luật ngay mà vẫn không hề vi phạm quyền của đương sự.

Như vậy, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự đã khép

lại quá trình tố tụng đối với việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, để đề phòng các

sai lầm hay vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình tiến hành hòa giải,

Điều 213 BLTTDS năm 2015 quy định quyết định công nhận sự thỏa thuận

của các đương sự vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có

căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái

pháp luật, trái đạo đức xã hội.

2.1.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án

Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án hiện vẫn đang trong quá

trình hoàn thiện trình Quốc hội và mới đang được thí điểm tại 16 tỉnh, thành

là: Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Bắc

Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng

Nam, Khánh Hòa, Đồng Nai, Bình Dương, Long An nên tác giả sẽ phân tích

các nội dung hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án dựa trên Dự thảo 2 của

Luật này và các công văn của TANDTC liên quan.

2.1.2.1. Chủ thể hòa giải

a. Hòa giải viên

Là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện, được Chánh án TANDTC ra

quyết định bổ nhiệm để tiến hành hòa giải vụ việc dân sự theo quy định của

Luật này. Hòa giải viên không thuộc biên chế của Tòa án.

Theo Dự thảo 2 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì tiêu chuẩn để

được bổ nhiệm Hòa giải viên:

"1. Tiêu chuẩn chung của Hòa giải viên, Đối thoại viên gồm:

a) Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đầy đủ năng lực

hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự, trung thành với Tổ quốc và

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức

48

tốt, có phẩm chất đạo đức tốt, chưa bị xử lý hình sự, có sức khỏe bảo đảm

hoàn thành nhiệm vụ được giao;

b) Dưới 70 tuổi, trừ trường hợp đặc biệt do Chánh án TAND tối cao

quyết định;

c) Có kinh nghiệm, kỹ năng hòa giải, đối thoại;

d) Tự nguyện thực hiện nhiệm vụ hòa giải, đối thoại;

2. Những người dưới đây nếu có đủ tiêu chuẩn tại khoản 1 Điều này

thì có thể được bổ nhiệm Hòa giải viên, Đối thoại viên:

a) Thẩm phán, Kiểm sát viên, những người giữ chức danh tư pháp

khác đã nghỉ hưu;

b) Luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn khác có ít nhất 10 năm kinh

nghiệm trong lĩnh vực công tác;

c) Những người có uy tín cao trong xã hội".

b. Thư ký

Người làm nhiệm vụ thư ký Trung tâm hòa giải là thư ký Tòa án;

người được Tòa án ký hợp đồng làm nhiệm vụ thư ký trung tâm.

Thư ký Trung tâm có những nhiệm vụ sau:

- Tống đạt các giấy mời và các giấy tờ khác theo sự chỉ đạo của Giám

đốc trung tâm, theo yêu cầu của Hòa giải viên;

- Ghi biên bản phiên hòa giải;

- Thực hiện những công việc khác theo sự phân công của Giám đốc

trung tâm.

2.1.2.2. Phạm vi hòa giải

Hòa giải viên tại Trung tâm có quyền hòa giải tất cả các tranh chấp

dân sự theo nghĩa rộng: dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao động

và việc thuận tình ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ những

vụ việc pháp luật quy định không được hòa giải hoặc hòa giải không được.

Tuy nhiên việc hòa giải này được thực hiện sau khi người khởi kiện nộp đơn

49

khởi kiện tại Tòa án nhưng chưa thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật

TTDS hoặc các bên có yêu cầu Trung tâm hòa giải tại Tòa án thực hiện việc

hòa giải trong khi các bên chưa nộp đơn khởi kiện tại Tòa án theo hướng dẫn

của TANDTC, khác một số quy định của BLTTDS.

a. Những tranh chấp dân sự không được hòa giải

- Không phải là vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án

- Tranh chấp về bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước:

+ Tài sản thuộc sở hữu toàn dân giao cho cơ quan, tổ chức quản lý sử dụng;

+ Trừ sản công đưa vào doanh nghiệp thành phần vốn doanh nghiệp;

- Các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của

luật hoặc trái đạo đức xã hội:

+ Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ

thể thực hiện những hành vi nhất định;

+ Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống

xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

b. Những tranh chấp không tiến hành hòa giải được

- Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan đã được mời hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

- Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.

- Người bị kiện là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng

lực hành vi dân sự.

- Một trong các người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan không đồng ý hòa giải.

2.1.2.3. Thủ tục hòa giải

a. Thủ tục bắt đầu phiên hòa giải

Hòa giải viên kiểm tra sự có mặt và căn cước của những người tham

gia phiên hòa giải; thông báo về sự có mặt, vắng mặt của các bên; giới thiệu

thành phần tham gia phiên hòa giải.

50

Trường hợp có người vắng mặt, thì tùy từng trường hợp mà Hòa giải

viên giải quyết như sau:

- Người khởi kiện, người bị kiện, các bên yêu cầu hòa giải hoặc người

đại diện hợp pháp của họ vắng mặt lần thứ nhất thì Hòa giải viên hoãn phiên

hòa giải; vắng mặt lần thứ hai thì Hòa giải viên lập biên bản về việc không

tiến hành hòa giải được, thông báo cho Giám đốc trung tâm hòa giải tại Tòa

án, chuyển hồ sơ vụ việc cho Tòa án thụ lý.

- Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ

nhất thì Hòa giải viên hoãn phiên hòa giải; vắng mặt lần thứ hai thì Hòa giải

viên xử lý như sau:

+ Nếu tranh chấp có nhiều nội dung thì Hòa giải viên có thể tiến hành

hòa giải đối với những phần tranh chấp không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ

của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt.

+ Nếu nội dung tranh chấp có liên quan đến người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan thì lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được, thông báo

cho Giám đốc Trung tâm hòa giải và chuyển hồ sơ vụ việc cho Tòa án xem

xét thụ lý.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, người

bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người khác vắng mặt thì

việc tiến hành hòa giải hoặc hoãn phiên hòa giải do Hòa giải viên quyết định.

b. Tiến hành hòa giải

- Hòa giải viên phân tích lợi ích của việc hòa giải thành tại Trung tâm

hòa giải tại Tòa án so với việc Tòa án thụ lý, giải quyết theo quy định của pháp

luật (án phí, các chi phí tố tụng khác, chi phí thi hành án, bí mật thông tin…).

- Các bên tranh chấp trình bày ý kiến của mình về nội dung tranh

chấp. Sau khi người tham gia hòa giải trình bày ý kiến mà còn có nội dung

chưa rõ, chưa đầy đủ thì Hòa giải viên yêu cầu họ trình bày bổ sung về nội

dung chưa rõ, chưa đầy đủ đó.

51

- Hòa giải viên bám sát phương án hòa giải đã xây dựng để tiến hành

hòa giải; sử dụng kỹ năng, kinh nghiệm của mình đặt câu hỏi, hướng dẫn, giải

thích, thuyết phục để giúp các bên đạt được những thỏa thuận về những giải

pháp giải quyết tranh chấp.

Trường hợp đa số các bên đã thỏa thuận được việc giải quyết tranh

chấp, chỉ một hoặc một số người không thiện chí thỏa thuận hoặc còn một số

điểm chưa thống nhất thì Hòa giải viên có thể giải thích, thuyết phục riêng để

đạt được sự thống nhất.

Trường hợp nội dung các bên đã thống nhất có vi phạm điều cấm của

luật, trái đạo đức xã hội thì Hòa giải viên phải giải thích quy định của pháp

luật, chuẩn mực đạo đức liên quan để các bên thỏa thuận lại.

c. Lập biên bản hòa giải

Tại phiên kết thúc hòa giải, Hòa giải viên lập biên bản ghi nhận kết

quả hòa giải với các nội dung sau:

a) Ngày, tháng, năm, địa điểm tiến hành hòa giải;

b) Thành phần tham gia phiên hòa giải;

c) Kết quả hòa giải thành; những nội dung hòa giải không thành, yêu

cầu của các bên;

d) Chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên và Hòa giải viên;

đ) Chữ ký xác nhận của Thẩm phán phụ trách hòa giải.

Những người tham gia phiên hòa giải có quyền được xem biên bản ghi

nhận kết quả hòa giải; yêu cầu sửa đổi, bổ sung và ký xác nhận hoặc điểm chỉ.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản hòa giải,

Hòa giải viên phải gửi biên bản hòa giải cho các bên tham gia hòa giải và lưu

vào hồ sơ hòa giải.

Các bên tham gia hòa giải chịu trách nhiệm về nội dung thỏa thuận,

thống nhất. Kết quả hòa giải thành có giá trị pháp lý đối với các bên tham gia

hòa giải theo quy định của pháp luật.

52

2.1.2.4. Kết quả của việc hòa giải

Trường hợp người khởi kiện tự nguyện rút đơn thì tại biên bản hòa

giải ghi rõ ý kiến của người khởi kiện về việc rút đơn khởi kiện. Hòa giải viên

thông báo cho Giám đốc Trung tâm hòa giải tại Tòa án chuyển hồ sơ vụ việc

và biên bản hòa giải cho Tòa án. Tòa án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng

cứ kèm theo cho người khởi kiện, người yêu cầu.

Trường hợp các bên thỏa thuận được với nhau thì biên bản hòa giải

thành ghi rõ những nội dung các bên thống nhất. Nếu các bên hoặc một bên

tranh chấp có yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành thì Hòa giải

viên hướng dẫn người đó làm đơn về yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa

giải thành và chuyển hồ sơ, đơn yêu cầu và biên bản hòa giải cho Tòa án. Tòa

án xem xét thụ lý, giải quyết việc dân sự về yêu cầu công nhận kết quả hòa

giải thành ngoài Tòa án theo quy định tại Chương XXXIII BLTTDS.

Nếu các bên tranh chấp không yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa

giải thành ngoài Tòa án thì Hòa giải viên thông báo cho Giám đốc trung tâm,

chuyển ngay hồ sơ vụ việc, biên bản hòa giải thành cho Tòa án để trả lại đơn

khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện trong trường

hợp nhận hồ sơ từ Tòa án.

Trường hợp sau khi hòa giải mà các bên không thỏa thuận được với

nhau về các vấn đề phải giải quyết thì tại biên bản hòa giải phải ghi rõ những

nội dung đã thống nhất, không thống nhất, Hòa giải viên thông báo cho Giám

đốc Trung tâm chuyển hồ sơ vụ việc và biên bản hòa giải cho Tòa án để xem

xét thụ lý theo quy định.

Qua những phân tích trên, có thể thấy được Dự thảo Luật Hòa giải,

đối thoại tại Tòa án tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên; lấy việc các bên

tự nguyện tham gia hòa giải, đối thoại làm nguyên tắc; giữ bí mật các thông

tin có liên quan đến vụ việc hòa giải để đương sự có thể trình bày quan điểm

của mình một cách trung thực mà không phải chịu áp lực; tôn trọng ý kiến của

53

các bên về việc tham gia, tiến hành và kết thúc thủ tục hòa giải; cho phép

đương sự lựa chọn thời gian, địa điểm tiến hành hòa giải; được đề nghị thay

đổi Hòa giải viên. Hòa giải viên phải phổ biến và giải thích cho đương sự biết

quyền lợi và nghĩa vụ của mình…

Ngoài ra, Dự thảo Luật còn quy định khá đầy đủ về thủ tục hòa giải;

tính trung lập của người hòa giải để tránh xung đột quan hệ lợi ích. Ngay cả

trong quá trình lập pháp của các nước phương Tây thì đây cũng là phần rất

khó quy định một cách ngắn gọn, bởi bị trùng lặp giữa nguyên tắc và ngoại lệ.

Tuy nhiên, Dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án do TANDTC Việt Nam

xây dựng đã khắc phục điều này và quy định các vấn đề một cách hài hòa.

Dự thảo Luật cũng quy định việc tiến hành đào tạo, bồi dưỡng chuyên

môn, nghiệp vụ cho Hòa giải viên là trách nhiệm của Tòa án, vì trong công

tác hòa giải, đối thoại cần có sự linh hoạt, nên phẩm chất và năng lực của

người tiến hành thủ tục hòa giải càng trở nên quan trọng. Hơn nữa, việc công

khai danh sách Hòa giải viên trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án theo quy

định của Dự thảo Luật cũng góp phần nâng cao tính minh bạch và sự tin

tưởng vào công tác hòa giải, đối thoại; đồng thời giúp đảm bảo quyền lựa

chọn Hòa giải viên của đương sự.

2.1.3. Hòa giải ở cơ sở

2.1.3.1. Chủ thể hòa giải

a. Hòa giải viên

Theo Điều 7, Điều 8 Luật Hòa giải cơ sở 2013 thì tiêu chuẩn làm hòa

giải viên:

Người được bầu làm hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú

tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải và có các tiêu chuẩn sau đây:

- Có phẩm chất đạo đức tốt; có uy tín trong cộng đồng dân cư;

- Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân; có hiểu biết pháp luật.

- Việc bầu, công nhận hòa giải viên do trưởng ban công tác Mặt trận

chủ trì, phối hợp với trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố tổ chức bầu hòa giải

54

viên ở thôn, tổ dân phố bằng một trong các hình thức: Biểu quyết công khai

hoặc bỏ phiếu kín tại cuộc họp đại diện các hộ gia đình hoặc phát phiếu lấy ý

kiến các hộ gia đình.

Người được đề nghị công nhận là hòa giải viên phải đạt trên 50% đại

diện hộ gia đình trong thôn, tổ dân phố đồng ý;

Trường hợp số người đạt trên 50% đại diện hộ gia đình trong thôn, tổ

dân phố đồng ý nhiều hơn số lượng hòa giải viên của tổ hòa giải mà Chủ tịch

UBND cấp xã quyết định thì danh sách người được đề nghị công nhận là hòa

giải viên lấy theo kết quả bỏ phiếu từ cao xuống thấp;

Trường hợp số người được bầu không đủ để thành lập tổ hòa giải thì

tổ chức bầu bổ sung cho đủ số lượng;

Trưởng ban công tác Mặt trận lập danh sách người được đề nghị công

nhận là hòa giải viên gửi Chủ tịch UBND cấp xã.

Chủ tịch UBND cấp xã ra quyết định công nhận hòa giải viên. Quyết

định công nhận hòa giải viên được gửi cho Ban thường trực Ủy ban Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam cấp xã, Trưởng ban công tác Mặt trận, trưởng thôn, tổ

trưởng tổ dân phố, hòa giải viên và thông báo công khai ở thôn, tổ dân phố.

b. Tổ hòa giải

Tổ hòa giải có tổ trưởng và các hòa giải viên. Mỗi tổ hòa giải có từ 03

hòa giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ. Đối với vùng có nhiều

đồng bào dân tộc thiểu số, tổ hòa giải phải có hòa giải viên là người dân tộc

thiểu số.

Chủ tịch UBND cấp xã quyết định số lượng tổ hòa giải, hòa giải viên

trong một tổ hòa giải căn cứ vào đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội, dân số

của địa phương và đề nghị của Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam cấp xã.

Hằng năm, Trưởng ban công tác Mặt trận chủ trì phối hợp với tổ

trưởng tổ hòa giải tiến hành rà soát, đánh giá về tổ chức, hoạt động của tổ hòa

55

giải và kiến nghị Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã

để đề nghị UBND cấp xã kiện toàn tổ hòa giải.

2.1.3.2. Phạm vi hòa giải

Với đặc điểm là phương thức giải quyết những việc vi phạm pháp luật

và tranh chấp nhỏ giữa các bên, giúp các bên thỏa thuận, tự nguyện giải quyết

với nhau nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy

những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng

dân cư; phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã

hội trong cộng đồng dân cư, hoạt động hòa giải ở cơ sở cần được giới hạn

trong một phạm vi nhất định nhằm bảo đảm sự tự nguyện, thỏa thuận giữa các

bên xích mích, tranh chấp, vừa không ảnh hưởng đến tính pháp chế của việc

giải quyết các vi phạm pháp luật, các tranh chấp trong đời sống xã hội.

Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và

biện pháp thi hành luật hòa giải ở cơ sở quy định rõ những trường hợp được

tiến hành hòa giải và những trường hợp không được tiến hành hòa giải. Cụ thể

như sau:

1. Hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn,

tranh chấp, vi phạm pháp luật sau đây:

a) Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm

sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử

dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt,

công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các

lý do khác);

b) Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp

về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền

sử dụng đất;

c) Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình

như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa

56

cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa

anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng;

xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn;

d) Vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật những

việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử

lý vi phạm hành chính;

đ) Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau đây:

Không bị khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 107 của Bộ

luật Tố tụng hình sự và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền

xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật;

Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người

bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố theo quy định tại

Khoản 1 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng hình sự và không bị cơ quan

nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định

của pháp luật;

Vụ án đã được khởi tố, nhưng sau đó có quyết định của cơ

quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo quy định tại Khoản 2

Điều 164 của Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc đình chỉ vụ án theo quy

định tại Khoản 1 Điều 169 của Bộ luật Tố tụng hình sự và không bị

cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo

quy định của pháp luật;

e) Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,

phường, thị trấn theo quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP

ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng

biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc có

đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành

chính theo quy định tại Chương II Phần thứ năm của Luật Xử lý vi

phạm hành chính;

57

g) Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.

2. Không hòa giải các trường hợp sau đây:

a) Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước,

lợi ích công cộng;

b) Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy

định của pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải

quyết, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái

đạo đức xã hội;

c) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách

nhiệm hình sự, trừ các trường hợp quy định tại Điểm đ Khoản 1

Điều này;

d) Vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị xử lý vi

phạm hành chính, trừ các trường hợp quy định tại Điểm e Khoản 1

Điều này;

đ) Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở quy

định tại Điểm d Khoản 1 Điều 3 của Luật Hòa giải ở cơ sở, bao gồm:

Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo quy

định của Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành;

Hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo quy

định của Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn thi hành [4].

2.1.3.3. Thủ tục hòa giải

Hòa giải viên cần thống nhất với các bên mâu thuẫn, tranh chấp về

thời gian và địa điểm thực hiện hòa giải, thành phần tham dự hòa giải, việc

hòa giải tiến hành công khai hay không công khai. Điều này nhằm tạo sự

thoải mái cho các bên. Thời gian thực hiện các công việc trên là 03 ngày kể từ

ngày được phân công hòa giải (khoản 2 Điều 20 Luật Hòa giải ở cơ sở).

Hòa giải viên hoặc các bên có thể mời người khác tham gia hòa giải.

Việc mời người khác tham gia hòa giải phải được sự đồng ý của các bên tranh

58

chấp. Người được mời có thể là người có uy tín trong dòng họ, ở nơi sinh

sống, nơi làm việc; người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội; già làng,

trưởng ban, chức sắc tôn giáo, người biết rõ vụ việc; đại diện của cơ quan, tổ

chức hoặc người có uy tín khác.

Các bước tiến hành hòa giải:

Bước 1: Hòa giải viên chủ trì buổi hòa giải, nêu mục đích, ý nghĩa của

buổi hòa giải; thống nhất với các bên về một số quy ước, cách làm tại buổi

hòa giải. Hòa giải viên phải tạo ra không khí thân mật, cởi mở và chân thành,

không áp đặt ý chí của hòa giải viên đối với các bên tranh chấp, không thiên

vị hoặc bênh vực bên nào.

Bước 2: Các bên trình bày nội dung vụ việc. Hòa giải viên mời từng

bên trình bày sự việc. Sau khi trình bày xong, các bên có quyền bổ sung ý

kiến, đưa ra luận cứ, quan điểm của mình. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan phát biểu quan điểm của họ về vấn đề tranh chấp.

Bước 3: Phân tích vụ việc, dẫn chiếu các quy định của pháp luật áp

dụng đối với từng bên tranh chấp, phân tích phong tục tập quán, truyền thống

đạo đức xã hội. Hòa giải viên phân tích cho các bên hiểu rõ quyền lợi, trách

nhiệm, nghĩa vụ của mình. Hòa giải viên đưa ra phương án giải quyết tranh

chấp để các bên tham khảo; các bên có quyền trình bày phương án giải quyết

tranh chấp của mình. Hòa giải viên phân tích lợi ích của việc hòa giải thành,

hậu quả pháp lý mà các bên có thể gặp phải nếu tiếp tục tranh chấp và có

những hành vi sai trái. Người được mời tham gia hòa giải có thể phân tích, bổ

sung làm rõ ý kiến của hòa giải viên.

Bước 4: Kết thúc hòa giải khi:

- Các bên đạt được thỏa thuận

- Một bên hoặc các bên yêu cầu chấm dứt hòa giải

- Hòa giải viên quyết định kết thúc hòa giải khi các bên không thể đạt

được thỏa thuận và việc tiếp tục hòa giải cũng không thể đạt được kết quả.

59

2.1.3.4. Kết quả của việc hòa giải

Pháp luật hòa giải ở cơ sở chỉ quy định các bên có trách nhiệm thực

hiện thỏa thuận hòa giải thành. Trong quá trình thực hiện thỏa thuận hòa giải

thành, nếu một bên vì sự kiện bất khả kháng không thể thực hiện được thì có

trách nhiệm trao đổi, thỏa thuận với bên kia và thông báo cho Hòa giải viên.

Hòa giải viên có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc việc thực hiện thỏa thuận hòa

giải thành do mình trực tiếp giải quyết; kịp thời thông báo cho tổ trưởng tổ

hòa giải để báo cáo Trưởng ban công tác Mặt trận những vấn đề phát sinh

trong quá trình theo dõi, đôn đốc thực hiện. Điều này dẫn đến việc hòa giải ở

cơ sở đôi khi chỉ mang tính hình thức, thủ tục mà chưa có hiệu quả đi sâu vào

việc giải quyết dứt điểm nội dung tranh chấp, mâu thuẫn giữa các bên.

Theo quy định tại Chương XXXIII của BLTTDS 2015, các điều khoản

có liên quan quy định trong BLTTDS cũng như hướng dẫn tại Công văn số

1503/BTP-PBGDPL hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận

kết quả hòa giải thành ở cơ sở thì việc công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ

sở phải đáp ứng đủ 05 điều kiện: (1) Các bên tham gia thỏa thuận phải có đầy

đủ năng lực hành vi dân sự; (2) Vụ việc được hòa giải phải tuân thủ đúng

quy định pháp luật về hòa giải ở cơ sở; (3) Các bên tham gia thỏa thuận phải

là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường

hợp nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của

người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý. (4) Có văn bản hòa giải

thành. Nội dung hòa giải thành là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều

cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với

nhà nước hoặc người thứ ba; (5) Một hoặc cả hai bên có đơn yêu cầu Tòa án

công nhận kết quả hòa giải thành ở cơ sở. Tòa án có thẩm quyền ra quyết

định công nhận là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người yêu cầu cư trú, làm

việc. Quyết định công nhận hay không công nhận kết quả hòa giải thành ở

cơ sở của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị

60

theo thủ tục phúc thẩm. Việc Tòa án không công nhận kết quả hòa giải thành

ở cơ sở không ảnh hưởng đến nội dung và giá trị pháp lý của kết quả hòa giải

thành ở cơ sở. Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án

được thi hành theo pháp luật về thi hành án dân sự. Như vậy, sau khi hòa giải

thành với những cam kết, thỏa thuận mà các bên đạt được, một trong các bên

hoặc các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải

thành đó, yêu cầu này cũng là hoàn toàn tự nguyện. Trong trường hợp xét

thấy đáp ứng đầy đủ điều kiện. Tòa án có thẩm quyền ra quyết định công

nhận kết quả hòa giải thành thì tại thời điểm này, các cam kết, thỏa thuận của

các bên phải được thực hiện một cách bắt buộc như quyền, nghĩa vụ dân sự

mà các bên đã xác lập, nếu bên nào vi phạm không thực hiện thì sẽ bị áp

dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật về thi

hành án dân sự.

2.2. Thực trạng thực thi pháp luật

2.2.1. Hòa giải theo thủ tục tố tụng dân sự

Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao[36], trong những năm qua,

tỷ lệ hòa giải trong giải quyết các vụ án dân sự của tòa án cũng đã có nhiều

tiến bộ, trung bình hàng năm đạt hơn 40% số vụ án dân sự phải giải quyết và

cá biệt có những tòa án, tỷ lệ này đạt tới 60 đến 70%, nhưng tập trung chủ yếu

về thuận tình ly hôn. Do đó, chưa đáp ứng đòi hỏi của tình trạng quá tải các

vụ việc dân sự tại Tòa án. Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ hòa giải thành các vụ án

dân sự chưa cao đó là:

- Về chủ thể: Thẩm phán - chủ thể tiến hành hòa giải, bị hạn chế bởi

các quy định pháp luật về sự vô tư, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật phải

chấp hành quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán nên nhiều trường hợp

khó linh hoạt để đưa ra những giải thích, lời khuyên có tình, có lý giúp các

bên tranh chấp cảm thông, chia sẻ, nhượng bộ và hòa giải. Do áp lực công

việc lớn nên việc đầu tư thời gian, công sức của nhiều Thẩm phán cho công

61

tác hòa giải còn hạn chế; kinh nghiệm, kỹ năng phương pháp hòa giải của một

số Thẩm phán có mặt còn chưa đáp ứng được yêu cầu.

- Về phía đương sự: Nhiều trường hợp bị đơn thường có thái độ bất

hợp tác, gây khó khăn cho Tòa án như: từ chối nhận giấy triệu tập hoặc cố

tình không đến phiên hòa giải; đương sự không thỏa thuận được với nhau đã

bỏ về mà không ký tên vào biên bản hòa giải… Trong vụ án có nhiều đương

sự được Tòa án triệu tập tham gia hòa giải nhưng nhiều đương sự vắng mặt

mà ủy quyền cho người đại diện dẫn tới Tòa án phải mở phiên họp nhiều lần

nhưng vẫn không tiến hành hòa giải được.

- Về cơ sở vật chất: Nhiều Tòa án còn chưa bố trí được phòng chức

năng phục vụ cho yêu cầu hòa giải tại các Tòa án. Do vậy, kết quả hòa giải

trong tố tụng, tại Tòa án chưa đạt được kết quả như mong muốn.

- Về các quy định của BLTTDS:

+ Điều 207 về những vụ án không tiến hành hòa giải được: Khoản 1

Điều này quy định trường hợp: "Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt"

nhưng không quy định rõ trường hợp đương sự không có mặt tại phiên hòa

giải lần đầu thì trong thời hạn bao lâu Tòa án sẽ tổ chức phiên hòa giải tiếp

theo. Số lần hòa giải tối đa là bao nhiêu lần?

Khoản 2 Điều này quy định trường hợp: "Đương sự không thể tham

gia hòa giải được vì có lý do chính đáng". Tuy nhiên, hiện nay chưa có văn

bản nào hướng dẫn cụ thể thế nào là "lý do chính đáng".

Khoản 4 Điều này quy định trường hợp: "Một trong các đương sự đề

nghị không tiến hành hòa giải". Tuy nhiên, BLTTDS chưa quy định rõ trường

hợp ngay sau khi nộp đơn khởi kiện, đương sự có đề nghị không tiến hành

hòa giải thì Tòa án có tiến hành các thủ tục thông báo phiên hòa giải như các

vụ án thông thường hay không? Ngoài ra, thực tế cho thấy nhiều đương sự do

ngại đi lại nhiều lần, tốn kém chi phí, thời gian nên đề nghị không hòa giải,

dẫn đến vụ án không tiến hành hòa giải được.

62

- Về thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự:

Khoản 2 Điều 209 quy định: "Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu

cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên họp...". Theo quy

định của pháp luật TTDS thì những cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan là

người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, họ cũng là đương sự trong

vụ án nên theo quy định tại khoản 1 Điều 209, họ là thành phần tham gia

phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Quy định này cũng gây khó khăn, làm kéo dài thời gian tiến hành hòa giải.

Khoản 3 Điều 209 về thành phần phiên họp kiểm tra việc giao nộp,

tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải không quy định cụ thể về số lần tối

đa đương sự được vắng mặt có lý do chính đáng, số lần các đương sự được

quyền đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án.

Không ít trường hợp, các đương sự lạm dụng sự vắng mặt, lạm dụng quyền đề

nghị hoãn phiên họp để trì hoãn việc giải quyết vụ án dẫn đến vụ án bị kéo

dài, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.

- Về trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

chứng cứ và hòa giải:

Theo quy định tại Điều 210 thì Thẩm phán phải tiến hành phiên hòa

giải đồng thời với phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng

cứ sau khi các đương sự đã thu thập và giao nộp chứng cứ với các thủ tục tố

tụng chặt chẽ. Quy định này làm giảm tính linh hoạt, đơn giản của thủ tục hòa

giải trong việc triệu tập thành phần tham gia phiên hòa giải.

Khoản 3 Điều 210 quy định trong trường hợp người được Tòa án triệu

tập vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng

cứ và hòa giải thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho họ biết, nhưng

chưa quy định trong thời hạn bao nhiêu kể từ ngày mở phiên họp thì Tòa án

phải ra thông báo.

63

- Về hòa giải lại sau khi Tòa án cấp phúc thẩm hủy một phần hoặc

toàn bộ bản án sơ thẩm:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 308 thì một trong những thẩm quyền

của HĐXX phúc thẩm là "Hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm

và chuyển hồ sơ về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án". Như vậy,

đối với trường hợp bản án sơ thẩm bị hủy một phần hoặc toàn bộ để chuyển

hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án thì Tòa án cấp sơ thẩm phải

giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm và có phải tiến hành hòa giải lại hay

không mới chỉ được quy định mang tính nguyên tắc. Có Tòa án sau khi thụ lý

giải quyết lại vụ án vẫn tiến hành hòa giải, nhưng một số Tòa án lại không

tiến hành hòa giải vì cho rằng việc tổ chức hòa giải lại không hiệu quả, với

lập luận rằng, khi vụ án đã kéo dài như vậy thì mâu thuẫn giữa các bên là rất

trầm trọng và họ không chấp nhận hòa giải với nhau. Do đó, việc hòa giải chỉ

làm kéo dài thời gian tiến hành tố tụng, gây tốn kém kinh phí của Nhà nước

và của các bên.

2.2.2. Hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án

Theo Báo cáo số 144/BC-TANDTC ngày 12/6/2019 báo cáo sơ kết triển

khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các

tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại 16 tỉnh, thành phố của TANDTC:

Qua hơn ba tháng thực hiện thí điểm, các trung tâm hòa giải, đối thoại

tại Tòa án hòa giải thành, đối thoại thành được 15.016 vụ, đạt tỷ lệ 74,08% (từ

ngày 01/11/2018 đến ngày 15/3/2019, 15 tỉnh, thành phố hòa giải thành, đối

thoại thành được 13.742 vụ, đạt tỷ lệ 70,58%. Riêng Hải Phòng từ ngày

01/12/2018 đến ngày 15/3/2019, hòa giải thành, đối thành được 1.274 vụ, đạt

tỷ lệ 77,58%). Như vậy, số vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành của các

Trung tâm hòa giải, đối thoại tại 16 tỉnh, thành phố là 15.016 vụ đã giúp các

Tòa án thực hiện thí điểm không phải thụ lý số vụ việc đó. Một số tỉnh, thành

phố có tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành cao là Bình Dương (1.641 vụ, đạt

64

tỷ lệ 87,99%); Khánh Hòa (1.242 vụ, đạt tỷ lệ 87%); tỉnh có tỷ lệ hòa giải

thành, đối thoại thành thấp nhất là Đồng Nai (980 vụ, đạt tỷ lệ 51,5%).

Tại 15 tỉnh, thành phố thực hiện thí điểm, hòa giải thành, đối thoại chủ

yếu là vụ việc hôn nhân và gia đình (12.009 vụ, đạt tỷ lệ 87,38%), còn các

loại việc khác là dân sự, kinh doanh thương mại, lao động thì tỷ lệ hòa giải

thành, đối thoại thành thấp (Dân sự: 1.368 vụ, đạt tỷ lệ 9,95%; Kinh doanh

thương mại: 214 vụ, đạt tỷ lệ 1,55%; Lao động: 42 vụ, đạt tỷ lệ 0,30%; Hành

chính: 109 vụ, đạt tỷ lệ 0,79%. Tại Hải Phòng, thực trạng này cũng tương tự,

trong khi tỷ lệ hòa giải thành những vụ án hôn nhân và gia đình đạt tỷ lệ

89,63% thì các loại việc còn lại, tỷ lệ này chỉ chiếm dưới 10% (Dân sự: 108

vụ, đạt tỷ lệ 8,47%; Kinh doanh thương mại: 14 vụ, đạt tỷ lệ 1,09%; Lao

động: 3 vụ, đạt tỷ lệ 0,23%; Hành chính: 7 vụ, đạt tỷ lệ 0,54%). Một số tỉnh,

thành phố có số lượng vụ việc hòa giải thành, đối thoại thành cao như Thành

phố Hồ Chí Minh 2.219 vụ việc, Hà Nội 2.174 vụ việc, Bình Dương 1.641 vụ

việc, Khánh Hòa 1.242 vụ việc.

Đa số các Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TAND cấp huyện có tỷ lệ

hòa giải thành, đối thoại thành cao hơn so với Trung tâm hòa giải, đối thoại

tại TAND cấp tỉnh. Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TAND thành phố Hà Nội

đạt tỷ lệ hòa giải thành, đối thoại thành cao (154 vụ, đạt tỷ lệ 71,30%) trong

khi đó Trung tâm hòa giải, đối thoại tại TAND tỉnh Bắc Ninh không hòa giải

thành, đối thoại thành được vụ nào.

Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện thí điểm Trung tâm hòa giải cũng

gặp nhiều khó khăn, vướng mắc:

- Về trình tự, thủ tục hòa giải: Một số vụ án tranh chấp dân sự, kinh

doanh thương mại khi đương sự nộp đơn đến Tòa án được Tòa án giải thích

về lợi ích của các bên thông qua Trung tâm hòa giải, nhưng rất nhiều vụ án

người khởi kiện có đơn yêu cầu không hòa giải tại Trung tâm, nên số lượng

vụ án tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại yêu cầu hòa giải tại Trung

tâm không nhiều.

65

- Về nhân sự: Tại một số Trung tâm (đặc biệt tại TAND cấp huyện)

phải làm việc quá tải, do số lượng vụ việc thụ lý nhiều chưa tương xứng với

số lượng hòa giải viên. Kinh nghiệm, kiến thức pháp luật hiện hành của hòa

giải viên còn hạn chế (Thanh Hóa, Bắc Ninh, Thái Bình). Thư ký giúp việc

cho Trung tâm hòa giải hầu như đều vừa làm nghiệp vụ Thư ký Tòa án vừa

giúp việc cho các Trung tâm nên đôi khi quá tải trong công việc.

- Về cơ sở vật chất: Một số Tòa án chưa nhận được kinh phí hoặc chỉ

nhận được 1/5 kinh phí để hoạt động nên chưa có tiền chi trả cho hòa giải

viên. Một số Trung tâm điều kiện cơ sở, vật chất còn nhiều khó khăn, không

có phòng hòa giải riêng.

- Thiếu cơ chế phối hợp giữa Tòa án và Trung tâm: Do số lượng vụ

việc nhiều, lịch làm việc của Hòa giải viên và Thẩm phán trùng lặp dẫn đến

khi Hòa giải viên mời thẩm phán việc lập biên bản hòa giải thành nhưng

Thẩm phán không thể có mặt do đang có phiên tòa hoặc đang làm việc với

đương sự ở vụ án khác.

- Đối với những vụ việc do Trung tâm tiếp nhận trực tiếp, hồ sơ ban

đầu có thể chưa đáp ứng được các yêu cầu bắt buộc để được thụ lý như một

vụ án. Khi được chuyển lại Tòa án, Tòa án phải làm thủ tục thụ lý lại, gây tốn

thời gian cho đương sự và Tòa án, không bảo đảm chất lượng thụ lý.

2.2.3. Hòa giải cơ sở

Hơn 5 năm kể từ khi Luật Hòa giải ở cơ sở 2013 có hiệu lực thi hành,

công tác tổ chức và hoạt động của các tổ hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố

Hà Nội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ hòa giải thành công của thành

phố hàng năm đều tăng, tỷ lệ hòa giải thành công trong 5 năm đạt 82%. Công

tác hòa giải đã đi vào nề nếp, bài bản, quá trình thực hiện công tác hòa giải đã

có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

thành phố, các tổ chức thành viên của Mặt trận và nhân dân. Việc lựa chọn các

hòa giải viên được chú ý hơn về năng lực, uy tín đã phát huy được nhiều thuận

lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, đảm bảo hiệu quả. Việc xây dựng mô

66

hình "Tổ hòa giải 5 tốt" tại các xã phường, thị trấn đã phát huy hiệu quả tích

cực (chiếm 46% tổng số tổ hòa giải hiện nay trên địa bàn thành phố), gắn kết

người dân với chính quyền trong việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.

Đến nay, Hà Nội có 5.444 tổ hòa giải với 35.053 hòa giải viên. Trong đó, số

hòa giải viên có trình độ chuyên môn là 3.117 người (chiếm khoảng 8%).

Theo số liệu công bố cuối tháng 4/2019, kể từ khi Luật hòa giải ở cơ sở có

hiệu lực (ngày 01/01/2014), tỷ lệ hòa giải thành trên địa bàn thành phố Hà

Nội qua các năm tăng dần. Đáng chú ý, với 5 tiêu chí: Phát hiện vụ việc tốt;

phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể tốt; tổ chức hòa giải tốt (hòa giải thành

từ 80% số vụ việc trở lên); bồi dưỡng, tập huấn hòa giải viên tốt; định kỳ giao

ban, báo cáo, sơ kết, tổng kết tốt. Đến nay, Hà Nội đã có 2.591/5.444 tổ hòa

giải đạt "Tổ hòa giải 5 tốt" (chiếm tỷ lệ 47,6%). Nhiều đơn vị duy trì và tích

cực nhân rộng mô hình "Tổ hòa giải 5 tốt" như các quận: Long Biên, Hoàn

Kiếm, Ba Đình, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng...[39]

Ở phường Thượng Thanh (quận Long Biên) - nơi tác giả sinh sống, mô

hình "Tổ hòa giải 5 tốt" được triển khai rộng rãi, hiệu quả. Phường Thượng

Thanh có 31 tổ dân phố tương đương có 31 tổ hòa giải. Việc kiện toàn hòa giải

viên và tổ trưởng tổ hòa giải được thực hiện định kỳ vào tháng 6 và tháng 12

hàng năm. UBND phường phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

phường tiến hành rà soát, đánh giá hoạt động của các tổ hòa giải, hòa giải viên;

lựa chọn người có uy tín, trách nhiệm, nhiệt tình, được nhân dân tín nhiệm để

giới thiệu tại Hội nghị nhân dân bầu hòa giải viên theo quy định của Luật Hòa

giải ở cơ sở. Quá trình hòa giải luôn lấy tình trước, sau mới đến lý, vận dụng các

quy định của pháp luật nên đã giải quyết được nhiều mâu thuẫn trong nhân dân.

Vai trò của hòa giải ở cơ sở là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, để hòa

giải ở cơ sở thực sự là một phương thức giải quyết độc lập các mâu thuẫn,

tranh chấp, vi phạm pháp luật thì Luật hòa giải ở cơ sở còn thiếu vắng các quy

định về cơ chế đảm bảo việc thực thi kết quả hòa giải thành. Điển hình là Luật

chưa quy định về giá trị pháp lý của kết quả hòa giải nên có những trường hợp

67

sau khi hòa giải, các bên không thực hiện những nội dung đã cam kết, dẫn đến

chính quyền gặp khó khăn trong việc giải quyết. Chưa kể, tại Hà Nội, có những

địa phương mời được người tham gia tổ hòa giải đã khó, mà bắt buộc trong tổ

phải có hòa giải viên nữ còn khó khăn hơn. Mức thù lao cho người làm công

tác hòa giải còn thấp, chỉ được khoảng 200 nghìn đồng/vụ hòa giải thành. Có

những vụ việc hòa giải viên đi lại nhiều lần nhưng không được hỗ trợ vì

không hòa giải thành. Đây là những tồn tại hạn chế, Quốc hội, Chính phủ cần

nghiên cứu sửa đổi để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác hòa giải ở cơ sở.

Tình trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở vẫn

còn xảy ra tương đối nhiều. Trong một số trường hợp, do hòa giải viên không

nắm vững các quy định của pháp luật nên vẫn tiến hành hòa giải những vụ việc

không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở như những hành vi vi phạm pháp luật

mà theo quy định của pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính hoặc phải bị

truy cứu trách nhiệm hình sự; hoặc vẫn còn xảy ra tình trạng hòa giải viên tại

vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhiều vụ việc giải quyết theo luật tục. Điều này

không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác hòa giải ở cơ sở mà

còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên mâu thuẫn

tranh chấp. Trình độ học vấn và hiểu biết pháp luật của đội ngũ hòa giải viên

còn rất hạn chế. Phần lớn trong số hòa giải viên thiếu kỹ năng hòa giải ở cơ sở,

không thường xuyên cập nhật kiến thức pháp luật nên gặp khó khăn trong quá

trình hòa giải, đặc biệt là đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều

chính sách, pháp luật. Hoạt động hòa giải ở cơ sở chủ yếu vẫn dựa trên uy tín

cá nhân, kinh nghiệm sống, kiến thức hiểu biết xã hội của hòa giải viên mà

thiếu đi các quy định pháp luật thực định… Hay cũng có trường hợp hòa giải

viên còn lúng túng khi xác định vụ việc có thuộc phạm vi hòa giải hay không?

Tiểu kết chƣơng 2

Những quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp dân sự đã khẳng

định ý nghĩa quan trọng của phương thức hòa giải trong quá trình giải quyết tranh

chấp dân sự, đồng thời thể hiện việc tôn trọng và đảm bảo quyền tự định đoạt.

68

Trong Chương này, tác giả đã tập trung làm rõ những nội dung cơ bản

của hòa giải tranh chấp dân sự được quy định trong BLTTDS năm 2015, Luật

Hòa giải ở cơ sở năm 2013 và dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Thông qua việc phân tích các quy định của pháp luật, luận văn đã luận giải và

làm rõ được các vấn đề như: chủ thể, phạm vi, trình tự thủ tục và kết quả hòa

giải trong từng loại hình hòa giải. Từ thực tiễn thực thi các quy định của pháp

luật về hòa giải tranh chấp dân sự tác giả chỉ ra những kết quả đạt được và

những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong hoạt động hòa giải tranh chấp

dân sự. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của Chương 1, thực trạng các quy định

của pháp luật hiện hành về hòa giải tranh chấp dân sự và thực tiễn thực thi

pháp luật về hòa giải, luận văn đã đối chiếu và chỉ ra một số bất cập, hạn chế

của pháp luật gây khó khăn đối với hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự cần

được tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Kết quả nghiên cứu rút ra từ việc phân tích và xác định những hạn

chế, bất cập của pháp luật hiện hành về hòa giải tranh chấp dân sự là cơ sở

quan trọng để đưa ra phương hướng và kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện và

nâng cao hiệu quả của hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự. Vấn đề này sẽ

được triển khai nghiên cứu ở Chương 3 của luận văn.

69

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

HÒA GIẢI TRANH CHẤP DÂN SỰ

3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự

Trước yêu cầu thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt

là Nghị quyết số 49-NQ/TW) và đặc biệt là yêu cầu về công nhận, tôn trọng,

bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, về hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế được ghi

nhận trong Hiến pháp năm 2013 thì pháp luật về hòa giải tranh chấp dân sự

hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, cần có những giải pháp hoàn thiện, nâng

cao hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự.

3.1.1. Cải cách tư pháp

Công cuộc cải cách tư pháp trong những năm qua đã được Đảng và

Nhà nước đặc biệt quan tâm nhằm xây dựng nhà nước ta trở thành nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất

phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác hòa giải, Nghị quyết số 49-NQ/TW đề

ra nhiệm vụ: "Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua

thương lượng, hòa giải, trọng tài". Để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đó, cần có

những thay đổi trong công tác hòa giải.

Một là, tổ chức công tác giải quyết các vụ án dân sự theo tinh thần

mới. Với các vụ án này, công lý không chỉ đơn giản là việc tuyên ai thắng, ai

thua, mà quan trọng là tìm ra được phương án phù hợp với điều kiện, hoàn

cảnh và nguyện vọng thực sự của hai bên, để cả hai bên cùng thắng. Do đó,

hòa giải phải là hướng ưu tiên để quyết liệt triển khai thực hiện. Đây chính là

thước đo sự tiến bộ của nền tư pháp.

70

Hai là, ghi nhận hòa giải dân sự như là một phương thức giải quyết

tranh chấp độc lập, với các quy phạm về tố tụng hòa giải, với phạm vi điều

chỉnh là các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao

động (dân sự theo nghĩa rộng) chứ không chỉ là các tranh chấp dân sự theo nghĩa

hẹp. Quy định này nhằm tạo lập sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, sự tương

thích, gắn kết với các quy định về tố tụng để Tòa án công nhận kết quả hòa

giải chứ không xây dựng các quy định về hòa giải theo hướng từng lĩnh vực sẽ

có quy định về hòa giải riêng cho lĩnh vực đó. Bên cạnh đó, vì tính mềm dẻo

trong hoạt động hòa giải nên không giới hạn thẩm quyền hòa giải theo lãnh thổ.

Cần quy định các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm hòa giải nào miễn

sao có được sự thuận lợi nhất cho các bên. Mặc dù vậy, ghi nhận hòa giải dân

sự như là một phương thức giải quyết tranh chấp và xây dựng pháp luật hòa

giải vụ việc dân sự như là pháp luật về tố tụng hòa giải nhưng không đồng

nghĩa kết quả hòa giải lại được xem như phán quyết của Tòa án, vì chỉ có Tòa

án mới là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp nên đối với kết quả hòa

giải muốn được Nhà nước bảo đảm thi hành thì phải được Tòa án công nhận.

Ba là, chú trọng hoàn thiện việc xây dựng Luật Hòa giải, đối thoại tại

Tòa án và nâng cao hiệu quả hoạt động của hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại

Tòa án. Bởi lẽ, tăng cường hòa giải, đối thoại là một trong những định hướng

để đạt được các mục tiêu trong nhiều lĩnh vực thể hiện tại các Nghị quyết

khác nhau của Đảng và Nhà nước, như: Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị

quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 37/2012/QH13 của

Quốc hội; Nghị quyết số 25-NQ/TW, Nghị quyết số 10-NQ/TW, Nghị quyết

số 11-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương. Xuyên suốt những văn bản

này là chủ trương, định hướng và các giải pháp để khuyến khích giải quyết

một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài.

Nhằm tạo ra bước trong cải cách đột phá trong giải quyết tranh chấp

dân sự, khiếu kiện hành chính, TANDTC đã đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc

71

hội xem xét, báo cáo Quốc hội cho bổ sung dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại

Tòa án vào chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội năm 2019 để

Quốc hội xem xét, cho ý kiến đối với dự án Luật này tại kỳ họp dự kiến tháng

5-2019 và xem xét, thông qua tại kỳ họp dự kiến tháng 10-2019. Mục tiêu của

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là khuyến khích các bên sử dụng hòa giải,

đối thoại; giúp các bên có thêm lựa chọn để giải quyết tranh chấp; khắc phục

những hạn chế, vướng mắc của các phương thức hòa giải, đối thoại hiện có;

giải quyết nhanh chóng, triệt để, hiệu quả các tranh chấp; tăng tỷ lệ hòa giải,

đối thoại thành, giảm số lượng các vụ án phải giải quyết bằng hình thức mở

phiên tòa xét xử; tạo thuận lợi cho việc thi hành kết quả hòa giải, đối thoại

thành tại Tòa án; gìn giữ sự đoàn kết trong nhân dân, vì mục tiêu phát triển ổn

định, lâu dài. Việc xây dựng Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án phải bảo đảm

nguyên tắc về cải cách tư pháp, cải cách hành chính như không làm tăng bộ

máy, tổ chức, biên chế của Tòa án nhân dân, thu hút sự tham gia của các

nguồn lực trong xã hội trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện; trình tự, thủ

tục hòa giải, đối thoại đơn giản; bảo đảm kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án

được Tòa án công nhận có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, việc xét xử

là phương thức giải quyết tranh chấp được sử dụng cuối cùng nếu việc hòa

giải, đối thoại tại Tòa án không thành; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm,

pháp luật nước ngoài về hòa giải, đối thoại. Phạm vi hòa giải, đối thoại theo

Luật này được thực hiện đối với các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành

chính; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản

khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án hoặc các mâu thuẫn, tranh

chấp dân sự, hành chính do một hoặc các bên yêu cầu Tòa án hòa giải, đối

thoại. Hoạt động hòa giải, đối thoại theo pháp luật TTDS, pháp luật tố tụng

hành chính không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Luật Hòa giải, đối

thoại tại Tòa án sẽ xác định tiêu chuẩn Hòa giải viên, Đối thoại viên để bảo

đảm lựa chọn được đội ngũ nhân lực có năng lực, trình độ, uy tín, tạo niềm tin

72

cho xã hội. Tùy từng điều kiện, đặc điểm của từng địa phương mà nơi nào có

nhu cầu, đủ điều kiện thì thành lập Trung tâm hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Việc quản lý Trung tâm do lãnh đạo hoặc Thẩm phán Tòa án thực hiện kiêm

nhiệm. Những địa phương không thành lập Trung tâm thì mỗi Tòa án nhân

dân cấp huyện, cấp tỉnh có danh sách Hòa giải viên, Đối thoại viên để thực

hiện việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Tòa án phân công luân phiên một

Thẩm phán để điều phối, tổ chức hoạt động, hỗ trợ Hòa giải viên, Đối thoại

viên. Trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại thuận tiện, linh hoạt, bảo đảm bí mật

thông tin. Thủ tục công nhận kết quả hòa giải, đối thoại tại Tòa án đơn giản,

hiệu lực cao, đáp ứng yêu cầu bảo vệ nhanh quyền, lợi ích của các bên.

Mở rộng thêm nhiều Trung tâm hòa giải tại các địa phương trên cả nước.

Trung tâm hòa giải và Tòa án sẽ bổ trợ cho nhau trong quá trình hoạt động.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; sự quan tâm, ủng hộ

của cấp ủy, chính quyền các cấp và thu hút sự tham gia của nhân dân vào hoạt

động hòa giải, đối thoại tại Tòa án: Xây dựng đất nước phát triển, ổn định lâu

dài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của cả Đảng, Nhà nước và

nhân dân; mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều phải đóng góp thực hiện trách

nhiệm này. Lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước đã cho thấy mọi thắng lợi,

thành tích mà nhân dân ta đã đạt được trong bất kỳ lĩnh vực nào đều không

tách rời sự lãnh đạo của Đảng; vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định

cả trong lý luận và thực tiễn; yêu cầu về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối

thoại đã, đang và tiếp tục cần sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của Đảng, sự

ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp và nhân dân. Sự tham gia

của nhân dân vào hoạt động hòa giải không chỉ thể hiện ở sự đóng góp bằng

nhân lực chất lượng cao từ xã hội tham gia làm Hòa giải viên, Đối thoại viên,

mà còn là sự mạnh dạn đặt niềm tin của tổ chức, cá nhân vào việc giải quyết

tranh chấp thông qua hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Nhân dân có tham gia giải

quyết tranh chấp bằng hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì mô hình này mới có cơ

73

hội để thực hành, rút kinh nghiệm và phát triển. Kết quả thí điểm tại thành

phố Hải Phòng là minh chứng rất rõ về tác dụng từ sự chỉ đạo, ủng hộ của cấp

ủy, chính quyền các cấp và niềm tin của nhân dân vào mô hình này.

Đầu tư nguồn lực của Nhà nước vào hoạt động hòa giải, đối thoại tại

Tòa án: Để thực hiện hòa giải, đối thoại tại Tòa án theo dự án Luật này trên

phạm vi cả nước, bên cạnh việc xã hội hóa bằng cách tăng cường huy động

nguồn nhân lực không nằm trong biên chế nhà nước, thì Nhà nước phải có sự

đầu tư cơ sở vật chất, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho Hòa giải viên,

Đối thoại viên và một khoản chi nhỏ khi hòa giải thành, đối thoại thành. Mô

hình này được thực hiện sẽ sử dụng hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước đầu

tư; tiết kiệm chi phí cho người dân và xã hội, ổn định của các quan hệ xã hội -

đây cũng là mục tiêu phát triển của văn minh nhân loại.

3.1.2. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Việt

Nam đã làm cho các quan hệ dân sự trở nên sôi động, đa dạng và phức tạp. Vì

vậy mà tranh chấp dân sự phát sinh ngày một nhiều hơn, đa dạng về chủng

loại và phức tạp về nội dung. Các tranh chấp dân sự phát sinh đòi hỏi phải

được giải quyết thỏa đáng bằng một phương thức thích hợp nhằm bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc

giải quyết tranh chấp dân sự mà pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự

luôn được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật dân sự. Quá

trình đổi mới toàn diện đất nước với trọng tâm là cải cách kinh tế, chuyển từ

nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa đã tác động sâu sắc đến hệ thống pháp luật dân sự nói chung và

pháp luật về giải quyết tranh chấp dân sự nói riêng. Trong điều kiện kinh tế

thị trường, việc giải quyết tranh chấp dân sự phải chính xác, nhanh chóng, dân

chủ, công bằng và hiệu quả. Yêu cầu đổi mới pháp luật về giải quyết tranh

74

chấp dân sự ngày càng trở nên cấp thiết, nhất là khi công cuộc cải cách kinh

tế ở nước ta đang đi vào cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Phúc đáp các yêu cầu

thực tiễn đặt ra cho công tác giải quyết tranh chấp dân sự, cơ chế giải quyết

tranh chấp dân sự đã được thiết lập với sự đa dạng về phương thức giải quyết,

đơn giản, linh hoạt về thủ tục áp dụng. Giải quyết tranh chấp bằng phương

thức hòa giải như một phương thức giải quyết độc lập là biện pháp giải quyết

tranh chấp phù hợp với xu thế của thời đại.

Hoàn thiện nền kinh tế thị trường theo Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày

3/6/2017, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII

(năm 2017) với mục tiêu tổng quát là: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng

thành công và vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa; góp phần huy động và phân bổ, sử dụng có hiệu quả

nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững

vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghị quyết

cũng đề ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020 và mục tiêu đến năm 2030 là: Hoàn

thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Thống nhất nhận thức: Nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành

đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm

định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất

nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý

của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh

đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

3.1.3. Tôn trọng quyền tự do định đoạt

Quyền tự định đoạt là quyền cơ bản của các chủ thể khi tham gia các

quan hệ dân sự. Khi có tranh chấp xảy ra, việc hòa giải hoặc không hòa giải là

quyền định đoạt của đương sự. Quyền này được tôn trọng triệt để nhưng

75

không phải tuyệt đối, bởi lẽ hòa giải và những nội dung thỏa thuận của các

đương sự phải tuân thủ các nguyên tắc của giao lưu dân sự. Đương sự có

quyền nhưng cũng có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác và phải đặt

trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và

tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án tạo điều kiện thuận

lợi cho các đương sự hòa giải không chỉ bảo đảm quyền tự định đoạt của

đương sự mà còn nhằm mục đích rút ngắn quá trình tố tụng, nâng cao hiệu

quả xét xử.

Quyền tự định đoạt của đương sự là một trong những nhóm quyền đặc

biệt quan trọng và không thể thiếu được của đương sự. Để đảm bảo quyền tự

định đoạt của đương sự đòi hỏi phải có hệ thống cách thức, biện pháp từ phía

đương sự và từ phía các chủ thể khác như: Tòa án, Viện kiểm sát và các cá

nhân, cơ quan, tổ chức khác tham gia tố tụng là người làm chứng, người giám

định, người phiên dịch, người định giá… khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền

hạn hay quyền, nghĩa vụ của mình nhằm tôn trọng và bảo đảm quyền tự định

đoạt của đương sự. Mặt khác, cơ chế bảo đảm quyền tự định đoạt của đương

sự cũng đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực

hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và quyền hạn của mình; đồng thời hạn chế

đương sự lạm dụng quyền tự định đoạt trong hoạt động tố tụng. Việc nghiên

cứu một cách toàn diện và có hệ thống về "Cơ chế bảo đảm quyền tự định

đoạt của đương sự trong TTDS đáp ứng tiến trình cải cách tư pháp ở Việt

Nam" là hết sức cần thiết góp phần đề xuất những giải pháp đồng bộ, toàn

diện và phù hợp để hoàn thiện pháp luật ghi nhận và bảo đảm quyền tự định

đoạt của đương sự và các giải pháp khác nhằm thực hiện hóa các chủ trương

của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.

Phải đảm bảo quyền tiếp cận công lý và quyền bình đẳng của các

đương sự trong giải quyết vụ việc dân sư tại Tòa án. Quyền tiếp cận công lý

với tư cách là quyền con người trong nhà nước pháp quyền là khả năng của

76

chủ thể yêu cầu nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp

luật nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nước khi có

tranh chấp hoặc xử lý vi phạm pháp luật, thể hiện ở những mặt sau: quyền

tiếp cận thông tin pháp luật; quyền trợ giúp pháp lý, quyền tiếp cận giáo dục

đào tạo pháp luật các quyền này được thực hiện bởi một hệ thống tư pháp

công bằng và hiệu quả. Quyền tiếp cận công lý bao gồm quyền được trợ giúp

pháp lý của những người yếu thế trong xã hội. Muốn tiếp cận công lý một

cách dễ dàng, người dân phải có trình độ hiểu biết nhất định về pháp luật.

Trình độ này làm tăng khả năng nhận thức của họ biết thế nào là công bằng, là

bất công, biết chấp nhận trật tự xã hội, biết công lý nằm ở đâu và tiếp cận nó

như thế nào. Vì vậy, quyền được giáo dục, đào tạo pháp luật là một yếu tố của

quyền tiếp cận công lý.

Phải góp phần nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của đương sự tại Tòa án. Trong những vụ việc dân sự phức tạp thì việc thực

hiện được quyền, nghĩa vụ chứng minh của các đương sự không phải đơn

giản. Để bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, các

đương sự cần sự hỗ trợ pháp lý từ mọi phía. Vì vậy, vấn đề đặt ra là bảo đảm

quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS phải góp phần nâng cao được

hiệu quả của việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự qua công tác

xét xử của Tòa án. Theo đó, phải bảo đảm được tất cả các điều kiện cần thiết

như điều kiện về pháp luật, điều kiện về kinh tế, xã hội… để đương sự bảo vệ

được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong TTDS.

Phải góp phần thực hiện đường lối, chủ trương cải cách tư pháp của

Đảng và Nhà nước ta. Ngày nay, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta vẫn

tiếp tục được đẩy mạnh. Mục tiêu của công cuộc cải cách tư pháp đến năm

2020 theo Nghị quyết số 49/NQ-TW là: "Xây dựng nền tư pháp trong sạch,

vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục

vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư

77

pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực

cao". Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS là bảo đảm các

điều kiện cần thiết để cho đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước cơ

quan tư pháp nên có tác dụng thực hiện mục tiêu của cải cách tư pháp. Vì vậy,

bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự phải góp phần thực hiện đường lối,

chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta.

Phải đáp ứng được yêu cầu của việc phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước trong hội nhập khu vực và toàn cầu. Việc thực hiện đường lối, chủ

trương chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, cũng

đặt ra những đòi hỏi mới đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa

án. Theo đó, việc giải quyết các vụ việc dân sự cần phải được nhanh chóng,

dân chủ, minh bạch và đúng pháp luật để bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp

của các chủ thể trước Tòa án, góp phần ổn định các quan hệ xã hội, làm cho

xã hội phát triển. Vì vậy, bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong

TTDS phải đáp ứng được những yêu cầu mới của việc phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước trong hội nhập khu vực và toàn cầu, động viên được mọi

người tham gia vào các quan hệ xã hội, tạo động lực và điều kiện cần thiết để

thực hiện đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà

nước đã đề ra.

3.2. Một số giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật về hòa giải

tranh chấp dân sự

Thứ nhất: Chủ thể hòa giải

a. Hòa giải viên:

Cần quy định Hòa giải viên như một nghề, đặt tiêu chuẩn về năng lực

hòa giải, hiểu biết pháp luật hiện hành là một trong những tiêu chí hàng đầu.

Hòa giải viên là người hỗ trợ các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp,

không phải là người đưa ra kết luận, quyết định hay phán quyết cuối cùng như

Trọng tài hay Thẩm phán. Không nên quy định áp đặt Hòa giải viên phải tiến

78

hành hòa giải theo một cách thức hay một trình tự, thủ tục nào. Nhưng Hòa

giải viên phải hoạt động độc lập, khách quan, công bằng và theo lẽ phải. Hòa

giải viên phải từ chối tiến hành hòa giải nếu bản thân có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan đến vụ việc hòa giải hoặc vì lý do khác dẫn đến không thể bảo đảm

khách quan, công bằng trong hòa giải. Hòa giải viên có nghĩa vụ bảo mật

thông tin về vụ việc mà mình tiến hành hòa giải, trừ trường hợp được sự chấp

thuận của các bên tranh chấp, hoặc phải cung cấp thông tin cho các cơ quan

có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Hòa giải viên không được trở

thành người đại diện hay tư vấn cho một trong các bên. Nguồn Hòa giải viên

là những người hiện đang công tác với vai trò là Thư ký Tòa án, Thẩm tra

viên, Thẩm phán, Kiểm tra viên, Điều tra viên, Luật sư, Luật gia, người làm

công tác pháp luật… Họ là những người trong độ tuổi làm việc, nhanh nhạy,

linh hoạt và cập nhật thường xuyên sự thay đổi của pháp luật.

Tiếp tục thực hiện đề án: "Nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở

cơ sở giai đoạn 2019-2022" được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày

18/4/2019. Mục tiêu tổng quát của Đề án nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ

hòa giải viên ở cơ sở để giải quyết kịp thời, hiệu quả các mâu thuẫn, tranh chấp,

vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở; góp phần tạo chuyển biến

căn bản, toàn diện trong công tác hòa giải ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu của nhiệm

vụ trong giai đoạn mới; giảm số vụ việc phải đưa ra Tòa án và các cơ quan

nhà nước giải quyết; tiết kiệm thời gian, chi phí của xã hội và của Nhà nước.

Giai đoạn 1 (từ năm 2019 đến hết năm 2020), phấn đấu hoàn thành Bộ

tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho hòa giải viên, các tài liệu bồi

dưỡng cho đội ngũ tập huấn viên và các tài liệu tham khảo, hỗ trợ khác phục vụ

việc nâng cao năng lực cho hòa giải viên ở cơ sở và đội ngũ tập huấn viên.

Ít nhất 95% tổ hòa giải ở cơ sở được củng cố, kiện toàn đủ số lượng,

thành phần cơ cấu hòa giải viên theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở; từ

60% - 75% hòa giải viên ở cơ sở được tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp

79

vụ hòa giải ở cơ sở theo Chương trình khung và Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp

vụ hòa giải ở cơ sở do Bộ Tư pháp ban hành. Đối với các xã, phường, thị trấn

được chọn làm điểm chỉ đạo của Trung ương, tỷ lệ này là 100%.

Giai đoạn 2 (từ năm 2021 đến hết năm 2022): 100% hòa giải viên ở cơ

sở mới được bầu, bổ sung, kiện toàn hàng năm được tập huấn, bồi dưỡng kỹ

năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở theo Chương trình khung và Bộ tài liệu bồi

dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở do Bộ Tư pháp ban hành; ít nhất 90% hòa

giải viên ở cơ sở được tiếp cận và sử dụng Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ

hòa giải ở cơ sở bằng các hình thức phù hợp để tự nâng cao năng lực, nghiệp

vụ hòa giải.

Từ 80% - 90% hòa giải viên ở cơ sở được tập huấn, bồi dưỡng kỹ

năng, nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở theo Chương trình khung và Bộ tài liệu bồi

dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở do Bộ Tư pháp ban hành; hoàn thành việc

thực hiện các hoạt động chỉ đạo điểm, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng

trên phạm vi cả nước.

Để đạt được mục tiêu trên, Đề án đề ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ

yếu như xây dựng Bộ tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho đội

ngũ hòa giải viên ở cơ sở và đội ngũ tập huấn viên; xây dựng đội ngũ tập

huấn viên có đủ khả năng, kiến thức, phương pháp để hướng dẫn, tổ chức bồi

dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên ở cơ sở; thực hiện chỉ

đạo điểm; xây dựng đội ngũ hòa giải viên có đủ tiêu chuẩn, năng lực đáp ứng

yêu cầu của công tác hòa giải ở cơ sở; ứng dụng công nghệ thông tin trong

việc nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở.

Trong đó, đối với việc thực hiện chỉ đạo điểm, Bộ Tư pháp phối hợp

với các địa phương lựa chọn, thực hiện điểm 24 đơn vị cấp xã thuộc 8 tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương đại diện các vùng miền cả nước (ưu tiên địa

bàn có tỉ lệ hòa giải thành thấp hoặc địa bàn có nhiều vướng mắc trong triển

khai Luật Hòa giải ở cơ sở).

80

Hoạt động chỉ đạo điểm tập trung vào hướng dẫn, tạo điều kiện cho

đội ngũ luật sư, luật gia, người đang và đã từng là thẩm phán, kiểm sát viên,

điều tra viên, chấp hành viên, thẩm tra viên trong cơ quan tiến hành tố tụng,

cán bộ, công chức, viên chức có đủ tiêu chuẩn đang thường trú ở cơ sở tham

gia làm hòa giải viên hoặc hỗ trợ pháp lý cho tổ hòa giải ở cơ sở; bồi dưỡng

nghiệp vụ cho hòa giải viên; xây dựng mô hình tổ hòa giải tiêu biểu xuất sắc...

Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào

tình hình thực tế và đặc thù của địa phương, chủ động lựa chọn một số đơn vị

cấp xã để thực hiện chỉ đạo điểm, ưu tiên tập trung lựa chọn các xã chưa đạt

tiêu chí về hòa giải ở cơ sở khi đánh giá xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp

cận pháp luật.

b. Thẩm phán

Hòa giải là một hoạt động bắt buộc Tòa án phải tiến hành trước khi

xét xử sơ thẩm. Trong giai đoạn này, Thẩm phán là người đứng ra chủ trì việc

hòa giải giữa các bên đương sự. Vì vậy, Thẩm phán có vai trò quan trọng đối

với việc hòa giải. Thực tế đã chứng minh, nhiều quy định của pháp luật về

hòa giải đã được ban hành nhưng do trình độ, năng lực của Thẩm phán chưa

tốt nên áp dụng không đúng pháp luật, dẫn đến việc hòa giải không đạt kết

quả hoặc công nhận sự thỏa thuận của đương sự không đúng.

Những người làm công tác hòa giải cần phải xác định đúng vị trí, vai

trò cũng như mục đích, ý nghĩa của công tác hòa giải: đây là công tác đòi hỏi

những người thực hiện phải nắm vững và thực hiện đúng đắn những nội dung

của công tác hòa giải trong thực tiễn, khắc phục những biểu hiện thông suốt

về mặt lý thuyết nhưng lại coi nhẹ việc hòa giải khi giải quyết những vụ án

dân sự cụ thể. Việc xác định được vị trí, vai trò cũng như mục đích, ý nghĩa

của công tác hòa giải rất cần thiết đối với cán bộ Tòa án. Mục đích chính của

việc hòa giải là hàn gắn những mâu thuẫn giữa các bên đương sự và tạo cơ

hội, điều kiện để họ tự thương lượng với nhau trong giải quyết tranh chấp tại

81

Tòa án nên các Thẩm phán cần phải biết phối hợp chặt chẽ với các cá nhân, tổ

chức có chức năng trợ giúp pháp lý, có nghiệp vụ chuyên sâu về lĩnh vực

tranh chấp để những người này cùng tham gia vào quá trình hòa giải tại Tòa

án. Ngoài việc nhận thức rõ vai trò, vị trí, mục đích, ý nghĩa của công tác hòa

giải, người làm công tác này phải nắm vững chính sách, pháp luật TTDS nói

chung và những vấn đề có liên quan đến vụ án nói riêng; đề cao tinh thần

trách nhiệm đối với công việc, đối với các bên đương sự và phải có tác phong

công tác khoa học, thận trọng, khách quan và vô tư.

Đối với việc nâng cao trình độ, trước hết, Thẩm phán phải có bổn

phận tự mình nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn. Bên cạnh đó, lãnh đạo

các đơn vị cần thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng và nâng cao trình

độ chuyên môn, kỹ năng hòa giải cho các Thẩm phán bởi người làm công tác

xét xử không chỉ cần nắm vững pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ thông thạo mà

còn phải nắm được tâm lý của đương sự, xử lý linh hoạt thì mới có thể tạo

dựng được lòng tin của các đương sự trong quá trình hòa giải. Ngoài tập huấn,

bồi dưỡng cũng cần tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi phương pháp hay, sáng

tạo để các Thẩm phán có cơ hội học hỏi, trao đổi những kinh nghiệm trong

công tác hòa giải.

Để có được những Thẩm phán có thể đáp ứng được yêu cầu của công

tác hòa giải, bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, của công dân thì cần xây dựng

những tiêu chuẩn nhất định căn cứ vào tính chất của từng loại vụ việc cũng như

vào trình độ hiểu biết tâm lý con người trình độ hiểu biết xã hội của Thẩm

phán, có như vậy công tác hòa giải mới có thể đạt kết quả tốt. Ví dụ: khi hòa

giải một vụ án ly hôn, Tòa án nên chọn Thẩm phán không những chỉ có trình độ,

kiến thức về mặt pháp lý mà còn phải là người đã có kinh nghiệm trong cuộc

sống gia đình để giải quyết. Nếu vụ án ly hôn được giao cho Thẩm phán quá trẻ

hoặc chưa có gia đình giải quyết thì người Thẩm phán đó khó có đủ kinh nghiệm

để làm cho công tác hòa giải đạt được kết quả, bởi vì mục đích của việc giải

82

quyết vụ án xin ly hôn không phải là để đạt được yêu cầu của nguyên đơn là

ly hôn mà là làm thế nào để tránh cho sự tan vỡ của một gia đình, tránh cho

xã hội và cho chính bản thân các thành viên trong gia đình đó những hậu quả

xấu về nhiều mặt… Vì thế, nghệ thuật hòa giải của người Thẩm phán nhiều

khi lại là một vấn đề quyết định đến hiệu quả của công tác hòa giải.

Hòa giải vụ án dân sự không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm

của Thẩm phán. Hòa giải vụ án dân sự có thể đi được đến kết quả hòa giải

thành hay không một phần phụ thuộc vào việc Thẩm phán thực hiện trách

nhiệm hòa giải của mình đến đâu. Mỗi Thẩm phán cần phải xác định được

cho mình trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi

tham gia giải quyết các vụ án dân sự nói chung và hòa giải vụ án dân sự nói

riêng. Do đó, bên cạnh việc nâng cao năng lực chuyên môn của Thẩm phán

thì còn phải bồi dưỡng đạo đức, nâng cao tinh thần trách nhiệm của Thẩm

phán. Thiết nghĩ, có nên chăng, tương tự như Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề

nghiệp luật sư Việt Nam, ngành Tòa án cũng nên có Quy tắc đạo đức, ứng xử

của Thẩm phán như một thước đo chuẩn mực đạo đức để các Thẩm phán tự

mình soi xét. Đồng thời, TAND các cấp, TANDTC cần có những cuộc họp

tổng kết chuyên đề, triển khai các lớp tập huấn để xây dựng phong cách làm

việc chính xác, khoa học.

Thứ hai: Phạm vi hòa giải

Hòa giải ở cơ sở: Tiếp tục đề cao và phát huy vai trò hòa giải ở cơ sở

thông qua việc thu hẹp phạm vi để nâng cao chất lượng công tác hòa giải ở cơ

sở. Theo đó, phạm vi hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn,

vi phạm pháp luật mà không bao gồm "tranh chấp" như hiện nay. Điều này

không gây ra sự chồng chéo, lấn sân giữa hòa giải ở cơ sở và hòa giải các vụ

việc dân sự.

Để đảm bảo hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án là hoạt động độc

lập, không phụ thuộc vào cơ chế hoạt động của Tòa án. Đồng thời nhằm đảm

83

bảo các quy định tại Dự thảo có sự thống nhất trong việc xác định hoạt động

hòa giải, đối thoại tại Tòa án là thủ tục không bắt buộc, Dự thảo nên mở rộng

phạm vi áp dụng không chỉ đối với những trường hợp đã có đơn khởi kiện,

đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính mà áp dụng cả

đối với những trường hợp tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc

thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhưng các bên không lựa chọn khởi kiện

mà lựa chọn cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Quy định theo hướng này

thể hiện đúng tinh thần khi đề nghị xây dựng dự án Luật, đó là xây dựng cơ

chế pháp lý mới để các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, đối

thoại; đồng thời, không chồng chéo, mâu thuẫn với các cơ chế pháp lý hiện

hành [31]. Sự thay đổi trên nhằm hướng tới khẳng định hoạt động hòa giải,

đối thoại được tiến hành tại Tòa án là hoạt động độc lập, chỉ tiến hành hòa

giải, đối thoại nếu như các bên đương sự đồng ý.

Thứ ba: Quy trình hòa giải

Đối với hòa giải tại Trung tâm hòa giải tại Tòa án: cần quy định giao

cho Trung tâm hòa giải và Hòa giải viên có quyền chủ động về trình tự, thủ

tục, cách thức tiến hành hòa giải. Bởi vì, vụ việc hòa giải rất đa dạng kể cả nội

dung và hình thức, các bên trong tranh chấp có độ tuổi, trình độ, địa vị xã hội,

hiểu biết pháp luật khác nhau nên cần đưa ra quy định cho phép Hòa giải viên

được chủ động làm tất cả những việc pháp luật không cấm với mục tiêu cốt

lõi là để cho các đương sự đạt được thỏa thuận, chấm dứt tranh chấp.

Đối với hòa giải theo thủ tục TTDS: cần có những quy định về việc

hòa giải phải được thực hiện từ khi nhận đơn khởi kiện đến khi kết thúc việc

xét xử mà không chỉ giới hạn trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm - từ khi

thụ lý vụ án đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 205 BLTTDS).

Giai đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án: Trong giai đoạn này, pháp luật hiện hành

không quy định việc tiến hành hòa giải, mặc dù trong giai đoạn này, đương sự

hoàn toàn có thể thỏa thuận ngay với nhau về việc giải quyết vụ án. Giai đoạn

84

xét xử phúc thẩm: Pháp luật hiện hành không quy định về việc hòa giải tại

giai đoạn này. Thực tiễn cho thấy, vì chưa có hướng dẫn cụ thể về cách thức

tiến hành nên không ít Thẩm phán lúng túng khi tiến hành hòa giải và ghi

nhận việc hòa giải thành ở từng giai đoạn tố tụng. Việc đơn thuần chỉ thực

hiện đúng quy định tại khoản 4 Điều 210 BLTTDS sẽ không mang lại hiệu

quả cao khi tiến hành hòa giải. Do vậy, cần thiết phải quy định cụ thể về trình

tự, thủ tục hòa giải, nguyên tắc hòa giải, thời điểm tiến hành hòa giải, việc sử

dụng các tài liệu, chứng cứ trong hòa giải, cách thức, thành phần, thời gian, địa

điểm tiến hành hòa giải và việc giải quyết khi hòa giải thành để áp dụng xuyên

suốt cho toàn bộ quá trình tố tụng chứ không chỉ tại giai đoạn tố tụng nào.

Thứ tư: Kết quả hòa giải

Cần có quy định về giá trị của kết quả hòa giải thành: Không làm thay

chức năng của Tòa án và để phù hợp với pháp luật TTDS cũng như tinh thần

chỉ đạo của Nghị quyết 49 - NQ/TW của Bộ Chính trị, kết quả hòa giải thành

của Hòa giải viên khi được Tòa án công nhận sẽ được Nhà nước bảo đảm thi

hành[31].

Đối với kết quả hòa giải thành ở Trung tâm hòa giải: cần tham khảo

quy định tại khoản 1 Điều 212 BLTTDS 2015 để quy định hình thức xử lý kết

quả hòa giải, đối thoại thành theo hướng: Sau khi có kết quả hòa giải, đối

thoại thành, Hòa giải viên, Đối thoại viên sẽ lập biên bản ghi nhận kết quả hòa

giải, đối thoại thành sau đó các bên tham gia hòa giải, đối thoại ký tên vào

biên bản; Hòa giải viên, Đối thoại viên ký xác nhận vào biên bản hòa giải, đối

thoại thành. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải, đối thoại

thành các bên tham gia hòa giải, đối thoại không thay đổi ý kiến thì biên bản

hòa giải, đối thoại thành thì Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại sẽ xem

xét và ra quyết định "Công nhận kết quả hòa giải thành" đối với vụ việc dân

sự hoặc "công nhận kết quả đối thoại thành" đối với khiếu kiện hành chính.

Quy định theo hướng trên nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên tham gia hòa

85

giải, đối thoại, bảo đảm giải quyết triệt để, hiệu quả các vụ việc dân sự, các

khiếu kiện hành chính. Bởi vì quyết định có hiệu lực thi hành ngay (các bên

không được kháng cáo, Viện kiểm sát không được kháng nghị theo thủ tục

phúc thẩm) nên cần phải có thời gian cho các bên tham gia hòa giải, đối thoại

cân nhắc, suy nghĩ những nội dung mà mình đã thỏa thuận.

Thứ năm: Về án phí

Hòa giải theo thủ tục TTDS: pháp luật hiện hành quy định: "Các bên

đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp

Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án

phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch" [27, khoản 7, Điều 26];

"Trường hợp các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết

vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự sơ

thẩm như trường hợp xét xử vụ án đó [27, khoản 8 Điều 26].

Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc

giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm thì đương sự kháng cáo

phải chịu toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm, về án phí dân sự sơ

thẩm, nếu các đương sự tự thỏa thuận thì các đương sự chịu án phí

dân sự sơ thẩm theo thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì Tòa

án xác định lại án phí dân sự sơ thẩm theo nội dung thỏa thuận về

việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm [27, khoản 5 Điều 29].

Với các quy định này, kể cả các đương sự thỏa thuận được với nhau

về việc giải quyết vụ án tại phiên sơ thẩm hoặc trong giai đoạn xét xử phúc

thẩm thì đương sự vẫn phải chịu 100% án phí dân sự như trường hợp xét xử.

Điều này là không khuyến khích các bên thỏa thuận với nhau về việc giải

quyết vụ án. Dẫn đến việc đương sự có suy nghĩ là Tòa án đã đưa vụ án ra xét

xử rồi thì có thỏa thuận với nhau cũng vẫn phải chịu đủ án phí nên giải quyết

như thế nào cứ để Tòa án quyết định, từ đó cơ hội hòa giải thành giữa các

đương sự không còn. Như vậy, để khuyến khích các đương sự thỏa thuận với

86

nhau về việc giải quyết vụ án (hòa giải thành, cần có quy định ở bất cứ giai

đoạn tố tụng nào mà đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ

án thì chỉ phải chịu 50% án phí.

Thứ sáu: Về cơ sở vật chất

Các Tòa án cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác

hòa giải tại Tòa án như cần bố trí phòng hòa giải với vị trí hợp lý cho những

người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, tạo ra sự gần gũi không

quá xa cách giữa những người tham gia buổi hòa giải, đồng thời tạo sự thoải

mái về tâm lý cho các đương sự. Giống như ở Singapore, Đức, nước ta cũng

nên có nguồn ngân sách riêng để hỗ trợ, khuyến khích, đầu tư cho hoạt động

hòa giải.

Thứ bảy: Nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân

Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp

dân sự là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật

của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Mặt khác, do thiếu hiểu biết

pháp luật nên khi tham gia tố tụng, đương sự vẫn không nắm bắt được quyền

và nghĩa vụ tố tụng của mình khiến cho công tác hòa giải gặp nhiều khó khăn.

Việc nâng cao trình độ pháp luật cho nhân dân theo yêu cầu quản lý nhà nước

bằng pháp luật hiện nay đang là vấn đề cấp thiết.

Để nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân cần triển khai đồng bộ

các hình thức phổ biến, tuyên truyền pháp luật: Tuyên truyền trên các phương

tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền thông qua các hội nghị, tuyên truyền

thông qua công tác hòa giải ở cơ sở, qua công tác xét xử, qua tủ sách pháp

luật, tổ chức các cuộc thi như hòa giải viên tiêu biểu, tìm hiểu pháp luật về

hòa giải dân sự… Bên cạnh việc phát huy ngày càng hiệu quả các hình thức

này, đối với các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng núi cần lựa chọn

hình thức thích hợp như: phát sách nhỏ hướng dẫn thực hiện luật; thành lập

các trung tâm thông tin pháp luật gắn với hoạt động của các trung tâm học tập

87

cộng đồng; tổ chức nói chuyện thường xuyên về pháp luật ở các tụ điểm dân

cư… Trong đó, cần tuyên truyền phổ biến ý nghĩa của công tác hòa giải để

nâng cao nhận thức của nhân dân về vai trò, ý nghĩa của hòa giải trong đời

sống để hiệu quả hòa giải được cao hơn.

Tiểu kết chƣơng 3

Sự phát triển kinh tế đi đôi với công bằng xã hội là bản chất của nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nhà nước ta đang

xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản lý nhà

nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân

được tôn trọng. Trong khi đó, những hạn chế trong pháp luật về hòa giải tranh

chấp dân sự đã tạo ra những rào cản, trở ngại về mặt pháp lý, làm giảm hiệu

quả trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự. Do vậy, trong chương

này, tác giả luận văn tập trung đưa ra phương hướng hoàn thiện và các kiến

nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự. Việc hoàn

thiện pháp luật về hòa giải tranh chấp dân sự sẽ giúp cho các vụ việc dân sự

được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng

pháp luật hòa giải các tranh chấp dân sự ở nước ta, giữ gìn trật tự, kỷ cương,

an toàn xã hội, hàn gắn những rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp phát sinh,

tạo sự đồng thuận và củng cố khối đoàn kết trong nhân dân.

88

KẾT LUẬN

Hòa giải tranh chấp dân sự là phương thức giải quyết tranh chấp hiệu

quả được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng. Việc nghiên cứu một cách

tổng quát, toàn diện hòa giải tranh chấp dân sự giúp chúng ta hiểu đầy đủ về

lý luận cũng như thực tiễn hòa giải tranh chấp dân sự ở nước ta.

Từ những phân tích, so sánh, đánh giá các loại hình hòa giải, luận văn đã

có cái nhìn khái quát về hòa giải tranh chấp dân sự, thực trạng pháp luật về hòa

giải tranh chấp dân sự ở nước ta hiện nay. Phân tích, đánh giá những ưu điểm và

hạn chế của hệ thống pháp luật hòa giải; thực tiễn áp dụng phương thức hòa giải

vào giải quyết tranh chấp dân sự ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét về

những bất cập của hệ thống pháp luật hòa giải tranh chấp dân sự, từ đó có những

phương hướng, kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp luật hòa giải tranh

chấp dân sự ở Việt Nam phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong nước và thế giới.

Ngoài việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về hòa giải

trong tòa án và ngoài tòa án, luận văn còn cho thấy tầm quan trọng của việc ban

hành Luật hòa giải được quán triệt theo hướng: Thể chế hóa các chủ trương,

đường lối của Đảng về việc hoàn thiện pháp luật về hòa giải, đối thoại trong giải

quyết các tranh chấp dân sự, đối thoại các khiếu kiện hành chính; cụ thể hóa

nghị quyết của Quốc hội về nâng cao tỷ lệ hòa giải thành các vụ việc dân sự;

nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả của thiết chế hòa giải, thương lượng trong

giải quyết tranh chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên

quan, giữ gìn sự đoàn kết trong nhân dân; đổi mới thủ tục giải quyết các khiếu

kiện hành chính tại Tòa án; giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội, góp phần

phát triển kinh tế, xã hội. Bảo đảm nguyên tắc về cải cách tư pháp, cải cách

hành chính, không làm tăng bộ máy, tổ chức, biên chế của TAND; bảo đảm

hiệu lực, hiệu quả của hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án: Khuyến khích

các bên tự nguyện sử dụng hòa giải, đối thoại để giải quyết các tranh chấp dân

sự, khiếu kiện hành chính; việc xét xử là phương thức giải quyết tranh chấp

được sử dụng cuối cùng nếu việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án không thành.

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Công Bình (Chủ biên) (2014), Giáo trình Luật tố tụng dân sự

Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

2. Bộ Tư pháp (2017), Công văn số 1503/BTP-PBGDPL ngày 05/5/2017

hướng dẫn thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải

thành ở cơ sở, Hà Nội.

3. Chính phủ (1946), Sắc lệnh số 13/SL ngày 21/01/1946 của Chủ tịch Nước

về tổ chức Tòa án, Hà Nội.

4. Chính phủ (2014), Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định

chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hòa giải ở cơ sở, Hà Nội.

5. Chính phủ (2019), Quyết định số 428/QĐ-TTg ngày 18/4/2019 của Thủ

tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án: "Nâng cao năng lực đội ngũ

hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2019-2022", Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017,

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII, Hà Nội.

8. Dương Quỳnh Hoa (2011), "Hòa giải - Một phương thức giải quyết tranh

chấp thay thế", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 23(208).

9. Bùi Thị Huyền (Chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng

dân sự 2015 (thực hiện từ 01/7/2016), NXB Lao động xã hội, Hà Nội.

10. Bùi Thị Huyền (2016), "Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm

2015 về hòa giải vụ án dân sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, (8).

11. Trần Huy Liệu (1999), "Thực trạng tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ

sở", Thông tin khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ

Tư pháp, Hà Nội.

12. Trần Văn Quảng (2016), "Lại bàn về phương thức giải quyết tranh chấp

thông qua thương lượng, hòa giải, trung gian", Tạp chí Luật sư, (3), tr. 16.

90

13. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội

15. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Hà Nội

16. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội

14. Quốc hội (2013), Luật Hòa giải ở cơ sở, Hà Nội

17. Trần Công Thịnh (2015), "Hòa giải trong việc giải quyết các vụ việc về

hôn nhân và gia đình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt

Nam", Tạp chí Khoa học (Luật học), (1), tập 31, tr. 23-29.

18. Tòa án nhân dân tối cao (2012), Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày

03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn

thi hành một số quy định trong phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại

tòa án cấp sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung

theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.

19. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Báo cáo việc thực hiện nâng cao chất

lượng công tác xét xử theo tinh thần Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính

trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

20. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày

13/012017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành

một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự, Hà Nội.

21. Tòa án nhân dân tối cao (2017), Chỉ thị số 04/2017/CT-CA ngày 03/10/2017

của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc tăng cường công tác hòa

giải tại Tòa án nhân dân, Hà Nội.

22. Tòa án nhân dân tối cao (2018), Công văn số 310/TANDTC-PC ngày

11/10/2018 hướng dẫn về nghiệp vụ triển khai thí điểm về đổi mới, tăng

cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu

kiện hành chính tại Tòa án nhân dân, Hà Nội.

23. Tòa án nhân dân tối cao (2019), Báo cáo số 144/BC-TANDTC ngày

12/6/2019 báo cáo sơ kết triển khai thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa

giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành

chính tại 16 tỉnh, thành phố, Hà Nội.

91

24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận Nhà nước và

pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

25. Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

26. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ

án dân sự, Hà Nội.

27. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2016), Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14

ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử

dụng án phí, lệ phí Tòa án, Hà Nội.

28. Bài nói chuyện của Ngài Chánh án Sundaresh Menon, mục 83, đoạn 20.

29. Bài nói chuyện của Ngài Chánh án Sundaresh Menon, mục 83, các đoạn 17-18.

30. Kang Seung-joon - Tìm hiểu cơ bản về chế độ tư pháp và Luật Hàn Quốc I,

Giáo trình 3 (Đào tạo trung hạn tại Hàn Quốc 2016).

31. Lê Anh Sơn (2018), "Pháp luật về hòa giải ở Việt Nam, một số kiến nghị

hoàn thiện", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tr.37.

Tiếng Anh

32. Black’s Law Dictionary(1991), West Pub. Co.

33. Presses Univ. de France - 2nd Edition (1990).

Trang web

34. Tòa án quốc gia, "Tuyên bố công lý", https://www.statecourts.gov.sg/.

35. Nguyên Bình - Mai Đỉnh, "Các chuyên gia góp ý về Dự thảo Luật Hòa

chuyen-gia-gop-y-ve-du-thao-luat-hoa-giai-doi-thoai-tai-toa-an-294372.html.

giải, đối thoại tại tòa án", http://congly.vn/hoat-dong-toa-an/tieu-diem/cac-

https://moj.gov.vn/tttp/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=48.

36. "Giới thiệu về phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải tại Singapore",

nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp", https://tapchitoaan.vn/bai-

37. Nguyễn Thúy Hiền, "Tăng cường hòa giải, đối thoại là yêu cầu tất yếu nhằm

viet/phap-luat/tang-cuong-hoa-giai-doi-thoai-trong-giai-quyet-tranh-chap-

dan-su-hanh-chinh-tai-toa-an.

92

38. Nguyễn Thanh Mận, "Chuyên đề 3: Kỹ năng hòa giải vụ án dân sự",

http://hvta.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/baiviet?p_page_id=1754

190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=20648728.

39. Minh Ngọc, "Hà Nội tổng kết 5 năm thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở: Đề

phap/ha-noi-tong-ket-5-nam-thi-hanh-luat-hoa-giai-o-co-so-de-nghi-bo-quy-

dinh-phai-co-hoa-giai-vien-la-nu-449312.html.

nghị bỏ quy định phải bỏ hòa giải viên là nữ", https://baophapluat.vn/tu-

93