ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN NGHI

PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN VĂN NGHI

PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI

THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Huy Cƣơng

HÀ NỘI – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và

trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các

nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo

vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN VĂN NGHI

Chƣơng 1

LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI ................................................................ 6

1.1. Khái quát về pháp nhân .............................................................................................. 6

1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của pháp nhân .......................................................... 6

1.1.2. Phân loại pháp nhân ............................................................................................. 10

1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò, ý nghĩa của pháp nhân thƣơng mại ....................... 12

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp nhân thương mại ............................................. 12

1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của pháp nhân thương mại ..................................................... 28

1.3. Các hình thức của pháp nhân thƣơng mại ................................................................ 30

1.3.1. Pháp nhân thương mại là các công ty đối nhân ................................................... 30

1.3.2. Pháp nhân thương mại là các công ty đối vốn ..................................................... 31

1.4. Quản trị và vận hành pháp nhân thƣơng mại ........................................................... 42

1.4.1. Nội dung pháp lý chủ yếu của quản trị và vận hành pháp nhân thương mại là công ty đối nhân .............................................................................................................. 42

1.4.2. Nội dung pháp lý chủ yếu của quản trị và vận hành pháp nhân thương mại là công ty đối vốn ................................................................................................................ 43

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI .......... 45

2.1. Các qui định chung về pháp nhân thƣơng mại ......................................................... 45

2.2. Các qui định về đăng ký thƣơng nhân ..................................................................... 50

2.3. Các qui định về hình thức của pháp nhân thƣơng mại ............................................. 52

2.4. Các qui định quản trị và vận hành pháp nhân thƣơng mại ...................................... 58

Chƣơng 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI .................................................................................................. 68

3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về pháp nhân thƣơng mại ở Việt Nam ............... 68

3.2. Kiến nghị các định hƣớng hoàn thiện pháp luật về pháp nhân thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay .................................................................................................................. 69

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

3.3. Kiến nghị về nội dung hoàn thiện pháp luật về pháp nhân thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay ........................................................................................................................... 69

KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 80

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài

Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan

liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng đã, đang và sẽ đòi hỏi những cải cách

pháp luật sâu rộng. Một trong những đòi hỏi quan trọng có tính khách quan là đòi

hỏi xây dựng và hoàn thiện chế định pháp nhân nói chung và pháp nhân thƣơng

mại nói riêng bởi pháp nhân thƣơng mại là một loại chủ thể không thể thiếu trong

nền kinh tế thị trƣờng, mà nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa

không phải là ngoại lệ.

Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp ở Việt Nam trƣớc

kia cũng không nằm ngoài qui luật chung của xã hội loài ngƣời trong việc phát

triển kinh tế dựa trên các tổ chức nhất định mà có thể phân biệt với các tổ chức

phi kinh tế khác và phân biệt giữa chúng với nhau mà đƣợc gọi là các tổ chức

kinh tế mang hình hài của các pháp nhân thƣơng mại. Trên lý thuyết và cả trong

thực tế lúc đó, ít nhất các tổ chức này không có sự độc lập về tài sản và sự vận

hành của nó bị chi phối bởi các bộ chủ quản.

Vì vậy trong suốt mấy chục năm qua kể từ giai đoạn đầu của thời kỳ đổi

mới, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng, Đảng và Nhà nƣớc đã rất chú ý tới việc

phát triển các pháp nhân thƣơng mại để vƣợt qua các khiếm khuyết của cơ chế

kinh tế cũ mà trong đó có các khiếm khuyết của các tổ chức kinh tế của nó, và để

xây dựng một thành phần không thể thiếu của nền kinh tế thị trƣờng, đó là các

công ty thƣơng mại (các pháp nhân thƣơng mại). Năm 1987 và năm 1990, Quốc

hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã lần lƣợt thông qua Luật Đầu tƣ

nƣớc ngoài tại Việt Nam và Luật Công ty qui định về pháp nhân thƣơng mại. Sau

đó các đạo luật này đƣợc thay thế bằng nhiều đạo luật khác nhau liên tiếp. Cho

1

tới nay có nhiều đạo luật ở nhiều lĩnh vực khác nhau qui định về pháp nhân

thƣơng mại, chẳng hạn nhƣ: Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm

2014, Luật Thƣơng mại 2005, Luật Hàng không dân dụng năm 2014, Bộ luật

Hàng hải năm 2015, Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Kinh doanh bảo

hiểm năm 2010, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi), Luật Luật sƣ năm 2012…

Tuy nhiên các qui định về pháp nhân thƣơng mại trong các đạo luật này thiếu

nhất quán, do đó gây cản trở không nhỏ cho việc thi hành và áp dụng pháp luật.

Môi trƣờng kinh doanh và giao lƣu dân sự vì thế mà kém phát triển. Thực tiễn tƣ

pháp đã để lại nhiều phán quyết đáng quan ngại do nhận thức về pháp nhân

thƣơng mại chƣa thỏa đáng và do áp dụng các qui định pháp luật thiếu chính xác

liên quan.

Vì vậy nghiên cứu về pháp nhân thƣơng mại trong bối cảnh hiện nay của

Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết không những để có nhận thức đúng hơn về nó,

mà còn để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong điều kiện Việt Nam

đang xây dựng kinh tế thị trƣờng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc

tế.

Bởi các lẽ kể trên tôi xin lựa chọn đề tài “Pháp nhân thƣơng mại theo

pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc

2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước

Pháp nhân thƣơng mại là một vấn đề pháp lý và là một thực tiễn pháp lý đã

xuất hiện từ thời kỳ Trung Cổ theo tập quán của các thƣơng nhân Italia và đƣợc

phổ biến khắp thế giới. Do đó hiện trên thế giới có một số lƣợng công trình

nghiên cứu rất lớn về các vấn đề này dƣới nhiều giác độ khác nhau. Tuy nhiên

pháp nhân thƣơng mại có sự khác nhau theo pháp luật của các quốc gia cụ thể,

nhất là về hình thức của chúng. Đặc biệt pháp nhân thƣơng mại có thể không tồn

2

tại ở những quốc gia lựa chọn xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Vì

vậy khó có thể nói pháp nhân thƣơng mại đƣợc nghiên cứu để phát triển ở những

quốc gia này.

Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung quan

liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng có sự can thiệp nhất định của Nhà nƣớc

theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, do đó chƣa có những công trình nghiên cứu

bao quát và hệ thống về vấn đề pháp nhân thƣơng mại theo pháp luật Việt Nam.

Hầu hết các công trình liên quan nhằm mục đích giới thiệu các hình thức pháp

nhân thƣơng mại cụ thể theo thực tế pháp luật của Việt Nam, nhƣng thiếu sự tổng

kết những vấn đề lý luận, cũng nhƣ tổng kết sự thay đổi hoặc phát triển của luật

thực định.

2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước

Có một số công trình nghiên cứu khá nổi tiếng liên quan đến đề tài này

trong các chế độ trƣớc kia ở Việt Nam, chẳng hạn nhƣ tác phẩm “Luật thương

mại Việt Nam dẫn giải” của Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân xuất

bản năm 1972 tại Sài Gòn.

Hiện nay ở nƣớc ta có nhiều giáo trình về luật thƣơng mại hay luật kinh tế

có nói tổng thể liên quan. Tuy nhiên không có công trình nào nghiên cứu tổng thể

trên phƣơng diện lý luận chuyên sâu và có nền tảng liên quan. Các công trình chủ

yếu tập trung vào pháp luật thực định trừ một số công trình lớn nhƣng không

hoàn toàn tập trung vào khía cạnh pháp nhân mà chủ yếu tập trung vào hình thức

công ty. Các công trình trong nƣớc hiện nay có vai trò nòng cốt liên quan tới đề

tài này bao gồm: “Giáo trình luật thương mại- phần chung” của PGS. TS Ngô

Huy Cƣơng xuất bản tại Nxb. Đại học Quốc gia năm 2013; “Giáo trình luật kinh

tế Việt Nam” của PGS. TS Nguyễn Nhƣ Phát và PGS. TS Phạm Duy Nghĩa xuất

bản tại Nxb. Đại học Quốc gia năm 2001; “Giáo trình luật thương mại” của

3

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội xuất bản tại Nxb. Công an nhân dân năm 2006…

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề pháp lý (cả lý luận và

thực tiễn) về pháp nhân thƣơng mại.

Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về pháp

luật liên quan đến đề tài luận văn, chứ không nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh

vực văn hóa, xã hội hay kinh tế, chính trị phát sinh từ đó. Ở khía cạnh thực tiễn

pháp lý và qui định pháp luật, luận văn chỉ nghiên cứu trong phạm vi của pháp

luật Việt Nam hiện hành. Nếu có nhắc tới những vấn đề lịch sử thì chỉ dừng lại ở

việc minh chứng cho các nhận định có liên quan của tác giả luận văn.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn

Mục đích của đề tài:

Mục đích của đề tài là nghiên cứu chuyên sâu về lý luận, thực tiễn liên

quan tới pháp nhân thƣơng mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay.

Luận văn có những nhiệm vụ chính nhƣ sau:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận pháp luật về pháp nhân thƣơng mại.

Thứ hai, phân tích chuyên sâu các quy định của pháp luật về pháp nhân

thƣơng mại liên quan để chỉ ra những bất cập, đồng thời chỉ ra những nguyên

nhân chủ yếu dẫn tới những bất cập đó xuất phát từ lý luận và thực tiễn thi hành

pháp luật.

Thứ ba, kiến nghị các định hƣớng và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn

thiện pháp luật về pháp nhân thƣơng mại.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn dự kiến sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

Phƣơng pháp mô hình hóa, phƣơng pháp diễn dịch, phƣơng pháp quy nạp,

phƣơng pháp phân tích qui phạm, phân tích vụ việc, phƣơng pháp tổng hợp,

phƣơng pháp so sánh pháp luật, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp phỏng vấn

4

chuyên gia…

6. Bố cục dự kiến của luận văn

Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn có bố cục dự kiến nhƣ sau:

Chương 1. Lý luận về pháp nhân thƣơng mại

Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về pháp nhân thƣơng mại

Chương 3. Các định hƣớng và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về pháp

5

nhân thƣơng mại

Chƣơng 1

LÝ LUẬN VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI

1.1. Khái quát về pháp nhân

1.1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của pháp nhân

Pháp nhân là một loại chủ thể của pháp luật bên cạnh thể nhân. Về mặt

ngôn ngữ (theo từ Hán Việt), “nhân” là ngƣời. Chỉ có con ngƣời mới là chủ thể

của pháp luật. Nhƣng pháp luật đã nhân cách hóa một vài sự vật, hiện tƣợng để

trao cho chúng một đời sống pháp lý [8, tr. 32] nhằm đáp ứng các yêu cầu của xã

hội. Trong phép nhân cách hóa đó, pháp nhân cũng đƣợc xem là ngƣời, nhƣng nó

đƣợc gán một tính từ để phân biệt với thể nhân, có nghĩa nó là con ngƣời pháp

định [6, tr. 39]. Sở dĩ nhƣ vậy nên khi nói tới chủ thể của các quan hệ pháp luật là

thông thƣờng nói tới thể nhân và pháp nhân. Theo quan niệm chung của các nƣớc

thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, chủ thể của pháp luật có những thuộc tính đặc

biệt do Nhà nƣớc trao cho năng lực chủ thể. Tuy nhiên năng lực chủ thể này đƣợc

hình thành từ thực tại khách quan, không phải từ quyết định hoàn toàn chủ quan

của ngƣời làm luật hay Nhà nƣớc (trừ trƣờng hợp có những tranh luận kéo dài

liên quan tới tƣ cách pháp nhân của công ty hợp danh đƣợc nghiên cứu phía dƣới

đây).

PGS. TS Nguyễn Ngọc Điện cho rằng:

“Theo học thuyết pháp lý châu Âu, pháp nhân đƣợc hiểu là

một thực thể pháp lý hình thành từ sự liên kết nhóm của một số chủ

thể, chủ yếu là các cá nhân, nhằm thực hiện mục tiêu chung. Thực

thể đƣợc tạo ra có tƣ cách chủ thể riêng và có đời sống pháp lý độc

lập, phân biệt với đời sống pháp lý của các chủ thể tham gia xây

6

dựng pháp nhân, còn gọi là thành viên pháp nhân” [9, tr. 18].

Ngày nay pháp nhân đƣợc quan niệm rộng rãi hơn không phải chỉ bó hẹp

trong phạm vi các tổ chức là một tập hợp ngƣời nhƣ thế. Pháp nhân có thể do chỉ

một ngƣời tạo lập nên và ngƣời đó là thành viên duy nhất của pháp nhân. Cũng

có trƣờng hợp pháp nhân không có thành viên, ví dụ nhƣ một số quỹ (quỹ trao

giải thƣởng Nô ben…). PGS. TS Nguyễn Nhƣ Phát nhận thức:

“Trƣớc hết, pháp nhân là một khái niệm đƣợc sử dụng để ám

chỉ một loại chủ thể độc lập, để phân biệt với các chủ thể là con

ngƣời (bao gồm cá nhân và tập thể ngƣời). Nhƣ vậy, pháp nhân là

một thực thể trừu tƣợng, đƣợc hƣ cấu, thể hiện tình trạng minh bạch

về tài sản của nó với tài sản còn lại của chủ sở hữu, ngƣời sáng tạo

ra nó. Trong kinh doanh, ngƣời sáng tạo ra pháp nhân, hiểu theo

nghĩa này, là chủ sở hữu doanh nghiệp – ngƣời đầu tƣ vốn để thành

lập doanh nghiệp có tƣ cách pháp nhân” [17, tr. 44 – 45].

Trong nhận thức này, PGS. TS Nguyễn Nhƣ Phát không nhắc gì tới số

lƣợng của các thành viên của pháp nhân, nhƣng không có nhận thức về pháp

nhân không thành viên.

PGS. TS Ngô Huy Cƣơng lập luận về pháp nhân nhƣ sau:

“Các tổ chức của con ngƣời xét từ phƣơng diện nào đó là các

phƣơng tiện giúp con ngƣời thỏa mãn các nhu cầu sống. Để duy trì

và phát triển các tổ chức đó trong mối quan hệ tƣơng thuộc, con

ngƣời thông qua pháp luật ban tặng cho một số loại tổ chức nhất

định một đời sống pháp lý thích ứng, có nghĩa là biến chúng thành

chủ thể của một số quyền thích ứng, và, trong mối quan hệ tƣơng

thuộc, gánh vác những nghĩa vụ nhất định. Cách thức này đã đƣợc

mở rộng tới lợi ích (không chỉ là các tổ chức), có nghĩa là một hoặc

một tập hợp lợi ích nào đó cũng đƣợc xem là chủ thể của quyền. Chủ

7

thể của quyền có nghĩa là chủ thể của pháp luật bởi pháp luật bao

gồm các qui tắc xử sự bắt buộc chỉ ra quyền và nghĩa vụ thích ứng

của các bên tham gia các quan hệ (nói một cách đơn giản). Phƣơng

thức ban tặng này đã mô phỏng đời sống pháp lý của thể nhân gán

cho chủ thể khác (tổ chức hoặc lợi ích) để xem nó cũng là ngƣời

(dƣới giác độ pháp lý), nhƣng đồng thời gán cho nó một tính từ để

phân biệt với thể nhân (con ngƣời tự nhiên có thể chất – chủ nhân

đích thực của thế giới) và gọi nó là pháp nhân (con ngƣời pháp

định)” [6, tr. 38 – 39].

Theo lập luận này, PGS. TS Ngô Huy Cƣơng nói rõ pháp nhân không có

nghĩa hoàn toàn là một tổ chức (một tập hợp ngƣời) hoặc không có nghĩa là phải

có thành viên. Pháp nhân theo đó có thể là một tổ chức hoặc có thể là một tập hợp

lợi ích nào đó đã đƣợc nhân cách hóa.

Hiện nay có hai trƣờng phái học thuyết chủ yếu quan niệm về pháp nhân.

Học thuyết giả tƣởng xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân quan niệm chỉ có con ngƣời

mới có nhân tính và ý chí, do đó mới là chủ thể của các quyền hay chủ thể của

pháp luật. Do nhu cầu quản lý các tổ chức của con ngƣời, học thuyết này xem tổ

chức có tƣ cách pháp nhân là chủ thể giả tƣởng của pháp luật mô phỏng vị trí

pháp lý của thể nhân. Trong khi đó học thuyết thực tại về pháp nhân ra đời sau

này khẳng định pháp nhân là những thực tại không kém gì thể nhân và có ý chí,

nên phải là chủ thể của các quyền hay chủ thể của pháp luật. Học thuyết này dẫn

đến một quan niệm rằng, pháp nhân không phải là sự tạo lập của nhà làm luật mà

là một thực tại buộc pháp luật phải thừa nhận [3, tr. 76 – 77]. Việc xây dựng luật

theo học thuyết nào sẽ có những hệ quả nhất định trong việc xem tổ chức nào là

có tƣ cách pháp nhân, nhất là liên quan tới công ty hợp danh và công ty hợp vốn

đơn giản. Vì vậy pháp nhân là một thực thể pháp lý đƣợc xem là chủ thể của pháp

luật đƣợc sáng lập bởi các thành viên hoặc một thành viên hoặc đƣợc sáng lập

8

trên cơ sở một tập hợp lợi ích nhất định mà không có thành viên.

Pháp nhân có thể đƣợc xem là một hệ quả pháp lý. Theo PGS. TS Ngô

Huy Cƣơng, hệ quả pháp lý hay hậu quả pháp lý phát sinh từ ba nguồn gốc là

hành vi pháp lý, sự kiện pháp lý và hiệu lực của luật [2, tr. 48]. Xem xét bản chất

pháp lý của pháp nhân từ đó thì pháp nhân có thể là một hành vi pháp lý hoặc có

thể là một chế định pháp luật (hiệu lực của luật). PGS. TS Ngô Huy Cƣơng khẳng

định:

“Pháp luật các nƣớc theo truyền thống dân luật (Civil Law)

hầu nhƣ cho phép các pháp nhân đƣợc tạo lập bởi các thỏa thuận tƣ.

Vì vậy các pháp nhân tƣ pháp (pháp nhân dân sự và pháp nhân

thƣơng mại) có bản chất là hành vi pháp lý (có nghĩa: Có thể là hợp

đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phƣơng). Bộ luật Dân sự Pháp 1804

và các Bộ luật Dân sự dƣới các chế độ cũ ở Việt Nam đều thể hiện

quan niệm đó” [6, tr. 43] .

Khẳng định này cho rằng pháp nhân do tƣ nhân sáng lập có bản chất là một

hành vi pháp lý. Nếu pháp nhân có nhiều ngƣời cùng sáng lập mang bản chất là

hợp đồng. Nếu pháp nhân do một ngƣời sáng lập mang bản chất là một hành vi

pháp lý đơn phƣơng. Từ đó cần khẳng định: pháp nhân xuất hiện do pháp luật qui

định hoặc do sự sáng lập bởi quyết định của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền

ban hành văn bản qui phạm pháp luật có bản chất là một chế định pháp luật.

Việc phân biệt bản chất này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng qui

chế pháp lý riêng cho từng loại thƣơng nhân khác nhau. Những pháp nhân công

thƣờng đƣợc xem là một chế định pháp luật. Do đó pháp luật qui định về nó phải

khá đầy đủ, chi tiết. Pháp nhân tƣ thƣờng đƣợc xem là một hành vi pháp lý. Do

đó pháp luật phải chú ý tới tính chất tự do thỏa thuận, tự định đoạt của các thành

viên của pháp nhân… Thông thƣờng pháp nhân công hay thuộc sở hữu công bị

điều chỉnh bởi luật công. Còn pháp nhân thuộc sở hữu của tƣ nhân bị điều chỉnh

9

bởi luật tƣ nhƣ luật dân sự và luật thƣơng mại.

1.1.2. Phân loại pháp nhân

Có nhiều cách phân loại pháp nhân khác nhau nhƣ dựa vào nơi thành lập,

dựa vào mục đích hoạt động, dựa vào luật thành lập… Dựa vào nơi thành lập có

phân loại pháp nhân thành pháp nhân trong nƣớc và pháp nhân nƣớc ngoài. Dựa

vào mục đích hoạt động có phân loại pháp nhân thành pháp nhân có mục đích

kinh tế và pháp nhân vì mục đích phi kinh tế. Dựa vào luật thành lập có phân loại

pháp nhân thành pháp nhân công pháp và pháp nhân tƣ pháp.

Luận văn này chỉ nghiên cứu pháp nhân thƣơng mại do đó chỉ chú ý tới

cách phân loại pháp nhân dựa vào luật thành lập pháp nhân. Bên cạnh việc phân

loại pháp nhân thành pháp nhân công pháp và pháp nhân tƣ pháp, trong khoa học

pháp lý còn phân chia pháp nhân tƣ pháp thành pháp nhân dân sự và pháp nhân

thƣơng mại. Có cách gọi khác hai loại pháp nhân này là công ty dân sự và công

ty thƣơng mại đƣợc phân loại dựa vào luật thành lập và mục đích kinh tế. PGS.

TS Ngô Huy Cƣơng nói tóm lƣợc về việc phân loại này nhƣ sau:

“Các nƣớc theo truyền thống Civil Law thƣờng phân loại

pháp nhân thành pháp nhân công pháp và pháp nhân tƣ pháp, có

nghĩa là pháp nhân đƣợc thành lập theo luật công và pháp nhân đƣợc

thành lập theo luật tƣ. Tới lƣợt chúng, pháp nhân tƣ pháp đƣợc phân

loại thành pháp nhân dân sự và pháp nhân thƣơng mại” [7, tr. 16].

Các pháp nhân công pháp thƣờng thấy là các cơ quan trong bộ máy nhà

nƣớc (nhƣ các bộ, các tổng cục, các cục, các ủy ban nhân dân các cấp…), các hội

thành lập theo luật công (nhƣ Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thành niên cộng sản Hồ

Chí Minh, Hội cựu chiến binh…), các tổ chức sự nghiệp hoặc doanh nghiệp

thuộc sở hữu công (nhƣ: Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Nhà nƣớc và Pháp

luật…), các quĩ thuộc sở hữu công (nhƣ: Quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam, Quỹ

xóa đói giảm nghèo…), và các đơn vị lực lƣợng vũ trang (nhƣ: các quân đoàn, sƣ

10

đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội…)…

Thông thƣờng những đạo luật qui định về phân loại pháp nhân không đầy

đủ theo các căn cứ mà chủ yếu là liệt kê các loại pháp nhân. Tuy nhiên Bộ luật

Dân sự thƣờng chỉ liệt kê chủ yếu các loại pháp nhân công pháp và pháp nhân

dân sự. Còn các pháp nhân thƣơng mại thƣờng do các đạo luật về thƣơng mại qui

định và phân loại. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ năm 1931 phân loại theo kiểu liệt kê

nhƣ sau:

“Những đoàn thể sau này đƣợc hƣởng tƣ cách pháp nhân:

Nhà-nƣớc; 1)

Hàng-xã; 2)

Hàng-thôn; 3)

4) Hàng-giáp (tức nhiều nhà hợp lại có quyền-lợi chung

với nhau, nhất là về tế-tự);

5) Hàng-xóm (tức là nhiều nhà hợp lại vì tính lân-cận và

sự tế-tự);

6) Những hội đã đƣợc phép lập;

7) Những hội thƣơng-mại đã thành lập hợp lệ.

Còn những hội mục-đích phi-pháp hoặc trái phong-tục thì

không đƣợc hƣởng tƣ-cách pháp-nhân” (Điều 284).

Các thƣơng hội theo Bộ luật này bao gồm: hội vô danh, hội hữu hạn trách

nhiệm, hội hợp danh, hội hợp tƣ đơn thƣờng, hội hợp tƣ cổ phần.

Qua đây cho thấy trong phân loại pháp nhân đôi khi có những nhà nghiên

cứu phân loại pháp nhân dựa vào hình thức pháp lý của pháp nhân. Tuy nhiên

tiêu chí phân loại này thƣờng đƣợc sử dụng trong luật thƣơng mại để phân biệt

11

giữa các loại hình công ty thƣơng mại.

1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò, ý nghĩa của pháp nhân thƣơng

mại

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp nhân thương mại

1.2.1.1. Khái niệm pháp nhân thương mại

Nhƣ trên đã nói, pháp nhân thƣơng mại là tên gọi một loại pháp nhân xuất

phát từ việc phân loại pháp nhân theo luật thành lập hay ngành luật. Tuy nhiên

trong khoa học pháp lý mà thƣờng đƣợc thể hiện trong luật thực định, pháp nhân

thƣơng mại là một loại thƣơng nhân. Trong luật thƣơng mại, thƣơng nhân bao

gồm hai loại là thƣơng nhân thể nhân (cá nhân kinh doanh) và thƣơng nhân pháp

nhân (công ty) [7, tr. 16]. Vì vậy để hiểu đúng về pháp nhân thƣơng mại cần tìm

hiểu về thƣơng nhân nói chung và thƣơng nhân pháp nhân nói riêng.

Luật thực định của một số nƣớc theo truyền thống Civil Law quy định

thƣơng nhân là chủ thể thông thƣờng của luật thƣơng mại và có các định nghĩa

không giống nhau hoàn toàn về thƣơng nhân. Do vậy cần khảo sát khái niệm

thƣơng nhân theo các qui định này vì pháp nhân thƣơng mại đƣợc bao gồm trong

đó.

Bộ luật Thƣơng mại đầu tiên đƣợc pháp điển hoá theo kiểu hiện đại trên

thế giới là Bộ luật Thƣơng mại Pháp năm 1807. Bộ luật này đƣa ra định nghĩa

thƣơng nhân tại Điều 1 là: “Thƣơng nhân là những ngƣời thực hiện các hành vi

thƣơng mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thƣờng xuyên của mình”. Nghề nghiệp

thƣờng xuyên đƣợc hiểu là hoạt động đem lại cho một ngƣời những phƣơng tiện

sinh sống. Việc thực hiện nhiều hành vi thƣơng mại chƣa đủ để coi là thƣơng

nhân, nếu ngƣời đó không thực hiện những hành vi đó để cho bản thân hoặc gia

đình có nguồn sinh sống. Mặc dù điều luật không quy định rõ, song thƣơng nhân

phải thực hiện những hành vi đó nhân danh mình và vì lợi ích của mình.

Các hành vi thƣơng mại mà các thƣơng nhân thực hiện về cơ bản có thể

12

chia thành ba loại:

- Các hành vi thƣơng mại do bản chất gồm 2 loại: Loại thứ nhất, gồm các

hành vi đƣợc coi là hành vi thƣơng mại ngay cả trong trƣờng hợp chúng thực

hiện một cách riêng rẽ nhƣ: việc mua động sản để bán lại, các hoạt động môi

giới, các hoạt động ngân hàng hay hối đoái…; Loại thứ hai, chỉ đƣợc coi là hành

vi thƣơng mại trong trƣờng hợp do thƣơng nhân thực hiện.

- Các hành vi thƣơng mại do hình thức đƣợc coi là hành vi thƣơng mại

ngay cả khi chúng đƣợc những ngƣời không phải là thƣơng nhân thực hiện.

- Các hành vi thƣơng mại do phụ thuộc là những hành vi phụ thuộc vào

hoạt động thƣơng mại hoặc các thƣơng gia nhƣ các trái vụ giữa các thƣơng nhân

với nhau [3, tr. 111].

Khái niệm “thƣơng gia” (thƣơng nhân) đƣợc định nghĩa trong Bộ luật

Thƣơng mại Hoa Kỳ (UCC-1990) theo truyền thống Common Law cùng với khái

niệm “việc mua bán”, “chi nhánh tài chính” với những nội dung mà về cơ bản là

không đƣợc hiểu nhƣ khái niệm thƣơng nhân trong luật thƣơng mại của các nƣớc

theo hệ thống pháp luật lục địa. “Thƣơng gia đƣợc dùng để chỉ một nhóm nhất

định của các chủ thể kinh doanh mà những ngƣời này là những ngƣời tiến hành

hoạt động kinh doanh hàng hoá các loại thông qua các công việc thƣờng xuyên,

lâu dài của họ. Những công việc đó đòi hỏi phải có những nhận thức và kỹ năng

thực hiện riêng biệt”. Hàng hoá ở đây đƣợc hiểu là động sản và do vậy Bộ luật

thƣơng mại Mỹ sẽ không điều chỉnh cho các loại hợp đồng mua bán bất động sản

hoặc các hợp đồng dịch vụ. Thƣơng nhân theo Bộ luật Thƣơng mại Hoa Kỳ có 3

loại hình chủ yếu là cá nhân kinh doanh (sole proprietorship), công ty đối nhân

(partnership) và công ty đối vốn (corporation) [10, tr.18].

Bộ luật Thƣơng mại Nhật Bản (Điều 4) xác định những ngƣời thực hiện

các giao dịch thƣơng mại nhƣ một nghề nghiệp nhân danh bản thân mình, những

ngƣời bán hàng nhƣ một nghề nghiệp trong các cửa hàng hoặc ở những nơi tƣơng

13

tự, hoặc những ngƣời làm nghề khai mỏ, thậm chí không tham gia các giao dịch

thƣơng mại nhƣ một nghề nghiệp và những công ty đƣợc thành lập theo Bộ luật

Thƣơng mại đều đƣợc coi là thƣơng nhân. Nhƣ vậy, theo quy định này thì hành

vi khai mỏ luôn đƣợc coi là hành vi thƣơng mại. Do đó, bất kể ai thực hiện hành

vi này đều đƣợc xem là thƣơng nhân. Cũng theo điều luật này thì những ngƣời

chuyên thực hiện hành vi thƣơng mại luôn đƣợc xem là thƣơng nhân và đƣợc

chia thành hai nhóm: Thƣơng gia thể nhân và thƣơng gia pháp nhân (các công ty

thƣơng mại). Luật thƣơng mại của các nƣớc theo Họ Pháp luật La Mã - Đức quan

niệm công ty thƣơng mại là các thƣơng nhân bởi hình thức, có nghĩa là bất kỳ

một thực thể nào đƣợc thành lập dƣới hình thức, có nghĩa là bất kỳ một thực thể

nào đƣợc thành lập dƣới hình thức công ty thƣơng mại đều đƣợc xem là thƣơng

nhân hoặc bất kể hành vi nào nhằm thành lập một công ty thƣơng mại đều xem là

hành vi thƣơng mại. Việc xem những ngƣời buôn bán nhỏ đƣợc coi là thƣơng nhân

theo quy định này có phần hơi khác biệt so với pháp luật thƣơng mại Việt Nam.

Bộ luật Thƣơng mại Iran lại có cách quy định hết sức đơn giản trong mối

quan hệ với hành vi thƣơng mại: một ngƣời có nghề nghiệp thông thƣờng là các

giao dịch thƣơng mại đƣợc coi là thƣơng nhân (Điều 1). Bộ luật Thƣơng mại của

Tunisia tuyên bố rằng tất cả những ngƣời mà tự bản thân thực hiện một cách

chuyên nghiệp các hành vi liên quan tới sản xuất, lƣu thông và tích trữ hàng hoá

đều đƣợc coi là thƣơng nhân, trừ những trƣờng hợp đặc biệt đƣợc quy định bởi

luật (Điều 2).

Bộ luật Thƣơng mại Cộng hoà Czech (khoản 2, Điều 2) định nghĩa thƣơng

nhân theo kiểu mô tả nhƣ sau:

“Theo Bộ luật này, thƣơng nhân đƣợc coi là:

a/ Ngƣời (thể nhân hoặc pháp nhân) đƣợc ghi tên vào sổ đăng

ký thƣơng mại;

b/ Ngƣời thực hiện hoạt động kinh doanh trên cơ sở một giấy

14

phép cho tiến hành một số hoạt động buôn bán nhất định;

c/ Ngƣời thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở một

giấy phép đƣợc cấp theo các luật hoặc các quy định đặc biệt khác

với các quy định điều chỉnh việc cấp giấy phép buôn bán;

d/ Thể nhân thực hiện hoạt động nông nghiệp (sản xuất nông

nghiệp) mà đƣợc đăng ký vào sổ đăng ký thích hợp theo luật quy

định đặc biệt”.

Các nƣớc khác nhƣ Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển…. Cũng có định nghĩa về

thƣơng nhân, nhƣng đa số có yêu cầu đăng ký hoạt động thƣơng mại. Tóm lại,

luật thực định của mỗi quốc gia lại có cách định nghĩa khác nhau về thƣơng nhân,

song về cơ bản có hai cách định nghĩa đƣợc sử dụng là định nghĩa theo bản chất

thƣơng mại nhƣ Cộng hoà Czech, Thuỵ Điển…

Dù theo cách thức định nghĩa nào, pháp luật thƣơng mại của các nƣớc đều

thừa nhận: Có các loại thƣơng nhân là thƣơng nhân thể nhân và thƣơng nhân

pháp nhân mà đều lấy việc thực hiện hành vi thƣơng mại làm nghề nghiệp của

mình.

Hiện nay ở Việt Nam khái niệm thƣơng nhân không phải là một khái niệm

thật rõ ràng đƣợc qui định bởi pháp luật thực định. Tuy nhiên trƣớc đây khái

niệm thƣơng nhân đã đƣợc qui định khá rõ tại Luật Thƣơng mại năm 1997. Vì

vậy cần làm rõ khái niệm này ở Việt Nam khi nó mới xuất hiện xem có sự tƣơng

đồng với quan niệm chung của thế giới về thƣơng nhân hay không.

Pháp điển hóa luật thƣơng mại theo truyền thống Civil Law, Luật Thƣơng

mại 1997 định nghĩa: “Thƣơng nhân bao gồm cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ

gia đình có đăng ký hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên”

(Điều 5).

Muốn trở thành thƣơng nhân, một chủ thể đƣợc coi là thƣơng nhân phải có

15

các điều kiện cần và đủ sau theo PGS. TS Phạm Duy Nghĩa:

Điều kiện cần thứ nhất: Để trở thành thƣơng nhân, trƣớc hết các chủ thể

phải tồn tạo dƣới dạng: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác hoặc hộ gia đình.

Cá nhân đƣợc hiểu là công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, có năng lực

hành vi dân sự đầy đủ, không bị pháp luật cấm kinh doanh thƣơng mại.

Pháp nhân là những tổ chức có đủ những điều kiện đƣợc pháp luật công

nhận có khả năng tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập, Điều 94, Bộ

luật Dân sự năm 1995. Trong Bộ luật Dân sự này phân biệt ít nhất 05 loại pháp

nhân khác nhau (trong đó có pháp nhân là các tổ chức kinh tế, cơ quan Nhà nƣớc,

tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp,

các quỹ xã hội và các tổ chức khác theo luật định).

Hộ gia đình bao gồm nhiều thành viên có tài sản chung để hoạt động kinh

doanh là chủ thể trong các quan hệ kinh doanh đó theo Điều 16, Bộ luật Dân sự

năm 1995.

Tổ hợp tác là sự liên kết trên cơ sở hợp đồng hợp tác của từ ba cá nhân trở

lên, có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, cùng đóng góp tài sản, công sức để

thực hiện những công việc nhất định, cùng hƣởng lợi và cùng chịu trách nhiệm

theo Điều 12, Bộ luật Dân sự năm 1995.

Cơ cấu chủ thể này đƣợc mô phỏng dƣờng nhƣ sao chép nguyên vẹn từ Bộ

luật Dân sự năm 1995, có thể phù hợp với đặc điểm của xã hội Việt Nam, nơi mà

gia đình và các liên kết giản đơn giữa những ngƣời kinh doanh nhỏ có một vị trí

nhất định và tổ hợp tác sẽ là thƣơng nhân, chứ không phải các thành viên trong

đó.

Điều kiện cần thứ 2: Các chủ thể trên chỉ trở thành thƣơng nhân nếu tiến

hành các hoạt động đƣợc gọi là hoạt động thƣơng mại.

Các hoạt động thƣơng mại theo luật thƣơng mại Việt Nam đƣợc quy định

tƣơng đối đơn giản bao gồm 3 nhóm: hoạt động thƣơng mại mua bán hàng hoá,

16

hoạt động thƣơng mại dịch vụ gắn với mua bán hàng hoá, hoạt động thƣơng mại

dịch vụ tìm kiếm thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá. Ba nhóm hoạt động chính

này đƣợc quy định cụ thể bởi 14 loại hình vi quy định ở Điều 45, Luật Thƣơng

mại năm 1997 (bao gồm: Mua bán hàng hoá; Đại diện cho thƣơng nhân; Môi giới

thƣơng mại; Uỷ thác mua bán hàng hoá; Đại lý mua bán hàng hoá; Gia công

trong thƣơng mại; Đấu giá hàng hoá; Đấu thầu hàng hoá; Dịch vụ giao nhận hàng

hoá; Dịch vụ giám định hàng hoá; Khuyến mại; Quảng cáo thƣơng mại; Trƣng

bày, giới thiệu hàng hoá; Hội chợ, triển lãm hàng hoá). Hàng hoá, theo Điều 5,

Luật Thƣơng mại năm 1997, đƣợc hiểu bao gồm các tài sản hữu hình: máy móc,

thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác đƣợc

lƣu thông trên thị trƣờng, nhà ở dùng để kinh doanh dƣới hình thức cho thuê,

mua, bán. Các hành vi mua bán hàng hoá có thể diễn ra trực tiếp giữa ngƣời mua

và ngƣời bán, hoặc cũng có thể thông qua hoạt động của ngƣời thứ ba, ví dụ

ngƣời đại diện, môi giới, uỷ thác… Trong khi đó Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật

thƣơng mại quốc tế đã xác định trong đạo luật mẫu về thƣơng mại điện tử nhƣ

sau:

“Thuật ngữ “thƣơng mại”/commerce/cần đƣợc diễn giải theo

nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ

mang tính chất thƣơng mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối

quan hệ mang tính thƣơng mại /commercial/ bao gồm, nhƣng không

phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thƣơng

mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả

thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thƣơng mại; uỷ thác hoa hồng

(factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tƣ

vấn; kỹ thuật công trình (engineering); đầu tƣ; cấp vốn; ngân hàng;

bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô nhƣợng; liên doanh và các

hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở

17

hàng hoá hay hành khách bằng đƣờng biển, đƣờng không, đƣờng sắt

hoặc đƣờng bộ” [24].

Chí ít khái niệm về hành vi thƣơng mại của chúng ta thể hiện qua Luật

Thƣơng mại năm 1997 hẹp hơn khái niệm này của thế giới. Hệ quả là khái niệm

thƣơng nhân thể hiện trong Luật Thƣơng mại năm 1997 cũng hẹp hơn tƣơng ứng.

Cũng giống nhƣ pháp luật thƣơng mại nhiều nƣớc, theo pháp luật Việt

Nam lúc đó, ngƣời sản xuất trong các lĩnh vực sau đây thƣờng không đƣợc coi là

thƣơng nhân:

- Sản xuất nông, lâm, ngƣ nghiệp, khai khoáng, nghề thủ công.

- Các nghề nghiệp mà lao động mang tính cá nhân, ít hay nhiều đều có tính

sáng tạo và đặc thù nhƣ: các dịch vụ khám chữa bệnh, bán thuốc tân dƣợc, các

dịch vụ của luật sƣ, kiến trúc sƣ, giáo viên dạy trẻ, tƣ vấn, dịch thuật…

Các nghề này thƣờng đƣợc gọi là nghề tự do và đƣợc điều chỉnh bằng các

quy định riêng, khác với pháp luật thƣơng mại. Những điểm khác biệt này thực ra

do truyền thống pháp luật tạo nên, xét về bản chất, dịch vụ của kiến trúc sƣ,

ngƣời tƣ vấn hay dịch thuật ngày nay không khác nhiều nắm so với hoạt động

của ngƣời kinh doanh.

Điều kiện cần thứ 3: Các hoạt động thƣơng mại phải đƣợc các chủ thể thực

hiện một cách độc lập.

Một chủ thể chỉ đƣợc gọi là thƣơng nhân, nếu chủ thể đó tiến hành hoạt

động thƣơng mại một cách độc lập. Luật Thƣơng mại năm 1997 chƣa đƣa ra tiêu

chí nào để xác định tính độc lập nêu tại Điều 5, khoản 6 của Luật này. Tuy nhiên,

có thể đƣa ra một vài dấu hiệu nhƣ sau: Một chủ thể hoạt động độc lập là chủ thể

chịu trách nhiệm trực tiếp cho các hành vi của mình, có quyền tự do quyết định

nội dung hoạt động hoặc thời gian làm việc của mình. Thƣơng nhân, vì thế, khác

với ngƣời làm công hoặc công chức, viên chức.

Điều kiện cần thứ 4: Các hoạt động thƣơng mại phải đƣợc các chủ thể tiến

18

hành một cách thƣờng xuyên.

Luật Thƣơng mại năm 1997 (Điều 5, khoản 6) nêu lên điều kiện này song

cũng không định nghĩa thế nào là thƣờng xuyên. Có thể hiểu tính thƣờng xuyên

nhƣ sau: Chủ thể này tiến hành các hoạt động thƣơng mại trên cơ sở có kế hoạch

lâu dài, nhƣ một nghề nghiệp để thu nhập và các hoạt động thƣơng mại đó đƣợc

tiến hành song song cùng với thời gian và không gian.

Điều kiện đủ: Muốn trở thành thƣơng nhân các chủ thể phải đƣợc cấp giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Luật Thƣơng mại năm 1997 (Điều 17) quy định, các chủ thể có đủ điều

kiện để kinh doanh thƣơng mại theo quy định của pháp luật, nếu có yêu cầu hoạt

động thƣơng mại thì đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền cấp Giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thƣơng nhân. Đăng ký kinh doanh theo

cách hiểu của pháp luật Việt Nam lúc đó là một thủ tục bắt buộc, là một sự kiện

pháp lý thiết lập tƣ cách thƣơng nhân. Thiếu sự kiện này, mặc dù có đủ 4 điều

kiện cần nêu trên, chủ thể cũng không thể trở thành thƣơng nhân [15, tr.54].

Ngày nay khái niệm thƣơng nhân trong pháp luật Việt Nam dù không rõ

ràng nhƣng đã mở rộng hơn rất nhiều so với Luật Thƣơng mại năm 1997 (sẽ

đƣợc nói rõ ở Chƣơng sau của Luận văn này).

Khái niệm về thƣơng nhân nhƣ trên đã khảo sát, ta có thể đƣa ra một số

đặc điểm chung nhất của thƣơng nhân nhƣ sau:

Thứ nhất, thƣơng nhân là những ngƣời thực hiện các hành vi thƣơng mại

mang tính chất nghề nghiệp. Tính chất nghề nghiệp ở đây cần đƣợc hiểu là chủ

thể của hành vi đó khi tham gia thƣơng trƣờng, họ thực hiện nguyên tắc phân

công lao động xã hội. Họ tìm cách sinh sống bằng loại hành vi đó và hiểu theo

nghĩa pháp lý và quản lý Nhà nƣớc, họ đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Sự

thừa nhận của pháp luật trong trƣờng hợp này thể hiện chủ yếu trong việc đăng

19

ký hoạt động thƣơng mại.

Thứ hai, cũng giống nhƣ bất kỳ một chủ thể nào khác, thƣơng nhân tham

gia các hoạt động thƣơng mại là nhằm mục đích sinh lời. Dấu hiệu này cho thấy

các hành vi thƣơng mại của thƣơng nhân luôn chứa đựng khả năng và yêu cầu

cần phải đƣợc hạch toán mà thƣơng nhân luôn theo đuổi mục đích tìm kiếm lợi

nhuận trong các hoạt đông của mình.

Thứ ba, thƣơng nhân là ngƣời chịu trách nhiệm trực tiếp đối với các hành

vi thƣơng mại mà mình thực hiện (kể cả trong trƣờng hợp uỷ quyền cho ngƣời

khác). Điều này đƣợc hiểu ngƣời đƣợc uỷ nhiệm mua và bán lại vì lợi ích của

ngƣời đƣợc uỷ nhiệm, cũng nhƣ ngƣời làm công, ngƣời quản lý đƣợc trả công

của một cửa hàng, không phải là thƣơng nhân. Ngƣợc lại, ngƣời thuê và quản lý

một cơ sở kinh doanh để kinh doanh là thƣơng nhân.

Ngoài ra, theo quy định của đa số nƣớc, những thành viên trong công ty

hợp danh và ngƣời nhận vốn trong công ty hợp vốn đơn giản mặc dầu họ thực

hiện những hành vi thƣơng mại không vì lợi ích của riêng bản thân, mà vì lợi ích

của cả công ty, cũng đƣợc xem là thƣơng gia, vì họ phải chịu trách nhiệm vô hạn

đối với các khoản nợ của công ty.

Thứ tư, thƣơng nhân đƣợc hiểu ở đây có thể là thƣơng nhân thể nhân hoặc

thƣơng nhân pháp nhân.

PGS. TS Ngô Huy Cƣơng định nghĩa tóm lƣợc về thƣơng nhân nhƣ sau:

“Thƣơng nhân thƣờng đƣợc hiểu là ngƣời chuyên tiến hành

các hành vi thƣơng mại và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình, có

nghĩa là muốn trở thành thƣơng nhân cần có hai điều kiện: một là,

chuyên tiến hành các hành vi thƣơng mại (điều kiện cần); và hai là,

lấy hành vi thƣơng mại làm nghề nghiệp của mình (điều kiện đủ).

Và thƣơng nhân đƣợc chia thành hai loại là thƣơng nhân thể nhân

(cá nhân kinh doanh) và thƣơng nhân pháp nhân (công ty)” [7, tr.

20

16].

Nhƣ vậy, thƣơng nhân (bao gồm thể nhân và pháp nhân) là những ngƣời

tiến hành các hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên nhằm mục

đích tìm kiếm lợi nhuận và phải chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thƣơng

mại mà mình thực hiện.

Vậy pháp nhân thƣơng mại hay còn gọi là thƣơng nhân pháp nhân là một

pháp nhân chuyên tiến hành các hành vi thƣơng mại và lấy hành vi thƣơng mại

làm nghề nghiệp của mình.

1.2.1.2. Đặc điểm của pháp nhân thương mại

Pháp nhân thƣơng mại nhƣ định nghĩa ở trên có đặc trƣng nổi bật là có

nghề nghiệp tiến hành các hành vi thƣơng mại. Do đó pháp nhân thƣơng mại có

tác động xã hội rất lớn. Vì vậy pháp luật của các nƣớc đều có một qui chế pháp lý

khác biệt cho thƣơng nhân nói chung mà trong đó có các pháp nhân thƣơng mại.

Đây chính là đặc điểm pháp lý về mặt hình thức của pháp nhân thƣơng mại ngoài

đặc điểm về nội dung (là chuyên tiến hành các hành vi thƣơng mại) đã đƣợc

nghiên cứu ở trên. Đặc điểm này có nội dụng rất phong phú bao gồm trong nó

những nghĩa vụ và các quyền cơ bản nhƣ sau của pháp nhân thƣơng mại:

* Về nghĩa vụ

Nghĩa vụ đăng ký kinh doanh

Đăng ký kinh doanh hay đăng ký thƣơng mại là một nghĩa vụ quan trọng

đầu tiên của thƣơng nhân mà pháp luật về thƣơng mại của hầu hết các nƣớc đều

qui định rất rành mạch, rõ ràng. Muốn trở thành thƣơng nhân phải đi đăng ký

kinh doanh. Vì vậy Điều 7, Luật Thƣơng mại 2005 phải qui định: “Thƣơng nhân

có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật”. Luật Doanh nghiệp

năm 2014 (khản 3, Điều 17) cũng có qui định: “Hoạt động kinh doanh dƣới hình

thức doanh nghiệp mà không đăng ký hoặc tiếp tục kinh doanh khi đã bị thu hồi

21

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”. Vậy đăng ký kinh doanh là gì?

Trƣớc hết đăng ký kinh doanh có hai chức năng: Thứ nhất, thống kê các dữ

liệu có ý nghĩa pháp lý liên quan đến hoạt động của một thƣơng nhân; thứ hai,

công khai hoá các doanh nghiệp hay thƣơng nhân để qua đó bảo vệ quyền lợi của

các bên liên quan.

Nhà nƣớc dùng để can thiệp vào sự ra đời của các chủ thể tham gia vào đăng

ký kinh doanh. Đăng ký kinh doanh thƣờng đƣợc tiến hành ở các Toà án cơ sở

hoặc Toà án thƣơng mại, ở Việt Nam thủ tục này hiện nay đƣợc tiến hành bởi

một bộ phận phụ trách điều kiện kinh doanh (phòng đăng ký kinh doanh) trong

Sở Kế hoạch và Đầu tƣ trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.

“Giáo trình luật kinh tế Việt Nam” của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà

Nội diễn giải đăng ký kinh doanh là hành vi tƣ pháp, khẳng định tƣ cách pháp lý

độc lập của doanh nghiệp và khả năng đƣợc pháp luật bảo vệ trên thƣơng trƣờng

[12, tr. 78]. “Giáo trình luật thương mại” của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội viết:

“Đăng ký kinh doanh là thủ tục luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý cho công

ty (thừa nhận tƣ cách pháp lý của công ty) và công ty sẽ đƣợc bảo đảm về mặt

pháp lý kể từ khi hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh” [23, tr. 129]. Qua các trích

dẫn trên, bản chất pháp lý của đăng ký kinh doanh đã đƣợc làm rõ, và cũng qua

đó chúng ta có thể hiểu đƣợc mục đích, chức năng thực sự của đăng ký kinh

doanh.

“Báo cáo nghiên cứu so sánh luật công ty ở bốn quốc gia Đông Nam Á:

Thái Lan, Singapore, Malaysia và Philippine” của Viện Nghiên cứu Quản lý

Kinh tế Trung ƣơng (CIEM) dƣới sự tài trợ của UNDP qua Dự án UNDP

VIE/97/016 kết luận: “Đăng ký đơn giản là một quá trình lƣu giữ hoặc “trao”

những thông tin và tài liệu cơ bản của công ty với Cơ quan Đăng ký, cơ quan mà

sau đó sẽ xem xét nhanh chóng chúng” [25, tr. 15]. Kết luận trên làm rõ ý nghĩa

quan trọng trong việc xác định mối quan hệ giữa nhà nƣớc và công ty để công

22

nhận công ty gia nhập thị trƣờng. Thế nhƣng kết luận này không thể đƣợc xem là

một định nghĩa khái niệm đăng ký kinh doanh vì hành vi của ngƣời có trách

nhiệm tiếp nhận đăng ký kinh doanh chƣa đƣợc làm rõ.

Vậy: Đăng ký kinh doanh là việc ghi tên và các thông tin chi tiết khác của

thƣơng nhân vào sổ đăng ký kinh doanh.

Qua đây thủ tục tiến hành đăng ký kinh doanh và nội dung đăng ký kinh

doanh là những vấn đề pháp lý quan trọng của đăng ký kinh doanh. PGS. TS Ngô

Huy Cƣơng phân tích tóm lƣợc về thủ tục và nội dung đăng ký kinh doanh nhƣ

sau:

“Những nội dung đƣợc yêu cầu phải khai báo khi đăng ký

kinh doanh và các tài liệu chứng minh cho các nội dung đó tùy thuộc

vào loại thƣơng nhân, doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh. Việc

đăng ký kinh doanh đƣợc tiến hành tại nhà chức trách đăng ký kinh

doanh có thẩm quyền (đƣợc phân chia theo địa hạt và loại thƣơng

nhân). Việc đăng ký kinh doanh hoàn tất đƣợc thể hiện bằng việc,

nhà chức trách đăng ký kinh doanh có thẩm quyền cấp cho ngƣời xin

đăng ký một Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh” [3, tr. 83].

Tùy theo pháp luật của mỗi nƣớc, các nội dung sau có thể phải làm rõ

trong đăng ký kinh doanh:

- Tên thƣơng nhân, tên ngƣời đại diện có thẩm quyền;

- Tên thƣơng mại, biển hiệu;

- Địa chỉ giao dịch chính thức;

- Ngành nghề kinh doanh;

- Vốn điều lệ hoặc vốn đầu tƣ ban đầu;

- Thời gian hoạt động;

- Chi nhánh, cửa hàng, văn phòng đại diện (nếu có).

Trong quá trình hoạt động, nếu có thay đổi về nội dung đăng ký này, thƣơng

23

nhân phải đăng ký những thay đổi đó.

Về mặt thông tin, đăng ký kinh doanh thực chất là quá trình khai sinh và

công khai hoá sự tồn tại của một chủ thể với tƣ cách là một thƣơng nhân. Mặt

khác, thông qua việc đăng ký hoạt động thƣơng mại, các thông tin cơ bản về

thƣơng nhân sẽ đƣợc ghi vào sổ đăng ký và lƣu giữ tại cơ quan đăng ký kinh

doanh. Vì vậy, bất cứ tổ chức, cá nhân nào nếu đã thực hiện các yêu cầu cần thiết

đều có thể đƣợc tiếp xúc với các thông tin đó nhằm thoả mãn nhu cầu của mình

về kinh doanh, cũng nhƣ các nhu cầu khác về lĩnh vực tƣ pháp.

Về mặt pháp lý, ý nghĩa quan trọng nhất của đăng ký hoạt động thƣơng mại

thể hiện ở chỗ: kể từ thời điểm đƣợc cấp giấy đăng ký hoạt động thƣơng mại,

thƣơng nhân có tƣ cách pháp lý đầy đủ để tiến hành các hoạt động thƣơng mại

theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đăng ký hoạt động thƣơng mại là

hành vi hợp pháp hoá sự tồn tại và hoạt động của một chủ thể đƣợc coi là một

thƣơng nhân.

Nghĩa vụ công bố nội dung đăng ký kinh doanh

Sau khi đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, thƣơng nhân phải

công bố nội dung đăng ký kinh doanh trên mặt báo theo quy định pháp luật của

từng nƣớc. Thƣơng nhân có quyền yêu cầu nhà chức trách đăng ký kinh doanh

cung cấp thông tin về nội dung đăng ký kinh doanh, cấp bản sao giấy chứng nhận

đăng ký kinh doanh hoặc bản trích lục nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh

doanh và phải trả lệ phí. Nhiều khi có thể sao chụp đăng báo những trích lục nói

trên trên báo khi bố cáo thành lập công ty.

Nghĩa vụ liên quan tới sổ sách, chứng từ, tài liệu kinh doanh

Pháp luật các nƣớc đều có qui định thƣơng nhân phải mở sổ sách kế toán và

phải ghi chép, lƣu giữ sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ, giấy tờ có liên quan đến

hoạt động thƣơng mại theo quy định của pháp luật. Đây là những bằng chứng rất

24

quan trọng không chỉ liên quan tới thuế, quản lý nhà nƣớc, mà còn liên quan tới

việc bảo vệ cộng đồng, quyền lợi ngƣời tiêu dùng và giải quyết các tranh chấp

khác.

Việc huỷ sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ, giấy tờ có liên quan đến hoạt động

thƣơng mại phải đƣợc thực hiện theo thủ tục pháp luật quy định.

Khi bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, thƣơng nhân phải lập hoá đơn,

chứng từ hợp pháp và giao cho khách hàng một bản, đồng thời phải lƣu giữa

chứng từ đó trong một khoảng thời gian nhất định theo yêu cầu của pháp luật.

Nghĩa vụ về thuế và niêm yết giá cả

Thƣơng nhân phải đăng ký thuế, kê khai thuế và nộp thuế. Đối với pháp

nhân thƣơng mại mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế theo qui định của

pháp luật về thuế. Trƣờng hợp cơ sở chƣa đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh nhƣng có hoạt động kinh doanh phải đăng ký nộp thuế trƣớc khi kinh

doanh. Các pháp nhân thƣơng mại đã đăng ký nộp thuế, nếu có thay đổi do sáp

nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản hoặc thay đổi ngành nghề, nơi kinh

doanh cũng phải khai báo với cơ quan thuế theo qui định của pháp luật.

Đồng thời với nghĩa vụ thuế, pháp nhân thƣơng mại phải niêm yết giá cả.

Việc phải niêm yết giá hàng hoá, dịch vụ phải đƣợc thực hiện tại địa điểm mua

bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ. Việc niêm yết giá phải rõ ràng, không gây

nhầm lẫn cho khách hàng.

* Về tên gọi, tên thương mại và biển hiệu của pháp nhân thương mại

Pháp nhân là một thực thể riêng biệt nên phải có tên để cá biệt hóa nó. Tên

của thƣơng nhân pháp nhân hay pháp nhân thƣơng mại có những qui chế riêng

bởi tính tác động đến cộng đồng rất lớn của nó. PGS. TS Ngô Huy Cƣơng viết:

“Thƣơng nhân pháp nhân cũng nhƣ thƣơng nhân thể nhân có

những quyền lợi dân sự nhất định. Tên gọi của thƣơng nhân là một

trong những quyền lợi đó. Tên gọi của thƣơng nhân trƣớc hết là để

25

cá thể hoá thƣơng nhân hay để phân biệt thƣơng nhân này với

thƣơng nhân khác. Thƣơng nhân pháp nhân là một thực thể riêng

biệt. Do đó cần phải đảm bảo sự cá thể hoá pháp nhân đó bằng một

cái tên. Nói cách khác, tên gọi của pháp nhân là một vấn đề bắt buộc

để cho ngƣời thứ ba xác định chính xác đƣợc nó trong một cộng

đồng nhất định. Tên gọi của pháp nhân do thành viên hoặc các thành

viên của pháp nhân lựa chọn. Tuy nhiên việc đặt tên của thƣơng

nhân phải tuân thủ các yêu cầu của pháp luật. Bởi thƣơng nhân có

khả năng gây ảnh hƣởng đáng kể trong xã hội và với ngƣời thứ ba,

nên các yêu cầu này đƣợc lập ra nhằm bảo đảm trật tự công cộng,

đạo đức xã hội, cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi của ngƣời

tiêu dùng…

Thông thƣờng pháp luật thiết lập chế độ chung về tên gọi của

thƣơng nhân và các chế độ riêng về tên gọi đối với từng loại hình

công ty cụ thể” [3, tr. 91].

Trong hoạt động, pháp nhân thƣơng mại thƣờng có tên thƣơng mại, biển

hiệu. Thông thƣờng tên thƣơng mại, biển hiệu đƣợc đăng ký tại cơ quan Nhà

nƣớc có thẩm quyền. Tên thƣơng mại đƣợc hiểu là tên giao dịch của thƣơng nhân

và dƣới tên đó thƣơng nhân xuất hiện trong các giao dịch thƣơng mại. Hầu hết

pháp luật của các nƣớc đều quy định tên thƣơng mại thƣờng chỉ áp dụng đối với

thƣơng nhân, mà không áp dụng đối với cá nhân buôn bán nhỏ, không có địa

điểm cố định, buôn bán rong, quà vặt. Còn biển hiệu thƣờng là dấu hiệu bằng từ

ngữ (đôi khi cũng bằng hình ảnh, màu sắc, hoặc kết hợp giữa các yếu tố đó)

nhằm phân biệt thƣơng nhân với các thƣơng nhân cùng kinh doanh những loại

hàng hoá, dịch vụ cùng loại. Pháp luật của các nƣớc thƣờng qui định tên thƣơng

mại và biển hiệu phải đƣợc viết bằng tiếng bản ngữ, nhƣng có thể đƣợc viết thêm

26

bằng tiếng nƣớc ngoài với kích thƣớc nhỏ hơn. Tên thƣơng mại, biển hiệu không

đƣợc vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục là

những nguyên tắc chung mà các nƣớc đều theo đuổi.

Tên thƣơng mại cần cụ thể, rõ ràng và không gây nhầm lẫn cho khách hàng.

Ví dụ nhƣ tên thƣơng mại không đƣợc chung chung nhƣ tên chủng loại kinh

doanh thƣơng mại, “Cửa hàng điện thoại”, “Công ty giầy da”... mà phải cụ thể, ví

dụ nhƣ” “Cửa hàng điện thoại Bảo An”, “Công ty giày da Thƣợng Đình”...

Tên thƣơng mại phải phản ánh đúng hoạt động kinh doanh. Ví dụ một cửa

hàng bán lẻ bánh kẹo không thể lấy tên gọi “Công ty xuất, nhập khẩu bánh kẹo

Hà Nội”. Và để tránh nhầm lẫn cho khách hàng, không đƣợc dùng tên đã có sẵn

của một thƣơng nhân đã đăng ký trong cùng một lĩnh vực kinh doanh. Tên

thƣơng mại phải thể hiện phạm vi chịu trách nhiệm của thƣơng nhân. Đối với

công ty, trên bảng hiệu, hoá đơn, quảng cáo, tài liệu và các giấy tờ giao dịch khác

của công ty đều phải ghi tên thƣơng mại kèm theo các chữ chỉ loại hình công ty

nhƣ: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh.

Tên thƣơng mại, biển hiệu khác với nhãn hiệu. Thông thƣờng nhãn hiệu

dùng để phân biệt hàng hóa và dịch vụ của một thƣơng nhân nhất định.

Tên thƣơng mại, biển hiệu sau khi đƣợc đăng ký tại cơ quan Nhà nƣớc trở

thành một phần sản nghiệp thƣơng mại. Trong quá trình kinh doanh, thƣơng nhân

có quyền thuê, cho thuê, chuyển nhƣợng sản nghiệp thƣơng mại. Là một bộ phận

của sản nghiệp thƣơng mại, quyền của thƣơng nhân liên quan đến tên thƣơng

mại, biển hiệu đƣợc pháp luật bảo hộ trƣớc những hành vi xâm phạm nhƣ hành vi

dùng những tên thƣơng mại gây nhầm lẫn với những tên thƣơng mại đã tồn tại

hợp pháp. Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy, thƣơng nhân có các quyền bảo vệ

sản nghiệp của mình nhƣ: quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản

trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền yêu cầu ngƣời có

hành vi vi phạm bồi thƣờng thiệt hại. Nếu ngƣời thứ ba xúc phạm danh dự, uy tín

27

của thƣơng nhân trong kinh doanh, thƣơng nhân có quyền đòi đền bù thiệt hại.

* Về việc đặt văn phòng đại diện và chi nhánh

Thƣơng nhân nói chung và pháp nhân thƣơng mại (thƣơng nhân pháp nhân)

nói riêng có quyền đặt chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nƣớc, nƣớc ngoài

theo quy định của pháp luật của từng quốc gia. Tuy nhiên có một điều kiện chung

thƣờng có sự thống nhất khá cao là: Nội dung và phạm vi hoạt động của chi

nhánh, văn phòng đại diện phải phù hợp với nội dung hoạt động của thƣơng

nhân. Văn phòng hoặc chi nhánh có tƣ cách pháp nhân hay không phụ thuộc vào

pháp luật nơi đặt chúng.

* Về tạm ngừng và chấm dứt hoạt động

Việc tạm ngừng hoạt động thƣơng mại phải đƣợc thƣơng nhân niêm yết

công khai tại nơi tiến hành kinh doanh hoặc trụ sở chính. Trong trƣờng tạm

ngừng hoạt động thƣơng mại quá một thời hạn nhất định, pháp luật nhiều nƣớc

đòi hỏi thƣơng nhân phải thông báo với nhà chức trách có thẩm quyền. Các qui

tắc này không chỉ bảo đảm cho sự an toàn thƣơng mại của quốc gia, mà còn bảo

vệ cho ngƣời thứ ba ngay tình và các chủ nợ của thƣơng nhân.

Việc chấm dứt hợp đồng thƣơng mại đƣợc chia thành ba trƣờng hợp là:

thƣơng nhân tự chấm dứt; hết thời hạn hoạt động thƣơng mại theo giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh; hoặc thƣơng nhân bị tuyên bố phá sản hoặc giải thể

theo pháp luật. Phá sản là một qui chế đặc biệt đƣợc áp dụng cho thƣơng nhân

trong trƣờng hợp không trả đƣợc các khoản nợ tới hạn.

1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của pháp nhân thương mại

Nói chung về vai trò và ý nghĩa của các tổ chức của con ngƣời mà trong đó

có pháp nhân, Jean Jacques Rousseau khẳng định:

“Có một lúc nào đó các trở lực gây hại cho sự sinh tồn của

con ngƣời có thể lấn át sự kháng cự của từng cá nhân, lúc đó tình

trạng nguyên thuỷ sẽ không còn nữa, loài ngƣời sẽ bị tiêu diệt nếu

28

họ không thay đổi cách sống.

Nhƣng con ngƣời không thể tạo ra lực mới, mà chỉ có thể kết

hợp và điều khiển những lực sẵn có; cho nên phƣơng pháp duy nhất

để con ngƣời tự bảo vệ là họ phải kết hợp lại với nhau thành một lực

chung, đƣợc điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi

ngƣời đều hành động một cách hài hoà” [11, tr. 41].

Trong các pháp nhân, pháp nhân thƣơng mại chiếm phần lớn trong nền

kinh tế thị trƣờng và đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội. Không có

nền kinh tế thị trƣờng nào không chăm lo cho sự phát triển của các công ty.

Pháp nhân thƣơng mại hay các công ty thƣơng mại là thành phần chủ yếu

của thị trƣờng. Trong nền kinh tế thị trƣờng, các công ty thƣơng mại hết sức đƣợc

chú trọng và chúng là hệ quả tất yếu của việc chế độ tƣ hữu tƣ liệu sản xuất. Có

lý giải tóm lƣợc nhƣng khá đầy đủ về vai trò và ý nghĩa của các công ty (các

pháp nhân thƣơng mại) nhƣ sau:

“Ngƣời ta thƣờng nói một cách không quá đáng rằng hình

thức công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn góp phần cho

việc chiến thắng của chủ nghĩa tƣ bản trƣớc phong kiến. Vậy chức

năng này của luật thƣơng mại nhằm củng cố cho sự đứng vững và

phát triển của các công ty. Nó cũng góp phần bảo vệ quyền sở hữu

cho các chủ đầu tƣ trong khi các chủ đầu tƣ bỏ tài sản của mình ra

kinh doanh mong muốn tìm kiếm lợi nhuận, nhƣng lại không điều

hành trực tiếp công ty trong công việc kinh doanh. Chức năng này

của luật thƣơng mại đƣợc thực hiện sẽ thúc đẩy đầu tƣ, xã hội hoá

công ty vì nó bảo đảm cho chủ sở hữu hay ngƣời đầu tƣ đƣợc quyết

29

định sử dụng tài sản của mình” [3, tr. 49].

1.3. Các hình thức của pháp nhân thƣơng mại

1.3.1. Pháp nhân thương mại là các công ty đối nhân

Công ty đối nhân là hình thức công ty mà trong đó các thành viên chú

trọng vào nhân thân của nhau, tức là họ rất tin tƣởng nhau. Có hai hình thức công

ty đối nhân là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh

bao gồm hai hay nhiều thành viên liên kết với nhau hoạt động dƣới một tên hãng

chung, đều có tƣ cách thƣơng nhân và chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định

đối với các khoản nợ của công ty. Công ty hợp vốn đơn giản là công ty có ít nhất

một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty và

có một hoặc nhiều thành viên góp vốn, chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tới phần vốn

góp của mình vào công ty.

Việc xem công ty đối nhân có phải là một pháp nhân hay không còn tùy

thuộc vào việc lựa chọn học thuyết về pháp nhân của pháp luật từng nƣớc. Thông

thƣờng các nƣớc theo học thuyết giả tƣởng về pháp nhân không thừa nhận công

ty đối nhân là pháp nhân, ví dụ: Đức, các nƣớc XHCN trƣớc kia và các nƣớc theo

truyền thống Common Law. Trong khi đó các nƣớc theo học thuyết thực tại về

pháp nhân lại thừa nhận công ty đối nhân có tƣ cách pháp nhân, ví dụ: Pháp và

các nƣớc theo truyền thống này.

Công ty hợp danh là một hình thức công ty đối nhân điển hình. Do vậy tƣ

cách pháp nhân của công ty hợp danh là một vấn đề tranh luận từ nhiều thế kỷ

qua. Có trƣờng phái quan niệm công ty hợp danh không có tƣ cách pháp nhân.

Trong khi đó có trƣờng phái cho rằng công ty hợp danh có tƣ cách pháp nhân.

Tuy nhiên trƣờng phái nào đi chăng nữa đều thừa nhận công ty hợp danh là một

hình thức công ty thƣơng mại. PGS. TS Nguyễn Nhƣ Phát lập luận rằng:

“Tóm lại, chủ thể kinh doanh hợp pháp, trên thực tế, là những

đơn vị kinh doanh có tƣ cách pháp nhân và/hoặc không có tƣ cách

30

pháp nhân. Nhƣ vậy, có hay không có tƣ cách pháp nhân không phải

là điều kiện tiên quyết để xác định sự tồn tại hợp pháp hay bình đẳng

của các chủ thể kinh doanh. Vấn đề pháp nhân hay thể nhân chỉ dẫn

đến kết cục về mặt pháp lý là xem xét đến chế độ trách nhiệm hữu

hạn hay vô hạn cảu một đơn vị kinh danh mà thôi” [17, tr. 47].

Theo PGS. TS Ngô Huy Cƣơng,

“Các thành viên công ty hợp danh phải chịu trách nhiệm cá

nhân, liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty hợp

danh. Đây là một nguyên tắc pháp định mà các thành viên hợp danh

không thể thỏa thuận khác. Nguyên tắc này dẫn tới một hệ luận quan

trọng là các chủ nợ của công ty hợp danh đƣợc bảo đảm kép, tức là

đƣợc bảo đảm bằng toàn bộ tài sản của công ty hợp danh và bằng

toàn bộ tài sản hiện có hoặc sẽ có trong tƣơng lai của tất cả các

thành viên của công ty hợp danh” [3, tr. 203 - 204].

Theo lập luận của PGS. TS Ngô Huy Cƣơng nói trên thì chế độ trách

nhiệm vô hạn hay hữu hạn không ảnh hƣởng gì tới tƣ cách pháp nhân của công

ty. Công ty hợp danh có quyền sở hữu tài sản riêng có nghĩa là công ty hợp danh

là chủ thể của các quyền, do đó phải là chủ thể của pháp luật, tức là có tƣ cách

pháp nhân [3, tr. 201 - 202].

Một khi công ty hợp danh có tƣ cách pháp nhân, thì công ty hợp vốn đơn

giản không thể không là pháp nhân vì bản thân trong công ty này có một loại

thành viên mang tài sản của mình ra để góp vào cho công ty kinh doanh và chỉ

chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp đó.

Nói tóm lại, công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản đều là các pháp

nhân thƣơng mại (hay thƣơng nhân pháp nhân).

1.3.2. Pháp nhân thương mại là các công ty đối vốn

Các công ty đối vốn có nhiều loại bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách

31

nhiệm hữu hạn, công ty hợp vốn cổ phần. Ở nƣớc ta hiện nay không có hình thức

công ty hợp vốn cổ phần, nhƣng trong quá khứ có hình thức công ty này. Đây

cũng là một hình thức công ty không phổ biến trên thế giới. Do đó Luận văn này

không nghiên cứu về hình thức công ty này.

* Công ty cổ phần

Công ty cổ phần là hình thức công ty đối vốn điển hình. Thành viên của

công ty góp vốn vào công ty mà không dựa vào sự quen biết lẫn nhau mà sự liên

kết giữa các thành viên thông qua số lƣợng vốn và tài sản của thành viên đó góp

vào công ty. Tài sản của công ty tách bạch với tài sản của thành viên công ty và

công ty chịu trách nhiệm trong phạm vi số tài sản của công ty, các thành viên

chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp vào công

ty.

Nói tới công ty cổ phần là nói tới pháp nhân. Không có sự bàn cãi nào về

khoa học liên quan tới việc công ty cổ phần có tƣ cách pháp nhân hay không mọi

ngƣời đều cho rằng mỗi công ty cổ phần là một pháp nhân do lịch sử ra đời và

phát triển của nó gắn với sự ra đời và phát triển của quan niệm về pháp nhân.

PGS. TS Ngô Huy Cƣơng tóm lƣợc quá trình lịch sử đó và các hệ quả của nó nhƣ

sau:

“Công ty cổ phần mới đƣợc pháp luật ghi nhận vào năm 1867

ở Pháp và vào năm 1870 ở Đức. Tuy nhiên theo một số nhà nghiên

cứu, hình thức công ty này đã đƣợc phôi thai từ thời La Mã cổ đại.

Trong nền cộng hoà, những nhóm lợi ích phát triển một cách tự phát

nhƣ sodalitas, universitas, collegium, societas..., và đƣợc cổ vũ dƣới

sự cho phép của chính quyền. Cho tới thế kỷ thứ 13, theo Luật Giáo

hội, khái niệm persona ficta hay con ngƣời nhân tạo (artificial

person) mới phát triển. Hệ quả của quan niệm này bao gồm: (1) Có

sự chia tách giữa thực thể nhân tạo này với các tự nhiên nhân cấu

32

thành nên nó; (2) giới hạn tố quyền chống lại tự nhiên nhân đối với

tài sản của họ; và (3) đặt cơ sở cho tố quyền chống lại thực thể nhân

tạo đối với tài sản riêng của bản thân nó” [3, tr. 217].

Do tổ chức của công ty cổ phần có số lƣợng thành viên đông, công ty lại

có quyền công khai thu hút vốn trong công chúng nên công ty cổ phần chịu sự

điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn so với các hình thức công ty khác từ thành

lập, đến tổ chức và điều hành cũng nhƣ huy động vốn.

Các công ty cổ phần xuất hiện vào khoảng thế kỷ 18. Đến giữa thế kỷ 19

công ty cổ phần đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp ở các nƣớc tƣ bản nhờ sự

phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự phát triển rộng rãi của chế độ tín

dụng. Ngày nay, ở các nƣớc công nghiệp, công ty cổ phần chiếm vị trí thống trị

trong các ngành có số vốn đầu tƣ cao, quy mô sản xuất lớn.

Do tổ chức của công ty cổ phần có số lƣợng thành viên đông, công ty lại

có quyền công khai thu hút vốn trong công chúng nên công ty cổ phần chịu sự

điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn so với các hình thức công ty khác từ thành

lập, đến tổ chức và điều hành cũng nhƣ huy động vốn.

Là một hiện tƣợng kinh tế xã hội, các công ty cổ phần ra đời không phụ

thuộc vào ý chí chủ quan của bất cứ lực lƣợng nào trong xã hội mà dựa trên sự

đòi hỏi của thực tế khách quan là nền kinh tế thị trƣờng ngày càng phải nâng cao

năng suất lao động sao cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn hoặc cùng

lắm là bằng mức giá trị hàng hoá xã hội. Để thực hiện đƣợc điều này họ phải có

một số vốn đủ lớn để mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hoá trang thiết bị, do đó

mới có thể giành thế thắng trong cạnh tranh. Đây là một vấn đề nan giải đối với

các nhà tƣ bản vừa và nhỏ. Việc tích tụ vốn bằng cách tích luỹ mất rất nhiều thời

gian và gặp nhiều khó khăn khiến cho các nhà tƣ bản này tìm ra một giải pháp

nhanh chóng và hiệu quả hơn là liên kết lại với nhau, tập trung các tƣ bản cá biệt

thành một lƣợng tƣ bản lớn để đủ sức cạnh tranh và dành ƣu thế với các nhà tƣ

33

bản khác.

Mặt khác, trong môi trƣờng cạnh tranh, rủi ro kinh doanh, đe doạ phá sản

đối với các tổ chức kinh doanh không thể lƣờng trƣớc đƣợc. Để giảm bớt rủi ro,

các nhà tƣ bản thƣờng phân tán vốn của mình vào nhiều lĩnh vực khác nhau, tham

gia đầu tƣ vào nhiều công ty nhiều ngành, “không ai bỏ hết trứng vào một giỏ”.

Đồng thời tìm cách liên kết với các nhà tƣ bản khác cùng kinh doanh trong một

lĩnh vực. Nhƣ vậy, họ vừa chia sẻ bớt đƣợc thiệt hại cho ngƣời khác khi gặp rủi

ro vừa tập trung đƣợc vốn, trí tuệ, khả năng, và kinh nghiệm để quản lý kinh

doanh hiệu quả hơn. Từ sự liên kết tƣ bản này, công ty cổ phần dần dần hình

thành và phát triển.

Công ty cổ phần là loại hình công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về

vốn, hoạt động mang tính xã hội hoá cao. Công ty cổ phần có số lƣợng thành viên

rất đông do vâỵ có khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng, có thể

đầu tƣ vào nhiều lĩnh vực khác nhau.

Trong nền kinh tế thị trƣờng, doanh nghiệp là đơn vị tế bào, là nơi tổ chức

và thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh theo pháp luật và thu lợi nhuận.

Tùy theo đặc điểm kỹ thuật của từng ngành nghề, điều kiện kinh tế xã hội của

từng thời kỳ mà có các loại hình doanh nghiệp phù hợp. Hiện nay, công ty cổ

phần đƣợc phát triển rộng rãi và phổ biến ở khắp hầu hết các nƣớc theo cơ chế

kinh tế thị trƣờng.

Công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện ở Anh năm 1602 là Công ty Đông ấn

với hình thức rất đơn giản: các thành viên góp vốn theo từng chuyến đi biển, sau

mỗi chuyến đi các thành viên tham gia nhận lại vốn của mình và tiền lãi. Nếu gặp

rủi ro thì các thành viên chịu thiệt hại tƣơng ứng với phần vốn mình đã góp. Đến

cuối thế kỷ XVII, công ty cổ phần bắt đầu xuất hiện ở lĩnh vực ngân hàng. Từ

giữa thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX công ty cổ phần xâm nhập vào lĩnh vực

34

giao thông vận tải, đƣờng sông, đƣờng sắt.

Đầu thế kỷ XX, với cuộc cách mạng công nghiệp phải xây dựng đƣờng sắt,

khai thác mỏ, cơ khí, điện lực cần nhiều vốn công ty cổ phần phát triển nhanh. ở

Anh năm 1862 mới có 156 công ty cổ phần, đến năm 1962 con số này đã lên tới

482.000. ở Mỹ năm 1904 số công ty cổ phần mới chiếm 23,6% tổng doanh

nghiệp cả nƣớc, năm 1962 đã chiếm 78%. Bắt đầu từ thời kỳ này công ty cổ phần

đƣợc thành lập rộng khắp trong nhiều lĩnh vực ở các nƣớc tƣ bản và làm cho nền

kinh tế mỗi quốc gia phát triển.

Đức là một trong những nƣớc mà ở đó xuất hiện công ty sớm, do vậy pháp

luật về công ty khá hoàn thiện. Luật Công ty cổ phần của Đức đƣợc ban hành

năm 1870, sau đó đƣợc bổ sung sửa đổi bởi Bộ luật Thƣơng mại 1897, sau này

đƣợc thay thế bằng Luật Công ty cổ phần. Từ 1937 đến 1965 Luật Công ty cổ

phần mới đƣợc ban hành, sửa đổi nhiều lần và hiện vẫn có giá trị pháp lý.

Ở Anh, công tuy cổ phần còn có tên gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn

công cộng (Public limited company) hay còn gọi là công ty trách nhiệm hữu hạn

có phát hành cổ phiếu (Company limited by share).

Nếu nhƣ công ty cổ phần ra đời và phát triển ở các nƣớc tƣ bản khá sớm

thì ở Việt Nam lại xuất hiện tƣơng đối muộn. Từ năm 1986 trở về trƣớc, phƣơng

hƣớng phát triển kinh tế chủ yếu của nƣớc ta là ƣu tiên và ngày càng mở rộng

phạm vi của kinh tế quốc doanh. Còn các thành phần kinh tế khác chƣa đƣợc nhà

nƣớc thừa nhận hoặc đƣợc thừa nhận nhƣng luôn bị hạn chế phát triển. Vì vậy,

trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu thời kỳ đó không

tồn tại các công ty cũng nhƣ luật về công ty.

Công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng chỉ đƣợc pháp luật thừa

nhận khi nền dân chủ tƣ sản phát triển rộng rãi ở xã hội tƣ bản vào thế kỷ XVII,

quyền cơ bản của con ngƣời đƣợc pháp luật bảo vệ, đặc biệt quan trọng là quyền

35

tự do kinh doanh và tự do lập hội.

Nhƣ vậy công ty cổ phần ra đời với tiền đề kinh tế là nhu cầu tập trung vốn

và phân tán rủi ro của các nhà tƣ bản trong nền kinh tế thị trƣờng cùng với tiền đề

pháp lý là quyền tự do khế ƣớc và quyền tự do lập hội đƣợc pháp luật thừa nhận.

Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung của các nƣớc xã hội chủ nghĩa trƣớc

đây hình thức tổ chức kinh doanh này không thể xuất hiện.

Tại Đại hội Đảng khoá XI năm 1986, khi Đảng và Nhà nƣớc quyết định

chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần sở hữu thì công ty mới đƣợc công nhận là hình thức pháp lý để tiến hành

hoạt động kinh doanh. Vì vậy, phải đến năm 1990 Việt Nam mới có một đạo luật

chính thức quy định về công ty, đó là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tƣ

nhân 21/12/1990. Đây là cơ sở pháp lý cho việc thành lập công ty nói chung và

công ty cổ phần nói riêng. Cả hai đạo luật trên đã đƣợc bổ sung sửa đổi một lần

vào năm 1994 nhƣng vẫn chƣa khắc phục đƣợc những thiếu sót, bất cập. Để đáp

ứng sự phát triển nhanh chóng của hoạt động kinh doanh, ngày 12/6/1999 Quốc

hội ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Doanh nghiệp 2005 đƣợc Quốc hội

khóa XI kỳ họp thứ 8 thông qua, nhằm thay thế cho các quy định pháp luật về

công ty trƣớc đó, tạo khung pháp lý vững chắc hơn cho hoạt động kinh doanh

trong điều kiện nền kinh tế thị trƣờng. Luật Doanh nghiệp 2005 đề cập cụ thể các

hình thức pháp lý để kinh doanh, trong đó công ty cổ phần đƣợc quy định chi tiết

tại chƣơng IV từ Điều 77 đến Điều 129. Hiện nay Luật Doanh nghiệp năm 2014

đang đƣợc áp dụng (sẽ đƣợc nghiên cứu ở chƣơng sau của Luận văn này).

Về mặt lịch sử, công ty đối vốn ra đời sau các hình thức công ty đối nhân.

Ở công ty đối nhân, cơ sở để hình thành sự kiện liên kết và chi phối mối quan hệ

giữa các thành viên công ty là nhân thân của thành viên công ty. Còn ở công ty

đối vốn thì lại khác, vai trò của từng thành viên công ty đƣợc thiết lập theo tỷ lệ

phần vốn góp mà mỗi thành viên đã cam kết góp vào công ty. Đặc điểm quan

36

trọng của loại hình công ty này là công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ

của công ty bằng tài sản của công ty, các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm

hữu hạn trong số vốn mà mình đã góp. Nhƣ vậy ở đây có sự phân tách tài sản của

công ty và tài sản cá nhân. Từ đặc điểm đó mà ở công ty đối vốn ngoài việc công

ty phải chịu thuế đối với Nhà nƣớc thì các thành viên cũng phải chịu thuế thu

nhập. Do vậy thành lập công ty chỉ quan tâm đến yếu tố vốn nên thành viên của

công ty đối vốn thƣờng là thành viên trong đó những ngƣời ít hiểu biết về kinh

doanh cũng có thể tham gia. Số lƣợng thành viên công ty đối vốn khá đông, việc

chuyển đổi thành viên khá dễ dàng nên nó chịu sự điều chỉnh bởi một quy chế hết

sức chặt chẽ của pháp luật.

Nhận xét chung có thể thấy, công ty đối vốn có nhiều ƣu điểm so với công

ty đối nhân, mà đặc điểm nổi bật của nó đƣợc ngƣời tham gia kinh doanh ƣa

chuộng là tính chịu trách nhiệm hữu hạn của nó. Điều này tạo cho ngƣời kinh

doanh sẵn sàng đầu tƣ vốn vào những lĩnh vực có nhiều rủi ro và cùng một lúc có

thể phân tán vốn đầu tƣ vào nhiều cơ sở kinh doanh khác nhau, tạo điều kiện cho

những ngƣời ít hiểu biết về kinh doanh tham gia vào quá trình kinh doanh. Tuy

vậy, do chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản đối với các khoản nợ nên công ty đối

vốn dễ gây ra rủi ro cho các chủ nợ nhất là ngân hàng khi cho vay các khoản tín

dụng lớn. Mặt khác, do không quan tâm đến tƣ cách cá nhân và số lƣợng thành

viên công ty thƣờng là đông dễ dẫn đến sự phân hoá quyền lợi, thậm chí chống

đối nhau, những thành viên có địa vị thấp dễ bị chèn ép, và hơn nữa trong nhiều

trƣờng hợp việc huy động vốn trở thành lừa đảo. Vì những lý do đó mà công ty

đối vốn chịu sự điều chỉnh bởi một quy chế hết sức chặt chẽ của pháp luật.

Công ty nói chung và công ty cổ phần nói riêng là những khái niệm pháp

lý mới xuất hiện ở nƣớc ta từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng. Tuy

nhiên trên thế giới, khái niệm công ty đã tồn tại từ nhiều năm, đƣợc hiểu là sự

37

liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý,

nhằm tiến hành để đạt đƣợc một mục tiêu chung nào đó [13, tr. 42]. Công ty cổ

phần có một số đặc trƣng sau:

+ Vốn điều lệ của công ty đƣợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ

phần.

+ Cổ đông là ngƣời nắm giữ cổ phần trrong công ty, có thể là tổ chức, cá

nhân không bị hạn chế ở số lƣợng tối đa.

+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác

của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đó góp vào doanh nghiệp.

+ Cổ đông có quyền tự do chuyển nhƣợng cổ phần của mình cho ngƣời

khác, trừ trƣờng hợp có quy định hạn chế.

+ Công ty cổ phần có tƣ cách pháp nhân kể từ ngày đƣợc cấp giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh.

+ Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động

vốn.

* Công ty trách nhiệm hữu hạn

Có những quan điểm khác nhau về hình thức công ty này. Có quan niệm

cho rằng công ty trách nhiệm hữu hạn là hình thức công ty đối nhân. Còn quan

niệm khác lại cho rằng đây là một hình thức công ty đối vốn. Có quan điểm này

sở dĩ hình thức công ty này là hình thức công ty lai tạp giữa công ty đối nhân và

công ty đối vốn, cụ thể trong hình thức công ty này có một số yếu tố của công ty

hợp danh và một số yếu tố của công ty cổ phần.

Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai loại hình là công ty trách nhiệm hữu

hạn nhiều thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Dù là hình

thức nào, công ty trách nhiệm hữu hạn luôn luôn đƣợc xem là một pháp nhân.

Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn không có tƣ cách thƣơng

nhân và chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số

38

vốn cam kết góp vào công ty. Số lƣợng thành viên của công ty trách nhiệm hữu

hạn bị hạn chế không vƣợt quá năm mƣơi thành viên. Các thành viên do đó vẫn

có quan hệ gần gũi với nhau. Đây là một đặc điểm giống với công ty hợp danh.

Phần vốn góp của các thành viên công ty không đƣợc tự do chuyển nhƣợng mà

chỉ đƣợc chuyển nhƣợng theo những điều kiện nhất định. Công ty trách nhiệm

hữu hạn không đƣợc phát hành cổ phần.

Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn tƣơng đối giống nhau ở các nƣớc

theo pháp luật Châu Âu Lục địa. Nói một cách khái quát, công ty trách nhiệm

hữu hạn là loại hình công ty gồm ít nhất hai thành viên góp vốn thành lập, và các

thành viên của công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong

giới hạn phần vốn góp của mình vào công ty mà thôi. Nhƣ vậy, theo quan điểm

truyền thống thì công ty trách nhiệm hữu hạn phải có ít nhất hai thành viên góp

vốn thành lập.

Về mặt lý thuyết truyền thống, công ty có các dấu hiệu pháp lý cơ bản nhƣ

sau:

- Có sự liên kết của hai hoặc nhiều ngƣời;

- Sự liên kết thông qua một sự kiện pháp lý nhƣ xác lập điều lệ, hợp đồng

thành lập;

- Nhằm thực hiện một mục đích chung là lợi nhuận.

Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm đa phần trong các công ty mới đƣợc

thành lập gần đây tại Việt Nam. Vậy có nghĩa là hình thức công ty trách nhiệm

hữu hạn nói chung các nhà đầu tƣ ƣa chuộng điều đó cho thấy nó có nhiều lợi thế.

Khác với nhiều loại hình công ty khác, công ty trách nhiệm hữu hạn là sản

phẩm của hoạt động lập pháp. Năm 1892, các nhà làm luật Đức đã đƣa ra mô

hình công ty trách nhiệm hữu hạn với những lập luận nhƣ sau:

Thứ nhất, mô hình công ty cổ phần đang tồn tại lúc đó không thích hợp với

39

qui mô kinh doanh nhỏ và vừa. Các qui định quá phức tạp cho loại hình công ty

cổ phần không thật sự cần thiết với qui mô kinh doanh mà có rất ít thành viên

tham dự và thƣờng là đã quen biết nhau;

Thứ hai, chế độ trách nhiệm vô hạn của các công ty đối nhân không

thích hợp với tất cả các nhà đầu tƣ muốn đƣợc hƣởng chế độ trách nhiệm hữu

hạn để tránh rủi ro lớn.

Việc sáng tạo ra loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, vừa kết hợp

đƣợc ƣu điểm về chế độ trách nhiệm hữu hạn của công ty cổ phần và ƣu điểm

về chế độ thành viên quen biết nhau của công ty đối nhân. Nhà đầu tƣ có thể

kinh doanh ở qui mô nhỏ và vừa. Nó khắc phục đƣợc nhƣợc điểm về sự phức

tạp khi thành lập và điều hành của loại hình công ty cổ phần và nhƣợc điểm

không phân chia đƣợc rủi ro của công ty đối nhân.

Công ty trách nhiệm hữu hạn vừa mang đặc điểm của công ty đối nhân,

vừa mang đặc điểm của công ty đối vốn. Công ty có tƣ cách pháp nhân và chịu

trách nhiệm về các khoản nợ chỉ bằng tài sản của công ty. Thành viên công ty chỉ

phải chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp vào công ty. Nếu công ty bị

tuyên bố phá sản, thì thành viên công ty cũng không bị ảnh hƣởng nhiều. Họ có

thể chỉ bị mất phần vốn góp vào công ty mà không phải lấy tài sản riêng để trả nợ

thay cho công ty [12, tr. 169 - 170].

Với những ƣu điểm nhƣ vậy, hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn đã

đƣợc đa số các nhà đầu tƣ lựa chọn. Công ty trách nhiệm hữu hạn không chỉ đƣợc

công nhận rộng rãi ở Việt Nam, mà còn đƣợc hầu hết các nƣớc trên thế giới áp

dụng. Từ khi có luật công ty đến nay số lƣợng công ty trách nhiệm hữu hạn đƣợc

thành lập nhiều hơn hẳn công ty cổ phần.

Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm một vị trí hết sức quan trọng trên

thƣơng trƣờng và trong nền kinh tế quốc dân. Ngƣời ta cho rằng công ty trách

nhiệm hữu hạn và công ty vô danh đã gây dựng nên chế độ tƣ bản hiện thời ở các

40

quốc gia Âu, Mỹ [20, tr. 531]. Do sự phát triển ngày một lớn mạnh của các công

ty và nhu cầu điều chỉnh công ty, pháp luật công ty đóng vai trò quan trọng trong

hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Lịch sử luật công ty gắn liền với các quy

định về liên kết, hợp đồng và các quan hệ nợ nần của Luật La Mã cổ đại. Sự phát

triển của luật công ty hiện nay, cũng nhƣ sự ra đời của nhiều mô hình công ty

trên thế giới đã thể hiện tƣ tƣởng tự do kinh doanh.

Ngày nay, công ty trách nhiệm hữu hạn đƣợc chia thành hai loại: công ty

trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

viên. Nhận xét sơ bộ, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thiếu dấu hiệu

về sự liên kết giữa các thành viên nhƣ định nghĩa công ty ở trên, vì nó chỉ có một

thành viên duy nhất. Dạng công ty này không phải là dạng công ty truyền thống.

Có thể lý do ra đời của dạng công ty này hoàn toàn do kết quả hoạt động đặc biệt

của công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên. Chẳng hạn, khi toàn bộ sản

nghiệp của một công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều thành viên nào đấy, vì những

lý do nhất định, đã chuyển vào tay một thành viên duy nhất nhƣ trƣờng hợp toàn

bộ thành viên chuyển nhƣợng tài sản của mình vì không muốn kinh doanh nữa

cho một thành viên duy nhất còn lại của công ty. Đối với trƣờng hợp này, nếu

công ty vẫn hoạt động tốt, thì pháp luật nhiều nƣớc vẫn cho nó tồn tại dƣới hình

thức cũ mà không bắt phải giải thể hay chuyển đổi hình thức. Và công ty đó, từ

chỗ có nhiều chủ sở hữu đã trở thành công ty một chủ khi mà thành viên duy nhất

đó vẫn có khả năng tiếp tục duy trì, phát triển công ty. Khi đó, công ty trở thành

công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và pháp luật thừa nhận thành viên đó

vẫn có quyền đƣợc giải phóng khỏi trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm thuộc về

công ty với tƣ cách là một pháp nhân độc lập. Sau này, trong quá trình phát triển,

đã có nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn là của một chủ sở hữu ngay từ khi thành

lập.

Cách xử lý vấn đề này ở nhiều nƣớc có khác nhau. Trong hệ thống pháp

41

luật của Đức, Ác- hen- ty- na… đều có loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn

một thành viên. Ngày 11/07/1985, Cộng hoà Pháp ban hành một đạo luật cho

phép thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà thành viên này có

thể là thể nhân hoặc pháp nhân.

Trong khi đó, các nƣớc khác nhƣ Tây Ban Nha, Italia và một số nƣớc

Nam Mỹ thì lại không cho phép thành lập loại hình công ty này vì xét về bản

chất, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không phải là công ty theo

đúng nghĩa của nó.

Sở dĩ pháp luật của nhiều nƣớc thừa nhận loại hình công ty này là vì về

phƣơng diện pháp lý, mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn có sự tách biệt về

mặt tài sản giữa các thành viên và công ty, do vậy việc công ty do một hay

nhiều ngƣời làm chủ là không quan trọng. Trong chế độ kinh tế thị trƣờng, chế

độ trách nhiệm hữu hạn tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh hạn chế đƣợc rủi

ro, mạnh dạn đầu tƣ vào bất kỳ lĩnh vực kinh tế nào có lợi cho xã hội. Việc

thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên trên cơ sở một sự tự

nguyện đơn phƣơng của một thể nhân hay pháp nhân.

1.4. Quản trị và vận hành pháp nhân thƣơng mại

1.4.1. Nội dung pháp lý chủ yếu của quản trị và vận hành pháp nhân

thương mại là công ty đối nhân

Công ty đối nhân thực chất là sự liên kết của các thƣơng nhân thể nhân để

hoạt động dƣới một tên hãng chung. Các thành viên vẫn giữ nguyên tƣ cách

thƣơng nhân, trừ các thành viên góp vốn. Do đó nguyên tắc bình đẳng giữa các

thành viên hợp danh luôn luôn là nguyên tắc quan trọng nhất. Vì vậy họ phải

cùng nhau quyết định những vấn đề của công ty. Từ đó công ty hợp danh hay

công ty hợp vốn đơn giản có hội đồng thành viên là cơ quan quản trị cao nhất của

công ty. Hội đồng này bao gồm tất cả các thành viên hợp danh mà bất kỳ ai trong

42

số họ cũng có quyền phủ quyết. Về nguyên tắc, hội đồng thành viên phải quyết

định theo nguyên tắc nhất trí. Tuy nhiên ngày nay nguyên tắc này đƣợc giảm đi

nhiều bởi sự đòi hỏi nhanh chóng trong hoạt động kinh doanh.

PGS. TS Ngô Huy Cƣơng phân tích rõ ràng các vấn đề pháp lý chủ yếu của

công ty hợp danh nhƣ sau:

“Công ty hợp danh mang bản chất hợp đồng sâu sắc. Do đó

nếu hợp đồng thiết lập công ty hợp danh không qui định ai là ngƣời

quản lý công ty thì mỗi thành viên công ty đều là ngƣời quản lý

công ty. Và họ phải quyết định theo nguyên tắc nhất trí. Tuy nhiên

hiện nay nguyên tắc này bị điều giảm. Trƣờng hợp ngƣời quản lý

công ty bị chết mà các thành viên không nhất trí đƣợc việc chỉ định

một ngƣời quản lý mới thì họ cũng phải hành xử với nguyên tắc

này” [3, tr. 207].

1.4.2. Nội dung pháp lý chủ yếu của quản trị và vận hành pháp nhân

thương mại là công ty đối vốn

Do có số lƣợng thành viên đông nên vấn đề quản trị công ty cổ phần hết

sức phức tạp và rất chặt chẽ. Việc quản trị công ty cổ phần đƣợc thực hiện thông

qua ba cơ quan: Đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát. Quyền lực

quản lý công ty đƣợc chia đều giữa ba cơ quan này. Quản trị công ty cổ phần có

hai mô hình quan trọng là đơn lớp và song lớp. Tuy nhiên quản trị theo mô hình

song lớp thƣờng thấy và phức tạp hơn.

Đại hội đồng cổ đông bầu ra hội đồng quản trị, ban kiểm soát. Hội đồng

quản trị bầu ra Chủ tịch hội đồng quản trị và Ban giám đốc để điều hành mọi hoạt

động sản xuất phát triển kinh doanh trong công ty.

Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) là đại hội của những ngƣời chủ sở hữu

công ty, là cơ quan có thẩm quyền cao nhất có quyền quyết định mọi vấn đề quan

43

trọng có liên quan tới sự tồn tại và phát triển của công ty.

Hội đồng quản trị (HĐQT) là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân

danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không

thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Đồng thời, HĐQT là cơ quan ủy thác của các cổ

đông, cơ quan thƣờng trực của ĐHĐCĐ, là bộ máy quản lý hoạt động sản xuất

kinh doanh của công ty cổ phần. Hội đồng quản trị bao gồm các thành viên có

trình độ chuyên môn cao, quản lý giỏi, đƣợc ĐHĐCĐ tín nhiệm và nhất trí bầu

vào bộ máy quản lý của công ty. Tùy theo quy định pháp luật của từng nƣớc mà

số thành viên hội đồng quản trị có thể khác nhau: nếu ít thì từ 3-7 ngƣời, nhiều

thì từ 15-17 ngƣời.

Chủ tịch Hội đồng quản trị: Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị

bầu ra Chủ tịch Hội đồng quản trị theo quy định tại điều lệ công ty. Trƣờng hợp

Hội đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị thì Chủ tịch đƣợc bầu trong số

các thành viên Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám

đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không có quy định khác.

Giám đốc điều hành là ngƣời điều hành công việc kinh doanh hàng ngày

của công ty, chịu sự giám sát của HĐQT và phải chịu trách nhiệm trƣớc HĐQT

và trƣớc pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ đƣợc giao.

Ban kiểm soát (BKS) có một số lƣợng thành viên theo điều lệ công ty và

có nhiệm kỳ nhất định. Thành viên BKS có thể đƣợc bầu lại với số nhiệm kỳ

không hạn chế.

BKS đƣợc bầu ra để thực hiện việc giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc

hoặc Tổng giám đốc trong công việc quản lý và điều hành công ty, chịu trách

nhiệm trƣớc ĐHCĐ trong việc thực hiện các nhiệm vụ đƣợc giao. Các thành viên

trong BKS có thể bầu ra 01 ngƣời trong số họ làm Trƣởng ban kiểm soát. Quyền

44

và nhiệm vụ của Trƣởng ban kiểm soát do điều lệ công ty quy định.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI

2.1. Các qui định chung về pháp nhân thƣơng mại

Khái niệm pháp nhân thƣơng mại không tồn tại trong pháp luật Việt Nam

cho tới khi Bộ luật Dân sự năm 2015 đƣợc Quốc hội thông qua. Điều 75 của Bộ

luật này qui định:

“1. Pháp nhân thƣơng mại là pháp nhân có mục tiêu chính là

tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận đƣợc chia cho các thành viên.

2. Pháp nhân thƣơng mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ

chức kinh tế khác.

3. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thƣơng

mại đƣợc thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh

nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Có lẽ định nghĩa pháp nhân thƣơng mại đƣợc đƣa vào Bộ luật này nhằm hỗ

trợ cho Bộ luật Hình sự năm 2015, vì Bộ luật Hình sự năm 2015 đã qui định về

trách nhiệm hình sự của pháp nhân thƣơng mại. Theo PGS. TS Ngô Huy Cƣơng,

định nghĩa pháp nhân thƣơng mại tại Điều 75 nói trên có nhiều hạn chế nhƣ sau:

“Điều 75, khoản 1 của Bộ luật Dân sự năm 2015 loại bỏ công

ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ra khỏi pháp nhân thƣơng

mại bởi qui định: “Pháp nhân thƣơng mại là pháp nhân có mục tiêu

chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận đƣợc chia cho các thành

viên”... Điều 75, khoản 2 của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã coi doanh

nghiệp tƣ nhân và hộ kinh doanh là các pháp nhân với qui định:

“Pháp nhân thƣơng mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh

45

tế khác” [7, tr. 16 -17].

Các qui định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thƣơng mại và định

nghĩa pháp nhân thƣơng mại này đang gây các rắc rối lớn cho thực tiễn đấu tranh

phòng chống pháp nhân phạm tội. Nhất là các pháp nhân nƣớc ngoài phạm tội ở

Việt Nam bởi nhƣ trên đã phân tích quan niệm về pháp nhân thƣơng mại của

chúng ta thiếu rành mạch do không đƣợc xây dựng trên một nền tảng pháp lý

thích hợp. Vì vậy việc khảo sát các qui định liên quan tới nền tảng pháp lý thiếu

thích hợp này là rất cần thiết cho việc làm rõ những bất cập của quan niệm pháp

nhân thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay.

Năm 1986 đánh dấu một bƣớc chuyển biến cơ bản của nền kinh tế Việt

Nam bằng việc thực hiện đƣờng lối đổi mới, mà trọng tâm là việc đổi mới về

kinh tế, trong đó có sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã

hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực thƣơng mại, việc xoá bỏ chế độ Nhà nƣớc độc

quyền về ngoại thƣơng có một ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện khuyến khích

các chủ thể tham gia vào hoạt động thƣơng mại trong nƣớc, cũng nhƣ quốc tế góp

phần tích cực vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nƣớc. Chính những thay

đổi đó đặt ra câu hỏi cần có sự điều chỉnh chặt chẽ của các quy phạm pháp luật

với mục đích tạo ra môi trƣờng ổn định và hoạt động có hiệu quả của các quan hệ

thƣơng mại. Luật Thƣơng mại năm 1997 và năm 2005 ra đời đã đáp ứng đƣợc

phần nào khoảng trống pháp luật đó, đặc biệt là với các quy định pháp luật về

thƣơng nhân - chủ thể chính tham gia vào các quan hệ thƣơng mại, đã đƣa các

quyết định pháp luật thực sự đi vào cuộc sống. Song, bên cạnh những kết quả đã

đạt đƣợc, trong quá trình thực tiễn hoá các quy định pháp luật thƣơng mại nói

chung và các quy định pháp luật về thƣơng nhân nói riêng đã bộc lộ những hạn

chế nhất định, ảnh hƣởng đến hoạt động của thƣơng nhân khiến cho họ chƣa phát

huy đƣợc hết vai trò của mình trên thƣơng trƣờng (chƣa nắm bắt đƣợc hết các

yêu cầu thực tiễn phát sinh do cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề cần giải

46

quyết).

Nhƣ trên đã phân tích thƣơng nhân gắn liền với hành vi thƣơng mại. Xem

quan niệm về hành vi thƣơng mại trong pháp luật hiện hành của ta hiện nay có

nhiều bất cập. Luật Thƣơng mại năm 2005 không sử dụng thuật ngữ hành vi

thƣơng mại mà sử dụng thuật ngữ “hoạt động thƣơng mại” để thay thế. Khoản 1,

Điều 3 của Luật Thƣơng mại năm 2005 định nghĩa thuật ngữ thay thế này nhƣ

sau: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua

bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục

đích sinh lời khác”. Định nghĩa này không đi quá xa so với các định nghĩa của

pháp luật nhiều nƣớc về hành vi thƣơng mại. Khoản 1, Điều 2 của Bộ luật

Thƣơng mại Czech định nghĩa: “Hành vi thƣơng mại (cũng đƣợc xem nhƣ hành

vi của thƣơng nhân) đƣợc hiểu là một hoạt động do các thƣơng nhân tiến hành

một cách độc lập với danh tính của mình và tự chịu trách nhiệm nhằm mục đích

tìm kiếm lợi nhuận”. Nhƣ vậy, theo định nghĩa này việc xác định một hành vi

đƣợc coi là hành vi thƣơng mại hoàn toàn phụ thuộc vào chủ thể thực hiện nó có

phải là thƣơng nhân hay không. Điều thứ 340, Bộ luật Thƣơng mại của chính

quyền Sài Gòn năm 1972 có định nghĩa: “Hành vi thƣơng mại là những hành vi

chế tạo, lƣu chuyển, trung gian có mục đích kiếm lời trực tiếp hay gián tiếp, trừ

những ngoại lệ do Bộ luật này hoặc các luật lệ đặc biệt quy định”.

Theo các định nghĩa này thì hành vi thƣơng mại rất rộng. Vậy để xem một

pháp nhân nào là pháp nhân thƣơng mại khó có thể chỉ căn cứ vào những hành vi

mà nó tiến hành, mà phải căn cứ vào việc xem xét nó có đủ các dấu hiệu là

thƣơng nhân hay không.

Khoản 1, Điều 6 của Luật Thƣơng mại năm 2005 định nghĩa: “Thƣơng

nhân bao gồm tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động

thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Định

nghĩa này quan niệm các hộ kinh doanh đều đƣợc xem là thƣơng nhân bởi là các

47

tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp pháp và có đăng ký kinh doanh. Với định

nghĩa này, phân loại thƣơng nhân thành thƣơng nhân thể nhân và thƣơng nhân

pháp nhân trở nên quá chật hẹp bởi hộ kinh doanh không phải là pháp nhân và

cũng không phải là cá nhân nếu nó đƣợc thành lập bởi một hộ gia đình hoặc một

nhóm ngƣời. Đây là một điểm mâu thuẫn trực tiếp với doanh nghiệp năm 2014.

Luật Doanh nghiệp năm 2014 không quan niệm hộ kinh doanh là doanh nghiệp.

Do đó nếu nhƣ quan niệm doanh nghiệp là thƣơng nhân thì không bao gồm hộ

kinh doanh dù rằng họ kinh doanh và doanh nghiệp chỉ khác nhau về phạm vi và

qui mô kinh doanh [3, tr. 127]. Nếu xem doanh nghiệp là thƣơng nhân thì chúng

ta thấy định nghĩa thƣơng nhân khác nhau giữa Luật Thƣơng mại năm 2005 và

Luật Doanh nghiệp 2014. Khoản 7, Điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2014

định nghĩa: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch,

đƣợc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”.

Nếu phân tích sâu thì bản thân định nghĩa này không loại bỏ hộ kinh doanh ra

khỏi doanh nghiệp. Nhƣng với qui định hộ kinh doanh nếu có qui mô lớn phải

chuyển đổi thành doanh nghiệp thì cho thấy thuật ngữ “doanh nghiệp” không

hƣớng tới hộ kinh doanh.

Trong doanh nghiệp có các hình thức công ty. Vậy có thể xem Luật Doanh

nghiệp năm 2014 qui định về thƣơng nhân thể nhân (doanh nghiệp tƣ nhân) và

thƣơng nhân pháp nhân (công ty). Vậy phải tìm hiểu vấn đề cốt lõi của các công

ty – pháp nhân.

Pháp nhân đƣợc định nghĩa theo một cách thức giống nhau xuyên suốt các

Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm

2015. Điều 74 của Bộ luật Dân sự năm 2015 định nghĩa:

“1. Một tổ chức đƣợc công nhận là pháp nhân khi có đủ các

điều kiện sau đây:

a) Đƣợc thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có

48

liên quan;

b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật

này;

c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu

trách nhiệm bằng tài sản của mình;

d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc

lập”.

Pháp nhân theo đinh nghĩa này trƣớc hết phải là một tổ chức mà tổ chức

theo quan niệm chung nhất của Việt Nam nhƣ sau:

“Trƣớc tiên, tổ chức là một tập thể ngƣời đƣợc sắp xếp dƣới

một hình thái nào đó (doanh nghiệp, công ty, bệnh viện, trƣờng học,

hợp tác xã...) phù hợp với chức năng và lĩnh vực hoạt động, bảo đảm

tính hiệu quả trong hoạt động của loại hình tổ chức đó” [22, tr. 108].

Nhƣ vậy định nghĩa này đã loại công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

viên và các quĩ không thành viên ra khỏi pháp nhân, tức là hai loại này không

phải là pháp nhân.

Rất đáng tiếc là tại khoản 2, Điều 76 của Bộ luật Dân sự năm 2015 khi giải

thích về pháp nhân phi thƣơng mại lại loại bỏ doanh nghiệp xã hội ra khỏi pháp

nhân thƣơng mại trong khi đó Luật Doanh nghiệp năm 2014 lại qui định doanh

nghiệp xã hội nhƣ là một thƣơng nhân với định nghĩa nhƣ sau:

“1. Doanh nghiệp xã hội phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:

a) Là doanh nghiệp đƣợc đăng ký thành lập theo quy định của

Luật này;

b) Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi

trƣờng vì lợi ích cộng đồng;

c) Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh

nghiệp để tái đầu tƣ nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trƣờng nhƣ

49

đã đăng ký (khoản 1, Điều 10).

Theo định nghĩa này thì rõ ràng doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp cũng

tiến hành các hành vi thƣơng mại kiếm lời, nhƣng lợi nhuận chủ yếu dùng để giải

quyết các mục tiêu xã hội hoặc môi trƣờng. Doanh nghiệp xã hội cũng đáp ứng

đủ các tiêu chí của định nghĩa thƣơng nhân theo Điều 6 của Luật Thƣơng mại

năm 2005 nhƣ trên đã trích dẫn.

Nói tóm lại, pháp luật Việt Nam hiện hành có quá nhiều mâu thuẫn, chồng

chéo liên quan tới pháp nhân thƣơng mại.

2.2. Các qui định về đăng ký thƣơng nhân

Điều 7 của Luật Thƣơng mại năm 2005 qui định thƣơng nhân có nghĩa vụ

đăng ký kinh doanh và các qui định chi tiết về đăng ký kinh doanh có trong Luật

Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành luật này. Đăng ký

kinh doanh ở nƣớc ta là một bƣớc tiến vƣợt bậc. Hiên nay đăng ký kinh doanh

khá giản tiện giúp cho doanh nghiệp gia nhập thị trƣờng một cách nhanh chóng.

Tuy nhiên các qui định liên quan khác vẫn còn khá phức tạp so với các nƣớc

khác.

Luật Doanh nghiệp năm 2014 yêu cầu rất nhiều thông tin liên quan tới nội

dung đăng ký kinh doanh nhƣ sau:

“Điều 24. Nội dung giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp

1. Tên doanh nghiệp.

2. Địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp; số điện thoại, số fax,

thƣ điện tử (nếu có).

3. Ngành, nghề kinh doanh.

4. Vốn điều lệ; vốn đầu tƣ của chủ doanh nghiệp tƣ nhân.

5. Các loại cổ phần, mệnh giá mỗi loại cổ phần và tổng số cổ

phần đƣợc quyền chào bán của từng loại cổ phần đối với công ty cổ

phần.

50

6. Thông tin đăng ký thuế.

7. Số lƣợng lao động.

8. Họ, tên, chữ ký, địa chỉ thƣờng trú, quốc tịch, số Thẻ căn

cƣớc công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng

thực cá nhân hợp pháp khác của chủ doanh nghiệp tƣ nhân và thành

viên hợp danh.

9. Họ, tên, chữ ký, địa chỉ thƣờng trú, quốc tịch, số Thẻ căn

cƣớc công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng

thực cá nhân hợp pháp khác của ngƣời đại diện theo pháp luật của

doanh nghiệp đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ

phần”.

Trong khi đó, ở Pháp, đối với công ty, ngƣời ta yêu cầu phải ghi chép các

thông tin nhƣ:

(1) Hình thức pháp lý của công ty;

(2) Qui chế pháp lý riêng (nếu cần thiết);

(3) Tên công ty;

(4) Tính chất hoạt động;

(5) Địa chỉ trụ sở chính [14, tr. 68].

Ở Nhật Bản, theo Đạo luật Đăng ký Thƣơng mại 2005 các thông tin phải

ghi chép vào sổ đăng ký thƣơng mại bao gồm:

(1) Tên thƣơng mại;

(2) Hình thức doanh nghiệp;

(3) Trụ sở kinh doanh;

(4) Tên và địa chỉ của ngƣời sử dụng tên thƣơng mại.

Ở Anh, theo Đạo luật Công ty 2006, các thông tin sau cần phải lƣu giữ và

đƣợc chứng nhận:

(1) Tên gọi và số đăng ký của công ty;

51

(2) Ngày thành lập;

(3) Chế độ trách nhiệm vô hạn hay hữu hạn của công ty; nếu là chế độ

trách nhiệm hữu hạn thì hữu hạn bởi cổ phần hay hữu hạn bởi bảo đảm;

(4) Công ty tƣ nhân hay công ty công cộng;

(5) Trụ sở đăng ký của công ty ở England và Wales, ở Scotland hay ở

Northern Ireland.

Luật Doanh nghiệp năm 2014 thực hiện chủ trƣơng chuyển từ “tiền kiểm”

sang “hậu kiểm”, do đó bãi bỏ các yêu cầu về điều kiện kinh doanh tại thời điểm

đăng ký thành lập doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2005 qui định các loại

hình doanh nghiệp khi kinh doanh các ngành, nghề mà pháp luật yêu cầu phải có

vốn pháp định hoặc chứng chỉ hành nghề, thì doanh nghiệp đó chỉ đƣợc đăng ký

kinh doanh để thành lập doanh nghiệp khi có đủ vốn pháp định hoặc chứng chỉ

hành nghề, trong khi đó đăng ký kinh doanh có bản chất là một hành vi hành

chính tƣ pháp công khai hóa doanh nghiệp. Các yêu cầu về vốn pháp định và

chứng chỉ hành nghề chỉ nên đƣợc coi là điều kiện kinh doanh để doanh nghiệp

đƣợc hoạt động.

Do vậy, việc bỏ yêu cầu về các điều kiện kinh doanh nêu trên tại thời điểm

đăng ký kinh doanh là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với bản chất thực của đăng ký

kinh doanh và bảo đảm tự do kinh doanh. Tại thời điểm đăng ký thành lập, doanh

nghiệp không phải đáp ứng các yêu cầu về điều kiện kinh doanh ngành, nghề

kinh doanh có điều kiện. Sau khi đƣợc cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh,

doanh nghiệp đƣợc phép kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện kể từ

khi đáp ứng đƣợc các yêu cầu về điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp

luật chuyên ngành.

2.3. Các qui định về hình thức của pháp nhân thƣơng mại

Luật Doanh nghiệp năm 2014 đƣợc thông qua trƣớc Bộ luật Dân sự năm

2015 và Bộ luật Hình sự năm 2015 nên không có ý niệm gì về pháp nhân thƣơng

52

mại. Tuy nhiên Luật Doanh nghiệp năm 2014 tiếp tục kế thừa các đạo luật doanh

nghiệp trƣớc nó, nhƣng đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới về các

hình thức công ty.

Các hình thức công ty hiện nay mà Luật Doanh nghiệp năm 2014 qui định

bao gồm: Công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai

thành viên trở lên, và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.

Bất cập lớn nhất của Luật Doanh nghiệp năm 2014 về hình thức công ty là

ghép hình thức công ty hợp vốn đơn giản vào hình thức công ty hợp danh. Khoản

1, Điều 172 của Luật này định nghĩa về công ty hợp danh nhƣ sau:

“Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:

a) Phải có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu chung của công

ty, cùng nhau kinh doanh dƣới một tên chung (sau đây gọi là thành

viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có

thêm thành viên góp vốn;

b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm

bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;

c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ

của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty”.

Ngay từ khi đang xây dựng Luật này nhiều ý kiến góp ý không nên gộp hai

hình thức công ty này vào nhƣ vậy. Nhƣng các ý kiến đóng góp đó đã không

đƣợc tiếp thu. PGS. TS Ngô Huy Cƣơng chỉ trích nhƣ sau:

“Định nghĩa công ty hợp này cho thấy, Ban soạn thảo đã gộp

công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản vào làm một mà ở

các nƣớc đều có sự phân biệt. Sự sai trái này không những ảnh

hƣởng tới quyền tự do ý chí, quyền tự do kinh doanh của công dân,

mà còn cho thấy sự yếu ớt về mặt nghiên cứu khoa học pháp lý của

Ban soạn thảo” [4, tr. 31].

53

Ngay sau đó PGS. TS Ngô Huy Cƣơng đã phân tích những sai lầm của

việc ghép này với tình huống cụ thể.

Tuy nhiên bên cạnh những thiếu sót lớn đó, khoản 2, Điều 172 có một sự

khẳng định hoàn toàn đúng đắn rằng: “Công ty hợp danh có tƣ cách pháp nhân kể

từ ngày đƣợc cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp”.

Ngay từ khi mới xuất hiện công ty trách nhiệm hữu hạn đã nhanh chóng

chiếm đƣợc tình cảm của các nhà đầu tƣ, kinh doanh. Các quốc gia có những quy

định khá thống nhất về hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn và coi nó là một

thực thể pháp lý độc lập với các thành viên của nó và có tƣ cách pháp nhân.

Công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ chịu

trách nhiệm tài sản của mình, tách rời tài sản công ty với tài sản của các thành

viên. Nguyên tắc này đƣợc áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần, trách

nhiệm của công ty ngay cả trong trƣờng hợp các thành viên là ngƣời trực tiếp

điều hành công ty.

Luật Doanh nghiệp năm 2014 qui định có hai loại hình công ty trách nhiệm

hữu hạn (công ty TNHH):

- Công ty TNHH hai thành viên trở lên; và

- Công ty TNHH một thành viên.

Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa:

“Công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong

đó:

a) Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lƣợng thành viên

không vƣợt quá 50;

b) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ

tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào

doanh nghiệp, trừ trƣờng hợp quy định tại khoản 4 Điều 48 của

Luật này;

54

c) Phần vốn góp của thành viên chỉ đƣợc chuyển nhƣợng theo

quy định tại các điều 52, 53 và 54 của Luật này.

2. Công ty TNHH hai thành viên trở lên có tƣ cách pháp nhân

kể từ ngày đƣợc cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

3. Công ty TNHH hai thành viên trở lên không đƣợc quyền

phát hành cổ phần”.

Nhƣ vậy có thể hiểu công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp

có tƣ cách pháp nhân, không có quyền phát hành cổ phiếu; có số thành viên

không vƣợt quá 50, mỗi thành viên phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ, các

nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào

doanh nghiệp; phần vốn góp của thành viên bị hạn chế chuyển nhƣợng cho ngƣời

ngoài công ty.

Luật Doanh nghiệp năm 1999 chỉ ghi nhận công ty TNHH một thành viên

là tổ chức. Cho đến Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật Doanh nghiệp năm

2014 đã có qui định cá nhân cũng có quyền thành lập công ty TNHH một thành

viên. Nhƣ vây công ty loại này là một hình thức công ty quan trọng trong kinh tế

thị trƣờng ở nƣớc ta hiện nay. Khoản 2, Điều 73 của Luật Doanh nghiệp năm

2014 định nghĩa:

“Công ty TNHH một thành viên là doanh nghiệp do một tổ

chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây là chủ sở hữu công

ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa

vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công

ty”.

Hình thức công ty này khá phù hợp với quan niệm chung của thế giới và

nó đƣợc phân biệt với doanh nghiệp tƣ nhân ở những điểm sau:

Về thành viên

Công ty trách nhiệm hữu hạn loại này có một thành viên duy nhất trong

55

suốt quá trình thành lập và hoạt động mà thành viên đó có thể là cá nhân hay tổ

chức Việt Nam hoặc nƣớc ngoài. Thành viên công ty TNHH một thành viên là

ngƣời góp vốn, đồng thời cũng là ngƣời thành lập, ngƣời quản lý công ty. Vì

vậy thành viên công ty không thuộc các đối tƣợng bị cấm thành lập, quản lý

doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm

Cũng giống nhƣ công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một

thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn điều lệ và toàn bộ tài sản

của công ty. Thực chất vốn điều lệ của công ty TNHH chính là mức vốn góp cam

kết của các thành viên công ty. Nhƣng do công ty TNHH một thành viên chỉ có

một chủ sở hữu nên vốn góp hoặc cam kết góp chính là vốn điều lệ của công ty

TNHH một thành viên.

Về chuyển nhượng vốn

Việc chuyển nhƣợng phần vốn góp của chủ sở hữu phải theo quy định của

pháp luật nhƣ: Chủ sở hữu có thể chuyển nhƣợng toàn bộ vốn góp của mình vào

công ty cho ngƣời khác, đồng thời với việc chủ sở hữu này rút toàn bộ vốn ra

khỏi công ty; Chủ sở hữu chuyển nhƣợng một phần vốn góp của mình cho ngƣời

khác (rút một phần vốn), thì công ty phải đăng ký chuyển đổi công ty sang mô

hình khác có nhiều chủ sở hữu.

Về huy động vốn

Giống với công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty TNHH một thành

viên cũng không đƣợc phép phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ công chúng

mà chỉ có thể huy động vốn bằng cách huy động vốn góp từ các thành viên hiện

hữu, từ các cá nhân có nhu cầu góp vốn; huy động vốn vay từ các tổ chức, cá

nhân, phát hành trái phiếu.

Công ty cổ phần đƣợc định nghĩa tại Điều 110, Luật Doanh nghiệp năm

2014 cho thấy các đặc điểm của loại công ty này nhƣ sau theo pháp luật Việt

56

Nam hiện hành:

Thứ nhất, vốn điều lệ của công ty đƣợc chia thành nhiều phần bằng nhau

và mỗi phân đó đƣợc gọi là cổ phần.

Thứ hai, ngƣời nắm giữ cổ phần đƣợc gọi là cổ đông mà có thể là tổ chức

hoặc cá nhân. Số lƣợng cổ đông tối thiểu là 03 ngƣời và không bị hạn chế về số

lƣợng tối đa.

Thứ ba, cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản

khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều này

có nghĩa là các thành viên của công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối

với các khoản nợ của công ty và đều không có tƣ cách thƣơng nhân.

Thứ tư, cổ đông có quyền tự do chuyển nhƣợng cổ phần của mình cho

ngƣời khác, trừ một số trƣờng hợp theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, công ty cổ phần có tƣ cách pháp nhân kể từ ngày đƣợc cấp Giấy

chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Điều này cho thấy chỉ công ty cổ phần là một

thƣơng nhân, trong khi các thành viên của nó không phải là thƣơng nhân.

Thứ sáu, công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động

vốn.

Qua các đặc điểm này có thể thấy, công ty cổ phần ở Việt Nam phải có từ

ba thành viên trở lên, tức là không có công ty cổ phần một thành viên. Sự phát

triển của pháp luật về công ty cổ phần ở Việt Nam rất khó lý giải lý do tại sao

Luật Doanh nghiệp năm 2014 lại qui định công ty cổ phần phải có ít nhất là ba cổ

đông trong suốt quá trình tồn tại. Trƣớc kia Luật Công ty năm 1990 qui định

công ty cổ phần phải có ít nhất là 07 cổ đông. Luật Doanh nghiệp năm 1999 lại

qui định công ty cổ phần phải có ít nhất là 05 cổ đông. Cho đến nay thì số lƣợng

lại là 03 cổ đông.

Pháp luật Việt Nam hiện nay không thừa nhận công ty cổ phần 01 cổ đông

57

gây khó khăn cho việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc. Thực chất khi chia

vốn trong doanh nghiệp nhà nƣớc để bán thì doanh nghiệp này thực chất đã là

công ty cổ phần theo đặc điểm thứ nhất nói trên.

2.4. Các qui định quản trị và vận hành pháp nhân thƣơng mại

Quản trị công ty hợp danh và công ty trách nhiệm hữu hạn không có gì

thay đổi đáng kể trong pháp luật của các nƣớc. Các qui định về quản trị các hình

thức công ty này ở Việt Nam khá tƣơng đồng với các nƣớc và tập trung vào hội

đồng thành viên. Vấn đề đáng bàn nhất là quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam

hiện nay bởi có sự thay đổi đáng kể liên quan tới việc lựa chọn mô hình quản trị.

Lịch sử phát triển công ty cổ phần cũng chính là lịch sử phát triển của mô

hình quản trị công ty cổ phần bởi quản trị công ty cổ phần không thể tách rời

công ty và trở thành linh hồn của công ty cổ phần. Nó làm cho công ty vận hành

theo mục tiêu đề ra và không đi chệch khỏi hành lang pháp lý đã đƣợc ấn định.

Việc tách bạch chức năng của chủ sở hữu và chức năng của điều hành trong quản

trị công ty cổ phần là một đặc trƣng rất quan trọng của loại hình công ty này.

Chính việc tách bạch đó đã dẫn đến việc làm phát sinh ra các mô hình quản trị

khác nhau trong sự hƣớng tới các mục tiêu nhất định. Quản trị công ty cổ phần,

nhất là các công ty cổ phần đại chúng, không đơn điệu nhƣ quản trị công ty hợp

danh, công ty hợp vốn đơn giản hay công ty trách nhiệm hữu hạn khi mà các chủ

sở hữu đều có quyền quyết định trong hội đồng thành viên.

Pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về quản trị công ty cổ phần nói

riêng có nhiều đặc thù bởi hai lý do cơ bản:

Thứ nhất, Việt Nam chuyển đổi qua nhiều nền kinh tế khác nhau với các

chủ thuyết hết sức khác nhau: nền kinh tế nông nghiệp gieo trồng, nền kinh tế

nông nghiệp thuộc địa nửa phong kiến, nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền

kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, rồi đang hƣớng tới nền kinh tế thị

58

trƣờng hoàn hảo;

Thứ hai, pháp luật Việt Nam chuyển đổi theo nhiều truyền thống khác

nhau: truyền thống Viễn Đông, truyền thống Civil Law, truyền thống Sovietique

Law và hệ thống pha tạp (hiện nay).

Vì vậy nó dẫn đến một hệ quả không tốt là mô hình quản trị công ty luôn

luôn bị xáo trộn. Căn cứ phân loại chủ yếu của các giai đoạn phát triển mô hình

quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam cần dựa trên các giai đoạn lịch sử của công

ty cổ phần nói chung kết hợp với truyền thống pháp luật và mục tiêu đề ra của

kinh tế - xã hội.

Căn cứ vào đó có thể chia các giai đoạn phát triển mô hình quản trị công ty

cổ phần thành ba giai đoạn nhƣ sau:

Giai đoạn thứ nhất (từ bắt đầu thời kỳ Pháp thuộc cho tới khi giải phóng

Miền Nam, thống nhất đất nước): Đây là giai đoạn đầu của sự phát triển mô hình

quản trị công ty cổ phần ở Việt Nam có một số đặc thù nhƣ theo truyền thống

pháp luật Civil Law (mô hình Pháp); thời kỳ bắt đầu xuất hiện tƣ bản. Mô hình

quản trị này thể hiện qua Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật Thƣơng mại

Trung Kỳ 1942, Bộ luật Thƣơng mại 1972 của Chính quyền Sài Gòn cũ. Trong

các bộ luật này, Bộ luật Thƣơng mại 1972 là bộ luật tiếp thu một cách có chọn

lọc và phát triển mô hình quản trị công ty cổ phần đã đƣợc ghi nhận trong các bộ

luật trƣớc. Vì vậy việc nghiên cứu mô hình quản trị công ty cổ phần ở giai đoạn

này cần nhấn mạnh vào sự thể hiện của bộ luật này. Lưu ý: giai đoạn từ năm 1954

cho tới chiến thắng năm1975, Việt Nam chia thành hai miền; tuy nhiên Miền Bắc

không phát triển công ty cổ phần nhƣ trên đã phân tích; nên không có gì đáng kể

để nghiên cứu; do vậy luận văn chỉ nghiên cứu ở khu vực Miền Nam.

Giai đoạn thứ hai (từ năm 1975 cho tới năm 2014): Đây là giai đoạn đổi

mới trên cả nƣớc, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ

nghĩa. Trong giai đoạn này mô hình hệ thống pháp luật theo Sovietique Law đang

59

bị khủng hoảng và đang loay hoay tìm kiếm một công cụ pháp luật mới (luật

thƣơng mại) để điều tiết nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa.

Các đạo luật liên quan tới mô hình quản trị công ty cổ phần kế thừa nhau và tập

trung cái gọi là tinh hoa của giai đoạn này vào Luật Doanh nghiệp 2005. Vì vậy

đạo luật này là trung tâm điểm mà luận văn nghiên cứu khi nghiên cứu về giai

đoạn này.

Giai đoạn thứ ba (sau Hiến pháp 2013): Đây là giai đoạn xây dựng nền

kinh tế thị trƣờng đầy đủ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu,

rộng. Đặc biệt trong giai đoạn này, Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời thể chế hóa

Hiến pháp mới 2013 và kinh nghiệm thế giới và trong nƣớc về quản trị công ty cổ

phần đã đƣợc đúc rút nghiêm túc để xây dựng đất nƣớc.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thực hiện chủ trƣơng

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng một nền kinh tế thị trƣờng đầy đủ, và

khi Hiến pháp 2013 ra đời đề cao quyền tự do kinh doanh, Luật Doanh nghiệp

2014 đƣợc ban hành với sự tích lũy kinh nghiệm khá đầy đủ cả ở trong và ngoài

nƣớc. Vì vậy đạo luật này đã thấy hết những ƣu nhƣợc điểm của các mô hình

quản trị công ty cổ phần đã từng tồn tại. Không câu nệ ở tính hình thức mà tập

trung vào tính mục đích của việc phát triển các công ty cổ phần, đạo luật này đã

qui định mô hình quản trị công ty cổ phần nhiều suy tính nhất trong lịch sử pháp

luật Việt Nam. Dƣới đây chỉ trình bày những kinh nghiệm mà thể hiện khá rõ nét

qua mô hình này.

Quản lý, điều hành ở đây đƣợc hiểu là mối liên hệ giữa cổ đông, giữa các

cơ quan khác nhau trong công ty cổ phần trong quyết định đƣờng hƣớng phát

triển và hoạt động kinh doanh của công ty. Quản lý, điều hành trong công ty cổ

phần đƣợc thực hiện bởi ba cơ quan chính: 1) Đại hội đồng cổ đông; 2) Hội đồng

quản trị; 3) bộ phận điều hành hoạt động công ty hàng ngày, thƣờng đƣợc gọi là

giám đốc/ tổng giám đốc hay ban giám đốc [21, tr. 254]. Ngoài ra, tùy theo mỗi

60

loại mô hình, trong công ty cổ phần còn có Ban kiểm soát, thƣ ký công ty…

Cổ đông và đại hội đồng cổ đông

Cổ đông là những ngƣời góp vốn thành lập công ty (dƣới hình thức cổ

phiếu). Cổ đông có thể là cá nhân, có thể là tổ chức. Cổ đông không trực tiếp sở

hữu tài sản của công ty, công ty là pháp nhân trực tiếp sở hữu tài sản của mình.

Trên thực tế, cổ đông có hai loại quyền cơ bản: quyền đƣợc chia sẻ lợi

nhuận trong công ty (thông qua cổ tức) và quyền tham gia quản lý, điều hành

công ty.

Để tham gia quản lý, điều hành công ty, cổ đông trong công ty cổ phần

đƣợc trao ba quyền năng quan trọng hàng đầu là quyền bỏ phiếu, quyền đƣợc

kiện và quyền tiếp cận thông tin. Cổ đông bỏ phiếu để lựa chọn hoặc bãi miễn

các thành viên HĐQT, thông qua các quyết định quan trọng nhất của công ty nhƣ

hợp nhất, bán tất cả tài sản, giải thể, sửa đổi điều lệ… của công ty. Mặc dù các cổ

đông trong các công ty cổ phần lớn không có nhiều động lực để xem xét, đánh

giá từng vấn đề trong hoạt động hàng ngày của công ty, tuy nhiên, khi không

đồng ý với cách điều hành của ban giám đốc, họ có thể bán cổ phiếu (cùng quyền

bỏ phiếu) ra bên ngoài, một nhóm cổ đông có khả năng tập hợp thành một nhóm

cổ đông đủ mạnh để bầu ra HĐQT mới, để chỉ định ra một ban giám đốc mới.

Quá trình này xảy ra khá thƣờng xuyên trên thị trƣờng với các hình thức nhƣ mua

đứt công ty hay đấu thầu mua cổ phiếu công ty. Ngƣời ngoài công ty cũng có thể

đàm phán trực tiếp với các cổ đông đề nghị mua cổ phiếu và các cổ đông đƣợc

quyền tự do chuyển nhƣợng không cần HĐQT thông qua. Cổ đông bên cạnh

quyền đƣợc kiện công ty, thành viên HĐQT, ban giám đốc về những hành vi làm

thiệt hại đến lợi ích của chính mình còn có thể nhân danh công ty kiện thành viên

HĐQT, giám đốc. Những vụ kiện này xảy ra khi những ngƣời trong bộ máy quản

lý, điều hành không cẩn trọng trong thi hành nhiệm vụ, mua bán mƣu cầu lợi ích

riêng, đƣợc bồi dƣỡng quá đáng, tranh cƣớp cơ hội của công ty… Lƣu ý rằng

61

những vụ kiện kiểu này, công ty bị thiệt hại trực tiếp, còn cổ đông bị thiệt hại một

cách gián tiếp. Quyền kiện của cổ đông đƣợc xem là một quyền cơ bản nhằm bảo

vệ quyền lợi của các cổ đông. Để tạo đông lực cho các cổ đông thực hiện điều

này, thông thƣờng những chi phí mà cổ đông bỏ ra theo kiện, trong đó có chi phí

luật sƣ sẽ đƣợc bồi hoàn từ khoản tài sản bị thất thoát mà công ty lấy lại đƣợc.

Các cổ đông sẽ không thực hiện đƣợc quyền cơ bản của mình nhƣ bán cổ phiếu,

bỏ phiếu hay tiến hành kiện phái sinh trừ khi cổ đông có thông tin đầy đủ và

chính xác về công ty. Do vậy, thông thƣờng pháp luật của các nƣớc đều giàng

buộc trách nhiệm của HĐQT, giám đốc công ty phải công bố công khai các thông

tin về công ty và quy định quyền đƣợc tiếp cận các thông tin về công ty của cổ

đông. Thậm chí, nếu có bằng chứng về mục tiêu trong sáng và phù hợp, cổ đông

có thể đệ đơn ra tòa án để có đƣợc quyết định về việc kiểm tra sổ sách kế toán và

các biên bản họp của các cuộc họp của công ty.

Đại hội đồng cổ đông có thể hiểu là một chế định quan trọng trong công ty,

là cơ quan quyền lực cao nhất, là một cơ cấu quyền lực mặc định gồm tất cả các

cổ đông có quyền biểu quyết.

Đại hội đồng cổ đông mỗi năm đƣợc triệu tập họp ít nhất là một lần (cuộc

họp thƣờng niên), ngoài ra còn có thể tiến hành họp bất thƣờng. Do Đại hội đồng

cổ đông là cơ chế quan trọng thông qua đó các cổ đông thực hiện quyền của mình

trong hoạt động quản lý, điều hành công ty. Do vậy, cuộc họp của Đại hội đồng

cổ đông là một cơ hội quan trọng nhất cho cuộc đối thoại, chất vấn giữa các cổ

đông với các thành viên HĐQT và giám đốc công ty. Cuộc họp của Đại hội đồng

cổ đông cũng là dịp để các thành viên HĐQT, giám đốc công ty thể hiện trách

nhiệm đối với các cổ đông thông qua việc công bố thông tin, thông báo về tình

hình hoạt động của công ty, đƣa ra các khuyến nghị đối với tổ chức, cổ đông về

việc chấp nhận báo cáo tài chính, kế hoạch phân chia lợi nhuận, các thay đổi căn

bản (nếu có) về vốn và cơ cấu tổ chức của công ty, thù lao cho thành viên

62

HĐQT….

Để bảo vệ quyền của cổ đông, tăng tính hiệu quả trong hoạt động của Đại

hội đồng cổ đông, thông thƣờng pháp luật của các nƣớc quy định rất cụ thể về thủ

tục, trình tự tiến hành họp Đại hội đồng cổ đông, trách nhiệm thông báo, báo cáo

công bố thông tin cho các tổ chức trƣớc cuộc họp, quyền của các cổ đông đƣa ra

các vấn đề bàn bạc tại cuộc họp, thủ tục bỏ phiếu….

Cổ đông thiểu số và việc bảo vệ cổ đông thiểu số

Bảo vệ cổ đông thiểu số là vấn đề quan trọng đƣợc đặt ra đói với tất cả các

nƣớc đã và đang phát triển. Cơ sở của nó chính là việc tách biệt giữa những

quyền sở hữu và quyền quản lý, điều hành công ty có thể dẫn đến những rủi ro do

sự khác nhau về lợi ích của các cổ đông với lợi ích của bộ máy quản lý. Khác với

các cổ đông đa số, thƣờng có thể chi phối đƣợc trực tiếp đối với hoạt động quản

lý, điều hành công ty, các cổ đông thiểu số không có khả năng này. Hoặc do họ

không có đủ thông tin về hoạt động của công ty, hoặc do họ không có đủ động

lực trong việc thực hiện các quyền cổ đông của mình. Hiện nay, hầu nhƣ đã thống

nhất đƣợc rằng, nếu không bảo vệ đƣợc quyền lợi của cổ đông thiểu số sẽ làm

giảm khả năng tiếp cận vốn, huy động vốn của các công ty cổ phần, tăng chi phí

vốn và giảm mức đầu tƣ trong nền kinh tế. Khi các nhà đầu tƣ nhỏ (phần lớn

nguồn vốn đầu tƣ trên thế giới hiện nay từ các nhà đầu tƣ nhỏ) không yên tâm về

đồng vốn đầu tƣ của mình, động lực đầu tƣ của họ do vậy sẽ giảm sút. Bảo vệ cổ

đông hiện nay thƣờng đƣợc nhấn mạnh tới các khuynh hƣớng nhƣ: 1) sự công

bằng, thông qua các quy định cấm hành vi gian lận, giao dịch ở cấp quản lý hoặc

với cổ đông kiểm soát và những hành vi giao dịch nội gián khác; 2) sự giải trình

được thông qua việc xác định rõ vai trò và nhiệm vụ quản lý, điều hành, chủ yếu

dựa vào việc giám sát ở cấp quản lý của HĐQT; và 3) sự minh bạch, thông qua

các quy định bắt buộc công khai thông tin đối với các cổ đông.

63

Hội đồng quản trị

Các cổ đông thông qua ĐHCĐ bầu ra các thành viên HĐQT, những ngƣời

có quyền hạn trong quản lý hoạt động kinh doanh của công ty. Các thành viên

HĐQT đƣợc bầu ra trong nhiệm kỳ có thời hạn nhất định và có thể đƣợc bầu lại.

Các thành viên HĐQT cũng có thể bị Đại hội đồng cổ đông bãi miễn khi không

đáp ứng đƣợc yêu cầu và thậm chí khi luật cho phép thì bãi miễn không cần lý do

nào cả. Các thành viên Hội đồng quản trị cũng thực thi quyền của mình thông qua

các cuộc họp, các quyết định thƣờng đƣợc ghi nhận trong các biên bản họp Hội

đồng quản trị. Thông báo về cuộc họp cũng phải tuân thủ một số quy định. Cuộc

họp đƣợc xem là hợp pháp khi đáp ứng đủ yêu cầu về tổng số thành viên HĐQT

theo quy định… Mỗi thành viên Hội đồng quản trị có một phiếu bầu, không kể số

cổ phần nắm giữ, không thể ủy quyền để bỏ phiếu nhƣ cổ đông. Các quyền của

Hội đồng quản trị thƣờng bao gồm các quyền quan trọng trong công ty nhƣ

quyền chỉ định, giám sát và bãi miễn giám đốc, lƣơng, thƣởng cho giám đốc,

quyết định một số vấn đề quan trọng khác….

Cấu trúc Hội đồng quản trị trên thế giới thƣờng đƣợc chia làm hai loại phổ

biến: mô hình một hội đồng duy nhất hay cấu trúc đơn (unitary board) thịnh hành

ở Mỹ, Anh và mô hình hội đồng hai tầng hay cấu trúc kép (two-tier board) thịnh

hành ở các nƣớc thuộc địa châu Âu (Đức, Hà Lan…).

Thông thƣờng, nhiệm vụ chính của HĐQT là quyết định hƣớng đi chiến

lƣợc cho công ty, bổ nhiệm giám đốc và quản lý hoạt động điều hành của bộ máy

quản lý. Số lƣợng công việc, vai trò của HĐQT tùy thuộc vào đặc điểm từng loại

mô hình quản lý, điều hành công ty khác nhau. Nhìn chung, về vai trò hoạt động

của HĐQT, có hai loại chính. Loại thứ nhất là HĐQT quản lý chặt chẽ công việc

hàng ngày của công ty, ấn định chiến lƣợc, chấp nhận kế hoạch, phân bổ tài sản,

theo dõi kết quả và kiểm soát việc thực hiện (nhƣ mô hình của Mỹ). Loại thứ hai

64

là Hội đồng quản trị không làm gì hơn là việc bổ nhiệm ban giám đốc rồi phê

chuẩn các đề nghị của ban này (nhƣ mô hình của Nhật). Thành viên Hội đồng

quản trị phải có trách nhiệm, nghĩa vụ chính nhƣ:

* Nghĩa vụ trung thành (loyality): Nghĩa vụ chính của các thành viên Hội

đồng quản trị là trung thành với lợi ích của họ một cách đầy đủ, không đƣợc thu

lợi cá nhân qua các giao dịch của công ty, phải thông báo rõ, công khai và không

đƣợc tham gia bỏ phiếu đối với các vấn đề làm ăn, giao dịch mà cá nhân thành

viên đó có lợi ích liên quan. Thậm chí sẽ bị luật pháp trừng phạt (luật pháp nhiều

nƣớc xem là tội hình sự) khi thành viên Hội đồng quản trị mau bán chứng khoán

dựa trên những thông tin về công ty mà thành viên đó biết đƣợc nhờ lợi thế vì là

thành viên Hội đồng quản trị.

* Nghĩa vụ cẩn trọng mẫn cán (care): Đây là bổn phận chung của các thành

viên Hội đồng quản trị. Các thành viên Hội đồng quản trị cần phải cẩn trọng và

mẫn cán trong công việc của mình. Sự giải thích cụ thể thế nào là cẩn trọng, mẫn

cán thay đổi tùy theo pháp luật và tập tục của mỗi nƣớc, thay đổi theo thời gian.

Ngay cả nhƣ ở Mỹ, có rất nhiều các án lệ khác nhau liên quan đến trách nhiệm

cẩn trọng và mẫn cán của thành viên Hội đồng quản trị.

Hiện nay, đặc biệt là sau sự sụp đổ của một số tập đoàn lớn của Mỹ nhƣ

Enron, Worldcom … ngƣời ta nhận ra rằng vai trò của HĐQT không đảm bảo

đƣợc tính độc lập, nhiều khi chỉ mang tính hình thức, và xu hƣớng hiện nay là

tăng cƣờng tính độc lập cho Hội đồng quản trị bằng cách bổ sung các thành viên

Hội đồng quản trị độc lập. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc Hội đồng quản trị

không thực hiện đầy đủ vai trò của mình có nhiều nguyên nhân sau:

+ Nguyên nhân hạn chế về thời gian, thông tin, ngân sách của các thành

viên HĐQT: HĐQT của các công ty lớn thƣờng vài tháng gặp nhau vài giờ,

không thể giải quyết một cách thấu đáo các vấn đề phức tạp trong công ty. Các

thành viên HĐQT cũng thƣờng nhận đƣợc thông tin về công ty từ những tài liệu

65

do Ban giám đốc cung cấp hoặc trình bày. Đôi lúc những thông tin này quá ngắn

hay quá khái quát đối với họ để đánh giá đƣợc tính đúng đắn hay khôn ngoan của

các chính sách kinh tế của công ty. Trong hầu hết các trƣờng hợp, ban giám đốc

thƣờng có sự lựa chọn thông tin, dẫn đến rủi ro là bức tranh về tình hình kinh

doanh của công ty mà thành viên Hội đồng quản trị nhận đƣợc bị méo mó không

nhận biết đƣợc.

- Nguyên nhân do thiếu động lực: các thành viên HĐQT thƣờng chỉ nhận

đƣợc mức phí, thù lao cố định hàng năm mà không liên quan đến nỗ lực, khả

năng đại diện, bảo vệ cổ đông của họ.

- Nguyên nhân từ quá trình lựa chọn thành viên HĐQT: một thực tế khá

phổ biến hiện nay là nhiều cuộc bầu cử HĐQT trong các công ty cổ phần, các cổ

đông đơn giản bỏ phiếu bất cứ ngƣời nào đƣợc đề cử bởi hội đồng đề cử của công

ty. Quá trình này chịu sự chi phối rất lớn của bộ máy quản lý, ban giám đốc.

Giám đốc và bộ máy điều hành

Giám đốc hay tổng giám đốc là ngƣời điều hành hoạt động hàng ngày của

công ty, do Hội đồng quản trị bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trƣớc hội đồng này.

Giám đốc hay tổng giám đốc công ty có thẩm quyền quyết định tất cả các vấn đề

liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty, tổ chức thực hiện các quyết định

của Hội đồng quản trị, kế hoạch kinh doanh và phƣơng án đầu tƣ của công ty,

quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm, chế độ lƣơng bổng và các chức danh khác trong

công ty mà không thuộc thầm quyền của Hội đồng quản trị, kiến nghị các vấn đề

thuộc thẩm quyền của quyết định của Hội đồng quản trị…

Giám đốc hay tổng giám đốc và những ngƣời trong ban giám đốc theo hệ

thống Anh – Mỹ (thƣờng đƣợc dùng là offices) thông thƣờng bao gồm các chức

danh giám đốc (president), phó giám đốc (vice- president), thủ quỹ (treasurer) và

thƣ ký (secretary). Pháp luật của nhiều nƣớc không ngăn cấm việc giám đốc/tổng

66

giám đốc kiêm nhiệm chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty [1, tr. 249].

Thƣ ký công ty trong công ty cổ phần ở các nƣớc thƣờng có chức năng làm

chứng cho chữ ký của giám đốc. Ở Anh, vai trò của ngƣời thƣ ký đƣợc coi là bảo

đảm cho các thủ tục công ty đề ra đƣợc Hội đồng quản trị áp dụng và đƣợc

thƣờng xuyên duyệt lại [18, tr. 175].

Luật Doanh nghiệp 2014 đã tích hợp đƣợc các tinh túy của những năm

tháng lịch sử thực hiện các luật lệ về công ty cổ phần trƣớc đó ở Việt Nam và đúc

rút các kinh nghiệm của các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển để xây

dựng nên mô hình quản trị công ty cổ phần mới thích hợp với Việt Nam trong

giai đoạn phát triển mới. Các suy tính nói trên là các suy tính quan trọng nhất thể

hiện trong Luật Doanh nghiệp 2014 về mô hình quản trị công ty cổ phần ở Việt

67

Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu mới đặt ra của sự phát triển kinh tế, xã hội.

Chƣơng 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

PHÁP LUẬT VỀ PHÁP NHÂN THƢƠNG MẠI

3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về pháp nhân thƣơng mại ở Việt

Nam

Việt Nam đang theo đuổi mục đích “dân giàu, nước mạnh ,dân chủ, công

bằng, văn minh”, do đó hết sức nỗ lực xây dựng nền kinh tế thị trƣờng theo định

hƣớng XHCN, hội nhập quốc tế sâu, rộng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và theo

đuổi Cách mạng công nghiệp 4.0.

Vì vậy về phƣơng diện luật tƣ, cần thiết phải hoàn thiện chế định thƣơng

nhân, nhất là thƣơng nhân pháp nhân; về phƣơng diện luật công, cần củng cố chế

định pháp luật về pháp nhân thƣơng mại nhằm hỗ trợ và giải thích có hiệu quả

cho các qui định của Bộ luật Hình sự trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự các

pháp nhân thƣơng mại phạm tội.

Việc Bộ luật Hình sự năm 2015 xem pháp nhân thƣơng mại là chủ thể của

tội phạm là hết sức cấp bách. Nếu không có quan niệm và qui định nhƣ vậy thì rất

khó có thể phòng chống đƣợc các tội phạm trong nỗ lực phát triển kinh tế thị

trƣờng, hội nhập quốc tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong suốt thời gian qua với bao nỗ lực, chúng ta đã xây dựng và ban hành

đƣợc nhiều đạo luật đáp ứng các nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội hiện đại.

Tuy nhiên các qui định liên quan tới pháp nhân nói chung và pháp nhân thƣơng

mại nói riêng còn có quá nhiều bất cập nhƣ trên đã trình bày. Do đó hoàn thiện

68

chế định pháp nhân thƣơng mại là một việc hết sức cấp bách.

3.2. Kiến nghị các định hƣớng hoàn thiện pháp luật về pháp nhân

thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay

Việc hoàn thiện chế định pháp nhân thƣơng mại phải tuân thủ các định

hƣớng sau đây:

Thứ nhất, bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật.

Hiện nay pháp luật của Việt Nam thiếu tính đồng bộ quan trọng làm cho

pháp luật không có logic, mâu thuẫn, chồng chéo và xung đột lẫn nhau gây mất

an toàn pháp lý cho ngƣời dân. Do đó bảo đảm đồng bộ cho hệ thống pháp luật là

một định hƣớng chủ yếu khi xây dựng hay cải tổ pháp luật.

Thứ hai, bảo đảm tính hiệu quả điều chỉnh của pháp luật.

Bộ luật Hình sự năm 2015 đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2017 đang mất tính

hiệu quả nghiêm trọng, nhất là đối với việc áp dụng các qui định về truy cứu

trách nhiệm hình sự pháp nhân bởi bản thân Bộ luật này và Bộ luật Dân sự năm

2015 đã quan niệm chƣa chuẩn xác về pháp nhân và pháp nhân thƣơng mại, đồng

thời không lƣờng tới việc áp dụng Bộ luật này đối với những hành vi phạm tội

pháp nhân nƣớc ngoài gây thiệt hai cho Việt Nam hoặc gây ra trong lãnh thổ Việt

Nam. Vì vậy bảo đảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật là một định hƣớng quan

trọng và cấp bách, không thể bỏ qua.

3.3. Kiến nghị về nội dung hoàn thiện pháp luật về pháp nhân thƣơng

mại ở Việt Nam hiện nay

Kiến nghị thứ nhất: Bỏ định nghĩa về pháp nhân ra khỏi Bộ luật Dân sự

năm 2015 hoặc chỉnh sửa lại định nghĩa pháp nhân tại Điều 74 của Bộ luật dân sự

này.

Nhƣ Chƣơng 1 đã nói, nhiều Bộ luật Dân sự của các nƣớc không có định

nghĩa pháp nhân bởi pháp nhân là một vấn đề học thuật đặc sắc và có quan niệm

khá khác nhau ở các nƣớc do theo đuổi những học thuyết về pháp nhân khác

69

nhau. Mặt khác định nghĩa về pháp nhân gây bó hẹp phạm vi áp dụng pháp luật

bởi định nghĩa đó chỉ với các pháp nhân Việt Nam mà không đúng với tất cả các

pháp nhân của nƣớc ngoài, trong khi pháp nhân nƣớc ngoài ngày một hoạt dộng

nhiều tại Việt Nam.

Việc quan niệm về pháp nhân phải lƣu ý rằng pháp nhân không chỉ là tổ

chức mà là một tổ hợp lợi ích nhất định nhƣ đã nói tại Chƣơng 1. Vì vậy nếu

không bỏ định nghĩa pháp nhân thì nên định nghĩa mở nhƣ sau: “Pháp nhân chỉ

đƣợc thành lập khi đáp ứng đƣợc các yêu cầu pháp luật nơi thành lập”. Các yêu

cầu này có thể rất đa dạng liên quan tới từng loại pháp nhân. Ví dụ: pháp nhân tƣ

pháp và pháp nhân công pháp có các yêu cầu thành lập khác nhau; pháp nhân có

mục đích kinh tế và pháp nhân không có mục đích kinh tế có yêu cầu khác nhau

về thành lập [5].

Kiến nghị thứ hai: Định nghĩa lại về thƣơng nhân

Hiện nay nhƣ Chƣơng 2 đã phân tích, các định nghĩa về thƣơng nhân trong

Luật Thƣơng mại năm 2005 và Luật Doanh nghiệp năm 2014 có mâu thuẫn nhau

với luật khác gay gắt. Các định nghĩa này không chuẩn về mặt học thuật và cũng

không gần với thực tiễn thƣơng mại. Vì vậy cần định nghĩa thể hiện đƣợc hai yếu

tố chủ yếu là chuyên tiến hành các hành vi thƣơng mại và lấy hành vi thƣơng mại

làm nghề nghiệp của mình.

Kiến nghị thứ ba: Mở rộng phạm vi của khái niệm thƣơng mại

Nhƣ trên đã phân tích khái niệm thƣơng mại đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp ở

Việt Nam đã làm cho các thƣơng nhân Việt Nam lúng túng khi tham gia vào quan

hệ thƣơng mại quốc tế cũng nhƣ làm hạn chế số lƣợng thƣơng nhân nƣớc ngoài

tham gia vào thị trƣờng thƣơng mại Việt Nam, bởi các lý do sau:

- Khái niệm thƣơng mại trong pháp luật quốc tế cũng nhƣ pháp luật các

quốc gia hầu hết đƣợc hiểu theo nghĩa rộng. Điều 2 Hiệp định thành lập Tổ chức

Thƣơng mại Quốc tế (WTO) sẽ đảm bảo khung định chế chung cho việc thực

70

hiện các quan hệ thƣơng mại giữa các thành viên về những vấn đề liên quan đến

các Hiệp định trong phụ lục. Phụ lục những Hiệp định vốn đƣợc coi là các văn

bản cấu thành khung pháp lý của WTO bao trùm rất nhiều lĩnh vực nhƣ Hiệp

định GATT, GATS, TRIMP, TRIP... Nhƣ vậy, khi tham gia WTO, chúng ta sẽ

gặp nhiều sự xung đột pháp luật thƣơng mại của ta với những Hiệp định đƣợc coi

là nền tảng chế định của WTO. Tƣơng tự nhƣ vậy, có thể nói về sự bất tƣơng

thích giữa pháp luật nƣớc ta với pháp luật của nhiều nƣớc. Ví dụ, hệ thống pháp

luật thƣơng mại Hoa Kỳ với hệ thống pháp luật thƣơng mại của đất nƣớc ta cũng

đã có sự khác biệt lớn. Trong Bộ luật thƣơng mại thống nhất Hoa Kỳ (VCC-

1990) khái niệm thƣơng mại trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ tƣơng thích nhiều

hơn với cách tiếp cận thƣơng mại trong khuôn khổ WTO. Những bất cập này

cũng đã bộc lộ trong quá trình đàm phán Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ.

- Cách tiếp cận thƣơng mại theo nghĩa hẹp sẽ dẫn đến những khó khăn

trong việc đàm phán, ký kết và thực hiện các Công ƣớc quốc tế và Hiệp định

song phƣơng, đa phƣơng có liên quan đến thƣơng mại. Ví dụ điển hình là việc

Việt Nam tham gia khu vực thƣơng mại tự do ASEAN (AFTA). Nếu hiểu thƣơng

mại theo nghĩa hẹp của Luật Thƣơng mại thì Việt Nam khó có thể tham gia vào

Hiệp định quan trọng này.

Sự bất tƣơng thích này sẽ kéo theo nhiều sự xung đột và những hệ lụy

không chỉ trong việc áp dụng pháp luật mà cả trong quá trình đất nƣớc ta tham

gia hội nhập quốc tế. Chính nó đã là dào cản rất lớn đối với hoạt động của các

thƣơng nhân nƣớc ta cũng nhƣ các thƣơng nhân nƣớc ngoài khi muốn tham gia

vào thị trƣờng thƣơng mại nƣớc ta.

Trên đây là một số nhận định về những quy định pháp luật đối với việc

hình thành và phát triển của tầng lớp thƣơng nhân nƣớc ta. Những hạn chế trên

đây cần nhanh chóng đƣợc khắc phục nhằm thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà

nƣớc hết sức quan tâm đó là việc tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật của đất

71

nƣớc để đáp ứng không chỉ với những yêu cầu phát triển nền kinh tế mà cả những

đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế. Đây cũng chính là lĩnh vực vấp phải nhiều

thách thức lớn nhất mà quá trình hội nhập đặt ra. Sở dĩ nhƣ vậy là do nhiều

nguyên nhân mà nguyên nhân chính là vì hệ thống pháp luật của nƣớc ta khác với

nhiều nƣớc đang phát triển khác vì nó đƣợc hình thành bởi sự tác động của nền

kinh tế kế hoạch hoá tập trung vốn đƣợc coi là đối cực của nền kinh tế thị trƣờng.

Kiến nghị thứ tư: Qui định thêm một chƣơng nói về công ty cổ phần một

thành viên trong Luật Doanh nghiệp năm 2014

Trong chƣơng bổ sung này cần có thêm định nghĩa công ty cổ phần một

thành viên; mối quan hệ giữa thành viên chủ sở hữu và công ty; qui định về qui

chế biến đổi công ty cổ phần một thành viên thành công ty cổ phần truyền thống;

qui định riêng về biến đổi công ty cổ phần truyền thống thành công ty cổ phần

một thành viên; qui định riêng về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nƣớc thông qua

hình thức tạo lập công ty cổ phần một thành viên từ doanh nghiệp nhà nƣớc.

Trƣớc hết về mặt lý luận có thể thấy khi công ty cổ phần một thành viên

đƣợc thành lập mới thì về bản chất công ty này là một hành vi pháp lý đơn

phƣơng, nhƣng làm phát sinh quan hệ giữa thành viên duy nhất với công ty. Pháp

luật phải làm rõ mối quan hệ này không chỉ riêng về sự tách bạch tài sản mà từ

việc quyền chi phối tác động của chủ sỡ hữu công ty đối với công ty. Sự tác động

và chi phối này không thể nào khác hơn việc chủ sở hữu công ty thông qua việc

quản trị công ty để vận hành công ty và định đoạt những quyền lợi của công ty.

Thiết lập yêu cầu đối với qui chế quản trị công ty cổ phần một thành viên

trong điều lệ công ty.

Do tính dễ biến đổi giữa một thành viên và nhiều thành viên của công ty cổ

phần một thành viên, và mục tiêu đặt ra đối với quản trị của công ty cổ phần

truyền thống, Luật Doanh nghiệp nên qui định bắt buộc điều lệ của công ty cổ

phần một thành viên phải dự liệu hai loại qui chế quản trị công ty cổ phần một

72

thành viên. Một qui chế áp dụng cho công ty khi nó đang là công ty cổ phần một

thành viên. Một qui chế khác dự liệu cho trƣờng hợp công ty này biến đổi thành

công ty cổ phần nhiều thành viên. Việc bắt buộc này còn tránh cho việc phải

đăng ký các sửa đổi đối với đăng ký kinh doanh.

Hiện nay sự lựa chọn mô hình quản trị đơn lớp và song lớp trong việc quản

trị công ty công ty cổ phần truyền thống đang đƣợc đặt ra. Do đó điều lệ công ty

cổ phần một thành viên phải lựa chọn một trong hai mô hình đó để dự liệu cho

trƣờng hợp công ty cổ phần một thành viên biến đổi thành công ty cổ phần nhiều

thành viên.

Qui chế quản trị áp dụng công ty khi nó đang là công ty cổ phần một thành

viên về nguyên tắc hoàn toàn do chủ sở hữu công ty quyết định. Song do tính

chất công ty có thể biến đổi hình thức dễ dàng thành công ty cổ phần truyền

thống nên cần thiết qui định bắt buộc công ty cổ phần một thành viên phải có chủ

tịch công ty (là chủ sở hữu công ty). Ngƣời này có thể kiêm tổng giám đốc đại

diện theo pháp luật của công ty. Công ty cũng có thể có nhiều ngƣời đại diện theo

pháp luật, theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014.

Kiến nghị thứ năm: Đơn giản hoá hơn nữa thủ tục đăng ký kinh doanh và

hiện đại hóa công tác đăng ký kinh doanh.

Thủ tục thành lập doanh nghiệp tuy đã đơn giản hơn nhiều so với trƣớc

đây, nhƣng vẫn chƣađạt sự mong muốn của doanh nghiệp. Trƣớc phải đơn giản

về điều kiện đăng ký kinh doanh. Nên học mô hình thủ tục đăng ký kinh doanh

của Hoa Kỳ. Thứ nhất, không yêu cầu nhiều loại giấy tờ tài liệu trong hồ sơ đăng

ký kinh doanh, lƣợc bỏ bơt các giấy tờ tài liệu không cần thiết cho quản lý nhà

nƣớc. Thứ hai, lƣợc bớt những thông tin nhƣ quy mô, số lao động…không cần

thiết mà nên để hoàn thiện sau khi đăng ký kinh doanh, không bắt buộc phải có

trong các yêu cầu trong hồ sơ đăng ký kinh doanh. Thực tế những ngƣời đầu tƣ là

những ngƣời không chuyên về pháp luật. Những yêu cầu dự báo quá với trình độ

73

chung của dân chúng về pháp luật thƣờng gây khó khăn và tốn kém cho họ. Nên

tham khảo mô hình hồ sơ đăng ký kinh doanh của Anh Quốc phù hợp hơn đối với

Việt Nam hiện nay.

Kiến nghị thứ sáu: Đồng bộ hóa các các văn bản pháp luật.

Nhƣ trên đã phân tích xu hƣớng không thích hợp với luật của các văn bản

dƣới luật. Dù vậy luật không thể qui định thật đầy đủ chi tiết do trình độ xây

dựng luật hiện nay ở Việt Nam. Do đó vẫn cần tới các văn bản dƣới luật. Tuy

nhiên để các văn bản dƣới luật không mâu thuẫn với luật thì trƣớc hết nguyên tắc

của luật phải rõ ràng, sau đó phải thiết lập một cơ chế hữu hiệu hủy bỏ các văn

bản dƣới luật mâu thuẫn với luật kịp thời. Vì vậy có thể phải khôi phục lại chức

năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát nhân dân. Việc này có ý nghĩa quan trọng

là việc ban hành các văn bản dƣới luật luôn phải có một tổ chức ngoài Chính phủ

theo dõi, giám sát và yêu cầu hủy bỏ kịp thời. Tuy nhiên các luật do Quốc hội

làm ra phải có đầy đủ các chế tài để bảo đản quyền lực và chế tài để có thể hủy

bỏ các văn bản trái luật.

Kiến nghị thứ bảy: Hoàn thiện mô hình quản trị công ty cổ phần ở Việt

Nam

Thành công của các công ty Mỹ những thập kỷ gần đây là tác động quan

trọng đối với xu hƣớng quản lý, điều hành của công ty trên thế giới. Tổ chức

OECD cũng nhƣ các tổ chức quốc tế đa phƣơng khác thƣờng khuyến nghị các

nƣớc áp dụng các quy tắc về quản lý, điều hành công ty với những nguyên tắc cơ

bản của mô hình kiểu Mỹ.

Một số chuyên gia đã giải thích cho nguyên nhân chính của xu hƣớng này

nhƣ: 1) Quá trình toàn cầu hóa của thị trƣờng; 2) Tính lệ thuộc và ảnh hƣởng của

chính trị đối với quản lý; 3) Xu hƣớng thống nhất của hệ thống pháp luật toàn

cầu. Ngoài ra, sự không thành công của các mô hình Đông Á (Nhật Bản, Hàn

Quốc…), tính không hiệu quả của mô hình châu Âu cổ điển (kiểu nhƣ Đức) cũng

74

góp phần đẩy nhanh xu hƣớng này.

Hệ thống ngân hàng nặng nề và đang lâm vào khủng hoảng ở Nhật Bản,

nền kinh tế lâm vào tình trạng chậm phát triển và suy thoái gần một thập kỷ qua

là những tiền đề của những xu hƣớng thay đổi trong quản lý, điều hành công ty

cổ phần kiểu Nhật Bản. Hệ thống quản lý, điều hành công ty theo kiểu Mỹ đã dần

ảnh hƣởng đến Nhật Bản. Cơ chế tạo động lực và quyền chọn mua cổ phiếu

(option) cho nhà quản lý đã xuất hiện sau khi quy định cấm sử dụng chúng đƣợc

bãi bỏ vào năm 1997. Một số cuộc đặt giá nhằm thôn tính thù địch (hostiles

takeover) đã đƣợc tổ chức, trong đó có một số trƣờng hợp bên mua là nhà đầu tƣ

nƣớc ngoài. Có những dấu hiệu cho thấy, cơ chế tuyển dụng suốt đời (life –time

employment) đã bắt đầu thay đổi [16, tr. 256].

Nhiều chuyên gia vẫn cho rằng, sự chuyển đổi của mô hình quản lý, điều

hành công ty theo kiểu Nhật Bản sang mô hình của Mỹ không thể là một quá

trình nhanh chóng và dễ dàng khi sở hữu chéo về cổ phần trong công ty còn phổ

biến, khi vai trò của hệ thống ngân hàng vẫn thống trị đối với các công ty, đặc

biệt là các công ty quy mô không lớn.

Mặc dù vậy, một cơ chế quản lý, điều hành dựa vào nhiều ngân hàng, vào

những cơ cấu cổ đông ổn định và lâu bền cũng đang bị thách thức. Một số công

ty hàng đầu của Nhật Bản hiện nay đã tìm kiếm sự tài trợ tài chính bên ngoài

ngân hàng, ở những chế định tài chính khác. Cơ cấu điều hành, quản trị công ty

đang thay đổi, dù chừng mực để thích nghi đƣợc với môi trƣờng kinh doanh

năng động và thay đổi nhanh chóng, những đòi hỏi về một thị trƣờng mở và minh

bạch.

Nguy cơ khủng hoảng của các công ty cổ phần đã phát hành chứng khoán

ra công chúng (public listed corporations) nhƣ Worldcom, Ty co, Enron.. trong

năm 2002-2003 đã đặt ra nhiều câu hỏi cơ bản về thực chất của cơ chế quản lý,

điều hành công ty ở Hoa Kỳ và cả nhiều nơi trên thế giới. Hàng loạt các công ty

75

cổ phần lớn của Mỹ bị nghi vấn là đã khai gian số liệu kế toán nhƣ Tyco

International, Adelphia Communication, Computer Associates, Qwest

Communications, Global Crossing và thậm chí General Electric và Xerpox…[19,

tr. 79].

Một số nhà phân tích cho rằng cơ cấu quản lý, điều hành công ty của Mỹ

có vấn đề. Bộ máy điều hành nhƣ tổng giám đốc điều hành, giám đốc tài chính có

quyền hành quá lớn và thƣờng xảy ra tình trạng HĐQT thông đồng gian lận với

tổng giám đốc. Tổng giám đốc, giám đốc điều hành có thể lãnh những khoản tiển

thƣởng kếch xù, không tƣơng xứng với tình hình kinh doanh của công ty vì

những khoản tiền thƣởng nhƣ vậy chỉ cần HĐQT đồng ý. Bên cạnh đó, ngay cả

các tổ chức kiểm toán ở bên ngoài cũng cố tình che giấu sự thật tình hình hoạt

động của công ty. Các cổ đông, các chủ nợ chỉ có thể biết đƣợc tình hình kinh

doanh tồi tệ của công ty rơi vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng và thƣờng sau

đó nhanh chóng đi đến phá sản.

Trƣớc cuộc khủng hoảng của những công ty cổ phần lớn ở Mỹ, quản lý,

điều hành các công ty ở Mỹ đã có những thay đổi quan trọng. Yêu cầu thiết lập

một hệ thống quản lý, điều hành công ty tốt, minh bạch đƣợc đặt lên hàng đầu.

Ủy ban của Tiêu chuẩn của Trung tâm giao dịch chứng khoán New York (New

York Stock Exchange -NYSE) đã khuyến nghị lên HĐQT của NYSE sửa đổi các

tiêu chuẩn để đƣợc niêm yết nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình cũng nhƣ sự

chính trực, minh bạch của các công ty niêm yết trên NYSE. Khuyến nghị này đã

đƣợc chấp nhận ngày 01 tháng 8 năm 2002 có những nội dung chính nhƣ sau:

1) Yêu cầu các công ty trong danh sách phải có đa số thành viên HĐQT

(board of directiors) độc lập.

2) Cần định nghĩa rõ về các thành viên HĐQT “độc lập”. Chẳng hạn, một

thành viên độc lập không đƣợc có quan hệ vật chất với công ty và không thể là

76

nhân viên cũ cho đến năm sau khi thôi việc.

3) Trao thêm quyền cho các thành viên HĐQT không có chân trong ban

giám đốc để họ thực hiện nhiệm vụ kiềm chế ban giám đốc một cách hiệu quả

hơn; yêu cầu họ có những phiên họp thƣờng kỳ ở cấp điều hành không có ban

giám đốc hiện diện; đồng thời yêu cầu các thành viên HĐQT độc lập chỉ định và

tiết lộ công khai danh tính của thành viên HĐQT sẽ chủ tọa các phiên họp này,

nhằm tạo điều kiện cho một thành viên HĐQT lãnh đạo số còn lại và làm đối

trọng với quan chức điều hành cao nhất (CEO) trong công ty.

4) Yêu cầu các công ty niêm yết phải có một ủy ban tiến cử nằm trong

HĐQT của công ty, ủy ban này phải bao gồm toàn các thành viên HĐQT độc lập

để xem xét việc bổ nhiệm những ngƣời mới vào HĐQT và định hình cơ chế quản

lý, điều hành công ty. Tƣơng tự, ủy ban phụ trách về thù lao cho các giám đốc

cũng phải gồm thành viên HĐQT độc lập.

5) Gia tăng quyền lực và trách nhiệm của ủy ban kiểm toán, kể cả giao cho

họ quyền quyết định thuê mƣớn hay sa thải các kiểm toán viên độc lập và phê

duyệt bất kỳ quan hệ phi kiểm toán đáng kể nào với các kiểm toán viên độc lập.

6) Các công ty trong danh sách phải cáo bạch những nguyên tắc quản lý,

điều hành công ty của mình, bao gồm các tiêu chuẩn về năng lực, trách nhiệm,

mức thù lao của thành viên HĐQT.

7) Yêu cầu các công ty có trong danh sách chấp nhận thực hiện cũng nhƣ

cáo bạch bộ quy tắc về hành vi cũng nhƣ đạo đức kinh doanh áp dụng cho các

thành viên HĐQT, các thành viên chức trách lãnh đạo của công ty và nhanh

chóng cáo bạch mọi trƣờng hợp khƣớc từ bộ quy tắc này đối với các thành viên

HĐQT hay các quan chức điều hành.

Đây là những thay đổi nhằm kiềm chế đáng kể quyền lực, ảnh hƣởng quá

lớn của ban giám đốc, tăng cƣờng tính độc lập của HĐQT trong quản lý, điều

hành công ty. Đồng thời để ngăn ngừa lòng tham của ban giám đốc, các kế hoạch

77

trả thù lao cho ban giám đốc sẽ gắn với các khoản thƣởng chặt chẽ hơn với thành

tích hoạt động lâu dài của công ty; ví dụ các kế hoạch về quyền chọn mua cổ

phiếu (share options) thay cho tiền thƣởng.

“Công ty cổ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, đƣợc xem

là phƣơng thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài ngƣời để huy động vốn

78

cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển”.

KẾT LUẬN

Pháp nhân thƣơng mại thực chất là thƣơng nhân pháp nhân (công ty). Vì

vậy muốn nhận diện đƣợc pháp nhân thƣơng mại trƣớc hết phải tìm hiểu khái

niệm về thƣơng nhân.

Có một số định nghĩa khác nhau về thƣơng nhân. Nhƣng tựu chung lại,

thƣơng nhân là ngƣời chuyên tiến hành các hành vi thƣơng mại và lấy chúng làm

nghề nghiệp của mình. Thƣơng nhân đƣợc chia thành hai loại là thƣơng nhân thể

nhân và thƣơng nhân pháp nhân. Thƣơng nhân pháp nhân hay pháp nhân thƣơng

mại thực chất là các công ty.

Công ty có nhiều hình thức pháp lý, nhƣng thông thƣờng đƣợc phân loại

thành công ty đối nhân và công ty đối vốn. Công ty đối nhân có hai loại chủ yếu

là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Có quan niệm không coi công

ty đối nhân là có tƣ cách pháp nhân. Nhƣng có quan niệm thì cho rằng chúng là

các pháp nhân. Hai quan điểm này theo các học thuyết khác nhau về pháp nhân.

Tuy nhiên quan điểm theo học thuyết thực tại về pháp nhân coi công ty đối nhân

có tƣ cách pháp nhân có nhiều điểm hợp lý hơn. Vì vậy công ty hợp danh và công

ty hợp vốn đơn giản đều có tƣ cách pháp nhân.

Các hình thức công ty đối vốn là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm

hữu hạn đều có tƣ cách pháp nhân.

Các hình thức công ty này đều đƣợc quản trị khá khác nhau do chính hình

thức của nó qui định. Tuy nhiên tất cả chúng đều là pháp nhân thƣơng mại.

Hiện nay pháp luật Việt Nam còn nhiều bất cập, mâu thuẫn, chống chéo và

xung đột với nhau. Vì vậy cần phải hoàn thiện chế định pháp nhân thƣơng mại

theo định hƣớng: Bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật; và bảo đảm hiệu quả điều

79

chỉnh của pháp luật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các công trình nghiên cứu

[1] A. James Barnes, Terry Morehead Dworkin, Eric L. Richards, Law for

Business, Richard D. Irwin, Inc, 1991.

[2] Ngô Huy Cƣơng, “Pháp luật giải quyết tranh chấp nội bộ công ty: Nhận

thức, thực trạng và cải cách” (tr. 48 – 58 & 82), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,

Số 11(295)/2012.

[3] Ngô Huy Cƣơng, Giáo trình luật thương mại – Phần chung và thương

nhân, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013.

[4] Ngô Huy Cƣơng, “Sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Phân tích, bình

luận và kiến nghị” (tr. 25 – 33), Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 10 (266)/ Kỳ

2- Tháng 05/2014.

[5] Ngô Huy Cƣơng, Bài giảng pháp luật kinh tế, Bài giảng điện tử, 2014.

[6] Ngô Huy Cƣơng, “Bình luận các qui định về pháp nhân trong Dự thảo

Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” (tr. 38 – 49), Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Số chuyên

đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự), Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2015.

[7] Ngô Huy Cƣơng, “Trách nhiệm hình sự pháp nhân: Nhìn từ tổng thể

luật hình sự, luật hành chính, luật dân sự và luật thƣơng mại” (tr. 9 – 18), Tạp chí

Nghiên cứu Lập pháp, Số 18 (322), Kỳ 2- Tháng 9/2016.

[8] Ngô Huy Cƣơng, “Cải cách pháp luật Việt Nam đáp ứng các yêu cầu

của Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ” (tr. 13 – 48), Cách mạng công nghiệp lần

thứ tư và những vấn đề đặt ra đối với cải cách pháp luật Việt Nam (Sách chuyên

khảo), Đồng chủ biên bởi PGS. TS Nguyễn Thị Quế Anh – PGS. TS Ngô Huy

Cƣơng, Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội, 2018.

[9] Nguyễn Ngọc Điện, “Tƣ cách pháp nhân công nhƣ là tiêu chí phân loại

chính quyền địa phƣơng” (tr. 17 – 22), Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 19

80

(275)/Kỳ 1- Tháng 10/2014.

[10] Trần Đình Hảo, “Thƣơng gia theo thƣơng luật Hoa Kỳ” (tr. 18 – 23),

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 2/2002.

[11] Jean Jacques Rousseau, Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Thanh niên

Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.

[12] Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật kinh tế Việt

Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.

[13] Friedrich Kubler & Jurgen Simon, Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng

hòa liên bang Đức, Nxb. Pháp lý, 1992.

[14] Francis Lemeunier, Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh

doanh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993.

[15] Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình luật thương mại Việt Nam, Nxb. Đại học

Quốc Gia Hà Nội, 2002.

[16] OECD, and Korea Development Institute, Conference on Corporate

Governance in Asia: A Comparative Perspective, Seoul, 3 – 5 March 1999.

[17] Nguyễn Nhƣ Phát, “Chủ thể kinh doanh” (tr. 41 – 55), Giáo trình luật

kinh tế Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.

[18] Saint Prowse, Institutional Investment Patterns and Corporate

Financial Behavior in the United States and Japan, Journal of Financial

Economics, 1990.

[19] Theodor Bauns, Corporate Governance in Germany - System and

Current Development, [www.jura.uni-frankfurt.de], 2007.

[20] Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại

Việt Nam dẫn giải, Quyển I, Sài Gòn, 1972.

[21] Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại

Việt Nam dẫn giải, Quyển II, Nhóm nghiên cứu và dự hoạch, Sài Gòn, 1972.

[22] Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Tập

81

I, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2006.

[23] Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại- Tập I, Nxb

Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007.

[24] Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật thƣơng mại quốc tế, Đạo luật mẫu về

thương mại điện tử.

[25] Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ƣơng, Báo cáo nghiên cứu so

sánh luật công ty ở bốn quốc gia Đông Nam Á: Thái Lan, Singapore, Malaysia

và Philippine, Dự án UNDP VIE/97/016, Giấy phép xuất bản số: 1142/CXB-

QLXB của Cục Xuất bản ngày 16/12/1998, Hà Nội, 1999.

Văn bản qui phạm pháp luật

[26] Bộ Thƣơng mại, Thương mại điện tử, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1991

[27] Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995

[28] Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005

[29] Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931

[30] Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936

[31] Bộ luật Dân sự của Chính quyền Sài Gòn cũ 1972

[32] Bộ luật Thƣơng mại của Chính quyền Sài Gòn cũ 1972

[33] Bộ luật Thƣơng mại Pháp 1807

[34] Bộ luật Thƣơng mại Nhật Bản 1899

[35] Luật Công ty 1990

[36] Luật Doanh nghiệp tƣ nhân 1990

[37] Luật Thƣơng mại 1997

[38] Luật Doanh nghiệp 1999

[39] Luật Thƣơng mại 2005

82

[40] Luật Doanh nghiệp 2005