Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
lượt xem 5
download
Việc nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá được thực tiễn và lý luận của hoạt động bán đấu giá tài sản và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, qua đó để xác định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm và quy trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN DƯƠNG HOµN THIÖN PH¸P LUËT THANH TRA GI¶I QUYÕT KHIÕU N¹I, Tè C¸O TRONG LÜNH VùC B¸N §ÊU GI¸ TµI S¶N LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ XUÂN DƯƠNG HOµN THIÖN PH¸P LUËT THANH TRA GI¶I QUYÕT KHIÕU N¹I, Tè C¸O TRONG LÜNH VùC B¸N §ÊU GI¸ TµI S¶N Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 8380101.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. MAI VĂN THẮNG HÀ NỘI - 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đỗ Xuân Dương
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ................................................... 8 1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản ...................... 8 1.1.1. Những vấn đề lý luận về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản ..................................................... 8 1.1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản................................. 16 1.1.3. Xu hướng phát triển pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo.......................................................................................... 19 1.2. Những vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản.... 26 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản ......... 26 1.2.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản ......................................... 29 1.2.3. Những tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam ................... 31 1.3. Ý nghĩa, vai trò của việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam ......... 36 1.4. Những điều kiện bảo đảm và yếu tố ảnh hướng tới việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản ở Việt Nam .......................... 38 Kết luận Chương 1.................................................................................. 42
- CHƯƠNG 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN....................................... 43 2.1. Thực trạng hoạt động bán đấu giá tài sản tại Việt Nam qua công tác thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo .......................... 43 2.2. Thực tiễn hoàn thiện khung khổ pháp luật về hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản và những vấn đề đặt ra...................................... 63 2.3. Thực trạng hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo về bán đấu giá tài sản và những vấn đề đặt ra .................................................................. 76 Kết luận chương 2................................................................................... 86 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN.......87 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản .................. 87 3.2. Những phương hướng chung về hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản ........ 90 3.3. Những giải pháp hoàn thiện cụ thể............................................ 94 3.3.1. Hoàn thiện khung khổ pháp lý ..................................................... 94 3.3.2. Hoàn thiện cơ chế thực hiện ......................................................... 97 3.3.3. Các đề xuất khác ......................................................................... 99 Kết luận chương 3..................................................................................102 KẾT LUẬN CHUNG .............................................................................103 TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................105 PHỤ LỤC ..............................................................................................107
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực bán đấu giá tài sản được Bộ Tư pháp xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ. Hàng năm, Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động đấu giá tài sản ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Từ thời điểm thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản đến nay khi có Luật đấu giá tài sản năm 2016, Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều Đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại các địa phương trên cả nước, đồng thời tổ chức một số đoàn kiểm tra và nắm tình hình về hoạt động bán đấu giá tài sản tại một số địa phương. Qua công tác thanh tra giải quyết khiếu nại tố cáo, kiểm tra nắm tình hình, Bộ Tư pháp đã phát hiện, chấn chỉnh, xử lý một số sai phạm trong hoạt động bán đấu giá tài sản, phát hiện những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn bán đấu giá tài sản để có các giải pháp tháo gỡ kịp thời. Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản; đề xuất và chủ động phối hợp với Văn phòng Chính Phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan liên quan tổ chức các đoàn công tác liên ngành nắm tình hình triển khai thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản tại một số địa phương qua đó đã kịp thời nghiên cứu, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động bán đấu giá quyền sử dụng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bán đấu giá tài sản. Đồng thời, tạo tiền đề để hoàn thiện và xây dựng hệ thống văn bản liên quan đến hoạt động đấu giá tài sản, trong đó có Luật đấu giá tài sản 2016. 1
- Mặc dù các văn bản pháp luật về bán đấu giá tài sản như Luật đấu giá tài sản năm 2016 và Nghị định 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật đấu giá tài sản đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, lĩnh vực bán đấu giá tài sản vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, tổ chức bán đấu giá tài sản chưa đảm bảo tính công khai, minh bạch, làm cho người có tài sản bán đấu giá (đặc biệt bán đấu giá tài sản thi hành án) bị ảnh hưởng, dẫn đến việc khiếu nại, tố cáo kéo dài. Trong quá trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, Thanh tra Bộ Tư pháp đã phát hiện những tồn tại, hạn chế, cụ thể: + Quy định về tiêu chuẩn trở thành đấu giá viên còn đơn giản; điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bán đấu giá còn chưa cụ thể, dễ dãi; + Quy định về trình tự, thủ tục bán đấu giá còn chưa chặt chẽ, không phù hợp như: việc công khai giá khởi điểm, công khai danh sách người đăng ký tham gia đấu giá, niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá; phương thức trả giá; nhiều kết quả bán đấu giá bị người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và Tòa án hủy do vi phạm trình tự thủ tục bán đấu giá; + Trong quá trình tổ chức bán đấu giá, còn có hiện tượng chiếm dụng tiền đặt trước của khách hàng, thông đồng, dìm giá, tạo quân xanh, quân đỏ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người có tài sản bán đấu giá; + Nhiều doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoạt động thiếu tính chuyên nghiệp, quy mô nhỏ, manh mún, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, trình độ quản lý còn bất cập. Phần lớn các doanh nghiệp đăng ký rất nhiều lĩnh vực hoạt động trong đó có lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Nhiều doanh nghiệp có đăng ký lĩnh vực bán đấu giá tài sản nhưng thực tế không có hoạt động; + Thực tế hoạt động đã xuất hiện tình trạng “cạnh tranh” không lành mạnh giữa các tổ chức bán đấu giá tài sản. Một số tổ chức bán đấu giá không 2
- tuân thủ nghiêm túc về trình tự, thủ tục bán đấu giá, trích lại phần trăm phí cho cơ quan, đơn vị có tài sản bán đấu giá để thu hút sử dụng dịch vụ của tổ chức mình. Điều này gây ảnh hưởng đến uy tín và sự phát triển lành mạnh của hoạt động bán đấu giá tài sản. Xuất phát từ thực tiễn của hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, tác giả tập trung nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, đề xuất các giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Đồng thời, hoàn thiện các khung khổ pháp lý về bán đấu giá tài sản để việc tổ chức bán đấu giá tài sản được công khai, minh bạch, khách quan, đảm bảo quyền lợi của người có tài sản và hạn chế được khiếu nại, tố cáo. Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế làm nảy sinh nhiều mối quan hệ đa phương, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động bán đấu giá tài sản. Do vậy, cũng làm nảy sinh những tranh chấp trong giao thương, trong quan hệ dân sự dẫn đến việc khiếu nại, tố cáo gia tăng, đòi hỏi công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo phải hoàn thiện các thể chế để đáp ứng nhiệm vụ trong thời đại mới. Đồng thời, phải hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là pháp luật về bán đấu giá tài sản để hoạt động bán đấu giá tài sản ngày càng công khai minh bạch nhằm hạn chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật về đấu giá của Việt Nam từng bước được xây dựng và dần hoàn thiện. Văn bản quy phạm pháp luật về đấu giá tài sản đã được quy định trong nhiều văn bản luật và dưới luật. Trong đó, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật thương mại năm 2005, Luật đấu giá tài sản năm 2016 thay thế Nghị định số 3
- 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản là những cơ sở pháp lý quan trọng nhất về hoạt động đấu giá. Những văn bản pháp luật này và những văn bản pháp luật khác có liên quan đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của đấu giá trong giao lưu dân sự ở Việt Nam; từng bước củng cố và phát triển các thiết chế về đấu giá; thống nhất pháp luật về trình tự, thủ tục bán đấu giá; đáp ứng phần lớn nhu cầu của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực này. Qua đó, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong đấu giá được tôn trọng và bảo vệ; giá trị hàng hóa của tài sản được phát huy; tài sản của các cá nhân, tổ chức và Nhà nước được bảo vệ; hạn chế vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đấu giá; tạo môi trường giao dịch cạnh tranh, lành mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, thực tiễn thi hành pháp luật và thực tiễn giao lưu dân sự cho thấy, pháp luật hiện hành về đấu giá đã phát sinh nhiều hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung kịp thời. Vì vậy, học viên đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản” làm đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết về hoạt động bán đấu giá tài sản như: Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả Đặng Thị Bích Liễu: “Các quy định nước ngoài về bán đấu giá tài sản, Luật về bán đấu giá tài sản của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”; Hoạt động bán đấu giá tài sản - thực tiễn và triển vọng của tác giả Đỗ Khắc Trung (Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 11/2007); Một số bất cập của pháp luật về bán đấu giá tài sản của tác giả Nguyễn Văn Mạnh; Thạc sỹ Nguyễn Thị Nga: “Lý luận và thực tiễn đấu giá quyền sử dụng đất”, Tạp chí Luật học, số 5/2004; Nguyễn Mạnh Cường: “So sánh đấu giá hàng hóa trong luật Thương mại với đấu giá tài sản trong Luật Dân sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2008; Đề tài khoa học cấp Bộ: “Giải quyết khiếu tố của nhân dân - Thực 4
- trạng và những bài học kinh nghiệm” (năm 2001) của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong luật khiếu nại, tố cáo (Nguyễn Thế Thuấn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 5 - 2000); Những vướng mắc trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và cách giải quyết (Nguyễn Thắng Lợi, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 8 - 2000); Hoàn thiện Luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện hội nhập quốc tế (Trần Văn Sơn, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7 -2005). Liên quan đến lĩnh vực thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản đã có một số công trình, đề tài khoa học nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo với các cách tiếp cận khác nhau nhằm hoàn thiện những điều kiện cần thiết để thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Đề tài khoa học cấp Bộ Giải quyết khiếu tố của nhân dân – Thực trạng và những bài học kinh nghiệm (năm 2001) của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong luật khiếu nại, tố cáo (Nguyễn Thế Thuấn, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 5 -2000); Những vướng mắc trong giải quyết khiếu nại, tố cáo và cách giải quyết (Nguyễn Thắng Lợi, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 8 - 2000); Hoàn thiện Luật khiếu nại, tố cáo trong điều kiện hội nhập quốc tế (Trần Văn Sơn, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 7 -2005). Phần lớn đề tài, công trình nghiên cứu trên đây đã được nghiên cứu, thực hiện cách đây khá lâu nên nhiều vấn đề lý luận đã không đáp ứng được yêu cầu đặt ra của hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong bối cảnh hiện nay. Bên cạnh đó, do giới hạn trong phạm vi các bài báo khoa học nên nhiều vấn đề liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực này chưa được đề cập một cách thỏa đáng. Bên cạnh đó, về cơ bản các công trình và bài viết nêu trên đã nêu được toàn cảnh của hoạt động bán đấu giá tài sản và đưa ra các giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản của nước ta trong những năm trước đây và giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, chưa có các công 5
- trình và bài viết nào đánh giá về thực trạng của hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Trong những năm gần đây, trước yêu cầu đổi mới đất nước, yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp có nhiều tác giả đề cập đến lĩnh vực pháp luật về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam nhưng ở dưới những góc độ khác nhau. Vấn đề bán đấu giá tài sản không còn mới về mặt lý luận tuy nhiên lại xảy ra nhiều bất cập trong thực tiễn thực hiện. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá được thực tiễn và lý luận của hoạt động bán đấu giá tài sản và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, qua đó để xác định rõ về thẩm quyền, trách nhiệm và quy trình thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản tại nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản”, đề tài sẽ đánh giá một cách toàn diện thực trạng tổ chức bán đấu giá tài sản của các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản và các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp. Qua đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản, đồng thời đề ra các giải pháp để việc bán đấu giá tài sản được công khai, minh bạch khách quan nhằm hạn chế được việc khiếu nại, tố cáo trong bán đấu giá tài sản. 4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu + Hệ thống tri thức lý luận của pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản. Những vấn đề lý luận về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản; + Hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bán đấu giá tài sản; 6
- + Thực tiễn hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản của Thanh tra Bộ Tư pháp + Thực tiễn hoạt động bán đấu giá tài sản của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản (thuộc Sở Tư pháp) và tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp; 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Luận văn được nghiên cứu tại Thanh tra Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh, Cục Bổ trợ tư pháp và các tổ chức bán đấu giá trên phạm vi toàn quốc. Thời gian nghiên cứu từ 2017 đến nay. + Các kết luận giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Bộ Tư pháp trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản; các văn bản quy phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản; các Báo cáo thanh tra, kiểm tra của Sở Tư pháp thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (thời gian từ năm 2017 -2018). 5. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp và một số phương pháp luận khác để lựa chọn những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu. 6. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương Chương 1: Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản Chương 2: Cơ sở thực tiễn hoàn thiện pháp luật thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản Chương 3: Phương hướng và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản 7
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT THANH TRA GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG LĨNH VỰC BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản 1.1.1. Những vấn đề lý luận về thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và hoạt động bán đấu giá tài sản Trải qua các giai đoạn phát triển trong lịch sử lập hiến và lập pháp, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật và đổi mới cơ chế giải quyết nhằm đảm bảo quyền khiếu nại và quyền tố cáo của các chủ thể. Những thay đổi trong cơ chế thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo là một quá trình phát triển của cả một hệ thống pháp luật thực định và cơ sở lý luận cho việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Cho đến nay đã có nhiều công trình, đề tài khoa học nghiên cứu về hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo với mục đích tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2004 thì “Thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp” [16]. Trong cuốn sách “thuật ngữ pháp lý phổ thông” do Nhà xuất bản Pháp lý in năm 1986, định nghĩa thanh tra được xem là một biện pháp (phương pháp) của kiểm tra. Nhiệm vụ thanh tra được uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm. Thanh tra gắn liền với chức năng quản lý nhà nước. Để làm được nhiệm vụ, Thanh tra có thể dựa vào bộ máy chuyên môn của mình và quần chúng. Cơ quan Thanh tra có trách nhiệm xem xét các đơn thư khiếu nại, tố cáo để tìm kiếm những biện pháp giải quyết thoả đáng theo quy định. 8
- Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận thức khác nhau. Đó là sự phản ánh về mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước; về sự kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước: Thời kỳ phong kiến, ở các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan “Ngự sử đài”, người đứng đầu là “Quan ngự sử” với chức năng gần giống như cơ quan thanh tra nhà nước hiện nay. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình. Quan ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền trảm hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền can gián vua. Thời nhà Lê có hàm “Gián nghị đại phu” phong tặng cho bất cứ bề tôi nào dám nói thẳng, nói đúng sự thật, Gián nghị đại phu có quyền đề xuất ý kiến về những việc nhà vua nên làm và can gián nhà vua những việc không nên làm. Năm 1945, ngay sau khi Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập, ngày 23 tháng 11 năm 1945, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Sắc lệnh nêu rõ: “Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ” [13], từ đây thuật ngữ “Thanh tra” xuất hiện, được chỉ một cơ quan cụ thể, quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ. Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta được ban hành. Trong đó quy định quyền “kiểm soát” đối với Chính phủ được giao cho Ban Thường vụ của Nghị viện: “Khi Nghị viện không họp, Ban Thường vụ có quyền kiểm soát, phê bình Chính phủ” [24], thực chất đây là quyền giám sát của cơ quan dân cử (cũng như quyền giám sát của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với Chính phủ). Hiến pháp năm 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc thi hành các quyết định quản lý nhà nước: “Hội đồng Chính phủ ra những thông tư, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các Thông tư và Chỉ thị ấy” và “Ủy ban 9
- hành chính các cấp quản lý công tác hành chính... ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành Quyết định, Chỉ thị ấy” [25]. Như vậy, thanh tra, kiểm tra ở đây ngoài việc xem xét vi phạm của các cơ quan, nhân viên hành chính hay Chính phủ còn mở rộng ra giám sát, kiểm tra các hoạt động xây dựng, ban hành, thực hiện các văn bản pháp quy. Hiến pháp 1980 sử dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là một chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Hiến pháp quy định Hội đồng Bộ trưởng có nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và kiểm tra của Nhà nước” [18, Điều 107, Khoản 15], Điều 110 quy định: “Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra việc thi hành những quyết định của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng” [18]. Về Ủy ban nhân dân, Điều 124 quy định: “Ủy ban nhân dân các cấp chiểu theo quyền hạn do luật định, ra những Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó” [18]. Đến Hiến pháp năm 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ hơn qua các Điều 112, 115, 116 và 124. Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng, trong bộ máy nhà nước; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”. Điều 115 quy định “...Chính phủ ra Nghị quyết, Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó...”. Đối với Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ, thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ “ra Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó...” (Điều 116). Đối với Ủy ban nhân dân, Điều 124 Hiến pháp 1992 cũng quy định “Ủy ban nhân dân... ra Quyết định, Chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó” [19]. Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, hoạt động thanh tra của các tổ 10
- chức thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định nhiệm vụ của các tổ chức thanh tra nhà nước là: Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều tra truy tố, xét xử của các cơ quan điều tra, kiểm sát, toà án và việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế của các cơ quan trọng tài kinh tế [15, Điều 8]. Theo tinh thần Luật Thanh tra năm 2010, Thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật để xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý, phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách pháp luật để kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Thanh tra là một chức năng không thể thiếu của hoạt động quản lý, là một khâu của chu trình quản lý của Nhà nước. Mục đích hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh đó, hoạt động thanh tra dựa trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước từ Trung ương đến địa phương nhưng do sự phân tán của nền hành chính nên các tổ chức thanh tra nhà nước ở các cấp, các ngành gần như lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, trong khi sự chỉ 11
- đạo của cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên có phần trở thành hình thức, kém hiệu quả. Do vậy, hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo nói riêng gồm những đặc điểm chủ yếu sau đây: Một là, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước. Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với vai trò của Nhà nước trong kiểm soát nhà nước, kiểm soát xã hội. Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tất yếu phải có sự quản lý của Nhà nước để điều hoà những hoạt động đơn lẻ và thực hiện những chức năng chung. Như vậy, việc xem xét, định hướng đánh giá kết quả quản lý là một phương diện của quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có quản lý nhà nước ở đó có thanh tra. Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (quy định thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, quy định về tổ chức, quyết định và kết luận thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan có thẩm quyền. Quản lý nhà nước và thanh tra có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét theo cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là chức năng, là công cụ, phương tiện để quản lý nhà nước. Hai là, Thanh tra là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt 12
- chẽ với tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra. Vì vậy, thanh tra phải được Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý. Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Thanh tra (ở đây được dùng với tính chất là một danh từ chỉ cơ quan có chức năng này) luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó. Thanh tra chỉ xuất hiện từ khi Nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu vong của Nhà nước. Theo Mác, đến một giai đoạn nào đó, Nhà nước sẽ tự tiêu vong và khi đó, chức năng thanh tra sẽ cùng với Nhà nước được “xếp bên cạnh chiếc xa kéo sợi và chiếc rìu đồng cổ”. Tóm lại, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra xuất hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Ở các nước trên thế giới, dù mô hình tổ chức hoạt động thanh tra có khác nhau nhưng đều có chung đặc điểm này. Ở nước ta, Pháp lệnh Thanh tra 1990 quy định: “thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa” [15, Điều 1]. Luật Thanh tra năm 2010 quy định: Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật [20]. 13
- Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ quan thanh tra nhà nước có quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện những quyền hạn đó: - Quyết định tổ chức các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch được phê duyệt. - Trình thủ trưởng cơ quan quản lý hành chính phê duyệt hoặc quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. - Yêu cầu đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan. - Niêm phong tài liệu, kiểm kê tài sản, trưng cầu giám định. - Tạm đình chỉ hành vi vi phạm, tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép, thu hồi tài sản. - Xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật (đối với thanh tra chuyên ngành). - Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra, yêu cầu truy cứu trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện, kể cả việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật có dấu hiệu của tội phạm sang cơ quan điều tra để xử lý. - Trong một số trường hợp trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra được cụ thể hoá trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, phương thức tiến hành thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng bị thanh tra... Nếu chỉ chú trọng đến một mặt nào đó mà không thực hiện đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực trên đều dẫn đến hạ thấp vai trò và hiệu quả của hoạt động thanh tra, hạn chế hiệu lực thanh tra. 14
- Ba là, thanh tra có tính độc lập tương đối Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy quản lý nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan, tổ chức tự thực hiện, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý nhà nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tính độc lập tương đối của thanh tra với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp thể hiện ở một số nội dung sau: Các cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác tổ chức, nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên. - Chánh Thanh tra do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm sau khi thống nhất với Chánh Thanh tra cấp trên. - Trong trường hợp những kiến nghị về thanh tra do Chánh Thanh tra báo cáo, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp không nhất trí, Chánh thanh tra có quyền bảo lưu báo cáo với người đứng đầu cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên xem xét, quyết định. - Tổng Thanh tra Chính phủ, Chánh Thanh tra các cấp, các ngành có quyền ra quyết định thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. - Thủ trưởng các cơ quan thanh tra nhà nước được quyền ra quyết định xử lý theo quy định của pháp luật đối với những hành vi vi phạm. Các cơ quan thanh tra nhà nước là bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ và tăng 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 349 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn