intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2005

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

33
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quy định pháp luật về người không được quyền hưởng di sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005, có so sánh với các quy phạm pháp luật liên quan đến với đề này qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2005

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH CHÂU NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 643 CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH CHÂU NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 643 CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phùng Trung Tập HÀ NỘI - 2013 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ Minh Ch©u 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƢỜI THỪA KẾ VÀ NGƢỜI 5 KHÔNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN 1.1. Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế 5 1.1.1. Khái niệm thừa kế 5 1.1.2. Quyền thừa kế 6 1.1.3. Khái niệm chung về người thừa kế 7 1.1.3.1. Người thừa kế theo di chúc 10 1.1.3.2. Người thừa kế theo quy định của pháp luật 10 1.2. Khái niệm về người thừa kế không được quyền hưởng di sản 11 1.2.1. Người không được quyền hưởng di sản theo quy định của 11 pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ 1.2.1.1. Thời kỳ phong kiến 11 1.2.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc 13 1.2.1.3. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1990 15 1.2.1.4. Thời kỳ từ năm 1990 đến nay 16 1.2.2. Người thừa kế có quyền hưởng di sản và người thừa kế 18 không được quyền hưởng di sản 1.2.2.1. Người thừa kế có quyền hưởng di sản 18 4
  5. 1.2.2.2. Người thừa kế không được quyền hưởng di sản 19 1.2.3. Căn cứ xác định người thừa kế không được quyền hưởng di sản 21 1.2.4. Người không có quyền hưởng di sản trong mối quan hệ với 23 quyền tự định đoạt của người lập di chúc Chương 2: NHỮNG TRƢỜNG HỢP NGƢỜI THỪA KẾ KHÔNG 27 ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN 2.1. Những trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng 27 di sản 2.1.1. Người bị kết án có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức 27 khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó 2.1.2. Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để 32 lại di sản 2.1.3. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng của 37 người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản của người thừa kế đó có quyền được hưởng 2.1.4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người có 40 di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí người để lại di sản 2.2. Những người không được quyền hưởng di sản theo khoản 1 50 Điều 643 nhưng vẫn được hưởng di sản theo di chúc 2.2.1. Người không được hưởng di sản theo pháp luật nhưng vẫn 50 được hưởng theo di chúc tại khoản 2 Điều 643 2.2.2. Phân biệt trường hợp người không được quyền hưởng di sản 51 do chết trước hoặc chết cùng thời điểm và người bị truất quyền thừa kế 5
  6. Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT NGƢỜI KHÔNG 58 ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về người không được quyền 58 hưởng di sản 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp 65 luật về người không được quyền hưởng di sản 3.2.1. Về vấn đề hướng dẫn thêm để giải thích rõ một số thuật ngữ 66 3.2.2. Về vấn đề bổ sung những thiếu sót - những trường hợp "bất 67 xứng" mà pháp luật chưa điều chỉnh 3.2.3. Một vài ý kiến hoàn thiện các qui định về người thừa kế 70 không có quyền hưởng di sản KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thừa kế và xác định người được quyền hưởng di sản là một việc cần thiết trước khi phân chia di sản, phân chia hàng thừa kế của cá nhân qua đời để lại. Pháp luật đã xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật theo các hàng thừa kế khác nhau và quyền hưởng di sản theo trình tự ưu tiên: hàng gần loại trừ hàng xa, do vậy không phải toàn bộ những người có tên trong các hàng thừa kế đều được hưởng di sản cùng một lúc vì Luật đã quy định thừa kế theo pháp luật là việc phân chia di sản theo điều kiện và trình tự hàng thừa kế, nhưng với đề tài "Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2005", học viên nghiên cứu ở một khía cạnh rất đặc thù là người không được quyền hưởng di sản do có các hành vi được quy định tại Khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005 là những người theo quy định của pháp luật được hưởng di sản nhưng do hành vi trái pháp luật của người này đã làm triệt tiêu quyền do Luật quy định. Trong xã hội hiện đại đã có rất nhiều trường hợp người thừa kế có các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự của người để lại di sản, hành vi giết người thừa kế khác nhằm chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế bị giết được hưởng hoặc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng hoặc vì lợi ích cá nhân muốn chiếm đoạt di sản riêng cho mình do vậy đã có hành vi hủy di chúc, bịa di chúc... Những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thừa kế ngày một gia tăng vì giá trị di sản có tính chất đặc biệt là bất động sản ngày một có giá trị quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này mang tính cấp thiết đáp ứng nhu cầu của xã hội. 7
  8. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về khoa học pháp lý nói chung và đặc biệt là nghiên cứu về các vấn đề trong lĩnh vực thừa kế nói riêng. Trong đó có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế có nội dung nghiên cứu về lĩnh vực thừa kế như: Luật sư Lê Kim Quế có cuốn sách "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về thừa kế"; Tiến sĩ Đinh Văn Thanh và Luật sư Trần Hữu Biền có cuốn sách "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế"; Tiến sĩ Phùng Trung Tập có hai cuốn sách "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 từ trước đến nay" và "Luật thừa kế Việt Nam"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện có cuốn sách "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Bắc về "Vấn đề thừa kế theo pháp luật ở Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Tuấn về "Những qui định chung về quyền thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Đinh Thị Duy Thanh về "Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự Việt Nam", luận văn thạc sĩ của Chế Mỹ Phương Đài về "Thừa kế theo pháp luật trong Bộ luật Dân sự Việt Nam"; Luận văn thạc sĩ của Lê Đức Bền "Thừa kế theo pháp luật của cháu, chắt theo quy định của pháp luật Việt Nam"... Ngoài ra, còn có nhiều bài viết được đăng tải trên các báo, tạp chí chuyên ngành như: Tiến sỹ Phùng Trung Tập có bài "Về việc cháu, chắt nội, ngoại thừa kế thế vị và hưởng di sản thừa kế theo hàng của ông, bà nội ngoại, các cụ nội, ngoại"- Tạp chí Toà án số 24/2005; tác giả Thái Công Khanh có bài "Những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện điều 679 Bộ luật Dân sự về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 16 năm 2006… Nhìn chung, những công trình nghiên cứu và các bài viết của các tác giả nêu trên chủ yếu mới dừng lại ở phạm vi phân tích một số quy định về thừa kế trong Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 hay trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. 8
  9. Về quy định của pháp luật liên quan đến người thừa kế không có quyền hưởng di sản, trong một số đề tài nghiên cứu, bài viết có đề cập đến nội dung trên nhưng chủ yếu được nghiên cứu trên phạm vi rộng, chưa đi sâu phân tích và làm rõ những nội dung quy định tại điều luật. Với đề tài "Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2005", tác giả chỉ đi sâu phân tích, làm sáng tỏ bản chất và các quy định của pháp luật về vấn đề trên với mục đích làm rõ và đưa ra hướng hoàn thiện quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005. 3. Phạm vi đề tài - Tập trung nghiên cứu một số vấn đề về người thừa kế và người không được quyền hưởng di sản. - Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005. - Thực trạng áp dụng pháp luật xác định người không được quyền hưởng di sản và hướng hoàn thiện pháp luật. 4. Mục đích nghiên cứu của luận văn Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung quy định pháp luật về người không được quyền hưởng di sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005, có so sánh với các quy phạm pháp luật liên quan đến với đề này qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập. Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử 9
  10. dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp... 6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Đề tài liên quan đến lĩnh vực thừa kế từ trước đến nay có rất nhiều các công trình mang tính chất toàn diện. Luận văn thạc sĩ Luật học "Người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 của Bộ luật Dân sự năm 2005" của nghiên cứu vấn đề về thừa kế trong phạm vi hẹp sẽ có giá trị trong việc nhìn nhận và đề xuất những vướng mắc mà pháp luật về thừa kế còn bỏ ngỏ, hoặc đã có quy định nhưng không phù hợp với tình hình thực tế, với phạm vi một đề tài tốt nghiệp, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu sâu vào người thừa kế không có quyền hưởng di sản, sự khác nhau giữa người được hưởng và không có quyền hưởng di sản và phân biệt với các trường hợp không được hưởng di sản khác. Từ việc phân tích điều luật trên và nêu lên những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đưa ra một vài ý kiến đóng góp hoàn thiện với quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luật văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề về người thừa kế và người không được quyền hưởng di sản. Chương 2: Những trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng di sản. Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật người không được quyền hưởng di sản và hướng hoàn thiện pháp luật. 10
  11. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƢỜI THỪA KẾ VÀ NGƢỜI KHÔNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN 1.1. KHÁI NIỆM VỀ THỪA KẾ VÀ QUYỀN THỪA KẾ 1.1.1. Khái niệm thừa kế Thừa kế là một quan hệ xã hội, là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong thời kỳ đầu của chế độ cộng sản nguyên thủy những điều kiện về kinh tế, xã hội và hôn nhân phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc. Chế độ mẫu hệ với địa vị chủ đạo của người phụ nữ đã tạo ra tiền đề cho việc thừa kế tài sản của các con và những người thân thuộc của người mẹ. Tài sản của thị tộc do người mẹ quản lý, khi người mẹ chết đi thì di sản được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc và tài sản của thị tộc được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đây chính là hình thức thừa kế đầu tiên của xã hội loài người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc sống chung cho thị tộc. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã làm thay đổi địa vị của người phụ nữ. Sự ra đời của nhiều ngành nghề mới như: nông nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt đòi hỏi sức khỏe và trí tuệ của người đàn ông, sản phẩm lao động mà người đàn ông làm ra không những đủ nuôi sống gia đình mà còn tạo ra của cải dư thừa. Địa vị của người đàn ông trong gia đình và trong từng bộ lạc dần dần được thiết lập. Đặc biệt khi nhà nước ra đời và quy định chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã làm cho con cái biết rõ cha, mẹ của mình. Từ đó trong quan hệ gia đình đã xác lập huyết thống theo họ cha và chế độ gia đình phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ. Các con trong gia đình có huyết thống với người cha sẽ mang họ cha và được thừa kế tài sản của cha. 11
  12. Qua mỗi một thời kỳ, qua mỗi một sự phát triển của xã hội loài người tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của hình thức gia đình thì việc điều chỉnh quan hệ sở hữu có thay đổi dẫn theo sự thay đổi của các quan hệ thừa kế đó là do các nguyên nhân về kinh tế, quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân trong xã hội quyết định. Ở Việt Nam, việc thừa kế di sản đã hình thành theo tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền, thậm chí việc chia di sản thừa kế còn theo truyền thống của dòng tộc. Con cháu trong gia đình được hưởng di sản từ ông bà, cha mẹ và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng tổ tiên nhắc nhở con cháu nhớ công ơn của người đã chết. Đây là một trong những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Có thể nói, thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống theo truyền thống, phong tục tập quán của từng dân tộc. Người được hưởng tài sản có nghĩa vụ duy trì, phát triển những giá trị vật chất, tinh thần và những truyền thống, tập quán do thế hệ trước để lại. 1.1.2. Quyền thừa kế Quyền thừa kế là một bộ phận của chế định thừa kế do vậy nó chứa đựng những yếu tố, đặc điểm của một chế định pháp luật. Nếu chế định thừa kế điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thừa kế thì quyền thừa kế là chế định được pháp luật bảo hộ quyền của cá nhân đối với tài sản thuộc sở hữu của họ trong việc dịch chuyển tài sản sau khi họ chết cho những người thừa kế có quyền hưởng thừa kế theo hình thức nhất định do pháp luật quy định. Căn cứ vào các quy định pháp luật thừa kế, có thể hiểu quyền thừa kế theo hai nghĩa sau đây: Thứ nhất: theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2005 "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho những người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [30]. Như vậy, có thể khái quát quyền thừa kế là tổng hợp các 12
  13. quy định của pháp luật, quy định những trình tự để lại di sản, nhận thừa kế và quyền khởi kiện dân sự yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi của người để lại di sản và quyền của người người hưởng thừa kế di sản. Thứ hai: Quyền thừa kế được hiểu là quyền của mỗi cá nhân trong việc để lại di sản của mình cho những người thừa kế, quyền trong việc nhận di sản thừa kế do người khác để lại và quyền trong việc khởi kiện để yêu cầu bảo vệ quyền thừa kế của mình trong thời hạn và thời hiệu khởi kiện phù hợp với các quy định của pháp luật. 1.1.3. Khái niệm chung về ngƣời thừa kế Người thừa kế là một khái niệm đã xuất hiện từ khi xuất hiện chế định pháp luật thừa kế, vì khi chế định này xuất hiện thì vần đề cần thiết đó là phải có người thừa kế. Vậy, khái niệm người thừa kế xuất hiện trong lịch sử loài người từ khi có bộ luật đầu tiên, trong pháp luật Việt Nam nó cũng đã được xuất hiện trong Bộ luật cổ của nước ta. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, pháp luật thừa kế Việt Nam chưa có quy định thế nào là người thừa kế. Về người thừa kế, qua các chế độ xã hội khác nhau nhưng cùng theo quan điểm chung là những người đó được hưởng di sản do người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong đó, người thừa kế theo di chúc là người được hưởng di sản của người chết để lại theo di chúc do người lập di chúc chỉ định, định đoạt trước khi họ chết. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức tùy theo sự định đoạt của người để lại di chúc. Người thừa kế có thể là người có mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người chết hoặc không có các mối quan hệ này, không nhất thiết phải đáp ứng điều kiện về quan hệ này. Mặt khác, phạm vi những người thừa kế theo pháp luật còn phụ thuộc vào quan điểm lập pháp của từng thời kỳ lịch sử của một quốc gia nhất định. 13
  14. Ở Việt Nam trước năm 1945, dưới chế độ thực dân phong kiến với ý thức hệ bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột, giai cấp thống trị thường đề cao quyền sở hữu và xem nó là quyền thiêng liêng, luôn được quan tâm nhằm duy trì gia đình nội tộc. Do đó, quan hệ huyết thống luôn được đề cao và quan trọng nhất trong việc xác định những người có quyền thừa kế. Dưới chế độ dân chủ, nhân dân ta kể từ năm 1945 đến nay, người thừa kế theo pháp luật đã được mở rộng (nếu xét theo quan hệ huyết thống). Pháp luật thừa kế nước ta, đã dần xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến trong việc xác định người thừa kế. Quan hệ bình đẳng giữa vợ chồng, giữa các con trong gia đình đã được pháp luật quy định, loại bỏ tư tưởng gia trưởng, tư tưởng trọng năm khinh nữ, bảo vệ quyền thừa kế của vợ góa và con gái đã kết hôn với người khác nhưng vẫn thuộc diện thừa kế của người chồng đã chết. Đây là một quy định có tính chất cách mạng, nó không những làm thay đổi quan hệ trong xã hội mà còn thay đổi tận gốc tư tưởng "xuất giá tòng phu", đồng thời bảo vệ trực tiếp quyền thừa kế của người vợ góa, mà trước đó người vợ góa đã kết hôn không thể có quyền này. Hiện nay, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và là người thừa kế theo hàng thừa kế, khi đó trình tự thừa kế sẽ do pháp luật quy định. Người thừa kế theo pháp luật là người có mối quan hệ thân thích, gần gũi nhất với người để lại di sản. Đó là những người có một trong ba mối quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản. Theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý làm chủ biên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội năm 1998 thì chỉ có chế định thừa kế là "được hưởng tài sản của cải do người chết để lại cho" [45] và Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 2003 quy định thừa kế là "hưởng của người chết để lại cho" [42] chứ không có định nghĩa thế nào là người thừa kế. Khái niệm người thừa kế đã được giải thích trong Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, 1999 của Trường Đại học Luật Hà Nội có 14
  15. giải thích về người thừa kế là "Người được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật" [38]. Hiện nay, trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 635 có quy định về Người thừa kế: Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [30]. Nhưng điều luật trên không phải là một khái niệm mà đó là quy định về điều kiện của người thừa kế. Để có thể được hưởng thừa kế thì những người thừa kế phải đáp ứng một số điều kiện theo quy định của pháp luật, các điều kiện đó có nội dung sau: Điều kiện đặt ra đối với người thừa kế là cá nhân: Khi một người chết đi thì có nghĩa là người đó không còn có năng lực chủ thể để tham gia vào các quan hệ pháp luật của Việt Nam. Các chủ thể luôn luôn phải đáp ứng điều kiện về năng lực chủ thể có nghĩa người đó phải còn sống vào thời điểm phát sinh quan hệ đó. Trong quan hệ thừa kế cũng vậy, để được hưởng thừa thì người đó phải có năng lực chủ thể tức người đó phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Người còn sống tức người đó đã được sinh ra và chưa chết vào thời điểm mở thừa kế, theo Nghị định 158/2005 NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch Điều 23 có quy định: "Trẻ em sinh ra sống được từ 24 giờ trở lên rồi mới chết cũng phải đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử" [7]. Như vậy, một đứa trẻ được xem như sinh và còn sống là sau 24 giờ. Trong trường hợp một người sinh ra vào thời điểm mở thừa kế thì người đó phải là người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế và phải sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế. 15
  16. Điều kiện đặt ra đối với người thừa kế là tổ chức: Để một cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc thì cơ quan, tổ chức đó phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Tức là với thời điểm người để lại di sản chết, cơ quan, tổ chức đã được thành lập và chưa chấm dứt hoạt động. Từ những lý luận về người thừa kế như đã trình bày, theo quan điểm tác giả, người thừa kế có thể được định nghĩa như sau: Người thừa kế là người được hưởng di sản do người chết để lại theo di chúc hoặc theo pháp luật. 1.1.3.1. Người thừa kế theo di chúc Người thừa kế theo di chúc là người được xác định do ý chí của người có di sản nên phạm vi những người được hưởng di sản theo di chúc rộng hơn rất nhiều so với người được hưởng di sản theo pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân bất kỳ, nếu được chỉ định mà không cần xét đến những quan hệ khác của họ đối với người để lại di sản. Người thừa kế theo di chúc có thể là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản hoặc không thuộc diện thừa kế theo luật của người để lại di sản, pháp luật không quy định phạm vi những người được hưởng thừa kế theo di chúc mà việc được hưởng di sản của người chết theo di chúc hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người lập di chúc trong việc định đoạt tài sản của họ để lại cho những người thừa kế. 1.1.3.2. Người thừa kế theo quy định của pháp luật Nếu người thừa kế theo di chúc là cá nhân bất kỳ ai là người thuộc diện hay không thuộc diện thừa kế theo luật của người để lại di sản kể cả cơ quan, tổ chức được hưởng di sản do ý chí của người để di sản quyết định. Thì người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và là người có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng với người để lại di sản. Những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được hưởng quyền hưởng di sản một cách bình đẳng, ngang nhau giữa những người cùng hàng thừa kế. Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau: 16
  17. - Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. - Hàng thừa kế thứ hai gồm: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết, cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. - Hàng thừa kế thứ ba gồm: Cụ nội, cụ ngoại; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, di ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại. 1.2. KHÁI NIỆM VỀ NGƢỜI THỪA KẾ KHÔNG ĐƢỢC QUYỀN HƢỞNG DI SẢN 1.2.1. Ngƣời không đƣợc quyền hƣởng di sản theo quy định của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ Sự phát triển của pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói chung và pháp luật về người không được quyền hưởng di sản nói riêng gắn liền với lịch sử truyền thống, với chiều dài phát triển kinh tế, văn hoá của dân tộc Việt sử. Từ đó, có thể chia làm các giai đoạn phát triển của các quy định pháp luật về người không được quyền hưởng di sản qua các thời kỳ sau đây. 1.2.1.1. Thời kỳ phong kiến Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến để điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội, Nhà nước đã sử dụng phương tiện hữu hiệu là pháp luật. Bởi pháp luật phụ thuộc một cách trực tiếp đến chế độ sở hữu, đến sự phát triển về kinh tế, văn hóa đến tư tưởng, tôn giáo đang thịnh hành ở thời kỳ này. Những quy định pháp luật qua các thời kỳ luôn thể hiện một bản sắc dân tộc, một tâm linh truyền thống đặc thù của con người Việt Nam. Thời kỳ phong kiến ở Việt Nam còn chịu nhiều tác động của những tư tưởng phong kiến lạc hậu nên pháp luật thời kỳ này còn mang đậm tính phong 17
  18. kiến, trọng nam kinh nữ. Những quy định của pháp luật về người không được quyền hưởng di sản cũng phải chịu những tác động nhất định. Pháp luật về người không được quyền hưởng di sản được quy định trong các Bộ luật cổ như Quốc triều Hình Luật, Hoàng Việt luật lệ… Những quy định thời này hầu hết do các con phạm tội bất hiếu (Đoạn 295 Quốc triều hình luật) hoặc không nghe lệnh của ông bà, cha mẹ thì sẽ bị tước quyền hưởng di sản thừa kế. Theo Điều 506, Quốc triều Hình Luật như con cháu trái lời dạy bảo và không phụng dưỡng bề trên, mà bị ông bà, cha mẹ trình lên quan thì xử tội đồ làm khao dinh; con nuôi, con kế tự mà thất hiếu với cha nuôi, cha kế thì xử giảm tội trên một bậc; và mất những tài sản được chia. Tại Đoạn 272, Quốc triều hình luật quy định: Dân gian có đứa con bất hiếu, lúc cha mẹ còn sống làm ra chúc thư chia toàn phần cho đứa con hiếu thảo, một nửa phần cho con nuôi, mà không cho đứa con bất hiếu kia. Tờ di chúc tay viết ra, nhưng chưa chia hẳn, và lại nhờ chúc thư đó thể thức có chỗ thất cách, đến lúc chết đi đứa con bất hiếu kia mới về chịu tang, cùng là sửa phần mộ và làm cỗ bàn tế lễ; thế rồi không theo lời di ngôn của cha mẹ mà ngầm bàn tính đi kiện để tranh giành gia tài, lấy cớ là mình là đứa con đã báo hiếu.Vậy là nha môn thụ lý việc này, không được căn cứ vào việc hắn có đến dự tang tế mà phải phán cho hắn trái lệnh cha mẹ kiện gian trái phép; tòa cứ y di mệnh của cha mẹ trong chúc thư rồi giao cho họ hàng thân thích và hương trưởng chứng kiến tờ di chúc đó, chứ không y cứ vào sự làm sai thể thức (trong chúc thư) [44]. Như vậy, việc tước quyền hưởng di sản của thời kỳ này không những mang tính pháp lý mà còn mang tính đạo đức, giáo dục con cháu phải biết vâng lời bố mẹ, ông bà không được tranh giành của cải làm mất đoàn kết gia đình, và phải có hiếu với ông bà, cha mẹ. Những tư tưởng đạo đức thống trị 18
  19. trong từng thời kỳ đã ảnh hưởng tới việc xác định những trường hợp không được quyền hưởng di sản thừa kế. 1.2.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc Ở Việt Nam, pháp luật của chế độ thực dân phong kiến cũng đã có những quy định về người thừa kế không được quyền hưởng di sản của người chết để lại (họ được gọi là những người thừa kế bất xứng). Và vấn đề này đã được quy định trong Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 và Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936. Đây là những bộ luật được ban hành trong thời ký mà nhà nước phong kiến Việt Nam đang nằm dưới sự cai trị của thực dân Pháp (chế độ thực dân nửa phong kiến). Vì vậy, trong quy định về thừa kế nói chung và quy định về người không được quyền hưởng di sản nói riêng, các bộ luật này vừa mang tư tưởng ý thức hệ phong kiến vừa du nhập tư tưởng của Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp năm 1804. Ví dụ: Người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà không tố giác với tòa án nhưng nếu kẻ sát nhân là cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng hoặc thân thuộc gần gũi với người thừa kế thì không bị coi là có lỗi vì không tố giác; Người có hành vi vu khống người để lại di sản hoặc vu khống ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt về trọng tội hay thường tội [16]. Tuy nhiên, với tư cách là pháp luật của nước phong kiến nên mọi quy định thừa kế nói chung và các quy định về người không được quyền hưởng di sản nói riêng trong hai bộ luật đều chú trọng và duy trì, củng cố chế độ sở hữu phong kiến, bảo vệ quyền lợi của giai cấp bóc lột. Cụ thể, tại Điều 313 Dân luật Bắc Kỳ và Điều 306 Dân luật Trung Kỳ đều dự liệu những trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản: Người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng được hưởng di sản của người lập di chúc; Người có hành vi xâm phạm đến tính mạng của người để lại di sản hoặc với danh nghĩa 19
  20. chính phạm hoặc đồng phạm hoặc tòng phạm; Người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà không tố giác với tòa án nhưng nếu kẻ sát nhân là cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng hoặc thân thuộc gần với người thừa kế thì không bị coi là có lỗi vì không tố giác; Người có hành vi vu khống người để lại di sản hoặc vu khống ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt về trọng tội hay thường tội [1], [2]. Mặt khác, do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, vấn đề trọng nam kinh nữ như là một ý thức hệ bao trùm toàn xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng lập pháp. Pháp luật ở thời ký này thừa nhận chế độ gia đình phụ quyền và công nhận cho người chồng (người cha) có tất cả các quyền lực cần thiết để họ thực hiện chức năng chủ gia đình của mình. Vì vậy, vấn đề người không được quyền hưởng di sản ở thời kỳ này thể hiện rõ nét sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa nam và nữ. Ví dụ, cũng về vần đề nêu trên, theo án lệ ở miền Nam nước ta năm 1945 thì căn cứ vào từng vụ việc cụ thể mà quyết định tước quyền thừa kế của vợ góa nếu: Không để tang chồng; Sống thiếu đạo đức và đã công khai gây tai tiếng cho gia đình nhà chồng; Đã có tình nhân hoặc đã lạm dụng quyền hưởng di sản mà không có biên bản kê khai; Người vợ góa bị coi là bất xứng không có quyền thừa kế, phần di sản đó sẽ do con hoặc cháu của người đó hưởng [15]. Tuy nhiên, không có xảy ra những trường hợp ngược lại. Có thể nói, pháp luật trong thời kỳ này là phương tiện pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp địa chủ, phong kiến là chủ yếu nhưng trong đó, chế độ thừa kế nói chung và các quy định về người không được quyền hưởng di sản nói riêng vẫn được xây dựng trên cơ sở tôn trọng và giữ gìn các truyền thống của dân tộc. Và vấn đề về người không có quyền hưởng di sản đã được đặt ra một cách phù hợp với chính sách thời kỳ đó. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2