Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề pháp lý về ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
lượt xem 9
download
Luận văn giới thiệu một cách khái quát các quy định về ly hôn có yếu tố nước ngoài, nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định đó, giải quyết xung đột pháp luật, chọn luật áp dụng, làm rõ một số vấn đề về thủ tục tố tụng trong vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, kết hợp so sánh với các quy định tương ứng của pháp luật một số nước trên Thế giới, từ đó làm rõ về mặt lí luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp lý và việc hoàn thiện pháp luật về ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam;.. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề pháp lý về ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN HOÀNG THÙY DƯƠNG NGỌC ANH MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÀ NỘI – 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC NGUYỄN HOÀNG THÙY DƯƠNG NGỌC ANH MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VÀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LU ẬT CHUYÊN NGÀNH: LU ẬT Mã số: 60 38 06 Người hướng dẫn khoa học: TS N ÔNG HÀ NỘI – 2007 \
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 2 Chƣơng 1 ................................................................................................................. 7 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI ................. 7 1.1. KHÁI NIỆM. ................................................................................................. 7 1.1.1. Ly hôn ..................................................................................................... 7 1.1.2. Ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. .................................................................. 10 1.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. ....................................................................... 13 1.2.1. Quan hệ về nhân thân. ........................................................................... 14 1.2.3. Quan hệ về tài sản sau ly hôn. ................................................................ 15 1.3. ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. ....................................................................... 16 1.3.1. Nguồn pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. ....................................................................................................................... 16 1.3.2. Phƣơng pháp điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. ................ 26 Chƣơng 2 ............................................................................................................... 42 PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM ............. 42 2.1. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. .............................. 42 2.1.1. Pháp luật quốc gia.................................................................................. 42 2.1.2. Điều ƣớc quốc tế. ................................................................................... 58 2.1.3. Tập quán quốc tế. .................................................................................. 60 2.2. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM. ........................................ 62 2.2.1. Các nguyên tắc chung: ........................................................................... 62 2.2.2. Các nguyên tắc chuyên biệt. ................................................................... 67 2.3. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. ................................................................. 70 2.3.1. Quy định về chọn luật áp dụng. .............................................................. 70 2.3.2. Quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. ................................................................................................. 75 Chƣơng 3 ............................................................................................................... 89 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH ........ 89 LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM ........................................ 89 3.1. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI TÕA ÁN VIỆT NAM. ................................................................................. 89 3.1.1. Đƣờng lối giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài trong trƣờng hợp “không tìm thấy địa chỉ của bị đơn”. ............................................................... 89 3.1.2. Việc huỷ án do vì lý do chƣa điều tra, xác minh đầy đủ. .......................... 96 3.2. YÊU CẦU CẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI. ................................................................................... 98 3.2.1. Bối cảnh quốc tế liên quan tới vấn đề ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. .......... 98 3.2.2. Tình hình thực tế của Việt Nam về vấn đề ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. ... 99 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. ............................................. 102 1
- 3.3.1. Xây dựng một số chế định phù hợp với thực tế của đời sống quốc tế trong lĩnh vực ly hôn. ............................................................................................. 102 3.3.2. Những giải pháp nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích chính đáng của đƣơng sự khi tham gia tố tụng tại Toà án. ..................................................... 106 3.3.3. Tăng cƣờng ký kết, tham gia và đảm bảo hiệu quả việc thực hiện các ĐUQT về vấn đề hôn nhân gia đình, trong đó có ly hôn với các nƣớc trên thế giới. .............................................................................................................. 109 3.3.4. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ. ..................................... 110 3.3.5. Tăng cƣờng cơ sở vật chất. ................................................................... 111 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 117 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: Luật Hôn nhân và gia đình (LHNGĐ) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2000 có hiệu lực từ ngày 01.01.2001 giải thích từ ngữ về ly hôn tại Điều 8.8 như sau: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ chồng”. Như vậy, ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên vợ chồng. Nếu như kết hôn là cơ sở để hình thành một quan hệ vợ chồng dựa trên sự tự nguyện của các bên chủ thể, thì ly hôn là sự tự nguyện của ít nhất một bên chủ thể làm cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền của nhà nước xem xét cho phép ly hôn. Khi bàn về vấn đề ly hôn, Lê-nin đã khẳng định: “Ly hôn không có nghĩa là làm “tan rã” những mối liên hệ gia đình, mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn minh” [71, tr.335], hay theo Ănghen: “Nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội” [45, tr.128]. Như vậy, khi cuộc sống hôn nhân không thể tồn tại thì ly hôn là điều cần thiết không chỉ cho đôi bên nam nữ mà còn cho cả xã hội. Do đó, ly hôn không 2
- hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực, bởi bên cạnh đó, “ly hôn còn mang một ý nghĩa tích cực, đó là bảo vệ quyền tự do của con người, giúp con người thoát khỏi những ràng buộc vô lý, phi dân chủ của xã hội lạc hậu” [43, tr.33]. Ly hôn là một hiện tượng xã hội mang bản chất giai cấp sâu sắc, do đó quan điểm về ly hôn của các chế độ chính trị khác nhau là không giống nhau. Trước đây, dưới chế độ phong kiến, với quan điểm “trọng nam, khinh nữ”, chỉ có người đàn ông mới được quyền ly hôn, thậm chí với những lý do rất vô lý, còn ngược lại, người phụ nữ không có quyền được ly hôn. Ngày nay, trong chế độ xã hội dân chủ và văn minh, quyền được tự do ly hôn của phụ nữ luôn được tôn trọng. Theo pháp luật Việt Nam, ly hôn được coi là một trong những quyền nhân thân của mỗi con người, khi cuộc sống chung vợ chồng đã hoàn toàn tan vỡ, “đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” (Đ.89 LHNGĐ), quan hệ vợ chồng chỉ là sự ràng buộc về mặt pháp lý “thì toà án quyết định cho ly hôn” (Đ.89 LHNGĐ); hay như: “Vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn” [22]. Ở Việt Nam, những năm gần đây, do việc mở rộng quan hệ hợp tác, giao lưu mọi mặt về kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới đã làm cho quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ngày càng nhiều. Cùng với việc gia tăng số lượng các quan hệ hôn nhân là việc ly hôn có yếu tố nước ngoài đã và đang ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội. Thực tiễn tư pháp quốc tế cho thấy, lịch sử hình thành và phát triển của các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nói chung, ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng, luôn gắn liền với sự hình thành và phát triển của mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia. Các quan hệ giữa các quốc gia càng phát triển thì yếu tố nước ngoài càng xâm nhập mạnh mẽ vào đời sống hôn nhân và gia đình. Trước đây, do chưa ý thức được tầm quan trọng của yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân, gia đình và “chưa phải là nhiệm vụ cấp bách, nên Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 chưa điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài” [55, tr.134]. LHNGĐ năm 1986 3
- được coi là văn bản pháp lý trong nước đầu tiên của Việt Nam ghi nhận các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên chỉ gói gọn trong Chương IX với ba Điều (các Điều 52, 53 và 54), trong đó chỉ quy định một số nguyên tắc giải quyết và đối tượng là công dân Việt Nam với người nước ngoài, thì LHNGĐ năm 2000 đã dành đến 07 Điều trong Chương XI (các Điều từ 100 đến 106), ngoài ra còn được điều chỉnh rải rác tại khoản 2 Điều 2, Điều 7, khoản 14 Điều 8, để quy định về vấn đề này. Trên cơ sở các quy định này, các văn bản pháp luật quan trọng về ly hôn có yếu tố nước ngoài lần lượt ra đời. Bên cạnh đó, tính đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã ký kết 14 Hiệp định tương trợ tư pháp (HĐTTTP) với các nước về lĩnh vực này. Nói chung, những vấn đề pháp lý về ly hôn có yếu tố nước ngoài đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển xã hội. Nếu những vấn đề pháp lý về ly hôn không phù hợp sẽ làm cho xã hội hỗn loan và hậu quả của nó là làm cho xã hội bị suy yếu. Ngược lại, nếu phù hợp thì không những làm cho xã hội ổn định mà còn làm cho xã hội vững mạnh. Bởi vì, như đã trình bày ở trên, ly hôn cũng có những điểm tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển một xã hội dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển không ngừng của đời sống xã hội và thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, lĩnh vực này vẫn cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nhằm đạt hiệu quả hơn nữa. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu “Một số vấn đề pháp lý về ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam” có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Ở Việt Nam, vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài đã được một số nhà nghiên cứu quan tâm, cũng có nhiều sách báo, tạp chí… đề cập đến vấn đề này nói chung, nhưng ở một vài khía cạnh, thường theo khuynh hướng viết về thủ tục giải quyết vụ án ly hôn có một bên đương sự ở nước ngoài như thủ tục uỷ thác điều tra, cũng có công trình nghiên cứu về thẩm quyền xét xử những 4
- vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài…, nhưng chưa đi sâu vào nghiên cứu “Một số vấn đề pháp lý về ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam”. 3. Mục đích nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu nhằm các mục đích sau đây: - Giới thiệu một cách khái quát các quy định về ly hôn có yếu tố nước ngoài, nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển các quy định đó, giải quyết xung đột pháp luật, chọn luật áp dụng, làm rõ một số vấn đề về thủ tục tố tụng trong vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, kết hợp so sánh với các quy định tương ứng của pháp luật một số nước trên Thế giới, từ đó làm rõ về mặt lí luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp lý và việc hoàn thiện pháp luật về ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam; - Góp phần nâng cao nhận thức lý luận và kinh nghiệm xét xử các vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Toà án. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Nghiên cứu các vấn đề lý luận để xác định tính khoa học trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài. Phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật để tìm ra những mặt tích cực và chưa tích cực, từ đó đưa ra những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, cũng như yêu cầu các cấp có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể hơn nữa những vấn đề liên quan đến ly hôn có yếu tố nước ngoài trong thực tiễn xét xử của Toà án. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề về Tư pháp Quốc tế trong lĩnh vực hôn nhân có yếu tố nước ngoài là rất đa dạng và rộng lớn. Trong luận văn này, chúng tôi chỉ đi 5
- sâu nghiên cứu về các vấn đề pháp lý có liên quan tới ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Nội dung của Luận văn bao gồm những vấn đề cơ bản như khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển, nội dung và thực trạng của pháp luật về vấn đề này, đồng thời đưa ra một số quy định tương ứng của pháp luật nước ngoài so sánh với các quy định của pháp luật trong nước, nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu: - Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối của Đảng về Nhà nước và pháp luật. - Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và phương pháp xã hội học để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu. 6. Dự kiến đóng góp về khoa học và thực tiễn: - Luận văn nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cả về lý luận và thực tiễn một số vấn đề pháp lý về ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam; - Tìm ra những điểm còn tồn tại trong quy định của pháp luật về ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam; - Phát hiện và dự báo trước những vướng mắc có thể nảy sinh trong thực tiễn áp dụng, từ đó khuyến nghị một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy định của pháp luật về ly hôn có yếu tố nước ngoại tại Việt Nam trong thời điểm hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. 6
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1.1. KHÁI NIỆM. 1.1.1. Ly hôn Hôn nhân là sự kết hợp đặc biệt giữa một người nam và một người nữ. Hôn nhân được công nhận khi nam nữ kết hôn và đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật. Bình thường, hôn nhân là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng, bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính của hai bên nam-nữ, nhằm gắn bó những tình cảm trong đời sống gia đình, xây dựng gia đình bền vững, hạnh phúc và cùng nuôi dạy con cái. Sự liên kết suốt đời của hôn nhân vừa là mục đích đầu tiên, vừa là mục đích cuối cùng của vợ chồng. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi cuộc hôn nhân đều diễn ra như mục đích ban đầu của các chủ thể. Vì nhiều lý do khác nhau dẫn đến mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng rạn nứt, mục đích của hôn nhân không đạt được. Khi đó, một trong hai bên hoặc cả hai vợ chồng thấy không thể kéo dài đời sống chung được nữa thì thể hiện quan điểm của mình và căn cứ vào đó nhà nước cho phép họ chấm dứt quan hệ vợ chồng bằng việc giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật. Ly hôn mang bản chất xã hội và tính giai cấp sâu sắc, do đó ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị xã hội đều thông qua nhà nước và bằng pháp luật quy định chế độ hôn nhân nói chung, ly hôn nói riêng phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. Ở hầu hết các nước tư bản, với quan điểm cho rằng quan hệ hôn nhân là một quan hệ hợp đồng, khi một trong các bên vi phạm hợp đồng hoặc không muốn duy trình quan hệ hợp đồng đó dẫn đến việc ly hôn. Ngược lại, với nhiều nước theo đạo giáo, với quan điểm cho rằng hôn nhân là do Đấng bề trên tạo dựng, cho nên vợ chồng đã lấy nhau thì phải sống với nhau suốt đời, do đó vấn đề ly hôn không được đặt ra. Ở Việt Nam, dưới chế độ phong kiến, quyền ly hôn chỉ dành cho người chồng, còn người vợ không có được quyền này. Ngày nay, dưới chế độ xã hội 7
- dân chủ và văn minh, quyền được tự do ly hôn của phụ nữ luôn được tôn trọng. Lê-nin đã từng khẳng định về vấn đề này như sau:“Người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa ngay từ bây giờ, không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ” [71, tr.163]. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, pháp luật không thể cưỡng ép họ yêu nhau phải kết hôn với nhau và cũng không thể bắt buộc họ phải chung sống với nhau khi tình yêu giữa họ không còn nữa và mục đích của hôn nhân không thể đạt được. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ, nhằm giải phóng cho vợ chồng, con cái thoát khỏi mâu thuẫn sâu sắc trong đời sống gia đình, bảo đảm lợi ích của gia đình, lợi ích của nhà nước và xã hội. Theo LHNGĐ các nước xã hội chủ nghĩa quy định giải quyết việc ly hôn theo đúng thực chất vấn đề, hoàn toàn không dựa vào lỗi của vợ chồng trên cơ sở nhìn nhận đánh giá khách quan đúng thực chất quan hệ hôn nhân đã hoàn toàn tan vỡ. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền tự do ly hôn khi quan hệ hôn nhân thực chất không còn tồn tại: Ly hôn chỉ là sự xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết. Sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối. Đương nhiên, không phải sự tuỳ tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tuỳ tiện của cá nhân mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân này đã chết hoặc chưa chết. Bởi vì… việc xác nhận sự kiện chết tuỳ thuộc vào thực chất vấn đề chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan… Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện trong đó hôn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó về thực chất hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi việc Toà án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản sự tan vỡ bên trong của nó [46, tr.119-121]. Theo pháp luật Việt Nam, cơ sở pháp lý để chấm dứt một quan hệ vợ chồng bằng việc ly hôn là một bản án hoặc một quyết định của Toà án. Nhà 8
- nước ta lấy quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về hôn nhân và gia đình làm nền tảng. Chúng ta luôn coi ly hôn là một giải pháp cần thiết khi cuộc hôn nhân thực sự tan vỡ. Mặc dù, chúng ta thừa nhận ly hôn là quyền tự do chân chính của vợ chồng, nhưng để công nhận một cuộc hôn nhân hoàn toàn không còn tồn tại cả trên thực tế và về mặt pháp lý, những người được giao quyền (Thẩm phán) phải áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành để đưa ra phán quyết hợp lý, hợp tình. Việc nhà nước can thiệp vào việc ly hôn không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ này, mà còn nhằm mục đích bảo vệ nhà nước và xã hội. Như vậy, có thể nói, mặc dù ly hôn là quyền tự do của các bên, nhưng không nằm ngoài các quy định của pháp luật. Việc ly hôn chỉ có thể được tiến hành khi đáp ứng đầy đủ các căn cứ đã được quy định trong pháp luật. Về các căn cứ cho ly hôn, Điều 89 LHNGĐ Việt Nam năm 2000 quy định như sau: “1. Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án quyết định cho ly hôn. 2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn”. Theo quy định trên, ta thấy trong ly hôn không có yếu tố lỗi, tức là khi xem xét quyết định cho ly hôn, Toà án chỉ căn cứ vào bản chất của cuộc hôn nhân mà không xem xét đến yếu tố lỗi của vợ, chồng. Như đã phân tích ở Phần mở đầu, đơn giản một điều, hôn nhân không thể duy trì được nếu không đạt được mục đích ban đầu của nó. “Hôn nhân đích thực là điều kiện vun đắp tình yêu giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nếu sau một thời gian chung sống, tình yêu không những không được vun đắp, mà còn bị mài mòn và sự mài mòn không thể cứu chữa” [62] thì hôn nhân là giải pháp hữu hiệu cho cả đôi bên. 9
- Theo quy định của pháp luật Việt Nam, ly hôn được ghi nhận trong các văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự (BLDS), LHNGĐ. Điều 42 BLDS Việt Nam năm 2005 quy định “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn”, hoặc theo quy định tại Điều 8 LNHGĐ năm 2000 thì “ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ chồng hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Tóm lại, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật trên cơ sở sự tự nguyện mà ít nhất một bên chủ thể, đôi khi là cả hai bên (đối với trường hợp thuận tình ly hôn). 1.1.2. Ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. LHNGĐ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2000 lần đầu tiên đưa ra khái niệm “quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài”, điều mà trước đây chưa từng một văn bản pháp luật nào về hôn nhân và gia đình quy định, chúng ta chỉ bắt gặp khái niệm về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được đề cập đến trong BLDS Việt Nam năm 1996, nay tiếp tục được khẳng định một lần nữa tại Điều 758 BLDS năm 2005. Việc đưa khái niệm này vào trong luật đã thể hiện rõ hơn và thuận tiện cho việc áp dụng LHNGĐ trên thực tế. Cụ thể: “Điều 8. Giải thích từ ngữ: 14. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình: a) Giữa công nhân Việt Nam và người nước ngoài; b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Ly hôn là một quan hệ đặc biệt trong quan hệ hôn nhân và gia đình, do đó, yếu tố nước ngoài trong quan hệ ly hôn được thể hiện ở một trong ba dấu hiệu sau đây: 10
- - Thứ nhất, về chủ thể: một trong các bên chủ thể tham gia quan hệ ly hôn là người nước ngoài, người nước ngoài ở đây được hiểu là tất cả những người không có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch hoặc có nhiều quốc tịch nhưng không có quốc tịch Việt Nam; quan hệ ly hôn giữa những người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam. Theo Điều 9 khoản 2 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10.7.2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của LHNGĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài thì “người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam”. Điều này thể hiện sự quy định chặt chẽ hơn so với Nghị định 83/CP/1988 ngày 10.10.1988 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch (sau đây gọi là Nghị định 83/CP) về quyền đăng ký kết hôn giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam. Bởi theo Nghị định 83/CP thì việc đăng ký kết hôn giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam, bao gồm cả thường trú và tạm trú, trong đó có thể hiểu là cả những người nước ngoài vào du lịch, công tác…, nếu có yêu cầu đều sẽ được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện các thủ tục về hôn nhân và gia đình. LHNGĐ năm 2000 quy định chỉ quan hệ ly hôn phát sinh giữa những người nước ngoài thường trú tại Việt Nam (nghĩa là có thời gian nhất định chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam) mới được coi là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài. - Thứ hai, căn cứ để chấm dứt quan hệ hôn nhân theo pháp luật nước ngoài. Nói cách khác, sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài. Đối với những quan hệ này, yếu tố chủ thể là công dân nước ngoài và người không quốc tịch không được đặt ra. Nghĩa là, trong trường hợp các bên chủ thể tham gia đều là công dân Việt Nam, nhưng nếu sự kiện pháp lý là chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài, thì quan hệ đó là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài. - Thứ ba, là tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn ở nước ngoài. Cũng giống như yếu tố thứ hai, mặc dù chủ thể của quan hệ là công dân Việt Nam nhưng tài sản liên quan đến quan hệ không nằm trên lãnh thổ Việt Nam mà ở 11
- nước ngoài, thì quan hệ đó cũng được coi là quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, cũng theo quy định của LNHGĐ năm 2000, tại Điều 104 về chọn luật áp dụng cho quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài thì: 1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này. 2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam. 3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó. 4. Bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Từ các dấu hiệu nhận biết trên đây, cho thấy ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam là quan hệ ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn ở nước ngoài; và bản án, quyết định ly hôn có Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam. Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn, ly hôn có yếu tố nước ngoài là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng có yếu tố nước ngoài trước pháp luật. 12
- 1.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. Như đã đề cập ở phần mở đầu, kết hôn là cơ sở để hình thành nên gia đình - tế bào của xã hội, cái nôi nuôi dưỡng con người. Còn ly hôn là mặt trái không thể thiếu của cuộc hôn nhân khi mối quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn tan vỡ, mục đích của việc kết hôn nhằm xây dựng gia đình hoà thuận, tiến bộ, hạnh phúc, vợ chồng thương yêu quý trọng nhau không đạt được, cuộc sống gia đình đã mất hết ý nghĩa. Cơ sở pháp lý để chấm dứt một quan hệ vợ chồng bằng việc ly hôn theo pháp luật Việt Nam là một bản án hay quyết định của Toà án. Điều này được khẳng định tại Điều 42 BLDS như sau: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn”; hoặc Điều 8 LHNGĐ giải thích từ ngữ thì “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Do vậy, có thể khẳng định, chỉ Toà án mới có quyền ghi nhận một cuộc hôn nhân là “đã chết”, dựa trên các căn cứ nhất định (Điều 89 LHNGĐ). Về vấn đề quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn, pháp luật nước ta công nhận quyền tự do kết hôn, đồng thời cũng công nhận quyền ly hôn của vợ chồng (khoản 1 Điều 85 LHNGĐ), tuy nhiên phải tuân theo một số điều kiện cụ thể về việc hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của người chồng trong trường hợp người vợ mang thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi (khoản 2). Quy định này thể hiện tính nhân đạo của pháp luật và xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Có một ngoại lệ là quy định này không áp dụng đối với người vợ nếu người đó muốn ly hôn. Việc pháp luật Việt Nam đặt ra vấn đề hạn chế quyền ly hôn bởi lẽ hậu quả pháp lý của việc ly hôn không chỉ đụng chạm đến lợi ích riêng tư của vợ chồng, mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến lợi ích của con cái, lợi ích về tài sản. Nếu kết hôn là cơ sở pháp lý để hình thành các quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng thì ly hôn chính là cơ sở pháp lý để chấm dứt các quan 13
- hệ đó. Luật áp dụng điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế giữa Việt Nam với nước ngoài thường được giải quyết theo pháp luật của nước nơi đương sự mang quốc tịch hoặc nơi đương sự cư trú, trừ trường hợp quan hệ ly hôn có liên quan đến tài sản là bất động sản ở nước ngoài thì việc giải quyết vấn đề tài sản tuân theo pháp luật nơi có tài sản. Theo LHNGĐ năm 2000 thì vấn đề quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản trong ly hôn có yếu tố nước ngoài không được quy định thành điều khoản riêng biệt. Thường thì khi giải quyết về vấn đề nhân thân và tài sản trong ly hôn có yếu tố nước ngoài, Thẩm phán áp dụng pháp luật về điều kiện, căn cứ ly hôn. Cụ thể, nếu thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài thuộc Toà án Việt Nam thì sẽ áp dụng LHNGĐ Việt Nam, BLDS Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan để giải quyết các vấn đề hậu quả pháp lý của việc ly hôn, bao gồm quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản (không phải là bất động sản ở nước ngoài) giữa vợ và chồng. 1.2.1. Quan hệ về nhân thân. Quan hệ nhân thân sau ly hôn bao gồm quan hệ giữa vợ, chồng và quan hệ giữa cha, mẹ với con cái. 1.2.1.1. Quan hệ giữa vợ và chồng sau ly hôn. Ly hôn là chấm dứt quan hệ vợ chồng khi hai người còn sống do một bên yêu cầu hoặc do cả hai bên thuận tình đã được Toà án công nhận bằng bản án cho ly hôn hoặc quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự về vấn đề ly hôn. Chấm dứt hôn nhân do ly hôn là hành vi có ý chí của một hoặc cả hai vợ chồng với sự quyết định của Toà án là việc giải quyết ly hôn. Quan hệ vợ chồng sẽ không còn tồn tại ngay sau khi bản án, quyết định của Toà án về việc ly hôn có hiệu lực pháp luật. Vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng sau khi ly hôn có quyền kết hôn lại. 1.2.2.2. Quan hệ giữa cha, mẹ với con sau ly hôn. 14
- Quan hệ giữa cha, mẹ và con cái không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân còn tồn tại hay đã chấm dứt. Việc nuôi dưỡng, giáo dục con cái là quyền lợi đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ, bao hàm các vấn đề như: giao con cho ai nuôi sau ly hôn, việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn, thay đổi nuôi con sau ly hôn… đều được pháp luật quy định cụ thể và chặt chẽ tại Điều 56 và các Điều từ 92 đến 94 LHNGĐ. 1.2.3. Quan hệ về tài sản sau ly hôn. Tương tự như đối với quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cũng chấm dứt kể từ sau khi bản án, quyết định của Toà án về việc ly hôn có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề chia tài sản sau ly hôn là vấn đề hết sức phức tạp, từ việc chia tài sản chung của vợ chồng đến việc xác định tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân… Không những vậy, việc giải quyết quan hệ tài sản trong ly hôn có yếu tố nước ngoài còn gặp khó khăn hơn nữa bởi việc xác định khối tài sản ở nước ngoài, việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong trường hợp tài sản là bất động sản ở nước ngoài. Do đó, khi giải quyết vấn đề tài sản trong ly hôn có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam phải vận dụng linh hoạt các văn bản pháp luật trong nước, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế, đôi khi cả pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết quan hệ tài sản trong ly hôn tại Toà án Việt Nam trên thực tế chưa được áp dụng, vấn đề này xin được giải quyết ở Chương III của Luận văn. Từ những phân tích ở trên cho thấy, pháp luật điều chỉnh việc ly hôn nói chung, ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng “đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển xã hội. Nếu pháp luật điều chỉnh ly hôn không phù hợp sẽ làm cho xã hội hỗn loạn và hậu quả của nó là làm cho xã hội bị suy yếu. Ngược lại, nếu pháp luật điều chỉnh ly hôn phù hợp thì không những làm cho xã hội ổn định mà còn làm cho xã hội vững mạnh” [43, tr.35]. Bởi vì, như đã trình bày ở trên, ly hôn cũng có những điểm tích cực trong việc thúc đẩy sự phát triển một xã hội dân chủ, văn minh. 15
- 1.3. ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM. 1.3.1. Nguồn pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nƣớc ngoài. Nguồn của pháp luật là những hình thức biểu hiện hoặc chứa đựng các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội nhất định. Tương tự như vậy, nguồn của pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài là các hình thức chứa đựng các nguyên tắc và quy phạm pháp luật trong lĩnh vực ly hôn có yếu tố nước ngoài. Nguồn của Tư pháp quốc tế Việt Nam bao gồm: (i) Pháp luật quốc gia tham gia điều chỉnh các quan hệ thuộc lĩnh vực Tư pháp quốc tế; (ii) Điều ước quốc tế; (iii) Tập quán quốc tế. 1.3.1.1. Pháp luật quốc gia. Pháp luật quốc gia (pháp luật trong nước) được xem là nguồn cơ bản của Tư pháp quốc tế, là hình thức chứa đựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật trong nước nhằm điều chỉnh các quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài. Trên thực tế, hình thức chứa đựng các quy phạm và các nguyên tắc điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài rất nhiều và đa dạng, vấn đề hình thức cụ thể nào được coi là nguồn của pháp luật trong nước thì hoàn toàn phụ thuộc vào quy định của từng hệ thống pháp luật các nước khác nhau. Trên thế giới hiện nay, có khoảng hơn 40 hệ thống pháp luật khác nhau, nhưng có hai hệ thống pháp luật cơ bản, đó là: hệ thống pháp luật dân sự (Civil Lax System) và hệ thống pháp luật chung Anh - Mỹ (Common Law System) [44, tr.41]. Điểm khác nhau cơ bản về nguồn pháp luật của nước theo hệ thống Common Law và nước theo hệ thống Civil Law là hình thức nguồn. Hình thức nguồn pháp luật trong nước của Civil Law là hình thức luật thành 16
- văn, còn Common Law ngoài việc sử dụng luật thành văn người ta còn sử dụng án lệ. Hệ thống pháp luật Việt Nam theo tiến trình lịch sử, là hệ thống pháp luật thành văn được hình thành từ rất sớm, điển hình là Quốc triều hình luật thời Lê. Trải qua gần một thế kỷ dưới sự đô hộ của thực dân Pháp - một nước điển hình trong hệ thống Civil Law, hệ thống pháp luật thành văn của Việt Nam không những không bị mai một mà còn được tiếp tục duy trì và phát triển. * Hiến pháp: Thuật ngữ Hiến pháp xuất phát từ chữ Hán (宪法). Trong các ngôn ngữ Tây phương, chữ "hiến pháp" (constitution) xuất phát từ tiếng La-tinh, đề cập đến việc ban hành bất kỳ luật quan trọng nào. Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp luật cao nhất, trong đó quy định các nguyên tắc cơ bản về mặt pháp luật đối với tất cả các vấn đề quan trọng nhất của một đất nước như: chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó bao gồm quyền về hôn nhân nói chung, quyền ly hôn nói riêng. Quyền về hôn nhân được coi là một trong những quyền cơ của công dân và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của Việt Nam qua các thời kỳ, từ bản Hiến pháp đầu tiên là Hiến pháp năm 1946, cho đến Hiến pháp hiện hành năm 1992. Quyền này luôn được được pháp luật bảo hộ, thể hiện như sau: Điều 9 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Đây là cơ sở để khẳng định quyền bình đẳng giới, trong đó có quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân; Hiến pháp năm 1959 ghi nhận tại Điều 24 rằng phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình, nhà nước bảo hộ quyền hôn nhân; 17
- Hiến pháp năm 1980 lại quy định về quyền bình đẳng giữa nam, nữ trong quan hệ hôn nhân, hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng và nhà nước đảm bảo quyền hôn nhân của công dân (Điều 64) Tại Điều 64 đoạn 2 và 3 Hiến pháp năm 1992 quy định “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình” và “Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Qua các quy định trên đây, chúng ta chưa thấy sự thể hiện rõ nét của việc điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài trong Hiến pháp. Song, vì là văn bản pháp luật có giá trị pháp luật cao nhất, nên từ đó các nguyên tắc trong hôn nhân và cụ thể là ly hôn được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật như BLDS, LHNGĐ và các văn bản pháp luật liên quan khác [43]. * Bộ luật Dân sự: BLDS năm 1995 được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 28.10.1995 quy định về quyền ly hôn và các nguyên tắc trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng. Tuy nhiên, qua hơn 9 năm thi hành, nhất là trước sự phát triển toàn diện của đất nước trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, BLDS năm 1995 đã bộc lộ những hạn chế, không đáp ứng được những nhu cầu mới của xã hội. Ngày 14.6.2005, BLDS mới đã được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp thứ 7 đã thay thế, sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung trong BLDS năm 1995. Về quyền ly hôn, BLDS năm 2005 quy định tại Điều 42. Đặc biệt, đối với quan hệ dân sự nói chung và quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng được quy định trong Phần thứ bảy (phần quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài). Những nguyên tắc được quy định trong Phần thứ bảy này được kết hợp với Điều 42 (về quyền ly hôn nói chung) trong BLDS năm 2005 đã tạo thành các nguyên tắc cơ bản trong việc điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. * Luật Hôn nhân và gia đình: 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 309 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 210 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 234 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 347 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 62 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 94 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 111 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 104 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 84 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn