VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN XUÂN VĨ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN XUÂN VĨ
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số : 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TÔN THIỆN PHƯƠNG
HÀ NỘI – năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô Học viện Khoa học Xã hội,
đặc biệt là Khoa Luật học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu làm nền
tảng cho việc thực hiện luận văn này.
Tôi đặc biệt cảm ơn Thầy giáo Ts. Tôn Thiện Phương đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo để tôi có thể hoàn tất luận văn thạc sĩ này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và những người đã giúp
tôi thu thập dữ liệu cho việc phân tích để tạo ra kết quả nghiên cứu của luận văn
này.
Cuối cùng, tôi chân thành cảm ơn những người thân trong gia đình đã động
viên và tạo động lực để tôi hoàn thành luận văn này một cách thành công.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục
trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu trong luận văn này được thu thập và sử dụng một cách trung thực. Kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn
nào và cũng chưa được trình bày hay công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào
khác trước đây.
Tác giả luận văn
Trần Xuân Vĩ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ
ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM CỦA CƠ QUAN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN ........................................................................................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận chung về kiểm sát điều tra vụ án hình sự tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em ....................................................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều tra vụ án hình sự
xâm phạm tình dục trẻ em ..................................................................................... 18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TẠI TỈNH QUẢNG NAM ....................... 33
2.1. Tổng quan về tình hình liên quan đến thực trạng kiểm sát điều tra vụ án hình
sự xâm phạm tình dục trẻ em của các Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Nam ........................................................................................................... 33
2.2. Thực trạng kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em của
các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam ........................................... 39
2.3. Đánh giá kết quả hoạt động kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ
em của các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam ............................... 60
2.4. Những hạn chế bất cập và nguyên nhân trong kiểm sát điều tra đối với các
vụ án xâm phạm tình dục trẻ em ............................................................................ 61
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM ................. 66
3.1. Dự báo tình hình về kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ
em trong thời gian tới ............................................................................................ 66
3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến kiểm sát điều tra vụ án hình
sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em ............................................................ 69
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm
hại tình dục trên địa bản tỉnh Quảng Nam .............................................................. 74
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
KSĐT Kiểm sát điều tra
KSV Kiểm sát viên
TAND Toà án nhân dân
TTHS Tố tụng hình sự
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XPTDTE Xâm phạm tình dục trẻ em
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện các mặt
đời sống xã hội, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội, đời
sống của nhân dân ta ngày càng được nâng cao. Lớp thế hệ trẻ được sinh ra sau
những năm tháng chiến tranh luôn tràn đầy sự năng động, sáng tạo, là nhân tố quan
trọng quyết định tương lai tươi sáng của dân tộc. Mỗi trẻ em được sinh ra là niềm
hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. “Trẻ em như búp trên cành. Biết
ăn ngủ, biết học hành là ngoan” câu thơ của Bác Hồ đến nay vẫn còn nguyên những
giá trị. Đầu tư cho việc chăm sóc trẻ em bảo vệ sự phát triển bình thường của trẻ em
cũng chính là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, góp phần vào sự phát triển bền
vững của đất nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em bị bạo
hành, ngược đãi, xâm phạm đến nhân phẩm, sức khỏe, nhất là bị xâm phạm tình dục
ở Việt Nam đã trở nên đáng lo ngại. Các tội phạm XPTDTE vẫn còn diễn ra ở nhiều
nơi, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe của nạn nhân, làm suy
đồi đạo đức xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đời sống văn minh trong xã hội hiện
đại.
KSĐT là hoạt động nằm trong chuỗi hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà
nước ta nhằm đảm bảo mọi hoạt động điều tra hành vi phạm tội phải được thực hiện
đúng quy định của pháp luật. KSĐT là một chức năng hoạt động quan trọng của
VKSND trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Hoạt động KSĐT vụ án hình
sự có vai trò quan trọng trong hoạt động TTHS nhằm bảo đảm cho hoạt động điều
tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, hoạt động KSĐT
còn có vai trò đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện,
xử lý chính xác, kịp thời, nhanh chóng và công minh nhằm nâng cao hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, kỷ cương của pháp luật. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của hoạt động này, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng
và hoàn thiện chủ trương, chính sách cũng như nhiều quy định pháp luật liên quan.
1
Hoạt động KSĐT đã và đang góp phần quan trọng, đảm bảo việc truy tố đúng
người, đúng tội và giảm oan sai. Trong những năm qua, công tác KSĐT các vụ án
hình sự nói chung và các vụ án XPTDTE nói riêng luôn được Lãnh đạo Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đặc biệt quan tâm, chỉ đạo và đạt được những kết quả
đáng kích lệ. Các vụ án XPTDTE đã được xử lý kịp thời, nghiêm minh, góp phần
có hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này, góp phần đảm bảo
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, qua tổng kết, đánh
giá thực tiễn tác giả nhận thấy rằng công tác KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Nam vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: chưa đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của bị hại, thậm chí một số vụ án phải điều tra bổ sung, hủy án để điều tra,
xét xử lại, nhiều đơn vị, nhiều kiểm sát viên không thực hiện công tác KSĐT ngay
từ giai đoạn ban đầu khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm, còn thụ động trong
hoạt động KSĐT đối với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, một số vụ án bị
kéo dài phải gia hạn điều tra làm kéo dài quá trình tố tụng không cần thiết... Để tăng
cường hơn nữa pháp chế cũng như hoạt động giám sát, kiểm tra trong kiểm sát các
hoạt động tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động trong KSĐT đối với
tội phạm XPTDTE nói riêng cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động
của VKSND.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đồng thời để hoạt động này của Viện
kiểm sát hai cấp tỉnh Quảng Nam ngày một tốt hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp và đòi hỏi của xã hội nói chung, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội phạm XPTDTE phạm tội và công
tác KSĐT vụ án hình sự đối với loại tội phạm này đã được một số nhà khoa học và
cán bộ làm công tác thực tiễn tiến hành, công bố trong nhiều công trình khoa học.
Tình hình nghiên cứu đề tài này đã được thể hiện trong các đề tài nghiên cứu khoa
học, luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ luật học, một số giáo trình giảng dạy của các
trường đại học và được đăng tải thường xuyên và liên tục trên các tạp chí chuyên
2
ngành, các kênh truyền thông đại chúng khác. Tác giả đã nghiên cứu, tiếp cận và
tham khảo một số đề tài về hoạt động kiểm sát điều tra của VKSND trong thời gian
gần đây như:
Về giáo trình có: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể
của Trường Đại học Luật TP. HCM năm 2015; của Khoa luật Đại học quốc gia Hà
Nội năm 2015; của Đại học Luật Hà Nội năm 2018;
Một số luận văn liên quan như: Bùi Thị Quyên (2012), Tội hiếp dâm - So sánh
giữa Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số nước, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2012; Nguyễn Việt Khánh Hòa (2010), Tội mua dâm người chưa
thành niên theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 - Lý luận và thực tiễn, Khoa
Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội; Đỗ Tiến Dũng (2012), Các tội xâm phạm tình dục
trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Dương: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng
ngừa, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam; Nguyễn Vinh Huy (2012), Các tội xâm
phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam; Nguyễn Thị Minh Hương (2014), Các tội xâm phạm
tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các bài viết như: Cần sửa đổi các Điều 115 và Điều 116 Bộ luật Hình sự hiện
hành của Trần Quốc Văn, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2011; Những bất cập và phương
hướng hoàn thiện quy định về một số tội xâm phạm nhân phẩm của con người trong
Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, của Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học, số
1/2010; Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ
em và giải pháp khắc phục, của Dương Tuyết Miên, Tạp chí Luật học, số Đặc san
về bình đẳng giới, năm 2005; Trẻ em hiếp dâm trẻ em, trách nhiệm hình sự đối với
bị cáo và sự không hợp lý trong quy định tại khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự, của
Trần Quang Thái, Tạp chí Toà án nhân dân, số 17/2011; Về các tội phạm nhân
phẩm, danh dự của con người, của Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 8(169), tháng 4/2015.
Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
không phải là vấn đề mới. Tuy nhiên, qua tìm hiểu cho thấy việc nghiên cứu về loại
3
tội phạm này hoặc mang tính tổng quát, hoặc mang tính riêng biệt ở từng địa
phương, chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu tổng thể, chuyên sâu ở mức
độ luận văn Thạc sĩ luật học. Đặc biệt là nghiên cứu về những đặc thù của công tác
kiểm sát điều tra của VKSND đối với tội phạm này. Trong đề tài này tác giả đề cập
đến những vấn đề lý luận, thực tiễn trên cơ sở tập hợp, nghiên cứu, đánh giá công
tác kiểm sát điều tra tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong một khoảng thời gian nhất định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu lý luận, khảo sát đánh giá thực trạng kiểm sát điều tra vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại
VKSN hai cấp tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên
cứu sau:
- Nghiên cứu phân tích làm rõ nhận thức lý luận về tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em, hoạt động KSĐT của cơ quan Viện kiểm sát đối với tội phạm này;
- Đánh giá thực trạng tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em và việc
KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em ở VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam;
- Kiến nghị, đề xuất một cách hệ thống nhóm các giải pháp khoa học, thực tiễn
để nâng cao chất lượng công tác KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em của VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả lấy quan điểm khoa học, quy định của pháp luật hình sự về tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em, thực tiễn hoạt động KSĐT với tội này trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam để nghiên cứu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng
hình sự gắn với thực tiễn hoạt động KSĐT với tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
giai đoạn từ năm 2015-T5/2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật
biện chứng kết hợp với phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trưởng của Đảng và Nhà nước ta về công tác đấu
tranh, phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm giải quyết các yêu cầu nghiên cứu đã đặt ra, luận văn sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu sau đây:
+ Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết, bình luận, so sánh, đối
chiếu… được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề nhận thức lý
luận pháp luật về KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.
+ Phương pháp thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu…được sử dụng tại
Chương 2 khi nghiên cứu đánh giá thực tiễn hoạt động KSĐT vụ án hình sự các tội
phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
+ Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm, bình luận, so sánh, tổng hợp,
quy nạp được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục
trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài là một công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về các vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu
và những giải pháp đưa ra trong của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng
cao hiệu quả về áp dụng pháp luật đối với tội xâm phạm tình dục trẻ em đồng thời
góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng
5
Nam nói riêng. Đồng thời, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai
thác, sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn
chuyên đề, giúp cho các kiểm sát viên tham khảo, vận dụng vào hoạt động nghiệp
vụ và công tác, nâng cao chất lượng KSĐT của các cơ quan VKSND tỉnh Quảng
Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là một công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về các vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng thời, nội dung
và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được khai thác, sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn, các hội thảo tập huấn chuyên
đề, giúp cho các Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác KSĐT tội phạm xâm phạm
tình dục trẻ em tham khảo, vận dụng trên thực tế cũng như công tác bồi dưỡng,
nâng cao chất lượng KSĐT của các cơ quan VKSND tỉnh Quảng Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phần bảng phụ lục thì luận văn gồm có 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình
dục trẻ em của Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại
tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng Kiểm sát điều tra vụ án xâm
phạm tình dục trẻ em.
6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN
XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM CỦA CƠ QUAN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Những vấn đề lý luận chung về kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm
phạm tình dục trẻ em
1.1.1. Một số vấn đề lý luận về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.1.1. Khái niệm trẻ em
Để làm rõ được các vấn đề lý luận về tội phạm XPTDTE, trước hết cần phân
tích rõ khái niệm “trẻ em”. Theo đó, tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em
có ghi nhận: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dước 18 tuổi,
trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm
hơn”. Công ước có 54 điều khoản bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống của
trẻ và đặt ra các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà tất cả trẻ em
ở khắp mọi nơi đều được hưởng. Nó cũng giải thích cách người lớn và chính phủ
phải làm việc cùng nhau để đảm bảo tất cả trẻ em đều có thể được hưởng tất cả các
quyền của mình. Tùy thuộc vào pháp luật ở từng quốc gia mà có quy định độ tuổi
cụ thể của người chưa thành niên khác nhau. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và
nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em
vào ngày 20 tháng 2 năm 1990.
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành
niên như: Công ước về Quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua
ngày 20/11/1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp
luật với người chưa thành niên ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về
phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên ngày 14/12/1990.
Hiện nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, việc
xác định trẻ em căn cứ vào độ tuổi vẫn còn chưa có sự thống nhất. Theo đó, tại Điều
1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [23, Điều 1].
7
Như vậy, đây chính là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất đã đưa ra khái niệm cụ
thể về trẻ em. Ngoài ra, trong một số văn bản pháp luật khác cũng có một số định
nghĩa liên quan như: Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên là
người đủ mười tám tuổi” [24, Điều 20] và “Người chưa thành niên là người chưa
đủ mười tám tuổi” [24, Điều 21]; Luật Lao động 2019 lại quy định: “Độ tuổi lao
động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi...” [25, khoản 1 Điều 3] và “Người
lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [25, Điều 143];
Bộ luật hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi về khái niệm trẻ em nhưng cơ bản
vẫn xác định trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Các nhà làm luật nước ta đã cụ thể
hoá nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em bằng cách xác định là độ tuổi cụ
thể của nạn nhân. Bởi lẽ, do Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã có
quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Do đó, việc sửa đổi tên điều
luật bằng xác định cụ thể độ tuổi của nạn nhân thay vì dùng cụm từ chung là “trẻ
em” đã khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn.
Như vậy, các văn bản pháp lý nêu trên đều đề cập khái niệm trẻ em dựa vào
những đặc điểm tâm sinh lý hoặc dựa vào các căn cứ đặc thù của từng ngành nghiên
cứu nhưng chưa có được căn cứ chung để xác định thế nào là trẻ em một cách thống
nhất. Tuy nhiên, việc căn cứ vào độ tuổi để xác định “Trẻ em là người dưới 16
tuổi” chính là quan điểm định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu khoa học và các
học giả đồng tình. Tóm lại, theo pháp luật Việt Nam khái niệm “trẻ em” được xem
là người chưa đủ 16 tuổi và là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Tùy thuộc vào các
quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia, độ tuổi chịu trách nhiệm của trẻ em có khác
nhau, nhưng pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền của trẻ em đối với mọi hành vi
xâm phạm.
1.1.1.2. Khái niệm xâm phạm tình dục trẻ em
Từ khái niệm trẻ em đã được phân tích ở trên cho phép chúng ta có thể tìm
hiểu một cách thuận lợi hơn về nhóm các tội XPTDTE, đó chính là những người từ
dưới 16 tuổi bị người phạm tội có hành vi xâm phạm tình dục. XPTDTE đã được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau nhưng hiện nay vẫn chưa có một
8
khái niệm cụ thể và thống nhất nào được đưa ra. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế
thế giới thì: “Xâm phạm trẻ em bao gồm mọi hình thức ngược đãi về thể chất và
tinh thần, xâm hại tình dục, xao nhãng, bóc lột gây ra những thương tổn về sức
khỏe, tính mạng, khả năng phát triển hay phẩm giá bằng cách lợi dụng chức phận,
lòng tin hoặc quyền hạn”. Bên cạnh đó, tại khoản 8 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016
đã quy định: “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép
buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao
gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục
đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức” [23, Điều 4].
Trên thực tiễn trước đây, dưới góc độ của pháp luật hình sự thì chưa có khái
niệm cụ thể về XPTDTE. Để có cơ sở pháp lý nhằm xử lý ngày càng có hiệu quả
loại tội phạm này, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh cam kết của Việt Nam với
cộng đồng quốc tế trong công tác bảo vệ trẻ em, HĐTP TANDTC đã thông qua
Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy
định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS và việc xét xử vụ án xâm
hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị quyết đã được HĐTP TANDTC thông qua
ngày 20/9/2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/11/2019. Cụ thể tại khoản 1
Điều 2 Nghị quyết này quy định: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào
các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô
với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu
dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng
thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền,
tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến
bộ...).” [20, khoản 1 Điều 2].
Như vậy có thể hiểu, xâm phạm tình dục trẻ em là là việc dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi
liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người
dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới
9
mọi hình thức; do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất hay các lợi ích phi vật
chất.
1.1.1.3. Khái niệm các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
Từ phân tích khái niệm trẻ em và XPTDTE, có thể khái quát khái niệm các tội
phạm XPTDTE như sau: Các tội XPTDTE là những hành vi nguy hiểm cho xã hội,
có lỗi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, được quy định trong
BLHS thực hiện các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ
dỗ người dưới 16 tuổi vào các hành vi liên quan đến tình dục.
Theo BLHS năm 2015 thì các tội XPTDTE được quy định trong năm điều luật
và được sắp xếp vào cùng một Chương XIV Các tội xâm phạm về tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, bởi lẽ giữa hành vi và hậu quả của nó có
mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Từ khái niệm trên có thể thấy tội
XPTDTE có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội,
Tính có lỗi, Tính trái pháp luật hình sự, Tính chịu hình phạt.
Có thể thấy, dấu hiệu pháp lý của tội phạm XPTPTE vẫn được thể hiện qua 4
yếu tố cơ bản của cấu thành tội phạm là: Khách thể; Mặt khách quan; Chủ thể và
Mặt chủ quan của tội phạm.
Thứ nhất, khách thể của các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, được
thể hiện ngay trong tên gọi của Chương XIV đó là: xâm phạm đến quyền sống,
quyền được bảo hộ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đối tượng tác
động của các tội phạm này là con người, cụ thể ở đây là người dưới 16 tuổi.
Như vậy, đối tượng tác động ở đây phải là con người còn sống từ khi sinh ra
cho đến trước khi chết. Điều này để phân biệt các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người với một số tội phạm cũng có những hành
vi phạm tội tương tự nhưng tác động tới đối tượng không phải là con người (người
đã chết...). Sức khỏe của người dưới 16 tuổi là tình trạng sức lực đang sống trong
điều kiện bình thường, là trạng thái tâm sinh lý, sự hoạt động hài hoà trong cơ thể
cả về thần kinh và cơ bắp, tạo nên khả năng chống lại bệnh tật. Hành vi xâm phạm
tình dục trẻ em là hành vi được thực hiển ở dạng hành động hoặc hình thức xâm
10
phạm khác gây ra những tổn thương ở các bộ phận sinh dục trong cơ thể hoặc các
bộ phận khác được cho là nhạy cảm, hậu quả xảy ra có thể gây bệnh tật, làm ảnh
hưởng đến quá trình phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi.
Ngoài ra, hậu quả của hành vi phạm tội xâm phạm tình dục của người dưới 16
tuổi còn làm cho người đó bị tổn thương nghiêm trọng về mặt sức khỏe, tinh thần,
có thể bị gia đình, bạn bè và mọi người xung quanh có thái độ coi thường, khinh rẻ
điều này còn tùy thuộc vào vị trí tuổi tác của người đó và tính chất, mức độ của
hành vi xâm phạm tình dục mà có những mức độ tác động, ảnh hưởng khác nhau.
Thứ hai, tương ứng với mỗi loại tội phạm trong nhóm các tội xâm hại tình dục
trẻ em có các hành vi khách quan khác nhau, có thể là hành vi giao cấu trái pháp
luật hoặc hành vi có tính chất dâm dục đối với trẻ em. Bất kể các hành vi này là gì
thì đều gây ra hậu quả là trẻ em sẽ bị tổn thương sâu sắc về danh dự, nhân phẩm và
sức khỏe, thậm chí là đe dọa đến tính mạng; hậu quả nghiêm trọng hơn là ảnh
hưởng đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em, khiến trẻ em dễ bị
mặc cảm, khó hoà nhập với xã hội. Việc bị xâm hại tình dục trong khi các đặc điểm
về sinh học, thể chất chưa phát triển hoàn thiện có thể gây ra những tổn thương tại
bộ phận sinh dục như: Viêm nhiễm đường tiết niệu, phá vỡ cấu trúc bình thường
của bộ phận sinh dục … Ngoài ra, trẻ em còn có thể bị lây nhiễm các bệnh xã hội,
bệnh lây truyền qua đường tình dục. Với các em nữ việc bị xâm hại tinh dục có thể
khiến các em mang thai ngoài ý muốn gây nguy hiểm cho bản thân và thai nhi vì cơ
thể các em chưa phát triển hoàn chỉnh hoặc là nguyên nhân dẫn đến vô sinh, ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khoẻ sinh sản và hạnh phúc gia đình của các em về sau.
Nhiều trường hợp xâm hại tình dục đi kèm với bạo lực đã dẫn tới tử vong.
Mặt khách quan của tội phạm XHTPTE còn thể hiện ở những thiệt hại về thể
chất; tinh thần và sức khỏe; lây truyền các bệnh nguy hiểm, gây tâm lý bất an trong
đời sống xã hội. Hầu hết các tội phạm XPTDTE có yếu tố cấu thành vật chất, theo
đó hậu quả của hành vi phạm tội là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Thứ ba, mặt chủ quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện thông qua các diễn biến tâm lý bên
11
trong của người phạm tội gồm 03 yếu tố: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Lỗi là
thái độ tâm lý của tội phạm đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và đối với
hậu quả mà hành vi đó đã gây ra, lỗi được thể hiện dưới 02 hình thức bao gồm lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý. Căn cứ vào Điều 10, 11 BLHS năm 2015 thì lỗi cố ý được phân
làm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp; lỗi vô ý gồm lỗi vô ý do cẩu thả và vô ý
do quá tự tin. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện
hành vi phạm tội với lỗi cố ý; Mục đích là kết quả trong ý thức chủ quan mà tội
phạm đặt ra phải đạt được khi tội phạm hoàn thành.
Thứ tư, về chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em.
Trong Phần chung, BLHS năm 2015 đã quy định dấu hiệu chung của chủ thể
của tội phạm. Có thể thấy, pháp luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều thống
nhất coi chủ thể của tội xâm hại tình dục (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội
cưỡng dâm người dưới 16 tuổi) đều là nam giới. Người thực hiện các hành vi khách
quan được quy định trong cấu thành tội phạm của các tội này là nam giới (tức người
thực hành trong các vụ án có đồng phạm) và nữ giới cũng có thể là chủ thể của tội
phạm này nhưng chỉ là đồng phạm đóng vai trò là người tổ chức, xúi giục hoặc
người giúp sức.
Theo quan điểm thông thường và phổ biến cho thấy các hành vi quan hệ tình
dục xảy ra giữa nam và nữ thì nam giới là người giữ vị trí chủ động còn nữ giới là
phái yếu nên không thể có khả năng chủ động thực hiện các hành vi hiếp dâm,
cưỡng dâm... Tuy nhiên, quan điểm phổ biến này đã không còn đúng và phù hợp về
mặt thực tiễn. Bởi lẽ, nữ giới vẫn có khả năng lợi dụng các tình huống mà pháp luật
quy định là tội phạm để thực hiện các hành vi dâm ô, cưỡng dâm, thậm chí là hiếp
dâm đối với nam giới. Do đó, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản
hướng dẫn, dù nam hay nữ vẫn là chủ thể của các tội hiếp dâm, dâm ô và cưỡng
dâm để phù hợp với thực tiễn pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật thế giới.
1.1.2. Một số nội dung mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung
năm 2017 về các tội xâm phạm tình dục trẻ em
1.1.2.1. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142)
12
- Về tình tiết định tội:
Theo quy định của BLHS 2015 thì một trong những yếu tố bắt buộc để chứng
minh một người phạm tội hiếp dâm trẻ em hoặc cưỡng dâm trẻ em là có hay không
có việc thực hiện hành vi “giao cấu” với nạn nhân. Tuy nhiên, thế nào được coi là
“giao cấu” thì trước đây chưa được giải thích hoặc hướng dẫn cụ thể. Chỉ đến khi
Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn
áp dụng một số quy định tại các điều từ Điều 141 - 147 của BLHS và việc xét xử vụ
án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã hướng dẫn cụ thể hành vi này.
Theo từ điển tiếng Việt thì khái niệm “giao cấu” được hiểu: “Giao cấu là việc
giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái,
ở động vật, để thụ tinh”. Tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và
một số tội phạm khác về tình dục số 329-HS ngày 15/5/1967 của Tòa án nhân dân
tối cao có đề cập đến khái niệm “giao cấu”. Cụ thể “giao cấu là hành động chỉ cần
có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ
môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là
sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội Hiếp dâm được coi là hoàn
thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp”. Thực tiễn
hiện nay thì các cách thức giao cấu khá đa dạng và đặc biệt xuất hiện tình trạng ép
buộc hoặc cưỡng bức quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc với
những người chuyển đổi giới tính. Do đó, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC ra đời đã bổ sung thêm trường hợp nếu người phạm
tội “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác mà không được sự đồng ý của nạn
nhân” cũng bị coi là thực hiện các tội phạm này. Khái niệm này ra đời đã kịp thời
phản ánh được những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm
phạm tình dục.
Như vậy, hành vi “giao cấu” và “hành vi quan hệ tình dục khác” theo quy định
tại BLHS năm 2015 vẫn có những cách hiểu khác nhau? Khái niệm giao cấu trước
đây vẫn được hiểu như trong Tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm
và một số tội phạm khác về tình dục số 329-HS ngày 15/5/1967 của Tòa án nhân
13
dân tối cao. Tuy nhiên, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều từ Điều 141 - 147 của
BLHS và việc xét xử vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã hướng dẫn cụ
thể các hành vi này.
Thực tiễn cho thấy, có nhiều trường hợp tuy là trẻ em dưới 10 tuổi nhưng do
đã có sự phát triển về thể chất nên các em trưởng thành sớm so với độ tuổi, thêm
vào đó, việc giao cấu là thuận tình. Do đó, việc quy định mọi trường hợp giao cấu
với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã
xâm nhập hay chưa xâm nhập. đều phải chịu mức hình phạt cao nhất của điều luật là
chưa thật sự hợp lý vì quá nghiêm khắc. Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung đối
tượng tác động “người dưới 13 tuổi” vào cấu thành cơ bản của tội phạm. Trước đây,
khoản 4 Điều 112 BLHS năm 1999 quy định “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em
chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười
hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Với quy định tại Điều 142
thì nhà làm luật đã thể hiện rõ hành vi giao cấu với người dưới 13 tuổi là tình tiết
định tội nhằm đảm bảo nguyên tắc phân hóa TNHS, giao cấu thuận tình với người
dưới 13 tuổi hoặc nạn nhân nói dối về độ tuổi của mình đều cấu thành tội phạm đây
là một điểm tiến bộ trong BLHS năm 2015.
– Về tình tiết định khung tăng nặng:
Nhà làm luật đã bổ sung thêm dấu hiệu “gây thương tích” nhằm bao quát
những trường hợp xảy ra trong thực tế, tránh bản thân cấu thành tội hiếp dâm đã có
yếu tố người phạm tội “dùng vũ lực” giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ
(khung hình phạt cơ bản từ hai đến bảy năm tù). Việc dùng vũ lực có thể gây ra
thương tích cho nạn nhân và điều luật cũng quy định tình tiết “gây tổn hại cho sức
khỏe của nạn nhân mà tỉ lệ thương tật từ 31% đến 60%” là tình tiết định khung
thuộc điểm h khoản 2 (khung hình phạt tù từ bảy đến 15 năm). Tình tiết “gây tổn
hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên” là tình tiết định
khung tại điểm a khoản 3 (khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung
thân). Như vậy, hành vi cố ý gây thương tích (nếu có) đã bị thu hút vào tội hiếp dâm
14
và trở thành tình tiết tăng nặng định khung nếu đủ tỉ lệ thương tật (từ 31% trở lên).
Bổ sung tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến
45%” tại điểm d khoản 2 Điều 142 hoặc tương tự tại điểm đ khoản 3 “46% trở lên”.
Các tình tiết “phạm tội nhiều lần” và điểm d khoản 3 “đối với nhiều người” quy
định tại điểm c khoản 3 Điều 112 BLHS năm 1999 đã được giảm nhẹ khung hình
phạt và chi tiết hơn khi được quy định tại khoản 2 thành “phạm tội 02 lần trở lên”
(điểm e) và “đối với 02 người trở lên” (điểm g) của BLHS năm 2015. Bổ sung tình
tiết định khung tăng nặng tại điểm c khoản 3 Điều 142 BLHS năm 2015 “phạm tội
đối với người dưới 10 tuổi” với mức hình phạt là tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình.
Quy định tại Điều 142 đã thực hiện triệt để nguyên tắc phân hoá trách nhiệm
hình sự, có phân chia độ tuổi và nguyên tắc công bằng BLHS.
1.1.2.2. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144)
Cưỡng dâm là dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang
ở trong tình trạng lệ thuôc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng
giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với mình. Tội
cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định rõ tại Điều 144 Bộ
luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 với 3 khung hình phạt chính:
- Khung 1: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm đối với hành vi dùng mọi thủ đoạn
khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình
hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác
- Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu hành vi cưỡng dâm thuộc một
trong các trường hợp sau: Có tính chất loạn luân; Làm nạn nhân có thai; Gây
thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn
nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 3 1% đến 60%; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với
02 người trở lên; Tái phạm nguy hiểm.
- Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu thuộc một
trong các trường hợp: Nhiều người cưỡng dâm một người; Gây thương tích, gây tổn
15
hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên; Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; Làm nạn
nhân chết hoặc tự sát. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể chịu hình phạt bổ sung.
1.1.2.3. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145)
BLHS sửa đổi 2017 đã sửa đổi tên tội danh “Giao cấu với trẻ em” theo Điều
115 của BLHS năm 1999 thành “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình
dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
– Về tình tiết định tội:
Đối với tội phạm này dấu hiệu định tội ngoài hành vi giao cấu còn có thể thực
hiện hành vi quan hệ tình dục khác, là hành vi giao cấu có sự đồng ý, chấp nhận của
nạn nhân mặc dù người phạm tội không có bất kỳ thủ đoạn nào để ép buộc, khống
chế nạn nhân. Người thực hiện tội phạm có thể đạt được mục đích thông qua nhiều
trường hợp, nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng chung nhất là không có việc sử
dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, lợi dụng tình trạng không chống cự được của
nạn nhân, các thủ đoạn khác hoặc lợi dụng sự lệ thuộc của nạn nhân như ở các tội
hiếp dâm, cưỡng dâm.
– Về tình tiết định khung tăng nặng:
Bên cạnh một số tình tiết có sự thay đổi như đã phân tích đối với tội Hiếp dâm
người dưới 16 tuổi và Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, BLHS năm
2015 đã bổ sung tình tiết “đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm
sóc, giáo dục, chữa bệnh” (điểm e khoản 2 Điều 145). Đây được xem là tình tiết
được quy định trong một số tội trong nhóm các tội XPTDTE là một sự bổ sung kịp
thời nhằm dự liệu hết các trường hợp có thể phát sinh trong thực tế.
– Về hình phạt bổ sung:
Hình phạt bổ sung cho tội này tại khoản 4, cụ thể, “người phạm tội còn có thể
bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm”. Đây là quy định cần thiết nhằm hỗ trợ hình phạt chính, thể hiện sự
nghiêm khắc hơn đối với tội phạm này, đồng thời tương thích với quy định của các
16
tội xâm phạm tình dục khác.
1.1.2.4. Tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146)
– Về tình tiết định tội:
Tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi tại Điều 146 BLHS 2015 được quy định
cụ thể hơn hành vi dâm ô so với BLHS năm 1999, hành vi dâm ô phải “không nhằm
mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”. Tuy
nhiên, BLHS năm 2015 vẫn chưa khái niệm hóa hành vi dâm ô vào điều luật. Từ
trước đến nay, chúng ta vẫn hiểu khái niệm dâm ô theo Bản hướng dẫn số 329 –
HS2 ngày 11/05/1967, là “những hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không phải
là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thỏa mãn tình dục của mình hoặc khêu gợi
bản năng tình dục người đó được coi là dâm ô”. Tuy nhiên khoản 3 Điều 3 Nghị
quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại các điều từ Điều 141 - 147 của BLHS và việc xét xử vụ án
xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã hướng dẫn cụ thể hành vi này.
Về hình phạt, mức hình phạt của tội phạm này được chia làm 3 khung, trong
đó khung 2 (khoản 2) có mức phạt tù từ 3-7 năm, được áp dụng đối với một trong
các trường hợp: Phạm tội nhiều lần (phải có từ 2 lần trở lên dâm ô trẻ em, mỗi lần
có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội dâm ô nhưng chưa lần nào bị truy cứu trách
nhiệm hình sự và còn trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự).
Ngoài ra, cũng được coi là phạm tội nhiều lần nếu một người dâm ô từ 2 lần
trở lên đối với 1 trẻ em; Đối với nhiều trẻ em: Trong một lần phạm tội, người phạm
tội đã có hành vi dâm ô với 2 trẻ em trở lên; Với trẻ em mà người phạm tội có trách
nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
1.1.2.5. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147)
Trường hợp người phạm tội có hành vi đe dọa, ép buộc trẻ em đóng phim
khiêu dâm, biểu diễn các hành vi khiêu dâm hoặc xem những hình ảnh khiêu dâm...
Đây là những hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển bình
thường của trẻ em. Nhằm nội luật hóa một số công ước quốc tế mà Việt Nam tham
gia như Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 và Nghị định thư bổ
17
sung cho Công ước về quyền trẻ em, Công ước số 182 – Công ước nghiêm cấm và
hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất của Tổ chức
Lao động quốc tế năm 1999… chúng ta đã quy định tội này trong BLHS năm 2015
giúp tạo ra cơ sở pháp lý để giải quyết những trường hợp xảy ra trong thực tế, đặc
biệt khi việc XPTDTE ngày càng diễn biến phức tạp dưới nhiều hình thức khác nhau.
Điều 147 BLHS năm 2015 quy định các khung hình phạt như sau:
– Khung 1. (khung cơ bản) Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm
– Khung 2. Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu phạm
tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phạm tội có tổ chức; Phạm tội 02 lần
trở lên; Đối với 02 người trở lên; Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm
chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; Có mục đích thương mại; Gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân ,à tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Tái phạm nguy
hiểm.
– Khung 3. Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt
tù từ 07 năm đến 12 năm: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên; Làm nạn nhân tự sát.
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm..
BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung các nội dung tại các Điều 142, Điều 144,
Điều 145, Điều 147 nhằm cụ thể hóa các hành vi vi phạm, mức độ vi phạm và các
hình phạt tương đương với hành vi đó.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều tra vụ án
hình sự xâm phạm tình dục trẻ em
1.2.1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm
phạm tình dục trẻ em
1.2.1.1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra
- Khái niệm kiểm sát điều tra
Các quy định của pháp luật về hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của Viện
18
KSND được quy định cụ thể trong Hiến pháp, Bộ luật TTHS, Luật tổ chức
VKSND, các văn bản hướng dẫn thi hành cùng văn bản khác liên quan:
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp” [26].
Điều 20 BLTTHS năm 2015 quy định về trách nhiệm của VKSND trong thực
hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là: Viện
kiểm sát THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, quyết định việc
buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý
kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp
nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, cơ quan có thẩm quyền
THQCT và kiểm sát điều tra là VKSND. Hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra
của VKSND được thực hiện thông qua thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của những
người tiến hành tố tụng có thẩm quyền pháp lý trong tố tụng hình sự gồm: Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên (điểm b,
khoản 2 Điều 34 BLTTHS năm 2015). Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thì
“hoạt động tư pháp bao gồm: Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình
sự, thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của các cơ
quan tư pháp, hoạt động bổ trợ tư pháp...”[12]. Do vậy, hoạt động của các chủ thể
trên đều là đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó có cả hoạt động
KSĐT.
Như vậy, có thể khái niệm KSĐT qua những phân tích đã nêu như sau: “KSĐT
là việc VKSND thực hiện các biện pháp giám sát, mục đích nhằm bảo đảm các hoạt
động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra được tiến
hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung
của pháp luật quy định, không trực tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi
19
phạm pháp luật tố tụng xảy ra hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục các nguyên nhân,
điều kiện dẫn đến tội phạm”.
Hoạt động KSĐT của VKSND có một số đặc điểm sau đây:
- Đối tượng của hoạt động KSĐT là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng. KSĐT là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự trong đó có cả các chủ thể tiến hành tố tụng mà
cụ thể ở đây là Cơ quan điều tra.
- Theo Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 thì KSĐT là hoạt động chỉ
duy nhất do VKSND thực hiện.
- Hoạt động KSĐT bắt đầu từ giai đoạn khởi tố, điều tra, lập hồ sơ của CQĐT
và các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát
hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kết hợp với cơ quan tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp
luật. Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS năm 2015 thì có 09 nội dung mà VKS
phải thực hiện.
- Mục đích của KSĐT nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra phải được
thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.1.2. Hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em
Công tác KSĐT là một chức năng của VKSND được quy định trong BLTTHS
năm 2015 và Luật tổ chức VKSND năm 2014. Theo quy định của pháp luật thì công
tác KSĐT các vụ án XPTDTE của VKSND là một trong các trường hợp hoạt động
thực hiện pháp luật. Căn cứ để phát sinh hoạt động KSĐT của Viện kiểm sát là các
quyết định tố tụng, các hành vi tố tụng của CQĐT, Cơ quan được giao một số hoạt
động điều tra và những người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra các vụ án
XPTDTE. VKSND thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ sẽ kiểm sát
chặt chẽ các hành vi, quyết định tố tụng nhằm mục đích nhằm bảo đảm các hoạt
động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra được tiến
hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp
luật quy định. Trên cơ sở đó, VKS sẽ xem xét ban hành các văn bản pháp lý thuộc
20
thẩm quyền như kiến nghị, yêu cầu hoặc áp dụng các biện pháp khác theo quy định
của pháp luật nhằm kịp thời yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, thiếu
sót, vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra để việc điều tra vụ án xâm phạm tình
dục trẻ em được đảm bảo tính khách quan, theo đúng quy định pháp luật.
Từ những phân tích đã nêu kết hợp với các khái niệm về KSĐT, điều tra vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em đã trình bày, có thể rút ra khái niệm công tác KSĐT vụ
án XPTDTE như sau: Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em là Viện
kiểm sát sử dụng các chức năng pháp lý để kiểm sát việc tuân theo pháp luật các
hoạt động của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra, của
các cá nhân có liên quan đến quá trình điều tra vụ án nhằm bảo đảm cho hoạt động
điều tra theo đúng các quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội.
- Đặc điểm kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em:
Thứ nhất, thẩm quyền KSĐT tội phạm nói chung và các tội phạm XPTDTE
nói riêng chỉ do được thực hiện bởi một cơ quan Nhà nước duy nhất là Viện kiểm
sát nhân dân. Chủ thể thực hiện công tác KSĐT chỉ có thể là các cá nhân được giao
quyền thực hiện việc KSĐT hay nói cách khác là người tiến hành tố tụng thuộc
VKS như Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên theo quy
định của BLTTHS năm 2015.
Thứ hai, đối tượng của công tác kiểm sát điều tra tội phạm XPTDTE là việc
tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao một số nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, những người có thẩm quyền trong điều tra và những
người tham gia tố tụng khác theo qua hành vi và quyết định tố tụng.
Thứ ba, trong KSĐT các vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát được diễn ra trực
tiếp, đồng thời và toàn diện mọi hành vi tố tụng của giai đoạn điều tra tạo điều kiện
thuận lợi cho các giai đoạn truy tố, xét xử vụ án.
Thứ tư, KSĐT các vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát phải tuân thủ theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định. Ngoài ra, VKS còn có trách nhiệm phải tuân thủ
triệt để quy định của BLTTHS năm 2015 chỉ áp dụng các biện pháp theo quy định
21
của pháp luật và theo chức năng, quyền hạn được quy định.
Thứ năm, hoạt động KSĐT các vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát được tiến
hành từ thời điểm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố điều tra và kết thúc
khi vụ án được chuyển sang giai đoạn truy tố và đối tượng của hoạt động KSĐT các
vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát chủ yếu là các hành vi và quyết định của cơ quan
cơ quan điều tra.
Hoạt động KSĐT các vụ án XPTDTE của VKSND là hoạt động mang tính
quyền lực Nhà nước, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì chỉ được thực
hiện bởi VKSND do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện như: Viện trưởng, Phó
Viện trưởng, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên, thông qua việc kiểm sát chặt chẽ hành
vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra theo những trình tự, thủ tục pháp lý đã được pháp luật quy
định nhằm đảm bảo những quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự được
thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.2.2. Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự
Theo quy định của pháp luật thì Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các biện pháp kiểm
tra, giám sát toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án XPTDTE. Nội
dung của hoạt động kiểm sát trong giai đoạn điều tra là kiểm sát việc khởi tố, điều
tra, lập hồ sơ của CQĐT và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kết
hợp với cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia
tố tụng vi phạm pháp luật. Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS năm 2015 thì có 9
nội dung VKS phải thực hiện như sau: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của
người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị xử lý nghiêm minh người tham gia tố
tụng vi phạm pháp luật; giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu Cơ
22
quan điều tra cung cấp tài liệu liên quan; yêu cầu điều tra đối với Cơ quan điều tra;
kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm; yêu cầu thay đổi Điều tra
viên, Cán bộ điều tra, xử lý nghiêm minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm
pháp luật trong hoạt động tố tụng; kiến nghị phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp
luật; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác. Trên cơ sở quy định của BLTTHS năm
2015 thì KSĐT đối với các tội phạm nói chung và tội phạm XPTDTE nói riêng
được thực hiện thông qua những nội dung sau:
1.2.2.1. Nội dung, biện pháp kiểm sát việc thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố
Theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 145 BLTTHS 2015, Viện kiểm sát có
trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố. Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố là nhiệm vụ hết sức quan trọng, đóng vai trò mở đầu cho các hoạt
động tố tụng hình sự. Có tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, thì
mới xác định được có tội phạm hay không có tội phạm xảy ra, để quyết định khởi tố
hay không khởi tố vụ án hình sự.
Tại Điều 160 BLTTHS năm 2015 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm thông qua các hoạt động kiểm sát tuân theo pháp
luật đối với cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự thực hiện
việc tiếp nhận, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết nguồn
tin về tội phạm của CQĐT; kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết nguồn
tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm; yêu cầu
CQĐT cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Trường hợp khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không
đầy đủ, vi phạm pháp luật thì yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động, như: (1) tiếp
nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ,
đúng pháp luật; (2) kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và
thông báo kết quả cho VKS; (3) cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; (4) khắc phục vi phạm pháp luật và xử
23
lý nghiêm người vi phạm; (5) yêu cầu thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra; giải
quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm và thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm theo quy định của BLTTHS. Trong Điều luật này cũng quy định VKS tiến
hành trực tiếp các cuộc kiểm sát, là những hoạt động kiểm sát mang tính toàn diện,
để kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của CQĐT… trong việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh, thống nhất và ngăn ngừa các vi phạm, xử lý nghiêm tội phạm trong hoạt
động tư pháp.
Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với tội phạm XPTDTE, Kiểm sát viên cần căn cứ
vào quy định tại Điều 5 và Điều 6 Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-
BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC về Trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
1.2.2.2. Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Với yêu cầu mọi tội phạm được phát hiện đều bị khởi tố, Viện kiểm sát có
trách nhiệm kiểm sát tính có căn cứ và đúng pháp luật của quyết định khởi tố vụ án
hình sự, các quyết định khởi tố bị can; kiểm sát việc bổ sung, thay đổi quyết định
khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra.
Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS năm 2015, Quy chế tạm thời công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (Điều 12) và
Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT- VKSTC- BCA- BQP (Điều 7), hoạt động
kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự được tiến hành như sau:
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án
của CQĐT hoặc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra (gọi tắt là CQĐT), Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị có thẩm
quyền KSĐT phải cử Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp
pháp của quyết định khởi tố vụ án.
Kiểm sát viên được phân công có trách nhiệm kiểm tra tính có căn cứ và tính
24
hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án trên cơ sở kiểm sát chặt chẽ các tài liệu,
chứng cứ để xác định xem quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT có căn cứ và
hợp pháp hay không?
Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các tài liệu chứng cứ đã thu
thập được và quyết định khởi tố vụ án XPTDTE thì KSV phải thực hiện việc báo
cáo đầy đủ kết quả nghiên cứu và quan điểm đánh giá tính căn cứ, hợp pháp của
quyết định khởi tố vụ án cho Lãnh đạo Viện xem xét, quyết định theo thẩm quyền tố
tụng.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị KSĐT căn cứ vào báo
cáo kết quả nghiên cứu quyết định khởi tố của Kiểm sát viên, căn cứ Quy chế tạm
thời công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố
(Điều 12) và Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSTC- BCA- BQP (Điều 7) để
xử lý như sau:
- Trường hợp xét thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự đảm bảo tính căn cứ và
hợp pháp thì Lãnh đạo Viện ký ban hành quyết định phân công KSV có thẩm quyền
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự và gửi cho
CQĐT biết để phối hợp;
- Nếu thấy chưa rõ căn cứ để khởi tố vụ án thì cần ban hành văn bản yêu cầu
CQĐT, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thu
thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu để làm rõ;
- Trong trường hợp xét thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT, Cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ,
không đảm bảo tính hợp pháp thì phải ban hành văn bản yêu cầu CQĐT, Cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết
định khởi tố vụ án hình sự.
1.2.2.3. Kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ, tạm
giữ, kê biên tài sản, vật chứng
Kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê
biên tài sản, vật chứng trong vụ án là những hoạt động hết sức quan trọng nhằm
25
đảm bảo việc thu thập chứng cứ, xác định tính chất, mức độ của hành vi phạm tội
được thực hiện theo đúng quy đinh của pháp luật, đồng thời đảm bảo việc thi hành
án sau này. Vì vậy, trong quá trình thực hiện các hoạt động này phải đảm bảo kịp
thời, chính xác, không bỏ lọt nhưng cũng không tiến hành thu giữ, kê biên không
cần thiết, tràn lan. Để thực hiện một cách có hiệu quả công tác trên, KSV được phân
công cần thực hiện tốt các hoạt động như:
- Đối với hoạt động khám nghiệm hiện trường. Kiểm sát quá trình phát hiện,
thu giữ dấu vết hoặc vật chứng có tại hiện trường vụ án một cách chặt chẽ để đảm
bảo việc thu giữ đúng theo quy định của pháp luật; trường hợp không thể xem xét
ngay được đồ vật và tài liệu tại hiện trường thì KSV yêu cầu ĐTV tiến hành niêm
phong để đưa về nơi tiến hành điều tra nhằm tránh bị thay đổi hoặc bị hư hỏng, mất
mát; việc dựng lại mô hình hiện trường, chụp ảnh, đo đạc, vẽ lại sơ đồ, mô tả hiện
trạng … cần được KSV kiểm sát chặt chẽ để bảo đảm tính chính xác, khách quan và
hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ án.
- Đối với hoạt động khám xét. Quá trình kiểm sát hoạt động khám xét KSV
cần giám sát chặt chẽ mọi biến động phát sinh diễn ra tại nơi khám xét. Khi tiến
hành khám xét (chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện), những người có mặt
không được tự ý rời khỏi nơi đang khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau
hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong. Nếu phát hiện có vi phạm
thì phải yêu cầu ĐTV khắc phục kịp thời, thực hiện nghiêm túc theo quy định của
pháp luật. Trường hợp kiểm sát trên hồ sơ: Phải kiểm sát chặt chẽ trình tự, thủ tục
và phương pháp thực hiện được ghi trong biên bản. Neu phát hiện có vi phạm thì
phải tham mưu cho lãnh đạo đơn vị ban hành văn bán yêu cầu CQĐT có thẩm
quyền khắc phục vi phạm.
- Đối với việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét. Yêu cầu người bị khám
xét đưa ra các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu họ từ chốỉ hoặc đưa ra
không đầy đủ các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì tiên hành khám xét. Việc
khám xét người phải đo người cùng giới thực hiện và có người cùng giới chứng
kiến. Nếu phát hiện có vi phạm thì phải yêu cầu ĐTV, Cán bộ điều tra thực hiện
26
đúng theo quy định cùa pháp luật. Trong một số trường hợp cần thiết phải tiến hành
niêm phong thì phải niêm phong dưới sự chứng kiến của chủ đồ vật hoặc đại diện
gia đình, đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến.
1.2.2.4. Kiểm sát các hoạt động điều tra của CQĐT
- Kiểm sát việc lấy lời khai bị hại
Khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, Viện kiểm
sát cần chú ý đến các đặc điểm riêng biệt như: độ tuổi, đặc điểm tính cách của nạn
nhân, hoàn cảnh gia đình. Căn cứ vào đặc điểm của từng em để có những biện pháp
tác động cụ thể, kịp thời. Ví dụ trong trường hợp các em do chưa nhận thức đầy đủ
đã đồng tình hoặc chủ động trong quan hệ tình dục, khi người lớn phát hiện không
động viên, nâng đỡ mà dùng bạo lực với các em, dẫn đến các em sẽ khai báo không
đúng sự thật. Hoặc khi trẻ em bị xâm phạm nhưng do bị đe dọa nên sợ không dám
nói ra sự thật,... Những trường hợp này cần có biện pháp phối hợp với gia đình động
viên, tôn trọng trẻ và có biện pháp chia sẻ để các em hiểu, yên tâm trình bày nội
dung sự việc một cách trung thực nhất.
Tuy nhiên, cán bộ giải quyết các vụ án XPTDTE còn chưa được đào tạo về
tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người dưới 18 tuổi, nên khi tiến hành lấy lời
khai trẻ em đã dùng những từ ngữ mang tính chất chuyên môn hoặc các câu hỏi áp
dụng như người lớn khiến trẻ em không biết trả lời hoặc trả lời không chính xác. Vì
thế, khi tiến hành lấy lời khai trong trường hợp này cần phải mời chuyên gia tâm lý
tham gia cùng. Trong trường hợp không mời được thì khi tiếp cận trẻ em cần quan
sát thái độ, cử chỉ, hành động của các em. Khi hỏi trẻ em cần hỏi những câu rõ ý để
trẻ em trả lời đúng, cần sử dụng từ ngữ đơn giản, dễ hiểu mà ở nhà ông bà, bố mẹ
hay dùng để trao đổi với trẻ.
Cần chú ý, những trẻ bị xâm phạm thường có những biểu hiện như: Nép và
bám chặt vào cha mẹ, không dám nhìn người lạ, òa khóc khi gặp người lạ, trên
người có dấu vết,... Khi lấy lời khai người nhà nạn nhân cần hỏi gia đình xem khi
đêm ngủ các em có biểu hiện giật mình và tự nhiên khóc thét lên, ngại tắm, sợ cởi
quần áo khi tắm, sợ bị người khác chạm vào người, không thích đến chỗ đông
27
người, không thích ở một mình, thay đổi tính nết. Tự nhiên có tiền hoặc quà, phát
ngôn những từ mới, vẽ hình ảnh bất thường về tình dục, có hành vi tình dục không
phù hợp,... để có phương pháp tiếp cận trẻ phù hợp khi lấy lời khai của các em.
- Kiểm sát việc hỏi cung bị can
Kiểm sát việc hỏi cung bị can là hoạt động kiểm sát của KSV nhằm đảm bảo quá trình hỏi cung bị can của ĐTV, Cán bộ điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, việc hỏi cung được thực hiện đầy đủ và theo đúng quy định của pháp luật, Quy chế của ngành có quy định những trường hợp nào thì bắt buộc phải tiến hành kiểm sát hỏi cung và kiểm sát lấy lời khai người làm chứng, người bị hại. Đối với những vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, đông bị can tham gia, phạm tội nhiều lần, hành vi phạm tội diễn ra trong thời gian dài thì đặc biệt quan tâm phải kiểm sát hỏi cung bị can. Chú trọng kiểm sát hỏi cung các bị can là chủ mưu, cầm đầu, không nhận tội, không hợp tác với Cơ quan điều tra trong quá trình điều tra… Có nhiều vụ án, vai trò của người làm chứng, người bị hại trở thành căn cứ để xác định một đối tượng hoặc nhiều đối tượng có phạm tội hay không. Trình tự, thủ tục thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BQP ngày 01/02/2018.
Hỏi cung bị can là một trong những hoạt động tố tụng rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, do đó nếu KSV chuẩn bị chu đáo thì hoạt động kiểm sát việc hỏi cung bị can sẽ thu được nhiều kết quả. KSV cần yêu cầu Điều tra viên hỏi cả về những chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, làm sáng tỏ những mâu thuẫn trong lời khai của bị can. Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì việc hỏi cung bị can phải được tiến hành lần lượt từng người một, không để các bị can thông cung hoặc nghe lời khai của bị can đang được hỏi cung, nhằm tránh ảnh hưởng giữa các bị can với nhau.
- Đối với hoạt động khám xét. Quá trình kiểm sát hoạt động khám xét KSV
cần thực hiện việc kiểm sát chặt chẽ mọi diễn biến phát sinh xảy ra tại nơi thực hiện
việc khám xét. Khi tiến hành khám xét (chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện),
những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang khám, không được liên hệ,
trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xét xong. Nếu phát
hiện có vi phạm thì phải yêu cầu ĐTV khắc phục kịp thời, thực hiện nghiêm túc
theo quy định của pháp luật. Trường hợp kiểm sát trên hồ sơ: Phải kiểm sát chặt chẽ
trình tự, thủ tục và phương pháp thực hiện được ghi trong biên bản. Neu phát hiện
28
có vi phạm thì phải tham mưu cho lãnh đạo đơn vị ban hành văn bán yêu cầu CQĐT
có thẩm quyền khắc phục vi phạm.
- Đối với việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét. Yêu cầu người bị khám
xét đưa ra các tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu họ từ chốỉ hoặc đưa ra
không đầy đủ các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì tiên hành khám xét. Việc
khám xét người phải đo người cùng giới thực hiện và có người cùng giới chứng
kiến. Nếu phát hiện có vi phạm thì phải yêu cầu ĐTV, Cán bộ điều tra thực hiện
đúng theo quy định cùa pháp luật. Trong một số trường hợp cần thiết phải tiến hành
niêm phong thì phải niêm phong dưới sự chứng kiến của chủ đồ vật hoặc đại diện
gia đình, đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến.
- Kiểm sát việc lấy lời khai của người làm chứng
Đối với việc giải quyết các vụ án XPTDTE, lời khai của người làm chứng
cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình thu thập chứng cứ. Do đó hoạt
động kiểm sát việc lấy lời khai nhân chứng nhằm bảo đảm cho việc lấy lời khai
được khách quan và tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng góp phần nâng
cao hiệu quả về chất lượgn cũng như tiến độ của việc giải quyết án.
- Kiểm sát việc đối chất của CQĐT
Đối chất, nhận dạng là một trong những hoạt động đóng vai trò quan trọng
trong giai đoạn điều tra và kết quả nhận dạng, đối chất là nguồn chứng cứ pháp lý
góp phần chứng minh sự thật của vụ án. Quá trình kiểm sát việc thực hiện nhận
dạng, đối chất cần thực hiện đúng quy định của BLTTHS và quan tâm một số vấn
đề nêu trên để đạt kết quả cao, làm căn cứ giải quyết các vụ án hình sự.
Trong quá trình KSĐT, nếu giữa lời khai giữa bị can, người bị hại, người làm
chứng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mâu thuẫn thì KSV yêu cầu
Điều tra viên tiến hành hoạt động đối chất.
KSV được phân công cần kiểm sát chặt chẽ việc đối chất, bảo đảm các hoạt
động này của CQĐT được tiến hành theo đúng các quy định tại Điều 189 Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015, KSV có thể tiến hành kiểm sát trực tiếp hoặc phối hợp cùng
Điều tra viên tiến hành việc đối chất, khi thực hiện trực tiếp tiến hành đối chất, KSV
29
thông báo trước cho Điều tra viên biết.
Việc đối chất và lập biên bản đối chất do KSV được phân công tiến hành phải
được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 189 BLTTHS năm 2015. Biên bản đối
chất sau khi tiến hành phải được đưa vào hồ sơ vụ án và photo, lưu hồ sơ kiểm sát.
- Kiểm sát việc nhận dạng
Trong quá trình KSĐT, KSV yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc nhận dạng
nếu xét thấy cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật. Trường hợp ĐTV cho rằng
không cần thiết phải thực hiện thì báo cáo, tham mưu Lãnh đạo Viện ban hành văn
bản yêu cầu CQĐT phải thực hiện việc nhận dạng theo đúng quy định pháp luật.
KSV phải kiểm sát chặt chẽ việc nhận dạng, đảm bảo hoạt động này được thực
hiện theo đúng theo quy định tại Điều 190 BLTTHS năm 2015.
Qua công tác tiến hành nhận dạng Điều tra viên có thể thu thập, kiểm tra, củng
cố nhiều tài liệu chứng cứ khác nhau để chứng minh các tình tiết của vụ án và làm
cơ sở để xây dựng giả thuyết điều tra
Nếu KSV phát hiện có vi phạm trong việc nhận dạng của CQĐT, thì tùy từng
trường hợp cụ thể, KSV có thể đề nghị với CQĐT để khắc phục hoặc báo cáo lãnh
đạo Viện hoặc KSV được Viện trưởng ủy quyền ra văn bản yêu cầu CQĐT khắc
phục.
1.2.2.5. Công tác kiểm sát việc kết thúc điều tra
Sau khi tiếp nhận hồ sơ vụ án, KSV phải kiểm tra ngay số bút lục trong hồ sơ
và đối chiếu với bảng kê tài liệu để đảm bảo sự thống nhất và đầy đủ.
Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và
truy tố (ban hành theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện
trưởng VKSND tối cao) quy định về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra,
trong đó có quy định cụ thể về kiểm sát việc kết thúc điều tra.
Chậm nhất 10 ngày đối với vụ án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 15 ngày
đối với vụ án rất nghiêm trọng, 20 ngày đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng trước
khi kết thúc điều tra hoặc hết thời hạn điều tra vụ án, Kiểm sát viên phải chủ động
yêu cầu và phối hợp Điều tra viên đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục
30
tố tụng của vụ án, nếu thấy có đủ căn cứ kết thúc điều tra thì thống nhất để Điều tra
viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra kết thúc điều tra vụ án;
nếu thấy cần phải tiếp tục điều tra thì thống nhất các thủ tục báo cáo lãnh đạo hai
bên để đề nghị và quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, tạm giam bị can theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc Kiểm sát viên không
thống nhất quan điểm đánh giá chứng cứ, tội danh, thì Kiểm sát viên phải trao đổi
với Điều tra viên để báo cáo Thủ trưởng hai đơn vị tổ chức họp đánh giá kết quả
điều tra vụ án, chỉ đạo giải quyết những vấn đề chưa thống nhất, khó khăn, vướng
mắc, bảo đảm việc kết thúc điều tra, giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật.
Kiểm sát viên, Điều tra viên phải lập biên bản thống nhất nội dung đánh giá
chứng cứ, tài liệu và lưu hồ sơ nghiệp vụ của Cơ quan điều tra, hồ sơ kiểm sát.
1.2.2.6. Công tác kiểm sát việc lập hồ sơ
Theo quy định tại Điều 12 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khởi tố, điều tra và truy tố (ban hành theo Quyết định số 111 /QĐ-VKSTC
ngày 17/4/2020 của Viện trưởng VKSND tối cao) quy định về kiểm sát việc lập hồ
sơ vụ án, thì Trong quá trình kiểm tra, xác minh, khởi tố, điều tra và truy tố, tài liệu
của Cơ quan có thẩm quyền điều tra hoặc của Viện kiểm sát thu thập đều phải được
đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc theo đúng trình tự tố tụng.
Việc giao nhận, đóng dấu và đánh số bút lục và thống kê tài liệu hồ sơ vụ án
trong giai đoạn điều tra, truy tố được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 88
BLTTHS, các quy định khác của pháp luật và Điều 66 của Quy chế này.
Kiểm sát viên phải có trách nhiệm và thường xuyên đôn đốc Điều tra viên
thực hiện nghiêm túc việc chuyển, giao, nhận biên bản, tài liệu về hoạt động điều tra
theo khoản 5 Điều 88, Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 34 và Điều 35 Thông
tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa
Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự.
31
Trong giai đoạn điều tra, khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra chuyển biên bản,
tài liệu để Viện kiểm sát kiểm sát, Kiểm sát viên phải đóng dấu bút lục của Viện
kiểm sát vào góc dưới bên phải của từng trang biên bản, tài liệu, ghi rõ ngày nhận
biên bản, tài liệu và lập biên bản cho từng lần giao nhận biên bản, tài liệu với Điều
tra viên (có thống kê tài liệu, biên bản kèm theo).
Trong trường hợp biên bản, tài liệu do Kiểm sát viên thu thập trong quá trình
điều tra thì ngay sau khi thu thập biên bản, tài liệu Kiểm sát viên phải chuyển cho
Điều tra viên để đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát; trước khi chuyển
cho Cơ quan điều tra phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào góc dưới bên
phải của từng trang biên bản, tài liệu. Việc giao nhận biên bản, tài liệu với Điều tra
viên phải lập biên bản và lưu trong hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát.
Trong giai đoạn truy tố, biên bản, tài liệu do Kiểm sát viên thu thập phải được
đưa vào hồ sơ vụ án, đóng dấu bút lục ở góc trên bên phải của từng trang biên bản,
tài liệu và đánh số thứ tự tiếp theo số bút lục trong hồ sơ vụ án; không được thay đổi
thứ tự bút lục trong hồ sơ vụ án. Trường hợp có sự nhầm lẫn hoặc tẩy xóa số bút lục
thì phải có bảng tổng hợp, ký xác nhận của Kiểm sát viên, kèm theo báo cáo giải
trình lý do nhầm lẫn, tẩy xóa; bảng tổng hợp và báo cáo giải trình của Kiểm sát viên
phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
Tiểu kết Chương 1
Trong nội dung Chương 1 của đề tài này, tác giả tập trung nghiên cứu về một
số vấn đề lý luận và pháp luật về tội phạm XPTDTE. Đồng thời, chỉ ra một số nội
dung mới của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 về các tội xâm phạm tình
dục trẻ em. Tác giả cũng nêu lên được một số vấn đề lý luận về KSĐT. Bên cạnh
đó, pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động KSĐT các vụ án XPTDTE được phân
tích rõ tại Chương này như nội dung, biện pháp kiểm sát việc thụ lý, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố
bị can; kiểm sát hoạt động, khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ, tạm giữ,
kê biên tài sản, vật chứng; kiểm sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra;
công tác kiểm sát việc kết thúc điều tra và lập hồ sơ. Những kết quả nghiên cứu tại
32
Chương 1 đóng vai trò là nền tảng giúp cho tác giả có thể đánh giá thực trạng
KSĐT vụ án hình sự XPTDTE của các cơ quan VKSND tỉnh Quảng Nam sẽ được
trình bày ở Chương 2.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM
PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM TẠI TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Tổng quan về tình hình liên quan đến thực trạng kiểm sát điều tra vụ
án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em của Các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Nam
33
Tỉnh Quảng Nam nằm ở miền Trung của đất nước, có 18 huyện, thành phố
trực thuộc bao gồm: 2 thành phố, 07 huyện miền núi với diện tích tự nhiên là
10.438,4 km2; dân số khoảng 1.450.100 người. Phía Bắc giáp TP Đà Nẵng, phía
Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Đông giáp biển Đông, và đặc biệt phía Tây giáp
Nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Quảng Nam có hệ thống giao thông vận tải
gồm cả đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Với 80km đường
sắt, 82 km đường Quốc lộ, 90 km bờ biển, có cảng biển Kỳ Hà và sân bay Chu Lai;
với nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch, khu di tích lịch sử, văn hóa
được thế giới công nhận…
Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội tỉnh
Quảng Nam nhiều chuyển biến tích cực và không ngừng phát triển, đời sống nhân
dân được nâng cao về mọi mặt. Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói chung và tội XPTDTE nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, dưới sự lãnh chỉ
đạo của Tỉnh ủy tỉnh Quảng Nam các cấp, các cơ quan tiến hành tố tụng và các sở
ban ngành liên quan đã triển khai mạnh mẽ các biện pháp nhằm giữ vững ổn định
an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thu hút đầu tư, phát triển
kinh tế ổn định cho tỉnh nhà. Đặc biệt, VKSND tỉnh Quảng Nam đã trực tiếp tham
mưu cho Tỉnh ủy Quảng Nam đã ban hành Chỉ thị số 54/CT-TU ngày 24 tháng 5
năm 2020 về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, tiến bộ đạt được thì trong những năm
gần đây, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam vẫn còn diễn biến
phức tạp như tình trạng nhập cư, cư trú trái phép gia tăng, sự xâm nhập của văn hóa
độc hại, lối sống thực dụng, các vấn đề tệ nạn xã hội tồn tại và biến động không
ngừng, nhất là tình hình tội phạm, trong đó có các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ
em.
2.1.2. Tình hình Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
a. Quá trình thành lập
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh công bố Luật Tổ chức Viện Kiểm
34
sát nhân dân, đánh dấu sự ra đời của ngành Kiểm sát nhân dân Việt Nam. Đây là bước
phát triển quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư pháp
của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
chính thức được thành lập và hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 sau khi được
chia tách từ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cũ và đến nay được
tổ chức bộ máy thành 11 phòng nghiệp vụ và 18 Viện KSND cấp huyện, thị xã, thành phố
trực thuộc.
Từ khi thành lập đến nay, Ngành kiểm sát Quảng Nam đã tập trung làm tốt chức
năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự, không để xảy
ra oan sai, bỏ lọt tội phạm; giải quyết những vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp
đúng quy định của pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự trị an xã hội của tỉnh. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát tỉnh cũng tăng cường
hoạt động trong các lĩnh vực công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát tạm giữ,
tạm giam, thi hành án dân sự, hình sự, thông qua đó phát hiện nhiều vi phạm, tồn tại của
các cơ quan chức năng, đã ban hành kiến nghị, kháng nghị yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục,
góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của.
Về cơ sở vật chất: Được sự quan tâm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tỉnh uỷ,
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh đã có trụ sở làm
việc 7 tầng khang trang, hiện đại. Trụ sở Viện kiểm sát nhân dân các huyện cũng được đầu
tư xây dựng, cải tạo; trang thiết bị làm việc của cán bộ công chức được trang bị tương đối
đầy đủ phục vụ cho công tác chuyên môn nghiệp vụ.
b. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Trong hơn 60 năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao của Tỉnh ủy, sự giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh, sự phối hợp tạo điều
kiện của Ủy ban nhân dân tỉnh, các Ban, Ngành chức năng của tỉnh, cùng với sự
ủng hộ, đồng thuận của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tỉnh, Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Nam đã và đang thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành. Đội
ngũ cán bộ, kiểm sát viên ngành Kiểm sát Quảng Nam không ngừng phấn đấu và
35
trưởng thành trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành; góp phần giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện cho việc phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, đảm bảo các quyền dân chủ của nhân dân. Với những kết
quả của các lĩnh vực công tác kiểm sát, ngành kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát
Quảng Nam nói riêng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội, vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước cũng như vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta.
Từ năm 1960 đến trước năm 2020, với chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành
chính, kinh tế, xã hội Ngành kiểm sát Quảng Nam đã có những đóng góp quan
trọng trong việc phát hiện và xử lý, kháng nghị, kiến nghị khắc phục vi các vi phạm,
tội phạm trên địa bàn tỉnh đảm bảo pháp chế được thực hiện thống nhất góp phần
tích cực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng tỉnh Quảng Nam.
c. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
Hiện nay, VKSND tỉnh Quảng Nam có 298 biên chế và người lao động đang
công tác tại đơn vị, trong đó có 240 biên chế và 58 nhân viên hợp đồng lao động
theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP của Chính phủ. VKSND tỉnh Quảng Nam có cơ
cấu gồm 11 Phòng chuyên môn, nghiệp vụ và 18 VKS huyện, thị xã, thành phố trực
thuộc.
Theo đó, VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam có các KSV, KTV với số lượng cụ
thể:
- Về KSV cao cấp: 01 đồng chí; KSV trung cấp: 62 đồng chí; KSV sơ cấp:
120 đồng chí. Các ngạch KSV này thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định pháp luật.
- Về Kiểm tra viên: 15 đồng chí. Theo quy định tại khoản 4 Điều 90 Luật Tổ
chức VKSND năm 2014 thì nhiệm vụ của Kiểm tra viên chủ yếu là giúp việc cho
Kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Tất cả những việc Kiểm tra viên làm đều được đặt dưới sự phân công, hướng
36
dẫn trực tiếp của Kiểm sát viên và chịu sự chỉ đạo từ Viện trưởng nên sẽ phải chịu
trách nhiệm đầu tiên là trước các Kiểm sát viên và Viện trưởng.
Bên cạnh đó, còn có 40 đồng chí là chuyên viên và 02 đồng chí là cán sự.
Hiện nay, với yêu cầu đặt ra trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm
trong tình hình mới và nhiệm vụ cải cách tư pháp, VKS Quảng Nam đã dần hoàn
thiện cơ cấu, tổ chức bộ máy theo yêu cầu tinh gọn, khoa học, theo đúng quy định
của Ngành, đảm bảo thực hiện tốt và hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
được giao theo quy định pháp luật.
Đặc biệt, nhờ sự quan tâm, đầu tư trong công tác đào tạo, nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, toàn ngành hiện có: 31 đồng chí có học vị Thạc sỹ Luật
(trong đó có 01 đồng chí đang là nghiên cứu sinh), 202 đồng chí có trình độ Cử
nhân Luật, 15 đồng chí có là cử nhân Kế toán, Kỹ sư Công nghệ thông tin... Về
trình độ chính trị có 62/240 đồng chí đạt trình độ cao cấp (đạt tỷ lệ 25,83%);
178/240 đồng chí có trình độ sơ cấp (đạt tỷ lệ 74,17%). Toàn ngành VKS Quảng
Nam có: 205/298 công chức, người lao động là đảng viên (đạt tỷ lệ 68,8%) (Theo số
liệu Báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm 2020 của Phòng Tổ chức cán bộ VKSND tỉnh
Quảng Nam).
2.1.3. Tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam
Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật hình sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam diễn biến rất phức tạp, với nhiều thủ đoạn mới đa dạng, tinh vi, xảo
quyệt, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của công dân và tài sản Nhà nước. Đặc biệt, đáng chú ý là tội phạm xâm phạm trẻ
em, tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em đã tác động rất xấu đến thuần phong mỹ tục,
đạo đức xã hội, gây hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân và gây ảnh
hưởng rất xấu đến trật tự an toàn xã hội của tỉnh Quảng Nam.
Với đặc điểm tự nhiên, xã hội của tỉnh Quảng Nam đối chiếu với thực tế đấu
tranh, theo dõi, chỉ đạo công tác phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
tác giả nhận tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng
37
Nam có những đặc điểm sau đây:
Theo số liệu thống kê của VKSND tỉnh Quảng Nam trong bảng 2.1 giai đoạn
từ năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2020, tổng số vụ án hình sự đã khởi tố là: 6.969
vụ với 8.128 bị cáo, trong đó có 130 vụ với 142 bị can phạm các tội XPTDTE. Tỷ lệ
các vụ XPTDTE tăng lên theo từng năm; năm 2015 có 17 vụ với 18 bị can; năm
2016 có 19 vụ với 21 bị can; năm 2017 có 24 vụ với 24 bị can; năm 2018 có 27 vụ
với 29 bị can; năm 2019 có 28 vụ với 30 bị can và đặt biệt 06 tháng đầu năm 2020
đã có 15 vụ với 20 bị can (tăng 03 vụ/05 bị can so với 06 tháng đầu năm 2019 là 12
vụ/14 bị can). Như vậy, qua nghiên cứu tổng quan tình hình thực tiễn tội phạm
XPTDTE diễn ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có thể nhận thấy các tội phạm này có
diễn biến ngày càng phức tạp, số vụ án xảy ra ngày càng tăng tương ứng với số bị
can bị khởi tố tăng. Điều này xuất phát một phần từ nguyên nhân do cơ cấu chung
của tình hình tội phạm toàn tỉnh tăng do sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, văn
hóa, khoa học - công nghệ đã phần nào đem đến những hệ lụy tiêu cực, cần ngăn
chặn.
Qua bảng số liệu diễn biến tình hình tội phạm tại bảng 2.2, cho thấy số vụ án
XPTDTE xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là 130 vụ án với 142 bị can, số vụ án
và số bị can năm sau tăng hơn năm trước rất đáng kể và không có dấu hiệu giảm.
Nếu lấy số vụ của năm 2015 làm gốc, tức tỷ lệ số vụ và số bị cáo năm 2015 đều là
100% để so sánh thì số vụ án các năm sau đều tăng cụ thể: Năm 2016 tăng lên
111,76% số vụ án, 116,67% số bị can; năm 2017 tăng mạnh lên 141,18% số vụ án,
133,33% số bị can; năm 2018 tăng lên 158,82% số vụ án, 166,11% số bị can; năm
2019 tiếp tục tăng lên 164,71% số vụ án, 166,67% số bị can và chỉ mới 06 tháng
đầu năm 2020 cũng đã có tỷ lệ cao là 88,24% số vụ án, 111,11% số bị can. Một
cách rõ ràng hơn để nhận xét về xu hướng của diễn biến tình hình các tội XPTDTE
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2020 là
thông qua phương pháp định gốc giai đoạn 05 năm, ta thấy giai đoạn từ năm 2015 –
T5/2020 với tỷ lệ số vụ, số bị can năm 2015 là 100% thì đến giai đoạn năm 2019 tỷ
lệ này tăng lên rất nhanh, tăng lên 164,71% số vụ án và 166,67 số bị can. Như vậy,
38
quan phân tích các bảng số liệu phản ánh diễn biến của tình hình tội XPTDTE từ
năm 2015 đến 2019 có căn cứ để xác định tình hình tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam có tính chất ngày càng phức tạp, có mức độ nguy hiểm và chiều hướng gia
tăng theo từng năm.
2.2. Thực trạng kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ
em của các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Kiểm sát điều tra việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em
Trước tình hình tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em nói
riêng trên địa bàn tỉnh Quảnh Nam có diễn biến ngày càng phức tạp, với nhiều thủ
đoạn mới đa dạng, tinh vi. Trên cơ sở xác định được tầm quan trọng của công tác
tiếp nhận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, VKSND tỉnh Quảng Nam đã
quan tâm, chú trọng nâng cao hơn nữa chất lượng kiểm sát đối với các CQĐT trong
việc tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ
em.
- Tổng số tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố mà Viện kiểm sát đã
kiểm sát/Tổng số tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố về tội phạm xâm phạm
trẻ em Cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết: 153 tin/155 tin (số liệu từ năm 2015
đến hết tháng 5 năm 2020).
- Số tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố quá hạn giải quyết: Không xảy
ra.
- Số tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố không được Cơ quan điều tra
thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của BLTTHS: 01 tin.
- Số tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết:
Không.
- Số tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố tạm đình chỉ giải quyết: 02 tin.
- Những vi phạm pháp luật phổ biến của Cơ quan điều tra trong việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố như: Cơ quan điều tra ra quyết
định tạm đình chỉ, quyết định không khởi tố nguồn tin về tội phạm không đảm bảo
39
căn cứ; không thụ lý thông tin do Công an xã chuyển đến; vi phạm thời hạn thụ lý,
thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo quy định của pháp luật; chậm ra
quyết định phân công Phó Thủ trưởng, Điều tra viên, Cán bộ điều tra tiến hành giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm; chậm thực hiện yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng
cứ của Viện kiểm sát; không tiến hành đối chất trong trường hợp có mâu thuẫn
trong lời khai giữa hai hay nhiều người; tiến hành khám nghiệm hiện trường, tiến
hành nhận dạng đối tượng tình nghi gây án nhưng không thông báo cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết để cử KSV tham gia kiểm sát; thu thập vật chứng không niêm
phong theo luật định. Qua đó; VKS đã ban hành 05 kiến nghị yêu cầu chấn chỉnh,
khắc phục vi phạm.
Điển hình như kiến nghị sau: Qua nghiên cứu Đơn khiếu nại của ông Cao
Tiến T (sinh năm 1984; trú tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam) về kết quả giải
quyết tố giác về tội phạm của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Kỳ, đối với
đơn tố giác của ông T tố cáo Phan Châu Thành (sinh năm 1986; trú tại thôn Đồng
Nghệ, xã Tam Ngọc, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam) có hành vi biểu hiện
xâm phạm tình dục đối với con gái của ông là cháu Cao Gia L (sinh ngày
27/5/2007) vào ngày 14/02/2019. VKSND tỉnh Quảng Nam nhận thấy Cơ quan
CSĐT Công an thành phố Tam Kỳ đã có những vi phạm, thiếu sót như sau:
Về thủ tục thụ lý giải quyết tố giác
Ngày 14/02/2019, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Kỳ tiếp nhận đơn
tố giác của ông Cao Tiến T. Mặc dù vụ việc nêu trong đơn có dấu hiệu xâm phạm
tình dục trẻ em cần phải thụ lý, giải quyết theo đúng quy trình giải quyết nguồn tin
về tội phạm, tuy nhiên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Kỳ không ban hành
văn bản tiếp nhận thụ lý, không ra Quyết định phân công xác minh và không ban
hành văn bản giải quyết tố giác nhưng lại tiến hành các hoạt động xác minh. Đến
ngày 14/3/2019, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Kỳ lại ban hành văn bản
số 782/CQĐT trả lời kết quả giải quyết tố cáo của ông Cao Tiến T, có nội dung xác
định hành vi của Phan Châu Thành không có dấu hiệu của tội phạm.
Việc làm như trên của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Kỳ là vi phạm
40
quy định về quy trình giải quyết nguồn tin về tội phạm tại Khoản 2 Điều 4, Điều 9
Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày
29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa
các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm
2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Về kết quả giải quyết
Qua nghiên cứu hồ sơ, VKSND tỉnh Quảng Nam nhận thấy còn nhiều tình tiết
quan trọng trong vụ việc chưa được làm rõ, cụ thể như sau:
+ Phan Châu Thành khai vì có sở thích muốn ôm các cháu nhỏ ngủ nên mới
đột nhập vào nhà ông Cao Tiến Tư. Tuy nhiên, quá trình khám nghiệm hiện trường
lại thu giữ được 02 túi cao su có đựng chất lỏng màu vàng nhưng Cơ quan điều tra
chưa làm rõ nguồn gốc cụ thể.
+ Tại Bản kết luận mẫu sinh học số 28 ngày 15/02/2019 của Trung tâm Pháp y
tỉnh Quảng Nam kết luận: Không tìm thấy xác tinh trùng bên trong 02 túi cao su
trên nhưng Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam Kỳ không trưng cầu giám định
để xác định đây là chất gì (thuốc kích dục, thuốc sử dụng trong quan hệ tình dục,
ma túy…), không phân tích rõ dung dịch chất lỏng này chứa thành phần gì, có tác dụng
như thế nào?
+ Vụ việc có nhiều vấn đề còn vướng mắc như: Với tư cách là dượng (chồng
của dì hai cháu) tại sao Thành lại muốn ôm hai cháu để ngủ. Mặt khác Thành lại có
hành vi lén lút cạy cửa, đột nhập vào nhà ông Tư lúc đêm khuya khi mọi người đã
đi ngủ và mang theo 02 túi cao su đựng chất lỏng, khi đến chỉ mặc quần mà không
mặc áo… những nội dung này chưa được điều tra làm rõ. Do đó, cần phải tiếp tục
đấu tranh với đối tượng để xác định có sự việc chuẩn bị thực hiện hành vi xâm
phạm tình dục đối với hai cháu nhỏ hay không?
+ Ngoài ra, Thành khai đã nhiều lần đột nhập vào nhà ông Tư để ôm hai cháu
ngủ và thường ở lại đó khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ, tại sao hai cháu không phát
hiện thì cũng chưa được làm rõ, thậm chí cháu Cao Gia H là người nằm bên cạnh
41
Thành và cháu L nhưng trong hồ sơ chưa có lời khai của cháu Cao Gia H là thiếu
sót cần phải khắc phục.
Các vi phạm, thiếu sót nêu trên của Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam là nghiêm trọng. Do đó, để xử lý đúng đắn và nghiêm khắc đối
với các hành vi xâm phạm tình dục trẻ em đang ngày càng diễn ra khá phức tạp,
đảm bảo cho việc áp dụng, thực thi pháp luật được nghiêm minh và thống nhất, góp
phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Viện trưởng
VKSND tỉnh Quảng Nam đã kiến nghị Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an thành
phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam:
- Tiến hành phân công cán bộ, Điều tra viên thụ lý, xác minh, giải quyết tố
giác theo đúng trình tự quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 và Điều 9 Thông tư liên
tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017.
- Khẩn trương xác minh các nội dung theo yêu cầu của VKSND tỉnh Quảng
Nam, sau khi có kết quả xác minh thì ra Quyết định giải quyết tố giác theo quy định
tại Điều 147 BLTTHS năm 2015 và Điều 9 Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-
BCA-BQP-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017.
- Tiến hành kiểm điểm, rút kinh nghiệm đối với các cán bộ, Điều tra viên để
xảy ra vi phạm như trên.
Sau khi nhận được kiến nghị trên, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam đã nghiêm túc tiếp thu, chấn chỉnh và khắc phục vi phạm.
Các VKSND địa phương đều đã mở sổ quản lý tố giác, tin báo tội phạm, công
tác phân loại, xử lý các tố giác, tin báo về tội phạm được thực hiện một cách
nghiêm túc, đúng quy định. VKSND hai cấp đã mở hòm thư để tiếp nhận tố giác, tin
báo về tội phạm. VKSND hai cấp đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp
nắm bắt diễn biến tình hình tội phạm trên địa bàn, tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm để phối hợp phân loại, xử lý được kịp thời. Tuy nhiên, trên thực tế phần lớn
tin báo, tố giác về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
do cơ quan Công an trực tiếp tiếp nhận. VKSND chỉ nắm tình hình tiếp nhận tố
42
giác, tin báo về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, nắm kết quả phân loại, xử lý và
trao đổi với cơ quan điều tra những vấn đề phát sinh. Những tin báo, tố giác đã có
kết quả thì kiểm sát viên được phân công cùng điều tra viên phân loại xem những
hành vi nào có thể khởi tố vụ án, những hành vi nào không phải là tội phạm thì áp
dụng biện pháp xử lý khác. Nếu quan điểm hai bên khác nhau trong vấn đề xử lý tin
báo, tố giác tội phạm báo cáo với lãnh đạo VKSND để có yêu cầu bằng văn bản đối
với cơ quan điều tra cùng cấp. Trong quá trình tiến hành kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo tội phạm của CQĐT, các KSV thường yêu cầu ĐTV được phân công
thông báo về tình hình giải quyết, trực tiếp nghiên cứu, ghi chép lại nội dung kết
quả CQĐT đã thu thập được. Thông thường, giữa kiểm sát viên và điều tra viên có
sự trao đổi thống nhất với nhau về những vấn đề xung quanh nội dung vụ việc nên
hai bên sự thống nhất ngay từ ban đầu trong quá trình xử lý tin báo, tố giác tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em. Khi Viện kiểm sát cần nghiên cứu tài liệu xác minh đơn
tố giác, tin báo tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em để phục vụ công tác kiểm sát
việc giải quyết tin báo tội phạm, thì yêu cầu các cơ quan đang thụ lý cung cấp đầy
đủ. Kiểm sát viên cũng phải có trách nhiệm giữ bí mật thông tin theo quy định của
pháp luật, nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đạt kết quả.
Kết quả từ năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2020, VKSND hai cấp ở Quảng
Nam đã phối hợp với CQĐT Công an tỉnh và các CQĐT có thẩm quyền cùng cấp,
tiếp nhận 155 nguồn tin về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, CQĐT đã tiến hành
kiểm tra, xác minh và xử lý theo quy định pháp luật, trong đó đã khởi tố 130 vụ án
về xâm phạm tình dục trẻ em.
Tuy nhiên, công tác kiểm sát việc tiếp nhận và xử lý tố giác, tin báo về tội
phạm xâm phạm tình dục trẻ em vẫn còn một số hạn chế. Thực tiễn tại Quảng Nam,
phần lớn các tố giác, tin báo về xâm phạm tình dục trẻ em đến từ do gia đình bị hại
tố cáo sau một khoảng thời gian bị xâm phạm. Đối với các vụ án XPTDTE, thông
thường gia đình và bản thân người bị hại thường nảy sinh tâm lý e ngại, sợ bị đe
dọa, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm và cuộc sống gia đình, nhiều trường hợp
trẻ em bị xâm hại tình dục, gia đình đã phát hiện nhưng lưỡng lự trong cách giải
43
quyết do lo sợ ảnh hưởng đến tương lai của các em, dẫn đến trình báo muộn, không
biết cách thu giữ vật chứng cần thiết để giao nộp cho cơ quan chức năng, nên đã vô
tình tạo điều kiện để người thực hiện hành vi phạm tội có đủ thời gian xóa hết dấu
vết.
Thực tế còn diễn ra tình trạng khi biết sự việc thì phía gia đình bị hại và gia
đình bị cáo tự thỏa thuận với nhau về việc bồi thường, nhưng do không thống nhất
được mức bồi thường nên phía bị hại mới tố cáo hành vi của người phạm tội, nhưng
việc khai báo sau đó không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; thời
gian xảy ra có thể đã lâu…nên việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo vẫn còn độ
chênh lớn so với thực tế diễn ra.
2.2.2. Kiểm sát điều tra việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự
và các tài liệu liên quan, Kiểm sát viên được phân công phải kiểm tra tính có căn cứ
và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án hình sự để xem xét, xử lý như sau:
a) Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp thì gửi
quyết định phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khởi tố, điều tra và truy tố cho cơ quan ra quyết định;
b) Nếu thấy chưa rõ căn cứ để khởi tố vụ án thì yêu cầu cơ quan đã ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ;
c) Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu cơ quan đã ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự hủy bỏ quyết định đó; nếu cơ quan đã ra quyết định không
nhất trí thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố
vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nếu thấy tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn có tội
phạm khác chưa được khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu cơ quan đã
ra quyết định khởi tố không nhất trí thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
44
Viện ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung, Kiểm sát viên gửi
các quyết định này cho cơ quan đã ra quyết định khởi tố để tiến hành điều tra theo
quy định tại khoản 2 Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự
của Cơ quan có thẩm quyền điều tra không có căn cứ thì Kiểm sát viên thụ lý giải
quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra hủy bỏ quyết định đó. Nếu cơ quan đã ra quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự không hủy bỏ thì lãnh đạo Viện trực
tiếp ra quyết định hủy bỏ.
Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên
thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi
tố vụ án hình sự và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện chuyển quyết
định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan đến Cơ quan điều tra có thẩm
quyền để tiến hành điều tra; trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự không có
căn cứ thì báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kháng nghị theo quy định của
pháp luật.
Theo đó, từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năn 2020, VKSND hai cấp ở Quảng
Nam đã KSĐT việc khởi tố 130 vụ án, khởi tố 142 bị can về các tội XPTDTE như
sau:
- Tổng số vụ/bị can được Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố: 130 vụ/142
bị can; số vụ/bị can Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố, thay đổi quyết
định khởi tố: 02 vụ;
- Số vụ Viện kiểm sát hủy bỏ Quyết định không khởi tố, Quyết định khởi tố vụ
án của Cơ quan điều tra: 01 vụ (hủy bỏ Quyết định không khởi tố).
- Số bị can Viện kiểm hủy Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra: 01
vụ (do bị can bị bệnh tâm thần).
- Số trường hợp Cơ quan điều tra không kịp thời khởi tố bị can, để người
phạm tội bỏ trốn mới ra Quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phê chuẩn Quyết
45
định khởi tố bị can và ra lệnh truy nã: 0 vụ.
Đối với các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em được khởi tố trong trường hợp
bắt quả tang đối tượng phạm tội hoặc đối tượng ra đầu thú, chứng cứ buộc tội đã rõ,
chắc chắn cho nên việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can đều đảm bảo đúng căn cứ pháp
luật thì Viện kiểm sát nhanh chóng tiến hành phê chuẩn. Tuy nhiên, một số vụ án
khởi tố thông qua hoạt động truy xét, phần lớn chứng cứ thu được đều dựa vào lời
khai của các bị can thậm chí nhiều vụ án đã xảy ra lâu cho nên một số vụ án tài liệu
chứng cứ yếu nên khi CQĐT ra quyết định khởi tố bị can là chưa có căn cứ nên
VKS hai cấp đã không phê chuẩn và yêu cầu bổ sung, củng cố thêm tài liệu, chứng
cứ để tiến hành phê chuẩn. Sau khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, KSV khẩn
trương đề ra các nội dung cần làm để yêu cầu ĐTV củng cố chứng cứ. Các yêu cầu
này bằng văn bản và lưu vào hồ sơ vụ án. Về cơ bản công tác KSĐT việc khởi tố vụ
án và khởi tố bị can mà chủ yếu tập trung đối với các vụ án xâm phạm tình dục trẻ
em đều được thực hiện tốt. Điển hình như vụ án sau:
“Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 27/11/2019, sau khi đi nhậu cùng bạn bè xong,
Nguyễn Đức Vinh (sinh năm 1978) về nhà của mình tại Khối 4, thị trấn Núi Thành,
huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Sau đó, Vinh mang theo 01 hộp sữa và 2000
đồng sang nhà cháu Lê Tú Q, sinh ngày 16/6/2011 (dưới 10 tuổi) nhà ở sát vách
nhà Vinh và nhờ cháu Q mang sữa và tiền lên lớp học đưa cho con của Vinh là
cháu Nguyễn Đức Quang (học cùng lớp với cháu Q), sau khi đưa đồ cho cháu Q thì
Vinh về nhà mình. Khi về đến nhà, Vinh nảy sinh ý định xâm phạm tình dục đối với
cháu Q để thỏa mãn nhu cầu sinh lý của bản thân nên Vinh gọi cháu Q qua nhà của
Vinh. Khi cháu Q đến nhà Vinh thì Vinh bảo cháu Q vào phòng ngủ và bảo cháu Q
ngồi xuống nệm rồi Vinh dùng tay trái luồn vào trong váy và quần lót cháu Q, sờ
vào bộ phận sinh dục cháu Q, lòng bàn tay Vinh úp vào bộ phận sinh dục (âm hộ)
của cháu Q được khoảng hai giây thì cháu Q dùng tay hất tay Vinh ra và đứng dậy.
Vinh tiếp tục bảo cháu Q nằm xuống nệm còn Vinh nằm dựa lưng vào tường rồi cởi
quần của mình xuống tới đầu gối để lộ toàn bộ bộ phận sinh dục của mình, rồi Vinh
đưa dương vật của Vinh vào miệng cháu Q để cháu Q ngậm dương vật của Vinh
46
nhằm mục đích làm cho Vinh hưng phấn và xuất tinh để thỏa mãn nhu cầu tình dục
của mình. Khi Vinh đưa dương vật của mình vừa đến đụng cằm cháu Q thì cháu Q
vùng vẫy không đồng ý thực hiện theo yêu cầu của Vinh và đứng dậy. Vinh cũng
đứng dậy tiếp tục yêu cầu cháu Q dùng tay vuốt ve dương vật của mình theo chiều
dọc của dương vật, từ trên xuống dưới và từ dưới lên được 03 lần thì cháu Q nói
với Vinh là ‘cháu sợ” rồi bỏ chạy ra khỏi phòng ngủ về nhà của cháu Q. Lúc này,
Vinh chạy theo nói với cháu Q: “Không được nói với ai, nếu không chú giết con”.
Đến khoảng 13 giờ 00 cùng ngày, khi Vinh đem sữa sang cho con của Vinh
đang học thì cháu Q nhìn thấy Vinh nên hoảng sợ và chạy vào phòng báo với giáo
viên chủ nhiệm. Thấy vậy, sợ bị phát hiện nên Vinh đã bỏ trốn khỏi địa phương, đến
ngày 29/11/2019, Vinh đến Công an huyện Núi Thành đầu thú và khai nhận hành vi
phạm tội của mình. Lời khai nhận của Vinh phù hợp với lời khai của bị hại.”
Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam xét thấy: Hành vi của Nguyễn Đức
Vinh phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều 146 BLHS
năm 2015 chứ không phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều
142 BLHS năm 2015 do Nguyễn Đức Vinh chưa thực hiện được hành vi giao cấu
với cháu Q nên đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Đức
Vinh về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều 146 BLHS năm
2015.
Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát chặt chẽ tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong
hồ sơ vụ việc, VKSD tỉnh Quảng Nam xét thấy Nguyễn Đức Vinh đã khai nhận: Vì
muốn thỏa mãn nhu cầu sinh lý (tình dục) của bản thân Vinh nên đã gọi cháu Q vào
phòng ngủ của mình, nhưng Vinh nghĩ rằng cháu Q còn nhỏ, nếu Vinh giao cấu với
cháu Q thì có thể làm cháu Q chết nên Vinh không thực hiện hành vi giao cấu với
cháu Q. Nhưng, để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình, Vinh đã thực hiện nhiều
hành vi quan hệ tình dục khác. Cụ thể:
- Vinh dùng tay trái luồn qua váy và quần lót của cháu Q, lòng bàn tay của
Vinh úp vào âm hộ của cháu Q, khi tay Vinh chạm vào vùng âm hộ của cháu Q thì
cháu Q đã hất tay Vinh ra và đứng dậy.
47
- Khi bị cháu Q phản ứng, Vinh không những không dừng hành vi của mình
lại mà tiếp tục yêu cầu cháu Q nằm xuống nệm rồi Vinh cởi quần mình ra và đưa
dương vật vào miệng cháu Q để cháu Q ngậm nhằm tạo cảm giác hưng phấn để
Vinh xuất tinh, nhưng do dương vật của Vinh đụng vào vùng cằm cháu Q thì cháu
Q đã hất ra và đứng lên nên Vinh chưa được được dương vật vào miệng của cháu Q.
Tại Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại
tình dục người dưới 18 tuổi quy định như sau:
2. Hành vi quan hệ tình dục khác quy định tại Khoản 1 Điều 141, Khoản 1
Điều 142, Khoản 1 Điều 143, Khoản 1 Điều 144 và Khoản 1 Điều 145 của Bộ luật
Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ
phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...),
dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người
khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi...), dụng
cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
Như vậy, căn cứ vào lời khai và Bản tường thuật của Nguyễn Đức Vinh, với
hành vi dùng tay sờ vào âm hộ cháu Q và đưa dương vật vào miệng để cháu Q
ngậm nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý của bản thân như nêu trên của Nguyễn Đức
Vinh chính là “hành vi quan hệ tình dục khác” nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp
dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều 142 BLHS năm 2015.
Việc Vinh chưa xâm nhập (bàn tay, ngón tay) được vào âm hộ của cháu Q
cũng như chưa đưa được dương vật vào miệng cháu Q là do cháu Q liên tục có hành
vi phản đối, chống trả bằng cách hất tay, hất dương vật của Vinh, đứng dậy, bỏ
chạy…chứ không phải Vinh tự ý dừng lại những hành vi nêu trên. Chưa dừng lại ở
đó, khi không thể tiếp tục thực hiện “hành vi quan hệ tình dục khác” như nêu trên
do bị cháu Q phản ứng, Vinh đã buộc cháu Q phải cầm và vuốt ve dương vật của
48
Vinh để Vinh thỏa mãn nhu cầu tình dục. Khi cháu Q mở được cửa bỏ chạy ra
ngoài, Vinh còn đuổi theo để đe dọa với nội dung “Không được nói với ai, nếu
không chú giết con”. Hành vi trên của Vinh vừa xâm phạm đến danh dự, nhân
phẩm, sức khỏe của cháu Q vừa gây nên những ảnh hưởng lớn về mặt tâm lý và sự
phát triển bình thường của cháu, do vậy, cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định
của pháp luật.
Từ những phân tích trên, đủ căn cứ để xác định Nguyễn Đức Vinh đã phạm
tội tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều 142 BLHS năm 201 nên
VKSND tỉnh Quảng Nam đã yêu cầu CQĐT ra Quyết định thay đổi Quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Đức Vinh để VKS xem xét phê chuẩn.
Hiện vụ án đã được TAND tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo
Nguyễn Đức Vinh 18 năm tù về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại
khoản 4 Điều 142 BLHS năm 2015.
Bên cạnh kết quả đạt được thì vẫn còn những tồn tại trong việc kiểm sát hoạt
động khởi tố vụ án và khởi tố bị can cần được khắc phục. Một số trường hợp biên
bản phạm pháp ban đầu như đầu thú, quả tang…được lập chưa đúng quy định về
hình thức , dẫn đến việc sau này bị can phản cung, chối tội, đổ tội, làm cho việc giải
quyết vụ án ở các bước tiếp theo gặp khó khăn, phải sửa chữa khắc phục biên bản
cho phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án. Đồng thời, do nhận thức vẫn còn
chưa thống nhất nên trong cùng một hành vi nhưng ở địa phương này thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự, còn nơi khác thì không truy cứu hoặc xác định tội danh khác
nhau. Cơ quan tiến hành tố tụng vận dụng chưa đúng các tình tiết định khung hình
phạt, tình tiết định tội nên dẫn đến tình trạng có vụ án phải trả lại hồ sơ nhiều lần.
2.2.3. Kiểm sát việc thu thập tài liệu, chứng cứ
So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 có những quy định mới về
việc thu thập chứng cứ. Một trong những điểm mới đó là bổ sung thêm trình tự mới
để VKS thực hiện việc kiểm sát toàn bộ các tài liệu thu thập được, tránh những sai
sót trong việc thu thập chứng cứ trong vụ án hình sự. Trình tự đó được quy định tại
khoản 5 Điều 88 BLTTHS năm 2015.
49
Tại khoản 5 Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định như sau: “Trong thời hạn
05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu
liên quan đến vụ án mà KSV không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này
thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc
lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài
nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục
và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu,
biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy
định tại Điều 133 của Bộ luật này” [27].
Hiện nay, VKSND hai cấp ở Quảng Nam đã triển khai thực hiện nghiêm túc,
chặt chẽ quy định kiểm sát tài liệu, chứng cứ theo khoản 5 Điều 88 BLTTHS năm
2015, qua đó tăng cường vai trò, trách nhiệm của VKS trong kiểm sát hoạt động
điều tra, nhất là đối với những vụ án XPTDTE khi tài liệu, chứng cứ được thu thập
rất hạn chế do không có nhân chứng trực tiếp chứng kiến; người bị hại nhỏ tuổi, tâm
lý lo sợ nên khai báo không cụ thể, rõ ràng… Trên cơ sở quy định này, đã tạo điều
kiện để KSV theo dõi, bám sát được tiến độ, kết quả của hoạt động điều tra, từ đó
kịp thời đề ra yêu cầu điều tra để đảm bảo việc thu thập tài liệu chứng cứ đầy đủ,
khách quan, theo đúng quy định pháp luật.
Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, thi hành vẫn còn nhận thức và áp dụng chưa
thống nhất như sau:
Thứ nhất, quy định về việc gửi các biên bản về hoạt động điều tra, thu thập,
nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà KSV không trực tiếp kiểm sát theo quy
định của BLTTHS. Tuy nhiên luật không quy định cụ thể những tài liệu nào Cơ
quan điều tra phải gửi cho Viện kiểm sát, tất cả các tài liệu liên quan đến hoạt động
điều tra hay chỉ một số tài liệu. Vì theo quy định của BLTTHS thì có 07 trường hợp
KSV phải trực tiếp tham gia kiểm sát, đó là: Đối chất (Điều 189); Nhận dạng (Điều
190); Nhận biết giọng nói (Điều 191); Các trường hợp khám xét người, chỗ ở, nơi
50
làm việc, địa điểm, phương tiện, tài liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu
phẩm, dữ liệu điện tử (Điều 192, 193); Khám nghiệm hiện trường (Điều 201);
Khám nghiệm tử thi (Điều 202) và Thực nghiệm điều tra (Điều 204). Trong 07
trường hợp trên thì có 02 trường hợp bắt buộc KSV phải tham gia là khám nghiệm
hiện trường và khám nghiệm tử thi. Còn các trường hợp khác nếu KSV không trực
tiếp tham gia thì phải thông báo cho Cơ quan điều tra biết và phải ghi rõ lý do vào
biên bản của hoạt động điều tra đó. Khi đó biên bản đó vẫn có giá trị pháp lý chứng
minh. Theo quy định như trên, cũng có thể hiểu chỉ khi nào Cơ quan điều tra tiến
hành các hoạt động điều tra trên mà KSV không tham gia thì Cơ quan điều tra mới
phải gửi các biên bản về hoạt động điều tra đó cho Viện kiểm sát để tiến hành kiểm
sát và đóng dấu bút lục vào các biên bản đó. Ngoài các trường hợp trên thì Cơ quan
điều tra không phải gửi cho Viện kiểm sát để kiểm sát và đóng dấu bút lục. Quy
định này vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau.
Thứ hai, về việc đóng bút lục chứng cứ được thực hiện từ giai đoạn nào, từ
giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố hay từ khi có quyết
định khởi tố vụ án. Bởi quy định như trên còn có cách hiểu khác nhau, theo quy
định thì Cơ quan điều tra phải gửi các tài liệu có liên quan đến vụ án…mà nói đến
vụ án có nghĩa là đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Vậy việc đóng dấu bút lục
chứng cứ chỉ được thực hiện khi đã có quyết định khởi tố vụ án căn cứ vào câu chữ
quy định của luật. Tuy nhiên, theo quy định thì giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác
tội phạm, kiến nghị khởi tố cũng là một giai đoạn điều tra và các tài liệu chứng cứ
thu thập được trong giai đoạn này cũng được xem là chứng cứ để giải quyết vụ án
về sau. Do đó, việc thực hiện đóng bút lục chứng cứ ngay từ giai đoạn này để đảm
bảo cho quá trình giải quyết về sau là hoàn toàn phù hợp.
2.2.4. Kiểm sát điều tra trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn
Trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra
phần lớn là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Vì vậy, biện
pháp ngăn chặn thường áp dụng là biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Áp dụng biện
51
pháp ngăn chặn là biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng thể hiện
sự cưỡng chế mạnh mẽ của Nhà nước đối với người phạm tội. Trong mọi trường
hợp áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đều phải có sự phê chuẩn của
Viện kiểm sát cùng cấp. Nhằm thể hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm pháp chế XHCN, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân tránh xảy ra oan sai trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam. Trong những năm vừa qua VKS hai cấp ở Quảng Nam đã
làm tốt công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nhằm đảm bảo việc
bắt, tạm giữ, tạm giam diễn ra đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Theo báo
cáo thống kê tổng hợp của của VKSND tỉnh Quảng Nam cho thấy:
- Về HSĐT việc áp dụng biện pháp bắt:
Từ năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2020, các CQĐT trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam đã bắt giữ tổng số 132 đối tượng có hành vi phạm tội về xâm phạm tình dục
trẻ em, trong đó bắt quả tang 32 đối tượng; bắt khẩn cấp 58 đối tượng, bắt theo lệnh
truy nã là 02 bị can, ra lệnh bắt bị can để tạm giam 40 bị can. VKSND hai cấp đã
phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 58 đối tượng, không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp 02
đối tượng, phê chuẩn lệnh bắt tạm giam 41 bị can (theo Báo cáo thống kê từ năm
2015 đến hết tháng 5 năm 2020 của VKSND tỉnh Quảng Nam).
- Về kiểm sát điều tra việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam
Tính từ năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2020, VKSND hai cấp đã phê chuẩn 52
quyết định gia hạn tạm giữ lần thứ nhất hoặc lần thứ hai 47 đối tượng, không phê
chuẩn gia hạn tạm giữ 0 đối tượng; phê chuẩn lệnh tạm giam 56 bị can (bắt truy nã
02 bị can); hủy bỏ lệnh tạm giam 0 trường hợp không phê chuẩn khởi tố bị can, hủy
bỏ lệnh tạm giam thay đổi thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và bảo lĩnh 0 bị
can.
Nhìn chung, VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam đã làm tốt công tác kiểm sát
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra các
vụ án xâm phạm tình dục trẻ em đã tích cực nâng cao trách nhiệm và có nhiều tiến
bộ trong hoạt động kiểm sát việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam, thông qua đó làm giảm đáng kể các trường hợp bị bắt giữ theo
52
trình tự, thủ tục tố tụng hình sự nhưng sau đó xét thấy không có căn cứ lại xử lý
hành chính và trả tự do cho người bị bắt giữ.
2.2.5. Kiểm sát điều tra một số hoạt động điều tra khác đối với các vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em
- Về kiểm sát điều tra việc trưng cầu giám định
Hoạt động kiểm sát hoạt động giám định của Giám định viên là những hoạt
động không thể coi nhẹ trong quá trình KSĐT của Viện kiểm sát, nhất là đối với các
vụ án về xâm phạm tình dục trẻ em. Cho nên trong quá trình điều tra, KSV phải chủ
động, phát hiện kịp thời những vấn đề, những tình tiết cần giám định như: mẫu tinh
dịch, mẫu ADN của đối tượng gây án để lại trên người và quần áo của nạn nhân, tổn
thương màng trinh của bị hại, tổn thương tâm lý. Ngoài ra, để có căn cứ vững chắc
buộc tội đối với bị cáo VKS còn yêu cầu giám định cái tài liệu riêng tư liên quan
đến đời sống, tâm lý cá nhân của đối tượng.
Cụ thể, đối với vụ án Nguyễn Quang Chung hiếp dâm trẻ em tại Nam Giang,
theo yêu cầu của VKS ngày 18/01/2018, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam
ra Quyết định trưng cầu giám định số 08 gửi Viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại
Hà Nội giám định kỹ thuật số, điện tử liên quan đến "CPU" máy vi tính để bàn
trong phòng làm việc của Chung. Tại Bản kết luận giám định số 540/C54-P6 ngày
26/01/2018 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an tại Hà Nội có kết luận:
“Phục hồi và trích xuất được tin được lưu trong 01 đĩa DVD kèm theo 2 tập tin
video, 852 tập tin ảnh có nội dung khiêu dâm, kích dục trong mẫu cần giám định.”
“Tìm thấy 968 đường link đến các Website liên quan đến nội dung khiêu dâm,
kích dục trong mẫu cần giảm định (chỉ tiết được thể hiện trong phụ lục kèm theo)”.
Một vấn đề khác được đặt ra qua vụ án này đó là việc gia đình bị hại cháu Lê
Hoàng Anh T thì không đồng ý cho cháu đi giám định nên không xác định được
thương tích. Gây khó khăn trong quá trình đấu tranh, lấy lời khai khi bị cáo luôn
chối tội. Hoặc có trường hợp cơ quan giám định chưa làm rõ thương tích của bị hại
nên trong quá trình KSĐT, VKS phải yêu cầu CQĐT yêu cầu cơ quan giám định
giải thích rõ như vụ vụ án Trần Văn Tình về tội “Hiếp dâm trẻ em”. Tại Bản Giám
53
định pháp y về tình dục số 202/GĐTT.16, ngày 01/08/2016 của Trung tâm pháp y
tỉnh Quảng Nam kết luận đối với bị hại cháu Bùi Thị Phương H có nội dung: “Môi
bé xây xước đỏ, rướm máu”, tuy nhiên không nêu rõ cơ chế hình thành thương tích.
Do đó, cần có công văn yêu cầu Trung tâm giám định pháp y tỉnh Quảng Nam giải
thích rõ đối với thương tích này để làm căn cứ giải quyết vụ án.
- Về kiểm sát hoạt động lấy lời khai đối tượng, hỏi cung bị can
Thời gian qua, VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam đã triển khai thực hiện việc
giám sát chặt chẽ hoạt động hỏi cung bị can, lấy lời khai đối tượng, tham gia kiểm
sát hỏi cung, kiểm sát lấy lời khai nhân chứng, người bị hại. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can ngay từ lần hỏi cung đầu tiên, bảo đảm tính
có căn cứ, hợp pháp, đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 183 Bộ luật Tố
tụng hình sự. Kiểm sát viên có thể trực tiếp tham gia hỏi cung bị can cùng Điều tra
viên, Cán bộ điều tra hoặc kiểm sát biên bản hỏi cung bị can. Trước khi kết thúc
điều tra, Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên, Cán bộ điều tra tổng hợp, đánh
giá kết quả hỏi cung; tiến hành phúc cung khi thấy cần thiết. Khi nhận được thông
báo của Điều tra viên, Cán bộ điều tra về việc tiến hành hỏi cung bị can, nếu xét
thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp tham gia việc hỏi cung bị can. Trong trường
hợp này, Kiểm sát viên phải nghiên cứu, nắm chắc hồ sơ vụ án, các tình tiết liên
quan đến hành vi phạm tội của bị can, xác định nội dung cần làm rõ để yêu cầu
Điều tra viên, Cán bộ điều tra hỏi; phối hợp với Điều tra viên, Cán bộ điều tra
nghiên cứu, phát hiện mâu thuẫn giữa lời khai của bị can với lời khai của người
tham gia tố tụng khác, với chứng cứ khác nhằm làm rõ những vấn đề cần phải
chứng minh. Kiểm sát viên chú ý cách đặt câu hỏi của Điều tra viên, Cán bộ điều
tra, bảo đảm không để xảy ra việc bức cung, mớm cung, dụ cung; chú ý câu trả lời
của bị can để phát hiện tình tiết mới, những điểm chưa rõ và yêu cầu Điều tra viên,
Cán bộ điều tra hỏi làm rõ. Nếu thấy việc hỏi cung chưa đạt yêu cầu, Kiểm sát viên
trực tiếp hỏi để làm rõ. Khi tham gia hỏi cung bị can cùng Điều tra viên, Cán bộ
điều tra, Kiểm sát viên ký vào biên bản hỏi cung. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt
chẽ biên bản hỏi cung do Điều tra viên, Cán bộ điều tra thực hiện. Kiểm sát viên
54
yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra cung cấp đầy đủ biên bản hỏi cung, các tài
liệu khác đã thu thập được liên quan đến việc hỏi cung bị can; tiến hành phân tích,
đối chiếu, so sánh với các tài liệu khác trong hồ sơ để xác định tính có căn cứ, hợp
pháp và sự phù hợp của lời khai, bảo đảm mọi tình tiết trong lời khai của bị can đều
phải được kiểm tra, xác minh làm rõ.
Bên cạnh đó, ngay sau khi Thông tư liên tịch số 03/2018 ngày 01/02/2018 của liên ngành tư pháp Trung ương hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và Quy trình tạm thời số 264/2020 của VKSND tối cao được ban hành, VKSND tỉnh Quảng Nam đã triển khai, quán triệt và yêu cầu toàn thể Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên nghiệp vụ của VKSND hai cấp nghiên cứu đầy đủ các nội dung quy định trong Thông tư, Quy trình tạm thời để kiểm sát chặt chẽ trình tự, thủ tục thực hiện việc ghi âm, ghi hình có âm thanh. Đồng thời, tại trụ sở VKSND tỉnh Quảng Nam đã bố trí Phòng hỏi cung, lấy lời khai có gắn camera, thiết bị ghi âm để phục vụ cho việc ghi âm, ghi hình có âm thanh; đã tiến hành tổ chức tập huấn cho toàn thể công chức VKND hai cấp việc sử dụng trang thiết bị ghi âm, ghi hình được VKSND tối cao cấp nhằm đảm bảo thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu chặt chẽ trong công tác THQCT và KS giải quyết vụ án hình sự.
Đơn vị luôn xác định thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh sẽ hạn chế được bức cung, nhục hình, oan sai và những sai phạm có thể xảy ra trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; đảm bảo sự minh bạch, bảo vệ quyền công dân, quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự để từ đó việc giải quyết vụ án được khách quan và trong một số trường hợp còn là chứng cứ buộc tội vững chắc, chống được sự phản cung, thay đổi so với lời khai ban đầu.
Từ thời điểm BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2018, trong quá trình THQCT, KS việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, VKSND tỉnh Quảng Nam đã trực tiếp tiến hành việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi lấy lời khai đối tượng tình nghi phạm tội, người bị bắt, bị tạm giữ trong trường hợp xét thấy căn cứ tạm giữ của Cơ quan điều tra chưa đảm bảo; đã chủ động và yêu cầu Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Nam phải thực hiện việc ghi hình có âm thanh khi tiến hành hỏi cung, lấy lời khai ngay từ giai đoạn thụ lý tố giác, tin báo về tội phạm; ghi âm, ghi hình khi lấy lời khai của những người làm chứng, người có liên quan để làm chứng cứ buộc tội đối với các đối tượng có dấu hiệu không thừa nhận hành vi phạm tội, thay đổi lời khai, kêu oan.... nhằm củng cố chứng cứ trước khi phê chuẩn quyết định khởi tố bị can.
- Trong kiểm sát hoạt động đối chất, nhận dạng
55
Sau khi nhận được thông báo của Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có mặt để
trực tiếp kiểm sát việc đối chất. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự
đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo kịp thời cho Điều tra viên
để ghi rõ trong biên bản đối chất. Trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa các bị can, bị hại, người làm
chứng, đương sự mà đã tiến hành các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết
được mâu thuẫn, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối chất. Kiểm
sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Điều tra viên trong khi đối chất
theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu phát hiện vi phạm thì yêu cầu Điều tra
viên khắc phục. Trong quá trình đối chất, khi thấy còn những vấn đề chưa được làm
rõ thì yêu cầu Điều tra viên tiếp tục hỏi để làm rõ. Khi đã yêu cầu đối chất mà Điều
tra viên không thực hiện hoặc kết quả đối chất chưa rõ hoặc sau khi kết thúc điều
tra, Viện kiểm sát đã nhận hồ sơ vụ án, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai của
những người tham gia tố tụng hoặc trường hợp cần thiết thì Kiểm sát viên tiến hành
đối chất và lập biên bản đối chất theo quy định tại Điều 178 và Điều 189 Bộ luật Tố
tụng hình sự. Biên bản đối chất phải được đưa vào hồ sơ vụ án, lưu hồ sơ kiểm sát.
Sau khi nhận được thông báo của Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có mặt để
trực tiếp kiểm sát việc nhận dạng, nhận biết giọng nói. Trường hợp Kiểm sát viên
vắng mặt phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo kịp
thời cho Điều tra viên để ghi rõ trong biên bản nhận dạng, nhận biết giọng nói.
Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Điều tra viên khi tiến hành
việc nhận dạng, nhận biết giọng nói theo Điều 190 và Điều 191 Bộ luật Tố tụng
hình sự, nếu phát hiện vi phạm thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục. Trong quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên yêu
cầu Điều tra viên tiến hành việc nhận dạng, nhận biết giọng nói; nếu Điều tra viên
không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kiến
nghị Cơ quan điều tra khắc phục.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về xâm phạm tình dục trẻ
em trong thời gian qua cho thấy, các KSV của VKS hai cấp rất thận trọng trong việc
56
kiểm sát biện pháp điều tra này nên đã không để xảy ra các sai sót lớn. Tuy nhiên
trên thực tế, vẫn còn một số thiếu sót như nghiên cứu chưa kỹ các biên bản nhận
dạng của CQĐT viết chưa chặt chẽ, nhiều nội dung ghi không đầy đủ để kịp thời
yêu cầu CQĐT nhanh chóng khắc phục hoặc bổ sung.
- Việc kiểm sát khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ,
tạm giữ, kê biên tài sản, vật chứng
Thực trạng giải quyết các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em hiện nay cho thấy
việc phát hiện, thu thập tài liệu chứng cứ ban đầu như các dấu vết, mẫu tinh dịch,
mẫu AND của đối tượng gây án để lại trên người và quần áo của nạn nhân, hoặc ở
hiện trường còn gặp nhiều khó khăn bởi có nhiều trường hợp trẻ em bị xâm phạm
tình dục, khi gia đình biết đã lưỡng lự trong cách giải quyết dẫn đến khai báo muộn,
không biết cách thu giữ vật chứng cần thiết để giao nộp cho cơ quan chức năng nên
vô hình chung đã tạo điều kiện để người thực hiện hành vi phạm tội có đủ thời gian
xóa hết dấu vết. Do đó, việc thu thập chứng cứ một cách đầy đủ và chính xác gặp
nhiều khó khăn như vùng kín bị hóa sẹo, không thu được tinh dịch, mẫu AND của
đối tượng… nên rất khó để xác định người bị hại có bị hiếp dâm hay không và ai là
người thực hiện hành vi phạm tội. Trong khi đó yêu cầu của việc thu thập mẫu tinh
dịch, mẫu ADN để lại trên người và quần áo của nạn nhân, hoặc ở hiện trường và
giám định pháp y cần phải tiền hành nhanh chóng, kịp thời nhưng theo quy trình
giải quyết tin báo thì khi cơ quan điều tra sau tiếp nhận tin báo về tội phạm, phải
phân loại và tổ chức lấy lời khai ban đầu, xác minh, làm thủ tục giới thiệu đến cơ
quan chuyên môn thăm khám, lấy mẫu, giám định,... quy trình này mất trên dưới 1
tuần, có trường hợp còn kéo dài hơn. Vì vậy, thời gian càng kéo dài, việc thu thập
dấu vết tội phạm, chứng cứ chứng minh thủ phạm càng khó khăn hơn. Điển hình
như vụ án xảy ra tại huyện Núi Thành: Nguyễn Tấn Tín hiếp dâm con ruột, con
riêng của vợ nhiều lần trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 8/2017, đến
tháng 12/2017 vụ việc mới bị phát hiện, do trẻ bị cha đe dọa sẽ giết chết nếu nói cho
người khác biết sự thật, làm cho hai cháu bé là bị hại sống trong hoang mang, lo sợ
dẫn đến bỏ học đi lang thang gây khó khăn trong công trác điều tra đặc biệt là công
57
tác khám nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ vật chứng.
- Về vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung
VKS trong hoạt động KSĐT thường trả điều tra bổ sung nhận thấy xuất phát
từ thiếu sót trong công tác kiểm sát và nguyên nhân cơ bản dẫn đến trả hồ sơ điều
tra bổ sung như sau:
Một là, do tính chất phức tạp của vụ án nên trong quá trình thu thập, đánh giá
chứng cứ còn nhiều khó khăn, dẫn đến nhận thức, đánh giá chứng cứ giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khác nhau.
Hai là, một số vụ án, sự phối hợp giữa Điều tra viên, KSV và Thẩm phán chưa
đúng theo Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP
ngày 22/12/2017 quy định phối hợp gữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực
hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Ba là, KSV khi được phân công chưa thường xuyên nghiên cứu, cập nhật các
văn bản liên quan đến lĩnh vực được phân công, nhất là các văn bản hướng dẫn các
thao tác nghiệp vụ của Ngành, từ đó trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chưa đúng,
bỏ qua nhiều thao tác nghiệp vụ nên không kịp thời phát hiện những hạn chế, thiếu
sót của Cơ quan điều tra, Điều tra viên trong điều tra giải quyết nguồn tin về tội
phạm hoặc vụ án hình sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, có lúc KSV chưa quan tâm thực hiện tốt các quyền
hạn của Viện kiểm sát, KSV và quy định trách nhiệm cơ quan điều tra, cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện yêu cầu, quyết
định của Viện kiểm sát theo quy định BLTTHS.
- Số vụ/ bị can Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung: 02 vụ/02 bị can (01
vụ lý do để bổ sung chứng cứ; 01 vụ do quan điểm khác nhau về tội danh giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng).
- Số vụ Viện kiểm sát đề ra yêu cầu điều tra: 120 bản; không có trường hợp
nào Cơ quan điều tra không chấp hành sau đó phải trả hồ sơ điều tra bổ sung với
chính lý do Viện kiểm sát đã yêu cầu.
- Số vụ Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra: 03 vụ,
58
do VKSND huyện Phước Sơn và VKSND tỉnh Quảng Nam trực tiếp thực hiện như
lấy lời khai người bị tạm giữ, người liên quan; ra Quyết định trưng cầu giám định
pháp y.
- Kiểm sát quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra
Chất lượng công tác KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của CQĐT
còn được thể hiện qua hoạt động kiểm sát việc đình chỉ và tạm đình chỉ điều tra. Từ
năm 2015 đến T5/2020 số vụ án xâm phạm tình dục trẻ em đình chỉ, tạm đình chỉ
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam được phản ánh cụ thể như sau:
- Số vụ/bị can Cơ quan điều tra tạm đình chỉ điều tra: 03 vụ/01 bị can (01
vụ/01 bị can, do hết thời hạn điều tra nhưng không xác định được bị can ở đâu,
CQĐT đã ra Lệnh truy nã; 02 vụ/0 bị can, do hết thời hạn điều tra nhưng không xác
định được bị can theo Điểm a Khoản 1 Điều 229 BLTTHS năm 2015); số vụ/bị can
Cơ quan điều tra hủy bỏ Quyết định tạm đình chỉ và phục hồi điều tra: 0.
- Số vụ/bị can Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra: 03 vụ/02 bị can (01 vụ/01 bị
can xảy ra tại huyện Nam Trà My, lý do, bị can chết do bệnh lý theo quy định tại
Khoản 7, Điều 107 BLTTHS 2003; 01 vụ/01 bị can xảy ra tại huyện Phước Sơn, lý
do: Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy
tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm
tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 BLHS
năm 1999; 01 vụ/0 bị can xảy ra tại Núi Thành do đối tượng thực hiện hành vi bị bệnh tâm
thần).
- Số vụ/bị can Cơ quan điều tra hủy bỏ Quyết định đình chỉ và phục hồi điều tra: 0.
- Số vụ/bị can VKS hủy Quyết định tạm đình chỉ của Cơ quan điều tra: 0.
- Số vụ/bị can Viện kiểm sát hủy Quyết định đình chỉ của Cơ quan điều tra và
yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra: 0.
Tất cả các quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ đều được các KSV hai cấp
kiểm sát chặt chẽ các căn cứ nên các quyết định trên đều đúng theo pháp luật,
không có trường hợp nào VKS phải hủy bỏ, đối với những trường hợp tạm đình chỉ
khi bắt được bị can theo lệnh truy nã thì KSV đã yêu cầu phục hồi điều tra và các
59
trường hợp đình chỉ thì VKS cũng đã yêu cầu CQĐT xem xét việc hủy bỏ biện pháp
ngăn chặn, trả lại đồ vật hoặc tài liệu của họ đã bị tạm giữ trong quá trình điều tra
và những vấn đề khác có liên quan.
Theo đó, số vụ án xâm phạm tình dục trẻ em bị đình chỉ và tạm đình chỉ nêu
trên so với tổng số vụ án xâm phạm tình dục trẻ em đã phát hiện, khởi tố, điều tra
thì tỷ lệ án khởi tố sau đó đình chỉ và tạm đình chỉ là rất thấp, chiếm tỷ lệ không
đáng kể. Đây chính là minh chứng cho thấy VKSND hai cấp ở Quảng Nam đã thực
hiện tốt công tác KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em ngay từ giai đoạn tiền khởi
tố để hạn chế thấp nhất việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can sau đó phải đình chỉ điều
tra và tạm đình chỉ điều tra.
2.3. Đánh giá kết quả hoạt động kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình
dục trẻ em của các cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam
Nhận thức, đánh giá đúng ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động
KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn theo quy định của pháp luật, nên VKSND hai cấp ở tỉnh Quảng Nam đã chú
trọng đến khâu công tác này, thường xuyên tập trung chỉ đạo thực hiện tốt công tác
khâu chuyên môn. Do đó, hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của
ngành Kiểm sát Quảng Nam trong những năm qua có nhiều tiến bộ, thành công rõ
rệt, đạt được những kết quả quan trọng, qua đó góp phần quan trọng vào công tác
điều tra, xử lý tội phạm hình sự nói chung, tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em nói
riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của VKSND hai cấp
đã được tiến hành đảm bảo cho việc điều tra được kịp thời, có hiệu quả. Kiểm sát
viên khi được phân công đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, phán đoán, định hướng,
đánh giá đúng, tốt công tác điều tra khám phá làm rõ vụ án, kịp thời đề ra yêu cầu
điều tra. Đồng thời nắm chắc hồ sơ, tài liệu, chứng cứ và các quy định của pháp
luật, làm cơ sở để ra được quyết định truy tố đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật tránh làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm.
- Trong giai đoạn điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, những quyết
60
định tố tụng, các yêu cầu điều tra, định hướng điều tra và những kiến nghị khắc
phục những thiếu sót trong quá trình điều tra hoặc của các Cơ quan quản lý nhà
nước trên địa bàn tỉnh Quảng Nam do VKSND hai cấp ban hành về cơ bản đều đảm
bảo chính xác, kịp thời và có căn cứ, đúng pháp luật, góp phần đảm bảo cho công
tác điều tra xử lý tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em đúng pháp luật.
- Hoạt động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của các cơ quan VKSND
tỉnh Quảng Nam đều được tiến hành theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
đúng quy định pháp luật. Luôn tuân thủ theo đúng Quy chế Công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự do VKSND Tối cao ban
hành. Viện KSND hai cấp đã phối hợp chặt chẽ với các CQĐT và các ngành khác ra
các quyết định truy tố để Tòa án làm căn cứ đưa vụ án ra xét xử nhiều phiên toà
thực hiện theo tinh thần cải cách tư pháp, xử theo án trọng điểm đạt kết quả tốt,
phục vụ kịp thời nhiệm vụ chính trị địa phương của các đơn vị.
2.4. Những hạn chế bất cập và nguyên nhân trong kiểm sát điều tra đối
với các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em
2.4.1. Những hạn chế, bất cập
Trên cơ sở kết quả đạt được, quá trình tiến hành thực hiện việc KSĐT các vụ
án xâm phạm tình dục trẻ em của VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam vẫn còn những
hạn chế sau đây:
- Hoạt động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của VKSND hai cấp ở
tỉnh Quảng Nam chưa có sự thống nhất đầy đủ về việc áp dụng pháp luật hình sự,
các văn bản dưới luật (nghị quyết, thông tư...) trong quá trình điều tra, nhất là trong
nhận thức về hành vi “Quan hệ tình dục khác” để làm căn cứ định tội còn nhiều
tranh cãi, chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến việc trả hồ sơ
yêu cầu điều tra bổ sung khiến vụ án kéo dài.
- Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiểm sát khởi tố vụ án, còn bộc lộ những hạn chế như việc nắm, quản lý và kiểm sát
việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố một số Viện kiểm
sát, còn gặp nhiều khó khăn do sự phối hợp giữa Viện kiểm sát với cơ quan tiến
61
hành tố tụng có lúc, có nơi chưa tốt; vẫn còn một số đơn vị chưa kiểm sát chặt chẽ,
quản lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm; tỷ lệ giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm chưa đạt; công tác phát hiện vi phạm và kiến nghị yêu cầu khắc phục chưa kịp
thời
- Quá trình kiểm sát việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, VKS còn thực hiện thiếu tính chủ động,
không kịp thời và chính xác. Do đó, dẫn đến việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn còn bộc lộ một số thiếu sót, hạn chế ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng cũng như tiến độ giải quyết vụ án như: Để bị can trốn hoặc tiếp tục phạm
tội gây khó khăn cho công tác điều tra, xử lý loại tội phạm này, thủ tục hồ sơ áp
dụng biện pháp ngăn chặn thiếu căn cứ và chưa chặt chẽ, đầy đủ.
- Việc ban hành những kiến nghị và yêu cầu của VKSND hai cấp đối với
CQĐT để khắc phục những thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra các
vụ án xâm phạm tình dục trẻ em vẫn còn tồn tại, hạn chế dẫn đến còn có trường hợp
điều tra bổ trong thời gian qua. Thực tiễn vẫn có sự nể nang, chưa kiên quyết, quyết
đoán dẫn đến hoạt động thu thập chứng cứ, sử dụng, đánh giá chứng cứ để chứng
minh tội phạm của CQĐT chưa được đầy đủ và chặt chẽ, còn để xảy ra những vi
phạm tố tụng, gây khó khăn cho công tác giải quyết vụ án.
- Việc chấp hành các quy định của pháp luật có liên quan đến KSĐT các vụ án
hình sự nói chung, các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng còn có những
thiếu sót có liên quan đến thực hiện trình tự, thủ tục tiến hành, quyền, nghĩa vụ của
KSV, trách nhiệm của CQĐT, ĐTV, trong việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị của
VKSND. Chưa thực hiện tốt việc lập hồ sơ kiểm sát án hình sự theo đúng Quyết
định số 07 ngày 02/01/2008 của Viện trưởng VKSND Tối cao. Việc trích hồ sơ
chưa phản ánh đúng và đầy đủ diễn biến lời khai của bị can, bị cáo, nhân
chứng…một số hồ sơ kiểm sát chưa thể hiện và phản ánh rõ hoạt động KSĐT của
KSV trong quá trình điều tra vụ án hình sự và các ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh
đạo khi giải quyết án.
2.4.2. Nguyên nhân
62
Qua thực tiễn hoạt động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của các Cơ
quan VKSND tỉnh Quảng Nam, nhận thấy nguyên nhân của những hạn chế, thiếu
sót cụ thể như sau:
- Về nguyên nhân khách quan:
+ Hệ thống pháp luật về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em vẫn còn nhiều tồn
tại, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn diễn ra, chậm sửa đổi, bổ sung, không
đồng bộ và có nhiều văn bản chồng chéo lẫn nhau. Khi sửa đổi, bổ sung lại không
đúng theo hướng dẫn cụ thể, các quy định chưa cụ thể, rõ ràng nên dẫn đến nhận
thức và vận dụng mỗi ngành, mỗi nơi còn khác nhau. Ngoài ra, còn nhiều vướng
mắc, bất cập trong việc thực hiện các Nghị quyết, Thông tư hướng dẫn về tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của liên ngành tố tụng
nhưng chưa kịp giải đáp chi tiết, thống nhất.
+ Điều kiện cơ sở, vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn,
nghiệp vụ của VKS còn thiếu như các thiết bị chuyên dùng để quay phim, chụp
hình, ghi âm… nhằm đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho KSV thực hiện việc kiểm
sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai đối tượng, hỏi
cung bị can. Ngoài ra, hiện nay chưa có chế độ, chính sách tiền lương đặc thù tương
xứng với nhiệm vụ và trách nhiệm của cán bộ, KSV.
- Về nguyên nhân chủ quan:
+ Một số Kiểm sát viên chưa nắm chắc cấu thành, các dấu hiệu đặc trưng của
tội phạm, các vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự, các quy định tố tụng hình
sự nên đề ra yêu cầu điều tra không đảm bảo chất lượng; không đúng hướng, toàn
diện, triệt để; không sát với các tình tiết của vụ án hoặc không khả thi, bất hợp lý
nên đã gây khó khăn cho hoạt động điều tra.
- Công tác chỉ đạo, điều hành và việc phân công, bố trí cán bộ đôi khi còn hạn
chế, thiếu sót. Chưa bố trí cán bộ, KSV có năng lực, sở trường phù hợp để kiểm sát
các vụ án XPTDTE. Công tác phối hợp, trao đổi giữa các bộ phận nghiệp vụ và giữa
các VKS cấp huyện có lúc, có nơi còn chưa thật sự đồng bộ, kịp thời. Bên cạnh đó
công tác tổng kết, rút kinh nghiệm trong giải quyết án xâm phạm tình dục trẻ em
63
giữa VKS cấp tỉnh và các VKS cấp huyện có làm nhưng hiệu quả chưa cao. Công
tác thỉnh thị và trả lời thỉnh thị còn kéo dài, gây khó khăn trong quá trình giải quyết
án hình sự nói chung và án xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng, ảnh hưởng đến chất
lượng KSĐT.
- Mối quan hệ phối hợp giữa các CQĐT mà chủ yếu là Cơ quan cảnh sát điều
tra về xâm phạm tình dục trẻ em và VKSND hai cấp ở Quảng Nam trong hoạt động
điều tra tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em còn chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ,
vẫn có xảy ra trường hợp thờ ơ, không chú trọng công tác phối hợp. Chưa xây dựng
được quy chế phối hợp liên ngành, trong đó quy định cụ thể về mối quan hệ phối
hợp trong KSĐT đối với loại tội phạm này từ khâu tiếp nhận tố giác, tin báo về tội
phạm và công tác khởi tố, điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn và các biện pháp
điều tra khác đến cho đến khi kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án cho VKS quyết
định việc truy tố. BLTTHS và Luật tổ chức VKSND là những cơ sở pháp lý quan
trọng đối với hoạt động KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em. Tuy nhiên
nhiều chế định thể hiện quyền hạn và nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng hình sự
còn chung chung, quyền hạn của KSV như thế nào và đến đâu chưa được cụ thể dẫn
đến khó vận dụng thực hiện trên thực tế.
Tiểu kết Chương 2
Trong Chương 2, tác giả đã trình bày thực trạng KSĐT các vụ án xâm phạm
tình dục trẻ em của tình hình các tội XPTDTE trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, thực
trạng hậu quả (quan hệ nhân - quả) của nguyên nhân và điều kiện và tìm ra các
nguyên nhân và điều kiện cụ thể của tình hình tội phạm này. Qua nghiên cứu những
nội dung trên cho thấy:
Tình hình các tội XPTDTE các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong giai đoạn từ năm 2015 đến 06 tháng đầu năm 2020 có diễn biến phức
tạp, có xu hướng gia tăng cả về số vụ, tính chất và hành vi phạm tội.
Trên cơ sở các số liệu dẫn chứng, tác giả đã phân tích, đánh giá những kết quả
đạt được cũng như những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động KSĐT của VKSND hai
cấp tỉnh Quảng Nam trên thực tế như: kiểm sát việc tiếp nhận, thụ lý, giải quyết tin
64
báo, kiểm sát khởi tố vụ án, khởi tố bị can; kiểm sát việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn; kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường; kiểm sát việc thực nghiệm điều
tra; kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ vật chứng…
Các nội dung được trình bày trong Chương 2 sẽ là cơ sở để tác giả đưa ra các
dự báo tình hình tội phạm trong thời gian tới và tìm ra các biện pháp phòng ngừa
hiệu quả cho tình hình tội XPTDTE.
65
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
3.1. Dự báo tình hình về kiểm sát điều tra các vụ án hình sự xâm phạm
tình dục trẻ em trong thời gian tới
3.1.1. Cơ sở dự báo
Hoạt động dự báo tình hình các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới được xác lập trên cơ sở khoa học đó là: Số
liệu về tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong thời gian nghiên cứu từ
năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2020; những tài liệu về hiện tượng kinh tế - xã hội
tiêu cực đã, đang và sẽ tác động đến tình hình tội này; kết quả nghiên cứu về
nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em; hiệu quả
hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm qua hoạt động KSĐT của VKSND tỉnh
Quảng Nam. Hiện nay, trước diễn biến tình hình tội phạm nói chung và tình hình
các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng đều là những hiện tượng xã hội đang tồn
tại phổ biến vì xét về bản chất thì nó có nguồn gốc xã hội và đang tồn tại trong đời
sống xã hội, cũng như “số phận” của nó cũng do tính xã hội quyết định.
Ngoài ra, căn cứ vào những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về an
ninh trật tự; sự bùng nổ của công nghệ thông tin và các dịch vụ trên mạng internet;
những tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường; Việc ban hành mới các luật;
Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trên địa tỉnh Quảng Nam....Những
yếu tố nêu trên tác động mạnh đến tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em cũng
như công tác phòng ngừa loại tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian
tới.
3.1.2. Nội dung dự báo
Từ những cơ sở dự báo nói trên, có thể dự báo tình hình tội phạm xâm phạm
tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, kinh nghiệm cho thấy khi pháp luật về bảo vệ trẻ em có quy định cụ
66
thể về cơ chế tiếp nhận thông tin, có các quy định về bảo vệ, bảo mật cho người
cung cấp thông tin, tố cáo và khi dịch vụ công tiếp nhận, xử lý thông tin được phổ
biến rộng rãi và đặc biệt khi nhận thức về thực hiện quyền trẻ em, về bảo vệ trẻ em
được nâng cao thì thông tin, tố cáo, tố giác về bạo lực, xâm phạm trẻ em sẽ có xu
hướng tăng lên. Nạn nhân và gia đình, người dân từ chỗ không muốn hoặc không
dám tố giác, tố cáo thì khi nhận thức đã thay đổi và được bảo vệ, họ sẽ lên tiếng vì
lợi ích chung. Do đó, dự báo trong thời gian tới, số lượng thông tin, thông báo, tố
cáo, tố giác về vụ việc bạo lực, xâm phạm trẻ em trong đó có xâm phạm tình dục sẽ
không giảm và thực tế đang tăng lên.
Thứ hai, xét về phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm thì các đối tượng,
người phạm tội thường lợi dụng có mối quan hệ quen biết với nạn nhân từ trước
thông qua quan hệ hàng xóm, bà con, thầy trò…, sau đó các đối tượng này dùng vật
chất để dẫn dụ nạn nhân như cho tiền mua quà vặt, dẫn đi chơi, ăn nhậu, vũ
trường… rồi lợi dụng những nơi vắng người qua lại để thực hiện hành vi phạm tội
của mình. Tuy hành vi này không mới nhưng trong thời gian tới sẽ tiếp tục diễn ra
nhiều vụ án nghiêm trọng hơn. Một số trường hợp các đối tượng phạm tội có thể
dùng vũ lực để sát hại, giết chết nạn nhân thậm chí là phi tang, giấu xác nạn nhân
sau khi đã thực hiện xong hành vi xâm phạm tình dục hoặc khi hành vi phạm tội bị
phát hiện. Ngoài ra, vì lợi ích vật chất rất lớn nên sẽ ngày càng có nhiều đối tượng
sẵn sàng tìm mọi cách lừa gạt, dụ dỗ, ép buộc trẻ em mua bán dâm, mua bán trinh
để xâm phạm. Dưới sự phát triển của thời đại 4.0 với sự ra đời của điện thoại thông
minh và internet dẫn đến nhiều đối tượng xấu sẽ dễ dàng tiếp cận với nạn nhân để
làm quen và thực hiện hành vi phạm tội thông qua mạng xã hội, thu thập thông tin
cá nhân qua các ứng dụng trực tuyến. Thực tế qua những vụ án XHTDTE đã xảy ra
cho thấy, nhiều đối tượng có trình độ văn hóa, có tiền bạc, địa vị trong xã hội, có
hiểu biết pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với thủ đoạn tinh vi, xảo
quyệt và khi bị phát hiện thì quanh co, chối tội. Một số vụ hiếp dâm mang tính loạn
luân như cha dượng hiếp dâm con riêng của vợ hoặc cha đẻ hiếp dâm con gái ruột
trong một thời gian dài nhưng không bị phát hiện, nhiều vụ án là giáo viên, nhân
67
viên bảo vệ nhà trường XHTD đối với nhiều học sinh; người cao tuổi xâm hại tình
dục trẻ em.
Thứ ba, về chủ thể thực hiện tội phạm: Đa phần những vụ việc được phát hiện,
đối tượng gây án có mối quan hệ quen biết với nạn nhân đã lợi dụng mối quan hệ đó
để dụ dỗ hoặc đe dọa nhằm thực hiện hành vi phạm tội của mình, trong khi bản thân
nạn nhân còn nhỏ tuổi, không có khả năng kháng cự, chưa có ý thức về việc bản
thân đang bị xâm phạm, nhiều vụ đối tượng phạm tội là những người thường xuyên
gần gũi, quen biết như người quen của bố mẹ các em, thậm chí là bố dượng, bố đẻ
hoặc hàng xóm, họ hàng, thầy giáo...
Thứ tư, về địa bàn gây án: Trên tất cả các đơn vị thuộc địa bàn tỉnh Quảng
Nam đều có thể xảy ra tội phạm XPTDTE. Tội phạm này có diễn biến gia tăng tại
các địa phương có nhiều thành phần, đối tượng có nhân thân, lai lịch phức tạp, tình
hình an ninh, trật tự không ổn định hoặc nơi có trình độ dân trí thấp, nhiều người
dân tộc thiểu số, mặc dù được chính quyền địa phương và các tổ chức chính trị xã
hội quan tâm nhưng đây vẫn là một số đơn vị có số vụ XPTDTE nhiều nhất so với
toàn tỉnh.
Thứ năm, về nạn nhân: Trẻ em bị XPTD xảy ra ở nhiều độ tuổi, bởi vì bên
cạnh sự phát triển của công nghệ số, trẻ em ngày càng có nhiều điều kiện để tiếp
xúc với nhiều các loại hình như: internet, mạng xã hội facebook, tik tok, zalo…
trong khi đó đây chính là những môi trường không gian mạng thuận lợi cho người
phạm tội có thể dễ dàng làm quen, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc để có thể thực hiện hành
vi XPTD. Đặc biệt, đáng lưu ý là có những nạn dân có độ tuổi còn rất nhỏ (dưới 10
tuổi) nên chưa có sự phát triển đầy đủ về thể chất và nhận thức, chưa có đủ năng lực
hành vi dân sự cũng như không có khả năng tự bảo vệ mình trước nguy cơ bị xâm
phạm tình dục từ người phạm tội. Nhiều trường hợp, do các cháu không nhận thức
được vấn đề nên thường chịu đựng không dám nói sự việc để cha mẹ biết hoặc các
em sợ đối tượng phạm tội đánh hoặc hứa hẹn nếu các em không nói sẽ tiếp tục cho
quà… Chính vì vậy, nhiều vụ việc XPTDTE không bị phát giác.
68
3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến kiểm sát điều tra vụ
án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
Hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự
Thứ nhất, bổ sung Tội xâm phạm tình dục trẻ em qua mạng trong Bộ luật
Hình sự
Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp trẻ em bị xâm phạm bởi các hành vi
dụ dỗ của người phạm tội thông qua mạng xã hội và các ứng dụng trực tuyến phổ
biến hiện nay. Các đối tượng thường sử dụng mạng xã hội để tạo nên các diễn đàn,
group nhóm, ứng dụng phát trực tuyến rồi sau đó chia sẻ phim, ảnh đồi trụy, tổ chức
các buổi gặp mặt thành viên tại khách sạn, quán nhậu, quán karaoke, tiệc bể bơi...
để lợi dụng và thực hiện hành vi XPTD với trẻ em. Trong khi đó, các đối tượng xâm
phạm tình dục trẻ em không chỉ thực hiện hành vi ở trong nước mà có cả những đối
tượng thực hiện ở người nước ngoà thông qua không gian mạng. Thực hiện các
hành vi dụ dỗ trẻ em gặp mặt trực tiếp với mục đích dâm ô, xâm hại hoặc thông qua
chat sex, livestream (ứng dụng mạng xã hội) để khiêu dâm; chủ ý dụ dỗ trẻ em đồng
thuận thực hiện hành vi tình dục hoặc phát tán, sử dụng các hình ảnh khiêu dâm trẻ
em là những hành vi dễ dàng bị phát hiện trên thực tế và đây cũng chính là mục
đích cuối cùng của các đối tượng xâm phạm tình dục qua mạng.
Vì vậy, cần thiết phải xem xét, bổ sung Tội xâm phạm tình dục trẻ em qua
mạng vào BLHS thuộc nhóm tội xâm phạm tình dục trẻ em để phù hợp với tình
hình thực tiễn hiện nay. Đồng thời, cần phải quy định các hình phạt bổ sung đối với
những người phạm tội liên quan đến XPTDTE như cấm vĩnh viễn việc hành nghề
liên quan đến trẻ em như: giảng dạy, nuôi giữ trẻ em… cũng như không được phép
tiếp cận trẻ em, thực hiện việc theo dõi và công khai danh tính, tên tuổi trên cổng
thông tin phòng chống tội phạm và trong cộng đồng dân cư nơi cư trú. Nếu xảy ra
trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm thì sẽ bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn
nghiêm khắc, thời gian cách ly xã hội dài cũng như xem xét áp dụng biện pháp “thiến hóa học”
như một số quốc gia phát triển trên thế giới đã triển khai thực hiện.
69
Thứ hai, xác định tuổi nạn nhân
Tại các quận, huyện vùng ven thành phố, là nơi có số lượng dân nhập cư sinh
sống nhiều, các cụm dân cư xóm nghề chài lưới cá ven sông thì việc học hành,
chăm sóc y tế còn nhiều khó khăn, do đó việc làm giấy khai sinh, hộ khẩu, chứng
minh thư, thẻ căn cước không kịp thời, không đầy đủ, cho nên vẫn có nhiều trường
hợp đến nay vẫn chưa có giấy khai sinh hoặc làm giấy khai sinh sau khi sinh 2 đến
5 năm (thậm chí nhiều hơn) nên ngày tháng năm sinh trong giấy khai sinh không
chính xác, có trường hợp người bị hại không biết ngày tháng năm sinh của mình
nên các cơ quan tiến hành tố tụng đến hỏi bố mẹ của bị hại hoặc hàng xóm tuy
nhiên do cuộc sống mưu sinh làm lụng vất vả nên bố mẹ, người thân, hàng xóm của
bị hại cũng không nhớ chính xác; vậy các cơ quan tiến hành tố tụng không thể đoán
chừng hoặc ước lượng ngày, tháng, năm sinh của trẻ bị xâm phạm theo những lời
khai trên mà phải tuân thủ một nguyên tắc thống nhất về vấn đề này.
Trong khi đó việc xác định tuổi của người bị hại nhưng không đảm bảo căn cứ
pháp lý sẽ dẫn đến việc định tội danh đối với người phạm tội không thể chính xác.
Ngoài ra, việc giám định độ tuổi bị hại của các cơ quan pháp y chuyên môn vẫn còn
xảy ra trường hợp chưa thống nhất, có độ chênh lệch lớn giữa các cơ quan chuyên
môn khi giám định tuổi đối với cùng một người bị hại, gây khó khăn cho các cơ
quan tiến hành tố tụng khi sử dụng kết quả. Trong khi đó, dưới áp lực về thời hạn
giải quyết vụ án cùng với tâm lý lo ngại vụ án có sai sót sẽ bị kháng cáo, kháng nghị
để xét xử lại theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, nên việc các cơ quan tiến hành tố
tụng xem xét đề nghị giảm án, xử dưới khung hình phạt đối với bị cáo được xem là
một giải pháp để nhanh chóng kết thúc vụ án nhưng có hệ lụy là dễ dẫn đến oan sai,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không đúng tội danh.
Hoàn thiện các quy định của BLTTHS 2015
Thứ nhất, theo quy định tại Điều 147 BLTTHS 2015, khi trực tiếp giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố Viện kiểm sát có quyền: Thu thập
thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác
minh nguồn tin; Khám nghiệm hiện trường; Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá
70
tài sản và các hoạt động khác liên quan… Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 201
BLTTHS 2015 thì việc khám nghiệm hiện trường do Điều tra viên chủ trì tiến hành
khám nghiệm, Viện kiểm sát kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường của CQĐT.
Như vậy, trong trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố thì Viện kiểm sát có được quyền trực tiếp chủ trì việc
tiến hành khám nghiệm hiện trường không? Hay phải thông báo cho cơ quan điều
tra để thực hiện việc khám nghiệm hiện trường và Viện kiểm sát chỉ kiểm sát việc
khám nghiệm của Cơ quan điều tra? Như vậy, có thể nhận thấy đã xảy ra mâu thuẫn
với Điều 147 BLTTHS năm 2015 (có quy định về việc Viện kiểm sát có quyền tiến
hành việc khám nghiệm hiện trường). Vì vậy, các cơ quan liên ngành Trung ương
cần sớm có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này để nhận thức và áp dụng thống nhất.
Thứ hai, hiện nay các quy định mới của BLTTHS 2015 đã tạo điều kiện cho
các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có những nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể để thực hiện tốt chức năng của mình. Tuy nhiên cần xem xét mở rộng
quyền hạn tố tụng cho ĐTV, KSV, Thẩm phán để họ có được sự chủ động, độc lập
khi quyết định và thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng của mình và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về những hành vi, quyết định đó. Mặc dù, theo nguyên tắc tố
tụng hình sự thì các hành vi và quyết định tố tụng đều gắn với trách nhiệm cá biệt
của mỗi cá nhân người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên trên thực tế, thường chỉ có lãnh
đạo cơ quan tư pháp các cấp mới thực sự là người quyết định trong hoạt động tố
tụng hình sự còn các cá nhân khác cũng chỉ phải chịu một phần trách nhiệm. Do đó,
đối với cán bộ, Kiểm sát viên cần được mở rộng thêm nhiệm vụ, quyền hạn nhằm
nâng cao trách nhiệm, sự độc lập trong tố tụng hình sự mà theo quy định của pháp
luật thì Kiểm sát viên không được thực hiện như khi hồ sơ vụ án được Cơ quan điều
tra chuyển sang Viện kiểm sát thì cần giao cho Kiểm sát viên có thẩm quyền áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; trưng cầu giám định, giám định lại
hoặc giám định bổ sung; thay đổi, bổ sung rút một phần hoặc toàn bộ cáo trạng…
Thứ ba, xây dựng quy trình thụ lý, tiếp nhận và giải quyết các tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố về các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
71
Đối với các nguồn tin tội phạm xâm hại tình dục trẻ em, cần phải xem xét thay
đổi về quy trình, thủ tục thụ lý về đối với loại nguồn tin này, trong đó khi các cơ
quan tiến hành tố tụng khi tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố
XPTDTE, CQĐT cần phải nhanh chóng thực hiện việc phân loại, thụ lý và thông
báo ngay cho VKS để kiểm sát và đề ra yêu cầu xác minh, bởi loại tội phạm này có
tính đặc thù, phức tạp nên cần phải có một quy trình tiếp nhận, thụ lý và giải quyết
riêng.
Cụ thể, trên cơ sở xây dựng quy chế phối hợp liên ngành cần thống nhất về
quy trình tiếp nhận nguồn tin tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em được thực hiện
theo các bước sau:
- Bước 1, các cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện việc cử cán bộ trực tiếp
nhận nguồn tin về tội phạm nói chung và nguồn tin tội phạm về xâm phạm tình dục
trẻ em 24/24 giờ tại cơ quan đơn vị, bên cạnh đó cần có hòm thư, cổng thông tin
điện tử tiếp nhận riêng đối với nhóm nguồn tin tội phạm này.
- Bước 2, ngay sau khi tiếp nhận nguồn tin tội phạm, cơ quan có thẩm quyền
phải phân loại, thụ lý nếu thuộc thẩm quyền giải quyết và thông báo ngay cho VKS
cùng cấp biết để kiểm sát. Ra Quyết định phân công ĐTV, KSV thụ lý giải quyết.
- Bước 3, quá trình xác minh, giải quyết nguồn tin tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em, CQĐT phải có trách nhiệm chuyển giao thường xuyên các tài liệu,
chứng cứ mới để VKS kiểm sát tài liệu và đóng dấu bút lục kiểm sát. KSV phải
bám sát quá trình xác minh của ĐTV, thời hạn giải quyết nguồn tin tội phạm để kịp
thời đề ra yêu cầu, định hướng hoạt động xác minh, giải quyết nguồn tin.
- Bước 4, trước khi hết thời hạn giải quyết nguồn tin tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em, ĐTV và KSV phải cùng nhau đánh giá, tổng hợp lại các tài liệu, chứng
cứ đã thu thập để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không. Sau đó giữa CQĐT,
VKS phải có công văn trao đổi thống nhất quan điểm về việc ra quyết định khởi tố,
không khởi tố vụ án hình sự hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin tội phạm.
Nếu giữa hai cơ quan không thống nhất quan điểm với nhau về việc giải quyết thì
phải tổ chức họp liên ngành để bàn bạc và quyết định.
72
Thứ tư, về công tác lấy lời khai của bị hại
Hầu hết sau các vụ án xâm hại tình dục xảy ra bị hại sẽ có tâm lý hoang man,
sợ hại, không thể nhớ và mô tả chính xác lại diễn biến, hành vi phạm tội đã xảy ra,
trong khi đó các đối tượng tình nghi lại không thừa nhận hành vi phạm tội của
mình, quanh co chối tội, đưa ra các chứng cứ ngoại phạm về thời gian, địa điểm có
mặt…. Có những vụ việc xảy ra ở vùng sâu vùng xa, thời gian tiếp nhận vụ việc bị
chậm trễ, việc kéo dài thời gian dẫn đến việc thu thập tài liệu chứng cứ để chứng
minh cho lời khai của nạn nhân là hết sức khó khăn, do đối tượng phạm tội đã có
thủ đoạn che dấu, xóa dấu vết hiện trường hoặc do yếu tố bên ngoài tác động như
thời tiết mưa, nắng làm cho hiện trường không nguyên vẹn, các dấu vết được thu
thập ít, không thể trưng cầu giám định dẫn đến việc không đủ căn cứ chứng minh
tội phạm và người phạm tội.
Đặc biệt, đối với trẻ em bị xâm phạm tình dục thì không thể bắt buộc nạn nhân
phải khai đúng diễn biến sự việc đã xảy ra bởi hầu hết trẻ em khi bị xâm phạm thì
thể chất và tinh thần đã bị chấn thương, tổn hại, tâm lý bị hoang mang, khủng hoảng
nên ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức, khả năng ghi nhớ thời gian, địa điểm, đặc điểm
về trang phục, ngoại hình và hành vi của người phạm tội phạm tội cũng như các sự
kiện có liên quan đã xảy ra.
Đồng thời, việc lấy lời khai của trẻ em bị XPTD hiện nay được thực hiện bởi
đa số là các cán bộ điều tra là nam giới, tỷ lệ nữ giới tham gia lấy lời khai trong các
vụ án xâm phạm tình dục trẻ em có nhưng chiếm tỷ lệ ít, chính vì vậy đã tạo nên
tâm lý e ngại, nạn nhân khó trình bày chi tiết vụ việc đã xảy ra, nếu trường hợp
không khéo léo gợi mở vấn đề thì càng làm cho nạn nhân hoảng loạn, từ chối khai
báo. Một số trường hợp, việc lấy lời khai trẻ em đã sử dụng thuật ngữ mang tính
chất chuyên môn hoặc các câu hỏi áp dụng như đối với người đã thành niên khiến
trẻ em không biết trả lời hoặc trả lời không chính xác.
Do đó, tác giả thiết nghĩ cần xem xét đến yếu tố “trẻ em” trong quá trình lấy
lời khai, xây dựng đội ngũ ĐTV, KSV phải có kỹ năng hiểu và nắm bắt được tâm lý
của trẻ em, có khả năng gợi mở vấn đề, tạo tâm lý an tâm, an ủi, động viên nạn nhân
73
khi tiến hành việc lấy lời khai. Bên cạnh đó, phải đẩy mạnh việc xây dựng và triển
khai mô hình “Phòng điều tra thân thiện” tại Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng giải quyết các vụ án xâm hại
trẻ em cho ĐTV, KSV.
Thứ năm, xem xét hợp pháp hóa việc gài bẫy đối với tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em.
Có thể thấy rõ nhất việc áp dụng luật gài bẫy đối với hành vi phạm tội ấu dâm
qua vụ án diễn viên hài Hồng Quang Minh ở Mỹ. Cụ thể, sau khi một cậu bé tố giác
Minh xâm phạm tình dục, một thanh tra Sở Cảnh sát Garden Grove (GGPD) thuộc
Quận Cam, California, đã đóng giả làm thiếu niên 14 tuổi và liên hệ với nghệ sĩ hài
Việt Nam. Khi gặp “thiếu niên” này với ý đồ thực hiện hành vi dâm ô, Minh đã bị
GGPD bắt giữ.
Liên hệ pháp luật Việt Nam, với nguyên tắc trọng chứng hơn trọng cung
chúng ta không thể chỉ lấy lời khai của bị hại hay lời nhận tội của thủ phạm để làm
căn cứ buộc tội, chứng cứ buộc tội yếu dẫn đến khó xử lý loại tội phạm này trên
thực tế là do vậy. Mặc khác, hành vi phạm tội thường ở chỗ vắng người nên khó có
người làm chứng, đối tượng tình nghi lại có hành vi từ chối khai nhận, che giấu
hành vi phạm tội, hợp thức hóa các chứng cứ ngoại phạm, trong khi đó bị hại là trẻ
em nên khả năng nhận thức và ghi nhớ chưa cao, do đó việc mô tả hành vi phạm tội
đã diễn ra có thể không chính xác như lời khai của người lớn. Như vậy đã đến lúc
chúng ta nên cân nhắc và xem xét việc hợp pháp hóa việc gài bẫy đối với loại tội phạm
này ở Việt Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý phải đảm bảo chặt chẽ quyền con người khi áp
dụng biện pháp này, tránh việc lạm dụng như trước khi áp dụng thì phải có sự đồng ý
phê chuẩn của Viện kiểm sát, việc tiến hành gài bẫy đối với tội phạm phải đặt dưới sự
kiểm sát của Kiểm sát viên.
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra các vụ
án xâm hại tình dục trên địa bản tỉnh Quảng Nam
Củng cố và đổi mới công tác tổ chức, đào tạo cán bộ để tăng cường cho
hoạt động Kiểm sát điều tra tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
74
+ Cần phải nhanh chóng kiện toàn tổ chức, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ có phẩm
chất đạo đức tốt, có trình độ về chính trị và chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với yêu
cầu thực tế cho bộ phận thực hành quyền công tố và KSĐT các vụ án tội phạm
XPTDTE.
+ Thường xuyên tổ chức tập huấn liên ngành, mời các chuyên gia trong lĩnh
vực phòng chống tội phạm XPTDTE chia sẻ kinh nghiệm cho những người tiến hành
tố tụng là Điều tra viên, KSV, Thẩm phán để có được sự thống nhất về nhận thức
pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn nhằm phục vụ tốt công tác phòng, chống tội phạm
XPTDTE.
- Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam cần chú
trọng thực hiện tốt các nội dung:
+ Thường xuyên sơ kết, tổng kết chuyên đề, tăng cường công tác đào tạo về
chuyên môn nghiệp vụ; tập huấn, trao đổi kinh nghiệm và thông tin cho đội ngũ cán
bộ trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và KSĐT các vụ án tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em.
+ Tổng hợp và ban hành thông báo rút kinh nghiệm giải quyết các vụ án tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em phức tạp.
+ Các Phòng nghiệp vụ có liên quan có trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn, trả
lời thỉnh thị các khó khăn, vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới trong
việc giải quyết các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em.
+ Chú trọng trong việc phân công cán bộ, KSV có năng lực, sở trường công
tác phù hợp để theo dõi và giải quyết các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, bên cạnh
đó cần cử các cán bộ, KSV làm công tác này đi đào tạo tại các lớp bồi dưỡng nghiệp
vụ chuyên sâu nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu trong công tác
đấu tranh, phòng chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trong giai đoạn hiện nay.
Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác Kiểm sát điều
tra tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
- Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong hoạt động thực hành
quyền công tố và KSĐT các vụ án tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Xem đây là
75
công tác chỉ đạo, điều hành hết sức quan trọng, phải kịp thời định hướng để KSV
được phân công giải quyết vụ việc nắm được quan điểm chỉ đạo và thực hiện hiệu
quả.
- Đối với những vụ án phức tạp phải thường xuyên báo cáo, xin ý kiến của tập
thể lãnh đạo Viện, của Ủy ban kiểm sát ở các giai đoạn tố tụng để quyết định theo
đa số.
- Lãnh đạo Viên phải phân công, bố trí những cán bộ, KSV có trình độ, năng
lực làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án XPTDTE, đảm bảo tính ổn định,
chuyên sâu.
- Tăng cường quan hệ phối hợp trong quá trình giải quyết án tội phạm xâm
phạm tình dục trẻ em, cần ban hành quy chế phối hợp giữa các ngành tư pháp và
Quy chế về việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị giải quyết các vụ án tội phạm xâm
phạm tình dục trẻ em. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phải chủ động xây
dựng kế hoạch kiểm tra nội bộ trong ngành hoặc liên ngành về việc thực hiện quy
chế phối hợp, quy chế thỉnh thị qua đó kịp thời chấn chỉnh, hướng dẫn xử lý những
vấn đề tồn tại, thiếu sót.
Nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát điều tra tội phạm xâm phạm tình dục
trẻ em
Công tác phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải được thực hiện
trên cơ sở các quy định của pháp luật, chú trọng việc nâng cao hiệu quả phối hợp
trong đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em,
loại bỏ tư tưởng “quyền anh, quyền tôi” trong tố tụng hình sự. Từ năm 2015 đến hết
tháng 5 năm 2020, VKSND tỉnh Quảng Nam đã luôn xác định khâu công tác Kiểm
sát việc giải quyết vụ án XPTDTE là khâu công tác trọng tâm, đột phá, bởi diễn
biến tình hình tội phạm này ngày càng phổ biến, phức tạp. Do đó, trong thời gian
qua, khâu công tác này cũng đã đạt được hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, VKSND tỉnh
Quảng Nam cần nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm kiểm sát của mình nhằm
đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là các vi phạm pháp luật trong việc
76
thụ lý, khởi tố, điều tra các hành vi xâm phạm tình dục trẻ em đều được xử lý kịp
thời, nghiêm minh, theo đúng quy định pháp luật. Xây dựng quy chế phối hợp liên
ngành giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát các cấp nhằm đảm bảo tính phối hợp
chặt chẽ ngay từ khi bắt đầu tiếp nhận đơn tố cáo của gia đình bị hại.
Trong đó cần phối hợp thực hiện ngay một số hoạt động như: kịp thời thu giữ
dấu vết vật chất đặc biệt là lông, tóc, sợi, dịch, máu, quần áo, công cụ trong các vụ
án xâm hại tình dục trẻ em; yêu cầu Cơ quan điều tra đưa ngay nạn nhân đi khám
sản phụ khoa, kiểm tra xem xét toàn bộ các dấu vết nghi có liên quan trên thân thể
nạn nhân; Công tác khám nghiệm hiện trường phải kịp thời, tỉ mỉ, toàn diện để đánh
giá lời khai của bị hại có căn cứ hay không, sau đó là căn cứ để đấu tranh với bị can,
thu giữ mẫu vật liên quan vụ án để giám định. Đồng thời, ra Quyết định trưng cầu
giám định pháp y về tình dục đối với nạn nhân; Trưng cầu giám định dấu vết sinh
học trong trường hợp thu giữ được các dấu vết tinh dịch; dấu vết lông, tóc... vì đây
là những chứng cứ quan trọng để truy nguyên đối tượng.
Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là biện pháp cơ bản thường
xuyên, có ý nghĩa quyết định trong các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em. Việc xác định đúng nội dung tuyên truyền về tội
XPTDTE là yếu tố có ý nghĩa quyết định cho việc đạt tới mục đích của giáo dục
pháp luật. Qua thực tiễn tình hình tội phạm XPTDTE xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam thời gian qua, chúng ta cần có các cách thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật sau:
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về giới, về tình dục, về
quyền của phụ nữ và trẻ em một cách sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm để các nạn
nhân, gia đình nạn nhân hiểu và nhận thức đầy đủ quyền của mình để đấu tranh
phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp
luật này phải có kế hoạch, chương trình cụ thể, trong đó chú trọng đến việc lồng
ghép nội dung truyền thông vào trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh
hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các tổ chức, đoàn thể
77
các cấp… Đặc biệt là việc quan tâm quản lý, chăm sóc, giáo dục trẻ em, nhất là
những em có hoàn cảnh đặc biệt, có nhiều khả năng bị xâm phạm.
Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan Viện
kiểm sát nhân dân để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình
- Cung cấp đầy đủ các thiết bị phục vụ công tác kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường, khám xét, thu dấu vết… như máy quay phim, máy chụp hình.
- Cần xây dựng chế độ lương, phụ cấp và các đãi ngộ phù hợp riêng đối với
cán bộ, công chức ngành Kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo đủ điều kiện để họ ổn
định cuộc sống, yên tâm công tác, giữ vững lập trường, không bị sa ngã, mua chuộc
trong quá trình thực thi nhiệm vụ.
- VKSND tối cao cần xây dựng trang thông tin điện tử, trong đó có mục văn
bản quy phạm pháp luật, cung cấp đầy đủ các văn bản, tài liệu để cán bộ, KSV trong
ngành dễ dàng tìm hiểu, tiếp cận và áp dụng trong công tác chuyên môn nghiệp vụ
được thuận tiện và chính xác.
Một số kiến nghị liên quan nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra
vụ án XPTDTE tại VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam
Bên cạnh việc đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm KSĐT vụ án hình sự các
tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em của các cơ quan VKSND nói chung thì tác giả
cũng xin đưa ra một số kiến nghị riêng tại tỉnh Quảng Nam như sau:
- Thứ nhất, giữa CQĐT và VKS cần đẩy mạnh công tác phối hợp, thông tin
giữa hai cơ quan với nhau nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải
quyết vụ án XPTDTE. Lãnh đạo CQĐT và VKS (kể cả lãnh đạo cấp Phòng) cần
tăng cường trao đổi thông tin, kịp thời định hướng, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong quá trình phối hợp, nhất là những vụ án trọng điểm, vụ án phức tạp kéo dài
trên tinh thần khách quan, cầu thị. VKS thông qua hoạt động thực hành quyền công
tố và KSĐT các vụ án hình sự cần kịp thời có văn bản kiến nghị, chấn chỉnh khắc phục vi
phạm của CQĐT. Đồng thời, VKS phải thường kiến nghị các cơ quan hữu quan liên quan
cần đề ra các giải pháp để bảo vệ, phòng ngừa tội phạm XPTDTE trên địa bàn tỉnh.
- Thứ hai, do một số cán bộ, KSV còn có ý thức trách nhiệm trong thực hiện
78
nhiệm vụ chưa cao, chưa bám sát ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và trong suốt quá trình điều tra; chưa đề ra yêu cầu, xác minh, điều tra có chất lượng
để đảm bảo cho việc xác minh, điều tra thu thập chứng cứ được đầy đủ, đúng pháp
luật, chưa chủ động gắn công tố với hoạt động điều tra. Quá trình KSĐT, một số
KSV còn bị động chưa thường xuyên đôn đốc kiểm tra làm việc với Điều tra viên
những vấn đề đã làm và chưa làm theo yêu cầu điều tra, kết quả làm việc không thể
hiện bằng văn bản, chủ yếu trao đổi miệng nên chưa ràng buộc được trách nhiệm
của Điều tra viên khi không thực hiện yêu cầu của KSV. Do đó, yêu cầu đặt ra là
cần phải tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, tổ chức trao đổi trong việc
giải quyết các vụ án xâm phạm trẻ em để cán bộ, Điều tra viên, KSV, Thẩm phán
rút kinh nghiệm và nâng cao trình độ chuyên môn của bản thân, giúp hoạt động điều
tra được thực hiện một cách chất lượng và thường xuyên hơn, tránh tình trạng mắc
những sai lầm không đáng có trong quá trình thực hành quyền công tố, KSĐT và xử
lý vụ án.
- Thứ ba, KSV phải chủ động nghiên cứu kỹ kết quả khám nghiệm ban đầu về
các tổn thương bên ngoài bộ phận sinh dục của nạn nhân, từ đó kiểm sát chặt chẽ
các nội dung cần phải trưng cầu giám định pháp y về tình dục, làm rõ hậu quả của
vụ án. KSV phải thực sự trách nhiệm, luôn bám sát các hoạt động điều tra, phối hợp
chặt chẽ với Điều tra thực hiện các biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ đảm bảo
theo đúng quy định của BLTTHS. Trong quá trình xét xử, chủ động phối hợp với
Tòa án nhằm sớm đưa các vụ án ra xét xử, đề nghị mức án nghiêm khắc, tương
xứng với hành vi bị cáo để Hội đồng xét xử đưa ra bản án có mức hình phạt tương
xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng
tội. Đồng thời, trong quá trình xét xử phải đảm bảo các quyền của trẻ em, người chưa
thành niên theo nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên.
- Thứ tư, Cơ quan điều tra cần khẩn trương lấy lời khai bị hại, đối tượng, nhân
chứng; làm rõ người bị hại bị xâm phạm tình dục một lần hay nhiều lần? Thời gian,
không gian, địa điểm chính xác, hình thức, thủ đoạn của hành vi xâm phạm; xem vụ
án có đồng phạm hay không? Bị can có tiền án tiền sự không? Bảo đảm để bị hại
79
được thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình; bảo đảm lợi ích tốt nhất của
người bị hại đặc biệt là trẻ em; tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi ý kiến,
nguyện vọng của trẻ em... Kịp thời đề nghị cơ quan có thẩm quyền cử người giám
hộ, người đại diện, người thực hiện trợ giúp pháp lý, người bào chữa, bào chữa viên
nhân dân để tham gia tố tụng đối với bị hại là trẻ em.
Tiểu kết Chương 3
Từ thực trạng KSĐT vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em của cơ quan
VKSND tỉnh Quảng Nam và nguyên nhân, điều kiện cụ thể của tình hình các tội
xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bản tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2015 đến hết
tháng 5 2020 ở Chương 2, tác giả nhận thấy cần phải đưa ra những giải pháp để
nâng cao hiệu quả trong hoạt động KSĐT vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em.
Tại Chương 3, tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật liên quan đến hoạt động KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục
trẻ em; các giải pháp củng cố và đổi mới công tác tổ chức, đào tạo cán bộ để tăng
cường cho hoạt động KSĐT tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em; giải pháp đổi mới
công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác KSĐT tội phạm xâm phạm tình
dục trẻ em; nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và VKSND.
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra giải pháp để hoạt động tuyên truyền , phổ biến giáo
dục pháp luật cho người dân; tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm
việc cho ngành Kiểm sát nhân dân. Mong muốn rằng, trong thời gian tới sẽ có nhiều
giải pháp mang tính hiệu quả cao nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động KSĐT
vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em trong cả nước nói chung và địa bàn tỉnh
Quảng Nam nói riêng.
80
KẾT LUẬN
Hoạt động KSĐT tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam trong thời gian qua mặc dù đạt được những kết quả đáng kể nhưng vẫn còn
một số tồn tại, hạn chế nhất định, làm cho hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em chưa cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn đặt ra.
Do vậy tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục
trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là cần thiết.
Quá trình nghiên cứu tác giả đã nghiêm túc thực hiện và bám sát vào nhiệm
vụ, phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu nhằm đảm bảo tính định hướng,
bám sát yêu cầu đặt ra của đề tài. Trong phần nhận thức chung, luận văn đã tập
trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ
em, phân tích các đặc điểm pháp lý của tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, về
họat động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng hoạt động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục
trẻ em, tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân của những tồn tại hạn chế của hoạt
động này. Từ đó, tác giả cũng đã đưa ra được dự báo tình hình xâm phạm tình dục
trẻ em thời gian tới và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động
KSĐT các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em. Các giải pháp mà luận văn đề xuất bao
gồm giải pháp như: Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động
KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em; Củng cố và đổi mới
công tác tổ chức, đào tạo cán bộ để tăng cường cho hoạt động KSĐT tội phạm xâm
phạm tình dục trẻ em; Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong công tác
KSĐT tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em; Nâng cao hiệu quả quan hệ phối hợp
giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động KSĐT tội phạm
xâm phạm tình dục trẻ em; Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tội phạm
XPTDTE; Tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho ngành
Kiểm sát nhân dân.
Tác giả hi vọng rằng kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần vào thực tiễn
81
nâng cao hiệu quả KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam. Kết quả nghiên cứu cũng góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý luận về hoạt
động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em nói riêng, lý luận khoa học KSĐT
hình sự nói chung.
82
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban soạn thảo BLHS, Bản thuyết minh chi tiết về dự thảo BLHS (sửa đổi),
04/2015, Hà Nội.
2. Báo cáo thống kê của VKSND tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015 đến hết
tháng 5 năm 2020
3. Phạm Văn Báu (2010), Những bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định về
một số tội xâm phạm nhân phẩm của con người trong BLHS Việt Nam năm
1999, Tạp chí Luật học số 01, Hà Nội.
4. Hoàng Thị Ngọc Bích (2016), Các tội phạm tình dục theo quy định của Luật
hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà
Nội.
5. Nguyễn Hoà Bình (chủ biên) (2016), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia
6. Vũ Ngọc Bình (2000), Phòng chống tội pham buôn bán và mại dâm trẻ em,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới.
8. Bộ chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam, Kết luận 79 ngày 28/07/2010,
Về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và CQĐT theo Nghị
quyết 49-NQ/TW
9. Bộ Công an (2017), Tài liệu tập huấn chuyên sâu BLHS năm 2015, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội.
10. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Nam, Bản kết luận điều tra số
76/KLĐT-CSĐT ngày 17 tháng 7 năm 2018.
11. Lê Hữu Du (2015), Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trẻ em ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
13. Lê Thị Diễm Hằng (2018), “Các tội xâm hại tình dục trẻ em – So sánh BLHS
2015 và BLHS 1999”, Tạp chí tòa án số ngày 16 tháng 04 năm 2018.
14. Dương Ngọc Hải (2016), “Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí Kiểm sát,
số 16/2016, tr21-28.
15. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư pháp, Hà
Nội
16. Phạm Mạnh Hùng (2002), Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
các tội xâm phạm tình dục trẻ em, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
TP.Hồ Chí Minh.
17. Lê Minh Hùng chủ biên (2011) Giáo Trình Khoa Học Điều Tra Hình Sự, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
18. Nguyễn Văn Khoát (2014), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác
kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố các vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”, Tạp
chí Kiểm sát, số 14/2014, tr18-24.
19. Nguyễn Thị Ngọc Linh (2017), Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
từ thực tiễn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ, HVKHXH, Hà Nội.
20. Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS và việc xét xử
vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
21. Trần Đình Nhã (2013) “Một số vấn đề về Quyền tư pháp, hoạt động tư pháp,
Cơ quan tư pháp, Kiểm sát hoạt động tư pháp” tạp chí Nghiên cứu lập pháp
Văn phòng Quốc hội (số 4), tr.12- 16.
22. Nguyễn Ngọc Phúc (2012), Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
về các tội xâm phạm tình dục, Luận văn cử nhân luật, Trường Đại học Luật, TP.
HCM
23. Quốc hội (2016), Luật Trẻ em, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Quốc hội (2019), Bộ luật Lao động, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Quốc hội (2015), Luật tổ chức Viện KSND năm 2014, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
29. Quy chế phối hợp về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố với các cơ quan, đơn vị hữu quan trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam (Quy chế liên ngành 01/QCPH ngày 15/11/2018).
30. Nguyễn Tuấn Thiện (2015), Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong Luật hình
sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
31. Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BNN&PTNT-VKSNDTC
ngày 29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định việc
phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
32. Nguyễn Thị Lệ Thủy (2016), Tội hiếp dâm trong pháp luật hình sự Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
33. Tòa án nhân dân tối cao (2014), Báo cáo thực tiễn công tác xét xử các vụ án
xâm hại tình dục đối với phụ nữ, trẻ em tại tòa án các cấp số 06/BC-TA ngày
17/12/2014, Hà Nội.
34. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, Bản án hình sự sơ thẩm sổ 14/2019/HS-ST
ngày 23/5/2019.
35. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2018/HSST
ngày 24/10/2018.
36. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2018/HS-ST
ngày 30/10/2018.
37. Trung tâm tư vấn và dịch vụ truyền thông – Cục bảo vệ, chăm sóc trẻ em thuộc
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2008), Phân tích kết quả kết nối can
thiệp các ca trẻ em bị xâm hại tình dục qua hoạt động của đường dây tư vấn và
hỗ trợ trẻ em, Báo cáo Hà Nội, chú thích 4, tr3.
38. Trường Đại học kiểm sát Hà Nội (2014), Tập bài giảng chương trình nghiệp vụ
chuyên sâu: Một số kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm
sát xét xử sơ thẩm Tội giết người và Tội cố ý gây thương tích, Hà Nội.
39. Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam (Phần chung), NXB Hồng Đức, Hà Nội.
40. Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân
dân.
41. Võ Khánh Vinh (2013), Lí luận chung về định tội danh, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
42. VKSND tỉnh Quảng Nam, Cáo trạng số: 05/CT-VKSQNa-P2 ngày 28 tháng 12
năm 2018
43. VKSND tỉnh Quảng Nam, Cáo trạng số: 28/CT-VKS-P2 ngày 12 tháng 4 năm
2019.
Trang web
44. http://tuvantamly.com.vn/hau-qua-tu-hanh-vi-xam-hai-tinh-duc-tre-em-2/
PHỤ LỤC
Bảng 2.1: Mức độ tổng quan của tình hình tội phạm và tình hình các tội xâm
phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015 đến
hết tháng 5 năm 2020
Tình hình tội phạm Tình hình tội XPTDTE
Tỷ lệ %
Năm
Số vụ
Số bị
Số vụ
Số bị can
Số vụ án
Số bị can
án
án
can
1.319
1.548
2015
1,29
1,16
17
18
1.176
1.589
2016
1.62
1,32
19
21
1.075
1.436
2017
2,23
1,67
24
24
1.231
1.810
2018
2,19
1,60
27
29
1.379
1.745
2019
2,03
1,72
28
30
06 tháng năm
15
20
789
1.263
1,90
1,58
2020
Tổng
6.969
8.128
130
142
1,87
1,75
Nguồn: Báo cáo thống kê của VKSND tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm
2015 đến hết tháng 5 năm 2020
Bảng 2.2: Diễn biến của tình hình các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015 đến hết tháng 5 năm 2020
Tỷ lệ (%) Số vụ Số bị can Năm Số vụ Số bị cáo
2015 17 18 100 100
2016 19 21 111,76 116,67
2017 24 24 141,18 133,33
2018 27 29 158,82 161,11
2019 28 30 164,71 166,67
06 tháng đầu 15 20 88,24 111,11 năm 2020
Tổng 130 142
Nguồn: Báo cáo thống kê của VKSND tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm
2015 đến hết tháng 5 năm 2020